vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Hướng dẫn
Thoạt đâu, mới đọc đề bài này, nhiều bạn dễ chủ quan, cho ràng nó trùng với câu 3 đề 15. Tuy nhiên, đọc kĩ, các em sẽ tháy cùng xoay quanh tình yêu thương cha của bé Thu nhưng đây là kiểu bài chứng minh một ý kiến, một nhận định chứ không phải là cảm nhận về một vấn đề trong tácphẩm vân học. Cách làm của kiểu bài chứng minh mộtnhận định có gì khác? Các em cùng tham khảo gợi ý dưới đây nhé!
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận:trích dẫn ý kiến, nêu cảm nghĩ chung về ý kiến.
a) Giải thích ý kiến
Ý kiến đã nêu đúng đặc điểm nổi bật trong tính cách, tâm hổn béThu là tình yêu cha tha thiết, cảm động, bởi lẽ tình yêu ấy được nuôi dưỡng âm ỉ qua thời gian tám năm xa cách, trải qua một thử thách tâm lí – cuộc đoàn tụ bất ngờ nhưng ngắn ngủi và rồi bùng cháy mãnh liệt trong giờ khắc chia li.
Dẫu rằng, ở nửa đầu câu chuyện, con bé thờ ơ, lạnh nhạt, tỏ ra ương bướng, lì lợm, kiên quyết từ chối mọi sự quan tâm của ông Sáu, không chịu gọi ông Sáu là ba, mãi đến khi ông Sáu phải tạm biệt mọi người, trở về đơn vị, nó mới nhận ông – cách xử sự của Thu không giống nhau ở mỗi phần nhưng tất cả đều xuất phát từtình yêu cha và khao khát gặp cha trong sâu thẳm tâm hổn cô bé.
b) Chứng minh ý kiến
Ở phẩn này, các em cũng cần:
Nêu ngắn gọn về hoàn cảnh của béThu, tình huống sựtrở về bất ngờvà nhiều thay đổi của ông Sáu.
Chứng minh tình yêu cha thiết tha, cảm động của bé Thu theo hai chặng: trước và sau khi nhận ông Sáu là ba.
Lưu ý: Bài văn chứng minh cần có nhiểu dẫn chứng, dẫn chứng phải chính xác và phù hợp. Các em tham khảo nội dung câu 3 đề 15.
c) Bàn luận mở rộng về ý kiến
|
Instruct
At first, when reading this article, many people are easily subjective, thinking that it coincides with sentence 3, topic 15. However, if you read carefully, you will see that the same story revolves around Thu's love for her father, but this is the type of article. prove an opinion, a judgment, not a feeling about a problem in a work of typography. Is there any difference in the method of proving a statement? Please refer to the suggestions below!
Introducing the author and his work
Introduce the issue to be discussed: quote opinions, state general feelings about opinions.
a) Explain your opinion
The opinion correctly stated the outstanding characteristics of Thu's personality and fragile heart, his father's love was passionate and touching, because that love was nurtured silently through eight years of separation, going through a mental challenge. Ly - an unexpected but brief reunion and then burned fiercely in the moment of separation.
Although, in the first half of the story, the girl was indifferent, cold, stubborn, stubborn, resolutely refused all of Mr. Sau's attention, refused to call Mr. Sau dad, until Mr. Having to say goodbye to everyone and return to the unit, she recognized him - Thu's behavior is not the same in each part, but it all comes from the love of her father and the desire to meet him deep in her heart.
b) Prove your opinion
In this section, you also need:
Briefly describe baby Thu's situation, the situation of Mr. Sau's unexpected return and many changes.
Proving little Thu's passionate and touching love for her father in two stages: before and after recognizing Mr. Sau as her father.
Note: The proof essay needs to have a lot of evidence, and the evidence must be accurate and appropriate. Please refer to the content of question 3, topic 15.
c) Extensive discussion of ideas
|
Hướng dẫn
– Nêu vấn đề cần nghị luận: việc tự học của học sinh hiện nay.
Giải thích-Tự học là sự chủ động, tích cực, độc lập trong việc tìm hiểu, lĩnh hội tri thức, tích lũy kinh nghiệm và hình thành kĩ năng cho mình.
Phân tích
Vì sao phải tự học?
Kho tàng tri thức của nhân loại được ví như biển cả bao la và được bổ sung, chỉnh sửa liên tục; cha mẹ và thầy cô cũng không thể dạy ta hết tất cả mọi thứ
nên bên cạnh sự chỉ dạy của gia đình, nhà trường, mỗi học sinh cần phải tự mình tích lũy.
Nếu không tự học, tự cập nhật kiến thức mới, chúng ta sẽ trở nên lạc hậu, cũ mòn.
-Tự học có nhiều lợi ích thú vị:
+ Quá trình tựtìm tòi, nghiên cứu, khám phá sẽ giúp ta tiếp nhận kiến thức một cách tự nhiên, thoải mái, không gò bó, áp lực và nhờ sựtrải nghiệm mà dễ khắc sâu hơn.
+ Việc tự học sẽ cho phép ta được thỏa sức với những đam mê riêng của mình.
+ Tự học khiến chúng ta trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, phụ thuộc vào người khác, biết tự bổ sung những phần thiếu, phần yếu của mình để hoàn thiện hơn.
+ Góp phẩn tiết kiệm thời gian, tiền bạc.
Chúng ta tự học như thế nào?
Soạn bài, làm bài, xem bài mới trước khi đến lớp.
Tim hiểu mở rộng, nâng cao các vấn đề được học ở trường.
Học các kĩ năng mềm, học từ sách báo, ti vi, internet, từ những người xung quanh
Cẩn ghi chép và vận dụng những điều học được vào cuộc sống,
Bàn luận
– Tự học là một kĩ năng quan trọng và cần thiết với học sinh hiện nay.
– Tự học không dễ dàng, nó đòi hỏi lòng quyết tâm và sự kiên trì.
|
Instruct
– State the issue that needs to be discussed: self-study of students today.
Explanation - Self-study is proactive, positive, independent in learning, acquiring knowledge, accumulating experience and forming skills for oneself.
Analysis
Why self-study?
The treasury of human knowledge is likened to a vast ocean and is continuously supplemented and edited; Parents and teachers cannot teach us everything
So besides the instruction of family and school, each student needs to accumulate on their own.
If we do not self-study and update new knowledge, we will become outdated and worn out.
Self-study has many interesting benefits:
+ The process of self-discovery, research, and discovery will help us receive knowledge naturally, comfortably, without restraint or pressure, and through experience, it will be easier to engrave deeply.
+ Self-study will allow us to indulge in our own passions.
+ Self-study makes us active, creative, not dependent on others, knowing how to supplement our own missing and weak parts to improve.
+ Contribute to saving time and money.
How do we self-study?
Prepare lessons, do homework, and review new lessons before going to class.
Extend and improve understanding of issues learned at school.
Learn soft skills, learn from books, television, the internet, and from people around you
Carefully take notes and apply what you learn to life.
Discuss
– Self-study is an important and necessary skill for students today.
– Self-study is not easy, it requires determination and perseverance.
|
Hướng dẫn
– Giới thiệu tác giả:Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyệnPhong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. ông là một trong những cây bút có công xâydựng nền văn học cách mạng miền Nam ngay từ buổi đầu.
– Giới thiệu tác phẩm: “Mùa xuân nho nhỏ”được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện tinh yêu cuộc sống, yêu đất nước thiết tha và những ước nguyện của nhà thơ.
– Giới thiệu đoạn trích:Đoạn thơ là ba khổ đầu của bài, vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong sáng, đẹp đẽ, khung cảnh đất nước tràn đầy khí xuân và bộc lộ tấm lòng của nhà thơ đối với đất nước, với cuộc đời.
a) Bức tranh thiên nhiên mùa xuân (6 câu đầu)
* Bức tranh thiên nhiên trong 6 câu đầu được vẽ bằng vài nét châm phá nhưng rất đặc sắc.
– Đó là bức tranh giàu hình ảnh và màu sắc:
+ Có sắc xanh của dòng sông, có màu tím biếc của hoa, có cánh chim chiền chiên bay vút lên trời cao. Không gian thơ rất rộng mở: vừa cao vừa rộng dài. Màu xanh tươi non của sự sống mới là màu sắc chủ đạo của bức tranh, rất hài hòa với sắc tím – đặc trưng của xứ Huế.
+ Nghệ thuật đảo ngữ và việc sử dụng động từ “mọc”ở ngay câu thơ đầu tiên khiến bông hoa trở thành điểm nhấn đặc sắc của bức tranh. Một bông thôi nhưng sức sống của nó mãnh liệt vô cùng!
– Đó cũng là bức tranh rộn rã, tươi vui với tiếng chim chiền chiên hót vang trời. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng ở các câu 5, 6 – từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (có hình khối, cảm nhận bằng thị giác). Tiếng chim trong ánh sáng của mùa xuân, lan tỏa khắp bẩu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”hay là giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong veo, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc? Nhưng dù hiểu theo cách nào đi nữa, tác giả cũng thật tài tình, gợi s’ự trong trẻo, thanh khiết của mùa xuân.
=>Tất cả đã tạo nên một bức tranh xuân tươi mới, căng tràn nhựa sống và rất đỗi bình yên.
* Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất trời
– Nhà thơ đã quan sát và cảm nhận khí xuân tươi vui bằng nhiều giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, nhưng hơn cả là bằng tâm hồn rộng mở, luôn mở rộng lòng hướng tới sự hòa hợp với thiên nhiên.
– Niềm say mê của nhà thơ còn thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi”, “hót chi mà”.Đặc biệt, nhà thơ còn vừa nâng niu, trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của đất trời
=>Dường như nhà thơ đang say sưa, ngây ngất trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân.
b) Hình ảnh đát nước mùa xuân
Không khí xuân tràn ngập mọi nẻo đường của Tổ quốc
“Mùa xuân người câm súng
…
Tất cả như xôn xao”
– Hai câu đầu khổ gợi liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận với cành là ngụy trang.”Lộc dắt đầy quanh trong mỗi sự vật và cả trong lòng người, trong sức trẻ.
Hai câu tiếp là hình ảnh những người nông dân cần cù, chăm chỉ đang ươm mẩm cho sựsống trên những cánh đồng quê hương. Hai câu thơgợi ra cái màuxanh non mơn mởn trải dài mênh mông trên mọi miền quê nước Việt.
=>Qua đó,tác giả đã khái quát được hai nhiệm vụ chính của đất nước Việt Nam thời kì mới: vừa “vững tay cày” – tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế vừa “chắc … tay súng” – bảo vệ nến độc lập mới giành được. Đồng thời, tiếng thơ cũng bộc lộ tình yêu mến, tự hào về những con người đã góp phần quan trọng làm nêndiện mạo đất nước: người lao động và người chiến sĩ.
“Tất cả nhưhối hả/ Tất cả nhưxôn xao”:Điệp từ “tất cả”cùng các từ láy tượnghình, tượng thanh đã tái hiện không khí hối hả, vội vã, khẩn trương, không ngừng nghỉ trên khắp đất nước. Cái náo nức, hổ hởi, sự hăm hở như căng tràntrong mỗi con người.
*Suy ngẫm về đất nước của nhà thơ
Đất nước được nhân hóa như một bà mẹ “vất vả và gian lao”nhưng vẫn “cứđi lên phía trước”.Câu thơ nhưchứa trong nó cả ngàn năm lịch sửdựng nước, giữnước đắy gian khổ, nhọc nhằn, đau thương của dân tộc ta.
– Nhà thơ bộc lộ niềm tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng, trường tồn, bấtdiệt của đất nước qua hình ảnh so sánh “đất nước nhưvì sao”.
– Hình ảnh “đất nước” điệp lại hai lần cũng thể hiện niềm xúc động, tự hào và
Tình yêu nước của nhà thơ.
=> Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu, niềm tin, niềm hạnh phúc, tự hào của nhà thơ trước sự đổi thay của đất nước.
Nghệ thuật
Thể thơ năm chữ gần với những làn điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ nhưđiệu của tâm hồn, cách gieo vần chân tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
Hình ảnh tự nhiên, giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng (“cành hoa”, “con chim”, nốt trầm”).
Câu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mừa xuân đất trời -> đất nước -> con người.
|
Instruct
– Author introduction: Thanh Hai's birth name is Pham Ba Ngoan, from Phong Dien district, Thua Thien Hue province. He is one of the writers who contributed to building revolutionary literature in the South from the beginning.
– Introduction to the work: "Little Spring" was written in November 1980, not long before the poet's death, expressing the poet's love for life, his passionate love for his country and his wishes.
– Introducing the excerpt: The poem is the first three stanzas of the poem, painting a picture of pure, beautiful nature, a country scene full of spring and revealing the poet's heart for the country, with life.
a) Spring nature picture (first 6 sentences)
* The picture of nature in the first 6 sentences is drawn with a few sarcastic but very unique strokes.
– It is a painting rich in images and colors:
+ There is the green color of the river, the purple color of the flowers, and the wings of the lark soaring high into the sky. The poetic space is very open: both high and wide. The fresh green of new life is the main color of the painting, very harmonious with the purple color - a characteristic of Hue.
+ The art of anagrams and the use of the verb "grow" in the first verse make the flower a unique highlight of the painting. Just one flower but its vitality is extremely strong!
– It is also a bustling, cheerful picture with the sound of larks singing loudly in the sky. The metaphorical art of sensory conversion is used in sentences 5 and 6 - from sound (perceived by hearing) to drops (shaped, perceived by sight). The sound of birds in the light of spring spreads throughout the sky as if condensed into "drops of glitter" or spring raindrops, spring dew drops, clear, falling to each branch and leaf like seeds. gem? But no matter how you understand it, the author is very talented, evoking the clarity and purity of spring.
=>All have created a fresh spring picture, full of life and very peaceful.
* The author's feelings before the spring of heaven and earth
– The poet observed and felt the joyful spring air with many senses such as sight, hearing, touch, but most of all with an open soul, always open to harmony with nature.
– The poet's passion is also expressed through his affectionate look at the landscape, in his direct expressions like a conversation with nature: "Oh", "Why sing". In particular, the poet also Both cherish and cherish spring, earnestly and affectionately: reaching out to catch every drop of glitter from heaven and earth.
=>It seems that the poet is intoxicated and ecstatic about the scenery of Hue in the spring.
b) Image of spring water
Spring air fills every corner of the Fatherland
“In the spring, people silence their guns
…
Everything is like a stir"
– The first two stanzas evoke thoughts of soldiers going into battle with camouflage branches.
The next two sentences are images of industrious and hard-working farmers cultivating life in the fields of their homeland. The two verses evoke the lush green color that stretches across the vast countryside of Vietnam.
=>Thereby, the author has summarized the two main tasks of the country of Vietnam in the new period: both "steadfastly plowing" - increasing production and economic development and "strongly... gunning" - protecting New independence candle won. At the same time, poetry also reveals love and pride for the people who have made an important contribution to the country's appearance: workers and soldiers.
"Everything is in a hurry/ Everything is like a stir": The refrain "all" along with figurative and onomatopoeic words recreates the bustling, hasty, urgent, and non-stop atmosphere across the country. The excitement, excitement, and eagerness seem to overflow in every person.
*Reflection on the poet's country
The country is personified as a mother who "works hard and suffers" but still "keeps moving forward". The poem seems to contain thousands of years of history of building and maintaining the country filled with hardships, hardships, and pain of the nation. ta.
– The poet expressed his confidence and pride in the country's bright, lasting, and immortal future through the comparison image "the country is like a star".
– The image of “country” repeated twice also shows emotion, pride and joy
The poet's patriotism.
=> Through that, we feel the poet's love, faith, happiness, and pride in the face of the country's changes.
Art
The five-word poetic form is close to folk melodies, the sound is clear, gentle, earnest, the poetic rhythm is like the rhythm of the soul, the rhyme scheme creates a seamless flow of emotions.
Natural, simple images that are rich in symbolic meaning ("flower branch", "bird", deep note").
The four verses of the poem are tight, mainly based on the development of the image of spring: from spring, earth and sky -> country -> people.
|
Hướng dẫn
Dẫn dắt, trích dẫn lời dạy của Bác.
Chỉ ra vấn đề cần nghị luận là ý chí vượt khó và lòng kiên trì của con người.
a) Giải thích
“Khó”:chỉ mức độ phức tạp, yêu cầu cao, thậm chí là không thể làm được.
“Bền”:là sự kiên trì, không nản lòng và bỏ cuộc.
“Đào núi”, “lốp biển”:hình ảnh tượng trưng cho những việc vô cùng khó khăn, vất vả, tưởng chừng như không thể làm được.
“Quyết chí”: cóý chí và quyết tâm thực hiện.
=> Lời dặn của Bác đã chỉ ra những phẩm chất quan trọng cần có ở thanh niên Việt Nam hiện nay là ý chí vượt khó và lòng kiên trì.
b) Phân tích, chứng minh
* Vì sao phải có tinh thần vượt khó
Cuộc sống vốn không bằng phẳng, luôn có những điều khó khăn, thách thức ta. Nếu không vượt được khó, không kiên trì, nhẫn nại thì chúng ta dễ bỏ dở giữa chừng, không đi được đến đích.
* Vì sao nếu quyết chí thì sẽ vượt qua được mọi khó khăn?
Nhờ có ý chí mạnh mẽ và lòng kiên trì, chúng ta sẽ không bỏ cuộc mà tìm ra nhiểu phương án khác nhau khi gặp khó khăn, thách thức.
Nó sẽ khiến ta mạnh mẽ, trưởng thành và dễ bước tới thành công hơn.
(Thí sinh lấy ví dụ minh họa)
c) Bàn luận
Ý chí, nghị lực, lòng kiên nhẫn có vai trò quan trọng trong việc quyết định thành bại của mỗi công việc nói riêng và cả sự nghiệp của mỗi con người nói chung. Có mục đích đúng đắn là chưa đủ, cần phải có lòng kiên trì, nhẫn nại, quyết tâm thực hiện đến cùng và những phương pháp làm việc năng động, sáng tạo thì chúng ta mới có thể biến ước mơ thành hiện thực.
|
Instruct
Guide and quote Uncle Ho's teachings.
Pointing out the issue that needs to be discussed is the will to overcome difficulties and human perseverance.
a) Explain
“Difficult”: indicates a level of complexity, high requirements, even impossible.
“Durable”: is perseverance, not getting discouraged and not giving up.
"Digging mountains", "sea tires": images that symbolize extremely difficult, strenuous, seemingly impossible tasks.
“Determination”: having the will and determination to carry out.
=> Uncle Ho's advice pointed out the important qualities needed in today's Vietnamese youth: the will to overcome difficulties and perseverance.
b) Analyze and prove
* Why must we have the spirit of overcoming difficulties?
Life is not flat, there are always difficulties and challenges. If we can't overcome difficulties, don't persevere and be patient, we can easily give up halfway and not be able to reach the destination.
* Why can you overcome all difficulties if you are determined?
Thanks to our strong will and perseverance, we will not give up but find many different solutions when we encounter difficulties and challenges.
It will make us stronger, more mature and easier to reach success.
(Candidates give illustrative examples)
c) Discussion
Will, energy, and patience play an important role in determining the success or failure of each job in particular and each person's career in general. Having the right goal is not enough, we need to have perseverance, patience, determination to follow through and dynamic and creative working methods so we can turn our dreams into reality.
|
Hướng dẫn
Cảm nhận về 2 khổ thơ trên.
Thực chất, đây là kiểu bài so sánh 2 văn bản. Các bước làm kiểu bài này là:
– Giới thiệu 2 tác giả, 2 tác phẩm, 2 văn bản cần nghị luận.
– Lần lượt phân tích/cảm nhận từng văn bản.
– So sánh: chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa 2 văn bản, lí giải điểm giống và khác nhau đó.
– Đánh giá, tổng kết.
Giới thiệu 2 tác giả, 2 tác phẩm.
Giới thiệu,trích dẫn hai khổ thơ:Hai khổ thơ là hai bức tranh thiên đẹp về mùa xuân, mùa thu; đều bộc lộ cái nhìn tinh tế và tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của hai cây bútThanh Hải và Hữu Thỉnh.
* Cảm nhận về khổ 1 của bài thơ “Mùaxuân nho nhỏ”:xem lại đề 20.
* Cảm nhận về khổ 1 của bài thơ “Sang thu”:xem lại đề 21.
* So sánh:
– Giống nhau:
+Cả 2 khổ đều được viết theo thể thơ 5 chữ, cô đọng, hàm súc; vận dụng hiệu quả các phép tu từ (đảo ngữ, nhân hóa, ẩn dụ); sử dụng cả những hình ảnh hữu hình (dòng sông, bông hoa, chim chiền chiên, sương) và vô hình (tiếng chim, hương ổi); ngòi bút miêu tả rất mềm mại, tinh tế; hình ảnh thơ bình dị, thân thuộc.
+Các tác giả đã vẽ nên hai bức tranh thiên nhiên thật trong trẻo, bình yên, đẹp đẽ.
+Cả 2 khổ thơ đểu cho thấy sự quan sát tỉ mỉ, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của hai nhà thơ.
Khác nhau:
|
Instruct
Comments on the two stanzas above.
Essentially, this is a type of article comparing two texts. The steps to make this type of article are:
– Introduce 2 authors, 2 works, 2 documents to discuss.
– Analyze/feel each text in turn.
– Compare: point out similarities and differences between two texts, explain those similarities and differences.
– Evaluation and summary.
Introducing 2 authors, 2 works.
Introduce and quote the two stanzas: The two stanzas are two beautiful pictures of spring and autumn; All reveal the delicate vision and sensitive soul, love of nature, love of life of two writers Thanh Hai and Huu Thinh.
* Feelings about stanza 1 of the poem "Little Spring": review topic 20.
* Feelings about stanza 1 of the poem "Autumn Festival": review topic 21.
* Compare:
- Alike:
+Both stanzas are written in 5-word poetic form, condensed and concise; effectively apply rhetorical devices (anagrams, personification, metaphors); uses both tangible (river, flowers, larks, dew) and intangible (bird sounds, guava scent); The pen's description is very soft and delicate; Simple, familiar poetic images.
+The authors have painted two pictures of nature that are truly clear, peaceful, and beautiful.
+Both stanzas show the meticulous observation, delicate, sensitive soul, love of nature, and love of life of the two poets.
Different:
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Dẫn dắ tý kiến:Đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”của Nguyễn Thành Long, chúng ta thấy yêu con người Việt Nam hơn.
a) Giải thích ý kiến
Nói “Đọc truyện ngân Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, chúng ta thấyyêu con người Việt Nam hơn”bởi tác giả đã đem đến cho người đọc những câu chuyện thú vị và cảm động về những con người hiền hậu, yêu lao động, có lí tưởng sống cao đẹp, để từ đó, truyền thêm cảm hứng và tình yêu cuộc sống, niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những con người đó là anh thanh niên trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600m, lá bác lái xe, ông họa sĩ già và cô kĩ sư mới ra trường,..
b) Phân tích đoạn trích
* Nhân vật anh thanh niên:
* Nhân vật ông họa sĩ:
– Đây không phải là nhân vật chính nhưng có vai trò quan trọng bởi người kể chuyện đã nhập thân vào cái nhìn của ông để kể lại toàn bộ câu chuyện.
– Ông là một người từng trải trong nghệ thuật và cuộc sống, một người nghệ sĩ chân chính, yêu cuộc đời, yêu cái đẹp, có khát vọng sáng tạo. ông đả bỏ lại sau lưng đô thị phồn hoa để đi tìm cảm hứng sáng tác mới cho mình.
– Ông có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế: Phát hiện ra những vẻ đẹp đặc biệt của anh thanh niên, nhận thấy anh là đối tượng nghệ thuật mà ông hằng ao ước, là hiện thân của vẻ đẹp con người Sa Pa.
* Nhân vật cô kĩ sư:
– Đó là một cô gái trẻ nhưng bản lĩnh, nghị lực phi thường, cỏ đã bỏ lại một mối tình nhạt nhẽo, xa gia đình, xung phong công tác ở vùng núi cao.
– Cô có tâm hổn nhạy cảm, luôn khao khát được khám phá, được nhận thức. Cô cảm nhận được tình yêu cuộc sống của anh thanh niên, cách ứng xửtự nhiên, chân thành mà cũng rất lãng mạn của anh (cô bàng hoàng nhận bó hoa).Từcâu chuyện của anh thanh niên, cô cũng nhận ra cuộc sống này thật đáng để yêu, để sống.
=> Cô là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và nhiệt huyết của tuổi trẻ.
* Những nhân vật khác: bác lái xe, ông kĩ sư nông nghiệp.
Bác lái xe là người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc, đã có hơn 30 năm lái xe và an hiểu tường tận về Sa Pa. Bác có tính cách nhiệt tình, hiển hậu (mua sách giúp và kết nối anh thanh niên với mọi người)
-Ông kĩ sư nông nghiệp, anh bạn nghiên cứu bản đổ đất sét,… là những nhân vật được nhắc đến gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, luôn hào hứng với công việc, bất chấp mọi thử thách và sự khắc nghiệt của thời gian.
c) Đặc sắc nghệ thuật của truyện:
– Khẳng định lại ý kiến trên là đúng.
– Liên hệ và rút ra bài học về sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ, sự hiền dịu và tinh thẩn cởi mở, sẻ chia trong cuộc sống – đúng như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Nếu là con chim, chiếc ló
|
Instruct
Introducing the author and his work
Leading opinion: Reading the short story "Quiet Sa Pa" by Nguyen Thanh Long, we love the Vietnamese people more.
a) Explain your opinion
Saying "Reading the story Quiet Sa Pa by Nguyen Thanh Long, we love the Vietnamese people more" because the author has brought readers interesting and touching stories about gentle people who love work. , has a noble ideal of life, from there, inspires more inspiration and love for life, and belief in a better life. Those people are the young man on the top of Yen Son mountain 2,600m high, the driver, the old painter and the newly graduated engineer,...
b) Analyze the excerpt
* Young man character:
* Character of the artist:
– This is not the main character but has an important role because the narrator has embodied his vision to tell the entire story.
– He is a person with experience in art and life, a true artist, who loves life, loves beauty, and has creative aspirations. He left behind the bustling city to find new inspiration for his work.
– He has a sensitive and delicate soul: Discovering the special beauty of the young man, realizing that he is the art object he always desires, the embodiment of the beauty of Sa Pa people.
* Engineer character:
– She is a young girl with extraordinary bravery and determination. She left behind a bland love affair, was far from her family, and volunteered to work in the high mountains.
– She has a sensitive mind, always yearning to explore and be understood. She felt the young man's love for life, his natural, sincere and also very romantic behavior (she was shocked to receive the bouquet of flowers). From the young man's story, she also realized this life. It's worth loving and living.
=> She is a symbol of the strong vitality and enthusiasm of youth.
* Other characters: driver, agricultural engineer.
The driver is a person who loves his job and is responsible for his job. He has been driving for more than 30 years and has a thorough understanding of Sa Pa. He has an enthusiastic and brilliant personality (helped buy books and connected the young man with everyone).
-The agricultural engineer, the guy who studies clay maps,... are characters mentioned indirectly through the story of the young man, always excited about his work, despite all the challenges and harshness. of time.
c) Artistic characteristics of the story:
– Reaffirming that the above opinion is correct.
– Contact and learn lessons about quiet dedication, gentleness and an open and sharing spirit in life – just as poet To Huu once wrote:
If it's a bird, it's a turtle
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Giới thiệu vấn đề cân nghị luận:Hình tượng chiếc lược ngà là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Quang Sáng, tượng trưng cho tình cha con đậm sâu, thiêng liêng, bất tử.
a) Tóm tắt truyện
Ông Sáu sau 8 năm xa nhà đi kháng chiến được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. ông đã vô cùng hạnh phúc, xúc động, mong chờ được nghe con gọi một tiếng ba nhưng bé Thu đã không nhận ông là cha. ông đã cố gắng tìm mọi cách để được gần gũi với con nhưng không được. Chỉ đến lúc ông phải lên đường về lại đơn vị, béThu mới nhận ra ông. Hai cha con tạm biệt nhau trong nước mắt.
-Trở lại đơn vị, ông Sáu dồn cả tình yêu, nỗi nhớ, nồi ân hận, day dứt vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con nhưng chưa kịp trao cho con thì ông đã hi sinh trong 1 trận càn lớn của Mĩ – Ngụy. Sau này, chiếc lược được bác Ba, đồng đội của ông trao lại choThu.
b) Hình tượng chiếc lược ngà
* Câu chuyện chiếc lược
-Trong giờ phút chia tay ba, béThu thổ lộ mong muốn và dặn dò: “Bơ về, ba mua cho con một cây lược nghe ba!”.
Ông Sáu đã mang theo lời dặn ấy vào chiến trường, dồn tất cả tình yêu thương và nỗi nhớ, cùng cả nỗi ân hận (vì đã lỡ tay đánh con) để làm chiếc lược.
+Ông Sáu không giấu nổi niềm hạnh phúc khi tìm được khúc ngà, liền “hớt hởi chạy vê, tay cẩm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.”
+Ông tỉ mỉ làm chiếc lược bằng tất cả say mê và yêu thương: “lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc ràng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.”
+Ông khắc lên đó tình yêu và nỗi nhớ con khôn nguôiYêu nhớtặng Thu, con của ba”.
+”Những đêm nhớ con, anh ít nhớ đến nỗi hối hận đánh con, nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con.”
=> Chiếc lược đã gỡ rối được phẩn nào tâm trạng của ông.
Nhưng tiếc thay, ông mất khi chưa kịp trao chiếc lược cho con. Trong những phút cuối đời, ông đã gửi lại đồng đội chiếc lược với thỉnh cầu bằng đôi mắt thiết tha, nhờ trao tận tay chiếc lược cho con gái. Viên đạn của kẻ thù khiến ông phải từ giã cõi đời nhưng lời hứa, tình yêu thương con vẫn còn mãi mãi.
* Ý nghĩa của hình tượng chiếc lược ngà
Là kỉ vật thiêng liêng, là chiếc cầu nối giữa cha con ông Sáu.
Là biểu tượng cho tình cha con bất diệt, không gì ngăn cản được.
Góp phần thúc đầy sự phát triển của cốt truyện, tạo ra tình huống éo le thứ hai và tăng thêm những cảm xúc đầy lắng đọng, dư ba.
c) Đặc sắc nghệ thuật
Xây dựng tình huống truyện éo le, đau xót và đầy bất ngờ.
Lựa chọn ngôi kể thứ nhất – lời kể tỉ mỉ của một người chứng kiến toàn bộ câu chuyện cùng giọng văn trầm lắng, đậm chất suy tư làm tăng sự khách quan, chân thực của truyện và tạo sự ám ảnh trong tâm trí người đọc.
|
Instruct
Introducing the author and his work.
Introducing the issue of discussion: The image of an ivory comb is a unique creation of Nguyen Quang Sang, symbolizing the deep, sacred, and immortal love between father and son.
a) Summary of the story
Mr. Sau, after 8 years of being away from home in the resistance war, was given three days off to visit home and his children. He was extremely happy and touched, looking forward to hearing his child call him dad, but little Thu did not recognize him as her father. He tried every way to be close to his child but could not. Only when he had to return to the unit did Thu recognize him. Father and son said goodbye to each other in tears.
-Back at the unit, Mr. Sau poured all his love, nostalgia, regret, and torment into making an ivory comb to give to his son, but before he could give it to his son, he died in a major American raid - Wei. Later, the comb was given to Thu by Uncle Ba, his teammate.
b) The image of an ivory comb
* The story of the comb
-In the moment of saying goodbye to her father, little Thu confessed her wishes and advised: "When you come home, I'll buy you a comb!".
Mr. Sau brought that advice to the battlefield, pouring all his love and nostalgia, along with his regret (for accidentally hitting his child) into making a comb.
+Mr. Sau could not hide his happiness when he found the ivory piece, immediately "excitedly ran back, holding up the ivory piece to show it to me. His face was as happy as a child receiving a gift.”
+He meticulously made the comb with all his passion and love: "take a twenty-millimeter American bullet shell, cut it thin to make a small saw, and cut the ivory into small pieces. In his free time, he saws each comb, carefully, meticulously and diligently like a silversmith.
+He engraved on it his love and endless nostalgia for his son. He loved Thu, my child."
+"On nights when I miss my child, I rarely remember that I regret hitting my child, missing my child, I take out a comb to look at it and then grind it on my hair to make it more shiny and smoother. With the comb, I look forward to seeing you again."
=> The comb has somewhat untangled his mood.
But unfortunately, he passed away before giving the comb to his son. In the last minutes of his life, he sent the comb back to his teammates with a request with earnest eyes, asking to hand-deliver the comb to his daughter. The enemy's bullet caused him to leave this world, but the promise and love for his children remained forever.
* The meaning of the image of the ivory comb
It is a sacred souvenir, a bridge between Mr. Sau's father and his son.
It is a symbol of eternal father-son love, which nothing can stop.
Contributes to the development of the plot, creates a second difficult situation and adds lingering, lingering emotions.
c) Artistic characteristics
Build story situations that are sad, painful and full of surprises.
Choosing the first person narrator - the detailed narration of a person who witnessed the entire story with a quiet, contemplative tone increases the objectivity and authenticity of the story and creates an obsession in the reader's mind. .
|
Hướng dẫn
– Trích dẫn ý kiến và nêu ra vấn đề cần nghị luận: vai trò của tình bạn trong cuộc sống của mỗi con người.
a) Giải thích ý kiến
Tinh bạn là tình cảm đáng quý giữa người với người, thường nảy sinh dựa trên sự đồng cảm về một khía cạnh, một vấn đề nào đó của cuộc sống như hoàn cảnh, công việc, sở thích, đam mê, chí hướng,… và giữa họ sự hiểu biết, tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau.
Mặt trời: mang lại ánh sáng và sự sống cho muôn loài. Nêu không có mạt trời, sự sống sẽ không còn tổn tại.
=> Qua cách so sánh “Cuộc đời mất đi tình bạn củng giống nhưthếgiới mất đi mặt trời”,ta thấy tình bạn có ý nghĩa quan trọng với con người.
b) Phân tích, chứng minh
Bạn sẽ là người cùng san sẻ với chúng ta những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, giúp ta được nhân lên niểm vui hoặc giải tỏa căng thẳng.
Bạn là người có thể giúp đỡ khi chúng ta cẩn, cả về vật chất và tinh thẩn, nhất là khi ta gặp khó khăn, trở ngại.
Bạn cũng sẽ là người phân tích giúp ta đúng, sai, nên hay không nên; chỉ ra cho ta những thiếu sót để ta khắc phục, hoàn thiện bản thân mình.
Bạn có thể là người sẽ cùng ta chinh phục những ước mơ.
(Thí sinh lấy ví dụ về những tình bạn đẹp: Lưu Bình – Dương Lễ, Nguyễn Khuyến Dương Khuê, Bá Nha – TửKì, Các-Mác – Lê-nin,…)
=>Nếu không có tình bạn, cuộc sống của con người sẽ thật buồn tẻ, khi khó khăn thiếu người giúp đỡ; thiếu đi những lời khuyên bổ ích,…
c) Bàn luận
Tinh bạn phải xuất phát từ sự thấu hiểu, thương mến chân thành, không vụ lợi. * * -Tinh bạn thật đáng quý nên cần phải biết trân trọng, giữ gìn: vị tha không vị kỉ,
sẵn sàng sẻ chia, giúp đờ lẫn nhau, tôn trọng nhau, giữchữtín,…
|
Instruct
– Quote opinions and raise issues that need discussion: the role of friendship in every person's life.
a) Explain your opinion
Friendship is a precious feeling between people, often arising based on sympathy about a certain aspect or issue of life such as circumstances, work, hobbies, passions, aspirations,... and between them mutual understanding, respect and trust.
Sun: brings light and life to all living things. If there were no end of heaven, life would no longer exist.
=> Through the comparison "Life losing friendship is like the world losing the sun", we see that friendship has important meaning to people.
b) Analyze and prove
You will be the person who shares with us the joys and sorrows in life, helping us multiply joy or relieve stress.
You are someone who can help us when we are in need, both physically and mentally, especially when we encounter difficulties and obstacles.
You will also be the one to help us analyze right or wrong, should or should not; Point out our shortcomings so we can overcome and improve ourselves.
You can be the person who will conquer our dreams with us.
(Contestants give examples of beautiful friendships: Luu Binh - Duong Le, Nguyen Khuyen Duong Khue, Ba Nha - Tu Ky, Karl Marx - Lenin,...)
=> Without friendship, people's lives would be dull, when difficulties arise, there would be no one to help them; Lack of useful advice,…
c) Discussion
Friendship must come from understanding, sincere love, not self-interest. * * -Friendship is so precious that we need to cherish and preserve it: altruistic, not selfish,
ready to share, help each other, respect each other, keep trust,...
|
Hướng dẫn
– Giới thiệu tác giả:Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) là nhà thơ khoác áo lính và là một gương mặt tiêu biểu trong thê’ hệ thơ trẻ thời chống Mĩ. ông thường viết về những người lính và những cô thanh niên xung phong với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
Giới thiệu tác phẩm:
+ ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính”viết năm 1969, in trong tập “Vâng trâng quầng lửa”vảnằm trong số những bài được giải Nhất cuộc thi thơ báo Vân nghệ năm 1969 -1970.
+ Tác phẩm đã khấc họa thành công hình tượng những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời kì chống Mĩ – trẻ trung, lạc quan, ỵêu đời, dũng cảm và sống hết mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Giới thiệu đoạn trích:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Đoạn trích trên là ba khổ cuối của bài, cho ta thấy vẻ đẹp của tình đồng đội, đông chí, của sự trẻ trung, lạc quan và lí tưởng cao đẹp trong mỗi người lính.
Khái quát: Hình tượng người lính được khắc họa trên cái phông nền là cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, khó khăn và thiếu thốn mà những chiếc xe tàn tạ vì bom đạn kẻ thù là một minh chứng rõ ràng nhất. Nhưng khó khăn không làm họ nản chí, sờn lòng mà ngược lại, càng làm nổi bật lên những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý, đáng trọng.
Hai khổ thơ đầu – vẻ đẹp của tình đồng đội
Những người lính gặp nhau trên đường ra trận:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Không phải là một “chiếc xe không kính”bước ra từ bom đạn mà “những chiếc xe”,thậm chí đã “họp thành tiểu đội”.Nghĩa là, sựtàn phá của kẻ thù bao trùm lên tất cả, dữ dội và tàn khốc.
Thế nhưng, dưới cái nhìn tràn đầy sự lạc quan của những chàng lính trẻ, đó lại là điểu kiện tốt để họ dễ dàng giao lưu với đồng đội của mình:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bát tay qua cửa kính vỡ rồi.
Cửchỉ “báttay”thật đơn sơ nhưng nhờ đó người lính lái xe Trường Sơn đã chia sẻ cho nhau niểm tự hào, kiêu hãnh và bộc lộ sự đồng cảm sâu sắc. Đó không chỉ là lời chào mà còn là lời động viên thẩm lặng mà nồng nhiệt. Họ bắt tay như để trao cho nhau sức mạnh tinh thẩn vôgiá!
– Không những thế, họ còn gắn bó với nhau như một gia đình:
Bếp Hoàng câm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Đây là những khoảnh khắc bình yên, hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời người lính. Họ được quây quẩn bên nổi cơm nấu vội, được sống với những tình cảm êm đểm, ấm áp nhất. Bữa cơm thời chiến đã xóa mọi khoảng cách giữa họ, khiến họ có cảm giác gần gũi như ruột thịt. Và phải chăng, chính nhờ những phút giây bình yên và sự sẻ chia ấm áp ấy mà họ luôn nhìn đời bằng con mắt lạc quan, tin tưởng và đầy hăng hái, vui tươi: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”? (Có thể so sánh với những biểu hiện của tình đồng chí trong “Đồng chí” của Chính Hữu.)
Khổ cuối – Vẻ đẹp của lí tưởng cách mạng
– Đến đây, một lẩn nữa nhà thơ lại nhắc lại hình ảnh những chiếc xe:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Phép điệp từ “không”cùng nghệ thuật liệt kê đã miêu tả đầy đủ nhất về những chiếc xe – phương tiện của người lính, để từ đó, người đọc hình dung rõ nét nhất về sựtàn phá dữdội, khốc liệt của chiến tranh, về những hiểm nguy, gian khổ mà người lính phải đối mặt hằng ngày, hằng giờ.
– Song cũng chính trên cái nển hiện thực khốc liệt đó, vẻ đẹp lí tưởng nơi người lính lại càng tỏa sáng lung linh:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Vi miền Nam thân yêu, vì một ngày chiến thắng không xa, nước nhà độc lập và hai miền sum họp một nhà, họ sẵn sàng tiến bước, chẳng nể chi bởi “trong xe có một trái tim”.Hình ảnh “trái tim”hoán dụ cho tất cả con người với sức lực, tâm huyết dành trọn cho đất nước. Đồng thời, đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tinh thẩn trách nhiệm, ý chí chiến đấu vượt lên trên hoàn cảnh của mỗi người lính trẻ.
Nhận xét
|
Instruct
- Introducing the author: Pham Tien Duat (1941 - 2007) is a poet dressed as a soldier and a typical face in the generation of young poets during the anti-American era. He often writes about soldiers and young women volunteers in a vibrant, youthful, innocent, mischievous and profound tone.
Introducing the work:
+ "The poem about the car squad without windows" was written in 1969, published in the collection "Yes, halo of fire" and was among the poems that won first prize in the Van Nghe newspaper poetry contest in 1969 - 1970.
+ The work successfully portrays the image of cars without windows and the image of soldiers driving on the Truong Son route during the anti-American period - youthful, optimistic, loving life, brave and living hard for their career. liberate the South and unify the country.
Introducing excerpt:
“The cars fell from the bombs
As long as there is a heart in the car.”
The above excerpt is the last three stanzas of the article, showing us the beauty of camaraderie, the winter solstice, the youthfulness, optimism and noble ideals in every soldier.
Overview: The image of a soldier is portrayed against the backdrop of a life of combat full of hardship, difficulty and deprivation, of which the cars destroyed by enemy bombs are the clearest evidence. But difficulties do not discourage or discourage them, but on the contrary, highlight their good, precious, and respectable qualities.
The first two stanzas – the beauty of teamwork
Soldiers meet on their way to battle:
The cars fell from the bombs
Came here to form a squad
It was not a "glassless car" that emerged from the bombs and bullets, but "cars", even "grouped into squads". That is, the enemy's devastation covered everything, fierce and devastating. fierce.
However, from the optimistic perspective of the young soldiers, it is a good condition for them to easily interact with their teammates:
Met friends along the way
The hand passed through the broken glass door.
The "battay" gesture is simple, but thanks to that, the soldiers driving Truong Son shared with each other their pride and expressed deep sympathy. It was not just a greeting but also a quiet yet warm word of encouragement. They shook hands as if to give each other invaluable spiritual strength!
– Not only that, they also stick together like a family:
The Royal Kitchen is set up in the sky
Sharing bowls and chopsticks means family
The hammock is stuck on the road
These are rare moments of peace and happiness in a soldier's life. They were surrounded by hastily cooked rice and lived with the most peaceful and warm feelings. The wartime meal erased all the distance between them, making them feel as close as blood. And is it because of those moments of peace and warm sharing that they always look at life with optimistic, confident eyes and are full of enthusiasm and joy: "Let's go again, let's go again, the sky will be bluer"? (Can be compared with the expressions of comradeship in Chinh Huu's "Comrade".)
Last stanza – The beauty of revolutionary ideals
– Here, the poet once again recalls the image of cars:
No glasses, then the car has no lights,
There is no hood, the trunk has scratches
The alliteration "no" and the art of listing provide the most complete description of the vehicles - soldiers' vehicles, so that readers can have the clearest picture of the ferocious and fierce devastation of war. about the dangers and hardships that soldiers face every day and every hour.
- But precisely on that harsh reality, the ideal beauty of the soldier shines even more brightly:
The car still runs because the South is ahead: As long as there is a heart in the car.
For the beloved South, because one day victory is not far away, the country is independent and the two regions are reunited as one family, they are ready to move forward, without respect because "in the car there is a heart". The image of "heart" ”metaphor for all people with energy and dedication devoted to the country. At the same time, it is also a metaphor for the sense of responsibility and the will to fight beyond the circumstances of each young soldier.
Comment
|
Hướng dẫn
– Giới thiệu tác giả:Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, trong đó, tiêu biểu nhất là “Truyện Kiều”.
– Giới thiệu tác phẩm: “Truyện Kiều” (tức “Đoạn trường tân thanh”) là một truyện thơ Nôm gồm 3254 câu lục bát, được sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện”của Thanh Tâm Tài Nhân – Trung Quốc. Tác phẩm được đánh giá là kiệt tác số một của nền văn học Việt Nam không chỉ bởi giá trị nội dung sâu sắc mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Trong đó, phải kể đến tài năng điêu luyện trong bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du.
– Giới thiệu đoạn thơ:Đoạn thơ thuộc phần đầu của tác phẩm (Gặp gỡ và đính ước)là khung cảnh tiết thanh minh và cảnh du xuân của hai nàng Kiểu. Qua đó, ta sẽ cảm nhận được sựtài tình trong ngòi bút tả cảnh của Nguyễn Du.
Có thể chia đoạn trích thành hai phẩn: 4 câu đầu và 8 câu sau.
a. Đoạn 1 – bức tranh xuân đầy sức sống
-Thời gian nghệ thuật được gợi lên qua hai câu thơđầu: “Ngàyxuâncon énđưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”,tức khoảng tháng 3. Cách nói “con én đưa thoi”, “đã ngoài” chothấy sựtrôi chảy nhanh chóng của thời gian. Ở khổ này là một cảnh sớm xuân.
– Không gian thơ khoáng đạt và đậm chất xuân:
+Được gợi lên qua những cánh én chao lượn rộn ràng.
+ Không gian tràn ngập ánh nắng – “thiều quang”.
+Được mở ra với thảm cỏ non, xanh tươi mơn mởn, mềm mại, ngọt ngào, trải ”** rộng tới tận chân trời. Màu xanh là gam màu chủ đạo, tạo nên một không gian tươi mới, tràn đầy sức sống.
+Điểm tô điểm bằng những bông lê trắng trẻo, tinh khiết. Mượn ý từ câu thơ Đường của Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích/Lê chisổ điểm hoa”(Cỏ thơm liền với trời xanh/ Hoa lê đã nởtrên cành vài bông)nhưng Nguyễn Du đã diễn đạt thật sáng tạo – đảo trật tự cú pháp (đáng lẽ phải là cành lê điểm một vài bông hoa trắng) cùng với từ “tráng điểm”tạo nên nhãn tự cho cả bức tranh xuân. “Điểm một vài” có nghĩa là những bông hoa vẫn còn thưa thớt nhưng ta vẫn cảm nhận được sức sống của mùa xuân đang trỗi dậy, trong từng ngọn cỏ, từng bông hoa mới. Sựtài tình của Nguyễn Du là ở đó, bút pháp chấm phá được sửdụng rất điêu luyện nên nhà thơ tả ít mà gợi được nhiều, giúp người đọc hình dung và cảm nhận được một mùa xuân tinh khôi, thanh khiết, sống động.
Nghệ thuật: bút pháp chấm phá, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu sức gợi.
b) Đoạn 2 – cảnh lễ hội trong tiết thanh minh
* Lời giới thiệu (2 câu thơ đầu)
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”.
Nghệ thuật tiểu đổi cùng việc tách từ “lễ hội” ra làm đôi giúp Nguyễn Du miêu tả hai hoạt động cùng diễn ra trong ngày hội xuân: lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Lễ là để tri ân tổ tiên, hội là dịp những người trẻ tuổi đi du xuân, thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân.
* Buổi lễ hội tưng bừng, tấp nập (4 câu tiếp)
Các từ ghép hai âm tiết: “gân xa”, “yến anh”, “chị em”…cùng các từ láy “sám sửa”, “nô nức”, “dậpdìu”…thể hiện tâm trạng náo nức, tươi vui, sự rộn ràng trong lòng người du xuân.
Hình ảnh ẩn dụ “nônứcyến anh”một mặt gợi hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân, mặt khác gợi những xôn xao trong cuộc chuyện trò, gặp gỡ; những háo hức, tình tứ của những đôi lứa uyên ương.
Biện pháp so sánh” Ngựa xe như nước áo quẩn nhưnêm”tái hiện sựđông đúc, từng đoàn người chen vai thích cánh đi chơi xuân chật như nêm, cho ta cảm nhận được niềm vui ngày hội đang lan tỏa, bao trùm lên khắp nhân gian.
* Khoảng lặng của lễ hội
Là giây phút con người trong tuổi trẻ và mùa xuân thăm viếng, sửa sang quét tước phấn mộ người thân, rắc vàng vó, đốt tiền giấy cho họ, gợi một truyền thống đẹp trong đạo lí của dân tộc: uống ước nhớ nguồn và gợi lối sống ân tình, trân trọng, biết ơn quá khứ.
=>Qua 8 câu thơ, Nguyễn Du đã khắc họa thành công một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Phải chăng đây là môt dụng ý nghệ thuật sâu sắc của tác giả. Ông đã mượn một ngày hội lớn của mùa xuân để miêu tả một cuộc gặp gỡ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đời Thúy Kiều. Từ đó ta có thể thấy tâm điểm của bức tranh lễ hội này là con người trong hiện tại, mùa xuân, tuổi trẻ.
c) Nghệ thuật
-Tài nghệ sửdụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du. Đặc biệt ông đã sửdụng rất thành công hệ thống từ láy rất giàu giá trị biểu cảm.
|
Instruct
– Author introduction: Nguyen Du is a great poet of the Vietnamese people, a world cultural celebrity, he left behind a huge literary career, of which the most typical is "The Tale of Kieu". .
- Introduction to the work: "The Tale of Kieu" (ie "The Story of Tan Thanh") is a Nom poetic story consisting of 3,254 six-eight verses, composed based on the plot of the novel "Kim Van Kieu Story" by Thanh Tam Tai Nhan – China. The work is considered the number one masterpiece of Vietnamese literature not only because of its profound content value but also its unique art. Among them, Nguyen Du's skillful talent in describing scenes must be mentioned.
– Introducing the poem: The poem in the first part of the work (Meeting and Engagement) is the scene of the Qingming Festival and the spring trip of two Kieu girls. Through that, we will feel the ingenuity in Nguyen Du's pen describing the scene.
The excerpt can be divided into two parts: the first 4 sentences and the last 8 sentences.
a. Paragraph 1 – a vibrant spring picture
-Artistic time is evoked through the first two lines of the poem: "On spring day, the swallow shuttles / Thieu Quang is ninety and over sixty", which is around March. The way to say "the swallow shuttles", "out" shows the fast flow. swiftness of time. In this stanza, it is a scene of early spring.
– The poetic space is spacious and full of spring:
+Evocated through the fluttering wings of swallows.
+ The space is filled with sunlight - "lack of light".
+Opened up with a carpet of young, green, soft, sweet grass, spreading "** wide to the horizon. Blue is the main color, creating a fresh and vibrant space.
+Adorned with pure, white pear flowers. Borrowing ideas from the Chinese Tang poem "Phuong Thao Lien Thien Bich/Le Chi Sou Doc" (The fragrant grass is close to the blue sky/Pear flowers have bloomed on a few branches), but Nguyen Du expressed it very creatively - reversing the order. The syntax (it should be a pear branch with a few white flowers) along with the word "decorated" creates the tag for the whole spring picture. “Score a few” means that the flowers are still sparse but we can still feel the vitality of spring rising, in each blade of grass, each new flower. Nguyen Du's ingenuity lies in the fact that the dotting style is used very skillfully, so the poet describes little but evokes much, helping readers visualize and feel a pristine, pure, and lively spring.
Art: expressive writing style, rich visual and evocative language.
b) Part 2 – festival scene during Qingming period
* Introduction (first 2 verses)
“Clearing in the March period
Mass grave was the springboard algae bar".
The art of small change and separating the word "festival" into two helps Nguyen Du describe two activities that take place at the same time during the spring festival: the tomb sweeping ceremony and the Thanh Thanh festival. The ceremony is to pay tribute to ancestors, and the festival is an opportunity for young people to go on a spring trip and enjoy the beauty of spring.
* Jubilant and bustling festival (continued 4 sentences)
The two-syllable compound words: "ganh xa", "yen anh", "sister"... along with the words "repentance", "enthusiasm", "dìu"... express an excited, cheerful mood. excitement in the hearts of spring travelers.
The metaphorical image "eager for you" on the one hand evokes the image of bustling groups of people going out for spring, on the other hand evokes excitement in conversations and meetings; the excitement and love of lovebirds.
The simile "Horses and carriages are like water and water" recreates the crowding, groups of people jostling shoulder to shoulder to go out in the spring, making us feel the joy of the festival spreading, covering everyone. time.
* The silence of the festival
It is the moment when people in their youth and spring visit and repair their relatives' graves, sprinkle them with gold, and burn paper money for them, evoking a beautiful tradition in the nation's morality: drinking a wish, remembering the source and evokes a lifestyle of love, respect, and gratitude for the past.
=>Through 8 verses, Nguyen Du successfully portrayed an ancient cultural tradition of festivals. Is this a profound artistic intention of the author? He borrowed a major spring festival to describe an especially important meeting in Thuy Kieu's life. From there we can see that the focus of this festive picture is people in the present, spring, youth.
c) Art
-Nguyen Du's mastery of using language. In particular, he very successfully used a system of words that are rich in expressive value.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận:Tác phẩm là câu chuyện cảm động về tình cha con trong chiến tranh.
a) Cảnh ngộ của cha con ông Sáu
b) Tình cảm của cha con ông Sáu
* Trước khi béThu nhận cha -Tình cảm ông Sáu dành cho con:
+Nỗi nhớ mong, sựvồ vập khi mới gặp con và sựđau đớn khi bị con bé chối từ. + Những nỗ lực của ông Sáu để gần gũi con, để con gọi một tiếng “ba”.
+Sựcáu giận, nỗi bất lực của ông khi phải đánh con.
– Tình cảm của béThu dành cho cha:
+Em cương quyết không nhận ông Sáu là ba khi thấy ông không giống với người trong tấm hình chụp chung với má.
+Em phản ứng một cách quyết liệt, thậm chí còn xấc XƯỢC, bướng bỉnh để bảo vệ tình yêu em dành cho ba.
+Em ân hận, trằn trọc không ngủ được khi được ngoại giảng giải.
– Cảnh con nhận cha và cuộc chia tay đẫm nước mắt.
* Phẩn còn lại của câu chuyện
– Ông Sáu ở chiến trường không nguôi nhớ thương con, ân hận vì đã trót đánh con bé. Ông dồn tất cả tình yêu con để tựtay làm chiếc lược ngà tặng con như lời ông đã hứa lúc chia tay.
-Trước khi chết, ông Sáu vẫn cố dồn chút sức lực cuối cùng để gửi lại chiếc lược, nhờ đồng đội trao tận tay cho con gái ông.
Bé Thu lớn lên đã đi tiếp con đường của cha như để nối dài mãi tình cha con bất tử.
* Ý nghĩa của hình tượng chiếc lược ngà
– Là cầu nối giữa hai cha con ông Sáu.
– Tượng trưng cho tình cha con bất tử.
=>Tóm lại:
Qua “Chiếc lược ngà”,người đọc nhận ra hậu quả tình thẩn không nhỏ mà chiến tranh gâyra. Nó phẩn nào làm sứtmẻ, mấtmáttình cảm giađình, là niềm đau nhức nhối, dai dẳng trong lòng con người. Đây là đóng góp quan trọng của tác giả. -Truyện còn giúp người đọc nhận ra đời sống tình cảm mãnh liệt của con người Việt Nam. Chiến tranh dù khốc liệt đến đâu cũng không hủy diệt được tình cảm gia đình, tình cảm con người.
c) Nghệ thuật truyện
– Tình huống truyện bất ngờ, độc đáo, éo le
-Phân tích tâm lí nhân vật tình tế, sâu sắc.
– Câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất, người kể xưng “tôi” có mặt và chứng kiến toàn bộ câu chuyện có tác dụng rõ rệt trong việc vừa kể chuyện vừa bày tỏ sựđồng cảm với các nhận vật và thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
– Lối kể chuyện tự nhiên, giàu cảm xúc.
|
Instruct
Introducing the author and his work.
Introducing the issue to be discussed: The work is a touching story about father-son love during war.
a) The plight of Mr. Sau's father and son
b) The relationship between Mr. Sau's father and his son
* Before the baby accepted his father - Mr. Sau's feelings for his child:
+The longing, the rush when I first met my child and the pain when she rejected me. + Mr. Sau's efforts to be close to his child, to let him call out "daddy".
+His anger and helplessness when he had to hit his child.
– Thu's feelings for her father:
+I firmly refused to accept Mr. Sau as my father when I saw that he was not the same as the person in the photo taken with my mother.
+I reacted fiercely, even being insolent and stubborn to protect my love for my father.
+I regretted it and couldn't sleep when my grandmother explained it to me.
– The scene where the child recognizes his father and the tearful farewell.
* The rest of the story
- Mr. Sau on the battlefield couldn't help but miss his child and regretted having beaten her. He put all his love into making an ivory comb for his child as he promised when he broke up.
-Before he died, Mr. Sau still tried to muster the last bit of strength to send back the comb, asking his teammates to hand it to his daughter.
Baby Thu grew up and continued on her father's path as if to continue the immortal father-son love.
* The meaning of the image of the ivory comb
– Is a bridge between Mr. Sau's father and son.
– Symbolizes the immortal love between father and son.
=>Summary:
Through "The Ivory Comb", readers realize the significant emotional consequences that war causes. It somehow causes damage and loss of family affection, a painful and persistent pain in people's hearts. This is an important contribution of the author. -The story also helps readers realize the intense emotional life of Vietnamese people. No matter how fierce war is, it cannot destroy family love and human love.
c) Story art
– Unexpected, unique, tragic story situations
-Analyze the character's psychology delicately and deeply.
– The story is told from the first person, the narrator says "I" was present and witnessed the entire story, which has a clear effect in both telling the story and expressing sympathy with the characters and expressing the content of thought. idea of the work.
– Natural, emotional storytelling.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả: Nhà thơ Bằng Việt bắt đầu sáng tác vào những năm 60 của thế kỉ XX và nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thường hấp dẫn người đọc bởi những cảm xúc trong sáng, chân thành và lối viết giản dị, tự nhiên.
Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ “Bếp lửa”được viết năm 1963 – khi Bằng Việt đang là sinh viên luật ở trường đại học Tổng hợp ki-ép (Liên Xô); in trong tập “Hương cây- bếp lửa”(1968) – tập thơ đầu tay của ông và Lưu Quang Vũ. Tác phẩm làm lay động trái tim độc giả bởi những kí ức về một tuổi thơ gian khó, nhọc nhằn bên người bà hiền hậu, tảo tần, bởi tình bà cháu thắm thiết, sâu nặng, thiêng liêng,…
Giới thiệu đoạn trích: Đoạntrích thuộc khổ 6 – khổ thơ gần cuối của bài, bộc lộ những suy ngẫm của cháu về bà.
Khái quát ngắn gọn về phần trước của bài thơ: Bài thơ có nhan đề “Bếp lửa”- một hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong đời sống con người Việt Nam thưởtrước. Song với riêng nhà thơ, bếp lửa luôn gắn liền với hình ảnh của bà và những kỉ niệm tuổi thơ khóc nhọc. Năm khổ đầu của bài là những kỉ niệm nhưthế, hiện lên qua dòng hổi tưởng của nhà thơ, để đến khổ sáu, chúng ta được lắng nghe những suy ngẫm về bà với đầy tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng.
a) Những suy ngẫm về bà
* Bà là người phụ nữtảo tẩn, nhẫn nại, giàu tình yêu thương và đức hi sinh:
Nhà thơ đã gói ghém cả cuộc đời bà bằng một câu thơ với nghệ thuật đảo ngữ “Lận đận đời bà biếtmấynắng mưa”.Hai chữ “lậnđận”với cụm tù “biết mấy nắng mưa”đảgợi ra sựdài dặc của thời gian, sựvất vả, nhọc nhằn, khổ cực của một đời người. Và qua “mấychục năm”, “đến tận bây giơ’,bà vẫn chẳng nghỉ ngơi.
Bà vẫn giữthói quen cũ”dậysớm” “nhóm bếp lửa” -cũng nhưgiữtrọn tình yêu thương mà bà đã dành cho con, cho cháu mấy chục năm qua.
+ Điệp từ “nhóm”đượcnhắc lại bốn lẩn, gợi nhịp bập bùng của ánh lửa và sự bển bỉ của lòng bà.
+ Bà đã “nhóm”lên ngọn lửa thực để sưởi ấm cho cháu, để nấu cho cháu từng bữa ăn, nào “khoaisán ngọt bùi”,nào “xôigạo mới”,…Cũng chính từ những yêu thương, săn sóc chu đáo, ân cần, từ sự ấm áp của đôi bàn tay bà trong những ngày thiếu thốn, khổ cực mà “niểm yêu thương”đã được thắp và thổi bùng lên trong cháu. Từ một thói quen rất nhỏ, bà đã dạy cho cháu biết bao điểu: biết yêu quê hương dù nhọc nhằn, đói khổ; biết san sẻ với mọi người. Và cũng từ đó, bà “nhóm dậy cả những tởm tình tuổi nhỏ”- bà vừa là bà, vừa là cha là mẹ, là thầy, lại vừa là người bạn lớn cho cháu sẻ chia những nỗi niềm của một thời trẻ dại!
* Tinh cảm của cháu với bà
-Từ nơi phương xa, cháu vẫn luôn nhớ về bà với niềm xúc động mãnh liệt: “ổi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa!”.Ý thơ đột ngột chuyển sang hình ảnh “bếp lửa”bởi nó luôn gắn liển với hình ảnh của bà. “Bếp lửa” “kì lạ và thiêng liêng”hay chính tình bà nặng sâu và diệu kì đến thế? Bà với “bếp lửa” đảcho cháu một tuổi thơ dẫu có khó khăn, cơ cực nhưng vẫn vẹn tròn tình thương. Câu thơ chứa chan tình yêu, niềm kính trọng, biết ơn của cháu trước sựcao cả, phi thường của bà.
b) Đặc sắc nghệ thuật
Sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu cảm, tự sự, miêu tả và bình luận.
Hình ảnh vừa chân thực vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.
|
Instruct
Author introduction: Poet Bang Viet began composing in the 60s of the twentieth century and quickly became one of the typical faces of anti-American resistance poetry. His poetry often attracts readers because of its pure, sincere emotions and simple, natural writing style.
Introduction to the work: The poem "Fire Stove" was written in 1963 - when Bang Viet was a law student at Kiev University (Soviet Union); published in the collection "Scent of trees - fire stove" (1968) - the first collection of poems by him and Luu Quang Vu. The work touches the hearts of readers with memories of a difficult and difficult childhood with a kind and caring grandmother, because of the passionate, deep, sacred love between grandmother and grandchild...
Introducing the excerpt: The excerpt belongs to stanza 6 - the stanza near the end of the poem, revealing my thoughts about my grandmother.
Brief overview of the previous part of the poem: The poem is titled "Fire stove" - a very familiar image in the lives of Vietnamese people in the past. But for the poet, the stove is always associated with her image and her childhood memories of crying. The first five stanzas of the poem are such memories, appearing through the poet's thoughts, until stanza six, we listen to thoughts about her filled with love and deep gratitude.
a) Reflections about her
* She is a diligent, patient woman, rich in love and sacrifice:
The poet has encapsulated her entire life in a verse with the art of anaphora "My life's troubles have known many suns and rains". The two words "trouble" with the phrase "I have known many suns and rains" suggest the length of time, the hardship. hardship, hardship, suffering of a human life. And after "several decades", "until now", she still does not rest.
She still keeps the old habit of "getting up early" and "lighting the fire" - as well as keeping all the love she has had for her children and grandchildren over the past decades.
+ The word "group" is repeated four times, evoking the flickering rhythm of the fire and the perseverance of her heart.
+ She "lit" a real fire to warm her child, to cook each meal for him, "sweet and fleshy potatoes", "new sticky rice", etc. Also from the love and thoughtful care, Kindly, from the warmth of her hands during the days of deprivation and hardship, "the feeling of love" was lit and ignited in me. From a very small habit, she taught me so many things: to love my homeland despite hardship and hunger; know how to share with everyone. And from there, she "awakened all the childhood feelings" - she was both a grandmother, a father, a mother, a teacher, and also a great friend for me to share the feelings of my childhood!
* My feelings for you
-From a far away place, I always remember her with strong emotions: "strange and sacred guava - fire stove!". The poetic idea suddenly changes to the image of "fire stove" because it is always associated with her image. "The stove" is "strange and sacred" or is it her love that is so deep and magical? She and her "stove" gave her a childhood that was difficult and miserable but still full of love. The poem is filled with my love, respect, and gratitude for your greatness and extraordinaryness.
b) Artistic characteristics
Harmonious combination of expressive, narrative, descriptive and commentary methods.
The image is both realistic and rich in symbolic meaning.
|
Hướng dẫn
-Giới thiệu tácgiả:Lê Minh Khuê là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam thời chống Mĩ. Bà có sở trường viết truyện ngắn với đề tài chiến tranh, thường tập trung khai thác cuộc sống chiến đấu của thê’ hệ trẻ ỞTrường Sơn.
-Giới thiệu tác phẩm: “Những ngôi sao xaxô/”là mộttrong nhữngtác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, viết năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta đang diễn ra vô cùng ác liệt.Truyện ngắn làm nổi bật hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn – gan góc, quả cảm, lạc quan, yêu đời, có tinh thần trách nhiệm cao. Phương Định – nhân vật chính và cũng là người kể chuyện – là một điển hình nhưthế!
-Giới thiệu đoạn trích:Có thể nói đây là đoạn hay nhất trong bài, thể hiện rõ sự dũng cảm của Phương Định.
a) Giới thiệu sơ lược về nhân vật
Phương Định là một người con gái Hà Nội, khá xinh xắn, đáng yêu.
Cô đã tham gia vào chiến trường 3 năm, hiện thuộc tổ trinh sát mặt đường, hàng ngày phải đo khối lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần phải phá bom.
Có nhiều phẩm chất đáng mến nhưtâm hồn nhạy cảm, mơ mộng, lạc quan, yêu đời và giàu tình yêu thương đối với đổng đội nhưng đáng chú ý nhất là sự dũng cảm và tinh thần trách nhiệm trong công việc.
b) Cảm nhận về nhân vật qua đoạn trích đã cho
*Công việc của Phương Định
-Thời gian làm việc: Cô và đồng đội làm việc”chạy trên cao điểm cả ban ngày”.
Công việc luôn ẩn chứa hiểm nguy, có thể lấy đi tính mạng con người: “Mà ban ngày chạy trên cao điểm không phải chuyện chơi. Thần chết là một tay không thích đùa. Hán ta lẩn trong ruột những quả bom”.Hằng ngày, các cô gái phải đối mặt với “đát bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ẩm ì xa dân”.
->Lối miêu tả chân thực khiến người đọc cũng phải rùng mình khi tưởng tượng lại khôngkhí của những cuộc gỡ bom.
*Thái độ, tinh thẩn của Phương Định
Cô đã quen với việc phải đối mặt với “Thần chết” mỗi ngày. Thậm chí, cô vẫn làm việc ngay cả khi”còn mộtvết thương chưa lành miệng ở đùi” -thật… “lì lợm”!
Mỗi lẩn gỡ bom mìn, “thân kinh thì căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rống khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ”.Đó thực sự là công việc nguy hiểm nhưng cô gái vẫn không hề nản, vẫn luôn làm việc với tinh thẩn trách nhiệm cao nhất: “khixong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào”rồi mới yên tâm chạy về hang ở.
Khi hoàn thành nhiệm vụ, cô trởvề nơi ởvới tâm trạng hoàn toàn thưthái, như chưa hề trải qua cơn sinh – tử: “ngửa cổ uống nước”,”nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mát nghe ca nhạc từcái đài bán dân nhỏ”.
=>Cô gái ấy nhỏ người nhưng ý chí và lòng quả cảm không hề nhỏ bé, khiến người đọc vô cùng cảm phục.
*Đặc sắc nghệ thuật
|
Instruct
-Introduction of the author: Le Minh Khue is an outstanding writer of Vietnamese literature during the anti-American period. She has a knack for writing short stories with war themes, often focusing on exploiting the fighting life of the younger generation in Truong Son.
-Introduction to the work: "Xaxo Stars/" is one of Le Minh Khue's first works, written in 1971, when our nation's resistance war against America was taking place extremely fiercely. The short story highlights Show images of young girls volunteering on the Truong Son route - courageous, brave, optimistic, loving life, and with a high sense of responsibility. Phuong Dinh - the main character and also the narrator - is such a typical example!
-Introducing the excerpt: It can be said that this is the best paragraph in the article, clearly showing Phuong Dinh's courage.
a) Brief introduction of the character
Phuong Dinh is a Hanoi girl, quite pretty and lovely.
She has participated in the battlefield for 3 years and is currently part of the road surface reconnaissance team. Every day she has to measure the volume of rock and soil filling bomb craters, count unexploded bombs and, if necessary, detonate them.
There are many endearing qualities such as a sensitive soul, dreaminess, optimism, love of life and love for teammates, but the most notable is courage and a sense of responsibility at work.
b) Get a feeling about the character through the given excerpt
*Phuong Dinh's work
-Working hours: She and her teammates work "running on rush hour all day".
Work is always dangerous and can take people's lives: "And running on the peak during the day is not fun. Death is a man who does not like to joke. Han and I hide in the bowels of bombs." Every day, the girls have to face "smoking ground, shocking air, and planes sluggishly far away from the people."
->The realistic description makes readers shudder when imagining the atmosphere of bomb disposals.
*Phuong Dinh's attitude and spirit
She is used to having to face "Death" every day. Even, she still worked even when "there was an unhealed wound on her thigh" - so... "stubborn"!
Every time she removes bombs and mines, "my nerves are tense like ropes, my heart beats regardless of rhythm, my legs run but I still know that there are many unexploded bombs all around". It's really dangerous work, but the girl Still not discouraged, always working with the highest sense of responsibility: "when you finish work, turn back to look at the road again, breathe a sigh of relief" and then run back to the cave with peace of mind.
When she completed the task, she returned to her residence in a completely relaxed mood, as if she had never experienced life and death: "crouching her neck to drink water", "lying on the wet floor, lazily listening to music from the radio". small people".
=> That girl is small but her will and courage are not small, making the reader extremely impressed.
*Artistic features
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Dẫn dắt 2 khổ thơ và giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Hai khổ đầu là bức tranh thu lúc giao mùa và những cảm xúc của nhà thơ trong thời khắc ấy.
a) Bức tranh thiên nhiên mùa thu
* Khổ 1 – Những tín hiệu báo mùa thu sang:
Không phải là cây ngô đồng, báu trời “xanh ngát mấy tầng cao”,không phải những đóa cúc vàng rộm hay những rặng liễu “đìu hiu đứng chịu tang”,mùa thu bước đến trong nhân gian và đi vào thơ Hữu Thỉnh trước tiên bằng “hương ổi”. Đó là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc, gợi những mùa ổi chín rộ.
Động từ “phả”có nghĩa là tỏa vào, trộn lẫn. Hương ổi dường như đang ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, sánh quệ vào gió thu, lan tỏa khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát.
“Sương” được nhân hóa “chùng chinh qua ngỗ” -những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc thành một làn sương nhẹ nhàng trôi, đang “cố ý”chậm lại, thong thả, nhẹ nhàng, chầm chậm bước sang thu.
=> Khung cảnh thật yên bình, gẩn như không có âm thanh, chỉ có hương thơm, một chút gió lạnh và màn sương giăng mắc lối. Một không gian đậm chất thu của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
* Khổ 2 – Quang cảnh thiên nhiên ngả dần sang thu:
Sang khổ 2, bức tranh thu từ những thứvô hình như hương ổi và gió đã chuyển sang những hình ảnh cụ thể, hữu hình, mở ra một không gian cao, rộng:
Dòng sông mùa thu vốn êm đềm, tĩnh lặng, dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh, được nhân hóa như một con người đang “dềnh dàng”-nhẩn nha, cố ý chậm lại để cảm nhận vị thu.
Ngược lại với dòng sông, những cánh chim “bát đầu vội vã”bay về phương Nam tránh rét. Có lẽ chính cái se lạnh của mùa thu đã báo trước cho những chú chim về sự dịch chuyển mùa!
Ấn tượng nhất vẫn là “nhữngđám mây mùa hạ” thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Chữ “vắt” thật tinh tế, gợi cảm, khiến đám mây vốn mềm, nhẹ được hình dung như chiếc khăn voan của người thiếu nữvắt lên bầu trời, làm nhịp cầu nối giữa hạ và thu.
=>Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế, sống động qua những câu thơ rất giàu chất tạo hình.
b) Cảm xúc của nhà thơ
Ban đầu là sự ngỡ ngàng, bối rối: “bỗng”, “hình như1 -nhà thơ đã giật mình
trước sự hiện diện của mùa thu, không dám chắc chắn, vẫn còn hoài nghi. Và phải chăng, đó còn là cái ngỡ ngàng trước cái ngưỡng thu sang của đời người?
Nhà thơ như mở căng các giác quan để cảm nhận trọn vẹn nhất khí thu, vị thu trong khoảnh khắc giao mùa, từ khứu giác (hương ổi),xúc giác (gió se),thị giác (sương, dòng sông, cánh chim, đám mây).
=>Qua đây, ta cảm nhận được sự tinh tế trong hổn thơ Hữu Thỉnh cũng như tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống của ông!
c) Nghệ thuật
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên mà giàu sức gợi, lại độc đáo, mới lạ.
|
Instruct
Introducing the author and his work:
Lead the two stanzas and introduce the issue to be discussed: The first two stanzas are a picture of autumn at the change of season and the poet's emotions at that moment.
a) Autumn nature painting
* Stanza 1 – Signals signaling the arrival of autumn:
Not the sycamore tree, the treasure of the sky "green on several floors", not the bright yellow chrysanthemums or the willow trees "sadly standing in mourning", autumn steps into the human world and enters Huu Thinh's poetry first. equal to "guava flavor". It is the special scent of autumn in the North, reminiscent of the ripe guava seasons.
The verb "fa" means to radiate into, to mix. The guava scent seems to be at its darkest, fragrant and seductive, drifting into the autumn wind, spreading throughout the space, creating a sweet, cool scent.
"Dew" is personified as "slowly passing through the wood" - tiny dew drops spread out into a gently drifting mist, "intentionally" slowing down, leisurely, gently, slowly entering autumn.
=> The scene is so peaceful, there is almost no sound, only the scent, a bit of cold wind and the mist hanging in the way. A space full of autumnal characteristics of the Northern Delta region.
* Stanza 2 – The natural scene gradually turns to autumn:
In stanza 2, the picture turns from invisible things like guava scent and wind to concrete, tangible images, opening up a high, wide space:
The inherently calm and quiet autumn river, under Huu Thinh's pen, is personified as a person "taking it easy" - deliberately slowing down to feel the taste of autumn.
In contrast to the river, the birds "hurriedly" flew south to avoid the cold. Perhaps it is the chill of autumn that warns the birds about the change of seasons!
The most impressive is still the carefree, graceful "summer clouds" that "squeeze half of themselves into autumn". The word "wring" is so delicate and sexy that the inherently soft and light clouds are visualized as a young woman's veil draped in the sky, creating a bridge between summer and autumn.
=>The moment of changing seasons appears delicately and vividly through verses that are rich in visual qualities.
b) The poet's emotions
At first there was surprise and confusion: "suddenly", "it seemed1 -the poet was startled
in the presence of autumn, not sure, still skeptical. And is it also a surprise at the threshold of autumn in human life?
The poet seems to open up his senses to fully feel the autumn air and the taste of autumn in the moment of changing seasons, from the sense of smell (guava scent), touch (the crisp wind), sight (mist, river, bird wings). , cloud).
=>Through here, we can feel the sophistication of Huu Thinh's poetry as well as his love for nature and his love for life!
c) Art
The poetic language and images are simple, natural but rich in evocation, unique and new.
|
Hướng dẫn
– Dẫn dắt, nêu vấn đề cần nghị luận: Khoảng thời gian chờ đợi không bao giờ là vô nghĩa.
a) Giải thích
– Khoảng thời gian chờ đợi là khoảng thời gian trước khi diễn ra một sự việc hay thực hiện một kế hoạch nào đó. Ví dụ: chờ xe buýt, chờ đến lượt khám bệnh, chờ đợi đến kì thi, chờ đến một cuộc hẹn,… Khoảng thời gian chờ đợi không bao giờ là vô nghĩa: ý kiến này gợi mở cho chúng ta suy nghĩ làm thế nào để thời gian chờ đợi không phải là thời gian chết.
b) Phân tích
– Nhiều người thường cho rằng, thời gian chờ đợi là khoảng thời gian chết, là vô nghĩa, tẻ nhạt, chán ngắt, thậm chí cảm thấy cáu gắt, bực bội bởi bên cạnh sự chờ đợi được biết trước, chúng ta chủ động đón nhận nó (ví dụ như biết 1 tuần/1 tháng nữa mới tới kì thi) còn có sự chờ đợi bị kéo dài, phát sinh ngoài ý muốn (chờ người bạn đến muộn vì tắc đường, sự cố hỏng xe,…).
-Thực tế, trong khi chờđợi, ta có thể làm nhiều điều có ý nghĩa. Ví dụ:
+Đi học thêm ngoại ngữ, các lớp kĩ năng mềm trong khi chờ đến kì thi giành học bổng du học nước ngoài.
+Ôn lại bài, làm quen với bạn bè, hít thở lấy lại bình tĩnh trước khi vào phòng thi.
+Đọc sách báo trong khi chờ xe buýt, chờ khám bệnh,…
=>Có thêm thời gian để chuẩn bị tốt hơn cho những điều sắp tới.
c) Bình luận
Mọi việc trong cuộc sống đều có tính thời điểm của nó, không nên đốt cháy giai đoạn nhưngườixưavẫncócâu”chưa họcbòđã lo họcchạy”,”cầmđènchạytrước ô tô”. Chỉ khi chúng ta chuẩn bị tốt mới có kết quả tốt và ai cũng cần có thời gian để học cách trưởng thành.
Người coi thời gian chờđợi là thời gian chết là biểu hiện của sựthụ động, cần thay đổi suy nghĩ đó.
d) Bài học
Hãy biết tận dụng thời gian để không sống hoài, sống phí.
|
Instruct
– Leading and raising issues that need to be discussed: The waiting period is never meaningless.
a) Explain
– The waiting period is the amount of time before an event occurs or a plan is implemented. For example: waiting for the bus, waiting for a doctor's appointment, waiting for an exam, waiting for an appointment, etc. Waiting time is never meaningless: this idea suggests us to think about how to do that. So waiting time is not dead time.
b) Analysis
– Many people often think that waiting time is dead time, meaningless, tedious, boring, and even feels irritable and frustrated because besides waiting in advance, we take the initiative. accept it (for example, knowing that the exam is 1 week/1 month away) and also the waiting that is prolonged or unexpected (waiting for a friend to be late due to traffic jam, car breakdown,...) .
-In fact, while waiting, we can do many meaningful things. For example:
+ Take extra foreign language and soft skills classes while waiting for the exam to win a scholarship to study abroad.
+ Review the lesson, get to know friends, breathe and calm down before entering the exam room.
+Read books and newspapers while waiting for the bus, waiting for a medical examination, etc.
=>More time to prepare better for what's coming next.
c) Comment
Everything in life has its timing, we should not burn out the stages like the old saying goes, "before you learn to crawl, you learn to run", "running with a lamp in front of a car". Only when we prepare well will we get good results and everyone needs time to learn how to grow.
People who consider waiting time as downtime is a sign of passivity and need to change that thinking.
d) Lesson
Know how to make the most of your time so you don't live forever or waste it.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả:Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiếnchống Pháp, ông đã từng cầm súng chiến đấu nên rất am hiểu tâm tư, cuộc đời người chiến sĩ; bởi vậy, ông cũng thường viết về người lính và chiến tranh. Đặc trưng thơ ông là cảm xúc chân thành, mãnh liệt, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giọng điệu phong phú.
Giới thiệu tác phẩm:Bài thơ”Đồng chí”viết vào mùa xuân năm 1948, in trong tập “Đầu súng trăng treo” (1966), là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của Chính Hữu nói riêng và nền thơca kháng chiến chống Pháp nói chung bởi đã làm lay động trái tim người đọc với những tình cảm thiêng liêng, sâu nặngcủa những người lính cách mạng.
Giới thiệu đoạn thơ: Đây là khổ đầu và ba câu đầu khổ hai của bài, nêu lên cơ sở của tình đồng chí.
a) Đặc sắc về nội dung
* Cơ sở của tình đồngchí (7câuđầu):
Tình đồng chí nảy sinh từ những điểm tương đổng giữa những người lính:
– Họ giống nhau về hoàn cảnh xuất thân:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh và tôi đều ra đi từ những miền quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.Sựđăng đối giữa “quê hương anh”và “làng tôi”cùng cách sử dụng thành ngữ cho thấy sựtương đổng trong lai lịch, cảnh ngộ của những người lính thời chống Pháp. Và hơn hết, đằng sau con chữ là cả một sự đồng cảm lớn lao!
– Họ cùng chung động lực lên đường, đó chính là tình yêu nước và lí tưởng cách mạng sáng ngời:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chằng hẹn quen nhau.
Từ những miền quê xa lạ, họ nhập ngũ và quen nhau trong quân ngũ. Nói “chẳng hẹn”nhưng giữa họ vẫn có sợi dây vô hình để kết nối, là sự xả thân, quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.
– Họ còn chung nhiệm vụ, chung cuộc đời người lính:
+”Súng”là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho nhiệm vụ của người lính trong cuộc chiến. “Đầu” là hình ảnh hoán dụ, tượng trưng cho lí tưởng chiến đấu. Câu thơ”Súng bên súng, đầu sát bên đâu”đã cho thấy sự đồng điệu sâu sắc trong tâm hổn những người chiến sĩ. Đồng thời, câu thơ cũng gợi lên không khí cách mạng của thời đại và cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân: lẩn đầu tiên trong lịch sử, họ đứng lén làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình.
+Hơn thế, họ đã cùng nhau trải qua cuộc sống gian khổ nơi chiến trường, chia sẻ cho nhau từng chút hơi ấm “Đêm rét chung chăn”để rồi trở thành “tri kỉ”, thành “đồng chí”.Từ “anh với tôi”-từ những người “xa lạ” đểtrở nên thân thiết, thấu hiểu lẫn nhau, không phải chỉ là đứng chung hàng ngũ mà phải là sự sẻchia chân thành từ “bên”, “sát”đến “chung”.
Câu thơ cuối đoạn chỉ vẻn vẹn 2 từ “Đồng chí!”,đứng tách riêng để thể hiện sự dồn nén của cảm xúc, gợi sự chân thành và thiêng liêng, sâu nặng của tình đồng chí.
* Biểu hiện của tình Đồng chí là sự thấu hiểu những tâm tư, tình cảm của nhau:
Nhân vật trữ tình nói về nỗi lòng của đồng đội mà như đang bộc bạch nỗi lòng của chính mình. Anh thấu hiểu cảnh ngộ riêng và nỗi lòng riêng của người đồng đội, đồng chí:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Những câu thơ chứa đựng cái nhìn đầy suy tư và nỗi nhớ. Những người lính đã hi sinh hạnh phúc cá nhân, lên đường vì tình yêu Tổ quốc. Họ sẵn sàng và dứt khoát bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, từ “mặckệ”đãnói lên điều đó. Họ mạnh mẽ nhưng không vô tâm; quyết liệt, ý chí nhưng không hề lạnh lùng. Cách nói “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”gói trong đó biết bao tâm tình của hậu phương – những người mẹ, người chị, người vợ ngày đêm mong nhớ, hướng về tiền tuyến. Và những trăn trở được sẻ chia với đồng đội chẳng phải đã nói lên nỗi nhớ quê nhà nơi người lính đó sao? Có lẽ, từng giây, từng phút, họ đang phải vượt lên chính mình, nén lại những nhớthương để cống hiến trọn vẹn cho cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
=> Tình Đồng chí giữa những người lính cụ Hồ thật cảm động, thiêng liêng, sâu sắc!
b) Đặc sắc nghệ thuật
Thể thơ tự do với những câu dài ngắn khác nhau góp phần thể hiện rõ những cung bậc cảm xúc của nhà thơ.
Bút pháp tả thực với lời thơ tự nhiên; từ ngữ, hình ảnh giản dị và giàu sức gợi, cảm xúc dồn nén.
|
Instruct
Author introduction: Chinh Huu is a poet who grew up during the resistance war against the French. He used to hold a gun to fight, so he understands the thoughts and lives of soldiers very well; Therefore, he often wrote about soldiers and war. His poetry is characterized by sincere and intense emotions, language rich in images and rich tones.
Introduction to the work: The poem "Comrade" written in the spring of 1948, published in the collection "Hanging Moon Gun Head" (1966), is one of the most typical poems of Chinh Huu in particular and resistance poetry. against the French in general because it touched the hearts of readers with the deep, sacred feelings of revolutionary soldiers.
Introducing the poem: This is the first stanza and the first three lines of the second stanza of the poem, stating the basis of comradeship.
a) Unique content
* The basis of comradeship (first 7 sentences):
Comradeship arises from the similarities between soldiers:
– They are similar in their background:
His hometown has salty water and sour fields
My village is poor rocky soil plowed up.
He and I both came from poor countryside with "salty water and sour fields", "soil plowed with gravel". The contrast between "your hometown" and "my village" and the use of idioms show the similarities. in the background and plight of soldiers during the anti-French period. And most of all, behind the words is a great sympathy!
– They shared the same motivation for setting out, which was patriotism and shining revolutionary ideals:
He sometimes strangers to me
From heaven and earth, we met each other.
From strange countryside, they joined the army and met each other in the army. They say "no appointment" but there is still an invisible thread connecting them, a sacrifice of life and determination to fight to protect their homeland and country.
– They still have the same mission, the same soldier's life:
+"Gun" is a metaphorical image, symbolizing the soldier's mission in war. “Head” is a metonymic image, symbolizing the ideal of fighting. The poem "Gun next to the gun, head next to the other" shows the deep harmony in the hearts of the soldiers. At the same time, the verse also evokes the revolutionary atmosphere of the era and the great change of life of the peasantry: for the first time in history, they secretly took control of the country and their lives.
+Moreover, they went through the hardships of life together on the battlefield, sharing every bit of warmth with each other, "Cold nights under the same blanket" and then becoming "soulmates", "comrades". From "brother". with me" - from "strangers" to becoming close, understanding each other, not just standing in the same ranks but sincere sharing from "side", "close" to "common".
The last verse of the paragraph has just two words "Comrade!", standing apart to express the compression of emotions, evoking the sincerity and sacredness and depth of comradeship.
* The expression of comradeship is understanding each other's thoughts and feelings:
The lyrical character talks about the feelings of his teammates as if he were expressing his own feelings. He understood the personal plight and feelings of his teammates and comrades:
He sent his best friend to plow the fields. The house did not let the wind shake it. The banyan well remembered the soldiers.
The verses contain a look full of thoughts and nostalgia. Soldiers sacrificed their personal happiness and went out for the love of the Fatherland. They willingly and decisively left behind their homes, fields and gardens, the word "let alone" said it all. They are strong but not heartless; fierce, willful but not cold. The expression "The original water well remembers the soldiers" contains so many feelings of the rear - the mothers, sisters, wives who long for them day and night, looking towards the front line. And don't the concerns shared with comrades express the soldier's longing for his homeland? Perhaps, every second, every minute, they are having to overcome themselves and suppress their memories to fully contribute to the resistance war of the entire nation.
=> The comradeship between Uncle Ho's soldiers is so touching, sacred, and profound!
b) Artistic characteristics
Free verse with different lengths and short sentences helps clearly express the poet's emotions.
Realistic writing style with natural poetic lyrics; Simple and evocative words and images, packed with emotions.
|
Hướng dẫn
– Dẫn dắt, nêu vấn đề cần nghị luận: sức mạnh của tình yêu thương.
a) Giải thích
-Tinh yêu thương là cái gốc của nhân loại, là sợi dây vô hình gắn kết con người với con người, thể hiện trong nhiều mối quan hệ: cha mẹ – con cái, vợ – chồng, anh – em, ông bà – cháu, tình bạn, tình yêu đôi lứa, tình cảm giữa người với người dù không cùng màu da, sắc tộc,…
b) Phân tích
Biểu hiện của tình yêu thương: hỏi han, quan tâm, động viên, chia sẻ, giúp đỡ nhau vế vật chất và tinh thần, chăm sóc khi đau ốm,…
-Tinh yêu thương có sức mạnh vô cùng to lớn:
+Cho ta chỗ dựa tinh thẩn để niềm vui được nhân lên, nỗi buổn được giải tỏa; cho ta sự giúp đỡ khi cần.
+Nhờ được yêu thương, ta có cảm giác mình không đơn độc, một mình, có đủ dũng khí để vượt qua những điều tưởng như không thể.
+Tinh yêu thương giúp con người biết cảm thông, thấu hiểu, vị tha; để con người có thêm nhiều cơ hội hiểu nhau, sống tốt đẹp, thân ái với nhau hơn. -I-Tinh yêu thương có thể cảm hóa cái xấu, cái ác; xóa bỏ những ngăn cách, hận thù, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp, nhân văn (Thí sinh lấy dẫn chứng trong văn học và thực tế.)
Xã hội khống có tình yêu thương sẽ chỉ toàn điều ích kỉ, dối trá, lừa lọc, tàn nhẫn.
c) Bàn luận
-Tinh yêu thương phải thật lòng, phải xuất phát từ trái tim.
Những người đón nhận tình yêu thương cũng phải cho đi yêu thương. “Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm.”
|
Instruct
– Leading and raising issues that need to be discussed: the power of love.
a) Explain
-Love is the root of humanity, an invisible thread that connects people to people, expressed in many relationships: parents - children, husband - wife, brother - sister, grandparents - grandchildren. , friendship, love between couples, love between people despite not having the same skin color, ethnicity,...
b) Analysis
Expressions of love: asking, caring, encouraging, sharing, helping each other physically and mentally, taking care of each other when sick,...
-The spirit of love has immense power:
+Give us spiritual support so that joy can multiply and sadness can be relieved; give me help when needed.
+Thanks to being loved, we feel like we are not alone, we have enough courage to overcome seemingly impossible things.
+The spirit of love helps people sympathize, understand, and be altruistic; so that people have more opportunities to understand each other, live better, and be more cordial to each other. -I-The spirit of love can transform bad things and evil; Eliminate separation and hatred, making life increasingly better and more humane (Candidates cite evidence from literature and reality.)
A society without love will only be full of selfishness, lies, deceit, and cruelty.
c) Discussion
-Love must be sincere, must come from the heart.
Those who receive love must also give love. “The hand that gives a rose always has a scent.”
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả:Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, trong đó, tiêu biểu nhất là “Truyện Kiều”.
Giới thiệu tác phẩm: “Truyện Kiều”(tức “Đoạn trường tân thanh”)là một truyện thơ Nôm gồm 3254 câu lục bát, được sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện”của Thanh Tâm Tài Nhân – Trung Quốc. Tác phẩm được đánh giá là kiệt tác số một của nền văn học Việt Nam không chỉ bởi giá trị nội dung sâu sắc mà còn đặc sắc về nghệ thuật.Trong đó, phải kể đến tài năng điêu luyện trong bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du.
Giới thiệu hai đoạn thơ:Hai đoạn thơ trên thuộc phẩn đầu của tác phẩm (Gặp gỡ và đính ước)là khung cảnh tiết thanh minh, buổi gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Qua đó, ta sẽ cảm nhận được sự tài tình trong ngòi bút tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.
a. Đoạn 1 – Bức tranh xuân đầy sức sống
-Thời gian nghệ thuật được gợi lên qua hai câu thơđầu: “Ngàyxuân con énđưa thoi/ Thiểu quang chín chục đã ngoài sáu mươi”,tức khoảng tháng 3. Cách nói “con én đưa thoi”, “đã ngoài”cho thấy sựtrôi chảy nhanh chóng của thời gian. – Không gian thơ khoáng đạt và đậm chất xuân:
+ Được gợi lên qua những cánh én chao lượn rộn ràng.
+ Được mở ra với thảm cỏ non, xanh tươi mơn mởn, mềm mại, ngọt ngào, trải rộng tới tận chân trời. Màu xanh là gam màu chủ đạo, tạo nên một không gian tươi mới, tràn đầy sức sống.
+Điểm tỏ điểm bằng những bông lê trắng trong trẻo, tinh khiết. Mượn ý từ câu thơ Đường của Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích/Lê chi sổ điểm hoa”(Cỏ thơm liền với trời xanh/ Hoa lê đã nở trên cành vài bông)nhưng Nguyễn Du đã diễn đạt thật sáng tạo – đảo trật tự cú pháp (đáng lẽ phải là cành lê điểm một vài bông hoa trắng) cùng với từ “trống điểm”tạo nên nhãn tự cho cả bức tranh xuân. “Điểm mộtvài” cónghĩa là những bông hoa vẫn còn thưa thốt nhưng ta vẫn cảm nhận được sức sống của mùa xuân đang trỗi dậy, trong từng ngọn cỏ, từng bông hoa mới. Sựtài tình của Nguyễn Du là ở đó, bút pháp chấm phá được sử dụng rất điêu luyện nên nhà thơ tả ít mà gợi được nhiều, giúp người đọc hình dung và cảm nhận được một mùa xuân tinh khôi, thanh khiết!
Nghệ thuật: bút pháp chấm phá, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu sức gợi. b) Đoạn
b. Cảnh buổi chiều ngày hội xuân
Cảnh hoàng hôn được gợi tả bằng một câu thơ đẹp “Tà tà bóng ngả về tây”.Ngày đã sắp tàn, ánh nắng đã nhạt dần. Câu thơ tự nó đã đượm một chút buồn.
Cảnh nhuốm màu tâm trạng của chị em Thúy Kiều – Thúy Vân. Hai nàng “thơ thẩn”chừng nhưcòn điều gì luyến tiếc, chưa muốn chia tay. Hình nhưvì thế, cảnh cũng chất chứa nỗi niềm:
+ Tác giả chỉ miêu tả các hình ảnh “tiểu khê”, “dòng nướcuốn quanh”, “dịpcầu nho nhỏ”,cảnh gần như không có âm thanh khiến không gian lắng vào chiểu sâu, khung cảnh nhỏ bé mà thật thân thuộc.
+ Các từ láy “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ”mang đến cho bức tranh thiên nhiên vẻ đẹp xinh xắn, tao nhã và cũng phảng phất buổn.
=>Cảnh vật nhưcó hồn và đồng điệu với con người.
Nghệ thuật: Sử dụng từ láy với mật độ dày đặc (tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏy,bút pháp tả cảnh ngụ tình.
c) So sánh hai đoạn thơ
Điểm giống nhau:
Cả hai đoạn đều là những bức tranh xuân đẹp đẽ, thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, nhạy cảm với cái đẹp của Nguyễn Du.
Sử dụng từ ngữ chính xác, có giá trị biểu cảm cao, giàu sức gợi.
Điểm khác nhau:
– Đoạn 1:
Tả cảnh buổi sáng mùa xuân, khí xuân vui tươi, cảnh xuân tràn đấy sức sống. 4- Bút pháp chấm phá là nét đặc sắc nghệ thuật lớn nhất của đoạn.
– Đoạn 2:
|
Instruct
Author introduction: Nguyen Du is a great poet of the Vietnamese people, a world cultural celebrity, he left behind a huge literary career, of which the most typical is "The Tale of Kieu".
Introduction to the work: "The Tale of Kieu" (ie "Doan Truong Tan Thanh") is a Nom poetic story consisting of 3,254 six-eight verses, composed based on the plot of the novel "Kim Van Kieu Story" by Thanh Tam Tai Nhan - China. The work is considered the number one masterpiece of Vietnamese literature not only because of its profound content value but also its unique art. Among them, Nguyen's skillful talent in describing scenes must be mentioned. Du.
Introducing two verses: The above two verses belong to the first part of the work (Meeting and Engagement) are the scene of Thanh Minh, the meeting between Thuy Kieu and Kim Trong. Through that, we will feel the ingenuity in Nguyen Du's pen describing love scenes.
a. Paragraph 1 – The picture of spring is full of vitality
-The artistic time is evoked through the first two lines of the poem: "On spring day, the swallow shuttles / Thieu Quang is ninety and over sixty", which is around March. The way to say "the swallow shuttles", "is out" shows the passage the rapid flow of time. – The poetic space is spacious and full of spring:
+ Evoked through the fluttering wings of swallows.
+ Opened up with a carpet of young, green, soft, sweet grass, spreading to the horizon. Blue is the main color, creating a fresh and vibrant space.
+ Highlights with clear, pure white pear flowers. Borrowing ideas from the Chinese Tang poem "Phuong Thao Lien Thien Bich / Le Chi Thuong Dotted with Flowers" (The fragrant grass is connected to the blue sky / Pear flowers have bloomed on a few branches), but Nguyen Du expressed it very creatively - island The syntactic order (it should be a pear branch with a few white flowers) together with the word "blank spot" creates the label for the whole spring picture. "Point a few" means that the flowers are still sparse but we can still feel the vitality of spring rising, in each blade of grass, each new flower. Nguyen Du's ingenuity lies in the fact that the dotting style is used very skillfully, so the poet describes little but evokes much, helping readers visualize and feel a pristine, pure spring!
Art: expressive writing style, rich visual and evocative language. b) Paragraph
b. Afternoon scene of spring festival
The sunset scene is described by a beautiful poem: "The shadow of sunset turns to the west". The day is about to end, the sunlight has faded. The poem itself is a bit sad.
The scene is tinged with the mood of sisters Thuy Kieu - Thuy Van. The two girls "lounged" as if they still had some regrets and didn't want to break up. It seems that because of that, the scene also contains sadness:
+ The author only describes the images of "small Khe", "winding water", "small bridge", scenes with almost no sound, causing the space to settle into the depths, the scene is small but very familiar.
+ The words "delicate", "sadly", "little" give the natural picture a beautiful, elegant and also slightly sad beauty.
=>The landscape seems to have soul and is in harmony with people.
Art: Using words with high density (evil, poetic, clear, sad, small, penmanship to describe love scenes.
c) Compare the two poems
The same point:
Both passages are beautiful spring paintings, expressing Nguyen Du's soul that loves nature and is sensitive to beauty.
Use words that are precise, have high expressive value, and are rich in evocation.
Differences:
- Paragraph 1:
Describe the spring morning scene, the spring air is cheerful, the spring scene is full of vitality. 4- The punctuation style is the greatest artistic feature of the paragraph.
– Paragraph 2:
|
Hướng dẫn
Đoạn văn cần đảm bảo những ý chính sau đây:
Giải thích: Ước mơ là những điều người ta mong muốn diễn ra trong tương lai. Ý kiến đã khẳng định vai trò quan trọng của ước mơ – đó là nguồn động lực, là sức mạnh tinh thần để mỗi người tự tạo nên tương lai của chính mình.
Phân tích:
+ Con người sống cần phải có ước mơ; ước mơ đủ lớn sẽ giúp ta thấy những khó khăn chỉ là thử thách của cuộc sống và giữ được sự mạnh mẽ, niềm tin để theo đuổi những khát vọng cao đẹp đến cùng.
+ Có ước mơ tức là con người đả có một hình dung cụ thể về tương lai. Từ đó, mỗi người sẽ có kế hoạch và tìm ra cách thức để biến ước mơ thành hiện thực. (Thí sinh lấy ví dụ cụ thể: Để trở thành một giáo viên/ một cầu thủ bóng đá xuất sắc/ để có thể làm từ thiện giúp đỡ những trẻ em nghèo không được đến trường… em cấn làm những gì, ngay từ bây giờ?)
+ Không có ước mơ, cuộc sống của con người sẽ giống như một hành trình không có đích đến, rất buồn tẻ, nhàm chán, vô vị và không có những bước tiến mới.
Bình luận:
|
Instruct
The paragraph should ensure the following main ideas:
Explanation: Dreams are things people want to happen in the future. The opinion has affirmed the important role of dreams - it is the source of motivation, the spiritual strength for each person to create their own future.
Analysis:
+ People need to have dreams to live; Dreaming big enough will help us see that difficulties are just life's challenges and maintain the strength and faith to pursue noble aspirations to the end.
+ Having a dream means that a person has a specific vision of the future. From there, each person will have a plan and find a way to turn their dreams into reality. (Candidates give specific examples: To become a teacher/ an excellent soccer player/ to be able to do charity work to help poor children who cannot go to school... what do you need to do, right now? hour?)
+ Without dreams, human life will be like a journey without a destination, very dull, boring, tasteless and without new steps.
Comment:
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả: Huy Cận – cây bút nổi tiếng của phong trào Thơ Mới, từng được biết đến là “nhà thơcả vạn lí sâu”nhưng sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã có nhiều chuyển biến, ông hướng ngòi bút của mình viết về cuộc sống mới, con người mới với niềm hân hoan, hứng khởi lạ kì. ông tiếp tục được ghi nhận là một trong những gương mặt xuất sắc của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Giới thiệu bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá”đượcviết năm 1958, sau khi nhà thơ có chuyến đi thực tế về vùng mỏ Quảng Ninh. Lúc này, cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng Xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuốc sống mới. Bài thơ gồm7 khổ, miêu tả hành trình ra khơi đánh cá của đoàn thuyền từ lúc hoàng hôn đến bình minh.
Giới thiệu đoạn thơ: Đoạn trích là khổ 2 và khổ 3 của bài, miêu tả cảnh đánh cá trên biển đêm và sự giàu có, trù phú của biển cả Hạ Long.
a. Về nội dung
* Khổ thơ thứ nhất – cảnh lao động trên biển – Giữa biển khơi, đoàn thuyền được miêu tả thật kì vĩ:
Thuyền ta lới gió với buồm trâng
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Có gió làm lái, có trăng làm buồm, thiên nhiên như cùng chung sức với con người điều khiển con thuyền. Con người hòa nhập với thiên nhiên, tầm vóc sánh ngang với vũ trụ. Các động từ “lái”, “lướt”diễn tả những hoạt động đã thành thục đạt đến tẩm nghệ thuật, cho thấy con người đả làm chủ thiên nhiên một cách đầy tự tin và mạnh mẽ. Giữa không gian bao la của trời biển, con thuyền trở thành trung tâm, vừa đẹp đẽ, khỏe khoắn, vừa giàu chất thơ.
– Khí thế lao động trên biển hăng hái, khẩn trương và mạnh mẽ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Con người chủ động đi xa để tìm luồng cá mới. Công cuộc lao động trên biển được miêu tả như một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên: con thuyền là vũ khí, mối ngư dân là một chiến sĩ đầy uy quyền, sức mạnh. Cuộc chiến đấu ấy có thê’ trận, có chiến lược thật chuyên nghiệp: “dàn đan”, “lưới vây giăng”.Nhịp thơ nhanh, hối hả giúp người đọc hình dung được cánh tay vạm vỡ, thân hình cuốn cuộn nhưsóng của những chàng trai xứbiển đang ra sứctung rồi kéo lưới trong niềm vui tươi, phấn khởi. Đánh cá vốn là công việc nặng nhọc và có phần hiểm nguy nhưng qua lời thơ của Huy Cận, ta chỉ thấy niềm vui và cảm nhận được tình yêu cuộc sống, yêu lao động của những con người nơi đây.
Khổ thơ thứ hai – sự giàu có, trù phú của biển cả Hạ Long – Bằng nghệ thuật liệt kê, vận dụng sáng tạo cách nói dân gian “chim, thu, nhụ, đé”, Huy Cận đã cho ta thấy một Hạ Long giàu có và hào phóng:
Cá nhụ cá thu cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hổng.
Đây đểu là những loài cá quý. Đặc biệt, hình ảnh con cá song là một nét vẽ tài hoa. Bởi trên mình cá có những chấm nhỏ đen hồng lấp lánh nên nó được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho đoạn thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ, bầy cá như những nàng tiên trong đêm vũ hội.
Cảnh trên biển lúc về khuya lại càng đẹp hơn ở hai câu thơ cuối đoạn:
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.
Cách nói “em” nghe sao mà đáng yêu, gần gũi! Phép nhân hóa “đêm thờ’, “sao /ừữ”làm nổi bật vẻ đẹp của đêm trăng trên biển. Ánh trăng sao lồng vào sóng nước nên khi cá quẫy ta có cảm giác không phải mặt nước đang xao động mà là màn đêm đang thở.Trí tưởng tượng phong phú và cảm hứng vũ trụ đã chắp cánh cho hổn thơ Huy Cận để viết nên những câu thơ đẹp và duyên dáng như vậy đó!
b) Về nghệ thuật
Cảm hứng hiện thực hài hòa vối cảm hứng lãng mạn khiến tâm hồn người nghệ sĩ thăng hoa.
Bút pháp khoa trương và cảm hứng vũ trụ đã tạo nên những bức tranh đẹp và cảnh biển vào con người lao động ở Hạ Long.
|
Instruct
Introducing the author: Huy Can - a famous writer of the New Poetry movement, was once known as "a poet of thousands of miles" but after the August Revolution, his poetry had many changes, he turned his pen to I write about new life, new people with strange joy and excitement. He continues to be recognized as one of the outstanding faces of modern Vietnamese poetry.
Introduction to the poem: "The fishing boat" was written in 1958, after the poet had a field trip to the Quang Ninh mining area. At this time, the resistance war against the French ended successfully, the North was liberated and went into socialist construction, building a new life. The poem consists of 7 stanzas, describing the boat's journey out to sea to fish from sunset to dawn.
Introducing the poem: The excerpt is stanza 2 and 3 of the poem, describing the scene of fishing on the sea at night and the wealth and richness of Ha Long's sea.
a. About content
* The first stanza - the scene of labor at sea - In the middle of the sea, the fleet of boats is described magnificently:
Our boat is swaying in the wind with its sails wide open
Surfing between high clouds and flat sea.
With the wind as the steering wheel and the moon as the sail, nature seems to join forces with humans to control the boat. Humans are integrated with nature, their stature is comparable to the universe. The verbs "driving" and "surfing" describe activities that have reached the level of art, showing that humans have confidently and strongly mastered nature. Amidst the vast space of sky and sea, the boat becomes the center, both beautiful, strong, and rich in poetry.
– The working atmosphere at sea is enthusiastic, urgent and strong:
Go out and park miles away to explore the ocean's belly
Arrange a siege net.
People actively travel far to find new fish streams. Working at sea is described as a battle to conquer nature: the boat is a weapon, the fisherman is a warrior full of authority and strength. That fight had a very professional strategy and strategy: "laying the net", "spreading the net". The fast, bustling rhythm of the poem helps the reader visualize his muscular arms and wave-like body. The boys from the sea are trying their best to cast and pull the net in joy and excitement. Fishing is inherently hard and somewhat dangerous work, but through Huy Can's poetry, we can only see joy and feel the love for life and labor of the people here.
The second stanza - the richness and richness of Ha Long's sea - By the art of listing and creatively applying the folk saying "bird, autumn, bud, dé", Huy Can shows us a Ha Long rich and generous:
Mackerel and fish
Grouper fish sparkles with black holes.
These are all precious fish species. In particular, the image of a grouper is a talented drawing. Because the fish has small, sparkling black and pink dots on its body, it is compared to a flaming torch. The skillful art of color coordination makes the poem as beautiful as a brilliant lacquer painting, and the fish are like fairies on prom night.
The scene on the beach late at night is even more beautiful in the last two verses:
Your tail swishes bright yellow
At night, the stars breathe through the water of Ha Long.
How to say "you" sounds so lovely and close! The personification of "worship night" and "star /yeu" highlights the beauty of the moonlit night on the sea. The moonlight and stars are embedded in the water waves, so when the fish stirs, we feel that it is not the water surface that is stirring, but the night that is breathing. Rich imagination and cosmic inspiration have given wings to Huy Can's poetry to write. Such beautiful and graceful verses!
b) About art
Realistic inspiration in harmony with romantic inspiration makes the artist's soul sublimate.
Flamboyant brushwork and cosmic inspiration have created beautiful paintings and seascapes of working people in Ha Long.
|
Hướng dẫn
Giải thích: “Sách” là sản phẩn ghi chép lại trí tuệ, tri thức, đời sống tinh thẩn, tư tưởng, tình cảm của con người. “Bạn” là người có thể sẻ chia với ta, “thầy” là người chỉ bảo, dẫn dắt cho ra trên hành trình khám phá tri thức nhân loại. Nói “Sách vừa là bạn, vừa là thây của con người” là khẳng định sách có vai trò, ý nghĩa to lớn với mỗi người.
Phân tích, chứng minh
Sách là người bạn: Đọc sách, ta được lắng nghe những tâm tư tình cảm, quan điểm của người viết, ở đó ta có thể bắt gặp những nỗi niềm chung, những tư tưởng chung; nhờ đó cũng như được sẻ chia, tâm sự. Nhiều cuốn sách cũng là một sản phẩm để giải trí, giúp ta giải tỏa căng thẳng trong cuộc sống.
Sách là người thầy:
+ Sách cung cấp nguồn tri thức khổng lổ của nhân loại (về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, chính trị, văn hóa, nghệ thuật,…), được đúc kết lại một cách cô đọng và chính xác; việc học từ sách rất thuận tiện vì sách có thể đọc ở mọi nơi, mọi lúc.
+ Sách còn dạy ta những kĩ năng cần có trong cuộc sống, từ giao tiếp, ứng xử đến nấu ăn, làm vườn,…
+ Sách nuôi dưỡng tâm hồn, định hướng hành động cho con người, cho ta biết những điều hay, lẽ phải, nên và không nên,…
+ Những cuốn sách truyền cảm hứng sẽ tiếp thêm sức mạnh để chúng ta thực hiện ước mơ của mình.
Bàn luận
Cần có thái độ trân trọng, giữ gìn, yêu quý sách; hình thành thói quen đọc sách.
Chọn sách phù hợp với lứa tuổi, nhu cẩu; đọc xong cần ghi chép và vận dụng vào cuộc sống để đem lại kết quả.
|
Instruct
Explanation: "Book" is a product that records intelligence, knowledge, spiritual life, thoughts, and emotions of people. "Friend" is someone who can share with us, "teacher" is someone who guides and guides us on the journey of discovering human knowledge. Saying "Books are both friends and bodies of people" is to affirm that books have a great role and meaning for each person.
Analyze and prove
Books are friends: Reading books, we can listen to the writer's thoughts, feelings, and views, there we can encounter common feelings and common thoughts; Thanks to that, we can also share and confide. Many books are also an entertainment product, helping us relieve stress in life.
Books are teachers:
+ Books provide a huge source of human knowledge (about natural sciences, social sciences, politics, culture, arts, etc.), summarized concisely and accurately; Learning from books is very convenient because books can be read anywhere, anytime.
+ Books also teach us necessary skills in life, from communication and behavior to cooking, gardening,...
+ Books nourish the soul, guide people's actions, tell us good things, right things, should and should not,...
+ Inspirational books will give us strength to realize our dreams.
Discuss
Need to have an attitude of respecting, preserving, and loving books; Form reading habits.
Choose books suitable for age and needs; After reading, you need to take notes and apply it to life to bring results.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Giới thiệu đoạn trích:Đây là hai khổ thơ đấu của bài, miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi đầy hào hứng với những khúc ca tráng lệ.
a) Về nội dung – cảnh ra khơi
Thời gian nghệ thuật là một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp.
Mặt trời xuống biển nhưhòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Các hình ảnh mặt trời, sóng, đêm được nhân hóa, cùng hình ảnh so sánh độc đáo ở câu thơthứ nhất “nhưhòn lửa”đãtạo nên một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ. Ngày đã tắt nhưng không hề ảm đạm. Sự vận động của thời gian được diễn tả qua các động từ “xuống biển”, “cài then”, “sập cửa”.Những con sóng cài ngang như chiếc then cửa của vũ trụ. Bóng đêm “sập cửa”gợi khoảnh khắc ánh ngày vụt tắt và màn đêm bất ngờ buông xuống, bao trùm lên tất cả. Vũ trụ rộng lớn, mênh mông, ki vĩ mà vẫn gắn gũi, ấm áp như ngôi nhà của con người vậy!
Lẽ thường, khi ngày tàn, con người sẽ tạm ngừng mọi công việc để trởvề nghỉ ngơi bên gia đình nhưng trên biển, có một cuộc sống khác khi đó mới bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
+ Chữ “lại”đả gợi ra vòng tuần hoàn trong hoạt động của những người dân biển, gợi nhịp sống thanh bình của quê hương, đất nước. Sau bao năm tháng chiến tranh, con người Việt Nam mới có một cuộc sống lao động bình yên đến thế!
+ Đoàn thuyền ra khơi với khí thế tươi vui, hào hứng, phấn khởi: “Câu hátcăng buồm cùng gió khơi”.Sự kết hợp giữa “câu hát”và”gió khơi” đảtạo nên sức mạnh lớn đưa con thuyền mạnh mẽ vượt sóng ra khơi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ cũng tái hiện vẻ đẹp tâm hồn và niềm vui trong lao động của người dân chài.
– Câu hát của người dân chài:
+Hát về sự giàu có của biển:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặn
Cá thu biển Đông nhưđoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Bút pháp tả thực kết hợp với trí tưởng tượng phong phú đã tạo nên một hình ảnh so sánh đẹp – đàn cá thu giống như đoàn thoi. Chúng bơi lội tạo thành những vệt nước ấp lánh như dệt tấm vải giữa biển đêm. Những câu thơ đã hứa hẹn một hành trình bội thu.
+Tiếng hát gọi cá vào đầy trìu mến “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”thể hiện niềm hăng say lao động và tấm lòng trân trọng biển cả của những người con đất biển!
=> Qua hai khổ đầu, tác giả đã phác họa thành công bức tranh biển cả hùng vĩ, thơ mộng và cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi tràn đầy niềm vui, niềm hi vọng của người lao động thời đại mới.
b) Về nghệ thuật
Ngòi bút tràn đầy cảm hứng vũ trụ, sựchan hòa giữa con người và thiên nhiên.
|
Instruct
Introducing the author and his work
Introducing the excerpt: These are two competing stanzas of the poem, describing the scene of a fishing boat sailing out to sea full of excitement with magnificent songs.
a) Regarding content – sailing scene
Artistic time is a beautiful sunset.
The sun falls into the sea like a fire
Waves were installed then, night slammed the door.
The anthropomorphic images of sun, waves, and night, along with the unique comparison image in the first verse "like a fire" create a magnificent and magnificent picture of nature. The day is over but not at all gloomy. The movement of time is expressed through the verbs "go into the sea", "install the latch", "slam the door". The waves are installed horizontally like the latch of the universe's door. The "closing door" darkness evokes the moment when the light of day disappears and night suddenly falls, covering everything. The universe is vast, immense, majestic yet still close and warm like a human house!
Normally, when the day ends, people will temporarily stop all work to return to rest with their families, but at sea, there is another life that then begins:
The fishing boats went out to sea again
Wind singing sails along the coast
+ The word "re" evokes the cycle of activities of the sea people, suggesting the peaceful rhythm of life of the homeland and country. After many years of war, Vietnamese people have such a peaceful working life!
+ The group of boats set sail with a cheerful, excited, and enthusiastic atmosphere: "The song sails with the sea wind". The combination of "the song" and "the wind" creates great strength to help the boat strongly overcome. waves out to sea. The metaphorical art of converting feelings in the verse also recreates the spiritual beauty and joy in the work of the fishermen.
– The song of the fishermen:
+Sing about the wealth of the sea:
Sing that the silver fish of the East Sea dive
East Sea mackerel is like a shuttlecock
Day and night, the sea weaves thousands of rays of light
Realistic writing style combined with rich imagination has created a beautiful comparison image - a school of mackerel is like a group of shuttlecocks. They swim, creating sparkling water streaks like weaving a fabric in the middle of the night sea. The verses promised a fruitful journey.
+The affectionate song calling the fish in, "Come and weave my net, group of fish!" shows the enthusiasm for work and the respect for the sea of the people of the sea!
=> Through the first two stanzas, the author has successfully sketched a majestic, poetic picture of the sea and the scene of the fishing boats sailing out to sea, full of joy and hope of workers in the new era.
b) About art
The pen is full of cosmic inspiration, the harmony between humans and nature.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Giới thiệu 2 khổ thơ:Đấy là hai khổ đầu và cuối của bài thơ, miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và trở về đầy niềm vui và hứng khởi.
a) Khổ 1 – cảnh ra khơi
Thời gian nghệ thuật là một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Các hình ảnh mặt trời, sóng, đêm được nhân hóa, cùng hình ảnh so sánh độc đáo ở câu thơ thứ nhất “nhưhòn lửa” đảtạo nên một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ. Ngày đã tắt nhưng không hề ảm đạm. Sựvận động của thời gian được diễn tả qua các động từ “xuống biển”, “cài then”, “sập cửa”.Những con sóng cài ngang như chiếc then cửa của vũ trụ. Bóng đêm “sậpcửa”gợi khoảnh khắc ánh ngày vụt tắt và màn đêm bất ngờ buông xuống, bao trùm lên tất cả. Vũ trụrộng lớn, mênh mỏng, kì vĩ mà vẫn gần gũi, ấm áp như ngôi nhà của con người vậy!
Lẽ thường, khi ngày tàn, con người sẽtạm ngừng mọi công việc đểtrởvề nghi ngơi bên gia đình nhưng trên biển có một cuộc sống khác khi đó mới bắt đầu…
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát càng buồm cùng gió khơi
+Chữ “lại”đả gợi ra vòng tuần hoàn trong hoạt động của những người dân biển, gợi nhịp sống thanh bình của quê hương, đất nước. Sau bao năm tháng chiến
tranh, con người Việt Nam mới có một cuộc sống lao động bình yên đến thế!
+Đoàn thuyền ra khơi với khí thế tươi vui, hào hứng, phấn khởi: “Câu hát câng buồm cùng gió khơi”:Sự kết hợp giữa “câu hát”và “gió khơi”đảtạo nên sức mạnhlớn đưa con thuyền mạnh mẽ vượt sóng ra khơi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ cũng tái hiện vẻ đẹp tâm hổn và niềm vui trong lao động của người dân chài.
b) Khổ cuối – cảnh trở về
– Đoàn thuyền trở về trong khúc hát mê say:
+Nếu mở đầu bài thơ tác giả dùng chữ “cùng” (Câu hát căng buồm cùng gió khơi) thể hiện sự hài hòa giữa con thuyền và ngọn gió, hứa hẹn chuyến đi biển thuận lợi, bình yên thì đến cuối bài ông viết “Câu hát căng buồm với gió khơi” thể hiện niềm vui phơi phới của những người dân chài khi trở về trên những con thuyền đầy ắp cá.
– Đoàn thuyền trở về trong cuộc chạy đua với mặt trời: Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”khiến con thuyền thành một sinh thể sống, gợi khí thế hăm hở, niềm hân hoan đón chào ngày mới của cả thiên nhiên và con người.
Đoàn thuyền cũng trở về trong ánh sáng rực rỡ, huy hoàng của buổi bình minh và muôn ngàn mắt cá lấp lánh dưới ánh mặt trời.
=> Đoạn thơ mang âm hưởng của một bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của những con người làm chủ đất trời.
c) Cảm nhận chung về hai khổ thơ
Cả hai khổ đều thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên biển và con người ở cả hai thời điểm: hoàng hôn và bình minh. Thiên nhiên luôn tươi sáng, kì vĩ, tráng lệ. Con người luôn căng tràn sức sống và niềm say mê lao động.
Cảm hứng bao trùm lên hai khổ là cảm hứng vũ trụ.
Bút pháp thơ khoáng đạt, âm hưởng thơ vừa khoẻ khoắn, sỏi nổi lại vừa phơi phới bay bổng; lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, cách gieo vẩn có nhiều biến hoá linh hoạt, vấn trắc xen lẫn vần bằng; hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn; nhiểu biện pháp tu từ đặc sắc (so sánh, nhân hoá); kết cấu đầu cuối tương ứng (lặp lại hình ảnh” mặt trời/ gió khơi/ câu hát”).
d) Liên hệ
Thí sinh tự chọn một tác phẩm khác cũng viết về sự gắn bó của con người và biển quê hương để liên hệ với hai khổi thơ trên. Ví dụ: “Quê hương”của Tế Hanh.
Có thể liên hệ với thực tế đời sống để thấy được người dân Việt Nam luôn có những hành động thiết thực, cụ thể thể hiện tình yêu, sự gắn bó với biển: chống ô nhiễm biển, bảo vệ cảnh quan biển, sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật hướng về biển…
|
Instruct
Introducing the author and his work
Introducing the two stanzas: These are the first and last stanzas of the poem, describing the scene of the fishing boat going out to sea and returning full of joy and excitement.
a) Stanza 1 – scene of sailing
Artistic time is a beautiful sunset.
The sun falls into the sea like a ball of fire
Waves were installed then, night slammed the door.
The anthropomorphic images of sun, waves, and night, along with the unique comparison image in the first verse "like a fire" create a magnificent and magnificent picture of nature. The day is over but not at all gloomy. The movement of time is expressed through the verbs "go into the sea", "install the latch", "slam the door". The waves are installed horizontally like the latch of the universe's door. The "closing door" darkness evokes the moment when the light of day disappears and night suddenly falls, covering everything. The universe is vast, thin, majestic but still close and warm like a human house!
Normally, when the day ends, people will temporarily stop all work to return to rest with their families, but at sea there is a different life that then begins...
The fishing boats went out to sea again
The song sails with the wind
+The word "re" evokes the cycle of activities of the sea people, suggesting the peaceful rhythm of life of the homeland and country. After many years of war
war, Vietnamese people have such a peaceful working life!
+The group of boats set sail with a cheerful, excited, and enthusiastic atmosphere: "The song sails with the wind": The combination of "the song" and "the wind" creates great strength to help the boat strongly overcome. waves out to sea. The metaphorical art of converting feelings in the verse also recreates the beauty of the fishermen's hearts and joy in their work.
b) Last stanza – scene of return
– The boat crew returns with a passionate song:
+If at the beginning of the poem the author uses the word "co" (The song sails with the wind) to express the harmony between the boat and the wind, promising a smooth and peaceful sea voyage, then at the end of the poem he writes “The song that fills the sails with the wind” represents the joy of fishermen returning on boats full of fish.
- The fleet of boats returns in a race with the sun: The anthropomorphic image of "The fleet of boats racing with the sun" turns the boat into a living organism, evoking the enthusiasm and joy of welcoming the new day of the whole family. nature and humans.
The boat fleet also returned in the bright, glorious light of dawn and thousands of fish eyes sparkled in the sunlight.
=> The poem has the sound of a labor epic, expressing the joyful joy of the people who are masters of heaven and earth.
c) General feeling about the two stanzas
Both stanzas show the beauty of sea nature and people at both times: sunset and sunrise. Nature is always bright, majestic and magnificent. People are always full of vitality and passion for work.
The inspiration covering the two stanzas is cosmic inspiration.
The poetic style is spacious, the poetic sound is strong, the pebbles are both floating and floating; The lyrics are clear, the rhythm is like a passionate, exciting song, the sowing style has many flexible variations, questions mixed with rhyme; poetic images rich in romantic beauty; many unique rhetorical devices (comparison, personification); corresponding terminal structure (repetition of the image “sun/sea breeze/song”).
d) Contact
Candidates choose another work also written about the bond between people and the homeland sea to connect with the two poems above. For example: Te Hanh's "Homeland".
It can be related to real life to see that Vietnamese people always take practical and specific actions to show their love and attachment to the sea: combating marine pollution, protecting marine landscapes, and being creative. works of art facing the sea...
|
Hướng dẫn
Giới thiệu vấn đề nghị luận: những trải nghiệm trong quá trình đọc (đọc một cuốn sách) sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về thế giới xung quanh (đi muôn dặm đường).Thí sinh tự chọn phân tích một hay nhiều tác phẩm để thấy cuộc đời trên trang sách cũng là sự phản chiếu của cuộc đời thực. Nói cách khác, nhờ việc học, ta có thể không cần đi muộn dặm đường mà vẫn có những hiểu biết vế con người và cuộc sống.
Chứng minh làm sáng tỏ chủ đề bằng một hoặc vài tác phẩm.
Ví dụ:
+ Đọc “Lão Hạc”(Nam Cao) ta hiểu thêm về đời sống đói nghèo, cực khổ của người nông dân và đời sống nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám; đồng thời cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của họ – thật thà, chất phác, tựtrọng, hết lòng vì con.
+ Đọc “Đoàn thuyền đánh cớ”(Huy Cận) ta thấy được sự hối sinh của đất nước và con người Việt Nam sau những năm dài chiến tranh.
Bàn luận:
+ Chỉ những tác phẩm thực sự có giá trị mới giúp người đọc đi muôn dặm đường đến với những chân trời mới tốt đẹp.
+ Việc đọc một tác phẩm không thay thế hoàn toàn việc đi muộn dặm đường; nhiều khi đi muôn dặm đường, ta sẽ hiểu hơn về tác phẩm đang đọc.
|
Instruct
Introducing the discussion problem: experiences in the reading process (reading a book) will help us gain more knowledge about the world around us (traveling thousands of miles). Candidates choose to analyze one or more of them. works to see that life on the page is also a reflection of real life. In other words, thanks to studying, we can not be late and still have knowledge about people and life.
Demonstrate elucidation of the topic with one or more works.
For example:
+ Reading "Lao Hac" (Nam Cao), we understand more about the poverty and hardship of farmers and rural life in Vietnam before the August Revolution; At the same time, feel the beauty of their souls - honest, naive, self-respecting, devoted to their children.
+ Reading "The fleet of excuses" (Huy Can), we see the rebirth of the country and people of Vietnam after long years of war.
Discuss:
+ Only truly valuable works can help readers travel miles to beautiful new horizons.
+ Reading a work does not completely replace walking miles late; Sometimes when we travel thousands of miles, we will understand more about the work we are reading.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu tác giả:Y Phương là nhà thơ người dân tộcTày, sinh ra và lớn lên ở Trùng Khánh – Cao Bằng, ông một nhà thơ chiến sĩ. Thơ ông cuốn hút người đọc bằng vẻ đẹp vừa chất phác, mộc mạc, vừa mạnh mẽ, trong sáng. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ của ông in đậm dấu ấn tưduy hồn nhiên và lối nói rất giàu hình ảnh của người miền núi.
Giới thiệu bài thơ: “Nói với con”ra đời vào năm 1980, in trong tập “Thơ Việt Nam 1945 – 1975″khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung và đổng bào các dân tộc thiểu số nói riêng còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Từ hiện thực ấy, Y Phương viết bài thơ này để bày tỏ tình yêu quê hương và niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình; để tâm sự với chính mình và nhắc nhở con cái sau này.
Giới thiệu đoạn trích:Đoạn trích là khổ một của bài, là lời tâm sự, dặn dò của cha với con con về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con.
a) Lời người cha dặn con
Cội nguồn sinh thành, nuôi dưỡng con trước hết là gia đình;
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
+ Những hình ảnh thơgiàu giá trị tạo hình: “chân phải/chân trái/một bước/hai bước” đảkhắc họa những bước chân trẻ thơ chập chững, non nớt. Đó là hình ảnh của con với những bước đi đầu tiên trong cuộc đời.
+ Thủ pháp liệt kê “tiếng nói/cười”, “tới cha/mẹ”gợi hình ảnh em bé đang tuổi tập nói, tập đi và không khí gia đình ấm áp, yêu thương. Qua đó, ta cũng cảm nhận được ánh mắt dõi theo, khích lệ và vòng tay đón đợi, sẵn sàng nâng đỡ con của người cha, người mẹ.
=? Bằng những lời lẽ giản dị, người cha nói với con: gia đình chính là cội nguổn tinh thẩn, nuôi dưỡng con, là cái nôi cho con những yêu thương, ấm áp đầu đời.
Đoạn thơ còn mang ý nghĩa khái quát: Con phải học nói, học đi, để khôn lớn trưởng thành. Trên hành trình ấy, sự vững vàng “một bước/hai bước”,sự hiểu biết “tiếng nói/tiếng cười”đêucó được do công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Vì thế, con không được phép quên công lao của mẹ cha.
– Cội nguồn sinh thành, nuôi dưỡng con còn là quê hương:
Người đồng mình yêu lám con ơi
…Con đường cho những tấm lòng
+ “Người đồng mình”với cuộc sống lao động, nếp sinh hoạt hàng ngày và không gian sống (cánh rừng, con đường về nhà, về bản) đã mang đến tình yêu quê hương xứ sở.
+ Hình ảnh giàu sức gợi “đan lờcài nan hoa”vùa tả thực công cụ lao động được trang trí đẹp đẽ, vừa gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của con người. “Vách nhà ken câu hát” tảthực sinh hoạt văn hóa của người đồng mình, tả cảnh hát cho nhau nghe tràn đêm, suốt sáng khiến vách nhà như được ken dày những câu hát say sưa, tinh tế; gợi tâm hồn tinh tế, phong phú, tràn đầy lạc quan của người đồng mình.
+Thủ pháp nhân hóa: “rừng cho hoa”là vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng là niềm vui, hạnh phúc mà quê hương ban tặng, qua đó ngợi ca sựgiàu cóvà hào phóng của thiên nhiên quê hương. “Con đường cho những tấm lòng”gợi đượctình cảm gắn bó, keo sơn thắm thiết của người đồng mình với căn nhà, với làng bản; gợi những bàn chân, những tấm lòng trở về với quê hương, xứ sở.
=> Cùngvới gia đình, truyền thống văn hóa, nghĩa tình quê hương đã nuôi dưỡng con khôn lớn, trưởng thành.
– Con còn lớn khôn từ những kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc nhất của cha mẹ:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
+ “Ngày cưới”-“ngày đẹp nhất”:vì cha mẹ không chỉ tìm thấy nhau mà còn gắn bó khăng khít; là ngày minh chứng cho tình yêu, hạnh phúc; là hình ảnh của một gia đình đầm ấp, yêu thương.
+ Từ đó, con được sinh ra, lớn lên trong những điều kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất trong đời. Con là quả ngọt của tình yêu của cha mẹ, là hạnh phúc của gia đình. Hai chữ “Thương lắm” bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc của người cha với cuộc sống nhiều vất vả, gian khó của họ.
b) Nghệ thuật
-Từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức gợi, in đậm lối tưduy trong sáng, hồn nhiên, sinh động của người miền núi.
|
Instruct
Author introduction: Y Phuong is a Tay ethnic poet, born and raised in Trung Khanh - Cao Bang, he is a soldier poet. His poetry attracts readers with its simple, rustic, strong, and pure beauty. The language and images of his poetry are imprinted with the innocent thinking and the speaking style is rich in images of mountain people.
Introducing the poem: "Talk to your children" was born in 1980, printed in the collection "Vietnamese Poetry 1945 - 1975" when the spiritual and material life of the people of the country in general and ethnic minorities in particular, it is still extremely difficult and lacking. From that reality, Y Phuong wrote this poem to express her love for her homeland and pride in the strong and enduring vitality of her people; to confide in yourself and remind your children later.
Introducing the excerpt: The excerpt is the first stanza of the article, a father's confession and advice to his son about the origin of his birth and upbringing.
a) The father's words to his son
The source of giving birth and raising children is first and foremost the family;
Right foot steps towards father
Left foot steps towards mother
One step to touch the voice
Two steps to laughter.
+ The poetic images are rich in visual value: "right foot/left foot/one step/two steps" depicts the steps of a toddler and young child. That is the image of a child taking his first steps in life.
+ The method of listing "voice/laughter", "to father/mother" evokes the image of a baby learning to talk and walk and a warm, loving family atmosphere. Through that, we also feel the watching, encouraging eyes and welcoming arms, ready to support the child of the father and mother.
=? With simple words, the father told his child: family is the source of the child's spirit, nurtures him, and is the cradle that gives him the first love and warmth of his life.
The poem also has a general meaning: You must learn to speak, learn to walk, to grow up and become an adult. On that journey, the steadfastness of "one step/two steps", the understanding of "voice/laughter" all come from the birth and upbringing of parents. Therefore, you are not allowed to forget your parents' contributions.
– The origin of giving birth and raising children is also the homeland:
The person I love is my dear
…The path for the hearts
+ "Friend" with working life, daily routine and living space (forest, road home, returning to the village) has brought about love for the homeland.
+ The evocative image of "weaving needles with spokes" depicts the reality of beautifully decorated working tools, evoking the industrious, skillful hands, talent and creativity of people. "The walls of the house are filled with songs" describes the cultural activities of fellow villagers, depicting scenes of singing to each other all night and all morning, making the walls of the house seem thick with passionate, delicate songs; evokes the delicate, rich, and optimistic soul of one's comrades.
+ Personification technique: "forest gives flowers" is the beauty of nature, also the joy and happiness that the homeland bestows, thereby praising the wealth and generosity of the homeland's nature. "The Road for the Heart" evokes the emotional attachment and affection of a companion to the house and the village; evokes feet and hearts to return to their homeland.
=> Together with family, cultural traditions and love for the homeland have nurtured children to grow and mature.
– I still grow up from my parents' most peaceful and happiest memories:
Parents always remember their wedding day
The most beautiful first day in life
+ "Wedding day" - "the most beautiful day": because parents not only found each other but also bonded closely; is the day that proves love and happiness; is the image of a warm, loving family.
+ From then on, you were born and grew up in the most wonderful and beautiful things in life. Children are the sweet fruit of parents' love, the happiness of the family. The two words "I love you so much" express the father's deep sympathy for their hard and difficult lives.
b) Art
-Words and images are simple, rich in evocation, imprinting the clear, innocent, and lively way of thinking of mountain people.
|
Hướng dẫn
Tố Hữu viết bài “Từ ấy” vào thời điểm tháng 7 năm 1938 để diễn tả “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của Chủ nghĩa Mác- Lê nin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình” (Tố Hữu tâm sự – tạp chí Văn học).
Mỗi người có những giây phút đổi thay diệu kỳ, đánh dấu một sự phát triển không thể đảo ngược của nhân cách. Ấy là thời gian dấu ấn không thể phai mờ. Đối với Tố Hữu ấy là thời điểm ông tiếp nhận lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, được giác ngộ cách mạng.
Nhà thơ đã sử dụng một loạt từ ngữ gợi tả, những biện pháp tu từ đặc sắc để diễn tả niềm ngay ngất, sự sung sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.
“Mặt trời chân lý” là một hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lý tưởng cách mạng, ca ngợi Chủ nghĩa cộng sản đã soi sáng tâm hồn nhà thơ. Chiếu sáng con tim, khối óc nhà thơ. Kết hợp sử dụng với các động từ gợi hình “bừng””chói” nhà thơ đã diễn tả được ánh sáng Chủ nghĩa Mác-Lê nin đã vô cùng chói lọi, chiếu vào trái tim, tâm hồn yêu nước nhà thơ. Ánh sáng ấy làm bừng lên thứ nắng hạ chói chang, rực rỡ, đầy sức sống trẻ trung, sôi nổi. Đây là cách nói rất mới, rất thơ về lý tưởng.
Đối với nhà thơ, những tháng ngày trước đó là những đêm dài, là bóng tối, là cuộc đời bế tắc hoàn toàn không có lối thoát:
“Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời…”
(Nhớ đồng)
|
Instruct
To Huu wrote the article "From That" in July 1938 to describe "My heart was extremely happy when I felt the light of Marxism-Leninism shine into my young soul" (To Huu confided – Literature magazine).
Each person has moments of magical change, marking an irreversible development of personality. It is a time that leaves an indelible mark. For To Huu, that was the moment he accepted the ideal of communism and was enlightened by the revolution.
The poet used a series of descriptive words and unique rhetorical devices to express the ecstasy and happiness of a patriotic young man:
From then on, I was filled with summer sunshine
The sun of truth shines through the heart.
"Sun of truth" is a metaphorical image praising revolutionary ideals and communism for illuminating the poet's soul. Illuminates the poet's heart and mind. Combining the use with the evocative verbs "bright" "dazzling", the poet has described the extremely bright light of Marxism-Leninism, shining into the heart and patriotic soul of the poet. That light brightens up the bright, brilliant summer sun, full of youthful and vibrant vitality. This is a very new, very poetic way of talking about ideals.
For the poet, the previous months were long nights, darkness, and a completely deadlocked life with no way out:
“Wantingly looking for reasons to love life
Wandering aimlessly along the winding stream
Wanting to escape, alas, the steps won't leave..."
(Remember Dong)
|
Hướng dẫn
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn học nổi tiếng được sáng tác dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Song dưới ngòi bút điêu luyện của mình Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật bằng những hình ảnh và ngôn ngữ hết sức độc đáo. Chỉ qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều cũng thấy được bức chân dung tuyệt mĩ của Vân Kiều.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” Nguyễn Du đã rất thành công khi miêu tả vẻ đẹp tài sắc và số phận đầy trắc ẩn của Vân Kiều kết hợp với nghệ thuật xây dựng nhân vật dựa trên hình tượng độc đáo của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp, phẩm chất và tài năng. Ở bốn câu thơ đầu tác giả đã cho ta thấy vị thứ trong gia đình họ Vương, người chị cả là Thúy Kiều, kế tiếp là Thúy Vân và cuối cùng là cậu em út Vương Quan. Đặc biệt Nguyễn Du còn sử dụng biện pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp mảnh dẻ thanh cao như cây mai mùa xuân và tâm hồn trong trắng như tuyết của chị em Thúy Kiều. Vẻ đẹp ấy hết sức duyên dáng với nét đẹp hoàn mĩ rất riêng của mỗi người thể hiện từ hình dáng bên ngoài tới phẩm chất bên trong. Đến đây Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời.
Khuân trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thất đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Vẻ đẹp trang trọng quý phái với làn da trắng như tuyết, mái tóc đen như mây. Gương mất đầy đặn như trăng dằm, nụ cười tựa hoa mới nở. Giọng nói trong như ngọc thuyết. Tất cả những nét đẹp ấy đã cho ta thấy Thúy Vân là một cô gái tuổi đôi mươi vừa đoan trang vừa đẹp với cái dung hòa của thiên nhiên. Hơn nữa với cách miêu tả ấy, tác giả cho ta thấy cuộc đời của Vân bình lặng, hạnh phúc. Nhưng trái lại, Nguyễn Du đã khắc họa số phận éo le của Kiều ngay cả khi ông miêu tả vẻ đẹp và tài năng của nàng.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên trương,
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân ”.
Nếu Nguyễn Du tả Vân bằng bốn câu thơ thì nay ông dùng mười hai câu thơ để tả Kiều. Đặc biệt ông còn sử dụng thủ thuật “đòn bẩy” trong văn thơ cổ để ca ngợi phần hơn của Kiều. Vân đã đẹp Kiều còn đẹp hơn, sắc sảo cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của nàng ẩn chứa sự thông nhuệ, tài năng tột bậc và sự đa cảm trong tâm hồn thánh thiện. Với bốn nét vẽ tinh tế Nguyễn Du đã miêu tả đôi mắt nàng trong xanh như nước mùa thu với hàng lông mày thanh tú trên gương mặt rạng rỡ nét xuân đồng thời gợi tâm hồn trí tuệ của Kiều đạt mức toàn diện của mĩ nhân thời phong cổ. Vẻ đẹp ấy còn khiến cho “Hoa ghen, liễu hờn” với cách miêu tả ấy tác giả đã khéo léo mượn hai hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên để đặt bên đời Kiều đó là sự éo le, ngang trái, đau khổ, bất hạnh vì vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, tuyệt thế giai nhân, nhan sắc không ai sánh bằng. Với sự thông minh đa tài “Cầm, kì, thi, họa” Nguyễn Du đã không tiếc lời để miêu tả vẻ đẹp của Kiều là con người hội tụ đầy đủ tinh hoa của đất trời. Đến đây ta có thể thấy tài năng miêu tả nhân vật của tác giả với bút pháp miêu tả giàu sắc thái cổ điển, ông đã vẽ nên một bức chân dung vô cùng sống động và tinh tế. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn cho ta thấy cốt cách quý phái thanh cao, sự phong lưu rất mực trong lối sống của chị em Kiều dù đã đến tuổi cập kê, tuổi cài trâm vén ngọc và với khát khao bình dị về mối duyên hồng trăm năm:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
|
Instruct
The Tale of Kieu by Nguyen Du is a famous literary work composed based on the plot of Kim Van Kieu by Thanh Tam Tai Nhan (China). But under his skillful pen, Nguyen Du has successfully built the character with very unique images and language. Just through the excerpt, Sisters Thuy Kieu can see a beautiful portrait of Van Kieu.
Excerpt from "Thuy Kieu Sisters" Nguyen Du was very successful in describing the beauty, talent and compassionate fate of Van Kieu combined with the art of building characters based on the unique images of nature to evoke Describe beauty, qualities and talents. In the first four verses, the author shows us the hierarchy in the Vuong family, the eldest sister is Thuy Kieu, followed by Thuy Van and finally the youngest brother Vuong Quan. In particular, Nguyen Du also used the symbolic artistic method of taking the beauty of nature to depict the slender and elegant beauty like an apricot tree in spring and the soul as pure as snow of Thuy Kieu sisters. That beauty is extremely graceful with each person's very own perfect beauty expressed from external appearance to internal qualities. At this point, Nguyen Du described Thuy Van:
“Van looks very solemn.
The moon is full and his features are blooming.
Flowers smile and pearls are dignified,
Cloudy lose hair color snow ceded skin color."
Solemn and noble beauty with skin as white as snow and hair as black as clouds. The mirror is as full as a broken moon, the smile is like a newly bloomed flower. A voice as clear as jade. All of these beauties show us that Thuy Van is a girl in her twenties who is both dignified and beautiful with the harmony of nature. Furthermore, with that description, the author shows us that Van's life is peaceful and happy. But on the contrary, Nguyen Du portrayed Kieu's tragic fate even when he described her beauty and talent.
“Kieu is more sharp and salty,
Compared surface is the more talented back:
Autumn water and spring paint
United jealous loser poor petal blue willow hon.
One or two tilts the water tilts into the city,
Had demanded a sharp, two graphics resource officers.
Intelligence is inherently innate,
Mixing the craft of painting is full of the scent of singing.
Palace of Commerce, five-tone level floor,
Your own job will cost you a whole lot of money.
Hand-picked songs should be loud,
An ill-fated man is even an old man."
If Nguyen Du described Van in four verses, now he uses twelve verses to describe Kieu. In particular, he also used the "leverage" technique in ancient poetry to praise Kieu's superiority. Van is beautiful. Kieu is even more beautiful, sharp in both mind and soul. Her beauty hides intelligence, extreme talent and sentimentality in a holy soul. With four delicate brush strokes, Nguyen Du depicted her eyes as clear as autumn water with delicate eyebrows on a radiant, spring face, and at the same time evoked Kieu's intellectual soul to reach the comprehensive level of a beauty of her time. ancient style. That beauty also makes "Hoa jealous, willow angry" with that description, the author cleverly borrowed the two most beautiful images of nature to place next to Kieu's life, which are hardship, injustice, suffering, and injustice. Because of her beauty, she is a peerless beauty, her beauty is unmatched by anyone. With her multi-talented intelligence, "Positioning, examination, examination, drawing", Nguyen Du did not hesitate to describe Kieu's beauty as a person who fully converges the essence of heaven and earth. Here we can see the author's talent for describing characters with a descriptive style rich in classic nuances, he has painted an extremely vivid and delicate portrait. Not only that, Nguyen Du also shows us the nobility and nobility of the Kieu sisters' lifestyle, even though they have reached the age of marriage, the age of wearing pearl brooches and with a simple desire for love. centenary rose:
“Fashion is very rosy
Green spring is approximately the week of millet harvest.
|
Hướng dẫn
Mỗi con người sinh ra trên thế gian này đã là một niềm hạnh phúc vĩ đại. Nhưng sinh ra để sống trong vô nghĩa thì cái diễm phúc lớn lao kia lại trở thành một bi kịch chua sót. Ý nghĩa cuộc sống- điều làm nên hạnh phúc thật sự, để hạnh phúc tồn tại lâu bền nhất lại chỉ vang lên nhịp đập của nó khi được nuôi dưỡng bởi một suối nguồn của tình yêu thương. Dường như quy luật ấy đã trở thành muôn thuở và là chân lý của cuộc sống. Cũng bởi lẽ trên, đã có ý kiến cho rằng”. Tình yêu thương là hạnh phúc của con người”.
Khi còn bé, dường như mọi người trong chúng ta thường nhìn nhận khái niệm: “hạnh phúc” rất đơn giản là những điều mình mong muốn. Khi bạn đặt chân vào đời, bạn thật sự đã đặt chân lên cuộc hành trình khẳng định mình, tìm kiếm giá trị thật của cuộc sống và ý nghĩa bản thân, bạn sẽ nhận ra rằng”. Tình thương là hạnh phúc của con người”. Đó cũng chính là một chân lý vĩnh hằng của cuộc sống.
Dù mơ hồ hay rõ ràng, ai cũng có thể nhân ra rằng tình thương là những tình cảm đẹp đẽ va cuồng nhiệt của mỗi con người, gắn kết những trái tim đồng cảm. Nó có thể là tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, bạn bè,… nhưng cao hơn cả là tình người nói chung. Đó cũng có thể là những tình cảm bình dị nhất, gần gũi nhất mà các bạn nhận được từ sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau trong cuộc sống đến những tình cảm lớn lao mang tính chất giai cấp, cộng đồng. Tình thương – đó là tấm lòng yêu thương chân thành và trong sáng- là thứ tình cảm chỉ trao đi mà không cần nhận lại, không vụ lợi, không toan tính. Có thể nói, tình thương là một thứ tình cảm đẹp đẽ luôn tồn tại trong bản chất của mỗi con người. Và kết quả của sự yêu thương, đó là sự thỏa mãn con tim- cái được gọi là niềm hạnh phúc. Vậy đã bao giờ các bạn thử đặt ra câu hỏi: “Hạnh phúc là gì?”.
Từ bao đời nay, con người luôn khao khát được yêu thương, luôn tìm kiếm hạnh phúc. Người ta có thể cảm nhận được hạnh phúc nhưng để mô tả nó một cách rõ ràng thì không phải là một điều đơn giản, hỏi ai có thể mô tả được nó một cách rõ ràng? Chỉ có thể nói rằng hạnh phúc là một tâm trạng sung sướng vì cảm thấy thỏa mãn được ý nguyện, mong muốn của mình. Nhưng đó không chỉ đơn thuần là ước muốn vật chất hay thành công, mà là cả một tổng thể bao quát gồm những khái niệm hết sức trìu tượng, nhưng nó cũng thật đơn giản là giọt nước mắt của mẹ và tiếng cười của cha khi nhìn thấy con mình ra đời khỏe mạnh. Hay nó đơn giản chỉ là niềm xúc động khi nhận được một sự giúp đỡ hay một lời khuyên, một lời chia sẻ chân thành. Đ 2000 ối với nhiều người, hạnh phúc bắt đầu từ điều đơn giản nhất, khi mỗi sớm mai thức dậy, thấy mình sống có ích trên cõi đời, giống như câu thơ dưới đây của Trịnh Công Sơn:
“Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”
Hạnh phúc đôi khi chỉ đơn giản và bình dị như thế thôi. Ta cảm thấy như có một liên hệ gì đó không thể tách rời hạnh phúc và tình yêu thương. Liệu rằng con người có thể sống hạnh phúc khi không có tình thương?
Tình thương mang lại hạnh phúc cho người được nhận nó, giúp họ có thêm nghị lực vượt qua mọi thử thách, khó khăn của cuộc sống; là động lực để giúp họ ngày càng hoàn thiện hơn. Trong “Những người khốn khổ” (V.Huy- gô), có một triết lý tình thương của nhân vật Giăng-Van-Giăng đã có ý nghĩa lớn lao, nó làm thay đổi số phận và giao hoa con người. Giăng-Van- Giăng đã thay lời V.Huy- gô để nói lên một triết lí: “Trong đời chỉ có một điều, ấy là yêu thương nhau”.
|
Instruct
Every human being born into this world is a great happiness. But being born to live in meaninglessness turns that great blessing into a bitter tragedy. The meaning of life - what makes true happiness, the most lasting happiness - only resonates when it is nourished by a source of love. It seems that that rule has become eternal and is the truth of life. Also for the above reason, there has been an opinion that " Love is human happiness."
When we were children, it seemed that all of us often saw the concept of "happiness" as simply what we wanted. When you set foot in life, you have truly set foot on the journey of asserting yourself, finding the true value of life and personal meaning, you will realize that. Love is human happiness." That is also an eternal truth of life.
Whether vague or clear, everyone can realize that love is the beautiful and passionate feelings of each person, connecting sympathetic hearts. It can be the love of a couple, the love of family, of friends,... but the highest is human love in general. These can also be the simplest, closest feelings that you receive from caring for each other in life to great feelings of class and community nature. Love - that is sincere and pure love - is a feeling that is only given without receiving anything in return, without self-interest, without calculation. It can be said that love is a beautiful feeling that always exists in the nature of every human being. And the result of love is heart satisfaction - what is called happiness. So have you ever tried to ask the question: "What is happiness?".
For generations, people have always yearned to be loved and always sought happiness. People can feel happiness but to describe it clearly is not a simple thing, who can describe it clearly? It can only be said that happiness is a happy state of mind because you feel your wishes and desires are satisfied. But it is not simply a desire for material things or success, but a whole comprehensive whole consisting of very abstract concepts, but it is also as simple as a mother's tears and a father's laughter when Seeing my baby born healthy. Or is it simply the emotion of receiving help or advice, a sincere word of sharing. D 2000 For many people, happiness begins with the simplest things, when waking up every morning and seeing that you are living a useful life in the world, like the following poem by Trinh Cong Son:
“Thank life every morning when I wake up
We have one more day to love"
Happiness is sometimes as simple and simple as that. We feel like there is an inseparable connection between happiness and love. Can people live happily without love?
Love brings happiness to the person who receives it, helps them have more strength to overcome all challenges and difficulties of life; is the driving force to help them become more and more perfect. In "Les Miserables" (V.Huygo), there is a philosophy of love of the character Jean-Van-Jan that has great significance, it changes fate and enriches people. Jean-Van-John replaced V.Huygo's words to express a philosophy: "There is only one thing in life, and that is to love each other."
|
Hướng dẫn
Trong mọi đất nước, mỗi quốc gia. Con người với con người đều có thể trở thành bạn bè thân thiết của nhau mang theo tình nghĩa cao đẹp. Chính vì thế trong những bài thơ, có nhiều những tình bạn đẹp xuất hiện trong đó. Thậm chí cả những câu châm ngôn, danh ngôn cũng nói về vấn đề này.
Tình bạn đẹp không chỉ là hai người với nhau. Không chỉ là con gái hay chỉ là con trai với nhau mà trong tình bạn không phân biệt đối xử người kia giàu sang hay nghèo khổ, xinh đẹp hay xấu xí, trai hay gái. Những người bạn với nhau phải có một sự chân thành. Tình bạn tự đến với nhau phải có sự tự tin sẵn sàng không được ràng buộc quá đáng nếu không tình bạn đó sẽ không đẹp. Cuộc sống xung quanh chúng ta không thế thiếu những tình bạn đẹp. Sống chung trong một mái trường không phải ai ai cũng làm bạn với nhau. Trong mỗi một lớp học, những người bạn đẹp là do có cùng thiện cảm với nhau, hiểu nhau hơn bất cứ những người nào khác. Tình bạn trong sáng là những tình cảm không có sự đố kị, hơn thua. Những cái nhỏ nhen vụ lợi rồi sẽ tan biến ngay. Sẽ không chấp nhận cái mà bỏ qua dễ dàng thói hư tật xấu của bạn. Bao che cho nhau khi bạn làm sai chuyện gì đó. Điều ấy sẽ khiến cho bạn thêm đi sâu vào chỗ ngược ngõ cụt mà thôi. Nhiều người có suy nghĩ, bao che cho bạn sẽ khiến bạn tin tưởng rồi mình và bạn sẽ thân thiết hơn. Điều đó cũng đúng những nó sẽ khiến cho bạn khó mà tìm ra con đường đúng đắn mà cứ tiếp tục đi vào con đường xấu xa không biết tới đâu. Trong hoàn cảnh những người bạn với nhau nên khuyên răn đưa bạn đến con đường khác bằng kỉ luật.
|
Instruct
In every country, every country. People and people can become close friends with each other, bringing with them noble friendships. That's why in the poems, there are many beautiful friendships appearing in them. Even proverbs and quotations talk about this issue.
A beautiful friendship is not just two people together. Not just girls or just boys together, but in friendship there is no discrimination between whether the other person is rich or poor, beautiful or ugly, boy or girl. Friends must have sincerity with each other. Friendships that come together must have confidence and willingness to not be overly attached, otherwise the friendship will not be beautiful. Life around us cannot lack beautiful friendships. Living in the same school doesn't mean everyone is friends with each other. In every class, beautiful friends are because they have the same sympathy for each other and understand each other better than anyone else. Pure friendship is love without jealousy or superiority. Those petty and self-serving things will disappear immediately. Will not accept something that easily ignores your bad habits. Cover for each other when you do something wrong. That will only make you go deeper into a dead end. Many people have thoughts, covering for you will make you trust and you and I will become closer. That's also true, but it will make it difficult for you to find the right path and keep going down the bad path to unknown destination. In this situation, friends should advise you to take you to another path through discipline.
|
Hướng dẫn
“Cánh cò cõng nắng qua sông
Chở luôn nước mắt cay nồng của cha
Cha là một dải ngân hà
Cha là giọt nước sinh ra từ nguồn…”
Khi đọc những câu ca trong bài “Ca dao về cha” khiến tôi nghĩ về hình tượng người cha. Nếu hình ảnh mẹ không bút nào tả xiết, thì người cha trong gia đình cũng vậy. Nếu người mẹ dạy cho con lòng nhân hậu, thì người cha truyền cho con lương tri, sức sống. Ai dám khẳng định rằng tình yêu của cha không bằng mẹ? Để trả lời điều băn khoăn này, chúng ta hãy cùng hướng về hình ảnh người cha qua 3 tác phầm: Lão Hạc của Nam Cao; Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng và bài thơ:” Nói với con “ của Y Phương.
Cha lúc nào cũng vẫn là cha, là nguồn sức mạnh tinh thần vô biên cho con cái. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm nào cha vẫn là điểm tựa cho con. Ở đây hình tượng người cha trong xã hội cũ (xã hội thực dân nửa phong kiến) và người cha trong chiến tranh, rồi người cha trong hoà bình, họ đều có một điểm nổi trội không khác gì người mẹ đó là tình yêu và thương con cái dạt dào sâu sắc. Họ cũng hy sinh vì con cái, họ cũng quặn trong lòng nỗi đau con cái. Bất cứ ở giai đoạn nào từ xưa đến nay trong gia đình, người cha vẫn được coi là trụ cột, là nóc nhà. Chính vì thế mà vai trò của người cha vô cũng to lớn. Đứng ở phương diện chung thì chúng ta đều có cái nhìn khái quát ở cả 3 tác phẩm hình tượng người cha khá rõ nét, đó là tình yêu, tình thương con da diết, tình cảm ấy lúc nào cũng đau đáu ngự trị trong lòng và ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào. Chỉ khác một nỗi tình yêu thương con ở mỗi một ngươi cha biểu hiện khác nhau.
Trước hết, Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên (một người cha trong xã hội cũ- xã hội thựcdân nửa phong kiến) Nam Cao đã cho ta thấy Lão Hạc yêu con sâu sắc đến nhường nào. Lão luôn day dứt vì mình không phải với con. Lão thương con đến đứt ruột nhưng lại bất lực để con phải đi phu để rồi cả cuộc đời lão là sự khổ đau, lo lắng, dằn vặt. Khi đói khát ăn củ chuối, rau dại mà không dám bán vườn vì con. Sự lo lắng của người cha từng trải lo cho tương lai của con “Ai lại bán vườn đi, bán đi con về ở đâu?” Bao câu hỏi khi trò chuyện với ông giáo về sự dằn vặt ấy. Đôi mắt lão rưng rưng lệ, ngậm ngùi trong tiếng nấc để rồi bất lực, cam chịu. Yêu con vô bờ bến, lão Hạc quyết tâm giữ mảnh vườn, ngôi nhà của mình cho con để rồi trông ngóng đứa con nơi phương xa. Để lấp đầy khoảng trống của nỗi nhớ con, lão Hạc đã dành cả tình yêu thương cho con chó được gọi là “cậu Vàng” (con chó mà lúc ở nhà, con lão đem về). Lão trò chuyện với nó thay với con cho đến lúc không thể nuôi được nó, lão phải bán đi để rồi khóc tủi nhục mà dẫn đến cái chết. Thương con, lão đau lòng lắm vì ám ảnh cho cái nghèo( cái đau của lòng yêu thương và có nhân cách của người cha trong xã hội cũ).Thương con không chỉ thể hiện qua cách ứng xử mà thương con, với lão, còn là một nguyên tắc sống, Lão âm thầm hy sinh thân mình để mong con có một tương lai tốt đẹp khi về, để rồi lão chết trong đau đớn, quằn quại mà vẫn cam lòng.
Song đến hình ảnh người cha trong chiến tranh của Nguyễn Quang Sáng qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một hình ảnh cha con sâu đậm, đẹp đẽ. ông Sáu- một người cha, người lính trong chiến tranh vì nhiệm vụ mà phải xa gia đình, xa quê hương. Sự khao khát cháy bỏng được gặp con và nghe con gọi tiếng “cha” lúc nào cũng canh cánh bên ông. Song tình thương con của người cha- người lính có vẻ như nghiêm khắc, khắt khe và nóng vội. Khi anh giơ tay lỡ tát con lúc bé Thu hất cái trứng cá ra khỏi bát. Thực ra tình yêu thương con trong anh bị dồn nén, hấp tấp, có lúc thương xót, lúc lại giận, lại vui, mừng mừng, tủi tủi. Xa con vì chiến tranh, anh muốn bù đắp cho con phần nào. Nên khi gặp con, tình cha con như đựơc nối kết bằng một sợi dây huyết thống, để người cha cảm nhận bằng những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời người lính từng trải lần đầu tiên rơi khi cảm nhận được sự ấm áp trong tình cảm cha con. Anh Sáu “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Thế rồi tình yêu con của ông Sáu lại gián tiếp, ông dồn tất cả tình yêu thương đó vào cây lược ngà (theo ước muốn của con) ông thận trọng tỉ mỉ gọt dũa, ông muốn tự tay làm cây lược cho con. Thật xúc động khi “kiếm được khúc ngà, ông sung sướng như trẻ con vớ được quà”. Tình cảm ông dành cho con trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt nhưng thật giản dị và cảm động khi ông Sáu hy sinh, không kịp trao cho con cây lược mà tình yêu thương, mong nhớ con đều dồn nén vào một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn sẽ thực hiện được lời hứa duy nhất của mình với con trước khi qua đời, thật là một tình phụ tử đẹp và tồn tại như một bài ca vĩnh cửu.
Nhưng đến với hình ảnh người cha trong bài “Nói với con” của Y Phương thì hoàn toàn lại khác. Phải chăng Y Phương là một nhà thơ dân tộc Tày mộc mạc, giản dị nên ông đi từ đề tài quen thuộc của tình cha con theo một giai điệu riêng. Tình phụ tử thể hiện qua lời tâm tình của người cha trong tâm trạng dạt dào cảm xúc khi đón đứa con gái đầu lòng chào đời. Thật giản đơn, tình yêu thương con của người cha bộc lộ qua niềm ước mong con sống xứng đáng, phát huy truyền thống quê hương. Còn gì thú vị hơn mẹ cha dìu dắt, người đỡ bước đi đầu tiên của con trong một mái nhà nho nhỏ. “Chân phải bước tới cha- chân trái bước tới mẹ”. Rồi con lớn lên trong tình yêu thương và sự “chân chất” của người “đồng mình”. Tình yêu thương con gửi gắm trong niềm mong đợi con khôn lớn, hiểu được cội nguồn dân tộc để khắc cốt ghi xương. Cha muốn truyền cho con niềm tự hào, niềm tin khi con bước vào đời, sống sao cho tốt, cho xứng đáng với tình cảm của cha. Cha vun đắp cho con tình cảm tốt đẹp, cuộc sống mạnh mẽ của dân tộc miền núi. Tình cha con ở đây chính là lời dạy của cha cho con về đạo lý làm người, nhắc con bài học của lòng tự trọng, c 2000 ủa sự phấn đấu vươn lên:
“Con ơi! Tuy thô sơ da thịt
Lên đường không bao giờ nhỏ bé được nghe con”
Tình cảm cha con hoà quyện, gắn chặt với tình yêu thương quê hương, yêu đồng bào. Đó là lời răn dạy con bằng tất cả tình yêu thương con mộc mạc nhưng chứa đầy ý nghĩa trong thơ Y Phương.
Tóm lại hình ảnh người cha trong văn học đã truyền vào trong lòng mỗi con người khi sinh ra và lớn lên những dấu ấn thật đậm nét không bao giờ phai mờ. Đó là một điều ta có thể khẳng định dựa vào câu ca dao ngàn đời vẫn ghi tạc trong lòng chúng ta:
|
Instruct
“The stork carries the sun across the river
Carrying my father's bitter tears
Dad is a galaxy
Father is a drop of water born from the source..."
When I read the verses in the song "Song about fathers" it made me think about the image of a father. If the image of a mother is indescribable, then so is the father in the family. If a mother teaches her child kindness, then the father instills in him conscience and vitality. Who dares to say that a father's love is not equal to a mother's? To answer this concern, let's turn to the image of the father through three works: Old Hac by Nam Cao; The ivory comb by Nguyen Quang Sang and the poem: "Talk to your children" by Y Phuong.
Father is always father, a source of boundless spiritual strength for his children. No matter the situation, at any time, a father is still a fulcrum for his child. Here, the image of the father in the old society (semi-feudal colonial society) and the father in war, then the father in peace, they all have one outstanding point no different from the mother, which is love and love. Love your children deeply and deeply. They also sacrifice for their children, they also suffer from the pain of their children. At any stage in the family from past to present, the father is still considered the pillar and the roof of the house. That is why the role of the father is so great. From a general perspective, we all have an overview of all 3 works of the father's image quite clearly, that is love, deep love for his children, that feeling always aches and pains in the heart. and under any conditions and circumstances. It's just that the love for their children is expressed differently in each father.
First of all, Lao Hac in the work of the same name (a father in the old society - a semi-feudal colonial society) Nam Cao showed us how deeply Lao Hac loved his children. He is always tormented because he is not with his child. He loved his son to the core but was helpless to let him go to be married, so his whole life was filled with suffering, worry, and torment. When hungry and thirsty, she eats banana roots and wild vegetables but does not dare to sell the garden for her children. An experienced father's concern for his child's future: "Who would sell the garden, where would you go if you sold it?" So many questions when talking to the teacher about that torment. His eyes filled with tears, he sobbed sadly, then became helpless and resigned. Loving his child endlessly, old Hac was determined to keep his garden and house for his child and then look forward to his child in the distance. To fill the void of missing his son, Mr. Hac devoted all his love to the dog called "Mr. Vang" (the dog that his son brought home when he was at home). He talked to it instead of his children until he couldn't raise it, so he had to sell it and then cried in shame and died. Loving his child, he was very heartbroken because he was haunted by poverty (the pain of love and having the personality of a father in the old society). Loving his child was not only expressed through his behavior, but loving him, towards him, is also a principle of life, he silently sacrificed himself to hope that his son would have a good future when he returned, then he died in pain, writhing but still willing.
But the image of a father during the war by Nguyen Quang Sang through the short story "The Ivory Comb" is a profound and beautiful image of father and son. Mr. Sau - a father and soldier during the war had to leave his family and homeland because of his mission. The burning desire to see his child and hear him call "father" is always by his side. But the soldier-father's love for his child seems strict, demanding and impatient. When he raised his hand and accidentally slapped his child, little Thu knocked the fish eggs out of the bowl. In fact, his love for his child is repressed, impulsive, sometimes pitiful, sometimes angry, happy, joyful, and sad. Being away from his children because of the war, he wanted to compensate them somewhat. So when he met his son, the father-son relationship seemed to be connected by a blood bond, so that the father could feel the rare tears of an experienced soldier's life falling for the first time when he felt the warmth. in father-son love. Mr. Sau "held the child with one hand and pulled out a towel to wipe tears with the other." Then Mr. Sau's love for his child was indirect, he poured all that love into the ivory comb (according to his child's wish), which he carefully and meticulously sharpened, he wanted to make the comb for his child himself. It was very touching when "he found the piece of ivory, he was as happy as a child finding a gift". His love for his child became sacred, noble and strong, but it was simple and touching when Mr. Sau sacrificed, not having time to give him the comb, but his love and longing for him were all compressed into one light. His eyes filled with a burning wish that his friend would fulfill his only promise to his child before he passed away. What a beautiful father-son relationship that exists like an eternal song.
But when it comes to the image of the father in Y Phuong's song "Talking to Children" it is completely different. Is it true that Y Phuong is a rustic and simple Tay ethnic poet, so he goes from the familiar topic of father-son love to a unique melody. Fatherly love is expressed through the father's confession in an emotional state when welcoming his first daughter into the world. Quite simply, a father's love for his child is expressed through his desire for his child to live a worthy life and promote the traditions of his homeland. There is nothing more interesting than a mother or father guiding and supporting a child's first steps in a small home. "Right foot steps towards father - left foot steps towards mother". Then I grow up in the love and "honesty" of my "comrades". My love for you is expressed in the hope that you will grow up and understand your ethnic roots so that you can engrave them in your bones. I want to instill in you pride and confidence as you enter life, to live well, to be worthy of my affection. Father nurtured in his children the good feelings and strong life of the mountainous people. The father-son relationship here is the father's teachings to his child about human morality, reminding him of the lesson of self-esteem and striving for improvement:
"My son! Although the skin is rudimentary
Going on a journey is never too small to listen to you"
The love between father and son is intertwined, closely linked with love for the homeland and love for people. That is a simple but meaningful teaching to my children in Y Phuong's poem.
In short, the image of the father in literature has instilled deep, indelible marks in the hearts of every human being born and growing up that will never fade. That is one thing we can confirm based on the age-old folk song that is still engraved in our hearts:
|
Hướng dẫn
Từ bao đời nay, việc học đã được con người coi trọng, học là nền móng, là cơ sở của mỗi quốc gia. Nhưng học thế nào mới là đúng đắn, học thế nào mới đạt được kết quả tốt nhất? Việc này đã được con người quan tâm, bàn luận rất nhiều. Trong đó, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã có một ý kiến rất chính xác về phương pháp học qua bài Bàn luận về phép học, đó là học đi đôi với hành.
Học là tiếp thu kiến thức của nhân loại. Chúng ta có thể học ở trường qua thầy cô, bạn bè, học qua sách vở và học ờ đời sống thực tế. Học phải tuần tự từ thấp tới cao, từ dễ đến khó. Không được học vẹt, học đối phó, học như vậy thì thực chất chẳng tiếp thu được kiến thức. Thuộc bài là một yếu tố rất quan trọng nhưng phải hiểu được nội dung, bản chất có như vậy thì mới có cách cảm nhận, cách nghĩ, cách sáng tạo riêng.
Việc học phải được phổ biến rộng rãi, chúng ta không chỉ học ở thầy cô, ở bạn bè, ở sách vở,… mà chúng ta cần phải học ở mọi lúc, mọi nơi. Kho tàng kiến thức không bao giờ cạn nên chúng ta phải luôn học hỏi. Tuy nhiên, không phải cái gì chúng ta cũng học. Chỉ nên học những kiến thức tốt và cần tránh học những kiến thức xấu. Phải biết chọn cho mình những kiến thức phù hợp.
|
Instruct
For many generations, learning has been valued by people, learning is the foundation and basis of every country. But what is the right way to learn, how to learn to achieve the best results? This has received a lot of attention and discussion from people. Among them, La Son Phu Tu Nguyen Thiep had a very accurate opinion about learning methods through the article Discussion on learning, which is learning along with practice.
Learning is absorbing human knowledge. We can learn at school through teachers, friends, through books and in real life. Learning must be sequential from low to high, from easy to difficult. If you don't learn by rote or learn to cope, if you learn like that, you won't actually be able to acquire knowledge. Memorizing the lesson is a very important factor, but you must understand the content and nature to have your own way of feeling, thinking, and creating.
Learning must be widely disseminated, we not only learn from teachers, friends, books,... but we need to learn anytime, anywhere. The treasure of knowledge never runs out, so we must always learn. However, we don't learn everything. You should only learn good knowledge and avoid learning bad knowledge. You must know how to choose the right knowledge for yourself.
|
Hướng dẫn
Đất nước chúng ta đang trên đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những điều đó thì chúng ta phải vượt qua rất nhiều khó khăn. Nhưng khó khăn nan giải nhất khiến chúng ta khó có thể vượt qua đó là các tệ nạn xã hội như: Ma túy, cờ bạc, văn hóa phẩm đồi trụy…
Để tìm hiểu vấn đề nan giải này thì trước tiên chúng ta phải hiểu được thế nào là tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội là những hành vi sai trái, không đúng với chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội. Tệ nạn xã hội là mối nguy hiểm, phá vỡ hệ thống văn minh, tiến bộ và lành mạnh. Các tệ nạn xã hội thường gặp như: Ma túy, mại dâm, cờ bạc… Nhưng tệ nạn nguy hiểm nhất đối với giới trẻ và đặc biệt là học sinh đó là nghiện game.
Nghiện game hiện được xem như là một vấn nạn đang tiềm ẩn nhiều tác hại đối với các quốc gia và trong đó có Việt Nam. Đối tượng của nó không giới hạn ở riêng lứa tuoir nào mà tác động đến hầu heegts tất cả mọi người đặc biệt là học sinh.
Game đơn giản chỉ là những trò chơi giải trí sau những ngày làm việc căng thẳng. Nhưng hiện nay, xuất hiện sự lạm dụng game để kiếm tiền của các nhà sản xuất khiến cho những trò chơi ngày một hấp dẫn đối với các bạn trẻ, khiến cho họ không thể bỏ game được.
Hàng ngày, trên các tuyến đường lớn, nhỏ, trong ngõ. Nhiều cửa hàng game online mọc lên như nấm, thu hút đông đảo thanh niên, học sinh và cả sinh viên. Những người vào đây thì có đến 90% là học sinh và có đến 90% vào đây là để chơi game. Họ vào đây nhiều trường hợp mê đến quên ăn, quên ngủ. Nhiều trường hợp chơi game quá nhiều, nên thần kinh lúc nào cũng hoang tưởng và luôn lo lắng. Nhiều người lại coi mình giống như các nhân vật trong game lúc nào cũng sẵn sang đấm đá và luôn mang theo vũ khí bên người.
Theo một nghiên cứu mới đây thì Việt Nam là nước thứ ba trên thế giới có số người nghiện game online. Trong số đó có đến 70% là game bạo lực và game mang tính đồi trụy. Và có đến 80% là học sinh, sinh viên. Điều đó có nghĩa là một số đông học sinh, sinh viên Việt Nam ngoài việc đi học để bổ xung kiến thức thì họ còn đi chơi những trò vô bổ. Hiện nay, nhiều quán game mở cửa cả ngày và đêm nên càng thu hút các đối tượng nghiện game, nhiều học sinh mải chơi game đã trốn học, nói dối cha mẹ xin tiền học thêm nhưng lại toàn ngồi quán game. Như trường hợp đứa bạn thân của tôi, là một học sinh giỏi nhất nhì cái tỉnh Phú Thọ này nhưng chỉ vì một phút nông nổi và rủ rê của bạn bè đã khiến cậu ấy nghiện game. Ban đầu chỉ là chơi cho vui nhưng càng về sau lại càng nghiện. Có những khi bỏ học triền mien, rồi cắm xe, ăn cắp tiền của bố mẹ để đi chơi game. Nhìn thấy bạn như vậy tôi đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng cũng không được, ngay cả có những lúc bạn ấy bị bố đánh cho nhừ xương, thân thể tím bầm mà đâu vẫn đóng đấy, và có những khi bạn ấy giám chống cự lại bố mình để thoát đi chơi game. Từ một người thông minh, học giỏi, hiền lành chỉ vì game mà trở thành người đầy mưu mô, ngu muội và học hành ngày một sa sút.
|
Instruct
Our country is on the path to industrialization and modernization. To achieve those things, we must overcome many difficulties. But the most difficult difficulties that make it difficult for us to overcome are social evils such as drugs, gambling, depraved cultural products...
To understand this difficult problem, we must first understand what social evils are. Social evils are wrong behaviors that do not conform to social standards, violate ethics and laws, causing serious impacts on society. Social evils are a danger, disrupting a civilized, progressive and healthy system. Common social evils such as drugs, prostitution, gambling... But the most dangerous evil for young people and especially students is game addiction.
Game addiction is currently considered a problem with many potentially harmful effects on many countries, including Vietnam. Its target audience is not limited to any age group but affects almost everyone, especially students.
Games are simply entertainment games after stressful working days. But nowadays, there is an abuse of games to make money by manufacturers, making games more and more attractive to young people, making them unable to quit games.
Every day, on big and small roads, in alleys. Many online game stores have sprung up like mushrooms, attracting a large number of young people, pupils and students. Of the people who come here, up to 90% are students and up to 90% come here to play games. Many people who come here are so confused that they forget to eat and sleep. In many cases, people play games too much, so their nerves are always paranoid and always worried. Many people consider themselves like game characters who are always ready to punch and kick and always carry weapons with them.
According to a recent study, Vietnam is the third country in the world with the number of people addicted to online games. Of these, up to 70% are violent and depraved games. And up to 80% are students. That means that a large number of Vietnamese students, in addition to going to school to supplement their knowledge, also go out to play useless games. Currently, many game shops are open all day and night, so they attract more game addicts. Many students who are busy playing games skip school, lie to their parents to ask for money to study more, but instead sit at game shops. Like the case of my best friend, he is the second best student in Phu Tho province, but just because of a moment of rashness and encouragement from his friends, he became addicted to the game. At first it was just for fun, but later on it became more and more addictive. There were times when I skipped school all the time, then parked my car, stealing money from my parents to go play games. Seeing you like that, I tried to stop you many times but to no avail. Even though there were times when your father beat you to a pulp and your body was bruised, you still remained there, and there were times when you barely resisted. My dad let me escape to play games. From a smart, well-educated, gentle person just because of the game, he became a scheming, stupid person whose studies were getting worse and worse.
|
Hướng dẫn
Dù ở thời kỳ nào, dân tộc nào, tuổi trẻ cũng được xem là nguồn tài nguyên vô giá, là nguyên khí của quốc gia. Tuổi trẻ là nhân vật chính tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông cha ta vẫn thường dạy rằng: “Tre già măng mọc” và “Con hơn cha là nhà có phúc”; có nghĩa là ông cha đã trao cho con cháu trách nhiệm vừa lớn lao lại vừa vẻ vang; trách nhiệm đó là: thế hệ trẻ vừa là người giữ lửa, vừa là người thắp lửa cho tương lai. Thế hệ trẻ sẽ là người kế thừa và phát huy, phát triển những phẩm chất, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc – Người đã cụ thể hóa một trong số những trách nhiệm ấy trong thư gửi các cháu học sinh nhân ngày khai trường độc lập đầu tiên: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời dạy của Bác đã giúp ta hiểu rõ hơn về vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước.
Tuổi trẻ là thế hệ “măng non” đang ra sức “rèn luyện tinh thần và lực lượng”, tích lũy tri thức, nâng cao sự hiểu biết, bồi đắp tâm hồn, nuôi dưỡng chí hướng, rèn luyện nghị lực…để chuẩn bị hành trang vững bước trước cuộc đời. Tuổi trẻ của đất nước ta hôm nay là chính chúng ta: là tôi, là bạn, là những cô cậu học trò, là những anh chị sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường hoặc đang hoạt động cống hiến sức khỏe, sức trẻ của mình trên các lĩnh vực xây dựng và bảo vệ đất nước.
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đã có bao tâm gương tuổi trẻ Việt Nam chí lớn tài cao. Họ đã ghi tên mình trong những trang 2000 sử vẻ vang của dân tộc. Từ người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản với hành động bóp nát trái cam vì giận không được họp bàn việc nước, không được bày tỏ ý nguyện đánh giặc cứu nước đến các tấm gương tuổi trẻ Việt Nam anh dũng trong chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ. Chúng ta không thể nào quên những tên tuổi thanh thiếu niên sáng ngời lý tưởng đã hy sinh tuổi trẻ của mình cho đất nước nở hoa độc lập như: anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, anh Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo, anh Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, anh La Văn Cầu chặt đứt cánh tay bị thương để tiếp tục chiến đấu….các anh Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, chị Võ Thị Sáu…Họ là những tấm gương sáng của tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh, đứng trước cơn nguy biến của dân tộc, họ đã sẵn sàng chấp nhận hy sinh.
Thời kỳ nào cũng vậy, tuổi trẻ cũng luôn là lực lượng tiên phong, xông pha vào nơi gian nan hiển hách không ngại khó khăn, nguy hiểm bởi họ xác định:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí sẽ làm nên
Trong chiến tranh, nhiều chàng trai cô gái tuổi vừa mười tám đôi mươi đang nhiều mơ ước; có người từ làng quê xa xôi, có người từ giảng đường đại học; họ đã sẵn sàng quên đi tuổi thanh niên nhiều mơ ước để sống, cống hiến cho Tổ quốc với ước mơ duy nhất là vì độc lập tự do của dân tộc. Ước mơ ấy, lý tưởng ấy thật thanh sạch, cao khiết đến thánh thiện! Họ là ai? Họ là những “Nguyễn Văn Thạc”, “Đặng Thùy Trâm”… những con người sẽ sống mãi tuổi hai mươi với đất nước quê hương.
Hơn ai hết, tuổi trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để chúng ta noi theo. Bác đã bắt đầu hành trình chèo lái con thuyền cách mạng của dân tộc Việt Nam từ khi là anh thanh niên Nguyễn Tất Thành. Từ giã vai trò làm thầy giáo, Người xuống tàu làm phụ bếp, không một xu dính túi, chỉ có hai bàn tay trắng, lênh đênh trên sóng nước đi khắp châu Mĩ, châu Phi tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc.
Nhìn lại quá khứ hào hùng ấy của cha ông, nhìn lạ 2000 i những tấm gương của tuổi trẻ Việt Nam trong quá khứ, thế hệ trẻ chúng ta hôm nay nghĩ gì? Chúng ta hôm nay đang sống ở thế kỷ XXI – thế kỷ của sự phát triển không ngừng về văn hóa, kinh tế, xã hội. Quan trọng hơn là chúng ta đang sống trong thế giới hòa bình, được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc; chúng ta cần phải thấm nhuần lời dạy của Bác. Chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: sống như thế nào để có ích cho xã hội?
Hạnh phúc hôm nay không tự nhiên mà có, vì vậy chúng ta hãy sống xứng đáng với những gì mà ông cha đã phải hy sinh đánh đổi mới có được. Hãy sống xứng đáng với truyền thống “con Lạc cháu Hồng” hơn bốn nghìn năm dựng và giữ nước. Chúng ta hãy cùng nhau tự ý thức, chung sức đồng lòng xây dựng đất nước, đưa đất nước bắt nhịp với tốc độ phát triển như vũ bão của nhân loại. Để có hành trang tốt đứng vững trước cuộc đời trong thời kỳ mới, thiết nghĩ chúng ta hãy rèn luyện cho mình phẩm chất đạo đức tốt, có nhân cách sống đẹp, có lối sống lành mạnh trong sáng, biết sống có lý tưởng có hoài bão chân chính, không được quay lưng lại với quá khứ, biết trân trọng những truyền thống tốt đẹp của ông cha. Sự phấn đấu trong học tập, nỗ lực nâng cao tri thức, hiểu biết trong thời đâị ngày nay là rất cần thiết. Thế hệ trẻ chúng ta hôm nay không được bằng lòng với những gì mình có, phải không ngừng mơ ước, không ngững sáng tạo, phải biết đem trí tuệ của mình phục vụ cho Tổ quốc làm vẻ vang lịch sử dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, chúng ta vẫn thường hay nghe thấy không ít những tên tuổi thanh niên Việt Nam được vinh danh trong các cuộc thi tầm thế giới ở nhiều lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, thể thao, kinh doanh… những thành công của các nhà doanh nhân, các kỹ sư, các nhà khoa học trẻ này đã góp phần tô điểm thêm truyền thống của cha anh… Thế hệ trẻ chúng ta hôm nay phải biết sống có lý tưởng, biết phấn đấu, có mục tiêu xây dựng đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Tương lai đất nước phụ thuộc vào chính chúng ta hôm nay, vào việc học tập và rèn luyện của mỗi học sinh chúng ta. Trong hoàn cảnh phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, kinh tế tự nhiên xã hội, sẽ không chấp nhận những ai bằng lòng với những gì mình đang có mà không chịu học hành, không chịu rèn luyện bản thân. Nếu không ham học sẽ bị tụt hậu. Vì vậy chúng ta hãy trau dồi kiến thức; học đến đâu, chắc đến đó; học đi đôi với hành; lí thuyết gắn liền với thực tiễn.
|
Instruct
Regardless of any period or nation, youth is considered an invaluable resource and the vitality of the nation. Youth is the main character who creates the status and standing for the Fatherland and the nation. Our ancestors often taught that: "Bamboo grows old and shoots grow" and "If a child is better than his father, the family is blessed"; It means that fathers have given their children great and glorious responsibilities; That responsibility is: the young generation is both the keeper of the fire and the one who lights the fire for the future. The young generation will be the ones to inherit and promote and develop the good qualities and traditions of the nation.
President Ho Chi Minh - the beloved leader of the nation - concretized one of those responsibilities in a letter to students on the opening day of the first independent school: "Non River Vietnam". Whether or not the Vietnamese people become beautiful, whether the Vietnamese people can step to the throne of glory to compete with the great powers of the five continents or not, depends largely on their efforts in studying. Uncle Ho's teachings have helped us better understand the role of youth in the future of the country.
Youth is the "young shoot" generation that is trying to "train its spirit and strength", accumulate knowledge, improve understanding, cultivate the soul, nurture ambition, practice willpower... to prepare for the future. Be prepared to move forward in life. The youth of our country today are ourselves: me, you, the students, the students sitting in school or working to contribute to the health and youth of our country. in the fields of building and protecting the country.
Throughout the nation's history, there have been many examples of Vietnamese youth with great ambition and talent. They have written their names in the 2,000 pages of the nation's glorious history. From the teenage hero Tran Quoc Toan with his act of crushing an orange out of anger, he was not allowed to hold meetings to discuss national affairs, and was not allowed to express his will to fight the enemy to save the country to the heroic examples of Vietnamese youth in the war against the French. and anti-American. We cannot forget the names of bright, idealistic youth who sacrificed their youth for the country to bloom with independence, such as: Mr. Phan Dinh Giot used his body to fill the hole in the battlements, Mr. To Vinh Dien used his body to inserting artillery, Mr. Be Van Dan used his body as a gun stand, Mr. La Van Cau cut off his injured arm to continue fighting... Mr. Ly Tu Trong, Nguyen Van Troi, Nguyen Viet Xuan, Ms. Vo Thi Sau... They are shining examples of Vietnamese youth during the war. Faced with the nation's danger, they were ready to accept sacrifice.
In any period, youth are always the pioneering force, rushing into difficult places without fear of difficulties and dangers because they determine:
Nothing is difficult
Only fear unstable heart
Digging up mountains and filling in seas
The will will make it happen
During the war, many boys and girls in their late teens and early twenties had many dreams; Some people come from remote villages, some people come from university lecture halls; They were ready to forget the many dreams of youth to live and contribute to the Fatherland with the only dream of the nation's independence and freedom. That dream, that ideal is so pure, so noble, so holy! Who are they? They are "Nguyen Van Thac", "Dang Thuy Tram"... people who will live forever in their twenties with their homeland.
More than anyone else, President Ho Chi Minh's youth is a shining example for us to follow. He began his journey to steer the revolutionary boat of the Vietnamese people when he was young Nguyen Tat Thanh. Retiring from his role as a teacher, he got off the ship to work as a kitchen assistant, penniless, with only two empty hands, floating on the waves throughout America and Africa to learn the path to national liberation.
Looking back at that heroic past of our ancestors, looking at the examples of Vietnamese youth in the past, what do our young generation today think? Today we are living in the 21st century - the century of continuous cultural, economic and social development. More importantly, we live in a peaceful world, enjoying a free, prosperous, and happy life; We need to imbibe Uncle Ho's teachings. Let's ask ourselves the question: how to live to be useful to society?
Happiness today does not come naturally, so let us live worthy of what our ancestors had to sacrifice to get. Let's live worthy of the tradition of "Lac children, Hong children" for more than four thousand years of building and defending the country. Let us be self-aware and join hands in building the country, bringing the country in line with the rapid pace of human development. To have good equipment to stand firm in life in the new era, I think we should train ourselves to have good moral qualities, have a beautiful personality, have a healthy and pure lifestyle, and know how to live with ideals. True ambition, not turning your back on the past, knowing how to appreciate the good traditions of our ancestors. Striving in learning and trying to improve knowledge and understanding in today's era is very necessary. Our young generation today must not be satisfied with what they have, must constantly dream, constantly be creative, must know how to use their intelligence to serve the Fatherland to make our nation's history glorious during this period. renew.
In today's mass media, we often hear many names of Vietnamese youth being honored in world-class competitions in many fields such as scientific research, sports, business... the successes of these young entrepreneurs, engineers, and scientists have contributed to embellishing the tradition of his father... Our young generation today must know how to live with ideals, know how to be excited. fight, with the goal of building the country, making the people rich, the country strong, the society fair, democratic and civilized. The future of the country depends on us today, on the learning and training of each of our students. In the context of outstanding development of science and technology, natural economy and society, we will not accept those who are satisfied with what they have without studying or training themselves. If you are not eager to learn, you will fall behind. So let us cultivate knowledge; Wherever you study, you will definitely get there; Learning with practice; Theory is closely linked to practice.
|
Hướng dẫn
Giáo dục là một vấn đề được xã hội Việt Nam chú ý đến rất nhiều trong những năm đầu của thế kỉ XXI. Mặc dù đây là một trong những ngành quan trọng bậc nhất của đất nước và nhận được sự quan tâm rất lớn của chính phủ, nhưng nhưng khuất mắc, tiêu cực trong ngành vẫn cứ tồn tại và lan rộng ra. Một trong những vấn đề lớn nhất, nổi bật nhất chính là hiện tượng gian lận trong thi cử, kiểm tra, hay nói một cách khác là tình trạng học đối phó, quay cóp bài của học sinh trong kiểm tra, thi cử.
“Học đối phó” là hiện tượng học sinh học bài chỉ để vượt qua một kì thi, một giờ kiểm nào một cách gượng ép và không hề lưu giữ một tí gì về những thứ đã học sau lần kiểm tra, lần thi đó. Còn “quay cóp bài” là tình trạng học sinh xem bài của nhau hoặc xem tài liệu trong giờ kiểm tra, thi cử. Nói một cách đơn giản hơn, đó là những hiện tượng tiêu cực trong một nền giáo dục.
Và đáng tiếc thay, cái tiêu cực đó dường như đã trở thành “một phần tất yếu trong cuộc sống” của học sinh thời nay và nó đang ăn sâu, lan rộng vào tiềm thức của những người đang ngồi trên ghế nhà trường.
Xét về một mặt nào đó, những hành động này có thể cho họ lợi ích nhất thời, đó có thể là những điểm tám, điểm chín,..trong các kì thi, kiểm tra chẳng hạn. Nhưng nếu ta xét một cách toàn diện và sâu rộng hơn, thì cái lợi trước mắt đó sẽ lại là cái hại lâu dài cho chính bản thân họ và cho cả đất nước, dân tộc. Khi những người học sinh thực hiện những hành động tiêu cực đó, thì liệu khi họ rời khỏi ghế nhà trường nhà bước vào xã hội, trong bộ óc của họ có chứa được một tý kiến thức nào để có thể chung sống với xã hội hay không. Và liệu một dân tộc, một đất nước sẽ ra sao khi nền giáo dục của đất nước đó, dân tộc đó chỉ tạo ra những con người trẻ tuổi với cái đầu rỗng tuếch và suy nghĩ dối trá, tôi chắc hẳn rằng sẽ trở nên suy yếu đi, thậm chí là diệt vong.
|
Instruct
Education is an issue that receives a lot of attention from Vietnamese society in the early years of the 21st century. Although this is one of the most important industries in the country and receives great attention from the government, problems and negativity in the industry still exist and spread. One of the biggest and most prominent problems is the phenomenon of cheating in exams and tests, or in other words, the situation of learning to cope and copying students' papers in tests and exams.
“Coping learning” is the phenomenon of students studying just to pass an exam or exam in a forced way and not retaining anything about what they have learned after that test or exam. "Cheating" is a situation where students read each other's papers or documents during tests and exams. To put it more simply, these are negative phenomena in an education system.
And unfortunately, that negativity seems to have become an "inevitable part of life" for students today and it is deeply ingrained and spreading into the subconscious of those sitting in school.
In some ways, these actions can give them temporary benefits, which could be eight points, nine points, etc. in exams or tests, for example. But if we look more comprehensively and deeply, that immediate benefit will be a long-term harm to themselves and to the whole country and people. When students commit those negative actions, when they leave school and enter society, will their brains contain any knowledge to be able to live with society? or not. And what will become of a nation, a country when the education of that country, that nation only creates young people with empty heads and deceitful thinking? I am sure that they will become weaken, even perish.
|
Hướng dẫn
Trong cuộc đời mỗi con người, chúng ta đều phải có những va chạm trong xã hội và từ đó có những người ta yêu mến, ta yêu như nhiều người vẫn gọi là thần tượng của họ. Đã có một ý kiến cho rằng: Ngưỡng mộ thần tượng là một nét văn hóa đẹp nhưng cuồng nhiệt vì thần tượng sẽ là một thảm họa.
Với ý kiến đó các bạn nghĩ sao, hiểu sao về ngưỡng mộ, về mê muội thần tượng?
Theo chính kiến của tôi thì ngưỡng mộ thần tượng là sự tôn kính, mến phục nồng nhiệt dành cho các đối tượng được xem la hình mẫu lí tưởng hoặc có quyền năng đặc biệt, sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với từng cá nhân hay cả cộng đồng. Ngưỡng mộ, khâm phục thần tượng là vậy nhưng còn mê muội thần tượng lại là sự tôn sùng, say mê một cách mù quáng, thiếu tỉnh táo trước thần tượng và từ đó gây ra những hậu quả đàng tiếc và đau lòng.
Ngưỡng mộ hay hâm mộ? ý kiến này quả là mang tính hai mặt của việc say mê thần tượng: nếu ngưỡng mộ đúng mức là tích cực còn ngưỡng mộ quá mức là tiêu cực gây ra những hậu quả đáng tiếc, ảnh hưởng tới tương lai và chính bản thân của mình sau này.
Ngưỡng mộ thần tượng có phải chăng là một nét văn hóa? Vâng nó sẽ là một nét văn hóa đẹp nếu ta biết đúng cách. Thực sự mà nói thì ngưỡng mộ thần tượng chỉ là một nhu cầu văn hóa của con người như: nhu cầu được sống trong tình cảm cao cả, nồng nhiệt, nhu cầu được hướng tới, vươn tới những tầm cao, đỉnh cao của giá trị sống. Ngưỡng mộ thần tượng là một nét ứng xử có văn hóa, biểu hiện ở các phương diện: thái độ trân trọng, mến phục, hành động tôn vinh cổ vũ, ngon ngữ ca ngợi tán dương. Và họ có thể coi thần tượng là một tấm gương sáng để noi theo, học tập và từ đó tự cho mình một nghị lực để vươn lên trong cuộc sống và sự nghiệp.
Ngưỡng mộ thần tượng là một nét văn hóa nhưng tại sao mê mội thần tượng lại là một thảm họa? Đúng nó là một thảm họa bởi mê muội thần tượng là một trạng tháí mù quáng trong nhận thức, thái quá trong tình cảm, không có khả năng suy xét, phân biệt đúng sai, lẫn lộn về giá trị, mê muội thần tượng còn dẫn đến những hành động sai lầm quá kích. Việc mù quáng chạy theo thần tượng một cách quá mức là biểu hiện sự mê muội, thậm chí hiếu văn hóa và gây ra những hậu quả khôn lường.
Có những trường hợp hâm mộ mù quáng đến mức mù quáng mà suốt ngày chạy theo thần tượng, bỏ bê việc học hành. Tất cả những người đó chỉ coi gia đình, cuộc sống chỉ là phù du còn thần tượng mới là tất cả. Rồi sẵn sàng kề dao vào cổ dọa tự vẫn hay dọa giết chết bố mẹ nếu không cho đi xem thần tượng hát. Hoặc có những bạn còn bán hết cả nhà cả cửa chỉ để ra nước ngoài xen show diễn của thần tượng… Những trường hợp trên tôi kể chỉ là một ví dụ điển hình để cho các bạn thấy rõ tác hại của việc mê muội thần tượng. Quả thật khi con người ta có những hành động thiếu suy nghĩ đó đã gây ra tổn hại biết bao nhiêu người xung quanh và ảnh hưởng đến trực tiếp tương lai sau này của họ mà chạy theo những thứ phù du mà họ cho là tất cả.
Nên hay không nên chọn một thần tượng? Đây là một câu hỏi không dễ bởi nó thuộc về sở thích và đam mê của mỗi cá nhân. Nhưng tất cả đều có điểm xuất phát của nó, đó là hình ảnh thần tượng được tác động bằng những thứ tình cảm nhất thời. Chính vì thế mà thứ tình cảm đó nên thể hiện ở mức thể hiện cảm xúc sau đó biến mất. Nhưng nguyên nhân chính của nó là các bạn trẻ ngày nay không chịu tìm tòi học hỏi, gia đình thiếu quan tâm, quản lí để cho các bạn sa ngã vào hai chữ “thần tượng”. Vì thế biện pháp duy nhất cho tới hiện nay là các bạn trẻ hãy tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để biết thế nào là giới hạn, để cho nó dừng lại ở mức bình thường đừng cho thứ bệnh lí vô cùng nguy hiểm này đi xa quá giới hạn.
|
Instruct
In the life of every human being, we must have collisions in society and from there, there are people we love, whom we love as many people call their idols. There has been an opinion that: Admiring idols is a beautiful culture, but being passionate about idols would be a disaster.
With that opinion, what do you think and understand about admiration and confusion about idols?
In my opinion, idol admiration is a warm respect and admiration for objects that are considered ideal role models or have special powers or strong appeal to each individual or the whole. community. Admiring and admiring an idol is like that, but being infatuated with an idol is blind worship, infatuation, and lack of awareness towards the idol, which in turn causes regrettable and heartbreaking consequences.
Admiration or admiration? This opinion is indeed two-sided about being infatuated with idols: if admiring the right amount is positive, but admiring too much is negative, causing unfortunate consequences, affecting the future and oneself. me later.
Is admiring idols a cultural trait? Yes, it will be a beautiful culture if we know it properly. Honestly speaking, admiring idols is just a cultural need of people such as: the need to live in noble, passionate feelings, the need to be directed, to reach heights and pinnacles of value. live treatment. Admiring idols is a cultural behavior, expressed in the following aspects: respectful attitude, admiration, acts of honor and encouragement, and delicious language of praise. And they can see their idol as a bright example to follow, learn from, and thereby give themselves the strength to rise up in life and career.
Admiring idols is a cultural feature, but why is infatuation with idols a disaster? It is true that it is a disaster because idolatry is a state of blindness in perception, emotional excess, inability to judge, distinguish between right and wrong, confusion about values, idolatry is also leading to extreme wrong actions. Blindly following idols excessively is a sign of ignorance, even cultural curiosity, and causes unpredictable consequences.
There are cases where fans are so blind that they run after their idols all day and neglect their studies. All of those people only consider family and life as fleeting and idols as everything. Then he's ready to put a knife to his neck and threaten to commit suicide or kill his parents if he doesn't let them go see their idol sing. Or some of you even sell your entire house just to go abroad to attend an idol show... The above cases I mentioned are just a typical example to show you clearly the harmful effects of being infatuated with idols. . It is true that when people take such thoughtless actions, they cause harm to so many people around them and directly affect their future by running after fleeting things that they consider everything. .
Should or should I not choose an idol? This is not an easy question because it depends on each individual's interests and passions. But they all have their starting point, which is the image of an idol influenced by temporary emotions. That's why that emotion should be expressed at the level of emotional expression and then disappear. But its main cause is that today's young people refuse to explore and learn, their families lack care and management, allowing them to fall into the word "idol". Therefore, the only solution up to now is for young people to equip themselves with the necessary knowledge to know what the limits are, to stop it at a normal level, to avoid causing extremely dangerous diseases. This danger goes too far.
|
Hướng dẫn
Ngày nay có một tệ nạn học đường rất phổ biến đó là tình trạng học sinh bỏ tiết mà nguyên nhân chính đó là các trò chơi điện tử.
Trò chơi điện tử phù hợp với sự phát triển của nền công nghệ thông tin,bên cạnh việc đem lại những điều bổ ích cho thanh,thiếu niên nó cũng có một phần nào đó gây tác hại đối với các em do bản thân các em không làm chủ được mình, vì vậy mà các em xao nhãng việc học tập và còn phạm nhiều sai lầm khác. Chúng ta cần phải ngăn chặn.
Chúng ta luôn đặt ra nhiều câu hỏi về trò chơi điện tử.Câu hỏi thứ nhất:”Vì sao trò chơi điện tử rất phù hợp hấp dẫn đối với học sinh hiện nay? “Trò chơi điện tử rất hấp dẫn đối với học sinh và phần lớn là học sinh Trung học, cũng có phần một ít là một số các em học sinh đang ở tuổi nhi đồng. Trò chơi điện tử có hình ảnh đẹp. Màu sắc được phối hợp hài hòa nhưng cũng có phần bí ẩn làm cho người chơi cảm thấy hồi hộp, bị lôi cuốn theo trò chơi. Về nhân vật cũng sinh động không kém gì hình ảnh. Về âm thanh có trò thì có điệu nhạc vui nhộn, có trò thì có điệu nhạc hoành tráng của những trận đánh nhau giữa hai game thủ.Ngày nay,nền công nghệ thông tin ngày càng phát triển hơn trước nên đã tạo ra nhiều trò chơi hay,hấp dẫn mọi người và nhất là học sinh.Nhiều trò chơi mà các game thủ có thể nói chuyện với nhau nhờ những bàn phím của vi tính. Nhiều trò chơi hấp dẫn các học sinh hiện nay như Audition, Boom, Võ Lâm,… Nhiều trò còn áp dụng nhiều kĩ thuật mới của ngành tin học làm cho nhân vật của các trò chơi có thể di chuyển nhanh, động tác mềm mại, uyển chuyển hơn. Trò chơi điện tử rất hấp dẫn đối với học sinh hiện nay nhờ vào hình ảnh sinh động, nhân vật của trò chơi đẹp, âm thanh phù hợp với trò chơi và đặc biệt là họ có thể nói chuyện với nhau khi đang chơi…. Câu hỏi thứ hai là: “Tại sao nhiều học sinh trong các trường học vì mãi chơi điện tử mà xao nhãng việc học hành?” Các bạn học sinh say mê game hiện nay chỉ muốn chứng tỏ mình tài giỏi hơn các bạn khác trong game. Những bạn học sinh như vậy thường không làm chủ được bản thân mình. Có nhiều bạn say mê game đến nỗi phải trốn học đi chơi, mất bài, mất vở, cuối năm bị xếp loại học sinh kém, vì thế làm cho các bạn thêm chán nãn, nghĩ rằng mình là người vô dụng. Có bạn còn nói dối cha mẹ, làm những điều không tốt để có tiền đi chơi điện tử. Có bạn còn nói dối thầy cô, bạn bè rằng mình bị bệnh này bệnh nọ để có thể nghỉ học mà đi chơi trò chơi điện tử vô bổ đó. Tất cả các việc làm trên ảnh hưởng đến việc học tập của bản thân, đạo đức ngày càng suy kém và nguyên nhân chính của nó là sự say mê game quá độ của các bạn học sinh.
|
Instruct
Nowadays, there is a very common school evil: students skipping class, the main cause of which is video games.
Video games are in line with the development of information technology. In addition to bringing useful things to young people, they also have some harmful effects on them because of themselves. They cannot control themselves, so they neglect their studies and make many other mistakes. We need to stop it.
We always ask many questions about video games. The first question: "Why are video games so attractive to students today? “Video games are very attractive to students, most of them are high school students, and a few are children. Video games have beautiful visuals. The colors are harmoniously coordinated but also somewhat mysterious, making players feel nervous and drawn to the game. The characters are as vivid as the images. Regarding sound, some games have fun music, some games have epic music of fights between two gamers. Nowadays, information technology is more and more developed than before, so many games have been created. Good game, attractive to everyone and especially students. Many games where gamers can talk to each other thanks to the computer keyboard. Many games are attractive to students today such as Audition, Boom, Vo Lam,... Many games also apply many new techniques from the information technology industry to make the characters of the games move quickly and with soft movements. , more flexible. Video games are very attractive to students today thanks to the vivid images, beautiful game characters, sound suitable for the game and especially the fact that they can talk to each other while playing.... The second question is: "Why do many students in schools neglect their studies because they are always playing video games?" Students who are passionate about games today just want to prove that they are better than others in the game. Such students often cannot control themselves. There are many people who are so passionate about games that they have to skip school to play, lose their lessons, lose their notebooks, and at the end of the year are graded as poor students, thus making them more depressed, thinking that they are useless people. Some people even lie to their parents and do bad things to have money to play video games. Some students even lie to teachers and friends that they have this or that illness so they can skip school and play useless video games. All of the above actions affect one's own learning, morale is getting weaker and the main cause is the students' excessive passion for games.
|
Hướng dẫn
Văn học Việt Nam đã dựng lên nhiều tượng đài về hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Đó là “Mẹ suốt” của Tố Hữu, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi, “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy… và không thể không nhắc tới người mẹ dân tộc Tà ôi trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ sáng tác năm 1971 là lời hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Hình tượng trung tâm của bài thơ là người mẹ bền bỉ, gắn bó với kháng chiến, nặng lòng với quê hương đất nước và yêu con tha thiết.
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” viết về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà ôi. Bài thơ được chia làm ba khúc hát ru. Cùng với hình tượng người mẹ cứ lớn dần lên qua mỗi khúc hát. Khát vọng của người mẹ hòa trong khát vọng của cả dân tộc, ở đó là tình yêu quê hương đất nước, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do, ước mơ cháy bỏng về thống nhất nước nhà. Đó cũng chính là hình tượng điển hình của người mẹ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hình ảnh người mẹ Tà ôi đảm đang, giầu nghị lực. Mẹ đang nuôi con nhỏ, vừa phải địu con trên lưng vừa phải làm công việc lao động sản xuất ở chiến khu như giã gạo nuôi bộ đội, tỉa bắp trên núi, chuyển lán đạp rừng – công việc rất vất vả đầy gian khổ. Mang con trên lưng, nỗi vất vả của mẹ càng nhân lên gấp bội. Nhà thơ đã cảm nhận được nỗi vất vả ấy và ghi lại bằng những hình ảnh thơ đầy xúc động:
“Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối”
Hình ảnh đôi vai gầy, giấc ngủ của em bé gợi nhiều thương cảm nói lên những gian khổ của cả người mẹ và cả em bé trên lưng.
Khi mẹ tỉa bắp trên núi:
“Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”
Một hình ảnh tương phản giữa cái rộng lớn mênh mông của núi rừng với sự nhỏ bé gầy guộc của mẹ gợi cho chúng ta cảng heo hút hoang sơ của rừng núi và nỗi vất vả của người mẹ Tà ôi. Đó là hình ảnh thơ hàm súc nói lên sự gian khổ đồng thời khẳng định sự bền bỉ lòng quyết tâm chịu đựng, nghị lực phi thường của người mẹ.
Tình yêu con tha thiết, yêu nước sâu nặng, khát khao cháy bỏng về tương lai chiến thắng
Lời ru của mẹ đã mở ra một thế giới tâm hồn cao cả. Trước hết, đó là tình yêu con vô bờ, người mẹ không thể ngồi bên cánh võng để hát ru mà lời hát ru cất lên lại từ những công việc nhọc nhằn gian khó. Những lời hát ru cho con và tình cảm cháy bỏng từ trái tim: “Lưng đưa nôi mà tim hát thành lời”. Tiếng hát tư trái tim mẹ là tiếng hát cháy bỏng, tình yêu thương, tiếng hát ấy cất lên từ sâu thẳm đáy lòng giành cho đưa con vô cùng yêu quý của mình.
Tình yêu thương con được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ thật độc đáo:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”
Nếu mặt trời của vũ trụ là nguồn sống che vạn vật dưới thế gian, thì đứa con cũng giống như mặt trời vậy, là nguồn sống của mẹ.
Mặt trời ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ, đứa con trở thành niềm hạnh phúc, niềm tin, hy vọng, đứa con là tất cả những gì của cuộc đời mẹ, nó tỏa sáng ấm nóng, tiếp cho mẹ nguồn sức mạnh và niềm tin để vượt qua bao thử thách.
Nét mới trong tình cảm của người mẹ là gắn tình yêu con với tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm riêng hòa trong tình cảm lớn mang tính chất thời đại, dân tộc. Có thể nói, đó là tình yêu nước cao cả của người mẹ Tà ôi. Từ chỗ giã gạo ở sân nhà, tỉa bắp trên nương rẫy nay mẹ đã đến chiến trường: “Mẹ đi chuyển lán mẹ đi đạp rừng”.
Và rồi chúng ta thấy cùng với đứa con:
“Từ trên lưng mẹ tới chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”
Người mẹ xuất hiện trong những tư thế của người chiến sỹ, hòa trong nhịp sống chung của đất nước. Đứa con cùng mẹ sẻ chia những gian lao, vất vả, người mẹ lúc này thực sự đã đi đánh giặc, đã cùng bộ đội chuyển lán đạp rừng, đã giã từ ngôi nhà thân yêu của mình cùng nương rẫy để vào chiến trường. Hình tượng người mẹ đã trở nên vỹ đại và cao cả hơn.
Người mẹ khát khao cháy bỏng về một tương lai cho đứa con thân yêu của mình. Từ chỗ mẹ mơ ước con lớn lên khỏe mạnh “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến mơ ước một cuộc sống no đủ “Hạt bắp lên đều” và “phát mười kalưi” đến mơ ước lớn lao hơn là con được sống một cuộc đời tự do độc lập.
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do”
Khát vọng của mẹ được nâng cao, không chỉ có khát vọng về một cuộc sống khỏe, no đủ của con mà còn khát vọng cháy bỏng là con sẽ được hưởng một cuộc sống độc lập. Khát vọng của mẹ cũng là khát vọng của dân tộc. Vì vậy, mẹ không chỉ lao động sản xuất mà mẹ còn trực tiếp tham gia vào chiến đấu, mẹ có một niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng vì thế:
|
Instruct
Vietnamese literature has erected many monuments to the image of the heroic, indomitable, loyal, and capable Vietnamese mother. Those are "Mother throughout" by To Huu, "Mother with a gun" by Nguyen Dinh Thi, "Warmth of the straw nest" by Nguyen Duy... and we cannot help but mention the mother of the Ta Oi ethnic group in "Lullaby for the Children". The baby grows on the mother's back" by Nguyen Khoa Diem. The poem, composed in 1971, is a lullaby to the big babies on their mother's back. The central image of the poem is a mother who is persistent, attached to the resistance, has a heavy heart for her homeland and loves her children dearly.
“Lullaby for big babies on their mother's back” is written about the image of the Ta Oi ethnic mother. The poem is divided into three lullabies. Along with the image of the mother growing bigger with each song. The mother's aspirations blend with the aspirations of the entire nation, including love for the homeland, the will to fight for independence and freedom, and the burning dream of reunifying the country. That is also the typical image of a Vietnamese mother in the resistance war against America to save the country.
The image of Ta's mother is courageous and energetic. The mother is raising a small child, having to carry the child on her back while also doing productive labor in the war zone such as pounding rice to feed the soldiers, trimming corn in the mountains, moving camps in the forest - very hard and arduous work. Carrying the child on her back, the mother's hardships multiply. The poet felt that hardship and recorded it with emotional poetic images:
“The rhythm of the baseball is tilted, my sleep is tilted
Mom's sweat fell on my hot cheeks
Mom's skinny shoulders undulate as a pillow."
The image of the baby's thin shoulders and sleep evokes a lot of sympathy, expressing the hardships of both the mother and the baby on her back.
When mother trimmed corn on the mountain:
"The back of the mountain is big but the back of the mother is small"
A contrasting image between the vastness of the mountains and forests with the smallness and thinness of the mother reminds us of the wild wilderness of the mountains and the hardships of the Ta Oi mother. It is a poetic image that speaks of hardship and at the same time affirms the mother's perseverance, determination to endure, and extraordinary strength.
Passionate love for children, deep patriotism, burning desire for a victorious future
Mother's lullaby opened a world of noble soul. First of all, it is boundless love for her child. A mother cannot sit in a hammock to sing lullabies, but the lullabies come from hard work. Lullabies for children and burning feelings from the heart: "When the back rocks the cradle, the heart sings into words." The song from a mother's heart is a song of burning passion and love, a song that sings from the depths of her heart for her beloved child.
The poet's love for his children is expressed through a unique metaphor:
“The sun of corn is on the hill
Mother's sun, I lie on your back"
If the sun of the universe is the source of life that covers everything in the world, then the child is like the sun, the source of life for the mother.
The sun in the second verse is a metaphor, the child becomes happiness, faith, hope, the child is everything in the mother's life, it shines warmly, giving the mother strength. strength and faith to overcome many challenges.
A new feature in a mother's love is to combine the love for her child with the love for her homeland and country, her own feelings mixed with the great feelings of the era and nation. It can be said that it is the noble love of Ta Oi's mother. From pounding rice in the yard, trimming corn in the fields, mother has now arrived on the battlefield: "Mom went to move the shack, she went to trample the forest."
And then we see with the child:
“From mother's back to the battlefield
From hunger and poverty I entered Truong Son"
The mother appears in the posture of a soldier, blending in with the common rhythm of life in the country. The child and his mother shared the hardships, the mother had actually gone to fight the enemy, had moved with the soldiers to camp in the forest, had said goodbye to her beloved home and fields to enter the battlefield. The image of the mother has become greater and nobler.
The mother has a burning desire for a future for her beloved child. From the mother dreaming of her child growing up healthy, "In the future, when you grow up, you will swing the pestle and sinking the yard" to the dream of a full life, "The corn seeds will grow evenly" and "giving ten kilos" to the bigger dream of your child being able to live. a free and independent life.
“I dream for my mother to see Uncle Ho
In the future, when I grow up, I will be a free person."
The mother's aspirations are enhanced, not only the desire for a healthy and prosperous life for her child, but also the burning desire that the child will enjoy an independent life. A mother's aspirations are also the nation's aspirations. Therefore, mother not only worked in production but also directly participated in fighting. She had a strong belief in tomorrow's victory, therefore:
|
Hướng dẫn
Giao thông hiện nay là một trong những vấn đề được dư luận quan tâm nhất. Hàng loạt các vụ tai nạn giao thông xảy ra liên tiếp ở khắp các nơi. tỷ lệ người chết do giao thông tăng gây nên sự lo sự cho những người tham gia giao thông, tổn thất lên tới hàng tỷ, để lại một vết thương khó lành cho những người thân có người bị tai nạn trong gia đình. Vậy vấn đề của giao thông là gì?
Đi trên đường nhưng em cũng nhìn thấy mấy vụ tai nạn, ít thì có thể một, hai vụ nhưng nhiều thì cũng có 3,4 vụ. Có trường hợp nhẹ thì chỉ vỡ kính, ngã xe, trầy xước, một ít nặng thì có người tử vong hoặc có thể tàn tật cả đời. Chỉ riêng một vụ tai nạn mà đã để lại bao nhiêu hậu quả khôn lường như: Tắc đường, tiền chữa xe, chữa bệnh,…chúng ta không thể nào lường được những hậu quả này như thế nào. Đường bộ thì như thế thì đường sắt theo như em thấy đã giảm số lượng tai nạn đi hẳn. Ở nông thôn, mọi người hiểu biết thì còn ít thế nên về an toàn giao thông thì cũng không biết mấy. Chúng ta nên phát động tuyên truyền cho mọi người hiểu, tăng thêm kiến thức cho họ để giảm số lượng tai nạn. Có bao nhiêu là lý do gây tai nạn như chỉ có bất cẩn nhỏ không để ý đường là đã gây ra một vụ tai nạn, đi dàn hàng ba hàng bốn nhất là học sinh, say rượu, buồn ngủ…Nhưng quan trọng nhất vẫn chính là ý thức của người tham gia giao thông. Họ biết uống rượu là phạm luật nhưng vẫn cứ uống, biết sai mà vẫn làm. Họ không nghĩ đến người khác cũng như chính mình. Có thể nói ý thức con người là vấn đề mấu chốt trong giao thông hiện nay. Hiện còn có những em học sinh vì muốn thể hiện với bạn bè mà bỏ hai tay ra để rồi cuối cùng phải nằm viện do gẫy chân, gẫy tay. Đó chỉ cần thế thôi là tương lai học tập của các em sẽ thế nào, còn gây khổ cho bố mẹ. Thay vì thể hiện trong việc đó mà các em thể hiện mình trong học tập thôi cũng để các bạn ngưỡng mộ rồi. Vậy mọi người chỉ cần nâng cao ý thức tham gia giao thông thôi cũng đã góp phần xây dựng đất nước tốt đẹp hơn. Không chỉ nói về ý thức mà còn phải nói đến công tác, đảm bảo trật tự giao thông. Có những nơi cảnh sát chỉ cần lơi lỏng thôi là đã gây ra một vụ tai nạn. Có người còn tham ô, nhận tiền đút lót người khác. Cán bộ giao thông phải làm gương thì mọi người mới noi theo chứ. Vì vậy, công tác đảm bảo trật tự giao thông nên làm thật chặt chẽ, chính xác phải công bằng, không thiên vị.
Em thấy chỉ cần cán bộ giao thông làm tốt, ý thức người tham gia giao thông được nâng cao là đã giảm đáng kể số vụ tai nạn xảy ra. Mọi người chỉ cần bỏ chút công sức, tham gia tình nguyện là đã vì đất nước, vì an toàn giao thông Đất tổ.
Phú Thọ, dải đất của cội nguồn dân tộc Việt, nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nơi 18 đời vua Hùng dựng nước và giữ nước, với sự phát triển đô thị hóa như hiện nay thì vùng quê cha Đất tổ này cũng đã ngày càng trở nên hiện đại, đời sống nhân dân ổn định, văn minh và đặc biệt là văn hóa giao thông cũng được người dân nơi đây đặc biệt quan tâm. Vậy giao thông Phú Thọ có những ưu, nhược điểm gì?
Trước hết, xét về ưu điểm, ta thấy văn hóa giao thông được cải thiện từng ngày, từng giờ trên cả nước nói chung và Phú Thọ nói riêng. Chính quyền địa phương ra sức tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành giao thông đường bộ và được người dân hưởng ứng tích cực. Không chỉ vậy lực lượng công an giao thông cũng luôn tăng cường kiểm tra và xử lý những trường hợp vi phạm luật giao thông nên lượng tai nạn giao thông cũng như ý thức chấp hành luật khi tham gia giao thông của mọi người được cải thiện và nâng cao đáng kể.
Điều thứ ba thể hiện rõ ràng nhất là hiện tượng ùn tắc giao thông giờ cao điểm dường như hoàn toàn không tồn tại nhờ có sự giám sát, chỉ đạo của cơ quan chức năng.
Thứ tư là về đường sá, toàn bộ đường trong thành phố cũng như những thị trấn lân cận của tỉnh cũng đều được rải nhựa, đường làng hầu hết đã được làm bê tông đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông khi trời mưa. Tuy nhiên, có ưu điểm thì ắt có nhược điểm, không gì là hoàn hảo cả. Giao thông cũng tương tự, ở Phú Thọ nhược điểm của giao thông ở nơi đây trước tiên thể hiện ở đường sá. Đặc biệt là đường sắt, dù sửa đi sửa lại thì những đoạn đường nhựa xung quanh đó vẫn bị ảnh hưởng. Điều đó mang lại ảnh hưởng không nhỏ tới người tham gia giao thông khi đi qua đường sắt. Thứ hai là hình tượng người tham gia giao thông còn có ý vượt khi đèn đỏ báo có tàu chạy qua. Dù ở đường sắt luôn treo khẩu hiệu ” Nhanh một phút, chậm cả đời” nhưng người điều khiển phương tiện vẫn ngó lơ như không có gì xảy ra. Thứ ba thuộc về một bộ phận thanh niên hiện nay, khi chưa đủ tuổi điều khiển xe gắn may đã lao ầm ầm ra đường, rồi vượt đèn đỏ, lai ba, vừa đi vừa nói những câu mất lịch sự. Ngoài ra vẫn còn hiện tượng người điều khiển phương tiện có nồng độ cồn trong máu quá cao nên không làm chủ tốc độ dẫn đến những tai nạn giao thông nguy hiểm. Một số còn tự ý thay đổi màu sắc, hệ thống đèn chiếu sáng; còn về phía học sinh khi tan trường tụm năm, tụm ba dưới lòng đường, đi xe dàn hàng, lạng lách, đánh võng… Các bạn không tự luận ra được sẽ nguy hiểm như thế nào khi không phanh kịp. Còn bộ phận tham gia giao thông lấy lý do nhà gần không đội mũ bảo hiểm hay đi ngược chiều…
Tóm lại, về khuyết điểm đa phần là do ý thức người tham gia giao thông chưa tốt, họ là một bộ phận nhỏ vẫn quá coi nhẹ luật lệ giao thông, làm méo mó văn hóa giao thông Đất tổ vua Hùng.
Đứng trước vấn nạn nhức nhối đó, tôi xin có một vài ý kiến đóng góp nhằm xây dựng và phát huy vẻ đẹp của vùng đất yêu dấu.
Đối với những người có hành vi cố ý vượt khi có đèn báo hiệu tàu hỏa yêu cầu các cán bộ, nhân viên chắn gác đường ray chặn và nghiêm túc phạt.
|
Instruct
Traffic is currently one of the issues of most public concern. A series of traffic accidents occur continuously everywhere. The increased rate of deaths due to traffic causes concern for traffic participants, losses reach billions, leaving a wound that is difficult to heal for relatives who have had an accident in the family. So what is the problem of traffic?
While walking on the road, I also saw a few accidents, at least maybe one or two accidents but at most there were 3 or 4 accidents. In some mild cases, people just break glass, fall off the bike, or get scratches; in some severe cases, people die or can be disabled for life. Just one accident can leave so many unpredictable consequences such as traffic jams, car repair costs, medical treatment, etc. We cannot predict what these consequences will be like. While roads are like that, railways, as far as I can see, have reduced the number of accidents. In rural areas, people have very little knowledge, so they don't know much about traffic safety. We should launch propaganda to help people understand and increase their knowledge to reduce the number of accidents. There are many reasons for accidents such as just being careless and not paying attention to the road causing an accident, walking in rows of three or four especially students, being drunk, sleepy... But the most important thing is still is the awareness of traffic participants. They know drinking alcohol is against the law but still drink, know it's wrong but still do it. They do not think of others as well as themselves. It can be said that human consciousness is the key issue in today's transportation. There are still students who, because they want to show off to their friends, remove their hands and end up in the hospital due to broken legs and arms. That's all it takes to determine what their future education will be like and cause suffering for their parents. Instead of showing off in that work, you just show yourself in your studies so that your classmates will admire you. So people just need to raise their awareness of participating in traffic and contribute to building a better country. Not only talking about awareness but also talking about work and ensuring traffic order. There are places where the police just need to be lax and cause an accident. Some people still embezzle and accept money to bribe others. Traffic officers must set an example for everyone to follow. Therefore, the work of ensuring traffic order should be done strictly, accurately, and be fair and unbiased.
I think that if traffic officials do well and the awareness of traffic participants is raised, the number of accidents will be significantly reduced. Everyone just needs to put in a little effort and volunteer to help the country and traffic safety.
Phu Tho, the land of the Vietnamese nation's roots, where Au Co's mother gave birth to a hundred eggs, where 18 generations of Hung Kings built and defended the country, with the current urbanization development, this ancestral homeland has also become increasingly modern, people's lives are stable, civilized and especially traffic culture is also of special interest to the people here. So what are the advantages and disadvantages of Phu Tho traffic?
First of all, in terms of advantages, we see traffic culture improving day by day, hour by hour across the country in general and Phu Tho in particular. Local authorities tried to propagate and raise awareness of road traffic compliance and people responded positively. Not only that, the traffic police force also always strengthens inspection and handling of traffic law violations, so the number of traffic accidents as well as people's awareness of obeying the law when participating in traffic has improved. and significantly enhanced.
The third thing that is most clearly shown is that the phenomenon of rush hour traffic congestion seems to be completely non-existent thanks to the supervision and direction of the authorities.
Fourth, about the roads, all roads in the city as well as neighboring towns of the province are also paved, most village roads have been made concrete to ensure safety for traffic participants when it rains. . However, if there are advantages, there must be disadvantages, nothing is perfect. Traffic is similar. In Phu Tho, the disadvantages of traffic here are first shown in the roads. Especially the railway, even though it is repaired over and over again, the surrounding asphalt roads are still affected. That has a significant impact on traffic participants when passing the railway. Second is the image of traffic participants intending to pass when the red light indicates a train is passing by. Even though the railway always hangs the slogan "Fast a minute, slow for a lifetime", the vehicle drivers still ignore it as if nothing happened. The third belongs to a group of young people today, when they were not old enough to drive a motorcycle, they rushed down the street, ran a red light, crossed the street, and said impolite things as they walked. In addition, there is still the phenomenon of vehicle drivers having too high a blood alcohol concentration so they cannot control their speed, leading to dangerous traffic accidents. Some even arbitrarily change colors and lighting systems; As for the students, when they get out of school, they gather in groups of five or three on the road, ride in rows, swerve, swing... You can't figure out for yourself how dangerous it is when you don't brake in time. As for traffic participants, they use the excuse of not wearing helmets or going in the opposite direction...
In short, most of the shortcomings are due to the poor awareness of traffic participants. They are a small group who still disregard traffic rules too lightly, distorting the traffic culture of the Hung King's ancestral land.
Faced with that painful problem, I would like to make a few contributions to build and promote the beauty of our beloved land.
For those who intentionally overtake when there is a train signal, ask the officers and staff guarding the tracks to block and seriously punish them.
|
Hướng dẫn
Huy Cận là nhà thơ lớn của thi ca hiện đại Việt Nam. Trước cách mạng, ông được biết đến như một trong những đại biểu xuất sắc của thơ ca lãng mạn. Sau cách mạng, ông đã trở nên hoàn toàn mới, một Huy Cận không còn ảo não, sầu thương như trước mà là một Huy Cận với hồn thơ hoành tráng, khỏe khoắn, hòa nhịp vào cuộc sống. Trong số đó không thể không kể đến “Đoàn thuyền đánh cá”. Có thể xem, bài thơ là một khúc tráng ca về những con người lao động trên cuộc sống mới. Hai khổ thơ trên được xem là ấn tượng nhất của khúc tráng ca này.
Khổ thơ thứ nhất bài thơ mở ra bằng cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồn cùng gió khơi.”
Mở đầu khổ thơ và cũng là mở đầu của bài thơ là một cảnh được hiện lên dưới nghệ thuật so sánh của nhà thơ. Mặt trời được so sánh vói hòn lửa. Đây là hình ảnh so sánh vừa độc đáo vừa mới lạ. Mặt trời đỏ rực chói lòa trong cảnh hoàng hôn đang lặn dần vào đại dương mênh mông. Đó là cảnh đẹp kỳ vĩ, tráng lệ của biển khơi lúc hoàng hôn xuống. Thông thường, người lao động làm việc ban ngày và nghỉ ngơi ban đêm. Nhưng ở đây, Huy Cận đã chọn một thời điểm lao động khá đặc biệt. Khi mặt trời lặn xuống, màn đêm phủ trùm vùng biển thì một ngày lao động của người đánh cá lại bắt đầu, điều đó tạo ấn tượng về một cuộc sống nhộn nhịp, khẩn trương, ban ngày cùng như ban đêm không lúc nào ngừng nghỉ.
Cảnh biển đêm không còn hãng hùng đáng sợ mà thân thuộc như chính ngôi nhà mình vậy bởi ở câu thơ thứ hai, chúng ta bắt gặp nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa độc đáo. Vũ trụ lúc n&agrav 2000 e;y giống như một ngôi nhà lớn màn đêm sập xuống, cánh cửa khổng lồ khép lại. Còn những con sóng trên biển là then cài cửa. Thiên nhiên cửa đóng then cài đi vào nghỉ ngơi con con người lại hăm hở ra đi để tìm cho mình nguồn năng lượng sống.
Tóm lại, hai câu thơ ở đầu bài thơ không chỉ nói lên sự chuyển đổi của thời gian, không gian mà còn nói lên những con người lao động trên biển đêm đã làm chủ cuộc sống. Bên cạnh đó, ta còn nhận ra nghệ thuật sử dụng từ ngữ và nghệ thuật tương phản của Huy Cận. Từ “lại” cho biết đây là hoạt động thường nhật, một quy luật được lặp đi lặp lại và sự tương phản giữa thiên nhiên và con người. Khi đại dương đi vào giấc ngủ thì con người lại gõ cửa đánh thức. Điều đó làm toát lên tinh thần chủ động lao động và sáng tạo của người dân nơi đây.
Câu cuối của khổ thơ gợi ra một cảnh tượng đẹp. Công việc đánh cá ban đêm trên biển là một công việc nặng nhọc đầy bất trắc. Nhưng người lao động vẫn cất cao tiếng hát, khí thế hùng hổ hăng say. Buồm ra khơi không chỉ nhờ no gió mà còn nhờ tiếng hát. Cách nói sáng tạo của Huy Cận đã diễn tả sự hòa nhập giữa thiên nhiên và con người. Thiên nhiên như thế, không khí như thế chỉ có thể tìm thấy ở thơ Huy Cận sau cách mạng. Cánh buồm no gió kia phải chăng đã phản ánh khí thế đi lên của công cuộc xây dựng đất nước, như vậy, ở câu thơ này biển đêm không chỉ gần giũi thân thuộc mà còn ấm áp hẳn lên bởi những tiếng hát mạnh mẽ âm vang của con người.
Khổ thơ thứ hai: bài thơ mở đầu bằng cảnh ra khơi và kết thúc bằng cảnh trở về.
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Câu thơ mở đầu của khổ cuối gần như lặp lại câu thơ cuối cùng của khổ thơ đầu. Ta gặp lại ở đây tiếng hát của người dân chài dạn dày sóng gió đang căng mình lên đưa đoàn thuyền đầy ắp cá trở về. Tiếng hát hòa cùng với gió thổi căng những cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi nay lại đưa đoàn thuyền trở về. Có khác chăng là ở từ “với”, với có nghĩa là cùng nhưng với cũng có thể hiểu là sự đối lập, có thể gió không thuận chiều. Con người phải căng buồm thật mạnh, lái gió để vào bờ. Dù sao thì câu thơ cũng gợi rõ cái khí thế phấn khởi, tràn ngập niềm vui của người lao động.
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Hình ảnh thơ này rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của dân chài là đưa cá về bến trước khi trời sáng. Đồng thời thể hiện khí thế đi lên mạnh mẽ của con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Trong công cuộc này, người lao động hiện ra kỳ vỹ như những nhân vật thần thoại sử thi
“Mặt trời đội biển nhô mầu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
|
Instruct
Huy Can is a great poet of modern Vietnamese poetry. Before the revolution, he was known as one of the outstanding representatives of romantic poetry. After the revolution, he became completely new, a Huy Can who was no longer depressed and sad like before, but a Huy Can with a majestic, healthy poetic soul, in harmony with life. Among them, it is impossible not to mention the "Fishing fleet". It can be seen that the poem is an epic song about people working in a new life. The two stanzas above are considered the most impressive of this epic song.
The first stanza of the poem opens with a scene of a group of boats going out to sea to fish:
“The sun falls into the sea like a ball of fire.
Waves were installed then, night slammed the door.
The fishing fleet went out to sea again,
The song is filled with sadness and the wind."
The beginning of the stanza and also the beginning of the poem is a scene shown under the poet's art of comparison. The sun is compared to a ball of fire. This is a comparison image that is both unique and new. The red sun shines brightly in the sunset slowly sinking into the vast ocean. It is a magnificent and magnificent scene of the sea at sunset. Normally, workers work during the day and rest at night. But here, Huy Can chose a quite special time to work. When the sun goes down and darkness covers the sea, the fishermen's working day begins again, creating the impression of a bustling, urgent life, day and night that never stops. rest.
The night seascape is no longer scary but familiar like one's own home because in the second verse, we encounter the unique art of metaphor and personification. The universe at 2000 was like a big house collapsing at night, its giant door closing. And the waves on the sea are the latches of the door. Nature closes the door to rest, but humans eagerly leave to find their own source of life energy.
In short, the two verses at the beginning of the poem not only speak of the transformation of time and space but also of the people working on the sea at night who have mastered life. Besides, we also recognize Huy Can's art of using words and contrasting art. The word "re" shows that this is a daily activity, a repeating rule and a contrast between nature and humans. When the ocean goes to sleep, people knock on the door to wake it up. That exudes the proactive and creative spirit of the people here.
The last line of the stanza suggests a beautiful scene. Night fishing at sea is a hard job full of uncertainties. But the workers still sang loudly and were enthusiastic and enthusiastic. Sail out to sea not only thanks to the wind but also thanks to singing. Huy Can's creative expression expressed the integration between nature and humans. Such nature, such atmosphere can only be found in Huy Can's poetry after the revolution. Is it true that the wind-filled sail reflects the rising spirit of the country's construction work? Thus, in this poem, the night sea is not only familiar but also warmed by the strong, musical sounds of singing. human echo.
Second stanza: the poem opens with a scene of sailing and ends with a scene of returning.
“The song sails with the sea breeze,
The fleet of boats raced against the sun.
The sun crowns the sea with a new color,
The fish's eyes are full of breath".
The opening verse of the last stanza almost repeats the last verse of the first stanza. Here we see again the singing of the brave fishermen who are trying to bring back the boat full of fish. The singing mixed with the wind that blew up the sails that took the boats out to sea and now brought them back. The difference is in the word "with", with means together but with can also be understood as opposition, maybe the wind is not in the right direction. People have to set their sails strongly and control the wind to reach shore. Anyway, the poem clearly evokes the excited atmosphere, filled with joy of the workers.
“The fleet of boats raced against the sun”
This poetic image is very realistic but also very romantic. It reflects a long-standing habit of fishermen of bringing fish back to the wharf before dawn. At the same time, it shows the strong rising spirit of people in the work of building the country. In this work, the workers appear as majestic as epic mythological characters
“The sun surpasses the rising sea in a new color
The fish's eyes are full of breath".
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
Bài thơ “Bếp lửa” được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả đang du học ở Liên Xô.
bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động tình bà cháu. Qua đó, nhà thơ thể hiện tình cảm kính yêu và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà, và với quê hương, đất nước.
2. Thân bài:
Hình ảnh bếp lửa gắn với những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ.
– Mở đầu bài thơ là hình ảnh người bà tần tảo sớm khuya:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…
– Bếp lửa khơi dòng hoài niệm, khơi dòng cảm xúc. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay khéo léo và tấm lòng kiên trì của người nhóm lửa.
Hồi tưởng về thời gian được sống trong tình yêu thương, chăm chút của bà.
– Cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu trước cách mạng và trong kháng chiến, hàng loạt hình ảnh gợi tả, gợi cảm: đói mòn đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi….
– Bà thay cha mẹ chăm sóc, dạy dỗ cháu: Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học…
– Tuổi thơ vất vả gắn liền với bếp lửa bập bùng, bếp lửa hiện diện như tình thương ấm áp, như sự cưu mang, an ủi của bà đối với đứa cháu nhỏ, như một phần cuộc đời gian truân của chính bà.
– Tuy vất vả, nhọc nhằn nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng để người xa nhà được yên lòng
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Hình tượng bếp lửa mang hàm nghĩa mới: tình thương – sự sống – niềm tin bất diệt.
Những suy nghĩ của người cháu về bà, gắn liền với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc.
– Tình cảm thương yêu và biết ơn chân thành: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
– Giữa người bà và bếp lửa như có những nét tương đồng. Bà là người ấp iu giữ lửa, người nhóm ngọn lửa của tình thương, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai.
Cháu giờ đã lớn khôn, được đến những chân trời xa lạ nhưng luôn nhớ về bà, về bếp lửa của gia đình. Bếp lửa đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu xa quê: Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa…
3. Kết bài:
Bài thơ Bếp lửa mang một ý nghĩa triết lí sâu sắc: Hồi ức đẹp đẽ thuở ấu thơ có sức toả sáng, nuôi dưỡng tâm hồn, nâng đỡ con người trong hành trình dài rộng của cuộc đời.
Tình cảm gia đình là nền tảng của tình yêu quê hương đất nước.
Phân tích bài thơ Bếp lửa
Bài văn tham khảo
Thuở ấu thơ luôn được nhớ về với những kỉ niệm hồn nhiên, trong sáng. Nhà thơ Bằng Việt đã có những kỉ niệm đẹp đẽ như thế. Lắng đọng cảm xúc, rung động hồn thơ, thi sĩ đã để lại cho đời những vẫn thơ đầy xúc cảm về tình bà cháu qua bài thơ “Bếp lửa”.
Bài thơ được sáng tác năm 1963 lúc ông 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kì niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm cảm ấy được khơi nguồn từ bếp lửa thân thuộc:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Từng mảnh kí ức trong tâm hồn cháu hiện về theo khói bếp nhà i chờn vờn trong sương sớm. Cùng với hình ảnh ngọn lửa là bóng hình của người bà thân yêu. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Cả cuộc đời vất vả, lam lũ. Những mưa nắng bà trải qua chính là những gian truân, khó nhọc mà đứa cháu cũng từng nếm trải với bà. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.
Những dòng kỉ niệm cứ nương theo xúc cảm nhớ thương chân thành, tha thiết của người cháu dành cho bà. Lời thơ vì thế mà chân thành, mộc mạc như những lời thủ thỉ, tâm tình của người cháu đang kể về cổ tích tuổi thơ mình. Giống như trong những câu chuyện cổ tích, bé thơ sẽ được nhìn thấy bà tiên và những phép màu, cậu bé Bằng Việt có bà và bếp lửa diệu kì ở bên. Trong những ngày tháng còn đói nghèo, lam lũ ấy, chính bàn tay vén khéo của bà đã xua đi bóng ma đói khát. Cháu luôn được sống trong sự chở che, bao bọc của bà, bà dẫu đói cũng không để cháu phải thiếu ăn.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Mùi khói bếp đã quyện chặt vào tâm trí, vào kí ức của đứa cháu thơ, để rồi năm tháng trôi qua, cháu nghĩ lại, sống mũi còn cay. Cay vì mùi khói hun nhèm mắt cháu, hay cay vì cảm động khi nghĩ về tấm lòng của bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên sự sống, nhóm lên tình yêu thương, sự bao bọc, chở che của bà, nhóm lên tình yêu thương ấm áp trong những ngày gian khó. Tuổi thơ cháu có bà, có bếp lửa và có cả tiếng chim tu hú. Âm thanh quen thuộc của làng quê ấy vang lên như gọi mùa vải chín, thúc giục bông lúa trên đồng thêm nặng hạt để dân làng sớm vượt qua cơn đói. Tiếng chim tu hú khắc khoải, tha thiết như tiếng lòng càng làm đứa cháu nhớ thêm về những kỉ niệm bên bà. Đó là những câu chuyện về Huế trong giọng kể của bà năm xưa làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.
Cha mẹ vắng nhà, bà chính là trụ cột gia đình, là chỗ dựa tinh thần duy nhất cho đứa cháu thơ. Bà thay cha mẹ chăm sóc, dạy bảo cháu nên người:
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (…)
Trong quãng thời gian đất nước có chiến tranh, cha mẹ xa nhà đi công tác và chiến đấu, đứa cháu ở với bà, thiếu thốn đủ thứ, nhưng có lẽ đó lại là quãng thời gian ngọt ngào, hạnh phúc nhất của cháu. Ngày qua ngày, cháu cùng bà nhóm lửa, bà thay cha mẹ lo cho cháu từng bữa ăn, bảo cháu làm, chăm cháu học, kể chuyện cổ cho cháu nghe. Bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cô giáo, bà làm tất cả cho cháu được đủ đầy, để cháu được hiểu biết. Bà như bà tiên trong truyện cổ tích đến để tưới mát tâm hồn bé thơ cho cháu.
Nhưng kỉ niệm tuổi thơ không chỉ có bà, có bếp lửa, có những điều ngọt ngào mà còn có những nỗi mất mát đau thương bởi chiến tranh:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Cuộc sống càng khó khăn, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Bà hiện lên với bao phẩm chất đáng quý: nhẫn nại, kiên cường, giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Dù mái nhà tranh, nơi nương náu của hai bà cháu bị cháy tàn cháy rụi, bà can đảm đứng lên, vững vàng trước gian khó, để là điểm tựa cho đứa cháu thơ. Bà không muốn những đứa con của bà vì lo lắng việc nhà mà xao lãng việc nước: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình ý của người phụ nữ chu đáo, là điểm tựa vững vàng ch con cháu, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà đến những dòng thơ này đã trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.
Kết thúc dòng hòi tưởng cũng là kết thúc bài thơ, hình ảnh ngọn lửa được nhà thơ nâng lên thành biểu tượng:
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Ngọn lửa được bà nhóm lên mỗi sớm mai đã trở thành ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa dẫn lối, soi đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những kỉ niệm trong chuỗi ngày gian khó ấy khiến đứa cháu không thể nào quên. Những ngày không có cơm gạo mà chỉ có củ khoai củ sắn, ăn khi đói lòng. Rồi khi có gạo, thì nồi cơm gọa mới ấy được sẻ chia trong niềm vui chung với xóm làng. Thật là quá khứ gian lao mà nghĩa tình. Chính điều đó đã khơi dậy trong lòng đứa cháu cả tâm tình tuổi thơ:
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Bà không chỉ nuôi cháu lớn khôn về thể xác mà còn là bà tiên bồi đắp tâm hồn tình cảm của cháu trở thành người nhân hậu, sống có nghĩa có tình. Có lẽ tất cả những người bà đều tốt bụng như thế, bởi ta đã bắt gặp một hình ảnh người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Suốt dọc bài thơ, mười lần hình ảnh bếp lửa xuất hiện sóng đôi cùng với hình ảnh người bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào đại dương sâu thẳm lòng bà. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẵng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
Bài thơ “Bếp lửa” được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả đang du học ở Liên Xô.
bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động tình bà cháu. Qua đó, nhà thơ thể hiện tình cảm kính yêu và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà, và với quê hương, đất nước.
2. Thân bài:
Hình ảnh bếp lửa gắn với những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ.
– Mở đầu bài thơ là hình ảnh người bà tần tảo sớm khuya:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…
– Bếp lửa khơi dòng hoài niệm, khơi dòng cảm xúc. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay khéo léo và tấm lòng kiên trì của người nhóm lửa.
Hồi tưởng về thời gian được sống trong tình yêu thương, chăm chút của bà.
– Cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu trước cách mạng và trong kháng chiến, hàng loạt hình ảnh gợi tả, gợi cảm: đói mòn đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi….
– Bà thay cha mẹ chăm sóc, dạy dỗ cháu: Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học…
– Tuổi thơ vất vả gắn liền với bếp lửa bập bùng, bếp lửa hiện diện như tình thương ấm áp, như sự cưu mang, an ủi của bà đối với đứa cháu nhỏ, như một phần cuộc đời gian truân của chính bà.
– Tuy vất vả, nhọc nhằn nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng để người xa nhà được yên lòng
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Hình tượng bếp lửa mang hàm nghĩa mới: tình thương – sự sống – niềm tin bất diệt.
Những suy nghĩ của người cháu về bà, gắn liền với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc.
– Tình cảm thương yêu và biết ơn chân thành: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
– Giữa người bà và bếp lửa như có những nét tương đồng. Bà là người ấp iu giữ lửa, người nhóm ngọn lửa của tình thương, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai.
Cháu giờ đã lớn khôn, được đến những chân trời xa lạ nhưng luôn nhớ về bà, về bếp lửa của gia đình. Bếp lửa đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu xa quê: Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa…
3. Kết bài:
Bài thơ Bếp lửa mang một ý nghĩa triết lí sâu sắc: Hồi ức đẹp đẽ thuở ấu thơ có sức toả sáng, nuôi dưỡng tâm hồn, nâng đỡ con người trong hành trình dài rộng của cuộc đời.
Tình cảm gia đình là nền tảng của tình yêu quê hương đất nước.
Phân tích bài thơ Bếp lửa
Bài văn tham khảo
Thuở ấu thơ luôn được nhớ về với những kỉ niệm hồn nhiên, trong sáng. Nhà thơ Bằng Việt đã có những kỉ niệm đẹp đẽ như thế. Lắng đọng cảm xúc, rung động hồn thơ, thi sĩ đã để lại cho đời những vẫn thơ đầy xúc cảm về tình bà cháu qua bài thơ “Bếp lửa”.
Bài thơ được sáng tác năm 1963 lúc ông 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kì niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm cảm ấy được khơi nguồn từ bếp lửa thân thuộc:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Từng mảnh kí ức trong tâm hồn cháu hiện về theo khói bếp nhà i chờn vờn trong sương sớm. Cùng với hình ảnh ngọn lửa là bóng hình của người bà thân yêu. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Cả cuộc đời vất vả, lam lũ. Những mưa nắng bà trải qua chính là những gian truân, khó nhọc mà đứa cháu cũng từng nếm trải với bà. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.
Những dòng kỉ niệm cứ nương theo xúc cảm nhớ thương chân thành, tha thiết của người cháu dành cho bà. Lời thơ vì thế mà chân thành, mộc mạc như những lời thủ thỉ, tâm tình của người cháu đang kể về cổ tích tuổi thơ mình. Giống như trong những câu chuyện cổ tích, bé thơ sẽ được nhìn thấy bà tiên và những phép màu, cậu bé Bằng Việt có bà và bếp lửa diệu kì ở bên. Trong những ngày tháng còn đói nghèo, lam lũ ấy, chính bàn tay vén khéo của bà đã xua đi bóng ma đói khát. Cháu luôn được sống trong sự chở che, bao bọc của bà, bà dẫu đói cũng không để cháu phải thiếu ăn.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Mùi khói bếp đã quyện chặt vào tâm trí, vào kí ức của đứa cháu thơ, để rồi năm tháng trôi qua, cháu nghĩ lại, sống mũi còn cay. Cay vì mùi khói hun nhèm mắt cháu, hay cay vì cảm động khi nghĩ về tấm lòng của bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên sự sống, nhóm lên tình yêu thương, sự bao bọc, chở che của bà, nhóm lên tình yêu thương ấm áp trong những ngày gian khó. Tuổi thơ cháu có bà, có bếp lửa và có cả tiếng chim tu hú. Âm thanh quen thuộc của làng quê ấy vang lên như gọi mùa vải chín, thúc giục bông lúa trên đồng thêm nặng hạt để dân làng sớm vượt qua cơn đói. Tiếng chim tu hú khắc khoải, tha thiết như tiếng lòng càng làm đứa cháu nhớ thêm về những kỉ niệm bên bà. Đó là những câu chuyện về Huế trong giọng kể của bà năm xưa làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.
Cha mẹ vắng nhà, bà chính là trụ cột gia đình, là chỗ dựa tinh thần duy nhất cho đứa cháu thơ. Bà thay cha mẹ chăm sóc, dạy bảo cháu nên người:
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (…)
Trong quãng thời gian đất nước có chiến tranh, cha mẹ xa nhà đi công tác và chiến đấu, đứa cháu ở với bà, thiếu thốn đủ thứ, nhưng có lẽ đó lại là quãng thời gian ngọt ngào, hạnh phúc nhất của cháu. Ngày qua ngày, cháu cùng bà nhóm lửa, bà thay cha mẹ lo cho cháu từng bữa ăn, bảo cháu làm, chăm cháu học, kể chuyện cổ cho cháu nghe. Bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cô giáo, bà làm tất cả cho cháu được đủ đầy, để cháu được hiểu biết. Bà như bà tiên trong truyện cổ tích đến để tưới mát tâm hồn bé thơ cho cháu.
Nhưng kỉ niệm tuổi thơ không chỉ có bà, có bếp lửa, có những điều ngọt ngào mà còn có những nỗi mất mát đau thương bởi chiến tranh:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Cuộc sống càng khó khăn, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Bà hiện lên với bao phẩm chất đáng quý: nhẫn nại, kiên cường, giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Dù mái nhà tranh, nơi nương náu của hai bà cháu bị cháy tàn cháy rụi, bà can đảm đứng lên, vững vàng trước gian khó, để là điểm tựa cho đứa cháu thơ. Bà không muốn những đứa con của bà vì lo lắng việc nhà mà xao lãng việc nước: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình ý của người phụ nữ chu đáo, là điểm tựa vững vàng ch con cháu, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà đến những dòng thơ này đã trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.
Kết thúc dòng hòi tưởng cũng là kết thúc bài thơ, hình ảnh ngọn lửa được nhà thơ nâng lên thành biểu tượng:
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Ngọn lửa được bà nhóm lên mỗi sớm mai đã trở thành ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa dẫn lối, soi đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những kỉ niệm trong chuỗi ngày gian khó ấy khiến đứa cháu không thể nào quên. Những ngày không có cơm gạo mà chỉ có củ khoai củ sắn, ăn khi đói lòng. Rồi khi có gạo, thì nồi cơm gọa mới ấy được sẻ chia trong niềm vui chung với xóm làng. Thật là quá khứ gian lao mà nghĩa tình. Chính điều đó đã khơi dậy trong lòng đứa cháu cả tâm tình tuổi thơ:
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Bà không chỉ nuôi cháu lớn khôn về thể xác mà còn là bà tiên bồi đắp tâm hồn tình cảm của cháu trở thành người nhân hậu, sống có nghĩa có tình. Có lẽ tất cả những người bà đều tốt bụng như thế, bởi ta đã bắt gặp một hình ảnh người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Suốt dọc bài thơ, mười lần hình ảnh bếp lửa xuất hiện sóng đôi cùng với hình ảnh người bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào đại dương sâu thẳm lòng bà. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẵng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
– thi phẩm là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động trong niềm vui làm chủ cuộc đời mới.
2. Thân bài
2.1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng của con người:
* Cảnh đoàn thuyền ra khơi
– NT so sánh, nhân hóa, liên tưởng
=> hoàng hôn trên biển đẹp rực rỡ
– Vũ trụ như một ngôi nhà lớn đang đi vào thời khắc nghỉ ngơi.
* Tâm trạng của con người
– Con người đi vào hoạt động – hành trình lao động đánh bắt cá thường xuyên, liên tục
– H/a ẩn dụ: Câu hát căng buồm
=> Diễn tả niềm vui, hào hứng say mê lao động ,thiên nhiên gần gũi với con người
– Hình ảnh so sánh, nhân hoá
=> ước mơ đánh bắt được nhiều hải sản.Thể hiện khát khao chinh phục thiên nhiên.
2.2. Cảnh đánh cá trên biển vào đêm
Hình ảnh đoàn thuyền và con người
+ NT:
– Ẩn dụ, nhân hóa, liên tưởng, hình ảnh sáng tạo, lãng mạn .
– Nhiều động từ
– Đoàn thuyền kỳ vĩ, lớn lao hòa hợp với thiên nhiên vũ trụ; đang tung hoành giữa biển trời mênh mông
=> Con người lao động khỏa khoắn, gắn bó máu thịt với biển cả, họ vui tười, sống chan hòa với thiên nhiên vũ trụ; tin yêu vào cuộc sống tốt đẹp, yêu nghề, yêu biển.
Hình ảnh các loài cá:
– NT: Liệt kê, miêu tả, tính từ chỉ mầu sắc, nhân hóa, sự liên tưởng, tượng tượng
=> Vẻ đẹp rực rỡ lung linh huyền ảo của cá loài cá
=> Ca ngợi biển thanh bình, giầu có, iển là kho hải sản phong phú
2.3. Cảnh đoàn thuyền trở về
NT: nhân hóa, đối lập, cách nói khoa trương, giọng hào hùng
=> Đoàn thuyền trở về khi bình mình trong không khí vui tươi, khẩn trương của niềm vui thắng lợi
=> Tác giả vui, tự hào về đất nước và cuộc sống đang đổi mới
3. Kết bài
– Sử dụng bút pháp lãng mạn và các biện pháp nghệ thuật : đối lập, so sánh, nhân hóa, phóng đại
– Âm hưởng khoẻ khoắn, sôi nổi, phôi pha, bay bổng, lạc quan
– Cách gieo vần linh hoạt (vần liền liền xen lẫn vần cách)
– Liên tưởng, tưởng tượng phong phú.
– Sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Bài văn tham khảo
Trước Cách mạng, Huy Cận được biết đến với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca,… Sau Cách mạng, ông đi theo tiếng gọi của Đảng, hòa mình vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hòa bình lập lại, hơi thơ Huy Cận không còn nỗi buồn cô đơn, lạc lõng mà ấm áp, khỏe khoắn hơi thở cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Quảng Ninh, năm 1958, trong một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày. Bài thơ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã vẽ ra trước mắt bạn đọc một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn. Phía tây, mặt trời như một hòn lửa” đỏ rực đang lặn xuống lòng biern bao la. Màn đêm buông xuống kết thúc một ngày nhưng lại là thời khắc mà người ngư dân bắt tay vào công việc quen chuộc của mình: ra khơi đánh cá. Măt biển đêm không lạnh lẽo, đáng sợ mà vui tươi, cuốn hút hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, khỏe khoắn. Tiếng hát ấy cất lên từ những trái tim vui say lao động trong cuộc đời mới: “Cầu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu thơ thể hiện trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, lãng mạn của nhà thơ Huy Cận: tiếng hát như hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ song ra khơi. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới, háo hức, hăn say đi lên xây dựng cuộc sống mới.
Biển cả về đêm đẹp lung linh, huyền ảo như bức tranh cổ tích diệu kì:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đàn cá ơi!
Phải chăng lòng yêu thiên nhiên, đất nước, lòng hăng say, nhiệt huyết với công việc mà biển cả về đêm lại mang sức cuốn hút đến lạ kì như vậy. Công việc đánh cá vốn nhọc nhằn, vất vả bỗng chốc trở nên thi vị trong cảm hứng thăng hoa lãng mạn của người nghệ sĩ. Thiên nhiên, công việc, con người cũng như được tắm gội trong cảm hứng trữ tình mãnh liệt ấy:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những hình ảnh “lái gió” “buồm trăng”, “mây cao” “biển bằng” là những sản phẩm của trí tưởng tượng phi thường, là cảm hứng vũ trụ vốn được Huy Cận thể hiện rất thành công trong những bài thơ trước Cách mạng, nay những hình ảnh này được nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo trong bài thơ để tạo nên những hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa phi thường. Con thuyền đánh cá hay con thuyền thơ, con thuyền chở niềm vui say lao động có bánh lái làm từ gió, cánh buồm làm từ vầng trăng, và đang lướt giữa không gian khoáng đạt, tự do giữa trời và biển. Con thuyền ra khơi đánh cá mà như bước vào cuộc chiến đấu. Thật hồi hộp biết bao! Cũng thăm dò “bụng biển” tìm cho ra bãi cá; cũng “dàn đan thế trận” để giăng lưới, bủa lưới cho trúng luồng cá bạc, để sớm mai lúc trở về thuyền nào cũng đầy ắp cá.
Những con cá được miêu tả chi tiết, chúng mang vẻ đẹp thật lộng lẫy:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca “gọi cá ”vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyển, như “gõ nhịp” phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật hòa hợp.
Bóng trăng mờ dần, mặt trời dần ló rạng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Cả đêm dài vất vả cùng gió sương, công sức lao động được đáp đền xứng đáng. Người ngư dân đang vững chân nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Ánh bình minh chiếu rạng vào những con cá trên khoang thuyền làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng”. Cảnh bình minh thêm sáng hồng, rực rỡ bởi vẻ đẹp của những người ngư dân và thành quả lao động của họ. Nhịp thơ vui tươi như tinh thần nhẹ nhàng, phấn khởi của người lao động sau chuyến ra khơi thật tốt đẹp.
Niềm vui ấy còn lan tỏa trong những câu hát khi đoàn thuyền trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân – những người con của biển đang vượt lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hòa trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra trở về trong niềm vui hân hoan, vui sướng. Hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất chân thực mà cũng thật hào hùng. Lời thơ phản ánh khí thế háo hức, hăm hở trong lao động, trong công cuộc xây dựng cuộc đời mới.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
– thi phẩm là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động trong niềm vui làm chủ cuộc đời mới.
2. Thân bài
2.1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng của con người:
* Cảnh đoàn thuyền ra khơi
– NT so sánh, nhân hóa, liên tưởng
=> hoàng hôn trên biển đẹp rực rỡ
– Vũ trụ như một ngôi nhà lớn đang đi vào thời khắc nghỉ ngơi.
* Tâm trạng của con người
– Con người đi vào hoạt động – hành trình lao động đánh bắt cá thường xuyên, liên tục
– H/a ẩn dụ: Câu hát căng buồm
=> Diễn tả niềm vui, hào hứng say mê lao động ,thiên nhiên gần gũi với con người
– Hình ảnh so sánh, nhân hoá
=> ước mơ đánh bắt được nhiều hải sản.Thể hiện khát khao chinh phục thiên nhiên.
2.2. Cảnh đánh cá trên biển vào đêm
Hình ảnh đoàn thuyền và con người
+ NT:
– Ẩn dụ, nhân hóa, liên tưởng, hình ảnh sáng tạo, lãng mạn .
– Nhiều động từ
– Đoàn thuyền kỳ vĩ, lớn lao hòa hợp với thiên nhiên vũ trụ; đang tung hoành giữa biển trời mênh mông
=> Con người lao động khỏa khoắn, gắn bó máu thịt với biển cả, họ vui tười, sống chan hòa với thiên nhiên vũ trụ; tin yêu vào cuộc sống tốt đẹp, yêu nghề, yêu biển.
Hình ảnh các loài cá:
– NT: Liệt kê, miêu tả, tính từ chỉ mầu sắc, nhân hóa, sự liên tưởng, tượng tượng
=> Vẻ đẹp rực rỡ lung linh huyền ảo của cá loài cá
=> Ca ngợi biển thanh bình, giầu có, iển là kho hải sản phong phú
2.3. Cảnh đoàn thuyền trở về
NT: nhân hóa, đối lập, cách nói khoa trương, giọng hào hùng
=> Đoàn thuyền trở về khi bình mình trong không khí vui tươi, khẩn trương của niềm vui thắng lợi
=> Tác giả vui, tự hào về đất nước và cuộc sống đang đổi mới
3. Kết bài
– Sử dụng bút pháp lãng mạn và các biện pháp nghệ thuật : đối lập, so sánh, nhân hóa, phóng đại
– Âm hưởng khoẻ khoắn, sôi nổi, phôi pha, bay bổng, lạc quan
– Cách gieo vần linh hoạt (vần liền liền xen lẫn vần cách)
– Liên tưởng, tưởng tượng phong phú.
– Sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Bài văn tham khảo
Trước Cách mạng, Huy Cận được biết đến với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca,… Sau Cách mạng, ông đi theo tiếng gọi của Đảng, hòa mình vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hòa bình lập lại, hơi thơ Huy Cận không còn nỗi buồn cô đơn, lạc lõng mà ấm áp, khỏe khoắn hơi thở cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Quảng Ninh, năm 1958, trong một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày. Bài thơ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã vẽ ra trước mắt bạn đọc một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn. Phía tây, mặt trời như một hòn lửa” đỏ rực đang lặn xuống lòng biern bao la. Màn đêm buông xuống kết thúc một ngày nhưng lại là thời khắc mà người ngư dân bắt tay vào công việc quen chuộc của mình: ra khơi đánh cá. Măt biển đêm không lạnh lẽo, đáng sợ mà vui tươi, cuốn hút hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, khỏe khoắn. Tiếng hát ấy cất lên từ những trái tim vui say lao động trong cuộc đời mới: “Cầu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu thơ thể hiện trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, lãng mạn của nhà thơ Huy Cận: tiếng hát như hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ song ra khơi. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới, háo hức, hăn say đi lên xây dựng cuộc sống mới.
Biển cả về đêm đẹp lung linh, huyền ảo như bức tranh cổ tích diệu kì:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đàn cá ơi!
Phải chăng lòng yêu thiên nhiên, đất nước, lòng hăng say, nhiệt huyết với công việc mà biển cả về đêm lại mang sức cuốn hút đến lạ kì như vậy. Công việc đánh cá vốn nhọc nhằn, vất vả bỗng chốc trở nên thi vị trong cảm hứng thăng hoa lãng mạn của người nghệ sĩ. Thiên nhiên, công việc, con người cũng như được tắm gội trong cảm hứng trữ tình mãnh liệt ấy:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những hình ảnh “lái gió” “buồm trăng”, “mây cao” “biển bằng” là những sản phẩm của trí tưởng tượng phi thường, là cảm hứng vũ trụ vốn được Huy Cận thể hiện rất thành công trong những bài thơ trước Cách mạng, nay những hình ảnh này được nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo trong bài thơ để tạo nên những hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa phi thường. Con thuyền đánh cá hay con thuyền thơ, con thuyền chở niềm vui say lao động có bánh lái làm từ gió, cánh buồm làm từ vầng trăng, và đang lướt giữa không gian khoáng đạt, tự do giữa trời và biển. Con thuyền ra khơi đánh cá mà như bước vào cuộc chiến đấu. Thật hồi hộp biết bao! Cũng thăm dò “bụng biển” tìm cho ra bãi cá; cũng “dàn đan thế trận” để giăng lưới, bủa lưới cho trúng luồng cá bạc, để sớm mai lúc trở về thuyền nào cũng đầy ắp cá.
Những con cá được miêu tả chi tiết, chúng mang vẻ đẹp thật lộng lẫy:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca “gọi cá ”vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyển, như “gõ nhịp” phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật hòa hợp.
Bóng trăng mờ dần, mặt trời dần ló rạng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Cả đêm dài vất vả cùng gió sương, công sức lao động được đáp đền xứng đáng. Người ngư dân đang vững chân nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Ánh bình minh chiếu rạng vào những con cá trên khoang thuyền làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng”. Cảnh bình minh thêm sáng hồng, rực rỡ bởi vẻ đẹp của những người ngư dân và thành quả lao động của họ. Nhịp thơ vui tươi như tinh thần nhẹ nhàng, phấn khởi của người lao động sau chuyến ra khơi thật tốt đẹp.
Niềm vui ấy còn lan tỏa trong những câu hát khi đoàn thuyền trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân – những người con của biển đang vượt lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hòa trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra trở về trong niềm vui hân hoan, vui sướng. Hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất chân thực mà cũng thật hào hùng. Lời thơ phản ánh khí thế háo hức, hăm hở trong lao động, trong công cuộc xây dựng cuộc đời mới.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
– Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
– Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Qua đó, tác giả khắc họa hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe với tư thế, tinh thần hiên ngang bất khuất.
2. Thân bài:
2.1. Hình ảnh những chiếc xe không kính
– Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả, chân thực
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
– Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” lặp lại hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
=> Hai câu thơ đầu giải thích nguyên nhân đồng thời phản ánh sự tàn khốc của chiếc tranh.
2.2. Hình ảnh người lính lái xe
Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan tích cực coi thường hiểm nguy
– Hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo là hình ảnh tươi đẹp của người lính lái xe Trường Sơn
+ Họ là chủ nhân của những chiếc xe không kính độc đáo
+ Họ với tư thế hiên ngang “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn về vật chất
+ Họ phải đối mặt với hiểm nguy “gió vào xoa mắt đắng”, “đột ngột cánh chim”…
– Họ tự tin, hiên ngang đối diện với gian khói lửa chiến tranh
– Giọng nói ngang tàng, bất chấp hiểm nguy thể hiện rõ trong cấu trúc” không có… ừ thì”cứng cỏi, biến khó khăn thành điều thú vị
=> Khó khăn, nguy hiểm, thiếu thốn không làm nhụt chí người lính lái xe Trường Sơn. Họ vượt lên bằng bản lĩnh, nghị lực phi thường
Tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng chí, đồng đội sâu sắc
– Những người lính lái xe hóm hỉnh, tươi vui “chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
– Họ hồn nhiên, tếu táo và ấm áp trong tình đồng đội, đồng chí.
– Chiến tranh có khốc liệt thì những người lính lái xe vẫn đoàn kết hợp nhất thành “tiểu đội xe không kính” cùng nhau chiến đấu.
– Điệp từ “lại đi” khẳng định đoàn xe sẽ không ngừng tiến tới đi tiếp con đường gian khổ phía trước.
Ý chí chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước
– Bài thơ kết thúc với bốn câu thơ thể hiện ý chí sắt đá của những người lính
– Miền Nam chính là động lực mạnh mẽ nhất, sâu xa nhất tạo nên sức mạnh phi thường của người lính cách mạng
– Với biện pháp liệt kê, điệp từ “không có” diễn tả mức độ khốc liệt ngày càng tăng của chiến trường
– Đối lập với những cái “không có” chỉ cần “có một trái tim” đã làm nổi bật sức mạnh, ý chí ngoan cường của người lính lái xe.
– Hình ảnh trái tim là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe. Các anh xứng đáng với truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam; tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ thời đánh Mĩ.
3. Kết bài
– Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là tác phẩm đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh các chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng tình cảm mến yêu và cảm phục chân thành.
– Vẻ đẹp của người lính lái xe và hình tượng những chiếc xe không kính trong bom đạn khốc liệt nói lên phẩm chất cao đẹp của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ.
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài văn tham khảo
Những năm tháng chiến đấu gian khổ đẫm máu và nước mắt là quá khứ đau thương nhưng lại rất đáng tự hào của cả dân tộc. Và hình ảnh những người lính chắc tay súng chính là hình ảnh những người hùng, là biểu tượng cho niềm tin yêu, hi vọng của chúng ta. Có lẽ vì thế, họ bước vào thơ ca với bao phẩm chất đẹp đẽ và để lại trong lòng bạn đọc những xúc cảm thật khó phai mờ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một trong những thi phẩm thành công của đề tài này.
Tạo ấn tượng cho độc giả bằng giọng thơ tự do, phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được đánh giá là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Bởi thế chăng, mà bài thơ đã nhận được sự tôn vinh xứng đáng khi được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970.
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo về những chiến xe trên tuyến đường Trường Sơn:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản như lời nói hằng ngày nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc, tàn khốc của chiến tranh lúc bấy giờ.
Khó khăn không làm con người ta lùi bước, những chàng trai ngồi sau tay lái đã biến cái khó khăn, thiếu thốn ấy thành điều thú vị của cuộc sống. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của những người lính trẻ:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, phong thái đường hoàng, đĩnh đạc, đầy tự tin, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.
Nhưng khó khăn chưa ddwangf lại ở đó, người lính lái xe còn phải đối mặt với:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Câu thơ như phản ánh lại hiện thực. Xe chạy với vận tốc lớn, tấm kính là vật ngăn cách giữa buồng lái và không gian ngoài trời đã bị vỡ, Vì “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” nên nhìn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Khó khăn cứ chồng chất khó khăn, người lĩnh vẫn lạc quan, tin tưởng vượt lên phía trước:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Gió bụi, mưa rừng trên con đường ra mặt trận, các anh đều hứng trọn. Những đám bụi bốc lên khi xe chạy qua rồi phun vào buồng lái, bám đầy trên mái tóc xanh khiến các chàng trai trở thành mái tóc trắng phau giống các cụ già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Các anh cũng bật cười khi nhìn thấy bộ dạng lấm láp của mình như vậy. Tiếng cười “ha ha” gợi không khí vui vẻ, tươi vui, trẻ trung của các chàng trai mặc áo lính. Gian khổ không làm khuôn mặt buồn nản, nhăn nhó. Họ vẫn lạc quan và vẫn tìm thấy niềm vui trong những gian khó ấy. Trời nắng gắt thì bụi phum mù mịt. Trời mưa bão thì ướt sũng “như ngoài trời”, “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái không có kính che chắn, bảo vệ. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù khó khăn là vậy nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm các anh dừng bước.
Và trong cuộc sống đầy gian khổ ấy, điểm tựa tinh thần để người lính có sức mạnh vượt qua tất cả là tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Vượt qua bao chặng đường dài khó khăn đầy mưa gió, bụi đường, đầy mưa bom bão đạn, những chiếc xe không kính đã tụ hội để người lính lái xe được gặp gỡ, được bắt tay, được kể chuyện cho nhau nghe về những gian khó, những niềm vui mà mình đã trải qua. Cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi như một hiinhf ảnh ẩn dụ cho tình đoàn kết, tình đồng chí, đồng đội, cùng thấu hiểu, cùng sẻ chia những gian khổ, nhọc nhằn gặp phải trong chiến đấu. Cái bắt tay ấy hẳn đã tiếp thêm sức mạnh, làm người lính cảm thấy ấm lòng và vững tin vào con đường phía trước.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
– Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
– Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Qua đó, tác giả khắc họa hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe với tư thế, tinh thần hiên ngang bất khuất.
2. Thân bài:
2.1. Hình ảnh những chiếc xe không kính
– Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả, chân thực
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
– Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” lặp lại hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
=> Hai câu thơ đầu giải thích nguyên nhân đồng thời phản ánh sự tàn khốc của chiếc tranh.
2.2. Hình ảnh người lính lái xe
Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan tích cực coi thường hiểm nguy
– Hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo là hình ảnh tươi đẹp của người lính lái xe Trường Sơn
+ Họ là chủ nhân của những chiếc xe không kính độc đáo
+ Họ với tư thế hiên ngang “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn về vật chất
+ Họ phải đối mặt với hiểm nguy “gió vào xoa mắt đắng”, “đột ngột cánh chim”…
– Họ tự tin, hiên ngang đối diện với gian khói lửa chiến tranh
– Giọng nói ngang tàng, bất chấp hiểm nguy thể hiện rõ trong cấu trúc” không có… ừ thì”cứng cỏi, biến khó khăn thành điều thú vị
=> Khó khăn, nguy hiểm, thiếu thốn không làm nhụt chí người lính lái xe Trường Sơn. Họ vượt lên bằng bản lĩnh, nghị lực phi thường
Tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng chí, đồng đội sâu sắc
– Những người lính lái xe hóm hỉnh, tươi vui “chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
– Họ hồn nhiên, tếu táo và ấm áp trong tình đồng đội, đồng chí.
– Chiến tranh có khốc liệt thì những người lính lái xe vẫn đoàn kết hợp nhất thành “tiểu đội xe không kính” cùng nhau chiến đấu.
– Điệp từ “lại đi” khẳng định đoàn xe sẽ không ngừng tiến tới đi tiếp con đường gian khổ phía trước.
Ý chí chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước
– Bài thơ kết thúc với bốn câu thơ thể hiện ý chí sắt đá của những người lính
– Miền Nam chính là động lực mạnh mẽ nhất, sâu xa nhất tạo nên sức mạnh phi thường của người lính cách mạng
– Với biện pháp liệt kê, điệp từ “không có” diễn tả mức độ khốc liệt ngày càng tăng của chiến trường
– Đối lập với những cái “không có” chỉ cần “có một trái tim” đã làm nổi bật sức mạnh, ý chí ngoan cường của người lính lái xe.
– Hình ảnh trái tim là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe. Các anh xứng đáng với truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam; tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ thời đánh Mĩ.
3. Kết bài
– Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là tác phẩm đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh các chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng tình cảm mến yêu và cảm phục chân thành.
– Vẻ đẹp của người lính lái xe và hình tượng những chiếc xe không kính trong bom đạn khốc liệt nói lên phẩm chất cao đẹp của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ.
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài văn tham khảo
Những năm tháng chiến đấu gian khổ đẫm máu và nước mắt là quá khứ đau thương nhưng lại rất đáng tự hào của cả dân tộc. Và hình ảnh những người lính chắc tay súng chính là hình ảnh những người hùng, là biểu tượng cho niềm tin yêu, hi vọng của chúng ta. Có lẽ vì thế, họ bước vào thơ ca với bao phẩm chất đẹp đẽ và để lại trong lòng bạn đọc những xúc cảm thật khó phai mờ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một trong những thi phẩm thành công của đề tài này.
Tạo ấn tượng cho độc giả bằng giọng thơ tự do, phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được đánh giá là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Bởi thế chăng, mà bài thơ đã nhận được sự tôn vinh xứng đáng khi được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970.
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo về những chiến xe trên tuyến đường Trường Sơn:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản như lời nói hằng ngày nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc, tàn khốc của chiến tranh lúc bấy giờ.
Khó khăn không làm con người ta lùi bước, những chàng trai ngồi sau tay lái đã biến cái khó khăn, thiếu thốn ấy thành điều thú vị của cuộc sống. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của những người lính trẻ:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, phong thái đường hoàng, đĩnh đạc, đầy tự tin, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.
Nhưng khó khăn chưa ddwangf lại ở đó, người lính lái xe còn phải đối mặt với:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Câu thơ như phản ánh lại hiện thực. Xe chạy với vận tốc lớn, tấm kính là vật ngăn cách giữa buồng lái và không gian ngoài trời đã bị vỡ, Vì “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” nên nhìn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Khó khăn cứ chồng chất khó khăn, người lĩnh vẫn lạc quan, tin tưởng vượt lên phía trước:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Gió bụi, mưa rừng trên con đường ra mặt trận, các anh đều hứng trọn. Những đám bụi bốc lên khi xe chạy qua rồi phun vào buồng lái, bám đầy trên mái tóc xanh khiến các chàng trai trở thành mái tóc trắng phau giống các cụ già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Các anh cũng bật cười khi nhìn thấy bộ dạng lấm láp của mình như vậy. Tiếng cười “ha ha” gợi không khí vui vẻ, tươi vui, trẻ trung của các chàng trai mặc áo lính. Gian khổ không làm khuôn mặt buồn nản, nhăn nhó. Họ vẫn lạc quan và vẫn tìm thấy niềm vui trong những gian khó ấy. Trời nắng gắt thì bụi phum mù mịt. Trời mưa bão thì ướt sũng “như ngoài trời”, “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái không có kính che chắn, bảo vệ. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù khó khăn là vậy nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm các anh dừng bước.
Và trong cuộc sống đầy gian khổ ấy, điểm tựa tinh thần để người lính có sức mạnh vượt qua tất cả là tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Vượt qua bao chặng đường dài khó khăn đầy mưa gió, bụi đường, đầy mưa bom bão đạn, những chiếc xe không kính đã tụ hội để người lính lái xe được gặp gỡ, được bắt tay, được kể chuyện cho nhau nghe về những gian khó, những niềm vui mà mình đã trải qua. Cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi như một hiinhf ảnh ẩn dụ cho tình đoàn kết, tình đồng chí, đồng đội, cùng thấu hiểu, cùng sẻ chia những gian khổ, nhọc nhằn gặp phải trong chiến đấu. Cái bắt tay ấy hẳn đã tiếp thêm sức mạnh, làm người lính cảm thấy ấm lòng và vững tin vào con đường phía trước.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu bài Đồng chí và tác giả Chính Hữu: viết năm 1948 trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
– Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp tình đồng chí thắm thiết sâu nặng của những người lính
2. Thân bài
Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm tư thầm kín
– Chia sẻ, cảm thông với hoàn cảnh, nỗi nhớ quê hương của người bạn
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
+ Hình ảnh giếng nước, gốc đa hoán dụ gợi lên hình ảnh về quê hương, người thân nơi hậu phương của người lính
+ Họ cùng nhau vượt lên nỗi nhớ đó để chiến đấu
Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng khổ với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau thương
– Họ cùng trải qua những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”
– Họ động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
– Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan “miệng cười buốt giá”
=> Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ
Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
– Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người lính vượt lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết
– Hình ảnh đầu súng trăng treo bất ngờ, là điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ: đây là sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn
+ Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy trăng treo lơ lửng nơi họng súng
+ Ý nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm – đây là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Trăng là biểu tượng thanh mát, yên bình.
– Hình ảnh này kết hợp, cô đọng vẻ đẹp tâm hồn người lính với sự tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, khiến người lính ngay cả trong hiểm nguy vẫn bình thản, lãng mạn.
3. Kết bài
– Tình đồng chí được thể hiện chân thực, cao đẹp qua thể thơ tự do, ngôn từ hình ảnh giản dị mà hàm súc
– Đoạn thơ góp phần cùng bài thơ làm nên một áng thơ đẹp về tình đồng chí nói riêng và hình tượng người lính cách mạng nói chung.
Phân tích bài thơ Đồng chí
Bài văn tham khảo
Nói đến thơ là nói đến cảm xúc chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể lay động hồn người, không có sự chân thành, chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang, Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị mà như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc của những người đồng chí, đồng đội.
Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ của đất nước, lẽ ương nhiên, hình ảnh người lính vững vàng tay súng đã trở thành hình ảnh đẹp, trở thành biểu tượng của lòng tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Không lí tưởng hóa hình ảnh những người hùng ra đi vì nghĩa lớn, bảo vệ non sông, Chính Hữu đã nói với chúng ta điều rất chân thật về xuất thân của những người lính:
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sinh ra và lớn lên ở một đất nước vốn có tuyền thống lâu đời tròng lúa nước. Đất nước bị xâm lăng, không ai không mang thân phận nô lệ. Những chàng trai khỏe mạnh, đi theo tiếng gọi của non sông, họ gặp gỡ, quen biết nhau. Đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Ý thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại tự do, độc lập cho non sông:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Từ những người xa lạ, từ khắp mọi vùng quê, họ không hẹn mà gặp, không hẹn mà quen bởi họ chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào… Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những điểm tương đồng giản dị ấy. Lời thơ như gấp gáp hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!…
Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc…. Nhưng… họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước, bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau… Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phái chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm… Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa… Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cá những người lính. Tình đồng chí:
Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười – biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng…
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 – 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xen vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
(Ánh trăng – Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan hòa vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này mà ngân nga mãi. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu bài Đồng chí và tác giả Chính Hữu: viết năm 1948 trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
– Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp tình đồng chí thắm thiết sâu nặng của những người lính
2. Thân bài
Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm tư thầm kín
– Chia sẻ, cảm thông với hoàn cảnh, nỗi nhớ quê hương của người bạn
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
+ Hình ảnh giếng nước, gốc đa hoán dụ gợi lên hình ảnh về quê hương, người thân nơi hậu phương của người lính
+ Họ cùng nhau vượt lên nỗi nhớ đó để chiến đấu
Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng khổ với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau thương
– Họ cùng trải qua những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”
– Họ động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
– Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan “miệng cười buốt giá”
=> Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ
Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
– Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người lính vượt lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết
– Hình ảnh đầu súng trăng treo bất ngờ, là điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ: đây là sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn
+ Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy trăng treo lơ lửng nơi họng súng
+ Ý nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm – đây là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Trăng là biểu tượng thanh mát, yên bình.
– Hình ảnh này kết hợp, cô đọng vẻ đẹp tâm hồn người lính với sự tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, khiến người lính ngay cả trong hiểm nguy vẫn bình thản, lãng mạn.
3. Kết bài
– Tình đồng chí được thể hiện chân thực, cao đẹp qua thể thơ tự do, ngôn từ hình ảnh giản dị mà hàm súc
– Đoạn thơ góp phần cùng bài thơ làm nên một áng thơ đẹp về tình đồng chí nói riêng và hình tượng người lính cách mạng nói chung.
Phân tích bài thơ Đồng chí
Bài văn tham khảo
Nói đến thơ là nói đến cảm xúc chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể lay động hồn người, không có sự chân thành, chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang, Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị mà như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc của những người đồng chí, đồng đội.
Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ của đất nước, lẽ ương nhiên, hình ảnh người lính vững vàng tay súng đã trở thành hình ảnh đẹp, trở thành biểu tượng của lòng tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Không lí tưởng hóa hình ảnh những người hùng ra đi vì nghĩa lớn, bảo vệ non sông, Chính Hữu đã nói với chúng ta điều rất chân thật về xuất thân của những người lính:
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sinh ra và lớn lên ở một đất nước vốn có tuyền thống lâu đời tròng lúa nước. Đất nước bị xâm lăng, không ai không mang thân phận nô lệ. Những chàng trai khỏe mạnh, đi theo tiếng gọi của non sông, họ gặp gỡ, quen biết nhau. Đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Ý thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại tự do, độc lập cho non sông:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Từ những người xa lạ, từ khắp mọi vùng quê, họ không hẹn mà gặp, không hẹn mà quen bởi họ chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào… Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những điểm tương đồng giản dị ấy. Lời thơ như gấp gáp hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!…
Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc…. Nhưng… họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước, bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau… Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phái chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm… Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa… Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cá những người lính. Tình đồng chí:
Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười – biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng…
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 – 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xen vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
(Ánh trăng – Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan hòa vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này mà ngân nga mãi. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– “Lục Vân Tiên” – truyện thơ nổi tiếng gắn liền với tên gọi cụ Đồ Chiểu, tác phẩm mang đến tiếng nói tư tưởng đạo lí mang tính truyền thống, là bài ca đẹp của những phẩm chất cao quý
– Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” thuộc phần 2 của truyện, Vân Tiên và tiểu đồng bị Trịnh Hâm hãm hại do đố kị, ghen ghét tài năng của Vân Tiên.
2. Thân bài
2.1. Tội ác của Trịnh Hâm.
– Hoàn cảnh của Lục Vân Tiên: tiền hết, mù loà, bơ vơ nơi đất khách.
– Trịnh Hâm đã “giúp đỡ” Lục Vân Tiên
+ “Đêm khuya lặng lẽ như tờ
…khi ấy ra tay
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời
…giả tiếng kêu trời
…lấy lời phôi pha”
=> việc làm có sự sắp xếp, chuẩn bị, mưu tính trước sau (lừa tiểu đồng vào rừng trói lại…ra nói với Vân Tiên rằng tiểu đồng bị cọp vồ. Hắn đưa Vân Tiên lên thuyền rồi hứa đưa bạn về quê nhà, sau đó hắn ra tay hãm hại bạn)
– Nguyên nhân: tính đố kị, ganh ghét tài năng, lo cho con đường tiến thân của mình
(ngay từ khi mới gặp nhau, kết bạn với nhau thấy Vân Tiên tài cao, Trịnh Hâm đã có thái độ:
+”Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng
Khoa này Tiên ắt đầu công
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi”
– Dù bạn đã mù song Trịnh Hâm vẫn ra tay hãm hại, chứng tỏ sự độc ác dường như đã ngấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất con người hắn.
=> Trịnh Hâm: độc ác, bất nhân (đang tay hãm hại con người đang cơn hoạn nạn…), bất nghĩa (Vân Tiên là bạn của hắn), mưu mô, xảo quyệt.
2.2. Việc làm nhân đức và nhân cách cao cả của ông Ngư:
– Vân Tiên được Giao Long “dìu đỡ”
– Được ông Ngư và gia đình cứu sống
+ Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày”
=> từ ngữ mộc mạc, không gọt đẽo, trau chuốt
=> kể lại sự việc
=> cả nhà dường như nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa để cứu sống Vân Tiên, mỗi người một việc. Đó chính là tình cảm chân thành của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn.
– Biết tình cảnh khốn khổ của Vân Tiên :
+ Ông Ngư sẵn lòng cưu mang chàng
Ngư rằng: “Người ở cùng ta
Hôm nay hẩm hót với già cho vui”
+ Không hề tính toán đến ơn cứu mạng mà Vân Tiên mong báo đáp:
“…lòng lão chẳng mơ
Dối lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”
-> Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp của ông Ngư đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen, độc ác của Trịnh Hâm.
– Cuộc sống của Ngư ông:
“Rày roi mai vịnh vui vầy
…Tắm mưa chải gió trong vời Hàn giang”
=> lời thơ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm
=> Cuộc sống phóng khoáng, hoà nhập bầu bạn với thiên nhiên. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi, hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên đạo đức, nhân nghĩa.
– Lời nói về cuộc sống của mình của Ngư ông chính là tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu: khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp. một lối sống đáng mơ ước đối với con người.(t¸c gi¶ như nhập thân vào nhận vật ông Ngư)
* Đánh giá
– Nghệ thuật:
+ Cách sắp xếp các tình tiết hợp lí, diễn biến hành động nhanh gọn.
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị
+ Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, giàu cảm xúc
– Nội dung: Sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quý trọng và niềm tin của T/g với nhân dân lao động
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích
– Mở rộng, liên hệ
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
Bài văn tham khảo
“Lục Vân Tiên gặp nạn” trích “Lục Vân Tiên” của Nguyễn là một trong những đoạn thơ khiến người đọc xúc động, bởi lẽ đoạn trích kể về cảnh ngộ éo le, đau khổ và khó khăn nhất của Lục Vân Tiên. Mẹ mất, thi cử dở dang, đôi mắt bị mù, bị bạn bè hãm hại. Đoạn trích khiến người đọc thấy căm phẫn trước những thủ đoạn ti tiện, tàn nhẫn của những kẻ tiểu nhân, vừa thấy ấm lòng vì lòng tốt của những người ngư dân.
Ở đầu tác phẩm, nhà văn cũng đã từng miêu tả hai nhân vật Kiệm, Hâm bằng vài nét song độc giả cũng đã phần nào hình dung được tính cách của hai nhân vật này:
“ Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng
Khoa này Tiên ắt đầu công”
Chỉ bằng mấy vần thơ,nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã hé lộ bản chất ghen ghét, đố kị của Kiệm, Hâm đối với tài năng của Vân Tiên. Chính vì hiểu biết nông cạn, bất tài lại thêm thói đố kị nên dù Vân Tiên đã bị mù đôi mắt, cũng không thể tham gia thi cử song hai tên Kiệm, Hâm vẫn quyết tâm hãm hại đến cùng:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay”
Trịnh Hâm đã chọn thời điểm “đêm khuya” thực hiện kế hoạch đê hèn của mình. Không gian vắng lặng “lặng lẽ như tờ”, “mịt mờ sương bay”. Thời gian và không gian ấy là thời điểm đêm khuya lúc mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ, không gian lại mịt mù nên dẫu có làm chuyện thất đức thì cũng chẳng ai biết. Quả là một kế hoạch được tính toán kĩ lưỡng:
“Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời”
Sau khi lừa Vân Tiên là tiểu đồng bị bắt cóc ( thực ra là bị Trịnh Hâm trói vào rừng), y đã lợi dụng lúc đêm khuya, lại thêm Vân Tiên đã bị mù nên hắn ra tay rất nhanh gọn, dứt khoát “xô ngay xuống vời”. Hành động này có thể thấy hắn là một kẻ vô cùng hiểm độc. Nhưng không, hắn không dừng lại ở đó, sau khi ra tay hãm hại bạn mình, Trịnh Hâm còn giả dối kêu la thảm thiết:
“Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy, lấy lời phôi pha”
“Giả tiếng kêu trời” – thật là một hành động đáng khinh thường, giả dối, trơ trẽn. Hắn kêu la để mọi người tưởng rằng hắn là người tốt, hắn vô can, hắn tình cờ phát hiện và có lòng giúp bạn rồi “cho người thức dậy lấy lời phôi pha”.Thật là một kẻ lòng lang dạ thú. Nghe tiếng kêu của Trịnh Hâm, người trong thuyền xôn xao, hoảng hốt:
“Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Vân Tiên vốn là chàng trai hiền lành, tốt bụng, nên được mọi người yêu quý. Được tin chàng gặp nạn thì ai cũng “xót xa tấm lòng”, vô cùng thương tiếc cho chàng.
Bên cạnh nhân vật Trịnh Hâm được khắc họa với tính cách tiểu nhân, độc ác thì cũng ở trong đoạn trích này, cụ đồ Chiểu cũng đã xây dựng được những tấm lòng vị tha, nhân hậu của những người dân bình thường, tiêu biểu là gia đình của Ngư ông:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Các từ như “hối con”, “ông hơ bụng dạ”, “mụ hơ mặt mày” thể hiện được sự gấp gáp, khẩn trương của cả gia đình trong lúc cứu người. Dù không hề quen biết Vân Tiên, nhưng gia đình ông lão vẫn cứu giúp bằng cả tấm lòng. Hành động hào hiệp nhân nghĩa của gia đình ông lão đã khiến người đọc cảm động vô cùng.
Khi nhận được sự giúp đỡ từ gia đình ông chài, Vân Tiên đã rất cảm động và trong lòng băn khoăn, trăn trở không biết phải làm sao để tỏ tấm lòng biết ơn sâu nặng trước nghĩa tình của ân nhân. Đáp lại nỗi lo ấy của chàng, ông lão đã tỏ bày quan điểm:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Đến đây, ta cũng có thể thấy được sự gặp gỡ trong quan điểm sống của Ngư ông và Lục Vân Tiên. Trong lần Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, chàng cũng quan niệm “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Có lẽ, vì tấm lòng nhân đức, giúp người một cách vô tư mà Vân Tiên cũng được báo đáp, đúng như câu nói “Ở hiền gặp lành”. Sự bình an về sức khỏe và tâm hồn đã đến với chàng khi được ở cùng gia đình ngư ông:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi cho sờn lòng đây
Rày doi mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng”
Một cuộc sống an nhàn, không màng bon chen danh lợi, đấu đã chốn quan trường. Một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, sống vui vẻ, thanh thản:
Rày doi mai vịnh vui vầy
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– “Lục Vân Tiên” – truyện thơ nổi tiếng gắn liền với tên gọi cụ Đồ Chiểu, tác phẩm mang đến tiếng nói tư tưởng đạo lí mang tính truyền thống, là bài ca đẹp của những phẩm chất cao quý
– Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” thuộc phần 2 của truyện, Vân Tiên và tiểu đồng bị Trịnh Hâm hãm hại do đố kị, ghen ghét tài năng của Vân Tiên.
2. Thân bài
2.1. Tội ác của Trịnh Hâm.
– Hoàn cảnh của Lục Vân Tiên: tiền hết, mù loà, bơ vơ nơi đất khách.
– Trịnh Hâm đã “giúp đỡ” Lục Vân Tiên
+ “Đêm khuya lặng lẽ như tờ
…khi ấy ra tay
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời
…giả tiếng kêu trời
…lấy lời phôi pha”
=> việc làm có sự sắp xếp, chuẩn bị, mưu tính trước sau (lừa tiểu đồng vào rừng trói lại…ra nói với Vân Tiên rằng tiểu đồng bị cọp vồ. Hắn đưa Vân Tiên lên thuyền rồi hứa đưa bạn về quê nhà, sau đó hắn ra tay hãm hại bạn)
– Nguyên nhân: tính đố kị, ganh ghét tài năng, lo cho con đường tiến thân của mình
(ngay từ khi mới gặp nhau, kết bạn với nhau thấy Vân Tiên tài cao, Trịnh Hâm đã có thái độ:
+”Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng
Khoa này Tiên ắt đầu công
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi”
– Dù bạn đã mù song Trịnh Hâm vẫn ra tay hãm hại, chứng tỏ sự độc ác dường như đã ngấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất con người hắn.
=> Trịnh Hâm: độc ác, bất nhân (đang tay hãm hại con người đang cơn hoạn nạn…), bất nghĩa (Vân Tiên là bạn của hắn), mưu mô, xảo quyệt.
2.2. Việc làm nhân đức và nhân cách cao cả của ông Ngư:
– Vân Tiên được Giao Long “dìu đỡ”
– Được ông Ngư và gia đình cứu sống
+ Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày”
=> từ ngữ mộc mạc, không gọt đẽo, trau chuốt
=> kể lại sự việc
=> cả nhà dường như nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa để cứu sống Vân Tiên, mỗi người một việc. Đó chính là tình cảm chân thành của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn.
– Biết tình cảnh khốn khổ của Vân Tiên :
+ Ông Ngư sẵn lòng cưu mang chàng
Ngư rằng: “Người ở cùng ta
Hôm nay hẩm hót với già cho vui”
+ Không hề tính toán đến ơn cứu mạng mà Vân Tiên mong báo đáp:
“…lòng lão chẳng mơ
Dối lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”
-> Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp của ông Ngư đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen, độc ác của Trịnh Hâm.
– Cuộc sống của Ngư ông:
“Rày roi mai vịnh vui vầy
…Tắm mưa chải gió trong vời Hàn giang”
=> lời thơ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm
=> Cuộc sống phóng khoáng, hoà nhập bầu bạn với thiên nhiên. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi, hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên đạo đức, nhân nghĩa.
– Lời nói về cuộc sống của mình của Ngư ông chính là tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu: khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp. một lối sống đáng mơ ước đối với con người.(t¸c gi¶ như nhập thân vào nhận vật ông Ngư)
* Đánh giá
– Nghệ thuật:
+ Cách sắp xếp các tình tiết hợp lí, diễn biến hành động nhanh gọn.
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị
+ Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, giàu cảm xúc
– Nội dung: Sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quý trọng và niềm tin của T/g với nhân dân lao động
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích
– Mở rộng, liên hệ
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
Bài văn tham khảo
“Lục Vân Tiên gặp nạn” trích “Lục Vân Tiên” của Nguyễn là một trong những đoạn thơ khiến người đọc xúc động, bởi lẽ đoạn trích kể về cảnh ngộ éo le, đau khổ và khó khăn nhất của Lục Vân Tiên. Mẹ mất, thi cử dở dang, đôi mắt bị mù, bị bạn bè hãm hại. Đoạn trích khiến người đọc thấy căm phẫn trước những thủ đoạn ti tiện, tàn nhẫn của những kẻ tiểu nhân, vừa thấy ấm lòng vì lòng tốt của những người ngư dân.
Ở đầu tác phẩm, nhà văn cũng đã từng miêu tả hai nhân vật Kiệm, Hâm bằng vài nét song độc giả cũng đã phần nào hình dung được tính cách của hai nhân vật này:
“ Kiệm, Hâm là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng
Khoa này Tiên ắt đầu công”
Chỉ bằng mấy vần thơ,nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã hé lộ bản chất ghen ghét, đố kị của Kiệm, Hâm đối với tài năng của Vân Tiên. Chính vì hiểu biết nông cạn, bất tài lại thêm thói đố kị nên dù Vân Tiên đã bị mù đôi mắt, cũng không thể tham gia thi cử song hai tên Kiệm, Hâm vẫn quyết tâm hãm hại đến cùng:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay”
Trịnh Hâm đã chọn thời điểm “đêm khuya” thực hiện kế hoạch đê hèn của mình. Không gian vắng lặng “lặng lẽ như tờ”, “mịt mờ sương bay”. Thời gian và không gian ấy là thời điểm đêm khuya lúc mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ, không gian lại mịt mù nên dẫu có làm chuyện thất đức thì cũng chẳng ai biết. Quả là một kế hoạch được tính toán kĩ lưỡng:
“Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời”
Sau khi lừa Vân Tiên là tiểu đồng bị bắt cóc ( thực ra là bị Trịnh Hâm trói vào rừng), y đã lợi dụng lúc đêm khuya, lại thêm Vân Tiên đã bị mù nên hắn ra tay rất nhanh gọn, dứt khoát “xô ngay xuống vời”. Hành động này có thể thấy hắn là một kẻ vô cùng hiểm độc. Nhưng không, hắn không dừng lại ở đó, sau khi ra tay hãm hại bạn mình, Trịnh Hâm còn giả dối kêu la thảm thiết:
“Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy, lấy lời phôi pha”
“Giả tiếng kêu trời” – thật là một hành động đáng khinh thường, giả dối, trơ trẽn. Hắn kêu la để mọi người tưởng rằng hắn là người tốt, hắn vô can, hắn tình cờ phát hiện và có lòng giúp bạn rồi “cho người thức dậy lấy lời phôi pha”.Thật là một kẻ lòng lang dạ thú. Nghe tiếng kêu của Trịnh Hâm, người trong thuyền xôn xao, hoảng hốt:
“Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Vân Tiên vốn là chàng trai hiền lành, tốt bụng, nên được mọi người yêu quý. Được tin chàng gặp nạn thì ai cũng “xót xa tấm lòng”, vô cùng thương tiếc cho chàng.
Bên cạnh nhân vật Trịnh Hâm được khắc họa với tính cách tiểu nhân, độc ác thì cũng ở trong đoạn trích này, cụ đồ Chiểu cũng đã xây dựng được những tấm lòng vị tha, nhân hậu của những người dân bình thường, tiêu biểu là gia đình của Ngư ông:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Các từ như “hối con”, “ông hơ bụng dạ”, “mụ hơ mặt mày” thể hiện được sự gấp gáp, khẩn trương của cả gia đình trong lúc cứu người. Dù không hề quen biết Vân Tiên, nhưng gia đình ông lão vẫn cứu giúp bằng cả tấm lòng. Hành động hào hiệp nhân nghĩa của gia đình ông lão đã khiến người đọc cảm động vô cùng.
Khi nhận được sự giúp đỡ từ gia đình ông chài, Vân Tiên đã rất cảm động và trong lòng băn khoăn, trăn trở không biết phải làm sao để tỏ tấm lòng biết ơn sâu nặng trước nghĩa tình của ân nhân. Đáp lại nỗi lo ấy của chàng, ông lão đã tỏ bày quan điểm:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Đến đây, ta cũng có thể thấy được sự gặp gỡ trong quan điểm sống của Ngư ông và Lục Vân Tiên. Trong lần Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, chàng cũng quan niệm “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Có lẽ, vì tấm lòng nhân đức, giúp người một cách vô tư mà Vân Tiên cũng được báo đáp, đúng như câu nói “Ở hiền gặp lành”. Sự bình an về sức khỏe và tâm hồn đã đến với chàng khi được ở cùng gia đình ngư ông:
“Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi cho sờn lòng đây
Rày doi mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng”
Một cuộc sống an nhàn, không màng bon chen danh lợi, đấu đã chốn quan trường. Một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, sống vui vẻ, thanh thản:
Rày doi mai vịnh vui vầy
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), là thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ, …được nhân dân mến mộ. “Truyện Lục Vân Tiên” là tác phẩm xuất sắc của ông
– Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” thể hiện tinh thần đề cao đạo lí, chính nghĩa thông qua những hình tượng đẹp, có sức hấp dẫn với đông đảo công chúng
2. Thân bài
2.1. Nhân vật Lục Vân Tiên
* Đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga
– hoàn cảnh: trên đường đi thi, ghé về thăm nhà.
– tình thế: đơn độc (một mình) tay không.
– thái độ: bất bình
– hành động: bẻ cây làm gậy, xông vô
– lời nói: “kêu rằng ….. hại dân”.
=> dũng cảm, nghĩa khí, mang khí phách của người anh hùng. Tính cách anh hùng, tài năng, vị nghĩa.
* Nghệ thuật:
– Miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói.
– Dùng thủ pháp đối lập.
=> Làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật.
* Trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga
– Sau khi đánh tan bọn cướp
– Lời nói:
+ hỏi: “ai than khóc” -> quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ.
+ khẳng định: “ta đã…” -> an ủi.
+ can ngăn: “khoan khoan…” -> hiểu và xem trọng lễ giáo, cư xử đúng mực, coi trọng danh dự.
– Thái độ: vô tư, trong sáng, khiêm nhường, coi trọng khí phách, bổn phận của người anh hùng.
=> Thái độ ân cần, chu đáo, cư xử đúng mực, hiểu lễ giáo; tính cách khiêm nhường.
=> Vân Tiên là nhân vật lí tưởng, chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm, nhân hậu.
2.2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga
– Thái độ: biết ơn -> trọng nghĩa.
– Cử chỉ: cúi đầu lạy
– Lời nói: thưa, gửi -> lễ phép.
– Tính cách: chân thực, hiếu thảo, trọng nghĩa.
=> xưng hô khiêm nhường, nói năng dịu dàng, mực thước, bình dị, mộc mạc.
=> Là người con gái hiền hậu, nết na.
– cư xử: mời lên ngồi, mời đến nhà để được đền đáp ơn Vân Tiên
=> cách ứng xử ân tình, ân nghĩa.
=> Nguyệt Nga là cô gái thùy mị, nết na, có học thức và trọng tình nghĩa.
3. Kết bài
– Bút pháp lí tưởng hóa nhân vật;
– Miêu tả thông qua ngôn ngữ hành động, cử chỉ, …
– Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị, mang đậm màu sắc Nam Bộ.
– Trích đoạn ngợi ca đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc thông qua các hình tượng nhân vật chính.
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Bài văn tham khảo
Nguyễn Đình Chiều là nhà thơ, nhà văn, thầy thuốc, thầy giáo nổi tiếng đất Nam Bộ. Tên tuổi của ông gắn liền với “Truyện lục Vân Tiên”. Tác phẩm đại diện cho tiếng nói, quan niệm về đạo lý không chỉ của riêng nhà thơ mà đó còn là tiếng nói của cả dân tộc. Trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tư tưởng đạo lý của tác giả.
Có thể thấy tấm lòng nhân nghĩa là điểm sáng chói ngời trong nhân vật Vân Tiên. Tạ từ thầy dạy, chàng một mình rong ruổi trên con đường về kinh đô ứng thí. Lòng đầy ước mơ, hoài bão. Không ngờ, giữa đường, lại gặp chuyện chẳng lành. Nhân dân bồng bế, dắt díu nhau trốn chạy hoảng loạn, tiếng kêu van thảm thiết vang trời dậy đất. Ân cần hỏi han, rồi chẳng chút suy tính, chàng liền ra tay tương trợ để cứu dân lành thoát khỏi vòng lao lung.
“Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Quá bất bình trước hành động phi nghĩa của lũ bất nhân, chàng thét vào mặt chúng
“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Hành động nhân nghĩa của chàng có lẽ là sự tiếp nối đạo lí tốt đẹp của dân tộc “Thương người như thể thương thân”. Tình yêu thương đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm của chàng nho sinh họ Lục. Mặc cho lũ cướp mặt mày hung tợn, đằng đằng sát khí: “mặt đỏ phừng phừng”, chàng một mình lao vào vòng vây trừng trị bọn côn đồ. “Vân Tiên tả đột hữ xung”, một mình chàng với vũ khí thô sơ đấu lại cả bọn cướp gươm giáo sáng lòa. Với tài võ nghệ vô song, chàng tiêu diệt được tên cầm đầu toán cướp. Lũ còn lại như rắn mất dầu, quăng vũ khí, bỏ chạy tan tác. Hình ảnh Vân Tiên lúc này được nhà thơ so sánh như dũng tướng Triệu Tử Long phá vòng Đương Dương thời Tam Quốc. Thật là một hình ảnh đẹp tuyệt vời cho tinh thần đại nghĩa quên mình.
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”.
Giọng thơ hứng khởi, tràn đầy nhiệt huyết khi chiến thắng thuộc về người anh hùng dũng cảm.
Đánh tan lũ giặc, chàng Vân Tiên đã cứu thoát nàng Nguyệt Nga cùng người hầu khỏi cảnh nguy nan. Cuộc kì ngộ giữa giai nhân và trang hảo hán diễn ra thật cảm động. Nàng kính cẩn mời tráng sĩ về nhà để cha nàng “báo đức thù công”
“Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
Trước lời lẽ chân thành và đầy biết ơn của Kiều tiểu thư, thì Vân Tiên “nghe nói liền cười”. Một nụ cười thật tươi, thể hiện tâm hồn hào hiệp, tính tình vô tư, khảng khái. Chàng coi việc đánh cướp là việc nghĩa nên làm. Người biết võ nghệ phải ra tay diệt trừ cái ác, đem lại công bằng, bình yên cho nhân dân. Nếu thấy việc bất bình mà không ra tay tương trợ thì đâu xứng đáng đứng trong trời đất này nữa:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Cụ Đồ Chiểu đã xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên theo mô tuýp người anh hùng thời loạn, trọng đạo nghiã. Đó là mẫu người anh hùng mà người đọc đã từng gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Người anh hùng ra tay tương trợ nên đã cứu được nàng Nguyệt Nga khỏi cơn nguy khốn. Ngoại hình nàng tiểu thư con quan tri phủ không được miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ mà ta vẫn hình dung ra chân dung của nàng qua cuộc đối thoại ngắn ngủi với chàng Vân Tiên. Đầu tiên là hành động tạ ơn đầy tôn kính đối với ân nhân của nàng.
“ Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”.
Đang than khóc vì quá hoảng sợ trước bọn cướp Phong Lai, chỉ cần một lời hỏi han, động viên của Vân Tiên, nàng liền trấn tĩnh lại ngay. Cách nói chuyện không chỉ thể hiện thái độ kính cẩn, biết ơn chân thành, mà còn toát lên khí chất của một tiểu thư dịu dàng, có học thức. Qua cuộc nói chuyện, nàng đã tỏ bày hoàn cảnh của mình. Đó là việc nàng từ ngàn dặm xa xôi, không quản hiểm nguy, khó nhọc để làm theo lời cha “định bề nghi gia”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng thật khiến mọi người cảm động:
“ Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”.
Không chỉ có cách nói chuyện thùy mị, dịu dàng, nét đẹp tỏa sáng ở Nguyệt Nga có lẽ là lòng biết ơn chân thành, sâu sắc trước những hành động cao quý của chàng tráng sĩ.
“Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”.
Lời nói thiết tha chân thành xuất phát từ tấm lòng biết ơn sâu nặng. Có thể nhận thấy, Nguyệt Nga là con người sống trọng tình trọng nghĩa. Trước nghĩ cử cao đẹp của Vân Tiên, lần thứ nhất nàng quỳ lạy rồi thưa chuyện gia cảnh của mình, lần thứ hai, nàng lại tha tha thiết mời ân nhân về nhà để được đáp đền ơn sâu nghĩa nặng. Cái ơn đó không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả danh tiết của một người con gái, điều mà với một cô gái, nó còn quan trọng hơn cả tính mạng.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), là thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ, …được nhân dân mến mộ. “Truyện Lục Vân Tiên” là tác phẩm xuất sắc của ông
– Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” thể hiện tinh thần đề cao đạo lí, chính nghĩa thông qua những hình tượng đẹp, có sức hấp dẫn với đông đảo công chúng
2. Thân bài
2.1. Nhân vật Lục Vân Tiên
* Đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga
– hoàn cảnh: trên đường đi thi, ghé về thăm nhà.
– tình thế: đơn độc (một mình) tay không.
– thái độ: bất bình
– hành động: bẻ cây làm gậy, xông vô
– lời nói: “kêu rằng ….. hại dân”.
=> dũng cảm, nghĩa khí, mang khí phách của người anh hùng. Tính cách anh hùng, tài năng, vị nghĩa.
* Nghệ thuật:
– Miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói.
– Dùng thủ pháp đối lập.
=> Làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật.
* Trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga
– Sau khi đánh tan bọn cướp
– Lời nói:
+ hỏi: “ai than khóc” -> quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ.
+ khẳng định: “ta đã…” -> an ủi.
+ can ngăn: “khoan khoan…” -> hiểu và xem trọng lễ giáo, cư xử đúng mực, coi trọng danh dự.
– Thái độ: vô tư, trong sáng, khiêm nhường, coi trọng khí phách, bổn phận của người anh hùng.
=> Thái độ ân cần, chu đáo, cư xử đúng mực, hiểu lễ giáo; tính cách khiêm nhường.
=> Vân Tiên là nhân vật lí tưởng, chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm, nhân hậu.
2.2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga
– Thái độ: biết ơn -> trọng nghĩa.
– Cử chỉ: cúi đầu lạy
– Lời nói: thưa, gửi -> lễ phép.
– Tính cách: chân thực, hiếu thảo, trọng nghĩa.
=> xưng hô khiêm nhường, nói năng dịu dàng, mực thước, bình dị, mộc mạc.
=> Là người con gái hiền hậu, nết na.
– cư xử: mời lên ngồi, mời đến nhà để được đền đáp ơn Vân Tiên
=> cách ứng xử ân tình, ân nghĩa.
=> Nguyệt Nga là cô gái thùy mị, nết na, có học thức và trọng tình nghĩa.
3. Kết bài
– Bút pháp lí tưởng hóa nhân vật;
– Miêu tả thông qua ngôn ngữ hành động, cử chỉ, …
– Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị, mang đậm màu sắc Nam Bộ.
– Trích đoạn ngợi ca đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc thông qua các hình tượng nhân vật chính.
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Bài văn tham khảo
Nguyễn Đình Chiều là nhà thơ, nhà văn, thầy thuốc, thầy giáo nổi tiếng đất Nam Bộ. Tên tuổi của ông gắn liền với “Truyện lục Vân Tiên”. Tác phẩm đại diện cho tiếng nói, quan niệm về đạo lý không chỉ của riêng nhà thơ mà đó còn là tiếng nói của cả dân tộc. Trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tư tưởng đạo lý của tác giả.
Có thể thấy tấm lòng nhân nghĩa là điểm sáng chói ngời trong nhân vật Vân Tiên. Tạ từ thầy dạy, chàng một mình rong ruổi trên con đường về kinh đô ứng thí. Lòng đầy ước mơ, hoài bão. Không ngờ, giữa đường, lại gặp chuyện chẳng lành. Nhân dân bồng bế, dắt díu nhau trốn chạy hoảng loạn, tiếng kêu van thảm thiết vang trời dậy đất. Ân cần hỏi han, rồi chẳng chút suy tính, chàng liền ra tay tương trợ để cứu dân lành thoát khỏi vòng lao lung.
“Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Quá bất bình trước hành động phi nghĩa của lũ bất nhân, chàng thét vào mặt chúng
“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Hành động nhân nghĩa của chàng có lẽ là sự tiếp nối đạo lí tốt đẹp của dân tộc “Thương người như thể thương thân”. Tình yêu thương đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm của chàng nho sinh họ Lục. Mặc cho lũ cướp mặt mày hung tợn, đằng đằng sát khí: “mặt đỏ phừng phừng”, chàng một mình lao vào vòng vây trừng trị bọn côn đồ. “Vân Tiên tả đột hữ xung”, một mình chàng với vũ khí thô sơ đấu lại cả bọn cướp gươm giáo sáng lòa. Với tài võ nghệ vô song, chàng tiêu diệt được tên cầm đầu toán cướp. Lũ còn lại như rắn mất dầu, quăng vũ khí, bỏ chạy tan tác. Hình ảnh Vân Tiên lúc này được nhà thơ so sánh như dũng tướng Triệu Tử Long phá vòng Đương Dương thời Tam Quốc. Thật là một hình ảnh đẹp tuyệt vời cho tinh thần đại nghĩa quên mình.
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”.
Giọng thơ hứng khởi, tràn đầy nhiệt huyết khi chiến thắng thuộc về người anh hùng dũng cảm.
Đánh tan lũ giặc, chàng Vân Tiên đã cứu thoát nàng Nguyệt Nga cùng người hầu khỏi cảnh nguy nan. Cuộc kì ngộ giữa giai nhân và trang hảo hán diễn ra thật cảm động. Nàng kính cẩn mời tráng sĩ về nhà để cha nàng “báo đức thù công”
“Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
Trước lời lẽ chân thành và đầy biết ơn của Kiều tiểu thư, thì Vân Tiên “nghe nói liền cười”. Một nụ cười thật tươi, thể hiện tâm hồn hào hiệp, tính tình vô tư, khảng khái. Chàng coi việc đánh cướp là việc nghĩa nên làm. Người biết võ nghệ phải ra tay diệt trừ cái ác, đem lại công bằng, bình yên cho nhân dân. Nếu thấy việc bất bình mà không ra tay tương trợ thì đâu xứng đáng đứng trong trời đất này nữa:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Cụ Đồ Chiểu đã xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên theo mô tuýp người anh hùng thời loạn, trọng đạo nghiã. Đó là mẫu người anh hùng mà người đọc đã từng gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Người anh hùng ra tay tương trợ nên đã cứu được nàng Nguyệt Nga khỏi cơn nguy khốn. Ngoại hình nàng tiểu thư con quan tri phủ không được miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ mà ta vẫn hình dung ra chân dung của nàng qua cuộc đối thoại ngắn ngủi với chàng Vân Tiên. Đầu tiên là hành động tạ ơn đầy tôn kính đối với ân nhân của nàng.
“ Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”.
Đang than khóc vì quá hoảng sợ trước bọn cướp Phong Lai, chỉ cần một lời hỏi han, động viên của Vân Tiên, nàng liền trấn tĩnh lại ngay. Cách nói chuyện không chỉ thể hiện thái độ kính cẩn, biết ơn chân thành, mà còn toát lên khí chất của một tiểu thư dịu dàng, có học thức. Qua cuộc nói chuyện, nàng đã tỏ bày hoàn cảnh của mình. Đó là việc nàng từ ngàn dặm xa xôi, không quản hiểm nguy, khó nhọc để làm theo lời cha “định bề nghi gia”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng thật khiến mọi người cảm động:
“ Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”.
Không chỉ có cách nói chuyện thùy mị, dịu dàng, nét đẹp tỏa sáng ở Nguyệt Nga có lẽ là lòng biết ơn chân thành, sâu sắc trước những hành động cao quý của chàng tráng sĩ.
“Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”.
Lời nói thiết tha chân thành xuất phát từ tấm lòng biết ơn sâu nặng. Có thể nhận thấy, Nguyệt Nga là con người sống trọng tình trọng nghĩa. Trước nghĩ cử cao đẹp của Vân Tiên, lần thứ nhất nàng quỳ lạy rồi thưa chuyện gia cảnh của mình, lần thứ hai, nàng lại tha tha thiết mời ân nhân về nhà để được đáp đền ơn sâu nghĩa nặng. Cái ơn đó không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả danh tiết của một người con gái, điều mà với một cô gái, nó còn quan trọng hơn cả tính mạng.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác của dân tộc bởi những giá trị nội dung ư tưởng và nghệ thuật sâu sắc mà tác phẩm đem lại.
– Trong đó, trích đoạn “Thúy Kiều báo ân, báo oán” là một trích đoạn hay để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong cảm xúc của người đọc về một ước mơ về xã hội công bằng, ân trả báo đền.
2. Thân bài
– Giới thiệu về vị trí đoạn trích:
Từ Hải đã chuộc Thúy Kiều ra khỏi thanh lâu và cưới nàng làm vợ.
– Khái quát nội dung đoạn trích: Thúy Kiều đền ơn những người có ân với mình và trừng trị những kẻ đã đọa đầy nàng
– Kiều báo ân
+ Cảnh báo ân diễn ra trang trọng
+ cách nói chuyện với Thúc Sinh: “Nghĩa nặng tình non”, “Cố nhân”,” Người cũ”
=> Thúy Kiều là người trọng tình, trọng nghĩa
+ ban tặng nhiều gấm vóc, tiền bạc cho Thúc Sinh
=> Thúy Kiều là người chung thủy, giàu sang, phú quý cũng không quên tình nghĩa xưa kia
– Kiều báo oán:
+ Hoạn Thư có phần run sợ khi thấy cảnh binh đao, có phần run sợ, vì nghĩ đến cách đối xử quá đáng của mình với nàng Kiều, nên ả xuống nước cầu xin
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửu dứt tình chẳng theo.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
+ Tội của Hoạn Thư có thể tha thứ được vì ngẫm cho cùng cũng vì ghen tuông mù quáng, Chuyện chồng chung vợ chạ là điều không ai muốn. Khi Thúy Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư, ả cũng không cho người truy đuổi.
+ Trước lời lẽ có tình , có lí của Hoạn Thư, Kiều liền tha bổng cho ả
=>Thúy Kiều là người có tấm lòng độ lượng, biết phân biệt đúng sai và không phải là người nhỏ nhen, chấp nhất. Nàng thật sự là một phụ nữ không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có trái tim nhân hậu, lương thiện, bao dung với lỗi lầm của người khác.
3. Kết bài
– Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán” thể hiện ước mơ của tác giả về khát khao đòi công lý, công bằng trong xã hội cũ. Mong muốn những cái xấu bị loại trừ và những điều tốt được đền đáp.
Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
Bài văn tham khảo
Nhắc đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta nhớ ngay đó là đỉnh cao văn học nghệ thuật có một không hai. Mang trong mình nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung sâu sắc, tác phẩm đã để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Mỗi trích đoạn là một cảnh đời sống động, chân thực. Trong đó, cảnh “Thúy Kiều báo ân báo oán” là ước mơ về một xã hội công bằng, ân trả báo đền.
Trích đoạn vẫn thuộc phần hai “Gia biến và lưu lac”, song có thể nhận định rằng quãng thời gian nàng được sống bên Từ Hải, được dựa vào uy thế của chàng để thực thi công đạo thì đây là quãng đời sang chói nhất, huy hoàng nhất trong cả hành trình lưu lạc trong bể trầm luân của nàng.
Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ưóc mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán gồm 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Ở đây, chúng ta chỉ chú ý đến hai đối tượng đặc biệt : Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.
Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép phải tiếp khách làng chơi. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh “cũng nòi thư hương”, là con rể của quan thượng thư, một con người phong tình “quen thói bốc giời”. Lúc đầu chỉ là chuyện tình “trăng gió”, nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành “đá vàng”. Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy nàng làm vợ lẽ: “Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai”. Mặc dù sau này có chuyện nàng bị vợ cả đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh đã xin với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh”, thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy “thấp cơ thua trí đàn bà” nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn “nặng lòng”
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non ?
Có thể chê trách Thúc Sinh bạc nhược, hèn nhát, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã yêu thương nàng thật lòng, cứu nàng thoát khỏi cảnh phải “làm vợ khắp người ta”. Ân tình ấy, nàng không bao giờ quên được.
Cảnh báo ân diễn ra trang trọng, Kiều đã dùng những từ ngữ rất trọng vọng để nói về mối quan hệ giữa nàng và chàng Thúc năm xưa: “nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân… “cùng với giọng điệu ân cần, thủ thỉ như đang ôn lại, nhắc lại những ân nghĩa mà nàng đã nhận được từ Thúc Sinh. Cách nó chuyện ân cần như vậy biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh rất giàu ân nghĩa thủy chung:
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non.
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Lễ vật nàng ban tặng cho chàng Thúc thật hậu hĩnh, nó xứng với tấm lòng biết ơn sâu nặng của nàng.
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân.
Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.
Chịu ơn Thúc Sinh, nhưng nàng cũng phải chịu nhục nhã, tủi hờn trước những đòn đánh ghen thâm hiểm của vợ chàng Thúc. Trước đây, nàng phải chịu phận tôi đòi, bị vợ cả hành hạ, thì giờ đây mũi tên quyền lực đã đổi chiều, Hoạn Thư trở thành kẻ phạm tội, còn nàng là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cành “gươm lớn giáo dài”:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Có thể dễ dàng nhận thấy giọng điệu ở đây có sự thay đổi khá bất ngờ. Đang ân cần, tâm tình, ngọt ngào, ân nghĩa với những từ ngữ rất trang trọng, rất mực tôn kính, thì khi nói đến Hoạn Thư, thì cơn tủi hờn, nỗi ấm ức trong nàng dường như trỗi dậy khiến lời nói của nàng nghe như đay nghiến, chì chiết, tiềm ẩn một cơn oán hận ngút trời.
Vừa thoắt trông thấy bóng Hoạn Thư, nàng đã đon đả chào hỏi bằng những lời “mát mẻ”
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Không chỉ có lời chào như tiếng cười nhạo đầu tiên trước “tình địch” của mình, Thúy Kiều còn “tiếp đón” “người cũ” bằng những lằn roi sắc lạnh quất thẳng vào mặt đối thủ
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ, tủi cực: Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều. Là “thủ phạm” đang bị kết án giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra”, Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu”. Người phụ nữ này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt? Vốn khôn ngoan, sắc sảo, Hoạn Thư trấn tĩnh được ngay, và tìm cách gỡ tội. Một cái “khấu đầu” thể hiện thái độ tôn kính, khi chân tay đang bị trói. Trước hết ả biện bạch, bào chữa cho tội “ghen tuông”, coi đó là chuyện “thường tình ” của đàn bà. Nói như vậy, Hoạn Thư đã thay lời tất cả phụ nữ có chồng trong thiên hạ nói lên tâm trạng ấm ức, thiệt thòi của mình khi bị chồng phụ tình. Chuyện chòng chung vợ chạ nào ai có thể chịu đựng nổi. Chính vì thế, có oán giận mà hành hạ nàng Kiều thì cũng là “lẽ thường”. Chưa dừng lại ở đó, Hoạn Thư gợi lại chút “ân tình” xưa cũ: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh”, không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua, không cho người truy đuổi. Cách nói rất khôn khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. “Nghĩ cho”là nhớ lại cho, suy xét lại cho:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửu dứt tình chẳng theo.
Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng tha thứ cho:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Lời lẽ của Hoạn Thư thật có tình, có lí. Nếu Kiều tính toán đến cùng thì hóa ra nàng là con người nhỏ nhen. Thêm nữa, nàng lại chịu ân của Thúc Sinh, nếu trừng trị Hoạn Thư thì có lẽ cũng không phải với chàng Thúc.Trước những lời thiết tha, đúng mực, khôn khéo ấy, Kiều khen rằng: “Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời”, và lệnh truyền tha ngay cho tiểu thư họ Hoạn:
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.,
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác của dân tộc bởi những giá trị nội dung ư tưởng và nghệ thuật sâu sắc mà tác phẩm đem lại.
– Trong đó, trích đoạn “Thúy Kiều báo ân, báo oán” là một trích đoạn hay để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong cảm xúc của người đọc về một ước mơ về xã hội công bằng, ân trả báo đền.
2. Thân bài
– Giới thiệu về vị trí đoạn trích:
Từ Hải đã chuộc Thúy Kiều ra khỏi thanh lâu và cưới nàng làm vợ.
– Khái quát nội dung đoạn trích: Thúy Kiều đền ơn những người có ân với mình và trừng trị những kẻ đã đọa đầy nàng
– Kiều báo ân
+ Cảnh báo ân diễn ra trang trọng
+ cách nói chuyện với Thúc Sinh: “Nghĩa nặng tình non”, “Cố nhân”,” Người cũ”
=> Thúy Kiều là người trọng tình, trọng nghĩa
+ ban tặng nhiều gấm vóc, tiền bạc cho Thúc Sinh
=> Thúy Kiều là người chung thủy, giàu sang, phú quý cũng không quên tình nghĩa xưa kia
– Kiều báo oán:
+ Hoạn Thư có phần run sợ khi thấy cảnh binh đao, có phần run sợ, vì nghĩ đến cách đối xử quá đáng của mình với nàng Kiều, nên ả xuống nước cầu xin
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửu dứt tình chẳng theo.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
+ Tội của Hoạn Thư có thể tha thứ được vì ngẫm cho cùng cũng vì ghen tuông mù quáng, Chuyện chồng chung vợ chạ là điều không ai muốn. Khi Thúy Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư, ả cũng không cho người truy đuổi.
+ Trước lời lẽ có tình , có lí của Hoạn Thư, Kiều liền tha bổng cho ả
=>Thúy Kiều là người có tấm lòng độ lượng, biết phân biệt đúng sai và không phải là người nhỏ nhen, chấp nhất. Nàng thật sự là một phụ nữ không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có trái tim nhân hậu, lương thiện, bao dung với lỗi lầm của người khác.
3. Kết bài
– Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán” thể hiện ước mơ của tác giả về khát khao đòi công lý, công bằng trong xã hội cũ. Mong muốn những cái xấu bị loại trừ và những điều tốt được đền đáp.
Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
Bài văn tham khảo
Nhắc đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta nhớ ngay đó là đỉnh cao văn học nghệ thuật có một không hai. Mang trong mình nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung sâu sắc, tác phẩm đã để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Mỗi trích đoạn là một cảnh đời sống động, chân thực. Trong đó, cảnh “Thúy Kiều báo ân báo oán” là ước mơ về một xã hội công bằng, ân trả báo đền.
Trích đoạn vẫn thuộc phần hai “Gia biến và lưu lac”, song có thể nhận định rằng quãng thời gian nàng được sống bên Từ Hải, được dựa vào uy thế của chàng để thực thi công đạo thì đây là quãng đời sang chói nhất, huy hoàng nhất trong cả hành trình lưu lạc trong bể trầm luân của nàng.
Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ưóc mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán gồm 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Ở đây, chúng ta chỉ chú ý đến hai đối tượng đặc biệt : Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.
Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép phải tiếp khách làng chơi. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh “cũng nòi thư hương”, là con rể của quan thượng thư, một con người phong tình “quen thói bốc giời”. Lúc đầu chỉ là chuyện tình “trăng gió”, nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành “đá vàng”. Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy nàng làm vợ lẽ: “Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai”. Mặc dù sau này có chuyện nàng bị vợ cả đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh đã xin với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh”, thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy “thấp cơ thua trí đàn bà” nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn “nặng lòng”
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non ?
Có thể chê trách Thúc Sinh bạc nhược, hèn nhát, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã yêu thương nàng thật lòng, cứu nàng thoát khỏi cảnh phải “làm vợ khắp người ta”. Ân tình ấy, nàng không bao giờ quên được.
Cảnh báo ân diễn ra trang trọng, Kiều đã dùng những từ ngữ rất trọng vọng để nói về mối quan hệ giữa nàng và chàng Thúc năm xưa: “nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân… “cùng với giọng điệu ân cần, thủ thỉ như đang ôn lại, nhắc lại những ân nghĩa mà nàng đã nhận được từ Thúc Sinh. Cách nó chuyện ân cần như vậy biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh rất giàu ân nghĩa thủy chung:
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non.
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Lễ vật nàng ban tặng cho chàng Thúc thật hậu hĩnh, nó xứng với tấm lòng biết ơn sâu nặng của nàng.
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân.
Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.
Chịu ơn Thúc Sinh, nhưng nàng cũng phải chịu nhục nhã, tủi hờn trước những đòn đánh ghen thâm hiểm của vợ chàng Thúc. Trước đây, nàng phải chịu phận tôi đòi, bị vợ cả hành hạ, thì giờ đây mũi tên quyền lực đã đổi chiều, Hoạn Thư trở thành kẻ phạm tội, còn nàng là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cành “gươm lớn giáo dài”:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Có thể dễ dàng nhận thấy giọng điệu ở đây có sự thay đổi khá bất ngờ. Đang ân cần, tâm tình, ngọt ngào, ân nghĩa với những từ ngữ rất trang trọng, rất mực tôn kính, thì khi nói đến Hoạn Thư, thì cơn tủi hờn, nỗi ấm ức trong nàng dường như trỗi dậy khiến lời nói của nàng nghe như đay nghiến, chì chiết, tiềm ẩn một cơn oán hận ngút trời.
Vừa thoắt trông thấy bóng Hoạn Thư, nàng đã đon đả chào hỏi bằng những lời “mát mẻ”
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Không chỉ có lời chào như tiếng cười nhạo đầu tiên trước “tình địch” của mình, Thúy Kiều còn “tiếp đón” “người cũ” bằng những lằn roi sắc lạnh quất thẳng vào mặt đối thủ
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ, tủi cực: Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều. Là “thủ phạm” đang bị kết án giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra”, Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu”. Người phụ nữ này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt? Vốn khôn ngoan, sắc sảo, Hoạn Thư trấn tĩnh được ngay, và tìm cách gỡ tội. Một cái “khấu đầu” thể hiện thái độ tôn kính, khi chân tay đang bị trói. Trước hết ả biện bạch, bào chữa cho tội “ghen tuông”, coi đó là chuyện “thường tình ” của đàn bà. Nói như vậy, Hoạn Thư đã thay lời tất cả phụ nữ có chồng trong thiên hạ nói lên tâm trạng ấm ức, thiệt thòi của mình khi bị chồng phụ tình. Chuyện chòng chung vợ chạ nào ai có thể chịu đựng nổi. Chính vì thế, có oán giận mà hành hạ nàng Kiều thì cũng là “lẽ thường”. Chưa dừng lại ở đó, Hoạn Thư gợi lại chút “ân tình” xưa cũ: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh”, không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua, không cho người truy đuổi. Cách nói rất khôn khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. “Nghĩ cho”là nhớ lại cho, suy xét lại cho:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửu dứt tình chẳng theo.
Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng tha thứ cho:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Lời lẽ của Hoạn Thư thật có tình, có lí. Nếu Kiều tính toán đến cùng thì hóa ra nàng là con người nhỏ nhen. Thêm nữa, nàng lại chịu ân của Thúc Sinh, nếu trừng trị Hoạn Thư thì có lẽ cũng không phải với chàng Thúc.Trước những lời thiết tha, đúng mực, khôn khéo ấy, Kiều khen rằng: “Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời”, và lệnh truyền tha ngay cho tiểu thư họ Hoạn:
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.,
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Nguyễn Du (1765 – 1820), là người tài hoa, có tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Sự nghiệp văn học rất phong phú và đồ sộ.
– Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều trích “Truyện Kiều”: là bức họa chân thực
Tên giám sinh họ Mã và nàng Thúy Kiều.
2. Thân bài
– Nhân vật Mã Giám Sinh
+ lai lịch, ngoại hình:
=> Vẻ ngoài trai lơ, không phù hợp với lứa tuổi,
+ hành động, lời nói
=> Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm hiện lên bản chất Mã Giám Sinh là một kẻ giả dối, vô học, con buôn.
– Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
=> Tâm trạng xấu hổ, đau đớn.
– Tấm lòng của tác giả
3. Kết bài
– Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ. Dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật.
– bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Qua đó, tác giả lên án những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
Bài văn tham khảo
“Truyện Kiều” là đỉnh cao của nghệ thuật ngôn ngữ dân tộc. Làm nên thành công của kiệt tác bất hủ này, ta không thể không nhắc tới nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật. Một trong những bức họa tài hoa đó là trích đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
Đoạn thơ thuộc phần Gia biến và lưu lạc, mở đầu cho kiếp đoạn trường lưu lạc của người con gái họ Vương tài hoa, bạc mệnh. Gia đình vô cớ bị vu oan, cha và em bị tống lao, gia sản bị bọn sai nha vơ vét sạch sẽ. Để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nàng phải bán mình chuộc cha và em. Nỗi đau chồng chất nỗi đau hòa lệ mà chảy thành thơ thấm trên từng con chữ.
Mang danh đi hỏi vợ nhưng thực chất là kẻ buôn thịt bán người. Hắn hiện ra trong những vần thơ thật ấn tượng:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Lời giới thiệu đầu tiên về tuổi tác, một người đàn ông đã ở tuổi tứ tuần, tuổi trung niên, tuổi của sự chững chạc, đứng đắn. Vậy mà, xem cách ăn mặc của hắn thì như một gã trai lơ: mày râu đều cạo nhẵn nhụi, áo quần lượt là, chải chuốt. Việc ăn mặc không phù hợp với tuổi tác của hắn càng biến hắn trở thành kẻ lố lăng, kệch cỡm.
Vẻ ngoài như vậy chưa đủ để nói tất cả về con người hắn, Nguyễn Du còn dần hé lộ chân tướng về con người này qua cách nói năng của hắn
“Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Người xưa thường nói:
“Đất tốt trồng cây rườm rà
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng
Đất xấu trồng cây khẳng khiu
Những người thô tục nói điều phàm phu”
Chính lời nói cộc lốc, thô lỗ đã tố cáo, vạch trần danh hiệu giả dối mà hắn tự khoác lên mình là sinh viên trường Quốc Tử Giám. Rồi đến quê quán kia là thật hay giả thì cũng khiến người nghe chẳng còn tín nữa. Càng tiếp xúc, bản chất con người hắn càng lộ ra rõ rệt là kẻ vô học khiến người đọc giật mình kinh ngạc:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
“Ghế trên” vốn dành cho các bậc trưởng bối cao niên, hay huynh trưởng đáng kính, chỉ một chữ “tót” đã hạ màn tất cả những trò dối trá, kệch cỡm mà hắn cố bày ra để che mắt người đời. Nhưng thô lỗ, bất lịch sự, vô học chưa phải là tất cả con người hắn. Nguyễn Du vẫn dẫn dắt người đọ đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”
Không chút đoái thương cho hoàn cảnh của nàng, cái lạnh lùng của một kẻ buôn thịt bán người thì chỉ biết xem kiều như một món hàng hóa. Mà đã là hàng thì trước khi móc hầu bao, cần “kiểm tra chất lượng hàng”. Hắn đắn đo cân đong cả nhan sắc lẫn tài hoa, bắt nàng thể hiện hết khả năng đánh đàn, làm thơ của nàng. Để rồi đến màn mặc cả và ngã giá:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàn ngoài bốn trăm”.
Bằng cách miêu tả chân thực, Nguyễn Du đã lột tả thành công bản chất đê tiện của gã con buôn vì tiền mà mất hết cả nhân tính. Loại người thất học, vô lại như vậy đầy rẫy trong xã hội lúc bấy giờ. Dù không lời bình luận đánh giá nào được nhắc đến trong tác phẩm, nhưng người đọc có thể cảm nhận rõ thái độ bất bình, căm phẫn của tác giả khi viết về những kẻ như vậy. Chính bọn chúng là một trong những nguyên nhân đẩy cuộc đời nàng Kiều và những con người bé nhỏ tội nghiệp, lương thiện vào vòng bĩ cực.
Đối lập với hình ảnh tên giám sinh họ Mã – đại diện cho những kẻ vì tiền mà mất hết nhân tính, là hình ảnh một nàng Kiều đáng thương, tội nghiệp. Người con gái tài sắc vẹn toàn mà bị đẩy vào hoàn cảnh phải đem tài sắc ra đổi lấy tiền để chuộc cha và em ra khỏi vòng oan khuất. Thật là nỗi đau chồng chất nỗi đau. Ý thức được nhân phẩm, giá trị và hoàn cảnh của mình, nàng câm lặng đến tái tê, giọt lệ đã kết thành giọt sầu:
“Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà” – câu thơ gói trọn cả nỗi niềm, tâm trạng của nàng lúc này. Phần mình thì vừa phải dứt bỏ mối tình đầu tựa như nụ hoa hé nở lúc bình minh, cha và em bị vu oan, tống ngục, gia sản bị quan tham vơ vét, giờ lại phải bán mình cho kẻ xa lạ dưới danh nghĩa là một cuộc hôn nhân. Bởi vậy mà mỗ bước chân là hàng hàng lệ tuôn: “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Trước tình cảnh ấy, nàng đã có dự cảm thật lo sợ, ngại ngùng, bởi đó sẽ là những ngày tháng đầy đau khổ “Ngại ngùng dợn gió e sương”. Điều đáng nói thêm nữa, nàng là người con gái tài sắc và ý thức được rất rõ giá trị của mình, chính vì vậy, khi phải lâm vào hoàn cảnh như vậy, nàng tự cảm thấy hổ thẹn, sượng sùng: “Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”. Trong khi đó, mụ mối vẫn rất chuyên tâm vào thương vụ ngàn vàng “mối càng vén tóc bắt tay”. Lòng đầy u sầu, não nuột, ủ ê khiến gương mặt của nàng cũng sầu muộn:
“Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– Nguyen Du (1765 – 1820), was a talented man with a deep humanitarian heart. Literary career is very rich and voluminous.
– Excerpt from Ma Giam Sinh buying Kieu from "The Tale of Kieu": is a realistic painting
The student's name is Ma and she is Thuy Kieu.
2. Body of the article
– Character Ma Giam Sinh
+ background, appearance:
=> Boyish appearance, not suitable for age,
+ actions, words
=> Realistic writing style, along with figurative and onomatopoeic words, reveal the nature of Ma Giam Sinh as a liar, uneducated, and merchant.
– Poor image of Thuy Kieu
=> Feeling of shame and pain.
– The author's heart
3. Conclusion
– Use symbolic images and conventions. Use realistic writing techniques to portray, describe and build characters.
– exposing the evil and despicable nature of Ma Giam Sinh. Thereby, the author condemns the brutal forces that have trampled on the beauty and dignity of women.
Analysis of the excerpt from Ma Giam Sinh buying Kieu
Reference article
"The Tale of Kieu" is the pinnacle of national language art. Making this immortal masterpiece a success, we cannot help but mention the art of character portraiture. One of those talented paintings is an excerpt from "Ma Giam Sinh buys Kieu".
The poem belongs to the section of Family transformation and wandering, opening the long wandering life of the talented and ill-fated daughter of the Vuong family. The family was unjustly slandered, the father and younger brother were thrown into prison, and the family's assets were completely looted by thieves. To fulfill her filial piety to her parents, she had to sell herself to redeem her father and younger brother. Pain piled on pain and tears flowed into poetry that permeated every word.
Pretend to ask his wife but in reality he is a meat trafficker. He appears in impressive poems:
“Too old, in his forties
You're clean-shaven and you have smart clothes."
The first introduction to age, a man is in his forties, middle age, the age of maturity and decency. Yet, looking at the way he dresses, he looks like a lazy boy: his eyebrows are clean-shaven, his clothes are ironed and well-groomed. Dressing inappropriately for his age makes him even more ridiculous and ridiculous.
That appearance is not enough to say everything about him, Nguyen Du also gradually reveals the truth about this person through his way of speaking.
“Ask for the name: Ma Giam Sinh
I asked my hometown: Lam Thanh district is also close."
Ancient people often said:
“Good land makes planting trees cumbersome
Elegant people speak gently
Bad soil grows spindly trees
Vulgar people say vulgar things."
It was his curt and rude words that denounced and exposed the false title that he put on himself as a student at Quoc Tu Giam school. Then whether the hometown is real or fake will make the listener no longer believe it. The more he interacts, the more clearly his human nature is revealed as an uneducated person, making the reader startled and surprised:
“The upper seat is sloppy and sloppy.”
The "top seat" was originally reserved for senior elders, or respected brothers. Just one word "good" brought down the curtain on all the lies and ridiculousness that he tried to show to cover people's eyes. But rude, impolite, and uneducated are not all he is. Nguyen Du still leads readers from one surprise to another:
“Weighing beauty and wealth
Forced to hold the moon and try fanning poetry"
Without any sympathy for her situation, the coldness of a meat trafficker only knows how to treat beauty as a commodity. If it is a product, before spending money, you need to "check the quality of the product". He carefully weighed both beauty and talent, forcing her to show off her ability to play the piano and write poetry. Then comes the bargaining and bargaining stage:
“If you add one, add two
Now the price has dropped to over four hundred."
With a realistic description, Nguyen Du successfully portrayed the despicable nature of the businessman who lost all humanity for money. This type of uneducated and scoundrel people was rife in society at that time. Although no comments are mentioned in the work, readers can clearly feel the author's discontent and indignation when writing about such people. They are one of the reasons that pushed Kieu's life and those of poor, honest little people into a miserable cycle.
In contrast to the image of a student named Ma - representing those who have lost all humanity for money, is the image of a pitiful and pitiful Kieu girl. A girl with perfect beauty and talent was forced into a situation where she had to exchange her talent for money to redeem her father and younger sister from injustice. It's pain upon pain. Aware of her dignity, value and circumstances, she remained silent to the point of numbness, her tears turning into drops of sadness:
“Shy and shy, afraid of the wind and fog
Stop feeling embarrassed looking at your thick face
Termites pulled back their hair and shook hands
Sad as a daisy, thin as apricot"
"My feelings add to my family's feelings" - the poem encapsulates her feelings and mood at this time. As for me, I had to let go of my first love like a flower bud blooming at dawn, my father and younger brother were falsely accused, thrown into prison, our assets were scrounged by corrupt officials, and now we have to sell ourselves to strangers in the name of is a marriage. That's why every step is a stream of tears: "One step on the flower terrace is several rows of tears." Faced with that situation, she had a feeling of fear and shyness, because those would be days full of suffering, "Shy and afraid of the wind and fear of dew". What's more worth mentioning is that she is a talented and beautiful girl and is very aware of her value, so when she has to fall into such a situation, she feels ashamed and embarrassed: "Stop blooming." The shadow of shame looks like a thick face. Meanwhile, the matchmaker is still very focused on the golden deal "the more the matchmaker lifts her hair and shakes hands". Her heart is full of sadness, sadness, and sadness, making her face also sad:
"Sad as a daisy, thin as a plum"
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương (sinh năm 1928), quê An Giang; văn phong của ông thường nhẹ nhàng, tình cảm
– “Viếng lăng Bác” là bài thơ nổi tiếng của ông. Tác phẩm thể hiện lòng thành kính của nhà thơ và nhân dân đối với Bác
2. Thân bài
* Ý 1: Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
– Bài thơ sáng tác tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn Phương ra Bắc thăm Bác. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978
* Ý 2: Niềm xúc động của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác (khổ 1,2)
– “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”: cách xưng hô “con” gợi sự thân mật, nhân dân miền Nam coi Bác như vị cha già của dân tộc.
-“thăm” (chứ không dùng từ “viếng”): nói giảm nói tránh để giảm nhẹ đi nỗi đau, mặc dù Bác đã đi xa nhưng trong tâm trí mỗi người Bác luôn sống mãi
– “hàng tre xanh xanh Việt Nam”: hình ảnh hàng tre thân thuộc, bình dị đối với người dân Việt Nam. Thán từ “ôi”: thể hiện cảm xúc nghẹn ngào, xúc động
– từ láy “bát ngát”, “xanh xanh” miêu tả hàng tre với sức sống mạnh mẽ, một màu xanh trải dài, lan xa, bao quanh lăng Bác.
-“Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”: hình ảnh hàng tre mang tính ẩn dụ, là biểu tượng cho nhân dân Việt Nam bất khuất, kiên cường, mạnh mẽ, ngay thẳng, yêu thương, đùm bọc vượt qua khó khăn, thử thách
– hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”: Bác Hồ là mặt trời đem lại ánh sáng tự do, đem lại sự sống cho dân tộc. Cách nói thể hiện lòng kính trọng, ngợi ca công lao to lớn của Bác.
– Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa”: chỉ những người vào lăng viếng Bác kết thành tràng hoa rực rỡ huy hoàng, mỗi người mang một bông hoa của lòng thành kính, sự yêu mến và niềm ngưỡng vọng lãnh tụ
– “bảy mươi chín mùa xuân”:hình ảnh hoán dụ chỉ cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân,đó còn là tuổi thọ của Bác
⇒ Niềm xúc động, thành kính, nhớ thương của nhân dân trước công lao vĩ đại của Bác.
* Ý 3: Niềm xúc động của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác (khổ 3):
– “Giấc ngủ bình yên”: cách nói giảm nói tránh nhằm giảm đi nỗi đau, vừa thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Bác.
– “Vầng trăng sáng dịu hiền”: nhân hóa vầng trăng, một người bạn tri kỉ vẫn xuất hiện trong thơ Người, gợi vẻ đẹp tâm hồn thanh cao của Bác
– “Trời xanh”: ẩn dụ cho sự trường tồn, vĩnh hằng của Bác cùng non sông đất nước
– nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói ở trong tim”: nỗi đau cứ nhức nhối như cắt cứa trong tim mình
⇒ Nỗi tiếc thương hòa lẫn niềm xúc động dâng trào.
*Ý 4. Những tình cảm, cảm xúc lúc ra về (Khổ 4)
– “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”: cảm xúc bộc lộ trực tiếp, lưu luyến không muốn rời xa
– Phép liệt kê, ẩn dụ “con chim, đóa hoa, cây tre” cùng với điệp ngữ “muốn làm”: ước nguyện dâng hiến tha thiết, mãnh liệt, muốn làm một điều gì đó để đáp đền công lao và sự hy sinh to lớn của Bác
– Hình ảnh cây tre được lặp lại tạo kết cấu đầu cuối tương ứng
⇒ ước nguyện của nhà thơ cũng là của tất cả mọi người, của dân tộc ta đối với Bác
3. Kết bài
– Với thể thơ tám chữ, giọng điệu thiết tha, sâu lắng, ngôn ngữ thơ giản dị, giàu tính biểu cảm, biện pháp tu từ phong phú.
– Bài thơ là nén tâm hương hương, niềm xúc động, thành kính, và nỗi đau xót của nhà thơ trước sự ra đi của Bác, ước nguyện là được ở mãi bên Bác, dâng lên Bác bằng tất cả lòng tôn kính và biết ơn…
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
Bài văn tham khảo
Viễn Phương (1928-2005), quê ở An Giang, là một trong những cây bút trẻ của lực lượng giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương thường nhẹ nhàng, tình cảm. Người yêu thơ biết nhiều đến bài “Viếng lăng Bác” của nhà thơ. Thi phẩm thể hiện lòng thành kính của nhà thơ và nhân dân đối với Bác Hồ.
Bài thơ sáng tác tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn Phương ra Bắc thăm Bác. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978.
Mang theo cả nỗi lòng của đồng bào miền Nam ra thăm lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã thốt lên những lời nghẹn ngào, xúc động khi đứng trước lăng Người:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời thơ cất lên tha thiết, trang nghiêm, có lúc dường như dạt dào tuôn chảy, lúc thì như đọng lại trong khoảng khắc suy tư. Cách xưng hô “con – Bác” như trong một gia đình, gần gũi, thân thương mà tôn kính, thể hiện tình cảm sâu nặng, tha thiết của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Động từ “thăm” được sử dụng rất tinh tế và gợi cảm. So với cách viết “viếng lăng Bác” như nhan đề thì cách viết “thăm lăng Bác” đã xoa dịu đi nỗi đau thương mất mát lớn của cả dân tộc. Đồng thời, nhà thơ cũng như muốn khẳng định Bác còn sống mãi, sống trong triệu triệu con tim của người dân Việt Nam. Từ xa, nhà thơ đã nhận thấy hình ảnh hàng tre ẩn hiện trong sương khói Ba Đình lịch sử. Những hàng tre “bát ngát”, “xanh xanh” quanh lăng Chủ tịch nước khiến bất kì ai đến đây cũng không có cảm giác xa lạ, mà sẽ thấy thân quen, gần gũi như bao miền quê trên đất Việt. Hình ảnh hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” cũng là cách nói ẩn dụ cho vẻ đẹp hồn hậu, kiên cường, bất khuất, anh dũng trước gian khổ, khó khăn. Cách sử dụng khéo léo thán từ “Ôi”làm lời thơ cất lên nghe rung động, xốn xang, thể hiện cảm xúc mãnh liệt, tự hào của nhà thơ trước phẩm chất tuyệt đẹp của dân tộc. Và dân tộc anh hùng ấy đã sinh ra một vĩ nhân mà tài năng, tâm hồn có thể sánh ngang cùng nhật nguyệt:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Nếu như mặt trời của tự nhiên có thể đem đến sự sống cho muôn loài thì “mặt trời trong lăng” – Bác Hồ đem đến ánh sáng, sự hồi sinh diệu kì cho cả dân tộc đang phải sống trong bóng đêm nô lệ suốt gần một thế kỉ. Người còn tỏa hơi ấm tình thương tới tất cả mọi người:
“Ôi! Lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Hình ảnh ẩn dụ thể hiện sự tồn tại vĩnh hằng của Bác cùng thiên nhiên, tạo vật. Cách viết cũng ẩn chứa tấm lòng kính yêu vô bờ mà nhà thơ đã dành cho Bác. Cảm xúc ấy càng trào dâng mãnh liệt khi nhà thơ được hòa vào dòng người nặng lòng thương nhớ vào lăng viếng Bác. Giọng thơ tha thiết mà trang trọng, tự nhiên mà sâu lắng:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
“Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo diễn tả tình cảm thương nhớ dâng trào và lòng ngưỡng mộ sâu sắc của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác. Mỗi người vào lăng đều mang theo một bông hoa của lòng thành kính, sự yêu mến và ngưỡng vọng để kết thành những tràng hoa rực rỡ, huy hoàng dâng lên Người. Cách nói hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói thật sáng tạo và ý nghĩa, chỉ cuộc đời của Bác đẹp như những mùa xuân, dó còn là tuổi thọ của Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” vừa chỉ quy luật của thời gian, của tạo hóa, vừa chỉ quy luật của tình cảm. Những dòng người cứ mỗi ngày nối nhau lặng lẽ đi trong niềm nhớ thương vô hạn vào lăng viếng Người. Lời thơ dồn nén nối niềm xúc động thiêng liêng, tâm trạng thiết tha của người con miền Nam dành cho Bác.
Những cung đàn cảm xúc cứ dâng lên khi nhà thơ vào lăng, đứng bên linh cữu của Người:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Chiêm bái, ngưỡng vọng, nhà thơ tưởng như Bác đang chìm vào “giấc ngủ bình yên”. Cách nói làm giảm nhẹ đi nỗi đau thương, mất mát lớn và cũng như khẳng đinh sự trường tồn của Bác trong lòng nhân dân, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng, nâng niu giấc ngủ của Bác. Hình ảnh vầng trăng được nhân hóa trong câu thơ tiếp theo gợi nhắc chúng ta về người bạn tri kỉ xuất hiện trong suốt đời thơ của Bác. Khi Bác còn sống, trăng đến bầu bạn với Người, và giờ khi Bác đã yên nghỉ, trăng chung thủy cũng ở bên, tỏa ánh sáng dịu dàng. Phải chăng trăng cũng là hình ảnh phản chiếu cho tâm hồn thanh cao, trong sạch của Người. Nhưng dù đã tự nói với lòng “cả cuộc đời Bác có ngủ yên đâu”, nay Bác đang “nằm trong giấc ngủ bình yên” thì nhà thơ vẫn có cảm xúc:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Lí trí vẫn biết rằng, Bác như “trời xanh” vẫn sống mãi cùng non sông, đất nước, song tình cảm không thể kìm nén nỗi đau: Bác đã vĩnh viễn ra đi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói ở trong tim” như tiếng khóc nấc lên nghẹn ngào, thể hiện nỗi đau tận cùng sâu thẳm.
Những xúc cảm dâng trào mãnh liệt đã thôi thúc nhà thơ ước nguyện được hóa thân vào thiên nhiên để mãi được ở bên Người:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương (sinh năm 1928), quê An Giang; văn phong của ông thường nhẹ nhàng, tình cảm
– “Viếng lăng Bác” là bài thơ nổi tiếng của ông. Tác phẩm thể hiện lòng thành kính của nhà thơ và nhân dân đối với Bác
2. Thân bài
* Ý 1: Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
– Bài thơ sáng tác tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn Phương ra Bắc thăm Bác. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978
* Ý 2: Niềm xúc động của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác (khổ 1,2)
– “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”: cách xưng hô “con” gợi sự thân mật, nhân dân miền Nam coi Bác như vị cha già của dân tộc.
-“thăm” (chứ không dùng từ “viếng”): nói giảm nói tránh để giảm nhẹ đi nỗi đau, mặc dù Bác đã đi xa nhưng trong tâm trí mỗi người Bác luôn sống mãi
– “hàng tre xanh xanh Việt Nam”: hình ảnh hàng tre thân thuộc, bình dị đối với người dân Việt Nam. Thán từ “ôi”: thể hiện cảm xúc nghẹn ngào, xúc động
– từ láy “bát ngát”, “xanh xanh” miêu tả hàng tre với sức sống mạnh mẽ, một màu xanh trải dài, lan xa, bao quanh lăng Bác.
-“Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”: hình ảnh hàng tre mang tính ẩn dụ, là biểu tượng cho nhân dân Việt Nam bất khuất, kiên cường, mạnh mẽ, ngay thẳng, yêu thương, đùm bọc vượt qua khó khăn, thử thách
– hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”: Bác Hồ là mặt trời đem lại ánh sáng tự do, đem lại sự sống cho dân tộc. Cách nói thể hiện lòng kính trọng, ngợi ca công lao to lớn của Bác.
– Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa”: chỉ những người vào lăng viếng Bác kết thành tràng hoa rực rỡ huy hoàng, mỗi người mang một bông hoa của lòng thành kính, sự yêu mến và niềm ngưỡng vọng lãnh tụ
– “bảy mươi chín mùa xuân”:hình ảnh hoán dụ chỉ cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân,đó còn là tuổi thọ của Bác
⇒ Niềm xúc động, thành kính, nhớ thương của nhân dân trước công lao vĩ đại của Bác.
* Ý 3: Niềm xúc động của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác (khổ 3):
– “Giấc ngủ bình yên”: cách nói giảm nói tránh nhằm giảm đi nỗi đau, vừa thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Bác.
– “Vầng trăng sáng dịu hiền”: nhân hóa vầng trăng, một người bạn tri kỉ vẫn xuất hiện trong thơ Người, gợi vẻ đẹp tâm hồn thanh cao của Bác
– “Trời xanh”: ẩn dụ cho sự trường tồn, vĩnh hằng của Bác cùng non sông đất nước
– nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói ở trong tim”: nỗi đau cứ nhức nhối như cắt cứa trong tim mình
⇒ Nỗi tiếc thương hòa lẫn niềm xúc động dâng trào.
*Ý 4. Những tình cảm, cảm xúc lúc ra về (Khổ 4)
– “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”: cảm xúc bộc lộ trực tiếp, lưu luyến không muốn rời xa
– Phép liệt kê, ẩn dụ “con chim, đóa hoa, cây tre” cùng với điệp ngữ “muốn làm”: ước nguyện dâng hiến tha thiết, mãnh liệt, muốn làm một điều gì đó để đáp đền công lao và sự hy sinh to lớn của Bác
– Hình ảnh cây tre được lặp lại tạo kết cấu đầu cuối tương ứng
⇒ ước nguyện của nhà thơ cũng là của tất cả mọi người, của dân tộc ta đối với Bác
3. Kết bài
– Với thể thơ tám chữ, giọng điệu thiết tha, sâu lắng, ngôn ngữ thơ giản dị, giàu tính biểu cảm, biện pháp tu từ phong phú.
– Bài thơ là nén tâm hương hương, niềm xúc động, thành kính, và nỗi đau xót của nhà thơ trước sự ra đi của Bác, ước nguyện là được ở mãi bên Bác, dâng lên Bác bằng tất cả lòng tôn kính và biết ơn…
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
Bài văn tham khảo
Viễn Phương (1928-2005), quê ở An Giang, là một trong những cây bút trẻ của lực lượng giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương thường nhẹ nhàng, tình cảm. Người yêu thơ biết nhiều đến bài “Viếng lăng Bác” của nhà thơ. Thi phẩm thể hiện lòng thành kính của nhà thơ và nhân dân đối với Bác Hồ.
Bài thơ sáng tác tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn Phương ra Bắc thăm Bác. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978.
Mang theo cả nỗi lòng của đồng bào miền Nam ra thăm lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã thốt lên những lời nghẹn ngào, xúc động khi đứng trước lăng Người:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời thơ cất lên tha thiết, trang nghiêm, có lúc dường như dạt dào tuôn chảy, lúc thì như đọng lại trong khoảng khắc suy tư. Cách xưng hô “con – Bác” như trong một gia đình, gần gũi, thân thương mà tôn kính, thể hiện tình cảm sâu nặng, tha thiết của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Động từ “thăm” được sử dụng rất tinh tế và gợi cảm. So với cách viết “viếng lăng Bác” như nhan đề thì cách viết “thăm lăng Bác” đã xoa dịu đi nỗi đau thương mất mát lớn của cả dân tộc. Đồng thời, nhà thơ cũng như muốn khẳng định Bác còn sống mãi, sống trong triệu triệu con tim của người dân Việt Nam. Từ xa, nhà thơ đã nhận thấy hình ảnh hàng tre ẩn hiện trong sương khói Ba Đình lịch sử. Những hàng tre “bát ngát”, “xanh xanh” quanh lăng Chủ tịch nước khiến bất kì ai đến đây cũng không có cảm giác xa lạ, mà sẽ thấy thân quen, gần gũi như bao miền quê trên đất Việt. Hình ảnh hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” cũng là cách nói ẩn dụ cho vẻ đẹp hồn hậu, kiên cường, bất khuất, anh dũng trước gian khổ, khó khăn. Cách sử dụng khéo léo thán từ “Ôi”làm lời thơ cất lên nghe rung động, xốn xang, thể hiện cảm xúc mãnh liệt, tự hào của nhà thơ trước phẩm chất tuyệt đẹp của dân tộc. Và dân tộc anh hùng ấy đã sinh ra một vĩ nhân mà tài năng, tâm hồn có thể sánh ngang cùng nhật nguyệt:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Nếu như mặt trời của tự nhiên có thể đem đến sự sống cho muôn loài thì “mặt trời trong lăng” – Bác Hồ đem đến ánh sáng, sự hồi sinh diệu kì cho cả dân tộc đang phải sống trong bóng đêm nô lệ suốt gần một thế kỉ. Người còn tỏa hơi ấm tình thương tới tất cả mọi người:
“Ôi! Lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Hình ảnh ẩn dụ thể hiện sự tồn tại vĩnh hằng của Bác cùng thiên nhiên, tạo vật. Cách viết cũng ẩn chứa tấm lòng kính yêu vô bờ mà nhà thơ đã dành cho Bác. Cảm xúc ấy càng trào dâng mãnh liệt khi nhà thơ được hòa vào dòng người nặng lòng thương nhớ vào lăng viếng Bác. Giọng thơ tha thiết mà trang trọng, tự nhiên mà sâu lắng:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
“Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo diễn tả tình cảm thương nhớ dâng trào và lòng ngưỡng mộ sâu sắc của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác. Mỗi người vào lăng đều mang theo một bông hoa của lòng thành kính, sự yêu mến và ngưỡng vọng để kết thành những tràng hoa rực rỡ, huy hoàng dâng lên Người. Cách nói hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói thật sáng tạo và ý nghĩa, chỉ cuộc đời của Bác đẹp như những mùa xuân, dó còn là tuổi thọ của Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” vừa chỉ quy luật của thời gian, của tạo hóa, vừa chỉ quy luật của tình cảm. Những dòng người cứ mỗi ngày nối nhau lặng lẽ đi trong niềm nhớ thương vô hạn vào lăng viếng Người. Lời thơ dồn nén nối niềm xúc động thiêng liêng, tâm trạng thiết tha của người con miền Nam dành cho Bác.
Những cung đàn cảm xúc cứ dâng lên khi nhà thơ vào lăng, đứng bên linh cữu của Người:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Chiêm bái, ngưỡng vọng, nhà thơ tưởng như Bác đang chìm vào “giấc ngủ bình yên”. Cách nói làm giảm nhẹ đi nỗi đau thương, mất mát lớn và cũng như khẳng đinh sự trường tồn của Bác trong lòng nhân dân, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng, nâng niu giấc ngủ của Bác. Hình ảnh vầng trăng được nhân hóa trong câu thơ tiếp theo gợi nhắc chúng ta về người bạn tri kỉ xuất hiện trong suốt đời thơ của Bác. Khi Bác còn sống, trăng đến bầu bạn với Người, và giờ khi Bác đã yên nghỉ, trăng chung thủy cũng ở bên, tỏa ánh sáng dịu dàng. Phải chăng trăng cũng là hình ảnh phản chiếu cho tâm hồn thanh cao, trong sạch của Người. Nhưng dù đã tự nói với lòng “cả cuộc đời Bác có ngủ yên đâu”, nay Bác đang “nằm trong giấc ngủ bình yên” thì nhà thơ vẫn có cảm xúc:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Lí trí vẫn biết rằng, Bác như “trời xanh” vẫn sống mãi cùng non sông, đất nước, song tình cảm không thể kìm nén nỗi đau: Bác đã vĩnh viễn ra đi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói ở trong tim” như tiếng khóc nấc lên nghẹn ngào, thể hiện nỗi đau tận cùng sâu thẳm.
Những xúc cảm dâng trào mãnh liệt đã thôi thúc nhà thơ ước nguyện được hóa thân vào thiên nhiên để mãi được ở bên Người:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là truyện ngắn hay ngợi ca vẻ đẹp cao quý của những con người đang ngày đêm lặng thầm cống hiến cho đất nước.
– trong đó, tiêu biểu phảo kể đến hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu
2. Thân bài
* Ý 1: Giới thiệu chung về nhân vật:
– 27 tuổi, quê: thị xã Lào Cai
– “là người cô độc nhất thế gian” bởi anh sống và làm việc trên đỉnh núi cao Yên Sơn 2600m, rất “thèm người”
– công việc: khí tượng kiêm vật lý địa cầu
-> là chàng thanh niên trẻ tuổi như bao người khác, nhưng có hoàn cảnh sống và công việc thật dặc biệt.
* Ý 2: anh thanh niên trong công việc:
– giới thiệu về công việc ngắn gọn, tỉ mỉ-> hiểu, găn bó, thành thạo công việc
– kể về công việc, lúc 1giờ sáng -> trách nhiệm với công việc
– quan niệm về công việc: “khi làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”
-> yêu công việc, nhận thức được giá trị của lao động
* Ý 3: anh thanh niên trong cuộc sống hằng ngày:
– căn nhà giản dị, đồ đạc đơn sơ nhưng gọn gàng, ngăn nắp
– trồng hoa, nuôi gà, đọc sách
-> anh có nếp sống khoa học,tâm hồn rộng mở, trách nhiệm với bản thân
* Ý 4: anh thanh niên trong mối quan hệ với mọi người:
– biếu vợ bác lái xe củ tam thất khi nghe tin bác gái ốm
– tiếp đón khách niềm nở, nồng hậu, tặng hoa, trứng gà
– khiêm tốn không nhận mình là người có công lao lớn
-> anh là người cởi mở, mến khách, chu đáo
3. Kết bài
– Anh thanh niên là điển hình cho những người lao động mới
– anh là nguồn cảm hứng cho mỗi người phấn đấu, sống có trách nhiệm với bản thân và Tổ quốc
Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên
Bài văn tham khảo
Trong bản nhạc ngân nga nhiều giai điệu có lẽ người ta chỉ để ý đến những thanh âm thánh thót mà ít chú ý đến những nốt trầm ngâm, nhưng chính những nốt nhạc ấy đã góp phần làm nên sự sâu lắng của bản hòa ca. Trong cuộc sống cũng vậy, có những con người ít được xã hội biết đến nhưng đóng góp của họ lại vô cùng ý nghĩa, Nguyễn Thành Long đã dành những trang văn đẹp nhất của mình để viết về họ – những con người bình dị, lặng thầm cống hiến cho đất nước. Và nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là hình mẫu tiêu biểu để lại nhiều xúc cảm lắng đọng trong lòng bạn đọc.
Phần đầu truyện, hình ảnh anh thanh niên – nhân vật chính được phác thảo qua cuộc đối thoại giữa các nhân vật phụ. Với tuổi đời còn rất trẻ, anh không lựa chọn con đường như bao bạn bè khác, mà anh chọn cho mình một lối đi riêng. Anh trở về quê hương, sống và làm việc khí tượng kiên vật lý địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m. Nơi đây quanh năm chỉ có mây mù, giá lạnh bao phủ, không một bóng người. Có lẽ vì thế mà anh được mệnh danh là người “cô độc nhất thế gian” và rất “thèm người”. Một chàng thanh niên bình thường nhưng lại có hoàn cảnh sống và công việc thật khác thường, thật khiến mọi người cảm thấy tò mò muốn tìm hiểu khám phá con người anh.
Những trang văn tiếp theo, Nguyễn Thành Long đã hé lộ với bạn đọc về công việc đặc biệt của anh thanh niên. Nhà văn đã để anh tự nói về công việc của mình vỏn vẹn trong vài phút ngắn ngủi. Qua cách nói chuyện cởi mở, chân tình, ta hiểu hơn về công việc nhiều gian khổ và hy sinh lặng thầm ấy: “Công việc nói chung cũng dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn nghe chuông đồng hồ chỉ muốn tắt đi…Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng yên ở bên ngoài như chỉ trực đợi mình ra là ào xô tới”. Anh đã không nằm cuộn tròn trong chăn ấm, tự nghĩ ra những con số và báo về trung tâm. Bản lĩnh, trung thực đã làm cho cong việc của anh không chậm trễ hay sai sót một lần nào. Sống trong hoàn cảnh như vậy, người ta thấy anh là người cô độc nhất thế gian nhưng anh lại có quan niệm thật khác: “khi làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”. Suy nghĩ tích cực ấy thực chất bắt nguồn từ ý thức trách nhiệm với công việc và tình yêu nghề, nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong hệ thống công việc chung của cả tập thể. Và dẫu công việc gian khổ nhưng anh vẫn tâm sự “cất nó đi cháu buồn chết mất”. Có phải chăng anh đang muốn tỏ bày công việc với mình chính là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mình. Và quả thật niềm hạnh phúc ấy được nhân lên gấp bội khi anh biết được công việc của mình đã giúp được không quân của ta hạ được phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng. Chiến thắng ấy trở thành động lực để anh say mê hơn với công việc anh đang làm.
Không chỉ đam mê, ý thức trách nhiệm với công việc, từ chàng thanh niên này còn tỏa ra rực rỡ một khát vọng sống đẹp, sống có ích. Điều thú vị khi khách đến bất ngờ, ông họa sĩ đã nghĩ “chắc cu cậu chưa kịp quét tước, dọn dẹp”. Nhưng không! Cách sống cuả anh không buông thả mà rất gọn gàng, giản dị. Ngôi nhà nhỏ đơn sơ mà ngăn nắp. Một nếp sống nề nếp: ăn, ngủ, làm việc, đọc sách, trồng hoa. Cách sống không bắt nguồn từ ham muốn giả tạo mà hình thành từ bản chất tâm hồn đẹp. Tất cả việc làm đó làm anh thêm vui vẻ và hiểu biết. Một vườn hoa với đủ các loại hoa đang rực khoe sắc thắm. Ấy là hoa của đất hay là hoa của lòng anh? Và anh đã hào phóng tặng nó cho tất cả mọi người.
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– “Quiet Sa Pa” by Nguyen Thanh Long is a great short story praising the noble beauty of people who are quietly contributing to the country day and night.
- Among them, a typical example is the image of a young man working in meteorology and geophysics
2. Body of the article
* Idea 1: General introduction about the character:
– 27 years old, hometown: Lao Cai town
– "is the loneliest person in the world" because he lives and works on the 2600m high mountain Yen Son, very "craving people"
– job: meteorology and geophysics
-> is a young man like many others, but has a very special life and work situation.
* Idea 2: young man at work:
– introduce the job briefly and meticulously -> understand, stick to, and master the job
– talking about work, at 1am -> responsibility for work
- concept of work: "when working, we and the work are a couple, how can we call ourselves alone"
-> love work, realize the value of labor
* Idea 3: young man in everyday life:
– simple house, simple furniture but neat and tidy
– grow flowers, raise chickens, read books
-> He has a scientific lifestyle, an open mind, and responsibility for himself
* Idea 4: young man in his relationship with people:
– Presented to the driver's wife of the Panax notoginseng when she heard the news that she was sick
– Welcoming guests warmly and warmly, giving flowers and eggs
– Humility does not admit that he is a person of great merit
-> he is an open, hospitable, thoughtful person
3. Conclusion
– The young man is typical of new workers
– He is an inspiration for everyone to strive and live responsibly towards themselves and the Fatherland
Feelings about the young man's character
Reference article
In a song with many melodies, people may only pay attention to the sweet sounds and pay little attention to the pensive notes, but it is those notes that contribute to the depth of the harmony. In life, too, there are people who are little known to society but whose contributions are extremely meaningful. Nguyen Thanh Long spent his most beautiful pages writing about them - simple people, Quietly contributing to the country. And the character of a young man in the short story "Quiet Sa Pa" is a typical model that leaves many emotions in the hearts of readers.
In the beginning of the story, the image of the young man - the main character - is outlined through the dialogue between the supporting characters. At a very young age, he did not choose the same path as many other friends, but he chose his own path. He returned to his hometown, lived and worked in meteorology and geophysics on the 2600m high Yen Son mountain. All year round this place is covered in clouds, cold, and not a single person in sight. Perhaps that is why he is known as the "loneliest person in the world" and is very "craving people". A normal young man but with a very unusual life and work situation, it makes people feel curious to learn about him.
In the following pages, Nguyen Thanh Long revealed to readers about the young man's special job. The writer let him talk about his work for just a few short minutes. Through open and sincere conversation, we understand more about the arduous work and silent sacrifices: "Work in general is easy, just need to be accurate. The most difficult part was recording and reporting at 1:00 a.m. Cold, uncle. There's even snow here. In the middle of the night, lying under the blanket, I heard the clock ringing and just wanted to turn it off... I took the lamp out to the garden, the snowy wind and silence outside seemed to rush in just waiting for me to come out." He did not lie curled up in a warm blanket, come up with numbers and report them to the center. Bravery and honesty have made it possible for him to do his work without a single delay or error. Living in such a situation, people see him as the loneliest person in the world, but he has a very different opinion: "when working, you and your work are a couple, how can you call it alone?" That positive thinking actually stems from a sense of responsibility for work and love for the profession, awareness of one's role and responsibility in the collective work system. And even though the work was arduous, he still confided, "If I take it away, I will die of sadness." Is he trying to show that his work is his source of life, his source of happiness? And indeed that happiness was multiplied when he learned that his work had helped our air force defeat American jets on Ham Rong Bridge. That victory became the motivation for him to be more passionate about the work he is doing.
Not only is he passionate and responsible for his work, this young man also radiates a desire to live a beautiful and useful life. What's interesting is that when guests arrived unexpectedly, the artist thought, "Maybe he hasn't had time to sweep or clean up yet." But not! His way of life is not indulgent but very neat and simple. The small house is simple but tidy. A disciplined lifestyle: eat, sleep, work, read books, grow flowers. A way of life that does not originate from false desires but is formed from the nature of a beautiful soul. All of that made him happier and more knowledgeable. A flower garden with all kinds of blooming flowers. Is it the flower of the earth or the flower of your heart? And he generously gave it to everyone.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả chân dung mà còn trong tả cảnh sắc thiên nhiên. Sau bức tranh chân dung hai nàng tố nga diễm lệ là bức tranh tả cảnh ngày xuân trong tháng ba tuyệt vời.
– Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên trong trẻo và lễ hội nhộn nhịp trong những ngày đầu xuân.
2. Thân bài
Ý 1.Bức tranh thiên nhiên mùa xuân
– Hình ảnh, màu sắc, đường nét:
+ Chim én đưa thoi
+ Thiều quang: ánh sáng ngày xuân
+ Cỏ non xanh – cành lê trắng điểm..
=> Bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình : cảnh mùa xuân được khắc họa qua cái nhìn của nhân vật đang đứng trước ngưỡng cửa của tình yêu hiện ra mới mẻ, tinh khôi và tràn đầy sức sống
Ý 2.Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh:
– Lễ tảo mộ: dọn dẹp, sửa sang phần mộ của người thân, thắp hương…
– Hội đạp thanh: chơi xuân ở chốn đồng quê
– Các từ ghép:
+ Gần xa, nô nức (Tính từ) -> tâm trạng náo nức
+ Yến anh, tài tử, giai nhân (Danh từ): gợi sự đông vui náo nhiệt
+ Sắm sửa, dập dìu (Động từ): không khí rộn ràng, nhộn nhịp
=> Dùng các từ ghép liên tiếp, từ Hán Việt, từ láy, phép ẩn dụ: Quang cảnh hội mùa xuân rộn ràng, náo nức, vui tươi cùng những nghi thức trang nghiêm mang tính chất truyền thống của người Việt tưởng nhớ đến người đã khuất .
Ý 3. Cảnh chị em Kiều du xuân trở về:
– Bóng ngả về tây: Thời gian, không gian thay đổi
– Tà tà, thanh thanh, nao nao, thơ thẩn-> từ láy
=> Tâm trạng người bâng khuâng, lưu luyến về một ngày vui xuân đã hết.
3. Kết bài
– Sử dụng ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, diễn tả tinh tế tâm trạng nhân vật
– Miêu tả theo trình tự thời gian cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều
– “Cảnh ngày xuân” là đoạn trích miêu tả bức tranh mùa xuân tươi đẹp qua ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật giàu chất tạo hình của Nguyễn Du
Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân
Bài văn tham khảo
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả chân dung mà còn rất tài năng trong tả cảnh sắc thiên nhiên. Sau bức tranh chân dung hai nàng tố nga diễm lệ là bức tranh tả cảnh ngày xuân trong tháng ba tuyệt vời. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh thiên nhiên trong trẻo và lễ hội nhộn nhịp trong những ngày đầu năm.
Những dòng thơ đầu tiên là những nét vẽ dành cho thiên nhiên thanh tân, trong trẻo:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Có thể thấy cách miêu tả thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du vẫn mang phong cách ỏn định, là cách miêu tả thiên nhiên chuẩn mực trong thơ cổ: chấm phá điểm nhãn, gợi nhiều hơn tả. Song trong cách tả ấy vẫn có những sự sang tạo độc đáo riêng có làm nên phong cách riêng của Nguyễn Du, điều này khiến bạn đọc luôn cảm nhận được những điều mới mẻ ở nhà thơ. Ấy là cách tính thời gian khá độc đáo:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Câu thơ mang ý nghĩa: những ngày tháng mùa xuân trôi qua thật nhanh tựa như chim én bay, tựa như con thoi đưa trong khung cửi. Ánh sáng mùa xuân có chin chục ngày (ý nói mùa xuân kéo dài ba tháng) thì giờ đã được hơn hai tháng (ngoài sáu mươi). Dùng ánh sáng để đo thời gian thì có lẽ trước giờ chỉ Nguyễn Du làm được. Không chỉ vậy, câu thơ còn đem đến những tín hiệu của mùa xuân khiến lòng người nao nức: “chim én”, “thiều quang”. Những cánh chim chao liệng trong ánh nắng mùa xuân ấm áp, dịu dàng gợi lên sức sống căng tràn, viên mãn. Việc miêu tả thời gian trôi qua nhanh chóng cũng như tỏ ý nuối tiếc mùa xuân. Không tiếc sao được khi sắc xuân đang ngập tràn cả đất trời.
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Sức sống của đất trời hiển hiện căng đầy trong màu cỏ xanh non đang trải dài mênh mông, bất tận. Vẻ đẹp tinh khôi của sự trẻ trung, tươi mới, tượng trưng cho sắc xuân cũng đang hiện hữu trên màu trắng tinh khiết của những bông hoa lê.
Một vài nhánh cây mảnh mai, điểm xuyết những cánh hoa trắng mỏng manh trên nền cỏ xanh non mơn mởn. Vẫn là cách chấm phá điểm nhãn quen thuộc trong việc miêu tả thiên nhiên trong thơ cổ, nhưng qua bàn tay tài hoa của Nguyễn Du, cả sức xuân và sắc xuân vẫn cứ căng tràn, sống động bởi các nhãn tự “tận”, “điểm” kết hợp đảo ngữ “trắng điểm một vài bông hoa” khiến bức tranh xuân thêm sinh động, có hồn mà không tĩnh tại, nhàm chán, và như muốn làm tôn nổi sắc trắng tinh khiết của những cánh hoa xuân. Có thể nói, hai câu đầu tả thời gian, hai câu sau tả không gian đều rất tinh tê, lời ít, ý nhiều, ngôn từ chọn lọc tinh tế. Vì thế, bức tranh thiên nhiên mùa xuân đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc ngay từ những dòng đầu tiên.
Xuân đến trong đất trời và xuân cũng bước vào trong lòng người. Mọi người nô nức đi trảy hội mùa xuân trong không khí tưng bừng, rộn rã:
“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
Một lễ hội nhắc nhớ về truyền thống đáng tự hào của người Việt: “Uống nước nhớ nguồn”. “Lễ tảo mộ” là hoạt động tưởng nhớ tới những người đã khuất, nhớ đến ông bà, tổ tiên, những người đã có công sinh thành dưỡng dục, tạo nên những điều tốt đẹp cho các thế hệ sau. Những ngày đầu năm mới, người Việt đi thăm, sửa sang lại phần mộ của tổ tiên, người thân đã khuất và ước mong những điều bình an, may mắn sẽ đến trong năm tới. Còn “hội đạp thanh” là cuộc vui chơi, du xuân của những trai tài, gái sắc trên đồng cỏ xanh. Tại lễ hội ấy, họ tìm kiếm những niềm vui tuổi trẻ, hay cũng có thể là mối lương duyên:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân”
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Từ láy ” nô nức”, ” dập dìu” ” sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, “giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” ” gần xa”, ” yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước. Họ đều là những chàng trai, cô gái trẻ đẹp mang trong mình ước vọng của mùa xuân, biết bao náo nức, biết bao hồ hởi, biết bao mong chờ.
Trong đoàn người trảy hội như từng đàn chim én từ khắp nơi bay về hội tụ, khoe sắc, ta nhận ra không chỉ có niềm vui ngập tràn, mà còn có niềm tưởng nhớ, tri ân những người đã khuất. Một phong tục đẹp của người Việt cổ được Nguyễn Du khéo léo miêu tả qua những vần thơ xuân:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Vàng mã hóa cho người đã khuất như thể hiện niềm thương, nỗi nhớ và ước nguyện của những người ở lại mong cho những người thân đã khuất được an nghỉ, siêu độ. Đặt trong không khí căng đầy sức sống vui tươi của mùa xuân, câu thơ trên có phảng phất hương buồn. Phải chăng đó là nén tâm hương của đại thi hào dân tộc dành cho những người đã khuất. Tình cảm ấy thật chân thành, thánh thiện, đầy ắp nghĩa tình.
Nếu như những dòng thơ trên khắc họa khung cảnh tươi vui, rộn ràng thì những dòng thơ cuối như nhịp đi chậm rãi của chiều tà và là bước chân lưu luyến của chị em Thúy Kiều.
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả chân dung mà còn trong tả cảnh sắc thiên nhiên. Sau bức tranh chân dung hai nàng tố nga diễm lệ là bức tranh tả cảnh ngày xuân trong tháng ba tuyệt vời.
– Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên trong trẻo và lễ hội nhộn nhịp trong những ngày đầu xuân.
2. Thân bài
Ý 1.Bức tranh thiên nhiên mùa xuân
– Hình ảnh, màu sắc, đường nét:
+ Chim én đưa thoi
+ Thiều quang: ánh sáng ngày xuân
+ Cỏ non xanh – cành lê trắng điểm..
=> Bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình : cảnh mùa xuân được khắc họa qua cái nhìn của nhân vật đang đứng trước ngưỡng cửa của tình yêu hiện ra mới mẻ, tinh khôi và tràn đầy sức sống
Ý 2.Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh:
– Lễ tảo mộ: dọn dẹp, sửa sang phần mộ của người thân, thắp hương…
– Hội đạp thanh: chơi xuân ở chốn đồng quê
– Các từ ghép:
+ Gần xa, nô nức (Tính từ) -> tâm trạng náo nức
+ Yến anh, tài tử, giai nhân (Danh từ): gợi sự đông vui náo nhiệt
+ Sắm sửa, dập dìu (Động từ): không khí rộn ràng, nhộn nhịp
=> Dùng các từ ghép liên tiếp, từ Hán Việt, từ láy, phép ẩn dụ: Quang cảnh hội mùa xuân rộn ràng, náo nức, vui tươi cùng những nghi thức trang nghiêm mang tính chất truyền thống của người Việt tưởng nhớ đến người đã khuất .
Ý 3. Cảnh chị em Kiều du xuân trở về:
– Bóng ngả về tây: Thời gian, không gian thay đổi
– Tà tà, thanh thanh, nao nao, thơ thẩn-> từ láy
=> Tâm trạng người bâng khuâng, lưu luyến về một ngày vui xuân đã hết.
3. Kết bài
– Sử dụng ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, diễn tả tinh tế tâm trạng nhân vật
– Miêu tả theo trình tự thời gian cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều
– “Cảnh ngày xuân” là đoạn trích miêu tả bức tranh mùa xuân tươi đẹp qua ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật giàu chất tạo hình của Nguyễn Du
Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân
Bài văn tham khảo
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả chân dung mà còn rất tài năng trong tả cảnh sắc thiên nhiên. Sau bức tranh chân dung hai nàng tố nga diễm lệ là bức tranh tả cảnh ngày xuân trong tháng ba tuyệt vời. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh thiên nhiên trong trẻo và lễ hội nhộn nhịp trong những ngày đầu năm.
Những dòng thơ đầu tiên là những nét vẽ dành cho thiên nhiên thanh tân, trong trẻo:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Có thể thấy cách miêu tả thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du vẫn mang phong cách ỏn định, là cách miêu tả thiên nhiên chuẩn mực trong thơ cổ: chấm phá điểm nhãn, gợi nhiều hơn tả. Song trong cách tả ấy vẫn có những sự sang tạo độc đáo riêng có làm nên phong cách riêng của Nguyễn Du, điều này khiến bạn đọc luôn cảm nhận được những điều mới mẻ ở nhà thơ. Ấy là cách tính thời gian khá độc đáo:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Câu thơ mang ý nghĩa: những ngày tháng mùa xuân trôi qua thật nhanh tựa như chim én bay, tựa như con thoi đưa trong khung cửi. Ánh sáng mùa xuân có chin chục ngày (ý nói mùa xuân kéo dài ba tháng) thì giờ đã được hơn hai tháng (ngoài sáu mươi). Dùng ánh sáng để đo thời gian thì có lẽ trước giờ chỉ Nguyễn Du làm được. Không chỉ vậy, câu thơ còn đem đến những tín hiệu của mùa xuân khiến lòng người nao nức: “chim én”, “thiều quang”. Những cánh chim chao liệng trong ánh nắng mùa xuân ấm áp, dịu dàng gợi lên sức sống căng tràn, viên mãn. Việc miêu tả thời gian trôi qua nhanh chóng cũng như tỏ ý nuối tiếc mùa xuân. Không tiếc sao được khi sắc xuân đang ngập tràn cả đất trời.
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Sức sống của đất trời hiển hiện căng đầy trong màu cỏ xanh non đang trải dài mênh mông, bất tận. Vẻ đẹp tinh khôi của sự trẻ trung, tươi mới, tượng trưng cho sắc xuân cũng đang hiện hữu trên màu trắng tinh khiết của những bông hoa lê.
Một vài nhánh cây mảnh mai, điểm xuyết những cánh hoa trắng mỏng manh trên nền cỏ xanh non mơn mởn. Vẫn là cách chấm phá điểm nhãn quen thuộc trong việc miêu tả thiên nhiên trong thơ cổ, nhưng qua bàn tay tài hoa của Nguyễn Du, cả sức xuân và sắc xuân vẫn cứ căng tràn, sống động bởi các nhãn tự “tận”, “điểm” kết hợp đảo ngữ “trắng điểm một vài bông hoa” khiến bức tranh xuân thêm sinh động, có hồn mà không tĩnh tại, nhàm chán, và như muốn làm tôn nổi sắc trắng tinh khiết của những cánh hoa xuân. Có thể nói, hai câu đầu tả thời gian, hai câu sau tả không gian đều rất tinh tê, lời ít, ý nhiều, ngôn từ chọn lọc tinh tế. Vì thế, bức tranh thiên nhiên mùa xuân đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc ngay từ những dòng đầu tiên.
Xuân đến trong đất trời và xuân cũng bước vào trong lòng người. Mọi người nô nức đi trảy hội mùa xuân trong không khí tưng bừng, rộn rã:
“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
Một lễ hội nhắc nhớ về truyền thống đáng tự hào của người Việt: “Uống nước nhớ nguồn”. “Lễ tảo mộ” là hoạt động tưởng nhớ tới những người đã khuất, nhớ đến ông bà, tổ tiên, những người đã có công sinh thành dưỡng dục, tạo nên những điều tốt đẹp cho các thế hệ sau. Những ngày đầu năm mới, người Việt đi thăm, sửa sang lại phần mộ của tổ tiên, người thân đã khuất và ước mong những điều bình an, may mắn sẽ đến trong năm tới. Còn “hội đạp thanh” là cuộc vui chơi, du xuân của những trai tài, gái sắc trên đồng cỏ xanh. Tại lễ hội ấy, họ tìm kiếm những niềm vui tuổi trẻ, hay cũng có thể là mối lương duyên:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân”
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Từ láy ” nô nức”, ” dập dìu” ” sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, “giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” ” gần xa”, ” yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước. Họ đều là những chàng trai, cô gái trẻ đẹp mang trong mình ước vọng của mùa xuân, biết bao náo nức, biết bao hồ hởi, biết bao mong chờ.
Trong đoàn người trảy hội như từng đàn chim én từ khắp nơi bay về hội tụ, khoe sắc, ta nhận ra không chỉ có niềm vui ngập tràn, mà còn có niềm tưởng nhớ, tri ân những người đã khuất. Một phong tục đẹp của người Việt cổ được Nguyễn Du khéo léo miêu tả qua những vần thơ xuân:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Vàng mã hóa cho người đã khuất như thể hiện niềm thương, nỗi nhớ và ước nguyện của những người ở lại mong cho những người thân đã khuất được an nghỉ, siêu độ. Đặt trong không khí căng đầy sức sống vui tươi của mùa xuân, câu thơ trên có phảng phất hương buồn. Phải chăng đó là nén tâm hương của đại thi hào dân tộc dành cho những người đã khuất. Tình cảm ấy thật chân thành, thánh thiện, đầy ắp nghĩa tình.
Nếu như những dòng thơ trên khắc họa khung cảnh tươi vui, rộn ràng thì những dòng thơ cuối như nhịp đi chậm rãi của chiều tà và là bước chân lưu luyến của chị em Thúy Kiều.
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
|
Dàn ý chi tiết
A. Mở bài
– “ Hoàng Lê nhất thống chí” (Ngô Gia văn phái) là tiểu thuyết chương hồi dựng lại một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Tác phẩm đạt được nhiều thành tựu xuất sắc trên bình diện nghệ thuật, nội dung.
– Hồi thứ 14 đã xây dựng hình tượng vua Quang Trung thật hào hùng cùng sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh, và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
B. Thân bài
1. Hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung quả cảm, mạnh mẽ, trí tuệ và nhạy bén
Một người hành động mạnh mẽ, quyết đoán
– Tham khảo ý kiến quần thần, làm lễ tế trời, lên ngôi hoàng đế
– Nghe tin giặc chiếm Thăng Long mà không hề nao núng, hành quân thần tốc. Hai người khiêng võng một người thay nhau đi suốt đêm.
– Trong vòng hơn tháng, làm được rất nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi và thân chinh cầm quân ra Bắc
Một con người có trí tuệ sáng suốt, có tài chính trị, quân sự, ngoại giao.
– Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong việc nhận định tình hình địch và ta
– Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong xét đoán bề tôi:
Một con người có tầm nhìn xa trông rộng và tài thao lược hơn người
-Tầm nhìn xa trông rộng:
– Tài thao lược hơn người: quân đi thần tốc mà vẫn giữ vững kỉ cương, chỉ huy trận đánh hào hùng, khí thế áp đảo kẻ thù
2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
– Hình ảnh Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, chủ quan, không phòng ngự thành Thăng Long ⇒ Tướng bất tài
Số phận thảm bại của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân
⇒ Kết cục tất yếu cho một người đứng đầu đất nước nhưng lại bán nước hại dân
III. Kết bài
– Với cách kể chuyện chân thực, sinh động, khắc họa nhân vật rõ nét qua việc miêu tả hành động, ngôn ngữ, cử chỉ, tác giả đã làm nổi bật chân dung từng nhân vật mang đặc điểm cá tính riêng biệt
– Liên hệ bài học cho bản thân về lòng yêu nước và tự hào dân tộc
Phân tích Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí
Bài văn tham khảo
Nhắc đến tiểu thuyết lịch sử, nếu như người Trung Quốc tự hào về “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung thì người Việt Nam cũng có quyền tự hào về “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia văn phái. Tác phẩm ghi lại một cách chân thực, sinh động một thời kì lịch sử của nước nhà. Trong đó, hồi thứ mười bốn là kết tinh đặc sắc về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Thành công ấy đã ghi dấu ấn vào lòng bạn đọc về hình tượng người anh hùng oai phong, lẫm liệt: Quang Trung, và bộ dạng thảm bại của bè lũ bán nước và cướp nước.
Vào khoảng những năm cuối thế kỉ XVIII, Lê Chiêu Thống kéo theo 29 vạn quân Thanh do Tôn Sỹ Nghị cầm đầu sang giày xéo nước ta. Khi Tôn Sỹ Nghị chiếm đóng thành Thăng Long, Ngô Văn Sở đã rút quân vê Tam Điệp để phòng ngự.
Trong tình hình đất nước đen tối như vậy, Nguyễn Huệ như một vì sao sáng chói quét qua màm đêm đen đặc. Ngài lên ngôi hoàng đế , “tế cáo đất trời cùng non sông, thần núi”, rồi thân chinh ra Bắc, vừa đi vừa tuyển chọn những chiến binh tinh nhuệ, có tinh thần yêu nước, dám xả thân vì giang sơn gấm vóc.
Quyết đoán, bản lĩnh và vô cùng mạnh mẽ, ngày 30 tháng 1, hoàng đế Quang Trung mở tiệc thiết đãi toàn quân, dự tính này mùng bảy thì tiến đánh vào thành để mở tiệc khao quân. Tài tính toán của nhà vua thật khiến mọi người nể phục.
Lúc xung trận, hình ảnh nhà vua hiện lên với tư thế oai phong, lẫm liệt, hào hùng. Vừa thấy bóng dáng hoàng đế, quân Thanhđã kinh hồn bạt vía, bỏ chạy tán loạn. Bị quan ta truy đuổi, bao vây, lũ giặc “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”. Trên đà chiến thắng, nhà vua đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm làm một, lấy rơm nước phủ lại, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, cùng với đó là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến vào Ngọc Hồi.
Trước tình thế đó, kẻ thù cố gắng chống cự nhưng vô ích. Chúng dùng những súng ống phun khói làm cho quân ta hoảng loạn nhưng nào ngờ lại tự “gậy ông đập lưng ông” chuốc vạ và thân .Lập tức, Nguyễn Huệ đã sai đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất, lấy dao ngắn mà chém. Trận chiến kết thúc với hình ảnh “quân Thanh thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Hoàng đế Quang Trung cưỡi voi vào thành Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu.
|
Detailed outline
A. Open the lesson
– “Hoang Le Nhat Thong Chi” (Ngo Gia van sect) is a chapter novel that reconstructs a period of the nation's history. The work achieved many outstanding achievements in terms of art and content.
– The 14th chapter built the heroic image of King Quang Trung along with the defeat of the Qing Dynasty generals, and the tragic fate of my king Le Chieu Thong.
B. Body of the article
1. The image of the brave, strong, intellectual and sensitive hero Quang Trung
A person who acts strongly and decisively
– Consult with the courtiers, make offerings to heaven, and ascend to the throne as emperor
– Hearing the news that the enemy occupied Thang Long, he did not flinch and marched quickly. Two people carry the hammock, one takes turns throughout the night.
– Within more than a month, he accomplished many great things: "making offerings to heaven and earth", ascending the throne and personally leading the army to the North.
A person with bright intelligence, political, military, and diplomatic talent.
– Bright and sharp intelligence in assessing the situation of the enemy and us
– Bright and sharp intelligence in judging servants:
A man with far-sightedness and strategic talent beyond others
-Far-sighted vision:
– More talented and strategic than others: troops move quickly but still maintain discipline, command heroic battles, and have a spirit that overwhelms the enemy
2. The defeat of the Qing Dynasty generals
– Image of Ton Si Nghi being arrogant, subjective, not defending Thang Long citadel ⇒ Incompetent general
The tragic fate of King Le Chieu Thong and his followers betrayed the country and harmed the people
⇒ The inevitable outcome for a person who leads the country but sells the country to the detriment of the people
III. End
– With realistic, vivid storytelling, clearly portraying characters through descriptions of actions, language, and gestures, the author has highlighted the portraits of each character with unique personality characteristics.
– Relate lessons for yourself about patriotism and national pride
Analysis of Chapter Fourteen of Hoang Le Nhat Thong Chi
Reference article
Speaking of historical novels, if Chinese people are proud of "Romance of the Three Kingdoms" by La Guanzhong, then Vietnamese people also have the right to be proud of "Hoang Le Nhat Thong Chi" of Ngo Gia literary school. The work realistically and vividly records a period of the country's history. In particular, the fourteenth episode is a unique crystallization of both content and artistic form. That success left a mark in the hearts of readers about the image of the majestic and fierce hero: Quang Trung, and the tragic appearance of the gang of traitors and robbers.
In the late 18th century, Le Chieu Thong led 290,000 Qing troops led by Ton Sy Nghi to trample our country. When Ton Sy Nghi occupied Thang Long citadel, Ngo Van So withdrew his troops to Tam Diep for defense.
In such a dark country situation, Nguyen Hue is like a bright star sweeping through the dark night. He ascended the throne as emperor, "offering sacrifices to the earth, sky, rivers, and mountains", then personally headed to the North, recruiting elite warriors with a patriotic spirit and daring to sacrifice their lives for the noble country. .
Decisive, brave and extremely strong, on January 30, Emperor Quang Trung held a banquet for the entire army. He planned to attack the city on the seventh day to hold a banquet to welcome the army. The king's calculating skills truly made everyone admire him.
During battle, the image of the king appears with a majestic, fierce, and heroic posture. As soon as they saw the emperor's silhouette, the Qing army was terrified and fled in disarray. Being chased and surrounded by our officials, the enemy "everyone was scared, immediately asked to surrender, food and weapons were all taken by the Southern army". On the verge of victory, the king ordered his troops to take sixty boards, join three of them into one, cover them with water straw, one for every ten people, with short knives on their backs, along with twenty people holding weapons. arranged into the word "first" to enter Ngoc Hoi.
Faced with that situation, the enemy tried to resist but in vain. They used smoke-spewing guns to make our troops panic, but they did not expect that they would "break their own backs" and bring trouble to themselves. Immediately, Nguyen Hue ordered the army to carry planks to cover them and rush straight forward. When swords and spears touch each other, throw the board on the ground and use a short knife to slash. The battle ended with the image of "Qing army corpses lying in heaps, blood flowing into streams, Qing army defeated". Emperor Quang Trung rode an elephant into Thang Long citadel to liberate the entire nation at noon on the 5th day of the Year of the Rooster.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Phạm Đình Hổ sống ở cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Đó là thời kì chế độ xã hội phong kiến khủng hoảng trầm trọng, vì thế thơ văn của ông chủ yếu kí thác tâm sự của nho sĩ sinh bất phùng thời
– “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là mọt trong 88 truyện xuất sắc trong “Vũ trung tùy bút” ghi lại cảnh sống xa hoa, vô độ của Chúa Trịnh và bọn quan lại, đồng thời tác phẩm cũng phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân.
2. Thân bài
Thói ăn chơi hưởng lạc sa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm
+ xây dựng nhiều cung điện, đền đài để thỏa chí “thích chơi đèn đuốc”. Nhân dân khổ cực, hao tốn tiền của
+ Thường xuyên tổ chức yến tiệc, vui chơi xa hoa phung phí
+ truy lùng vật “phụng thủ” bằng cách cướp đoạt những vật quý trong nhân dân
⇒ Chúa ăn chơi xa xỉ, không lo chăn dân, mà còn áp bức, bóc lột nhân dân
Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền
+ bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa rất được sủng ái, bởi chúng có thể giúp chúa đắc lực trong việc bày các trò ăn chơi, hưởng lạc. Do thế, chúng cũng ỷ thế nhà chúa mà hoành hành, tác oai, tác quái trong nhân dân.
+ Chúng ra sức hoành hành trấn lột khắp nơi trong thành tìm trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch về trang trí cho phủ chúa : “bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy” “trong phủ, tuỳ chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ, trông như bến bể đầu non“.
+ Bọn quan lại thường “mượn gió bẻ măng, ngoài dọa dẫm“, vừa cướp được của quý dâng chúa để được ban khen, vừa lột được tiền của dân
+ bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi cây quý trong vườn nhà mình để tránh tai vạ. Sự thật này càng làm tăng sức tố cáo của tác phẩm.
⇒ Qua đây, bạn đọc thấy căm phẫn trước thói tham tàn độc ác của nhà chúa và lũ quan lại dưới quyền
3. Kết bài
– Cách ghi chép hết sức chi tiết, chân thực, dẫn chứng chọn lọc, tiêu biểu, cảm xúc trầm lắng mà ẩn chứa thái độ phê bình kín đáo
– Bức tranh xã hội được dựng lại sinh động: chúa ăn chơi vô độ, thần nịnh hót tham lam, dân đói khổ cùng cực, ai oán. Xã hội ấy đang trên đà mục ruỗng, suy vong
Phân tích tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
Bài văn tham khảo
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở tinh Hải Dương. Thời đại ông sống là thời thời kì xã hội phong kiến đang trên đà mục ruỗng, thối nát. Vì vậy, qua các tác phẩm của mình, ông thường kí thác tâm sự của nho sĩ sinh bất phùng thời. Trong số các tác phẩm đặc sắc, không thể không nhắc đến “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” trích “Vũ trung tùy bút”. Tùy bút này ghi lại cảnh sống xa hoa, vô độ của Chúa Trịnh và bọn quan lại, đồng thời tác phẩm cũng phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân.
Lúc mới đăng cơ, Trịnh Sâm tỏ ra là bậc minh chúa với trí thông minh thiên phú, quyết đoán, bản lĩnh hơn người, nhưng khi đã yên vị, y lại đắm chìm trong tửu sắc, ăn chơi sa đọa. Mỗi tháng đều đặn ba đến bốn lần, nhà Chúa xa giá tới cung Thụy Liên bên Hồ Tây. Binh lính, quan lại có mặt đông đủ, khung cảnh buôn bán diễn ra vô cùng tấp nập, nhộn nhịp. Niềm vui với nhà chúa như vậy có lẽ chưa thỏa, nên chúa liên tục cho xây dựng đền đài, lăng tẩm ở các nơi để được mặc sức vui chơi, hưởng lạc. Chính việc xây dựng những hành cung xa hoa, lộng lẫy tốn kém làm nhân dân lâm vào tình cảnh khốn khổ vô cùng. Lòng dân đã oán hận ngút trời, còn Chúa Trịnh vẫn chìm đắm trong tửu sắc, đàn hát, u mê.
Là bá chủ thiên hạ nên Chúa Trịnh cũng muốn mọi tuyệt phẩm trong nhân gian đều là của Chúa. Nhân cơ hội này, bọn cận thần cũng tranh thủ vừa lấy lòng Chúa, vừa vơ vét vào túi riêng. Nào là trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chúng đều mặc sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi để di dời cả cây đa to, cành lá um tùm, rễ dài đến vài trượng từ bên bắc chở qua song đem về, cả một cơ binh được huy động. Cả những khu vườn lộng lẫy, chất đầy đồ vật, cây cối, chim muông quý hiếm trong thiên hạ, nhưng âm thanh phát ra từ đó lại gây cảm giác ghê rợn, gai người. Đó như điềm gở, báo hiệu nguy cơ diệt vong của triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, mà không quan tâm đến đời sống nhân dân.
Người xưa nói: “Ông chủ nào thì đầy tớ nấy”, bọn hoạn quan dưới quyền cũng ỷ thế cậy quyền mà tác oai, tác quái, nhũng nhiễu nhân dân. Chúng thăm dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì lập tức biên hai chữ “phụng thủ”. Đêm khuya thanh vắng, chúng cho tay chân vào nhà người ta ăn cắp đồ rồi lại vu vạ cho họ tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Nạn nhân thì quá sợ hãi, phải bỏ của ra kêu van chí chết. Thủ đoạn nham hiểm, độc ác đó của bọn quan lại đã đẩy người dân vào tình cảnh thảm thương.
Đoạn cuối, tác giả không chỉ kể chuyện nhà người, mà còn kể chuyện nhà mình, sống trong xã hội suy tàn lúc bấy giờ, nỗi bất hạnh không còn là của riêng nhà nào: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp”. Dù tiếc đứt ruột cũng phải chặt đi để tránh tai bay vạ gió ập đến nhà.
Cách kể chuyện như vậy đã kéo người kể chuyện thành một trong những nhân vật chứng kiến, tham gia câu chuyện. Do đó, câu chuyện được kể tăng thêm tính thuyết phục, lôi cuốn người đọc. Cảm xúc cũng vì thế mà trở nên chân thực, sâu sắc hơn.
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– Pham Dinh Ho lived in the late 18th and early 19th centuries. That was a period of severe crisis in the feudal social system, so his poetry mainly entrusted the feelings of Confucian scholars born at the wrong time.
- "Old stories in Lord Trinh's palace" is one of 88 excellent stories in "Vu Trung Essay" that records the lavish and insatiable life of Lord Trinh and his mandarins, and at the same time the work also exposes the suffering. of the people.
2. Body of the article
Lord Trinh Sam's extravagant and insatiable pleasures and indulgences
+ built many palaces and temples to satisfy his "love of playing with lights and torches". People are suffering and wasting money
+ Frequently organize lavish banquets and entertainment
+ hunt down "servants" by robbing people of precious things
⇒ God indulges in luxury, does not care about shepherding the people, but also oppresses and exploits the people
The harassment of mandarins under his authority
+ The mandarins and servants in the lord's palace were very favored, because they could effectively help the lord in planning games and entertainment. Therefore, they also rely on the lord's power to rampage, exert authority, and create mischief among the people.
+ They tried their best to loot everywhere in the city looking for strange animals, ancient wood quai stones to decorate the lord's palace: "how many species of strange birds, ancient wood quai stones, flower pots and ornamental plants are in the people's land?" The lord can take all the time" "In the palace, depending on where it is dotted, it will draw the shape of a rockery, looking like a seaport at the top of a rock".
+ The mandarins often "borrowed the wind to break bamboo shoots, in addition to threatening", both robbing precious things to offer to the lord to receive praise, and also stealing money from the people.
+ The author's mother had to cut down precious trees in her garden to avoid disaster. This fact further increases the denunciation of the work.
⇒ Through this, readers feel indignant at the cruel greed of the lord and the mandarins under his command
3. Conclusion
– Extremely detailed and honest way of recording, selective and typical evidence, quiet emotions but hidden critical attitude
– The social picture is vividly reconstructed: the lord is insatiable, the god of flattery is greedy, the people are extremely hungry and miserable. That society is on the verge of decay and decline
Analysis of the work Old stories in Lord Trinh's palace
Reference article
Pham Dinh Ho (1768 - 1839, grew up in a family of academic lineage in Hai Duong province. The era he lived in was a time when feudal society was on the verge of decay. Therefore, through his works In his works, he often entrusted the confidences of Confucian scholars at unsuitable times. Among his outstanding works, it is impossible not to mention "Old stories in Lord Trinh's palace" excerpted from "Vu Trung's essays". records the lavish and insatiable lives of Lord Trinh and his mandarins, and at the same time the work also exposes the suffering of the people.
When he first ascended the throne, Trinh Sam appeared to be a wise lord with natural intelligence, decisiveness, and bravery beyond anyone else, but once he was seated, he indulged in alcohol and debauchery. Three or four times a month, the Lord's family travels to Thuy Lien Palace by West Lake. Soldiers and mandarins were present in large numbers, and the trading scene was extremely busy and bustling. Perhaps such joy with the lord's family was not satisfied, so the lord continuously built temples and mausoleums in various places so that people could freely have fun and enjoy themselves. It is the construction of lavish, splendid and expensive palaces that puts the people in an extremely miserable situation. The people's hearts were full of resentment, while Lord Trinh was still immersed in alcohol, playing songs, and being in a daze.
As the ruler of the world, Lord Trinh also wanted every masterpiece in the world to be God's. Taking this opportunity, the courtiers also tried to please God and put money into their own pockets. What are the strange beasts, ancient wood and strange stones, they all collect as much as they can, not missing anything. Sometimes, to move a large banyan tree with luxuriant branches and leaves and roots several meters long from the north across the river to bring it back, an entire army is mobilized. Even the splendid gardens, filled with rare objects, trees, and birds in the world, but the sounds emanating from them cause a creepy, creepy feeling. This is a bad omen, signaling the danger of the dynasty's destruction, which only cares about entertainment and pleasure, but does not care about the people's lives.
The ancients said: "Like a master, like a servant." The eunuchs under their authority also relied on their power to act arrogantly, mischievously, and harass the people. They probed to see which house had pots of flowers, ornamental plants, or birds, and immediately wrote the word "serve". Late at night, in the quiet of the night, they sent their men and soldiers into people's houses to steal things and then falsely accused them of hiding offerings to threaten them with money. The victim was so scared that he had to give up his property and scream until he died. That sinister and cruel trick of the mandarins has pushed the people into a pitiful situation.
In the last paragraph, the author not only tells the story of other people's families, but also tells the story of his own family, living in the decadent society at that time, the misfortune no longer belonged to any family: "My house is in Ha Khau ward, Tho district. Xuong, in front of the main hall, there is a pear tree planted, several hundred meters high when in bloom, white and fragrant. In front of the middle hall, there are also two white pomegranate and red pomegranate trees, which look very beautiful when they come out. Even if the intestines are unfortunately broken, they must be cut to avoid damage from flying and wind hitting the house.
Such a way of telling the story turns the narrator into one of the characters who witnesses and participates in the story. Therefore, the story told becomes more convincing and attractive to readers. Emotions also become more real and profound.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Nguyễn Dữ: Là cây bút kì tài của văn học cổ Việt Nam, sống ở thế kỉ XVI, trong tình hình xã hội Việt Nam có nhiều bất công, ngang trái.
– Chuyện người con gái Nam Xương cũng như nhiều truyện trong tập Truyền kì mạn lục phản ánh số phận bi thương của người phụ nữ bằng cảm quan hiện thực, nhân đạo và tài năng nghệ thuật bậc thầy.
2. Thân bài
Giá trị hiện thực:Truyện tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, mục rũa, gây nhiều đau thương, oan trái cho người phụ nữ
* Chiến tranh, loạn lạc gây ra đau khổ cho con người
– Trương Sinh ra lính, phải xa cách mẹ già, vợ trẻ.
+ Buổi chia li thật ngậm ngùi xót xa. Lời tiễn dặn của mẹ già, vợ trẻ đều thể hiện ước nguyện lớn nhất là Trương Sinh được bình an trở về.
+ Xa con, bà mẹ nhớ con sinh bệnh rồi qua đời
– Người dân chạy loạn, đắm thuyền, chết đuối.
– Xã hội nam quyền trao cho người đàn ông quyền hành hạ, ruồng rẫy người phụ nữ, dẫn đến cái chết đầy oan khuất của người vợ chung thủy, hiếu nghĩa.
– Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương
+ Do thói đa nghi, hay ghen, hồ đồ, hấp tấp của Trương Sinh
+ Do lễ giáo phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có quyền được cất lên tiếng nói minh oan cho mình
+ Giá trị tố cáo càng cao khi Vũ Nương tuy oan đã được giải, nhưng nàng không thể nào trở về trần gian để đoàn tụ với gia đình
Giá trị nhân đạo:Truyện để cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: đảm đang, hiếu nghĩa, chung thủy.
* Truyện đã xây dựng nên hình tượng Vũ Nương, một hình tương phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý:
– Khi chồng ra lính, Vũ Nương đã một mình: nuôi dạy con thơ, chăm sóc mẹ chồng, lo liệu ma chay khi mẹ chồng mất.
– Với mẹ chồng, Vũ Nương chăm sóc mẹ chồng, coi mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.
– Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình:
+ “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.
+ Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tai tiếng gì.
+ Khi bị nghi oan, không thể giãi bày được, nàng lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình.
+ Sau khi tự vẫn, ở dưới thủy cung, tuy cuộc sống sung sướng, nàng vẫn nhớ đến chồng con.
– Vũ Nương hoàn toàn vô nên được Linh Phi cho sống sung sướng trong cung…
oan được giải, gặp lại chồng nhưng nàng không thể trở lại sống ở cõi đời được. Câu chuyện càng thương tâm. Và tấm lòng nàng càng sáng tỏ.
Giá trị nghệ thuật:
– Xuyên suốt câu chuyện, trong mọi tình tiết, chi tiết, lời kể đều khẳng định, ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Lời thoại nhân vật cũng thể hiện rõ tính cách nhân vật
– Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đẩy bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó, cách đan xen yếu tố kì ảo cũng làm tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện
3. Kết bài
– Chuyện người con gái Nam Xương viết về người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan.
– Qua cuộc đời của nhân vật chính, người đọc nhìn thấy hiện thực xã hội tàn nhẫn và tấm lòng nhân đạo sâu săc của nhà văn.
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương
Bài viết tham khảo
Nguyễn Dữ là cây bút kì tài của văn học trung đại Việt Nam thế kỉ 16. Đây là hời kì xã hội phong kiến bộc lộ nhiều bất công,ngang trái. Từ cảm quan hiện thực ấy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là tiếng nói tố cáo đầy xót xa cho thân phận người phụ nữ thông qua hình thức nghệ thuật điêu luyện.
Hiện thực đau thương được phản ánh trong tác phẩm là số phận bi kịch củ nàng Vũ Nương. Sống trong xã hội loạn lạc, chiến tranh phi nghĩa diễn ra liên mien như lưỡi đao oan nghiệt chặt đứt sợi dây hạnh phúc của bao gia đình. Trương Sinh – chồng nàng cũng phải dấn thân vào chốn sa trường đầy hiểm nguy. Giây phút chia tay cùng lời tiễn dặn của người mẹ già, người vợ trẻ thật thấm đẫm bao nước mắt: “chẳng mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ…chỉ mong ngày về đem được hai chữ bình an”. Vì thương nhớ con, người mj già tội nghiệp đã lâm bệnh rồi qua đời. Biết bao gia đình khác cũng rơi vào cảnh tan tác, đau thương, họ chạy loạn rồi đắm thuyền mà bao người đã phải vĩnh viến vùi thân sâu thẳm nơi đáy nước. Bi thảm hơn, cũng chính chiến tranh chia lìa đôi lứa cùng lễ giáo phong kiến hà khắc đã tiếp tay cho người chồng đa nghi, hay ghen, hồ đồ, hấp tấp đẩy người vợ thủy chung, hiếu nghĩa vẹn tròn xuống dòng Hoàng Giang để vĩnh viễn không trở về đoàn tụ với gia đình được nữa.
Bên cạnh giá trị hiện thực, tác phẩm còn thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Dữ đã dựng nên hình ảnh một người thiếu phụ hoàn hảo vừa đẹp người lại đẹp nết. Trái tim nàng cũng khao khát một cuộc sống bình yên và hạnh phúc nhưng sự éo le và khổ hạnh vẫn luôn ập đến khi nàng sống dưới chế độ xã hội phong kiến đầy bất công. Qua lời giới thiệu “tính tình thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp”, người đọc đã có những ấn tượng thật tốt đẹp về nàng, nhưng càng đọc, lòng cảm phục, ngưỡng mộ dành cho nhân vật càng tang thêm qua từng cách đối xử của nàng với mọi người xung quanh. Dù lấy phải người chồng đa nghi,nóng nảy nhưng nàng vẫn hết sức khéo léo để “không bao giờ vợ chồng phải đến lúc thất hòa”. Với người mẹ chồng, nàng làm nhiều hơn bỏn phận của một nàng dâu. Bà cụ vì thương nhớ con mà lâm trọng bệnh, nàng thay chồng chăm sóc mẹ già, “lấy lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn”, săn sóc thuốc thang, lễ bái thần phật, rồi khi mẹ già không qua khỏi, nàng lo liệu ma chay chu đáo chẳng khác nào với mẹ đẻ của mình. Còn với đứa con nhỏ, sinh ra mà chưa biết mặt cha, nàng vừa làm ẹ, vừa làm cha của đứa trẻ. Tấm lòng nhân hậu của nàng đã khiến cả đất trời cảm động như lời người mẹ chồng trăng trối lúc lâm chung “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như cong đã chẳng phụ mẹ”. Một mình phải gánh vác cả giang sơn nhà chồng, vất vả gian truân là vậy nhưng khi Trương Sinh đi lính trở về, không một lời cảm kích mà còn nhẫn tâm nghi oan cho nàng. Y buông lời mắng nhiếc rồi đánh đuổi nàng đi. Không thể tự minh oan cho mình, nàng đành trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang với lời nguyền. Thấu hiểu tấm lòng sang tong như ngọc của nàng Vũ Nương, Linh Phi cứu nàng và cho nàng cuộc sống sung sướng nơi cung nước. Nhưng vốn là con người nặng tình nghĩa, lại muốn được minh oan, nàng vẫn thao thiết nhớ về quê cũ. Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng. Nàng trở về lung linh đẹp đẽ nhưng lại không thể đoàn tụ với gia đình. Chi tiết càng làm tăng thêm tính bi kịch cho câu chuyện.
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– Nguyen Du: A talented writer of ancient Vietnamese literature, living in the 16th century, in a Vietnamese social situation with many injustices and injustices.
– The story of the girl from Nam Xuong as well as many stories in the collection Legend of Man Luc reflects the tragic fate of women with a sense of realism, humanity and masterful artistic talent.
2. Body of the article
Realistic value: The story denounces the decline and decay of feudal society, causing much pain and injustice to women.
* War and chaos cause suffering to people
– Truong Sinh became a soldier and had to be separated from his old mother and young wife.
+ The parting session was truly sad and painful. The farewell words of his old mother and young wife all expressed the greatest wish for Truong Sinh to return safely.
+ Away from her child, the mother misses her child and gets sick and dies
– People ran wild, their boats sank, they drowned.
– Male-dominated society gives men the right to abuse and abandon women, leading to the unjust death of a faithful and dutiful wife.
– Cause of Vu Nuong's death
+ Due to Truong Sinh's suspicious, jealous, confused, and hasty habits
+ Due to feudal rites and rituals that favor men over women, women do not have the right to speak up to vindicate themselves
+ The value of the accusation is even higher when even though Vu Nuong's injustice has been resolved, she cannot return to earth to reunite with her family.
Humane values: The story promotes the good qualities of women: diligence, filial piety, and loyalty.
* The story has built the image of Vu Nuong, a beautiful woman with precious qualities:
– When her husband left the army, Vu Nuong was alone: raising her children, taking care of her mother-in-law, and taking care of the funeral when her mother-in-law passed away.
– With her mother-in-law, Vu Nuong takes care of her mother-in-law and considers her mother-in-law as her own mother.
– With her husband, Vu Nuong has always kept her relationship intact:
+ "She also maintains discipline, never letting husband and wife fall out of harmony."
+ When she was away from her husband, she did not let any scandal happen.
+ When she was unjustly suspected and could not confess, she used death to prove her love.
+ After committing suicide, in the aquarium, although her life was happy, she still missed her husband and children.
– Vu Nuong was completely innocent, so Linh Phi allowed her to live happily in the palace...
Her injustice was resolved and she met her husband again, but she could not return to live in this world. The story is even more pitiful. And her heart became clearer.
Artistic value:
– Throughout the story, every episode, detail, and narrative affirms and praises Vu Nuong's qualities. Character dialogue also clearly shows the character's personality
– The way of building the details, tying and untying the knots is unexpected and dramatic, making the injustice stand out more clearly with all its tragedy, the way of interweaving fantasy elements also increases the appeal. for story
3. Conclusion
– The story the girl Nam Xuong wrote about a beautiful woman who had to die to clear her name.
– Through the main character's life, readers see the cruel social reality and the writer's deep humanity.
Analysis of the story of a girl from Nam Xuong
Reference article
Nguyen Du was a talented writer of Vietnamese medieval literature in the 16th century. This was a period when feudal society revealed many injustices and injustices. From that sense of reality, "The Story of a Nam Xuong Girl" is a voice full of sorrowful denunciation of the condition of women through a skillful art form.
The painful reality reflected in the work is the tragic fate of Vu Nuong. Living in a chaotic society, unjust wars take place continuously like cruel blades cutting the chain of happiness of many families. Truong Sinh - her husband also had to venture into a dangerous place. The moment of farewell and the farewell words of the old mother and young wife were filled with so many tears: "I don't want to wear the seal of the seal, wear brocade clothes and return to my hometown... I only hope that the day I return will bring the two words of peace." ”. Because she missed her child, the poor old mother fell ill and passed away. Many other families also fell into ruin and pain, they ran away and sank on boats, many people had to forever bury themselves deep in the water. More tragically, it was also the war that separated the couple and the harsh feudal rites that helped the suspicious, jealous, and misguided husband impulsively push his faithful, filial wife down the Hoang Giang River. to never be able to return to reunite with his family again.
Besides its realistic value, the work is also imbued with a profound humanitarian spirit. Nguyen Du has created the image of a perfect young woman who is both beautiful and beautiful. Her heart also yearned for a peaceful and happy life, but hardship and asceticism always befell her when she lived under a feudal social regime full of injustice. Through the introduction of "moderate personality, modesty, and good thoughts", readers already have a very good impression of her, but the more they read, the more their admiration and admiration for the character increases. every way she treats everyone around her. Even though she married a suspicious and hot-tempered husband, she was still very skillful so that "the couple would never have to disagree." For her mother-in-law, she does more than her duty as a daughter-in-law. The old woman fell seriously ill because she missed her child. She replaced her husband to take care of her elderly mother, "using sweet words and wise advice", taking care of medicine, worshiping gods and Buddhas, and then when her elderly mother could not survive, she Take care of your funeral as thoughtfully as you would your own mother. As for the little child, born without knowing his father, she is both mother and father to the child. Her kind heart touched the whole world like her mother-in-law's last words on her deathbed: "Green is determined not to betray her child just as she will not betray her mother". Having to shoulder the burden of her husband's family alone, despite all the hardships and hardships, when Truong Sinh returned from the army, he did not say a word of gratitude but rather cruelly blamed her. He scolded her and chased her away. Unable to exonerate herself, she had to drown herself in the Hoang Giang River with a curse. Understanding Vu Nuong's heart as luxurious as a jade, Linh Phi saved her and gave her a happy life in the water palace. But being a sentimental person and wanting to be vindicated, she still longed for her old hometown. Truong Sinh set up an altar to exonerate her. She returned sparkling and beautiful but could not reunite with her family. Details add to the tragedy of the story.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Mác-két là người gốc Cô-lôm-bi-a. Ông là một nhà văn, nhà hoạt động xã hội vô cùng lỗi lạc. Mác-két từng đạt giải Nô-ben văn học năm 1982.
– “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” là bức thông điệp màu xanh mà Mác – két muốn gửi tới toàn thể nhân loại.
2. Thân bài
* Ý 1-Hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân:
– Nguy cơ của chiến tranh hạt nhân:
+ Ngày 8 – 8 -1986, hơn 50000 đầu đạn hạt nhân đã được bố trí khắp hành tinh
+ Tất cả mọi người ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ.
+ Tất cả chỗ đó nổ tung sẽ huỷ hoại 12 lần Trái đất và các hành tinh khác.
– Chiến tranh hạt nhân-Thanh gươm Đa-mô-clét ( so sánh )
Mở đầu bằng một câu hỏi rồi tự trả lời bằng một thời điểm thực tại với những con số cụ thể, cách tính toán cụ thể, đơn giản-> Tác động vào nhận thức về sức mạnh ghê gớm của vũ khí hạt nhân; gợi sự đồng tình của người đọc, là tiếng còi báo động về thần chết-1 thứ thần chết của thời hiện đại.
* Ý 2-Chạy đua chiến tranh hạt nhân là cực kỳ tốn kém.
– Ngược với lí trí của con người.
+ Chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh hạt nhân vô cùng tốn kém và điên rồ, tước đi cải thiện đời sống của con người, ngược với lí trí lành mạnh của nhân loại.
Cách đưa dẫn chứng và so sánh rất toàn diện và cụ thể, nhiều lĩnh vực thiết yếu của đời sống được so sánh với sự tốn kém của chi phí hạt nhân.
+ Làm nổi bật sự tốn kém ghê gớm của cuộc chạy đua chiến tranh hạt nhân
Nêu bật sự vô nhân đạo, là lời tố cáo những kẻ độc ác, đang đẩy loài người đến sự diệt vong..
– Ngược lại lí trí của tự nhiên.
+ Lí trí TN: Quy luật phát triển tất yếu của tự nhiên.
(180 triệu năm: bông hồng mới nở; 380 triệu năm: con bướm mới biết bay; hàng triệu triệu năm… con người mới hình thành.
-> đó là cả 1 quá trình kì công nhưng chỉ cần bấm nút 1 cái, mọi cái trở thành con số 0 vô nghĩa.
=> Đối lập, khẳng định một sự phản tiến hoá, phản tự nhiên đến điên rồ khiến ta nhận thức sâu thêm về hiểm hoạ hạt nhân.
*Ý 3-Nhiệm vụ của mọi người :
– Thái độ tích cực đoàn kết, xiết chặt đội ngũ đấu tranh vì hoà bình, phản đối ngăn chặn chiến tranh, chạy đua hạt nhân.
– Sáng kiến lập một ngân hàng lưu giữ trí nhớ sau khi xảy ra thảm hoạ…
=>Lời trăng trối nhưng cũng là thức tỉnh mọi người trong cuộc chống chiến tranh hạt nhân.
Là tiếng nói yêu chuộng hoà bình trên trái đất của nhân dân thế giới
Thông điệp về một cuộc sống đã từng tồn tại nơi trái đất .
* Ý 4- Đánh giá:
– Với cách viết sánh tạo, độc đáo, Mác – két đưa đến cho người đọc những con số biết nói đầy ấn tượng.
– Điều đó thể hiện quan điểm sống của nhà văn, niềm trăn trở, băn khoăn trước những vấn đề mang tính sống còn của toàn nhân loại.
3. Kết bài
– Bài viết “Đấu tranh cho một thế giới hào bình” thể hiện tài năng, tấm lòng của tác giả Mác- két.
– Nó là bức thông điệp màu xanh gửi tới tất cả chúng ta.
Phân tích bài Đấu tranh cho một thế giới hòa bình
Bài văn tham khảo
Tác giả Mác-két là người gốc Cô-lôm-bi-a. Ông là một nhà văn,nhà hoạt động xã hội vô cùng lỗi lạc. Mác-két từng đạt giải Nô-ben văn học năm 1982. Bài viết “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” là bức thông điệp màu xanh mà Mác – két muốn gửi đến toàn thể nhân loại nhằm bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta.
Ở phần đầu của văn bản, tác giả đã nêu lên vấn đề mang tính toàn cầu: Trái đất đang có nguy cơ bị diệt vong bởi hiểm họa hạt nhân “nguy cơ ghê gớm đè nặng chúng ta như thanh gươm Đa-mô-clet”. Hiện nay trên toàn hành tinh của chúng ta có tới hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân. Nó nằm rải rác khắp nơi từ châu Âu tới châu Á. Mỗi sinh mạng trên trái đất của chúng ta đang ngồi trên một khối thuốc nổ khổng lồ. Số vũ khí hạt nhân này có sức công phá gấp 12 lần sự sống của trái đất. Nói theo cách khác thì chỉ cần số vũ khí hạt nhân này nổ có thể hủy diệt 12 hành tinh giống như trái đất của chúng ta. Đó thực sự là một mối hiểm hạo. nguy cơ hủy diệt sự sống được truyền tải với một khả năng tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ của bạn đọc. Không những thế, những câu văn tiếp theo, tác giả còn mở rộng phạm vi ra toàn hệ Mặt Trời, thật khiến người đọc không khỏi lo sợ.
Trong luận điểm thứ hai của mình tác giả Mác-két đã phân tích rõ việc chạy đua vũ trang đã tiêu tốn rất nhiều tiền bạc của nền kinh tế của thế giới. Vẫn là những con số đầy sức nặng. Phí đầu tư cho 100 chiếc máy bay chiến lược của Mỹ có thể lên tới 100 tỉ đô la. Với số tiền lớn như thế này có thể cung cấp đồ ăn thức uống của 500 triệu người nghèo ở Châu Phi. Giá mười chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện chương trình phòng bệnh trong 14 năm cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét. Chỉ cần lấy số tiền mua hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân chúng ta có thể đủ tiền xóa mù chữ cho toàn thế giới. Đó là những con số vượt lên trên cả những giá trị thống kê bởi nó còn có giá trị tố cáo bởi điều nghịch lí là trong khi các chương trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc chắc chắn trở thành hiện thực thì các chương trình vì phúc lợi xã hội lại chỉ là sự tính toán giả thiết và không biết bao giờ mới thực hiện được.
Vẫn bằng cách suy luận sắc sảo và những con số thời sự rút ra được sau quá trình nghiên cứu nghiêm túc, Mác- két đã cho bạn đọc thấy hành tinh xinh đẹp của chúng ta đang bị đẩy đến nguy cơ bị hủy diệt hoàn toàn: Sự phát triển của vũ khí hạt nhân đang đi ngược lại với lợi ích chính đáng của con người và tự nhiên.380 triệu năm, 180 triệu năm, hàng chục triệu năm cho quá trình hình thành, phát triển, tiến hóa của các loài sinh vật sẽ bị xóa sổ chỉ trong khoảng thời gian đủ để “bấm nút một cái”. Có thể khẳng định rằng đây là một tội ác cần lên án mạnh mẽ.
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– Mark is of Colombian origin. He is an extremely prominent writer and social activist. Market won the Nobel Prize in Literature in 1982.
– “Fighting for a peaceful world” is the blue message that Marx wants to send to all humanity.
2. Body of the article
* Italy 1-Danger of nuclear war:
– Risk of nuclear war:
+ On August 8, 1986, more than 50,000 nuclear warheads were deployed across the planet.
+ Everyone sat on a barrel of 4 tons of explosives.
+ If all of that explodes, it will destroy Earth and other planets 12 times over.
– Nuclear war - The Sword of Damascus (comparison)
Start with a question and then answer yourself in real time with specific numbers, specific and simple calculations -> Impact on awareness of the formidable power of nuclear weapons; evoking the reader's sympathy, is the siren call of death - a type of death in modern times.
* Italy 2-Race to nuclear war is extremely expensive.
– Contrary to human reason.
+ The arms race and preparation for nuclear war are extremely expensive and crazy, depriving people of improving their lives, contrary to the healthy reason of humanity.
The way of giving evidence and comparison is very comprehensive and specific, many essential areas of life are compared to the cost of nuclear costs.
+ Highlights the terrible cost of the nuclear war race
Highlighting inhumanity, is a denunciation of cruel people who are pushing humanity to destruction.
– Opposite of natural reason.
+ Natural reason: Law of inevitable development of nature.
(180 million years: a rose blooms; 380 million years: a butterfly learns to fly; millions and millions of years... humans form.
-> It's an elaborate process, but with just one press of a button, everything becomes meaningless zero.
=> Opposition, affirming an anti-evolution, anti-natural madness that makes us more aware of the nuclear danger.
*Idea 3-Everyone's duty:
– Positive attitude of solidarity, tightening the team fighting for peace, protesting to prevent war and nuclear race.
– Initiative to create a memory bank after a disaster...
=>Last words but also awakening everyone in the fight against nuclear war.
Is the voice of the world's people loving peace on earth
A message about a life that once existed on earth.
* Idea 4- Evaluation:
– With a creative and unique writing style, Mac - Ket gives readers impressive talking numbers.
– That shows the writer's perspective on life, his concerns and worries about the vital issues of all humanity.
3. Conclusion
– The article "Fighting for a peaceful world" shows the talent and heart of author Marx.
– It is a blue message to all of us.
Analysis of the article Struggle for a peaceful world
Reference article
Author Market is of Colombian origin. He is an extremely prominent writer and social activist. Marx won the Nobel Prize for Literature in 1982. The article "Fighting for a peaceful world" is a blue message that Marx wants to send to all humanity to protect our common home. we.
At the beginning of the text, the author raised a global issue: The Earth is in danger of being destroyed by the nuclear threat, "a terrible risk that weighs on us like the sword of Damascus." ”. Currently there are more than 50,000 nuclear warheads on our planet. It is scattered everywhere from Europe to Asia. Every life on our earth is sitting on a giant block of dynamite. These nuclear weapons have 12 times more destructive power than life on earth. In other words, just these nuclear weapons could destroy 12 planets like our earth. That is truly a danger. The danger of destroying life is conveyed with a powerful impact on the reader's thinking. Not only that, in the following sentences, the author also expands the scope to the entire solar system, truly making the reader afraid.
In his second thesis, author Markett clearly analyzed that the arms race has consumed a lot of money from the world's economy. Still heavy numbers. The investment cost for 100 US strategic aircraft could be up to 100 billion dollars. With a large amount of money like this, it is possible to provide food and drink for 500 million poor people in Africa. The price of ten aircraft carriers carrying nuclear weapons is enough to carry out a 14-year disease prevention program to cure more than 1 billion people from malaria. Just by taking the money to buy two submarines carrying nuclear weapons, we can have enough money to eradicate illiteracy for the whole world. These are numbers that go beyond statistical value because they also have denunciation value because the paradox is that while war programs have all or will certainly become reality, programs for Social welfare is only a hypothetical calculation and it is unknown when it will be implemented.
Still using sharp reasoning and current numbers drawn after serious research, Marx showed readers that our beautiful planet is being pushed to the risk of complete destruction. : The development of nuclear weapons is going against the legitimate interests of humans and nature. 380 million years, 180 million years, tens of millions of years for the formation, development, and evolution of nuclear weapons. Species will be wiped out in just enough time to "press a button". It can be affirmed that this is a crime that needs strong condemnation.
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Lê Anh Trà Sinh ngày 02 tháng 4 năm 1927 mất: 1999- Quê quán: xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi
– “Phong cách Hồ Chí Minh” được trích trong “Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam” giúp ta thêm hiểu hơn về con người vĩ đại mà giản dị của Bác.
2. Thân bài
Ý 1. Con đường hình thành nên phong cách văn hóa Hồ Chí Minh
– Trong cuộc đời hoạt động cách mạng Người:
+ Đi qua nhiều nơi
+ Tiếp xúc với nhiều nền văn hoá từ phương Đông đến phương Tây.
+ Hiểu biết sâu rộng văn hoá các nước Châu Á, Phi, Mĩ…
+ Nói được nhiều ngoại ngữ: Pháp, Anh, Hoa, Nga…
– Cách tiếp thu của Bác:
+ Tiếp thu có chọn lọc.
+ Tiếp thu ảnh hưởng quốc tế trên nền văn hoá dân tộc.
Ý 2. Vẻ đẹp trong lối sống của Hồ Chí Minh:
– Là một chủ tịch nước:
+ Nơi ở và nơi làm việc: đơn sơ và mộc mạc.
+ Trang phục giản dị: quần áo, dép ….
+ Ăn uống đạm bạc, bình dị: cá kho,..
+ Đồ đạc mộc mạc đơn sơ.
+ Tư trang ít ỏi: va li con, vài vật kỉ niệm..
-> Lối sống đạm bạc, đơn sơ giản dị, tự nhiên không cầu kỳ, phức tạp.
– Lối sống của Bác là sự kế thừa và phát huy những nét cao đẹp của nhà văn hóa dân tộc mang nét đẹp thời đại gắn bó với nhân dân:
+ Là lối sống thanh cao, sang trọng.
+ Là lối sống rất dân tộc, Việt Nam
-> Vẻ đẹp phong cách sống của Bác:
– Truyền thống + hiện đại.
– Dân tộc + nhân loại.
– Thanh cao + giản dị.
Ý 3. Đánh giá:
– Nghệ thuật: Sử dụng ngôn ngữ trang trọng
Vận dụng các hình thức so sánh, các biện pháp nghệ thuật đối lập.
3. Kết bài
– Bằng lập luận chặt chẽ, chứng cứ xác thực, tác giả đã cho thấy cốt cách văn hóa của HCM trong nhận thức và trong hanh động. Từ đó đặt ra một vấn đề của thời kì hội nhập: tiếp thu chọn lọc và phát huy văn hóa, bản sắc dân tộc.
Phân tích bài Phong cách Hồ Chí Minh
Bài văn tham khảo
“Hồ Chí Minh – tên Người là cả một miền thơ”, cuộc đời vĩ đại của Người đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ…Lê Anh Trà cũng góp vào đề tài viết về Bác một văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”. Ở đó, tác giả đã giúp người đọc hiểu thêm về phong cách của Người: hiện đại mà truyền thống, vĩ đại mà giản dị.
Được viết dưới dạng văn bản nghị luận, ở đoạn đầu tiên cũng là luận điểm đầu của bài, Lê Anh Trà đã đề cập đến luận điểm đầu tiên đó là: “Nhân cách Hồ Chí Minh là một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”. Vốn kiến thức về văn hóa của Người là kho tri thức khổng lồ trải dài từ phương Đông huyền bí đến phương Tây xa xôi. “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phương Đông và phương Tây… Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”.
Kho tri thức người có được có phải là kết quả của việc “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” ? “Trên những con tàu vượt trùng dương, Người ghé lại nhiều hải cảng thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người nói và viết thành thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga… và Người làm nhiều nghề”. Vậy là nguyên nhân không chỉ ở việc đi nhiều mà nằm căn bản là ở ý thức học hỏi vẫn thường trực trong con người Bác.
Mặc dù có sự tiếp thu văn hóa nước ngoài nhưng cái gốc văn hóa dân tộc không hề bị lung lay, suy chuyển. Bất kì ai tiếp xúc với Bác cũng đều cảm nhận nét hiện đại hòa quyện với nét cổ truyền vô cùng độc đáo, mới mẻ.
Hai đoạn văn tiếp theo, người viết đã đưa ra những bằng chứng rất thuyết phục để chứng minh “lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông của Bác Hồ”. Và lối sống ấy của Bác Hồ được biểu hiện ngay trong chính cuộc sống hàng ngày và chính trong con người Bác: từ nơi ở, trang phục hay cả chuyện ăn uống đều làm cho chúng ta cảm phục vị nguyên thủ quốc gia giản dị mà thanh cao này.
Nhà Bác ở là: “Chiếc nhà sàn cũng chỉ vẻn vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ chính trị, làm việc và ngủ, với những đồ đạc rất mộc mạc đơn sơ”. “Trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn…”. “Hằng ngày, việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc, với những món ăn dân tộc không chút cầu kì, như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa,” “tư trang ít ỏi, một chiếc vali con với vài bộ quần áo, vài kỉ niệm của cuộc đời…” Áo bà ba, áo trấn thủ, đối dép lốp, cá kho, rau luộc, …Đọc đến những dòng này, độc giả không khỏi ngậm ngùi, thương Bác biết bao! Bác là nguyên thủ quốc gia, phải gánh vác trên vai trăm công nghìn việc. Bác rất xứng đáng được tận hưởng những điều tốt nhất. Nhưng không, Bác bình dị như bao nười dân lao động khác, thật đáng ngưỡng mộ biết nhường nào!
Nhân cách giản dị, thanh cao ấy của Người khiến không chỉ người dân trong nước mà cả bạn bè thế giới cũng phải nghiêng mình thán phục. Nhân cách giản dị, thanh cao, liêm khiết ấy khiến chúng ta không thể không nghĩ tới những vĩ nhân trong lịch sử nước nhà như Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm với cuộc đời thanh bạch, liêm khiết, không màng danh lợi: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…”
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– Le Anh Tra Born April 2, 1927 died: 1999- Hometown: Pho Minh commune, Duc Pho district, Quang Ngai province
– "Ho Chi Minh's style" quoted in "Ho Chi Minh and Vietnamese culture" helps us better understand Uncle Ho's great but simple person.
2. Body of the article
Idea 1. The path to forming Ho Chi Minh's cultural style
– During his life of revolutionary activities:
+ Go through many places
+ Exposure to many cultures from the East to the West.
+ Deep understanding of the cultures of Asian, African, American countries...
+ Speak many foreign languages: French, English, Chinese, Russian...
– Uncle Ho's way of receiving:
+ Selective reception.
+ Absorbing international influence on national culture.
Italy 2. The beauty of Ho Chi Minh's lifestyle:
– As a president:
+ Living and working place: simple and rustic.
+ Casual clothing: clothes, sandals...
+ Eat frugally and simply: braised fish, etc.
+ Simple rustic furniture.
+ Few personal belongings: small suitcase, a few souvenirs...
-> A frugal, simple, natural lifestyle without any fuss or complexity.
– Uncle Ho's lifestyle is the inheritance and promotion of the noble features of the national culture, bringing the beauty of the era and connecting with the people:
+ A noble and luxurious lifestyle.
+ It's a very nationalistic, Vietnamese lifestyle
-> The beauty of Uncle Ho's lifestyle:
– Traditional + modern.
– Nation + humanity.
– Elegant + simple.
Idea 3. Evaluation:
– Art: Use formal language
Apply comparative forms and contrasting artistic measures.
3. Conclusion
– With strong arguments and authentic evidence, the author has shown the cultural essence of HCM in perception and action. From there, a problem of the integration period arises: selectively absorbing and promoting culture and national identity.
Analysis of the article Ho Chi Minh's Style
Reference article
"Ho Chi Minh - his name is a whole region of poetry", his great life has become an endless source of inspiration for writers, poets, artists... Le Anh Tra also contributed to the topic of writing about Uncle Ho. a document "Ho Chi Minh Style". There, the author helped readers understand more about his style: modern yet traditional, great yet simple.
Written in the form of an argumentative text, in the first paragraph, which is also the first argument of the article, Le Anh Tra mentioned the first argument: "Ho Chi Minh's personality is a very Vietnamese personality, a very Vietnamese personality. Simple lifestyle, very Vietnamese, very Eastern, but at the same time very new, very modern." His cultural knowledge is a huge store of knowledge stretching from the mysterious East to the distant West. "President Ho Chi Minh has come into contact with the cultures of many countries and regions in the world, both in the East and the West... Wherever he goes, he learns and explores culture and art to a quite profound level." .
Is the store of knowledge people have the result of "Traveling a long way, learning a sieve of wisdom"? “On ships crossing the ocean, he stopped at many ports to visit countries in Africa, Asia, and America. He speaks and writes fluently in many foreign languages: French, English, Chinese, Russian... and he works in many jobs." So the reason is not only in traveling a lot but also in the sense of learning that is still present in Uncle Ho.
Despite the absorption of foreign culture, the national cultural roots have not been shaken or altered. Anyone who comes into contact with Uncle Ho will feel the modernity blending with the extremely unique and new traditional features.
In the next two paragraphs, the writer gave very convincing evidence to prove "Uncle Ho's very simple, very Vietnamese, very Eastern lifestyle". And that lifestyle of Uncle Ho is expressed right in his daily life and in his personality: from his place of residence, clothing, or even eating, all make us admire the simple head of state. this high bar.
Uncle Ho's house is: "The house on stilts only has a few rooms for receiving guests, meeting the Politburo, working and sleeping, with very simple and rustic furniture." "The outfit is very simple, with a brown three-piece outfit, a guard shirt, and rudimentary tire sandals like those of Truong Son soldiers...". “Every day, his eating was very frugal, with ethnic dishes without any fuss, such as braised fish, boiled vegetables, pickles, pickled eggplants, flower porridge,” “his personal belongings were few, one A small suitcase with a few sets of clothes, a few memories of life..." Ba Ba shirt, cheongsam shirt, tire sandals, braised fish, boiled vegetables, ... Reading these lines, readers can't help but feel sorry for Uncle Ho. Additional info! Uncle Ho is the head of state and has to shoulder hundreds of thousands of tasks. Uncle deserves to enjoy the best. But no, Uncle Ho is as simple as any other working people, how admirable it is!
His simple, noble personality made not only people in the country but also friends around the world admire him. That simple, noble, and incorruptible personality makes us unable to help but think of great men in our country's history such as Nguyen Trai or Nguyen Binh Khiem with a life of transparency, integrity, and not caring about fame and profit: "Thu Eat bamboo shoots, eat bean sprouts in winter / Bathe in lotus ponds in spring, swim in ponds in summer..."
|
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu về hoàn cảnh đi viếng mộ người thân trong dịp lễ tết
– Nêu ý nghĩa của hoạt động này.
2.Thân bài: Lần lượt kể các sự việc
* Sự việc 1: Giới thiệu về tục lệ tảo mộ của dân tộc
– Vào tiết thanh minh của mùa xuân, khí trời mát mẻ, bầu trời cao, trong xanh. Trong những ngày ấy, dân tộc Việt Nam có tục lệ tảo mộ tức là đi viếng, sửa sang và khang trang lại phần mộ của tổ tiên, ông bà và người thân.
*Sự việc 2: Kể lại diễn biến của buổi tảo mộ.
a. Công tác chuẩn bị:
Để chuẩn bị cho chuyến đi tảo mộ được chu đáo, trang trọng và cẩn thận, bố mẹ em chuẩn bị mọi thứ cần thiết từ tối hôm trước. Mẹ thì chuẩn bị làn, rượu, tiền vàng, hương, chè khô, xôi, hoa quả…
Xuất phát: Đúng 5h, cả nhà lên đường. Sương mù giăng mắc trong không gian. Đường phố vắng vẻ…
Quang cảnh mùa xuân
– Ông mặt trời vén màn sương sớm, rắc những giọt nắng tinh nghịch xuống trần gian. Bầu trời cao rộng, trong xanh. Làn gió nhè nhẹ đem theo hương thơm hoa cỏ. Thanh âm trong trẻo cua tiếng chim đánh thức mọi vật.
d. Đến nghĩa trang
– Bố em quét dọn, cắt dọn cỏ dại, trồng thêm cỏ Nhật, cắm hoa tươi trên phần mộ tổ tiên
– Mẹ em sắm lễ: thắp hương, bày hoa quả, xôi thịt, rượu, vàng mã
– Cả nhà em chắp tay thành tâm khấn vái
– Đợi hương tàn, bố em hóa mã, còn em và mẹ đi thắp hương cá phần mộ xung quanh
3. Kết bài
– Tảo mộ xong, gia đình em ra về trong tâm trạng lưu luyến, bâng khuâng.
– Đây là phong tục đẹp, thể hiện truyền thống biết ơn, trọng đạo lý của người Việt
Kể về buổi đi thăm mộ người thân
Bài văn tham khảo
Trong tâm thức của người Việt, con người từ giã cõi trần không có nghĩa là họ không còn tồn tại nữa, họ chỉ chuyển đến một thế giới khác mà thôi. Và ngôi mộ chính là ngôi nhà mới của họ. Chính vì quan niệm ấy, mà dân tộc ta đã có truyền thống đi lễ tảo mộ cho người thân vào mùa xuân. Tục lệ này thể hiện truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống có trước có sau của người Việt. Và đó cũng là hoạt động thường niên của gia đình em mà năm nay em mới có dịp nhận thức đầy đủ về ý nghĩa tốt đẹp của truyền thống văn hóa ấy.
Xuân đã về, đất trời và lòng người như mở hội, ai nấy đều cảm thấy náo nức trong niềm vui của một sức sống căng tràn đang tái sinh bao phủ vạn vật. Chính trong niềm vui của những ngày đầu năm ấy, những người đang sống cũng không quên đi những người đã khuất. Đó là ông bà, tổ tiên, là những người thân yêu đã qua đời, song trong tâm thức của người Việt, “chết là thể xác, còn là tinh anh” (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du), linh hồn của họ sẽ được an nghỉ, được sưởi ấm nếu những người ở lại luôn nhớ đến họ. Trong những ngày đầu tiên của mùa xuân này, người người đi tảo mộ, tức là đi viếng, sửa sang lại phần mộ của tổ tiên, ông bà, hay những người thân đã khuất bằng cả tấm lòng tưởng nhớ, biết ơn và cầu mong những điều an lành, hạnh phúc sẽ đến với toàn thể gia đình.
Mọi công tác chuẩn bị cho lễ tảo mộ đã được mẹ em hoàn tất từ tối hôm trước. Nào là vàng mã, hương hoa, xôi, giò, trầu cau, rượu…Tất cả được mẹ em đi chợ chọn lựa cẩn thận, kĩ càng. Mẹ em nói những đò thắp hương, thờ cúng đều phải là những đồ có vẻ ngoài đẹp nhất, tốt nhất để thể hiện tấm lòng thành kính của con cháu đối với ông bà, tổ tiên. Năm nay, em đã lớn hơn rồi nên được mẹ cho đi chợ phụ giúp mẹ công tác chuẩn bị, em cũng có dịp được hiểu hơn về phong tục cổ xưa này.
Cả nhà em thức dậy từ sớm để lên chuyến xe về quê cho kịp giờ. Nhìn chiếc làn đựng đồ lễ trên tay bố mà lòng em không khỏi hồi hộp, xúc động khi nghĩ đến sẽ được đến nơi trang nghiêm, linh thiêng để viếng mộ những người thân của mình. Một suy nghĩ thấy mình chững chạc, đứng đắn hơn khiến em bất giác chỉnh lại trang phục, mái tóc cho chỉnh tề trước khi bước lên xe. Qua cửa kính ô tô, cảnh vật xung quanh càng trở nên mờ ảo trong màn sương sớm. Vài giọt nắng đầu tiên lặng lẽ xuyên qua lớp chăn mây bồng bềnh, ẩn mình vào giọt sương trên cánh hoa khiến đóa hoa vốn đẹp lại thêm lộng lẫy, kiều diễm. Bầu trời đã mở ra cao rộng, trong xanh. Từng làn gió nhè nhẹ đem theo hương thơm hoa cỏ. Đó đây, thanh âm trong trẻo, tinh nghịch của những chú chim đánh thức mọi vật.
Đã đến nghĩa trang, em đặt chân xuống nền cỏ non còn ẩm hơi sương. Đi đến phần mộ của gia tộc, bố mẹ em nhanh tay sửa sang lại các phần mộ. Cắt tỉa cỏ, trồng thêm những bụi cúc đất, loại cây này có lá màu xanh lục, hoa nhỏ, vàng tươi nở trên mộ trông sẽ rất đẹp. Em cũng xăm xắm phụ giúp bố mẹ thu gom chỗ cây hoang dại để thành một đống. Sau đó, mẹ em sửa soạn lễ đặt trang trọng, ngay ngắn lên trên các phần mộ. Đốt nén hương thơm, cả nhà em thành tâm cúi đầu khấn vái. Đây là lần đầu, em đi tảo mộ,không biết phải khấn như thế nào, chỉ biết chắp tay nguyện cầu cho toàn thể gia đình em được sức khoẻ dồi dào, bình an, may mắn. Lòng em bỗng tràn đầy niềm tin, hi vọng vào một kết quả học tập tốt đẹp khi nghĩ rằng luôn có người thân bên cạnh ủng hộ, giúp đỡ mình.
|
Detailed outline
1. Open the lesson
– Introducing the situation of visiting relatives' graves during the holidays
– State the meaning of this activity.
2. Body: Tell the events in turn
* Incident 1: Introduction to the nation's grave-sweeping custom
– In the spring season, the air is cool, the sky is high and clear. In those days, the Vietnamese people had the custom of visiting, repairing and renovating the graves of ancestors, grandparents and relatives.
*Incident 2: Retelling the events of the grave sweeping ceremony.
a. Preparation:
To prepare for a thoughtful, solemn and careful trip to visit the grave, my parents prepared everything necessary the night before. Mother prepares rice, wine, gold coins, incense, dried tea, sticky rice, fruits...
Departure: At exactly 5 o'clock, the whole family set off. Fog hangs in space. The streets are deserted…
Spring scene
– The sun lifted the morning mist, sprinkling mischievous drops of sunlight onto the earth. The sky is high, wide, and clear blue. The gentle breeze carries the scent of flowers and grass. The clear sound of birds awakens everything.
d. Go to the cemetery
– My father cleaned, cut weeds, planted more Japanese grass, and arranged fresh flowers on the ancestors' graves
– My mother prepares the ceremony: burns incense, displays fruits, sticky rice, meat, wine, and votive paper
– My whole family clasped their hands and prayed sincerely
– Waiting for the incense to fade, my father passed away, and my mother and I went to burn incense at the surrounding graves
3. Conclusion
– After the graveside service, my family left in a nostalgic and wistful mood.
– This is a beautiful custom, expressing the Vietnamese tradition of gratitude and respect for morality
Talk about visiting a relative's grave
Reference article
In the mind of Vietnamese people, people leaving this world does not mean they no longer exist, they just move to another world. And the grave is their new home. Because of that concept, our people have a tradition of attending grave-sweeping ceremonies for relatives in the spring. This custom represents the Vietnamese tradition of remembering when drinking water, remembering its source, and living a life that lasts forever. And that is also my family's annual activity, but this year I have had the opportunity to fully realize the good meaning of that cultural tradition.
Spring has come, heaven and earth and people's hearts are celebrating, everyone feels excited in the joy of a reborn vitality that covers all things. In the joy of those first days of the year, the living do not forget the dead. These are grandparents, ancestors, loved ones who have passed away, but in the minds of Vietnamese people, "death is the body, but also the spirit" ("The Tale of Kieu" - Nguyen Du), their soul. will be at rest and warmed if those who stay behind always remember them. In the first days of this spring, people go tomb-sweeping, that is, to visit and repair the graves of ancestors, grandparents, or deceased relatives with all their hearts of remembrance, gratitude, and prayer. Hope peace and happiness will come to the entire family.
All preparations for the grave sweeping ceremony were completed by my mother the night before. There are votive papers, floral scents, sticky rice, spring rolls, betel and areca nuts, wine... All are carefully and carefully selected by my mother at the market. My mother said that the vessels for burning incense and worshiping must be the most beautiful and best-looking items to show the children's respect for their grandparents and ancestors. This year, I am older so my mother let me go to the market to help her with the preparations. I also had the opportunity to understand more about this ancient custom.
My whole family woke up early to get on the bus to go home on time. Looking at the basket of offerings in my father's hand, I couldn't help but feel nervous and emotional at the thought of going to a solemn and sacred place to visit the graves of my relatives. The thought of feeling more mature and dignified made me suddenly adjust my clothes and hair before getting in the car. Through the car window, the surrounding scenery becomes even more blurred in the morning mist. The first few drops of sunlight quietly penetrated through the blanket of floating clouds, hiding in the dew drops on the petals, making the already beautiful flower even more splendid and charming. The sky has opened wide and clear. Each gentle breeze carries the scent of flowers and grass. Here and there, the clear, mischievous sounds of birds awaken everything.
Arriving at the cemetery, I set my feet on the young grass that was still damp with dew. Going to the family grave, my parents quickly repaired the graves. Trim the grass, plant more chrysanthemum bushes, this plant with green leaves, small, bright yellow flowers blooming on the grave will look very beautiful. I also helped my parents collect wild plants to make a pile. After that, her mother prepared a solemn and neat placing ceremony on top of the graves. Burning incense sticks, the whole family sincerely bowed their heads and prayed. This was the first time I went to visit a grave. I didn't know how to pray. I could only clasp my hands and pray for my entire family to have good health, peace, and luck. My heart suddenly filled with faith and hope for a good study result when I thought that there would always be relatives by my side to support and help me.
|
Dàn ý chi tiết
A. Mở bài
– “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là niềm tự hào của dân tộc ta. Nhân vật trung tâm của thi phẩm được nhà thơ xây dựng bằng cả tài năng và tấm lòng.
– Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã diễn tả bức chân dung nàng Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn.
B. Thân bài
1. Giới thiệu về đoạn thơ
– Vị trí, nội dung: Đoạn thơ nằm trong phần đầu của thi phẩm, “gặp gỡ và đính ước”, diễn tả bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
– Nghệ thuật: bút pháp cổ điển điêu luyện:
2 . Phân tích :
2.1. Vẻ đẹp của nhan sắc:
– “Kiều càng sắc sảo mặn mà”: quan hệ từ “càng” kết hợp với hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
– “Làn……sơn”: bút pháp ước lệ:
+ “làn thu thủy”: đôi mắt long lanh, sống động, sâu thẳm như làn nước mùa thu
+ “nét xuân sơn”: nét mày tươi xanh, mềm mại, mơn mởn đẹp như dáng núi mùa xuân tươi trẻ.
-> không miêu tả tỉ mỉ, chỉ là những nét chấm phá điểm nhãn nhưng tất cả đều hoàn mĩ. Đôi mắt là “gương” soi là “cửa sổ tâm hồn”, không chỉ mang vẻ đẹp bên ngoài mà ẩn chứa thế giới tâm hồn bên trong.
– “Hoa ghen, liễu hờn”: phép nhân hóa, vẻ đẹp tuyệt đích khiến thiên nhiên nổi giận, hờn ghen.
2.2. Vẻ đẹp tài năng
– Tố chất thông minh do trời phú, cầm, kì, thi, họ đều đến mức điêu luyện
+ Tài đánh đàn: thể hiện qua từ ngữ “ làu, ăn đứt”: tài đàn đạt đến đỉnh cao, rất mực tài hoa.
+ Soạn khúc: “ bạc mệnh” Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú. khúc nhạc dự đoán cho số phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này.
– Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận thể hiện quan niệm “ thiên mệnh” của nho giáo, thuyết “tài mệnh tương đố” của N.Du
( Đầu t/p N.Du viết: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cuối t/p “ chữ tài đi với chữ tai một vần”)
=> Kiều đẹp quá, tài hoa quá, hoàn hảo quá nên không thể tránh khỏi “hồng nhan bạc mệnh”.
2.3. Vẻ đẹp tâm hồn
– “Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
+“Mai cốt cách”: là cốt cách của mai: dáng mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái.
+“tuyết tinh thần”: tinh thần của tuyết: trắng trong, tinh khiết, thanh sạch
+“mười phân vẹn mười”: vẻ đẹp toàn diện
=> Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
– Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu”, “tường đông ong bướm đi về mặc ai” khuôn phép, đức hạnh mẫu mực.
3. Tổng hợp, đánh giá:
– Về NT:
+ Cách miêu tả khắc họa vẻ đẹp nhân vật của ND rất tinh tế
+ Dùng thủ pháp cổ điển m.tả ước lệ tượng trưng
+ Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao.
– Về ND
Thúy Kiều là tuyệt thế giai nhân: trẻ, ngây thơ, trong trắng, đẹp sắc sảo mặn mà dự báo được số phận, cuộc đời bất hạnh.
C. Kết bài
– Đoạn trích là những vần thơ tuyệt tác trong Truyện Kiều bởi: Cái tài của N.Du thật đáng kính nể. Hơn cả là tấm lòng
– Mỗi chữ mỗi lời trong đoạn thơ đều ẩn chứa niềm thương yêu tôn quý con người. Tinh thần nhân văn cao quý khiến truyện Kiều trở nên bất tử.
Cảm nhận vẻ đẹp Thúy Kiều
Bài văn tham khảo:
Có ai đó nói rằng: “truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Nhận xét đã phần nào nói lên được giá trị của Truyện Kiều trong nền văn học dân tộc. Nhân vật trung tâm của thi phẩm được nhà thơ xây dựng bằng cả tài năng và tấm lòng. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã diễn tả bức chân dung nàng Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn.
Đoạn thơ nằm trong phần đầu của thi phẩm, thuộc phần “Gặp gỡ và đính ước”, diễn tả bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân qua bút pháp cổ điển điêu luyện.
Trong hai cô gái trẻ, nhà thơ miêu tả sắc đẹp của nàng Thúy Vân trước, vẻ đẹp tưởng chừng như không ai sánh bằng. Nhưng rồi Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân dường như chỉ là nền tôn lên vẻ đẹp của Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn”
Quan hệ từ “càng” kết hợp với hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Cặp mắt của nàng hiện lên trong trẻo, long lanh, sống động, sâu thẳm, có hồn như làn nước mùa thu qua biện pháp ẩn dụ “Làn thủy tinh, nét xuân sơn”. Lông mày thì thanh nhẹ, tươi trẻ, mềm mại đẹp tựa như nét núi mùa xuân. Ta có thể hình dung được vẻ đẹp của nàng Kiều nhẹ nhàng mà sâu lắng. Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ thường gặp trong văn thơ cổ xưa. Các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, liệt kê, tương hỗ, đối xứng…được vận dụng tuyệt đối đưa sắc đẹp của Thúy Kiều lên tuyệt đỉnh.
“Hoa ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh”
Nếu như vẻ đẹp của Thúy Vân khiến thiên nhiên phải “thua”, “nhường” thì vẻ đẹp của Kiều khiến thiên nhiên phải ghen tị. Đến cả “Hoa”, “Liễu” là những loài vô tri, vô giác cũng phải ghen hờn, tức giận vì đẹp như hoa cũng không thể so với sắc thắm của nàng, xanh tươi, mềm mại như liễu cũng không thể sánh nổi sức sống tươi trẻ, thanh xuân của nàng. Câu thơ như ẩn chứa điềm dự báo trước về tương lai, số phận của Thúy Kiều “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
Nhan sắc tuyệt đẹp, lại có tài năng nên vẻ đẹp của nàng Kiều càng thêm lộng lẫy. “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, ý thơ diễn tả luận về nhan sắc, Kiều đứng thứ nhất, còn luận về tài năng, nàng đứng thứ hai, hoặc may ra mới có người thứ hai có được tài năng như nàng. Tài năng ấy được bắt nguồn từ trí thông minh thiên phú “Thông minh vốn sẵn tính trời”, và được thể hiện thành tài nghệ cầm, kì, thi, họa. Tất cả đều dạt ở mức tuyệt đích, xuất chúng.
“Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Riêng về tài đánh đàn, Nguyễn Du đã sử dụng các tình từ “làu”, “ăn đứt” để ngợi ca tài năng của nàng thật điêu luyện, không ai sánh kịp. Không những thế, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, nội tâm phong phú, sâu thẳm, nàng tự soạn khúc bạc mệnh làm não lòng người nghe “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Đọc đến đây, bạn đọc như có dự cảm về tương lai bạc mệnh của người con gái tài sắc vẹn toàn như vậy.
Nhan sắc, tài năng, người con gái ấy còn để lại ấn tượng sâu sắc bởi tâm hồn sáng trong, cao đẹp. Điều này được nhà thơ nhắc đến ngay ở những vần thơ đầu tiên:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
“Mai cốt cách”: là cốt cách của mai, mang dáng vẻ mảnh mai, sắc đẹp rực rỡ, hương thơm quý phái, “tuyết tinh thần” là có tinh thần của tuyết, trắng trong, tinh khiết, thanh sạch. Vẻ đẹp của nhan sắc, tài năng, tâm hồn hài hòa, trọn vẹn đến “mười phân vẹn mười”- vẻ đẹp của sự toàn diện, toàn bích.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Cuộc sống “êm đềm” của các cô gái trẻ Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê thực“ phong lưu”, đủ đầy, sung túc. Cả hai nàng đều xinh đẹp nhưng vẫn hết sức giữ gìn (tường đông ong bướm đi về mặc ai) khuôn phép, đức hạnh mẫu mực. Đó là cách ứng xử của các cô gái con nhà gia giáo khiến người đọc không thể không yêu mến, ngưỡng mộ.
|
Dàn ý chi tiết
A. Mở bài
– “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là niềm tự hào của dân tộc ta. Nhân vật trung tâm của thi phẩm được nhà thơ xây dựng bằng cả tài năng và tấm lòng.
– Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã diễn tả bức chân dung nàng Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn.
B. Thân bài
1. Giới thiệu về đoạn thơ
– Vị trí, nội dung: Đoạn thơ nằm trong phần đầu của thi phẩm, “gặp gỡ và đính ước”, diễn tả bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
– Nghệ thuật: bút pháp cổ điển điêu luyện:
2 . Phân tích :
2.1. Vẻ đẹp của nhan sắc:
– “Kiều càng sắc sảo mặn mà”: quan hệ từ “càng” kết hợp với hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
– “Làn……sơn”: bút pháp ước lệ:
+ “làn thu thủy”: đôi mắt long lanh, sống động, sâu thẳm như làn nước mùa thu
+ “nét xuân sơn”: nét mày tươi xanh, mềm mại, mơn mởn đẹp như dáng núi mùa xuân tươi trẻ.
-> không miêu tả tỉ mỉ, chỉ là những nét chấm phá điểm nhãn nhưng tất cả đều hoàn mĩ. Đôi mắt là “gương” soi là “cửa sổ tâm hồn”, không chỉ mang vẻ đẹp bên ngoài mà ẩn chứa thế giới tâm hồn bên trong.
– “Hoa ghen, liễu hờn”: phép nhân hóa, vẻ đẹp tuyệt đích khiến thiên nhiên nổi giận, hờn ghen.
2.2. Vẻ đẹp tài năng
– Tố chất thông minh do trời phú, cầm, kì, thi, họ đều đến mức điêu luyện
+ Tài đánh đàn: thể hiện qua từ ngữ “ làu, ăn đứt”: tài đàn đạt đến đỉnh cao, rất mực tài hoa.
+ Soạn khúc: “ bạc mệnh” Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú. khúc nhạc dự đoán cho số phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này.
– Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận thể hiện quan niệm “ thiên mệnh” của nho giáo, thuyết “tài mệnh tương đố” của N.Du
( Đầu t/p N.Du viết: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cuối t/p “ chữ tài đi với chữ tai một vần”)
=> Kiều đẹp quá, tài hoa quá, hoàn hảo quá nên không thể tránh khỏi “hồng nhan bạc mệnh”.
2.3. Vẻ đẹp tâm hồn
– “Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
+“Mai cốt cách”: là cốt cách của mai: dáng mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái.
+“tuyết tinh thần”: tinh thần của tuyết: trắng trong, tinh khiết, thanh sạch
+“mười phân vẹn mười”: vẻ đẹp toàn diện
=> Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
– Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu”, “tường đông ong bướm đi về mặc ai” khuôn phép, đức hạnh mẫu mực.
3. Tổng hợp, đánh giá:
– Về NT:
+ Cách miêu tả khắc họa vẻ đẹp nhân vật của ND rất tinh tế
+ Dùng thủ pháp cổ điển m.tả ước lệ tượng trưng
+ Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao.
– Về ND
Thúy Kiều là tuyệt thế giai nhân: trẻ, ngây thơ, trong trắng, đẹp sắc sảo mặn mà dự báo được số phận, cuộc đời bất hạnh.
C. Kết bài
– Đoạn trích là những vần thơ tuyệt tác trong Truyện Kiều bởi: Cái tài của N.Du thật đáng kính nể. Hơn cả là tấm lòng
– Mỗi chữ mỗi lời trong đoạn thơ đều ẩn chứa niềm thương yêu tôn quý con người. Tinh thần nhân văn cao quý khiến truyện Kiều trở nên bất tử.
Cảm nhận vẻ đẹp Thúy Kiều
Bài văn tham khảo:
Có ai đó nói rằng: “truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Nhận xét đã phần nào nói lên được giá trị của Truyện Kiều trong nền văn học dân tộc. Nhân vật trung tâm của thi phẩm được nhà thơ xây dựng bằng cả tài năng và tấm lòng. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã diễn tả bức chân dung nàng Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn.
Đoạn thơ nằm trong phần đầu của thi phẩm, thuộc phần “Gặp gỡ và đính ước”, diễn tả bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân qua bút pháp cổ điển điêu luyện.
Trong hai cô gái trẻ, nhà thơ miêu tả sắc đẹp của nàng Thúy Vân trước, vẻ đẹp tưởng chừng như không ai sánh bằng. Nhưng rồi Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân dường như chỉ là nền tôn lên vẻ đẹp của Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn”
Quan hệ từ “càng” kết hợp với hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Cặp mắt của nàng hiện lên trong trẻo, long lanh, sống động, sâu thẳm, có hồn như làn nước mùa thu qua biện pháp ẩn dụ “Làn thủy tinh, nét xuân sơn”. Lông mày thì thanh nhẹ, tươi trẻ, mềm mại đẹp tựa như nét núi mùa xuân. Ta có thể hình dung được vẻ đẹp của nàng Kiều nhẹ nhàng mà sâu lắng. Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ thường gặp trong văn thơ cổ xưa. Các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, liệt kê, tương hỗ, đối xứng…được vận dụng tuyệt đối đưa sắc đẹp của Thúy Kiều lên tuyệt đỉnh.
“Hoa ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh”
Nếu như vẻ đẹp của Thúy Vân khiến thiên nhiên phải “thua”, “nhường” thì vẻ đẹp của Kiều khiến thiên nhiên phải ghen tị. Đến cả “Hoa”, “Liễu” là những loài vô tri, vô giác cũng phải ghen hờn, tức giận vì đẹp như hoa cũng không thể so với sắc thắm của nàng, xanh tươi, mềm mại như liễu cũng không thể sánh nổi sức sống tươi trẻ, thanh xuân của nàng. Câu thơ như ẩn chứa điềm dự báo trước về tương lai, số phận của Thúy Kiều “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
Nhan sắc tuyệt đẹp, lại có tài năng nên vẻ đẹp của nàng Kiều càng thêm lộng lẫy. “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, ý thơ diễn tả luận về nhan sắc, Kiều đứng thứ nhất, còn luận về tài năng, nàng đứng thứ hai, hoặc may ra mới có người thứ hai có được tài năng như nàng. Tài năng ấy được bắt nguồn từ trí thông minh thiên phú “Thông minh vốn sẵn tính trời”, và được thể hiện thành tài nghệ cầm, kì, thi, họa. Tất cả đều dạt ở mức tuyệt đích, xuất chúng.
“Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Riêng về tài đánh đàn, Nguyễn Du đã sử dụng các tình từ “làu”, “ăn đứt” để ngợi ca tài năng của nàng thật điêu luyện, không ai sánh kịp. Không những thế, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, nội tâm phong phú, sâu thẳm, nàng tự soạn khúc bạc mệnh làm não lòng người nghe “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Đọc đến đây, bạn đọc như có dự cảm về tương lai bạc mệnh của người con gái tài sắc vẹn toàn như vậy.
Nhan sắc, tài năng, người con gái ấy còn để lại ấn tượng sâu sắc bởi tâm hồn sáng trong, cao đẹp. Điều này được nhà thơ nhắc đến ngay ở những vần thơ đầu tiên:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
“Mai cốt cách”: là cốt cách của mai, mang dáng vẻ mảnh mai, sắc đẹp rực rỡ, hương thơm quý phái, “tuyết tinh thần” là có tinh thần của tuyết, trắng trong, tinh khiết, thanh sạch. Vẻ đẹp của nhan sắc, tài năng, tâm hồn hài hòa, trọn vẹn đến “mười phân vẹn mười”- vẻ đẹp của sự toàn diện, toàn bích.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Cuộc sống “êm đềm” của các cô gái trẻ Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê thực“ phong lưu”, đủ đầy, sung túc. Cả hai nàng đều xinh đẹp nhưng vẫn hết sức giữ gìn (tường đông ong bướm đi về mặc ai) khuôn phép, đức hạnh mẫu mực. Đó là cách ứng xử của các cô gái con nhà gia giáo khiến người đọc không thể không yêu mến, ngưỡng mộ.
|
Bài làm
Giữa thế kỉ trước, nhà thơ Huy Cận có hai câu thơ còn thấm mãi cho đến tận bây giờ:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang)
Thì ra, khi người ta bỗng cảm thấy mình thật là cô đơn, thật là bé nhỏ trước cuộc đời, người ta nghĩ đến “nhà”, đến gia đình mình như một nơi chia sẻ, một chốn an ủi cuối cùng.
Đau khổ và bất hạnh biết chừng nào cho những ai không có một mái nhà xưa để trở về, một gia đình thân yêu để tìm đến trên mỗi chặng thành công hay thất bại của cuộc đời.
Gia đình, ấy là nơi gần nhất gắn liền ta với cuộc đời. Gia đình, ấy là tế bào đầu tiên để tạo nên cơ thể một xã hội, một đất nước. Không phải bỗng dưng mà giữa những ngày gay go nhất của cuộc chiến tranh giữ nước, nhà văn Ilya Erenburg của nước Nga đã viết nên câu văn bất hủ này:
“Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê, trở nên lòng yêu tổ quốc .
Quả vậy nếu anh không yêu ngôi nhà của anh, anh không yêu những người thân yêu trong chính gia đình anh, xin anh chớ nói với ai rằng anh yêu bạn bè, anh yêu mọi người hay anh yêu nhân loại! Không ai tin lời anh đâu. Bởi anh hãy yêu cái nhân loại ngay bên cạnh anh kia đã? Có cái gia đình ấy rồi mới có nhân loại kia đấy!
Có lẽ có một hồi, say mê với những giá trị của cá nhân, người ta tôn vinh cá nhân như cốt lõi của cuộc sống, hay như “cái rốn của vũ trụ”, để rồi người ta nhận lấy những tấn bi kịch và những nỗi đau.
|
Assignment
In the middle of the last century, poet Huy Can had two verses that still resonate until now:
The heart of the countryside resembles the water
No smoke at sunset also reminds me of home.
(Trang Giang)
It turns out, when people suddenly feel very lonely, very small in front of life, they think of "home", of their family as a place of sharing, a place of final comfort.
How painful and unhappy it is for those who do not have an old home to return to, a beloved family to look up to in every success or failure of life.
Family is the closest place that connects us to life. Family is the first cell to create a society and a country. It was not by chance that in the midst of the most difficult days of the war, Russian writer Ilya Erenburg wrote this immortal sentence:
“The stream flows into the river, the river flows into the great river Vol-ga, the river Vol-ga goes to the sea. Love for home, love for the village, love for the countryside, becomes love for the country.
Indeed, if you do not love your home, you do not love your loved ones in your own family, please do not tell anyone that you love your friends, you love people or you love humanity! No one believes what you say. Because you should love the humanity right next to you first? Only with that family can there be humanity!
Perhaps there was a time when, infatuated with the values of the individual, people honored the individual as the core of life, or as the "navel of the universe", and then they received tragedies and the pain.
|
Gợi ý
a. Mở bài
– Hiếu học là truyền thống cao đẹp của người Việt Nam.
– Học sinh đạt giải trong các kì thi quốc tế luôn là niềm tự hào của thế hệ trẻ nói riêng và cả nước nói chung.
b. Thân bài
– Những thành quả trí tuệ của học sinh Việt Nam trong các kì thi quốc tế.
+ Các kì thi học sinh giỏi quốc tế là một sân chơi trí tuệ cho những người trẻ tuổi
+ Những thành tích mà học sinh Việt Nam đạt được.
– Những thứ hạng và những giải đặc biệt của các môn dự thi.
– Đánh giá của bạn bè quốc tế.
– Suy nghĩ của bản thân về trí tuệ Việt Nam: Xúc động, tự hào, khâm phục:
– Vui mừng trước những thành tích mà học sinh Việt Nam đạt được.
– Xúc động, tự hào khi quốc kì và quốc ca Việt Nam cất lên ở lễ trao giải.
– Ngưỡng mộ, khâm phục tài năng, trí tuệ Việt Nam góp phần làm rạng danh đất nước.
+ Suy nghĩ về tinh thần hiếu học của các học sinh Việt Nam:
– Thành quả đó là sự kế thừa truyền thống cần cù, chăm chỉ của dân tộc Việt Nam ngàn đời nay.
– Kết quả đó còn cho thấy tinh thần, thái độ học tập đúng đắn; niềm say mê học tập và cả ý chí, nghị lực, quyết tâm vượt khó để đạt được những kì tích trên lĩnh vực học tập của học sinh Việt Nam.
– Họ đã biết vượt lên hoàn cảnh của bản thân, điều kiện học tập còn hạn chế của đất nước để khẳng định trí tuệ Việt Nam trên trường quốc tế.
+ Những đề đạt, mong muốn:
– Nhà nước quan tâm tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được bộc lộ tài năng và có chính sách đãi ngộ thoả đáng.
|
Suggest
a. Opening
– Being studious is a noble tradition of Vietnamese people.
– Students winning prizes in international competitions are always the pride of the young generation in particular and the whole country in general.
b. Body of the article
– Intellectual achievements of Vietnamese students in international exams.
+ International excellent student exams are an intellectual playground for young people
+ The achievements that Vietnamese students have achieved.
– Rankings and special prizes for participating subjects.
– Evaluation from international friends.
– My own thoughts about Vietnamese intelligence: Touched, proud, admired:
– Happy with the achievements that Vietnamese students have achieved.
– Touched and proud when the Vietnamese national flag and national anthem were played at the awards ceremony.
– Admiring and admiring Vietnamese talent and intelligence, contributing to the country's reputation.
+ Thinking about the studious spirit of Vietnamese students:
– That achievement is the inheritance of the tradition of diligence and hard work of the Vietnamese people for thousands of years.
– Those results also show the right learning spirit and attitude; Vietnamese students' passion for learning and the will, energy, and determination to overcome difficulties to achieve miracles in the field of study.
– They know how to overcome their own circumstances and the country's limited learning conditions to affirm Vietnamese intelligence in the international arena.
+ Suggestions and wishes:
– The State pays attention to creating conditions for the young generation to express their talents and have adequate remuneration policies.
|
Bài làm
Một con người giàu đức độ, tài năng, ắt có nhiều phẩm chất cao quý, bao đức tính tốt đẹp. Muốn trở thành một con người chân chính, ai cũng phải không ngừng tu dưỡng đạo đức. Trong những đức tính cần có, cần tu dưỡng là tính thẳng thắn, tính thật thà.
Thế nào là thẳng thắn, thật thà?
Thẳng thắn có nghĩa là trong lời nói, cử chỉ, hành động, không quanh co, không giấu giếm, có sao nói vậy, làm được bao nhiêu nói bấy nhiêu.
Thật thà là tự bộc lộ mình một cách tự nhiên, không giả dối, không giả tạo. Không tham lam của cải của người khác, không tắt mắt của cải của ai mới là con người thật thà.
Vừa ngay thẳng, thẳng thắn, vừa thật thà thì mới gọi là trung thực. Ngày xưa, người quân tử thể hiện tính trung thực trong lập ngôn, lập đức, lập công. Ngày nay cán bộ sống và làm việc với tinh thần trung thực, để phục vụ nhân dân và phục vụ Tổ quốc.
Tại sao phải tu dưỡng tính thẳng thắn, tính thật thà? Thẳng thắn, thật thà, trung thực là cái gốc đạo đức, ai cũng cần tu dưỡng liên tục, thường xuyên để hoàn thiện nhân cách. Lòng hiếu thảo của. con cháu đối với ông bà, cha mẹ do lòng trung thực mà nên. Kính thầy, thương bạn do lòng trung thực mà có. Bất hiếu, bất đễ, vong ân bội nghĩa, lừa thầy phản bạn,… đều do thiếu tình người, thiếu thật thà trung thực. Làm láo báo cáo hay, che giấu dư luận, bưng bít thông tin… đều bắt nguồn từ thiếu minh bạch, thiếu trung thực của bọn cán bộ, đảng viên sa đọa, biến chất.
Các tệ nạn như quay cóp trong học tập, mua bán bằng cấp, chạy chức, chạy quyền, bán hàng giả… đều do cách sống lèm nhèm, thiếu trung thực của một bộ phận nào đó trong xã hội ta hiện nay.
|
Assignment
A person rich in virtue and talent must have many noble qualities and many good qualities. To become a true person, everyone must constantly cultivate morality. Among the necessary virtues that need to be cultivated are straightforwardness and honesty.
What is frankness and honesty?
Being straightforward means that in speech, gestures, and actions, there is no pretense, no concealment, no matter what you say, what you say is what you say.
Honesty is expressing yourself naturally, without deception or pretense. Not being greedy for other people's wealth, not turning a blind eye to anyone else's wealth is an honest person.
Being honest, straightforward, and honest is called honesty. In the past, gentlemen demonstrated honesty in their words, their virtues, and their merits. Today, officials live and work with a spirit of honesty, to serve the people and serve the Fatherland.
Why must we cultivate straightforwardness and honesty? Frankness, sincerity, and honesty are the roots of morality, everyone needs to cultivate continuously and regularly to perfect their personality. Filial piety. Children and grandchildren should be honest with their grandparents and parents. Respect your teacher and love your friend because of your honesty. Being unfilial, unkind, ungrateful, betraying your teacher, betraying your friend,... are all due to a lack of human love, a lack of honesty and integrity. Falsifying good reports, concealing public opinion, concealing information... all stem from the lack of transparency and honesty of corrupt and corrupt officials and party members.
Evils such as cheating in studying, buying and selling degrees, running for office, running for power, selling fake goods... are all caused by the dirty, dishonest way of life of a certain part of our society today.
|
Bài làm
Ông bà ta thường nhắc con cháu: “Buôn tàu bán. bè không bằng ăn dè, dành dụm” hoặc: “Miệng ăn núi lở”.
Đó là những câu tục ngữ nói về tiết kiệm và hoang phí. Tiết kiệm còn gọi là dành dụm. Hoang phí gần nghĩa với xa hoa, xa xỉ. Tiết kiệm là tính tốt, là lối sống đẹp.
Hoang phí là một tính xấu, là lối sống tiêu cực.
Nước ta hiện nay chưa giàu, dân ta (nhiều gia đình, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa) còn thiếu thôn, nghèo khó nên ai cũng phải tiết kiệm, không nên hoang phí. Tiết kiệm để dành vón mà làm ăn, tái sản xuất, kinh doanh. Tiết kiệm để nuôi con ãn học. Tiết kiệm để phòng xa: “Ẩn khi lành, để dành khi ốm”. Nông dân phải tiết kiệm, phải “tích cốc phòng cơ”, phải dự phòng tháng ba ngày tám, khi lũ lụt bão tố, dịch bệnh,…
Tiết kiệm là đạo đức. Giàu có, nhiều tiền bạc cũng nên ăn tiêu “vừa phải”, không hoang phí, xa hoa mà nên bớt ra một ít để tương trợ người nghèo, giúp kẻ ốm đau họan nạn, giúp các em nhỏ mồ côi, giúp các nạn nhân chất độc da cam. Tiết kiệm để “lá lành đùm lá rách”. Như thế là biết sống vì tình người!
|
Assignment
Our grandparents often remind their children and grandchildren: "Train and sell ships. Friends are not as good as being frugal and saving" or: "Moving to eat is a landslide".
These are proverbs about thrift and wastefulness. Saving is also called savings. Extravagance is close in meaning to extravagance and luxury. Saving is a good trait, a beautiful lifestyle.
Wastefulness is a bad trait, a negative lifestyle.
Our country is not currently rich, our people (many families, especially in rural and remote areas) still lack villages and are poor, so everyone must save and not be wasteful. Save money to start a business, reproduce, and do business. Save money to feed your children. Save for future: "Hide when you're healthy, save when you're sick." Farmers must save money, must "save for rainy days", must have provisions for March and August, when floods, storms, epidemics, etc.
Saving is virtuous. Even if you are rich and have a lot of money, you should spend it "moderately", not wastefully or lavishly, but you should spend a little to support the poor, help the sick and in trouble, help orphans, and help victims. Agent Orange agent. Save money to "cover the torn leaves with good leaves". That's how to live for human love!
|
Bài làm
Vệ sinh là một vấn đề vô cùng quan trọng, vô cùng thiết yếu đối với mọi người, đối với cộng đồng. Câu chuyện cổ “Ba ông thầy thuốc giỏi”, nhiều người đã biết: thầy Sạch sẽ được xếp thứ nhất, đứng trước hai ông thầy Điều độ và thầy Thể thao. Qua đó, ta càng hiểu rõ vân đề vệ sinh quan trọng như thế nào?
Vậy, thế nào là vệ sinh? – Vệ sinh là những biện pháp phòng bệnh, giữ gìn và tăng cường sức khoẻ. Nói một cách khác, đó là lôi sống, lối sinh họat rất sạch sẽ và văn minh, không bẩn thỉu, bừa bãi.
Có hai thứ vệ sinh: vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng. Vệ sinh cá nhân là cách sống sạch sẽ, văn minh gắn liền với sinh họat hằng ngày của mỗi người như ăn, ngủ, tắm giặt, đại tiểu tiện, v.v… Đánh răng, rửa mặt, tắm rửa sao cho sạch sẽ, thơm tho là vệ sinh. Áo quần phải giặt, phơi sạch sẽ, khô ráo. Phải thường xuyên gội đầu. Giường, chiếu, chăn, màn phải sạch sẽ. Nhà cửa phải thoáng đãng, phải quét dọn thường xuyên. Nồi, niêu, mâm, bát, đũa, phải lau rửa sạch sẽ. Nơi tiểu tiện, đại tiện phải hết sức sạch sẽ.
Vệ sinh cá nhân thể hiện cách sống sạch sẽ, văn minh, khoa học… của mỗi người. Bẩn thỉu, hôi hám, đầu tóc, áo quần đầy chấy rận,… sao gọi là sống có vệ sinh?
Tục ngữ có câu: “Sạch nhà thỉ mát, sạch bát thì ngon” đã nêu lên bài học vệ sinh cho mỗi người.
Vệ sinh cá nhân chưa đủ mà còn phải biết giữ gìn vệ sinh công cộng. Trường học, bệnh viện, đường phố, nhà ga, bến xe, công viên,… là những nơi mà bất cứ ai cũng có trách nhiệm và nghĩa vụ giữ gìn vệ sinh. Hiện tượng xả rác, vưt túi ni-lông, phóng uế bừa bãi nơi công cộng không chỉ làm mất vệ sinh mà còn biểu hiện một nếp sông thiếu văn minh lịch sự.
Đến Văn miếu Quốc tử giám, quanh Hồ Tây, Hồ Gươm, vườn hoa… ta vẫn thấy nhiều rác, nhiều túi ni-lông, vứt ngổn ngang, la liệt, trôi lềnh bềnh. Thật mất vệ sinh và mĩ quan công cộng.
Tại sao phải giữ gìn vệ sinh? Giữ gìn vệ sinh là để giữ gìn sức khoẻ, là để bảo vệ môi sinh, môi trường “xanh, sạch, đẹp”, để được sống văn minh, tiến bộ, khoa học. Đường phố chật chội, đầy bụi khói, tắc ùn xe cộ, cống rãnh đen ngòm, hôi thôi, tù đọng là hiện tượng đáng sợ khi ta nghĩ đến hai tiếng “vệ sinh”
|
Assignment
Sanitation is an extremely important and essential issue for everyone and the community. Many people know the old story "The Three Good Doctors": Mr. Clean will be ranked first, ahead of the two teachers of Moderation and Mr. Sports. Through that, we understand more clearly how important hygiene is?
So, what is hygiene? – Hygiene is a measure to prevent disease, preserve and promote health. In other words, it is a lifestyle, a very clean and civilized way of life, not dirty or messy.
There are two types of hygiene: personal hygiene and public hygiene. Personal hygiene is a clean, civilized way of living associated with each person's daily activities such as eating, sleeping, bathing, urinating, etc. Brushing teeth, washing face, and bathing to be clean and fragrant tho is hygiene. Clothes must be washed, dried, and cleaned. Must wash hair regularly. Beds, mats, blankets, and curtains must be clean. The house must be airy and cleaned regularly. Pots, pans, trays, bowls, and chopsticks must be cleaned thoroughly. Urination and defecation places must be extremely clean.
Personal hygiene represents a clean, civilized, scientific way of life... of each person. Dirty, smelly, hair, clothes full of lice,... how can you call living hygienic?
There is a proverb: "A clean house is cool, a clean bowl is delicious" teaches a hygiene lesson for everyone.
Personal hygiene is not enough, you must also know how to maintain public hygiene. Schools, hospitals, streets, train stations, bus stations, parks,... are places where everyone has the responsibility and obligation to keep clean. The phenomenon of littering, throwing away plastic bags, and defecating in public places is not only unhygienic but also shows a lack of civility and courtesy.
Coming to the Temple of Literature, around West Lake, Sword Lake, flower gardens... we still see a lot of trash, many plastic bags, scattered, scattered, floating. It's unhygienic and unsightly.
Why must maintain hygiene? Maintaining hygiene is to maintain health, to protect the environment, a "green, clean, beautiful" environment, to live civilized, progressive, and scientifically. Cramped streets, full of dust and smoke, traffic jams, black, smelly, stagnant sewers are scary phenomena when we think of the two words "sanitation".
|
Bài làm
Bạn đã nhìn thấy kẻ nóng nảy một lần nào chưa? Bạn đã chứng kiến một sự việc, vụ việc do kẻ nóng nảy gây ra chưa? Nóng nảy là một tính xấu. Kẻ nóng nảy không được ai ưa, thậm chí bị mọi người ghét, không ai muốn tiếp xúc với kẻ nóng nảy.
Nóng nảy là thiếu bình tĩnh trong quan hệ đối xử, dễ nổi nỏng, dễ bất bình, dễ có phản ứng dữ dội, gay gắt, thường gây ra nhiều chuyện đáng trách, đáng tiếc. Có câu ví mà nhiều người hay nhắc đến: “Nóng như Trương Phi”.
Kẻ nóng nảy do bản tính xấu. Lúc trạnh luận thì mặt đỏ tía tai, thái độ hung hăng, dữ tợn, nói to, hay quát nạt, chân tay múa may. Kẻ nóng nảy rất hiếu thắng, cãi nhau tay đôi mà rơi vào thế bí thì dùng lí sự cùn, dùng lời lẽ thô lỗ, cục cằn, để áp chế, để đe nạt, đe dọa. Kẻ nóng nảy thường ăn nói tục tằn, nếu có việc gì mà không bằng lòng, hài lòng thì hắn ta chửi mắng, và gây sự đánh nhau!
Kẻ nóng nảy không để ý tới chân lí, coi thường tình người, luôn gây ra ẩu đả, xung đột. Mọi chuyện bạo hành, bạo lực xảy ra trong gia đình, ngoài xã hội đều do kẻ nóng nảy gây ra.
Học sinh đánh bạn bị thương, đánh bạn bị chết, kéo bè kéo cánh chửi bới lẫn nhau, gây ra bao chuyện đau lòng cho cha mẹ, cho các thầy cô giáo mà báo chí và dư luận chê trách, lên án đều do học sinh hư, học sinh cá biệt gây ra. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng một phần lớn do kẻ nóng nảy, kẻ “mất dạy” gây ra và cầm đầu.
Bố mẹ nóng giận mà chửi mắng, đánh đập con cái là điều không nên. Vợ chồng nóng giận, anh em bất hoà mà chửi bới nhau, đánh đập nhau, gây ra chuyện đau lòng là chuyện xấu. Có thầy cô giáo nóng giận đã bắt học trò quỳ, bắt đứng úp mặt vào tường, dùng lời lẽ gay gắt xúc phạm đến nhân cách học sinh là chuyện đáng chê. Những vụ ẩu đả, đâm chém xảy ra ở nơi này nơi nọ, đều do các băng đảng xã hội đen gây ra, kẻ cầm đầu thật ghê tởm, thật đáng sợ. Chúng còn hồ đồ, còn dữ tợn, còn nóng hơn lửa, nóng nảy hơn cả Trương Phi. Kẻ nóng nảy trở nên mất hết nhân tính!
Người khôn ngoan đừng kết bạn, đừng giao thiệp với kẻ nóng nảy. Không nên tranh luận, đừng nên bàn lời hơn lẽ thiệt với kẻ nóng nảy. Không nên tiếp xúc, không nên gần, đừng có gây ra sự hiểu lầm đối với kẻ nóng nảy.
Báo chí đã đưa tin nhiều chuyện đau lòng. Anh em nhà nọ đánh nhau, bác hàng xóm sang can ngăn liền bị thằng em đánh chết! Bọn du đãng ngồi uống rượu ở quán hàng cãi nhau, một ông khách vào can ngăn, bị chúng đánh chết, chém chết! Có “nghìn lẻ một” chuyện án mạng xảy ra do kẻ nóng nảy gây ra.
Tại sao “cổ động viên” bóng đá Hải Phòng đi đến sân bóng nào cũng bị ban tổ chức và khán giả của các tỉnh bạn e ngại? Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa là vậy!
|
Assignment
Have you ever seen a hot-tempered person? Have you witnessed an incident caused by a hot-tempered person? Hot temper is a bad trait. Hot-tempered people are not liked by anyone, even hated by everyone, no one wants to come into contact with hot-tempered people.
Hot-tempered is a lack of calmness in relationships, easily angry, easily dissatisfied, prone to violent and harsh reactions, often causing many blameworthy and regrettable things. There is a saying that many people often mention: "Hot like Truong Phi".
A hot-tempered person has a bad nature. When arguing, his face turns red, his attitude is aggressive, fierce, he speaks loudly, he yells, and his arms and legs dance. A hot-tempered person is very aggressive, arguing hand-to-hand and falling into a deadlock, using blunt arguments, rude and harsh words, to oppress, to intimidate, to threaten. A hot-tempered person often speaks rudely. If he is dissatisfied or dissatisfied with something, he curses and causes fights!
Hot-tempered people do not pay attention to the truth, despise humanity, and always cause fights and conflicts. All violence that happens in the family and in society is caused by hot-tempered people.
Students beat and injure their friends, beat them to death, gang up on each other and curse each other, causing many painful things to their parents and teachers that the press and public opinion blame and condemn, all because of them. Damage caused by individual students. There may be many reasons, but a large part is caused and led by hot-tempered people and "uneducated" people.
It is not right for parents to get angry and scold or beat their children. Angry husbands and wives, discord between brothers, cursing at each other, beating each other, causing heartache is a bad thing. There are angry teachers who forced students to kneel, stood facing the wall, and used harsh words to insult the student's personality, which is reprehensible. The fights and stabbings that happen here and there are all caused by gangsters. The leader is really disgusting and scary. They are still confused, still fierce, hotter than fire, hotter than Truong Phi. The hot-tempered person loses all humanity!
Wise people do not make friends, do not associate with hot-tempered people. Don't argue, don't argue with hot-tempered people. Don't contact, don't get close, don't cause misunderstandings with hot-tempered people.
The press reported many heartbreaking stories. Brothers were fighting, the neighbor came to stop and was beaten to death by the younger brother! The thugs were sitting at a restaurant drinking and arguing, a customer went in to intervene, and they beat and hacked him to death! There are "a thousand and one" cases of murders committed by hot-tempered people.
Why are Hai Phong football "fans" afraid of going to any football stadium by the organizers and audiences of other provinces? Good news spreads near, bad news spreads far away!
|
Bài làm
Ai cũng muốn sống đẹp, cũng muốn làm người tốt được mọi người tôn trọng, kính nể. Câu châm ngôn: “Sống phải hoà nhã” đã nêu lên một cách sống và cách tu dưỡng đạo đức đối với mọi người.
Thế nào là hoà nhã? – Hoà nhã nghĩa là ôn hoà, là nhã nhặn. Hoà nhã thể hiện ở cách sống, cách ứng xử, ở lời nói và cử chỉ: nói năng hoà nhã, thái độ hoà nhã. Các nhà nho ngày xưa đã coi trọng hoà nhã, nêu cao hoà nhã lên hàng đầu trong ứng xử, theo phương châm: “Hoà nhã vi tiên”. Có lịch thiệp mới hoà nhã.
Hoà nhã là một đức tính, thể hiện một phong cách nho sĩ, phong cách quân tử mà cổ nhân đề cao. Ngày nay, hoà nhã càng cần được coi trọng, vì nó làm nổi bật tính cách, lối sống văn minh, lịch sự. Có coi trọng tình người mới biết hoà nhã trong ứng xử. Không vội vàng hấp tấp. Không hồ đồ, nổi nóng. Không thô lỗ cục cằn, áp chế người, đe dọa người. Không khiếm nhã. Câu tục ngữ sau đây đã chỉ rõ thế nào là hoà nhã, thế nào là khiếm nhã của hai tính cách, hai loại người mà ta thường thấy trong xã hội:
-“Đất tốt trồng cây rườm rà,
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng”.
-“Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
Những người tô tục nói điều phàm phu”.
Qua đó, ta biết người thanh lịch là người hoà nhã nên mới ăn nói dịu dàng trong ứng xử. Trái lại, kẻ thô tục chỉ nói điều phàm phu!
Vì biết tự trọng và biết tôn trọng, quý trọng người nên mới biết sống hoà nhã. Không áp đặt, không cửa quyền, không hống hách. Không “mày / tao” với bất cứ ai bao giờ! Không nổi nóng, không “ăn / thua” với ai! Lúc nào cũng ôn hoà, nhẹ nhàng, coi trọng tình người. Trong bất cứ việc gì cũng quan niệm, cũng lấy phương châm “được người, được việc”. Lúc nào cũng khiêm tốn, tươi vui.
|
Assignment
Everyone wants to live beautifully, and want to be a good person who is respected and respected by everyone. The maxim: "Living must be gentle" points out a way of living and cultivating morality for everyone.
What is gentleness? – Amiable means gentle, courteous. Gentleness is shown in the way of life, behavior, speech and gestures: gentle speech, gentle attitude. Confucian scholars of the past valued gentleness and promoted gentleness as the top priority in behavior, following the motto: "Gentleness is the first". Only with politeness is gentleness.
Gentleness is a virtue, demonstrating a Confucian style, a gentleman style that the ancients promoted. Nowadays, gentleness needs to be valued even more, because it highlights character and a civilized and polite lifestyle. If you value human love, you will know how to be gentle in behavior. Don't be in a hurry. Don't be confused or angry. Don't be rude, oppress people, or threaten people. Not rude. The following proverb clearly shows what is gentleness and what is rudeness of two personalities, two types of people that we often see in society:
-“Good land is cumbersome to plant trees,
Elegant people speak gently."
-"Bad soil grows spindly trees,
Profane people say profane things."
Through this, we know that elegant people are gentle people, so they speak gently in their behavior. On the contrary, vulgar people only say ordinary things!
Because we know how to respect ourselves and respect and value people, we know how to live peacefully. No imposition, no authority, no overbearing. No “you/me” to anyone ever! Don't get angry, don't "win/lose" with anyone! Always peaceful, gentle, and appreciative of human affection. In everything we do, we also think and take the motto "get people, get work". Always humble and cheerful.
|
Bài làm
Trong phong trào thi đua “Học tốt”, vấn đề tự học được nhiều người quan tâm và nhắc đến, càng trở nên thiết thực, giàu ý nghĩa.
Vậy thế nào là tự học? – Không học ở trường lớp, không có thầy dạy bảo cho, mà tự mình đọc sách, tự nghiên cứu, tự thực hành,… thì gọi là tự học.
Tại sao phải tự học? Học thầy, học ở trường, học ở lớp chưa đủ mà phải biết tự học. Hai chữ “học hành” đã bao gồm chuyện tự học. Ớ nhà, học sinh biết thức khuya dậy sớm để học bài, làm bài, đọc sách để tham khảo và giải trí, làm thí nghiệm, thực hành… là đã tự học.
Thây bạn hữu có điều gì hay, điều gì tốt là ta noi gương và làm theo. Cuộc sống là một pho sách quý đồ sộ, không có trang cuối, rất cần cho ai hiếu học để tự học, học làm người, phát triển tài năng, mở rộng và nâng cao kiến thức, tự hoàn thiện nhân cách văn hoá của mình. Các câu tục ngữ: “ Học thầy không tày học hạn”, “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”,… là những lời khuyên chí lí về việc tự học.
Cuộc sống luôn luôn phát triển và biến đổi không ngừng, có nhiều vấn đề về kinh tế, khoa học, xã hội… phát sinh nên ai cũng phải tự học. Nhà bác học cũng phải tự học. Từ trẻ đến già, ai cũng cần tự học. Biển học rộng bao la, nên phải tự học. Tự học để tự đổi mới mình, đúng là phải “Học, học nữa, học mãi”. Một số nhà giáo như Hoàng Tuỵ, Nguyễn Cảnh Toàn, Trương Tửư, Hoàng Như Mai,… chỉ mới có bằng Trung học dưới thời Pháp thuộc, sau năm 1945, nhờ thông minh và có tinh thần tự học mà trở thành giáo sư, đóng góp tích cực và to lớn cho nền giáo dục cách mạng nước nhà được vinh dành kính phục.
|
Assignment
In the "Study well" emulation movement, the issue of self-study is of interest and mention to many people, becoming more practical and meaningful.
So what is self-study? – If you don't study in school, don't have a teacher to teach you, but read books by yourself, research by yourself, practice by yourself,... that's called self-study.
Why self-study? Learning from teachers, studying at school, studying in class is not enough, you must know how to study on your own. The word "study" includes self-study. At home, students who know how to stay up late and wake up early to study, do homework, read books for reference and entertainment, do experiments, practice... are self-taught.
If we see that our friends have something good, something good, we should imitate and follow them. Life is a huge collection of precious books with no last page. It is very necessary for those who are studious to self-study, learn to be human, develop their talents, expand and improve their knowledge, and perfect their cultural personality. me. The proverbs: "Learning from a teacher is not good, learning is limited", "Traveling a long way to learn is enough to be wise",... are sound advice about self-study.
Life is always developing and changing constantly, many economic, scientific, social problems... arise, so everyone has to self-study. Scientists also have to study themselves. From young to old, everyone needs to learn by themselves. The ocean of learning is vast, so you have to learn by yourself. Self-study to innovate yourself, it is true that you have to "Study, study more, study forever". Some teachers such as Hoang Tuy, Nguyen Canh Toan, Truong Tuu, Hoang Nhu Mai,... only had a high school diploma under the French colonial period. After 1945, thanks to their intelligence and self-study spirit, they became professors. His positive and great contributions to the country's revolutionary education are honored and admired.
|
Bài làm
Ngoài tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu gia đình, tình yêu thiên nhiên, còn có tình bạn. Tình bạn là một trong những tình cảm tốt đẹp của con người.
Có nhiều thứ tình bạn: bạn tuổi thơ, bạn học, bạn đồng hương, bạn chiến đấu. Các cụ nhà nho hay nói tới bạn đồng khoa, bạn tri âm, bạn tri kỉ.
Bạn cắp sách thời thơ ấu là tình bạn đẹp, trong sáng, hồn nhiên mà hầu như ai cũng mang theo suốt đời.
Các từ ngữ như: bạn hiền, bạn tốt, bạn thủy chung,… nói về tình bạn đẹp. Chèo Lưu Bình – Dương Lễ ca ngợi mối tình thủy chung của đôi bạn hiền. Bá Nha và Chung Tử Kì là đôi bạn tri âm, Trần Phồn và Từ Trĩ là hai bạn tri kỉ thời xa xưa. Nguyễn Khuyến đã có những câu thơ thật hay nói về những tình bạn ấy:
“Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy củng ngẩn ngơ tiếng đàn”…
(Khóc Dương Khuê)
Ca dao có câu:
“Ra đi gặp được bạn hiền,
Sướng bằng ăn quả đào tiên trên trời”.
Đó là niềm vui hạnh phúc khi kết được bạn hiền, bạn tốt. Bạn hiền, bạn tốt sẽ chia sẻ niềm vui. Ra đi học hành thi cử, đi lập nghiệp, đi làm ăn, đi đánh giặc mà gặp được bạn hiền, hỏi có hạnh phúc nào bằng. Nhờ có bạn hiền mà ta có thể vượt qua mọi thử thách, khó khăn, hoạn nạn. Nhờ có bạn hiền mà ta trở nên tài giỏi, tốt đẹp. Câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” nêu lên bài học về cách sông và cách chọn bạn.
Trái với tình bạn chung thủy là tình bạn sáng nắng chiều mưa; lúc nghèo khổ họan nạn thì có nhau, lúc giàu sang phú quý thì lên mặt, lánh mặt. Trong xã hội xưa và nay, thiếu gì những kẻ lừa thầy phản bạn. Những kể đó, dù giàu nứt đố đổ vách, dù chức trọng quyền cao vẫn bị đồng loại coi khinh!
Tóm lại, sống phải có tình bạn. Phải biết chọn bạn, kết bạn. sống với bạn phải tôn trọng, quý trọng, thủy chung như cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã nói:
|
Assignment
In addition to love for homeland, country, love for family, love for nature, there is also friendship. Friendship is one of the good feelings of humans.
There are many kinds of friendship: childhood friends, school friends, compatriots, fighting friends. Confucian scholars often talk about classmates, confidants, and confidants.
Childhood bookmates are beautiful, pure, and innocent friendships that almost everyone carries with them for the rest of their lives.
Words such as: gentle friend, good friend, faithful friend,... talk about beautiful friendship. Cheo Luu Binh - Duong Le praises the faithful love of a good couple. Ba Nha and Chung Tu Ky are close friends, Tran Phon and Tu Tri are two close friends from ancient times. Nguyen Khuyen has beautiful verses about those friendships:
“Good wine doesn't have a good friend. If you don't buy it, it doesn't mean you don't have money and don't buy it.
The poem is thought over and not written
Write to someone, whoever knows will give it to you.
The other bed is hung indifferently,
The other instrument was strummed and the sound of the instrument was absent-minded"...
(Crying Duong Khue)
The folk song has a saying:
“Go out and meet good friends,
As happy as eating heavenly peaches."
It is the joy and happiness of making good friends. Good friends and good friends will share joy. Going to study for exams, starting a career, going to work, going to fight the enemy and meeting good friends, I wonder if there is any happiness like that. Thanks to good friends, we can overcome all challenges, difficulties, and tribulations. Thanks to good friends, we become talented and good. The proverb: "Near the ink, it's black, near the light, it's bright" teaches a lesson about how to live and how to choose friends.
The opposite of faithful friendship is friendship that is sunny and rainy; When we are poor and in trouble, we have each other. When we are rich and wealthy, we show up and hide. In past and present society, there is no shortage of people who deceive their teachers and betray their friends. These people, even though they are incredibly rich and hold high positions of authority, are still despised by their peers!
In short, life must have friendship. You must know how to choose friends and make friends. Living with friends must be respectful, respectful, and faithful as Mr. Tam Nguyen Yen Do said:
|
Bài làm
Trong xã hội thời buổi nào cũng vậy, người khôn rất nhiều, nhưng người dại cũng nhan nhản khắp nơi.
Người tài giỏi đức độ, người siêng năng cần cù biết học hành, biết làm ăn tài giỏi, biết sống tốt vời mọi người,… là người khôn. Trái lại, ngu đần dôt nát mà lại kiêu kì, thô lỗ, thì bị đồng loại coi khinh, chê cười và xa lánh. Thật đúng là “Người ba đấng, của ba loài”.
Người khôn có nhiều phẩm chất tốt. Một trong những phẩm chất của người khôn là biết lắng nghe. Ngạn ngữ đã chỉ rõ: “Người khôn là người luôn chịu khó lắng nghe”.
Có ham hiểu biết, có ý thức cầu tiến mới luôn chịu khó lắng nghe. Có khiêm tôn, có cảm thấy mình chưa bằng mọi người, mới ra sức học tập điều hay việc tốt của thiên hạ, lúc nào cũng muốn vươn lên đua tranh với mọi người. Có tu thân tích đức, có muôn mang trí tuệ, xây dựng vốn sông, vốn hiển biết thì mới luôn chịu khó lắng nghe.
Lắng nghe điều hay điều tốt, thậm chí lắng nghe cả điều dở của mọi người để học cái khôn, tránh điều dở, điều dại.
Có luôn chịu khó lắng nghe thì mới biết: “Học thầy không tày học hạn”-, mới biết “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Có khôn, có biết chiu khó lắng nghe thì mới biết tránh điều dở, học điều khôn, làm điều tốt, mới có ý thức hăm hở bước vào đời, mới phân biệt được:
“Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”,
hoặc :”Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kể còn giỏi hơn ta”.
Xã hội là một trường học lớn của người khôn. Làm đứa con hiếu thảo, làm học sinh tốt, học sinh giỏi, làm người công dân tốt, làm người sản xuất giỏi,… là người khôn, làm con người có văn hóa. Quá trình phấn đấu, khẳng định tính cách người khôn là cả một quá trình sống đẹp, biết chịu khó lắng nghe. Làm người đã khó, làm người tốt càng khó cho nên bất cứ ai, ở lứa tuổi nào, ở vị thế xã hội nào đều cần phải chịu khó lắng nghe.
Một người con bất hiếu, một học sinh xấu, học sinh cá biệt vì không biết lắng nghe và làm theo lời dạy bảo của bố mẹ, của thầy cô giáo nên mỗi ngày một sa ngã, bất trị.
Những kẻ tham nhũng, ra sức vơ vét tiền của, tài sản của quốc gia để làm giàu, để có nhiều triệu đô tuồn ra nước ngoài; chúng bị nhân dân căm ghét, lên án, coi như dòi bọ. Bọn chúng đâu “dại”, mà cực kì ranh ma, quỷ quái! Chúng chẳng bao giờ chịu lắng nghe dư luận của nhân dân.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, châm biếm về “dại” / “khôn” ở đời:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Kẻ hám danh lợi đâu phải là người khôn? cổ ngữ có câu: “Biết hay mà không tin, gọi là dại; biết dở mà không chừa, gọi là mê!”.
Dân gian có nhiều câu tục ngữ nói về người dại, người khôn; mỗi câu là một lời nhận xét, đánh giá, một lời khuyên sâu sắc:
– Người khôn nhọc lọ, đứa dại ăn no lại nằm.
– Người khôn con mắt đen sì / Người dại con mắt nửa chì nửa than.
|
Assignment
In society at any time, there are many wise people, but foolish people are also abundant everywhere.
Talented and virtuous people, diligent people who know how to study, know how to do business well, know how to live well with everyone,... are wise people. On the contrary, those who are stupid and ignorant but also arrogant and rude will be despised, laughed at and shunned by their peers. It is true that "People of three beings, of three species".
Wise people have many good qualities. One of the qualities of a wise person is knowing how to listen. The proverb clearly states: "A wise person is someone who always listens hard."
If you are curious and have a sense of progress, you will always be willing to listen. If you are humble, if you feel that you are not equal to everyone, then you will try your best to learn the good things of the world, always wanting to rise up and compete with everyone. Only by cultivating one's body and accumulating virtue, possessing wisdom, and building one's life and knowledge will one always be willing to listen.
Listen to the good and good things, even listen to the bad things of people to learn the wisdom and avoid the bad and foolish things.
If you always listen hard, you will know: "Learning from a teacher is not good" - only then will you know "If you go a long way to learn, you will be wise." If you are wise, if you know how to listen hard, you will know how to avoid bad things, learn wise things, do good things, will have a sense of eagerness to enter life, and will be able to distinguish:
“Let's go find out,
Stay at home with your mother and you'll know when the day will be wise."
or: "At home, mother second, child second,
If you go out on the road, you're even better than me."
Society is a great school of wise people. Be a filial child, be a good student, be a good student, be a good citizen, be a good producer,... be a wise person, be a cultured person. The process of striving and affirming a wise person's character is a process of living beautifully, knowing how to listen hard. Being a human being is difficult, being a good person is even more difficult, so anyone, at any age, in any social position, needs to listen hard.
An unfilial child, a bad student, a special student who does not know how to listen and follow the instructions of his parents and teachers, becomes more and more corrupt and ungrateful every day.
Corrupt people try to plunder the country's money and assets to get rich, so that millions of dollars can be smuggled abroad; They are hated, condemned, and treated as maggots by the people. They are not "foolish", but extremely cunning and devilish! They never listen to people's public opinion.
Nguyen Binh Khiem, satirizing about "foolishness" / "wiseness" in life:
I am stupid, I am looking for a peaceful place,
Nguoi khon nguoi den chon lao xao.
A person who is greedy for fame and fortune is not a wise person? There is an ancient saying: “If you know well but don't believe it, it's called foolishness; Knowing it's bad but not ignoring it is called delusion!
Folk have many proverbs about foolish people and wise people; Each sentence is a comment, an evaluation, a profound advice:
– The wise man labors, but the fool eats his fill and lies down.
- A wise person's eyes are black / A foolish person's eyes are half lead and half charcoal.
|
Bài làm
Trong cuộc sống, trong sinh họat hằng ngày, mỗi người đều có những thói quen. Được sống gần gũi một người nào, ta có thể nhận ra được một số thói quen của người đó.
Vậy thói quen là gì? – Lối sống, cách sống hay cử chỉ, họat động lặp đi lặp lại lâu ngày thành nếp, thành quen khó thay đổi thì gọi là thói quen.
Có thói quen đẹp. Có thói quen không đẹp. Lại có thói quen xấu, gây phản cảm. Ví dụ, gặp nhau tay bắt mặt mừng, vui vẻ mời nhau chén trà, điếu thuốc, tâm sự đôi ba điều,… là thói quen đẹp. Bác nông dân, giữa buổi cày, tháo ách cho trâu nghỉ, rồi lên bờ ruộng uống bát nước chè vối, ăn củ khoai lang, hút điếu thuốc lào, cho khói bay ra đàng tai, bay ra đàng mũi, cặp mắt lơ mơ ngắm bầu trời,… đó là thói quen đẹp. Nhà nho ngồi bên án thư vừa đọc sách vừa ngâm thơ, lâu lâu lại nâng chén rượu quê lên môi nhắp, rung đùi,… cử chỉ ấy thật thanh nhàn, cao nhã. Con gái trước khi ra khỏi nhà biết chải tóc, soi gương, xem lại cách ăn mặc, đó cũng là thói quen đẹp. Lại có kẻ nói bô bô, cười ầm ĩ giữa chợ, giữa nơi đông người, có kẻ hay nói xấu người vắng mặt,… đó là thói quen xấu.
Thói quen không chỉ thể hiện nếp sống mà còn thể hiện tư cách, tính tình, đạo đức. Thói quen hình thành từ tuổi ấu thơ rồi phát triển dần lên. Khoanh tay, cúi đầu chào, trước khi ăn cơm biết cất tiếng chào mời, cắp sách đi học, đi học về, biết chào ông bà, bố mẹ,… những thói quen đẹp ấy do gia giáo mà có, được hình thành từ thời đi học.
Thói quen đẹp thì dễ phát triển, thói quen xấu lâu ngày thành cố tật, rất khó sửa chữa. Nói tục là một thói quen xấu. Nhiều người nhận ra điều ấy nhưng tại sao vẫn cứ tiếp diễn? Vứt rác, vứt giấy, vứt túi ni lông ra nơi công cộng; khạc nhổ, tiểu tiện,… bất kể nơi đâu; chen lấn, xô đẩy… nơi bến tàu, bến xe, nơi chợ búa; bẻ cây, hái hoa, xéo lên bãi cỏ nơi công viên, v.v… đó là những hành động thiếu văn hóa, nhưng tại sao có người vẫn hành động một cách tự nhiên vô tư? Biết làm thế là dở, là xấu, nhưng tại sao có người vẫn làm? Lại có bà cán bộ “cốp” vừa nói vừa lấy tay ngoáy mũi trước cử tọa, có vị chức trọng quyền cao hễ đăng đàn là thao thao bất tuyệt, lúc thì múa tay, lúc thì lấy tay chém lia lịa, những thói quen ấy không đẹp, thậm chí khiếm nhã, bất lịch sự. Muốn sửa chữa, thay đổi những thói quen xấu thì cần phải chịu khó rèn luyện và tiếp thu ý kiến từ những người xung quanh.
Làm điều gì thất thố, tự cảm thấy xấu hổ, chân thành xinh lỗi, nhận khuyết điểm mới là người có lòng tự trọng. Được ai giúp đỡ thì vui vẻ cảm ơn. Biết cất lời “xin lỗi”, “cảm ơn”, đúng lúc, đúng người, đúng việc, là cử chỉ đẹp, là thói quen đẹp, mỗi người trong chúng ta cần nhớ và làm, tạo thành nếp sống văn hóa.
Tục ngữ có câu: “Chết mà nết không chừa”, “Ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm” là chê trách, chê cười những thói quen xấu của những kẻ bất hảo trong xã hội.
Cẩn thận, trận tự, ý tứ là những đức tính tốt mà tuổi trẻ cần rèn luyện, tu dưỡng. Thói quen cẩu thả, bừa bãi của trẻ em lúc chơi, lúc học phải quyết tâm sửa chữa một cách kiên trì mới mong thay đổi được. Vứt đồ chơi ra khắp nền nhà, sách vở, đồ dùng học tập để lộn xộn trên bàn, áo quần thay ra không giặt, đi học thì ăn mặc lôi thôi,… đó là những thói quen xấu, cực xấu, nếu không biết sửa chữa, lâu ngày thành cố tật, lớn lên bước vào đời sẽ bị mọi người chê cười.
|
Assignment
In life, in daily activities, everyone has habits. Living close to someone, we can recognize some of that person's habits.
So what is a habit? - Lifestyle, way of life or gestures, activities repeated for a long time become routine, become a habit that is difficult to change, then it is called a habit.
Have beautiful habits. Having bad habits. Has bad habits that cause offense. For example, meeting each other, shaking hands, happily offering each other a cup of tea, a cigarette, confiding a few things,... are beautiful habits. The farmer, in the middle of plowing, took off the yoke to let the buffalo rest, then went up to the field to drink a bowl of tea, eat sweet potatoes, smoke a pipe cigarette, let the smoke fly out of his ears and nose, his eyes drowsy. looking at the sky... that's a beautiful habit. Confucian scholars sat by the bench, reading books and reciting poetry, occasionally raising a cup of country wine to their lips, sipping, shaking their thighs,... that gesture was so leisurely and elegant. Before leaving the house, girls know how to comb their hair, look in the mirror, and review their clothes, which are also beautiful habits. There are people who talk nonsense, laugh loudly in the market, in crowded places, there are people who say bad things about people who are absent,... that is a bad habit.
Habits not only show lifestyle but also show character, character, and morality. Habits are formed from childhood and then develop gradually. Cross your arms, bow your head in greeting, know how to say hello before eating, take your books to school, come home from school, know how to greet your grandparents, parents,... those beautiful habits come from family education, are formed from school time.
Good habits are easy to develop, but bad habits become old habits over time and are very difficult to correct. Profanity is a bad habit. Many people realize that, but why does it still continue? Throwing trash, paper, and plastic bags in public places; spitting, urinating, etc. anywhere; jostling, pushing... at docks, bus stations, and markets; Breaking trees, picking flowers, tramping on the grass in parks, etc. are uncultured actions, but why do some people still act naturally and carefree? I know that doing so is bad and bad, but why do some people still do it? There is also a female "top" officer who speaks and picks her nose in front of the audience. There is a high-ranking official who talks endlessly every time he takes the stage, sometimes gesticulating, sometimes slashing repeatedly with his hands. These are habits. It's not nice, even rude and impolite. If you want to correct and change bad habits, you need to practice hard and receive opinions from people around you.
If you do something wrong, feel ashamed, sincerely apologize, and admit your shortcomings, then you are a person with self-esteem. If anyone helps, I'll happily thank you. Knowing how to say "sorry", "thank you", at the right time, to the right person, at the right job, is a beautiful gesture, a beautiful habit, each of us needs to remember and do, creating a cultural lifestyle.
There is a proverb that says: "Dying without leaving behind", "Sleeping during the day gets used to the eyes, eating snacks gets used to the mouth" is to criticize and laugh at the bad habits of bad people in society.
Carefulness, discipline, and thoughtfulness are good qualities that youth need to practice and cultivate. The careless and messy habits of children when playing and studying must be determined and persistently corrected in order to change. Throwing toys all over the floor, books and school supplies left messy on the table, clothes that are changed without washing, dressing sloppily when going to school... these are bad, extremely bad habits, if you don't know it. If you fix it, over time it will become a disability, and when you grow up and enter life, everyone will laugh at you.
|
Bài làm
Nguyễn Dữ là một tác giả tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.”Truyền kỳ mạn lục”của ông là một tác phẩm đỉnh cao của thể loại truyện truyền kì.Tác phẩm gồm 20 thiên truyện,trong đó”Chuyện người con gái Nam Xương ”là một truyện ngắn xuất sắc viết về số phận người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ.Đọc truyện,em vô cùng cảm phục trước lòng hiếu thảo của Vũ Nương.
Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI,đây là thời kì xã hội phong kiến suy tàn,các tập đoaàn phong kiến Lê-Trịnh-Mạc tranh giành quyền binh gây ra các cuộc nội chiến kéo dài.Cuộc sống của nhân dân vô cùng lầm than,cực khổ.Quyền sống của con người,nhất là người phụ nữ bị chà đạp,bị coi rẻ,coi khinh.Nguyễn Dữ đã gửi gắm tinh thần nhân đạo vào tác phẩm mình viết.Một trong số đó là “Chuyện người con gái Nam Xương”.Tác phẩm đã thể hiện được lòng hiếu thảo của Vũ Nương như sau:
Chuyện kể về người con gái xinh đẹp,nết na tên là Vũ Thị Thiết.Nàng lấy chồng là Trương Sinh,người cùng làng.Trương Sinh đi lính,để lại Vũ Nương ở nhà.Nàng một mình sinh con,nuôi con,chăm sóc mẹ già khi bà bị ốm,lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mong bà sớm khỏi bệnh và lo ma chay chu tất khi bà cụ qua đời.
|
Assignment
Nguyen Du is a typical author of Vietnamese medieval literature. His "The Legend of Man Luc" is a pinnacle work of the traditional story genre. The work includes 20 stories, of which "The Story of People" "Daughter of Nam Xuong" is an excellent short story written about the fate of Vietnamese women at that time. Reading the story, I was extremely impressed by Vu Nuong's filial piety.
Nguyen Du lived in the 16th century, this was a period of decline in feudal society, feudal groups Le-Trinh-Mac fought for military power, causing long civil wars. The people's lives were extremely wrong. suffering, suffering. The right to life of people, especially women, is trampled on, despised, and despised. Nguyen Du has put a humanitarian spirit into the works he wrote. One of them is "Human Stories". daughter of Nam Xuong". The work shows Vu Nuong's filial piety as follows:
The story is about a beautiful, modest girl named Vu Thi Thiet. She married Truong Sinh, from the same village. Truong Sinh went to the army, leaving Vu Nuong at home. She gave birth, raised and took care of the children alone. Take care of your elderly mother when she is sick, give sweet advice and hope for her to recover soon, and take care of her funeral when she passes away.
|
Bài làm
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng”(Nhớ con sông quê hương)
Một đời thơ chung thủy, gắn chặt với đề tài quê hương, nên Tế Hanh được nhiều bạn đọc biết đến qua biệt hiệu là “nhà thơ của quê hương”. Thành công đầu tiên của ông, đó là bài “Quê hương”.Với những vần thơ bình dị và gợi cảm, bài thơ “Quê hương” đã tái hiện và vẽ ra một bức tranh tươi sáng và sinh động về một làng quê vùng biển trong nỗi nhớ của nhà thơ.
Mười tám tuổi, đi học xa nhà nhớ làng mình cách biển nửa ngày sông bên con sông Trà Bồng, ông viết bài “Quê hương’’( khi phong trào thơ mới đang ở đỉnh cao và bắt đầu đi xuống. Bài thơ in trong tập Hoa niên, được giải thưởng của nhóm tự lực văn đoàn.)
“Chim bay dọc biển đem tin cá”, câu phụ đề của bài thơ cũng đã toát lên sơ bộ tình yêu lẫn nét đặc trưng chung nhất về một miền quê trong bài thơ của ông –một làng chài lưới.
Mở đầu, tác giả giới thiệu thật bình dị về làng tôi một cách thật hồn nhiên, vô tư và trong sáng:
“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày”
Đó là cái làng chài nhỏ nằm trên một cù lao sông cách xa biển bốn bề sóng vỗ.Người dân làng nghèo, lập nghiệp mưu sinh chỉ trông chờ vào biển cả.
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.”
Bài thơ mở ra một không gian ban mai thật rộng rãi, khoáng đãng, đẹp đẽ. Cảnh thiên nhiên thật trong trẻo, tươi tắn, hứa hẹn một chuyến ra khơi tốt đẹp.
Những hình ảnh “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những hình ảnh đẹp vừa rất thực lại vừa lãng mạn: mở ra cảnh bầu trời cao rộng, trong sáng, nhuốm ánh nắng hồng ban mai. Trên đó, nổi bật hình ảnh chiếc thuyền hăng như con tuấn mã và những trai tráng khỏe mạnh , nhanh nhẹn, dũng cảm bơi thuyền đi đánh cá lúc bình minh. Các động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” đã diễn tả không khí hồ hởi, xốc tới dũng mãnh của đoàn thuyền. Bốn câu thơ vừa vẽ nên một phong cảnh thiên nhiên với sắc màu tươi sáng , vừa phác họa lên một bức tranh lao động hứng khởi và dạt dào sức sống.
Hai câu thơ tiếp theo đặc tả cánh buồm no gió bằng một so sánh bất ngờ, độc đáo và đầy lãng nạm:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
Cánh buồm trắng trong tình yêu và nỗi nhớ quê da diết của tác giả là biểu tượng linh hồn của quê hương, biết “rướn thân trắng” để “thâu góp gió biển”, vươn mình đi lên phía trước. Hai câu thơ đã gợi lên một vẻ đẹp bay bổng, thiêng liêng đến bất ngờ. “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”: bao nhiêu tình cảm của tác giả, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của dân làng được đặt vào trong đó.
Rồi con thuyền đã ra đi bình an, trở về trong niềm vui tràn ngập. Quang cảnh ồn ào, náo nhiệt là hình ảnh quen thuộc của làng chài. Bến đỗ là nơi gặp gỡ, đợi chờ của dân làng. Được mẻ cá đầy ghe, dân biển tạ ơn trời. Lời cảm tạ xuất phát từ đáy lòng chất phát của con người họ:
“Ngày hôm sau ồn áo trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Nếu ở đoạn thơ trước, cả đoàn thuyền ra khơi băng băng, phơi phới, thì ở đoạn thơ kế tiếp âm điệu thơ thư thái, lắng đọng lại theo niềm vui của người dân chài. Từ đây, lại xuất hiện những câu thơ vô cùng tinh tế dành nói về con người và con thuyền nghỉ ngơi si một chuyến ra khơi:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
Phải là đứa con của làng chài mới viết được những câu thơ hay đến thế. Khi về bến, người dân chài vẫn mang trong mình vị biển. Màu da ngăm rám nắng (tả thực) là biểu tượng cho đời sống vất vả. Còn vị xa xăm là vị nặm nồng của biển. Cái sóng, cái gió và cái nắng trong lộng ngoài khơi đã ngấm sâu vào làn da, thớ thịt của người dân chài. Còn con thuyền sau một cuộc vật lộn cùng trùng khơi giờ đây đang trở về nằm im bến nghỉ ngơi mệt mỏi, nghe chất muối nặm nồng đang thấm dần trong từng thớ vỏ. Phải có gắn bó, thấu hiểu con người và cảnh vật quê hương mới có khả năng nghe được “tiếng lòng” của những vật vô tri vô giác như con thuyền ấy.
Những dòng thơ cuối cùng của bài được tạc lên bằng nỗi nhớ, tình yêu, lòng cảm phục và ngưỡng mộ của tác giả đối với quê hương. Ở họ nồng nàn hương vị, sức sống của quê hương. Tất cả đều nói lên khát vọng chinh phục đại dương của dân làng. Trong nỗi nhớ, cảnh vật và con người của quê hương lại một lần nữa được hiện lên đến da diết, cồn cào:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng nặm quá!”
Hình ảnh làn nước xanh thể hiện sức sống của quê hương, cá bạc là hạnh phúc no đủ, “chiếc buồm vôi” là hình ảnh gắn bó thân thuộc và “cái mùi nồng nặm” là hương vị của quê hương. Tất cả đã trở thành kỉ niệm, ám ảnh mãi trong tâm hồn nhà thơ.
Bài thơ trong trẻo từ đầu đến cuối. Lời thơ giản dị, mộc mạc, hình ảnh khỏe khoắn, đậm đà tình biển, tình quê .Với những đường nét tươi màu đã chứng tỏ được tình cảm đẹp và trong sáng , xôn xao và lung linh của tác giả đối với quê hương. Đó cũng là nỗi lòng của Tế Hanh với người dân lao động và cuộc sống lao động của làng chài quê hương. Đó cũng là tình cảm trong sáng thắm thiết và khỏe khoắn và hiếm có trong bầu trời củathơ ca đương thời đang có nhiều chỗ ảm đạm.
Thật đúng là mảnh hồn trong trẻo mà nhà thơ có được trước Cách mạng tháng Tám. Quê hương của ông là bài thơ đầu tiên khơi màu cho các bài thơ viết về đề tài quê hương sau này của các tác giả như: Giang Nam, Vũ Cao(Núi đôi, ),…, Đỗ Trung Quân lần lượt ra đời. Quả là:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
|
Assignment
“My hometown has a blue river
The clear mirror water reflects the hair of the bamboo rows
My soul is a summer afternoon
Shining sunlight on the sparkling river" (Remembering my hometown river)
With a life of faithful poetry, closely tied to the theme of his homeland, Te Hanh is known to many readers by the nickname "poet of the homeland". His first success was the poem "Homeland". With simple and evocative verses, the poem "Homeland" recreated and painted a bright and vivid picture of a rural village in the region. the sea in the poet's nostalgia.
At the age of eighteen, going to school far from home and missing his village half a day from the sea by the Tra Bong river, he wrote the poem "Homeland" (when the new poetry movement was at its peak and began to decline. The poem is printed in Hoa Nien collection, received an award from the self-help group Van Doan.)
"Birds flying along the sea bring news of fish", the subtitle of the poem also shows the preliminary love and the most common characteristics of a countryside in his poem - a fishing village.
At the beginning, the author introduces my village in a very innocent, carefree and pure way:
“My village was originally a fisherman
Water surrounds the sea half a day away"
It is a small fishing village located on a river island far away from the ocean. The villagers are poor and rely only on the sea to make a living.
“When the sky is clear, the wind is light, the morning is rosy
Young people row boats to go fishing.
The boat was as light and strong as a handsome horse
Phang oars, strong beyond the stretch."
The poem opens up a spacious, airy, and beautiful morning space. The natural scenery is so clear and fresh, promising a nice trip to sea.
The images of "clear sky", "light breeze", "pink morning" are beautiful images that are both very real and romantic: opening up a scene of high, wide, clear sky, tinged with the pink morning sunlight. On it, there stands out the image of a boat as energetic as a handsome horse and of healthy, agile, and brave men rowing boats to go fishing at dawn. The verbs "aggressively", "phat", "overcome" describe the exhilarating, courageous atmosphere of the fleet. The four verses not only paint a natural landscape with bright colors, but also sketch a picture of exciting and vibrant labor.
The next two verses describe the wind-filled sail with an unexpected, unique and romantic comparison:
“The sail is as big as a piece of the village's soul
Stretching out its vast white body to gather the wind"
The author's white sail in love and longing for his homeland is a symbol of the soul of his homeland, knowing how to "stretch its white body" to "collect the sea breeze", stretching itself forward. The two verses evoke an unexpected, uplifting beauty. "The sail is as big as a piece of the village's soul": how much of the author's feelings and how much of the villagers' hopes for a living are placed in it.
Then the boat left safely and returned filled with joy. The noisy and bustling scene is a familiar image of the fishing village. The landing station is a meeting and waiting place for villagers. Having received a boat full of fish, the sea people thanked God. Thanks come from the bottom of their simple hearts:
“The next day there was noise at the wharf
All over the village, people were busy welcoming the boat back.
"Thanks to God, the sea is calm and the boats are full of fish",
The fish are fresh and delicious, with silvery white bodies."
If in the previous poem, the whole fleet of boats sailed out to sea, enjoying themselves, then in the next poem, the tone of the poem is relaxed and settled according to the joy of the fishermen. From here, extremely delicate verses appear about people and boats taking a trip to sea:
“The fishermen have tanned skin
The whole body smells of the distance;
The boat fell silent and returned to rest
Listen to salts penetrating the skin"
One must be a child of a fishing village to write such beautiful verses. When returning to the wharf, the fishermen still carry the taste of the sea in them. Tanned skin (realistic description) is a symbol of a hard life. The distant taste is the strong taste of the sea. The waves, the wind and the clear sunshine offshore have penetrated deeply into the skin and muscles of the fishermen. And the boat, after a struggle with the ocean, is now returning to rest at the dock, tired, listening to the rich salt slowly seeping into every fiber of its shell. One must have attachment and understanding of the people and landscape of one's homeland to be able to hear the "voice" of inanimate objects like that boat.
The last lines of the poem are carved by the author's nostalgia, love, admiration and admiration for his homeland. They are filled with the flavor and vitality of their homeland. They all speak of the villagers' desire to conquer the ocean. In nostalgia, the landscape and people of the homeland are once again shown with a feeling of sadness and pain:
“Now that I'm far away, my heart always remembers you
Blue water color, silver fish, lime sail
Suddenly the boat turned the waves and sailed out to sea
I miss the strong smell so much!”
The image of blue water represents the vitality of the homeland, the silver fish represents full happiness, the "lime sail" is a familiar image of attachment and the "strong smell" is the flavor of the homeland. All have become memories, forever haunting the poet's soul.
The poem is clear from beginning to end. The lyrics are simple and rustic, the images are strong, filled with love for the sea and the countryside. With bright lines, it proves the author's beautiful and pure, stirring and sparkling feelings for his homeland. . That is also Te Hanh's feelings for the working people and the working life of his hometown fishing village. It is also a pure, passionate and healthy feeling that is rare in the sky of contemporary poetry, which has many gloomy places.
What a pure soul the poet had before the August Revolution. His homeland was the first poem that inspired later poems written on the topic of homeland by authors such as: Giang Nam, Vu Cao (Twin Mountains),..., Do Trung Quan were born one after another. Indeed:
“There is only one homeland for each person
Like there's only one mother
|
Bài làm
Bước vào thế kỷ XXI, đất nước ta đang trên đà hội nhập với sự phát triển của thế giới với rất nhiều cơ hội và thử thách được mở ra. Và thanh niên chúng ta – những người chủ tương lai của đất nước – phải góp một phần sức cho quê hương của mình. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ và xem lại cách sống của mình, và một câu hỏi lớn được đặt ra: Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay là gì?
Trước hết chúng ta phải hiểu được “lý tưởng sống” là gì? Lý tưởng sống là mục đích tốt đẹp mà mỗi con người muốn hướng tới, là lí do, mục đích mà mỗi con người mong mỏi đạt được. Người có lý tưởng sống cao đẹp là người luôn suy nghĩ và hành động để hoàn thiện mình hơn, giúp ích cho mình, gia đình xã hội và đất nước. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc, với lòng khao khát đó thúc giục chúng ta đi kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lòng của con người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền, không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn. Để đạt được khát vọng đó, người ta luôn tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người.
Bạn có bao giờ tự hỏi bạn tồn tại trên cuộc đời vì lý do gì không? Một câu hỏi lẽ ra rất dễ nhưng nó làm cho bạn phải bắt đầu ngồi lại suy nghĩ về bản thân mình. Có thể bạn cũng đã có được một mục đích sống cho riêng mình, nhưng bạn vẫn nên xem lại mục đích đó có thật sự cao đẹp hay không bạn ạ. Chúng ta sống trong cộng đồng là sống vì mọi người, vì quê hương, vì đất nước.
Nhiều người từng nghe câu nói trong bài hát khá nổi tiếng của Trịnh Công Sơn:
“Sống ở đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi….”
Phải mất một thời gian dài tôi và các bạn mới có thể mới ra rằng ý nghĩa của câu này là “hãy mở rộng tấm lòng của bạn với cuộc sống này, với mọi người xung quanh bạn và đừng mong đợi bạn sẽ nhận lại được gì… Hãy san sẻ tấm lòng để cuộc sống này đẹp hơn và đừng nghĩ rằng những cái gì mình đã cho đi là lớn lao mà nó chỉ là những cái gì nhỏ nhoi nhất nhẹ nhàng… chỉ để gió cuốn đi…”. Đó cũng là một phần của lý tưởng sống đẹp.
Lý tưởng của ta không cần lớn lao dù chỉ là một chiếc lá, nhưng chúng ta cũng cần có cho mình một lý tưởng bình dị như để vươn lên. Hãy sống có lý tưởng! Bạn có thể ra đi từ nhiều phía, theo những con đường khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người phải lựa chọn cho mình mục đích của cuộc sống. Ta sống cho ta, cho những người thân, bạn bè và cho mọi người. Vì vậy, chỉ có hạnh phúc khi “mình vì mọi người và mọi người phấn đấu vì hạnh phúc của từng người”. Rõ ràng lý tưởng là mục đích sống, là ý nghĩa của mỗi cuộc đời. Lý tưởng quyết định sự thành công trong cuộc sống. Lý tưởng dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh cho mọi người để đạt đến thành công trong sự nghiệp. Lý tưởng cho ta sức mạnh vượt qua khó khăn và thử thách trong cuộc sống.
Nhà văn Pháp Đi-dơ-rô từng nói: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích tầm thường”. Câu nói đó, lời khẳng định đó thật rõ ràng. Nó khuyên chúng ta sống thì phải có mục đích, lý tưởng phải cao đẹp thì sống mới có ý nghĩa, mới làm được những điều vĩ đại.
Trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, kinh tế thế giới hội nhập, khoa học kĩ thuật hiện đại, con người đặt ra vấn đề về lẽ sống của cuộc đời và sống như thế nào cho xứng đáng? Chúng ta nên hiểu sống có mục đích và lý tưởng cao đẹp là như thế nào ? Đó là phải sống để xây dựng đất nước, sống vì xã hội vì sự tiến bộ của nhân loại. Vậy thì tại sao ta phải sống có lí tưởng cao đẹp ? Vì nếu “sống không mục đích không làm được gì cả” và nếu “mục đích tầm thường thì không làm được điều gì vĩ đại”. Thế chúng ta phải làm gì để trở thành người có mục đích cao cả và có ích cho xã hội? Trước hết, ta cần phải xác định lý tưởng sống đúng đắn – dự tính về tương lai sẽ cống hiến cho xã hội về những mặt nào. Tiếp theo ta cần phải lên kế hoạch học tập, rèn luyện kĩ năng, sức khoẻ, tư tưởng nhằm thực hiện mục đích đó. Sau đó, ta phải tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chính trị; điều này sẽ giúp cho bản thân hòa nhập cộng đồng. Ta cần phải phát huy những thế mạnh của bản thân, khắc phục các điểm yếu và vận dụng những điều đã học vào thực tế.
Ngày xưa, anh hùng Lý Tự trọng đã từng nói: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác!”. Trong thời kỳ chiến tranh bao lớp thanh niên xông pha lên đường với một mục tiêu – lý tưởng tất cả vì tiền tuyến, vì độc lập tư do của đất nước. Tư tưởng đó đã đi vào lời ca tiếng hát của bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. “Anh lên xe trời đổ cơn mưa, Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ; Em xuống núi nắng vàng rực rỡ; Cái nhành hoa gạt mối riêng tư” hay “Khi tạm biệt mua xuân; Anh lính về biên giới; Cô gái vào ca ba”. Bên cạnh một tình yêu nồng cháy của tuổi trẻ nhưng họ phải tạm gác lại để dành tất cả cho một mục tiêu cao cả. Trong thời kỳ ngày nay có lẽ chúng ta khó có thể tìm kiếm được một ca khúc nói về tình yêu đep như vậy. Biết bao thế hệ thanh niên đã ngã xuống vì một lý tưởng duy nhất là giành lại độc lập tự do cho đất nước. Đến hôm nay khi đất nước hoà bình và đang trên đà phát triển, thì lý tưởng sống cao đẹp của thanh niên, thế hệ trẻ lại càng rộng hơn, bao la hơn, ”Vì một Việt Nam Phát triển”.
Thế hệ trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, là chủ thể của thế giới, động lực giúp cho xã hội phát triển. Chính vì vậy mà các bạn thanh thiếu niên càng cần phải sống có mục đích cao đẹp. Hãy nhớ rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không đó là nhờ vào công học tập của các em”. Lời nhắn như thiêng liêng ấy phải được thực hiện! Bác luôn mong lớp lớp thanh niên sau này sẽ không chùn bước trước những khó khăn trước mắt, luôn vững chí bền tâm vượt qua thử thách để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
(Hồ Chí Minh)
Chúng ta chắc còn nhớ hai chiến thắng vẻ vang liên tiếp của đội tuyển Robocon Việt Nam, hay những tấm huy chương vàng, huy chương bạc từ những môn Olympic Toán, Lý, Hoá, Sinh hay trong những giải thể thao hàng đầu của châu lục và thế giới. Đó là những tấm gương gần gũi, rõ ràng mà thanh thiếu niên cần noi theo. Tôi xin được nhắn nhủ các bạn thanh thiếu niên, học sinh: “Hãy học tập để nắm lấy tri thức vì tri thức là sức mạnh. Có tri thức, các bạn như đứng trên vai những người đi trước để cao hơn người khác. Hãy phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chấp nhận và vượt qua thử thách, bởi không có người thất bại, chỉ có người không biết cố gắng mà thôi”. Và chắc hẳn ai trong chúng ta đều biết những Enstein, Môza, Đác-uyn,… Tất cả họ đều là những người sống có lý tưởng cao đẹp, tất cả đều làm nên điều vĩ đại và được lưu danh muôn thuở. Như mục đích “ra đi tìm đường cứu nước, hi sinh cuộc đời vì cách mạng, vì dân tộc“ của Bác. Đó là một minh chứng rất cao đẹp!
|
Bài làm
Bước vào thế kỷ XXI, đất nước ta đang trên đà hội nhập với sự phát triển của thế giới với rất nhiều cơ hội và thử thách được mở ra. Và thanh niên chúng ta – những người chủ tương lai của đất nước – phải góp một phần sức cho quê hương của mình. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ và xem lại cách sống của mình, và một câu hỏi lớn được đặt ra: Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay là gì?
Trước hết chúng ta phải hiểu được “lý tưởng sống” là gì? Lý tưởng sống là mục đích tốt đẹp mà mỗi con người muốn hướng tới, là lí do, mục đích mà mỗi con người mong mỏi đạt được. Người có lý tưởng sống cao đẹp là người luôn suy nghĩ và hành động để hoàn thiện mình hơn, giúp ích cho mình, gia đình xã hội và đất nước. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc, với lòng khao khát đó thúc giục chúng ta đi kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lòng của con người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền, không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn. Để đạt được khát vọng đó, người ta luôn tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người.
Bạn có bao giờ tự hỏi bạn tồn tại trên cuộc đời vì lý do gì không? Một câu hỏi lẽ ra rất dễ nhưng nó làm cho bạn phải bắt đầu ngồi lại suy nghĩ về bản thân mình. Có thể bạn cũng đã có được một mục đích sống cho riêng mình, nhưng bạn vẫn nên xem lại mục đích đó có thật sự cao đẹp hay không bạn ạ. Chúng ta sống trong cộng đồng là sống vì mọi người, vì quê hương, vì đất nước.
Nhiều người từng nghe câu nói trong bài hát khá nổi tiếng của Trịnh Công Sơn:
“Sống ở đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi….”
Phải mất một thời gian dài tôi và các bạn mới có thể mới ra rằng ý nghĩa của câu này là “hãy mở rộng tấm lòng của bạn với cuộc sống này, với mọi người xung quanh bạn và đừng mong đợi bạn sẽ nhận lại được gì… Hãy san sẻ tấm lòng để cuộc sống này đẹp hơn và đừng nghĩ rằng những cái gì mình đã cho đi là lớn lao mà nó chỉ là những cái gì nhỏ nhoi nhất nhẹ nhàng… chỉ để gió cuốn đi…”. Đó cũng là một phần của lý tưởng sống đẹp.
Lý tưