vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Bài làm Câu chuyện về tình cha con của ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà gây xúc động cho người đọc vô cùng. Tình cha con ấy được đặt thử thách trong hoàn cảnh chiến tranh nên càng có nhiều điều đáng nói. Sự khốc liệt của chiến tranh, của thời gian không thể làm tàn lụi đi tình cảm ấy. Hơn hết càng khiến cho tình cảm ấy thêm thiêng liêng khi những con người trong câu chuyện nhìn nhận được tình cảm, tình nghĩa, sự quan trọng của tình cảm gia đình. Trong tác phẩm nhân vật chính là bé Thu, nhưng còn một nhân vật trung tâm, nhân vật mang tư tưởng rất lớn lao cho tác phẩm, đó là nhân vật ông Sáu. Chiến tranh thực sự là một điều đáng sợ. Cũng chỉ vì chiến tranh mà gia đình nhỏ ba người của ông Sáu thật khó khăn trong việc đoàn viên đoàn tụ. Ông Sáu làm lính, cả đời nguyện hiến dâng cho Tổ quốc, cống hiến hết mình cho nhân dân và dù biết gánh được trách nhiệm là phải bỏ bê trách nhiệm nhỏ, ông hiểu và luôn đau đáu trong lòng nỗi buồn vì không bù đắp nhiều tình cảm cho vợ con. Ông suy nghĩ rất nhiều, đặc biệt là về đứa con gái bé bỏng, lần gặp cuối cùng là từ khi con còn nhỏ xíu, thấm thoắt đã 8 năm. Nỗi nhớ thương con trong ông ngày càng da diết, ông mong ngóng từng ngày được trở về thăm con. Không được gặp con, không được gần gũi bên cạnh chăm sóc, bao bọc, bảo vệ con gái suốt bao nhiêu năm chính là nỗi day dứt lớn lao nhất trong trái tim của ông.Tại nơi chiến trường, không ngày nào ông không nhớ về gia đình, nhớ về vợ, nhớ về đứa con gái bé bỏng thân yêu. Ông cứ hình dung mãi không biết dáng hình của cô con gái của mình hiện giờ ra sao, cao lớn thế nào, có luôn nhớ tới ông như nỗi nhớ dào dào, mòn mỏi của ông hướng về nó. Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, bao nhiêu sự suy tư được thể hiện. Với ông Sáu, chẳng có gì sung sướng hơn nếu một ngày nào đó ông được trở về thăm nhà. Được gặp lại con, được nghe con gái mình gọi một tiếng “ba” chính là niềm mơ ước lớn lao nhất hiện giờ của ông Sáu. Và rồi niềm mong mỏi đó cũng có ngày trở thành hiện thực, tuy nhiên, mọi chuyện không như ông mong muốn. Ông mòi mỏi, háo hức vô cùng để được gặp mặt con gái, được ôm con gái vào lòng, được hôn lên tóc nó….nhưng cuối cùng chỉ nhận được sự ghẻ lạnh của cô con gái bướng bỉnh. Cô bé chạy trốn khỏi ông, ông càng đến gần thì nó lại càng bỏ ra xa, khước từ mọi sự gần gũi, vỗ về, quan tâm, âu yếm của ông. Và điều khiến ông đau đớn hơn cả là nó nhất quyết không chịu gọi ông bằng “ba”, phản kháng lại tất cả những việc mà ông dành cho nó, làm cho nó. Ông Sáu càng gần gũi con, con càng đẩy ông ra xa, ông xót xa vô ngần. Ước nguyện không trọn vẹn, đó là điều ông đau đớn một. Nhưng chuyện sắp phải ra đi trong khi đó không được ôm con gái một lần, không được cảm nhận trọn vẹn, trong khi đó, ông còn lo sợ lần gặp này cũng sẽ là lần gặp cuối cùng vì sự nguy hiểm của chiến tranh là khôn cùng. Ông bất lực nhìn con gái, đau khổ, tuyệt vọng, tưởng chừng người đàn ông mạnh mẽ và can trường đó sẽ phải rơi nước mắt. Cũng không trách cứ được bé Thu con gái ông, bởi con bé lưu giữ cho mình một tình cảm về cha đặc biệt quá. Đối với bé Thu, nó chỉ có một người ba duy nhất, nó thương ba của nó vô cùng. Hiểu được và thấm thía được những nỗi vất vả của ba nó. Chính bởi vậy, tình cảm của nó chỉ dành cho người ba thực sự của nó mà thôi. Chỉ vậy và không ai khác. 8 năm không phải quãng thời gian quá dài nhưng cũng không hề ngắn. 8 năm là quãng thời gian cho một đứa trẻ lớn khôn và cho một người đàn ông càng ngày càng già đi. Ba không giống trông bức ảnh chụp cùng mẹ, người đàn ông trước mặt Thu bây giờ khác biệt quá lớn, con bé có nhiều mối lo lắng và sự nghi ngờ.
Assignment The story of Mr. Sau's father-son relationship in the work The Ivory Comb deeply touches the reader. That father-son relationship was tested in the context of war, so there are even more things worth mentioning. The severity of war and time cannot destroy that feeling. Above all, it makes that feeling even more sacred when the people in the story recognize the love, affection, and importance of family affection. In the work, the main character is little Thu, but there is also a central character, a character who carries a very great ideology for the work, which is the character of Mr. Sau. War is truly a scary thing. Because of the war, it was difficult for Mr. Sau's small family of three to reunite. Mr. Sau worked as a soldier and vowed to devote his whole life to serving the Fatherland, dedicating himself to the people, and even though he knew that taking responsibility meant neglecting small responsibilities, he understood and always felt the sadness in his heart for not making up for it. much love for his wife and children. He thought a lot, especially about his little daughter, the last time he saw her was when she was a baby, 8 years ago. His longing for his son grew more and more intense, and he looked forward to the day he could return to visit him. Not being able to see his daughter, not being able to be close to her, take care of her, protect her for so many years is the greatest torment in his heart. On the battlefield, there was not a day that he did not miss him. about family, remembering his wife, remembering his beloved little daughter. He kept imagining what his daughter looked like now, how tall she was, and whether she would always remember him like his abundant, longing nostalgia for her. How many questions are raised, how much reflection is expressed. For Mr. Sau, there is nothing more happy than if one day he could return home to visit. Seeing his child again and hearing his daughter call him "daddy" is Mr. Sau's greatest dream right now. And then that wish would one day come true, however, things were not as he expected. He was tired and extremely excited to meet his daughter, to hold her in his arms, to kiss her hair... but in the end he only received estrangement from his stubborn daughter. The little girl ran away from him. The closer he came, the farther away she became, refusing all his closeness, comfort, care, and affection. And what hurt him the most was that he refused to call him "daddy", protesting against all the things he did for him and for him. The closer Mr. Sau got to me, the more I pushed him away, and he felt so sad. His wish was not fulfilled, that was the only thing he suffered from. But he was about to leave, not being able to hug his daughter once, not being able to fully feel it, and at the same time, he was afraid that this meeting would also be the last because of the danger of war. extremely. He helplessly looked at his daughter, suffering and despairing, thinking that that strong and courageous man would shed tears. We can't blame his daughter, Thu, because she holds a very special feeling for her father. For little Thu, she only has one father, she loves her father very much. Understand and absorb his father's hardships. That's why his feelings are only for his real father. Just that and no one else. 8 years is not a long time but not short either. 8 years is the time for a child to grow up and for a man to grow older. Dad doesn't look like the photo he took with his mother. The man in front of Thu now is so different, she has many worries and doubts.
Bài làm Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn vững vàng của làng văn chương Việt Nam hiện đại. Ông viết nhiều về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm và tinh thần như một người con của những mảnh đất ấy. Văn chương phản chiếu tâm hồn của nhà văn. Thật vậy, Kim Lân là một nhà văn có tình cảm đặc biệt với cuộc sống nông thôn, và dành tình cảm yêu thương đặc biệt đến những người nông dân, đặc biệt là những cảnh ngộ của những kiếp đời, kiếp người nghèo khổ. Từ lâu ông đã được mệnh danh là nhà văn của những người nông dân, cách hành văn rất giản dị, chân thực, đi sâu vào tìm hiểu đời sống ấy cũng dễ cho mọi người có thể tìm hiểu và cảm nhận. Đó chính là phong cách rất riêng trong văn chương của ông. Làng là một trong những sáng tác mang nhiều dấu ấn của ông về đề tài này. Tác phẩm xoay quanh cuộc đời và con người ông Hai – một người nông dân giàu tình yêu làng, yêu nước. Ông Hai là người làng chợ Dầu – ngôi làng có tinh thần dân tộc, tinh thần cách mạng vô cùng sâu sắc. Ông Hai có tình yêu làng của mình vô cùng tha thiết và cũng vô cùng thiết thực. Kháng chiến đi vào giai đoạn gay cấn, gia đình ông cũng thuộc danh sách đối tượng phải chuyển đi tản cư. Đối với ông, điều này là một sự bất công, bởi ông không hề muốn điều đó, ông yêu thương ngôi làng của mình. Ngôi làng là một phần máu thịt trong ông, chứa đựng những cảm xúc của ông, làm nên tư tưởng, tình cảm của ông. Yêu làng và ông cũng là một con người có tinh thần dân tộc vô cùng sâu sắc. Làng ông có truyền thống đấu tranh cách mạng, và ông cũng muốn mình được chảy chung dòng chảy cách mạng đó, ông không muốn rời bỏ làng quê trong thời điểm này, tình cảnh này. Ngôi làng chợ Dầu của ông có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ và lớn lao vô cùng, ông cũng muốn được ở lại làng để được hòa chung vào không khí cách mạng ấy, ông muốn làm được điều gì có ích cho cho ngôi làng của mình. Nhưng ước nguyện của ông không được trọn vẹn như ông muốn. Ông đã từng sống chết một mực đòi ở lại làng nhưng cũng chỉ vì gia đình mà ông đành buông xuôi, và điều đó khiến tâm can của ông lúc nào cũng day dứt, điều đó làm ông rất đau lòng. Ở nơi tản cư, lòng ông chẳng lúc nào được thảnh thơi, lúc nào cũng nhớ thương về quê hương, sốt sắng về tình hình chiến sự. Ông thương quý ngôi làng chợ Dầu của mình vô cùng, lúc nào cũng nhung nhớ, gặp ai ông cũng có lời kể chuyện, tất cả các câu chuyện dù ý tứ gần xa đến đâu nhưng chung quy lại cũng bắt nguồn từ làng chợ Dầu của ông hết cả. Ông thấy vui và háo hức đến kì lạ, hơn hết cũng xúc động vô cùng mỗi lần nhắc về quê hương xứ sở: “Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”. Ông tự hào vì làng ông có tin thần kháng chiến vô cùng tuyệt vời, ông luôn nhớ đến những buổi tập quân sự mà: “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai”, rồi sự đoàn kết trong việc làm những công trình phục vụ cách mạng: “Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì làm công trình không để đâu hết”…cứ nghĩ đến thôi là lòng ông đã không khỏi những rạo rực xốn xang. Không chỉ tích cực khoe về làng, ông còn tích cực đọc báo và theo dõi tin tức kháng chiến, ông luôn mong ngóng những điểm sáng, sự tích cực về cách mạng, không chỉ bởi tấm lòng hướng về Tổ quốc của ông là lớn lao vô cùng mà còn là một ước nguyện rất thiết thực, đó là mong sao cách mạng thắng lợi để ông còn có cơ hội trở về quê hương. Tuy nhiên, không thể ngờ rằng có một ngày tình yêu quê hương đất nước của ông lại phải đối mặt với một thử thách to lớn đến thế. Ông nghe tin làng mình theo Tây, điều đó khiến ông đau đớn tột cùng, tâm trạng của ông thực sự rơi xuống vực thẳm. Suốt mấy ngày trời ông không dám đi đâu, chỉ ru rú trong nhà, ông buồn tủi vô cùng. Ông có nhiều sự hoài nghi và ngờ vực về mức độ tin cậy của chuyện đó, nhưng cứ nghe thấy bên ngoài người ta bàn tán xôn xao là ông lại không khỏi giật mình nơm nớp hơn. Không biết tâm sự cùng ai cho thấu nỗi niềm này, ông kéo cậu con trai đến bên mình rồi hỏi chuyện vu vơ: “-Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai? -Là con thầy mấy lỵ con u. -Thế nhà con ở đâu? -Nhà ta ở làng chợ Dầu. -Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ: -Có. Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi: -À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt: -Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ: -Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ”.
Assignment Kim Lan is one of the steadfast short story writers of modern Vietnamese literature. He wrote a lot about rural life and people with emotion and spirit as a son of those lands. Literature reflects the writer's soul. Indeed, Kim Lan is a writer with special affection for rural life, and has special love for farmers, especially the plight of poor people. He has long been known as the writer of farmers, his writing style is very simple and honest, going deep into understanding that life is easy for everyone to learn and feel. That is his very unique style in literature. The Village is one of his signature works on this topic. The work revolves around the life and personality of Mr. Hai - a farmer rich in love for his village and country. Mr. Hai is from Cho Dau village - a village with a very deep nationalistic and revolutionary spirit. Mr. Hai's love for his village is extremely passionate and also extremely practical. The resistance entered a critical phase, and his family was also on the list of people who had to evacuate. For him, this was an injustice, because he did not want that, he loved his village. The village is a part of his flesh and blood, containing his emotions, forming his thoughts and feelings. He loves the village and is also a person with a very deep national spirit. His village has a tradition of revolutionary struggle, and he also wants to flow with that revolutionary flow. He does not want to leave his village at this time, in this situation. His Cho Dau village had an extremely strong and great spirit of resistance. He also wanted to stay in the village to join in that revolutionary atmosphere. He wanted to do something useful for his village. me. But his wish was not as complete as he wanted. He lived and died insisting on staying in the village, but only for the sake of his family did he have to give up, and that made his heart ache all the time, which made him very sad. In the evacuation area, his heart was never at ease, he always missed his homeland and was anxious about the war situation. He loved his Dau market village very much, always missed him, he had stories to tell to everyone he met. All the stories, no matter how close or far away they were, ultimately originated from Dau market village. it's all yours. He felt strangely happy and excited, and above all, extremely moved every time he talked about his homeland: "He bragged that his village had the brightest and most spacious propaganda room in the region, and the radio tower was tall. using a bamboo top, the whole village can hear it every afternoon with a loudspeaker. He showed off his village with tiled houses close together and as busy as the province. He was proud of the fact that his village had a wonderful spirit of resistance. He always remembered the military training sessions: "Even the elderly women, including those with white hair and beards, also carried sticks to practice once or twice", and then the union committed to making works to serve the revolution: "Especially the holes, embankments, and trenches of his village were built without leaving anything"... just thinking about it made his heart ache. glowing. Not only did he actively show off about his village, he also actively read newspapers and followed resistance news. He always looked forward to the bright spots and positivity about the revolution, not only because his heart for the Fatherland was great. It was extremely hard work but also a very practical wish, which was to hope that the revolution would win so that he would have the opportunity to return to his homeland. However, he could not have imagined that one day his love for his homeland would face such a huge challenge. He heard the news that his village was following the West, which caused him extreme pain, his mood really fell into the abyss. For several days he did not dare to go anywhere, he just stayed at home, he was extremely sad. He had many doubts and doubts about the reliability of that story, but every time he heard people talking outside, he couldn't help but feel more startled. Not knowing who to confide in to understand this feeling, he pulled his son to his side and asked about something idle: “-Huh there! Let me ask you, whose child are you? -It's the teacher's son, you son of a bitch. -Where is your house? -My house is in Cho Dau village. -Do you like going to Dau market village? The boy nestled his head against his father's chest and answered softly: -Have. The old man hugged the boy tightly, and after a while asked: - Well, let me ask you. So who do you support? The boy raised his hand, boldly and clearly: -Long live support for Uncle Ho Chi Minh! Tears welled up in the old man's eyes, flowing down his cheeks. He whispered: -Yes, that's right, support Uncle Ho, right?"
Bài làm Nhắc đến những tác phẩm viết về đề tài phụ nữ của tác giả, danh sỹ lừng danh thời Lê Sơ – Nguyễn Dữ thật sai sót nếu không nhắc đến Chuyện người con gái Nam Xương. Câu chuyện nằm trong tác phẩm chính Truyền kỳ mạn lục – tác phẩm tản văn thể hiện quan điểm chính trị, thái độ nhân sinh và ý thức tư tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Ông luôn hướng về những đạo lý của cuộc đời, mong sao cho quần chúng nhân dân được sống yên bình trong nền đức trị, công bình và giàu lòng nhân ái giữa con người với con người. Chuyện người con gái Nam Xương là truyện thứ 16 trong 20 truyện trog tập Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ nhưng vô cùng nổi tiếng và có độ phổ biến với công chúng bạn đọc vô cùng sâu rộng. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính Vũ Nương – một con người với phẩm chất và số phận thuộc điển hình cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đồng thời câu chuyện về số phận và cuộc đời của Vũ Nương cũng có sức mạnh lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến hà khắc bất công với số phận những kiếp đời phụ nữ trong xã hội xưa. Vũ Nương hay còn gọi là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, là một người được coi là dung hạnh vẹn toàn, chỉ do nhà nghèo được ướm gả cho gia đình nhà phú hộ trong làng là Trương Sinh. Chồng nàng vốn tính hay ghen, nàng hiểu tính chồng, chính vì vậy trong mối quan hệ giữa vợ chồng luôn đề cao chữ “nhịn”, không bao giờ để vợ chồng phải nên nỗi bất hòa. Vũ Nương luôn thấu hiểu trước sau để gia đình luôn hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ. Gia đạo đang bình yên thì chiến tranh và giặc giã khiến cho Trương Sinh phải tòng quân đi lính, lúc đó Vũ Nương đương mang thai. Chẳng chút suy nghĩ cho mình, Vũ Nương chỉ lo cho chồng, nàng hiểu được những khó khăn, vất vả ngoài mặt trận, chẳng mang ước mong gì lớn lao, chỉ mong hai chữ bình an cho chồng. Chồng đi lính, một mình nàng gồng gánh công việc gia đình, ngay khi sinh nở cũng không có chồng bên cạnh. Nhưng nàng vẫn vững lòng, vẫn hướng về chồng với những yêu thương, những ước mong tốt đẹp nhất dành cho chồng của mình. Có thể thấy được Vũ Nương là một người vợ vô cùng hoàn hảo. Chịu thương chịu khó, hết lòng vì gia đình, vì chồng con. Đó là trong đạo làm vợ, còn về đạo làm dâu, những gì mà làm cho mẹ chồng cũng khiến ai nấy đều vô cùng ngưỡng mộ. Nàng không bai giờ có khái niệm phân biệt mẹ chồng hay mẹ đẻ. Đối với mẹ chồng, nàng cũng luôn dành những tình cảm chân thành nhất, nàng chăm sóc mẹ chồng vô cùng chu đáo. Vì thương nhớ con mà mẹ chồng nàng suy nghĩ nhiều dẫn đến ốm đau bệnh tật, nàng hết sức chạy chữa thuốc thang, lễ bái thần phật. Mẹ chồng nàng mất, nàng cũng lo tang ma chay chu đáo như với cha mẹ đẻ mình. Những lời trăn trối trước khi lâm chung của mẹ chồng nàng với nàng cũng đủ thể hiện tình cảm mà bà dành cho con dâu, tấm lòng thảo hiền của nàng dâu bà thấm thía vô cùng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Để rồi một mình nàng Vũ Nương lại gồng gánh hết chuyện gia đình, một mình thay chồng nuôi con. Để đỡ nhớ chồng và cho con biết đến tình cảm của người cha, nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói với con đó là cha Đản. Tuy nhiên, không ngờ rằng chỉ với lời trêu đùa không chủ định đã đẩy nàng xuống cùng cực sự khổ sở. Những ước ao nay đã thành hiện thực, Trương Sinh chồng nàng đi lính tráng bình an trở về. Nhưng ngỡ gia đình sẽ được đoàn viên, vợ chồng con cái sum tụ chứ chẳng ai ngỡ đến cái cảnh tan nát gia đình như thế. Trương Sinh về đến nhà, hay tin mẹ mất, đau đớn vô cùng, bé theo con nhỏ ra thăm mộ mẹ. Đứa trẻ quấy khóc, không theo vì nghĩ Trương Sinh không phải cha nó. Tính ghen tuông nổi lên, Trương Sinh bị sự nóng nảy che mờ mắt, không còn nhìn thấy được đâu là lý lẽ thiệt hơn. Trở về nhà làm ầm ĩ, đánh mắng Vũ Nương, cho nàng thất tiết, không còn xứng với mình, còn nhẫn tâm đuổi nàng đi. Vũ Nương hết sức phân trần, nàng không muốn kết cục như vậy, nhưng dường như càng thanh minh, Trương Sinh lại càng thêm nóng nảy. Vũ Nương biết rằng đã hết cách, cũng đành chấp nhận buông xuôi ra khỏi nhà. Đau đớn vô cùng, không thể nào thanh minh được, Vũ Nương đã trẫm mình trẫm mình xuống dòng sông Hoàng Giang lấy cái chết minh oan cho mình: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ” Thật đáng thương cho Vũ Nương, một người phụ nữ với phẩm hạnh vô cùng tốt đẹp, hết lòng vì chồng vì con nhưng nhận lại toàn là sự bất hạnh và khổ đau. Cũng đáng lên án Trương Sinh – một nhân vật nam nhân tiêu biểu của xã hội phong kiến xưa, cái tư tưởng nam quyền hằn sâu trong tư tưởng của hắn khiến hắn không còn tỉnh táo phân định trắng đen cho vợ mình, cho chính cuộc đời mình. Cái kết hắn nhận được là do chính hắn, không trách ai được.
Assignment Referring to the works written on the topic of women by the famous author and famous artist of the Early Le dynasty - Nguyen Du, it would be a mistake not to mention The Story of a Nam Xuong Girl. The story is in the main work Truyen Ky Man Luc - a literary work expressing Nguyen Du's political views, human attitudes and moral consciousness. He always focused on the ethics of life, hoping that the masses could live peacefully in a system of virtue, justice and compassion between people. The story of the girl from Nam Xuong is the 16th story out of 20 stories in the collection Truyen Ky Man Luc. Nguyen Du's only work is extremely famous and widely popular with the reading public. The story revolves around the main character Vu Nuong - a person with qualities and fate typical of women in ancient feudal society. At the same time, the story of Vu Nuong's fate and life also has the power to condemn and denounce the harsh feudal rites and injustice to the fate of women in ancient society. Vu Nuong, also known as Vu Thi Thiet, from Nam Xuong, is a person who is considered a virtuous person, only because she is poor, she was offered to marry the family of a rich man in the village, Truong Sinh. Her husband is inherently jealous, she understands her husband's nature, that's why in the relationship between husband and wife, the word "patience" is always emphasized, never allowing the couple to have discord. Vu Nuong always understands before and after so that the family is always harmonious, warm and happy. While the family was at peace, war and fighting forced Truong Sinh to join the army, and at that time Vu Nuong was pregnant. Without thinking for herself, Vu Nuong only worried about her husband. She understood the difficulties and hardships on the front line, and did not have any great wishes. She only wished for peace for her husband. Her husband was in the army, so she alone shouldered the burden of family work. Even when she gave birth, her husband was not around. But she remained steadfast, still looking towards her husband with love and the best wishes for him. It can be seen that Vu Nuong is an extremely perfect wife. Be patient and hard-working, devoted to your family, husband and children. That's in the religion of being a wife, but in the religion of being a daughter-in-law, everything you do for your mother-in-law makes everyone extremely admire. She never had the concept of distinguishing between her mother-in-law and her biological mother. For her mother-in-law, she always has the most sincere feelings, she takes care of her mother-in-law extremely thoughtfully. Because she missed her child, her mother-in-law thought too much, which led to illness. She tried her best to take medicine and worship Buddha. When her mother-in-law passed away, she also took care of the funeral as thoughtfully as she did her own parents. Her mother-in-law's last words to her before her death were enough to express the love she had for her daughter-in-law, her daughter-in-law's gentle heart was extremely poignant: "Short and long have their destiny, fresh and withered by heaven." . It's not that I don't want to wait for my husband and children to come home, but I have to force myself to eat porridge. But life expectancy is limited, fate is difficult to avoid. At night the bell rings, fate ends; A broken body, in danger in the morning and evening, cannot help but bother you. My husband and children are far away, and when my mother dies, I cannot return in time to make amends. In the future, God will help good people, bestow blessings, good lineage, many descendants. I hope that green man will not betray me just as I did not dare to betray my mother. Then, Vu Nuong alone shouldered all the family matters, raising the children on her husband's behalf. To help her remember her husband and let her children know about their father's feelings, she often jokes with her children by pointing her shadow on the wall and telling them that it is Dan's father. However, she did not expect that just an unintentional joke would push her down to extreme misery. Her wishes have now come true, her husband Truong Sinh has returned safely from his military service. But I thought the family would be reunited, with husband and wife and children reunited, but no one expected such a scene of family destruction. When Truong Sinh returned home, he heard that his mother had passed away. He was in great pain. He followed his child to visit his mother's grave. The child cried and did not follow him because he thought Truong Sinh was not his father. Jealousy arose, Truong Sinh was blinded by anger, no longer able to see which argument was superior. Returning home, he made a fuss, beat and scolded Vu Nuong, made her rude, no longer worthy of him, and cruelly chased her away. Vu Nuong explained very clearly that she did not want such an outcome, but it seemed that the more she clarified, the more impatient Truong Sinh became. Vu Nuong knew that there was no way, so she had to give up and leave the house. Extremely painful, unable to explain herself, Vu Nuong drowned herself in the Hoang Giang River to vindicate herself with death: "This unfortunate person has a miserable fate, his husband and children have abandoned him, nothing will fly." bound, the sound of being humiliated, the river god has the spirit to ask you to testify. If you are dignified and keep your chastity, be chaste and keep your heart, if you enter the country, please be My Nuong's jade, if you go to earth, you will be Ngu My's grass. If you are willing to be a fish and a bird, lie to your husband and lie to your children, beg to be food for fish and shrimp from below, beg to be food for kites and crows from above, not only will you be spit on by everyone." It's so pitiful for Vu Nuong, a woman with extremely good morals, devoted to her husband and children, but all she receives in return is unhappiness and suffering. It is also worth condemning Truong Sinh - a typical male character of ancient feudal society. The ideology of male power is deeply embedded in his mind, causing him to no longer consciously distinguish between black and white for his wife and for life itself. my life. The ending he received was due to himself, no one could be blamed.
Mỗi thời đại, mỗi nền văn học đều có những kiệt tác để ngàn đời còn lưu danh ngưỡng vọng. Với một nền văn học và văn hóa đồ sộ, đặc sắc và phong phú như Trung Quốc cũng đã góp vào tượng đài văn học những trác tuyệt bất hủ, trong đó không thể không kể tới Tam Quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung. Đặc biệt đoạn trích Hồi trống cổ thành cũng đã cho ta thấy khá rõ chân dung, tính cách của các nhân vật được khắc họa ra sao. Vậy thì hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài Hồi trống cổ thành lớp 10 nhé. Cảm ơn các bạn rất nhiều vì đã tham khảo bài soạn của chúng mình. Hi vọng rằng với bài soạn này các bạn sẽ có thể hiểu được đôi chút về tác phẩm, đồng thời nâng cao hiểu biết cho bản thân mình để học tập được tốt hơn nữa nhé. La Quan Trung là một trong những tác gia của văn học Trung Quốc Bố cục: Phần 1 (từ đầu…đem theo quân mã chứ!): Trương Phi hiểu lầm Quan Công. Phần 2 (còn lại): Quan Công chém Sái Dương, giải hiềm nghi, anh em đoàn tụ. Câu 1 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Trương Phi nổi giận định đâm chết Quan Công vì Trương Phi là người cương trực, nóng nảy, với kẻ thù, với sự phản bội chỉ có thể nói chuyện bằng gươm đao. Trương Phi nghĩ rằng Quan Công hàng Tào Tháo cũng là theo giặc, là bội nghĩa, phản bội anh em. Câu 2 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Nhan đề Hồi trống Cổ Thành với hình tượng hồi trống trở thành biểu tượng nghệ thuật với ý nghĩa: Câu 3 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) “Nóng như Trương Phi” là nóng nảy do cá tính gàn dở vì nhân vật thiếu bình tĩnh khi vừa biết tin báo đã múa xà mâu muốn đâm Quan Công. Nhưng suy cho cùng là sự nóng nảy muốn biết sự thực, phải trái.
Every era and every literature has masterpieces that will be remembered for thousands of generations to admire. With a huge, unique and rich literature and culture like China, it has also contributed immortal masterpieces to the literary monument, among which it is impossible not to mention Romance of the Three Kingdoms by author La Guanzhong. . In particular, the excerpt from Co Thanh Drum also shows us quite clearly how the portraits and personalities of the characters are portrayed. So today I will help you prepare the Ancient Drum Recitation lesson for grade 10. Thank you very much for reviewing our article. Hopefully with this article you will be able to understand a little about the work, and at the same time improve your own understanding to study better. Luo Guanzhong is one of the authors of Chinese literature Layout: Part 1 (from the beginning...bring the army and horse!): Truong Phi misunderstood Quan Cong. Part 2 (remaining): Quan Cong slashes Sai Duong, resolves suspicions, reunites brothers. Question 1 (page 79 Literature textbook Grade 10, Part 2) Truong Phi got angry and tried to stab Quan Cong to death because Truong Phi was an upright, hot-tempered person who could only speak to enemies and betrayals with swords. Truong Phi thought that Cao Cao's Quan Cong was also following the enemy, being disloyal, and betraying his brothers. Question 2 (page 79 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The title Co Thanh Drum with the image of the drum has become an artistic symbol with the meaning: Question 3 (page 79 Literature textbook Grade 10, Part 2) "Hot like Truong Phi" is hot-tempered due to his crazy personality because the character lacks composure when he hears the news and jumps with a snake and spear to stab Quan Cong. But ultimately it is the eagerness to know the truth, right from wrong.
Trong cuộc sống này, ngoài tình thương, tình thân của gia đình, tình yêu giữa người với người thì còn tồn tại một thứ tình cảm cũng thiêng liêng không kém: tình bạn. Từ trước đến nay, ta đã gặp biết bao nhiêu tình bạn đẹp: tình bạn chí cốt giữa Lưu Bình và Dương Lễ, tình bạn giữa cụ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thuở nào, cho đến tình bạn giữa Hồ Chí Minh và Picasso,… Mỗi thời, mỗi tình bạn lại đem lại cho ta nhiều cảm xúc sâu lắng, nhưng cuối cùng tất cả ở lại, là sự khâm phục và kính trọng tới thứ tình cảm rất thiêng liêng ấy. Bài viết dưới đây là bài văn kể một kỉ niệm sâu sắc về tình bạn theo ngôi kể thứ nhất. Để làm được bài văn này, trước hết phải đảm bảo yêu cầu là kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” và tự kể lại kỉ niệm của mình. Cần kể chi tiết, cụ thể và sáng rõ những diễn biến của câu chuyện, đồng thời đan xen vào đó tình cảm chân thành của chính mình để bài viết thêm phần sâu sắc. Người ta thường nói, sống ở trên đời không thể nào không có bạn bè. Tôi nghĩ đúng là như thế. Nếu như tôi không có bạn bè, có lẽ bản thân cũng chỉ là một hạt cát cô đơn giữa lòng sa mạc, sẽ cảm thấy cô đơn và nhỏ bé đến chừng nào. Tôi may mắn hơn khi không biến mình thành một hạt cát, vì tôi biết bên cạnh tôi lúc nào cũng có Lan – cô bạn thân từ thuở còn thơ bé. Chơi với nhau đã lâu, kỉ niệm cũng đã nhiều nhưng có một kỉ niệm hồi lớp 5 làm tôi mãi không thể nào quên… Lan và tôi vốn gần nhà nhau, cho nên chúng tôi quấn quýt với nhau ngay những ngày đầu khi còn thơ bé. Chúng tôi chơi cùng nhau, học cùng nhau, đòi mẹ mua quần áo giống nhau. Người ngoài nhìn vào còn tưởng chúng tôi là hai chị em sinh đôi nữa. Chơi với Lan rất vui, bạn ấy hay nhường nhịn tôi, có gì cũng mang đến cho tôi. Tôi quý Lan nên có gì hay ho đều giấu rồi mang đến nhà Lan để hai đứa cùng thử. Đi qua hết những ngày lớp mẫu giáo, rồi qua hết cả những năm tháng Tiểu học, tôi với Lan gắn bó với nhau như hình với bóng. Thế mà rồi vào một ngày kia, tôi phát hiện ra mình bị mất cái bút máy màu đỏ – quà tặng của bố mẹ tôi trước lúc vào Nam công tác. Từ nhỏ, bố mẹ tôi đã đi làm ăn xa, cho nên tất cả những món quà bố mẹ tặng tôi đều rất trân trọng và coi như báu vật. Cây bút này cũng thế, Tôi cất kĩ nó vào hộp bút nhưng chẳng bao giờ dùng đến. Nó như một vật bất li thân, là bùa hộ mệnh của tôi vậy. Tôi choáng váng. Rõ ràng chiều qua sau khi lôi ra tôi đã cất vào hộp bút rồi cơ mà? Sao giờ lại không thấy đâu chứ? Tôi lục lọi khắp nơi cũng không thấy. Chẳng lẽ… Là Lan? Chiều qua chỉ có bạn ấy sang chơi với tôi…Ngày trước tôi khoe, Lan cũng thích cái bút ấy lắm. Nhưng…sao Lan lại làm thế? Lan biết rõ tôi quý cây bút ấy như nào mà? Thế nhưng tôi vẫn chạy sang nhà Lan và hỏi cho ra nhẽ. Lan một mực phủ nhận nhưng tôi không tin. Tôi không tìm thấy cây bút, mà Lan lại là người cuối cùng biết đến sự tồn tại của nó. Tôi đau lòng chứ, nhưng làm sao mà không giận cho được. Tôi nức nở chạy về nhà, bỏ mặc lời gọi của Lan phía sau lưng… Ngày hôm sau, tôi không chờ Lan cùng đi học nữa. Cả mấy ngày sau, vài tuần sau cũng vậy. Trên lớp, tôi tránh mặt Lan. Về đến nhà, tôi cũng không muốn gặp Lan nữa. Có lúc tôi bất chợt nhìn thấy ánh mắt buồn buồn của Lan đang nhìn mình. Tôi chợt mủi lòng. Nhưng nghĩ về bố mẹ, về cây bút mà tôi hằng yêu quý, tôi không thể nào tha thứ cho Lan… Mưa mấy ngày rồi mà không dứt. Tôi cám thấy mệt mỏi, đầu lại âm ấm sốt, thân thể rã rời. Tôi viết đơn xin nghỉ học rồi nhờ ngoại đưa cho bạn nộp giúp. Cả sáng hôm ấy tôi ê ấm trên giường không thể nào ăn uống được gì. Khát nước, tôi cố vực mình dậy với lấy cốc nước trên bàn. Quyển tập của tôi rơi xuồng, tôi cúi xuống nhặt và bất chợt thấy có cái gì đó sáng lóe lên trong tít cái gầm tủ quần áo bên cạnh. Tôi khều ra. Là cây bút màu đỏ! Đã vài tuần trôi qua rồi, cây bút vương đầy mạng nhện, thân đã hơi gỉ ra làm xước lớp sơn đỏ bao bên ngoài. Cây bút mà tôi đã đổ cho Lan lấy cắp đây ư? Chỉ vì…chỉ vì sự trẻ con của tôi…Chỉ vì không tìm kĩ mà tôi đã hiểu lầm người bạn đã gắn bó với mình suốt mấy năm trời. Tôi òa khóc nức nở rồi lịm đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi tôi tình giấc thì trời đã xế trưa. Tôi khó nhọc mở đôi mắt, đập vào mắt tôi là cô bạn thân bé nhỏ, đầu tóc vẫn còn vương nước mưa. Thấy tôi tỉnh, ánh mắt Lan reo lên sự mừng rỡ. Lan ôm chầm lấy tôi. – Hôm nay cậu nghỉ, cậu làm mình lo quá. Thấy cái Ngọc bảo cậu bị ốm mưa mà tớ lại không biết gì. Tớ có lỗi quá. Tôi òa khóc nức nở. Không biết tôi khóc vì xúc động hay xấu hổ nữa. Chỉ biết rằng tôi khóc rất to, rất lâu sau mới nín được. Tôi cầm chiếc bút, đưa cho Lan. – Mình xin lỗi…Do mình, do mình đã đổ lỗi cho cậu… Mình có lỗi nhiều lắm. Lan nhìn tôi âu yếm. Lan chẳng nói gì, nhưng tôi thấy bàn tay cậu ấy như đang siết mạnh vào bàn tay tôi. Thấm thoát đã mấy năm trôi qua. Từ bấy đến nay, tôi và Lan vẫn luôn là một đôi bạn thanh mai trúc mã thân thiết. Chúng tôi cùng nhau thi đỗ vào trường chuyên của Tỉnh, cùng nhau trọ một phòng trong kí túc xá, cùng nhau lóc cóc đạp xe lên phố đi học, cùng nhau trải qua những năm tháng cấp ba đẹp nhất. Cảm ơn trời đất đã ban phát cho tôi một người bạn quý giá như vậy. Cảm ơn Lan vì đã luôn bên cạnh và chăm sóc cho tôi! Trong cuộc sống của mỗi con người được sống và yêu thương trong vòng tay của gia đình, người thân là một điều vô cùng hạnh phúc, may mắn. Nhưng có một thứ tình cảm cũng vô cùng thiêng liêng và quan trọng sẽ theo ta đến hết cuộc đời này ấy chính là tình bạn. Tình bạn đi cùng chúng ta qua những năm tháng trưởng thành, có lẽ đẹp nhất ấy chính là tình bạn thuở học sinh vì đó là khoảng thời gian hồn nhiên, thơ ngây và chân thành không vương chút tạp niệm, vướng bận nhất. Tôi cũng đã có một tình bạn đẹp với kỉ niệm đáng nhớ sâu sắc cùng Vy- người bạn thân hồi cấp 2 của tôi. Đó là năm tôi học lớp 7 ở trường cấp hai của xã, hôm ấy là một ngày mùa thu trong trẻo, bầu trời xanh cao vời vợi- ngày đầu tiên tôi gặp Vy. Khi tiếng trống báo hiệu vào lớp vang lên chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi để chờ cô giáo vào như thường lệ. Nhưng hôm đó vào lớp không phải chỉ có mình cô mà đi cùng còn có một bạn nữ dong dỏng người, gương mặt bầu bĩnh đầy vẻ ngượng ngùng e thẹn. Chúng tôi lúc đó đều xôn xao, tò mò hỏi nhau không biết bạn ấy là ai. Để chấm dứt những thắc mắc của chúng tôi cô giáo đã mỉm cười dịu dàng rồi giới thiệu: -Đây là bạn Hải Vy, bạn mới chuyển từ trong TP Hồ Chí Minh ra và sẽ học cùng lớp chúng ta từ hôm nay. Vì bạn mới đến nên sẽ còn nhiều bỡ ngỡ chưa quen, chúng ta cùng giúp đỡ bạn nhé các em. Một tràng pháo tay vang lên, chúng tôi ai ai cũng vui vì lớp có thêm một người bạn mới rất dễ thương, tôi vẫn nhớ khi thấy chúng tôi vỗ tay Vy đã cười rất tươi không còn vẻ e thẹn bẽn lẽn như lúc đầu. Vì lúc đó bạn ngồi cạnh tôi mới chuyển lớp, chỗ bên cạnh tôi đang trống nên cô giáo đã xếp Vy xuống ngồi cạnh tôi. Thật bất ngờ lúc đó Vy đã không ngại ngùng mà bạn ấy mỉm cười rất dịu dàng bắt chuyện với tôi trước: -Chào cậu, mình tên là Hải Vy, từ hôm nay mình sẽ được học cùng các cậu rồi. – Ừ mình là Khánh Linh, rất vui được học cùng cậu. – Vậy từ nay chúng ta sẽ là bạn tốt nhé! – Nhất trí!
Trong cuộc sống này, ngoài tình thương, tình thân của gia đình, tình yêu giữa người với người thì còn tồn tại một thứ tình cảm cũng thiêng liêng không kém: tình bạn. Từ trước đến nay, ta đã gặp biết bao nhiêu tình bạn đẹp: tình bạn chí cốt giữa Lưu Bình và Dương Lễ, tình bạn giữa cụ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thuở nào, cho đến tình bạn giữa Hồ Chí Minh và Picasso,… Mỗi thời, mỗi tình bạn lại đem lại cho ta nhiều cảm xúc sâu lắng, nhưng cuối cùng tất cả ở lại, là sự khâm phục và kính trọng tới thứ tình cảm rất thiêng liêng ấy. Bài viết dưới đây là bài văn kể một kỉ niệm sâu sắc về tình bạn theo ngôi kể thứ nhất. Để làm được bài văn này, trước hết phải đảm bảo yêu cầu là kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” và tự kể lại kỉ niệm của mình. Cần kể chi tiết, cụ thể và sáng rõ những diễn biến của câu chuyện, đồng thời đan xen vào đó tình cảm chân thành của chính mình để bài viết thêm phần sâu sắc. Người ta thường nói, sống ở trên đời không thể nào không có bạn bè. Tôi nghĩ đúng là như thế. Nếu như tôi không có bạn bè, có lẽ bản thân cũng chỉ là một hạt cát cô đơn giữa lòng sa mạc, sẽ cảm thấy cô đơn và nhỏ bé đến chừng nào. Tôi may mắn hơn khi không biến mình thành một hạt cát, vì tôi biết bên cạnh tôi lúc nào cũng có Lan – cô bạn thân từ thuở còn thơ bé. Chơi với nhau đã lâu, kỉ niệm cũng đã nhiều nhưng có một kỉ niệm hồi lớp 5 làm tôi mãi không thể nào quên… Lan và tôi vốn gần nhà nhau, cho nên chúng tôi quấn quýt với nhau ngay những ngày đầu khi còn thơ bé. Chúng tôi chơi cùng nhau, học cùng nhau, đòi mẹ mua quần áo giống nhau. Người ngoài nhìn vào còn tưởng chúng tôi là hai chị em sinh đôi nữa. Chơi với Lan rất vui, bạn ấy hay nhường nhịn tôi, có gì cũng mang đến cho tôi. Tôi quý Lan nên có gì hay ho đều giấu rồi mang đến nhà Lan để hai đứa cùng thử. Đi qua hết những ngày lớp mẫu giáo, rồi qua hết cả những năm tháng Tiểu học, tôi với Lan gắn bó với nhau như hình với bóng. Thế mà rồi vào một ngày kia, tôi phát hiện ra mình bị mất cái bút máy màu đỏ – quà tặng của bố mẹ tôi trước lúc vào Nam công tác. Từ nhỏ, bố mẹ tôi đã đi làm ăn xa, cho nên tất cả những món quà bố mẹ tặng tôi đều rất trân trọng và coi như báu vật. Cây bút này cũng thế, Tôi cất kĩ nó vào hộp bút nhưng chẳng bao giờ dùng đến. Nó như một vật bất li thân, là bùa hộ mệnh của tôi vậy. Tôi choáng váng. Rõ ràng chiều qua sau khi lôi ra tôi đã cất vào hộp bút rồi cơ mà? Sao giờ lại không thấy đâu chứ? Tôi lục lọi khắp nơi cũng không thấy. Chẳng lẽ… Là Lan? Chiều qua chỉ có bạn ấy sang chơi với tôi…Ngày trước tôi khoe, Lan cũng thích cái bút ấy lắm. Nhưng…sao Lan lại làm thế? Lan biết rõ tôi quý cây bút ấy như nào mà? Thế nhưng tôi vẫn chạy sang nhà Lan và hỏi cho ra nhẽ. Lan một mực phủ nhận nhưng tôi không tin. Tôi không tìm thấy cây bút, mà Lan lại là người cuối cùng biết đến sự tồn tại của nó. Tôi đau lòng chứ, nhưng làm sao mà không giận cho được. Tôi nức nở chạy về nhà, bỏ mặc lời gọi của Lan phía sau lưng… Ngày hôm sau, tôi không chờ Lan cùng đi học nữa. Cả mấy ngày sau, vài tuần sau cũng vậy. Trên lớp, tôi tránh mặt Lan. Về đến nhà, tôi cũng không muốn gặp Lan nữa. Có lúc tôi bất chợt nhìn thấy ánh mắt buồn buồn của Lan đang nhìn mình. Tôi chợt mủi lòng. Nhưng nghĩ về bố mẹ, về cây bút mà tôi hằng yêu quý, tôi không thể nào tha thứ cho Lan… Mưa mấy ngày rồi mà không dứt. Tôi cám thấy mệt mỏi, đầu lại âm ấm sốt, thân thể rã rời. Tôi viết đơn xin nghỉ học rồi nhờ ngoại đưa cho bạn nộp giúp. Cả sáng hôm ấy tôi ê ấm trên giường không thể nào ăn uống được gì. Khát nước, tôi cố vực mình dậy với lấy cốc nước trên bàn. Quyển tập của tôi rơi xuồng, tôi cúi xuống nhặt và bất chợt thấy có cái gì đó sáng lóe lên trong tít cái gầm tủ quần áo bên cạnh. Tôi khều ra. Là cây bút màu đỏ! Đã vài tuần trôi qua rồi, cây bút vương đầy mạng nhện, thân đã hơi gỉ ra làm xước lớp sơn đỏ bao bên ngoài. Cây bút mà tôi đã đổ cho Lan lấy cắp đây ư? Chỉ vì…chỉ vì sự trẻ con của tôi…Chỉ vì không tìm kĩ mà tôi đã hiểu lầm người bạn đã gắn bó với mình suốt mấy năm trời. Tôi òa khóc nức nở rồi lịm đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi tôi tình giấc thì trời đã xế trưa. Tôi khó nhọc mở đôi mắt, đập vào mắt tôi là cô bạn thân bé nhỏ, đầu tóc vẫn còn vương nước mưa. Thấy tôi tỉnh, ánh mắt Lan reo lên sự mừng rỡ. Lan ôm chầm lấy tôi. – Hôm nay cậu nghỉ, cậu làm mình lo quá. Thấy cái Ngọc bảo cậu bị ốm mưa mà tớ lại không biết gì. Tớ có lỗi quá. Tôi òa khóc nức nở. Không biết tôi khóc vì xúc động hay xấu hổ nữa. Chỉ biết rằng tôi khóc rất to, rất lâu sau mới nín được. Tôi cầm chiếc bút, đưa cho Lan. – Mình xin lỗi…Do mình, do mình đã đổ lỗi cho cậu… Mình có lỗi nhiều lắm. Lan nhìn tôi âu yếm. Lan chẳng nói gì, nhưng tôi thấy bàn tay cậu ấy như đang siết mạnh vào bàn tay tôi. Thấm thoát đã mấy năm trôi qua. Từ bấy đến nay, tôi và Lan vẫn luôn là một đôi bạn thanh mai trúc mã thân thiết. Chúng tôi cùng nhau thi đỗ vào trường chuyên của Tỉnh, cùng nhau trọ một phòng trong kí túc xá, cùng nhau lóc cóc đạp xe lên phố đi học, cùng nhau trải qua những năm tháng cấp ba đẹp nhất. Cảm ơn trời đất đã ban phát cho tôi một người bạn quý giá như vậy. Cảm ơn Lan vì đã luôn bên cạnh và chăm sóc cho tôi! Trong cuộc sống của mỗi con người được sống và yêu thương trong vòng tay của gia đình, người thân là một điều vô cùng hạnh phúc, may mắn. Nhưng có một thứ tình cảm cũng vô cùng thiêng liêng và quan trọng sẽ theo ta đến hết cuộc đời này ấy chính là tình bạn. Tình bạn đi cùng chúng ta qua những năm tháng trưởng thành, có lẽ đẹp nhất ấy chính là tình bạn thuở học sinh vì đó là khoảng thời gian hồn nhiên, thơ ngây và chân thành không vương chút tạp niệm, vướng bận nhất. Tôi cũng đã có một tình bạn đẹp với kỉ niệm đáng nhớ sâu sắc cùng Vy- người bạn thân hồi cấp 2 của tôi. Đó là năm tôi học lớp 7 ở trường cấp hai của xã, hôm ấy là một ngày mùa thu trong trẻo, bầu trời xanh cao vời vợi- ngày đầu tiên tôi gặp Vy. Khi tiếng trống báo hiệu vào lớp vang lên chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi để chờ cô giáo vào như thường lệ. Nhưng hôm đó vào lớp không phải chỉ có mình cô mà đi cùng còn có một bạn nữ dong dỏng người, gương mặt bầu bĩnh đầy vẻ ngượng ngùng e thẹn. Chúng tôi lúc đó đều xôn xao, tò mò hỏi nhau không biết bạn ấy là ai. Để chấm dứt những thắc mắc của chúng tôi cô giáo đã mỉm cười dịu dàng rồi giới thiệu: -Đây là bạn Hải Vy, bạn mới chuyển từ trong TP Hồ Chí Minh ra và sẽ học cùng lớp chúng ta từ hôm nay. Vì bạn mới đến nên sẽ còn nhiều bỡ ngỡ chưa quen, chúng ta cùng giúp đỡ bạn nhé các em. Một tràng pháo tay vang lên, chúng tôi ai ai cũng vui vì lớp có thêm một người bạn mới rất dễ thương, tôi vẫn nhớ khi thấy chúng tôi vỗ tay Vy đã cười rất tươi không còn vẻ e thẹn bẽn lẽn như lúc đầu. Vì lúc đó bạn ngồi cạnh tôi mới chuyển lớp, chỗ bên cạnh tôi đang trống nên cô giáo đã xếp Vy xuống ngồi cạnh tôi. Thật bất ngờ lúc đó Vy đã không ngại ngùng mà bạn ấy mỉm cười rất dịu dàng bắt chuyện với tôi trước: -Chào cậu, mình tên là Hải Vy, từ hôm nay mình sẽ được học cùng các cậu rồi. – Ừ mình là Khánh Linh, rất vui được học cùng cậu. – Vậy từ nay chúng ta sẽ là bạn tốt nhé! – Nhất trí!
Trong cuộc sống này, ngoài tình thương, tình thân của gia đình, tình yêu giữa người với người thì còn tồn tại một thứ tình cảm cũng thiêng liêng không kém: tình bạn. Từ trước đến nay, ta đã gặp biết bao nhiêu tình bạn đẹp: tình bạn chí cốt giữa Lưu Bình và Dương Lễ, tình bạn giữa cụ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thuở nào, cho đến tình bạn giữa Hồ Chí Minh và Picasso,… Mỗi thời, mỗi tình bạn lại đem lại cho ta nhiều cảm xúc sâu lắng, nhưng cuối cùng tất cả ở lại, là sự khâm phục và kính trọng tới thứ tình cảm rất thiêng liêng ấy. Bài viết dưới đây là bài văn kể một kỉ niệm sâu sắc về tình bạn theo ngôi kể thứ nhất. Để làm được bài văn này, trước hết phải đảm bảo yêu cầu là kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” và tự kể lại kỉ niệm của mình. Cần kể chi tiết, cụ thể và sáng rõ những diễn biến của câu chuyện, đồng thời đan xen vào đó tình cảm chân thành của chính mình để bài viết thêm phần sâu sắc. Người ta thường nói, sống ở trên đời không thể nào không có bạn bè. Tôi nghĩ đúng là như thế. Nếu như tôi không có bạn bè, có lẽ bản thân cũng chỉ là một hạt cát cô đơn giữa lòng sa mạc, sẽ cảm thấy cô đơn và nhỏ bé đến chừng nào. Tôi may mắn hơn khi không biến mình thành một hạt cát, vì tôi biết bên cạnh tôi lúc nào cũng có Lan – cô bạn thân từ thuở còn thơ bé. Chơi với nhau đã lâu, kỉ niệm cũng đã nhiều nhưng có một kỉ niệm hồi lớp 5 làm tôi mãi không thể nào quên… Lan và tôi vốn gần nhà nhau, cho nên chúng tôi quấn quýt với nhau ngay những ngày đầu khi còn thơ bé. Chúng tôi chơi cùng nhau, học cùng nhau, đòi mẹ mua quần áo giống nhau. Người ngoài nhìn vào còn tưởng chúng tôi là hai chị em sinh đôi nữa. Chơi với Lan rất vui, bạn ấy hay nhường nhịn tôi, có gì cũng mang đến cho tôi. Tôi quý Lan nên có gì hay ho đều giấu rồi mang đến nhà Lan để hai đứa cùng thử. Đi qua hết những ngày lớp mẫu giáo, rồi qua hết cả những năm tháng Tiểu học, tôi với Lan gắn bó với nhau như hình với bóng. Thế mà rồi vào một ngày kia, tôi phát hiện ra mình bị mất cái bút máy màu đỏ – quà tặng của bố mẹ tôi trước lúc vào Nam công tác. Từ nhỏ, bố mẹ tôi đã đi làm ăn xa, cho nên tất cả những món quà bố mẹ tặng tôi đều rất trân trọng và coi như báu vật. Cây bút này cũng thế, Tôi cất kĩ nó vào hộp bút nhưng chẳng bao giờ dùng đến. Nó như một vật bất li thân, là bùa hộ mệnh của tôi vậy. Tôi choáng váng. Rõ ràng chiều qua sau khi lôi ra tôi đã cất vào hộp bút rồi cơ mà? Sao giờ lại không thấy đâu chứ? Tôi lục lọi khắp nơi cũng không thấy. Chẳng lẽ… Là Lan? Chiều qua chỉ có bạn ấy sang chơi với tôi…Ngày trước tôi khoe, Lan cũng thích cái bút ấy lắm. Nhưng…sao Lan lại làm thế? Lan biết rõ tôi quý cây bút ấy như nào mà? Thế nhưng tôi vẫn chạy sang nhà Lan và hỏi cho ra nhẽ. Lan một mực phủ nhận nhưng tôi không tin. Tôi không tìm thấy cây bút, mà Lan lại là người cuối cùng biết đến sự tồn tại của nó. Tôi đau lòng chứ, nhưng làm sao mà không giận cho được. Tôi nức nở chạy về nhà, bỏ mặc lời gọi của Lan phía sau lưng… Ngày hôm sau, tôi không chờ Lan cùng đi học nữa. Cả mấy ngày sau, vài tuần sau cũng vậy. Trên lớp, tôi tránh mặt Lan. Về đến nhà, tôi cũng không muốn gặp Lan nữa. Có lúc tôi bất chợt nhìn thấy ánh mắt buồn buồn của Lan đang nhìn mình. Tôi chợt mủi lòng. Nhưng nghĩ về bố mẹ, về cây bút mà tôi hằng yêu quý, tôi không thể nào tha thứ cho Lan… Mưa mấy ngày rồi mà không dứt. Tôi cám thấy mệt mỏi, đầu lại âm ấm sốt, thân thể rã rời. Tôi viết đơn xin nghỉ học rồi nhờ ngoại đưa cho bạn nộp giúp. Cả sáng hôm ấy tôi ê ấm trên giường không thể nào ăn uống được gì. Khát nước, tôi cố vực mình dậy với lấy cốc nước trên bàn. Quyển tập của tôi rơi xuồng, tôi cúi xuống nhặt và bất chợt thấy có cái gì đó sáng lóe lên trong tít cái gầm tủ quần áo bên cạnh. Tôi khều ra. Là cây bút màu đỏ! Đã vài tuần trôi qua rồi, cây bút vương đầy mạng nhện, thân đã hơi gỉ ra làm xước lớp sơn đỏ bao bên ngoài. Cây bút mà tôi đã đổ cho Lan lấy cắp đây ư? Chỉ vì…chỉ vì sự trẻ con của tôi…Chỉ vì không tìm kĩ mà tôi đã hiểu lầm người bạn đã gắn bó với mình suốt mấy năm trời. Tôi òa khóc nức nở rồi lịm đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi tôi tình giấc thì trời đã xế trưa. Tôi khó nhọc mở đôi mắt, đập vào mắt tôi là cô bạn thân bé nhỏ, đầu tóc vẫn còn vương nước mưa. Thấy tôi tỉnh, ánh mắt Lan reo lên sự mừng rỡ. Lan ôm chầm lấy tôi. – Hôm nay cậu nghỉ, cậu làm mình lo quá. Thấy cái Ngọc bảo cậu bị ốm mưa mà tớ lại không biết gì. Tớ có lỗi quá. Tôi òa khóc nức nở. Không biết tôi khóc vì xúc động hay xấu hổ nữa. Chỉ biết rằng tôi khóc rất to, rất lâu sau mới nín được. Tôi cầm chiếc bút, đưa cho Lan. – Mình xin lỗi…Do mình, do mình đã đổ lỗi cho cậu… Mình có lỗi nhiều lắm. Lan nhìn tôi âu yếm. Lan chẳng nói gì, nhưng tôi thấy bàn tay cậu ấy như đang siết mạnh vào bàn tay tôi. Thấm thoát đã mấy năm trôi qua. Từ bấy đến nay, tôi và Lan vẫn luôn là một đôi bạn thanh mai trúc mã thân thiết. Chúng tôi cùng nhau thi đỗ vào trường chuyên của Tỉnh, cùng nhau trọ một phòng trong kí túc xá, cùng nhau lóc cóc đạp xe lên phố đi học, cùng nhau trải qua những năm tháng cấp ba đẹp nhất. Cảm ơn trời đất đã ban phát cho tôi một người bạn quý giá như vậy. Cảm ơn Lan vì đã luôn bên cạnh và chăm sóc cho tôi! Trong cuộc sống của mỗi con người được sống và yêu thương trong vòng tay của gia đình, người thân là một điều vô cùng hạnh phúc, may mắn. Nhưng có một thứ tình cảm cũng vô cùng thiêng liêng và quan trọng sẽ theo ta đến hết cuộc đời này ấy chính là tình bạn. Tình bạn đi cùng chúng ta qua những năm tháng trưởng thành, có lẽ đẹp nhất ấy chính là tình bạn thuở học sinh vì đó là khoảng thời gian hồn nhiên, thơ ngây và chân thành không vương chút tạp niệm, vướng bận nhất. Tôi cũng đã có một tình bạn đẹp với kỉ niệm đáng nhớ sâu sắc cùng Vy- người bạn thân hồi cấp 2 của tôi. Đó là năm tôi học lớp 7 ở trường cấp hai của xã, hôm ấy là một ngày mùa thu trong trẻo, bầu trời xanh cao vời vợi- ngày đầu tiên tôi gặp Vy. Khi tiếng trống báo hiệu vào lớp vang lên chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi để chờ cô giáo vào như thường lệ. Nhưng hôm đó vào lớp không phải chỉ có mình cô mà đi cùng còn có một bạn nữ dong dỏng người, gương mặt bầu bĩnh đầy vẻ ngượng ngùng e thẹn. Chúng tôi lúc đó đều xôn xao, tò mò hỏi nhau không biết bạn ấy là ai. Để chấm dứt những thắc mắc của chúng tôi cô giáo đã mỉm cười dịu dàng rồi giới thiệu: -Đây là bạn Hải Vy, bạn mới chuyển từ trong TP Hồ Chí Minh ra và sẽ học cùng lớp chúng ta từ hôm nay. Vì bạn mới đến nên sẽ còn nhiều bỡ ngỡ chưa quen, chúng ta cùng giúp đỡ bạn nhé các em. Một tràng pháo tay vang lên, chúng tôi ai ai cũng vui vì lớp có thêm một người bạn mới rất dễ thương, tôi vẫn nhớ khi thấy chúng tôi vỗ tay Vy đã cười rất tươi không còn vẻ e thẹn bẽn lẽn như lúc đầu. Vì lúc đó bạn ngồi cạnh tôi mới chuyển lớp, chỗ bên cạnh tôi đang trống nên cô giáo đã xếp Vy xuống ngồi cạnh tôi. Thật bất ngờ lúc đó Vy đã không ngại ngùng mà bạn ấy mỉm cười rất dịu dàng bắt chuyện với tôi trước: -Chào cậu, mình tên là Hải Vy, từ hôm nay mình sẽ được học cùng các cậu rồi. – Ừ mình là Khánh Linh, rất vui được học cùng cậu. – Vậy từ nay chúng ta sẽ là bạn tốt nhé! – Nhất trí!
Trong cuộc sống này, ngoài tình thương, tình thân của gia đình, tình yêu giữa người với người thì còn tồn tại một thứ tình cảm cũng thiêng liêng không kém: tình bạn. Từ trước đến nay, ta đã gặp biết bao nhiêu tình bạn đẹp: tình bạn chí cốt giữa Lưu Bình và Dương Lễ, tình bạn giữa cụ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thuở nào, cho đến tình bạn giữa Hồ Chí Minh và Picasso,… Mỗi thời, mỗi tình bạn lại đem lại cho ta nhiều cảm xúc sâu lắng, nhưng cuối cùng tất cả ở lại, là sự khâm phục và kính trọng tới thứ tình cảm rất thiêng liêng ấy. Bài viết dưới đây là bài văn kể một kỉ niệm sâu sắc về tình bạn theo ngôi kể thứ nhất. Để làm được bài văn này, trước hết phải đảm bảo yêu cầu là kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” và tự kể lại kỉ niệm của mình. Cần kể chi tiết, cụ thể và sáng rõ những diễn biến của câu chuyện, đồng thời đan xen vào đó tình cảm chân thành của chính mình để bài viết thêm phần sâu sắc. Người ta thường nói, sống ở trên đời không thể nào không có bạn bè. Tôi nghĩ đúng là như thế. Nếu như tôi không có bạn bè, có lẽ bản thân cũng chỉ là một hạt cát cô đơn giữa lòng sa mạc, sẽ cảm thấy cô đơn và nhỏ bé đến chừng nào. Tôi may mắn hơn khi không biến mình thành một hạt cát, vì tôi biết bên cạnh tôi lúc nào cũng có Lan – cô bạn thân từ thuở còn thơ bé. Chơi với nhau đã lâu, kỉ niệm cũng đã nhiều nhưng có một kỉ niệm hồi lớp 5 làm tôi mãi không thể nào quên… Lan và tôi vốn gần nhà nhau, cho nên chúng tôi quấn quýt với nhau ngay những ngày đầu khi còn thơ bé. Chúng tôi chơi cùng nhau, học cùng nhau, đòi mẹ mua quần áo giống nhau. Người ngoài nhìn vào còn tưởng chúng tôi là hai chị em sinh đôi nữa. Chơi với Lan rất vui, bạn ấy hay nhường nhịn tôi, có gì cũng mang đến cho tôi. Tôi quý Lan nên có gì hay ho đều giấu rồi mang đến nhà Lan để hai đứa cùng thử. Đi qua hết những ngày lớp mẫu giáo, rồi qua hết cả những năm tháng Tiểu học, tôi với Lan gắn bó với nhau như hình với bóng. Thế mà rồi vào một ngày kia, tôi phát hiện ra mình bị mất cái bút máy màu đỏ – quà tặng của bố mẹ tôi trước lúc vào Nam công tác. Từ nhỏ, bố mẹ tôi đã đi làm ăn xa, cho nên tất cả những món quà bố mẹ tặng tôi đều rất trân trọng và coi như báu vật. Cây bút này cũng thế, Tôi cất kĩ nó vào hộp bút nhưng chẳng bao giờ dùng đến. Nó như một vật bất li thân, là bùa hộ mệnh của tôi vậy. Tôi choáng váng. Rõ ràng chiều qua sau khi lôi ra tôi đã cất vào hộp bút rồi cơ mà? Sao giờ lại không thấy đâu chứ? Tôi lục lọi khắp nơi cũng không thấy. Chẳng lẽ… Là Lan? Chiều qua chỉ có bạn ấy sang chơi với tôi…Ngày trước tôi khoe, Lan cũng thích cái bút ấy lắm. Nhưng…sao Lan lại làm thế? Lan biết rõ tôi quý cây bút ấy như nào mà? Thế nhưng tôi vẫn chạy sang nhà Lan và hỏi cho ra nhẽ. Lan một mực phủ nhận nhưng tôi không tin. Tôi không tìm thấy cây bút, mà Lan lại là người cuối cùng biết đến sự tồn tại của nó. Tôi đau lòng chứ, nhưng làm sao mà không giận cho được. Tôi nức nở chạy về nhà, bỏ mặc lời gọi của Lan phía sau lưng… Ngày hôm sau, tôi không chờ Lan cùng đi học nữa. Cả mấy ngày sau, vài tuần sau cũng vậy. Trên lớp, tôi tránh mặt Lan. Về đến nhà, tôi cũng không muốn gặp Lan nữa. Có lúc tôi bất chợt nhìn thấy ánh mắt buồn buồn của Lan đang nhìn mình. Tôi chợt mủi lòng. Nhưng nghĩ về bố mẹ, về cây bút mà tôi hằng yêu quý, tôi không thể nào tha thứ cho Lan… Mưa mấy ngày rồi mà không dứt. Tôi cám thấy mệt mỏi, đầu lại âm ấm sốt, thân thể rã rời. Tôi viết đơn xin nghỉ học rồi nhờ ngoại đưa cho bạn nộp giúp. Cả sáng hôm ấy tôi ê ấm trên giường không thể nào ăn uống được gì. Khát nước, tôi cố vực mình dậy với lấy cốc nước trên bàn. Quyển tập của tôi rơi xuồng, tôi cúi xuống nhặt và bất chợt thấy có cái gì đó sáng lóe lên trong tít cái gầm tủ quần áo bên cạnh. Tôi khều ra. Là cây bút màu đỏ! Đã vài tuần trôi qua rồi, cây bút vương đầy mạng nhện, thân đã hơi gỉ ra làm xước lớp sơn đỏ bao bên ngoài. Cây bút mà tôi đã đổ cho Lan lấy cắp đây ư? Chỉ vì…chỉ vì sự trẻ con của tôi…Chỉ vì không tìm kĩ mà tôi đã hiểu lầm người bạn đã gắn bó với mình suốt mấy năm trời. Tôi òa khóc nức nở rồi lịm đi vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi tôi tình giấc thì trời đã xế trưa. Tôi khó nhọc mở đôi mắt, đập vào mắt tôi là cô bạn thân bé nhỏ, đầu tóc vẫn còn vương nước mưa. Thấy tôi tỉnh, ánh mắt Lan reo lên sự mừng rỡ. Lan ôm chầm lấy tôi. – Hôm nay cậu nghỉ, cậu làm mình lo quá. Thấy cái Ngọc bảo cậu bị ốm mưa mà tớ lại không biết gì. Tớ có lỗi quá. Tôi òa khóc nức nở. Không biết tôi khóc vì xúc động hay xấu hổ nữa. Chỉ biết rằng tôi khóc rất to, rất lâu sau mới nín được. Tôi cầm chiếc bút, đưa cho Lan. – Mình xin lỗi…Do mình, do mình đã đổ lỗi cho cậu… Mình có lỗi nhiều lắm. Lan nhìn tôi âu yếm. Lan chẳng nói gì, nhưng tôi thấy bàn tay cậu ấy như đang siết mạnh vào bàn tay tôi. Thấm thoát đã mấy năm trôi qua. Từ bấy đến nay, tôi và Lan vẫn luôn là một đôi bạn thanh mai trúc mã thân thiết. Chúng tôi cùng nhau thi đỗ vào trường chuyên của Tỉnh, cùng nhau trọ một phòng trong kí túc xá, cùng nhau lóc cóc đạp xe lên phố đi học, cùng nhau trải qua những năm tháng cấp ba đẹp nhất. Cảm ơn trời đất đã ban phát cho tôi một người bạn quý giá như vậy. Cảm ơn Lan vì đã luôn bên cạnh và chăm sóc cho tôi! Trong cuộc sống của mỗi con người được sống và yêu thương trong vòng tay của gia đình, người thân là một điều vô cùng hạnh phúc, may mắn. Nhưng có một thứ tình cảm cũng vô cùng thiêng liêng và quan trọng sẽ theo ta đến hết cuộc đời này ấy chính là tình bạn. Tình bạn đi cùng chúng ta qua những năm tháng trưởng thành, có lẽ đẹp nhất ấy chính là tình bạn thuở học sinh vì đó là khoảng thời gian hồn nhiên, thơ ngây và chân thành không vương chút tạp niệm, vướng bận nhất. Tôi cũng đã có một tình bạn đẹp với kỉ niệm đáng nhớ sâu sắc cùng Vy- người bạn thân hồi cấp 2 của tôi. Đó là năm tôi học lớp 7 ở trường cấp hai của xã, hôm ấy là một ngày mùa thu trong trẻo, bầu trời xanh cao vời vợi- ngày đầu tiên tôi gặp Vy. Khi tiếng trống báo hiệu vào lớp vang lên chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi để chờ cô giáo vào như thường lệ. Nhưng hôm đó vào lớp không phải chỉ có mình cô mà đi cùng còn có một bạn nữ dong dỏng người, gương mặt bầu bĩnh đầy vẻ ngượng ngùng e thẹn. Chúng tôi lúc đó đều xôn xao, tò mò hỏi nhau không biết bạn ấy là ai. Để chấm dứt những thắc mắc của chúng tôi cô giáo đã mỉm cười dịu dàng rồi giới thiệu: -Đây là bạn Hải Vy, bạn mới chuyển từ trong TP Hồ Chí Minh ra và sẽ học cùng lớp chúng ta từ hôm nay. Vì bạn mới đến nên sẽ còn nhiều bỡ ngỡ chưa quen, chúng ta cùng giúp đỡ bạn nhé các em. Một tràng pháo tay vang lên, chúng tôi ai ai cũng vui vì lớp có thêm một người bạn mới rất dễ thương, tôi vẫn nhớ khi thấy chúng tôi vỗ tay Vy đã cười rất tươi không còn vẻ e thẹn bẽn lẽn như lúc đầu. Vì lúc đó bạn ngồi cạnh tôi mới chuyển lớp, chỗ bên cạnh tôi đang trống nên cô giáo đã xếp Vy xuống ngồi cạnh tôi. Thật bất ngờ lúc đó Vy đã không ngại ngùng mà bạn ấy mỉm cười rất dịu dàng bắt chuyện với tôi trước: -Chào cậu, mình tên là Hải Vy, từ hôm nay mình sẽ được học cùng các cậu rồi. – Ừ mình là Khánh Linh, rất vui được học cùng cậu. – Vậy từ nay chúng ta sẽ là bạn tốt nhé! – Nhất trí!
Truyện Kiều là một kiệt tác, tinh hoa của văn học Việt Nam. Mộng Liên Đường chủ nhân từng nhận xét về bút lực của Nguyễn Du: Mỗi trang viết đều như có máu chảy ra ở đầu ngọn bút, nếu không có con mắt nhìn thông sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy. Quả là như vậy, bằng tấm lòng bao la đồng cảm của mình, Nguyễn đã thương xót và trân trọng giá trị của nàng Kiều, đặc biệt đó là tình yêu thủy chung son sắt và đức hạnh của nàng. Đoạn trích Thề nguyền đã phần nào cho ta thấy được điều đó. Vậy thì hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài Thề nguyền để các bạn tham khảo nhé. Mời các bạn tham khảo bài soạn Thề nguyền dưới đây, mong rằng chúng sẽ giúp ích được cho các bạn ít nhiều nhé. Vị trí đoạn trích: trích từ câu 431 đến câu 452, nói về đêm thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng, hai người nguyện gắn bó thủy chung suốt đời. Bố cục: Câu 1 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Các từ vội, xăm xăm, băng mang hàm nghĩa:Thấy được tình cảm mãnh liệt, mạnh mẽ và tâm trạng vội vàng của Kiều hướng tới tình nhân, bước chân xăm xăm băng lối vườn khuya một mình ấy cũng giống như việc nàng bước qua lễ giáo phong kiến khắc nghiệt để đi theo tiếng gọi của tình yêu. Câu 2 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Không gian thơ mộng, thiêng liêng của cuộc thề nguyền: Câu 3 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)
The Tale of Kieu is a masterpiece, the quintessence of Vietnamese literature. The owner of Mong Lien Duong once commented on Nguyen Du's penmanship: Every written page is like blood flowing from the tip of the pen. Without the eyes to see through the six realms and the heart to think for a thousand lifetimes, how could there be anything? That pen power. Indeed, with his immense sympathy, Nguyen pitied and appreciated Kieu's value, especially her loyal love and virtue. The excerpt "The Oath" partly shows us that. So today I will help you prepare the Vow for your reference. Please refer to the Oath compilation below, hopefully it will be of some help to you. Excerpt location: excerpt from verses 431 to 452, talking about the vow night between Kieu and Kim Trong, the two of them vowed to be faithful for life. Layout: Question 1 (page 116 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The words hurry, rush, and ice carry the meaning: Seeing Kieu's intense, strong feelings and hasty mood towards her lover, her footsteps running through the garden late at night alone were just like her walking overcome harsh feudal rituals to follow the call of love. Question 2 (page 116 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The poetic and sacred space of the vows: Question 3 (page 116 Literature textbook Grade 10, Volume 2)
Trong tất cả các thể loại văn học, thuyết minh là một trong những thể loại quen thuộc với đời sống cũng như trong văn chương. Thuyết minh thường được dùng để mô tả đặc điểm, tính chất của một sự vật nào đó mà con người cần hiểu và biết về nó nhiều hơn. Thuyết minh giải đáp cho chúng ta nhiều điều về đặc điểm tính chất, nguyên lí cũng như hoạt động của vạn vật xung quanh chúng ta. Và văn thuyết minh không giống các thể loại khác, không đòi hỏi sự sáng tạo, hư cấu hay tưởng tượng như văn tự sự, không cần giàu cảm xúc và hàm nghĩa như thơ, văn thuyết minh cần sự chính xác, thực tiễn mà các thuyết minh mới thể hiện rõ đặc trưng của thể loại văn này. Để thâu tóm được toàn bộ nội dung và thông tin được biểu đạt thì học sinh cần biết tóm tắt một văn bản thuyết minh. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Tóm tắt văn bản thuyết minh lớp 10 hay nhất do chúng tôi dày công biên soạn để các em học sinh có thể tham khảo trong quá trình tìm hiểu và tóm tắt văn bản thuyết minh nhé Câu 1 trang 69 sgk ngữ văn 10 tập 2 a, Đối tượng: Nhà sàn, kiến trúc nhà độc đáo của người dân tộc vùng cao ở nước ta Các ý thuyết minh: b, Bố cục: Mở bài (đoạn 1): Giới thiêu và mục đích sử dụng của nhà sàn Thân bài (đoạn 2,3) Kết bài (còn lại) Đánh giá ngợi ca và nêu cảm nhận của bản thân về nhà san Việt Nam c, Tóm tắt văn bản thuyết minh Nhà sàn Nhà sàn là công trình kiến trúc được người dân xây dựng để ở hoặc với mục đích trưng bày. Vật liệu xây dựng nhà sàn đều bắt nguồn từ thiên nhiên như gỗ, tre, nứa,.. Nhà sàn cấu trúc gồm mặt sàn, gầm sàn, ba khoang lớn nhỏ, hai bên câu thang được sử dụng tùy vào mục đích và thẩm mỹ của người ở. Nhà sàn là cách thức dựng nhà chủ yếu ở vùng cao của những người dân tộc thiểu số có từ thời Đá mới. Nó có rất nhiều tiện tích phù hợp với địa bàn cư trú và khí hậu. Nhà sàn ở miền núi Việt Nam hiện nay đã dduwwojc cải tiếng đạt đến trình độ cao và trở thành nơi hấp dẫn khách du lịch. Câu 2 trang 70 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Câu 1 trang 71 sgk ngữ văn lớp 10 tập 2 a, Đối tượng văn bản thuyết minh: Nhà thơ Ba-sô và thơ hai-cư b, Bố cục văn bản: c, Đoạn văn tóm tắt phần thuyết minh về thơ hai-cư Thơ hai-cư có số từ vào loại ngắn nhất, thường chỉ có 17 âm tiết, được ngắt làm ba đoạn theo thứ tự 5 âm – 7 âm – 5 âm. Mỗi bài thơ đều có một tứ thơ nhất định, tả phong cảnh đế khơi gợi cảm xúc, suy tư. Về ngôn ngữ, hai-cư không cụ thể hóa sự vật, mà thường chỉ dùng những nét chấm phá, chừa ra rất nhiều khoảng trống cho trí tưởng tượng của người đọc. Thơ hai-cư là một đóng góp rất lớn của Nhật Bản vào kho tàng văn hóa nhân loại. Câu 2 trang 72 sgk ngữ văn lớp 10 tập 2 a,
Among all literary genres, exposition is one of the genres familiar to life as well as literature. Explanation is often used to describe the characteristics and properties of something that people need to understand and know more about. The explanation explains many things to us about the characteristics, principles and operations of everything around us. And expository writing is not like other genres, it does not require creativity, fiction or imagination like narrative writing, it does not need to be rich in emotion and meaning like poetry, expository writing needs precision and practicality. The new explanations clearly demonstrate the characteristics of this genre of writing. To grasp the entire content and information expressed, students need to know how to summarize an expository text. Below are instructions for preparing the best summary of expository text for grade 10, which we painstakingly compiled so that students can refer to it in the process of learning and summarizing expository text. Question 1, page 69, grade 10 literature textbook, part 2 ah, Subject: Stilt houses, unique house architecture of highland ethnic people in our country Explanatory notes: b, Layout: Introduction (paragraph 1): Introduction and uses of stilt houses Body (paragraphs 2,3) Conclusion (remaining) Rate and praise and state your own feelings about the Vietnamese magazine c, Summary of explanatory text about Stilt House Stilt houses are architectural works built by people for living or for display purposes. Materials for building stilt houses all come from nature such as wood, bamboo, etc. Stilt houses are structured with a floor surface, under the floor, three large and small compartments, and stairs on both sides that are used depending on the purpose and aesthetic. beauty of the residents. Stilt houses are the main way of building houses in the highlands of ethnic minorities since the Neolithic period. It has many amenities suitable for the residential area and climate. Stilt houses in the mountainous areas of Vietnam have now been improved to a high level and have become an attractive place for tourists. Question 2, page 70, grade 10 literature textbook, volume 1 Question 1, page 71, grade 10 literature textbook, volume 2 a, Subject of explanatory text: Poet Ba-so and hai-cu poetry b, Text layout: c, Paragraph summarizing the explanation of hai-cu poetry Hai-cu poetry has the shortest number of words, usually only 17 syllables, broken into three paragraphs in the order of 5 syllables - 7 syllables - 5 syllables. Each poem has a certain quatrain, describing the landscape to evoke emotions and thoughts. Regarding language, hai-cu does not concretize things, but often only uses touches, leaving a lot of space for the reader's imagination. Haiku poetry is a huge contribution of Japan to the cultural treasure of humanity. Question 2, page 72, grade 10 literature textbook, volume 2 ah,
Thời đại ngày nay, quản cáo đã là một việc mà không thể thiếu đối với bất kì một công việc gì. Có lẽ chúng ta đã quá quen với những biển quảng cáo, mấu tin quảng cáo, bảng tin quảng cáo, chương trình quảng cáo,… vì chúng xuất hiện hàng ngày, hàng giờ xung quanh chúng ta, ở khắp mọi nơi. Vì vậy việc tìm hiểu về quảng cáo và việc học viết một bản tin quảng cáo cũng là điều không thể thiếu trong việc học ngày nay. Sau đây chúng ta sẽ cùng đến với bài Viết Quảng cáo trong chương trình ngữ văn lớp 10 tập 2 vào những ngày cuối năm để tinh thần được thoải mái nhé. Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Viết Quảng Cáo đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài học này. 1. Vai trò của quảng cáo a) Nội dung quảng cáo của: b) Các văn bản trên thường được gặp ở: khu thương mại, bệnh viện, các trung tâm văn hoá, kinh tế, khu vui chơi,… c) Một vài văn bản cùng loại: 2. Yêu cầu chung của văn bản quảng cáo: a) Trả lời câu hỏi thảo luận nhóm: b) Những mặt chưa đạt yêu cầu: Một số yêu cầu của văn bản quảng cáo: 1. Xác định nội dung cơ bản của quảng cáo sản phầm rau sạch So với rau bình thường thì nó ưu việt hơn về các mặt: 2. Hình thức quảng cáo Câu 1 trang 145 SGK văn 10 tập 2 Phân tích tính súc tích, hẫn dẫn và tác dụng kích thích tâm lí khách hàng của những quảng cáo trên: Những quảng cáo trên dung lượng ngắn, số câu ít, câu từ ngắn gọn, súc tích, người nghe dễ tiếp thu.
In this day and age, advertising is indispensable for any job. Perhaps we are too familiar with billboards, advertising bulletins, advertising bulletin boards, advertising programs, etc. because they appear every day, every hour around us, everywhere. Therefore, learning about advertising and learning to write an advertising newsletter is also indispensable in today's learning. Next we will come to the Advertising Writing lesson in the 10th grade literature program, part 2 in the last days of the year to help you mentally relax. Below is the best complete Guide to Writing Advertising Writing for grade 10 for you to refer to and learn about this lesson. 1. The role of advertising a) Advertising content of: b) The above documents are often found in: commercial areas, hospitals, cultural and economic centers, amusement parks, etc. c) Some documents of the same type: 2. General requirements of advertising documents: a) Answer group discussion questions: b) Unsatisfactory aspects: Some requirements of advertising text: 1. Determine the basic content of advertising for clean vegetable products Compared to normal vegetables, it is superior in the following aspects: 2. Form of advertising Question 1, page 145, grade 10 literature textbook, part 2 Analyze the conciseness, attractiveness and psychological stimulation effect of the above advertisements: The above advertisements are short in size, have a small number of sentences, short and concise sentences, and are easy for listeners to absorb.
Văn nghị luận xã hội đòi hỏi kĩ năng lập luận, giải thích khá nhuần nhuyễn và không phải ai cũng làm được điều đó, tuy nhiên nếu như luyện tập nhiều thì chắc chắn các bạn sẽ có thể viết được rất hay và thuyết phục. Bởi vậy, hôm nay hãy thử luyện tập viết đoạn văn nghị luận nhé. Mình sẽ giúp các bạn soạn bài Luyện tập viết đoạn văn nghị luận lớp 10 để các bạn tham khảo và có cái nhìn rõ nét hơn về việc viết đoạn văn nghị luận nhé. Mong rằng bài viết này sẽ giúp đỡ được các bạn ít nhiều trong việc viết đoạn văn nghị luận để các bạn học tập tiến bộ hơn. Hãy cố gắng vạch ý và triển khai mạch lập luận rõ ràng, ngôn ngữ khoa học nhưng vẫn giàu cảm xúc cho việc viết đoạn văn nghị luận nhé. Đề bài: Sách mở ra trước mắt tôi chân trời mới. Viết đoạn phần mở bài. M.Goroki từng nói như này: Mỗi cuốn sách như nấc thang nhỏ mà khi bước lên tôi tách khỏi phần thú và đến gần hơn với phần người. Quả đúng như vậy, bởi sách mở ra trong chúng ta những chân trời mới, chân trời của chân-thiện-mĩ, để tahnh lọc và làm giàu tâm hồn con người. Hãy yêu sách. Đó là chân trời của các bạn đó.
Social argument writing requires quite fluent reasoning and explanation skills and not everyone can do that, but if you practice a lot, you will definitely be able to write very well and convincingly. Therefore, today let's try to practice writing an argumentative paragraph. I will help you prepare a practice essay on writing argumentative paragraphs for grade 10 so that you can refer to it and have a clearer view of writing an argumentative paragraph. Hopefully this article will help you a little in writing argumentative paragraphs so that you can improve your studies. Try to outline and develop a clear argument, scientific but still emotional language for writing argumentative paragraphs. Topic: Books opened up new horizons before my eyes. Write an introductory paragraph. M.Goroki once said: Each book is like a small staircase that when I step on it, I separate from the animal part and get closer to the human part. That's right, because books open up new horizons for us, the horizon of truth, goodness, and beauty, to purify and enrich the human soul. Love books. That is your horizon.
Tiếng Việt là một trong ba phần quan trọng của chương trình ngữ văn 10 bên cạnh phần Văn và Tập làm văn. Bài Ôn tập tiếng Việt cuối chương trình sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan và khái quát nhất về các kiến thức tiếng Việt trong cả năm, đồng thời củng cố lại kiến thức một lần nữa. Trong bài Ôn tập tiếng Việt này, chúng ta sẽ khái quát về lịch sử tiếng Việt: nguồn gốc, quan hệ họ hàng, lịch sử phát triển và chữ viết của tiếng Việt, hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và hai phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuật. Qua việc ôn tập tiếng Việt, chúng ta sẽ hệ thống hóa nội dung kiến thức phần tiếng Việt lớp 10 để củng cố và nâng cao nhận thức. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Ôn tập tiếng Việt lớp 10 Câu 1 trang 138 SGK văn 10 tập 2: Câu 2 trang 138 SGK văn 10 tập 2: Hoàn cảnh và điều kiện sử dụng Các yếu tố phù trợ Đặc điểm chủ yếu về từ và câu Ngôn ngữ nói Người nói, người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau Từ khẩu ngữ, địa phương, tiếng lóng, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ Lời nói giao tiếp hàng ngày, ít có điều kiện lựa chọn, gọt giũa ngôn ngữ, câu tỉnh lược Ngôn ngữ viết Thể hiện bằng chữ viết, tiếp nhận bằng thị giác Hệ thống dấu câu, bảng biểu, kí hiệu, hình ảnh, sơ đồ Suy ngẫm, lựa chọn, gọt giũa ngôn ngữ, tính chính xác cao Câu 3 trang 138 SGK văn 10 tập 2: Những đặc điểm cơ bản của văn bản: Phân tích qua bài Cảnh ngày hè: Câu 4 trang 139 SGK văn 10 tập 2: PCNN sinh hoạt PCNN nghệ thuật Tính cụ thể Tính cảm xúc Tính cá thể Tính hình tượng Tính truyền cảm Tính cá thể hóa Câu 5 trang 139 SGK văn 10 tập 2: a. Trình bày khái quát về: Nguồn gốc của tiếng Việt: thuộc họ Nam Á, gắn bó với quá trình ra đời và phát triển của dân tộc Việt Quan hệ họ hàng của tiếng Việt: có quan hệ gần gũi với tiếng Mường, quan hệ họ hàng xa với tiếng Môn- Khơ- me, quan hệ láng giềng với các ngôn ngữ như Tày- Thái, Mã Lai- Nam Đảo Lịch sử phát triển của tiếng Việt b. Kể tên một số tác phẩm văn học Việt Nam Câu 6 trang 139 SGK văn 10 tập 2: Về ngữ âm, chữ viết Về từ ngữ Về ngữ pháp Về phong cách ngôn ngữ Cần phát âm đúng chuẩn Cần viết đúng chuẩn chính tả và quy định chữ viết Dùng đúng âm thanh và cấu tạo của từ Dùng đúng nghĩa của từ Dùng đúng đặc điểm ngữ pháp của từ Câu cần đúng ngữ pháp Câu cần đúng về quan hệ ý nghĩa Câu cần có dấu câu thích hợp Câu liên kết với nhau bằng ý nghĩa Đoạn và văn bản có kết cấu mạch lạc, chặt chẽ Sử dụng phong cách ngôn ngữ phù hợp với phong cách ngôn ngữ của văn bản
Vietnamese is one of three important parts of the 10th grade literature program, besides Literature and Writing Practice. The Vietnamese Review lesson at the end of the program will help us have the most comprehensive overview of Vietnamese language knowledge throughout the year, while reinforcing our knowledge once again. In this Vietnamese Review lesson, we will overview the history of Vietnamese: origin, kinship, development history and writing of Vietnamese, language communication activities and two language styles. living language and art. Through reviewing Vietnamese, we will systematize the content of knowledge of grade 10 Vietnamese to consolidate and raise awareness. Below, I will guide you in preparing the Vietnamese Review lesson for grade 10 Question 1, page 138, Textbook Grade 10, Part 2: Question 2, page 138, Textbook Grade 10, Part 2: Circumstances and conditions of use Supporting factors Main characteristics of words and sentences Spoken language The speaker and listener are in direct contact with each other From oral, local, slang, facial expressions, gestures, gestures In daily communication, there are few opportunities to choose and refine language and simple sentences Written language Expressed in writing, received visually Punctuation system, tables, symbols, images, diagrams Pondering, choosing, honing language, high accuracy Question 3, page 138, Textbook Grade 10, Part 2: Basic features of the text: Analysis through the article Summer day scene: Question 4, page 139, Textbook Grade 10, Part 2: PCNN activities PCNN art Specificity Emotionality Individuality Iconicity Inspiration Personalization Question 5, page 139, Textbook Grade 10, Part 2: a. Brief presentation of: Origin of Vietnamese: belongs to the South Asian family, closely associated with the birth and development of the Vietnamese people Kinship relationship of Vietnamese: close relationship with Muong language, distant relationship with Mon-Khmer language, neighbor relationship with languages ​​such as Tay-Thai, Malay-Austronesian History of development of Vietnamese b. Name some Vietnamese literary works Question 6, page 139, Textbook Grade 10, Part 2: About phonetics and writing About words About grammar About language style Need to pronounce correctly Need to write according to spelling standards and handwriting regulations Use correct sounds and word structures Use the correct meaning of the word Use the correct grammatical characteristics of the word The sentence needs to be grammatically correct The sentence needs to be correct about the meaningful relationship Sentences should have appropriate punctuation Sentences are linked together by meaning Paragraphs and texts have a coherent and tight structure Use a language style that matches the language style of the text
Trong đời sống cũng như trong văn chương, nghị luận là một hình thức quen thuộc và phổ biến trong mọi hoàn cảnh, tình huống khác nhau. Nhưng nghị luận trong văn chương lại sử dụng bằng ngôn ngữ viết, dùng trên văn bản nên có tính mạch lạc và đòi hỏi sự trình bày kĩ hơn bằng các thao tác nghị luận cơ bản. Thường các thao tác nghị luận là quá trình khai triển lí lẽ bằng tư duy nhằm mục đích lí giải và cắt nghĩa những vấn đề cần bàn luận. Chính vì vậy, để hoàn chỉnh một bài văn nghị luận thì các thao tác lập luận là điều quan trọng và cần thiết nhất. Cụ thể chương trình ngữ văn lớp 10 sẽ giúp các bạn học sinh tìm hiểu và học sâu hơn về các thao tác nghị luận. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Các thao tác nghị luận lớp 10 hay nhất do biên soạn để các bạn tham khảo thêm nhé. Câu 1 trang 131 sgk ngữ văn lớp 10 tập 2 Câu 2 trang 131 sgk ngữ văn lớp 10 tập 2 1, Các thao tác lập luận: a, Các thao tác b, Nhận xét 2. Thao tác so sánh a, Trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tác giả đã sử dụng thao tác so sánh để có thể nhìn ra sự khác nhau và giống nhau của tinh thần yêu nước b, Trong đoạn văn bàn về việc so sánh đức nhà Lí và nhà Lê nhằm mục đích nhấn mạnh sự khác biệt giữa vua Lý Thái Tổ và Lê Đại Hành qua việc “dẹp gian bên trong, đánh giặc bên ngoài” và “ân uy rõ rệt, lòng người vui vẻ suy tôn, làm cho vận nước lâu dài” c, Vẫn còn nhiều nghi ngờ và thắc mắc xoay quanh thao tác lập luận so sánh nhưng điều đó đúng vì so sánh không thể đảm bảo được sự tương đồng hoặc tương phản hoàn toàn nó chỉ có thể mở rộng và làm sâu vấn đề hơn. Để sử dụng thao tác lập luận so sánh ta cần chú ý Câu 1 trang 134 sgk ngữ văn lớp 10 tập 2 Tác giả muốn chứng minh “thơ Nôm Nguyễn Trãi đã tiếp thụ nhiều thành tựu của văn hóa dân gian, văn học dân gian”
In life as well as in literature, discussion is a familiar and popular form in all different circumstances and situations. But argument in literature is used in written language, used in text, so it is coherent and requires more detailed presentation using basic argumentative operations. Often discussion operations are the process of developing arguments through thinking for the purpose of explaining and explaining the issues that need to be discussed. Therefore, to complete an argumentative essay, argumentative operations are the most important and necessary. Specifically, the grade 10 literature program will help students learn and learn more deeply about argumentative operations. Below are instructions for preparing the best grade 10 discussion exercises compiled by you for your further reference. Question 1, page 131, grade 10 literature textbook, volume 2 Question 2, page 131, grade 10 literature textbook, volume 2 1, Argument operations: a, Operations b, Comments 2. Comparison operation a. In the article Patriotism of our people, the author used comparison to see the differences and similarities of patriotism. b, In the passage discussing the comparison of the virtues of the Ly and Le dynasties, the purpose is to emphasize the difference between King Ly Thai To and Le Dai Hanh through "clearing internal troubles, fighting external enemies" and "graceful authority". clearly, people's hearts are happy to worship, making the country's fortunes last long." c, There are still many doubts and questions surrounding the comparative argument operation, but that is true because comparison cannot guarantee complete similarity or contrast, it can only expand and deepen the problem. . To use comparative reasoning operations, we need to pay attention Question 1, page 134, grade 10 literature textbook, volume 2 The author wants to prove that "Nguyen Trai's Nom poetry has absorbed many achievements of folk culture and folk literature."
Một văn bản văn học hay thì cần có sự hòa hợp đặc biệt về cả nội dung và hình thức, thiếu đi một trong hai yếu tố thì văn bản sẽ mất đi rất nhiều những giá trị mà nó nên có. Hiểu được điều này, trong chương trình ngữ văn lớp 10 chúng ta có một bài học về Nội dung và hình thức của văn bản văn học. Bài này sẽ giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về những đặc điểm về nội dung, hình thức của một văn bản văn học và đặc biệt là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của văn bản văn học. Sau đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Nội dung và hình thức của văn bản văn học đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài này. Câu 1 trang 130 SGK văn 10 tập 2 Đề tài của văn bản văn học là lĩnh vực đời sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình giá và thể hiện trong văn bản. Ví dụ: Câu 2 trang 130 SGK văn 10 tập 2 Chủ đề là vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. Chủ đề thể hiện điều quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống. Ví dụ: Câu 3 trang 130 SGK văn 10 tập 2 Câu 4 trang 130 SGK văn 10 tập 2 Ý nghĩa quan trọng của nôi dung và hình thức trong văn bản văn học: Câu 1 trang 130 SGK văn 10 tập 2 So sánh đê tài của hai văn bản văn học ”Tắt đèn” của Ngô Tất Tó và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan: Khác nhau: Nội dung phản ánh:
A good literary text needs a special harmony in both content and form. Without either element, the text will lose many of the values ​​it should have. Understanding this, in the 10th grade literature program we have a lesson on Content and form of literary texts. This article will help us understand more about the characteristics of content and form of a literary text and especially the relationship between content and form of a literary text. The following is the Lesson Preparation Instructions for the Content and Form of the best complete literary text for grade 10 here for you to refer to and learn about this lesson. Question 1, page 130, grade 10 literature textbook, part 2 The topic of a literary text is the area of ​​life that the writer perceives, selects, generalizes, evaluates, and expresses in the text. For example: Question 2, page 130, grade 10 literature textbook, part 2 Theme is the basic issue raised in the text. The theme shows the writer's concern and depth of perception towards life. For example: Question 3, page 130, grade 10 literature textbook, part 2 Question 4, page 130, grade 10 literature textbook, part 2 The important meaning of content and form in literary texts: Question 1, page 130, grade 10 literature textbook, part 2 Compare the themes of two literary texts "Turn off the lights" by Ngo Tat To and "The Last Step" by Nguyen Cong Hoan: Different: Content reflects:
Phép điệp là biện pháp lặp lại một yếu tố diễn đạt (ngữ âm, từ, câu) để nhấn mạnh ý nghĩa và cảm xúc, nâng cao khả năng biểu cảm, gợi hình cho lời văn. Còn Phép đối (còn gọi là đối ngữ) là cách sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, các thành phần câu, vế câu song song, cân đối trong lời nói nhằm tạo hiệu quả diễn đạt: nhấn mạnh, gợi liên tưởng, gợi hình ảnh sinh động, tạo nhịp điệu cho lời nói. Phép điệp và phép đối là hai biện pháp tu từ quan trọng góp phần tăng hiệu quả biểu đạt của văn bản văn học. Qua bài học “Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối” chúng ta sẽ làm các bài tập thực hành nhận diện và phân tích hiệu quả biểu đạt của chúng để từ đó nâng cao kiến thức về phép điệp và phép đối. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối” 1. Câu 1 (trang 124 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): a. Lặp “nụ tầm xuân”: Lặp lại cụm từ chim vào lồng, cá mắc câu : b. Các câu đó chỉ có hiện tượng lặp từ, không phải phép điệp. Nó tạo tính đối xứng và nhịp điệu cho câu văn. c. Định nghĩa phép điệp: (Cây tre Việt Nam – Thép Mới) Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu. “ (Chinh phụ ngâm – Đặng trần Côn) Leo phải cành cụt leo ra leo vào Con kiến mà leo cành đào Leo phải cành cụt leo vào leo ra “ a. Ở ngữ liệu (1) và (2) cách xếp từ ngữ ở thế cân xứng nhau. Sự phân chia thành hai vế cân dối được gắn kết lại nhờ phép đối. Vị trí của các danh từ, tính từ, động từ tạo thế cân đối hoàn chỉnh, nhịp nhàng. Trong ngữ liệu (3) cách đối là trong phạm vi một câu thơ (câu bát). Trong ngữ liệu (4) vế đối nằm ở hai câu liền kề nhau. b. Ví dụ “Uốn lưỡi cú diều mà chửi mắng triều đình.” “Đem thân dế chó mà bắt nạt tể phụ.” “ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.” “Người quốc sắc, kẻ thiên tài Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.” “Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà.” (Qua Đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan) Giàu có thiếu gì tiền, đi một vài quan không phải lẽ; Sang không thì ra bạc, gửi năm ba chữ gọi là tình. {Mừng đám cưới – Nguyễn Khuyến) “Con có cha như nhà có nóc Con không cha như nòng nọc đứt đuôi” c. Định nghĩa về phép đối: Phép đôi là cách sắp xếp từ ngữ, cụm từ và câu ở vị trí cân xứng nhau để tạo hiệu quả giống nhau hoặc trái ngược nhau nhằm mục đích gợi ra một vẻ đẹp hoàn chỉnh và hài hòa trong diễn đạt nhằm diễn đạt một ý nghĩa nào đó. a. Phép đối trong tục ngữ tạo sự hài hòa, cân đối và giúp cho việc diễn đạt ý được khái quát và cô đọng, dễ nhớ, dễ thuộc. b. Không thể dễ dàng thay thế các từ vì các từ trong một câu tục ngữ thường thuộc một kiểu đối nào đó. VD: từ “bán” và từ “mua” nằm trong phép đối từ loại và đối ý. c. Thông thường, phép đối phải dựa vào những biện pháp ngôn ngữ về vần, từ và câu đi kèm, đặc biệt là những biện pháp ngôn ngữ về từ và câu. d. Tục ngữ ngắn mà khái quát được hiện tượng rộng, người không học mà cũng nhớ, không có ý ghi lại mà vẫn được lưu truyền; điều đó có được là nhờ tục ngữ sử dụng từ ngữ hình ảnh có sức khái quát và giàu tính biểu tượng. Tục ngữ thường có vần, có nhịp, đặc biệt là sử dụng phép đối nên dễ đọc, dễ nhớ. 3. Câu 3 (trang 126 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Tìm mỗi kiểu đối một ví dụ: “Say rượu say thơ, say mà tỉnh, Say tình say nghĩa, tỉnh mà say.” ” Khi sao phong gấm rủ là
Alliteration is a method of repeating an expressive element (phonetics, words, sentences) to emphasize meaning and emotion, enhancing the expressiveness and imagery of the text. Parallelism (also known as opposition) is the way of using parallel and balanced words, images, sentence components, and clauses in speech to create expressive effects: emphasis, evoking associations, Evoking vivid images and creating rhythm for speech. Alliteration and parallelism are two important rhetorical devices that contribute to increasing the expressive effectiveness of literary texts. Through the lesson "Practicing rhetorical figures: alliteration and opposition" we will do exercises to practice identifying and analyzing their expressive effectiveness to thereby improve our knowledge of alliteration and opposition. . Below I will guide you to prepare the lesson "Practice rhetoric: alliteration and parallelism" 1. Sentence 1 (page 124 Literature textbook Grade 10, Volume 2): a. Repeat "spring bud": Repeat the phrase "bird in a cage, fish on a hook": b. Those sentences only have repetition, not repetition. It creates symmetry and rhythm for sentences. c. Definition of spell: (Vietnamese Bamboo – New Steel) Moon cages flowers, each flower blooms. Moonflower, moonflower, moonflower, Where are the flowers under the moon in my heart? “ (Conqueror's father soaking - Dang Tran Con) Climbing on dead branches to climb in and out An ant climbing a peach branch Climb on a dead branch, climb in and climb out. a. In the corpus (1) and (2), the word arrangement is symmetrical. The division into two balanced sides is linked through opposition. The position of nouns, adjectives, and verbs creates complete, rhythmic balance. In the corpus (3), the parallelism is within the scope of a verse (eight verse). In corpus (4), the opposite clause is in two adjacent sentences. b. For example “Bend your tongue and scold the court.” "Use your body to bully the lord." “Tu Trieu, Dinh, Ly, and Tran for many generations built independence. Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side is strong in its own direction." “People of national identity, people of genius The love inside is the same, the outside is still afraid.” "Hoop down under the mountain to hang out a few trees, Few sporadic riverside home market." (Through Ngang Pass - Ba Huyen Thanh Quan) If you're rich, you don't have much money, so it's not right to go to a few places; If you don't turn up, you'll get money. If you send five or three words, it's called love. {Wedding celebration – Nguyen Khuyen) “Having a father is like a house having a roof A child without a father is like a tadpole with its tail cut off." c. Definition of opposition: Parallelism is a way of arranging words, phrases and sentences in symmetrical positions to create the same or opposite effect with the aim of evoking a complete beauty and harmony in expression to express an idea. some meaning. a. Parallelism in proverbs creates harmony, balance and helps express ideas in a general and concise manner, making them easy to remember and memorize. b. Words cannot be easily replaced because the words in a proverb are usually of some kind. For example: the word "sell" and the word "buy" are in the conjunction of type and opposite. c. Normally, parallelism must rely on linguistic measures of rhyme, words and accompanying sentences, especially linguistic measures of words and sentences. d. Proverbs are short but generalize a wide phenomenon. People who don't learn them still remember them. They don't mean to record them but are still passed down; That is thanks to proverbs using words and images that are general and rich in symbolism. Proverbs often rhyme, have rhythm, and especially use parallelism, so they are easy to read and remember. 3. Question 3 (page 126 Literature textbook Grade 10, Volume 2): Find each type for each type, for example: “Drunk and drunk on poetry, drunk but awake, Drunk with love, drunk with meaning, drunk with sleep." ” When the maple star is drooping
Hàng ngày, chúng ta được tiếp xúc, đọc nhiều loại văn bản: miêu tả, tự sự, thuyết minh, nghị luận,… trong đó, có 1 số văn bản được gọi là văn bản văn học. Vậy Văn bản văn học là gì? Bài học “Văn bản văn học”, sẽ giúp chúng ta tìm hiểu các tiêu chí để xác định và trả lời câu hỏi đó. Qua bài học chúng ta nắm được các tiêu chí chủ yếu của 1 văn bản văn học theo quan niệm ngày nay, nắm được cấu trúc của văn bản văn học với các tầng: ngôn từ, hình tượng, hàm nghĩa. Chúng ta sẽ biết vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu tác phẩm văn học. Để từ đó mỗi cá nhân biết trân trọng hơn giá trị văn học nước nhà. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Văn bản văn học”. Câu ca dao không chỉ mang nghĩa tả thực. “Tre non đủ lá” chỉ người đã trưởng thành, đủ tuổi, đủ lớn ; “đan sàng” có ám chỉ chuyện kết duyên, cưới xin. Câu ca dao là lời ngỏ ý của chàng trai hỏi cô gái có thuận tình đợi chàng mối lái chưa. Hàm nghĩa của văn bản văn học là ý nghĩa ẩn kín, nghĩa tiềm tàng của văn bản. Đó là những điều nhà văn gửi gắm, tâm sự, kí thác, những thể nghiệm về cuộc sống. VD: “Truyện Kiều” không chỉ kể lại câu chuyện về nàng Kiều mà còn ẩn trong đó sự phản ánh về bộ mặt thật của xã hội phong kiến đương thời, đồng thời bày tỏ sự thương xót với nỗi khổ người nông dân đặc biệt người phụ nữ. 1. Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): a. Cấu trúc giống nhau- đối xứng nhau: b. “Nơi dựa”- nghĩa hàm ẩn: nơi dựa tinh thần- nơi con người tìm thấy niềm vui và ý nghĩa cuộc sống. Khuyên chúng ta: 2. Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): a. Câu 1,2,3,4:Sức tàn phá của thời gian. Chiếc lá- ẩn dụ chỉ đời người, sự sống. Kỉ niệm của đời người theo thời gian- Tiếng hòn sỏi rơi vào lòng giếng cạn. Câu thơ, bài hát “biểu tượng chỉ văn học nghệ thuật. “tinh khôi, tươi trẻ. b. Ý nghĩa bài thơ: Thời gian xóa nhòa tất cả, tàn phá cuộc đời con người, tàn phá sự sống. Nhưng chỉ có Văn học nghệ thuật và kỉ niệm về tình yêu là có sức sống lâu dài. 3. Câu 3 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): a. Mối quan hệ khăng khít giữa tác giả- bạn đọc: b. Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy
Every day, we are exposed to and read many types of texts: descriptions, narratives, explanations, discussions,... of which some are called literary texts. So what is literary text? The lesson "Literary Text" will help us learn the criteria to determine and answer that question. Through the lesson, we grasp the main criteria of a literary text according to today's concept, grasp the structure of a literary text with its layers: language, images, connotations. We will know how to apply the above knowledge to understand literary works. From there, each individual can better appreciate the value of our country's literature. Below I will guide you in preparing the lesson "Literary Text". The folk song does not only have a descriptive meaning. "Young bamboo with enough leaves" refers to a person who is mature, old enough, and old enough; "Weaving" refers to getting married or getting married. The folk song is the boy's request to ask if the girl is willing to wait for the matchmaker. The meaning of a literary text is the hidden meaning, the potential meaning of the text. Those are the things the writer confides, confides, confides, and experiences about life. For example: "The Tale of Kieu" not only tells the story of Kieu but also contains a reflection of the true face of contemporary feudal society, while also expressing compassion for the suffering of farmers, especially farmers. woman. 1. Sentence 1 (page 121 Literature textbook Grade 10, Volume 2): a. Same structure - symmetrical: b. "Place of support" - implicit meaning: spiritual place of support - where people find joy and meaning in life. Advise us: 2. Question 2 (page 121 Literature Textbook Grade 10, Volume 2): a. Verses 1,2,3,4: The destructive power of time. Leaf - a metaphor for human life, life. Memories of life over time - The sound of a pebble falling into a dry well. Poems and songs “symbolize literature and art. “Pure, youthful. b. Meaning of the poem: Time erases everything, destroys human life, destroys life. But only Literature and Arts and memories of love have lasting vitality. 3. Question 3 (page 121 Literature textbook Grade 10, Volume 2): a. The close relationship between author and reader: b. I send ashes, I light them into a fire
“Truyện Kiều” là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam, cũng nhờ có kiệt tác này mà Nguyễn Du được coi là danh nhân văn hóa. Mỗi người Việt chúng ta có thể tự hào với thế giới rằng chúng ta có một đại thi hào tài ba Nguyễn Du và kiệt tác truyện thơ “Truyện Kiều’. hầu hết tất cả các trích đoạn trong “truyện Kiều” đều tiêu biểu cho những nội dung ý nghĩa mà nó biểu đạt, có giá trị cao cả về mặt tư tưởng lẫn giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ. Một trong những trích đoạn tiêu biểu của “Truyện Kiều” chính là đoạn “Chí khí anh hùng” xuất hiện trong chương trình ngữ văn 10 tập 2. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Chí khí anh hùng lớp 10. Việc soạn bài là bước chuẩn bị cần thiết trước khi lên lớp. Câu 1 trang 114 SGK ngữ văn 10 tập 2: Hàm nghĩa các cụm từ: Nguyễn Du dùng hai cụm từ trên để thể hiện tầm vóc phi thường của người anh hùng Từ Hải Những từ ngữ thể hiện sự trân trọng và kính phục của Nguyễn Du: trượng phu, long bốn phương, mặt phi thường, thoắt.. Câu 2 trang 114 SGK ngữ văn 10 tập 2: Từ Hải bộc lộ lí tưởng của mình qua lời nói với Thúy Kiều: “Từ rằng: tâm phúc tương tri ……. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” Qua ngôn ngữ của Từ Hải, có thể thấy người anh hùng đã không quyến luyến, bịn rịn với tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả. Thái độ và hành động của Từ Hải mạnh mẽ quyết đoán, không chút do dự khi phải lựa chọn giữa hạnh phúc riêng tư và lí tưởng. Từ Hải tự tin vào sự rạng rỡ của tương lai “ Bao giờ mười vạn tinh binh….nghi gia”. Và khẳng định dự thành công là tất yếu: “Chầy chăng là một năm sau vội gì”. Lời hẹn ước của Từ Hải ngắn gọn, dứt khoát và chắc nịch đúng với khí phách của vị tướng quân uy vũ. Câu 3 trang 114 SGK ngữ văn 10 tập 2:
"The Tale of Kieu" is one of the masterpieces of Vietnamese literature, thanks to this masterpiece, Nguyen Du is considered a cultural celebrity. Each of us Vietnamese can be proud to the world that we have a great and talented poet Nguyen Du and his masterpiece poem "The Tale of Kieu". Almost all the excerpts in "the story of Kieu" represent the meaningful content it represents, having high value both in terms of ideology and artistic - aesthetic value. One of the typical excerpts from "The Tale of Kieu" is the passage "Heroic Spirit" appearing in the 10th grade literature program, episode 2. Below, I will guide you in preparing the Heroic Spirit lesson for grade 10. Preparing lessons is a necessary preparation step before going to class. Question 1 on page 114 of Literature Textbook Grade 10, Part 2: Meaning of phrases: Nguyen Du uses the above two phrases to express the extraordinary stature of the hero Tu Hai Words that express Nguyen Du's respect and admiration: manly man, dragon in all four directions, extraordinary face, quick... Question 2, page 114, Grade 10 Literature Textbook, Part 2: Tu Hai expressed his ideals through his words to Thuy Kieu: “From the words: mutual understanding of the heart ……. The wind and clouds have reached their peak." Through Tu Hai's language, it can be seen that the hero was not attached, obsessed with love and forgot about noble ideals. Tu Hai's attitude and actions are strong and decisive, without any hesitation when having to choose between personal happiness and ideals. Tu Hai is confident in the brilliance of the future: "When will 100,000 elite soldiers... Nghi family?" And affirming that success is inevitable: "Maybe it will be a year later." Tu Hai's promise was concise, decisive and firm, consistent with the spirit of a powerful general. Question 3, page 114, Grade 10 Literature Textbook, Part 2:
Chúng ta đều đã biết Nghị luận văn học là một dạng nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn luận là các vấn đề về văn học: tác phẩm, tác giả, thời đại văn học,… Nhưng để có được bài văn nghị luận hay thì cần có yếu tố nào? Lập luận một trong những yếu tố vô cùng cần thiết của một bài văn nghị luận văn học. Chúng ta sẽ tìm hiểu điều này qua bài học: “Lập luận trong văn nghị luận”. Qua bài học chúng ta nắm vững yêu cầu và cách thức xây dựng lập luận trong văn nghị luận, xây dựng được lập luận trong bài văn nghị luận. Nắm được khái niệm về lập luận trong bài văn nghị luận, các yêu cầu xây dựng lập luận trong văn nghị luận. Từ đó biết tìm và phân tích các luận điểm, luận cứ và phương pháp lập luận trong một số đoạn văn, bài văn nghị luận, nhận diện các thao tác trong đoạn văn, bài văn nghị luận, viết đoạn văn nghị luận triển khai một luận điểm cho trước theo các luận cứ, thao tác và phương pháp lập luận phù hợp a. Thuyết phục giặc Minh từ bỏ ý chí xâm lược: “Nay các ông không hiểu thời thế, lại dối trá” tức là “kẻ thất phu hèn kém” thì làm sao “cùng nói việc binh được”. b. Lí lẽ, dẫn chứng tác giả đưa ra: c. Lập luận là dựa vào các sự thật đáng tin cậy và các lý lẽ xác đáng để nêu lên ý kiến của mình về một vấn đề nào đó 1. Xác định luận điểm a. Bài văn “Chữ ta” tác giả phê phán sự lạm dụng tiếng nước ngoài ở nước ta. b. Bài văn có 2 luận điểm: 2. Tìm luận cứ a. Các luận cứ trong lập luận của Nguyễn Trãi là: Luận cứ cho luận điểm ở bài văn “Chữ ta”: -> Đều là luận cứ thực tế “mắt thấy tai nghe” của tác giả. 3. Lựa chọn phương pháp lập luậN a. Nguyễn Trãi lập luận theo phương pháp diễn dịch và quan hệ nhân – quả. Hữu Thọ lập luận theo phương pháp quy nạp và so sánh đối lập. b. Một số phương pháp khác: phương pháp nêu phản đề, loại suy, so sánh tương đồng, ngụy biện… 1. Câu 1 (trang 111 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): a. Luận điểm:“Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại rất phong phú và đa dạng”. b. Luận cứ: c. Phương pháp lập luận: Theo phương pháp quy nạp.
We all know that a literary essay is a type of argument in which the issues discussed are literary issues: works, authors, literary eras, etc. But to have an argumentative essay, Or what factors are needed? Argument is one of the extremely necessary elements of a literary essay. We will learn about this through the lesson: "Argument in argumentative writing". Through the lesson, we master the requirements and ways of building arguments in argumentative writing, and can build arguments in argumentative essays. Grasp the concept of arguments in argumentative essays, and the requirements for building arguments in argumentative essays. From there, know how to find and analyze arguments, arguments and argumentation methods in some paragraphs and argumentative essays, identify operations in paragraphs and argumentative essays, and write deployed argumentative paragraphs. a given argument according to appropriate arguments, operations and reasoning methods a. Persuading the Ming invaders to give up their will to invade: "Now you don't understand the times and lie" i.e. "weak and weak men" how can we "talk about military matters". b. Reasons and evidence given by the author: c. Argument is based on reliable facts and valid arguments to state one's opinion on a certain issue. 1. Determine the thesis a. In the essay "Our Words" the author criticizes the abuse of foreign languages ​​in our country. b. The article has 2 arguments: 2. Find arguments a. The arguments in Nguyen Trai's argument are: Argument for the thesis in the essay "My Word": -> These are all practical arguments from the author. 3. Choose an argument method a. Nguyen Trai argues using the deductive method and the cause-effect relationship. Huu Tho argues using the method of induction and comparison. b. Some other methods: antithesis method, analogy, comparison and similarity, sophistry... 1. Sentence 1 (page 111 Literature Textbook Grade 10, Volume 2): a. Thesis: "Humanism in medieval literature is very rich and diverse." b. Arguments: c. Argument method: According to the inductive method.
Mộng Liên Đường chủ nhân đã từng nhận xét về Truyện Kiều của Nguyễn Du như sau: Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải.Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, thì tài nào có cái bút lực ấy. Và trong đoạn trích Nỗi thương mình đã thể hiện rất rõ điều ấy, mời các bạn tham khảo bài soạn Nỗi thương mình lớp 10 dưới đây nhé. Vị trí đoạn trích: Trích từ câu 1229 đến câu 1248, nói lên tình cảnh, tâm trạng của Kiều chốn lầu xanh. Câu 1 (trang 108 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Bố cục đoạn trích: Câu 2 (trang 108 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Bút pháp ước lệ được sử dụng với các hình ảnh ẩn dụ bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hay điển tích, điển cố như Tống Ngọc, Trường Khanh, mưa Sở, mây Tần -> miêu tả chốn bụi trần dơ bẩn mà câu thơ vẫn trang nhã, không thô tục. Đồng thời, Nguyễn Du như muốn giành sư trân trọng, xót thương cho nàng Kiều:Tác giả muốn giữ cho nhân vật của mình một chân dung thanh cao sáng ngời, không bị hòa tục với những bụi trần nhơ bẩn kia (thái độ trân trọng). Câu 3 (trang 108 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Các dạng thức đối xứng khác nhau được sử dụng: Bướm lả >< ong lơi ; cuộc say >< trận cười ; sớm…>< tối… -> nhấn mạnh sự bẽ bàng của Kiều. Khi tỉnh rượu >< lúc tàn canh ; Khi sao phong gấm… >< Giờ sao tan tác…; gió >< sương ; bướm chán >< ong chường ; mưa Sở >< mây Tần -> Đối lập giữa quá khứ êm đềm và hiện tại nghiệt ngã, Kiều đay nghiến cho thân phận mình. Đồng thời cũng bày tỏ nỗi xót xa của thi hào Nguyễn Du. Câu 4 (trang 108 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Văn học trung đại mang tính phi ngã, nhưng với “nỗi thương mình” Nguyễn Du dường như đã đào sâu hơn vào thế giới nội tâm của nàng Kiều, ý thức sâu sắc về nỗi đau, bi kịch cũng như vẻ đẹp tâm hồn người con gái ấy-> Một sắc thái mới về tự sự ý thức của con người cá nhân.
The owner of Mong Lien Duong once commented on Nguyen Du's Tale of Kieu as follows: See where the long-term dream wakes up and the fate is still undone; After the fateful lute is played, but the resentment is still lingered, even though life is far away from the deceased and cannot be seen in person, the words described seem like blood flowing from the tip of the pen, tears on the paper. makes anyone who reads it feel deeply sad and painful. Then it's right to call it Doan Truong Tan Thanh. I took the opportunity to read it all at once and was surprised that: To Nhu Tu used his heart to suffer, the narrative skillfully described the scene exactly, the love story was intimate, if If you don't have eyes that see through all six realms, you won't have that kind of writing power. And in the excerpt "My Love" shows that very clearly. Please refer to the lesson "My Love" for grade 10 below. Excerpt location: Excerpt from verse 1229 to verse 1248, expressing the situation and mood of Kieu in the brothel. Question 1 (page 108 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Snippet layout: Question 2 (page 108 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Conventional style is used with metaphorical images of fluttering butterflies, windy leaves and bird branches, or classic stories such as Tong Ngoc, Truong Khanh, So rain, Qin clouds -> describing dusty and dirty places. but the verse is still elegant, not vulgar. At the same time, Nguyen Du seems to want to gain respect and compassion for Kieu: The author wants to keep his character a bright, noble portrait, not mixed with the dirty dust of the world (attitude of respect). important). Question 3 (page 108 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Different forms of symmetry are used: Butterflies >< bees; drunkenness >< laughter ; early…>< evening… -> emphasizes Kieu's humiliation. When sober >< at the end of soup ; When the stars are full of brocade… >< Now the stars are scattered…; wind >< dew ; butterflies are bored >< bees are bored ; So rain >< Qin clouds -> Contrasting between the peaceful past and the harsh present, Kieu laments her fate. At the same time, it also expressed the sadness of poet Nguyen Du. Question 4 (page 108 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Medieval literature is impersonal, but with "self-pity" Nguyen Du seems to have delved deeper into Kieu's inner world, deeply aware of pain, tragedy as well as the beauty of the human soul. that girl-> A new nuance about the self-conscious narrative of an individual.
Truyện Kiều được coi là bức đại thành về ngôn ngữ. Chẳng phải ngẫu nhiên khi với những câu thơ đã vọng từ ngàn xưa, nay vẫn ngát xanh: “Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát cây cầu, bờ tre mái rạ…”. Mỗi câu chữ trong truyện Kiều đều được trưng cất lên từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du, bởi con mắt nhìn thông sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời. Và trong số ấy, đoạn trích Trao duyên đẫ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ, bởi sự thấu hiểu tâm lí tài tình, ngôn ngữ chuẩn xác, giàu sức gợi mà thi hào đã sử dụng. Vậy thì, đoạn trích hấp dẫn như thế nào, hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài đoạn trích Trao duyên lớp 10 nhé. Cảm ơn các bạn đã tham khảo bài soạn của chúng mình, mong rằng các bạn sẽ tìm được chút gì hay ho từ đây nhé. Vị trí đoạn trích: Trích từ câu 723 đến câu 756, mở đầu cuộc đời đầy đau khổ của Kiều khi gia đình gặp biến cố. Bố cục: Câu 1 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Ý nghĩa của việc Kiều nhắc lại các kỉ niệm tình yêu: Câu 2 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Những từ ngữ xuất hiện dày đặc cho thấy Kiều đã nghĩ đến cái chết: thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc ; Mất người ; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về ; hồn ; Dạ đài cách mặt khuất lời ; người thác oan. -> Ý nghĩa: Câu 3 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Kiều đối thoại với Vân, với chính mình và với Kim Trọng. Câu 4 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)
The Tale of Kieu is considered a great achievement in language. It is not a coincidence that with the verses that have been echoed since ancient times, they are still green today: "I love beautiful Vietnam, poetic Vietnam, endless bridges, bamboo banks and thatched roofs...". Every sentence in Kieu's story is distilled from Nguyen Du's humanitarian heart, his eyes that see through the six realms and his heart that thinks for thousands of years. And among them, the excerpt "Giving Love" has left a deep impression in the hearts of readers for generations, because of the ingenious psychological understanding and precise, evocative language that the poet used. So, no matter how attractive the excerpt is, today I will help you prepare the excerpt Giving Love for grade 10. Thank you for reading our article, hope you will find something interesting from here. Excerpt location: Excerpted from verses 723 to 756, the beginning of Kieu's painful life when her family encountered an incident. Layout: Question 1 (page 106 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The meaning of Kieu recalling love memories: Question 2 (page 106 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The densely appearing words show that Kieu has thought about death: flesh is broken, bones are worn away, Ngam smiles for nine streams...; people with silver destiny; Loss of people; Seeing the gentle breeze means she's coming home; soul ; The stage is out of sight and out of mind; unjust person. -> Meaning: Question 3 (page 106 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Kieu dialogues with Van, with herself and with Kim Trong. Question 4 (page 106 Literature textbook Grade 10, Volume 2)
Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ cao. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật cũng là một trong những phong cách ngôn ngữ chúng ta nên học tập và rèn luyện theo nếu muốn đạt được trình độ nhất định trong bộ môn Ngữ văn. Hầu hết chúng ta được tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật này ở mọi nơi trong cuộc sống xung quanh ta. Tuy nhiên mấy ai nắm rõ được bản chất, cũng như phong cách của nó. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật lớp 10. Câu 1 trang 101 SGK ngữ văn 10 tập 2: Tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật thường được tạo ra bởi rất nhiều những phương tiện tu từ, nhưng phổ biến và hiệu quả nhất vẫn là các biện pháp như: ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hóa, thậm xưng,…và đặc biệt là cách nói hàm ẩn trong những ngữ cảnh tu từ. VD: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong giá se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về” “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” “Ngày ngày mặt trời đi qua bên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Câu 2 trang 101 SGK ngữ văn 10 tập 2: Trong ba đặc trưng (tinhd hình tượng, tinhd truyền cảm, tindh cá thể hóa) của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, tính hình tượng được coi là đặc trưng cơ bản vì: Câu 3 trang 101 SGK ngữ văn 10 tập 2: a) Điền từ “canh cánh” hoặc “thấm đượm” b) điền các từ: vãi (dòng 3); triệt (dòng 4) Câu 4 trang 101 SGK ngữ văn 10 tập 2: Về từ ngữ:
Artistic language is the language mainly used in literary works, which not only has an informational function but also satisfies people's aesthetic needs. It is a language that is organized, arranged, selected, refined from ordinary language and achieves high artistic and aesthetic value. Artistic language style is also one of the language styles we should study and practice if we want to achieve a certain level in Literature. Most of us are exposed to this artistic language everywhere in our lives. However, few people clearly understand its nature and style. Below I will guide you in preparing the lesson Language and Art Style for grade 10. Question 1 on page 101 of Grade 10 Literature Textbook, Part 2: The iconicity of artistic language is often created by many rhetorical means, but the most common and effective are still measures such as metaphor, metonymy, symbolism, personification, even exposition, …and especially implicit speech in rhetorical contexts. For example: “Suddenly I noticed the scent of guava Put it in the price The fog drifted through the alley Thu seemed to have about" “My body is like peach silk Floating in the market, who knows whose hands it belongs to? “Every day the sun passes by the mausoleum Seeing a red sun in the steering so" Question 2 on page 101 of Grade 10 Literature Textbook, Part 2: Among the three characteristics (imagery, inspiration, and individualization) of artistic language style, imagery is considered the basic characteristic because: Question 3 on page 101 of Grade 10 Literature Textbook, Part 2: a) Fill in the words “soap” or “soaked” b) fill in the words: scatter (line 3); radical (line 4) Question 4 on page 101 of Grade 10 Literature Textbook, Part 2: About words:
Cuối năm 1965, khi cả dân tộc ta náo nức kỉ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, nhân dịp công tác qua quê hương Nguyễn Du, Tố Hữu đã viết bài thơ nổi tiếng Kính gửi cụ Nguyễn Du. Tố Hữu đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình và cũng là của mọi người dân Việt Nam với Nguyễn Du và Truyện Kiều trong những lời thơ đặc sắc: “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du/ Tiếng thương như tiếng mẹ ru nhhững ngày Hỡi người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng người” Bài học “ Truyện Kiều”, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Truyện Kiều”. -> Nguyễn Du là một con người tài hoa bất đắc chí lại phải nếm trải bao đắng cay, thăng trầm trong cuộc đời. Ở ông có một trái tim nghệ sĩ bẩm sinh và thiên tài, “con mắt thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” cùng một trí tuệ uyên bác. Đó là những tố chất hun đúc nên một nghệ sĩ thiên tài. a. Các sáng tác chính của Nguyễn Du: Chữ Hán Chữ Nôm b. Đánh giá đặc điểm: Đặc điểm nội dung: ->”Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong VH cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.”
At the end of 1965, when our whole nation was excited to celebrate the 200th anniversary of the birth of the great national poet Nguyen Du, on the occasion of working in Nguyen Du's hometown, To Huu wrote the famous poem Dear Nguyen Du. To Huu expressed his admiration and that of all Vietnamese people for Nguyen Du and Truyen Kieu in these unique poetic words: “The sound of poetry moves heaven and earth It sounds like mountains and rivers echoing thousands of words Thousands of years later, remember Nguyen Du/ The sound of love is like a mother's lullaby during the day O my people of the past and present Happy song, please compare with you again" In the lesson "The Tale of Kieu", we will learn the basic features of his life and career. Below I will guide you to compose the article "The Story of Kieu". -> Nguyen Du is a talented and frustrated person who has to experience many bitterness, ups and downs in life. In him there is a heart of innate artist and genius, "eyes that see through the six worlds and a heart that thinks for a thousand generations" and a profound intellect. Those are the qualities that mold a genius artist. a. Main compositions of Nguyen Du: Chinese characters Nom script b. Characteristics rating: Content characteristics: ->"Nguyen Du is a typical author of the humanitarian movement in culture of the late 18th and early 19th centuries."
Bài văn nghị luận cũng là một dạng bài quan trọng trong phân môn làm văn lớp 10. Khi viết một bài văn bất kì, việc lập dàn ý có ý nghĩa quan trọng. Vậy đối với bài văn nghị luận, thao tác lập dàn ý có tác dụng như thế nào và chúng ta sẽ phải tiến hành thao tác đó ra sao? Đó là những nội dung của bài học “Lập dàn ý bài văn nghị luận”. Qua bài học chúng ta Nắm được cách lập dàn ý bài văn nghị luận, hiểu được tác dụng, yêu cầu của việc lập dàn ý khi viết bài văn nghị luận. Chúng ta biết cách vận dụng những kiến thức đã học về văn nghị luận để lập được dàn ý cho một đề văn nghị luận và thực hành lập dàn ý cho một số đề văn nghị luận. Dưới đâymình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Lập dàn ý bài văn nghị luận”. 1. Tìm ý cho bài văn a. Xác định luận đề b. Xác định các luận điểm c. Tìm luận cứ cho các luận điểm Các luận cứ của luận điểm 1: Các luận cứ của luận điểm 2: Các luận cứ của luận điểm 3: 2. Lập dàn ý a. Mở bài: mở bài trực tiếp b. Thân bài LĐ1:. Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người, ghi lại những hiểu biết về tự nhiên và xã hội: LĐ2. Sách mở rộng trước mắt chúng ta những chân trời mới: LĐ3. Mỗi chúng ta cần có thái độ đúng với sách và việc đọc sách: 3. Kết bài: mở rộng vấn đề 1. Câu 1 (trang 91 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) a. Cần bổ sung một số điểm còn thiếu: b. dàn ý tham khảo: Mở bài: Thân bài: Hiểu lời dạy của Bác như thế nào? Vận dụng lời dạy của Bác như thế nào? Kết bài Khẳng định lại ý nghĩa, giá trị và sức ảnh hưởng từ lời dạy của Çhu tịch Hồ Chí Minh 2. Câu 2 (trang 91 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): a. Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu vấn đề b. Thân bài: B1. Giải thích câu tục ngữ B2.Bình luận: ( đi kèm dẫn chứng) Mặt đúng: Con người bao giờ cũng chịu ảnh hưởng, tác động của hoàn cảnh (ít hay nhiều). Chẳng hạn, những bạn có điều kiện thuận lợi như gia đình giàu có, thời gian nhiều, tài liệu đủ, thầy giỏi, bạn tốt…sẽ có thể học tốt hơn những bạn nhà nghèo, thời gian dành cho học tập ít. điều kiện lài liệu, thầy, bạn…cũng thiếu thốn. Mặt chưa đúng: Bài học mà câu tục ngữ nêu ra còn phiến diện, chưa đánh giá đúng mức vai trò của cá nhân trong việc vươn lên trên hoàn cảnh, thậm chí cải tạo hoàn cảnh. Bằng chứng là nhiều bạn có hoàn cảnh khó khăn vẫn học tốt, ngược lại nhiều bạn có điều kiện thuận lợi nhưng do ỷ lại nên vẫn học yếu B3. Bài học Trước khi suy tính vấn đề gì cần tính đến những điều kiện khách quan để hạn chế tối đa sự phụ thuộc của vấn đề đó vào yếu tố bên ngoài. Trong hoàn cảnh nào cũng cần đặt lên hàng đầu sự nỗ lực chủ quan, lấy ý chí và nghị lực để vượt qua khó khăn. c. Kết bài:
Argumentative essays are also an important type of essay in the 10th grade writing subject. When writing any essay, making an outline is important. So for an argumentative essay, how does outlining work and how do we go about it? Those are the contents of the lesson "Establish an argumentative essay". Through the lesson, we will understand how to make an outline for an argumentative essay, and understand the effects and requirements of making an outline when writing an argumentative essay. We know how to apply the knowledge we have learned about argumentative writing to create an outline for an argumentative essay and practice outlining some argumentative essays. Below I will guide you in preparing the article "Establish an argumentative essay". 1. Find ideas for the essay a. Identify the thesis b. Identify arguments c. Find arguments for arguments Arguments of thesis 1: Arguments of thesis 2: Arguments of thesis 3: 2. Make an outline a. Opening lesson: open lesson directly b. Body of the article LĐ1:. Books are a magical product of human spirit, recording knowledge about nature and society: LĐ2. Books open up new horizons before our eyes: LD3. Each of us needs to have the right attitude towards books and reading: 3. Conclusion: expand the problem 1. Sentence 1 (page 91 of Literature Textbook Grade 10, Volume 2) a. Need to add some missing points: b. Reference outline: Opening: Body of the article: How to understand Uncle Ho's teachings? How to apply Uncle Ho's teachings? End Reaffirming the meaning, value and influence of President Ho Chi Minh's teachings 2. Sentence 2 (page 91 Literature Textbook Grade 10, Volume 2): a. Opening: Leading introduction of the problem b. Body of the article: B1. Explain the proverb B2.Comment: (with evidence) Correct side: People are always influenced and influenced by circumstances (more or less). For example, those with favorable conditions such as rich families, lots of time, enough materials, good teachers, good friends... will be able to study better than those from poor families with little time for studying. Conditions for therapists, teachers, friends... are also lacking. The wrong side: The lesson that the proverb raises is still one-sided, not properly appreciating the role of the individual in rising above circumstances, even improving the situation. The evidence is that many students in difficult circumstances still study well, on the contrary, many students have favorable conditions but due to dependence they still study poorly. B3. Lesson Before considering any problem, it is necessary to take into account objective conditions to minimize the dependence of that problem on external factors. In any situation, it is necessary to put subjective efforts first, using will and energy to overcome difficulties. c. End:
Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ luôn bị vùi dập, bị tước đoạt những quyền lợi, hạnh phúc chân chính. Bởi vậy, thi hào Nguyễn Du đã từng đau đớn thốt lên thay: Đau đớn thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Nhưng có lẽ không chỉ có Nguyễn Du mà rất nhiều nhà thơ thời kì trung đại đều bày tỏ lòng xót thương, sự trân trọng với người phụ nữ. Hẳn trong số ấy, Chinh phụ ngâm quả là một tác phẩm đặc sắc. Đặc biệt qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ càng thấy rõ ràng hơn điều này. Vậy thì hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ để các bạn hiểu rõ hơn những đặc sắc về cả nội dung lẫn nghệ thuật để các bạn tham khảo nhé. Mời các bạn tham khảo bài soạn dưới đây. Cảm ơn các bạn rất nhiều. Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm là hai nhà thơ trung đại nổi tiếng. Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Yếu tố ngoại cảnh thể hiện tâm trạng: Hiên vắng (không gian mênh mang, vắng lặng), ngọn đèn (thời gian đêm khuya). Ban đêm tiếng gà eo óc, ban ngày hòe phất phơ. -> Tô đậm nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ. Đó có lẽ là cảnh ngộ chung của biết bao thân phận tội nghiệp khác trong xã hội phong kiến, vì chiến tranh phi nghĩa. Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Những dấu hiệu cho thấy nỗi cô đơn của người chinh phụ: -> Nỗi cô đơn ghê gớm bủa vây, ám ảnh thậm chsi trng cả vô thức, tiềm thức của người chinh phụ. Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Người chinh phụ đau khổ, buồn rầu bởi nàng không rõ sống chết của chồng mình giờ ra sao, nàng chỉ biết trông ngóng trong vô vọng, mòn mỏi và nhớ nhung vô hạn. Tất cả những nỗi đau và bi kịch ấy đều là do chiến tranh phi nghĩa đã gây ra. Câu 4* (trang 88 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Người chinh phụ hầu như không nói, ngôn ngữ chủ yếu là độc thoại nội tâm hoặc nửa trực tiếp: Đèn có biết … bi thiết mà thôi. Lòng này gửi gió đông … đau đáu nào xong. -> Giá trị biểu hiện: câu văn giàu sức gợi, lời ít mà gợi nhiều, cho thấy nỗi cô đơn và nhớ nhung vời vợi của người chinh phụ. Nỗi đau của tâm giới càng gây ám ảnh hơn trong lòng người đọc. Câu 5 (trang 88 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)
In a feudal society that favors men and despises women, women are always oppressed and deprived of their rights and true happiness. Therefore, poet Nguyen Du once painfully exclaimed: What a pain for women, the words that fate is bad are also common words. But perhaps not only Nguyen Du but also many medieval poets expressed compassion and respect for women. Surely among them, Chinh Phu Ngam is indeed a unique work. Especially through the excerpt "The Lonely Situation of the Conqueror's Wife", this is even clearer. So today I will help you compose the article The Lonely Situation of a Conqueror's Wife so that you can better understand the unique features of both content and art for your reference. Please refer to the article below. Thank you very much. Dang Tran Con and Doan Thi Diem are two famous medieval poets. Question 1 (page 88 Literature textbook Grade 10, Part 2) External factors express mood: Empty porch (vast, quiet space), lamp (late night). At night, the sound of roosters is loud and loud, during the day it is loud and cheerful. -> Highlights the loneliness and isolation of the conqueror's wife. That is probably the common plight of many other poor people in feudal society, because of unjust war. Question 2 (page 88 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Signs showing the loneliness of the conqueror: -> Terrible loneliness surrounds and haunts even the unconscious and subconscious of the conqueror. Question 3 (page 88 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The concubine was miserable and sad because she did not know what her husband's life and death were like now. She could only wait in vain, exhausted and missing him endlessly. All of that pain and tragedy was caused by unjust war. Question 4* (page 88 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The conqueror hardly speaks, his language is mainly internal or semi-direct monologue: The lights only know... sadness. This heart sends the winter wind... no pain. -> Expressive value: the sentences are rich in evocation, the words are few but suggestive, showing the great loneliness and longing of the conqueror's wife. The pain of the mental world is even more haunting in the reader's heart. Question 5 (page 88 Literature textbook Grade 10, Volume 2)
Mỗi thời đại, mỗi nền văn học đều có những kiệt tác để ngàn đời còn lưu danh ngưỡng vọng. Với một nền văn học và văn hóa đồ sộ, đặc sắc và phong phú như Trung Quốc cũng đã góp vào tượng đài văn học những trác tuyệt bất hủ, trong đó không thể không kể tới Tam Quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung. Đặc biệt đoạn trích Tào tháo uống rượu luận anh hùng cũng đã cho ta thấy khá rõ chân dung, tính cách của các nhân vật được khắc họa ra sao. Vậy thì hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài Tào tháo uống rượu luận anh hùng lớp 10 nhé. Cảm ơn các bạn rất nhiều vì đã tham khảo bài soạn của chúng mình. Hi vọng rằng với bài soạn này các bạn sẽ có thể hiểu được đôi chút về tác phẩm, đồng thời nâng cao hiểu biết cho bản thân mình để học tập được tốt hơn nữa nhé. La Quán Trung là một nhà tiểu thuyết nổi tiếng bậc nhất thời kì trung đại của văn học Trung Quốc. Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Tâm trạng và tính cách Lưu Bị khi phải ở nhờ Tào Tháo: Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Tính cách nhân vật Tào Tháo: Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Điểm khác giữa tính cách Lưu Bị và Tào Tháo: Tào Tháo (gian hùng) Lưu Bị (anh hùng) – Đang có quyền thế, có quân, lợi dụng vua Hán để khống chế chư hầu. – Tự tin, bản lĩnh, thông minh, hiểu biết – Chủ quan, đắc chí, coi thường người nên bị Lưu Bị qua mặt nhẹ nhàng. – Đang thua, mất đất, mất quân, phải sống nhờ nơi kẻ thù nguy hiểm. – Lo lắng, sợ hãi, cố che giấu ý nghĩ, tình cảm. – Khôn ngoan, linh hoạt che giấu được hành động của mình.
Every era and every literature has masterpieces that will be remembered for thousands of generations to admire. With a huge, unique and rich literature and culture like China, it has also contributed immortal masterpieces to the literary monument, among which it is impossible not to mention Romance of the Three Kingdoms by author La Guanzhong. . In particular, the excerpt from Cao Cao's heroic essay on drinking wine also shows us quite clearly how the portraits and personalities of the characters are portrayed. So today I will help you prepare the essay Cao Cao drinking alcohol and heroic essay for grade 10. Thank you very much for reviewing our article. Hopefully with this article you will be able to understand a little about the work, and at the same time improve your own understanding to study better. Luo Guanzhong is the most famous novelist of the medieval period of Chinese literature. Question 1 (page 83 Literature textbook Grade 10, Part 2) Liu Bei's mood and personality when he had to stay with Cao Cao: Question 2 (page 83 Literature textbook Grade 10, Part 2) Cao Cao's personality: Question 3 (page 83 Literature textbook Grade 10, Part 2) Differences between Liu Bei and Cao Cao's personalities: Cao Cao (trickster) Liu Bei (hero) – Being powerful and having troops, he took advantage of the Han king to control his vassals. – Confidence, bravery, intelligence, understanding – Subjective, complacent, and contemptuous of others, Liu Bei was easily overtaken. – Losing, losing land, losing troops, having to live thanks to dangerous enemies. – Anxiety, fear, trying to hide thoughts and feelings. – Smart and flexible, able to hide their actions.
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn chủ chốt của nền văn học cách mạng Việt Nam. Những tác phẩm của ông phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến với những tác phẩm đậm chất anh hùng và không khí lịch sử. Hôm nay, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Bắc Sơn Ngữ văn 9 tập 2 để cảm nhận hết được nghệ thuật viết kịch của tác giả đồng thời thể hiện rõ diễn biến của từng nhân vật để thấy được sức thuyết phục của cách mạng đối với nhân dân. 1. Tác giả 2. Tác phẩm Bắc Sơn là tác phẩm kịch đầu tiên đã thể hiện thành công một sự kiện cách mạng và những nhân vật mới của thời đại: quần chúng và những người chiến sĩ cách mạng. Đoạn trích trong văn bản Ngữ văn 9 là hai lớp của hồi bốn. Bố cục tác phẩm 1. Câu 1 trang 166 SGK Ngữ văn 9 tập 2 Thuật lại diễn biến sự việc và hành động trong các lớp kịch trích ở hồi bốn: 2. Câu 2 trang 166 SGK Ngữ văn 9 tập 2 3. Câu 3 trang 166 SGK Ngữ văn 9 tập 2 Phân tích tâm trạng và hoàn cảnh của nhân vật Thơm: 4. Câu 4 trang 166 SGK Ngữ văn 9 tập 2 5. Câu 5 trang 166 SGK Ngữ văn 9 tập 2
Nguyen Huy Tuong is a key writer of Vietnamese revolutionary literature. His works reflect the reality of revolution and resistance with works full of heroism and historical atmosphere. Today, I will guide you to prepare the lesson Bac Son Literature 9, volume 2 to fully appreciate the author's playwriting art and clearly show the developments of each character to see the persuasive power of the revolution. for the people. 1. Author 2. Works Bac Son is the first dramatic work to successfully show a revolutionary event and new characters of the era: the masses and revolutionary soldiers. The excerpt in the Literature Grade 9 text is two layers of chapter four. Work layout 1. Question 1, page 166, Literature Textbook Grade 9, Part 2 Recount the events and actions in the drama excerpts in act four: 2. Question 2, page 166, Literature Textbook Grade 9, Part 2 3. Question 3, page 166, Literature Textbook Grade 9, Part 2 Analyze the mood and situation of character Thom: 4. Question 4, page 166, Literature Textbook Grade 9, Part 2 5. Question 5, page 166, Literature Textbook Grade 9, Part 2
Tiếng việt là ngôn ngữ chính mà chúng ta dùng trong hoạt động giao tiếp nói hay là viết nhưng đôi khi chúng ta vẫn chưa thực sự làm chủ được nó. Tiếng việt vô cùng phong phú và cũng có rất nhiều những quy tắc yêu cần người sử dụng cần biết và cần áp dụng thật chặt chẽ. Khi những yêu cầu về tiếng việt không được đảm bảo thì sẽ gây ra những từ, những câu sai ý nghĩa, tiếng việt mất đi sự trong sáng vốn có của nó. Vì vậy trong chương trình ngữ văn lớp 10 chúng ta sẽ đến với bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt lớp 10. Sau đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài này. 1. Về ngữ âm và chữ viết a) Phát hiện lỗi về chữ viết và sửa lại cho đúng: b) Phân tích sự khác biệt: 2. Về từ ngữ: a) Phát hiện và chữa lỗi: b) Những câu dùng từ đúng: 3. Về ngữ pháp a) Phát hiện và chữa lỗi về ngữ pháp: Câu 1: người viết không phân định rõ các thành phần trạng ngữ và chủ ngữ. b) Lựa chọn những câu văn đúng: c) Phân tích lỗi và chữa lỗi trong đoạn văn: Sửa: 4. Về phong cách ngôn ngữ a) Phân tích và chữa lại những từ không phù hợp với phong cách ngôn ngữ: b) Nhận xét về các từ ngữ thuộc ngôn ngữ nói trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt trong đoạn trích: Câu 1 trang 67 SGK văn 10 tập 2 Câu 2 trang 67 SGK văn 10 tập 2 Phân tích hiệu quả biểu đạt của việc dùng ẩn dụ và so sánh trong câu: Câu 3 trang 67 SGK văn 10 tập 2 Phân tích giá trị nghệ thuật của phép điệp, phép đối, của nhịp điệu câu văn. Câu 1 trang 69 SGK văn 10 tập 2 Những từ ngữ viết đúng: Câu 2 trang 69 SGK văn 10 tập 2 Câu 3 trang 69 SGK văn 10 tập 2 Phân tích chỗ đúng, sai của các câu trong đoạn văn và của đoạn văn: Những chỗ sai: Câu 4 trang 69 SGK văn 10 tập 2
Vietnamese is the main language we use in spoken or written communication, but sometimes we still cannot really master it. Vietnamese is extremely rich and has many rules that users need to know and apply strictly. When the requirements of Vietnamese are not guaranteed, words and sentences with wrong meanings will result, and Vietnamese will lose its inherent purity. Therefore, in the literature program for grade 10, we will come to the article Requirements for using Vietnamese for grade 10. The following is the lesson Instructions for preparing the best complete Requirements for using Vietnamese for grade 10 at: Please refer to and learn about this article. 1. About phonetics and writing a) Detect errors in writing and correct them: b) Analyze the differences: 2. About words: a) Detect and fix errors: b) Sentences using correct words: 3. About grammar a) Detect and correct grammatical errors: Sentence 1: the writer does not clearly distinguish the adverbial and subject components. b) Choose the correct sentences: c) Analyze and correct errors in the passage: Fix: 4. About language style a) Analyze and correct words that do not fit the language style: b) Comment on the words of spoken language in the daily language style in the excerpt: Question 1, page 67, grade 10 literature textbook, part 2 Question 2, page 67, grade 10 literature textbook, part 2 Analyze the expressive effectiveness of using metaphors and comparisons in sentences: Question 3, page 67, grade 10 literature textbook, part 2 Analyze the artistic value of alliteration, parallelism, and sentence rhythm. Question 1, page 69, grade 10 literature textbook, part 2 Correctly spelled words: Question 2, page 69, grade 10 literature textbook, part 2 Question 3, page 69, grade 10 literature textbook, part 2 Analyze the correctness and incorrectness of the sentences in the paragraph and of the paragraph: Mistakes: Question 4 on page 69 of grade 10 literature textbook, part 2
Không phải đến lớp 10, chúng ta mới được tiếp cận và làm quen với bài văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh. Những kiến thức được học từ cấp 2 về văn thuyết minh sẽ là cơ sở và nền tảng vững chắc để chúng ta tiếp tục củng cố và nâng cao những kĩ năng đó. Trong chương trình ngữ văn 10, để ôn tập về văn thuyết minh, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh. Qua bài Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh, chúng ta sẽ củng cố vững chắc kĩ năng viết đoạn văn đã học, thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa kĩ năng đó với kĩ năng lập dàn ý, từ đó vận dụng để luyện tập viết đoạn văn thuyết minh. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh lớp 10 Câu 1 trang 62 SGK văn 10 tập 2: a. Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản được bắt đầu từ chỗ viết hoa đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng, biểu đạt một ý hoàn chỉnh b. Một đoạn văn cần đạt được những yêu cầu: Câu 2 trang 62 SGK văn 10 tập 2: So sánh đoạn văn tự sự và đoạn văn thuyết minh Giống nhau: đảm bảo cấu trúc một đoạn văn Khác nhau: => Có sự khác nhau đó là do chúng có mục đích biểu đạt khác nhau: tự sự là kể chuyện, thuyết minh là giới thiệu và trình bày Câu 3 trang 62 SGK văn 10 tập 2: Đoạn văn thuyết minh gồm có 3 phần: Nhưng cũng có thể chỉ có phần mở đoạn và thân đoạn hoặc thân đoạn và kết đoạn Các ý được sắp xếp theo trình tự thời gian, không gian, nhận thức, phản bác – chứng minh để tăng sức thuyết phục và tính hấp dẫn Đề bài: Thuyết minh bài Hiền tài là nguyên khí quốc gia của Thân Nhân Trung I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm II. Thân bài 1. Giới thiệu chung 2. Giới thiệu nội dung tác phẩm 3. Giới thiệu nghệ thuật Lối kết cấu chặt chẽ, nhấn mạnh vai trò của hiền tài
It is not until grade 10 that we can approach and become familiar with expository essays and how to write expository essays. The knowledge learned from secondary school about expository writing will be the basis and solid foundation for us to continue to consolidate and improve those skills. In the grade 10 literature program, to review expository writing, we will learn the lesson: Practice writing expository paragraphs. Through the practice of writing expository paragraphs, we will firmly consolidate the paragraph writing skills we have learned, clearly see the close relationship between that skill and the skill of outlining, and then apply it to practice. Write an expository paragraph. Below, I will guide you in preparing practice exercises for writing expository paragraphs for grade 10 Question 1 on page 62 of grade 10 literature textbook, part 2: a. A paragraph is a unit that directly creates text, starting with a capitalization at the beginning of a line and ending with a line break, expressing a complete idea. b. A paragraph must meet the following requirements: Question 2, page 62, grade 10 literature textbook, part 2: Compare narrative paragraphs and expository paragraphs Same: make sure to structure a paragraph Different: => The difference is because they have different expressive purposes: narrative is to tell stories, exposition is to introduce and present. Question 3, page 62, grade 10 literature textbook, part 2: The explanatory paragraph includes 3 parts: But there can also be just an introduction and a body or a body and an end Ideas are arranged in order of time, space, perception, rebuttal - proof to increase persuasion and appeal. Topic: Explanation of the article Talent is the national vitality of Than Nhan Trung I. Introduction: Introduce the author and work II. Body of the article 1. General introduction 2. Introduce the content of the work 3. Introducing art The structure is tight, emphasizing the role of talent
Trong chương trình Ngữ Văn lớp 9- THCS, chúng ta đã được học tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, là một trong hai mươi câu chuyện trong “Truyền kì mạn lục “ của Nguyễn Dữ.Lên cấp THPT, trong chương trình ngữ văn lớp 10 tập 2, chúng ta lại được cùng nhau tìm hiểu về một câu chuyện nữa trong tập truyện kí đó của ông. Đó là “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, một tác phẩm ca ngợi những nho sĩ, trí thức khảng khái, chính trực vì nghĩa lớn chống gian tà. Đồng thời qua lớp vỏ của yếu tố kì ảo, chúng ta cũng phần nào thấu hiểu được cốt lõi hiện thực lịch sử đương thời. Để hiểu được sâu sắc văn bản, chúng ta phải tìm hiểu khái quát về tác giả, năm được những yếu tố cốt lõi, cũng như cơ bản của thể loại đồng thời là văn bản. Những điều này qua bước soạn văn ở nhà chúng ta sẽ nắm được. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài: “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”. 1. Tác giả Nguyễn Dữ: 2. Tác phẩm Ý B và D đúng vì truyện đã giới thiệu Tử Văn tính cách khảng khái, nóng nảy, cương trực, diệt trừ hồn ma tên giặc cũng là diệt trừ kẻ thù của đất nước, nhân dân -> tinh thần dân tộc. Ý kiến đúng là tất cả các ý A, B, C, D. vì Diêm Vương đại diện cho một thế giới khác: thế giới cai trị của Diêm Vương phán xét công bằng, đại diện cho khát vọng công lí , là người đẩy xung đột kịch để nhân vật chính có dịp bộc lộ bản lĩnh, tính cách, khắc sâu tư tưởng truyện, từ đó khuyên răn con người tránh làm điều ác để không bị trừng phạt, dũng cảm làm điều đúng đắn.
In the Literature program for grades 9 - Middle School, we have learned the work "The Story of a Nam Xuong Girl", which is one of twenty stories in "The Legend of Man Luc" by Nguyen Du. Up to the high school level, in the chapter Literature program for grade 10, volume 2, we learn together about another story in that collection of his memoirs. That is "The Story of the Judge of Tan Vien Temple", a work praising the wise and upright Confucian scholars and intellectuals for their great cause against evil. At the same time, through the cover of fantasy elements, we also partly understand the core of contemporary historical reality. To deeply understand the text, we must have an overview of the author and the core elements as well as the basic elements of the genre and the text. We will understand these things through writing at home. Below I will guide you to prepare the lesson: "The story of the judge of Tan Vien temple". 1. Author Nguyen Du: 2. Works Points B and D are correct because the story introduces Tu Van's brave, hot-tempered, and upright personality. Eliminating the enemy's ghost is also eliminating the enemy of the country and people -> national spirit. The correct opinion is all of A, B, C, D. because Pluto represents another world: the world ruled by Pluto judges fairly, represents the desire for justice, is the pusher Dramatic conflict gives the main character the opportunity to reveal his bravery and personality, deepening the story's ideology, thereby advising people to avoid doing evil so as not to be punished, and to be courageous in doing the right thing.
Dân tộc ta thời kì nào cũng luôn có những bậc anh hùng kì tài, thượng võ giúp làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Một trong số đó không thể không nhắc tới đó là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, với tài dùng binh mao lược, lòng cương trực thẳng thắn, tầm nhìn xa trông rộng và biết đối nhân xử thế, ông luôn được người đời trọng vọng, các cận thần tin cậy, tín nghiệm. Về nhân vật lịch sự này, đã có rất nhiều những bài viết hay và hôm nay mình xin giới thiệu với các bạn bài soạn Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (trích Đại Việt sử kí toàn thư) để các bạn tham khảo, mong rằng chúng sẽ giúp ích ít nhiều cho các bạn trong việc học tập để được tốt hơn nhé. Nhóm viết đã ghi lại đầy hào hùng, chân thật và thấm thía về hình ảnh của Trần Quốc Tuấn. Bố cục: Câu 1 (trang 44 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua về kế sách giữ nước cho thấy: Câu 2 (trang 44 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn hỏi ý kiến hai gia nô và hai người con, thái độ của ông cho thấy tấm lòng trung nghĩa với vua, với nước, không tư lợi của Trần Quốc Tuấn, ông là người thận trọng và quyết đoán và cũng chân thành, nghiêm khắc trong giáo dục con cái. Câu 3 (trang 44 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Những đặc điểm nổi bật của Trần Quốc Tuấn: tấm lòng trung quân ái quốc ; vị tướng anh hùng có tài năng, đức độ. Sự khéo léo trong nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật: Câu 4 (trang 44 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Nghệ thuật kể chuyện trong đoạn trích: Câu 5 (trang 45 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Đáp án đúng là: b và c Câu 1 (trang 45 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Tóm tắt câu chuyện (các ý chính): Câu 2 (trang 45 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Sưu tầm câu chuyện, bài thơ liên quan đến Trần Quốc Tuấn:
Our nation has always had talented and martial heroes in every period who helped create glorious pages in the nation's history. One of them that cannot be ignored is Hung Dao Dai Vuong Tran Quoc Tuan. With his skill in using military strategy, honesty, foresight, and knowing how to treat people, he was always respected by people. hope, courtiers trust and experience. About this polite character, there have been many good articles and today I would like to introduce to you the article Hung Dao Dai Vuong Tran Quoc Tuan (excerpt from the complete history of Dai Viet) for your reference, I hope that they will be more or less helpful for you in studying to become better. The writing team has recorded heroically, truthfully and poignantly the image of Tran Quoc Tuan. Layout: Question 1 (page 44 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Tran Quoc Tuan's presentation to the king about the plan to preserve the country shows: Question 2 (page 44 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Tran Quoc Tuan took his father's advice and consulted his two servants and two children. His attitude showed Tran Quoc Tuan's loyalty to the king and the country, not self-interest. He was a cautious and decisive person. and also sincere and strict in educating children. Question 3 (page 44 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Outstanding characteristics of Tran Quoc Tuan: loyal and patriotic heart; heroic general with talent and virtue. Ingenuity in the art of character portraiture: Question 4 (page 44 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The art of storytelling in the excerpt: Question 5 (page 45 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The correct answer is: b and c Question 1 (page 45 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Summary of the story (main ideas): Question 2 (page 45 Literature textbook Grade 10, Volume 2) Collection of stories and poems related to Tran Quoc Tuan:
Lịch sử tiếng Việt gắn bó với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Tiếng Việt thuộc hộ ngôn ngữ Nam Á, dòng Môn – Khmer và có quan hệ gần gũi với tiếng Mường. Qua hàng ngàn năm phát triển, tiếng Việt ngày càng trở nên phong phú, tinh tế, uyển chuyển, có đầy đủ khả năng đảm đương và vai trò ngôn ngữ quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy lịch sử phát triển và hình thành của Tiếng Việt cũng là một đề tài, một đơn vị kiến thức mà chúng ta nên nắm bắt rõ. Trong chương trình ngữ văn 10 tập 2 lần này chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài Khái quát lịch sử tiếng Việt. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn soạn bài Khái quát lịch sử tiếng Việt lớp 10. Câu 1 trang 40 SGK ngữ văn 10 tập 2: VD minh họa cho biện pháp Việt háo từ ngữ Hán được vay mượn Việt hóa theo hình thức dịch nghĩa sang tiếng Việt: Việt hóa theo kiểu rút gọn, đảo vị trí, thay đổi yếu tố Câu 2 trang 40 SGK ngữ văn 10 tập 2: Chữ quốc ngữ đơn giản về hình thức kết cấy, thuận tiện dễ viết, dễ đọc. Những ưu điểm này rõ rang có tác dụng giúp cho việc phổ cập tiếng Việt được nhanh chóng, giúp cho quá trình sử dụng ngôn ngữ trong giáo tiếp không gặp khó khăn và do đó, có khẳ năng thúc đẩy các lĩnh vực khác của đời sống xã hội phát triển.
The history of Vietnamese is closely linked to the history of formation and development of the Vietnamese people. Vietnamese belongs to the Austroasiatic language family, the Mon - Khmer family and is closely related to the Muong language. Through thousands of years of development, Vietnamese has become increasingly rich, sophisticated, and flexible, fully capable of taking on the role of the national language in the process of industrialization and modernization of the country. Therefore, the history of development and formation of Vietnamese is also a topic, a unit of knowledge that we should clearly grasp. In this 10-episode 2 literature program, we will learn together the lesson Overview of Vietnamese history. Below I will guide you in preparing the lesson Overview of Vietnamese history for grade 10. Question 1 on page 40 of Grade 10 Literature Textbook, Part 2: Example illustrating the Vietnamese method of borrowing borrowed Chinese words Vietnameseization in the form of translating meaning into Vietnamese: Vietnameseized by shortening, reversing positions, changing elements Question 2 on page 40 of Grade 10 Literature Textbook, Part 2: The national language is simple in form, easy to write and read. These advantages clearly have the effect of helping to popularize Vietnamese quickly, making the process of using the language in communication without difficulty and therefore, having the ability to promote other areas of life. social life develops.
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia- câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung nhắc nhở chúng ta luôn phải biết quý trọng người hiền tài. Điều ấy không chỉ đúng với thời xưa mà còn có giá trị trong thời nay. Bất kì thời đại nào, người hiền tài cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng, là rường cột của quốc gia, giúp dân tộc phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ. Một đất nước mạnh hay yếu, thịnh hay suy có công rất lớn của những người vừa có đức, vừa có tài. Vì vậy, họ cần được phát hiện, trân trọng để có thể phát huy hết tài năng và trí tuệ của mình. Những điều ấy đã được Thân Nhân Trung thể hiện rất cụ thể trong bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. I- Tìm hiểu chung Hiền tài là nguyên khí của quốc gia 1. Tác giả Thân Nhân Trung từng đỗ tiến sĩ và được vua Lê Thánh Tông tin dùng Ông là người nổi tiếng giỏi văn chương 2. Tác phẩm Bài kí là một trong 82 bài văn bia ở Văn Miếu do Thân Nhân Trung soạn 1484 Câu 1 trang 32 SGK văn 10 tập 2: Hiền tài có vai trò quan trọng đối với đất nước: Câu 2 trang 32 SGK văn 10 tập 2: Ý nghĩa của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ: Câu 3 trang 32 SGK văn 10 tập 2: Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia tiến sĩ:
Talent is the vital energy of a nation - the famous saying of Than Nhan Trung reminds us to always appreciate talented people. That is not only true in ancient times but is also valid today. In any era, talented people play a very important role, being the backbone of the nation, helping the nation develop and achieve brilliant achievements. A country that is strong or weak, prosperous or weak depends on the great merit of people who are both virtuous and talented. Therefore, they need to be discovered and respected to be able to fully develop their talents and intelligence. These things were expressed very specifically by Than Nhan Trung in the article Talent is the vital energy of the nation. Below, I will guide you to prepare the article Talent is the vital energy of a nation. I- General understanding Talent is the vital energy of a nation 1. Author Than Nhan Trung once passed a doctorate and was trusted by King Le Thanh Tong He is famous for being good at literature 2. Works The inscription is one of 82 epitaphs at the Temple of Literature compiled by Than Nhan Trung in 1484 Question 1, page 32, grade 10 literature textbook, part 2: Talent plays an important role in the country: Question 2, page 32, grade 10 literature textbook, part 2: The meaning of engraving a stele with a doctor's name: Question 3, page 32, grade 10 literature textbook, part 2: Historical lessons learned from engraving doctoral stele:
Trích diễm thi tập là bộ hợp tuyển thơ văn có tiếng trong văn học Việt Nam. Theo Lê Quý Đôn bộ hợp tuyển này gồm 15 quyển, tuyển chọn thơ của các nhà thơ có tiếng đời Trần (từ Nguyễn Trung Ngạn) đến đầu đời Lê (đến Đàm văn Lễ, cuối sách có phụ thêm một số bài thơ của người soạn là Hoàng Đức Lương); nhưng đến thời ông chỉ “còn lại chưa đầy một nửa”. Sau thế kỉ 18, phần còn lại đó cũng bị thất lạc một thời gian dài, mãi gần đây mới tìm lại được. Vậy thì có gì hay và giá trị cất giấu trong đó, hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài Tựa trích diễm thi tập, mong rằng chúng sẽ giúp ích được các bạn ít nhiều trong việc học tập được tốt hơn nữa nhé. Bố cục: Câu 1 (trang 30 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) 5 nguyên nhân khiến sáng tác thơ văn của người xưa không được lưu truyền: Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, rõ ràng và khúc chiết: Câu 2 (trang 30 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Tác giả đã sưu tầm thơ văn của hiền nhân: Câu 3 (trang 30 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Điều thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn biên soạn: -> Cảm nghĩ: Đó là công việc gian nan và vô cùng đáng trân trọng, đặc biệt là tinh thần và thái đọ của tác giả. Câu 4 (trang 30 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2) Trước Trích diễm thi tập đã có Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi nói về văn hiến dân tộc: Như nước Đại Việt ta từ trước
Quote Diem Thi Tap is a famous poetry anthology in Vietnamese literature. According to Le Quy Don, this anthology includes 15 volumes, selecting poems from famous poets from the Tran Dynasty (from Nguyen Trung Ngan) to the early Le Dynasty (to Dam Van Le; at the end of the book there are some poems added by Editor is Hoang Duc Luong); but by his time only "less than half remained". After the 18th century, that remaining part was also lost for a long time, only recently found again. So what's the good and valuable thing hidden in it? Today I will help you prepare the article "Title excerpt diem thi tap", hoping that it will help you more or less in studying better. Layout: Question 1 (page 30 Literature textbook Grade 10, Volume 2) 5 reasons why ancient people's poetic compositions were not passed down: The art of arguing rigorously, clearly and concisely: Question 2 (page 30 Literature textbook Grade 10, Volume 2) The author has collected the poems of sages: Question 3 (page 30 Literature textbook Grade 10, Volume 2) What prompted Hoang Duc Luong to overcome difficulties and compile: -> Feeling: It is an arduous and extremely appreciable job, especially the spirit and attitude of the author. Question 4 (page 30 Literature textbook Grade 10, Part 2) Before Extract Diem Thi Tap, there was Nguyen Trai's Binh Ngo Dai Report talking about national culture: Like our Dai Viet country from before
Như chúng ta đã biết, văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp tri thức về các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, trong xã hội và đây là kiểu văn bản khoa học mà đã là khoa học thì tính chuẩn xác vô cùng cao, đòi hỏi những kiến thức nó mang đến phải sắc bén. Nhưng chuẩn xác thôi thì chưa đủ mà văn bản thuyết minh hay cần phải là văn bản có sự hấp dẫn đối với người đọc, người nghe, nếu không có sự hấp dẫn, văn bản chỉ dừng lại là một văn bản đúng chứ chưa hề hay. Sau đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh đầu đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu. Câu hỏi trang 24 SGK văn 10 tập 2 Câu 1 trang 26 SGK văn 10 tập 2 Phân tích luận điểm: “Nếu bị tước đi môi trường kích thích, bộ não của đứa trẻ sẽ phải chịu đựng kìm hãm” trở nên cụ thể, dễ hiểu, hấp dẫn”: Tác giả đưa ra hàng loạt những luận cứ nhỏ để làm vững cho luận luận điểm lớn nêu trên: Những luận cứ được trình bày một cách sinh động khiến cho đoạn văn trở nên hấp dẫn và thuyết phục người đọc. Câu 2 trang 26 SGK văn 10 tập 2 Phân tích tác dụng tạo hứng thú của việc kể lại truyền thuyết về hòn đảo A Mạ
As we know, explanatory text is a common type of text in all areas of life to provide knowledge about phenomena and things in nature and society, and this is the type of scientific text that Being a science, its accuracy is extremely high, requiring the knowledge it brings to be sharp. But being accurate is not enough, a good explanatory text needs to be an attractive text to the reader and listener. If there is no appeal, the text just stops being a correct text and is not at all true. nice. The following is a lesson preparation guide: Accuracy and attractiveness of the best expository text for grade 10 for your reference and understanding. Question page 24 of literature textbook grade 10, volume 2 Question 1, page 26, grade 10 literature textbook, part 2 Analyze the argument: "If deprived of a stimulating environment, the child's brain will suffer from inhibition" to become specific, understandable, and attractive: The author offers a series of small arguments to strengthen the above major argument: The arguments are presented vividly, making the paragraph attractive and convincing to the reader. Question 2, page 26, grade 10 literature textbook, part 2 Analyze the exciting effect of retelling the legend of A Ma island
Nguyễn Trãi là một trong ba đại thi hào lớn của dân tộc, là danh nhân văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc và thời đại. Đã từ lâu Nguyễn Trãi nổi tiếng với những bức thư có sức mạnh hơn mười vạn quân, đã giúp tránh được cảnh đầu rơi máu chảy, dân chúng loạn lạc khắp nơi. Có thể nói văn chính luận của Nguyễn Trãi quả là những trác tuyệt thời đại. Hôm nay mình muốn giới thiệu với các bạn một áng hùng văn thiên cổ, được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc –Bình Ngô đại cáo. Vậy thì với ý nghĩa và giá trị tư tưởng như nào mà tác phẩm lại được lưu danh ngàn đời như vậy. Hôm nay mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Bình Ngô đại cáo nhé. Mời các bạn tham khảo bài soạn dưới đây. Phần này đa được tìm hiểu kĩ trong phần Bình Ngô đại cáo tác giả, tác phẩm. Mời các bạn theo dõi ở bài soạn này nhé. Đoạn 1 (từ đầu đến “Chứng cớ còn ghi”): Khẳng định tư tưởng, nhân nghĩa và chân lí độc lập dân tộc của Đại Việt Đoạn 2 (từ “Vừa rồi” đến “Ai bảo thần dân chịu được”): Tố cáo, lên án tội ác của giặc Minh. Đoạn 3 (từ “Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa” đến “Cũng là chưa thấy xưa nay”): Kể lại diễn biến của cuộc chiến từ lúc mở đầu đến khi thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời khẳng định sức mạnh của quân và dân Đại Việt. Đoạn 4 (còn lại): Lời tuyên bố độc lập và rút ra bài học lịch sử. Đoạn mở đầu (“Từng nghe… chứng cớ còn ghi”) a. Nguyễn Trãi nêu nguyên lí chính nghĩa để làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng cho việc triển khai toàn bộ nội dung bài cáo. Trong nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi, có hai nội dung chính được nêu ra, đó là: b. Đoạn đầu mở đầu tuyên ngôn về độc lập dân tộc. Tác giả đã không chỉ đã đưa ra một chân lí về chính nghĩa và còn nêu ra chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước ta có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử, bao gồm: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời, lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt đời nào cũng có”. c. Để khẳng định quyền tự do, độc lập và để làm nổi bật lên niềm tự hào dân tộc, tác giả đã dùng những lời lẽ lập luận đầy sức thuyết phục với các từ ngữ khẳng định tính chất tự nhiên, vốn có, lâu đời của nước Đại Việt (từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác); cách sử dụng nghệ thuật so sánh trong những câu văn biền ngẫu (đối ứng giữa nước ta với Bắc Triều); cách nêu ra những dẫn chứng thực tiễn (chuyện Lưu Cung, Triệu Tiếc, Toa Đô). Cách lập luận này của Nguyễn Trãi đã làm cho lời tuyên ngôn giàu sức thuyết phục hơn. Đoạn 2 (“Vừa rồi… Ai bảo thần nhân chịu được”) a. Tác giả tố cáo những âm mưu, tội ác của giặc Minh: Âm mưu: Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Minh: vạch trần luận điệu phù Trần. Tội ác: b. Nghệ thuật cáo trạng: Vận dụng, kết hợp những chi tiết, hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát, lối liệt kê liên tiếp, hình ảnh kẻ thù đối lập với tính cách người dân vô tội. Dùng những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng. Giọng văn và nhịp điệu thay đổi linh hoạt, nhịp điệu nhanh dần. Lời văn: khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết, lúc nghẹn ngào, tấm tức,… a. Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Tác giả tập trung khắc hoạ hình tượng Lê Lợi – Người lãnh tụ nghĩa quân: Những khó khăn ở buổi đầu: Vận dụng chiến thuật quân sự: => Qua hình tượng Lê Lợi, Tác giả Nguyễn Trãi đã khắc hoạ được ý chí quyết tâm chống ngoại xâm, tinh thần đoàn kết đồng lòng vượt khó của dân tộc trong thời đại chống ngoại xâm. b. Giai đoạn phản công – Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa: Những trận tiến quân ra Bắc: Trận Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động. Chiến dịch diệt chi viện: Trận Chi Lăng, Mã Yên, Xương Giang. => Nghệ thuật miêu tả các trận đánh: Hình ảnh quân thù: Kết cục bi thảm của những tướng giặc ham sống sợ chết, tất cả bọn chúng đều hèn nhát, đều thất bại thảm hại: nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, tim đập chân run, … => Hình ảnh quân thù được miêu tả bằng chi tiết cụ thể, kết hợp với những hình ảnh mang tính tượng trưng, đặc biệt với thủ pháp đối lập: Qua đó càng nêu bật khí thế hào hùng, thắng lợi vẻ vang và bản chất nhân đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Càng nêu bật những thất bại thảm hại của kẻ thù. Câu 5 Đoạn kết Trong đoạn cuối, giọng văn chuyển sang trầm lắng, tự hào. Bởi đó là những lời tổng kết lịch sử mang đậm suy tư. Câu 6
Nguyen Trai is one of the three great poets of the nation, a cultural celebrity, and a great poet of the nation and the era. For a long time, Nguyen Trai was famous for his letters that had the strength of more than 100,000 soldiers, helping to avoid scenes of bloodshed and chaos among people everywhere. It can be said that Nguyen Trai's political essays are truly masterpieces of the era. Today I want to introduce to you an ancient heroic poem, considered the second declaration of independence of the nation - Binh Ngo Dai Cao. So with what meaning and ideological value is it that the work has been preserved for thousands of generations? Today I will guide you to prepare the poem Binh Ngo Dai Cao. Please refer to the article below. This part has been thoroughly studied in the section Binh Ngo Dai reported on the author and work. Please follow along in this article. Paragraph 1 (from the beginning to "Recording evidence"): Affirming the ideology, humanity and truth of national independence of Dai Viet Paragraph 2 (from "Just now" to "Who said the subjects could endure"): Denounce and condemn the crimes of the Ming enemy. Paragraph 3 (from "I am here on Lam Son Mountain" to "It is something that has never been seen before"): Recounts the progress of the war from the beginning to the complete victory. At the same time, it affirmed the strength of Dai Viet's army and people. Paragraph 4 (remaining): Declaration of independence and drawing historical lessons. Opening paragraph (“Ever heard… the evidence is still recorded”) a. Nguyen Trai stated the principle of justice as a support and a valid basis for implementing the entire content of the report. In Nguyen Trai's principles of justice, there are two main contents raised, which are: b. The first paragraph opens the declaration of national independence. The author has not only presented a truth about justice but also stated an objective truth about our country's independent and sovereign existence with a solid basis from historical practice, including: territory, customs, long-standing civilization, separate history, separate regime with "noble people in every generation". c. To affirm the right to freedom, independence and to highlight national pride, the author used convincing arguments with words that affirm the natural, inherent and long-standing nature of the nation. of Dai Viet (formerly, originally called, long ago, divided, also different); how to use the art of comparison in parallel sentences (corresponding between our country and North Korea); how to present practical evidence (stories of Luu Cung, Trieu Tieu, Toa Do). This way of reasoning by Nguyen Trai makes the declaration more convincing. Paragraph 2 (“Just now… Who said the gods could endure”) a. The author denounces the plots and crimes of the Ming enemy: Conspiracy: Nguyen Trai exposed the Ming enemy's invasion plot: exposed Tran's arguments. Crime: b. The art of indictment: Applying and combining details and images that are both specific and general, sequential listing, images of enemies contrasting with the personalities of innocent people. Use sentences rich in emotions and images. The tone and rhythm change flexibly, the rhythm gradually quickens. Lyrics: when anger boils, when compassion is passionate, when choked, angry,... a. The first stage of the uprising The author focuses on portraying the image of Le Loi - the leader of the insurgent army: Difficulties in the beginning: Applying military tactics: => Through the image of Le Loi, Author Nguyen Trai has portrayed the determination to fight foreign invaders and the spirit of solidarity to overcome difficulties of the nation in the era of fighting foreign invaders. b. Counterattack phase - Victory of the uprising: The battles to advance to the North: Battles of Tay Kinh, Dong Do, Ninh Kieu, Tot Dong. Campaign to destroy reinforcements: Battle of Chi Lang, Ma Yen, Xuong Giang. => Art depicting battles: Enemy image: The tragic end of the enemy generals who were eager to live and afraid of death, all of them were cowards, all failed miserably: they lost their senses when they heard the breath, they held their breath to escape, their hearts beat and their legs trembled,... => The image of the enemy is described in specific detail, combined with symbolic images, especially with opposing tactics: Thereby further highlighting the heroic spirit, glorious victory and character. humanitarian nature of the Lam Son uprising. It further highlights the enemy's disastrous failures. Question 5 Conclusion In the last paragraph, the tone turns quiet and proud. Because those are historical summaries filled with reflection. Question 6
Nguyễn Trãi là bậc anh hùng toàn tài hiếm có trong lịch sử. Tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng Lê Lợi, ông đã thể hiện mình là một chính trị gia, một nhà ngoại giao xuất sắc và lỗi lạc giúp Lê Lợi đánh tan quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc, cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Không chỉ thế, Nguyễn Trãi còn để lại cho nền văn học nước nhà nhiều tác phẩm thơ văn có giá trị như Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập. Vì những lí do đó, ông xứng đáng là một trong những đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tiếp cận tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, trước hết chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về cuộc đời và con người ông. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Đại cáo bình Ngô- Phần 1: Tác giả Nguyễn Trãi Câu 1 trang 13 SGK văn 10 tập 2: Nguyễn Trãi là nhân vật lịch sử vĩ đại vì ông đã có nhiều đóng góp cho đất nước trên mọi phương diện: Câu 2 trang 13 SGK văn 10 tập 2: Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi: Đại cáo bình Ngô, Quốc âm thi tập, Dục Thúy sơn, Bạch Đằng hải khẩu, Thư lại dụ Vương Thông, Côn Sơn ca… Giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu: Câu 3 trang 13 SGK văn 10 tập 2: Tâm hồn Nguyễn Trãi qua câu thơ: Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương Qua hai câu thơ trên, Nguyễn Trãi đã bày tỏ mong ước có cây đàn của vua Nghiêu Thuấn để gảy lên khúc ca ca ngợi cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trong những giờ phút thanh nhàn hiếm hoi, ông vẫn một lòng nghĩ cho dân, cho nước. Nhịp điệu câu thơ như chậm lại trong sự chiêm nghiệm, triết lí của nhà thơ. Qua đó, ta càng cảm phục tấm lòng nhân ái của Nguyễn Trãi. Với ông, nỗi lo lớn nhất bao giờ cũng hướng về nhân dân, đất nước Câu 4 trang 13 SGK văn 10 tập 2: Những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thơ Nguyễn Trãi Nội dung: => Hội tụ hai cảm hứng lớn là yêu nước và nhân đạo
Nguyen Trai is a rare and talented hero in history. Participating in the Lam Son uprising with Le Loi, he showed himself to be an excellent and eminent politician and diplomat, helping Le Loi defeat the invading Ming army, regaining independence for the nation. live in peace and happiness for the people. Not only that, Nguyen Trai also left behind many valuable poetic works such as Binh Ngo Dai Cao and Quoc Am Thi Tap. For those reasons, he deserves to be one of the nation's great poets and a world cultural celebrity. Approaching Nguyen Trai's work Binh Ngo Dai Cao, we will first learn about his life and personality. Below, I will guide you to prepare the article Great report on Ngo - Part 1: Author Nguyen Trai Question 1 on page 13 of grade 10 literature textbook, part 2: Nguyen Trai is a great historical figure because he made many contributions to the country in all aspects: Question 2, page 13, grade 10 literature textbook, part 2: Some typical works of Nguyen Trai: Dai Cao Binh Ngo, Quoc Am Thi Tap, Duc Thuy Son, Bach Dang Hai Khau, Thu La Lu Luu Vuong Thong, Con Son Ca... Introducing some typical works: Question 3, page 13, grade 10 literature textbook, part 2: Nguyen Trai's soul through the poem: There might be a fool who plays the guitar for a while Rich people everywhere demand direction Through the above two verses, Nguyen Trai expressed his wish to have King Nghieu Thuan's guitar to play a song praising the prosperous and happy life of the people. In his rare moments of leisure, he still single-mindedly thought about the people and the country. The rhythm of the verse seems to slow down in the poet's contemplation and philosophy. Through that, we admire Nguyen Trai's kindness even more. For him, the biggest worry is always towards the people and the country Question 4 on page 13 of grade 10 literature textbook, part 2: Basic values ​​of content and art of Nguyen Trai's poetry Content: => Converging two great inspirations: patriotism and humanity
Trước khi viết một bài văn, chúng ta phải có các ý sơ lược trong đầu. Tuy vậy sắp xếp chúng sao cho phù hợp, logic cũng là một bước khá quan trọng. Đó là bước cơ bản khi viết văn: lập dàn ý. Lập dàn ý là một khâu quan trọng trong quá trình làm văn. Đối với bài văn thuyết minh cũng vậy. Song việc lập dàn ý cho bài văn thuyết minh có gì giống và khác với việc lập dàn ý cho các kiểu văn bản khác? Chúng ta sẽ tìm hiểu điều này qua bài học “Lập dàn ý bài văn thuyết minh”. Qua bài học chúng ta thấy được sự cần thiết của việc lập dàn ý khi làm văn nói chung và viết bài văn thuyết minh nói riêng, rèn luyện kĩ năng lập dàn ý cho bài văn thuyết minh và củng cố vững chắc hơn kĩ năng lập dàn ý. Từ đó hình thành kĩ năng sử dụng văn thuyết minh. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Lập dàn ý bài văn thuyết minh”. Phù hợp với VB thuyết minh. Vì Văn bản thuyết minh cũng là kết quả của thao tác làm văn, người viết cũng cần giới thiệu, trình bày rõ các nội dung thuyết minh, có lúc cần miêu tả, nêu cảm xúc, trình bày sự việc,.. Giống: cơ bản tương đồng ở phần mở bài. Khác: ở phần kết bài. Phù hợp. Giới thiệu về tác giả văn học Nguyễn Trãi. 1. MB: Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Trãi (tên, hiệu, quê hương, gia đình và tầm vóc của ông trong lịch sử văn học dân tộc.) 2. TB: Giới thiệu các sự kiện nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Giới thiệu về sự nghiệp thơ văn 3. KB:
Before writing an essay, we must have preliminary ideas in mind. However, arranging them appropriately and logically is also a quite important step. That is the basic step in writing: making an outline. Outlining is an important step in the writing process. The same goes for expository essays. But how is making an outline for an expository essay similar and different from making an outline for other types of texts? We will learn about this through the lesson "Outlining an expository essay". Through the lesson, we see the necessity of making an outline when writing essays in general and writing expository essays in particular, practicing the skill of outlining expository essays and further solidifying the skill of making an outline for expository essays. Outline. From there, the skill of using expository text is formed. Below I will guide you in preparing the article "Establish an expository essay outline". Compatible with explanatory text. Because explanatory text is also the result of writing, the writer also needs to introduce and clearly present the explanatory content, sometimes need to describe, state emotions, present events, etc. Similar: basically similar in the introduction. Other: in the conclusion. Fit. Introduction to literary author Nguyen Trai. 1. MB: Brief introduction about author Nguyen Trai (name, title, hometown, family and stature in the history of national literature.) 2. TB: Introducing outstanding events in Nguyen Trai's life. Introduction to poetic career 3. KB:
Trong thực tế cuộc sống, vì điều kiện và hoàn cảnh thực tế, chúng ta có thể ko được đi thăm quan mọi thắng cảnh, di tích lịch sử- văn hóa nổi tiếng, thưởng thức các sản vật quý của nhiều vùng quê, ko biết hết về cuộc đời, sự nghiệp của nhiều danh nhân hay các tác giả, tác phẩm văn học nổi tiếng, có giá trị,… Nhưng chúng ta cũng có thể nắm bắt được những đặc điểm của chúng qua các bài văn thuyết minh. ở cấp II, các em đã được học về văn thuyết minh về một thể loại văn học, một phương pháp và một danh lam thắng cảnh. Vậy Văn bản thuyết minh có các hình thức kết cấu như thế nào? Bài học “Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh” giúp chúng ta trả lời câu hỏi đó. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh” a. Xác định đối tượng, mục đích thuyết mình của từng văn bản Văn bản Hội thi thổi cơm ở Đồng Vân. Văn bản : Bưởi Phúc Trạch. b. Các ý chính của từng văn bản: Văn bản: Hội thi thổi cơm ở Đồng Vân. Nội dung thuyết minh: Thi nấu cơm: Thủ tục bắt đầu. Lấy lửa. Nấu cơm. Chấm thi: Tiêu chuẩn. Cách chấm. Ý nghĩa của lễ hội đối với đời sống tinh thần của nhân dân. Văn bản: Bưởi Phúc Trạch. Nội dung thuyết minh: c. Về cách sắp xếp ý của hai văn bản Bưởi Phúc Trạch Văn bản Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân Cách sắp xếp các ý: Văn bản Bưởi Phúc Trạch Cách sắp xếp các ý: d. Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh bao gồm: Hình thức kết cấu: hỗn hợp. Nội dung thuyết minh:
In real life, because of real conditions and circumstances, we may not be able to visit all famous landscapes, historical and cultural relics, enjoy precious products of many rural areas, know all about the lives and careers of many famous and valuable authors, literary works, etc. But we can also grasp their characteristics through expository essays. In level II, children learned about expository writing about a literary genre, a method and a scenic spot. So what are the structural forms of explanatory text? The lesson "Structural forms of expository text" helps us answer that question. Below I will guide you to prepare the lesson "Structural forms of explanatory text" a. Determine the audience and purpose of each text Document of rice blowing contest in Dong Van. Text: Phuc Trach Grapefruit. b. Main ideas of each text: Text: Rice blowing contest in Dong Van. Explanation content: Cooking contest: Procedures begin. Get fire. Cook rice. Exam marking: Standards. How to score. The meaning of the festival to the spiritual life of the people. Text: Phuc Trach Grapefruit. Explanation content: c. On the arrangement of ideas in two Buoi Phuc Trach documents Document of the Festival of rice blowing competition in Dong Van How to arrange ideas: Document by Buoi Phuc Trach How to arrange ideas: d. Structural forms of explanatory text include: Texture form: mixed. Explanation content:
Nỗi oán của người phòng khuê lấy đề tài là nỗi sầu li biệt hận của người thiếu phụ khuê các-vốn không còn xa lạ gì trong thơ của Vương Xương Linh. Cảm hứng ấy được nhà thơ khai thác từ chính hiện thực đời sống là những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa xảy ra liên miên, nhiều cặp vợ chồng phải chăn gối chia lìa, người chồng ra mặt trận, người vợ ở lại trong niềm thương nỗi nhớ. Tấm lòng nhân đạo của nhà thơ đã rung động trước nỗi sầu li biệt của người thiếu phụ để cất lên niềm ai oán, xót thương cho chồng, và cũng là cho chính số phận mình. Qua đó, tác giả gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến đã phá hủy hạnh phúc của con người. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Nỗi oán của người phòng khuê 1. Tác giả 2. Tác phẩm Câu 1 trang 162 SGK văn 10 tập 1: Nghệ thuật cấu tứ của bài thơ thể hiện qua quá trình chuyển biến tâm trạng của người khuê phụ: Câu 2 trang 162 SGK văn 10 tập 1: Thấy màu dương liễu, nàng thấy hối hận vì đã để chồng đi kiếm tước hầu vì màu dương liễu là màu của li biệt. Nàng nhận ra chiến tranh là tai họa, nàng hối hận khi để chồng đi kiếm tước hầu ở nơi chiến trận. Hối hận vì phải trả giá quá đắt cho giấc mộng công danh, đó là tuổi xuân, tuổi trẻ, hạnh phúc
The resentment of the housewife takes as its theme the sorrow and hatred of the young woman of the housewife, which is no stranger to Vuong Xuong Linh's poetry. That inspiration was exploited by the poet from the reality of life: unjust feudal wars occurred constantly, many couples had to separate, the husband went to the front, the wife stayed behind in hope. love the nostalgia. The poet's humane heart was moved by the sadness of the young woman's separation to express her sorrow and pity for her husband, and also for her own fate. Thereby, the author indirectly denounces feudal society for destroying human happiness. Below, I will guide you to compose the article "The Resentment of a Housekeeper". 1. Author 2. Works Question 1, page 162, grade 10 literature textbook, part 1: The poetic art of structure is shown through the process of changing the mother's mood: Question 2, page 162, Literature Textbook Grade 10, Part 1: Seeing the color of willow, she regretted letting her husband go look for a marquis because the color of willow is the color of separation. She realized that war was a disaster, and she regretted letting her husband go look for a marquis at the battlefield. Regret having to pay too high a price for the dream of fame, which is spring, youth, happiness
Nếu kể tên mười nhà thơ Đường nổi tiếng nhất chưa chắc đã có Thôi Hiệu, nhưng nếu kể tên mười bài thơ Đường hay nhất thì không thể không có Hoàng Hạc Lâu. Thôi Hiệu bằng ngòi bút tài hoa của mình đã góp tô thêm cho lầu Hoàng Hạc một huyền thoại để đời. Người ta đến di tích ấy của Hồ Bắc đâu chỉ vì truyền thuyết cánh hạc vàng chấp chới của Phí Văn Vi, không chỉ vì ngự bên dòng Trường Giang bát ngát đắm mình trong khói sương huyền thoại lung linh, diệu bí mà còn vì một thi tác người xưa đề tặng. Vậy thì điều gì đã khiến Hoàng Hạc Lâu trở thành một trác tuyệt, hôm nay mình sẽ giúp các bạn soạn bài Hoàng Hạc Lâu nhé. Cảm ơn các bạn rất nhiều vì đã tham khảo bài soạn của chúng mình. Thôi Hiệu là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất Trung Quốc với những phá cách độc đáo. 2.Tác phẩm Hoàng Hạc lâu được đánh giá là một trong mười bài thơ Đường hay nhất Trung Quốc. Câu 1 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1) Nhan đề bài thơ là lầu Hoàng Hạc, tuy nhiên bài thơ không chỉ nói về vị trí địa lí của lầu, mà qua đó còn thể hiện mối quan hệ giữa không gian-thời gian, cảnh-tình, cảnh-người, đặc biệt là nỗi lòng của một lữ khách khao khát tìm về quá khứ, với cõi đời, cái đẹp đã mãi lìa xa. Câu 2 (trang 160 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1) Tác gải buồn vì cảnh đẹp nhưng nhìn lại bản thân mình lại còn thiếu sót và không xứng đáng với khung cảnh tuyệt mĩ nơi đây, đặc biệt là bởi cái đẹp ấy như đã mãi lài xa, chỉ còn trong niềm ngưỡng vọng.
If you name the ten most famous Tang poets, you probably won't include Thoi Hieu, but if you name the ten best Tang poems, you can't include Hoang Hac Lau. Thoi Hieu, with his talented pen, has contributed to making Hoang Hac Tower a lifelong legend. People come to that relic of Hubei not only because of the legend of Phi Van Vi's fluttering golden crane wings, not only because of sitting beside the immense Truong Giang river, immersing themselves in the legendary shimmering and mysterious mist, but also because of a Poems offered by the ancients. So what makes Hoang Hac Lau become a masterpiece? Today I will help you compose Hoang Hac Lau. Thank you very much for reviewing our article. Cui Hieu is one of the most famous poets in China with unique ways. 2. Works The Yellow Crane Tower is considered one of the ten best Tang poems in China. Question 1 (page 160 Literature textbook Grade 10, Part 1) The title of the poem is Hoang Hac pavilion, however the poem not only talks about the geographical location of the pavilion, but also shows the relationship between space-time, scene-love, scene-people, especially is the heart of a traveler who longs to find the past, the world, the beauty that has gone away forever. Question 2 (page 160 Literature textbook Grade 10, Volume 1) The author is sad because of the beautiful scenery, but looking back at himself, he is still lacking and unworthy of the beautiful scenery here, especially because that beauty seems to have been forever far away, remaining only in admiration.
Nhật Bản là cường quốc tại Châu Á và trên thế giới, quốc gia này không chỉ có một nền kinh tế đang vươn ra rất đáng ngưỡng mộ mà còn có nền văn hóa phong phú, thú vị và đặc biệt ở nơi đây có thơ Hai-cư vô cùng nổi tiếng. Với những bài thơ ít chữ, ít lời nhưng nhiều ý, cô đọng mà hàm súc, thơ Hai-cư mang đến cho người ta vô vàn những cảm xúc trong những con chữ tưởng chừng mỏng nhẹ mà lại có đôi cánh để bay lên. Nếu chỉ dùng một câu để nói về thơ Hai- cư có lẽ đó là câu định nghĩa dành cho thơ thời cổ: “Ngôn tận, ý nhi bất tận” tức là ngôn từ không thể nói được hết ý tứ thơ hay như câu: “Thi tại ngôn ngoại” tức ý ở ngoài lời. Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Thơ Hai-cư của Ba-sô đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về thơ Hai-cư của Ba-sô. 1. Tác giả 2. Thơ Hai- cư Câu 1 trang 157 SGK văn 10 tập 1 Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm được thể hiện qua các bài 1 và 2 qua: Câu 2 trang 157 SGK văn 10 tập 1 Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi thể hiện các bài 3, 4: Câu 3 trang 157 SGK văn 10 tập 1 Vẻ đẹp trong tâm hồn nhà thơ được thể hiện ở bài 5: => Ba-sô là một thi nhân có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, một tấm lòng nhân đạo thương xót cho những phận đời bé nhỏ. Câu 4 trang 157 SGK văn 10 tập 1 Mối tương giao giữa những sự vật, hiện tượng trog vũ trụ được thể hiện trong bài 6, 7 là: Câu 5 trang 157 SGK văn 10 tập 1 Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài thơ số 8:
Japan is a powerhouse in Asia and in the world. This country not only has an admirable growing economy but also has a rich and interesting culture, especially Japanese poetry. - extremely famous resident. With poems with few words, few words but many ideas, succinct yet concise, Hai-cu poetry brings people countless emotions in words that seem thin but have wings to fly. If we only use one sentence to talk about Haiku poetry, perhaps it is the definition for ancient poetry: "Endless words, endless thoughts" means words cannot express all the meaning of good poetry like the sentence: "Poetry is outside the words" means the meaning is outside the words. Below is the best complete Guide to Composing Ba-so's Hai-cu Poem for grade 10 for you to refer to and learn about Ba-so's Hai-cu poem. 1. Author 2. Haiku poetry Question 1, page 157, grade 10 literature textbook, part 1 The poet's close feelings for the city of Edo and his nostalgia for the beautiful capital city of Kyoto, full of memories, are expressed in poems 1 and 2: Question 2, page 157, grade 10 literature textbook, part 1 The author's feelings towards his mother and an abandoned baby are shown in lessons 3 and 4: Question 3, page 157, grade 10 literature textbook, part 1 The beauty in the poet's soul is expressed in poem 5: => Ba-so is a poet with a delicate, sensitive soul, a compassionate heart for the small lives. Question 4, page 157, grade 10 literature textbook, part 1 The relationship between things and phenomena in the universe is shown in lessons 6 and 7 as: Question 5, page 157, grade 10 literature textbook, part 1 Baso's desire to live and continue to wander is expressed in poem number 8:
Lập một kế hoạch cá nhân luôn là một hành động thể hiện tính tự giác và tự chủ không chỉ dành riêng cho các em học sinh, sinh viên mà nó còn dành cho tất cả mọi người. Mỗi một bản lập kế hoạch cá nhân cho mỗi công việc hay học tập đều mang lại những kết quả tốt đẹp, nó không chỉ giúp ích cho chúng ta hoàn thành kế hoạch một cách chỉn chu nhất mà nó còn giúp cho mỗi người tạo tính tự giác và kỷ luật riêng cho mình. Hôm nay, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Lập kế hoạch cá nhân Ngữ văn 10 tập 1 để thấy được tầm quan trọng và vai trò của nó trong học tập và đời sống hàng ngày 1. Đọc lại phần Mục lục ở cuối sách để nắm được các bài văn, Tiếng việt và Làm văn đã học và sẽ tiếp tục hoàn thành trong học kỳ I để xác định nội dung ôn tập 2. Phân bố thời gian ôn tập các phân môn Văn, Tiếng việt, Làm văn và tiếp tục học bài mới 3. Viết nội dung kế hoạch thành văn bản 1. Câu 1 Trang 153 SGK Ngữ văn 10 Tập 1 Văn bản trên chưa phải là một bản kế hoạch cá nhân hoàn chỉnh Vì: 2. Câu 2 trang 153 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Mẫu kế hoạch hoàn thiện KẾ HOẠCH CHUẨN BỊ ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH Chi đoàn:……………… Trường:……………… Năm học:……………… Người lập kế hoạch: Nguyễn Thị Thu Chức vụ: Bí thư chi đoàn I. Nội dung công việc chuẩn bị đại hội chi đoạn TNCS Hồ Chí Minh. 1. Viết dự thảo báo cáo. 2. Dự kiến nội dung của đại hội và cách thức tiến hành. 3. Xin ý kiến của Ban chấp hành đoàn trường và GV chủ nhiệm. 4. Họp Ban chấp hành để phân công công việc. II. Thời gian thực hiện Hoàn thành trước kì đại hội. 3. Câu 3 trang 153 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Bản kế hoạch cá nhân tham gia khóa đào tạo tin học do nhà trường tổ chức là KẾ HOẠCH THAM GIA KHÓA TIN HỌC CỦA TRƯỜNG Họ và tên: 1. Mục tiêu phấn đấu khi tham gia khóa học – Soạn thảo được văn bản cơ bản trên máy vi tính. – Có những hiểu biết về cài đặt, bảo trì máy vi tính. 2. Kế hoạch cụ thể cần làm khi tham gia khóa học Ghi tiên đăng ký khóa học
Making a personal plan is always an act of self-discipline and autonomy, not only for students but also for everyone. Each personal planning for each job or study brings good results. It not only helps us complete the plan in the most thorough way, but it also helps each person create character. Self-discipline and self-discipline. Today, I will guide you to prepare a personal planning lesson for Literature 10, part 1 to see its importance and role in learning and daily life. 1. Re-read the Table of Contents at the end of the book to understand the essays, Vietnamese and Writing that have been learned and will continue to be completed in the first semester to determine review content. 2. Allocate time to review the subjects Literature, Vietnamese, Writing and continue learning new lessons 3. Write the plan content into writing 1. Sentence 1 Page 153 Literature Textbook Grade 10 Volume 1 The above document is not a complete personal plan because: 2. Question 2, page 153, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 Completed plan template CONGRESS PREPARATION PLAN HO CHI MINH COMMUNIST YOUTH BRANCH Youth Branch:……………… School:……………… School year:……………… Planner: Nguyen Thi Thu Position: Union branch secretary I. Content of the preparation work for the Ho Chi Minh Communist Youth Union chapter's congress. 1. Write a draft report. 2. Expected content of the congress and how it will be conducted. 3. Ask for opinions from the school union executive committee and homeroom teacher. 4. Executive Committee meeting to assign work. II. Execution time Completed before the congress. 3. Question 3, page 153, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 The personal plan to participate in the computer training course organized by the school is PLAN TO PARTICIPATE IN THE SCHOOL'S INFORMATICS COURSE First and last name: 1. Goals to strive for when participating in the course – Can edit basic documents on computers. – Have knowledge about computer installation and maintenance. 2. Specific plans to make when participating in the course Register for the course
Trình bày một vấn đề là kĩ năng giao tiếp quan trọng trong đời sống của con người. Trình bày một vấn đề giúp chúng ta bày tỏ một cách rõ ràng và chính xác nguyện vọng, suy nghĩ và nhận thức của mình. Bên cạnh đó, nó còn giúp chúng ta thuyết phục người khác cảm thông hoặc đồng tình với mình. Trình bày một vấn đề tạo nên thành công của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống. Trong bài Trình bày một vấn đề, chúng ta cần nắm được tầm quan trọng của trình bày một vấn đề trước tập thể, nắm được các yêu cầu cơ bản và biết cách trình bày một vấn đề, lập đề cương và trình bày mọt vấn đề trước tập thể. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Trình bày một vấn đề Câu 1 trang 150 SGK văn 10 tập 1: (1) Bắt đầu trình bày (2) Trình bày nội dung chính: (3) Chuyển qua chủ đề khác: (4) Tóm tắt và kết thúc nội dung trình bày: Câu 2 trang 151 SGK văn 10 tập 1: Dự kiến các ý cần trình bày cho mỗi đề tài: a. Nét thanh lịch trong ứng xử hàng ngày: b. Nghệ thuật gây thiện cảm c.Thần tượng của tuổi học trò d. Giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của tất cả mọi người Là học sinh, chúng ta có thể giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp bằng một số hành động sau: e. An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi con người
Presenting a problem is an important communication skill in human life. Presenting a problem helps us clearly and accurately express our wishes, thoughts and perceptions. Besides, it also helps us convince others to sympathize or agree with us. Presenting a problem that creates human success in all areas of life. In the lesson "Presenting a problem", we need to understand the importance of presenting a problem in front of a group, grasp the basic requirements and know how to present a problem, make an outline and present a problem. topic before the group. Below, I will guide you to prepare an article to present a problem Question 1, page 150, grade 10 literature textbook, part 1: (1) Start presenting (2) Presentation of main content: (3) Switch to another topic: (4) Summary and conclusion of the presentation: Question 2, page 151, grade 10 literature textbook, part 1: Expected ideas to present for each topic: a. Elegance in everyday behavior: b. Art causes sympathy c.Idol of school age d. Maintain a green, clean and beautiful environment Environmental protection is everyone's responsibility As students, we can keep the environment green, clean, and beautiful with some of the following actions: e. Traffic safety is the happiness of every person
Một năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa đều mang lại cho thiên nhiên, con người những xúc cảm hết sức khác biệt. Nếu mùa xuân đem lại sự tươi mới, mùa hạ là những ánh nắng ấm áp, dòng sông, con suối.. như đang sục sôi nhựa sống, mùa đông cả thiên nhiên chìm trong một giấc ngủ dài thì mùa thu mang lại cho người ta sự khoan khoái riêng. Chính vì thế mà mùa thu là đề tài quen thuộc của các nhà văn, nhà thơ. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng các bạn soạn bài Cảm xúc mùa thu Ngữ văn 10 tập 1 của nhà thơ Đỗ Phủ để cảm nhận được cảnh sắc thiên nhiên trong thơ của ông và tâm trạng của tác giả trước thời cuộc. 1. Tác giả 2. Tác phẩm 1. Câu 1 trang 147 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Bố cục bài thơ Chia bố cục bài thơ như vậy vì: Bốn câu thơ đầu để tả cảnh, bốn câu thơ sau để tả tình. Mỗi phần có tình thống nhất về mặt nội dung và cảm nhận của tác giả. 2. Câu 2 trang 147 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Sự thay đổi của tầm nhìn từ bốn câu thơ đầu đến bốn câu thơ sau là: Sở dĩ có sự thay đổi của không gian như thế là vì thời gian đang khép lại (chiều dần buông, tầm nhìn bắt đầu thu hẹp). Và thêm nữa để nó phù hợp với sự vận động của tứ thơ (từ cảnh đến tình). 3. Câu 3 trang 147 SGK Ngữ văn 10 tập 1 1. Câu 1 trang 147 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Đối chiếu bản dịch thơ của Nguyễn Công Trứ với bản phiên âm và phần dịch nghĩa, ta có mấy nhận xét sau: Bản dịch thơ khá đạt và sát nghĩa so với nguyên tác của bài thơ. Nhưng vẫn còn có một số hạn chế như sau: Trong nguyên tác “điêu thương” là một tính từ đã được động từ hóa (làm tiêu điều). Vì vậy ở trong bản phiên âm nó mang nghĩa rất mạnh – chỉ sự tàn phá khắc nghiệt của sương đối với rừng phong. Chữ “thẳm” trong câu ba (bản dịch) chưa thật sát nghĩa, còn làm cho âm hưởng thơ trầm xuống.. Câu 5, bản dịch bỏ mất chữ “lỡng khai” – là một từ quan trọng của bản phiên âm – nhấn mạnh số lần lặp lại. Cũng vậy ở câu 6, chữ “cô” cha dịch được làm cho câu thơ cha thật sự thể hiện được nỗi lòng của kẻ li hương.
There are four seasons in a year: Spring, summer, autumn, winter. Each season brings very different emotions to nature and people. If spring brings freshness, summer brings warm sunshine, rivers, streams... seem to be boiling with vitality, in winter the whole nature sinks into a long sleep, then autumn brings people I have my own pleasure. That's why autumn is a familiar topic for writers and poets. Today, we will work with you to compose Autumn Emotions Literature Grade 10, Volume 1 by poet Do Phu to feel the natural scenery in his poetry and the author's mood before the times. 1. Author 2. Works 1. Sentence 1 page 147 Literature textbook grade 10, part 1 Poem layout Divide the layout of the poem like this because: The first four verses are to describe the scene, the last four verses are to describe the love. Each part has unity in content and author's feeling. 2. Question 2, page 147, Literature Textbook Grade 10, Part 1 The change of vision from the first four verses to the following four verses is: The reason why there is such a change in space is because time is closing (as afternoon gradually falls, visibility begins to narrow). And more so that it fits with the movement of the four poems (from scene to love). 3. Question 3, page 147, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 1. Sentence 1 page 147 Literature textbook grade 10, part 1 Comparing the translation of Nguyen Cong Tru's poem with the transcription and translation, we have the following observations: The translation of the poem is quite satisfactory and close to the original text of the poem. But there are still some limitations as follows: In the original work, "hurting" is an adjective that has been verbified (to destroy). So in the transcription it has a very strong meaning - indicating the harsh destruction of the dew on the maple forest. The word "deep" in sentence three (translation) is not quite literal and makes the poem's sound dull. In sentence 5, the translation omits the word "open" - which is an important word in the transcription - emphasized. strong number of repetitions. Likewise in verse 6, the word "she" he translated made the poem truly express the feelings of the person who left his country.
Quê hương, hai tiếng thiêng liêng ấy luôn khiên trái tim mỗi chúng ta rung lên bâng khuâng và đầy bồi hồi khi ai đó xa quê, xa xứ. Và cũng chính vì vậy mà quê hương luôn là một trong những đề tài bất diệt, cảm hứng bất tận cho mỗi người làm nghệ thuật kể từ xưa cho đến nay. Nhắc đến quê hương chúng ta không thể không nhắc đến bài “Hứng trở về” của Nguyễn Trung Ngạn, một trong những nhà thơ nổi tiếng nước ta. Trong chương trình ngữ văn 10 tập 1 chúng ta lần này cũng nhau tìm hiểu về ý nghĩa và nội dung bài thơ “Hứng trở về” lớp 10. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Hứng trở về của Nguyên Trung Ngạn. Việc soạn bài ở nhà là bước chuẩn bị bài cần thiết trước khi lên lớp. 1. Tác giả Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Hưng Yên), đỗ Hoàng giáp năm 16 tuổi. Khoảng năm 1314 – 1315 ông được cử sang sứ đáp lêc nhà Nguyễn. Ông làm quan đến chức Thượng Thư, còn để lại tác phẩm “Giới Hiên thi tập” 2. Tác phẩm Bài thơ “hứng trở về” được sáng tác khi Nguyễn Trung Ngạn đang đi sứ ở Giang Nam (Trung Quốc) Câu 1 trang 142 SGK ngữ văn 10 tập 1:
Homeland, those two sacred words always make each of our hearts vibrate with sadness and excitement when someone is far away from home or country. And that is why the homeland has always been one of the eternal topics and endless inspiration for every artist from ancient times to the present. When talking about our homeland, we cannot help but mention the song "Returning" by Nguyen Trung Ngan, one of our country's famous poets. In the 10th grade literature program, episode 1, this time we will also learn about the meaning and content of the poem "Eager to Return" for grade 10. Below, I will guide you to compose the poem "Eager to Return" by Nguyen Trung Ngan. Preparing lessons at home is a necessary preparation step before going to class. 1. Author Nguyen Trung Ngan (1289 - 1370), nickname Bang Truc, nickname Gioi Hien, from Tho Hoang village, Thien Thi district (now Hung Yen), passed the Hoang Giap exam at the age of 16. Around 1314 - 1315, he was sent as an ambassador to respond to the Nguyen Dynasty. He rose to the position of Minister and left behind the work "Gioi Hien Thi Tap" 2. Works The poem "Inspiration to return" was composed when Nguyen Trung Ngan was on a mission in Jiangnan (China). Question 1 page 142 Literature textbook grade 10, part 1:
Cáo tật thị chúng là một bài kệ nổi tiếng của Mãn giác thiền sư. Qua bài kệ này, Mãn giác thiền sư đã truyền tải một cách nhẹ nhàng những bài học đạo đức, triết lí nhân sinh của nhà Phật đến người đọc. Ngoài yếu tố giáo dục, hướng con người tới những giá trị chân- thiện- mĩ, bài thơ còn có ý nghĩa văn chương, thể hiện tinh thần, ý chí bất diệt của con người trước vòng quay khắc nghiệt của tạo hóa và vũ trụ. Tìm hiểu Cáo tật thị chúng của Mãn giác thiền sư, ta còn nhận ra quy luật thời gian tuyến tính trong thơ cổ: thời gian là một vòng tuần hoàn khép kín, luân hồi. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Cáo bệnh, bảo mọi người lớp 10 hay đầy đủ nhất 1. Tác giả Mãn giác thiền sư là nhà sư nổi tiếng thời Lý, từng được mọi người hết sức kính nể 2. Tác phẩm Cáo tật thị chúng là tác phẩm thi kệ nổi tiếng thời văn học Lý- Trần Bài kệ là một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương Câu 1 trang 141 SGK văn 10 tập 1: Hai câu thơ đầu nói lên quy luật biến đổi của tự nhiên: Sự sống là một vòng tuần hoàn có tính luân hồi Nếu đảo vị trí câu 2 lên trước thì nó sẽ thể hiện quy luật xuân tới- xuân qua, hoa tươi- hoa rụng chứ không theo quy luật phát triển tự nhiên Câu 2 trang 141 SGK văn 10 tập 1: Câu 3 và 4 nói lên quy luật sinh lão bệnh tử trong đời sống con người. Câu thơ thể hiện niềm bâng khuâng nuối tiếc vì thời gian của vũ trụ thì vô thủy vô chung còn thời gian của con người thì hữu hạn. Thời gian trôi đi, tuổi già đến là điều không thể tránh khỏi Câu 3 trang 141 SGK văn 10 tập 1: Hai câu cuối mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên một triết lí của nhà Phật, vì vậy nó không mâu thuẫn với hình ảnh ở hai câu đầu. Hình ảnh cành mai đã vượt lên quy luật vận động và biến đổi của thiên nhiên. Cành mai thể hiện sức sống mãnh liệt của con người. Nó vượt lên tất cả sự sống, chết, thịnh suy
Reporting to the public is a famous verse by Zen master Man Giac. Through this verse, Zen Master Man Giac gently conveyed Buddhist moral lessons and philosophy of life to readers. In addition to the educational element, guiding people toward the values ​​of truth, goodness, and beauty, the poem also has literary significance, expressing the spirit and eternal will of man in the face of the harsh cycle of creation and the universe. pillar. Studying Zen master Man Giac's "Reporting to the Public", we also recognize the rule of linear time in ancient poetry: time is a closed cycle, reincarnation. Below, I will guide you to prepare the most complete Report of Sickness and Tell Everyone for Grade 10 1. Author Zen Master Man Giac was a famous monk of the Ly Dynasty and was greatly respected by everyone 2. Works "Reporting to the Public" is a famous poetic work of the Ly-Tran literary period The verse is a hidden philosophical statement in the form of literary art Question 1, page 141, grade 10 literature textbook, part 1: The first two verses express the law of natural change: Life is a cycle of reincarnation If sentence 2 is reversed, it will show the rule of spring coming - spring passing, fresh flowers - falling flowers, not the law of natural development. Question 2, page 141, grade 10 literature textbook, part 1: Sentences 3 and 4 speak about the law of birth, old age, illness, and death in human life. The poem expresses sadness and regret because the time of the universe is beginningless and endless while human time is finite. Time passes and old age is inevitable Question 3, page 141, grade 10 literature textbook, part 1: The last two sentences borrow images of nature to express a Buddhist philosophy, so they do not contradict the images in the first two sentences. The image of apricot branches has surpassed the laws of movement and change of nature. Apricot branches represent the strong vitality of people. It transcends all life, death, prosperity and decline
Vào thời nhà Tiền Lê dựng nghiệp, Vua Lê Ðại Hành rất kính trọng một vị Thiền Sư tên Pháp Thuận, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư. Người này được mệnh danh là vị sư mà nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Ông cũng là một nhà thơ nhưng đời sau lưu truyền lại lại chỉ có một bài thơ duy nhất mang tên “Quốc tộ”. Đây là bài thơ mà ông dùng để trả lời ngắn gọn câu hỏi mà Lê Đại Hành hỏi ông về “vận nước”, bài thơ mang tên “Vận nước” (Quốc tộ). Trong chương trình ngữ văn lớp 10 chúng ta sẽ đến với bài thơ này. Sau đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Vận nước (Quốc tộ) đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài Vận nước (Quốc tộ). 1. Tác giả: 2. Tác phẩm: Câu 1 trang 139 SGK văn 10 tập 1 Tác giả so sánh “Vận nước như dây mây leo quấn quýt” nhằm diễn tả: Câu 2 trang 139 SGK văn 10 tập 1 Cảm nhận về: Câu 3 trang 139 SGK văn 10 tập 1
During the founding of the Early Le Dynasty, King Le Dai Hanh highly respected a Zen Master named Phap Thuan. He often did not call him by name, only calling him Do Phap and entrusted the drafting of documents to him. This person is known as the monk whose every word he speaks is in accordance with the prophecy. He was also a poet, but later generations passed down only one poem called "National Nation". This is the poem that he used to briefly answer the question that Le Dai Hanh asked him about "the fortunes of the country", the poem is called "The Fate of the Nation". In the 10th grade literature program we will come to this poem. The following is the best and complete guide to preparing the lesson "The Movement of Water" for grade 10 for you to refer to and learn about the lesson "The Movement of Water" (National Country). 1. Author: 2. Works: Question 1, page 139, grade 10 literature textbook, part 1 The author compares "The fortunes of water are like tangerine vines and rattan vines" to describe: Question 2, page 139, grade 10 literature textbook, part 1 Comments about: Question 3, page 139, grade 10 literature textbook, part 1
Văn chương là một phần của nghệ thuật, là nơi các nghệ nhân tài hoa phô diễn khả năng của mình qua những tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học hay không chỉ là có cốt truyện ý nghĩa, tư tưởng lớn, nội dung truyền đạt phong phú và cảm xúc mãnh liệt mà còn có nghệ thuật đặc sắc. Trong một bài văn,nghệ thuật chính là một phương thức giúp biểu đạt nội dung một cách hay nhất, và chạm đến trái tim người đọc. Trong nghệ thuật có các biện pháp nghệ thuật như phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ và hoán dụ,… Trong chương trình ngữ văn lớp 10, các em học sinh được thực hành về phép ẩn dụ và hoán dụ nhiều hơn để biết cách vận dụng nó một cách tốt nhất. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ lớp 10 hay nhất do biên soạn để các bạn tham khảo thêm nhé Câu 1 trang 135 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a, Nội dung ý nghĩa khác là: Hình ảnh con đò (thuyền)- Cây đa (bến) được tạo dựng để gợi nhắc đến hình ảnh nguwofi ra đi và người ở lại b, Từ “thuyền”, “bến” trong câu 1 và “cây đa bến cũ”, “con đò” ở câu 2 có sự khác nhau về hiện thực nhưng xét về hàm nghĩa, biểu tượng thì những sự vất ấy là những liên tưởng giống nhau mang hàm nghĩa chỉ người ra đi và người ở lại Từ nhũng sự vật như thuyền bến cây đa, bến cũ con đò đều là những sự vật gắn liền với nhau trong thực tế ở các làng quê. Có lẽ vì vậy mà tác giả sử dụng các sự vật ấy để thể hiện tình cảm gắn bó keo sơn giữa con người với con người. Cây đa bến cũ thường là những vật ổn đinh, thường dùng để chỉ những người phụ nữ thủy chung, đợi chồng. Còn thuyền và con đò là những vật không cố đinh nên được hiểu là người con trai, người ra đi Câu 2 trang 135 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Phân tích phép ẩn dụ (1) Hình ảnh ẩn dụ: Lửa lựu, (hoa đỏ như màu lửa). Cách ẩn dụ ấy để miêu tả cảnh sắc rực rỡ và sinh động của cây luwuj đến mùa ra hoa và sức sống mãnh liệt của mùa hè (2) Biện pháp ẩn dụ được sử dụng: Phép ẩn dụ được sử dụng ý nói đến loại văn nghệ hão huyền trốn tránh thực tế và không phản ánh đời sống hiện thực. Thứ tình cảm gầy gò ý muốn nói đến những người nghệ sĩ mãi đi theo con đường mòn, không có sự sáng tạo và cái tôi độc đáo (3) Ẩn dụ “Giọt” âm thanh của tiếng chim chiền chiện đã miêu tả thứ âm thanh trong trẻo của loài chim chiền chiện như giọt sương mai buổi sớm, đánh thức trogn buổi bình minh (4) Ẩn dụ được sử dụng Từ biện pháp ẩn dụ được sử dụng, câu nói thể hiện sự bền bỉ, vững tin của sự nghiệp cách mạng dẫu trải qua bao nhiêu gian khổ và khó khăn (5) Ẩn dụ Câu 3 trang 135 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Ví dụ a, Ngoài trời sắp nổi giông bão, mình ngửi thấy vị của mưa b,Ngày ngày mặt trời đi qua trên Lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Câu 1 trang 136 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a, Phân tích hoán dụ (1) Đầu xanh: tóc còn xanh, người trẻ tuổi Má hồng: chỉ người thiếu nữ, trong câu ý muốn nhắc đến Thúy Kiều (2) Áo nâu: người nông dân xưa Áo Xanh: người công nhân b, Trong trường hợp, khi chúng ta gặp phải một đối tượng đã bị tác giả thay đổi cách gọi tên, để hiểu đúng được đối tượng ấy, chúng ta phải chú ý xem tác giả đã chọn cái gì để thay thế các đối tượng ấy. Cái được tác giả chọn để thay thế thường là một bộ phận, một tính chất, một đặc điểm nào đó… tiêu biểu. Phương thức chuyển đổi nghĩa này là phép tu từ hoán dụ. Nó giúp cho việc gọi tên sự vật, hiện tượng… trở nên phong phú, sinh động và hấp dẫn hơn. (sgk) Câu 2 trang 137 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a, Tác giả Nguyễn Bình viết trong bài thơ Tương tư: Phép ẩn dụ: “Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào”. Hình ảnh trầu và cau được sử dụng để chỉ hai nhân vật trữ tình đang thương nhớ nhau. Một mối quan hệ rất khăng khít không thể tách rời được Phép hoán dụ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Dung hai tên địa phương để hoán dụ cho con người ở thôn đó. Đây là cách bộc lộ tình cảm một cách duyên dáng tế nhị b, Cùng là nói về tình yêu và nỗi nhớ người yêu nhưng nếu câu ca dao “Thuyền ơi có nhớ bến chăng…?” sử dụng những hình ảnh liên tưởng đã cũ và theo lối mòn thì cách sử dụng hình ảnh của Nguyễn Bính trong tương tư lại rất độc đáo mà lại đủ duyên dáng. Tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Câu 3 trang 137 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Ví dụ một số câu văn có sử dụng phép hoán dụ:
Literature is a part of art, where talented artists show off their abilities through literary works. A good literary work not only has a meaningful plot, great ideas, rich content and intense emotions, but also has unique art. In an essay, art is a method that helps express the content in the best way, and touches the reader's heart. In art, there are artistic devices such as comparison, personification, metaphor and metonymy, etc. In the 10th grade literature program, students practice metaphor and metonymy more to know more. how to best use it. Below are instructions for preparing the best lesson on Practicing Rhetorical Metaphors and Metaphors for grade 10 compiled for your further reference. Question 1, page 135, grade 10 literature textbook, volume 1 a, Other meaningful content is: The image of a boat (boat) - The banyan tree (dock) was built to remind of the image of people leaving and people staying behind. b, The words "boat", "pier" in sentence 1 and "old banyan tree", "boat" in sentence 2 have differences in reality, but in terms of meaning and symbolism, those things are Similar associations mean those who leave and those who stay Things like the boat at the banyan tree dock, the old boat dock, are all things that are linked together in reality in the villages. Perhaps that's why the author uses those things to express the close bond between people. Old banyan trees are often stable objects, often used to indicate faithful women, waiting for their husbands. The boat and the ferry are unstable objects, so they are understood as the son, the person who left Question 2, page 135, grade 10 literature textbook, volume 1 Analyzing metaphors (1) Metaphor: Pomegranate fire, (red flower like the color of fire). That metaphor describes the vibrant and vivid scenery of the tree during the flowering season and the intense vitality of summer. (2) Metaphors are used: The metaphor used refers to the type of illusory literature that avoids reality and does not reflect real life. The skinny sentiment refers to artists who always follow the same path, without creativity and unique ego. (3) The metaphor "Drop" of the sound of the lark describes the clear sound of the lark as a drop of morning dew, awakening in the dawn. (4) Metaphors are used From the metaphor used, the saying shows the perseverance and steadfastness of the revolutionary cause despite many hardships and difficulties. (5) Metaphor Question 3, page 135, grade 10 literature textbook, volume 1 For example a, It's about to get stormy outside, I can smell the rain b, Every day the sun passes over the Mausoleum Seeing a red sun in the steering so Question 1, page 136, grade 10 literature textbook, volume 1 a, Metaphor analysis (1) Green head: green hair, young person Pink cheeks: refers to a young woman, the sentence refers to Thuy Kieu (2) Brown shirt: ancient farmer Green Shirt: worker b, In case, when we encounter an object whose name has been changed by the author, to properly understand that object, we must pay attention to what the author has chosen to replace the objects. that. What the author chooses to replace is usually a typical part, a property, a characteristic... This method of converting meaning is rhetorical metonymy. It helps the naming of things, phenomena... become richer, more vivid and more attractive. (sgk) Question 2, page 137, grade 10 literature textbook, volume 1 a, Author Nguyen Binh wrote in the poem Tuong Tuong: Metaphor: "Areca nuts from Doai village miss betel nuts from any village". The images of betel and areca are used to refer to two lyrical characters who are missing each other. A very close relationship that cannot be separated Metaphor "Doai village sits and misses Dong village". Use two local names to synonymize the people in that village. This is a graceful and delicate way to express your feelings b, The same thing is about love and missing your lover, but if the folk song "Boat, do you miss the dock...?" Using old and outdated images, Nguyen Binh's way of using images in his thoughts is very unique and charming. Create attraction for readers. Question 3, page 137, grade 10 literature textbook, volume 1 For example, some sentences using metonymy:
Thân phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến chịu bao nhiêu uất ức, tủi nhục. Đồng cảm với những số phận bi ai, những con người có thân phận bé nhỏ trong xã hội, ta có thể cảm nhận điều đó qua những tác phẩm văn học đương thời. Nguyễn Du là một nhà thơ như thế, ông đã khắc họa một nhân vật Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời trôi nổi, lênh đênh. Hôm nay, chúng ta cùng được tìm hiểu một tác phẩm cùng trong chủ đề đó bài thơ Đọc tiểu thanh lý. Bài thơ là cái nhìn đầy cảm thông, sâu sắc cho một người phụ nữ không chỉ xinh đẹp mà còn tài năng nhưng tiếc thay cái tài cái sắc của nàng bị xã hội chà đạp. Mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Đọc tiểu thanh kí Ngữ văn 10 tập 1 để cảm nhận rõ hơn điều đó 1. Tác giả 2. Tác phẩm 1. Câu 1 trang 133 SGK Ngữ văn 10 tập 1 2. Câu 2 trang 133 SGK Ngữ văn 10 tập 1 3. Câu 3 trang 133 SGK Ngữ văn 10 tập 1 4. Câu 4 trang 133 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận kết) đối với chủ đề toàn bài: Đoạn thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du Hồng nhan tự thủa xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu. Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
The fate of women in feudal society suffered many frustrations and humiliations. Sympathizing with the tragic fates and people with small status in society, we can feel that through contemporary literary works. Nguyen Du is such a poet, he portrayed a character Thuy Kieu who is talented and beautiful but whose life is floating and adrift. Today, we will learn about a work on the same topic, the poem Reading Little Liquidation. The poem is a sympathetic and profound look at a woman who is not only beautiful but also talented, but unfortunately her talent and beauty are trampled on by society. I will guide you to prepare the lesson Reading Tieu Thanh Ky Literature 10, Part 1 to understand that more clearly 1. Author 2. Works 1. Question 1, page 133, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 2. Question 2, page 133, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 3. Question 3, page 133, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 4. Question 4, page 133, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 The role of each poem (topic, fact, conclusion) to the overall theme: Poem from The Tale of Kieu by Nguyen Du Red beauty from ancient times, The unfortunate thing doesn't spare anyone. The thought that comes with pain,
Trong các thể loại văn học, tự sự là thể loại gần gũi nhất và hơn hết nó mang sự đa dạng và phong phú về nội dung, chủ đề của như đối tượng. Văn tự sự là đất để các nghệ sĩ pho diễn tài năng của mình bằng đôi mắt tinh tường nhìn nhận mọi chiều cạnh của cuộc sống và ngòi bút tài hoa cùng nghệ thuật tài tình. Các văn bản tự sự có đoạn ngắn, có bài dài đặc biệt như tiểu thuyết,.. Chính vì vậy để cho người nghe, người đọc ban đầu nắm được chủ dề và nội dung chính của tác phẩm người ta thường tóm tắt sơ lược văn tự sự một cách ngắn ngọn và giản lược nhưng vẫn đủ truyền tải thông tin cần thiết. Cụ thể trong chương trình ngữ văn lớp 10 chúng ta sẽ được học cách tóm tắt văn bản tự sự. Dưới đây là hướng dẫn tóm tắt văn bản tự sự lớp 10 hay nhất do chúng tôi dày công biên soạn để các bạn tham khảo thêm trong quá trình tiếp cận kiến thức mới nhé. 1.Mục đích, yêu cầu (sgk) 2.Cách tóm tắt văn tự sự theo nhân vật chính Câu 1 trang 120 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Tóm tắt truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy Vua An Dương Vương nước Âu Lạc là Thục Phán, vua phát lệnh xây thành ở đất Việt Thường nhưng hễ cứ xây đến đâu lại đổ đến đấy. Một hôm có một cụ già từ phương Đông tới nói rằng;” Sẽ có sứ Thanh Giang đến giúp nhà vua xây thành”. Nghe vậy, hôm sau nhà vua mừng rõ cho người ra đón mới biết sứ Thanh Giang là một con rùa vàng. Thành trì được sự giúp đỡ của rùa vàng nửa tháng đã dựng lên kiến cố vững chắc. Trước khi về biển rùa vàng tháo đưa cho nhà vua một cái nỏ để chống giặc ngoại xâm. Nhờ thành cao, hào sâu và nỏ thần, quân Triệu Đà đã bại trần xin hàng và xin kết thông gia. An Dương Vương có con gái là Mị Châu liền gả cho Trọng Thủy mà không hề nghi ngờ. Trọng Thủy muốn đi xem nỏ thần, Mị Châu lén đưa nỏ thần cho trọng Thủy xem và bị đánh tráo. Một hôm, nhà vua đang ngồi chơi cơ, quân lính đọt chạy vào báo tin quân Triệu Đà dấy binh tấn công thành trì, nhà vua vẫn thờ ơ, ung dung tiếp tục chơi cờ, quân địch gần đến nới nhà vua lôi nỏ thần của rùa vàng ra nhưng không hề sử dụng được. Bại trận, vùa chạy trốn mang theo công chúa Mị Châu, nang lại dải lông ngỗng làm tin cho Trọng Thủy. Bị đuổi đến bên vực, rùa vàng hiện lên, nói cho vua biết sự tình, cũng là lúc quân Triệu Đà đuổi đến nơi, nhà vua rút gươm chém chết Mị Châu và theo rùa vàng về biển. Câu 2 trang 120 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Mị Châu là công chúa của nước Âu Lạc, cha nàng là vua An Dương Vương. Sau khi Triệu Đà thua trận xin cầu hoà và muốn được kết thông gia, nàng được vua cha thuận ý gả cho Trọng Thuỷ- con trai Triệu. Đà Mị Châu rất yêu thương chồng lại ngây thơ tin tưởng nên đã vô tình đem bí quyết nỏ thần ra nói với Trọng Thủy, và bị đánh tráo nỏ thần. Có được nỏ thần, Trọng Thuỷ muốn xin về, Mị Châu lại nói: “Sau này, nếu có gặp cảnh biệt li thì cứ theo dấu chiếc áo lông ngỗng của thiếp mà tìm.” Sau khi Trọng Thủy về nước, rồi cùng Triệu Đà đem quân sang đánh. Loa Thành bị đánh bại, Mị Châu theo cha chạy xuống phương Nam nhưng vừa đi nàng lại vừa dải lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thuỷ. Chạy ra bờ biển, vì rùa vàng hiện lên tố cáo, vua cha nổi giận tuốt gươm ra chém.Trước khi chết, Mị Châu còn khấn: “Nếu có lòng phải nghịch thì khi chết đi nguyện biến thành cát bụi, bằng không thì xin được biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mị Châu chết, máu nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Xác nàng được Trọng Thuỷ đêm về mai táng ở Loa Thành, Trọng Thuỷ thương nhớ Mị Châu, sau đó cũng nhảy xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông đem về giếng ấy mà rửa thì ngọc càng thêm sáng. Câu 1 tràn 121 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a, Xác định phần tóm tắt b, Sự khác nhau giữa hai cách tóm tắt Câu 2 trang 121 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Tóm tắt truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy (tham khảo bên trên) Câu 3 trang 121 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1
Among literary genres, narrative is the closest genre and above all it has diversity and richness in content and subject matter. Narrative writing is a place for artists to show off their talents with sharp eyes that perceive all aspects of life and talented pens and ingenious art. Narrative texts have short paragraphs and long ones, especially novels, etc. Therefore, in order for listeners and readers to initially grasp the theme and main content of the work, they often summarize it briefly. The narrative is short and simple but still conveys the necessary information. Specifically, in the 10th grade literature program, we will learn how to summarize narrative texts. Below is a guide to summarizing the best narrative texts for grade 10 that we have diligently compiled for you to refer to in the process of accessing new knowledge. 1.Purpose and requirements (textbook) 2. How to summarize a narrative text according to the main character Question 1, page 120, grade 10 literature textbook, volume 1 Summary of the stories An Duong Vuong and My Chau-Trhong Thuy King An Duong Vuong of Au Lac country was Thuc Phan. He ordered the construction of a citadel in Viet Thuong land, but wherever he built it, it fell there. One day an old man from the East came and said;” An envoy from Thanh Giang will come to help the king build the citadel." Hearing that, the next day the king was so happy that the person who came to welcome him found out that the Thanh Giang envoy was a golden turtle. With the help of the golden turtle, the stronghold was built for half a month. Before returning to the sea, the golden turtle took off and gave the king a crossbow to fight foreign invaders. Thanks to high citadels, deep moats and magical crossbows, Trieu Da's army was defeated and asked to surrender and beg to marry. An Duong Vuong had a daughter, Mi Chau, who immediately married Trong Thuy without any doubt. Trong Thuy wanted to see the magic crossbow, Mi Chau secretly gave the magic crossbow to Trong Thuy to see and was switched. One day, while the king was playing chess, soldiers rushed in to report that Trieu Da's army had raised troops to attack the citadel. The king remained indifferent and leisurely continued to play chess. The enemy army was close to where the king pulled out his magic crossbow. of the golden turtle came out but couldn't use it. Defeated, he fled and took Princess My Chau with him, leaving behind a goose feather as a messenger for Trong Thuy. Being chased to the edge of the cliff, the golden turtle appeared and told the king the situation. At the same time, Trieu Da's army chased the place, the king pulled out his sword and slashed Mi Chau to death and followed the golden turtle back to the sea. Question 2, page 120, grade 10 literature textbook, volume 1 Mi Chau is a princess of Au Lac country, her father is King An Duong Vuong. After Trieu Da lost the battle and asked for peace and wanted to marry, her father agreed to marry Trong Thuy - Trieu's son. Da Mi Chau loved her husband very much but was naive and trusting, so she accidentally told Trong Thuy the secret of the magic crossbow, and was tricked into switching the magic crossbow. Having the magic crossbow, Trong Thuy wanted to ask to go home, but Mi Chau said: "In the future, if you ever encounter a separation, just follow my goose feather coat and find it." After Trong Thuy returned home, he and Trieu Da brought troops to fight. Loa Thanh was defeated, Mi Chau followed her father and fled to the South, but as she went, she used a goose feather as a sign for Trong Thuy. Running to the beach, because the golden turtle appeared and denounced him, the king became angry and pulled out his sword to slash. Before dying, Mi Chau also prayed: "If you have a rebellious heart, when you die, vow to turn into dust, otherwise Please turn into pearls to wash away the hatred." Mi Chau died, her blood flowed into the sea, and the oysters she ate turned into pearls. Trong Thuy's body was returned at night to be buried in Loa Thanh. Trong Thuy missed Mi Chau, then jumped into the well and died. Later generations found pearls in the East Sea and brought them back to that well to wash, and the pearls became even brighter. Sentence 1 overflows 121 grade 10 literature textbook, part 1 a, Identify the summary b, Difference between two summary methods Question 2, page 121, grade 10 literature textbook, volume 1 Summary of the stories An Duong Vuong and My Chau-Trhong Thuy (refer above) Question 3, page 121, grade 10 literature textbook, volume 1
Cảnh ngày hè là một bài thơ đặc sắc trong Quốc âm thi tập- tập thơ Nôm đặc sắc của Nguyễn Trãi. Đúng như cái tên Cảnh ngày hè, bài thơ đã gợi tả vẻ đẹp của bức tranh ngày hè một cách sinh động và độc đáo. Qua bức tranh thiên nhiên ấy, ta còn cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ: nhạy cảm với thiên nhiên, với cuộc sống thường của nhân dân, luôn hướng về nhân dân với mong muốn “Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Làm theo thể thơ Nôm truyền thống, Nguyễn Trãi đã thổi cả cái hồn dân tộc vào trong từng câu chữ, học hỏi văn hóa Trung Quốc, đồng thời cách tân để có những sáng tạo độc đáo của riêng mình. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Cảnh ngày hè lớp 10 hay đầy đủ nhất 1. Tác gỉa 2. Tác phẩm Câu 1 trang 118 SGK văn 10 tập 1: Tác giả đã sử dụng nhiều động từ diễn tả trạng thái của cảnh ngày hè: đùn đùn, giương, phun, tiễn. Từ đùn đùn gợi sắc xanh thẫm của tán hòe đang liên tiếp tuôn ra. Phun lại vẽ lên những bông thạch lựu trổ hoa rực rỡ với sắc đỏ bắt mắt. Trong ao, sen hồng đã nức mùi hương. => Những động từ trên đã gợi đúng được không chỉ hình thức bên ngoài mà cả sức sống bên trong của cảnh vật. Dường như cảnh vật có sự dồn nén bấy giờ mới bung tỏa ra Câu 2 trang 118 SGK văn 10 tập 1: Bức tranh ngày hè có sự hài hòa giữa âm thanh và màu sắc, cảnh vật và con người. Không chỉ có cảnh vật với màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, cuộc sống đời thường cũng hiện lên rất rất sinh động và vui tươi, đâm đà hơi thở của sự sống. Đó là âm thanh lao xao gợi sự ồn ào, nhộn nhịp của chợ cá, tiếng trầm bổng, ngân dài như tiếng đàn của ve kêu. => Cảnh ngày hè vừa đời thường vừa trang trọng, âm thanh gợi một cuộc sống no đủ, tươi vui, rộn rã Câu 3 trang 118 SGK văn 10 tập 1: Tác giả đã cảm nhận cảnh vật bằng mọi giác quan: thị giác, khứu giác, thính giác. Thi sĩ đã căng mở tất cả tâm hồn và tấm lòng để đón nhận vẻ đẹp của cuộc sống, say đắm thiên nhiên, giao hòa với thiên nhiên một cách tuyệt đối Câu 4 trang 118 SGK văn 10 tập 1: Hai câu thơ cuối bài thể hiện một khao khát của Nguyễn Trãi: có cây đàn của vua Nghiêu Thuấn để gảy khúc Nam Phong ca ngợi cuộc sống thanh bình của nhân dân. Âm điệu câu thơ lục ngôn như chậm lại, chìm trong suy ngẫm, triết lí của nhà thơ. Qua đó, ta càng cảm phục hoài bão, lí tưởng của Nguyễn Trãi: trong giờ phút thanh nhành hiếm hoi nhưng vẫn không nguôi lo lắng cho nhân dân, đất nước Câu 5 trang 119 SGK văn 10 tập 1: Cảnh ngày hè trước hết thể hiện tình yêu thiên nhiên, cũng là yêu đời, yêu cuộc sống của Nguyễn Trãi qua bức tranh ngày hè phong phú, rực rỡ màu sắc và âm thanh. Qua đó, ta còn thấy cả tấm lòng của một người suốt đời vì dân vì nước. Ông luôn ôm ấp hoài bão xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Câu 1 trang 119 SGK văn 10 tập 1: Vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ: Vẻ đẹp thiên nhiên:
Summer day scene is a unique poem in Quoc Am thi tap - a unique collection of Nom poems by Nguyen Trai. True to the name Summer Day Scene, the poem vividly and uniquely describes the beauty of a summer day painting. Through that picture of nature, we can also feel the beauty of the poet's soul: sensitive to nature, to the ordinary lives of the people, always looking towards the people with the desire "The people will be rich enough to demand their way". Following traditional Nom poetry, Nguyen Trai breathed the national soul into every word, learned Chinese culture, and innovated to have his own unique creations. Below, I will guide you to prepare the most complete Summer Day Scenes for Grade 10 1. Author 2. Works Question 1 on page 118 of Literature Textbook Grade 10, Part 1: The author used many verbs to describe the state of the summer scene: extrude, spread, spray, see off. The word extrusion evokes the dark green color of the canopy that is continuously pouring out. Spray again to paint brightly blooming pomegranate flowers with an eye-catching red color. In the pond, pink lotuses were filled with fragrance. => The above verbs correctly evoke not only the external form but also the internal vitality of the scene. It seems like the pent-up scene just burst out Question 2, page 118, grade 10 literature textbook, part 1: The painting of a summer day has harmony between sounds and colors, landscapes and people. Not only the landscape with the green color of roses and the red color of pomegranates, everyday life also appears very lively and joyful, filled with the breath of life. It is a buzzing sound that evokes the noise and bustle of the fish market, a deep, long sound like the sound of a cicada. => The summer scene is both everyday and solemn, the sounds suggest a full, joyful, bustling life Question 3, page 118, grade 10 literature textbook, part 1: The author felt the scene with all senses: sight, smell, hearing. The poet opened all his soul and heart to receive the beauty of life, passionate about nature, and in absolute harmony with nature. Question 4, page 118, Literature Textbook Grade 10, Part 1: The last two verses of the poem express Nguyen Trai's desire: to have King Nghieu Thuan's guitar to play the Nam Phong song praising the peaceful life of the people. The tone of the six-line poem seems to slow down, immersed in the poet's thoughts and philosophy. Through that, we admire Nguyen Trai's ambitions and ideals even more: in rare moments of serenity, he still unceasingly worries about the people and the country. Question 5, page 119, grade 10 literature textbook, part 1: Summer day scene first of all shows Nguyen Trai's love for nature, but also love for life, through his rich summer day painting, brilliant in color and sound. Through that, we also see the heart of a person who spends his life working for the people and the country. He always cherished the ambition to build a prosperous and happy life for the people. Question 1 on page 119 of Literature Textbook Grade 10, Part 1: The beauty of nature and Nguyen Trai's soul through the poem: Natural beauty:
Hình tượng người anh hùng trong thơ ca trung đại Việt Nam hiện lên với vẻ đẹp kỳ vĩ với những hình ảnh to lớn, mang tầm vóc hiên ngang, lẫm liệt. Hôm nay, chúng ta sẽ được tìm hiểu một tác phẩm như thế qua bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp thời đại với sức mạnh và khí thế hào hùng của những người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Qua bài thơ, ta sẽ cảm nhận hết được một sức mạnh của thời đại của quân và dân ta, cảm nhận hết được hào khí Đông A đã làm lên lịch sử. Mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Tỏ lòng Ngữ văn 10 tập 1 để thấy được vẻ đẹp của con người với sức mạng và lí tưởng, khí thế hào hùng của con người trong giai đoạn này. 1. Tác giả 2. Tác phẩm 1. Câu 1 trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán và câu thơ dịch là: 2. Câu 2 trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Cảm nhận về sức mạnh của quân đội thời Trần qua câu thơ: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” 3. Câu 3 trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1
The image of the hero in Vietnamese medieval poetry appears with majestic beauty and large images, with proud and majestic stature. Today, we will learn about such a work through the poem Expressing My Heart by Pham Ngu Lao. The poem describes the beauty of the times with the strength and heroic spirit of the soldiers in the resistance war against the Mongol-Yuan army. Through the poem, we will fully feel the strength of the era of our army and people, feel the pride that Dong A has made history. I will guide you to prepare the lesson Confessing your feelings in Literature 10, part 1 to see the beauty of humanity with its strength, ideals, and heroic spirit during this period. 1. Author 2. Works 1. Question 1, page 116, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 The difference between the first verse in the original Chinese text and the translated verse is: 2. Question 2, page 116, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 Feel the strength of the Tran dynasty's army through the poem: "Three strong military weapons can swallow buffaloes" 3. Question 3, page 116, Grade 10 Literature Textbook, Part 1
Trong đời sống hằng ngày chúng ta ngôn ngữ sinh hoạt đóng một vai trò cực kì quan trọng đối với mỗi người.. Ngôn ngữ sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hằng ngày, dùng để thông tin, trao dổi ý nghĩ, tình cảm…dáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống. Ngôn ngữ sinh hoạt chủ yếu thể hiện ở dạng nói những cũng có thế ở dạng viết. Trong văn bản văn học, lời thoại của nhân vật là dạng tái hiện, mô phỏng ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày. Như vậy ngôn ngữ sinh hoạt cũng có tầm ảnh hưởng bởi vậy việc chúng ta cần đi tìm hiểu sâu hơn về đơn vị kiến thức này là điều tất yếu, đặc biệt là về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt lớp 10. 1. Khái niệm ngôn ngữ sinh hoạt Ngôn ngữ sinh hoạt là khái niệm chỉ toàn bộ lời ăn tiếng nói hàng ngày mà con người dùng để thông tin, trao đổi suy nghĩ, tình cảm với nhau, đáp ứng những nhu cầu tự nhiên trong cuộc sống. 2. Các dạng biểu hiện của ngôn ngữ sinh hoạt Dạng nói gồm các kiểu: đối thoại, độc thoại và đàm thoại (qua các phương tiện nghe nhìn) Dạng lời nói bên trong, gồm các kiểu: 3. Luyện tập a) “ Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” “Vàng thì thử lửa thử than Chuông kêu thử tiếng, người nghoan thử lời” b)
In our daily lives, everyday language plays an extremely important role for each person. Living language is everyday speech, used to communicate, exchange thoughts, feelings... meet life's needs. Daily language is mainly expressed in spoken form but can also be in written form. In literary texts, a character's dialogue is a form of reproduction, simulating the language of everyday life. Thus, everyday language also has influence, so it is inevitable that we need to learn more deeply about this unit of knowledge, especially about everyday language style. Below I will guide you in preparing the lesson on Living Language Style for grade 10. 1. Concept of daily language Daily language is a concept that refers to all the daily speech that people use to communicate, exchange thoughts and feelings with each other, and meet natural needs in life. 2. Forms of expression of daily language Speaking forms include: dialogue, monologue and conversation (through audio-visual media) Internal speech forms, including types: 3. Practice a) “Words cost nothing to buy Choose your words carefully to please each other" “Gold is tested by fire and coal The bell rings to test its sound, the good person tests its words." b)
Văn học Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã có một sự phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của dòng chảy lịch sử và cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc mà văn học Việt Nam cũng có một sự thay đổi vượt bậc, ngoài những chủ đề quen thuộc thì văn học giai đoạn này mang những nét đặc biệt riêng, những tác phẩm văn học ra đời nhằm ca ngợi lòng yêu nước của dân tộc, tình yêu thương đồng loại lá lành đùm lá rách và những tác phẩm ca ngợi những chiến thắng của nhân dân ta theo dòng chảy của cuộc kháng chiến. Hôm nay, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Khái quát văn hoc Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX Ngữ văn 10 tập 1 nhằm củng cố kiến thức và có cái nhìn khái quát hơn về văn học giai đoạn này 1. Câu 1 trang 111 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Những điểm chung và điểm riêng của hai thành phần văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm là: Điểm chung: Điểm riêng: 2. Câu 2 trang 111 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Bảng tổng kết về tình hình phát triển của văn học Việt Nam thời trung đại là: Giai đoạn văn học Nội dung Nghệ thuật Sự kiện văn học, tác giả, tác phẩm Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV Những tác phẩm mang nội dung yêu nước mang âm hưởng hào hùng + Văn học chữ Hán có những thành tựu lớn với các thể loại: chính luận, văn xuôi viết về lịch sử, văn hóa, thơ phú,… + Văn học chữ Nôm: bắt đầu đặt nền móng, viết bằng ngôn ngữ dân tộc với một số bài thơ, phú Nôm + Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn + Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn + Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu + Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên + Phò giá về kinh của Trần Quang Khải + Tỏ lòng của Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII Nội dung yêu nước mang âm hưởng ngợi ca; phản ánh, phê phán hiện thực xã hội phong kiến + Văn học chữ Hán: có sự phát triển vượt bậc với nhiều thể loại, đặc biết là thành tựu của văn chính luận và văn xuôi tự sự + Văn học chữ Nôm: có sự Việt hóa thể loại tiếp thu từ Trung Quốc, đồng thời sáng tạo các thể loại dân tộc đồng thời sáng tạo các thể loại dân tộc +Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi + Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ + Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi + Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông +Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm + Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX Đòi quyền sống, hạnh phúc và đấu tranh giải phóng con người, trong đó có phần con người các nhân, nhất là người phụ nữ + Phát triển văn xuôi và văn vần ở cả hai thành phần ăn học + Văn học chữ Nôm: đạt đến đỉnh cao + Văn học chữ Hán: có những thành tựu nhất định. + Chinh phụ ngâm – nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm + Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái + Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ + Truyện Kiều của Nguyễn Du Nửa cuối thế kỉ XIX Yêu nước mang âm hưởng bi tráng + Văn học chữ quốc ngữ xuất hiện nhưng văn học chữ Hán và chữ Nôm vẫn là chính + Sáng tác theo thể loại và thi pháp truyền thống + Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu + Truyện thầy La-za-rô Phiền của Nguyễn Trọng Quản + Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Kí + Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của 3. Cau 3 trang 112 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Một số tác phẩm văn học đã học trong chương trình THCS để làm sáng tỏ những đặc điểm lớn về nội dung của văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX là: 4. Câu 4 trang 112 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Vietnamese literature in the period from the 10th century to the end of the 19th century had a strong development. Along with the development of the historical flow and the nation's resistance war against the French, Vietnamese literature also had a remarkable change. In addition to familiar topics, literature of this period had special features. In particular, literary works were created to praise the nation's patriotism, love for fellow human beings, and works praising the victories of our people following the flow of the resistance war. Today, I will guide you to prepare an overview of Vietnamese literature from the 10th century to the end of the 19th century in Literature 10, volume 1 to consolidate your knowledge and have a more general view of the literature of this period. 1. Question 1, page 111, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 The common and unique points of the two components of Chinese literature and Nom literature are: Common point: Unique points: 2. Question 2, page 111, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 The summary table of the development of Vietnamese literature in the medieval period is: Literary period Content Art Literary events, authors, works From the 10th century to the end of the 14th century Works with patriotic content have a heroic sound + Chinese literature has great achievements in the following genres: political essays, prose about history, culture, poetry, etc. + Nom literature: began to lay the foundation, writing in the national language with some poems and Nom poems + Edict to move the capital by Ly Cong Uan + Hich generals and soldiers by Tran Quoc Tuan + Dai Viet historical records by Le Van Huu + Viet Dien U Linh Tap by Ly Te Xuyen + Price support on the business by Tran Quang Khai + Express your feelings From the 15th century to the end of the 17th century Patriotic content has a praising tone; reflect and criticize feudal social reality + Chinese literature: has a remarkable development with many genres, especially the achievements of political literature and narrative prose + Nom literature: there is a Vietnameseization of genres adopted from China, and at the same time the creation of ethnic genres. +Great announcement of Ngo, Quan Trung from Nguyen Trai's orders + Legend of man luc by Nguyen Du + National audio collection by Nguyen Trai + Hong Duc Quoc Am poetry collection by Le Thanh Tong +Bach Van Quoc Nguoi Poetry by Nguyen Binh Khiem + The Four Seasons of Songs by Hoang Si Khai From the 18th century to the first half of the 19th century Demand the right to life, happiness and fight to liberate people, including individuals, especially women + Develop prose and rhyme in both learning components + Nom literature: reaching its peak + Chinese literature: has certain achievements. + Chinh Phu Ngam - original Chinese text by Dang Tran Con, Nom translation by Doan Thi Diem + Hoang Le unifies the Ngo family's literary sect + Vu Trung essays by Pham Dinh Ho + The Tale of Kieu by Nguyen Du Second half of the 19th century Patriotism has a tragic sound + Literature in the national language appeared, but literature in Chinese and Nom remained the main source + Composing according to traditional genres and poetics + Oration of the righteous scholar Can Giuoc, Ngu Tieu medical with questions and answers by Nguyen Dinh Chieu + The story of Master Lazarus Phien by Nguyen Trong Quan + Truong Vinh Ki's trip to Bac Ky in the year of the Pig + Huynh Tinh Cua's sad story 3. Cau 3 page 112 Literature Textbook grade 10, part 1 Some literary works studied in the secondary school program to clarify the major features of the content of Vietnamese literature from the 10th century to the end of the 19th century are: 4. Question 4, page 112, Grade 10 Literature Textbook, Part 1
Tự sự là thể loại quen thuộc mà chúng ta đã được làm quen và tiếp cận từ chương trình ngữ văn cấp 2. Hạt nhân của một bài văn tự sự chính là các yếu tố nhân vật, sự kiện, diễn biến. Cũng giống như các văn bản thuộc thể loại khác, văn bản tự sự cũng gồm một hay nhiều đoạn văn tạo thành. Vậy đoạn văn trong văn bản tự sự có đặc điểm như thế nào? Làm thế nào để viết tốt những đoạn văn đó? Để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự. Qua bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự, chúng ta sẽ nắm được các loại đoạn văn trong văn bản tự sự và biết cách viết đoạn văn tự sự. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự Câu 1 trang 97 SGK văn 10 tập 1: Các đoạn văn thể hiện đúng, rõ và sâu sắc dự kiến của tác giả Nội dung của các đoạn mở đầu và kết thúc giống và khác nhau ở chỗ: Giống nhau: tả rừng xà nu thể hiện chủ đề, gợi liên tưởng, suy ngẫm cho người đọc Khác nhau: b. Học tập từ cách viết đoạn văn của nhà văn Nguyên Ngọc: trước khi viết nên dự kiến ý tưởng các phần của truyện, nhất là phần đầu và phần cuối Câu 2 trang 98 SGK văn 10 tập 1: a. Có thể coi đoạn văn trên là đoạn văn trong văn bản tự sự vì nó kể chuyện tả cảnh Đoạn văn trên có thể thuộc phần thân bài hoặc kết bài trong truyện ngắn b. Bạn học sinh thành công trong kể chuyện, kể việc và lúng túng trong tả cảnh, tả người, tả tâm trạng nhân vật Viết tiếp vào những chỗ trống: Câu 3 trang 99 SGK văn 10 tập 1: Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự: Câu 1 trang 99 SGK văn 9 tập 1: a. Đoạn trích kể về việc Phương Định đang phá bom để mở đường ra mặt trận trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi b. Đoạn trích nhầm lẫn giữa ngôi thứ 3 và ngôi thứ 1 Cách sửa: thay cô, Phương Định bằng tôi c. Kinh nghiệm viết đoạn văn trong bài văn tự sự: cần xác định rõ ngôi kể khi viết đoạn văn trong bài văn tự sự, không thể dùng hai ngôi kể cùng lúc
Narrative is a familiar genre that we have been familiar with and approached from the secondary school literature program. The core of a narrative essay is the elements of characters, events, and developments. Like other texts of other genres, narrative texts also consist of one or more paragraphs. So what are the characteristics of a paragraph in a narrative text? How to write those paragraphs well? To answer those questions, we will learn the lesson: Practice writing narrative paragraphs. Through the practice of writing narrative paragraphs, we will understand the types of paragraphs in narrative texts and know how to write narrative paragraphs. Below, I will guide you to prepare a practice lesson for writing narrative paragraphs Question 1, page 97, grade 10 literature textbook, part 1: The paragraphs accurately, clearly and deeply express the author's intentions The content of the opening and ending paragraphs is similar and different in that: Similar: the description of the sandbar forest represents the theme, evoking associations and thoughts for the reader Different: b. Learn from writer Nguyen Ngoc's way of writing paragraphs: before writing, you should plan out ideas for the parts of the story, especially the beginning and the end. Question 2, page 98, grade 10 literature textbook, part 1: a. The above paragraph can be considered a paragraph in a narrative text because it tells a story describing a scene The above paragraph can belong to the body or conclusion of a short story b. The students were successful in telling stories and telling stories, but were confused in describing scenes, people, and character moods Continue writing in the blanks: Question 3, page 99, grade 10 literature textbook, part 1: How to write a paragraph in a narrative essay: Question 1 on page 99 of literature textbook grade 9, volume 1: a. The excerpt tells the story of Phuong Dinh defusing bombs to open the way to the front in the work Distant Stars b. The excerpt confuses 3rd person and 1st person How to fix: replace Miss, Phuong Dinh with me c. Experience in writing a paragraph in a narrative essay: you need to clearly identify the narrator when writing a paragraph in a narrative essay, you cannot use two narrators at the same time.
Tình cảm lứa đôi, tình yêu trai gái luôn là một đề tài quen thuộc và rất đỗi ngọt ngào trong thơ ca Việt Nam. Nó không chỉ có một chỗ đứng, giá trị trong thơ hiện đại hay thơ mới mà ngay cả trong thơ ca dân gian Việt Nam thì tình yêu đôi lứa luôn mang tới nhiều cảm xúc. Đoạn trích Lời tiễn dặn (Trích tiền dặn người yêu – Truyện thơ dân tộc Thái) cho ta cái nhìn đầy cảm thông và sâu sắc về tình yêu đôi lứa. Văn bản thuộc hình thức văn học dân gian thuộc thể loại truyện thơ của người dân tộc Thái. Hôm nay, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Lời tiễn dặn (Trích tiền dặn người yêu – Truyện thơ dân tộc Thái) Ngữ văn 10 tập 1 để cảm nhận rõ hơn tình yêu của đôi trai gái người dân tộc. 1. Tác phẩm 1. Câu 1 trang 96 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Diễn biến tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn người yêu về nhà chồng: Tâm trạng của chàng trai vô cùng đau đớn, nhưng chàng vẫn gọi nàng là “người đẹp, anh yêu” điều đó cho thấy tình cảm của chàng dành cho cô gái vẫn vô cùng sâu đậm, thắm thiết điều đó ngược với hiện thực rằng cô gái đã đi theo chồng. Những câu thơ, dẫn chứng thể hiện tâm trạng đó: “Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại, Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi”. Đứng trước sự chia lìa anh không nỡ cất bước ra đi, dường như muốn níu kéo từng phút từng giây ở bên chị, chỉ khi “được nhủ đôi câu, được dặn đôi lời” thì mới đành lòng “quay đi”. Dù cho, cô gái đã đi lấy chồng, cô cũng đã có đứa con riêng nhưng dường như những yếu tố đó không làm cho tình yêu của chàng trai dành cho cô gái mà thay đổi. Chàng yêu cô, yêu cả những đứa con của cô thậm chí còn nựng con của cô gái và gọi là “con rồng, con phượng”. Chàng quyết đợi nàng, lời thơ ai oán não nùng nhưng chứa đựng quyết tâm sắt đá của chàng trai “Đôi ta yêu nhau, đợi đến tháng Năm lau nở, Đợi mùa nước đỏ cá về, Đợi chim tăng ló hót gọi hè. Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông, Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già.” Tâm trạng lúc tiễn đưa, tâm trạng của chàng trai không có tuyệt vọng và dặt vặt trong đau khổ mà nó còn là sự mong mỏi và quyết tâm của chàng trai, dù cô gái đã theo chồng nhưng ý chí quyết tâm đoàn tụ của hai người vô cùng mãnh liệt “không lấy được mùa hạ thì lấy nhau mùa đông”, “không lấy được thời trẻ sẽ lấy lúc góa bụa về già” 2. Câu 2 trang 96 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Những câu thơ miêu tả hành động, tâm trạng của cô gái trên đường về nhà chồng: “Người đẹp anh yêu vừa cất bước theo chồng Vừa đi vừa ngoảnh lại, Vừa đi vừa ngoái trông” Dù tâm trạng của cô gái chỉ được kể gián tiếp qua lời của chàng trai, qua sự cảm nhận và suy nghĩ của anh nhưng ta có thể cảm nhận được cô gái cũng muốn níu kéo từng giây phút bên anh. Từng bước chân của cô bước theo chồng nhưng vừa đi “vừa ngoảnh lại”, vừa đi “vừa ngoái trông”. Chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn,… chính từ các tâm trạng ấy mà cứ mỗi lần qua một cánh rừng chị đều lấy đó là cái cớ để mà dừng lại đợi chờ anh. 3. Câu 3 trang 96 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Những câu thơ, những chi tiết thể hiện thái độ, cử chi ân cần của chàng trai đối với cô gái trong những ngày anh còn lưu lại ở nhà chồng cô Khi chứng kiến cảnh cô gái bị nhà chồng đánh đập, đối xử tàn tệ, chàng nâng cô dậy, dũ áo, chải lại tóc cho cô, tìm thuốc đắp cho cô. Những hành động ấy chứng tỏ sự ân cần, chu đáo của chàng, biểu lộ sự xót xa thương cảm của anh dành cho chị. Không chỉ dừng lại ở tình yêu thương mà lúc này anh chính là chỗ dựa tinh thần, là niềm cảm thông dành cho cô gái. 4. Câu 4 trang 96 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Couple love, love between a boy and a girl, is always a familiar and very sweet topic in Vietnamese poetry. It not only has a place and value in modern or new poetry, but even in Vietnamese folk poetry, love between couples always brings many emotions. Excerpt from Saying Goodbye (Money Quote to Lover - Thai Folk Poetry Story) gives us a sympathetic and profound insight into the love of a couple. The text belongs to the form of folk literature in the genre of stories and poems of the Thai people. Today, I will guide you to prepare the article Farewell Advice (Extracting money to your lover - Thai ethnic poetry story) Literature 10 volume 1 to better feel the love of an ethnic couple. 1. Works 1. Question 1, page 96, Grade 10 Literature Textbook, part 1 The evolution of the man's mood on the way to see his lover off to his husband's house: The man's mood was extremely painful, but he still called her "beautiful, my love" which showed his feelings for her. The girl's love is still very deep and passionate, contrary to the reality that the girl has followed her husband. The verses and evidence express that mood: “After saying a few words, I was willing to come back. Only after being told a few words, I love you, did I turn away? Faced with separation, he did not have the heart to step away, as if he wanted to hold on to every minute and second with her, only when "he was told a few words, told a few words" could he be willing to "turn away". Even though the girl got married and had a child of her own, it seemed that those factors did not change the boy's love for the girl. He loved her, loved her children, even petted the girl's children and called them "dragon and phoenix". He decided to wait for her, the poem's words were sorrowful but contained the boy's iron determination "We love each other, waiting for the flowers to bloom in May, Waiting for the season of red water and fish to return, Waiting for the monk bird to appear and call for summer. If we can't get married in the summer, we'll get married in the winter. If we can't get married when we're young, we'll get married when we're widowed in old age." The mood at the farewell, the boy's mood was not despair and petty suffering, but it was also the boy's longing and determination. Even though the girl had followed her husband, the two were determined to reunite. "If you can't marry in the summer, you'll marry in the winter", "If you can't marry when you're young, you'll marry when you're widowed in old age" 2. Question 2 on page 96 of Literature Textbook Grade 10, Part 1 The verses describe the girl's actions and mood on the way to her husband's house: “The beauty I love just walked away with her husband While walking and looking back, As I walked, I looked back.” Although the girl's mood is only told indirectly through the boy's words, through his feelings and thoughts, we can feel that the girl also wants to hold on to every moment with him. Every step she took followed her husband but walked "while looking back" and walked "while looking back". The farther she walked, the more painful her heart became... because of that state of mind, every time she passed a forest, she used it as an excuse to stop and wait for him. 3. Question 3, page 96, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 The verses and details show the boy's thoughtful attitude and gestures toward the girl during the days he stayed at her husband's house. When he witnessed the girl being beaten and treated cruelly by her husband's family, he lifted her up, straightened her clothes, combed her hair, and found medicine for her. These actions demonstrate his kindness and thoughtfulness, expressing his compassion for her. Not only does it stop at love, but at this moment he is the spiritual support and sympathy for the girl. 4. Question 4 on page 96 of Literature Textbook Grade 10, Part 1
Trong văn học Việt Nam, có rất nhiều thể loại văn học, phong phú và đa dạng, cũng là nơi để các nhà văn nhà thơ thỏa sức sáng tạo. Nhưng có lẽ văn học dân gian luôn là cái nôi của mọi thể loại, là nơi mà ông cha ta gửi gắm những lí lẽ, quan niệm, đạo đức và những kinh nghiệm vốn sống được tích lũy từ xa xưa. Trong đó ca dao là một phần giá trị to lớn được đúc kết từ ngàn đời. Ca dao lại được chia thành các thể loại nhỏ hơn như ca dao châm biếm, ca dao hài hước, ca dao than thân,… Trong chương trình lớp 10, các bạn học sinh sẽ được học ca dao hài hước, và sẽ hiểu hơn về những tư tưởng sâu sa mà ông cha ta gửi gắm qua tiếng cười. Dưới đấy là hướng dẫn soạn bài Ca da hài hước lớp 10 hay nhất do biên soạn để các bạn tham khảo thêm nhé Câu 1 trang 91 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Việc thách cưới và dẫn cưới rất đặc biệt ở điểm VIệc dẫn cưới: Chàng trai có dự định muốn có một hôn lễ linh đình những vì những lí do khách quan mà không thể thực hiện được: Nên chàng trai quyết định: “Dẫn chuột béo mời dân mời làng”. Đây là một lí lẽ rất hóm hỉnh lại không kém phần thông minh của ông cha ta ngày xưa Việc thách cưới: Cô gái thách cưới chàng trai “ nhà khoai lang”, cô gái hiểu rõ hoàn cảnh của chàng trai không thể đáp ứng được nên chỉ cần một nhà khoai lang là đủ Qua việc thách cưới và dẫn cưới cho thấy người nông dân xưa họ chấp nhận cái nghèo và lạc quan trên những khó khăn ấy, không hề phàn nàn mà vượt lên trên nó bằng tiếng cười Bài ca fao có giọng điệu hài ước và dí dỏm nhờ các yếu tố nghệ thuật: Câu 2 trang 91 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Bài ca dao thứ nhất với giọng điệu hài hước nhằm ca ngợi và thể hiện sự khâm phục nhưng 2 bài ca dao sau là tiếng cưới châm biếm nhắc nhở con người về các thói hư tật xấu trong đời sống Bài ca dao 2: Bài ca dao 3: Tác giả mượn lời thở dài của người vợ để phê phán và lên án sự lười nhác của người chồng vô tích sự không giúp đỡ được gì cho gia đình Bài ca dao 4: Câu 3 trang 91 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Những biện pháp nghệ thuật thường sử dụng trong ca dao hài hước: Câu 1 trang 92 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1
In Vietnamese literature, there are many rich and diverse literary genres, which are also places for writers and poets to unleash their creativity. But perhaps folk literature is always the cradle of all genres, the place where our ancestors entrusted their arguments, concepts, ethics and life experiences accumulated since ancient times. Among them, folk songs are a part of great value that has been summarized for thousands of years. Folk songs are divided into smaller genres such as satirical folk songs, humorous folk songs, mourning folk songs, etc. In the 10th grade program, students will learn humorous folk songs, and will understand them better. about the profound thoughts that our ancestors conveyed through laughter. Below are instructions for composing the best humorous songs for grade 10 compiled for your further reference Question 1, page 91, grade 10 literature textbook, volume 1 The wedding invitation and wedding invitation are very special in that way Wedding planning: The guy plans to have a lavish wedding but cannot do it for objective reasons: So the young man decided: "Bring the fat mouse and invite the people to invite the village." This is a very witty and no less intelligent argument of our ancestors in the past The wedding challenge: The girl challenges the "sweet potato" guy to marry him. The girl clearly understands that the boy's situation is impossible to meet, so just a sweet potato family is enough. Through the wedding invitation and wedding invitation, it shows that ancient farmers accepted poverty and were optimistic about those difficulties, not complaining but overcoming it with laughter. The song fao has a humorous and witty tone thanks to the artistic elements: Question 2, page 91, grade 10 literature textbook, volume 1 The first folk song has a humorous tone to praise and express admiration, but the following two folk songs are satirical songs that remind people of bad habits in life. Folk song 2: Folk song 3: The author borrows the wife's sigh to criticize and condemn the laziness of the useless husband who cannot help the family. Folk song 4: Question 3, page 91, grade 10 literature textbook, volume 1 Artistic measures often used in humorous folk songs: Question 1, page 92, grade 10 literature textbook, volume 1
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có những đặc điểm và hoàn cảnh sử dụng riêng mà người nói, người viết cần biết để chú ý tránh không sử dụng sai chỗ khiến cho ngôn ngữ trở nên gượng gạo trong một hoàn cảnh giao tiếp không thích hợp. Để hiểu được điều này không phải dễ dàng, có rất nhiều quy tắc cũng nhưu chú ý về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Vì vậy, trong chương trình ngữ văn lớp 10 chúng ta sẽ đến với bài học Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết để hiểu và vận dụng tốt ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết sao cho nhuần nhuyễn nhất có thể. Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài này. Câu 1 trang 88 SGK văn 10 tập 1 Đặc điểm của ngôn ngữ viết thể hiện trong đoạn trích: Câu 2 trang 88 SGK văn 10 tập 1 Đặc điểm của ngôn ngữ nói thể hiện trong đoạn trích: Câu 3 trang 89 SGK văn 10 tập 1 Phân tích lỗi và chữa lại những câu bên dưới: a) Trong thơ ca Việt Nam có nhiều bức tranh mùa thu đẹp hết ý. Sửa: b) Còn máy móc, thiết bị do nước ngoài đưa vào góp vốn thì không được kiểm soát, họ sẵn sàng khai vống lên đến mức vô tội vạ. Sửa:
Spoken language and written language have their own characteristics and usage situations that speakers and writers need to know to be careful to avoid misuse, causing the language to become awkward in an inappropriate communication situation. fit. To understand this is not easy, there are many rules and notes about spoken and written language. Therefore, in the 10th grade literature program, we will come to the lesson Characteristics of spoken and written language to understand and apply spoken and written language as fluently as possible. Below is the best guide to preparing lessons on Characteristics of spoken and written language for grade 10 for you to refer to and learn about this article. Question 1, page 88, grade 10 literature textbook, part 1 Characteristics of written language shown in the excerpt: Question 2, page 88, grade 10 literature textbook, part 1 Characteristics of spoken language shown in the excerpt: Question 3, page 89, grade 10 literature textbook, part 1 Analyze errors and correct the sentences below: a) In Vietnamese poetry, there are many beautiful autumn paintings. Fix: b) As for machinery and equipment contributed by foreign countries, they are not controlled, they are willing to declare capital to an unreasonable level. Fix:
Ca dao là cây đàn muôn điệu cất lên tiếng nói tâm hồn của người bình dân xưa. Kể từ khi ra đời đến nay, ca dao đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt, giúp họ quên đi những giờ phút vất vả, khó nhọc của cuộc sống lao động hàng ngày. Ca dao vẫn tồn tại trong đời sống ngày nay như khúc hát tâm tình đầy ngọt ngào nhưng cũng không kém phần tình tứ, ý nhị. Vì vậy, ca dao được coi như viên ngọc quý của tâm hồn người Việt. Trong kho tàng ca dao phong phú, không thể không kể đến những bài ca dao than thân và yêu thương tình nghĩa. Dưới đây, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa lớp 10 hay đầy đủ nhất 1. Bài 1, 2 trang 84 SGK văn 10 tập 1: a. Người than thân là người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời không được như ý muốn, chịu nhiều ấm ức b. Hình ảnh và thân phận người phụ nữ trong hai bài ca dao: 2. Bài 3 trang 84 SGK văn 10 tập 1: a. Bài ca dao mở đầu bằng đại từ phiếm chỉ “ai”. “Ai”có thể hiểu là người tình, cũng có thể là những thế lực ngăn cản tình yêu đôi lứa như bố mẹ, xã hội phong kiến… b. Tình nghĩa thủy chung, bền vững được nói lên bằng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ: mặt trăng, mặt trời, sao Hôm, sao Mai… Đây đều là những biểu tượng mang tính vĩnh hằng trong tự nhiên. Tác giả dân gian mượn cái vĩnh cữu của tự nhiên, vũ trụ để khẳng định sự vững bền, bất biến trong tình cảm của tình yêu đôi lứa c. Sao Vượt thường mọc sớm vào buổi chiều, lên đến đỉnh của bầu trời thì trăng mới mọc. “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời” là lời khẳng định về tình yêu thủy chung, son sắt và quyết tâm vượt qua mọi rào cản để có được tình yêu 3. Bài 4 trang 84 SGK văn 10 tập 1: Bài ca dao đã thể hiện nỗi thương nhớ của người con gái một cách tinh tế và gợi cảm. Nỗi nhớ được gửi một cách kín đáo vào các vật dụng: khăn, đèn, mắt Sáu câu thơ đầu được viết theo lối vắt dòng, lặp lại từ khăn ở đầu câu thơ và điệp khúc khăn thương nhớ ai vang lên không dứt diễn tả nỗi nhớ triền miên, khắc khoải, dằng dặc, khôn nguôi. Đằng sau hình ảnh chiếc khăn là người con gái đang bị chìm đắm trong nỗi nhớ, lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Bài ca dao còn sử dụng đa số thanh bằng gợi nỗi nhớ thương bâng khuâng, mênh mông mà da diết. 4. Bài 5 trang 84 SGK văn 10 tập 1: Hình ảnh chiếc cầu- dải yếm nói lên khát vọng mãnh liệt muốn kéo gần khoảng cách trong tình yêu của người bình dân xưa. Đó là khoảng cách địa lí, cũng có thể là khoảng cách về tình cảm. Qua đó, ta nhận ra ước muốn táo bạo, mạnh mẽ nhưng cũng rất tình tứ, duyên dáng của người con gái. 5. Bài 6 trang 84 SGK văn 10 tập 1: Ca dao dùng hình ảnh muối- gừng vì đó là những gia vị trong bữa ăn của nhân dân ta và luôn gắn bó với nhau không rời. Hình ảnh muối mặn- gừng cay tượng trưng cho sự thủy chung, bền vững của tình cảm vợ chồng trước thử thách của thời gian, của cuộc đời Một số bài ca dao khác có hình ảnh tương tự: Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau” Gừng chín tháng gừng hãy còn cay, Đạo nghĩa cang thường chớ đổi từng ngày Dẫu làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày, ta cũng theo nhau 6. Câu 6 trang 84 SGK văn 10 tập 1: Ca dao thường sử dụng các biện pháp như ẩn dụ, điệp ngữ, so sánh, những hình ảnh đã trở thành biểu tượng… Những biện pháp nghệ thuật này khác với văn học viết ở chỗ chúng quen thuộc, dễ nhận ra và mang dấu ấn của cộng đồng Câu 1 trang 85 SGK văn 10 tập 1: 5 bài ca dao mở đầu bằng Thân em… Gió dập sóng dồi biếp tấp vào đâu Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày Phải chăng chàng thật là người yêu hoa Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai Câu 2 trang 85 SGK văn 10 tập 1: Một số bài ca dao về nỗi nhớ người yêu và cái khăn: Như đứng đống lửa như ngồi đống than Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa Trông cá cá lặn trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai Buồn trông chênh chếch sao mai Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.
Folk songs are musical instruments that speak the soul of ancient common people. Since its inception, folk songs have become an indispensable part of the spiritual life of Vietnamese people, helping them forget the hard and difficult moments of daily working life. Folk songs still exist in today's life as sentimental songs full of sweetness but no less sentimental and delicate. Therefore, folk songs are considered a precious gem of the Vietnamese soul. In the rich treasure trove of folk songs, it is impossible not to mention folk songs of self-pity and love. Below, I will guide you to compose the most complete folk song of self-pity, love and gratitude for grade 10. 1. Lesson 1, page 2, page 84, Grade 10 Literature Textbook, Part 1: a. A person who mourns is a woman who has many good qualities, but her life is not as expected and she suffers from many resentments b. Image and status of women in two folk songs: 2. Lesson 3, page 84, Literature Textbook Grade 10, Part 1: a. The folk song opens with the casual pronoun "who". "Who" can be understood as a lover, or it can also be the forces that prevent love between couples such as parents, feudal society... b. Faithful and lasting love is expressed through comparative images and metaphors: the moon, the sun, the Evening star, the Morning star... These are all eternal symbols in nature. Folk authors borrow the eternity of nature and the universe to affirm the stability and immutability of a couple's love. c. The Surpassing Star often rises early in the afternoon, reaching the top of the sky when the moon rises. "I am like a star waiting for the moon in the sky" is an affirmation of faithful love, determination and determination to overcome all barriers to find love. 3. Lesson 4, page 84, Literature Textbook Grade 10, Part 1: The folk song expresses the girl's longing in a delicate and sexy way. Nostalgia is discreetly deposited in objects: towels, lamps, eyes The first six lines of the poem are written in a drawn-out style, repeating the word scarf at the beginning of the verse and the refrain "towel miss someone" resounds endlessly, expressing a constant, restless, endless, inconsolable longing. Behind the image of a scarf is a girl immersed in nostalgia, her heart filled with hundreds of tangles. The folk song also uses many tones to evoke a feeling of wistful, immense yet painful nostalgia. 4. Lesson 5, page 84, Literature Textbook Grade 10, Part 1: The image of the bridge and bib speaks of the strong desire to close the distance in love of ancient common people. It is a geographical distance, it can also be an emotional distance. Through that, we realize the girl's bold, strong but also very affectionate and charming desire. 5. Lesson 6, page 84, Literature Textbook Grade 10, Part 1: Folk songs use the image of salt and ginger because these are the spices in our people's meals and are always inseparably linked together. The image of salty salt and spicy ginger symbolizes the fidelity and sustainability of husband and wife's love before the test of time and life. Some other folk songs have similar images: Spicy ginger, salty salt, please don't forget each other." Ginger is still spicy after nine months, The morality and righteousness do not change every day Whether we become famous or have the misfortune of being a beggar, we follow each other 6. Question 6, page 84, grade 10 literature textbook, part 1: Folk songs often use measures such as metaphors, alliteration, comparisons, images that have become symbols... These artistic devices differ from written literature in that they are familiar, easily recognizable, and bear the mark of the community Question 1, page 85, grade 10 literature textbook, part 1: 5 folk songs that begin with Your body... Where does the wind blow the waves? A wise man washes his face, but a mortal washes his feet The seeds go into the plant and the seeds go to the plowed field Is he really a flower lover? Floating under the pink morning sunlight Question 2, page 85, grade 10 literature textbook, part 1: Some folk songs about missing a lover and a scarf: Like standing at a fire, like sitting at a pile of coals Remember anyone who remembers now who remember Two lines of tears poured down like rain Fish and fish look dim and dim Sad to see the spider spinning its web Spider, oh spider, oh spider, who are you waiting for? Sad to see the difference between the morning stars Why, oh why, why do I remember someone so dimly?
Truyện cười còn được gọi bằng những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước… là những câu chuyện mà chúng ta không còn xa lạ gì nữa vì nó xuất hiện gần như xung quanh ta và tưởng chỉ là những cái cười giải trí những đằng sau tiếng cười ấy là biết bao nhiều những lớp ý nghĩa đằm sâu khiến cho người nghe người thì ngậm ngùi, người thì hả dạ, người thì học được ở đó những bài học đắt giá. Sau đây chúng ta sẽ đến với một truyện cười trong chương trình ngữ văn lớp 10. Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Nhưng nó phải bằng hai mày đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài này. Chúc các bạn thành công ở bài này. 1) Tìm hiểu chung về truyện cười dân gian 2) Tìm hiểu chung về truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày Câu 1 trang 80 SGK văn 10 tập 1 Phân tích tính kịch trong đoạn “Cải vội xòe năm ngón tay … bằng hai mày’’. a) Mối quan hệ giữa thầy lí và Cải: thầy lí (người nhận hối lộ) và Cải (người đưa hối lộ nhưng bị thầy xử đánh). b) Sự kết hợp giữa lời nói và hành động của hai nhân vật trên: Câu 2 trang 80 SGK văn 10 tập 1 Nghệ thuật gây cười qua câu nói của thầy lí ở cuối truyện: Câu 3 trang 80 SGK văn 10 tập 1 Đánh giá Ngô và Cải: Câu hỏi trang 80 SGK văn 10 tập 1 Phân tích hai truyện cười đã học để làm rõ các đặc trưng thể loại truyện cười: Tam đại con gà:
Jokes are also called by different nouns such as jokes, humorous stories, satirical stories, status stories, humorous anecdotes... are stories that we are no longer unfamiliar with because they appear recently. It's like all around us and we think it's just entertaining laughter, but behind that laughter are so many layers of deep meaning that make some listeners feel sad, some feel happy, some learn something there. expensive lesson. Next we will come to a funny story in the 10th grade literature program. Below is the Lesson Preparation Instructions But it must be with two eyebrows, the best for grade 10 here for you to refer to and learn about this lesson. . Wishing you success in this article. 1) Learn about folk jokes in general 2) General understanding of jokes But it must be with two eyebrows Question 1, page 80, grade 10 literature textbook, part 1 Analyze the drama in the passage "Cau quickly spread five fingers... with two eyebrows". a) The relationship between the teacher and Cai: the teacher (the one who took the bribe) and Cai (the one who gave the bribe but was beaten by the teacher). b) The combination of words and actions of the two characters above: Question 2, page 80, grade 10 literature textbook, part 1 The art of making people laugh through the words of the teacher at the end of the story: Question 3, page 80, grade 10 literature textbook, part 1 Corn and Cabbage Review: Questions on page 80 of grade 10 literature textbook, part 1 Analyze the two learned jokes to clarify the characteristics of the joke genre: Three great chickens:
Truyện cười là tác phẩm tự sự dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán. Truyện cười luôn là một trong những thể loại văn học rất phổ biến trong đời sống thường ngày chúng ta cho đến tận ngày nay. Những giá trị tư tưởng và tinh thần mà nó đem lại thực sự rất có ý nghĩa to lớn trong cả việc giáo dục, thẩm mĩ, nghệ thuật đối với nhân loại nói chung và người Việt Nam nói riêng. Nhắc đến truyện cười Việt Nam không thể không nhắc đến truyện “Tam đại con gà”. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Tam đại con gà lớp 10. Việc soạn bài ở nhà là bước chuẩn bị cần thiết trước khi lên lớp. 1. Truyện cười 2. Truyện cười “Tam đại con gà” Thuộc loại truyện trào phúng. Đối tượng của sự phê phán là thầy đồ dốt nói chữ và bọn quan lại tham những ở địa phương. Câu 1 trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1: Trong truyện Tam đại con gà, “ông thầy” liên tiếp bị đưa vào hai tình huống: Trong lần thứ nhất, để “giải quyết tình huống”, “ông thầy” đã nhắm mắt chọn cách nói liều. Hài hước hơn khi ngay sau đó “ông thầy” còn viện đến thổ công để “chứng giám” một cách hú họa cho sự dốt nát của mình Trong tình huống thư hai, “ông thầy” đã gaiir quyết để bào chữa cho mình bằng một cái “lí sự cùn” Ta thấy từ đầu đến cuối thầy ra sức giấu dốt. Thầy cố gắng che đậy abnr thân “dốt” của mình, mặc dù trong suy nghĩ thầy cũng tự ý thức được mình dốt. Đât chính alf mâu thuẫn cơ bản nhất, yếu tố chính để gây cười. Nhưng càng rs sức che đạy sự dốt nát, sự dốt nát cùng bị phơi bày.
A joke is a short folk narrative work with a tight structure, a surprising ending, telling about bad and unnatural events in life, with the effect of causing laughter, for the purpose of entertainment and criticism. Jokes have always been one of the most popular literary genres in our daily lives to this day. The ideological and spiritual values ​​it brings are truly of great significance in both education, aesthetics, and art for humanity in general and Vietnamese people in particular. When talking about Vietnamese jokes, it is impossible not to mention the story "Three Great Chickens". Below I will guide you to prepare the lesson Three Great Chickens for grade 10. Preparing the lesson at home is a necessary preparation step before going to class. 1. Jokes 2. Joke "Three great chickens" Belongs to the type of satirical story. The objects of criticism are illiterate teachers and corrupt local officials. Question 1 on page 79 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: In the story Three Great Chickens, the "teacher" is continuously put into two situations: In the first time, to "resolve the situation", the "teacher" closed his eyes and chose to speak recklessly. It's even funnier when right after that the "teacher" resorts to earth work to "testify" his ignorance in a tragic way. In the second situation, the "teacher" decided to defend himself with a "blunt argument". We see that from beginning to end, the teacher tried to hide his ignorance. He tried to cover up his "ignorant" body, even though in his mind he was also aware of his ignorance. This is the most basic contradiction, the main element to make people laugh. But the more one tries to hide ignorance, the more ignorance is exposed.
Trong văn học nói chung và các thể loại văn học nói riếng thì tự sự vẫn là một trong những thể loại quna trọng, tốn nhiều giấy mực của những người nghệ sĩ tài ba. Những tác phẩm tự sự xây dựng hầu như dựa trên những điều có trong đời sống, được tái hiện qua lăng kính chủ quan của các tác giả Trong văn tự sự nếu chỉ đơn giản là kể và tường thuật sự việc thì sẽ khiến cho văn bản kém sinh động và mất đi sự hấp dẫn dù nội dung tư tưởng có hay đi chăng nữa. Vì vậy, các nhà văn thường thêm các yếu tố như miêu tả biểu cảm vào trong tác phẩm tự sự của mình để tạo sự hấp dẫn và tăng khả năng biểu đạt nội dung đến với bạn đọc. Trong chương trình ngữ văn lớp 10 các bạn học sinh sẽ được tìm hiểu và học kĩ về cách đưa miêu tả và biểu cảm vào trong văn bản tự sự. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Miêu tả và biểu cảm trong văn tự sự lớp 10 hay nhất do biên soạn để các bạn tham khảo thêm nhé Câu 1 trang 73 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Câu 2 trang 73 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Câu 3 trang 73 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Muốn đánh giá chính xác sự hiệu quả mà miêu tả và biểu cảm mang lại trong một văn bản tự sự thì phải dựa vào mục đích sử dụng, mức độ biểu đạt và sự truyền cảm Câu 4 trang 73 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Đọc đoạn trích Những Vì Sao của A đô-rê Trong đoạn trích, yếu tố miêu tả và biểu cảm đã đóng góp phần rất quan trọng và tích cực để tạo nên một văn bản tự sự, những yếu tố ấy giúp cho người đọc dễ dàng hình dung về cảnh cũng như nhân vật. Bên cạnh đó còn phác họa những cảm xúc tinh tế của nhân vật Câu 1 trang 74 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Câu 2 trang 74 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Để thực hiện miêu tả cho hay thù chúng ta không chỉ cần quan sát đối tượng một cách kĩ càng mà còn phải phát huy tích cực khả năng tưởng tượng và liên tưởng Câu 3 trang 74 sgk ngữ văn lớp 10 tập `1 Có thể dễ dàng nhìn ra tình cảm cảm xúc của nhân vật tôi trong đoạn trích Những Vì Sao. Từ việc quan sát kĩ càng, chăm chú cảnh đêm. Một đêm sao huyền ảo và thơ mộng cùng vẻ đẹp hồn nhiên ngay thơ của cô gái đã làm rung động trái tim giàu cảm xúc của chàng trai Vì thế, mục (d) không đúng Câu 1 trang 75 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a,Đoạn văn kể về cuộc chiến đấu giữa Đăm Săn và Mtao Mxay trong sử thi Đăm Săn là một đoạn văn có sử dụng nhiều yếu tố miêu tả và biểu cảm. Các yếu tố này làm cho diễn biến của cuộc chiến diễn ra một cách cụ thể sinh động hơn Các yếu tối miêu tả và biểu cảm đã làm cho cuộc chiến đấu trở nên mạnh mẽ, và dữ dội qua từng câu chữ. Vì có những yếu tố đó mà hình ảnh người anh hùng Đăm Săm hiện lên với vẻ đẹp cường tráng mạnh mẽ như vị thần. b, Trong đoạn trích từ Lẵng Quả Thông, người kể đã tưởng thuật lại bằng cách quan sát tưởng tượng và suy ngẫm. Điều đó giúp người đọc hình dung rõ nét hơn và cảm nhận rõ ràng vẻ đẹp của mùa thu, nhà văn không miêu tả trực tiếp mà miêu tả qua tưởng tượng và suy ngẫm. Những câu văn ấy cũng nhấn mạnh vẻ đẹp tự nhiên của mùa thu mang đến những cảm nhận đầy thú vị và mới mẻ Câu 2 trang 75 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Dàn bài gợi ý kể về một chuyến thăm quê 1,Mở bài: 2.Thân bài
In literature in general and literary genres in particular, narrative is still one of the important genres, consuming a lot of ink and paper by talented artists. Narrative works are built mostly based on things in life, recreated through the subjective lens of the authors. In narrative writing, if we simply tell and report events, it will make the text look different. The copy is less vivid and loses its appeal, no matter how good the ideological content is. Therefore, writers often add elements such as expressive descriptions into their narrative works to create appeal and increase the ability to express the content to readers. In the 10th grade literature program, students will learn and learn carefully about how to put description and expression into narrative texts. Below are instructions for preparing the best description and expression in narrative writing for grade 10 compiled for your further reference. Question 1, page 73, grade 10 literature textbook, volume 1 Question 2, page 73, grade 10 literature textbook, volume 1 Question 3, page 73, grade 10 literature textbook, volume 1 To accurately evaluate the effectiveness of description and expression in a narrative text, it must be based on the purpose of use, level of expression and inspiration. Question 4, page 73, grade 10 literature textbook, volume 1 Read the excerpt from A Dora's Stars In the excerpt, descriptive and expressive elements have contributed very importantly and positively to creating a narrative text. These elements help readers easily visualize the scene as well as the characters. Besides, it also sketches the delicate emotions of the character Question 1, page 74, grade 10 literature textbook, volume 1 Question 2, page 74, grade 10 literature textbook, volume 1 To make a good description, we not only need to observe the object carefully but also actively promote our ability to imagine and associate. Question 3, page 74, grade 10 literature textbook, volume `1 My character's feelings and emotions can be easily seen in the excerpt The Stars. From careful and attentive observation of the night scene. A magical and poetic starry night with the girl's innocent and poetic beauty touched the boy's emotional heart. Therefore, item (d) is not correct Question 1, page 75, grade 10 literature textbook, volume 1 a,The passage about the fight between Dam San and Mtao Mxay in the Dam San epic is a passage that uses many descriptive and expressive elements. These factors make the war's events take place more concretely and vividly The descriptive and expressive elements make the battle strong and intense through every word. Because of those elements, the image of the hero Dam Sam appears with strong and powerful beauty like a god. b, In the excerpt from Lang Qua Thong, the narrator narrates through imaginative observation and contemplation. That helps readers visualize more clearly and clearly feel the beauty of autumn. The writer does not describe it directly but through imagination and reflection. Those sentences also emphasize the natural beauty of autumn, bringing exciting and new feelings Question 2, page 75, grade 10 literature textbook, volume 1 Suggested outline about a visit to the countryside 1,Open the lesson: 2. Body of the article
Tấm Cám là câu chuyện cố tích mà không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Từ ngày còn bé thơ những nhân vật trong câu chuyện đã trở đi trở lại trong những giấc mơ và ngày ấy, chính câu chuyện là một phần cho sự định hình khái niệm thiện- ác trong mỗi con người. Hình ảnh cô Tấm dịu hiền, ông Bụt hiền từ đã trở thành những hình ảnh thân thương và hình ảnh mẹ con Cám là đjai diện của cái xấu xa, đáng ghét. Nhưng ngày còn bé, chỉ nghe truyện, chúng ta chỉ hiều phần nào nội dung và ý nghĩa truyện đơn thuần đó là ở hiền gặp lành, ác giả ác báo nhưng Tấm Cám là một câu truyện cổ tích rất đặc biệt với rất nhiều những ý nghĩa. Sau đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Tấm Cám đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về văn bản Tấm Cám. 1. Truyện cổ tích: 2. Truyện Tấm Cám Truyện thuộc loại cổ tích thần kì. Bố cục: Câu 1 trang 72 SGK văn 10 tập 1 Phân tích diễn biến của truyện để thấy mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám đã diễn ra như thế nào: Câu 2 trang 72 SGK văn 10 tập 1 Phân tích từng hình thức biến hóa của Tấm lần lượt là: Ý nghĩa của quá trình biến hóa: Câu 3 trang 72 SGK văn 10 tập 1 Về hành động trả thù của Tấm với Cám: Câu 4 trang 72 SGK văn 10 tập 1 Bản chất của mâu thuẫn và xung đột trong truyện:
Tam Cam is a fairy tale that is no longer strange to each of us. Since childhood, the characters in the story have returned again and again in their dreams and in that day, the story itself is part of the shaping of the concept of good and evil in each person. The images of gentle Ms. Tam and gentle Mr. Buddha have become beloved images and the images of Cam and her mother are the representatives of evil and hateful things. But when we were young, just listening to the story, we only partially understood the content and meaning of the story, which is that good is rewarded with good, evil is rewarded with evil, but Tam Cam is a very special fairy tale with many stories. meaning. The following is the best complete Instructions for preparing the Tam Cam lesson for grade 10 for you to refer to and learn about the Tam Cam text. 1. Fairy tales: 2. Tam Cam Story The story is a magical fairy tale. Layout: Question 1, page 72, grade 10 literature textbook, part 1 Analyze the events of the story to see how the conflict between Tam and Cam and her mother unfolded: Question 2, page 72, grade 10 literature textbook, part 1 Analysis of each form of transformation of Tam is in turn: Meaning of transformation: Question 3, page 72, grade 10 literature textbook, part 1 About Tam's revenge against Cam: Question 4, page 72, grade 10 literature textbook, part 1 The nature of conflict and conflict in the story:
Trong văn học nói chung và các thể loại văn học nói riếng thì tự sự vẫn là một trong những thể loại quna trọng, tốn nhiều giấy mực của những người nghệ sĩ tài ba. Những tác phẩm tự sự xây dựng hầu như dựa trên những điều có trong đời sống, được tái hiện qua lăng kính chủ quan của các tác giả. Từ những sự việc, chi tiết nhỏ nhặt diễn ra trong đời sống có thể giúp cho tác giả tạo nên một câu truyện hoàn hảo. Chính vì vậy mà những sự việc hay chi tiết trong văn tự sự đều phải chất lượng, có ý nghĩa biểu đạt và nội hàm nhất định. Để hiểu hơn về điều đó, trong chương trình ngữ văn lớp 10 các bạn học sinh được học bài Chọn sự việc chi tiết tiêu biểu trong văn tự sự. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Chọn sự việc chi tiết tiêu biểu trong văn tự sự lớp 10 hay nhất do dày công biên soạn để các bạn tham khảo thêm nhé. Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc thể hiện một ý nghĩa. Sự việc là cái xảy ra được nhận thức có giới hạn rõ ràng phân biệt với những cãi xảy ra khác. Trong bài văn tự sự, mỗi sự việc được diễn tả bằng lời nói cử chỉ hành động của nhân vật trong quan hệ với nhân vật khác. Câu 1 trang 62 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a,Truện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy: b, Sự việc Mị Châu và Trọng Thủy chia tay nhay là một sự việc tiêu biểu trong truyện, gồm hai chi tiết chính giúp góp phần thúc đẩy sự phát triển của mâu thuẫn lên đỉnh điểm: Nếu bỏ qua hai chi tiết và sự việc ấy thì câu truyện sẽ không thể tiếp nối Câu 2 trang 62 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Một số gợi ý để kể tiếp câu chuyện con trai lão Hạc trở về “ Anh con trai về, nghe ông giáo kể” Các sự việc tiếp nối: ” Cùng ông giáo, anh con trai xúc động ra viếng mộ cha”. Sự việc tiếp nối: “Anh con trai lão Hạc gửi lại ông giáo những di vật và ra đi.” Sự việc tiếp nối: Câu 3 trang 62 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Những điều cần thiết khi chọn sự việc và chi tiết tiêu biểu trong một bài văn tự sự (khái niệm) Câu 1 trang 63 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1
In literature in general and literary genres in particular, narrative is still one of the important genres, consuming a lot of ink and paper by talented artists. Narrative works are built mostly on things in life, recreated through the subjective lens of the authors. From small events and details that happen in life can help the author create a perfect story. That is why the events or details in narrative writing must be of high quality and have a certain expressive and connotative meaning. To better understand that, in the 10th grade literature program, students learn the lesson Choosing typical detailed events in narrative writing. Below are instructions for preparing the lesson "Choosing typical detailed events in the best grade 10 narrative" carefully compiled for your further reference. Narrative is a method of presenting a series of events leading to another event, finally leading to an ending that expresses a meaning. An event is a perceived occurrence that has clear limits and distinguishes it from other occurrences. In a narrative essay, each event is described by the character's words, gestures, and actions in relation to other characters. Question 1, page 62, grade 10 literature textbook, volume 1 a,The story of An Duong Vuong and My Chau-Trhong Thuy: b, The incident of My Chau and Trong Thuy breaking up quickly is a typical incident in the story, including two main details that help promote the development of the conflict to its climax: If you ignore those two details and events, the story will not continue Question 2, page 62, grade 10 literature textbook, volume 1 Some suggestions to continue telling the story of Hac's son's return "My son came home and listened to the teacher" Continuing events: "With the teacher, the son emotionally visited his father's grave." Continuing events: "Old Hac's son gave the teacher his relics and left." Continuing events: Question 3, page 62, grade 10 literature textbook, volume 1 Necessary things when choosing typical events and details in a narrative essay (concept) Question 1, page 63, grade 10 literature textbook, volume 1
Không chỉ có nền văn học dân gian của nước nhà phát triển mà ta nên nhìn rộng ra cả nền văn học của nhân loại. Từ xa xưa con người ta biết gửi gắm những khát khao, hi vọng, những quan niệm về cuộc sống, phong tục, lối sống trong các tác phẩm văn học dân gian. Đặc biệt là thể loại sử thi văn học cổ đại dường như vẫn còn giá trị rất cao cả về mặt tư tưởng lẫn thẩm mĩ nghệ thuật. trong đó chúng ta không thể không nhắc đến sử thi Ra-ma-ya-na của nền văn học Ấn Độ đáng ngưỡng mộ. Trong đó đoạn trích “Ra-ma buộc tội” là một đoạn trích tiêu biểu thuộc sử thi. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Ra-ma buộc tội” lớp 10. Việc soạn bài ở nhà là bước chuẩn bị cần thiết. 1. Tác phẩm “Ra-ma-ya-na” là một bộ sử thi đồ sộ của Ấn Độ khoảng thế kỉ thứ III trước CN. Tác phẩm kể về những kì tích của hoàng từ ra-ma, con vua Đa-xa-ra-tha. 2. Đoạn trích Nằm ở khúc ca thứ 6 chương 79. Đoạn trích kể lại những chi tiết sau khi chiến thắng quỷ vương Ra-va-na, cứu Xi-ta, nhưng vì danh dự và lòng ghen tuông, Ra-ma đã nghi ngờ sự trong sạch của Xi-ta và tuyên bố ruồng bỏ nàng. Xi-ta đã bảo vệ danh dự bằng cách nhảy vào dàn hỏa (theo cách thanh minh của người Ấn Độ) đoạn trích miêu tả thái độ kiên quyết bảo vệ danh dự của người Ấn Độ cổ đại. Câu 1 trang 59 SGK ngữ văn 10 tập 1: a) Sau khi chiến thằng, Ra-ma và Xi-ta gặp lại nhau trước sự chứng kiến của tất cả an hem, bạn hữu trung thành của Ra-ma (Lắc-ma-na. Xu-gri-va, Ha-nu-man, Vi-phi-sa-na), quân đội khỉ, quan quân, dân chứng của vương quốc quỷ. b) Trong không gian công cộng ấy, Ra-ma không chỉ đứng trên tư cách một người chồng mà còn trên tư cách một người anh hùng, một đức vua. Tư cách kép ấy khiên Ra-ma phải có những thái độ ứng xử phù hợp (dù chàng có yêu thương, xót xa cho người vợ thì vẫn phải giữ bổn phận gương mẫu của một đức vua anh hùng) cũng như vậy, Xi-ta vừa là người vợ của Ra-ma, đồng thời là hoàng hậu của một nước. Lời của nàng nói không chỉ hướng vào Ra-ma mà còn là hướng vào cộng đồng, để mọi người hiểu được tấm lòng của nàng. Câu 2 trang 59 SGK ngữ văn 10 tập 1: Theo lời Ra-ma, chàng hủy diệt quỷ vương cứu Xi-ta vì danh dự bị xúc phạm Chàng ruồng bỏ Xi-ta cũng vì lí do danh dự Phân tích những từ ngữ lặp lại nhiều lân: Ra-ma nhiều lần nói đến danh dự xúc phạm Thái độ của Ra-ma khi Xi-ta bước lên giàn hỏa: “Ra-ma vẫn ngồi, mắt dán xuống đất, Xi-ta lượn quanh rồi bước lên giàn lửa…”. Chi tiết này cho thấy Ra-ma vẫn để danh dự và sự ghen tuông thắng thế. Chính tình yêu của chàng đã mâu thuẫn gay gắt với danh dự làm nảy sinh lòng ghen tuông và hành động ruồng bỏ. Câu 3 trang 60 SGK ngữ văn 10 tập 1: Trong lời đáp của mình, Xi-ta đã nhấn mạnh rõ rang sự pahan biệt giữa tư cách con người đức hạnh với loại phụ nữ tầm thường thấp kém. Nàng nhấn mạnh tình yêu, danh dự, lòng trung thành cũng như sự xuất thân cao quý của nàng (con của Thần Đất) Xi-ta cũng nhấn mạnh sự khác biệt giữa số mệnh và trái tim: việc quỷ vương Ra-va-na đã đụng tới anngf khi đang bị chết ngất đi, đó là chuyện của số mệnh, không phụ thuộc vào ý muốn của nàng, tình yêu của Xi-ta vẫn luôn dành cho Ra-ma, đó mới là tình yêu đích thực Thần lửa A-mi trong thần thoại Ấn Độ là một vị thần rất quan trọng, do cha Trời và mẹ Đất sinh ra, cai quản phần đất Trong quan niệm của người Ấn Độ, lửa là trong sạch nhất, lửa có thể thiêu cháy tats cả nhưng vẫn giữ được mình trong sạch. Chỉ có thần Lửa mới có thể chứng giám cho sự trong sạch của con người.
Not only should the folk literature of our country develop, but we should look broadly at the literature of humanity. Since ancient times, people have known how to convey their desires, hopes, concepts about life, customs, and lifestyle in folk literature. In particular, the ancient literary epic genre still seems to have very high value both in terms of ideology and artistic aesthetics. In which we cannot help but mention the Ramayana epic of admirable Indian literature. The excerpt "Ra-mah accuses" is a typical excerpt from the epic. Below I will guide you in preparing the lesson "Rama accuses" grade 10. Preparing the lesson at home is a necessary preparation step. 1. Works “Ra-ma-ya-na” is a massive Indian epic around the 3rd century BC. The work tells about the exploits of Prince Rama, son of King Dasaratha. 2. Excerpt Located in the 6th song, chapter 79. The excerpt recounts the details after defeating the demon king Ravana and saving Sita, but because of honor and jealousy, Rama doubted his integrity. Sita's innocence and declared that he abandoned her. Sita defended her honor by jumping into the fire (in the Indian way of justifying herself). The excerpt describes the determined attitude of ancient Indians to protect honor. Question 1 on page 59 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: a) After the victory, Rama and Sita met again in the presence of all of Rama's brothers and loyal friends (Lak-mana. Sugri-va, Ha- nu-man, Vi-phi-sa-na), monkey army, military officers, witnesses of the demon kingdom. b) In that public space, Rama not only stood as a husband but also as a hero and a king. That dual status forced Rama to have appropriate behavior (even though he loved and felt sorry for his wife, he still had to maintain the exemplary duty of a heroic king). Likewise, Sita is both the wife of Rama and the queen of a country. Her words were not only directed at Ramah but also directed at the community, so that everyone could understand her heart. Question 2, page 59, 10th grade literature textbook, part 1: According to Rama, he destroyed the demon king and saved Sita because his honor was insulted He abandoned Sita also for reasons of honor Analysis of repeated words: Ramah repeatedly mentioned insulting honor Rama's attitude when Sita stepped onto the pyre: "Rama still sat, eyes glued to the ground, Sita circled around and then stepped onto the pyre...". This detail shows that Rama still let honor and jealousy prevail. His love was in sharp conflict with honor, giving rise to jealousy and abandonment. Question 3 on page 60 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: In her reply, Sita clearly emphasized the difference between virtuous human beings and ordinary, lowly women. She emphasizes love, honor, loyalty as well as her noble birth (child of the Earth God). Sita also emphasized the difference between fate and the heart: the fact that the demon king Ravana touched her while she was unconscious was a matter of fate, independent of her will. , Sita's love is always for Rama, that is true love The fire god Ami in Indian mythology is a very important deity, born from Father Heaven and Mother Earth, and governs the land. In Indian beliefs, fire is the purest, fire can burn everything but still remains pure. Only the Fire God can testify to human purity.
Không chỉ có nền văn học dân gian của nước nhà phát triển mà ta nên nhìn rộng ra cả nền văn học của nhân loại. Từ xa xưa con người ta biết gửi gắm những khát khao, hi vọng, những quan niệm về cuộc sống, phong tục, lối sống trong các tác phẩm văn học dân gian. Đặc biệt là thể loại sử thi văn học cổ đại dường như vẫn còn giá trị rất cao cả về mặt tư tưởng lẫn thẩm mĩ nghệ thuật. trong đó chúng ta không thể không nhắc đến sử thi Ô-đi-xê của nền văn học Hi Lạp đáng ngưỡng mộ. Trong đó đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” là một đoạn trích tiêu biểu thuộc sử thi. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Uy-lí-xơ trở về” lớp 10. Việc soạn bài ở nhà là bước chuẩn bị cần thiết. 1. Thể loại Sử thi: tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại. Thường có hai loại sử thi: sử thi thần thoại và sử thi anh hùng. “Ô-đi-xê” là sử thi anh hùng 2. Đoạn trích. Đoạn trích thuộc ca khúc thứ XXIII của sử thi Ô-đi-xê Câu 1 trang 52 sgk ngữ văn 10 tập 1: Văn bản trên có thể chia làm 2 phần: Câu 2 trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1: Câu 3 trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1: Tâm trạng “rất đỗi phân vẫn” của nàng biểu hiện ở dáng điệu, cử chỉ, sự lung túng tìm cách ứng xử: “Không biết nên đứng xa hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay mà hôn”. Nàng dò xét, suy nghĩ, tính toán mông lung nhưng cũng không giấu được sự bang hoàng xúc động không cùng: “Ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ quần áo rách mướp” Việc chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy Pê-nê-lốp là con người trí tuệ, thông minh và tỉnh táo biết kìm nén tình cảm của mình. Bên cạnh sự thông minh, tỉnh táo là sự thân trọng của nàng. Điều đó rất phù hợp với hoàn cảnh của nàng lúc này. Pê-nê-lốp là người tỉnh táo mà tế nhị, kiên quyết mà thận trọng,trí tuệ mà rất giàu tình cảm, phẩm cách cao thượng. Câu 4 trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1: Tâm trạng của pê-nê-lốp khi gặp lại chồng được so sánh với người đi biển bị đắm tàu, trong cơn tuyệt vọng bỗng nhận ra đất liền. Câu 1 trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1: diễn kịch
Not only should the folk literature of our country develop, but we should look broadly at the literature of humanity. Since ancient times, people have known how to convey their desires, hopes, concepts about life, customs, and lifestyle in folk literature. In particular, the ancient literary epic genre still seems to have very high value both in terms of ideology and artistic aesthetics. In which we cannot help but mention the Odyssey epic of admirable Greek literature. In which, the excerpt "Uylis's return" is a typical excerpt of the epic. Below, I will guide you to prepare the lesson "Return of Uyghur" for grade 10. Preparing the lesson at home is a necessary preparation step. 1. Genre Epic: a large-scale folk narrative work, using rhyming and rhythmic language, building majestic and heroic artistic images to tell about one or more major events taking place in community life. of ancient residents. There are usually two types of epics: mythological epics and heroic epics. “Odice” is a heroic epic 2. Excerpt. Excerpt from song XXIII of the Odyssey Question 1 on page 52 of grade 10 literature textbook, part 1: The above text can be divided into 2 parts: Question 2 on page 52 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: Question 3 on page 52 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: Her "very confused" mood is reflected in her posture, gestures, and confusion in trying to find a way to behave: "I don't know if I should stand far away or should I come closer, hug my head, take my hand and kiss." She probed, thought, and calculated vaguely, but could not hide her endless emotional shock: "Sitting silently on the chair for a long time, shocked, sometimes lovingly looking at her husband, sometimes not recognizing her husband." husband under tattered clothes" Choosing to try the "secret of the bed" test shows that Penelov is an intellectual, intelligent and alert person who knows how to suppress his emotions. Besides her intelligence and alertness, she is also respectful. That is very suitable for her situation right now. Pelelov is alert yet tactful, resolute yet cautious, intellectual yet rich in emotion, and of noble character. Question 4 on page 52 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: Penelov's mood when meeting her husband again is compared to a shipwrecked seafarer who, in despair, suddenly recognizes land. Question 1, page 52, Grade 10 Literature Textbook, Part 1: Drama
Văn học Nước ngoài nói chung và văn học Việt Nam nói chung đều chia ra rất nhiều các thể loại và hình thức khác nhau. Chính sự phong phú và đa dạng của văn chương đã giúp các nhà văn thỏa sức sáng tạo và phô diễn tài năng nghệ thuật của mình. Với thể loại tự sự, các nhà văn luôn xây dựng truyện ngắn, truyện dài theo góc nhìn từ thực tế và qua lăng kính chủ quan của mình. Những câu truyện dù khác nhau về ý nghĩa, thông điệp, dung lượng nhưng nó luôn có điểm chung là cần xây dựng một dàn ý sơ lược trước khi hình thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, các bạn học sinh sẽ được học cách lập dàn ý bài văn tự sự một cách chi tiết và cụ thể nhất. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Lập dàn ý bài văn tự sự lớp 10 hay nhất do Câu 1 trang 46 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Văn bản kể lại một câu chuyện về toàn bộ suy nghĩa, chuẩn bị để sáng tác truyện ngắn Rừng Xà Nu. Từ những điều thực tế, từ con người thật việc thật, tác giả luôn nghĩ rằng truyện sẽ mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu, phần thân truyện kể về câu chuyện đánh Đế Quốc Mỹ qua cuộc đời của T Nú và các nhân vật xoay quanh nhân vật chính Câu 2 trang 46 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Câu 1 trang 47 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 a, Trường hợp 1 Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện xảy ra từ cái kết của tác phẩm Tắt Đèn Thân bài: Kể lại câu chuyện theo hai sự việc chính Kết bài: b, Trường hợp 2 Mở bài: Giới thiệu câu chuyện xảy ra từ kết thúc tác phẩm Tắt đèn Thân bài: Kể lại câu chuyện theo những sự việc cụ thể xảy ra trong toàn bộ tác phẩm theo trình tự thời gian Kết bài: Câu 2 trang 47 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Cách lập dàn ý một văn bản tự sự Câu 1 trang 48 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Xây dựng cột truyện dựa trên câu nói của Lenin: Tôi không sợ khó, không sợ khổ, tôi chỉ sợ những phút yếu mềm của lòng tôi. Đối với tôi chiến thắng bản thân là chiến thắng vẻ vang nhất) để kể về câu chuyện với đề tài: “Một học sinh có bản chất tốt, nhưng do một hoàn cảnh nào đó xô đẩy dẫn đến phạm sai lầm nhưng đã kịp thời tỉnh ngộ” Cốt truyện: Câu 2 trang 48 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Lập dàn ý cho câu chuyện kể lại về một kỉ niệm tình bạn Mở bài: Giới thiệu nhân vật chính, hoàn cảnh chính
Foreign literature in general and Vietnamese literature in general are divided into many different genres and forms. It is the richness and diversity of literature that helps writers unleash their creativity and show off their artistic talents. With the narrative genre, writers always build short stories and long stories from a realistic perspective and through their subjective lens. Although the stories are different in meaning, message, and content, they always have one thing in common: it is necessary to build a brief outline before forming a complete work. In the 10th grade literature program, students will learn how to outline a narrative essay in the most detailed and specific way. Below are instructions for preparing the best narrative essay outline for grade 10 by Question 1, page 46, grade 10 literature textbook, volume 1 The text tells a story about the entire thinking and preparation to compose the short story Xa Nu Forest. From real things, from real people and real things, the author always thought that the story would begin and end with the image of the snake forest, while the body of the story tells the story of fighting the American Empire through the lives of T Nu and The characters revolve around the main character Question 2, page 46, grade 10 literature textbook, volume 1 Question 1, page 47, grade 10 literature textbook, volume 1 a, Case 1 Introduction: Introducing the story that happens from the end of Lights Out Body of the article: Retell the story according to two main events End: b, Case 2 Introduction: Introduce the story that happened from the end of Lights Out Body: Retell the story according to specific events that happened throughout the work in chronological order End: Question 2, page 47, grade 10 literature textbook, volume 1 How to outline a narrative text Question 1, page 48, grade 10 literature textbook, volume 1 Building a story column based on Lenin's quote: I'm not afraid of difficulties, I'm not afraid of suffering, I'm only afraid of the weak moments of my heart. For me, winning over myself is the most glorious victory) to tell the story with the topic: "A student has a good nature, but due to a certain situation, he made a mistake but made a timely mistake." disenchant" Plot: Question 2, page 48, grade 10 literature textbook, volume 1 Create an outline for a story about a friendship memory Introduction: Introduce the main character and main situation
Việt nam ta từ xa xưa từ thời lập quốc đã có rất nhiều như truyền thuyết, những câu truyện về những con người và thời đại. Những câu truyện ấy là một trong những minh chứng cho bề dày lịch sử và văn hóa của dân tộc. Đọc truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ, ta sẽ hiểu rõ về cội nguồn của mình, đọc Sự tích Mai An Tiêm, ta sẽ hiểu hơn về dòng dõi cha ông, đọc Sơn tinh và Thủy tinh chúng ta biết về thiên nhiên qua sự lí giải độc đáo của nhân dân. Và khi đọc Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy, cụ thể trong chương trình ngữ văn lớp 10, các bạn học sinh sẽ biết thêm về lịch sử, đất nước và hiểu thế nào là lòng tin, chung thủy, nghĩa tình và cả những bi kịch trong dòng chảy lịch sử Việt Nam Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy lớp 10 hay nhất do chúng tôi dày công biên soạn để các bạn tham khảo thêm trong quá trình học và tìm hiểu văn bản nhé. 1. Tác giả: dân gian 2.Tác phẩm Câu 1 trang 42 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Các chi tiết liên quan đến An Dương Vương: Sự giúp đỡ của Rùa Vàng (thế lực thần linh) đối với An Dương Vương là ca ngợi sự cảnh giác và lo tính sâu sa của vua vì sự an nguy của nước nhà và nhân dân. Đề cao công lao to lớn của vị vua An Dương Vương đã đứng lên chống giặc ngoại xâm bảo vệ bờ cõi Sự mất cảnh giác của An Dương Vương: Câu 2 trang 43 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần: Nhìn ở khía cạnh thứ nhất, lỗi của Mị Châu là lớn nhất bởi vì nàng vì tình riêng mà không để ý đến nước nhà, quên mất trọng trách của một vị công chúa. Nhìn ở khía cạnh còn lại, theo luôn lí phong kiến “ xuất giá tòng phu” khi lấy chồng phải nghe lời chồng Cả hai cách đánh giá đều chưa thỏa đáng bởi lẽ suy cho cùng Mị Châu cũng là nạn nhân đáng thương của tình yêu và mưu đồ liên hôn mang tính chính trị. Về tình mà nói nàng là người bị hại nhưng về lí, không thể tha thứ được. Do đó Mị Châu vừa đáng giận và cũng đáng thương. Câu 3 trang 43 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Phần kết của truyền thuyết liên quan đến cái chết của Mị Châu thể hiện hai goc nhìn tưởng chừng trái ngược nhưng lại thống nhất. Truyền thuyết là lời nhắn nhủ của dân gian đến các thể hệ mai sau về bi kịch tình yêu, bi kịch nước nhà và việc giải quyết giữa tình và lí. Câu 4 trang 43 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1
Since ancient times, Vietnam has had many legends and stories about people and times. These stories are one of the proofs of the nation's rich history and culture. Reading the stories of Lac Long Quan and Au Co, we will clearly understand our origins, reading the Tale of Mai An Tiem, we will understand more about our ancestors' lineage, reading Son Tinh and Thuy Tinh we learn about nature through the unique explanation of the people. And when reading the Tale of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy, specifically in the 10th grade literature program, students will learn more about history, the country and understand what trust, loyalty and gratitude are. and even the tragedies in the flow of Vietnamese history. Below are instructions for preparing the best lesson The Story of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy for grade 10, which we diligently compiled for your further reference during the learning process. and learn the text. 1. Author: folk 2. Works Question 1, page 42, grade 10 literature textbook, volume 1 Details related to An Duong Vuong: The help of the Golden Turtle (divine force) to An Duong Vuong is to praise the king's vigilance and deep concern for the safety of the country and its people. Appreciating the great merits of King An Duong Vuong who stood up against foreign invaders to protect his territory An Duong Vuong's loss of vigilance: Question 2, page 43, grade 10 literature textbook, volume 1 Mi Chau secretly showed Trong Thuy the magic crossbow: Looking at the first aspect, Mi Chau's mistake is the biggest because for her own love she did not pay attention to her country and forgot the responsibilities of a princess. Looking at the other aspect, according to the feudal principle of "following the husband", when getting married, one must listen to the husband's words Both assessments are unsatisfactory because in the end, Mi Chau is also a pitiful victim of love and political marriage schemes. Emotionally, she is the victim, but logically, she cannot be forgiven. Therefore, Mi Chau is both angry and pitiful. Question 3, page 43, grade 10 literature textbook, volume 1 The ending of the legend related to Mi Chau's death shows two seemingly opposite but unified perspectives. The legend is a folk message to future generations about the tragedy of love, the tragedy of the country and the resolution between love and reason. Question 4, page 43, grade 10 literature textbook, volume 1
Nếu như trong văn nói ta sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ giao tiếp, cử chỉ điệu bộ thì trong văn viết chúng ta sử dụng chủ yếu chính là văn bản. Văn bản được chia ra nhiều hình thức trình bày khác nhau nhưng chung quy lại nó vẫn dùng để biểu đạt suy nghĩ, trình bày sự việc,.. một cách mạch lạc và rõ ràng nhất. Văn bản thường sử dụng ngôn ngữ văn chương hơn là ngôn ngữ đời thường bợi đặc trưng của nó. Chính vì sự cần thiết và phổ biến của nó trong đời sống nên từ cấp trung học phổ thông chúng ta đã được học về văn bản, cụ thể trong chương trình lớp 10, các bạn học sinh được học kĩ lưỡng về văn bản. Dưới đây là hướng dẫn soạn bài Văn bản (tiếp theo) lớp 10 hay nhất do biên soạn để các bạn tham khảo thêm nhé Câu 1 trang 37 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Tìm hiểu đặc điểm văn bản a, Đoạn văn trên được coi như một văn bản nhỏ: b, Tiêu đề của văn bản có thể đặt là: Sự ảnh hưởng của môi trường đến cơ thể sống Câu 2 trang 37 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Sắp xếp đoạn văn: Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời Chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Phần đầu bài thơ tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và Kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hoà bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Bác Hồ, của Đảng đối với dân tộc. “Việt Bắc” là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Tên văn bản trên tiêu đề là: Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Việt Bắc” Câu 3 trang 37 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Văn bản “Môi trường sống của loài người hiện nay đang bị huỷ hoại ngày càng nghiêm trọng”.Hàng năm có hàng triệu tấn rác thải không phân hủy bị vứt bừa bãi khắp nơi làm tắc cống rãnh và giết chết các loài sinh vật. Những cánh rừng ở đầu nguồn cũng dần vắng bóng khiến cho nạn lũ lụt, lở đất ngày càng hoành hành dữ dội hơn. Ở trên cao, bầu không khí của chúng ta cũng chịu chung số phận. Khí thải từ các nhà máy, các khu công nghiệp xả ra quá mức làm cho tấm lá chắn bảo vệ trái đất của chúng ta (tầng ôzôn) cũng đứng trước nguy cơ không còn giá trị. Tên văn bản: Những tác động xấu của con người đến môi trường Câu 4 trang 37 sgk ngữ văn lớp 10 tập 1 Đơn gửi cho giáo viên chủ nhiệm lớp: Người viết đơn là học sinh hoặc sinh viên.
If in speaking we use mainly communication language and gestures, then in writing we mainly use text. Text is divided into many different forms of presentation, but in general it is still used to express thoughts, present events, etc. in the most coherent and clear way. Texts often use literary language rather than everyday language because of its characteristics. Because of its necessity and popularity in life, from high school level we have learned about texts, specifically in the 10th grade program, students learn thoroughly about texts. Below are instructions for preparing the best Grade 10 Text (continued) lesson compiled by the editor for your further reference. Question 1, page 37, grade 10 literature textbook, volume 1 Learn text characteristics a, The above paragraph is considered a small text: b, The title of the text can be set as: The influence of the environment on living organisms Question 2, page 37, grade 10 literature textbook, volume 1 Arrange paragraphs: In October 1954, the central agencies of the Party and Government left the Viet Bac War Zone and returned to Hanoi. On that historical event, To Huu composed the poem "Viet Bac". The first part of the poem recreates an arduous and glorious period of the Revolution and Resistance in the Viet Bac war zone, which have now become deep memories in people's hearts. The following part speaks of the bond between the uplands and the lowlands in a bright peaceful prospect for the country and ends with praise for the gratitude of Uncle Ho and the Party to the nation. "Viet Bac" is a pinnacle of To Huu's poetry and also an excellent work of Vietnamese literature during the resistance war against the French. The name of the text on the title is: Circumstances of the birth of the poem "Viet Bac" Question 3, page 37, grade 10 literature textbook, volume 1 Document "Humanity's living environment is currently being increasingly seriously destroyed." Every year, millions of tons of non-degradable waste are thrown haphazardly everywhere, clogging sewers and killing creatures. The forests in the upstream are also gradually disappearing, causing floods and landslides to become more and more intense. Up high, our atmosphere suffers the same fate. Excessive emissions from factories and industrial parks make the shield that protects our earth (the ozone layer) also at risk of no longer being of value. Text title: Human's negative impacts on the environment Question 4, page 37, grade 10 literature textbook, volume 1 Application to be sent to the class teacher: The person writing the application is a student or student.
Văn bản là một khái niệm mà chúng ta đã không còn xa lạ gì khi bắt đầu học chương trình ngữ văn lớp 6 nhưng cho đến chương trình ngữ văn lớp 10 chúng ta mới có riêng một bài Văn bản để các bạn có thể hiểu trực tiếp thế nào là văn bản, chủ đề, đề tài của văn bản, cách phân tích một văn bản, cách để tạp lập một văn bản… là gì. Chúng ta sẽ đến với bài Văn bản lớp 10, học bài này cần nắm chắc được khái niệm, đặc điểm cơ bản của văn bản cùng việc nâng cao năng lực phân tích, thực hành tạo lập một văn bản. Sau đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Văn bản đầy đủ hay nhất lớp 10 tại để các bạn tham khảo và tìm hiểu về bài Văn bản lớp 10. Câu 1 trang 24 SGK văn 10 tập 1 Câu 2 trang 24 SGK văn 10 tập 1 Vấn đề mà mỗi văn bản đề cập: Câu 3 trang 24 SGK văn 10 tập 1 Câu 4 trang 24 SGK văn 10 tập 1 Về hình thức, văn bản 3 có dấu hiệu: Câu 5 trang 24 SGK văn 10 tập 1 Mục đích mỗi văn bản: Câu 1 trang 25 SGK văn 10 tập 1 So sánh văn bản 1, 2 với văn bản 3: Vấn đề được đề cập trong văn bản thuộc các lĩnh vực: Từ ngữ được sử dụng: Cách thức thể hiện nội dung: Câu 2 trang 25 SGK văn 10 tập 1 So sánh các văn bản 2, 3 với một bài học trong SGK thuộc môn học khác va với một đơn xin nghỉ học hoặc một giấy khai sinh, về các phương diện: a) Phạm vi sử dụng: b) Mục đích:
Text is a concept that we are no longer unfamiliar with when we start studying the 6th grade literature program, but until the 10th grade literature program, we have a separate Text lesson for you to understand directly. Next, what is a text, what is the topic, the subject of the text, how to analyze a text, how to compose a text... We will come to the Grade 10 Text lesson. Studying this lesson, you need to firmly grasp the basic concepts and characteristics of the text along with improving the ability to analyze and practice creating a text. The following is the best guide to preparing a complete Text lesson for grade 10 for you to refer to and learn about the Grade 10 Text lesson. Question 1 on page 24 of grade 10 literature textbook, part 1 Question 2, page 24, grade 10 literature textbook, part 1 Issues that each text addresses: Question 3, page 24, grade 10 literature textbook, part 1 Question 4 on page 24 of grade 10 literature textbook, part 1 In terms of form, document 3 has the following signs: Question 5 on page 24 of grade 10 literature textbook, part 1 Purpose of each text: Question 1, page 25, grade 10 literature textbook, part 1 Compare text 1, 2 with text 3: Issues mentioned in the text fall into the following areas: Words used: How to express content: Question 2, page 25, grade 10 literature textbook, part 1 Compare documents 2 and 3 with a lesson in a textbook in another subject and with an application to leave school or a birth certificate in the following aspects: a) Scope of use: b) Purpose:
Hoạt động giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin của con người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ (dạng nói hoặc dạng viết), nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, về tình cảm về hành động,.. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ rất quan trọng cả trong quá trình học tập cũng như trong đời sống thường ngày. Trong bài học lần trước chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và lần này chúng ta tiếp tục tìm hiểu thêm để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, kiến thức vận dụng sao cho hợp lí trong học tập và cuộc sống. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếp theo) lớp 10. Việc soạn bài ở nhà là bước chuẩn bị cần thiết trước khi lên lớp. Câu 1 trang 20 SGK ngữ văn 10 tập 1: a) Nhân vật giao tiếp ở đây là những người nam, nữ trẻ tuổi b) Hoạt động giao tiếp diễn ra vào một đêm trăng thanh. Khung cảnh này rất thích hợp để trao đổi tâm tình. c) Nhân vật anh nói về chuyện “Tre non đủ lá” và vấn đề “nên chăng” tính chuyện “đan sàng”. Đây là cách nói ý nhị để ướm duyên. Có cách hiểu: chàng trai vì tình cảm của hai người trưởng thành, đã sâu đậm nên tính chuyện hôn nhân. d) Cách nói của “anh” có phù hợp với mục đích giao tiếp. Câu 2 trang 20 SGK ngữ văn 10 tập 1: a) trong cuộc giao tiếp các nhân vật đã thực hiện bằng ngôn ngữ hành động: Chào lại Khen Hỏi b) Cả ba câu trong lời nói của ông già đều có hình thức câu hỏi, nhưng câu thứ 3 (Bố cháu có gửi pin đài lên cho ông không?) mới có mục đích hỏi. không phải các câu đều dùng để hỏi mà thực chất là để “A Cổ hả?” (chào lại), “lớn tướng rồi nhỉ?” (khen) c) Lời của nhân nhân vật A Cổ đối với ông thể hiện sự kính trọng Lời của ông già thể hiện thái độ yêu mến đối với cháu Câu 3 trang 21 SGK ngữ văn 10 tập 1: a) Khi làm bài thơ này, Hồ Xuân Hương đã “giao tiếp” với người đọc về vấn đề thân phận người phụ nữ nói chung và của tác giả nói riêng. Đồng thời khẳng định phẩm giá, nhân cách tốt đẹp của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã dùng hình tượng chiếc bánh trôi nước để nói lên điều này. b)Người đọc căn cứ vào thân phận tác giả, một người tài hoa nhưng lận đận đường tình duyên và căn cứ vào từ ngữ, hình ảnh, hoàn cảnh đương thời để lĩnh hội bài thơ Câu 4 trang 21 SGK ngữ văn 10 tập 1: Gợi ý: chú ý yếu tố sau Câu 5 trang 21 SGK ngữ văn 10 tập 1: Phân tích qua bức thư a) Nhân vật giao tiếp Bác Hồ với tư cách là Chủ tịch nước, viết thư cho học sinh toàn quốc – những chủ nhân tương lai đất nước Việt Nam độc lập b) Hoàn cảnh giao tiếp Đất nước vừa giành được độc lập và đây là khai trường đầu tiên của đất nước Việt Nam độc lập c) Nội dung giao tiếp Đề cập đến niềm vui của học sinh vì được hưởng nền độc lập và được “nhận nền giáo dục hoàn toàn Việt nam”, đồng thời nhắc nhở về nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi học sinh với đất nước. Cuối thư là lời chúc mừng của Bác gửi tới học sinh. d) Mục đích giao tiếp
Communication activity is the information exchange activity of people in society, conducted mainly by means of language (spoken or written form), to achieve cognitive and emotional purposes. action, etc. Thus, it can be seen that language communication activities are very important both in the learning process as well as in everyday life. In the previous lesson, we learned together about language communication activities and this time we continue to learn more to draw lessons from experience and knowledge to apply appropriately in learning. practice and life. Below I will guide you in preparing the lesson Language communication activities (continued) for grade 10. Writing lessons at home is a necessary preparation step before going to class. Question 1 on page 20 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: a) The characters communicating here are young men and women b) The communication activity took place on a clear moonlit night. This scene is very suitable for exchanging feelings. c) His character talks about "Young bamboo has enough leaves" and the issue of "should" consider "weaving". This is a subtle way to say goodbye. There is an interpretation: the boy, because the feelings between two people are mature and deep, should consider marriage. d) Is the way of saying "you" appropriate for the purpose of communication? Question 2 on page 20 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: a) in the communication the characters carried out in action language: Hello again Praise Ask b) All three sentences in the old man's speech have the form of a question, but the third sentence (Did your father send the radio battery to you?) has the purpose of asking. Not all sentences are used to ask questions, but actually to say, "A Co?" (greet back), “You're a big boy, aren't you?” (praise) c) The character A Co's words towards him show respect The old man's words expressed his loving attitude towards his grandchild Question 3, page 21, 10th grade literature textbook, part 1: a) When writing this poem, Ho Xuan Huong "communicated" with readers about the issue of women's status in general and that of the author in particular. At the same time, it affirms the dignity and good personality of women. Ho Xuan Huong used the image of a floating cake to express this. b) Readers rely on the author's identity, a talented but troubled love life, and on words, images, and contemporary circumstances to comprehend the poem. Question 4 on page 21 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: Hint: pay attention to the following factors Question 5, page 21, 10th grade literature textbook, part 1: Analysis of the letter a) Communicating characters Uncle Ho, as President, wrote a letter to students nationwide - the future owners of an independent Vietnam. b) Communication situation The country has just won independence and this is the first opening of an independent Vietnam c) Communication content Mentioning the joy of students for enjoying independence and "receiving a completely Vietnamese education", while reminding about the duties and responsibilities of each student to the country. At the end of the letter is Uncle Ho's congratulations to the students. d) Purpose of communication
Văn học dân gian Việt Nam có một vị trí vô cùng quan trọng không chỉ trong nền văn học nước nhà mà còn có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta. Đó là kết quả của một quá trình sáng tạo tập thể, nó được hoàn thiện và lưu truyền không ngừng từ người này qua người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Chính vì thế, văn học dân gian có một chỗ đứng và vị trí đặc biệt trong đời sống cộng đồng. Hôm nay, mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Khái quát văn học dân gian Việt Nam Ngữ văn 10 tập 1 để thấy rõ hơn điều đó. 1. Câu 1 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Việt Nam: 2. Câu 2 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1 Văn học dân gian có những thể loại như sau: Thể loại Định nghĩa Ví dụ Thần thoại Là những tác phẩm kể về các vị thần nhằm giải thích tự nhiên. Phản ánh nhận thức, quan niệm của con người thời cổ về nguồn gốc thế giới và quá trình sáng tạo văn hóa của con người. Thần thoại là loại truyện ra đời sớm nhất. Thần Trụ Trời, Thần Mặt trăng và thần Mặt Trời Sử thi Còn gọi là anh hùng ca – là những bài ca lịch sử, bài ca ca ngợi các anh hùng, nó gắn liền với những biến cố, sự kiện đặc biệt của lịch sử dân tộc trong một thời kì nhất định. Đăm Săn (dân tộc Ê-đê) Truyền thuyết Là tác phẩm kể về các nhân vật, sự kiện lịch sử hoặc có liên quan đến lịch sử theo xu hướng lí tưởng hóa, thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn vinh của nhân dân đối với người có công với dân tộc, cộng đồng dân cư. Thánh Gióng, Bà chúa bầu… Truyện cổ tích Là tác mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về những số phận con người bình dân trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và sự lạc quan của nhân dân. Tấm Cám, Sọ Dừa, Cây tre trăm đốt Truyện ngụ ngôn Là tác phẩm ngắn, kết câu chặt chẽ, sử dụng hình ảnh ẩn dụ để kể về những sự việc liên quan về cuộc sống con người, từ đó nêu lên triết lí nhân sinh, bài học kinh nghiệm. Thầy bói xem voi, Ếch ngồi đáy giếng Truyện cười Là tác phẩm ngắn, kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười giúp giải trí và phê phán. Lợn cưới áo mới Tục ngữ Câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, nhịp điệu, đúc kết những kinh nghiệm sống. Tấc đất, tấc vàng. Kiến tha lâu cũng đầy tổ Câu đố Bài văn hoặc câu nói có vần, mô tả sự vật bằng ẩn dụ những hình ảnh, hiện tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy. Ca dao Tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường được kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, diễn tả thế giới nội tâm của con người. Thân em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Vè Tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự qua lối kể mộc mạc. Bà còng đi chợ trời mưa. Truyện thơ Là tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, phản ảnh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc và sự công bằng. Chèo Tác phẩm kịch hát dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức, phê phán thói hư tật xấu của xã hội. “Nữ tướng Thục Nương”, “Bà chúa thượng ngàn”
Vietnamese folk literature has an extremely important position not only in the country's literature but also has great significance in the cultural and spiritual life of our people. It is the result of a collective creative process, it is perfected and continuously passed down from person to person, from generation to generation. That is why folk literature has a special place and position in community life. Today, I will guide you to prepare the lesson Overview of Vietnamese folk literature Literature 10, volume 1 to see that more clearly. 1. Sentence 1 page 19 Literature Textbook grade 10, part 1 Basic characteristics of Vietnamese folk literature: 2. Question 2, page 19, Grade 10 Literature Textbook, Part 1 Folk literature has the following genres: Category Define For example Legend These are works that tell about gods to explain nature. Reflects ancient people's perceptions and concepts about the origin of the world and the process of human cultural creation. Mythology is the earliest type of story to exist. God of the Sky Pillar, God of the Moon and God of the Sun Epic Also known as epic poems - are historical songs, songs praising heroes, they are associated with special incidents and events of the nation's history in a certain period. Dam San (Ede ethnic group) Legend Is a work that tells about historical characters and events or is related to history in an idealized fashion, expressing the people's admiration and honor for people who have contributed to the nation and community. populate. Saint Giong, the Pregnant Queen… Fairy tales It is a work whose plot and images are intentionally fictional, telling about the fate of ordinary people in society, expressing the humanitarian spirit and optimism of the people. Tam Cam, Coconut Skull, Hundred-node bamboo tree Fables It is a short work, tightly punctuated, using metaphors to tell about related events about human life, thereby raising human philosophy and lessons learned. The fortune teller sees the elephant, the frog sits at the bottom of the well Jokes It is a short work with a tight structure and a surprising ending, telling about bad events in life to create laughter for entertainment and criticism. Pig gets married in a new shirt Proverb The sentences are short, concise, mostly have images and rhythm, summarizing life experiences. Inch of land, inch of gold. Ants that have been away for a long time also have full nests Riddle A rhyming essay or sentence describes things with metaphors, strange images and phenomena for the listener to find solutions for the purpose of entertainment and training of thinking. Folk Works of folk lyric poetry, often combined with music when performed, express the inner world of people. My body is like peach silk/Floating in the middle of the market, I don't know whose hands it belongs to. Ve Folk narrative works in rhyme, talking about current affairs and events of the village and country through a rustic narrative style. She went to the market in handcuffs in the rain. Poetry stories It is a folk narrative work in poetry, reflecting human destiny and aspirations for happiness and justice. Paddle Folk theater works, combining lyrical and satirical elements to praise moral examples and criticize bad habits of society. "Female general Thuc Nuong", "Queen of the mountains"
Hoạt động giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin của con người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ (dạng nói hoặc dạng viết), nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, về tình cảm về hành động,.. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ rất quan trọng cả trong quá trình học tập cũng như trong đời sống thường ngày. Trong bài học lần này chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, kiến thức vận dụng sao cho hợp lí trong học tập và cuộc sống. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ lớp 10. Việc soạn bài ở nhà là bước chuẩn bị cần thiết trước khi lên lớp. Câu 1 trang 14 SGK ngữ văn 10 tập 1: a) Hoạt động giao tiếp của văn bản được trích dẫn diễn ra giữa vua Trần và các bô lão. Hai bên có quan hệ vua – tôi với nhau. Sự khác biệt về vị thế dẫn tới sự khác nhau trong ngôn ngữ giao tiếp: các bô lão dùng những từ tôn kính để nói với đức vua; trong khi đó nhà vua dùng nhiều câu tỉnh lược phần chủ ngữ. b) Khi vua Trần hỏi thì các bô lão là vai người nghe, vua Trần là vai người nói; khi các bô lão trả lời vua Trần là vai người nghe, các bô lão là vai người nghe. Người nói hỏi: “Nên đánh hay nên hòa?” tương ứng với câu hỏi là câu trả lời của người nghe: “đánh! Đánh!”. c) Hoạt động giao tiếp trên diễn ra tại điện Diên Hồng, vua Trần hỏi ý kiến các bô lão về cách đối phó với giặc Nguyên Mông khi nước ta đứng trước nguy cơ bị xâm lược d) Hoạt động giao tiếp trên hướng vào việc bàn bạc sách lược đối phó với quân xâm lược. e) Mục đích của cuộc giao tiếp là tìm ra một sách lược thống nhất trong cả nước, vua tôi đồng lòng trong việc đối phó với giặc Nguyên. Kết quả mọi người đều đồng thanh xin “đánh”, đó có thể nói cuộc giao tiếp đã đạt được mục đích. Câu 2 trang 15 SGK ngữ văn 10 SGK tập 1: Thông qua văn bản “Tổng quan văn học Việt Nam” a) Nhân vật giao tiếp trong hoạt động giao tiếp này là tác giả cuốn SGK (người viết) và học sinh (người đọc). Người viết tuổi cao, có nhiều vốn sống, có trình độ biết sâu hiểu rộng (về văn học), hầu hết là những người từng nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy văn học. Người đọc, trái lại ít tuổi hơn, có vốn sống và trình độ hiểu biết chưa cao b) Hoạt động giao tiếp này được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch. Nó được tiến hành trong bối cảnh chung của nền giáo dục quốc dân c) Nội dung giao tiếp thuộc lĩnh vuejc. Đề tài là những nét “Tổng quan văn học Việt nam” nội dung giao tiếp gồm những vấn đề cơ bản:
Communication activity is the information exchange activity of people in society, conducted mainly by means of language (spoken or written form), to achieve cognitive and emotional purposes. action, etc. Thus, it can be seen that language communication activities are very important both in the learning process as well as in everyday life. In this lesson, we will learn together about language communication activities so that we can draw lessons and knowledge to apply appropriately in study and life. Below I will guide you in preparing lessons on communication activities in language for grade 10. Preparing lessons at home is a necessary preparation step before going to class. Question 1 on page 14 of Grade 10 Literature Textbook, Part 1: a) The communication activity of the quoted text took place between King Tran and the elders. The two sides have a king-servant relationship with each other. The difference in status leads to differences in communication language: the elders use respectful words to speak to the king; Meanwhile, the king used many sentences to summarize the subject part. b) When King Tran asked a question, the elders were the listeners, King Tran was the speaker; When the elders answered King Tran was the listener, the elders were the listener. The speaker asked: “Should we fight or should we draw?” Corresponding to the question is the listener's answer: “hit! Fight!". c) The above communication activity took place at Dien Hong Palace, King Tran asked the elders for their opinions on how to deal with the Mongol invaders when our country was at risk of being invaded. d) The above communication activities focus on discussing strategies to deal with the invaders. e) The purpose of the communication was to find a unified strategy throughout the country, so that the king and I were unanimous in dealing with the Yuan invaders. As a result, everyone agreed to "fight", which could be said that the communication had achieved its purpose. Question 2, page 15, Literature Textbook Grade 10, Textbook Part 1: Through the document "Overview of Vietnamese literature" a) The communication characters in this communication activity are the author of the textbook (writer) and the student (reader). The writers are old, have a lot of life, and have a deep level of knowledge (about literature), most of whom have spent many years researching and teaching literature. Readers, on the contrary, are younger, have a lower level of life and understanding b) This communication activity is conducted in an organized and planned manner. It is conducted in the general context of national education c) Communication content belongs to the field of communication. The topic is the features of "Overview of Vietnamese literature" Communication content includes basic issues:
Qua 4 năm ở trường THCS, chúng ta đã được học khá nhiều tác giả,tác phẩm văn học nổi tiếng trong Văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Lịch sử văn học của bất cứ dân tộc nào trên hành tinh này đều là lịch sử tâm hồn của dân tộc ấy. Bài Tổng quan văn học Việt Nam có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt. Một mặt, nó giúp chúng ta có một cái nhìn khái quát nhất, hệ thống nhất về văn học nước ta từ xưa đến nay, mặt khác giúp chúng ta hiểu được con người Việt Nam qua văn học và sẽ định hướng cho chúng ta học tiếp toàn bộ chương trình Ngữ văn THPT. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài “Tổng quan văn học Việt Nam” Văn học Việt Nam / Văn học dân gian Văn học viết / Văn học trung đại Văn học hiện đại / / Văn học chữ Hán. Văn học chữ Nôm. Văn học từ Văn học từ đầu thế kỉ XX năm 1945 đến đến năm 1945 hiện na Quá trình phát triển của văn học Việt Nam gắn chặt với lịch sử chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Nhìn tổng quát, văn học Việt Nam đã trải qua 3 thời kì lớn: Về chủ yếu, văn học viết Việt Nam trải qua 2 thời kì chính: a. Phản ánh mối quan hệ với thiên nhiên Ở khía cạnh này, các tác phẩm văn học Việt Nam đã khái quát lại quá trình ông cha ta nhận thức cải tạo và chinh phục thế giới tự nhiên. Thiên nhiên bên cạnh những khía cạnh dữ dội và hung bạo, nó còn là ngư­ời bạn. Vì vậy, nó hiện lên trong thơ văn thân thiết và gần gũi, t­ươi đẹp và đáng yêu. Nó đa dạng và cũng thay đổi theo quan niệm thẩm mĩ của từng thời. b. Phản ánh mối quan hệ quốc gia, dân tộc Quan trọng nhất là tinh thần yêu nước. biểu hiện: c. Phản ánh mối quan hệ xã hội Trong xã hội có giai cấp đối kháng, văn học Việt Nam cất lên tiếng nói tố cáo phê phán các thế lực chuyên quyền và bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những ngư­ời dân bị áp bức, bóc lột. Các tác phẩm thuộc mảng sáng tác này đã thể hiện ước mơ da diết về một xã hội dân chủ, công bằng và tốt đẹp. Nhìn thẳng vào thực tại để nhận thức, phê phán và cải tạo xã hội là một truyền thống cao đẹp, là biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nư­ớc ta. d. Phản ánh ý thức về bản thân
Through 4 years in middle school, we have learned quite a few famous authors and literary works in Vietnamese Literature from the past to the present. The literary history of any nation on this planet is the history of that nation's soul. The article Overview of Vietnamese literature has a special position and importance. On the one hand, it helps us have the most general and systematic view of our country's literature from past to present, on the other hand it helps us understand Vietnamese people through literature and will guide us in our studies. continue the entire high school Literature program. Below I will guide you to prepare the article "Overview of Vietnamese Literature" Vietnamese literature / Folklore Written literature / Medieval literature Modern literature / / Chinese literature. Nom literature. Literature from Literature from The year 1945 came at the beginning of the twentieth century until 1945 today The development process of Vietnamese literature is closely tied to the country's political, cultural and social history. Overall, Vietnamese literature has gone through three major periods: Mainly, Vietnamese written literature went through two main periods: a. Reflects the relationship with nature In this aspect, Vietnamese literary works have generalized the process of our ancestors' perception of improving and conquering the natural world. Nature, besides its fierce and violent aspects, is also a friend. Therefore, it appears in poetry that is intimate and close, beautiful and lovely. It is diverse and also changes according to the aesthetic concepts of each time. b. Reflects national and ethnic relationships The most important thing is the spirit of patriotism. expression: c. Reflects social relationships In a society with class resistance, Vietnamese literature speaks out to denounce and criticize autocratic forces and express deep sympathy for oppressed and exploited people. The works in this creative field express the passionate dream of a democratic, fair and good society. Looking straight at reality to perceive, criticize and improve society is a noble tradition and a brilliant expression of humanitarianism in our country's literature. d. Reflects sense of self
Chúng ta đã rất hạnh phúc khi sống trong một nền văn học vô cùng phong phú và đặc sắc, những gì chúng ta học được trong kho tàn quý giá ấy là những bài học vô cùng bổ ích và ý nghĩa. Những câu ca dao tục ngữ là sự đúc kết kinh nghiệm từ bao đời của ông bà ta để lại. những đúc kết ấy được ông bà ta nhận thức từ thiên nhiên, con người cuộc sống bình thường tạo nên những câu ca dao tục ngữ để khuyên răn và dạy bảo cho con cháu chung ta ngày nay. Ca dao là một kho tàn quý giá của dân tộc Việt Nam ta, như một giá trị truyền thống và cũng là một món ăn tinh thần. những câu ca dao luôn nói về mọi điều trong cuộc sống cũng như trong xã hội. Chủ đề về tình yêu thương trong ca dao cũng là một trong những đề tài quen thuộc. Trong chương trình Ngữ Văn 10 ta cũng bắt gặp đề bài phân tích bài ca dao “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo. Ca dao là cây đàn muôn điệu, là tiếng nói chung cho những con người trong xã hội. Ca dao tục ngữ có rất nhiều ý nghĩa, có câu ta dao tục ngữ về thiên nhiên báo hiệu của thiên nhiên, có ca dao tục ngữ nói về lời hát than thân hay ca dao tục ngữ nói về yêu thương tình nghĩa. Một trong những chủ đề quen thuộc của ca dao tục ngữ đó là tình yêu, đặc biệt có một bài ca dao nói về tình yêu đôi lứa dù đó là “ Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.” Bài ca dao chính là lời của chàng trai ướm hỏi cô gái, chàng muốn hỏi là có muốn sang bên này sông không? Thực chất cũng là lời mong muốn sang bên kia sông của chàng trai. Dòng sông còn là biểu tượng cho khoảng cách sự ngăn trở giữa hai người. Nhưng con sông để bắc cầu cành hồng thì không có thực. Cái này nằm ở hình ảnh không có thật phi lí ở tình ý mà hình ảnh gợi lên, là sự hình dung của chàng trai.Người đọc không quan tâm cây cầu đó như thế nào chỉ biết rằng cây cầu tồn tại trong trí tưởng tượng của chàng trai rất tinh nghịch đáng yêu. Phải chăng dải yếm là cây cầu của tình yêu mà chàng trai muốn bắc vượt không gian thời gian để đến với cô gái. Tuy nhiên ước muốn của chàng trai được giấu rất sâu. Cây cầu là hình ảnh xuất hiện khá phổ biến trong ca dao trở thành mô tuýp trong ca dao trữ tình gắn liền với đời sống tình cảm phong phú, mãnh liệt bình dị mà duyên dáng gắn liền với cuộc sống lao động của người bình dân. Cầu không chỉ là một phương tiện giao thông kết nối đôi bờ, xóa đi khoảng cách. Khi đi vào ca dao, cầu trở thành nơi gặp gỡ, hò hẹn của lứa đôi yêu nhau. Có khi họ đến với nhau bằng một cành hồng, có khi bằng cành trầm, cầu mùng tơi, cầu bằng sợi chỉ:
We are very happy to live in an extremely rich and unique literature. What we learn in that precious treasure are extremely useful and meaningful lessons. Proverbs and folk songs are the summation of experiences left by our grandparents for many generations. These conclusions were realized by our grandparents from nature and people's ordinary lives, creating folk songs and proverbs to advise and teach our children and grandchildren today. Folk songs are a precious treasure of our Vietnamese people, as a traditional value and also a spiritual dish. Folk songs always talk about everything in life as well as in society. The theme of love in folk songs is also a familiar one. In the Literature 10 program, we also came across the topic of analyzing the folk song "I wish the river was a gang wide / I would build a bridge with a bib for him to come play". Below is the best sample article that you can refer to. Folk songs are a musical instrument with many tunes, a common voice for people in society. Proverbs and folk songs have many meanings, there are folk proverbs about nature that are signs of nature, there are folk songs and proverbs that talk about songs of mourning or folk songs and proverbs that talk about love and gratitude. One of the familiar themes of folk songs and proverbs is love, especially there is a folk song that talks about love between couples, whether it is "I wish the river was a gang wide / I would build a bridge with a bib so he could come over to play." ” The folk song is the words of a boy asking a girl, he wants to ask if she wants to go to this side of the river? In fact, it is also the boy's wish to go to the other side of the river. The river is also a symbol of the distance between two people. But the river to bridge the rose branches is not real. This lies in the absurdity of the image, in the sentiment that the image evokes, in the boy's imagination. The reader does not care what the bridge looks like, only knows that the bridge exists in the imagination. of a very mischievous and adorable boy. Is the bib a bridge of love that the boy wants to cross space and time to reach the girl. However, the boy's desire is hidden very deeply. The bridge is an image that appears quite commonly in folk songs, becoming a motif in lyrical folk songs associated with the rich, intense, simple yet graceful emotional life associated with the working life of ordinary people. . Bridges are not just a means of transportation connecting two banks, erasing distance. When entering folk songs, the bridge becomes a meeting and dating place for couples in love. Sometimes they come together with a rose branch, sometimes with an agarwood branch, praying for bamboo shoots, praying with a thread:
Ca dao tục ngữ luôn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học dân gian nói riêng và nền văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung. Ca dao ngắn gọn nhưng ý nghĩa hàm súc, mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm sâu sắc về cách nghĩ, cách cư xử của con ngừơi trong cuộc sống. Trong đó, không thể không kể đến câu ca dao quen thuộc “Làm trai cho đáng sức trai/ Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng”. Câu ca dao tuy đơn giản nhưng mang ý vị sâu xa, nhằm châm biếm, gợi tiếng cười chê trách sâu cay cho những thân phận đấng nam nhi trong thiên hạ mà lười biếng, yếu ớt không làm được việc gì ra hồn, gây ảnh hưởng đến bản thân và xã hội. Bằng ngôn ngữ trào phúng kết hợp với nghệ thuật đối lập và cách nói phóng đại, câu ca dao đã mở ra trước mắt bạn đọc một bức tranh hài hước về hình ảnh những chàng trai yếu đuối, đáng bị dè bỉu trong xã hội. Nhắc đến con trai, chúng ta đều nghĩ về hình ảnh của những đấng nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, ăn to nói lớn, hành động trượng nghĩa trong xã hội. Đặc biệt là trong xã hội phong kiến xưa với nếp quan niệm ” trọng nam khinh nữ” thì hình ảnh của đấng nam nhi càng được hiện lên cao cả, lớn lao hơn bao giờ hết. Trong những vần thơ “Đi thi tự vịnh” xưa của thi hào Nguyễn Công Trứ, ông cũng nhắc đến vai trò, bổn phận của đấng nam nhi vô cùng quả quyết trong hai câu thơ: “ Danh với núi sông” ở đây là xây dựng non sông, kiến thiết đất nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm góp phần xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Họ phải trở thành chỗ dựa vững chắc cho gia đình và cả xã hội. Đó mới là việc trượng nghĩa mà bấy lâu nay chúng ta vẫn luôn nghĩ tới cho đàn ông thiên hạ. Ấy vậy mà, câu ca dao lại vang lên giọng ca đầy dè bỉu, châm biếm “ Cong lưng khom gối gánh hai hạt vừng.” Chữ “gánh” gợi cho ta nghĩ đến một hành động đang khiêng, vác một vật gì đó rất nặng, rất khó nhọc trong một khoảng thời gian dài vất vả. Nhưng thật ra, nam nhi đang gánh “hai hạt vừng”. Hình ảnh đối lập giữa sức lớn nam nhi gánh vác trọng trách với đất nước non sông và sự bé nhỏ của hai hạt vựng tạo nên một tràng cười chỉ trích sâu cay trong lòng bạn đọc. Sức trai tráng đáng ra phải khỏe mạnh, lực lưỡng lại chỉ có thể gánh hai hạt vừng nhỏ bé, nhẹ bẫng như vậy. Câu thơ nhằm thẳng vào những kẻ mang danh nam nhi trong thiên hạ mà yếu đuối, hèn nhát, không làm được việc gì ra hồn. Sức nam nhi như vậy chẳng lẽ ra lại thua xa cả phận nữ nhi chân yếu tay mềm. “Cong lưng, khom gối” nghe như phải làm việc gì nặng nhọc lắm nhưng thực chất chỉ là sự hèn nhác, biếng lười, dựa dẫm vao kẻ khác mà sống. Họ có thể là do không chịu lao động, tập luyện nên sức khỏe gầy yếu, nhưng cũng có thể là những kẻ chỉ suốt ngày lười nhác, phụ thuộc vào người khác không đóng góp được gì cho núi sông đất nước. Họ thật không xứng đáng với danh nghĩa của đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất trong thiên hạ. Những kẻ đó đáng bị toàn xã hội chê trách, trở thành tấm gương xấu cần phải loại trừ.
Folk songs and proverbs always occupy an important position in folk literature in particular and Vietnamese literature and arts in general. The folk song is short but has a meaningful meaning, giving readers profound reflections on how people think and behave in life. Among them, it is impossible not to mention the familiar folk song "Be a man to be worthy of being a man / Bend your back and lean on your knees to carry two sesame seeds". Although the folk song is simple but has a profound meaning, it is intended to satirize and evoke laughter and bitter criticism for the fate of men in the world who are lazy and weak, unable to do anything meaningful, causing influence. affect yourself and society. With satirical language combined with contrasting art and exaggerated speech, the folk song opens up before the readers' eyes a humorous picture of the image of weak boys who deserve to be despised in society. When it comes to boys, we all think of the image of men with their heads in the sky, their feet on the ground, speaking loudly, and acting macholy in society. Especially in ancient feudal society with the concept of "respecting men and despising women", the image of men is shown to be more noble and greater than ever. In the ancient poems "Going to Poetry Poems" by poet Nguyen Cong Tru, he also mentioned the role and duty of the extremely determined man in two verses: "Fame with mountains and rivers" here means building mountains and rivers, building the country, repelling foreign invaders, contributing to building a prosperous and happy life. They must become a solid support for their family and society. That is the noble thing that we have always thought of for the men of the world for so long. Yet, the folk song resounds with a voice full of derision and sarcasm, "Bent your back and bend your knees to carry two sesame seeds." The word "burden" reminds us of the action of carrying something very heavy and very difficult for a long and difficult period of time. But actually, men are carrying "two sesame seeds". The contrasting image between the great strength of a man shouldering responsibility for the country and the smallness of the two counties creates a deep and bitter laughter and criticism in the hearts of readers. A young man should be healthy and strong, but he can only carry two small, light sesame seeds. The poem is aimed directly at those who are weak, cowardly, and have the reputation of being men in the world, unable to do anything well. Such a man's strength should not be inferior to even a weak-armed, weak-legged woman. "Bending your back and bending your knees" sounds like you have to do something very hard, but it's actually just cowardice, laziness, and relying on others to live. They may be weak in health because they refuse to work and exercise, but they may also be people who are just lazy all day, depending on others and not contributing anything to the mountains and rivers of the country. They are truly unworthy of the name of men with their heads in the sky and their feet on the ground in the world. Those people deserve to be criticized by the whole society, becoming a bad example that needs to be eliminated.
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, xã hội phong kiến Việt Nam được hình thành và phát triển một cách tự chủ. Ở đó, quyền lợi của dân tộc, nhân dân, giai cấp thống trị về cơ bản là thống nhất, trên dưới một lòng để xây dựng và bảo về đất nước. Chính vì vậy khi đối mặt với các thế lực ngoại xâm dù mạnh đến đâu như giặc Nguyên Mông thì khối thống nhất ấy vẫn lập nên kì tích. Đó chính là hào khí Đông A của thời đại nhà Trần không chỉ ngấm trong huyết quản của mọi người mà còn phần nào tái hiện qua thơ văn, tiêu biểu là bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Teong chương trình ngữ văn lớp 10, ta bắt gặp đề bài cảm nhận hào khí Đông A qua “Thuật hoài”. Ở đề bài này, trước hết các bạn cần giải thích hào khí Đông A, nêu biểu hiện ở trong bài thơ và nghệ thuật thể hiện. Sau đây là bài văn mẫu như một gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Mỗi trang văn đều được phủ bóng bởi thời đại mà nó ra đời. Thật vậy, văn học và hiện thực cuộc sống luôn có mối quan hệ gắn bó bền chặt. Bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão được phỏng đoán ra đời năm 1284- khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Bởi vậy mà bất cứ ai khi đến với tác phẩm đều cảm nhận được âm vang hào khí Đông A toát ra từng câu chữ. Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng Hán gồm bộ A và chữ Đông. Còn hào khí Đông A là khí thế chiến đấu hào hùng của đời Trần và cũng là của dân tộc ta từ thế kỉ X đến thế kỉ XV dựa trên sức mạnh tinh thần tự lập, tự cường, của ý chí quyết chiến, quyết thắng chống mọi kẻ thù xâm lược. Hào khí Đông A là sản phẩm tinh thần kì vĩ của thời đại hào hùng. Âm vang của hào khí Đông A phần nào được tái hiện qua bài “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão với vẻ đẹp hùng dũng, cao cả và khát vọng lập công của người tráng sĩ. Trước hết, hào khí Đông A toát ra từ sự biểu dương và ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh của con người thời đại nhà Trần. Một thời đại hào hùng sẽ được làm nên bởi những con người hào hùng. Trong dòng cảm xúc của một vị tướng, ta thấy lắng lại bức chân dung kì vĩ của đấng nam nhi thời loạn. Bức chân dung ấy được khắc họa qua vẻ đẹp tư thế giữa không gian rộng lớn: Câu thơ hướng tới vẻ đẹp người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo trấn giữa đất nước đã chẵn mấy thu. Trong bản dịch thơ, chữ “hoành sóc” được dịch là “múa giáo”- tư thế động, biểu diễn, phô trương có chút gì đó như ngang tàn. Dịch như thế phần nào mất đi sự chắc chắn trong khi phiên âm thì “hoành sóc” được dịch “cần ngang ngọn giáo”- tư thế tĩnh, dáng đứng hiên ngang, lẫm liệt, tâm thế sẵn sàng chiến đấu, chủ động nghênh đón mọi thử thách của cuộc chiến. Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Vẻ đẹp của tư thế ấy được đặt trong không gian rộng lớn “giang sơn”; thời gian dài, sâu, vô tận “kháp kỉ thu”. Hình ảnh thơ mang tính ước lệ, không gian đậm tô tầm vóc lớn lao, hùng vĩ của người tráng sĩ; thời gian nhấn mạnh sự dẻo da, kiên định, bền bỉ, tận trung báo quốc của người chiến binh nhà Trần. Như vậy bằng âm điệu chắc khỏe hào hùng, bút pháp đậm tính sử thi, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp của tráng sĩ nhà Trần. Khí thế hào hùng của thời đại mang tinh thần quyết chiến, quyết thắng: Nếu câu thơ thứ nhất miêu tả vẻ đẹp cá nhân anh hùng thì đến đây là cả vẻ đẹp của đoàn quân anh hùng. Hình ảnh thơ được mở rộng. “Tam quân” là tiền quân, trung quân, hậu quân- cách nói ước lệ cho quân đội nhà Trần. Phép so sánh ngầm “tam quân tì hổ” nghĩa là sức mạnh của quân đội nhà Trần cũng dũng mãnh như hổ báo. Pháp ẩn dụ đã nói lên cái mạnh mẽ, hùng cường- sức mạnh phi thường của cả đoàn quân. Nửa còn lại trong câu thơ, nghiêng về khái quát khí thế xung trận, chiến đấu của quân đội nhà Trần. Có hai cách hiểu về “khí thôn ngưu”. Đó có thể là khí thế nuốt trôi trâu- một biểu tượng mang tính ước lệ để nói về những người trẻ tuổi có khí phách anh hùng của quân đội nhà Trần. Bên cạnh đó, ngưu còn là tên gọi của một vì sao trên trời, với nghĩa này thì câu thơ lại mang hàm ý là hào khí bốc lên át cả sao ngưu. Cả hai cách hiểu đều không mâu thuẫn, cùng hướng tới mục đích làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế hào hùng của quân đội nhà Trần khi xung trận. Điều đó đã lí giải tại sao trước một thế lực ngoại xâm hung tàn như giặc Nguyên Mông mà một dân tộc nhỏ bé, khiêm tốn lại có đủ sức mạnh để đối đầu và chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh cộng hưởng của tinh thần đoàm kết trong hào khí Đông A. Hào khí Đông A không chỉ thể hiện ở tinh thần sục sôi khi ra trận mà nhiều khi còn được thể hiện kín đáo và sâu sắc trong những suy tư của con người, đặc biệt là qua khát vọng lập công danh của con người thời loạn. Lập công báo đền nợ nước làm bật lên cái chí lớn lao và cái tâm cao cả của người tráng sĩ:
From the 10th century to the 15th century, Vietnamese feudal society was formed and developed autonomously. There, the interests of the nation, the people, and the ruling class are basically unified, with top and bottom united to build and protect the country. That's why when faced with foreign invaders, no matter how strong they were like the Mongol invaders, that unified bloc still achieved miracles. That is the Dong A spirit of the Tran dynasty that not only seeps into everyone's veins but is also partly reproduced through poetry, typically the poem "Thuat Hoai" by Pham Ngu Lao. In the 10th grade literature program, we came across the topic of feeling the spirit of Dong A through "Thuat Hoai". In this topic, first of all you need to explain the spirit of Dong A, stating its expression in the poem and the art of expression. The following is a sample essay as a suggestion for your reference. Good luck! Each page of literature is shadowed by the era in which it was born. Indeed, literature and real life always have a strong relationship. Pham Ngu Lao's poem "Thuat Hoai" is estimated to have been born in 1284 - when the second resistance war against the Mongols was about to begin. Therefore, anyone who comes to the work can feel the echoes of Dong A's spirit exuding every word. Dong A is the philosophical character of Tran in Chinese, including the series A and Dong. The spirit of Dong A is the heroic fighting spirit of the Tran Dynasty and also of our nation from the 10th to the 15th century, based on the strength of the spirit of independence, self-reliance, and the will to fight and win. against all invading enemies. The pride of Dong A is a product of the magnificent spirit of a heroic era. The echoes of Dong A's aura are partly recreated in the song "Thuat Hoi" by Pham Ngu Lao with the heroic, noble beauty and desire of a brave man to make achievements. First of all, Dong A's aura exudes from the demonstration and praise of the beauty and strength of the people of the Tran Dynasty. A heroic age will be created by heroic people. In the emotions of a general, we see a magnificent portrait of a man in times of chaos. That portrait is portrayed through the beauty of its posture in a vast space: The poem focuses on the beauty of a brave man holding a spear in the middle of a country many years old. In the poetic translation, the word "hoong soc" is translated as "spear dance" - a dynamic, performative, ostentatious posture that is a bit cruel. Translating like that somewhat loses certainty while transliterating, "hoong soc" is translated "can be across the spear" - static posture, standing tall and strong, ready to fight, proactively welcoming. Take on all the challenges of war. The two words "Hoang Soc" reveal a towering portrait of a soldier ready to fight to protect the Fatherland. The beauty of that posture is placed in the vast space of "riangshan"; a long, deep, endless period of "autumn period". The poetic images are conventional, the space emphasizes the greatness and majesty of the great man; Time emphasizes the toughness, steadfastness, perseverance, and loyalty to the country of the Tran Dynasty warrior. Thus, with a strong and heroic tone and an epic style, the author has recreated the beauty of the Tran Dynasty's heroes. The heroic spirit of the era carries the spirit of determination to fight and determination to win: If the first verse describes the beauty of the individual hero, then here it is the beauty of the heroic army. Poetic images are expanded. "Three armies" are the front army, the middle army, and the rear army - the conventional way of speaking for the Tran dynasty's army. The implicit comparison "three armies, one tiger" means that the strength of the Tran Dynasty's army was as fierce as a tiger. The metaphor spoke of the strength and might - the extraordinary strength of the entire army. The remaining half of the poem is about generalizing the battle and fighting spirit of the Tran Dynasty's army. There are two ways to understand "village gas". That could be the spirit of swallowing a buffalo - a conventional symbol to describe young people with heroic spirit in the Tran dynasty's army. Besides, ox is also the name of a star in the sky. With this meaning, the poem implies that the aura rising above the ox star. Both interpretations are not contradictory, aiming at the same goal of highlighting the majestic power and heroic spirit of the Tran Dynasty's army in battle. That explains why, in the face of a ferocious foreign force like the Mongol invaders, a small, humble nation had enough strength to confront and win. Is that the resonant strength of the spirit of solidarity in the spirit of Dong A? Dong A's pride is not only expressed in the boiling spirit when going into battle, but is also sometimes expressed discreetly and deeply in people's thoughts, especially through the desire of people to make a name for themselves during times of chaos. . Doing meritorious service to repay the country's debts highlights the great will and noble heart of the brave man:
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. Tầm vóc của Người là độ rộng của trái tim,bề sâu của tấm lòng, những băn khoăn trăn trở về nhân thế, về kiếp người nhỏ bé. Trái tim ấy từng khắc khoải trước người ca nữ đất Long Thành, đau xót trước cả thập loại chúng sinh. Và “ đoạn trường tân thanh” là tiếng khóc tiêu biểu nhất, một trong những cái nhìn đau đáu nhất của đại thi hào nhìn về thân phận người phụ nữ nói riêng, nhận thức về thực trạng xã hội đồng tiền nói chung. ở đó, toát lên nỗi niềm xa xót, tình thương yêu và vọng lên tiếng nói đồng tình, đồng vọng cho những khát khao hạnh phúc và tình yêu chính đáng của con người. Nơi đó có một trái tim vượt lên cả thời đại đại để trở thành dòng máu của mọi thời, góp phần nuôi dưỡng nguồn mạch nhân đạo cho văn chương dân tộc. Những đoạn trích “ Truyện Kiều” là những minh chứng tiêu biểu nhất cho tinh thần nhân đạo của NguyễN Du. Điều gì khiến nhà văn cầm bút? Phải chăng Đó là bầu máu nóng chảy trong huyết quản của anh, nỗi niềm nhân thế nghẹn trong cổ họng thôi thúc anh cầm bút? Một đại thi hào dân tộc như Nguyễn Du,điều gì đã làm nên tên tuổi và tầm vóc vĩ đại ấy của người. Có lẽ là bởi cái cúi xuống đầy trân trọng dành cho những kiếp người nhỏ bé trong cõi nhân sinh, là tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, trông thấu sáu cõi, là viết như có máu chả nơi đầu ngọn bút, là tiếng thương vay khóc mướn còn âm ỉ,lặng lẽ chảy trong huyết mjach nhân đạo ngàn đời của dân tộc. “ Truyện Kiều”, trong đó những đoạn trích như “ Trao duyên”, “ nỗi thương mình”, là những phụ lưu từ huyết mạch ấy. “ Truyện Kiều”- Đoạn trường tân thanh là tiếng kêu mới, tiếng kêu đứt ruột dành cho những kiếp người nhỏ bé, là nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Du đối với nàng Vương Thúy Kiều hồng nhan bạc mệnh, lệnh đệnh trong bể đời trầm luân suốt 10 năm. “ trao duyên”, nỗi thương mình, và chí khí anh hùng là những đoạn trích của truyện kiều, tái hiện lại những giai đoạn, thời khắc quan trọng trong cuộc đời nàng Kiều: trao duyên cho em là Thúy Vân để trao mình cho sóng gió đời trường, những thức cảm thổn thức trong đêm khi đã lấm láp trong đời bể dâu,… Trong những tình cảnh éo le ấy, mới thấy trái tim của Nguyễn Du sáng đến nhường nào. Giữa một xã hội dành tất cả những định kiến lễ giáo phong kiến tiêu cực cho người phụ nữa đặc biệt là người kĩ nữ, tầm vóc và trái tim nhân đạo của Nguyễn Du lại để người cúi xuống cảm thông với họ nhiều hơn, thương yêu học nhiều hơn. Trong từng câu chữ tuy là lời của Kiều mà dường như có Nguyễn Du nhập thân để dãi bày, thấu cảm cùng nhân vật. Mỗi niềm yêu, nỗi thương đều trực nghẹn lại trong từng lời, từng câu trao duyên của Kiều. Thường nhắc đến duyên người ta nghĩ đến tình lứa đôi vui vầy hạnh phúc, nhưng duyên mà phải đem trao thì mới thực trớ trêu làm sao. Vì sóng gió cuộc đời mà người con gái ấy phải dứt lòng chọn bên nghĩa để làm tròn chữ hiếu, còn mình phải mang ơn, nợ tình với chàng Kim- mối tình đầu tiên trong sáng và đẹp đẽ. “ Gánh tương tư” giờ đã “ đứt” giữa đường rồi: “Đứt” đứng giữa câu như xé đôi câu thơ, xé đôi một chuyện tình, một phận người, xé đôi một tấm lòng và khía sâu hơn vào trái tim đang rỉ máu của người nghệ sĩ. NhỮng dang dở, những trĩu nặng, cả điều gì đó khắc khoải đang nhói tụ lại ở một chữ “ đứt”, làm nhói lên trong lòng người về một số phận, một tình yêu lỡ dở. Phải cảm thông lắm, phải hiểu lắm người nghệ sĩ ấy mới thấu được cảm giác đầy xót xa mà rất chân thật trong lòng người con gái khi yêu mà phải trao lại cả những kỉ vật của tình yêu ấy: Dõi theo cả cuộc đời Kiều, Nguyễn Du biết đâu sẽ là kỉ vật gọi về kí ức và niềm đau trong lòng nàng phút chia ly. “ Chiếc vành”,” bức tờ mây” hiện ra trong dòng chảy chậm chạp, nặng nề của cả câu thơ, như lòng người con gái đang ôn lại kí ức xa xưa, đang tiếc nuối không muốn rời xa, và dường như có một sự giằng xé thể hiện trong bước đi “ dùng dằng” của nhịp thơ. Và dường như khi kỉ niệm và kỉ vật hiện về rõ nét nhất cũng là khi nỗi đau thấm thía đủ nhiều để nàng nghĩ về cái duyên chung. Duyên này phải trao đi rồi, tình này phải cắt chia rồi. “này…này..”nghe có vẻ dứt khoát mà tâm tư lại rối bời, ngoài miệng muốn thẳng thắn trao đi mà bên trong vẫn níu lại cái gì đó là “ của chung”? Người trao đi vẫn muốn có sự hiện diện của mình trong mối duyên trao đi hay chăng? Âu cung là quy luật tâm lý sâu kín và chân thật nhất mà Nguyễn Du bằng cả tấm lòng mình thấu được. Đau đớn thay khi người con gái ấy trong nỗi đau tột cùng hình dung ra một thế giới cô đơn và lạnh lẽo đối lập với cảnh êm đềm hạnh phúc của người. Xót xa thay cho một tiếng kêu thương hối lỗi muộn màng gửi đến người thương phương xa, phải chịu mặc cảm phụ tình cho đến mãi sau này vẫn không dứt. Những nỗi niềm và cung bậc khổ đau ấy, Nguyễn Du có thể nhìn thấy hết. Người còn hiểu được nỗi ê chề của nàng khi thấm thía cảnh sống ở chốn ô trọc xứ người. Còn gì đau đơn hơn khi cảnh sống ê chề, tăm tối hiện tại được soi vào quá khứ đẹp tươi, trong sáng một thời, hơn nữa là khi nó được thức tỉnh khi” giật mình” đêm khuya, “ khi tỉnh rượu lúc tàn canh”, khi chỉ còn ta với lòng ta để đối thoại, để thấm thía, xót xa cho phận mình. Một nỗi “ giật mình” mà toát lên cả sự bẽ bàng, tủi nhục ê chề của thân gái hồng nhan lạc vào đoạn trường cay đắng. Nhưng đồng thời trong cái ê chề tủi nhục tối tăm của số phận, Nguyễn Du vẫn kiếm tìm và trận trọng, nâng niu những vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Người ngợi ca lòng vị tha của nàng Kiều trong những thời khắc đớn đau nhất của đời mình vẫn nghĩ, vẫn lo cho người khác. Nàng lo Vân vì chuyện của mình khó xử mà tất cả những băn khoăn, khó nói dồn cả vào một chữ “ cậy”- thật nặng nề, nhờ em, biết em thiệt thòi nhưng vẫn hy vọng em có thể nhận lời trao của mình. Ở trong tình cảnh đó, rõ ràng KIều là người khó xử hơn cả, vậy mà vẫn nghĩ cho tình cảnh của em, mà thương em, lấy hết niềm tin đặt vào một lời chấp thuận của em- ‘ cậy em”, “ lạy em”, “ thưa” em. Nhưng khó xử cũng bởi một bên tình cho Kim Trọng còn đau đáu mối nợ sâu sắc, không thể không đáp đền. Mối thủy chung không cho nàng quên được những kỉ niệm sâu sắc đối với chàng, nhưng tấm lòng vị tha không thể để nàng không trao duyên mình cho em Vân đáp đền cho Kim Trọng.
Nguyen Du is the nation's great poet. His stature is the breadth of his heart, the depth of his heart, his concerns about the human world, about the small human life. That heart once ached for the songstress of Long Thanh, aching for all ten types of living beings. And "The End of Tan Thanh" is the most typical cry, one of the most painful views of the great poet looking at the fate of women in particular, and awareness of the current state of money-based society in general. There, there exudes sadness, love and echoes the voice of sympathy, echoing people's legitimate desires for happiness and love. That place has a heart that transcends all eras to become the blood of all times, contributing to nurturing the humane source of national literature. Excerpts from "The Tale of Kieu" are the most typical evidence of Nguyen Du's humanitarian spirit. What makes a writer take up writing? Is it the hot blood flowing in his veins, the human feeling choked in his throat that urges him to take up writing? A great national poet like Nguyen Du, what gave him such great fame and stature? Perhaps it is because of the respectful bowing down to the small lives in the human world, the heart that thinks for thousands of lifetimes, seeing through the six realms, the writing as if there is blood on the tip of the pen, the voice of love. The weeping is still smoldering, quietly flowing in the nation's eternal humanitarian blood. "The Story of Kieu", in which excerpts such as "Giving fate", "self-pity", are tributaries from that bloodline. "The Tale of Kieu" - The new story is a new cry, a heart-breaking cry for the lives of small people, and Nguyen Du's concern for Vuong Thuy Kieu, a red-faced and fateful girl, unlucky in the ocean of life. depressed for 10 years. "giving grace", self-pity, and heroic spirit are excerpts from Kieu stories, recreating important stages and moments in Kieu's life: giving fate to her sister Thuy Van to give herself to the turbulence of life, the sobbing feelings at night when we are already stuck in a miserable life,... In those difficult situations, we can see how bright Nguyen Du's heart is. In a society that holds all negative feudal prejudices for women, especially prostitutes, Nguyen Du's stature and humanitarian heart make people bend down to sympathize with them more, to sympathize with them more. love to learn more. In each sentence, although it is Kieu's words, it seems that Nguyen Du is incarnated to express and sympathize with the character. Every love and pain is choked in every word and every predestined sentence of Kieu. Often when it comes to fate, people think of a happy and happy couple, but how ironic it is that fate must be given away. Because of life's ups and downs, that girl had to choose the righteous side to fulfill her filial piety, and she had to be grateful and owe love to Kim - her first pure and beautiful love. The "burden of love" has now "broken" in the middle of the road: "Cut" standing in the middle of a sentence is like tearing a poem in half, tearing a love story, a human destiny, tearing a heart in half and cutting deeper into the artist's bleeding heart. Unfinished things, heavy burdens, and something painful are gathering in the word "broken", causing a pang in people's hearts about a fate, a missed love. It takes a lot of sympathy, a lot of understanding for that artist to understand the sad yet very honest feeling in the heart of a girl who loves and has to give back the mementos of that love: Following Kieu's entire life, Nguyen Du knows it will be a souvenir that recalls the memories and pain in her heart at the moment of separation. "The rim", "the cloud sheet" appears in the slow, heavy flow of the entire verse, like a girl's heart reviewing ancient memories, regretfully not wanting to leave, and it seems like there is a tension expressed in the "painstaking" steps of the poem's rhythm. And it seems that when memories and souvenirs appear most clearly, it is also when the pain is profound enough for her to think about the common fate. This fate must be given away, this love must be divided. "Hey...hey.." sounds decisive but my mind is confused, on the outside I want to give it frankly but on the inside I'm still holding on to something that is "common property"? Does the giver still want his or her presence in the giving relationship? Au Cung is the deepest and truest psychological law that Nguyen Du understands with all his heart. How painful it was when that girl, in extreme pain, imagined a lonely and cold world in contrast to her peaceful and happy scene. What a pity for a belated cry of condolence sent to a loved one far away, who has to endure the guilt of betrayal until later. Nguyen Du can see all those feelings and sufferings. He also understood her shame when she was deeply aware of living in a dirty place in a foreign land. There is nothing more painful than when the present gloomy and dark life scene is reflected in the once beautiful and pure past, even more so when it is awakened when "startled" late at night, "when sober at the end of the night." soup", when it's just me and my heart left to converse, to deeply understand and feel sorry for our fate. A "startle" that exudes the humiliation, shame and humiliation of a beautiful girl's body lost in bitterness. But at the same time, in the darkness and humiliation of fate, Nguyen Du still sought and cherished and cherished the beauty in the human soul. People who praise Kieu's altruism in the most painful moments of their lives still think and worry about others. She was worried that Van would be in a difficult situation because all her concerns and difficulties were concentrated in one word "trust" - so heavy, thanks to you, knowing that you are disadvantaged but still hoping that you can accept my offer. . In that situation, it was clear that Kieu was the most awkward person, yet she still thought about her situation, loved her, put all her trust in a word of approval from her - 'trust me', 'bow me", "sir" me. But the awkwardness is also because Kim Trong's lover still feels a deep debt and cannot help but repay it. Loyalty does not let her forget the profound memories she has for him, but her altruistic heart cannot let her not give her love to Van in return for Kim Trong.
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. Tầm vóc của Người là độ rộng của trái tim,bề sâu của tấm lòng, những băn khoăn trăn trở về nhân thế, về kiếp người nhỏ bé. Trái tim ấy từng khắc khoải trước người ca nữ đất Long Thành, đau xót trước cả thập loại chúng sinh. Và “ đoạn trường tân thanh” là tiếng khóc tiêu biểu nhất, một trong những cái nhìn đau đáu nhất của đại thi hào nhìn về thân phận người phụ nữ nói riêng, nhận thức về thực trạng xã hội đồng tiền nói chung. ở đó, toát lên nỗi niềm xa xót, tình thương yêu và vọng lên tiếng nói đồng tình, đồng vọng cho những khát khao hạnh phúc và tình yêu chính đáng của con người. Nơi đó có một trái tim vượt lên cả thời đại đại để trở thành dòng máu của mọi thời, góp phần nuôi dưỡng nguồn mạch nhân đạo cho văn chương dân tộc. Những đoạn trích “ Truyện Kiều” là những minh chứng tiêu biểu nhất cho tinh thần nhân đạo của NguyễN Du. Điều gì khiến nhà văn cầm bút? Phải chăng Đó là bầu máu nóng chảy trong huyết quản của anh, nỗi niềm nhân thế nghẹn trong cổ họng thôi thúc anh cầm bút? Một đại thi hào dân tộc như Nguyễn Du,điều gì đã làm nên tên tuổi và tầm vóc vĩ đại ấy của người. Có lẽ là bởi cái cúi xuống đầy trân trọng dành cho những kiếp người nhỏ bé trong cõi nhân sinh, là tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, trông thấu sáu cõi, là viết như có máu chả nơi đầu ngọn bút, là tiếng thương vay khóc mướn còn âm ỉ,lặng lẽ chảy trong huyết mjach nhân đạo ngàn đời của dân tộc. “ Truyện Kiều”, trong đó những đoạn trích như “ Trao duyên”, “ nỗi thương mình”, là những phụ lưu từ huyết mạch ấy. “ Truyện Kiều”- Đoạn trường tân thanh là tiếng kêu mới, tiếng kêu đứt ruột dành cho những kiếp người nhỏ bé, là nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Du đối với nàng Vương Thúy Kiều hồng nhan bạc mệnh, lệnh đệnh trong bể đời trầm luân suốt 10 năm. “ trao duyên”, nỗi thương mình, và chí khí anh hùng là những đoạn trích của truyện kiều, tái hiện lại những giai đoạn, thời khắc quan trọng trong cuộc đời nàng Kiều: trao duyên cho em là Thúy Vân để trao mình cho sóng gió đời trường, những thức cảm thổn thức trong đêm khi đã lấm láp trong đời bể dâu,… Trong những tình cảnh éo le ấy, mới thấy trái tim của Nguyễn Du sáng đến nhường nào. Giữa một xã hội dành tất cả những định kiến lễ giáo phong kiến tiêu cực cho người phụ nữa đặc biệt là người kĩ nữ, tầm vóc và trái tim nhân đạo của Nguyễn Du lại để người cúi xuống cảm thông với họ nhiều hơn, thương yêu học nhiều hơn. Trong từng câu chữ tuy là lời của Kiều mà dường như có Nguyễn Du nhập thân để dãi bày, thấu cảm cùng nhân vật. Mỗi niềm yêu, nỗi thương đều trực nghẹn lại trong từng lời, từng câu trao duyên của Kiều. Thường nhắc đến duyên người ta nghĩ đến tình lứa đôi vui vầy hạnh phúc, nhưng duyên mà phải đem trao thì mới thực trớ trêu làm sao. Vì sóng gió cuộc đời mà người con gái ấy phải dứt lòng chọn bên nghĩa để làm tròn chữ hiếu, còn mình phải mang ơn, nợ tình với chàng Kim- mối tình đầu tiên trong sáng và đẹp đẽ. “ Gánh tương tư” giờ đã “ đứt” giữa đường rồi: “Đứt” đứng giữa câu như xé đôi câu thơ, xé đôi một chuyện tình, một phận người, xé đôi một tấm lòng và khía sâu hơn vào trái tim đang rỉ máu của người nghệ sĩ. NhỮng dang dở, những trĩu nặng, cả điều gì đó khắc khoải đang nhói tụ lại ở một chữ “ đứt”, làm nhói lên trong lòng người về một số phận, một tình yêu lỡ dở. Phải cảm thông lắm, phải hiểu lắm người nghệ sĩ ấy mới thấu được cảm giác đầy xót xa mà rất chân thật trong lòng người con gái khi yêu mà phải trao lại cả những kỉ vật của tình yêu ấy: Dõi theo cả cuộc đời Kiều, Nguyễn Du biết đâu sẽ là kỉ vật gọi về kí ức và niềm đau trong lòng nàng phút chia ly. “ Chiếc vành”,” bức tờ mây” hiện ra trong dòng chảy chậm chạp, nặng nề của cả câu thơ, như lòng người con gái đang ôn lại kí ức xa xưa, đang tiếc nuối không muốn rời xa, và dường như có một sự giằng xé thể hiện trong bước đi “ dùng dằng” của nhịp thơ. Và dường như khi kỉ niệm và kỉ vật hiện về rõ nét nhất cũng là khi nỗi đau thấm thía đủ nhiều để nàng nghĩ về cái duyên chung. Duyên này phải trao đi rồi, tình này phải cắt chia rồi. “này…này..”nghe có vẻ dứt khoát mà tâm tư lại rối bời, ngoài miệng muốn thẳng thắn trao đi mà bên trong vẫn níu lại cái gì đó là “ của chung”? Người trao đi vẫn muốn có sự hiện diện của mình trong mối duyên trao đi hay chăng? Âu cung là quy luật tâm lý sâu kín và chân thật nhất mà Nguyễn Du bằng cả tấm lòng mình thấu được. Đau đớn thay khi người con gái ấy trong nỗi đau tột cùng hình dung ra một thế giới cô đơn và lạnh lẽo đối lập với cảnh êm đềm hạnh phúc của người. Xót xa thay cho một tiếng kêu thương hối lỗi muộn màng gửi đến người thương phương xa, phải chịu mặc cảm phụ tình cho đến mãi sau này vẫn không dứt. Những nỗi niềm và cung bậc khổ đau ấy, Nguyễn Du có thể nhìn thấy hết. Người còn hiểu được nỗi ê chề của nàng khi thấm thía cảnh sống ở chốn ô trọc xứ người. Còn gì đau đơn hơn khi cảnh sống ê chề, tăm tối hiện tại được soi vào quá khứ đẹp tươi, trong sáng một thời, hơn nữa là khi nó được thức tỉnh khi” giật mình” đêm khuya, “ khi tỉnh rượu lúc tàn canh”, khi chỉ còn ta với lòng ta để đối thoại, để thấm thía, xót xa cho phận mình. Một nỗi “ giật mình” mà toát lên cả sự bẽ bàng, tủi nhục ê chề của thân gái hồng nhan lạc vào đoạn trường cay đắng. Nhưng đồng thời trong cái ê chề tủi nhục tối tăm của số phận, Nguyễn Du vẫn kiếm tìm và trận trọng, nâng niu những vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Người ngợi ca lòng vị tha của nàng Kiều trong những thời khắc đớn đau nhất của đời mình vẫn nghĩ, vẫn lo cho người khác. Nàng lo Vân vì chuyện của mình khó xử mà tất cả những băn khoăn, khó nói dồn cả vào một chữ “ cậy”- thật nặng nề, nhờ em, biết em thiệt thòi nhưng vẫn hy vọng em có thể nhận lời trao của mình. Ở trong tình cảnh đó, rõ ràng KIều là người khó xử hơn cả, vậy mà vẫn nghĩ cho tình cảnh của em, mà thương em, lấy hết niềm tin đặt vào một lời chấp thuận của em- ‘ cậy em”, “ lạy em”, “ thưa” em. Nhưng khó xử cũng bởi một bên tình cho Kim Trọng còn đau đáu mối nợ sâu sắc, không thể không đáp đền. Mối thủy chung không cho nàng quên được những kỉ niệm sâu sắc đối với chàng, nhưng tấm lòng vị tha không thể để nàng không trao duyên mình cho em Vân đáp đền cho Kim Trọng.
Nguyen Du is the nation's great poet. His stature is the breadth of his heart, the depth of his heart, his concerns about the human world, about the small human life. That heart once ached for the songstress of Long Thanh, aching for all ten types of living beings. And "The End of Tan Thanh" is the most typical cry, one of the most painful views of the great poet looking at the fate of women in particular, and awareness of the current state of money-based society in general. There, there exudes sadness, love and echoes the voice of sympathy, echoing people's legitimate desires for happiness and love. That place has a heart that transcends all eras to become the blood of all times, contributing to nurturing the humane source of national literature. Excerpts from "The Tale of Kieu" are the most typical evidence of Nguyen Du's humanitarian spirit. What makes a writer take up writing? Is it the hot blood flowing in his veins, the human feeling choked in his throat that urges him to take up writing? A great national poet like Nguyen Du, what gave him such great fame and stature? Perhaps it is because of the respectful bowing down to the small lives in the human world, the heart that thinks for thousands of lifetimes, seeing through the six realms, the writing as if there is blood on the tip of the pen, the voice of love. The weeping is still smoldering, quietly flowing in the nation's eternal humanitarian blood. "The Story of Kieu", in which excerpts such as "Giving fate", "self-pity", are tributaries from that bloodline. "The Tale of Kieu" - The new story is a new cry, a heart-breaking cry for the lives of small people, and Nguyen Du's concern for Vuong Thuy Kieu, a red-faced and fateful girl, unlucky in the ocean of life. depressed for 10 years. "giving grace", self-pity, and heroic spirit are excerpts from Kieu stories, recreating important stages and moments in Kieu's life: giving fate to her sister Thuy Van to give herself to the turbulence of life, the sobbing feelings at night when we are already stuck in a miserable life,... In those difficult situations, we can see how bright Nguyen Du's heart is. In a society that holds all negative feudal prejudices for women, especially prostitutes, Nguyen Du's stature and humanitarian heart make people bend down to sympathize with them more, to sympathize with them more. love to learn more. In each sentence, although it is Kieu's words, it seems that Nguyen Du is incarnated to express and sympathize with the character. Every love and pain is choked in every word and every predestined sentence of Kieu. Often when it comes to fate, people think of a happy and happy couple, but how ironic it is that fate must be given away. Because of life's ups and downs, that girl had to choose the righteous side to fulfill her filial piety, and she had to be grateful and owe love to Kim - her first pure and beautiful love. The "burden of love" has now "broken" in the middle of the road: "Cut" standing in the middle of a sentence is like tearing a poem in half, tearing a love story, a human destiny, tearing a heart in half and cutting deeper into the artist's bleeding heart. Unfinished things, heavy burdens, and something painful are gathering in the word "broken", causing a pang in people's hearts about a fate, a missed love. It takes a lot of sympathy, a lot of understanding for that artist to understand the sad yet very honest feeling in the heart of a girl who loves and has to give back the mementos of that love: Following Kieu's entire life, Nguyen Du knows it will be a souvenir that recalls the memories and pain in her heart at the moment of separation. "The rim", "the cloud sheet" appears in the slow, heavy flow of the entire verse, like a girl's heart reviewing ancient memories, regretfully not wanting to leave, and it seems like there is a tension expressed in the "painstaking" steps of the poem's rhythm. And it seems that when memories and souvenirs appear most clearly, it is also when the pain is profound enough for her to think about the common fate. This fate must be given away, this love must be divided. "Hey...hey.." sounds decisive but my mind is confused, on the outside I want to give it frankly but on the inside I'm still holding on to something that is "common property"? Does the giver still want his or her presence in the giving relationship? Au Cung is the deepest and truest psychological law that Nguyen Du understands with all his heart. How painful it was when that girl, in extreme pain, imagined a lonely and cold world in contrast to her peaceful and happy scene. What a pity for a belated cry of condolence sent to a loved one far away, who has to endure the guilt of betrayal until later. Nguyen Du can see all those feelings and sufferings. He also understood her shame when she was deeply aware of living in a dirty place in a foreign land. There is nothing more painful than when the present gloomy and dark life scene is reflected in the once beautiful and pure past, even more so when it is awakened when "startled" late at night, "when sober at the end of the night." soup", when it's just me and my heart left to converse, to deeply understand and feel sorry for our fate. A "startle" that exudes the humiliation, shame and humiliation of a beautiful girl's body lost in bitterness. But at the same time, in the darkness and humiliation of fate, Nguyen Du still sought and cherished and cherished the beauty in the human soul. People who praise Kieu's altruism in the most painful moments of their lives still think and worry about others. She was worried that Van would be in a difficult situation because all her concerns and difficulties were concentrated in one word "trust" - so heavy, thanks to you, knowing that you are disadvantaged but still hoping that you can accept my offer. . In that situation, it was clear that Kieu was the most awkward person, yet she still thought about her situation, loved her, put all her trust in a word of approval from her - 'trust me', 'bow me", "sir" me. But the awkwardness is also because Kim Trong's lover still feels a deep debt and cannot help but repay it. Loyalty does not let her forget the profound memories she has for him, but her altruistic heart cannot let her not give her love to Van in return for Kim Trong.
Mỗi ngành khoa học mang đến cho con người một giá trị riêng, nếu khoa học cho con người hiểu thêm về thế giới tự nhiên qua các con số, định luật thì văn học đưa con người đến với đời sống xã hội, đến với thế giới của chính mình qua các câu chuyện, mà chứa đựng trong đó thái độ và tình cảm của người nghệ sĩ. Đến với những người nghệ sĩ dân gian, đằm mình trong những giấc mơ hồn hậu của một thuở đã xa, người ta vẫ học được ở đó chân lý của một thời, thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội lịch sử, bức tranh tâm hồn nhân dân thuở ấy mà nghĩ một điều gì đó như là băn khoăn, trăn trở cho nhịp sống hiện đại. Đã qua rồi thời đại của cổ tích: “ Tấm Cám” nhưng những giá trị sống mà giấc mơ người xưa mang lại vẫn còn hơi thở cho đến ngày hôm nay. Thiện và Ác đâu chỉ là cuộc tranh đấu của một thời. Nó kéo dài và hiện hữu trong mọi thời đại. Và đọc “ Tấm Cám” ta nghĩ về xưa và nay, nghĩ về thiện và ác trong cuộc sống con người. Cổ tích- giấc mơ thời thơ ấu của loan người, cõi đi về của tâm hồn con người giữa những sóng gió bất công, che chở số phận con người dưới bóng đen của thời đại. Cổ tích- nơi chứa đựng con mắt của người xưa nhìn về thời đại, ấp ủ trong đó những giấc mơ thành thực và đẹp đẽ nhất. Và “ Tấm Cám” nằm trong số đó. Không phải là những bộ sử thi đồ sộ, phong phú, truyện cổ tích vẫn cô vào đó bộ mặt cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, vẫn trở thành bài ca của niềm tin, khát vọng sống của con người thời đại. Có thể tìm thấy ở phần đầu của “ Tấm Cám” bóng dáng của những câu chuyện cổ khác. Nàng Tấm mồ côi cha mẹ, cam chịu, nhẫn nhục chịu đựng ngày nào mang dáng dấp của những anh Khoai, Thạch Sanh,… Nàng chịu sự đè nén, hành hạ, đối xử tệ bạc của mẹ con nhà Cám, bị tước đoạt cả quyền hưởng những vật chất bình thường như cái yếm đỏ, cá bống- chỗ dựa tinh thần duy nhất cũng bị giết chết, đến cả khao khát được đi hội làng cũng không được chấp nhận. “ Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng”- người ta thấm thía điều ấy hơn ở số phận của Tấm. Nổi khổ côi cút, lại thêm cuộc sống đọa đày dưới bàn tay người dì ghẻ cất lên trở thành tiếng nói đồng điệu cho bao kiếp người nhỏ bé khác trong xã hội đang thoi thóp trong bóng tối. “ Tấm Cám” liệu chỉ dừng lại ở đó? Không! Ta đã thấy nàng Tấm vùng lên sau hàng loạt hành động hãm hại của mẹ con nhà Cám tàn nhẫn, độc ác. Điều đó khiến bức tranh về thiện và ác trong “ Tấm Cám” mang một màu sắc riêng.
Each branch of science brings people its own value. If science helps people understand more about the natural world through numbers and laws, then literature brings people to social life, to the world. own world through stories, which contain the artist's attitudes and emotions. Coming to folk artists, immersing themselves in the innocent dreams of a time long gone, people still learn there the truth of that time, see a panorama of historical society, a picture of the soul. The soul of the people at that time thought something like anxiety and concern for the pace of modern life. The era of the fairy tale: "Tam Cam" has passed, but the life values ​​that the dreams of the ancients brought are still alive today. Good and Evil are not just a struggle of a time. It lasts and exists in all times. And reading "Tam Cam" we think about the past and present, think about good and evil in human life. Fairy tales are people's childhood dreams, the home of the human soul amidst the waves of injustice, protecting human fate under the shadow of the times. Fairy tales - a place containing the eyes of the ancients looking back at the times, cherishing in them the most beautiful and true dreams. And “Tam Cam” is among them. Far from being massive, rich epics, fairy tales still convey the face of the struggle between good and evil, and still become songs of faith and life aspirations of people of the era. At the beginning of "Tam Cam" can be found the silhouettes of other ancient stories. Miss Tam, an orphan of her parents, resigned and patiently endured the days when she took on the appearance of brothers Khoai, Thach Sanh, etc. She was oppressed, tortured, and mistreated by the Cam family and her children, deprived of Even the right to enjoy ordinary materials such as a red bib and goby - the only spiritual support - was killed, and even the desire to go to the village festival was not accepted. "Several generations of stepmothers love their husband's children" - people understand that more deeply in Tam's fate. Suffering from being orphaned, coupled with a miserable life at the hands of her stepmother, she became the voice of harmony for many other small people in society who are barely alive in the darkness. Does “Tam Cam” stop there? Are not! We saw Miss Tam rise up after a series of harmful actions by the cruel and cruel Cam family. That gives the picture of good and evil in "Tam Cam" a unique color.
Mỗi ngành khoa học mang đến cho con người một giá trị riêng, nếu khoa học cho con người hiểu thêm về thế giới tự nhiên qua các con số, định luật thì văn học đưa con người đến với đời sống xã hội, đến với thế giới của chính mình qua các câu chuyện, mà chứa đựng trong đó thái độ và tình cảm của người nghệ sĩ. Đến với những người nghệ sĩ dân gian, đằm mình trong những giấc mơ hồn hậu của một thuở đã xa, người ta vẫ học được ở đó chân lý của một thời, thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội lịch sử, bức tranh tâm hồn nhân dân thuở ấy mà nghĩ một điều gì đó như là băn khoăn, trăn trở cho nhịp sống hiện đại. Đã qua rồi thời đại của cổ tích: “ Tấm Cám” nhưng những giá trị sống mà giấc mơ người xưa mang lại vẫn còn hơi thở cho đến ngày hôm nay. Thiện và Ác đâu chỉ là cuộc tranh đấu của một thời. Nó kéo dài và hiện hữu trong mọi thời đại. Và đọc “ Tấm Cám” ta nghĩ về xưa và nay, nghĩ về thiện và ác trong cuộc sống con người. Cổ tích- giấc mơ thời thơ ấu của loan người, cõi đi về của tâm hồn con người giữa những sóng gió bất công, che chở số phận con người dưới bóng đen của thời đại. Cổ tích- nơi chứa đựng con mắt của người xưa nhìn về thời đại, ấp ủ trong đó những giấc mơ thành thực và đẹp đẽ nhất. Và “ Tấm Cám” nằm trong số đó. Không phải là những bộ sử thi đồ sộ, phong phú, truyện cổ tích vẫn cô vào đó bộ mặt cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, vẫn trở thành bài ca của niềm tin, khát vọng sống của con người thời đại. Có thể tìm thấy ở phần đầu của “ Tấm Cám” bóng dáng của những câu chuyện cổ khác. Nàng Tấm mồ côi cha mẹ, cam chịu, nhẫn nhục chịu đựng ngày nào mang dáng dấp của những anh Khoai, Thạch Sanh,… Nàng chịu sự đè nén, hành hạ, đối xử tệ bạc của mẹ con nhà Cám, bị tước đoạt cả quyền hưởng những vật chất bình thường như cái yếm đỏ, cá bống- chỗ dựa tinh thần duy nhất cũng bị giết chết, đến cả khao khát được đi hội làng cũng không được chấp nhận. “ Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng”- người ta thấm thía điều ấy hơn ở số phận của Tấm. Nổi khổ côi cút, lại thêm cuộc sống đọa đày dưới bàn tay người dì ghẻ cất lên trở thành tiếng nói đồng điệu cho bao kiếp người nhỏ bé khác trong xã hội đang thoi thóp trong bóng tối. “ Tấm Cám” liệu chỉ dừng lại ở đó? Không! Ta đã thấy nàng Tấm vùng lên sau hàng loạt hành động hãm hại của mẹ con nhà Cám tàn nhẫn, độc ác. Điều đó khiến bức tranh về thiện và ác trong “ Tấm Cám” mang một màu sắc riêng.
Each branch of science brings people its own value. If science helps people understand more about the natural world through numbers and laws, then literature brings people to social life, to the world. own world through stories, which contain the artist's attitudes and emotions. Coming to folk artists, immersing themselves in the innocent dreams of a time long gone, people still learn there the truth of that time, see a panorama of historical society, a picture of the soul. The soul of the people at that time thought something like anxiety and concern for the pace of modern life. The era of the fairy tale: "Tam Cam" has passed, but the life values ​​that the dreams of the ancients brought are still alive today. Good and Evil are not just a struggle of a time. It lasts and exists in all times. And reading "Tam Cam" we think about the past and present, think about good and evil in human life. Fairy tales are people's childhood dreams, the home of the human soul amidst the waves of injustice, protecting human fate under the shadow of the times. Fairy tales - a place containing the eyes of the ancients looking back at the times, cherishing in them the most beautiful and true dreams. And “Tam Cam” is among them. Far from being massive, rich epics, fairy tales still convey the face of the struggle between good and evil, and still become songs of faith and life aspirations of people of the era. At the beginning of "Tam Cam" can be found the silhouettes of other ancient stories. Miss Tam, an orphan of her parents, resigned and patiently endured the days when she took on the appearance of brothers Khoai, Thach Sanh, etc. She was oppressed, tortured, and mistreated by the Cam family and her children, deprived of Even the right to enjoy ordinary materials such as a red bib and goby - the only spiritual support - was killed, and even the desire to go to the village festival was not accepted. "Several generations of stepmothers love their husband's children" - people understand that more deeply in Tam's fate. Suffering from being orphaned, coupled with a miserable life at the hands of her stepmother, she became the voice of harmony for many other small people in society who are barely alive in the darkness. Does “Tam Cam” stop there? Are not! We saw Miss Tam rise up after a series of harmful actions by the cruel and cruel Cam family. That gives the picture of good and evil in "Tam Cam" a unique color.
Việt Nam là một đất nước nổi tiếng trong mắt bạn bè quốc tế với những sản phẩm thủ công mĩ nghệ tinh xảo, những nét văn hóa ẩm thực có thể nói đã làm mê lòng bao du khách nước ngoài. Từ những chiếc nan tre làm bàn, làm ghế đến những chiếc gối mây, chiếc nón bài thơ hay những món ăn đã lan tỏa khắp thế giới như phở bò, bánh cuốn, bánh cáy… Tất cả những thứ ấy đều là đặc trưng, đặc sản cho những vùng miền trên đất nước, là kết quả của quá trình lao động và sáng tạo của người dân Việt. Và trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài viết số 5 lớp 10 ta bắt gặp đề bài giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc môt đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình. Đây là đề bài không khó song khi làm bài các bạn cần đảm bảo được các ý như giới thiệu đối tượng, nguồn gốc, đặc điểm, lợi ích… Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Những câu thơ nói về một địa danh tại Hà Nội và là niềm tự hào của Việt Nam- làng gốm Bát Tràng. Làng gốm Bát Tràng nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam. Khi nhắc đến các làng nghề nổi tiếng, bạn không thể nào không nói về làng gốm Bát Tràng. Làng nghề này đã tồn tại ở ven đô Thăng Long khoảng hơn 500 năm nay. Phong cảnh tại làng gốm Bát Tràng cũng hết sức nên thơ, chính vì vậy bạn sẽ có nhiều hoạt động vui chơi khám phá thú vị, đặc biệt là cưỡi xe trâu đi du lịch quanh làng. Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem “ủ vóc” và sửa lại cho hoàn chỉnh. Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu… Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu. Sản phẩm gốm Bát Tràng đã được xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đem lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho người dân nơi đây. Gốm Bát Tràng còn là một nét đẹp, là kết tinh bàn tay khéo léo và tài hoa của những nghệ nhân nơi đây. Trong tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”, nhà văn Thạch Lam bằng ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình và tâm hồn cảm nhận mọi “vẻ đẹp man mác của vũ trụ” đã đưa ta đến với thế giới của những món ăn, thức quả: là cốm, là thưởng thức trà, là món phở,… Những thức quà tưởng chừng giản dị ấy, mà mỗi khi ta đọc, lại thấy đó như cả một nghệ thuật. Và nhắc đến phở bò- đó không chỉ là một thức quà trong trang văn của cây bút Tự lực văn đoàn mà còn trở thành một đặc sản, một món ăn ưa thích. Không biết tự bao giờ, phở đã trở thành món ăn được nhiều người yêu thích mỗi khi đặt chân đến vùng đất Hà thành- vùng đất văn hiến, văn hóa. Phở bò Hà Nội cũng như phở bò ở nhiều nơi khác, gồm bánh phở, thịt bò, nước phở và một số gia vị khác nhưng bánh phở ở Hà ội sợi nhỏ, ngon, mềm và không khô, cứng như ở nhiều nơi khác. Bánh phở ấy được làm từ gạo chiêm của vụ trước, để hết nhựa rồi mới được đem nghiền trên cối xay đá rồi tráng móng trên nồi nước quạt than củi nên trắng, dai và rất thơm. Muốn vậy, người ta phải lựa chọn được gạo ngon, đạt tiêu chuẩn, khi xay xát phải thật trắng thì bánh phở mới trắng và bong. Khi có đạt tiêu chuẩn, người làm phở cho gạo vào ngâm nước trong khoảng thời gian nhất định để gạo ngấm đủ nước sau đó vớt gạo ra và vo đãi cho sạch nước gạo, gạo được cho vào cối xay bột, bột xay phải mịn thì bánh mới mềm, dai. Bột xay xong thì chuyển sang công đoạn tráng bánh. Bánh phở phải đạt yêu cầu là trắng, mềm, mỏng, dai. Thịt bò được thái mỏng, nhúng và vớt ra ngay, ăn rất mềm mà lại giữ được độ tươi ngon của thịt.
Việt Nam là một đất nước nổi tiếng trong mắt bạn bè quốc tế với những sản phẩm thủ công mĩ nghệ tinh xảo, những nét văn hóa ẩm thực có thể nói đã làm mê lòng bao du khách nước ngoài. Từ những chiếc nan tre làm bàn, làm ghế đến những chiếc gối mây, chiếc nón bài thơ hay những món ăn đã lan tỏa khắp thế giới như phở bò, bánh cuốn, bánh cáy… Tất cả những thứ ấy đều là đặc trưng, đặc sản cho những vùng miền trên đất nước, là kết quả của quá trình lao động và sáng tạo của người dân Việt. Và trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài viết số 5 lớp 10 ta bắt gặp đề bài giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc môt đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình. Đây là đề bài không khó song khi làm bài các bạn cần đảm bảo được các ý như giới thiệu đối tượng, nguồn gốc, đặc điểm, lợi ích… Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Những câu thơ nói về một địa danh tại Hà Nội và là niềm tự hào của Việt Nam- làng gốm Bát Tràng. Làng gốm Bát Tràng nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam. Khi nhắc đến các làng nghề nổi tiếng, bạn không thể nào không nói về làng gốm Bát Tràng. Làng nghề này đã tồn tại ở ven đô Thăng Long khoảng hơn 500 năm nay. Phong cảnh tại làng gốm Bát Tràng cũng hết sức nên thơ, chính vì vậy bạn sẽ có nhiều hoạt động vui chơi khám phá thú vị, đặc biệt là cưỡi xe trâu đi du lịch quanh làng. Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem “ủ vóc” và sửa lại cho hoàn chỉnh. Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu… Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu. Sản phẩm gốm Bát Tràng đã được xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đem lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho người dân nơi đây. Gốm Bát Tràng còn là một nét đẹp, là kết tinh bàn tay khéo léo và tài hoa của những nghệ nhân nơi đây. Trong tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”, nhà văn Thạch Lam bằng ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình và tâm hồn cảm nhận mọi “vẻ đẹp man mác của vũ trụ” đã đưa ta đến với thế giới của những món ăn, thức quả: là cốm, là thưởng thức trà, là món phở,… Những thức quà tưởng chừng giản dị ấy, mà mỗi khi ta đọc, lại thấy đó như cả một nghệ thuật. Và nhắc đến phở bò- đó không chỉ là một thức quà trong trang văn của cây bút Tự lực văn đoàn mà còn trở thành một đặc sản, một món ăn ưa thích. Không biết tự bao giờ, phở đã trở thành món ăn được nhiều người yêu thích mỗi khi đặt chân đến vùng đất Hà thành- vùng đất văn hiến, văn hóa. Phở bò Hà Nội cũng như phở bò ở nhiều nơi khác, gồm bánh phở, thịt bò, nước phở và một số gia vị khác nhưng bánh phở ở Hà ội sợi nhỏ, ngon, mềm và không khô, cứng như ở nhiều nơi khác. Bánh phở ấy được làm từ gạo chiêm của vụ trước, để hết nhựa rồi mới được đem nghiền trên cối xay đá rồi tráng móng trên nồi nước quạt than củi nên trắng, dai và rất thơm. Muốn vậy, người ta phải lựa chọn được gạo ngon, đạt tiêu chuẩn, khi xay xát phải thật trắng thì bánh phở mới trắng và bong. Khi có đạt tiêu chuẩn, người làm phở cho gạo vào ngâm nước trong khoảng thời gian nhất định để gạo ngấm đủ nước sau đó vớt gạo ra và vo đãi cho sạch nước gạo, gạo được cho vào cối xay bột, bột xay phải mịn thì bánh mới mềm, dai. Bột xay xong thì chuyển sang công đoạn tráng bánh. Bánh phở phải đạt yêu cầu là trắng, mềm, mỏng, dai. Thịt bò được thái mỏng, nhúng và vớt ra ngay, ăn rất mềm mà lại giữ được độ tươi ngon của thịt.
Việt Nam là một đất nước nổi tiếng trong mắt bạn bè quốc tế với những sản phẩm thủ công mĩ nghệ tinh xảo, những nét văn hóa ẩm thực có thể nói đã làm mê lòng bao du khách nước ngoài. Từ những chiếc nan tre làm bàn, làm ghế đến những chiếc gối mây, chiếc nón bài thơ hay những món ăn đã lan tỏa khắp thế giới như phở bò, bánh cuốn, bánh cáy… Tất cả những thứ ấy đều là đặc trưng, đặc sản cho những vùng miền trên đất nước, là kết quả của quá trình lao động và sáng tạo của người dân Việt. Và trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài viết số 5 lớp 10 ta bắt gặp đề bài giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc môt đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình. Đây là đề bài không khó song khi làm bài các bạn cần đảm bảo được các ý như giới thiệu đối tượng, nguồn gốc, đặc điểm, lợi ích… Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Những câu thơ nói về một địa danh tại Hà Nội và là niềm tự hào của Việt Nam- làng gốm Bát Tràng. Làng gốm Bát Tràng nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam. Khi nhắc đến các làng nghề nổi tiếng, bạn không thể nào không nói về làng gốm Bát Tràng. Làng nghề này đã tồn tại ở ven đô Thăng Long khoảng hơn 500 năm nay. Phong cảnh tại làng gốm Bát Tràng cũng hết sức nên thơ, chính vì vậy bạn sẽ có nhiều hoạt động vui chơi khám phá thú vị, đặc biệt là cưỡi xe trâu đi du lịch quanh làng. Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem “ủ vóc” và sửa lại cho hoàn chỉnh. Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu… Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu. Sản phẩm gốm Bát Tràng đã được xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đem lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho người dân nơi đây. Gốm Bát Tràng còn là một nét đẹp, là kết tinh bàn tay khéo léo và tài hoa của những nghệ nhân nơi đây. Trong tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”, nhà văn Thạch Lam bằng ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình và tâm hồn cảm nhận mọi “vẻ đẹp man mác của vũ trụ” đã đưa ta đến với thế giới của những món ăn, thức quả: là cốm, là thưởng thức trà, là món phở,… Những thức quà tưởng chừng giản dị ấy, mà mỗi khi ta đọc, lại thấy đó như cả một nghệ thuật. Và nhắc đến phở bò- đó không chỉ là một thức quà trong trang văn của cây bút Tự lực văn đoàn mà còn trở thành một đặc sản, một món ăn ưa thích. Không biết tự bao giờ, phở đã trở thành món ăn được nhiều người yêu thích mỗi khi đặt chân đến vùng đất Hà thành- vùng đất văn hiến, văn hóa. Phở bò Hà Nội cũng như phở bò ở nhiều nơi khác, gồm bánh phở, thịt bò, nước phở và một số gia vị khác nhưng bánh phở ở Hà ội sợi nhỏ, ngon, mềm và không khô, cứng như ở nhiều nơi khác. Bánh phở ấy được làm từ gạo chiêm của vụ trước, để hết nhựa rồi mới được đem nghiền trên cối xay đá rồi tráng móng trên nồi nước quạt than củi nên trắng, dai và rất thơm. Muốn vậy, người ta phải lựa chọn được gạo ngon, đạt tiêu chuẩn, khi xay xát phải thật trắng thì bánh phở mới trắng và bong. Khi có đạt tiêu chuẩn, người làm phở cho gạo vào ngâm nước trong khoảng thời gian nhất định để gạo ngấm đủ nước sau đó vớt gạo ra và vo đãi cho sạch nước gạo, gạo được cho vào cối xay bột, bột xay phải mịn thì bánh mới mềm, dai. Bột xay xong thì chuyển sang công đoạn tráng bánh. Bánh phở phải đạt yêu cầu là trắng, mềm, mỏng, dai. Thịt bò được thái mỏng, nhúng và vớt ra ngay, ăn rất mềm mà lại giữ được độ tươi ngon của thịt.
Việt Nam là một đất nước nổi tiếng trong mắt bạn bè quốc tế với những sản phẩm thủ công mĩ nghệ tinh xảo, những nét văn hóa ẩm thực có thể nói đã làm mê lòng bao du khách nước ngoài. Từ những chiếc nan tre làm bàn, làm ghế đến những chiếc gối mây, chiếc nón bài thơ hay những món ăn đã lan tỏa khắp thế giới như phở bò, bánh cuốn, bánh cáy… Tất cả những thứ ấy đều là đặc trưng, đặc sản cho những vùng miền trên đất nước, là kết quả của quá trình lao động và sáng tạo của người dân Việt. Và trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài viết số 5 lớp 10 ta bắt gặp đề bài giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc môt đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình. Đây là đề bài không khó song khi làm bài các bạn cần đảm bảo được các ý như giới thiệu đối tượng, nguồn gốc, đặc điểm, lợi ích… Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Những câu thơ nói về một địa danh tại Hà Nội và là niềm tự hào của Việt Nam- làng gốm Bát Tràng. Làng gốm Bát Tràng nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam. Khi nhắc đến các làng nghề nổi tiếng, bạn không thể nào không nói về làng gốm Bát Tràng. Làng nghề này đã tồn tại ở ven đô Thăng Long khoảng hơn 500 năm nay. Phong cảnh tại làng gốm Bát Tràng cũng hết sức nên thơ, chính vì vậy bạn sẽ có nhiều hoạt động vui chơi khám phá thú vị, đặc biệt là cưỡi xe trâu đi du lịch quanh làng. Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất sét trắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đất mới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giao thông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơi khai thác các nguồn đất mới. Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối “vuốt tay, be chạch” trên bàn xoay Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Sản phẩm mộc đã định hình cần đem “ủ vóc” và sửa lại cho hoàn chỉnh. Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu… Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Hầu hết, đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất của các nguồn nguyên liệu tạo cốt gốm và việc tạo dáng đều làm bằng tay trên bàn xoay, cùng với việc sử dụng các loại men khai thác trong nước theo kinh nghiệm nên đồ gốm Bát Tràng có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng, lớp men trắng thường ngả màu ngà, đục. Bát Tràng cũng là làng gốm có các dòng men riêng từ loại men ngọc cùng với nâu và trắng cho đến men rạn với cốt gốm xốp có màu xám nâu. Sản phẩm gốm Bát Tràng đã được xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đem lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho người dân nơi đây. Gốm Bát Tràng còn là một nét đẹp, là kết tinh bàn tay khéo léo và tài hoa của những nghệ nhân nơi đây. Trong tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”, nhà văn Thạch Lam bằng ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình và tâm hồn cảm nhận mọi “vẻ đẹp man mác của vũ trụ” đã đưa ta đến với thế giới của những món ăn, thức quả: là cốm, là thưởng thức trà, là món phở,… Những thức quà tưởng chừng giản dị ấy, mà mỗi khi ta đọc, lại thấy đó như cả một nghệ thuật. Và nhắc đến phở bò- đó không chỉ là một thức quà trong trang văn của cây bút Tự lực văn đoàn mà còn trở thành một đặc sản, một món ăn ưa thích. Không biết tự bao giờ, phở đã trở thành món ăn được nhiều người yêu thích mỗi khi đặt chân đến vùng đất Hà thành- vùng đất văn hiến, văn hóa. Phở bò Hà Nội cũng như phở bò ở nhiều nơi khác, gồm bánh phở, thịt bò, nước phở và một số gia vị khác nhưng bánh phở ở Hà ội sợi nhỏ, ngon, mềm và không khô, cứng như ở nhiều nơi khác. Bánh phở ấy được làm từ gạo chiêm của vụ trước, để hết nhựa rồi mới được đem nghiền trên cối xay đá rồi tráng móng trên nồi nước quạt than củi nên trắng, dai và rất thơm. Muốn vậy, người ta phải lựa chọn được gạo ngon, đạt tiêu chuẩn, khi xay xát phải thật trắng thì bánh phở mới trắng và bong. Khi có đạt tiêu chuẩn, người làm phở cho gạo vào ngâm nước trong khoảng thời gian nhất định để gạo ngấm đủ nước sau đó vớt gạo ra và vo đãi cho sạch nước gạo, gạo được cho vào cối xay bột, bột xay phải mịn thì bánh mới mềm, dai. Bột xay xong thì chuyển sang công đoạn tráng bánh. Bánh phở phải đạt yêu cầu là trắng, mềm, mỏng, dai. Thịt bò được thái mỏng, nhúng và vớt ra ngay, ăn rất mềm mà lại giữ được độ tươi ngon của thịt.
Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những câu chuyện có sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian về buổi đầu của lịch sử dân tộc – một câu chuyện vừa mang nét hiện thực vừa mang nét huyền thoại thời Âu Lạc. Hơn thế nữa, đây cũng là tác phẩm mang dấu ấn bi kịch sớm nhất trong văn chương dân tộc. Giếng Mị Châu ở Đông Anh còn đó, bên cạnh bài học về việc cần đề cao cảnh giác với kẻ thù, tấm oan tình còn để lại những bài học mang giá trị nhân văn sâu sắc. Mị Châu là con gái của Thục An Dương Vương. Người con gái trong trắng ngây thơ, tin tưởng tình yêu một cách chân thành cuối cùng đã bị chính người chồng đưa vào bẫy, làm mất nước. Câu chuyện trong sách giáo khoa chỉ tập trung vào mối quan hệ Trọng Thủy – Mị Châu nhưng cũng đủ sức giúp ta nhận ra những thủ phạm và nạn nhân đích thực của bi tình sử này. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp đề bài Phân tích nhân vật Mị Châu. Khi làm bài văn này cần chỉ ra hành động đồng thời phân tích thái độ của nhân dân đối với hành động ấy. Hy vọng bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn hoàn thành thật tốt. Mị Châu là con gái của Thục Phán An Dương Vương, là một cô công chúa lá ngọc cành vàng, có tâm hồn ngây thơ, trong sáng, nhẹ dạ cả tin và không có chút gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, nàng cũng là người phải chịu trách nhiệm rất lớn về bi kịch “nước mất nhà tan” Mị Châu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh An Dương Vương “xây thành chế nỏ” và đánh bại quân xâm lược Triệu Đà lần thứ nhất. Có thể nói, nàng sống trong cuộc kháng chiến chống xâm lược mà cha nàng là thủ lĩnh tối cao, nhưng qua truyền thuyết, chúng ta thấy Mị Châu hoàn toàn ngây thơ, không quan tâm và không có chút hiểu biết gì về việc bảo vệ đất nước. Điều đó thể hiện qua việc Mị Châu lén lấy trộm nỏ thần cho Trọng Thủy xem. Hành động đó vừa đáng thương, vừa đáng trách. Đáng thương vì Mị Châu đã làm theo đạo tam tòng nhưng đáng trách vì trong hoàn cảnh đất nước có giặc giã, một nàng công chúa con vua mà chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà không quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhân dân là có tội. Mị Châu tin yêu chồng thì không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một công dân, tất yếu sẽ bị lên án, phê phán. Mị Châu đã đặt tình riêng cao hơn nghĩa nước, một hành động không nghĩ đến bổn phận của cá nhân đối với Tổ Quốc, càng không nhận thức được quyền lợi của quốc gia tác động đến cá nhân. Nếu sự mất cảnh giác của An Dương Vương là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, cả tin, ngây thơ của Mị Châu lại chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra họa mất nước. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo ra hình ảnh áo lông ngỗng là một chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện rõ sự mù quáng, đáng trách đó. Trọng Thủy đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không hề dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu”. Mị Châu đáp: “Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ dứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Trọng Thủy vừa về nước, chiến tranh hai nước đã xảy ra. Lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải sớm tình ngộ đó là âm mưu của Trọng Thủy, vậy mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ mù quáng, không suy xét sự tình mà vẫn rắc lông ngỗng để làm dấu, khác nào chỉ đường cho giặc tìm đến bắt mình. Việc làm đó trực tiếp dẫn tới bi kịch mất nước nhà tan. Nhờ lời nhắc nhở của thần Kim Quy, nàng mới nhận ra bản chất giả dối của Trọng Thủy và dứt khoát từ bỏ, vĩnh biệt Trọng Thủy trong cuộc đời cũng như trong tâm khản của mình. Trước khi chết, Mị Châu đã nói: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng chung hiếu mà bị người dối lừa, chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Nàng chỉ muốn rửa tiếng “bất trung”, “bất hiếu”, chỉ muốn cho mọi người hiểu rằng mình bị lừa dối chứ không dám kêu oán, cũng như xin tha tội. Tuy vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một công dân đối với đất nước, nhân dân ta đã không những để cho Rùa Vàng kết tội đanh thép, không khoan nhượng, gọi nàng là “giặc” mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha. Bi kịch của Mị Châu đã trở thành bài học về lợi ích giữa cái riêng và cái chung, và cho những người con trai, con gái sau này về bản chất nhẹ dạ cả tin. Dù là ai thì cũng cần phải có ý thức về sự tồn vong của đất nước.
The legend of Mi Chau - Trong Thuy is one of the fascinating stories passed down among the people about the beginning of the nation's history - a story that is both realistic and legendary during the Au Lac period. Moreover, this is also the work bearing the earliest tragic imprint in national literature. My Chau Well in Dong Anh is still there. Besides the lesson about the need to be wary of enemies, the injustice also leaves behind lessons with profound human values. Mi Chau is the daughter of Thuc An Duong Vuong. The pure and innocent girl, who sincerely believed in love, was eventually led into a trap by her husband and lost her country. The story in the textbook only focuses on the relationship Trong Thuy - My Chau but is enough to help us recognize the real perpetrators and victims of this historical tragedy. In the 10th grade literature program, we will encounter the topic Analyzing the character of Mi Chau. When writing this essay, it is necessary to point out the action and analyze the people's attitude towards that action. Hopefully the sample essay below will help you complete it well. Mi Chau is the daughter of Thuc Phan An Duong Vuong, a princess with jade leaves and golden branches, with a naive, pure, gullible soul and no sense of citizenship. Appearing in the later part of the story An Duong Vuong and Mi Chau - Trong Thuy, she is also the person who is greatly responsible for the tragedy of "losing the country and destroying the home". Mi Chau was born and raised in the context of An Duong Vuong "building a crossbow castle" and defeating the Trieu Da invaders for the first time. It can be said that she lived in the resistance war against the invaders in which her father was the supreme leader, but through legend, we see that Mi Chau was completely naive, uncaring and without any understanding of protecting her. defend the country. That is shown through the fact that Mi Chau secretly stole the magic crossbow for Trong Thuy to see. That action is both pitiful and reprehensible. It's pitiful because My Chau followed the religion of three obediences, but blameworthy because in a situation where the country is at war, a princess who is the daughter of a king only knows how to fulfill the word "obey" without caring about the fate of the country and its people. People are guilty. Mi Chau believes that loving her husband is nothing to blame, but she violated the principle of "national secrets" as a citizen, and will inevitably be condemned and criticized. Mi Chau placed her personal feelings higher than her country's, an action that did not consider the individual's duty to the Fatherland, and was even less aware of the country's interests affecting the individual. If An Duong Vuong's lack of vigilance was the indirect cause, then Mi Chau's gullibility, gullibility, and naivety were the direct cause of the dehydration. Mi Chau believes in loving her husband with a blind love. Our people created the image of a goose feather shirt as an ingenious artistic detail to clearly show that blindness and reprehensibility. Trong Thuy swapped the magic crossbow and before returning home asked Mi Chau: "The love between husband and wife cannot be forgotten, the love between mother and father is never abandoned. I will now return to visit my father. If the time comes when the two countries are at peace, North and South are separated, I will look for her again, what will be the sign?" Mi Chau replied: "I have a goose feather brocade shirt that I often wear on my body. Wherever I go, I will cut off the feathers and sprinkle them at the crossroads as a sign, so we can save each other." Trong Thuy had just returned home when the war between the two countries broke out. The crossbow bolt was gone, so she had to get on horseback and run away with her father. She should have soon realized that it was Trong Thuy's plot, but Mi Chau was still blind and gullible, not considering the situation but still sprinkled goose feathers to do it. hiding, is like showing the way for the enemy to come and capture you. That action directly led to the tragedy of losing the country. Thanks to the reminder of the god Kim Quy, she realized the false nature of Trong Thuy and definitely gave up, saying goodbye to Trong Thuy in her life as well as in her heart. Before dying, Mi Chau said: "I am a woman. If I have a rebellious heart and plot to harm my father, when I die, I will turn into dust. If you are deceived by your filial piety, when you die, you will turn into pearls to wash away your hatred." She just wanted to wash away the reputation of being "disloyal", "disloyal", just wanted everyone to understand that she had been deceived and did not dare to complain or ask for forgiveness. However, our people did not judge her from the usual feudal moral standpoint but from the standpoint of the nation and people to condemn her. With the unforgivable mistakes of a citizen towards the country, our people not only allowed the Golden Turtle to harshly and uncompromisingly call her an "enemy" but also allowed Mi Chau to die. under the stern sword of his father. Mi Chau's tragedy became a lesson about the benefits between the private and the common, and for later sons and daughters who were naturally gullible. No matter who you are, you need to be conscious of the country's survival.
Phạm Ngũ Lão quê ở làng Phù Dung, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân bình dị, làm nghề đan sọt. Đó là một người có tài, là bề tôi tín nghĩa, trung thành chả Trần Hưng Đạo, là một vị tướng tài ba lập nhiều kì tích. Ông sinh ra vào thời loạn và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên. Đội quân do vị tướng Phạm Ngũ Lão chỉ huy phụ trách gọi là “phụ tử chi binh”. Là người nổi tiếng có khí phách, văn võ song toàn nên thơ ông cũng toát hết những vẻ đẹp ấy, tiêu biểu là bài thơ “Tỏ lòng”mà chúng ta được tìm hiểu trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Ở bài viết số 7 có đề 4 như sau: Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hãy nêu ý kiến của anh chị. Ở đề bài này các bạn cần đưa ra quan điểm của các nhân sau đó dùng lí lẽ và dẫn chứng để chứng minh. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão ra đời trong không khí hào hùng, khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Tác phẩm có sự xen kẽ giữa hai nguồn cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng lập công. Ngày nay, các thế hệ cùng trở về với hào hùng dân tộc một thời qua những tác phẩm thơ văn. Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ then của tác giả xuất phát từ tầm đón nhận của mỗi người. Nếu ý kiến thứ nhất chỉ nhìn câu thơ ở lớp nghĩa đen, nghĩa bề mặt nên không thấy được vẻ đẹp của người tráng sĩ thì nhận định thứ hai đã nhìn nhận một cách toàn diện giá trị nội dung của tác phẩm khi cả hai đều hướng đến việc nhận xét sự hổ thẹn của tác giả. Ý kiến đầu còn tỏ ra sự phê phán hồ đồ, thiếu hiểu biết. Ngược lại thì ý kiến thứ hai rất đúng đắn và có giá trị. Hai câu thơ đầu tác giả bày tỏ nỗi lòng, cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ và quân đội nhà Trần đang làm nhiệm vụ bảo vệ non sông đất nước với giọng điệu hào hùng, ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh ước lệ, bút pháp giàu tính sử thi: Hai câu cuối, tác giả đi sâu vào nội tâm, tỏ lòng trực tiếp. Ta thấy phảng phất ở đó nỗi hổ thẹn với chính bản thân mình: Tác giả có nói đến chí nam nhi, một cách nói quen thuộc trong văn hóa phong kiến thì chí nam nhi thường gắn với lí tưởng công danh. “Công danh” là công lao và danh tiếng. Kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập nên công trạng, tạo dựng sự nghiệp, để lại địa vị, danh tiếng trong xã hội. Đó là con đường tất yếu với kẻ sĩ ở đời. Muốn khẳng định sự tồn tại của mình phải có công danh. Và chỉ có con trai mới lập nên công danh và đã là nam nhi thì lập công danh là một trách nhiệm. Quan niệm và lí tưởng công danh ấy có ý nghĩa tích cực bởi nó đã khích lệ tinh thần cống hiến và chiến đấu của biết bao trang nam tử ở đời để họ sẵn sàng rèn luyện có đủ phẩm chất để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ bằng con đường dùi mài kinh sử, lều chõng đi thi, đỗ đạt khoa cử. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng xem chuyện cônh danh như là lẽ sống của cuộc đời mình: Bản thân ý tưởng ấy đã làm bật lên vẻ đẹp trong chí khí và nhân cách của Phạm Ngũ Lão- một con người không chấp nhận cuộc đời tầm thường, vô nghĩa. Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh sự nghiệp, có nhiều công trạng và kì tích. Vậy mà tác giả vẫn còn băn khoăn về chuyện mình chưa trả xong món nợ công danh “vị liễu công danh trái”. Mà nợ thì phải trả cho nên niềm day dứt phải chăng là biểu hiện cao nhất của khát vọng tiếp tục lập công, của ý thức tu thân, không ngừng vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ; là biểu hiện của bầu nhiệt tâm, nhiệt huyết của người chí sĩ ở đời. Câu thơ cuối cùng “tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”, Phạm Ngũ Lão đã gắn với ý thức nợ công danh. Vũ Hầu chỉ Gia Cát Lượng tức Khổng Minh, một bậc trung thần, một nhân cách lớn. Gia Cát Lượng đã cống hiến không mệt mỏi và tử trận trong một lần chỉ huy đánh giặc. Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Lượng Hầu- người tài năng xuất chúng, nhân cách hơn người làm mẫu mực và thấy thẹn với chính mình bởi Gia Cát Lượng đã làm tròn việc trả nợ công danh đến hơi thở cuối cùng. Nỗi thẹn đó trước hết là nâng cao nhân cách Phạm Ngũ Lão, nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ khát vọng được cống hiến cả đời mình cho dân tộc. Nỗi thẹn làm nên chí lớn tâm hùng của một bậc tài khí hơn người. Đó còn là nỗi thẹn cho thấy trách nhiệm, nghĩa vụ, ý chí của kẻ làm trai. Nỗi thẹn có khả năng tạo nên những hành vi nghĩa hiệp ở đời. Với Phạm Ngũ Lão- người đã từng đánh Đông dẹp Bắc lập nên nhiều chiến công vậy mà vẫn cứ thẹn thì quả là nỗi thẹn mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân chính đáng, nỗi thẹn của một con người đã cao đẹp còn vươn lên tầm óc lớn lao hơn. Bài thơ khép lại, để lại trong lòng người đọc nhiều dư ba. Đó không còn là nỗi thẹn của tác giả mà là cả bức chân dung con người và thời đại mang hào khí Đông A. Âm hưởng tự bao đời của một thời đã đi qua vẫn vang mãi trong tim ta. Là chiến thắng tại Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng của Ngô vương để mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Là chiến thắng quân xâm lược Minh của vị chủ tướng Lê Lợi cùng bao người tài ba khác,…Những âm hưởng ấy không chỉ truyền mãi đến hôm nay và mai sau mà còn là cảm hứng bất tận trở về trong văn chương nghệ thuật để rồi những con người sống ở thời đại ấy đã viết lên những bài ca về thời đại mình. Phạm Ngũ Lão sống ở thời Trần- thời đại của hào khí Đông A và như một lẽ tất yếu, “Thuật hoài” của ông cũng mang âm hưởng của thời đại ấy. Nhận xét về bài thơ, có người cho rằng: Sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Mỗi người đều có quan điểm và cái lý của riêng mình. Nhưng theo tôi, bài thơ là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Bởi trước hết, ngay từ mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã dành lời ngợi ca cho vẻ đẹp của người tráng sĩ thời Trần: Người tráng sĩ xuất hiện trong tư thế “ hoành sóc” gợi tư thế vững chãi, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu. Với bối cảnh “ giang sơn kháp kỉ thu” gợi một không gian rộng và một thời gian dài đã thể hiện được tầm vóc của con người vũ trụ với sự kiên định, bền bỉ, dẻo dai. Lời thơ còn đưa ta đến với hình ảnh một đội quân mạnh mẽ, hùng cường. Hai câu thơ đã khắc họa thành công tầm vóc của con người thời đại cũng như sức mạnh của dân tộc, làm sống dậy hào khí Đông A, bật lên sưc mạnh đoàn kết, cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài thơ còn là biểu hiện một hoài bão lớn lao của một con người yêu nước vì tiếp đó, tác giả nhắc đến chí làm trai và nỗi thẹn của lòng mình: Nỗi lòng của nhà thơ hay cũng chính là vùng tâm tráng chí của một vị tướng tài ba. Chí làm trai – theo đó là quan điểm của Nho giáo: trang nam nhi thời phong kiến phải lập công lập danh, để lại sự nghiệp lẫy lừng, tiếng thơm muôn đời. Khát vọng ấy đã trở thành lý tưởng sống, trở đi trở về trong văn học trung đại: Hay: Thời điểm viết bài, Phạm Ngũ Lão đã có đầy đủ công danh, sự nghiệp mà vẫn còn day dứt, băn khoăn về món nợ công danh chưa trả, qua đó bộc lộ nhân cách của một con người luôn khao khát cống hiến và mang ý thức tu thân. Ông không chỉ băn khoăn về món nợ công danh mà còn thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu. Cổ sử ghi lại là con người tài năng, mưu lược, một vị quân sư, một trung thần giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão lấy Gia Cát Lượng làm mẫu mực cho sự nghiệp của đời mình, thấy hổ thẹn khi công danh không bằng Vũ Hầu, nỗi thẹn nung nấu khát vọng lập công, nỗi thẹn không làm con người trở nên thấp hèn mà càng tô đậm nhân cách của con người. Ta lại nhớ đến Nguyễn Khuyến thấy thẹn với ông Đào Uyên Minh vì vẫn còn dùng dằng không biết nên ở hay nên đi, ngay cả khi đã xác định về với chốn cũ mà vẫn “ ngửa lên thẹn trời”. Đến đầu thế kỉ XX, khi chưa tìm được con đường đi cho dân tộc thì Phan Bội Châu:
Phạm Ngũ Lão quê ở làng Phù Dung, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân bình dị, làm nghề đan sọt. Đó là một người có tài, là bề tôi tín nghĩa, trung thành chả Trần Hưng Đạo, là một vị tướng tài ba lập nhiều kì tích. Ông sinh ra vào thời loạn và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên. Đội quân do vị tướng Phạm Ngũ Lão chỉ huy phụ trách gọi là “phụ tử chi binh”. Là người nổi tiếng có khí phách, văn võ song toàn nên thơ ông cũng toát hết những vẻ đẹp ấy, tiêu biểu là bài thơ “Tỏ lòng”mà chúng ta được tìm hiểu trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Ở bài viết số 7 có đề 4 như sau: Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hãy nêu ý kiến của anh chị. Ở đề bài này các bạn cần đưa ra quan điểm của các nhân sau đó dùng lí lẽ và dẫn chứng để chứng minh. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão ra đời trong không khí hào hùng, khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Tác phẩm có sự xen kẽ giữa hai nguồn cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng lập công. Ngày nay, các thế hệ cùng trở về với hào hùng dân tộc một thời qua những tác phẩm thơ văn. Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ then của tác giả xuất phát từ tầm đón nhận của mỗi người. Nếu ý kiến thứ nhất chỉ nhìn câu thơ ở lớp nghĩa đen, nghĩa bề mặt nên không thấy được vẻ đẹp của người tráng sĩ thì nhận định thứ hai đã nhìn nhận một cách toàn diện giá trị nội dung của tác phẩm khi cả hai đều hướng đến việc nhận xét sự hổ thẹn của tác giả. Ý kiến đầu còn tỏ ra sự phê phán hồ đồ, thiếu hiểu biết. Ngược lại thì ý kiến thứ hai rất đúng đắn và có giá trị. Hai câu thơ đầu tác giả bày tỏ nỗi lòng, cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ và quân đội nhà Trần đang làm nhiệm vụ bảo vệ non sông đất nước với giọng điệu hào hùng, ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh ước lệ, bút pháp giàu tính sử thi: Hai câu cuối, tác giả đi sâu vào nội tâm, tỏ lòng trực tiếp. Ta thấy phảng phất ở đó nỗi hổ thẹn với chính bản thân mình: Tác giả có nói đến chí nam nhi, một cách nói quen thuộc trong văn hóa phong kiến thì chí nam nhi thường gắn với lí tưởng công danh. “Công danh” là công lao và danh tiếng. Kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập nên công trạng, tạo dựng sự nghiệp, để lại địa vị, danh tiếng trong xã hội. Đó là con đường tất yếu với kẻ sĩ ở đời. Muốn khẳng định sự tồn tại của mình phải có công danh. Và chỉ có con trai mới lập nên công danh và đã là nam nhi thì lập công danh là một trách nhiệm. Quan niệm và lí tưởng công danh ấy có ý nghĩa tích cực bởi nó đã khích lệ tinh thần cống hiến và chiến đấu của biết bao trang nam tử ở đời để họ sẵn sàng rèn luyện có đủ phẩm chất để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ bằng con đường dùi mài kinh sử, lều chõng đi thi, đỗ đạt khoa cử. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng xem chuyện cônh danh như là lẽ sống của cuộc đời mình: Bản thân ý tưởng ấy đã làm bật lên vẻ đẹp trong chí khí và nhân cách của Phạm Ngũ Lão- một con người không chấp nhận cuộc đời tầm thường, vô nghĩa. Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh sự nghiệp, có nhiều công trạng và kì tích. Vậy mà tác giả vẫn còn băn khoăn về chuyện mình chưa trả xong món nợ công danh “vị liễu công danh trái”. Mà nợ thì phải trả cho nên niềm day dứt phải chăng là biểu hiện cao nhất của khát vọng tiếp tục lập công, của ý thức tu thân, không ngừng vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ; là biểu hiện của bầu nhiệt tâm, nhiệt huyết của người chí sĩ ở đời. Câu thơ cuối cùng “tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”, Phạm Ngũ Lão đã gắn với ý thức nợ công danh. Vũ Hầu chỉ Gia Cát Lượng tức Khổng Minh, một bậc trung thần, một nhân cách lớn. Gia Cát Lượng đã cống hiến không mệt mỏi và tử trận trong một lần chỉ huy đánh giặc. Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Lượng Hầu- người tài năng xuất chúng, nhân cách hơn người làm mẫu mực và thấy thẹn với chính mình bởi Gia Cát Lượng đã làm tròn việc trả nợ công danh đến hơi thở cuối cùng. Nỗi thẹn đó trước hết là nâng cao nhân cách Phạm Ngũ Lão, nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ khát vọng được cống hiến cả đời mình cho dân tộc. Nỗi thẹn làm nên chí lớn tâm hùng của một bậc tài khí hơn người. Đó còn là nỗi thẹn cho thấy trách nhiệm, nghĩa vụ, ý chí của kẻ làm trai. Nỗi thẹn có khả năng tạo nên những hành vi nghĩa hiệp ở đời. Với Phạm Ngũ Lão- người đã từng đánh Đông dẹp Bắc lập nên nhiều chiến công vậy mà vẫn cứ thẹn thì quả là nỗi thẹn mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân chính đáng, nỗi thẹn của một con người đã cao đẹp còn vươn lên tầm óc lớn lao hơn. Bài thơ khép lại, để lại trong lòng người đọc nhiều dư ba. Đó không còn là nỗi thẹn của tác giả mà là cả bức chân dung con người và thời đại mang hào khí Đông A. Âm hưởng tự bao đời của một thời đã đi qua vẫn vang mãi trong tim ta. Là chiến thắng tại Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng của Ngô vương để mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Là chiến thắng quân xâm lược Minh của vị chủ tướng Lê Lợi cùng bao người tài ba khác,…Những âm hưởng ấy không chỉ truyền mãi đến hôm nay và mai sau mà còn là cảm hứng bất tận trở về trong văn chương nghệ thuật để rồi những con người sống ở thời đại ấy đã viết lên những bài ca về thời đại mình. Phạm Ngũ Lão sống ở thời Trần- thời đại của hào khí Đông A và như một lẽ tất yếu, “Thuật hoài” của ông cũng mang âm hưởng của thời đại ấy. Nhận xét về bài thơ, có người cho rằng: Sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Mỗi người đều có quan điểm và cái lý của riêng mình. Nhưng theo tôi, bài thơ là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Bởi trước hết, ngay từ mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã dành lời ngợi ca cho vẻ đẹp của người tráng sĩ thời Trần: Người tráng sĩ xuất hiện trong tư thế “ hoành sóc” gợi tư thế vững chãi, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu. Với bối cảnh “ giang sơn kháp kỉ thu” gợi một không gian rộng và một thời gian dài đã thể hiện được tầm vóc của con người vũ trụ với sự kiên định, bền bỉ, dẻo dai. Lời thơ còn đưa ta đến với hình ảnh một đội quân mạnh mẽ, hùng cường. Hai câu thơ đã khắc họa thành công tầm vóc của con người thời đại cũng như sức mạnh của dân tộc, làm sống dậy hào khí Đông A, bật lên sưc mạnh đoàn kết, cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài thơ còn là biểu hiện một hoài bão lớn lao của một con người yêu nước vì tiếp đó, tác giả nhắc đến chí làm trai và nỗi thẹn của lòng mình: Nỗi lòng của nhà thơ hay cũng chính là vùng tâm tráng chí của một vị tướng tài ba. Chí làm trai – theo đó là quan điểm của Nho giáo: trang nam nhi thời phong kiến phải lập công lập danh, để lại sự nghiệp lẫy lừng, tiếng thơm muôn đời. Khát vọng ấy đã trở thành lý tưởng sống, trở đi trở về trong văn học trung đại: Hay: Thời điểm viết bài, Phạm Ngũ Lão đã có đầy đủ công danh, sự nghiệp mà vẫn còn day dứt, băn khoăn về món nợ công danh chưa trả, qua đó bộc lộ nhân cách của một con người luôn khao khát cống hiến và mang ý thức tu thân. Ông không chỉ băn khoăn về món nợ công danh mà còn thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu. Cổ sử ghi lại là con người tài năng, mưu lược, một vị quân sư, một trung thần giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão lấy Gia Cát Lượng làm mẫu mực cho sự nghiệp của đời mình, thấy hổ thẹn khi công danh không bằng Vũ Hầu, nỗi thẹn nung nấu khát vọng lập công, nỗi thẹn không làm con người trở nên thấp hèn mà càng tô đậm nhân cách của con người. Ta lại nhớ đến Nguyễn Khuyến thấy thẹn với ông Đào Uyên Minh vì vẫn còn dùng dằng không biết nên ở hay nên đi, ngay cả khi đã xác định về với chốn cũ mà vẫn “ ngửa lên thẹn trời”. Đến đầu thế kỉ XX, khi chưa tìm được con đường đi cho dân tộc thì Phan Bội Châu:
Phạm Ngũ Lão quê ở làng Phù Dung, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân bình dị, làm nghề đan sọt. Đó là một người có tài, là bề tôi tín nghĩa, trung thành chả Trần Hưng Đạo, là một vị tướng tài ba lập nhiều kì tích. Ông sinh ra vào thời loạn và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên. Đội quân do vị tướng Phạm Ngũ Lão chỉ huy phụ trách gọi là “phụ tử chi binh”. Là người nổi tiếng có khí phách, văn võ song toàn nên thơ ông cũng toát hết những vẻ đẹp ấy, tiêu biểu là bài thơ “Tỏ lòng”mà chúng ta được tìm hiểu trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Ở bài viết số 7 có đề 4 như sau: Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hãy nêu ý kiến của anh chị. Ở đề bài này các bạn cần đưa ra quan điểm của các nhân sau đó dùng lí lẽ và dẫn chứng để chứng minh. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão ra đời trong không khí hào hùng, khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Tác phẩm có sự xen kẽ giữa hai nguồn cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng lập công. Ngày nay, các thế hệ cùng trở về với hào hùng dân tộc một thời qua những tác phẩm thơ văn. Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ then của tác giả xuất phát từ tầm đón nhận của mỗi người. Nếu ý kiến thứ nhất chỉ nhìn câu thơ ở lớp nghĩa đen, nghĩa bề mặt nên không thấy được vẻ đẹp của người tráng sĩ thì nhận định thứ hai đã nhìn nhận một cách toàn diện giá trị nội dung của tác phẩm khi cả hai đều hướng đến việc nhận xét sự hổ thẹn của tác giả. Ý kiến đầu còn tỏ ra sự phê phán hồ đồ, thiếu hiểu biết. Ngược lại thì ý kiến thứ hai rất đúng đắn và có giá trị. Hai câu thơ đầu tác giả bày tỏ nỗi lòng, cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ và quân đội nhà Trần đang làm nhiệm vụ bảo vệ non sông đất nước với giọng điệu hào hùng, ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh ước lệ, bút pháp giàu tính sử thi: Hai câu cuối, tác giả đi sâu vào nội tâm, tỏ lòng trực tiếp. Ta thấy phảng phất ở đó nỗi hổ thẹn với chính bản thân mình: Tác giả có nói đến chí nam nhi, một cách nói quen thuộc trong văn hóa phong kiến thì chí nam nhi thường gắn với lí tưởng công danh. “Công danh” là công lao và danh tiếng. Kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập nên công trạng, tạo dựng sự nghiệp, để lại địa vị, danh tiếng trong xã hội. Đó là con đường tất yếu với kẻ sĩ ở đời. Muốn khẳng định sự tồn tại của mình phải có công danh. Và chỉ có con trai mới lập nên công danh và đã là nam nhi thì lập công danh là một trách nhiệm. Quan niệm và lí tưởng công danh ấy có ý nghĩa tích cực bởi nó đã khích lệ tinh thần cống hiến và chiến đấu của biết bao trang nam tử ở đời để họ sẵn sàng rèn luyện có đủ phẩm chất để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ bằng con đường dùi mài kinh sử, lều chõng đi thi, đỗ đạt khoa cử. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng xem chuyện cônh danh như là lẽ sống của cuộc đời mình: Bản thân ý tưởng ấy đã làm bật lên vẻ đẹp trong chí khí và nhân cách của Phạm Ngũ Lão- một con người không chấp nhận cuộc đời tầm thường, vô nghĩa. Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh sự nghiệp, có nhiều công trạng và kì tích. Vậy mà tác giả vẫn còn băn khoăn về chuyện mình chưa trả xong món nợ công danh “vị liễu công danh trái”. Mà nợ thì phải trả cho nên niềm day dứt phải chăng là biểu hiện cao nhất của khát vọng tiếp tục lập công, của ý thức tu thân, không ngừng vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ; là biểu hiện của bầu nhiệt tâm, nhiệt huyết của người chí sĩ ở đời. Câu thơ cuối cùng “tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”, Phạm Ngũ Lão đã gắn với ý thức nợ công danh. Vũ Hầu chỉ Gia Cát Lượng tức Khổng Minh, một bậc trung thần, một nhân cách lớn. Gia Cát Lượng đã cống hiến không mệt mỏi và tử trận trong một lần chỉ huy đánh giặc. Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Lượng Hầu- người tài năng xuất chúng, nhân cách hơn người làm mẫu mực và thấy thẹn với chính mình bởi Gia Cát Lượng đã làm tròn việc trả nợ công danh đến hơi thở cuối cùng. Nỗi thẹn đó trước hết là nâng cao nhân cách Phạm Ngũ Lão, nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ khát vọng được cống hiến cả đời mình cho dân tộc. Nỗi thẹn làm nên chí lớn tâm hùng của một bậc tài khí hơn người. Đó còn là nỗi thẹn cho thấy trách nhiệm, nghĩa vụ, ý chí của kẻ làm trai. Nỗi thẹn có khả năng tạo nên những hành vi nghĩa hiệp ở đời. Với Phạm Ngũ Lão- người đã từng đánh Đông dẹp Bắc lập nên nhiều chiến công vậy mà vẫn cứ thẹn thì quả là nỗi thẹn mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân chính đáng, nỗi thẹn của một con người đã cao đẹp còn vươn lên tầm óc lớn lao hơn. Bài thơ khép lại, để lại trong lòng người đọc nhiều dư ba. Đó không còn là nỗi thẹn của tác giả mà là cả bức chân dung con người và thời đại mang hào khí Đông A. Âm hưởng tự bao đời của một thời đã đi qua vẫn vang mãi trong tim ta. Là chiến thắng tại Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng của Ngô vương để mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Là chiến thắng quân xâm lược Minh của vị chủ tướng Lê Lợi cùng bao người tài ba khác,…Những âm hưởng ấy không chỉ truyền mãi đến hôm nay và mai sau mà còn là cảm hứng bất tận trở về trong văn chương nghệ thuật để rồi những con người sống ở thời đại ấy đã viết lên những bài ca về thời đại mình. Phạm Ngũ Lão sống ở thời Trần- thời đại của hào khí Đông A và như một lẽ tất yếu, “Thuật hoài” của ông cũng mang âm hưởng của thời đại ấy. Nhận xét về bài thơ, có người cho rằng: Sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Mỗi người đều có quan điểm và cái lý của riêng mình. Nhưng theo tôi, bài thơ là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Bởi trước hết, ngay từ mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã dành lời ngợi ca cho vẻ đẹp của người tráng sĩ thời Trần: Người tráng sĩ xuất hiện trong tư thế “ hoành sóc” gợi tư thế vững chãi, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu. Với bối cảnh “ giang sơn kháp kỉ thu” gợi một không gian rộng và một thời gian dài đã thể hiện được tầm vóc của con người vũ trụ với sự kiên định, bền bỉ, dẻo dai. Lời thơ còn đưa ta đến với hình ảnh một đội quân mạnh mẽ, hùng cường. Hai câu thơ đã khắc họa thành công tầm vóc của con người thời đại cũng như sức mạnh của dân tộc, làm sống dậy hào khí Đông A, bật lên sưc mạnh đoàn kết, cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài thơ còn là biểu hiện một hoài bão lớn lao của một con người yêu nước vì tiếp đó, tác giả nhắc đến chí làm trai và nỗi thẹn của lòng mình: Nỗi lòng của nhà thơ hay cũng chính là vùng tâm tráng chí của một vị tướng tài ba. Chí làm trai – theo đó là quan điểm của Nho giáo: trang nam nhi thời phong kiến phải lập công lập danh, để lại sự nghiệp lẫy lừng, tiếng thơm muôn đời. Khát vọng ấy đã trở thành lý tưởng sống, trở đi trở về trong văn học trung đại: Hay: Thời điểm viết bài, Phạm Ngũ Lão đã có đầy đủ công danh, sự nghiệp mà vẫn còn day dứt, băn khoăn về món nợ công danh chưa trả, qua đó bộc lộ nhân cách của một con người luôn khao khát cống hiến và mang ý thức tu thân. Ông không chỉ băn khoăn về món nợ công danh mà còn thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu. Cổ sử ghi lại là con người tài năng, mưu lược, một vị quân sư, một trung thần giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão lấy Gia Cát Lượng làm mẫu mực cho sự nghiệp của đời mình, thấy hổ thẹn khi công danh không bằng Vũ Hầu, nỗi thẹn nung nấu khát vọng lập công, nỗi thẹn không làm con người trở nên thấp hèn mà càng tô đậm nhân cách của con người. Ta lại nhớ đến Nguyễn Khuyến thấy thẹn với ông Đào Uyên Minh vì vẫn còn dùng dằng không biết nên ở hay nên đi, ngay cả khi đã xác định về với chốn cũ mà vẫn “ ngửa lên thẹn trời”. Đến đầu thế kỉ XX, khi chưa tìm được con đường đi cho dân tộc thì Phan Bội Châu:
Phạm Ngũ Lão quê ở làng Phù Dung, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân bình dị, làm nghề đan sọt. Đó là một người có tài, là bề tôi tín nghĩa, trung thành chả Trần Hưng Đạo, là một vị tướng tài ba lập nhiều kì tích. Ông sinh ra vào thời loạn và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên. Đội quân do vị tướng Phạm Ngũ Lão chỉ huy phụ trách gọi là “phụ tử chi binh”. Là người nổi tiếng có khí phách, văn võ song toàn nên thơ ông cũng toát hết những vẻ đẹp ấy, tiêu biểu là bài thơ “Tỏ lòng”mà chúng ta được tìm hiểu trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Ở bài viết số 7 có đề 4 như sau: Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hãy nêu ý kiến của anh chị. Ở đề bài này các bạn cần đưa ra quan điểm của các nhân sau đó dùng lí lẽ và dẫn chứng để chứng minh. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bạn tham khảo. Chúc các bạn thành công! Bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão ra đời trong không khí hào hùng, khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Tác phẩm có sự xen kẽ giữa hai nguồn cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng lập công. Ngày nay, các thế hệ cùng trở về với hào hùng dân tộc một thời qua những tác phẩm thơ văn. Khi học bài thơ này, có bạn cho rằng “sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì”. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ then của tác giả xuất phát từ tầm đón nhận của mỗi người. Nếu ý kiến thứ nhất chỉ nhìn câu thơ ở lớp nghĩa đen, nghĩa bề mặt nên không thấy được vẻ đẹp của người tráng sĩ thì nhận định thứ hai đã nhìn nhận một cách toàn diện giá trị nội dung của tác phẩm khi cả hai đều hướng đến việc nhận xét sự hổ thẹn của tác giả. Ý kiến đầu còn tỏ ra sự phê phán hồ đồ, thiếu hiểu biết. Ngược lại thì ý kiến thứ hai rất đúng đắn và có giá trị. Hai câu thơ đầu tác giả bày tỏ nỗi lòng, cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ và quân đội nhà Trần đang làm nhiệm vụ bảo vệ non sông đất nước với giọng điệu hào hùng, ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh ước lệ, bút pháp giàu tính sử thi: Hai câu cuối, tác giả đi sâu vào nội tâm, tỏ lòng trực tiếp. Ta thấy phảng phất ở đó nỗi hổ thẹn với chính bản thân mình: Tác giả có nói đến chí nam nhi, một cách nói quen thuộc trong văn hóa phong kiến thì chí nam nhi thường gắn với lí tưởng công danh. “Công danh” là công lao và danh tiếng. Kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập nên công trạng, tạo dựng sự nghiệp, để lại địa vị, danh tiếng trong xã hội. Đó là con đường tất yếu với kẻ sĩ ở đời. Muốn khẳng định sự tồn tại của mình phải có công danh. Và chỉ có con trai mới lập nên công danh và đã là nam nhi thì lập công danh là một trách nhiệm. Quan niệm và lí tưởng công danh ấy có ý nghĩa tích cực bởi nó đã khích lệ tinh thần cống hiến và chiến đấu của biết bao trang nam tử ở đời để họ sẵn sàng rèn luyện có đủ phẩm chất để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ bằng con đường dùi mài kinh sử, lều chõng đi thi, đỗ đạt khoa cử. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng xem chuyện cônh danh như là lẽ sống của cuộc đời mình: Bản thân ý tưởng ấy đã làm bật lên vẻ đẹp trong chí khí và nhân cách của Phạm Ngũ Lão- một con người không chấp nhận cuộc đời tầm thường, vô nghĩa. Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh sự nghiệp, có nhiều công trạng và kì tích. Vậy mà tác giả vẫn còn băn khoăn về chuyện mình chưa trả xong món nợ công danh “vị liễu công danh trái”. Mà nợ thì phải trả cho nên niềm day dứt phải chăng là biểu hiện cao nhất của khát vọng tiếp tục lập công, của ý thức tu thân, không ngừng vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ; là biểu hiện của bầu nhiệt tâm, nhiệt huyết của người chí sĩ ở đời. Câu thơ cuối cùng “tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”, Phạm Ngũ Lão đã gắn với ý thức nợ công danh. Vũ Hầu chỉ Gia Cát Lượng tức Khổng Minh, một bậc trung thần, một nhân cách lớn. Gia Cát Lượng đã cống hiến không mệt mỏi và tử trận trong một lần chỉ huy đánh giặc. Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Lượng Hầu- người tài năng xuất chúng, nhân cách hơn người làm mẫu mực và thấy thẹn với chính mình bởi Gia Cát Lượng đã làm tròn việc trả nợ công danh đến hơi thở cuối cùng. Nỗi thẹn đó trước hết là nâng cao nhân cách Phạm Ngũ Lão, nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ khát vọng được cống hiến cả đời mình cho dân tộc. Nỗi thẹn làm nên chí lớn tâm hùng của một bậc tài khí hơn người. Đó còn là nỗi thẹn cho thấy trách nhiệm, nghĩa vụ, ý chí của kẻ làm trai. Nỗi thẹn có khả năng tạo nên những hành vi nghĩa hiệp ở đời. Với Phạm Ngũ Lão- người đã từng đánh Đông dẹp Bắc lập nên nhiều chiến công vậy mà vẫn cứ thẹn thì quả là nỗi thẹn mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân chính đáng, nỗi thẹn của một con người đã cao đẹp còn vươn lên tầm óc lớn lao hơn. Bài thơ khép lại, để lại trong lòng người đọc nhiều dư ba. Đó không còn là nỗi thẹn của tác giả mà là cả bức chân dung con người và thời đại mang hào khí Đông A. Âm hưởng tự bao đời của một thời đã đi qua vẫn vang mãi trong tim ta. Là chiến thắng tại Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng của Ngô vương để mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Là chiến thắng quân xâm lược Minh của vị chủ tướng Lê Lợi cùng bao người tài ba khác,…Những âm hưởng ấy không chỉ truyền mãi đến hôm nay và mai sau mà còn là cảm hứng bất tận trở về trong văn chương nghệ thuật để rồi những con người sống ở thời đại ấy đã viết lên những bài ca về thời đại mình. Phạm Ngũ Lão sống ở thời Trần- thời đại của hào khí Đông A và như một lẽ tất yếu, “Thuật hoài” của ông cũng mang âm hưởng của thời đại ấy. Nhận xét về bài thơ, có người cho rằng: Sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Mỗi người đều có quan điểm và cái lý của riêng mình. Nhưng theo tôi, bài thơ là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Bởi trước hết, ngay từ mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã dành lời ngợi ca cho vẻ đẹp của người tráng sĩ thời Trần: Người tráng sĩ xuất hiện trong tư thế “ hoành sóc” gợi tư thế vững chãi, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu. Với bối cảnh “ giang sơn kháp kỉ thu” gợi một không gian rộng và một thời gian dài đã thể hiện được tầm vóc của con người vũ trụ với sự kiên định, bền bỉ, dẻo dai. Lời thơ còn đưa ta đến với hình ảnh một đội quân mạnh mẽ, hùng cường. Hai câu thơ đã khắc họa thành công tầm vóc của con người thời đại cũng như sức mạnh của dân tộc, làm sống dậy hào khí Đông A, bật lên sưc mạnh đoàn kết, cảm hứng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài thơ còn là biểu hiện một hoài bão lớn lao của một con người yêu nước vì tiếp đó, tác giả nhắc đến chí làm trai và nỗi thẹn của lòng mình: Nỗi lòng của nhà thơ hay cũng chính là vùng tâm tráng chí của một vị tướng tài ba. Chí làm trai – theo đó là quan điểm của Nho giáo: trang nam nhi thời phong kiến phải lập công lập danh, để lại sự nghiệp lẫy lừng, tiếng thơm muôn đời. Khát vọng ấy đã trở thành lý tưởng sống, trở đi trở về trong văn học trung đại: Hay: Thời điểm viết bài, Phạm Ngũ Lão đã có đầy đủ công danh, sự nghiệp mà vẫn còn day dứt, băn khoăn về món nợ công danh chưa trả, qua đó bộc lộ nhân cách của một con người luôn khao khát cống hiến và mang ý thức tu thân. Ông không chỉ băn khoăn về món nợ công danh mà còn thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu. Cổ sử ghi lại là con người tài năng, mưu lược, một vị quân sư, một trung thần giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão lấy Gia Cát Lượng làm mẫu mực cho sự nghiệp của đời mình, thấy hổ thẹn khi công danh không bằng Vũ Hầu, nỗi thẹn nung nấu khát vọng lập công, nỗi thẹn không làm con người trở nên thấp hèn mà càng tô đậm nhân cách của con người. Ta lại nhớ đến Nguyễn Khuyến thấy thẹn với ông Đào Uyên Minh vì vẫn còn dùng dằng không biết nên ở hay nên đi, ngay cả khi đã xác định về với chốn cũ mà vẫn “ ngửa lên thẹn trời”. Đến đầu thế kỉ XX, khi chưa tìm được con đường đi cho dân tộc thì Phan Bội Châu:
Môi trường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cuộc sống vẹn toàn, hạnh phú, đầy đủ của con người. Là yếu tố ngay xung quanh ta, tham gia trực tiếp vào đời sống của mỗi người, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc,trở thành người bạn của mỗi bước tiến của loan người, sẽ ra sao nếu người bạn ấy bị chính con người chúng ta tàn phá bằng những hành động vô ý thức của mình. Và thực tế cho thấy hiện nay con người đang quay lưng lại với môi trường vì những lợi íc trước mắt, tàn phá chính ngôi nhà chung của mình mà không ý thức được hậu quả nghiêm trọng có thể dẫn đến sau này. Liệu Trái Đất có còn là nơi nâng niu, ấp ủ, ươm mầm cho sự sống hay sẽ trở thành hành tinh chết, một đống tro tàn của khói bụi và chất thải ô nhiễm. Cần lắm những bàn tay góp chung dựng xây một tương lai vì một môi trường Xanh- Sạch- Đẹp! bài viết dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn viết bài tham gia hội thảo với chủ đề: Vì một môi trường xanh-sạch-đẹp. Môi trường ngôi nhà chung của mỗi chúng ta, nơi con người tồn tại, làm việc và phát triển. Nhưng chưa bao giờ vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra cấp thiết như hiện nay do ý thức bảo vệ thiên nhiên của con người ngày càng xuống cấp và đang ở mức đáng báo động. Để nâng cao ý thức của các bạn học sinh về vấn đề này, chi đoàn 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì môi trường xanh, sạch, đẹp. Tại sao chúng ta cần dành mối quan tâm thực sự của mình cho vấn đề môi trường? Môi trường là người bạn lớn, góp mặt trong mọi hoạt động đời sống hàng ngày của con người từ xưa đến nay. Từ thuở vũ trụ còn hỗn mang, cái nhìn ngưỡng vọng và khát khao khám phá, chinh phục thế giới xung quanh đã khai mở cuộc tìm kiếm, sự hòa hợp giữa và mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa con người với con người. Môi trường cho ta đất ở, thức ăn, nước uống, cho ta ý thức về sự tồn tại, tạo điều kiện và bàn đạp cho mỗi bước tiến của con người. Trước khi nói đến phát triển kinh tế,mọi trong những tiềm lực mà người ta quan tâm nhất là gì nếu không phải là môi trường, tài nguyên. Không có môi trường cuộc sống con người cũng giống như một cỗ máy thiếu nhiên liệu, sao có thể vận hành về lâu về dài. Nhật Bản một đất nước văn minh đến vậy, liên tục xảy ra động đất, sóng thần cũng là điều không may vậy. Môi trường bản thân, mà hình ảnh lớn của nó là vũ trụ này đã mất hàng triệu triệu năm để hình thành như một mảnh đất có khả năng ươm mầm, nuôi dưỡng sự sống. Mỗi loan vật, mỗi nguyên liệu, mỗi cảnh quan cho đến nay đều là những món quà kì diệu mà con người nhận được. Có thể nào nghĩ đến quá trình thai nghén nhọc nhằn và dài lâu ấy mà con người ta vẫn nhẫn tâm bằng những hành động vô ý thức của mình, hủy hoại đi cả một quá trình, cắt đứt đi sự sống trăm năm mới thành hình thành sắc. Biển đen ngòm ô nhiễm vì liên tiếp các sự cố tràn dầu xảy ra,sống ngòi đục ngầu vì rác thải, nước sinh hoạt, nước từ các nhà máy, xí nghiệp thải ra vô tổ chức. Đất xói mòn cằn khô vì nhiễm độc nặng nề từ hàng tấn hóa chất. Bầu khí quyển dày đặc khói bụi từ các nhà máy, các phương tiện đi lại xuất hiện ngày càng nhiều. Qúa tải. Ngột ngạt. Môi trường đang cất tiếng kêu cứu, sao chúng ta còn mãi thờ ơ? Tiếng gọi ấy là lý do hôm nay chúng ta có mặt ở đây, để bàn nhiều hơn, nói sâu hơn về những gì ta đã, đang và sẽ cần làm cho ngôi nhà chung của mình. Dù chỉ là những hành động giảm dị nhưng các bạn đã góp được phần nào làm nên vẻ xanh –sạch-đẹp cho trường ta và khu phố lân cận.Sau buổi học các bạn trực nhật đã có ý thức ở lại vệ sinh lớp học, lau bảng, quét nhà, chăm sóc cây xanh trước cửa lớp. Đặc biệt đã cùng các lớp khác vệ sinh sân trường, lau và quét dọn sạch sẽ các hành lang lớp học và cầu thang, đổ rác đúng nơi quy định.Chúng ta đã có những buổi chiều phân cong nhau nhặt rác trên vỉa hè ngoài phố, dọn những rãnh cống, tưới nước cho các bồn cây hoa, trồng thêm những cây xanh mới, đạt hiệu quả tốt. Vậy ta cần làm gì để hong trào được lan rộng hơn nữa đến tất cả các lớp trong trường và đến tinh thần bảo vệ môi trường chung của khu phố. Trước hết, mỗi người cần làm việc vệ sinh một cách nhiệt tình, bởi một khi chúng ta làm với tất cả tâm huyết và tình yêu, làm việc đều đặn sẽ tạo ấn tượng, sức hút đến đông đảo mọi người. Một cử chỉ nhỉ vì thế mà có thể lan tỏa thành những hành động lớn.Thứ hai, chúng ta sẽ dành ra một tuần phát động phong trào thi đua thiết kế băng dôn khẩu hiệu trong cả lớp. Các nhóm sẽ lên ý tưởng, thiết kế, bản vẽ của nhóm nào ấn tượng nhất sẽ được chọn thiết kế một cách bài bản treo trong lớp học, trong trường học thậm chí ở cổng trường để cổ vũ, khích lệ mọi người cùng hưởng ứng. Và nếu có điều kiện hơn nữa, ta sẽ tổ chức một chuyến đi thăm vùng ngoại ô vào cuối tuần để tham gia dọn cỏ, dọn mương cùng những người dân ở đó; cùng với đó sẽ quan sát những nhân viên môi trường làm việc để từ đó hiểu được một môi trường xanh sạch đẹp không phải tự nhiên có mà là kết quả của bao mồ hôi và nước mắt. Phong trào chỉ là kế hoạch, ý tưởng xây dựng cho một chiến dịch trong một giai đoạn cụ thể. Điều cần nhất là mọi người hưởng ứng nhiệt tình, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường sau này. Bởi đó không phải chỉ là công việc một sớm một chiều, đó là quá trình đòi hỏi sự bền bỉ. Thế giới mà con người đang sống ngày nay là một “thế giới phẳng”- một thế giới mà công nghệ vô cùng phát triển, một thế giới mà ở đó máy móc hiện đại xuất hiện mọi nơi,… Nhưng chính trong sự hiện đại, văn minh ấy, nhân loại phải đối mặt vói một điều: ô nhiểm môi trường. Vì vậy, ở hầu hết các địa phương đều có những đợt thi đua về việc bảo vệ môi trường. Và hưởng ứng đợt thi đua “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, cho đoàn lớp 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: “Hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp”. Sở dĩ con người cần phải chung tay xây dựng một mái trường xanh, sạch, đẹp vì tại mái trường đó chúng ta đã sinh sống và làm việc. Như một quy luật hàng ngày chúng ta đến trường, được tiếp thu kiến thức hoặc để truyền kiến thức và làm nhiều nhiệm vụ khác. Nhưng điều quan trường hơn là chúng ta không chỉ tiếp thu tri thức mà còn hướng đến lối sống đẹp với nhân cách đáng được trân trọng. Sẽ ra sao nếu như tại nơi ấy không phải là một môi trường lý tưởng? Liệu mỗi chúng ta có thể trưởng thành trong một môi trường ô nhiễm trầm trọng? Vậy nên có lẽ ai cũng mong muốn tìm một môi trường lý tưởng phù hợp với cuộc sống của mình. Có lẽ điều trước nhất là một môi trường xanh, sạch, đẹp vì như thế sẽ sự hứng thú và thoải mái để sinh hoạt. Đó cũng là tiền đề để hướng tới một tương lai, một cuộc sống với những điều tốt đẹp. Trong thực tế ở tại môi trường học đường, nhiều trườn học đã rất quan tâm tới việc tạo một không gian dạy và học thuận lợi cho học snh và giáo viên. Như tôi được biết, hằng tuần, tại nhiều trường học khuyến khích học sinh dọn dẹp vệ sinh trường, lớp. Mỗi năm, nhà trường lại trồng thêm nhiều cây xanh trong khuôn viên sân trường hay ở mỗi lớp học luôn có những cây xanh lại phù hợp với điều kiện của mọi người và thích hợp trong không gian nhỏ của lớp học. Đa số mọi người đều tích cực hưởng ứng tham gia nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người với lối sống vị kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình, coi rằng đó là việc của tập thể, bản thân mình có làm hay không cũng không ảnh hưởng gì nên đã thờ ơ. Thậm chí, có nhiều người còn ngang nhiên phá hủy đi môi trường xanh, sạch, đẹp mà không ít người đã bỏ công sức ra để tạo dựng nên khi bẻ những cành lá, phá hủy những cây xanh, vứt rác bừa bãi ở tại lớp, tại sân trường.
Môi trường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cuộc sống vẹn toàn, hạnh phú, đầy đủ của con người. Là yếu tố ngay xung quanh ta, tham gia trực tiếp vào đời sống của mỗi người, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc,trở thành người bạn của mỗi bước tiến của loan người, sẽ ra sao nếu người bạn ấy bị chính con người chúng ta tàn phá bằng những hành động vô ý thức của mình. Và thực tế cho thấy hiện nay con người đang quay lưng lại với môi trường vì những lợi íc trước mắt, tàn phá chính ngôi nhà chung của mình mà không ý thức được hậu quả nghiêm trọng có thể dẫn đến sau này. Liệu Trái Đất có còn là nơi nâng niu, ấp ủ, ươm mầm cho sự sống hay sẽ trở thành hành tinh chết, một đống tro tàn của khói bụi và chất thải ô nhiễm. Cần lắm những bàn tay góp chung dựng xây một tương lai vì một môi trường Xanh- Sạch- Đẹp! bài viết dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn viết bài tham gia hội thảo với chủ đề: Vì một môi trường xanh-sạch-đẹp. Môi trường ngôi nhà chung của mỗi chúng ta, nơi con người tồn tại, làm việc và phát triển. Nhưng chưa bao giờ vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra cấp thiết như hiện nay do ý thức bảo vệ thiên nhiên của con người ngày càng xuống cấp và đang ở mức đáng báo động. Để nâng cao ý thức của các bạn học sinh về vấn đề này, chi đoàn 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì môi trường xanh, sạch, đẹp. Tại sao chúng ta cần dành mối quan tâm thực sự của mình cho vấn đề môi trường? Môi trường là người bạn lớn, góp mặt trong mọi hoạt động đời sống hàng ngày của con người từ xưa đến nay. Từ thuở vũ trụ còn hỗn mang, cái nhìn ngưỡng vọng và khát khao khám phá, chinh phục thế giới xung quanh đã khai mở cuộc tìm kiếm, sự hòa hợp giữa và mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa con người với con người. Môi trường cho ta đất ở, thức ăn, nước uống, cho ta ý thức về sự tồn tại, tạo điều kiện và bàn đạp cho mỗi bước tiến của con người. Trước khi nói đến phát triển kinh tế,mọi trong những tiềm lực mà người ta quan tâm nhất là gì nếu không phải là môi trường, tài nguyên. Không có môi trường cuộc sống con người cũng giống như một cỗ máy thiếu nhiên liệu, sao có thể vận hành về lâu về dài. Nhật Bản một đất nước văn minh đến vậy, liên tục xảy ra động đất, sóng thần cũng là điều không may vậy. Môi trường bản thân, mà hình ảnh lớn của nó là vũ trụ này đã mất hàng triệu triệu năm để hình thành như một mảnh đất có khả năng ươm mầm, nuôi dưỡng sự sống. Mỗi loan vật, mỗi nguyên liệu, mỗi cảnh quan cho đến nay đều là những món quà kì diệu mà con người nhận được. Có thể nào nghĩ đến quá trình thai nghén nhọc nhằn và dài lâu ấy mà con người ta vẫn nhẫn tâm bằng những hành động vô ý thức của mình, hủy hoại đi cả một quá trình, cắt đứt đi sự sống trăm năm mới thành hình thành sắc. Biển đen ngòm ô nhiễm vì liên tiếp các sự cố tràn dầu xảy ra,sống ngòi đục ngầu vì rác thải, nước sinh hoạt, nước từ các nhà máy, xí nghiệp thải ra vô tổ chức. Đất xói mòn cằn khô vì nhiễm độc nặng nề từ hàng tấn hóa chất. Bầu khí quyển dày đặc khói bụi từ các nhà máy, các phương tiện đi lại xuất hiện ngày càng nhiều. Qúa tải. Ngột ngạt. Môi trường đang cất tiếng kêu cứu, sao chúng ta còn mãi thờ ơ? Tiếng gọi ấy là lý do hôm nay chúng ta có mặt ở đây, để bàn nhiều hơn, nói sâu hơn về những gì ta đã, đang và sẽ cần làm cho ngôi nhà chung của mình. Dù chỉ là những hành động giảm dị nhưng các bạn đã góp được phần nào làm nên vẻ xanh –sạch-đẹp cho trường ta và khu phố lân cận.Sau buổi học các bạn trực nhật đã có ý thức ở lại vệ sinh lớp học, lau bảng, quét nhà, chăm sóc cây xanh trước cửa lớp. Đặc biệt đã cùng các lớp khác vệ sinh sân trường, lau và quét dọn sạch sẽ các hành lang lớp học và cầu thang, đổ rác đúng nơi quy định.Chúng ta đã có những buổi chiều phân cong nhau nhặt rác trên vỉa hè ngoài phố, dọn những rãnh cống, tưới nước cho các bồn cây hoa, trồng thêm những cây xanh mới, đạt hiệu quả tốt. Vậy ta cần làm gì để hong trào được lan rộng hơn nữa đến tất cả các lớp trong trường và đến tinh thần bảo vệ môi trường chung của khu phố. Trước hết, mỗi người cần làm việc vệ sinh một cách nhiệt tình, bởi một khi chúng ta làm với tất cả tâm huyết và tình yêu, làm việc đều đặn sẽ tạo ấn tượng, sức hút đến đông đảo mọi người. Một cử chỉ nhỉ vì thế mà có thể lan tỏa thành những hành động lớn.Thứ hai, chúng ta sẽ dành ra một tuần phát động phong trào thi đua thiết kế băng dôn khẩu hiệu trong cả lớp. Các nhóm sẽ lên ý tưởng, thiết kế, bản vẽ của nhóm nào ấn tượng nhất sẽ được chọn thiết kế một cách bài bản treo trong lớp học, trong trường học thậm chí ở cổng trường để cổ vũ, khích lệ mọi người cùng hưởng ứng. Và nếu có điều kiện hơn nữa, ta sẽ tổ chức một chuyến đi thăm vùng ngoại ô vào cuối tuần để tham gia dọn cỏ, dọn mương cùng những người dân ở đó; cùng với đó sẽ quan sát những nhân viên môi trường làm việc để từ đó hiểu được một môi trường xanh sạch đẹp không phải tự nhiên có mà là kết quả của bao mồ hôi và nước mắt. Phong trào chỉ là kế hoạch, ý tưởng xây dựng cho một chiến dịch trong một giai đoạn cụ thể. Điều cần nhất là mọi người hưởng ứng nhiệt tình, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường sau này. Bởi đó không phải chỉ là công việc một sớm một chiều, đó là quá trình đòi hỏi sự bền bỉ. Thế giới mà con người đang sống ngày nay là một “thế giới phẳng”- một thế giới mà công nghệ vô cùng phát triển, một thế giới mà ở đó máy móc hiện đại xuất hiện mọi nơi,… Nhưng chính trong sự hiện đại, văn minh ấy, nhân loại phải đối mặt vói một điều: ô nhiểm môi trường. Vì vậy, ở hầu hết các địa phương đều có những đợt thi đua về việc bảo vệ môi trường. Và hưởng ứng đợt thi đua “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, cho đoàn lớp 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: “Hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp”. Sở dĩ con người cần phải chung tay xây dựng một mái trường xanh, sạch, đẹp vì tại mái trường đó chúng ta đã sinh sống và làm việc. Như một quy luật hàng ngày chúng ta đến trường, được tiếp thu kiến thức hoặc để truyền kiến thức và làm nhiều nhiệm vụ khác. Nhưng điều quan trường hơn là chúng ta không chỉ tiếp thu tri thức mà còn hướng đến lối sống đẹp với nhân cách đáng được trân trọng. Sẽ ra sao nếu như tại nơi ấy không phải là một môi trường lý tưởng? Liệu mỗi chúng ta có thể trưởng thành trong một môi trường ô nhiễm trầm trọng? Vậy nên có lẽ ai cũng mong muốn tìm một môi trường lý tưởng phù hợp với cuộc sống của mình. Có lẽ điều trước nhất là một môi trường xanh, sạch, đẹp vì như thế sẽ sự hứng thú và thoải mái để sinh hoạt. Đó cũng là tiền đề để hướng tới một tương lai, một cuộc sống với những điều tốt đẹp. Trong thực tế ở tại môi trường học đường, nhiều trườn học đã rất quan tâm tới việc tạo một không gian dạy và học thuận lợi cho học snh và giáo viên. Như tôi được biết, hằng tuần, tại nhiều trường học khuyến khích học sinh dọn dẹp vệ sinh trường, lớp. Mỗi năm, nhà trường lại trồng thêm nhiều cây xanh trong khuôn viên sân trường hay ở mỗi lớp học luôn có những cây xanh lại phù hợp với điều kiện của mọi người và thích hợp trong không gian nhỏ của lớp học. Đa số mọi người đều tích cực hưởng ứng tham gia nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người với lối sống vị kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình, coi rằng đó là việc của tập thể, bản thân mình có làm hay không cũng không ảnh hưởng gì nên đã thờ ơ. Thậm chí, có nhiều người còn ngang nhiên phá hủy đi môi trường xanh, sạch, đẹp mà không ít người đã bỏ công sức ra để tạo dựng nên khi bẻ những cành lá, phá hủy những cây xanh, vứt rác bừa bãi ở tại lớp, tại sân trường.
Môi trường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cuộc sống vẹn toàn, hạnh phú, đầy đủ của con người. Là yếu tố ngay xung quanh ta, tham gia trực tiếp vào đời sống của mỗi người, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc,trở thành người bạn của mỗi bước tiến của loan người, sẽ ra sao nếu người bạn ấy bị chính con người chúng ta tàn phá bằng những hành động vô ý thức của mình. Và thực tế cho thấy hiện nay con người đang quay lưng lại với môi trường vì những lợi íc trước mắt, tàn phá chính ngôi nhà chung của mình mà không ý thức được hậu quả nghiêm trọng có thể dẫn đến sau này. Liệu Trái Đất có còn là nơi nâng niu, ấp ủ, ươm mầm cho sự sống hay sẽ trở thành hành tinh chết, một đống tro tàn của khói bụi và chất thải ô nhiễm. Cần lắm những bàn tay góp chung dựng xây một tương lai vì một môi trường Xanh- Sạch- Đẹp! bài viết dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn viết bài tham gia hội thảo với chủ đề: Vì một môi trường xanh-sạch-đẹp. Môi trường ngôi nhà chung của mỗi chúng ta, nơi con người tồn tại, làm việc và phát triển. Nhưng chưa bao giờ vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra cấp thiết như hiện nay do ý thức bảo vệ thiên nhiên của con người ngày càng xuống cấp và đang ở mức đáng báo động. Để nâng cao ý thức của các bạn học sinh về vấn đề này, chi đoàn 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì môi trường xanh, sạch, đẹp. Tại sao chúng ta cần dành mối quan tâm thực sự của mình cho vấn đề môi trường? Môi trường là người bạn lớn, góp mặt trong mọi hoạt động đời sống hàng ngày của con người từ xưa đến nay. Từ thuở vũ trụ còn hỗn mang, cái nhìn ngưỡng vọng và khát khao khám phá, chinh phục thế giới xung quanh đã khai mở cuộc tìm kiếm, sự hòa hợp giữa và mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa con người với con người. Môi trường cho ta đất ở, thức ăn, nước uống, cho ta ý thức về sự tồn tại, tạo điều kiện và bàn đạp cho mỗi bước tiến của con người. Trước khi nói đến phát triển kinh tế,mọi trong những tiềm lực mà người ta quan tâm nhất là gì nếu không phải là môi trường, tài nguyên. Không có môi trường cuộc sống con người cũng giống như một cỗ máy thiếu nhiên liệu, sao có thể vận hành về lâu về dài. Nhật Bản một đất nước văn minh đến vậy, liên tục xảy ra động đất, sóng thần cũng là điều không may vậy. Môi trường bản thân, mà hình ảnh lớn của nó là vũ trụ này đã mất hàng triệu triệu năm để hình thành như một mảnh đất có khả năng ươm mầm, nuôi dưỡng sự sống. Mỗi loan vật, mỗi nguyên liệu, mỗi cảnh quan cho đến nay đều là những món quà kì diệu mà con người nhận được. Có thể nào nghĩ đến quá trình thai nghén nhọc nhằn và dài lâu ấy mà con người ta vẫn nhẫn tâm bằng những hành động vô ý thức của mình, hủy hoại đi cả một quá trình, cắt đứt đi sự sống trăm năm mới thành hình thành sắc. Biển đen ngòm ô nhiễm vì liên tiếp các sự cố tràn dầu xảy ra,sống ngòi đục ngầu vì rác thải, nước sinh hoạt, nước từ các nhà máy, xí nghiệp thải ra vô tổ chức. Đất xói mòn cằn khô vì nhiễm độc nặng nề từ hàng tấn hóa chất. Bầu khí quyển dày đặc khói bụi từ các nhà máy, các phương tiện đi lại xuất hiện ngày càng nhiều. Qúa tải. Ngột ngạt. Môi trường đang cất tiếng kêu cứu, sao chúng ta còn mãi thờ ơ? Tiếng gọi ấy là lý do hôm nay chúng ta có mặt ở đây, để bàn nhiều hơn, nói sâu hơn về những gì ta đã, đang và sẽ cần làm cho ngôi nhà chung của mình. Dù chỉ là những hành động giảm dị nhưng các bạn đã góp được phần nào làm nên vẻ xanh –sạch-đẹp cho trường ta và khu phố lân cận.Sau buổi học các bạn trực nhật đã có ý thức ở lại vệ sinh lớp học, lau bảng, quét nhà, chăm sóc cây xanh trước cửa lớp. Đặc biệt đã cùng các lớp khác vệ sinh sân trường, lau và quét dọn sạch sẽ các hành lang lớp học và cầu thang, đổ rác đúng nơi quy định.Chúng ta đã có những buổi chiều phân cong nhau nhặt rác trên vỉa hè ngoài phố, dọn những rãnh cống, tưới nước cho các bồn cây hoa, trồng thêm những cây xanh mới, đạt hiệu quả tốt. Vậy ta cần làm gì để hong trào được lan rộng hơn nữa đến tất cả các lớp trong trường và đến tinh thần bảo vệ môi trường chung của khu phố. Trước hết, mỗi người cần làm việc vệ sinh một cách nhiệt tình, bởi một khi chúng ta làm với tất cả tâm huyết và tình yêu, làm việc đều đặn sẽ tạo ấn tượng, sức hút đến đông đảo mọi người. Một cử chỉ nhỉ vì thế mà có thể lan tỏa thành những hành động lớn.Thứ hai, chúng ta sẽ dành ra một tuần phát động phong trào thi đua thiết kế băng dôn khẩu hiệu trong cả lớp. Các nhóm sẽ lên ý tưởng, thiết kế, bản vẽ của nhóm nào ấn tượng nhất sẽ được chọn thiết kế một cách bài bản treo trong lớp học, trong trường học thậm chí ở cổng trường để cổ vũ, khích lệ mọi người cùng hưởng ứng. Và nếu có điều kiện hơn nữa, ta sẽ tổ chức một chuyến đi thăm vùng ngoại ô vào cuối tuần để tham gia dọn cỏ, dọn mương cùng những người dân ở đó; cùng với đó sẽ quan sát những nhân viên môi trường làm việc để từ đó hiểu được một môi trường xanh sạch đẹp không phải tự nhiên có mà là kết quả của bao mồ hôi và nước mắt. Phong trào chỉ là kế hoạch, ý tưởng xây dựng cho một chiến dịch trong một giai đoạn cụ thể. Điều cần nhất là mọi người hưởng ứng nhiệt tình, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường sau này. Bởi đó không phải chỉ là công việc một sớm một chiều, đó là quá trình đòi hỏi sự bền bỉ. Thế giới mà con người đang sống ngày nay là một “thế giới phẳng”- một thế giới mà công nghệ vô cùng phát triển, một thế giới mà ở đó máy móc hiện đại xuất hiện mọi nơi,… Nhưng chính trong sự hiện đại, văn minh ấy, nhân loại phải đối mặt vói một điều: ô nhiểm môi trường. Vì vậy, ở hầu hết các địa phương đều có những đợt thi đua về việc bảo vệ môi trường. Và hưởng ứng đợt thi đua “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, cho đoàn lớp 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: “Hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp”. Sở dĩ con người cần phải chung tay xây dựng một mái trường xanh, sạch, đẹp vì tại mái trường đó chúng ta đã sinh sống và làm việc. Như một quy luật hàng ngày chúng ta đến trường, được tiếp thu kiến thức hoặc để truyền kiến thức và làm nhiều nhiệm vụ khác. Nhưng điều quan trường hơn là chúng ta không chỉ tiếp thu tri thức mà còn hướng đến lối sống đẹp với nhân cách đáng được trân trọng. Sẽ ra sao nếu như tại nơi ấy không phải là một môi trường lý tưởng? Liệu mỗi chúng ta có thể trưởng thành trong một môi trường ô nhiễm trầm trọng? Vậy nên có lẽ ai cũng mong muốn tìm một môi trường lý tưởng phù hợp với cuộc sống của mình. Có lẽ điều trước nhất là một môi trường xanh, sạch, đẹp vì như thế sẽ sự hứng thú và thoải mái để sinh hoạt. Đó cũng là tiền đề để hướng tới một tương lai, một cuộc sống với những điều tốt đẹp. Trong thực tế ở tại môi trường học đường, nhiều trườn học đã rất quan tâm tới việc tạo một không gian dạy và học thuận lợi cho học snh và giáo viên. Như tôi được biết, hằng tuần, tại nhiều trường học khuyến khích học sinh dọn dẹp vệ sinh trường, lớp. Mỗi năm, nhà trường lại trồng thêm nhiều cây xanh trong khuôn viên sân trường hay ở mỗi lớp học luôn có những cây xanh lại phù hợp với điều kiện của mọi người và thích hợp trong không gian nhỏ của lớp học. Đa số mọi người đều tích cực hưởng ứng tham gia nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người với lối sống vị kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình, coi rằng đó là việc của tập thể, bản thân mình có làm hay không cũng không ảnh hưởng gì nên đã thờ ơ. Thậm chí, có nhiều người còn ngang nhiên phá hủy đi môi trường xanh, sạch, đẹp mà không ít người đã bỏ công sức ra để tạo dựng nên khi bẻ những cành lá, phá hủy những cây xanh, vứt rác bừa bãi ở tại lớp, tại sân trường.
Môi trường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cuộc sống vẹn toàn, hạnh phú, đầy đủ của con người. Là yếu tố ngay xung quanh ta, tham gia trực tiếp vào đời sống của mỗi người, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc,trở thành người bạn của mỗi bước tiến của loan người, sẽ ra sao nếu người bạn ấy bị chính con người chúng ta tàn phá bằng những hành động vô ý thức của mình. Và thực tế cho thấy hiện nay con người đang quay lưng lại với môi trường vì những lợi íc trước mắt, tàn phá chính ngôi nhà chung của mình mà không ý thức được hậu quả nghiêm trọng có thể dẫn đến sau này. Liệu Trái Đất có còn là nơi nâng niu, ấp ủ, ươm mầm cho sự sống hay sẽ trở thành hành tinh chết, một đống tro tàn của khói bụi và chất thải ô nhiễm. Cần lắm những bàn tay góp chung dựng xây một tương lai vì một môi trường Xanh- Sạch- Đẹp! bài viết dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn viết bài tham gia hội thảo với chủ đề: Vì một môi trường xanh-sạch-đẹp. Môi trường ngôi nhà chung của mỗi chúng ta, nơi con người tồn tại, làm việc và phát triển. Nhưng chưa bao giờ vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra cấp thiết như hiện nay do ý thức bảo vệ thiên nhiên của con người ngày càng xuống cấp và đang ở mức đáng báo động. Để nâng cao ý thức của các bạn học sinh về vấn đề này, chi đoàn 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì môi trường xanh, sạch, đẹp. Tại sao chúng ta cần dành mối quan tâm thực sự của mình cho vấn đề môi trường? Môi trường là người bạn lớn, góp mặt trong mọi hoạt động đời sống hàng ngày của con người từ xưa đến nay. Từ thuở vũ trụ còn hỗn mang, cái nhìn ngưỡng vọng và khát khao khám phá, chinh phục thế giới xung quanh đã khai mở cuộc tìm kiếm, sự hòa hợp giữa và mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa con người với con người. Môi trường cho ta đất ở, thức ăn, nước uống, cho ta ý thức về sự tồn tại, tạo điều kiện và bàn đạp cho mỗi bước tiến của con người. Trước khi nói đến phát triển kinh tế,mọi trong những tiềm lực mà người ta quan tâm nhất là gì nếu không phải là môi trường, tài nguyên. Không có môi trường cuộc sống con người cũng giống như một cỗ máy thiếu nhiên liệu, sao có thể vận hành về lâu về dài. Nhật Bản một đất nước văn minh đến vậy, liên tục xảy ra động đất, sóng thần cũng là điều không may vậy. Môi trường bản thân, mà hình ảnh lớn của nó là vũ trụ này đã mất hàng triệu triệu năm để hình thành như một mảnh đất có khả năng ươm mầm, nuôi dưỡng sự sống. Mỗi loan vật, mỗi nguyên liệu, mỗi cảnh quan cho đến nay đều là những món quà kì diệu mà con người nhận được. Có thể nào nghĩ đến quá trình thai nghén nhọc nhằn và dài lâu ấy mà con người ta vẫn nhẫn tâm bằng những hành động vô ý thức của mình, hủy hoại đi cả một quá trình, cắt đứt đi sự sống trăm năm mới thành hình thành sắc. Biển đen ngòm ô nhiễm vì liên tiếp các sự cố tràn dầu xảy ra,sống ngòi đục ngầu vì rác thải, nước sinh hoạt, nước từ các nhà máy, xí nghiệp thải ra vô tổ chức. Đất xói mòn cằn khô vì nhiễm độc nặng nề từ hàng tấn hóa chất. Bầu khí quyển dày đặc khói bụi từ các nhà máy, các phương tiện đi lại xuất hiện ngày càng nhiều. Qúa tải. Ngột ngạt. Môi trường đang cất tiếng kêu cứu, sao chúng ta còn mãi thờ ơ? Tiếng gọi ấy là lý do hôm nay chúng ta có mặt ở đây, để bàn nhiều hơn, nói sâu hơn về những gì ta đã, đang và sẽ cần làm cho ngôi nhà chung của mình. Dù chỉ là những hành động giảm dị nhưng các bạn đã góp được phần nào làm nên vẻ xanh –sạch-đẹp cho trường ta và khu phố lân cận.Sau buổi học các bạn trực nhật đã có ý thức ở lại vệ sinh lớp học, lau bảng, quét nhà, chăm sóc cây xanh trước cửa lớp. Đặc biệt đã cùng các lớp khác vệ sinh sân trường, lau và quét dọn sạch sẽ các hành lang lớp học và cầu thang, đổ rác đúng nơi quy định.Chúng ta đã có những buổi chiều phân cong nhau nhặt rác trên vỉa hè ngoài phố, dọn những rãnh cống, tưới nước cho các bồn cây hoa, trồng thêm những cây xanh mới, đạt hiệu quả tốt. Vậy ta cần làm gì để hong trào được lan rộng hơn nữa đến tất cả các lớp trong trường và đến tinh thần bảo vệ môi trường chung của khu phố. Trước hết, mỗi người cần làm việc vệ sinh một cách nhiệt tình, bởi một khi chúng ta làm với tất cả tâm huyết và tình yêu, làm việc đều đặn sẽ tạo ấn tượng, sức hút đến đông đảo mọi người. Một cử chỉ nhỉ vì thế mà có thể lan tỏa thành những hành động lớn.Thứ hai, chúng ta sẽ dành ra một tuần phát động phong trào thi đua thiết kế băng dôn khẩu hiệu trong cả lớp. Các nhóm sẽ lên ý tưởng, thiết kế, bản vẽ của nhóm nào ấn tượng nhất sẽ được chọn thiết kế một cách bài bản treo trong lớp học, trong trường học thậm chí ở cổng trường để cổ vũ, khích lệ mọi người cùng hưởng ứng. Và nếu có điều kiện hơn nữa, ta sẽ tổ chức một chuyến đi thăm vùng ngoại ô vào cuối tuần để tham gia dọn cỏ, dọn mương cùng những người dân ở đó; cùng với đó sẽ quan sát những nhân viên môi trường làm việc để từ đó hiểu được một môi trường xanh sạch đẹp không phải tự nhiên có mà là kết quả của bao mồ hôi và nước mắt. Phong trào chỉ là kế hoạch, ý tưởng xây dựng cho một chiến dịch trong một giai đoạn cụ thể. Điều cần nhất là mọi người hưởng ứng nhiệt tình, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường sau này. Bởi đó không phải chỉ là công việc một sớm một chiều, đó là quá trình đòi hỏi sự bền bỉ. Thế giới mà con người đang sống ngày nay là một “thế giới phẳng”- một thế giới mà công nghệ vô cùng phát triển, một thế giới mà ở đó máy móc hiện đại xuất hiện mọi nơi,… Nhưng chính trong sự hiện đại, văn minh ấy, nhân loại phải đối mặt vói một điều: ô nhiểm môi trường. Vì vậy, ở hầu hết các địa phương đều có những đợt thi đua về việc bảo vệ môi trường. Và hưởng ứng đợt thi đua “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, cho đoàn lớp 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: “Hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp”. Sở dĩ con người cần phải chung tay xây dựng một mái trường xanh, sạch, đẹp vì tại mái trường đó chúng ta đã sinh sống và làm việc. Như một quy luật hàng ngày chúng ta đến trường, được tiếp thu kiến thức hoặc để truyền kiến thức và làm nhiều nhiệm vụ khác. Nhưng điều quan trường hơn là chúng ta không chỉ tiếp thu tri thức mà còn hướng đến lối sống đẹp với nhân cách đáng được trân trọng. Sẽ ra sao nếu như tại nơi ấy không phải là một môi trường lý tưởng? Liệu mỗi chúng ta có thể trưởng thành trong một môi trường ô nhiễm trầm trọng? Vậy nên có lẽ ai cũng mong muốn tìm một môi trường lý tưởng phù hợp với cuộc sống của mình. Có lẽ điều trước nhất là một môi trường xanh, sạch, đẹp vì như thế sẽ sự hứng thú và thoải mái để sinh hoạt. Đó cũng là tiền đề để hướng tới một tương lai, một cuộc sống với những điều tốt đẹp. Trong thực tế ở tại môi trường học đường, nhiều trườn học đã rất quan tâm tới việc tạo một không gian dạy và học thuận lợi cho học snh và giáo viên. Như tôi được biết, hằng tuần, tại nhiều trường học khuyến khích học sinh dọn dẹp vệ sinh trường, lớp. Mỗi năm, nhà trường lại trồng thêm nhiều cây xanh trong khuôn viên sân trường hay ở mỗi lớp học luôn có những cây xanh lại phù hợp với điều kiện của mọi người và thích hợp trong không gian nhỏ của lớp học. Đa số mọi người đều tích cực hưởng ứng tham gia nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người với lối sống vị kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình, coi rằng đó là việc của tập thể, bản thân mình có làm hay không cũng không ảnh hưởng gì nên đã thờ ơ. Thậm chí, có nhiều người còn ngang nhiên phá hủy đi môi trường xanh, sạch, đẹp mà không ít người đã bỏ công sức ra để tạo dựng nên khi bẻ những cành lá, phá hủy những cây xanh, vứt rác bừa bãi ở tại lớp, tại sân trường.
Mỗi người con đất Việt chúng ta có quyền được tự hào về lịch sử của dân tộc mình, bởi đó là những trang vàng mang màu chói lọi. Lịch sử của dân tộc ta được tạo dựng nên từ máu và nước mắt, từ gian khổ và hi sinh. Ngay từ thời vua Hùng, mười tám đời vua thay nhau trấn giữ non sông, giữ cho nước Đại Việt được nguyên vẹn, đó đã là một ơn đức lớn. Bởi vậy mà giờ đây, người ta thường hoài niệm về quá khứ, không phải để thương xót, đau khổ mà là để biết ơn, để hướng về tương lai. Các lễ hội cũng vì thế được tổ chức hàng năm, như một dịp để mỗi người bày tỏ lòng thành kính, được thắp nén nhang hướng về tổ tiên. Lễ hội chính là hình thức văn hóa đặc sắc nhất mà mỗi chúng ta đều có quyền được hướng tới để tự hào. Viết một bài văn giới thiệu về lễ hội, chúng ta cần cho người đọc hiểu rõ đó là lễ hội gì, có lịch sử từ bao giờ, được tổ chức ở đâu? Phần lễ như thế nào và phần hội như thế nào? Có như thế, bài văn của chúng ta mới đầy đủ và đạt yêu cầu. Chúc các bạn thành công! Là một người con đất Việt, có lẽ không ai trong số chúng ta có thể rời bỏ cội nguồn, rời bỏ tổ tiên mình. Chúng ta luôn dành một ngày để nhớ về họ với tấm lòng thành kính nhất. Và nhớ về những vị vua Hùng đã có công dựng nước, chúng ta lại đến với lễ hội đền Hùng nơi Phú Thọ xa xôi. Mỗi năm, cứ vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, cả nước lại nô nức hướng về mảnh đất Phú Thọ – nơi đang thờ cúng các vị vua hùng của dân tộc. Trên mảnh đất Phú Thọ ấy diễn ra lễ hội đền Hùng để nhân dân cả nước trở về thắp nhang tưởng nhớ và cũng là hòa lòng mình vào lòng dân tộc. Tục lệ thờ vua Hùng đã đi từ thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê rồi đến cả Hậu Lê. Các triều đại phong kiến ấy, cũng đã một phần hiểu ra tầm quan trọng của việc thờ cúng các vị tổ tiên. Và đến chúng ta ngày nay, hàng trăm năm trôi qua, nghi thức ấy vẫn không hề thay đổi mà được phát triển rộng rãi hơn. Lễ hội đền Hùng của chúng ta đã được UNESCO công nhận là “kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại”, có lẽ cũng bởi ý nghĩa đặc biệt của nó. Cũng giống như những lễ hội truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lệ hội đền Hùng cũng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ trang trọng uy nghiêm bao nhiêu thì phần hội lại sôi động náo nhiệt bấy nhiêu. Hoạt động chính trong phần hội là lễ diễu hành hay còn gọi là lễ rước kiệu. Có lẽ đây là lúc phần hồn của dân tộc Việt Nam được thể hiện đậm đà nhất. Những chiếc kiệu được dựng lên để rước từ chân núi Nghĩa Linh đến ngôi đền thờ. Đó như một lời vinh danh, cảm tạ các vị vua Hùng đã dựng nên nước non Đại Việt. Những sắc màu xanh, đỏ, vàng bao trùm lên cả lễ rước kiệu, là màu của thành kính, hoài niệm, cũng là màu của hi vọng hướng về tương lai. Từng đoàn người đi dưới chân kiệu, như những đứa con về lại với đất tổ thân yêu. Mùi nhang lan tỏa khắp chốn làm lòng người cũng có lúc phải chừng lại. Trước nơi đây, Việt Nam đã ra đời, con người được khai sinh. Lễ rước kiệu ấy, như lời khẳng định với thế hệ trẻ: dân tộc chúng ta có truyền thống, có những nét văn hóa mà nhiệm vụ của mỗi người là phải bảo tồn và phát huy nó. Tiếng nói của trách nhiệm, của ý thức cũng từ đó mà dâng lên. Phần lễ với những trang nghiêm thành kính qua đi, cả dòng người lại hòa mình vào phần hội. Sẽ không thể thiếu những tiết mục văn nghệ ngoài trời với đủ các loại hình nghệ thuật như diễn kịch, ca trù, cải lương hay múa rối nước. Tất cả đều gợi lại một khí thế hào hùng của cả dân tộc mà chúng ta đã từng gây dựng nên. Bên cạnh đó là những hoạt động vui chơi đậm màu sắc dân gian như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm hay thi hát. Nổi bật nhất có lẽ là những màn đấu cờ và chọi gà. Nó thể hiện được rõ nhất bản sắc của dân tộc Việt, với những gì bình dị và thân thương nhất. Lễ hội đền Hùng rồi cũng sẽ đến lúc khép lại, chỉ cần trong lòng chúng ta vẫn giữ trọn một tấm lòng thành kính, hướng về tổ tiên. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi ngày mồng 10 tháng 3 là ngày “quốc lễ’, bởi tự thân nó phải mang những giá trị nhất định. Đến với vùng đất Phú Thọ ấy, ta mói thấy rằng, thì ra con người Việt Nam vẫn còn giữ được lòng thành kính đến thế, thì ra vẫn còn một dân tộc yêu thương nhau đến như vậy. Hướng về lễ hội đền Hùng là hướng về quá khứ, nhưng cũng là dịp để cả dân tộc đồng lòng trở lại. Trong thời khắc đất nước đã hòa bình, một dân tộc vẫn cần sự đoàn kết để sẵn sàng vượt qua gian khổ nếu cần, sẵn sàng cùng nhau dựng xây đất nước. ý nghĩa to lớn nhất của lễ hội đền Hùng, có lẽ cũng chỉ nằm ỏ điều ấy. Thiết nghĩ, một dân tộc có đủ bản lĩnh để tồn tại hay không, có lẽ cũng một phần nằm ở việc, có giữ gìn được những lễ hội đậm nét truyền thống hay không! Là người con Việt Nam, chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều say mê với những câu chuyện dân gian. Ta thích thú với truyền thuyết Thánh Gióng gắn liền với cuộc chiến đấu chống giặc Ân của nhân dân ta. Sau này, để tưởng nhớ công lao của người anh hùng Thánh Gióng mà người dân đã lập đền thờ. Hội Gióng mỗi năm diễn ra một lần còn là sự tái hiện khí thế của cả một thời đại. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Khôi ngô, tuấn tú nhưng lên 3 mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày cậu chỉ nằm trong thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội hằng năm với tên gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Đó là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm – nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 Âm lịch, và Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (nay thuộc Hà Nội) – nơi Thánh hóa diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng giêng. Hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn: các ông “Hiệu”, hệ thống tướng lĩnh của Ông Gióng: “Phù Giá”,đội quân chính quy; các “Cô Tướng”, tượng trưng các đạo quân xâm lược; Phường “Ải Lao”, trong đó có “Ông Hổ”,đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ”, đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen”,đội dân binh v.v…Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Dước khám đường” là trinh sát giặc; “Rước nước” là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm” là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; “Rước Trận Soi Bia” là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Trong trận này, roi sắt gãy, ông Gióng phải dùng tre đằng ngà,một vũ khí tượng trưng sức mạnh nội lực của dân tộc. Cờ phướn màu đỏ mà trên đó viết chữ “Lệnh” tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luỵện quân cùng phương pháp tác chiến để giành thắng lợi. Đó là “Quân lệnh phải nghiêm minh” “Binh pháp phải mưu lược sáng tạo” (Múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Phù giá ngoại (đội hình có tới 120 người) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất, vai đeo một túi “bán nguyệt” có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho Trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của ác ông “Xướng” và “Xuất”, tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường. Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Còn các màn rước lễ “Kén tướng”, “Kén Phù Giá”, và màn diễn “Săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân”, có thể suy ngẫm về quan điểm thảm mỹ và đạo lý ứng xử truyền thống v.v … Lễ hội Gióng Phù Đổng cũng có nhiều màn hát chèo để mừng thắng trận.
Mỗi người con đất Việt chúng ta có quyền được tự hào về lịch sử của dân tộc mình, bởi đó là những trang vàng mang màu chói lọi. Lịch sử của dân tộc ta được tạo dựng nên từ máu và nước mắt, từ gian khổ và hi sinh. Ngay từ thời vua Hùng, mười tám đời vua thay nhau trấn giữ non sông, giữ cho nước Đại Việt được nguyên vẹn, đó đã là một ơn đức lớn. Bởi vậy mà giờ đây, người ta thường hoài niệm về quá khứ, không phải để thương xót, đau khổ mà là để biết ơn, để hướng về tương lai. Các lễ hội cũng vì thế được tổ chức hàng năm, như một dịp để mỗi người bày tỏ lòng thành kính, được thắp nén nhang hướng về tổ tiên. Lễ hội chính là hình thức văn hóa đặc sắc nhất mà mỗi chúng ta đều có quyền được hướng tới để tự hào. Viết một bài văn giới thiệu về lễ hội, chúng ta cần cho người đọc hiểu rõ đó là lễ hội gì, có lịch sử từ bao giờ, được tổ chức ở đâu? Phần lễ như thế nào và phần hội như thế nào? Có như thế, bài văn của chúng ta mới đầy đủ và đạt yêu cầu. Chúc các bạn thành công! Là một người con đất Việt, có lẽ không ai trong số chúng ta có thể rời bỏ cội nguồn, rời bỏ tổ tiên mình. Chúng ta luôn dành một ngày để nhớ về họ với tấm lòng thành kính nhất. Và nhớ về những vị vua Hùng đã có công dựng nước, chúng ta lại đến với lễ hội đền Hùng nơi Phú Thọ xa xôi. Mỗi năm, cứ vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, cả nước lại nô nức hướng về mảnh đất Phú Thọ – nơi đang thờ cúng các vị vua hùng của dân tộc. Trên mảnh đất Phú Thọ ấy diễn ra lễ hội đền Hùng để nhân dân cả nước trở về thắp nhang tưởng nhớ và cũng là hòa lòng mình vào lòng dân tộc. Tục lệ thờ vua Hùng đã đi từ thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê rồi đến cả Hậu Lê. Các triều đại phong kiến ấy, cũng đã một phần hiểu ra tầm quan trọng của việc thờ cúng các vị tổ tiên. Và đến chúng ta ngày nay, hàng trăm năm trôi qua, nghi thức ấy vẫn không hề thay đổi mà được phát triển rộng rãi hơn. Lễ hội đền Hùng của chúng ta đã được UNESCO công nhận là “kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại”, có lẽ cũng bởi ý nghĩa đặc biệt của nó. Cũng giống như những lễ hội truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lệ hội đền Hùng cũng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ trang trọng uy nghiêm bao nhiêu thì phần hội lại sôi động náo nhiệt bấy nhiêu. Hoạt động chính trong phần hội là lễ diễu hành hay còn gọi là lễ rước kiệu. Có lẽ đây là lúc phần hồn của dân tộc Việt Nam được thể hiện đậm đà nhất. Những chiếc kiệu được dựng lên để rước từ chân núi Nghĩa Linh đến ngôi đền thờ. Đó như một lời vinh danh, cảm tạ các vị vua Hùng đã dựng nên nước non Đại Việt. Những sắc màu xanh, đỏ, vàng bao trùm lên cả lễ rước kiệu, là màu của thành kính, hoài niệm, cũng là màu của hi vọng hướng về tương lai. Từng đoàn người đi dưới chân kiệu, như những đứa con về lại với đất tổ thân yêu. Mùi nhang lan tỏa khắp chốn làm lòng người cũng có lúc phải chừng lại. Trước nơi đây, Việt Nam đã ra đời, con người được khai sinh. Lễ rước kiệu ấy, như lời khẳng định với thế hệ trẻ: dân tộc chúng ta có truyền thống, có những nét văn hóa mà nhiệm vụ của mỗi người là phải bảo tồn và phát huy nó. Tiếng nói của trách nhiệm, của ý thức cũng từ đó mà dâng lên. Phần lễ với những trang nghiêm thành kính qua đi, cả dòng người lại hòa mình vào phần hội. Sẽ không thể thiếu những tiết mục văn nghệ ngoài trời với đủ các loại hình nghệ thuật như diễn kịch, ca trù, cải lương hay múa rối nước. Tất cả đều gợi lại một khí thế hào hùng của cả dân tộc mà chúng ta đã từng gây dựng nên. Bên cạnh đó là những hoạt động vui chơi đậm màu sắc dân gian như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm hay thi hát. Nổi bật nhất có lẽ là những màn đấu cờ và chọi gà. Nó thể hiện được rõ nhất bản sắc của dân tộc Việt, với những gì bình dị và thân thương nhất. Lễ hội đền Hùng rồi cũng sẽ đến lúc khép lại, chỉ cần trong lòng chúng ta vẫn giữ trọn một tấm lòng thành kính, hướng về tổ tiên. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi ngày mồng 10 tháng 3 là ngày “quốc lễ’, bởi tự thân nó phải mang những giá trị nhất định. Đến với vùng đất Phú Thọ ấy, ta mói thấy rằng, thì ra con người Việt Nam vẫn còn giữ được lòng thành kính đến thế, thì ra vẫn còn một dân tộc yêu thương nhau đến như vậy. Hướng về lễ hội đền Hùng là hướng về quá khứ, nhưng cũng là dịp để cả dân tộc đồng lòng trở lại. Trong thời khắc đất nước đã hòa bình, một dân tộc vẫn cần sự đoàn kết để sẵn sàng vượt qua gian khổ nếu cần, sẵn sàng cùng nhau dựng xây đất nước. ý nghĩa to lớn nhất của lễ hội đền Hùng, có lẽ cũng chỉ nằm ỏ điều ấy. Thiết nghĩ, một dân tộc có đủ bản lĩnh để tồn tại hay không, có lẽ cũng một phần nằm ở việc, có giữ gìn được những lễ hội đậm nét truyền thống hay không! Là người con Việt Nam, chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều say mê với những câu chuyện dân gian. Ta thích thú với truyền thuyết Thánh Gióng gắn liền với cuộc chiến đấu chống giặc Ân của nhân dân ta. Sau này, để tưởng nhớ công lao của người anh hùng Thánh Gióng mà người dân đã lập đền thờ. Hội Gióng mỗi năm diễn ra một lần còn là sự tái hiện khí thế của cả một thời đại. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Khôi ngô, tuấn tú nhưng lên 3 mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày cậu chỉ nằm trong thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội hằng năm với tên gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Đó là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm – nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 Âm lịch, và Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (nay thuộc Hà Nội) – nơi Thánh hóa diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng giêng. Hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn: các ông “Hiệu”, hệ thống tướng lĩnh của Ông Gióng: “Phù Giá”,đội quân chính quy; các “Cô Tướng”, tượng trưng các đạo quân xâm lược; Phường “Ải Lao”, trong đó có “Ông Hổ”,đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ”, đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen”,đội dân binh v.v…Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Dước khám đường” là trinh sát giặc; “Rước nước” là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm” là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; “Rước Trận Soi Bia” là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Trong trận này, roi sắt gãy, ông Gióng phải dùng tre đằng ngà,một vũ khí tượng trưng sức mạnh nội lực của dân tộc. Cờ phướn màu đỏ mà trên đó viết chữ “Lệnh” tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luỵện quân cùng phương pháp tác chiến để giành thắng lợi. Đó là “Quân lệnh phải nghiêm minh” “Binh pháp phải mưu lược sáng tạo” (Múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Phù giá ngoại (đội hình có tới 120 người) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất, vai đeo một túi “bán nguyệt” có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho Trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của ác ông “Xướng” và “Xuất”, tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường. Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Còn các màn rước lễ “Kén tướng”, “Kén Phù Giá”, và màn diễn “Săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân”, có thể suy ngẫm về quan điểm thảm mỹ và đạo lý ứng xử truyền thống v.v … Lễ hội Gióng Phù Đổng cũng có nhiều màn hát chèo để mừng thắng trận.
Mỗi người con đất Việt chúng ta có quyền được tự hào về lịch sử của dân tộc mình, bởi đó là những trang vàng mang màu chói lọi. Lịch sử của dân tộc ta được tạo dựng nên từ máu và nước mắt, từ gian khổ và hi sinh. Ngay từ thời vua Hùng, mười tám đời vua thay nhau trấn giữ non sông, giữ cho nước Đại Việt được nguyên vẹn, đó đã là một ơn đức lớn. Bởi vậy mà giờ đây, người ta thường hoài niệm về quá khứ, không phải để thương xót, đau khổ mà là để biết ơn, để hướng về tương lai. Các lễ hội cũng vì thế được tổ chức hàng năm, như một dịp để mỗi người bày tỏ lòng thành kính, được thắp nén nhang hướng về tổ tiên. Lễ hội chính là hình thức văn hóa đặc sắc nhất mà mỗi chúng ta đều có quyền được hướng tới để tự hào. Viết một bài văn giới thiệu về lễ hội, chúng ta cần cho người đọc hiểu rõ đó là lễ hội gì, có lịch sử từ bao giờ, được tổ chức ở đâu? Phần lễ như thế nào và phần hội như thế nào? Có như thế, bài văn của chúng ta mới đầy đủ và đạt yêu cầu. Chúc các bạn thành công! Là một người con đất Việt, có lẽ không ai trong số chúng ta có thể rời bỏ cội nguồn, rời bỏ tổ tiên mình. Chúng ta luôn dành một ngày để nhớ về họ với tấm lòng thành kính nhất. Và nhớ về những vị vua Hùng đã có công dựng nước, chúng ta lại đến với lễ hội đền Hùng nơi Phú Thọ xa xôi. Mỗi năm, cứ vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, cả nước lại nô nức hướng về mảnh đất Phú Thọ – nơi đang thờ cúng các vị vua hùng của dân tộc. Trên mảnh đất Phú Thọ ấy diễn ra lễ hội đền Hùng để nhân dân cả nước trở về thắp nhang tưởng nhớ và cũng là hòa lòng mình vào lòng dân tộc. Tục lệ thờ vua Hùng đã đi từ thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê rồi đến cả Hậu Lê. Các triều đại phong kiến ấy, cũng đã một phần hiểu ra tầm quan trọng của việc thờ cúng các vị tổ tiên. Và đến chúng ta ngày nay, hàng trăm năm trôi qua, nghi thức ấy vẫn không hề thay đổi mà được phát triển rộng rãi hơn. Lễ hội đền Hùng của chúng ta đã được UNESCO công nhận là “kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại”, có lẽ cũng bởi ý nghĩa đặc biệt của nó. Cũng giống như những lễ hội truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lệ hội đền Hùng cũng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ trang trọng uy nghiêm bao nhiêu thì phần hội lại sôi động náo nhiệt bấy nhiêu. Hoạt động chính trong phần hội là lễ diễu hành hay còn gọi là lễ rước kiệu. Có lẽ đây là lúc phần hồn của dân tộc Việt Nam được thể hiện đậm đà nhất. Những chiếc kiệu được dựng lên để rước từ chân núi Nghĩa Linh đến ngôi đền thờ. Đó như một lời vinh danh, cảm tạ các vị vua Hùng đã dựng nên nước non Đại Việt. Những sắc màu xanh, đỏ, vàng bao trùm lên cả lễ rước kiệu, là màu của thành kính, hoài niệm, cũng là màu của hi vọng hướng về tương lai. Từng đoàn người đi dưới chân kiệu, như những đứa con về lại với đất tổ thân yêu. Mùi nhang lan tỏa khắp chốn làm lòng người cũng có lúc phải chừng lại. Trước nơi đây, Việt Nam đã ra đời, con người được khai sinh. Lễ rước kiệu ấy, như lời khẳng định với thế hệ trẻ: dân tộc chúng ta có truyền thống, có những nét văn hóa mà nhiệm vụ của mỗi người là phải bảo tồn và phát huy nó. Tiếng nói của trách nhiệm, của ý thức cũng từ đó mà dâng lên. Phần lễ với những trang nghiêm thành kính qua đi, cả dòng người lại hòa mình vào phần hội. Sẽ không thể thiếu những tiết mục văn nghệ ngoài trời với đủ các loại hình nghệ thuật như diễn kịch, ca trù, cải lương hay múa rối nước. Tất cả đều gợi lại một khí thế hào hùng của cả dân tộc mà chúng ta đã từng gây dựng nên. Bên cạnh đó là những hoạt động vui chơi đậm màu sắc dân gian như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm hay thi hát. Nổi bật nhất có lẽ là những màn đấu cờ và chọi gà. Nó thể hiện được rõ nhất bản sắc của dân tộc Việt, với những gì bình dị và thân thương nhất. Lễ hội đền Hùng rồi cũng sẽ đến lúc khép lại, chỉ cần trong lòng chúng ta vẫn giữ trọn một tấm lòng thành kính, hướng về tổ tiên. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi ngày mồng 10 tháng 3 là ngày “quốc lễ’, bởi tự thân nó phải mang những giá trị nhất định. Đến với vùng đất Phú Thọ ấy, ta mói thấy rằng, thì ra con người Việt Nam vẫn còn giữ được lòng thành kính đến thế, thì ra vẫn còn một dân tộc yêu thương nhau đến như vậy. Hướng về lễ hội đền Hùng là hướng về quá khứ, nhưng cũng là dịp để cả dân tộc đồng lòng trở lại. Trong thời khắc đất nước đã hòa bình, một dân tộc vẫn cần sự đoàn kết để sẵn sàng vượt qua gian khổ nếu cần, sẵn sàng cùng nhau dựng xây đất nước. ý nghĩa to lớn nhất của lễ hội đền Hùng, có lẽ cũng chỉ nằm ỏ điều ấy. Thiết nghĩ, một dân tộc có đủ bản lĩnh để tồn tại hay không, có lẽ cũng một phần nằm ở việc, có giữ gìn được những lễ hội đậm nét truyền thống hay không! Là người con Việt Nam, chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều say mê với những câu chuyện dân gian. Ta thích thú với truyền thuyết Thánh Gióng gắn liền với cuộc chiến đấu chống giặc Ân của nhân dân ta. Sau này, để tưởng nhớ công lao của người anh hùng Thánh Gióng mà người dân đã lập đền thờ. Hội Gióng mỗi năm diễn ra một lần còn là sự tái hiện khí thế của cả một thời đại. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Khôi ngô, tuấn tú nhưng lên 3 mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày cậu chỉ nằm trong thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội hằng năm với tên gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Đó là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm – nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 Âm lịch, và Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (nay thuộc Hà Nội) – nơi Thánh hóa diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng giêng. Hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn: các ông “Hiệu”, hệ thống tướng lĩnh của Ông Gióng: “Phù Giá”,đội quân chính quy; các “Cô Tướng”, tượng trưng các đạo quân xâm lược; Phường “Ải Lao”, trong đó có “Ông Hổ”,đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ”, đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen”,đội dân binh v.v…Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Dước khám đường” là trinh sát giặc; “Rước nước” là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm” là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; “Rước Trận Soi Bia” là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Trong trận này, roi sắt gãy, ông Gióng phải dùng tre đằng ngà,một vũ khí tượng trưng sức mạnh nội lực của dân tộc. Cờ phướn màu đỏ mà trên đó viết chữ “Lệnh” tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luỵện quân cùng phương pháp tác chiến để giành thắng lợi. Đó là “Quân lệnh phải nghiêm minh” “Binh pháp phải mưu lược sáng tạo” (Múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Phù giá ngoại (đội hình có tới 120 người) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất, vai đeo một túi “bán nguyệt” có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho Trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của ác ông “Xướng” và “Xuất”, tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường. Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Còn các màn rước lễ “Kén tướng”, “Kén Phù Giá”, và màn diễn “Săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân”, có thể suy ngẫm về quan điểm thảm mỹ và đạo lý ứng xử truyền thống v.v … Lễ hội Gióng Phù Đổng cũng có nhiều màn hát chèo để mừng thắng trận.
Mỗi người con đất Việt chúng ta có quyền được tự hào về lịch sử của dân tộc mình, bởi đó là những trang vàng mang màu chói lọi. Lịch sử của dân tộc ta được tạo dựng nên từ máu và nước mắt, từ gian khổ và hi sinh. Ngay từ thời vua Hùng, mười tám đời vua thay nhau trấn giữ non sông, giữ cho nước Đại Việt được nguyên vẹn, đó đã là một ơn đức lớn. Bởi vậy mà giờ đây, người ta thường hoài niệm về quá khứ, không phải để thương xót, đau khổ mà là để biết ơn, để hướng về tương lai. Các lễ hội cũng vì thế được tổ chức hàng năm, như một dịp để mỗi người bày tỏ lòng thành kính, được thắp nén nhang hướng về tổ tiên. Lễ hội chính là hình thức văn hóa đặc sắc nhất mà mỗi chúng ta đều có quyền được hướng tới để tự hào. Viết một bài văn giới thiệu về lễ hội, chúng ta cần cho người đọc hiểu rõ đó là lễ hội gì, có lịch sử từ bao giờ, được tổ chức ở đâu? Phần lễ như thế nào và phần hội như thế nào? Có như thế, bài văn của chúng ta mới đầy đủ và đạt yêu cầu. Chúc các bạn thành công! Là một người con đất Việt, có lẽ không ai trong số chúng ta có thể rời bỏ cội nguồn, rời bỏ tổ tiên mình. Chúng ta luôn dành một ngày để nhớ về họ với tấm lòng thành kính nhất. Và nhớ về những vị vua Hùng đã có công dựng nước, chúng ta lại đến với lễ hội đền Hùng nơi Phú Thọ xa xôi. Mỗi năm, cứ vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, cả nước lại nô nức hướng về mảnh đất Phú Thọ – nơi đang thờ cúng các vị vua hùng của dân tộc. Trên mảnh đất Phú Thọ ấy diễn ra lễ hội đền Hùng để nhân dân cả nước trở về thắp nhang tưởng nhớ và cũng là hòa lòng mình vào lòng dân tộc. Tục lệ thờ vua Hùng đã đi từ thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê rồi đến cả Hậu Lê. Các triều đại phong kiến ấy, cũng đã một phần hiểu ra tầm quan trọng của việc thờ cúng các vị tổ tiên. Và đến chúng ta ngày nay, hàng trăm năm trôi qua, nghi thức ấy vẫn không hề thay đổi mà được phát triển rộng rãi hơn. Lễ hội đền Hùng của chúng ta đã được UNESCO công nhận là “kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại”, có lẽ cũng bởi ý nghĩa đặc biệt của nó. Cũng giống như những lễ hội truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lệ hội đền Hùng cũng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ trang trọng uy nghiêm bao nhiêu thì phần hội lại sôi động náo nhiệt bấy nhiêu. Hoạt động chính trong phần hội là lễ diễu hành hay còn gọi là lễ rước kiệu. Có lẽ đây là lúc phần hồn của dân tộc Việt Nam được thể hiện đậm đà nhất. Những chiếc kiệu được dựng lên để rước từ chân núi Nghĩa Linh đến ngôi đền thờ. Đó như một lời vinh danh, cảm tạ các vị vua Hùng đã dựng nên nước non Đại Việt. Những sắc màu xanh, đỏ, vàng bao trùm lên cả lễ rước kiệu, là màu của thành kính, hoài niệm, cũng là màu của hi vọng hướng về tương lai. Từng đoàn người đi dưới chân kiệu, như những đứa con về lại với đất tổ thân yêu. Mùi nhang lan tỏa khắp chốn làm lòng người cũng có lúc phải chừng lại. Trước nơi đây, Việt Nam đã ra đời, con người được khai sinh. Lễ rước kiệu ấy, như lời khẳng định với thế hệ trẻ: dân tộc chúng ta có truyền thống, có những nét văn hóa mà nhiệm vụ của mỗi người là phải bảo tồn và phát huy nó. Tiếng nói của trách nhiệm, của ý thức cũng từ đó mà dâng lên. Phần lễ với những trang nghiêm thành kính qua đi, cả dòng người lại hòa mình vào phần hội. Sẽ không thể thiếu những tiết mục văn nghệ ngoài trời với đủ các loại hình nghệ thuật như diễn kịch, ca trù, cải lương hay múa rối nước. Tất cả đều gợi lại một khí thế hào hùng của cả dân tộc mà chúng ta đã từng gây dựng nên. Bên cạnh đó là những hoạt động vui chơi đậm màu sắc dân gian như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm hay thi hát. Nổi bật nhất có lẽ là những màn đấu cờ và chọi gà. Nó thể hiện được rõ nhất bản sắc của dân tộc Việt, với những gì bình dị và thân thương nhất. Lễ hội đền Hùng rồi cũng sẽ đến lúc khép lại, chỉ cần trong lòng chúng ta vẫn giữ trọn một tấm lòng thành kính, hướng về tổ tiên. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi ngày mồng 10 tháng 3 là ngày “quốc lễ’, bởi tự thân nó phải mang những giá trị nhất định. Đến với vùng đất Phú Thọ ấy, ta mói thấy rằng, thì ra con người Việt Nam vẫn còn giữ được lòng thành kính đến thế, thì ra vẫn còn một dân tộc yêu thương nhau đến như vậy. Hướng về lễ hội đền Hùng là hướng về quá khứ, nhưng cũng là dịp để cả dân tộc đồng lòng trở lại. Trong thời khắc đất nước đã hòa bình, một dân tộc vẫn cần sự đoàn kết để sẵn sàng vượt qua gian khổ nếu cần, sẵn sàng cùng nhau dựng xây đất nước. ý nghĩa to lớn nhất của lễ hội đền Hùng, có lẽ cũng chỉ nằm ỏ điều ấy. Thiết nghĩ, một dân tộc có đủ bản lĩnh để tồn tại hay không, có lẽ cũng một phần nằm ở việc, có giữ gìn được những lễ hội đậm nét truyền thống hay không! Là người con Việt Nam, chắc hẳn tuổi thơ của mỗi người đều say mê với những câu chuyện dân gian. Ta thích thú với truyền thuyết Thánh Gióng gắn liền với cuộc chiến đấu chống giặc Ân của nhân dân ta. Sau này, để tưởng nhớ công lao của người anh hùng Thánh Gióng mà người dân đã lập đền thờ. Hội Gióng mỗi năm diễn ra một lần còn là sự tái hiện khí thế của cả một thời đại. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Khôi ngô, tuấn tú nhưng lên 3 mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày cậu chỉ nằm trong thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội hằng năm với tên gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Đó là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm – nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 Âm lịch, và Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (nay thuộc Hà Nội) – nơi Thánh hóa diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng giêng. Hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn: các ông “Hiệu”, hệ thống tướng lĩnh của Ông Gióng: “Phù Giá”,đội quân chính quy; các “Cô Tướng”, tượng trưng các đạo quân xâm lược; Phường “Ải Lao”, trong đó có “Ông Hổ”,đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ”, đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen”,đội dân binh v.v…Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Dước khám đường” là trinh sát giặc; “Rước nước” là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm” là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; “Rước Trận Soi Bia” là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Trong trận này, roi sắt gãy, ông Gióng phải dùng tre đằng ngà,một vũ khí tượng trưng sức mạnh nội lực của dân tộc. Cờ phướn màu đỏ mà trên đó viết chữ “Lệnh” tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luỵện quân cùng phương pháp tác chiến để giành thắng lợi. Đó là “Quân lệnh phải nghiêm minh” “Binh pháp phải mưu lược sáng tạo” (Múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Phù giá ngoại (đội hình có tới 120 người) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất, vai đeo một túi “bán nguyệt” có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho Trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của ác ông “Xướng” và “Xuất”, tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường. Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Còn các màn rước lễ “Kén tướng”, “Kén Phù Giá”, và màn diễn “Săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân”, có thể suy ngẫm về quan điểm thảm mỹ và đạo lý ứng xử truyền thống v.v … Lễ hội Gióng Phù Đổng cũng có nhiều màn hát chèo để mừng thắng trận.
Raxum Gamzatop- nhà thơ của xứ núi Đaghetxtan đã từng nói đại ý rằng: Lịch sử của một dân tộc không chỉ được ghi lại bằng máu xương của dân tộc ấy mà còn được ghi lại bằng những trang viết. Nhìn vào lịch sử của dân tộc ta, với hơn bốn nghìn năm văn vật, trải qua bao triều đại với bao người đã ngã xuống vì độc lập- tự do cùng những trang viết hào hùng của lớp lớp thế hệ, rõ ràng những điều ấy đã làm nên một đất nước không chỉ có bề dày của lịch sử mà còn là bề dày của những nét đẹp trong tâm hồn người. Trương Hán Siêu sống ở thời Trần- thời đại của hào khí Đông A với những chiến thắng lừng lẫy đánh bại quân Mông Nguyên, ông đã tìm đến Bạch Đằng giang trong sự chiêm nghiệm của một người từng trải để ghi lại niềm tự hào, nỗi hoài cổ cùng những tư tưởng triết lý sâu sắc qua bài “Bạch Đằng giang phú”. Bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về bài phú nổi tiếng ấy. Khi phân tích, các bạn có thể phân tích theo bố cục của bài phú, từ ngữ sử dụng hợp lý, phù hợp với không khí của thời xưa. Chúc các bạn thành công! Đất nước Việt Nam với hơn 4000 năm văn hiến, với truyền thống yêu nước và giữ nước vẻ vang cùng với đó là những địa danh đã ghi dấu các chiến tích lẫy lừng của quân dân nước Nam đánh đuổi giặc ngoại xâm như: sông Lô, Hàm Tử, Chi Lăng…Một trong số đó phải kể đến là Bạch Đằng giang – con sông của lịch sử đã chứng kiến Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, nhà Trần tiêu diệt sạch bóng quân Mông – Nguyên. Như một chứng nhân lịch sử oai hùng sông Bạch Đằng đã trở thành nguồn cảm hứng cho các tác phẩm thi ca, sử sách của văn học dân tộc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu. Theo sử sách ghi lại bài phú này có lẽ được Trương Hán Siêu sáng tác vào đời Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, khi nhà Trần đã bắt đầu có dấu hiệu suy thoái. Đây không chỉ là một tác phẩm nổi tiếng thời Trần mà còn là một trong những bài phú viết bằng chữ Hán hay bậc nhất nước ta thời trung đại. Bài phú được viết theo lối cổ phú ( phú cổ thể), sử dụng lối “ chủ – khách đối đáp”, tuy có vần nhưng câu văn tương đối tự do, không bị gò bó vào niêm luật. Tác phẩm vừa chứa chan lòng tự hào dân tộc, vừa đọng lại một nỗi đau hoài cổ và có tư tưởng triết lý sâu sắc. Bài phú này có thể chia ra làm ba phần. Phần một là giới thiệu về nhân vật “khách” và niềm vui thích được du ngoạn nhất là du ngoạn trên sông Bạch Đằng. Mở đầu bài phú ta cảm nhận được tâm trạng và cảm xúc của “ khách” trước cảnh sắc sông Bạch Đằng: Hai câu đầu là những hình ảnh thiên nhiên gợi không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn, ngữ điệu trang trọng với cách ngắt nhịp “ chừ” chậm rãi chứng tỏ khách là con người phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy. Đặc biệt là sự liệt kê các địa danh: Vũ Huyệt, Cửu Giang,… đây đều là những danh lam thắng cảnh những di tích lịch sử quen thuộc. Từ cách nói có phần ước lệ quen thuộc của văn học trung đại, người đọc nhận ra một đặc điểm khác của nhân vật “khách” đó là tâm hồn nghệ sĩ tự do, ưa phóng khoáng, một bậc tri thức ham du ngoạn, trước là để du chiêm ngưỡng sau là để nâng cao tầm hiểu biết, tầm văn hóa. Dẫu đi nhiều, hiểu nhiều là thế mà khát vọng bốn phương vẫn còn tha thiết, khách muốn học theo Tử Trường nghĩa là muốn mang theo tráng chí với khát vọng hoài bão lớn lao, học theo bậc sử gia nổi tiếng nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân tộc. Nếu như ở đoạn trên cách viết của tác giả thiên về khái quát, ước lệ thì đến đoạn tiếp theo ông đưa người đọc đến với cảnh thực, địa danh có thực cũng là điều hút hồn khách khi đến với sông nước Bạch Đằng: Dòng sông hiện lên với nhiều dáng vẻ, vừa hùng dũng vừa thướt tha, lại vừa có vẻ ảm đạm, hoang vắng “ Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu”. Đứng trước cảnh sông nước hùng vĩ nhiều dáng vẻ, khách mang trong mình một tâm trạng với nhiều sắc thái vui, buồn, tự hào và nhớ tiếc: Âm hưởng của những câu văn đến đây không còn là phơi phới hào khí, tràn đầy tráng chí nữa mà trầm lại, lắng xuống đầy bâng khuâng. Có lẽ trước sông Bạch Đằng một tâm hồn phóng khoáng như khách cũng bồi hồi về quá khứ oanh liệt của cha ông. Qua hình tượng nhân vật “khách” được tác giả thổi hồn trở thành chân dung vô cùng sinh động, ta có thể thấy được cái “tôi” của tác giả – một hồn thơ phóng khoáng, trác biệt, một kẻ sĩ nặng lòng ưu hoài về lịch sử dân tộc. Hình ảnh người khách cuối phần một như sự gợi ý, cách đặt vấn đề để dẫn đến sự xuất hiện của các bô lão ở phần hai. Các bô lão là chủ, là nhân dân địa phương đại diện cho thế hệ đi trước hiện thân của quá khứ. Với lòng nhiệt tình, hăm hở các bô lão đã kể cho “ khách” nghe câu chuyện về những chiến công đã diễn ra trên dòng sông lịch sử với các sự kiện liệt kê, các hình ảnh đối nhau người kể đã làm hiện lên không khí chiến trận và thế giằng co quyết liệt. Việc lựa chọn những hình ảnh, điển tích làm nổi bật sự thất bại của quân thù và cái vẻ vang trong chiến thắng của quân ta như “ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”, “quét sạch Nam bang bốn cõi”. Có thể nhận ra ở đây niềm tự hào sảng khoái của các bô lão, cái điềm tĩnh qua sự chiêm nghiệm của khách. Với nghệ thuật tương phản, các bô lão đã lấy cái vận động, trôi chảy của dòng nước con người, dòng đời đối với nỗi nhục của quân thù, bởi nỗi nhục quân thù nghìn năm không sửa cũng có nghĩa là những chiến thắng của quân ta vĩnh viễn lên ngôi. Sau lời kể, các bô lão có lời bình luận giống như sự tổng kết về nguyên nhân làm nên chiến thắng ấy là có thiên thời, địa lợi nhưng vẫn đề cao yếu tố con người. Đó là một quan điểm tiến bộ, nhân bản. Đến đây lời ca của các bô lão gặp gỡ với khách ban đầu. Đó là nỗi buồn thương vừa nhớ tiếc.
Raxum Gamzatop - a poet from the mountainous region of Daghesttan once said the general idea: The history of a nation is not only recorded by the blood and bones of that nation but also by written pages. Looking at the history of our nation, with more than four thousand years of literature, through many dynasties and many people who have fallen for independence and freedom, along with the heroic writings of generations and generations, it is clear that That has created a country that not only has a rich history but also a rich beauty in the human soul. Truong Han Sieu lived in the Tran Dynasty - the era of Dong A pride with famous victories defeating the Mongol Yuan army. He went to Bach Dang Giang in the contemplation of an experienced person to record his pride. nostalgia and profound philosophical thoughts through the song "Bach Dang Giang Phu". The sample essay below will help you better understand that famous poem. When analyzing, you can analyze according to the layout of the poem, the appropriate words used, and in accordance with the atmosphere of ancient times. Good luck! Vietnam is a country with more than 4,000 years of civilization, with a glorious tradition of patriotism and national defense, along with places that have marked the glorious victories of the people and soldiers of the South in repelling foreign invaders such as: Lo River. , Ham Tu, Chi Lang... One of them must be mentioned is Bach Dang river - the river of history that witnessed Ngo Quyen defeat the Southern Han army, the Tran dynasty completely destroyed the Mongol - Yuan army. As a majestic historical witness, Bach Dang River has become a source of inspiration for poetic works and historical books of national literature. Notable among them is the song "Bach Dang Giang Phu" by Truong Han Sieu. According to historical records, this poem was probably composed by Truong Han Sieu during the reign of Tran Hien Tong and Tran Du Tong, when the Tran dynasty began to show signs of decline. This is not only a famous work of the Tran Dynasty but also one of the best poems written in Chinese characters in our country during the Middle Ages. The poem is written in the ancient style, using the "host - guest response" style. Although it rhymes, the sentences are relatively free, not constrained by rules. The work is filled with national pride, a nostalgic pain and profound philosophical thoughts. This article can be divided into three parts. Part one is an introduction to the "guest" character and the joy of traveling, especially on the Bach Dang River. At the beginning of the article, we feel the mood and emotions of the "guest" before the scenery of Bach Dang River: The first two sentences are natural images that evoke vast space, continuous time, formal intonation with a slow "wait" rhythm, proving that the guest is a liberal person who likes to travel around the mountains and water. Especially the list of places: Vu Huyet, Cuu Giang,... these are all familiar landscapes and historical relics. From the familiar conventional way of speaking in medieval literature, the reader recognizes another characteristic of the "guest" character: the soul of a free, liberal artist, an intellectual who loves to travel, First to admire and admire, then to improve understanding and culture. Even though we have traveled so much and understood so much, our aspirations for the four directions are still fervent. If we want to study under Tu Truong, it means we want to bring with us great ambition and ambition, to study under a famous historian who studies history. national history and culture. If in the above paragraph the author's writing style is more general and conventional, then in the next paragraph he takes the reader to real scenes and real places, which is also what attracts visitors when coming to Bach Dang river: The river appears with many appearances, both majestic and graceful, but also gloomy and desolate. Standing in front of the majestic river scene with many appearances, visitors carry within themselves a mood with many shades of happiness, sadness, pride and regret: The sound of the sentences here is no longer exuberant and full of ambition, but is quieter and filled with sadness. Perhaps in front of the Bach Dang River, a generous soul like a guest also recalls the glorious past of his ancestors. Through the image of the "guest" character brought to life by the author into an extremely vivid portrait, we can see the author's "I" - a generous, unique poetic soul, a scholar with a heavy heart. nostalgic for the nation's history. The image of the guest at the end of part one is like a suggestion, a way of posing the problem leading to the appearance of the elders in part two. The elders are the owners, the local people representing the previous generation, the embodiment of the past. With enthusiasm and eagerness, the elders told the "guests" the story of the victories that took place on the historic river with listed events and contrasting images that the narrator had made appear in the air. battle atmosphere and fierce tension. The selection of images and legends highlights the defeat of the enemy and the glory of our army's victory such as "Six armies, spears and swords shining", "wiping out the four realms of the Southern state". One can recognize here the refreshing pride of the elders and the calmness through the contemplation of the guests. With the art of contrast, the elders took the movement and flow of human water and life to the enemy's humiliation, because the enemy's humiliation, unrepaired for thousands of years, also means the victories of the enemy. Our army will forever ascend the throne. After the story, the elders commented like a summary of the reason for that victory: there was favorable weather and terrain but still emphasized the human factor. That is a progressive, humane perspective. Here the lyrics of the elders meet with the original guests. It is both sadness and regret.
Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du- một trong ba danh nhân văn hóa thế giới ở Việt Nam, người đã để lại cho nền văn học của chúng ta rất nhiều những thành tựu kiệt xuất về văn chương, không thể không nhắc đến Truyện Kiều. Một tác phẩm giống như một công trình vĩ đại, chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Truyện Kiều thể hiện tư tưởng lớn của nhà nhân đạo lỗi lạc Nguyễn Du thông qua hình ảnh cuộc đời Kiều- người con gái tài hoa mà phận bạc. Cuộc đời truân chuyên của Kiều đã được nhà thơ khắc họa qua những cảnh chia ly, đặc biệt trong số đó có thể kể đến cảnh Từ Hải từ biệt Kiều để ra đi lập nghiệp lớn. Nhưng ở đây không có tâm trạng người đi- kẻ ở mà làm nổi bật lên chí khí của người anh hùng Từ Hải có lý tưởng hoài bão với những phẩm chất cao đẹp, phi thường. Bài văn mẫu phân tích đoạn trích “Chí khí anh hùng” dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về điều đó. Khi phân tích các bạn chú ý phân tích những từ ngữ, hình ảnh bộc lộ rõ phẩm chất anh hùng của nhân vật Từ Hải. Chúc các bạn thành công! Ly biệt là một đề tài quen thuộc trở đi trở lại trong kim cổ Đông- Tây, một trong bốn bi kịch của đời người ấy chính là sinh- ly- từ- biệt. Thế nhưng trong đoạn trích “ Chí khí anh hùng” đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa một cách tài tình cuộc chia ly giữa nàng Kiều và Từ Hải mà không hề có tâm trạng của kẻ đi- người ở, đồng thời làm sáng bừng lên hình ảnh Từ Hải – người anh hùng với ý chí hoài bão lớn lao, với sức mạnh tinh thần và khát vọng làm nên sự nghiệp phi thường. Bốn câu thơ đầu tiên của đoạn trích chính là hình ảnh lúc lên đường của Từ Hải: Câu thơ đầu tiên giới thiệu hoàn cảnh trước lúc ra đi của Từ Hải “ Nửa năm hương lửa đương nồng”. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng hình ảnh ẩn dụ “ hương lửa” kết hợp với thời gian “ nửa năm” là khoảng thời gian không dài gợi nên sự ấm áp của tình yêu đôi lứa đang ở lúc mặn nồng, tình cảm nhất. Nguyễn Du không đặt không gian ra đi của Từ Hải trong hoàn cảnh binh lửa mà ông lại đặt trong không gian gia đình, dụng ý này của ông càng thể hiện sự phi thường của nhân vật. Bởi lẽ sự hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu vừa là động lực lại vừa có thể là sự bào mòn ý chí, từ cổ chí kim đã có biết bao vị anh hùng bị đắm chìm bởi mĩ nhân. Trong hoàn cảnh ấy mà Từ Hải vẫn có thể dứt áo ra đi nó thể hiện cái chí khí, cái nghị lực của một bậc nam tử hán. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “ trượng phu” cho Từ Hải như thể khẳng định và ngợi ca cái chí khí lớn lao ở chàng. Người trượng phu trong thơ của đại thi hào Nguyễn Du dù có đang say trong hạnh phúc bên người tình nhưng chỉ cần nghĩ đến sự nghiệp lớn là có thể dứt khoát xoay bỏ. Từ “ thoắt” gợi tả hành động mạnh mẽ, kiên quyết, sự thức dậy mau lẹ bản chất anh hùng bên trong Từ Hải, đồng thời nó cũng tượng trưng cho dấu ngắt của bản tình ca và mở đầu ra một bản hùng ca. Những hình ảnh mang tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “ trời bể mênh mang” tượng trưng cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp, tạo nên hình ảnh một Từ Hải với tầm vóc phi thường, khí thế hiên ngang. Có thể nói tình yêu hay bất cứ thứ gì cũng không đủ sức ngăn cản bước chân chàng. “ Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” chính là phong thái ung dung mà lẫm liệt, mênh mang khát vọng của người anh hùng trên con đường gây dựng sự nghiệp, khẳng định mình bằng đường gươm mũi ngựa, bằng sự xông pha nơi chiến trận. Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, Kiều không can ngăn mà đồng ý, nàng bảy tỏ ước nguyện xin đi theo để làm trọn chữ “tòng”: Cặp câu lục bát diễn tả lời nói thấu lý đạt tình của Kiều: về lý, lấy đạo tam tòng để thuyết phục Từ Hải vì “ xuất giá tòng phu” đi theo chồng là trách nhiệm của người phụ nữ, về tình: đã là vợ chồng thì phải gắn bó cùng nhau, đi để tiếp sức, sẻ chia, gánh vác cùng chồng. Qua lời nói của Kiều chúng ta càng cảm nhận được tình vợ chồng keo sớn, gắn bó như tri kỉ. Trước sự một lòng xin đi ấy Từ Hải đã khuyên bảo nàng bằng tấm lòng của một người tri kỉ, đã hiểu rõ lòng nhau rồi thì không nên câu nệ theo thói quen của người thường. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao Từ Hải đã hứa hẹn với Kiều về một tương lai tươi sáng, một sự nghiệp lẫy lừng với quân đội hùng mạnh, đó là lúc “ rõ mặt phi thường”, cái thành công ấy chính là sính lễ để chàng rước người tri kỉ. Lúc có được công danh sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải sẽ quay về rửa sạch vết nhơ, đem lại danh phận cho Kiều: Sau lời hứa ấy là lời can ngăn Kiều khi nhắc đến thực tế gian nan những ngày đầu lập nghiệp, sâu thẳm bên trong đó là sự lo lắng, là tình yêu thương không muốn Kiều đi theo phải chịu khổ cực, nay đây mai đó “ bốn bể không nhà”. Hai câu kết của đoạn trích với thái độ dứt khoát và hình ảnh cánh chim kì vĩ cưỡi gió bay vút lên trên cùng gió mây:
Referring to the great national poet Nguyen Du - one of the three world cultural celebrities in Vietnam, who has left behind many outstanding literary achievements in our literature, it is impossible not to mention Kieu story. A work like a great project, containing a profound humanitarian spirit, promoting human values ​​and denouncing corrupt feudal society. The Story of Kieu expresses the great thoughts of the prominent humanitarian Nguyen Du through the image of Kieu's life - a talented but unfortunate girl. Kieu's arduous life was portrayed by the poet through scenes of separation, especially among them is the scene of Tu Hai saying goodbye to Kieu to go and start a big career. But here there is no mood of people moving or staying, but it highlights the character of the hero Tu Hai, who has ideals and ambitions with noble and extraordinary qualities. The sample essay analyzing the excerpt "Hero's Spirit" below will help you better understand that. When analyzing, pay attention to analyzing the words and images that clearly reveal the heroic qualities of the character Tu Hai. Good luck! Separation is a familiar topic over and over again in ancient East and West, one of the four tragedies of a person's life is birth-separation-farewell. However, in the excerpt "Heroic Spirit", the great poet Nguyen Du skillfully portrayed the separation between Kieu and Tu Hai without the mood of a traveler or a resident, and at the same time brightened the situation. portraying Tu Hai - a hero with great ambition, spiritual strength and the desire to create an extraordinary career. The first four lines of the excerpt are images of Tu Hai's departure: The first verse introduces the situation before Tu Hai's departure: "For half a year, the scent of fire is strong". The poet cleverly used the metaphor of "fire incense" combined with the time "half a year" which is not a long period of time to evoke the warmth of a couple's love at its most passionate and emotional. Nguyen Du did not place the space of Tu Hai's departure in the context of war, but instead placed it in the family space. His intention further demonstrated the character's extraordinary character. Because the sweet happiness of love is both a driving force and a corrosive will, from ancient times to modern times, countless heroes have been captivated by beautiful women. In that situation, Tu Hai was still able to take off his shirt and leave, it showed the character and determination of a man. In a long work, Nguyen Du reserved only one word "man" for Tu Hai as if to affirm and praise his great character. Even though the man in the poetry of the great poet Nguyen Du is drunk with happiness with his lover, he can completely turn his back on him just by thinking about a great career. The word "quickly" describes strong, determined action, the quick awakening of Tu Hai's heroic nature, and at the same time it also symbolizes the break of the love song and the beginning of an epic. Conventional images such as "four-sided heart" and "vast sky" symbolize the wish to establish a reputation and career, creating the image of a Tu Hai with extraordinary stature and heroic spirit. It can be said that love or anything is not enough to stop his footsteps. "The sword on the horse's saddle on a straight path" is the leisurely yet fierce style, filled with aspirations of a hero on the path to building a career, asserting himself with the horse's nose sword, by rushing into places. battle. Faced with Tu Hai's determination to leave, Kieu did not dissuade him but agreed. She expressed her wish to follow to fulfill the word "submission": The pair of six-eight sentences express Kieu's words of understanding and love: in terms of reason, using the principle of three obediences to convince Tu Hai because "going out of marriage" to follow her husband is a woman's responsibility, in terms of love: it is Husband and wife must stick together, go to support, share, and shoulder the burden with their husband. Through Kieu's words, we can feel the love between husband and wife, close to each other like soul mates. In response to her willingness to go, Tu Hai advised her with the heart of a confidant. Since they clearly understood each other's feelings, they should not follow the habits of ordinary people. With determination and great spirit, Tu Hai promised Kieu a bright future, an illustrious career with a powerful army, that was the moment of "extraordinary visibility", that success was a bride price for him to receive his soulmate. When he has a successful career, Tu Hai will return to clean up the stains and bring back Kieu's reputation: After that promise was Kieu's words of encouragement when mentioning the difficult reality of the first days of her career. Deep inside was worry and love, not wanting Kieu to follow her and have to suffer, here and there. "Four oceans without a home". The two ending sentences of the excerpt with a decisive attitude and the image of a majestic bird riding the wind soaring above the wind and clouds:
Nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay đã vô cùng đa dạng và phong phú, thể hiện nét đặc trưng riêng trong bản sắc văn hóa của dân tộc. Góp phần không nhỏ vào bản sắc ấy chính là kho tàng ca dao tục ngữ đã được ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Ca dao chính là nguồn sữa tinh thần thấm đẫm vào tâm hồn trẻ thơ qua những lời ru, câu hát của bà, của mẹ, qua những làn điệu quê hương tha thiết mà ân tình. Gửi gắm vào những bài ca dao ấy là tình yêu quê hương đất nước, yêu gia đình, bày tỏ lòng biết ơn đối với công cha nghĩa mẹ, những bậc sinh thành, là lời than thân trách phận cho cuộc sống đói khổ, cơ cực của người nông dân, người phụ nữ trong xã hội phong kiến,…Một trong những chủ đề cũng thường xuyên được nhắc đến trong ca dao ấy chính là tình cảm vợ chồng nghĩa nặng tình sâu, keo sơn gắn bó tự bao đời. Tiêu biểu trong số đó có bài “ Muối ba năm”. Bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn có thể tham khảo và hiểu rõ hơn về nội dung bài ca dao này. Chúc các bạn thành công! Nghĩa tình vợ chồng thủy chung sắt son, keo sơn gắn bó từ lâu đã trở thành một đề tài phổ biến trong nền văn học nước nhà. Từ xa xưa tình cảm này cũng đã được ông cha ta nhắc đến trong những bài ca dao thiết tha. Tiêu biểu trong số đó là bài “ Muối ba năm”: Mở đầu bài ca dao đã sử dụng những hình ảnh chân thực, mộc mạc, gần gũi với người nông dân Việt Nam ấy là hình ảnh “muối” và “gừng”. Đây là hai gia vị thường dùng và rất dễ thấy trong những bữa cơ bình dân, đặc biệt chúng còn được biết đến là những vị thuốc hữu dụng để chữa bệnh trong lúc ốm đau. Tác giả dân gian đã khéo léo đưa những hình ảnh đơn sơ mà tinh tế vào để tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng đậm đà mà sâu nặng. Có thể nói trong hai câu đầu bài ca dao đã nhấn mạnh bản chất khó thay đổi bởi thời gian của “muối” và “ gừng”. Những cụm từ chỉ thời gian như “ba năm”, “ chín tháng” không đơn thuần chỉ là những con số cụ thể mà còn có hàm ý chỉ khoảng thời gian dài lâu. Muối chính là sự kết tinh của nước biển đọng lại, màu trắng, hạt nhỏ và có vị mặn. Cái dư vị mặn mòi của muối đã được người xưa nhấn mạnh trong cụm từ “ muối ba năm”, trải qua biết bao nhiêu năm tháng hạt muối vẫn luôn mặn mà cũng giống như tình nghĩa vợ chồng dù thời gian càng trôi qua vẫn luôn đậm đà, gắn bó, không hề đổi thay. Gừng là loại cây thường được trồng trong vườn, ngoài đồng với vị cay nồng và thơm. Độ cay của gừng trải qua chín tháng được ngầm so sánh với mức độ thắm thiết của tình cảm vợ chồng, dù trong gian nan, vất vả của cuộc đời thì tình cảm ấy càng thêm sâu nặng, keo sơn. Việc khéo léo sử dụng cặp câu thơ bảy chứ đối xứng, nhịp thơ cân đối nhịp nhàng kết hợp với điệp từ “ muối” và “gừng” lặp đi lặp lại hai lần ở mỗi câu có tác dụng khắc sâu ý niệm về sự bền lâu.Muốn mặn và gừng cay chính là những hình ảnh tượng trưng ý nghĩa nhất cho tình cảm vợ chồng tuy trải qua biết bao khổ cực, sóng gió vẫn luôn keo sơn, khăng khít với nhau. Hai hình ảnh này cũng đã đi vào rất nhiều bài ca dao khi nói đến tình nghĩa của con người: Câu thứ ba của bài ca dao là một câu thơ sáu chữ với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng đan xen giữa các cụm từ như “ đôi ta”, “nghĩa nặng tình dày” thể hiện sự khăng khít, gắn bó, hòa hợp tuy hai mà như một của đôi vợ chồng. Đặc biệt cụm từ “ nghĩa nặng tình dày” giống như một lời khẳng định rằng tình cảm vợ chồng vững bền như một hòn đá tảng, không gì có thể thay đổi, di chuyển được. “Nghĩa” là nghĩa vụ, trách nhiệm, “tình” là tình cảm, nghĩa càng dày thì tình càng nặng, không bao giờ nhạt phai.
Vietnamese literature from past to present has been extremely diverse and rich, expressing unique characteristics of the nation's cultural identity. Contributing significantly to that identity is the treasure trove of folk songs and proverbs that were born very early and have been passed down to this day. Folk songs are the source of spiritual milk that permeates children's souls through the lullabies and songs of their grandmothers and mothers, and through the earnest and loving melodies of their homeland. Conveyed in these folk songs is love for one's homeland, love for one's family, expression of gratitude to one's parents and parents, and a lament for one's fate for a life of poverty and hardship. The polarity of farmers, women in feudal society, etc. One of the topics that is often mentioned in folk songs is the deep, deep love between husband and wife, which has been attached for many generations. Typical among them is the song "Salt for three years". The sample essay below will help you refer to and better understand the content of this folk song. Good luck! The love between husband and wife, being faithful and loyal, has long become a popular topic in the country's literature. Since ancient times, this sentiment has also been mentioned by our ancestors in passionate folk songs. Typical among them is the song "Salt for three years": At the beginning of the folk song, images of "salt" and "ginger" are used that are realistic, rustic, and close to Vietnamese farmers. These are two commonly used spices and are easily seen in popular meals. In particular, they are also known to be useful medicines to treat during illness. The folk author cleverly included simple yet delicate images to symbolize the rich and deep love between husband and wife. It can be said that the first two lines of the folk song emphasize the difficult-to-change nature of "salt" and "ginger". Phrases indicating time such as "three years" and "nine months" are not simply specific numbers but also imply a long period of time. Salt is the crystallization of condensed sea water, white, small particles and salty taste. The salty aftertaste of salt was emphasized by the ancients in the phrase "three-year salt", after so many years, a grain of salt is still always salty, just like the love between husband and wife even as time passes. rich, attached, never changing. Ginger is a plant often grown in gardens and fields with a spicy and aromatic taste. The spiciness of ginger over nine months is implicitly compared to the intensity of a husband and wife's love, even in the hardships and hardships of life, that love becomes even deeper and stronger. The skillful use of a pair of symmetrical seven-line verses, a rhythmically balanced poetic rhythm combined with the refrains "salt" and "ginger" repeated twice in each verse has the effect of deepening the idea of ​​durability. Salty salt and spicy ginger are the most meaningful symbolic images of the love between a husband and wife who, despite experiencing many hardships and ups and downs, are always strong and close to each other. These two images have also entered many folk songs when talking about human relationships: The third verse of the folk song is a six-word verse with a sweet, deep tone interspersed between phrases such as "the two of us", "deep meaning, thick love" expressing closeness, attachment, and harmony. Although they are two, they are like one married couple. In particular, the phrase "strong love" is like an affirmation that the love between husband and wife is as strong as a rock, nothing can change or move it. “Meaning” is obligation, responsibility, “love” is affection, the thicker the meaning, the heavier the love, never fading.
Nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay đã vô cùng phong phú và đa dạng, thể hiện nét đặc trưng riêng trong bản sắc văn hóa của dân tộc. Góp phần không nhỏ vào bản sắc ấy chính là kho tàng ca dao tục ngữ đã được ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Ca dao chính là nguồn sữa tinh thần thấm đẫm vào tâm hồn trẻ thơ qua những lời ru, câu hát của mẹ, của bà, qua những làn điệu quê hương gần gũi, ân tình. Gửi gắm vào những bài ca dao ấy là tình yêu quê hương đất nước, yêu gia đình, cha mẹ, là lời than cho cuộc sống đói khổ cơ cực của người nông dân thời phong kiến…Một hình tượng tiêu biểu cũng thường xuất hiện trong những bài ca dao chính là người phụ nữ – hình ảnh cho những số phận bi đát, đáng thương phải chịu nhiều cay đắng, uất ức trong xã hội cũ. Họ đã cất lên tiếng lòng của mình, than thở thân phận hẩm hiu qua những câu ca dao, một trong số đó là bài “ Thân em như của ấu gai”. Bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về bài ca dao. Chúc các bạn thành công! Người phụ nữ – biểu tượng đặc trưng cho hình ảnh những số phận cơ cực, bi đát, khốn khổ trong xã hội thời kì phong kiến. Họ là những con người có đầy đủ tài sắc đức hạnh nhưng lại luôn bị cuộc đời đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, hẩm hiu. Những nỗi đau đớn, đắng cay cùng cực ấy đã được họ gửi gắm qua những câu ca dao như lời tự than cho thân phận mình hay cũng chính là lời kêu cứu của con người giữa vũng lầy xã hội. Một trong số đó chính là bài ca dao “ Thân em như củ ấu gai”: Người phụ nữ trong bài ca dao này đã tự ví von mình với “ củ ấu gai”. Củ ấu gai là một loại củ thường có nhiều ở đồng sâu, đồng trũng, ao dưới đìa trên, có hai, ba sừng. Vỏ bên ngoài thì đen đủi, sần sùi thô kệch, nhưng ruột bên trong thì lại trắng nõn nà. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo này hình ảnh những người phụ nữ đã được tôn lên. Những người phụ nữ phải cơ cực, dầm mưa dãi nắng ngoài đồng ruộng để mưu sinh cho cuộc sống, để kiếm miếng cơm manh áo cho gia đình nên vẻ ngoài của họ mới lam lũ như vậy. Cái đen ở đây là đen do nắng mưa, do cực nhọc, vất vả nhưng bên trong của họ ấy là một vẻ đẹp thanh cao, một tâm hồn trong sáng thuần khiết, cái đẹp giản dị mà không bao giờ bị mất đi hay phai nhòa theo năm tháng như những thứ hào nhoáng, bóng bẩy ngoài kia. Hai tính từ tương phản “ trắng – đen” dường như càng làm nổi bật lên nét đẹp nội tâm của người phụ nữ và khẳng định giá trị cao quý của họ. Hai câu tiếp theo người phụ nữ lại tiếp tục khẳng định phẩm giá bên trong của mình không phải là đánh giá bằng hình thức bên ngoài, nhìn bằng mắt mà phải bằng tấm lòng và trái tim chân thành mới có thể cảm nhận được: Lời của người phụ nữ đến đây vừa như lời bộc bạch, tâm sự lại như chứa đựng nỗi chua xót, nghẹn ngào cho thân phận của chính mình. Nghĩa đen là lời mời gọi để nếm thử thì mới biết củ ấu gai tuy đen đủi nhưng ăn vào mới biết vị lại rất ngon, rất ngọt. Cũng giống như người phụ nữ, tâm hồn và nhân cách vô cùng thanh cao, thủy chung, son sắt nhưng chế độ xã hội cũ với nhiều hủ tục và bất công đã đẩy họ vào cuộc sống ba chìm bảy nổi, đắng cay trăm bề, như củ ấu kia nằm dưới lớp bùn sâu. Từ “ nếm” có nghĩa là tìm hiểu, còn “ngọt bùi” chính là vẻ đẹp nội tâm, nhân cách tốt đẹp của người phụ nữ xưa. Câu ca dao như một lời mời, một tiếng gọi cứng cỏi mà không kém phần thiết tha ẩn chứa trong đó là nỗi khao khát được yêu thương, trân trọng, được mọi người biết đến vẻ đẹp phẩm giá của mình. Nghệ thuật đối lập giữa “ trắng” và “ đen”, xù xì với “ ngọt bùi” thể hiện tâm hồn người phụ nữ trong sáng, lương thiện xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Ấy vậy mà xã hội xưa đã đẩy họ vào số phận không tự lựa chọn được cuộc sống của mình, khốn khổ cơ cực. Lời tự than và nỗi xót xa của người phụ nữ trong bài ca dao này cũng giống như tâm trạng của bà Hồ Xuân Hương trong bài thơ “ Bánh trôi nước”:
Vietnamese literature from past to present has been extremely rich and diverse, expressing unique characteristics of the nation's cultural identity. Contributing significantly to that identity is the treasure trove of folk songs and proverbs that were born very early and have been passed down to this day. Folk songs are the source of spiritual milk that permeates children's souls through the lullabies and songs of their mothers and grandmothers, through the close and affectionate homeland melodies. Conveyed in these folk songs is love for the homeland, love for family and parents, a lament for the miserable and hungry life of feudal farmers... A typical image also often appears. In folk songs, the woman is the image of the tragic and pitiful fates that had to endure bitterness and resentment in the old society. They voiced their hearts, lamenting their miserable fate through folk songs, one of which is the song "Your body is like a child's thorn". The sample essay below will help you better understand the folk song. Good luck! Woman - a symbol that represents the images of extreme, tragic, and miserable fates in feudal society. They are people with full talent and virtue, but are always pushed into miserable and desolate circumstances by life. They conveyed those extreme pain and bitterness through folk songs as a self-pity for their fate or as a call for help from people in the middle of a social quagmire. One of them is the folk song "My body is like a thorny tuber": The woman in this folk song compares herself to a "thorny water chestnut". Bau gai tuber is a type of tuber that is often found in deep fields, lowlands, and ponds in the upper reaches, with two or three horns. The outer shell is dark and rough, but the inside is pure white. Through this unique comparative art, the images of women have been enhanced. Women have to be miserable, exposed to the rain and sun in the fields to make a living, to earn food and clothes for their families, that's why their appearance is so miserable. The black here is black due to sun, rain, hardship, but inside they are a noble beauty, a pure soul, a simple beauty that is never lost or faded. fading over time like the flashy, shiny things out there. The two contrasting adjectives "white - black" seem to highlight women's inner beauty and affirm their noble value. In the next two sentences, the woman continues to affirm that her inner dignity is not judged by external appearance or seen with the eyes, but must be felt with a sincere heart and mind: The woman's words come here as both a confession and a confession, but also as containing bitterness and choking for her own fate. Literally, it is an invitation to taste it and realize that although the water chestnut root is unlucky, when you eat it, you will know that the taste is very delicious and very sweet. Just like women, their souls and personalities are extremely noble, faithful, and staunch, but the old social regime with many bad customs and injustices has pushed them into a life of ups and downs, full of bitterness. , like that water chestnut lying under a deep layer of mud. The word "taste" means to learn, and "sweet" is the inner beauty and good personality of the ancient woman. The folk song is like an invitation, a tough but no less passionate call, hidden within it is the desire to be loved, respected, and to have everyone know the beauty and dignity of oneself. The art of contrasting "white" and "black", rough and "sweet" shows the pure and honest soul of a woman who deserves to enjoy a happy life. Yet the ancient society pushed them into the fate of not being able to choose their own lives, of misery and destitution. The woman's self-pity and grief in this folk song are similar to the mood of Mrs. Ho Xuan Huong in the poem "Water Floating Cake":
Nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay đã vô cùng phong phú và đa dạng, thể hiện nét đặc trưng riêng trong bản sắc văn hóa của dân tộc. Góp phần không nhỏ vào bản sắc ấy chính là kho tàng ca dao tục ngữ đã được ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Ca dao chính là nguồn sữa tinh thần thấm đẫm vào tâm hồn trẻ thơ qua những lời ru, câu hát của mẹ, của bà, qua những làn điệu quê hương gần gũi, ân tình. Gửi gắm vào những bài ca dao ấy là tình yêu quê hương đất nước, yêu gia đình, cha mẹ, là lời than cho cuộc sống đói khổ cơ cực của người nông dân thời phong kiến…Một hình tượng tiêu biểu cũng thường xuất hiện trong những bài ca dao chính là người phụ nữ – hình ảnh cho những số phận bi đát, đáng thương phải chịu nhiều cay đắng, uất ức trong xã hội cũ. Họ đã cất lên tiếng lòng của mình, than thở thân phận hẩm hiu qua những câu ca dao, một trong số đó là bài “ Thân em như của ấu gai”. Bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về bài ca dao. Chúc các bạn thành công! Người phụ nữ – biểu tượng đặc trưng cho hình ảnh những số phận cơ cực, bi đát, khốn khổ trong xã hội thời kì phong kiến. Họ là những con người có đầy đủ tài sắc đức hạnh nhưng lại luôn bị cuộc đời đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, hẩm hiu. Những nỗi đau đớn, đắng cay cùng cực ấy đã được họ gửi gắm qua những câu ca dao như lời tự than cho thân phận mình hay cũng chính là lời kêu cứu của con người giữa vũng lầy xã hội. Một trong số đó chính là bài ca dao “ Thân em như củ ấu gai”: Người phụ nữ trong bài ca dao này đã tự ví von mình với “ củ ấu gai”. Củ ấu gai là một loại củ thường có nhiều ở đồng sâu, đồng trũng, ao dưới đìa trên, có hai, ba sừng. Vỏ bên ngoài thì đen đủi, sần sùi thô kệch, nhưng ruột bên trong thì lại trắng nõn nà. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo này hình ảnh những người phụ nữ đã được tôn lên. Những người phụ nữ phải cơ cực, dầm mưa dãi nắng ngoài đồng ruộng để mưu sinh cho cuộc sống, để kiếm miếng cơm manh áo cho gia đình nên vẻ ngoài của họ mới lam lũ như vậy. Cái đen ở đây là đen do nắng mưa, do cực nhọc, vất vả nhưng bên trong của họ ấy là một vẻ đẹp thanh cao, một tâm hồn trong sáng thuần khiết, cái đẹp giản dị mà không bao giờ bị mất đi hay phai nhòa theo năm tháng như những thứ hào nhoáng, bóng bẩy ngoài kia. Hai tính từ tương phản “ trắng – đen” dường như càng làm nổi bật lên nét đẹp nội tâm của người phụ nữ và khẳng định giá trị cao quý của họ. Hai câu tiếp theo người phụ nữ lại tiếp tục khẳng định phẩm giá bên trong của mình không phải là đánh giá bằng hình thức bên ngoài, nhìn bằng mắt mà phải bằng tấm lòng và trái tim chân thành mới có thể cảm nhận được: Lời của người phụ nữ đến đây vừa như lời bộc bạch, tâm sự lại như chứa đựng nỗi chua xót, nghẹn ngào cho thân phận của chính mình. Nghĩa đen là lời mời gọi để nếm thử thì mới biết củ ấu gai tuy đen đủi nhưng ăn vào mới biết vị lại rất ngon, rất ngọt. Cũng giống như người phụ nữ, tâm hồn và nhân cách vô cùng thanh cao, thủy chung, son sắt nhưng chế độ xã hội cũ với nhiều hủ tục và bất công đã đẩy họ vào cuộc sống ba chìm bảy nổi, đắng cay trăm bề, như củ ấu kia nằm dưới lớp bùn sâu. Từ “ nếm” có nghĩa là tìm hiểu, còn “ngọt bùi” chính là vẻ đẹp nội tâm, nhân cách tốt đẹp của người phụ nữ xưa. Câu ca dao như một lời mời, một tiếng gọi cứng cỏi mà không kém phần thiết tha ẩn chứa trong đó là nỗi khao khát được yêu thương, trân trọng, được mọi người biết đến vẻ đẹp phẩm giá của mình. Nghệ thuật đối lập giữa “ trắng” và “ đen”, xù xì với “ ngọt bùi” thể hiện tâm hồn người phụ nữ trong sáng, lương thiện xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Ấy vậy mà xã hội xưa đã đẩy họ vào số phận không tự lựa chọn được cuộc sống của mình, khốn khổ cơ cực. Lời tự than và nỗi xót xa của người phụ nữ trong bài ca dao này cũng giống như tâm trạng của bà Hồ Xuân Hương trong bài thơ “ Bánh trôi nước”:
Vietnamese literature from past to present has been extremely rich and diverse, expressing unique characteristics of the nation's cultural identity. Contributing significantly to that identity is the treasure trove of folk songs and proverbs that were born very early and have been passed down to this day. Folk songs are the source of spiritual milk that permeates children's souls through the lullabies and songs of their mothers and grandmothers, through the close and affectionate homeland melodies. Conveyed in these folk songs is love for the homeland, love for family and parents, a lament for the miserable and hungry life of feudal farmers... A typical image also often appears. In folk songs, the woman is the image of the tragic and pitiful fates that had to endure bitterness and resentment in the old society. They voiced their hearts, lamenting their miserable fate through folk songs, one of which is the song "Your body is like a child's thorn". The sample essay below will help you better understand the folk song. Good luck! Woman - a symbol that represents the images of extreme, tragic, and miserable fates in feudal society. They are people with full talent and virtue, but are always pushed into miserable and desolate circumstances by life. They conveyed those extreme pain and bitterness through folk songs as a self-pity for their fate or as a call for help from people in the middle of a social quagmire. One of them is the folk song "My body is like a thorny tuber": The woman in this folk song compares herself to a "thorny water chestnut". Bau gai tuber is a type of tuber that is often found in deep fields, lowlands, and ponds in the upper reaches, with two or three horns. The outer shell is dark and rough, but the inside is pure white. Through this unique comparative art, the images of women have been enhanced. Women have to be miserable, exposed to the rain and sun in the fields to make a living, to earn food and clothes for their families, that's why their appearance is so miserable. The black here is black due to sun, rain, hardship, but inside they are a noble beauty, a pure soul, a simple beauty that is never lost or faded. fading over time like the flashy, shiny things out there. The two contrasting adjectives "white - black" seem to highlight women's inner beauty and affirm their noble value. In the next two sentences, the woman continues to affirm that her inner dignity is not judged by external appearance or seen with the eyes, but must be felt with a sincere heart and mind: The woman's words come here as both a confession and a confession, but also as containing bitterness and choking for her own fate. Literally, it is an invitation to taste it and realize that although the water chestnut root is unlucky, when you eat it, you will know that the taste is very delicious and very sweet. Just like women, their souls and personalities are extremely noble, faithful, and staunch, but the old social regime with many bad customs and injustices has pushed them into a life of ups and downs, full of bitterness. , like that water chestnut lying under a deep layer of mud. The word "taste" means to learn, and "sweet" is the inner beauty and good personality of the ancient woman. The folk song is like an invitation, a tough but no less passionate call, hidden within it is the desire to be loved, respected, and to have everyone know the beauty and dignity of oneself. The art of contrasting "white" and "black", rough and "sweet" shows the pure and honest soul of a woman who deserves to enjoy a happy life. Yet the ancient society pushed them into the fate of not being able to choose their own lives, of misery and destitution. The woman's self-pity and grief in this folk song are similar to the mood of Mrs. Ho Xuan Huong in the poem "Water Floating Cake":
Chúng ta sẽ còn nhắc nhiều về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng như những áng thơ về mùa thu của Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương. Nhưng dù thời gian có trôi chảy đến đâu, ta vẫn còn thấy sừng sững một tượng đài thơ về mùa thu của nền văn học Đường thi. Vâng, sẽ chẳng thể là gì khác nếu không phải là “Thu hứng” của Đỗ Phủ. Đây có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Đỗ Phủ. Muốn cảm nhận được tuyệt tác ấy, chúng ta trước hết phải hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, nêu được kết cấu bố cục và cảm nhận bài thơ theo trình tự đề thực luận kết. Cảm nhận một bài thơ là ta đi từ nội dung câu chữ rồi rút ra ý nghĩa toàn bài và ý tình tác giả. “Thu hứng” hay nhưng cũng không dễ để có thể hiểu sâu hiểu xa, hiểu cho đến tận cùng câu chữ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào vốn hiểu biết của mình về thơ Đường, từ đó mở rộng ra để mà cảm nhận. Hãy dành hết tâm hồn mình để đón nhận áng thơ bất hủ này các bạn nhé. Chúc các bạn thành công! Đại thi hào Nguyễn Du đã từng đúc rút ra quy luật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thật vậy, dù cảnh có tráng lệ đến nhường nào, nhưng cũng vì tâm trạng con người mà nao núng theo. Đỗ Phủ khi xưa, vì mang trong mình nỗi nước nhà mà khiến cho mùa thu sầu như đổ lệ, để rồi nỗi lòng thi nhân khắc lên thành ánh thơ “Thu hứng”. Đó thật sự là một tuyệt tác của đời thơ Đỗ Phủ Kể tên mười nhà thơ Đường xuất sắc nhất, sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua Đỗ Phủ, người từng được mệnh danh là “thánh thơ”. Cuộc đời ông gắn nhiều với những đau khổ bất hạnh, lúc nhỏ thì đói nghèo bệnh tật, khi trưởng thành lại vướng vào cảnh chiến tranh. Chưa bao giờ ông thôi làm thơ, ông gửi trọn lòng mình vào câu chữ. Khi sáng tác bài thơ “Thu hứng”, thi nhân đã trải qua mười một năm lưu lạc nơi xứ người sau loạn An Lộc Sơn. Ông sống cuộc đời lưu lạc ấy ở vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, nơi mà núi non thi nhau hiểm trở, trùng trùng điệp điệp. Trước nơi đây, một hồn thơ Đỗ Phủ lại hướng về quê cũ, trĩu nặng suy tư. Và cũng từ đó, thi nhân mượn mùa thu để kí thác lòng mình. Như bao bài thơ Đường khác, “Thu hứng” cũng được chia làm bốn phần đề thực luận kết. Bốn câu đầu, tác giả vẽ nên bức tranh mùa thu nơi vùng Quý Châu, có núi, có mây, có trời. Bốn câu sau là nỗi niềm của thi nhân khi đứng trước mùa thu, nhưng thực chất là đứng trước lòng mình mà nghĩ về phận lưu lạc. Mỗi phần đều có những đặc sắc về nghệ thuật và nội dung mà chúng ta còn phải khâm phục đến ngày hôm nay. Đứng trước cảnh Quý Châu núi rừng bạt ngàn, tự nhiên lòng thi nhân cũng treo vào rừng vào núi: “Thi trung hữu hoạ”, đối với trong thơ Đỗ Phủ quả không sai. Ta như nhìn được nét tay thi nhân chấm điểm từng nét của cảnh vật. Mùa thu về trên rừng phong, trên sương móc và núi non. Rừng phong có lẽ đã trở thành cổ điển cho mùa thu, khi lá phong chuyển màu đỏ cũng là lúc thu về. Nhưng cái nhìn tinh tế của Đỗ Phủ ở chỗ, ông nhìn được sương móc trên những cành phong rụng dần lá ấy. Lá phong mang màu đỏ sẫm li biệt, lại rụng dần theo ngày tháng, ắt hẳn là nói đến buồn đau, chia li. Nỗi buồn ấy dường như trở thành muôn thuở trong cảm xúc của mùa thu. Và giọt sương thêm vào cũng làm không khí trở nên u ám tiêu điều hơn. Cảnh thu được nhìn từ trên cao mà bao quát, nhưng dường như càng trên cao lại càng thấy xa lạ cô đơn. Ở câu thơ thứ hai, điểm nhìn vẫn treo chênh vênh trên đỉnh núi ấy. Ba chữ “khí tiêu sâm” vang lên làm mọi thứ cũng trở nên tối tăm mù mịt. Bản dịch dùng hai chữ “hiu hắt”, tôi nghĩ có lẽ vẫn chưa làm bật lên được sự u ám đến lạnh người ấy. Không gian đó trùm lên khắp Vu sơn, Vu giáp, làm núi Vu, hẻm Vu lại càng hiểm trở. Cả không gian núi non của vùng đất Ba Thục xưa hiện ra trước mắt tầng tầng lớp lớp. Mây mù che phủ cả núi cả rừng, là mây mù tự nhiên hay lòng thi nhân sầu mà tự khắc sinh mây? Nhà thơ đã nhuốm cả ngòi bút bằng tâm trạng u sầu của mình mà vẽ nên cảnh vật. Hai câu thực tiếp theo, ta vẫn thấy cảnh vật nhuốm màu tâm trạng bi thương của tác giả. Núi non khép lại lại mở ra sông nước bạt ngàn: Thi nhân giờ đây không còn phải ngước mắt lên mà thu trọn cảnh vật vào nữa. Hơi thu toả vào tình sông nước, bi thương mà hùng tráng đến nao lòng. Các tính từ “rợn, thẳm” gợi tả được cái hồn của cảnh vật và cả hồn người. Vì thác ghềnh, sông hẹp nên sóng từ giữa sông cứ thế vọt lên như một cảnh dị thường trong đời. Lòng sông hay lòng người mà sâu thẳm đến vậy? Liệu đây có phải cảm giác rợn ngợp của tác giả khi đứng trước cả sóng nước lòng sông bao la? Con người dường như quá nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Đến câu thơ thứ ba, mây mù lại lan toả khắp chốn: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”. Lúc trước là sóng chạm trời, bây giờ lại là mây tiếp đất, cảnh vật chỉ có thể gọi bằng hai chữ “hùng tráng”. Mây đùn mây dày đặc như tiếp đất, vừa tả thực lại vừa lột tả tâm trạng. Vùng mây ấy che đi cả cửa ải, che lối về chốn cũ của thi nhân. Lòng người giờ đây cũng giăng mắc trong mây, cũng mập mờ khi nhìn về cố hương. Bốn câu thơ đầu đã lột tả được hồn của cảnh vật. Khí thu nơi đây có cái hùng vĩ tráng lệ của thiên nhiên núi rừng, nhưng lại đơn độc, lẻ loi và mang màu u ám. Cả bức tranh của vùng Quý Châu cứ ẩn hiện trong tâm trí người đọc. Tác giả chỉ điểm chứ không tả, nên sức khơi gợi càng lớn hơn bao giờ hết. Đứng trước một cảnh trời thu như vậy, lòng tác giả liệu có thể an yên? Trong thơ cổ, thiên nhiên và con người vốn là thể hợp nhất. Cảnh núi non Quý Châu buồn như vậy, tâm trạng của người ngắm cảnh liệu có thể vui? Như một quy luật tất yêu, bốn câu thơ sau đã vén mở bức tranh tâm trạng thầm kín của thi nhân: Đây có lẽ là hai câu thơ hay nhất trong cả áng thơ cảm hứng mùa thu. Câu thơ vừa có cảnh, lại vừa sinh tình. Không còn là những trùng điệp hùng vĩ của thiên nhiên, tác giả quay về với khóm cúc trước mặt. Dùng cúc để gợi mùa thu, đó không phải là nét mới của Đỗ Phủ. Nhưng trước màu hoa cúc ấy mà tuôn lệ thì có lẽ chỉ có nỗi lòng Đỗ Phủ. Hoa cúc nở nhưng lòng người lại tàn đến xơ xác. Liệu có phải mùa cúc nở cũng là mùa thu nơi cố hương của tác giả, làm người lại nhớ đến những mùa thu xưa? Tức cảnh sinh tình, cúc cũng vì thế mà sinh lệ theo. Cái tài của Đỗ Phủ là dùng được những hình ảnh, chỉ cần nhắc đến là người ta hiểu được tâm trạng mình. Trên dùng cúc, câu thơ dưới tác giả đặt hai chữ “cô chu”. Dùng hình ảnh con thuyền thôi cũng đã gợi sự lưu lạc thương nhớ lắm rồi, chữ “cô” lại làm nó đơn độc lạc lõng đến nhói lòng. Con thuyền ở chở nỗi lòng thương nhớ, chở khát vọng quay về, nhưng dường như trước cả núi non mây mù, nó không tìm được lại phương hướng. Lòng tác giả cũng ngổn ngang bề bộn như con thuyền đơn độc kia. Bức tranh mùa thu kia mới chỉ có tĩnh mà chưa có động, mới có hoạ mà chưa có thang. Hai câu kết, có chút âm thanh vang lên như muốn đem lại sự sống: Bóng chiều giờ đây đã buông xuống nuốt trọn cảnh vật và tâm hồn thi nhân. Còn lại trong cảnh chỉ là tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập vải. Là âm thanh của sự sống nhưng dường như lại nhỏ nhoi quá, không đủ để phá đi cái âm u của cảnh và làm ấm lại lòng người. Trái lại, nó làm thi nhân nhớ đến những người lính nơi biên ải khi loạn nước chưa dẹp xong, chưa thể về bên gia đình. Tiếng đập vải ấy lại càng thêm chua chát. Cái lạnh lẽo của mùa thu đã bao trùm lên tất cả,lên cả tiếng đập vải giữa trời chiều. Âm thanh ấy khép lại bài thơ, để rồi thả vào hồn người đọc những âm vang còn băn khoăn mãi.
Chúng ta sẽ còn nhắc nhiều về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng như những áng thơ về mùa thu của Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương. Nhưng dù thời gian có trôi chảy đến đâu, ta vẫn còn thấy sừng sững một tượng đài thơ về mùa thu của nền văn học Đường thi. Vâng, sẽ chẳng thể là gì khác nếu không phải là “Thu hứng” của Đỗ Phủ. Đây có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Đỗ Phủ. Muốn cảm nhận được tuyệt tác ấy, chúng ta trước hết phải hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, nêu được kết cấu bố cục và cảm nhận bài thơ theo trình tự đề thực luận kết. Cảm nhận một bài thơ là ta đi từ nội dung câu chữ rồi rút ra ý nghĩa toàn bài và ý tình tác giả. “Thu hứng” hay nhưng cũng không dễ để có thể hiểu sâu hiểu xa, hiểu cho đến tận cùng câu chữ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào vốn hiểu biết của mình về thơ Đường, từ đó mở rộng ra để mà cảm nhận. Hãy dành hết tâm hồn mình để đón nhận áng thơ bất hủ này các bạn nhé. Chúc các bạn thành công! Đại thi hào Nguyễn Du đã từng đúc rút ra quy luật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thật vậy, dù cảnh có tráng lệ đến nhường nào, nhưng cũng vì tâm trạng con người mà nao núng theo. Đỗ Phủ khi xưa, vì mang trong mình nỗi nước nhà mà khiến cho mùa thu sầu như đổ lệ, để rồi nỗi lòng thi nhân khắc lên thành ánh thơ “Thu hứng”. Đó thật sự là một tuyệt tác của đời thơ Đỗ Phủ Kể tên mười nhà thơ Đường xuất sắc nhất, sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua Đỗ Phủ, người từng được mệnh danh là “thánh thơ”. Cuộc đời ông gắn nhiều với những đau khổ bất hạnh, lúc nhỏ thì đói nghèo bệnh tật, khi trưởng thành lại vướng vào cảnh chiến tranh. Chưa bao giờ ông thôi làm thơ, ông gửi trọn lòng mình vào câu chữ. Khi sáng tác bài thơ “Thu hứng”, thi nhân đã trải qua mười một năm lưu lạc nơi xứ người sau loạn An Lộc Sơn. Ông sống cuộc đời lưu lạc ấy ở vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, nơi mà núi non thi nhau hiểm trở, trùng trùng điệp điệp. Trước nơi đây, một hồn thơ Đỗ Phủ lại hướng về quê cũ, trĩu nặng suy tư. Và cũng từ đó, thi nhân mượn mùa thu để kí thác lòng mình. Như bao bài thơ Đường khác, “Thu hứng” cũng được chia làm bốn phần đề thực luận kết. Bốn câu đầu, tác giả vẽ nên bức tranh mùa thu nơi vùng Quý Châu, có núi, có mây, có trời. Bốn câu sau là nỗi niềm của thi nhân khi đứng trước mùa thu, nhưng thực chất là đứng trước lòng mình mà nghĩ về phận lưu lạc. Mỗi phần đều có những đặc sắc về nghệ thuật và nội dung mà chúng ta còn phải khâm phục đến ngày hôm nay. Đứng trước cảnh Quý Châu núi rừng bạt ngàn, tự nhiên lòng thi nhân cũng treo vào rừng vào núi: “Thi trung hữu hoạ”, đối với trong thơ Đỗ Phủ quả không sai. Ta như nhìn được nét tay thi nhân chấm điểm từng nét của cảnh vật. Mùa thu về trên rừng phong, trên sương móc và núi non. Rừng phong có lẽ đã trở thành cổ điển cho mùa thu, khi lá phong chuyển màu đỏ cũng là lúc thu về. Nhưng cái nhìn tinh tế của Đỗ Phủ ở chỗ, ông nhìn được sương móc trên những cành phong rụng dần lá ấy. Lá phong mang màu đỏ sẫm li biệt, lại rụng dần theo ngày tháng, ắt hẳn là nói đến buồn đau, chia li. Nỗi buồn ấy dường như trở thành muôn thuở trong cảm xúc của mùa thu. Và giọt sương thêm vào cũng làm không khí trở nên u ám tiêu điều hơn. Cảnh thu được nhìn từ trên cao mà bao quát, nhưng dường như càng trên cao lại càng thấy xa lạ cô đơn. Ở câu thơ thứ hai, điểm nhìn vẫn treo chênh vênh trên đỉnh núi ấy. Ba chữ “khí tiêu sâm” vang lên làm mọi thứ cũng trở nên tối tăm mù mịt. Bản dịch dùng hai chữ “hiu hắt”, tôi nghĩ có lẽ vẫn chưa làm bật lên được sự u ám đến lạnh người ấy. Không gian đó trùm lên khắp Vu sơn, Vu giáp, làm núi Vu, hẻm Vu lại càng hiểm trở. Cả không gian núi non của vùng đất Ba Thục xưa hiện ra trước mắt tầng tầng lớp lớp. Mây mù che phủ cả núi cả rừng, là mây mù tự nhiên hay lòng thi nhân sầu mà tự khắc sinh mây? Nhà thơ đã nhuốm cả ngòi bút bằng tâm trạng u sầu của mình mà vẽ nên cảnh vật. Hai câu thực tiếp theo, ta vẫn thấy cảnh vật nhuốm màu tâm trạng bi thương của tác giả. Núi non khép lại lại mở ra sông nước bạt ngàn: Thi nhân giờ đây không còn phải ngước mắt lên mà thu trọn cảnh vật vào nữa. Hơi thu toả vào tình sông nước, bi thương mà hùng tráng đến nao lòng. Các tính từ “rợn, thẳm” gợi tả được cái hồn của cảnh vật và cả hồn người. Vì thác ghềnh, sông hẹp nên sóng từ giữa sông cứ thế vọt lên như một cảnh dị thường trong đời. Lòng sông hay lòng người mà sâu thẳm đến vậy? Liệu đây có phải cảm giác rợn ngợp của tác giả khi đứng trước cả sóng nước lòng sông bao la? Con người dường như quá nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Đến câu thơ thứ ba, mây mù lại lan toả khắp chốn: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”. Lúc trước là sóng chạm trời, bây giờ lại là mây tiếp đất, cảnh vật chỉ có thể gọi bằng hai chữ “hùng tráng”. Mây đùn mây dày đặc như tiếp đất, vừa tả thực lại vừa lột tả tâm trạng. Vùng mây ấy che đi cả cửa ải, che lối về chốn cũ của thi nhân. Lòng người giờ đây cũng giăng mắc trong mây, cũng mập mờ khi nhìn về cố hương. Bốn câu thơ đầu đã lột tả được hồn của cảnh vật. Khí thu nơi đây có cái hùng vĩ tráng lệ của thiên nhiên núi rừng, nhưng lại đơn độc, lẻ loi và mang màu u ám. Cả bức tranh của vùng Quý Châu cứ ẩn hiện trong tâm trí người đọc. Tác giả chỉ điểm chứ không tả, nên sức khơi gợi càng lớn hơn bao giờ hết. Đứng trước một cảnh trời thu như vậy, lòng tác giả liệu có thể an yên? Trong thơ cổ, thiên nhiên và con người vốn là thể hợp nhất. Cảnh núi non Quý Châu buồn như vậy, tâm trạng của người ngắm cảnh liệu có thể vui? Như một quy luật tất yêu, bốn câu thơ sau đã vén mở bức tranh tâm trạng thầm kín của thi nhân: Đây có lẽ là hai câu thơ hay nhất trong cả áng thơ cảm hứng mùa thu. Câu thơ vừa có cảnh, lại vừa sinh tình. Không còn là những trùng điệp hùng vĩ của thiên nhiên, tác giả quay về với khóm cúc trước mặt. Dùng cúc để gợi mùa thu, đó không phải là nét mới của Đỗ Phủ. Nhưng trước màu hoa cúc ấy mà tuôn lệ thì có lẽ chỉ có nỗi lòng Đỗ Phủ. Hoa cúc nở nhưng lòng người lại tàn đến xơ xác. Liệu có phải mùa cúc nở cũng là mùa thu nơi cố hương của tác giả, làm người lại nhớ đến những mùa thu xưa? Tức cảnh sinh tình, cúc cũng vì thế mà sinh lệ theo. Cái tài của Đỗ Phủ là dùng được những hình ảnh, chỉ cần nhắc đến là người ta hiểu được tâm trạng mình. Trên dùng cúc, câu thơ dưới tác giả đặt hai chữ “cô chu”. Dùng hình ảnh con thuyền thôi cũng đã gợi sự lưu lạc thương nhớ lắm rồi, chữ “cô” lại làm nó đơn độc lạc lõng đến nhói lòng. Con thuyền ở chở nỗi lòng thương nhớ, chở khát vọng quay về, nhưng dường như trước cả núi non mây mù, nó không tìm được lại phương hướng. Lòng tác giả cũng ngổn ngang bề bộn như con thuyền đơn độc kia. Bức tranh mùa thu kia mới chỉ có tĩnh mà chưa có động, mới có hoạ mà chưa có thang. Hai câu kết, có chút âm thanh vang lên như muốn đem lại sự sống: Bóng chiều giờ đây đã buông xuống nuốt trọn cảnh vật và tâm hồn thi nhân. Còn lại trong cảnh chỉ là tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập vải. Là âm thanh của sự sống nhưng dường như lại nhỏ nhoi quá, không đủ để phá đi cái âm u của cảnh và làm ấm lại lòng người. Trái lại, nó làm thi nhân nhớ đến những người lính nơi biên ải khi loạn nước chưa dẹp xong, chưa thể về bên gia đình. Tiếng đập vải ấy lại càng thêm chua chát. Cái lạnh lẽo của mùa thu đã bao trùm lên tất cả,lên cả tiếng đập vải giữa trời chiều. Âm thanh ấy khép lại bài thơ, để rồi thả vào hồn người đọc những âm vang còn băn khoăn mãi.
Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần của con người. Âm nhạc có khả năng chữa lành mọi vết thương tâm hồn, cảm phục cái ác, tạo niềm tin, động lực sống. Đến với âm nhạc, con người như quên hết mọi phiền muộn cuộc sống, để hoà làm một vào từng âm thanh, lời ca. Âm nhạc có nhiều thể loại, luôn luôn thu hút người nghe. Có thể kể đến Rock với âm hưởng sôi động, R&B tươi vui, Ballad nhẹ nhàng, Pop da diết, Country đằm thắm, sâu sắc… Âm nhạc truyền thống của đất nước Việt Nam ta với những giai điệu trầm ấm mà ngân vang, gợi ra trong lòng người tình yêu cuộc đời, tình yêu thiên nhiên, quê hương, xứ sở. Đó là ca trù, ca Huế, quan họ Bắc Ninh, những điệu hát then, hát lượn của người dân miền núi… Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 5 lớp 10 đề 2: Giới thiệu một loại hình ca nhạc(hay sân khấu) mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích của mỗi người có thể chọn cho mình một dòng nhạc yêu thích. Sau đó giới thiệu về nguồn gốc, đặc điểm như giai điệu, cấu trúc, lời ca… Hy vọng với hai bài văn mẫu dưới đây, các bạn có thể hoàn thành bài tập thật tốt. Chúc các bạn may mắn. Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần, tâm hồn của con người. Có lẽ vì thế mà qua thời gian, âm nhạc luôn luôn phát triển và dần dần định hình những thể loại thu hút người nghe. Có người ưa thích những giai điệu sôi động của Rock, R&B tươi trẻ, nhưng có lẽ cũng không ít người say sưa với những tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu buồn mang âm hưởng da diết của Ballad. Có nhiều quan điểm cho rằng ballad đã được thực hiện do một số nghệ sĩ hát rong tạo nên nhưng đại đa số đã được thực hiện bởi người dân châu Âu. Các nhà học giả cho rằng các bản ballad nổi lên ở Tây Âu từ thế kỷ XIII. Nội dung của các bản ballad thường về tình yêu vĩnh cửu, cái chết, danh dự và sự phản bội hay còn gọi được gọi là những bản tình ca cũ. Ballad bắt nguồn từ dòng nhạc country và folk – với giai điệu chậm, thong thả do bắt nguồn từ dòng nhạc country nên lời lẽ không hoa mỹ, nhưng vẫn đủ để tạo nên cảm xúc cho người nghe bởi mang nhiều tâm trạng của tác giả và người hát. Nhìn chung, giai điệu của ballad khá cũ so với hiện tại bởi nó đến từ truyền thống dân gian. Đa phần là nói về tình yêu đơn phương của các cặp đôi. Cũng chính vì giai điệu khá cổ điển nên ballad kết nối mạnh mẽ với các điệu múa ba lê. Những giai điệu múa đã được công bố trong cuốn sách nhỏ như John Playford của The English Dancing Master. Trong mười tám phiên bản của nó, 1651-1728, Playford công bố phát sóng phổ biến nhất trong ngày. Một nhà sưu tập quan trọng của giai điệu ballad là Thomas D’Urfey, một người đàn ông đa tài năng, người đã viết kịch, bài hát, thơ ca, và hài kịch. Ông là một nhà soạn nhạc là tốt, nhưng đã dành nhiều nỗ lực của mình thích ứng và sắp xếp đã được các giai điệu còn tồn tại. Đó là từ các nguồn được in như thế này mà chúng ta có thể tìm thấy những giai điệu âm nhạc trong đó ballad nổi tiếng như “Up All Tails”, “Drive Cold Winter Away”, “Broom, các Bonny Broom, và hơn 1 chục tác phẩm khác. Dù nguồn gốc hay đời sau của những giai điệu ballad như thế nào thì chúng đều có đặc điểm chung nhất định. Đó là xu hướng lặp đi lặp lại và có một logic du dương rất dễ thuộc, thu hút được công chúng yêu nhạc. Ballad thường sử dụng các quy ước. Ví dụ như một câu hỏi và câu trả lời hoặc một mô hình của sự biến đổi và độ phân giải như thế tìm thấy trong âm nhạc của Bach hay Handel. Khi đã quen với các quy ước này thì rất dễ dàng để nhận biết ballad, có nghĩa là giai điệu rất dễ làm theo và dễ dàng tìm hiểu, ghi nhớ. Ngay cả những giai điệu ballad nổi tiếng cũng thế. Đặc điểm dễ thấy nhất là hình thức dòng nhạc bị phân mảnh, nhịp điệu lặp đi lặp lại và sự hấp dẫn có một mẫu số chung thấp nhất. Đây cũng là lý do các giai điệu ballad phổ biến trong văn hóa đại chúng, được hát bởi rất nhiều người với giới tính, lứa tuổi khác nhau. Một bản ballad có cấu trúc tương đối ngắn chia thành từng câu và hát theo một câu chuyện như giai điệu, một số bản ballad mở rộng chỉ có vài dòng, theo từ điển thì một bản ballad là một bài thơ đơn giản dưới dạng thơ kể lại một số câu chuyện phổ biến, nhưng điều này vẫn không hoàn toàn chính xác, khi nhu cầu về cấu trúc stanzain được hoàn thành chỉ trong các bản Ballad quốc gia. Ballad chúng ta có thể hiểu rộng nhất có nghĩa là bất kì bài thơ kể một câu chuyện quan thuộc nào, hoặc một đoạn hát ngắn và không có đệm hoặc khiêu vũ. Yếu tố quan trọng nhất trong một bài hát ballad là lyric. Thông thường lyric được chia thành nhiều verses một cách có vần điệu. Có thể kể đến một số ví dụ như: “Love to be loved by you” của Marc Terenzi và “Not me not I” của Delta Goodrem… Ở thời điểm hiện tại, ballad đã bị pha trộn bởi nhiều thể loại nhạc khác để tạo thành rock ballad, ballad opera, folk ballad, pop ballad… Chính những màu sắc được pha trộn ấy lại tạo cho ballad sức sống riêng, điểm khác biệt riêng mà không bị nhàm chán. Mỗi dân tộc đều có một đặc sản tinh thần riêng, mà nhiều khi nó trở thành bộ mặt, là lời khẳng định cho sự động lập của dân tộc ấy. Người ta thường nói nhiều đến ca trù, hát chèo, quan họ mà quên mất rằng, mỗi ngày lễ hội, múa rồi nước mới là tiết mục được mong chờ nhiều nhất. Hôm nay, tôi muốn nói nhiều hơn về loại hình nghệ thuật đặc sắc này. Múa rối nước ra đời từ thời nhà Lí, đã tồn tại cùng dân tộc chúng ta hơn mười thế kỉ nay. Từ khi hình thành, nó đã trở thành một thú vui tao nhã, không chỉ để những tầng lớp quý tộc thượng lưu, mà chính nhân dân chúng ta cũng có thể thưởng thức nó. Các tiết mục múa rối nước thường xuất hiện trong các hội làng, các dịp kỉ niệm lớn và dần dần trở thành một nét văn hóa phi vật thể của dân tộc. Giờ đây, múa rối cũng có thể được sánh ngang với chèo, tuồng để trở thành bộ môn nghệ thuật có vị trí cao. Múa rối thì xuất hiện khá nhiều nơi trên thế giới, nhưng chỉ có một nền văn minh lúa nước như Việt Nam mới có hình thức múa rối dưới nước. Thời gian chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tồn tại vĩnh cửu của múa rối nước. Đã xuất hiện từ ngàn đời nay nên Việt Nam phát triển vô số những phường múa rối nước. Nhà hát múa rối Trung ương và nhà hát múa rối Thăng Long là nơi lưu giữ được nhiều màn múa rối đặc sắc nhất, để người ta khi muốn có thể tìm về mà thưởng thức. Ngoài ra, chúng ta cũng còn những phường múa rối đang ngày càng phát triển như ở Hải Dương, Đào Thục, Đồng Ngư, làng Ra,…Khi xã hội đang ngày càng trở nên hiện đại, người ta lại mong muốn được trở về với những văn hóa phi vật thể như vậy, để tâm hồn mình được thanh lọc, được trong sáng hơn. Phải tận mắt chứng kiến những màn múa rối nước, chúng ta mới có thể thấy rằng, những nghệ nhân rối nước ấy công phu đến chừng nào. Từ khâu chuẩn bị vật liệu, đạo cụ đã chứa cả sự tỉ mỉ, khó khăn. Những con rối được làm bằng gỗ sung để nổi trên mặt nước, được chạm khắc kì công để ra hình thù nhân vật. Nhân vật trong rối nước thường nhiều màu sắc, bắt mắt và thể hiện được khí chất bên trong. Phần nổi trên mặt nước sẽ để biểu diễn, còn phần chìm bên dưới gắn những dụng cụ để nghệ nhân điều khiển được rối. Điều tạo nên phần hồn của nghệ thuật rối nước chính là sự điều khiển của những nghệ nhân cho quân rối hoạt động. Có hẳn một bộ máy điều khiển, gồm máy sào và máy dây được gắn dưới mặt nước. Lợi dụng sức nước và đôi bàn tay khéo léo, con rối nhờ đó mà chuyển động và nói năng. Bên cạnh con rối, sân khấu của rối nước còn có những rèm che, những cờ, quạt, binh đao để sân khấu trở nên sinh động hơn. Âm thanh trong rối nước cũng được sử dụng một cách khéo léo để tạo không khí cho tác phẩm. Cả một sân khấu ấy, như một làng quê Việt Nam thu nhỏ, để bày ra trước mắt người đọc những sự tình, những uẩn khúc nhiều khi chưa được nói. Rối nước có khi diễn lại những câu chuyện cổ tích, có khi là cảnh sinh hoạt của một làng quê. Chú Tễu sẽ là người dẫn dắt cho câu chuyện được nhịp nhàng uyển chuyển. Bộ môn này thu hút người xem chính bởi sự sinh động của nó. Trẻ con thích rối nước bởi những tạo hình ngộ nghĩnh, người lớn đến với rối nước để hiểu hơn về cuộc sống xung quanh mình. Ca trù, cái lương hay tuồng chèo có thể kén người xem, nhưng rối nước đến với chúng ta một cách bình dị, dân dã như bức tranh quê. Trong vở rối ấy, có khi không chỉ là tiếng cười mà còn có nước mắt, không chỉ ca ngợi điều tốt đẹp mà còn lật tẩy bất công ngang trái. Dẫu sao, nó cũng thuộc về lĩnh vực nghệ thuật, cũng phải phản ánh hiện thực đời sống và cảm hóa con người.
Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần của con người. Âm nhạc có khả năng chữa lành mọi vết thương tâm hồn, cảm phục cái ác, tạo niềm tin, động lực sống. Đến với âm nhạc, con người như quên hết mọi phiền muộn cuộc sống, để hoà làm một vào từng âm thanh, lời ca. Âm nhạc có nhiều thể loại, luôn luôn thu hút người nghe. Có thể kể đến Rock với âm hưởng sôi động, R&B tươi vui, Ballad nhẹ nhàng, Pop da diết, Country đằm thắm, sâu sắc… Âm nhạc truyền thống của đất nước Việt Nam ta với những giai điệu trầm ấm mà ngân vang, gợi ra trong lòng người tình yêu cuộc đời, tình yêu thiên nhiên, quê hương, xứ sở. Đó là ca trù, ca Huế, quan họ Bắc Ninh, những điệu hát then, hát lượn của người dân miền núi… Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 5 lớp 10 đề 2: Giới thiệu một loại hình ca nhạc(hay sân khấu) mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích của mỗi người có thể chọn cho mình một dòng nhạc yêu thích. Sau đó giới thiệu về nguồn gốc, đặc điểm như giai điệu, cấu trúc, lời ca… Hy vọng với hai bài văn mẫu dưới đây, các bạn có thể hoàn thành bài tập thật tốt. Chúc các bạn may mắn. Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần, tâm hồn của con người. Có lẽ vì thế mà qua thời gian, âm nhạc luôn luôn phát triển và dần dần định hình những thể loại thu hút người nghe. Có người ưa thích những giai điệu sôi động của Rock, R&B tươi trẻ, nhưng có lẽ cũng không ít người say sưa với những tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu buồn mang âm hưởng da diết của Ballad. Có nhiều quan điểm cho rằng ballad đã được thực hiện do một số nghệ sĩ hát rong tạo nên nhưng đại đa số đã được thực hiện bởi người dân châu Âu. Các nhà học giả cho rằng các bản ballad nổi lên ở Tây Âu từ thế kỷ XIII. Nội dung của các bản ballad thường về tình yêu vĩnh cửu, cái chết, danh dự và sự phản bội hay còn gọi được gọi là những bản tình ca cũ. Ballad bắt nguồn từ dòng nhạc country và folk – với giai điệu chậm, thong thả do bắt nguồn từ dòng nhạc country nên lời lẽ không hoa mỹ, nhưng vẫn đủ để tạo nên cảm xúc cho người nghe bởi mang nhiều tâm trạng của tác giả và người hát. Nhìn chung, giai điệu của ballad khá cũ so với hiện tại bởi nó đến từ truyền thống dân gian. Đa phần là nói về tình yêu đơn phương của các cặp đôi. Cũng chính vì giai điệu khá cổ điển nên ballad kết nối mạnh mẽ với các điệu múa ba lê. Những giai điệu múa đã được công bố trong cuốn sách nhỏ như John Playford của The English Dancing Master. Trong mười tám phiên bản của nó, 1651-1728, Playford công bố phát sóng phổ biến nhất trong ngày. Một nhà sưu tập quan trọng của giai điệu ballad là Thomas D’Urfey, một người đàn ông đa tài năng, người đã viết kịch, bài hát, thơ ca, và hài kịch. Ông là một nhà soạn nhạc là tốt, nhưng đã dành nhiều nỗ lực của mình thích ứng và sắp xếp đã được các giai điệu còn tồn tại. Đó là từ các nguồn được in như thế này mà chúng ta có thể tìm thấy những giai điệu âm nhạc trong đó ballad nổi tiếng như “Up All Tails”, “Drive Cold Winter Away”, “Broom, các Bonny Broom, và hơn 1 chục tác phẩm khác. Dù nguồn gốc hay đời sau của những giai điệu ballad như thế nào thì chúng đều có đặc điểm chung nhất định. Đó là xu hướng lặp đi lặp lại và có một logic du dương rất dễ thuộc, thu hút được công chúng yêu nhạc. Ballad thường sử dụng các quy ước. Ví dụ như một câu hỏi và câu trả lời hoặc một mô hình của sự biến đổi và độ phân giải như thế tìm thấy trong âm nhạc của Bach hay Handel. Khi đã quen với các quy ước này thì rất dễ dàng để nhận biết ballad, có nghĩa là giai điệu rất dễ làm theo và dễ dàng tìm hiểu, ghi nhớ. Ngay cả những giai điệu ballad nổi tiếng cũng thế. Đặc điểm dễ thấy nhất là hình thức dòng nhạc bị phân mảnh, nhịp điệu lặp đi lặp lại và sự hấp dẫn có một mẫu số chung thấp nhất. Đây cũng là lý do các giai điệu ballad phổ biến trong văn hóa đại chúng, được hát bởi rất nhiều người với giới tính, lứa tuổi khác nhau. Một bản ballad có cấu trúc tương đối ngắn chia thành từng câu và hát theo một câu chuyện như giai điệu, một số bản ballad mở rộng chỉ có vài dòng, theo từ điển thì một bản ballad là một bài thơ đơn giản dưới dạng thơ kể lại một số câu chuyện phổ biến, nhưng điều này vẫn không hoàn toàn chính xác, khi nhu cầu về cấu trúc stanzain được hoàn thành chỉ trong các bản Ballad quốc gia. Ballad chúng ta có thể hiểu rộng nhất có nghĩa là bất kì bài thơ kể một câu chuyện quan thuộc nào, hoặc một đoạn hát ngắn và không có đệm hoặc khiêu vũ. Yếu tố quan trọng nhất trong một bài hát ballad là lyric. Thông thường lyric được chia thành nhiều verses một cách có vần điệu. Có thể kể đến một số ví dụ như: “Love to be loved by you” của Marc Terenzi và “Not me not I” của Delta Goodrem… Ở thời điểm hiện tại, ballad đã bị pha trộn bởi nhiều thể loại nhạc khác để tạo thành rock ballad, ballad opera, folk ballad, pop ballad… Chính những màu sắc được pha trộn ấy lại tạo cho ballad sức sống riêng, điểm khác biệt riêng mà không bị nhàm chán. Mỗi dân tộc đều có một đặc sản tinh thần riêng, mà nhiều khi nó trở thành bộ mặt, là lời khẳng định cho sự động lập của dân tộc ấy. Người ta thường nói nhiều đến ca trù, hát chèo, quan họ mà quên mất rằng, mỗi ngày lễ hội, múa rồi nước mới là tiết mục được mong chờ nhiều nhất. Hôm nay, tôi muốn nói nhiều hơn về loại hình nghệ thuật đặc sắc này. Múa rối nước ra đời từ thời nhà Lí, đã tồn tại cùng dân tộc chúng ta hơn mười thế kỉ nay. Từ khi hình thành, nó đã trở thành một thú vui tao nhã, không chỉ để những tầng lớp quý tộc thượng lưu, mà chính nhân dân chúng ta cũng có thể thưởng thức nó. Các tiết mục múa rối nước thường xuất hiện trong các hội làng, các dịp kỉ niệm lớn và dần dần trở thành một nét văn hóa phi vật thể của dân tộc. Giờ đây, múa rối cũng có thể được sánh ngang với chèo, tuồng để trở thành bộ môn nghệ thuật có vị trí cao. Múa rối thì xuất hiện khá nhiều nơi trên thế giới, nhưng chỉ có một nền văn minh lúa nước như Việt Nam mới có hình thức múa rối dưới nước. Thời gian chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tồn tại vĩnh cửu của múa rối nước. Đã xuất hiện từ ngàn đời nay nên Việt Nam phát triển vô số những phường múa rối nước. Nhà hát múa rối Trung ương và nhà hát múa rối Thăng Long là nơi lưu giữ được nhiều màn múa rối đặc sắc nhất, để người ta khi muốn có thể tìm về mà thưởng thức. Ngoài ra, chúng ta cũng còn những phường múa rối đang ngày càng phát triển như ở Hải Dương, Đào Thục, Đồng Ngư, làng Ra,…Khi xã hội đang ngày càng trở nên hiện đại, người ta lại mong muốn được trở về với những văn hóa phi vật thể như vậy, để tâm hồn mình được thanh lọc, được trong sáng hơn. Phải tận mắt chứng kiến những màn múa rối nước, chúng ta mới có thể thấy rằng, những nghệ nhân rối nước ấy công phu đến chừng nào. Từ khâu chuẩn bị vật liệu, đạo cụ đã chứa cả sự tỉ mỉ, khó khăn. Những con rối được làm bằng gỗ sung để nổi trên mặt nước, được chạm khắc kì công để ra hình thù nhân vật. Nhân vật trong rối nước thường nhiều màu sắc, bắt mắt và thể hiện được khí chất bên trong. Phần nổi trên mặt nước sẽ để biểu diễn, còn phần chìm bên dưới gắn những dụng cụ để nghệ nhân điều khiển được rối. Điều tạo nên phần hồn của nghệ thuật rối nước chính là sự điều khiển của những nghệ nhân cho quân rối hoạt động. Có hẳn một bộ máy điều khiển, gồm máy sào và máy dây được gắn dưới mặt nước. Lợi dụng sức nước và đôi bàn tay khéo léo, con rối nhờ đó mà chuyển động và nói năng. Bên cạnh con rối, sân khấu của rối nước còn có những rèm che, những cờ, quạt, binh đao để sân khấu trở nên sinh động hơn. Âm thanh trong rối nước cũng được sử dụng một cách khéo léo để tạo không khí cho tác phẩm. Cả một sân khấu ấy, như một làng quê Việt Nam thu nhỏ, để bày ra trước mắt người đọc những sự tình, những uẩn khúc nhiều khi chưa được nói. Rối nước có khi diễn lại những câu chuyện cổ tích, có khi là cảnh sinh hoạt của một làng quê. Chú Tễu sẽ là người dẫn dắt cho câu chuyện được nhịp nhàng uyển chuyển. Bộ môn này thu hút người xem chính bởi sự sinh động của nó. Trẻ con thích rối nước bởi những tạo hình ngộ nghĩnh, người lớn đến với rối nước để hiểu hơn về cuộc sống xung quanh mình. Ca trù, cái lương hay tuồng chèo có thể kén người xem, nhưng rối nước đến với chúng ta một cách bình dị, dân dã như bức tranh quê. Trong vở rối ấy, có khi không chỉ là tiếng cười mà còn có nước mắt, không chỉ ca ngợi điều tốt đẹp mà còn lật tẩy bất công ngang trái. Dẫu sao, nó cũng thuộc về lĩnh vực nghệ thuật, cũng phải phản ánh hiện thực đời sống và cảm hóa con người.
Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần của con người. Âm nhạc có khả năng chữa lành mọi vết thương tâm hồn, cảm phục cái ác, tạo niềm tin, động lực sống. Đến với âm nhạc, con người như quên hết mọi phiền muộn cuộc sống, để hoà làm một vào từng âm thanh, lời ca. Âm nhạc có nhiều thể loại, luôn luôn thu hút người nghe. Có thể kể đến Rock với âm hưởng sôi động, R&B tươi vui, Ballad nhẹ nhàng, Pop da diết, Country đằm thắm, sâu sắc… Âm nhạc truyền thống của đất nước Việt Nam ta với những giai điệu trầm ấm mà ngân vang, gợi ra trong lòng người tình yêu cuộc đời, tình yêu thiên nhiên, quê hương, xứ sở. Đó là ca trù, ca Huế, quan họ Bắc Ninh, những điệu hát then, hát lượn của người dân miền núi… Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 5 lớp 10 đề 2: Giới thiệu một loại hình ca nhạc(hay sân khấu) mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích của mỗi người có thể chọn cho mình một dòng nhạc yêu thích. Sau đó giới thiệu về nguồn gốc, đặc điểm như giai điệu, cấu trúc, lời ca… Hy vọng với hai bài văn mẫu dưới đây, các bạn có thể hoàn thành bài tập thật tốt. Chúc các bạn may mắn. Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần, tâm hồn của con người. Có lẽ vì thế mà qua thời gian, âm nhạc luôn luôn phát triển và dần dần định hình những thể loại thu hút người nghe. Có người ưa thích những giai điệu sôi động của Rock, R&B tươi trẻ, nhưng có lẽ cũng không ít người say sưa với những tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu buồn mang âm hưởng da diết của Ballad. Có nhiều quan điểm cho rằng ballad đã được thực hiện do một số nghệ sĩ hát rong tạo nên nhưng đại đa số đã được thực hiện bởi người dân châu Âu. Các nhà học giả cho rằng các bản ballad nổi lên ở Tây Âu từ thế kỷ XIII. Nội dung của các bản ballad thường về tình yêu vĩnh cửu, cái chết, danh dự và sự phản bội hay còn gọi được gọi là những bản tình ca cũ. Ballad bắt nguồn từ dòng nhạc country và folk – với giai điệu chậm, thong thả do bắt nguồn từ dòng nhạc country nên lời lẽ không hoa mỹ, nhưng vẫn đủ để tạo nên cảm xúc cho người nghe bởi mang nhiều tâm trạng của tác giả và người hát. Nhìn chung, giai điệu của ballad khá cũ so với hiện tại bởi nó đến từ truyền thống dân gian. Đa phần là nói về tình yêu đơn phương của các cặp đôi. Cũng chính vì giai điệu khá cổ điển nên ballad kết nối mạnh mẽ với các điệu múa ba lê. Những giai điệu múa đã được công bố trong cuốn sách nhỏ như John Playford của The English Dancing Master. Trong mười tám phiên bản của nó, 1651-1728, Playford công bố phát sóng phổ biến nhất trong ngày. Một nhà sưu tập quan trọng của giai điệu ballad là Thomas D’Urfey, một người đàn ông đa tài năng, người đã viết kịch, bài hát, thơ ca, và hài kịch. Ông là một nhà soạn nhạc là tốt, nhưng đã dành nhiều nỗ lực của mình thích ứng và sắp xếp đã được các giai điệu còn tồn tại. Đó là từ các nguồn được in như thế này mà chúng ta có thể tìm thấy những giai điệu âm nhạc trong đó ballad nổi tiếng như “Up All Tails”, “Drive Cold Winter Away”, “Broom, các Bonny Broom, và hơn 1 chục tác phẩm khác. Dù nguồn gốc hay đời sau của những giai điệu ballad như thế nào thì chúng đều có đặc điểm chung nhất định. Đó là xu hướng lặp đi lặp lại và có một logic du dương rất dễ thuộc, thu hút được công chúng yêu nhạc. Ballad thường sử dụng các quy ước. Ví dụ như một câu hỏi và câu trả lời hoặc một mô hình của sự biến đổi và độ phân giải như thế tìm thấy trong âm nhạc của Bach hay Handel. Khi đã quen với các quy ước này thì rất dễ dàng để nhận biết ballad, có nghĩa là giai điệu rất dễ làm theo và dễ dàng tìm hiểu, ghi nhớ. Ngay cả những giai điệu ballad nổi tiếng cũng thế. Đặc điểm dễ thấy nhất là hình thức dòng nhạc bị phân mảnh, nhịp điệu lặp đi lặp lại và sự hấp dẫn có một mẫu số chung thấp nhất. Đây cũng là lý do các giai điệu ballad phổ biến trong văn hóa đại chúng, được hát bởi rất nhiều người với giới tính, lứa tuổi khác nhau. Một bản ballad có cấu trúc tương đối ngắn chia thành từng câu và hát theo một câu chuyện như giai điệu, một số bản ballad mở rộng chỉ có vài dòng, theo từ điển thì một bản ballad là một bài thơ đơn giản dưới dạng thơ kể lại một số câu chuyện phổ biến, nhưng điều này vẫn không hoàn toàn chính xác, khi nhu cầu về cấu trúc stanzain được hoàn thành chỉ trong các bản Ballad quốc gia. Ballad chúng ta có thể hiểu rộng nhất có nghĩa là bất kì bài thơ kể một câu chuyện quan thuộc nào, hoặc một đoạn hát ngắn và không có đệm hoặc khiêu vũ. Yếu tố quan trọng nhất trong một bài hát ballad là lyric. Thông thường lyric được chia thành nhiều verses một cách có vần điệu. Có thể kể đến một số ví dụ như: “Love to be loved by you” của Marc Terenzi và “Not me not I” của Delta Goodrem… Ở thời điểm hiện tại, ballad đã bị pha trộn bởi nhiều thể loại nhạc khác để tạo thành rock ballad, ballad opera, folk ballad, pop ballad… Chính những màu sắc được pha trộn ấy lại tạo cho ballad sức sống riêng, điểm khác biệt riêng mà không bị nhàm chán. Mỗi dân tộc đều có một đặc sản tinh thần riêng, mà nhiều khi nó trở thành bộ mặt, là lời khẳng định cho sự động lập của dân tộc ấy. Người ta thường nói nhiều đến ca trù, hát chèo, quan họ mà quên mất rằng, mỗi ngày lễ hội, múa rồi nước mới là tiết mục được mong chờ nhiều nhất. Hôm nay, tôi muốn nói nhiều hơn về loại hình nghệ thuật đặc sắc này. Múa rối nước ra đời từ thời nhà Lí, đã tồn tại cùng dân tộc chúng ta hơn mười thế kỉ nay. Từ khi hình thành, nó đã trở thành một thú vui tao nhã, không chỉ để những tầng lớp quý tộc thượng lưu, mà chính nhân dân chúng ta cũng có thể thưởng thức nó. Các tiết mục múa rối nước thường xuất hiện trong các hội làng, các dịp kỉ niệm lớn và dần dần trở thành một nét văn hóa phi vật thể của dân tộc. Giờ đây, múa rối cũng có thể được sánh ngang với chèo, tuồng để trở thành bộ môn nghệ thuật có vị trí cao. Múa rối thì xuất hiện khá nhiều nơi trên thế giới, nhưng chỉ có một nền văn minh lúa nước như Việt Nam mới có hình thức múa rối dưới nước. Thời gian chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tồn tại vĩnh cửu của múa rối nước. Đã xuất hiện từ ngàn đời nay nên Việt Nam phát triển vô số những phường múa rối nước. Nhà hát múa rối Trung ương và nhà hát múa rối Thăng Long là nơi lưu giữ được nhiều màn múa rối đặc sắc nhất, để người ta khi muốn có thể tìm về mà thưởng thức. Ngoài ra, chúng ta cũng còn những phường múa rối đang ngày càng phát triển như ở Hải Dương, Đào Thục, Đồng Ngư, làng Ra,…Khi xã hội đang ngày càng trở nên hiện đại, người ta lại mong muốn được trở về với những văn hóa phi vật thể như vậy, để tâm hồn mình được thanh lọc, được trong sáng hơn. Phải tận mắt chứng kiến những màn múa rối nước, chúng ta mới có thể thấy rằng, những nghệ nhân rối nước ấy công phu đến chừng nào. Từ khâu chuẩn bị vật liệu, đạo cụ đã chứa cả sự tỉ mỉ, khó khăn. Những con rối được làm bằng gỗ sung để nổi trên mặt nước, được chạm khắc kì công để ra hình thù nhân vật. Nhân vật trong rối nước thường nhiều màu sắc, bắt mắt và thể hiện được khí chất bên trong. Phần nổi trên mặt nước sẽ để biểu diễn, còn phần chìm bên dưới gắn những dụng cụ để nghệ nhân điều khiển được rối. Điều tạo nên phần hồn của nghệ thuật rối nước chính là sự điều khiển của những nghệ nhân cho quân rối hoạt động. Có hẳn một bộ máy điều khiển, gồm máy sào và máy dây được gắn dưới mặt nước. Lợi dụng sức nước và đôi bàn tay khéo léo, con rối nhờ đó mà chuyển động và nói năng. Bên cạnh con rối, sân khấu của rối nước còn có những rèm che, những cờ, quạt, binh đao để sân khấu trở nên sinh động hơn. Âm thanh trong rối nước cũng được sử dụng một cách khéo léo để tạo không khí cho tác phẩm. Cả một sân khấu ấy, như một làng quê Việt Nam thu nhỏ, để bày ra trước mắt người đọc những sự tình, những uẩn khúc nhiều khi chưa được nói. Rối nước có khi diễn lại những câu chuyện cổ tích, có khi là cảnh sinh hoạt của một làng quê. Chú Tễu sẽ là người dẫn dắt cho câu chuyện được nhịp nhàng uyển chuyển. Bộ môn này thu hút người xem chính bởi sự sinh động của nó. Trẻ con thích rối nước bởi những tạo hình ngộ nghĩnh, người lớn đến với rối nước để hiểu hơn về cuộc sống xung quanh mình. Ca trù, cái lương hay tuồng chèo có thể kén người xem, nhưng rối nước đến với chúng ta một cách bình dị, dân dã như bức tranh quê. Trong vở rối ấy, có khi không chỉ là tiếng cười mà còn có nước mắt, không chỉ ca ngợi điều tốt đẹp mà còn lật tẩy bất công ngang trái. Dẫu sao, nó cũng thuộc về lĩnh vực nghệ thuật, cũng phải phản ánh hiện thực đời sống và cảm hóa con người.
Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần của con người. Âm nhạc có khả năng chữa lành mọi vết thương tâm hồn, cảm phục cái ác, tạo niềm tin, động lực sống. Đến với âm nhạc, con người như quên hết mọi phiền muộn cuộc sống, để hoà làm một vào từng âm thanh, lời ca. Âm nhạc có nhiều thể loại, luôn luôn thu hút người nghe. Có thể kể đến Rock với âm hưởng sôi động, R&B tươi vui, Ballad nhẹ nhàng, Pop da diết, Country đằm thắm, sâu sắc… Âm nhạc truyền thống của đất nước Việt Nam ta với những giai điệu trầm ấm mà ngân vang, gợi ra trong lòng người tình yêu cuộc đời, tình yêu thiên nhiên, quê hương, xứ sở. Đó là ca trù, ca Huế, quan họ Bắc Ninh, những điệu hát then, hát lượn của người dân miền núi… Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ta sẽ bắt gặp bài viết số 5 lớp 10 đề 2: Giới thiệu một loại hình ca nhạc(hay sân khấu) mà anh chị yêu thích. Tùy vào sở thích của mỗi người có thể chọn cho mình một dòng nhạc yêu thích. Sau đó giới thiệu về nguồn gốc, đặc điểm như giai điệu, cấu trúc, lời ca… Hy vọng với hai bài văn mẫu dưới đây, các bạn có thể hoàn thành bài tập thật tốt. Chúc các bạn may mắn. Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần, tâm hồn của con người. Có lẽ vì thế mà qua thời gian, âm nhạc luôn luôn phát triển và dần dần định hình những thể loại thu hút người nghe. Có người ưa thích những giai điệu sôi động của Rock, R&B tươi trẻ, nhưng có lẽ cũng không ít người say sưa với những tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu buồn mang âm hưởng da diết của Ballad. Có nhiều quan điểm cho rằng ballad đã được thực hiện do một số nghệ sĩ hát rong tạo nên nhưng đại đa số đã được thực hiện bởi người dân châu Âu. Các nhà học giả cho rằng các bản ballad nổi lên ở Tây Âu từ thế kỷ XIII. Nội dung của các bản ballad thường về tình yêu vĩnh cửu, cái chết, danh dự và sự phản bội hay còn gọi được gọi là những bản tình ca cũ. Ballad bắt nguồn từ dòng nhạc country và folk – với giai điệu chậm, thong thả do bắt nguồn từ dòng nhạc country nên lời lẽ không hoa mỹ, nhưng vẫn đủ để tạo nên cảm xúc cho người nghe bởi mang nhiều tâm trạng của tác giả và người hát. Nhìn chung, giai điệu của ballad khá cũ so với hiện tại bởi nó đến từ truyền thống dân gian. Đa phần là nói về tình yêu đơn phương của các cặp đôi. Cũng chính vì giai điệu khá cổ điển nên ballad kết nối mạnh mẽ với các điệu múa ba lê. Những giai điệu múa đã được công bố trong cuốn sách nhỏ như John Playford của The English Dancing Master. Trong mười tám phiên bản của nó, 1651-1728, Playford công bố phát sóng phổ biến nhất trong ngày. Một nhà sưu tập quan trọng của giai điệu ballad là Thomas D’Urfey, một người đàn ông đa tài năng, người đã viết kịch, bài hát, thơ ca, và hài kịch. Ông là một nhà soạn nhạc là tốt, nhưng đã dành nhiều nỗ lực của mình thích ứng và sắp xếp đã được các giai điệu còn tồn tại. Đó là từ các nguồn được in như thế này mà chúng ta có thể tìm thấy những giai điệu âm nhạc trong đó ballad nổi tiếng như “Up All Tails”, “Drive Cold Winter Away”, “Broom, các Bonny Broom, và hơn 1 chục tác phẩm khác. Dù nguồn gốc hay đời sau của những giai điệu ballad như thế nào thì chúng đều có đặc điểm chung nhất định. Đó là xu hướng lặp đi lặp lại và có một logic du dương rất dễ thuộc, thu hút được công chúng yêu nhạc. Ballad thường sử dụng các quy ước. Ví dụ như một câu hỏi và câu trả lời hoặc một mô hình của sự biến đổi và độ phân giải như thế tìm thấy trong âm nhạc của Bach hay Handel. Khi đã quen với các quy ước này thì rất dễ dàng để nhận biết ballad, có nghĩa là giai điệu rất dễ làm theo và dễ dàng tìm hiểu, ghi nhớ. Ngay cả những giai điệu ballad nổi tiếng cũng thế. Đặc điểm dễ thấy nhất là hình thức dòng nhạc bị phân mảnh, nhịp điệu lặp đi lặp lại và sự hấp dẫn có một mẫu số chung thấp nhất. Đây cũng là lý do các giai điệu ballad phổ biến trong văn hóa đại chúng, được hát bởi rất nhiều người với giới tính, lứa tuổi khác nhau. Một bản ballad có cấu trúc tương đối ngắn chia thành từng câu và hát theo một câu chuyện như giai điệu, một số bản ballad mở rộng chỉ có vài dòng, theo từ điển thì một bản ballad là một bài thơ đơn giản dưới dạng thơ kể lại một số câu chuyện phổ biến, nhưng điều này vẫn không hoàn toàn chính xác, khi nhu cầu về cấu trúc stanzain được hoàn thành chỉ trong các bản Ballad quốc gia. Ballad chúng ta có thể hiểu rộng nhất có nghĩa là bất kì bài thơ kể một câu chuyện quan thuộc nào, hoặc một đoạn hát ngắn và không có đệm hoặc khiêu vũ. Yếu tố quan trọng nhất trong một bài hát ballad là lyric. Thông thường lyric được chia thành nhiều verses một cách có vần điệu. Có thể kể đến một số ví dụ như: “Love to be loved by you” của Marc Terenzi và “Not me not I” của Delta Goodrem… Ở thời điểm hiện tại, ballad đã bị pha trộn bởi nhiều thể loại nhạc khác để tạo thành rock ballad, ballad opera, folk ballad, pop ballad… Chính những màu sắc được pha trộn ấy lại tạo cho ballad sức sống riêng, điểm khác biệt riêng mà không bị nhàm chán. Mỗi dân tộc đều có một đặc sản tinh thần riêng, mà nhiều khi nó trở thành bộ mặt, là lời khẳng định cho sự động lập của dân tộc ấy. Người ta thường nói nhiều đến ca trù, hát chèo, quan họ mà quên mất rằng, mỗi ngày lễ hội, múa rồi nước mới là tiết mục được mong chờ nhiều nhất. Hôm nay, tôi muốn nói nhiều hơn về loại hình nghệ thuật đặc sắc này. Múa rối nước ra đời từ thời nhà Lí, đã tồn tại cùng dân tộc chúng ta hơn mười thế kỉ nay. Từ khi hình thành, nó đã trở thành một thú vui tao nhã, không chỉ để những tầng lớp quý tộc thượng lưu, mà chính nhân dân chúng ta cũng có thể thưởng thức nó. Các tiết mục múa rối nước thường xuất hiện trong các hội làng, các dịp kỉ niệm lớn và dần dần trở thành một nét văn hóa phi vật thể của dân tộc. Giờ đây, múa rối cũng có thể được sánh ngang với chèo, tuồng để trở thành bộ môn nghệ thuật có vị trí cao. Múa rối thì xuất hiện khá nhiều nơi trên thế giới, nhưng chỉ có một nền văn minh lúa nước như Việt Nam mới có hình thức múa rối dưới nước. Thời gian chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tồn tại vĩnh cửu của múa rối nước. Đã xuất hiện từ ngàn đời nay nên Việt Nam phát triển vô số những phường múa rối nước. Nhà hát múa rối Trung ương và nhà hát múa rối Thăng Long là nơi lưu giữ được nhiều màn múa rối đặc sắc nhất, để người ta khi muốn có thể tìm về mà thưởng thức. Ngoài ra, chúng ta cũng còn những phường múa rối đang ngày càng phát triển như ở Hải Dương, Đào Thục, Đồng Ngư, làng Ra,…Khi xã hội đang ngày càng trở nên hiện đại, người ta lại mong muốn được trở về với những văn hóa phi vật thể như vậy, để tâm hồn mình được thanh lọc, được trong sáng hơn. Phải tận mắt chứng kiến những màn múa rối nước, chúng ta mới có thể thấy rằng, những nghệ nhân rối nước ấy công phu đến chừng nào. Từ khâu chuẩn bị vật liệu, đạo cụ đã chứa cả sự tỉ mỉ, khó khăn. Những con rối được làm bằng gỗ sung để nổi trên mặt nước, được chạm khắc kì công để ra hình thù nhân vật. Nhân vật trong rối nước thường nhiều màu sắc, bắt mắt và thể hiện được khí chất bên trong. Phần nổi trên mặt nước sẽ để biểu diễn, còn phần chìm bên dưới gắn những dụng cụ để nghệ nhân điều khiển được rối. Điều tạo nên phần hồn của nghệ thuật rối nước chính là sự điều khiển của những nghệ nhân cho quân rối hoạt động. Có hẳn một bộ máy điều khiển, gồm máy sào và máy dây được gắn dưới mặt nước. Lợi dụng sức nước và đôi bàn tay khéo léo, con rối nhờ đó mà chuyển động và nói năng. Bên cạnh con rối, sân khấu của rối nước còn có những rèm che, những cờ, quạt, binh đao để sân khấu trở nên sinh động hơn. Âm thanh trong rối nước cũng được sử dụng một cách khéo léo để tạo không khí cho tác phẩm. Cả một sân khấu ấy, như một làng quê Việt Nam thu nhỏ, để bày ra trước mắt người đọc những sự tình, những uẩn khúc nhiều khi chưa được nói. Rối nước có khi diễn lại những câu chuyện cổ tích, có khi là cảnh sinh hoạt của một làng quê. Chú Tễu sẽ là người dẫn dắt cho câu chuyện được nhịp nhàng uyển chuyển. Bộ môn này thu hút người xem chính bởi sự sinh động của nó. Trẻ con thích rối nước bởi những tạo hình ngộ nghĩnh, người lớn đến với rối nước để hiểu hơn về cuộc sống xung quanh mình. Ca trù, cái lương hay tuồng chèo có thể kén người xem, nhưng rối nước đến với chúng ta một cách bình dị, dân dã như bức tranh quê. Trong vở rối ấy, có khi không chỉ là tiếng cười mà còn có nước mắt, không chỉ ca ngợi điều tốt đẹp mà còn lật tẩy bất công ngang trái. Dẫu sao, nó cũng thuộc về lĩnh vực nghệ thuật, cũng phải phản ánh hiện thực đời sống và cảm hóa con người.
Mỗi dân tộc đều có một thời kì hào hùng, khi cả cộng đồng cùng hát lên khúc ca chung xây dựng đất nước. Âm vang của thời kì ấy còn đọng lại mãi trong những áng sử thi, vang dội đến mãi ngày hôm nay. Chúng ta đã có một Việt Nam với sử thi “Đăm Săm” ca ngợi người anh hùng tài trí, có “Mahabharata”, “Ramayana” của Ấn Độ cổ đại. Và thời gian qua đi, chúng ta lại tiếp tục được hát vang khúc sử thi của đất nước Hy Lạp giàu truyền thống với “Ô-đi-xê”. Thiên sử thi của Hômerơ là khúc hát ca ngợi người anh hùng Uy-lít-xơ với trí tuệ siêu phảm, lòng dũng cảm gan góc và tấm lòng chung thủy, yêu thương gia đình. Cảm nhận về nhân vật ấy, chúng ta cần tìm hiểu được hoàn cảnh của nhân vật, các biến cố trong cuộc đời nhân vật và những đức tính nổi bật. Cần chú ý đặt nhân vật vào sự kiện, hoàn cảnh để tính cách họ được nổi bật hơn. Và phân tích nhân vật cũng là nói về nghệ thuật khắc họa nhân vật cho nổi hình nổi sắc. Các bạn hãy chú ý đến các dẫn chứng để bài viết được đầy đặn hơn nhé. Chúc các bạn thành công! Chúng ta rồi sẽ nhắc mãi về những thời kì hào hùng của lịch sử dân tộc khi mà âm vang của nó nằm trọn trong những khúc sử thi. Có lẽ, chỉ có ở sử thi, con người mới hiện lên một cách khí thế và oai hùng như vậy, bởi một nhân vật thôi nhưng đại diện cho cả thời đại mà nó ra đời. Uy-lít-xơ là một nhân vật như vậy. Trong con người chàng có trí tuệ và trái tim của cả đất nước Hy Lạp thời cổ đại. Tìm hiểu về “Ô-đi-xê” cũng như Uy-lít-xơ, ta mới thấy được một Hô-me-rơ tài năng và tâm huyết với bộ sử thi của dân tộc. “Ô-đi-xê” ra đời tại một đất nước có nền văn minh rực rỡ, khi con người đã thoát khỏi chế độ công xã thị tộc nhiều dã man. Đó là vào khoảng thế kỉ VIII TCN, nhân dân Hy Lạp chuyển mình sang chế độ nhà nước chiếm hữu nô lệ. Con người giờ đây sống với những khát vọng lớn lao, những ước mơ về hạnh phúc, trí tuệ. Người hát rong Hô-me-rơ đã gom lại tinh thần ấy của dân tộc trong những khúc sử thi của mình. Từ Iliade đến Odyssey, đều là hiện thân của những người anh hùng với sức mạnh, trí tuệ và tâm hồn cao đẹp. Với 12110 câu thơ chia thành 24 khúc ca, sử thi Odyssey ấy thực sự là những khúc khải hoàn để ngàn đời sau còn hướng về. Uy-lit-xơ là nhân vật xuyên suốt trong cả hai bộ sử thi của Ho-me-rơ. Nếu ở Iliade là hành trình người dũng sĩ chiến đấu tại thành Troy, thì “Ô-đi-xê” lại là con đường trở về. Uy-lit-xơ vẫn giữ cho mình bản lĩnh và trí tuệ như lúc chàng chiến đấu. Có điều ở khúc sử thi này, ta thấy nhiều hơn là khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, khát vọng được đoàn tụ trở về. Sau khi chiến thắng ở Troy, Uy-lit-xơ cùng đoàn quân của mình trở về xứ sở. Nhưng hành trình chưa dừng ở đó. Đoàn quân ấy vượt qua cửa ải của tên khổng lồ “một mắt” Polyphemus, mụ phù thuỷ Circe, hai con quái vật Charybdis và Scylla và cả nàng tiên Calypso xinh đẹp. Không dừng ở đó, Uy-lit-xơ còn phải đối mặt với thử thách của lòng người, là người vợ thân yêu của chàng nơi quê nhà nghi ngờ sự xuất hiện của chàng. Qua hàng loạt thử thách ấy, Uy-lit-xơ đã trở lại được cuộc sống với gia đình hạnh phúc sau hai mươi năm lưu lạc. Phải được đặt trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, trí tuệ, ý chí, bản lĩnh của Uy-lít-xơ mới hiện lên một cách rõ ràng. Với Uy-lit-xơ, trước hết ta phải nhắc đến trí tuệ hơn người của chàng. Trí tuệ ấy từng được Hô-me-rơ gọi là sánh ngang với thần Zues bởi chàng là người kế tục của Achile. Hô-me-rơ đã để nhân vật của mình đối diện với những thử thách mà không thể dùng sức lực vượt qua. Tiêu biểu là kế sách “chẳng có ai” khi muốn vượt qua tên khổng lồ một mắt Polyphemus. Giá sử không có mưu mẹo ấy của chàng, có lẽ cũng sẽ chẳng có sự trở về của Uy-lit-xơ. Cũng nhờ trí tuệ hơn người mà Uy-lit-xơ cùng con trai tiêu diệt được những tên cầu hôn vợ nàng và trừng trị đám giai nhân phản bội. Pê-nê-lốp vì nghi ngờ người trước mặt nên đã nghĩ ra kế sách dùng chiếc giường bí mật để thử lòng chồng, Uy-lit-xơ cũng nhanh chóng vượt qua. Trí thông minh chính là vũ khí đắc lực giúp cho chàng vượt qua các ải gian nan. Viết về trí tuệ siêm phàm ấy, Hô-me-rơ muốn hướng về ca ngợi con người trong công cuộc chinh phục vũ trụ, phải cần nhất là trí tuệ. Đó là phẩm chất mà con người Hy Lạp cổ đại đề cao và trân trọng nhất. Đến với “Ô-đi’xê”, người ta không còn thấy những khát vọng chinh phục, những ước mơ chiến thắng. Con người ta quay trở về với những tình cảm tốt đẹp từ tận trái tim. Trong con người con Uy-lit-xơ chính là những ánh sáng của tình cảm cao đẹp ấy. Thiêng liêng nhất trước hết là tình cảm dành cho quê hương xứ sở. Sau những chiến công lừng lẫy mà gian khổ, chàng cùng bạn bè trở về quê hương mang theo nỗi nhớ mong về xứ Ithaque ruột thịt, cũng là động lực chàng vượt qua khó khăn thử thách. Bằng chứng là khi đến xứ sở của người Lotobophagio, chàng đã nhất quyết không ăn một thức ăn nào, bởi nó sẽ làm chàng quên đi mảnh đất yêu thương của mình. Chàng muốn giữ trọn tình yêu ấy trong tim cho đến tận cùng hơi thở. Cũng bởi vậy mà đứng trước hòn đảo của nàng Calypso, lòng chàng lại đau đáu về quê hương hơn bao giờ hết. Bởi nơi đất khách này thật đẹp quá, lại làm chàng nhớ về quê cha đất tổ cũng êm ấm tình thương. Và quan trọng hơn cả, sau hai mươi năm xa quê trở về, nàng đã hôn lên mảnh đất Ithaque một cách trân trọng và hạnh phúc nhất. Là một người con của xứ sở, chưa bao giờ lòng chàng vơi bớt tình yêu cho mảnh đất này. Không chỉ có một tình yêu tràn ngập cho chốn quê nhà, tình cảm gia đình cũng là thứ mà Uy-lit-xơ trân trọng nhất. Có thể nói, suốt chặng đường trở về của Uy-lit-xo luôn có hình bóng giai nhân say đắm chàng. Là mụ phù thủy Circe, là nữ thần Calypso xinh đẹp sẵn sàng cho chàng sự bất tử hay nàng công chúa Nausicaa quyến rũ. Nhưng không ai có thể thay thế cho nàng Pê-nê-lốp trong trái tim của chàng. Không hề có một phút rung động, chàng vượt qua mọi thử thách để trở về cùng người vợ thân yêu. Tình cảm gia đình ấy tạo nên sự chung thủy trong trái tim người dũng sĩ, để chàng hiểu được tấm lòng người vợ, vượt qua được thử thách của nàng mà hướng tới hạnh phúc. Trong con người Uy-lit-xơ ấy, không chỉ có những tình cảm bình dị đời thường, mà vẫn ẩn chứa cả khát vọng cao đẹp, đi liền với ý chí và sức mạnh. Hành trình tuy là trở về nhưng lại không thiếu những thử thách gian nan. Phải là một Uy-lit-xơ có khát vọng mạnh mẽ, có ý chí hơn người mới có thể vượt qua. Trong trái tim và trí óc của chàng là ngọn lửa của khát vọng trở về, khát vọng được chinh phục thiên nhiên và chinh phục chính mình. Con người sử thi vẫn ôm trong mình nỗi khát vọng lớn lao không bao giờ thay đổi. Thiên sử thi khép lại, Uy-lit-xơ đến với chúng ta bằng trí tuệ siêu phàm, bằng tình cảm cao đẹp và ý chí ngút trời. Hành trình trở về của Uy-lit-xơ phải chăng cũng là hành trình con người về với bản chất của chính mình. Hô-me-rơ viết “Ô-đi-xê’, chính là viết nên những khát vọng chân chính nhất của người dân Hy Lạp cổ đại thời bấy giờ. Những phảm chất ấy là điều thiết yếu để con người xây dựng nên một nền văn minh mới.
Mỗi dân tộc đều có một thời kì hào hùng, khi cả cộng đồng cùng hát lên khúc ca chung xây dựng đất nước. Âm vang của thời kì ấy còn đọng lại mãi trong những áng sử thi, vang dội đến mãi ngày hôm nay. Chúng ta đã có một Việt Nam với sử thi “Đăm Săm” ca ngợi người anh hùng tài trí, có “Mahabharata”, “Ramayana” của Ấn Độ cổ đại. Và thời gian qua đi, chúng ta lại tiếp tục được hát vang khúc sử thi của đất nước Hy Lạp giàu truyền thống với “Ô-đi-xê”. Thiên sử thi của Hômerơ là khúc hát ca ngợi người anh hùng Uy-lít-xơ với trí tuệ siêu phảm, lòng dũng cảm gan góc và tấm lòng chung thủy, yêu thương gia đình. Cảm nhận về nhân vật ấy, chúng ta cần tìm hiểu được hoàn cảnh của nhân vật, các biến cố trong cuộc đời nhân vật và những đức tính nổi bật. Cần chú ý đặt nhân vật vào sự kiện, hoàn cảnh để tính cách họ được nổi bật hơn. Và phân tích nhân vật cũng là nói về nghệ thuật khắc họa nhân vật cho nổi hình nổi sắc. Các bạn hãy chú ý đến các dẫn chứng để bài viết được đầy đặn hơn nhé. Chúc các bạn thành công! Chúng ta rồi sẽ nhắc mãi về những thời kì hào hùng của lịch sử dân tộc khi mà âm vang của nó nằm trọn trong những khúc sử thi. Có lẽ, chỉ có ở sử thi, con người mới hiện lên một cách khí thế và oai hùng như vậy, bởi một nhân vật thôi nhưng đại diện cho cả thời đại mà nó ra đời. Uy-lít-xơ là một nhân vật như vậy. Trong con người chàng có trí tuệ và trái tim của cả đất nước Hy Lạp thời cổ đại. Tìm hiểu về “Ô-đi-xê” cũng như Uy-lít-xơ, ta mới thấy được một Hô-me-rơ tài năng và tâm huyết với bộ sử thi của dân tộc. “Ô-đi-xê” ra đời tại một đất nước có nền văn minh rực rỡ, khi con người đã thoát khỏi chế độ công xã thị tộc nhiều dã man. Đó là vào khoảng thế kỉ VIII TCN, nhân dân Hy Lạp chuyển mình sang chế độ nhà nước chiếm hữu nô lệ. Con người giờ đây sống với những khát vọng lớn lao, những ước mơ về hạnh phúc, trí tuệ. Người hát rong Hô-me-rơ đã gom lại tinh thần ấy của dân tộc trong những khúc sử thi của mình. Từ Iliade đến Odyssey, đều là hiện thân của những người anh hùng với sức mạnh, trí tuệ và tâm hồn cao đẹp. Với 12110 câu thơ chia thành 24 khúc ca, sử thi Odyssey ấy thực sự là những khúc khải hoàn để ngàn đời sau còn hướng về. Uy-lit-xơ là nhân vật xuyên suốt trong cả hai bộ sử thi của Ho-me-rơ. Nếu ở Iliade là hành trình người dũng sĩ chiến đấu tại thành Troy, thì “Ô-đi-xê” lại là con đường trở về. Uy-lit-xơ vẫn giữ cho mình bản lĩnh và trí tuệ như lúc chàng chiến đấu. Có điều ở khúc sử thi này, ta thấy nhiều hơn là khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, khát vọng được đoàn tụ trở về. Sau khi chiến thắng ở Troy, Uy-lit-xơ cùng đoàn quân của mình trở về xứ sở. Nhưng hành trình chưa dừng ở đó. Đoàn quân ấy vượt qua cửa ải của tên khổng lồ “một mắt” Polyphemus, mụ phù thuỷ Circe, hai con quái vật Charybdis và Scylla và cả nàng tiên Calypso xinh đẹp. Không dừng ở đó, Uy-lit-xơ còn phải đối mặt với thử thách của lòng người, là người vợ thân yêu của chàng nơi quê nhà nghi ngờ sự xuất hiện của chàng. Qua hàng loạt thử thách ấy, Uy-lit-xơ đã trở lại được cuộc sống với gia đình hạnh phúc sau hai mươi năm lưu lạc. Phải được đặt trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, trí tuệ, ý chí, bản lĩnh của Uy-lít-xơ mới hiện lên một cách rõ ràng. Với Uy-lit-xơ, trước hết ta phải nhắc đến trí tuệ hơn người của chàng. Trí tuệ ấy từng được Hô-me-rơ gọi là sánh ngang với thần Zues bởi chàng là người kế tục của Achile. Hô-me-rơ đã để nhân vật của mình đối diện với những thử thách mà không thể dùng sức lực vượt qua. Tiêu biểu là kế sách “chẳng có ai” khi muốn vượt qua tên khổng lồ một mắt Polyphemus. Giá sử không có mưu mẹo ấy của chàng, có lẽ cũng sẽ chẳng có sự trở về của Uy-lit-xơ. Cũng nhờ trí tuệ hơn người mà Uy-lit-xơ cùng con trai tiêu diệt được những tên cầu hôn vợ nàng và trừng trị đám giai nhân phản bội. Pê-nê-lốp vì nghi ngờ người trước mặt nên đã nghĩ ra kế sách dùng chiếc giường bí mật để thử lòng chồng, Uy-lit-xơ cũng nhanh chóng vượt qua. Trí thông minh chính là vũ khí đắc lực giúp cho chàng vượt qua các ải gian nan. Viết về trí tuệ siêm phàm ấy, Hô-me-rơ muốn hướng về ca ngợi con người trong công cuộc chinh phục vũ trụ, phải cần nhất là trí tuệ. Đó là phẩm chất mà con người Hy Lạp cổ đại đề cao và trân trọng nhất. Đến với “Ô-đi’xê”, người ta không còn thấy những khát vọng chinh phục, những ước mơ chiến thắng. Con người ta quay trở về với những tình cảm tốt đẹp từ tận trái tim. Trong con người con Uy-lit-xơ chính là những ánh sáng của tình cảm cao đẹp ấy. Thiêng liêng nhất trước hết là tình cảm dành cho quê hương xứ sở. Sau những chiến công lừng lẫy mà gian khổ, chàng cùng bạn bè trở về quê hương mang theo nỗi nhớ mong về xứ Ithaque ruột thịt, cũng là động lực chàng vượt qua khó khăn thử thách. Bằng chứng là khi đến xứ sở của người Lotobophagio, chàng đã nhất quyết không ăn một thức ăn nào, bởi nó sẽ làm chàng quên đi mảnh đất yêu thương của mình. Chàng muốn giữ trọn tình yêu ấy trong tim cho đến tận cùng hơi thở. Cũng bởi vậy mà đứng trước hòn đảo của nàng Calypso, lòng chàng lại đau đáu về quê hương hơn bao giờ hết. Bởi nơi đất khách này thật đẹp quá, lại làm chàng nhớ về quê cha đất tổ cũng êm ấm tình thương. Và quan trọng hơn cả, sau hai mươi năm xa quê trở về, nàng đã hôn lên mảnh đất Ithaque một cách trân trọng và hạnh phúc nhất. Là một người con của xứ sở, chưa bao giờ lòng chàng vơi bớt tình yêu cho mảnh đất này. Không chỉ có một tình yêu tràn ngập cho chốn quê nhà, tình cảm gia đình cũng là thứ mà Uy-lit-xơ trân trọng nhất. Có thể nói, suốt chặng đường trở về của Uy-lit-xo luôn có hình bóng giai nhân say đắm chàng. Là mụ phù thủy Circe, là nữ thần Calypso xinh đẹp sẵn sàng cho chàng sự bất tử hay nàng công chúa Nausicaa quyến rũ. Nhưng không ai có thể thay thế cho nàng Pê-nê-lốp trong trái tim của chàng. Không hề có một phút rung động, chàng vượt qua mọi thử thách để trở về cùng người vợ thân yêu. Tình cảm gia đình ấy tạo nên sự chung thủy trong trái tim người dũng sĩ, để chàng hiểu được tấm lòng người vợ, vượt qua được thử thách của nàng mà hướng tới hạnh phúc. Trong con người Uy-lit-xơ ấy, không chỉ có những tình cảm bình dị đời thường, mà vẫn ẩn chứa cả khát vọng cao đẹp, đi liền với ý chí và sức mạnh. Hành trình tuy là trở về nhưng lại không thiếu những thử thách gian nan. Phải là một Uy-lit-xơ có khát vọng mạnh mẽ, có ý chí hơn người mới có thể vượt qua. Trong trái tim và trí óc của chàng là ngọn lửa của khát vọng trở về, khát vọng được chinh phục thiên nhiên và chinh phục chính mình. Con người sử thi vẫn ôm trong mình nỗi khát vọng lớn lao không bao giờ thay đổi. Thiên sử thi khép lại, Uy-lit-xơ đến với chúng ta bằng trí tuệ siêu phàm, bằng tình cảm cao đẹp và ý chí ngút trời. Hành trình trở về của Uy-lit-xơ phải chăng cũng là hành trình con người về với bản chất của chính mình. Hô-me-rơ viết “Ô-đi-xê’, chính là viết nên những khát vọng chân chính nhất của người dân Hy Lạp cổ đại thời bấy giờ. Những phảm chất ấy là điều thiết yếu để con người xây dựng nên một nền văn minh mới.
Nền văn học cổ đại thế giới đã chứng kiến sự ra đời của nhiều bộ sử thi dân gian đặc sắc. Nếu như phương Tây có tường thành vĩ đại của sử thi “Iliat và Ôđixê” của Hô-me-rơ thì phương Đông cũng nổi danh với những bộ sử thi của đất nước Ấn Độ xinh đẹp: Sử thi “Ramayana” hay “Mahabharata” là những áng sử thi lừng lẫy năm châu về sự vĩ đại của nó, là niềm tự hào không chỉ của nhân dân và đất nước Ấn Độ mà còn là của cả châu Á, của toàn nhân loại. Bởi vậy, cho đến nay những bộ sử thi này vẫn mang một giá trị lớn lao không thể thay thế. Trong sử thi “Ramayana”, nhân vật Rama là nhân vật trung tâm của thiên truyện, kết tinh những vẻ đẹp của cả cộng đồng. Để làm được bài văn phân tích được vẻ đẹp của nhân vật Rama, cần trang bị cho bản thân những kiến thức về văn bản, nhân vât, biết được những vẻ đẹp mà nhân vật có, sắp xếp thành những luận điểm lớn rồi dùng lí lẽ và dẫn chứng tác phẩm để làm nổi bật những vẻ đẹp của nhân vật được nêu. Người Ấn Độ thường tự hào rằng: “Chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì sử thi Ramayana còn làm say lòng người và cứu giúp họ ra khỏi tội lỗi”. Từ xưa, họ đã coi “Ramayana” là bộ sách quý báu của cả dân tộc cần được tôn vinh và ngưỡng mộ. Nhân vật Rama trong tác phẩm ẩn chứa những vẻ đẹp sâu sắc để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Rama được xây dựng như một vị anh hùng, một nguồn sáng chói lóa của dân tộc, kết tinh hết thảy mọi vẻ đẹp chuẩn mực trên cõi đời này, hiện lên sự lí tưởng của con người nơi trần thế. Về nguồn gốc xuất thân.Theo truyền thuyết, Rama là hóa thân thứ 7 của thần Visnu – đấng tối cao của đẳng cấp quý tộc Bà la môn. Visnu được giáng thế làm người cứu nhân loại ra khỏi vòng trầm luân đau khổ trong chiến tranh loạn lạc. Mục đích giáng trần vô cùng cao quý đó là cứu nhân độ thế, tiêu diệt cái ác, bảo vệ cái thiện. Ngay từ xuất thân đã cho thấy Rama là người xuất chúng như thế nào. Chàng có nhiệm vụ tiêu diệt con quỷ Ravana – hiện thân của cái ác, cái xấu trong xã hội. Và chàng anh hùng với xuất thân vô cùng cao quý kia phải làm một việc cũng hết sức kiêu hùng: diệt trừ cái ác, bảo vệ cái thiện và đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người. Rama là hình tượng đặc trưng cho nhân vật lí tưởng kiểu mẫu của đạo Hinđu, đẳng cấp của một vương tôn quý tộc, đồng thời cũng là niềm mong muốn và khát khao của nhân dân Ấn Độ tới một vị anh hùng có sức mạnh lớn lao có khả năng che chở và bảo vệ quần chúng, đem lại công bằng và công lí cho cả xã hội. Xuyên suốt cả tác phẩm đồ sộ ấy, những người nghệ sĩ dân gian luôn dành cho Rama một sự kính trọng, đề cao chàng là người thông minh, tài giỏi nhất trong bốn vị hoàng tử, là người chiếm được niềm tin yêu của Đức vua cũng như vị đạo sĩ, hội tụ đầy đủ tài năng, được công chúng yêu quý và ủng hộ khi bước lên ngai vàng. Chàng là người giàu lòng tự trọng, biết quý trọng nhân phẩm và danh dự của bản thân cũng như luôn luôn bày tỏ lòng hiếu thảo với đức vua cha. Vào trước hôm Rama lên ngôi vua, Kakeyi đã nhắc lại với nhà vua điều hứa năm xưa và muốn nhà vua nhường ngôi cho con trai bà ta – Bharata thay vì Rama, và nhà vua phải ra lệnh cho Rama chịu lưu đày trong rừng 14 năm. Vì không muốn cha phải trở thành kẻ thất hứa bị mọi người chê cười, muốn bảo vệ danh dự cho cha, Rama đã thực hiện lời hứa của cha với thứ phi Kakeyi cho dù chàng hoàn toàn có thể ở lại và dù Bharata cũng từ chối ngôi vua này. Sống quen trong nhung lụa nhưng Rama vẫn chấp nhận rời bỏ cuộc sống ấy để bảo toàn danh dự và lời hứa với vua cha. Chàng là người có trí thông minh phi phàm, có sức mạnh phi thường mà không ai có thể sánh nổi. Chàng có đôi mắt sáng như trời và trăng, có đôi tai thấu âm nhạc trời đất, là kẻ thù của những sự giả dối, ghen tuông, những điều xấu, điều ác trên thế giới này, là hiện thân của những vẻ đẹp và sức mạnh phi thường. Chàng đã nâng được cây cung thần bằng chính sức mạnh của mình và sự thông minh hiếm có, chàng đã chiếm được trái tim của nàng Sita. Sau này, hai vợ chồng Rama giúp đỡ dân làng và đã lập được rất nhiều chiến công. Chàng bảo vệ dân làng khỏi bọn quỷ dữ: từ con quỷ Vali, con quỷ khổng lồ vô địch, đánh quỵ trâu thần Dundubbi. Rama diệt trừ quỷ Thataka và đặc biệt là quỷ vương Ravana. Với tinh thần hiệp nghĩa, Rama đã chiến đấu giành lại ngôi báu cho Sugriva khi Sugriva bị quỷ Vali cướp vợ và đuổi đi. Rama chính là hiện thân của ước mơ công lí, chính nghĩa sẽ chiến thắng của nhân dân Ấn Độ. Chàng đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho dân làng cũng chính là đang chuyên chở những mong muốn, ao ước của người dân Ấn về một cuộc sống công bằng xã hội được đặt lên hàng đầu.
Ancient world literature has witnessed the birth of many unique folk epics. If the West has the great wall of Homer's epic "Iliad and Odyssey", the East is also famous for the epics of beautiful India: The epic "Ramayana" or "Mahabharata". ” are illustrious epics of five continents for their greatness, the pride not only of the people and country of India but also of the whole of Asia, of all humanity. Therefore, up to now these epics still have great irreplaceable value. In the epic "Ramayana", the character Rama is the central character of the story, crystallizing the beauty of the entire community. To write an essay analyzing the beauty of the character Rama, you need to equip yourself with knowledge about the text and character, know the beauty that the character has, arrange it into big arguments and then use it. Reasoning and citing works to highlight the beauty of the mentioned character. Indians often boast that: "As long as the rivers have not dried up and the mountains have not worn away, the Ramayana epic will still captivate people and save them from their sins." Since ancient times, they have considered "Ramayana" a precious book of the entire nation that needs to be honored and admired. The character Rama in the work contains profound beauty that leaves a strong impression on the reader. Rama is built as a hero, a shining source of light for the nation, crystallizing all standard beauty in this world, representing the ideal of people on earth. Regarding his origin, according to legend, Rama is the 7th incarnation of god Visnu - the supreme being of the Brahmin aristocracy. Visnu was born to save humanity from the cycle of suffering in war and chaos. The extremely noble purpose of coming to earth is to save humanity, destroy evil, and protect good. Right from his background, it was shown how outstanding a person Rama was. He has the task of destroying the demon Ravana - the embodiment of evil and ugliness in society. And that hero with an extremely noble background must do something very heroic: eliminate evil, protect goodness and bring a prosperous life to everyone. Rama is a typical image of the ideal character of Hinduism, the class of an aristocratic king, and is also the desire and desire of the Indian people for a hero with great strength. TB has the ability to protect and protect the masses, bringing fairness and justice to the whole society. Throughout that massive work, folk artists always respected Rama, promoting him as the most intelligent and talented of the four princes, the one who won the trust and love of God. The king, like the Taoist priest, had all the talents and was loved and supported by the public when he ascended the throne. He is a man rich in self-esteem, knows how to value his own dignity and honor, and always shows filial piety to his father, the king. On the day before Rama ascended the throne, Kakeyi reminded the king of his old promise and wanted the king to give the throne to her son - Bharata instead of Rama, and the king had to order Rama to go into exile in the forest. year. Because he did not want his father to become a person who broke his promise and was laughed at by everyone, and wanted to protect his father's honor, Rama fulfilled his father's promise to his concubine Kakeyi even though he could have stayed and even though Bharata had also refused. deny this throne. Living in luxury, Rama still agreed to leave that life to preserve his honor and promise to his father the king. He is a man with extraordinary intelligence and extraordinary strength that no one can compare to. He has eyes as bright as the sky and the moon, ears that can understand the music of heaven and earth, is the enemy of lies, jealousy, bad things, and evil in this world, is the embodiment of beauty and Super power. He was able to lift the magic bow with his own strength and rare intelligence, he captured the heart of Sita. Later, Rama and his wife helped the villagers and achieved many victories. He protected the villagers from demons: from the demon Vali, the invincible giant demon, who defeated the buffalo god Dundubbi. Rama eliminated the demon Thataka and especially the demon king Ravana. In the spirit of chivalry, Rama fought to regain the throne for Sugriva when Sugriva was robbed of his wife by the demon Vali and chased away. Rama is the embodiment of the Indian people's dream of justice and righteousness winning. He brings a peaceful and happy life to the villagers and is also transporting the wishes and desires of the Indian people for a life of social justice to be given top priority.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những tác gia trung đại trong nền văn học Việt Nam. Là quan lớn nhưng ông nổi tiếng với một phong cách sống thanh cao, giản dị, gắn bó và hòa hợp với thiên nhiên, không màng vật chất, địa vị mà chỉ quan tâm tới cuộc sống và sự ấm no của nhân dân. Ông đặc biệt yêu thích cảnh vật sông suối, cây cỏ, ưa sự thanh tao, mộc mạc, một lối sống khác sa với sự sa hoa mà những vị quan lớn thời đó thường có. Chính vì vậy mà ông được nhân dân yêu mến hết lòng, được lập nhiều đền thờ ở nhiều nơi sau khi ông mất. Trong cuộc đời của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại cho đời sau nhiều áng văn, áng thơ rất đặc sắc mà một trong số đó là bài thơ “Nhàn”. Để làm được bài văn cảm nhận về bài thơ này, cần đọc kĩ văn bản, nắm bắt được những đặc sắc nghệ thuật, những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ gửi gắm để giải mã và gắn nó vào với sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Bài viết dưới đây là một bài tham khảo cho dạng bài này. Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ “Nhàn” của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ đương thời: Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho. Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như một tiếng sấm rạch ròi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà mình thấy thích thú, tự do tự tại Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy: “Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh xa thói đời ô tạp, để giữ cho tâm hồn mình luôn trong sáng và thanh sạch hơn. Bẳng cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khôn”, còn “khôn” nhưng thực chất lại là “dại”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoái khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún nhường, khiêm tốn của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho: Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua lợi lộc, thói tục, không bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình luôn khoáng đạt bởi: Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên không phải vất vả kiếm tìm. Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ. Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vô vi của đạo giáo: Không làm gì can thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối sống thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng không phải là món ăn khoái khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng gượng. Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ô trọc mà thôi. Có vẻ nhà thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện công danh:
Nguyen Binh Khiem is one of the medieval authors in Vietnamese literature. Although he is a great mandarin, he is famous for his noble, simple lifestyle, close to and in harmony with nature, not caring about material things or status but only caring about the life and well-being of the people. He especially loved the scenery of rivers, streams, trees, and the elegance and simplicity, a lifestyle different from the luxury that great mandarins of that time often had. That is why he was loved by the people wholeheartedly, and many temples were built in many places after his death. During his life, Nguyen Binh Khiem also left behind many unique essays and poems, one of which is the poem "Nhan". To write an essay about this poem, you need to read the text carefully, grasp the artistic characteristics, thoughts, and feelings that the poet conveys to decode and attach it to the poet's feelings. each person. The article below is a reference article for this type of article. The massive medieval literature has brought us many good poems of great value. Among them, it is impossible not to mention the poem "Nhan" by Trinh Nguyen Binh Khiem. The poem promotes the noble life philosophies of famous people of the time: The first verse opens up familiar images: "apricot, hoe, fishing rod" are all tools associated with the countryside, presenting the lyrical character with the posture of an old farmer who knows the fields and gardens, especially Samadhi is not the dignified posture of a great Confucian. The poem's comfortable rhythm and repeated use of the word "one" make the poem sound like a clear thunderclap, proving that the poet embraces life with great joy, the joy of being able to do what he likes. "Lounging" is a leisurely, leisurely, comfortable state, the author feels confident about his choice. “Who” is a casual pronoun, affirming that other people have their own interests and so does the author. The first two sentences affirm that leisure is not an escape from life but a choice for yourself to have a living space that you enjoy and feel free about. The first two sentences are about a free lifestyle, immersing yourself in common life, the next two sentences are a profound explanation of that choice: "I" am the poet, who "you" are, certainly not the world but those who are greedy for fame and fortune. The two verses can be understood as a deserted place not as a place to hide from life but as a place where one feels pleasure and lives comfortably, different from the official place. This natural place is the most suitable place for Nguyen Binh Khiem to stay away from dirty life habits, to keep his soul always brighter and purer. By saying the opposite of "fool" but actually "smart", and "smart" but actually "fool", Nguyen Binh Khiem wisely chose a lifestyle contrary to many people, leaving the place of fame and fortune. compete to live peacefully and freely. The humble and humble way of speaking of a great scholar is the wise behavior of a true scholar: Leisure means returning to a natural life, escaping the cycle of competition for profit and customs, not being entangled in money or status, and keeping one's soul always open because: Every season is associated with that object and is available in nature without having to work hard to find it. This is the image of a self-sufficient life but still very full and happy. Is it true that the author has mixed into it the philosophy of Taoism: Do nothing to interfere with the laws of nature but let them develop on their own, suggesting that people have a purely natural lifestyle? The food available in nature, although frugal, is not a delicious dish, but it is a noble leisure, not the mundane leisure of rich, lazy people. Therefore, the poem sounds light and peaceful, filled with joy, the lightness of a life without effort. However, coming to a leisurely life is partly due to a dirty life. It seems that the poet is leisurely but not really leisurely, still talking about career matters: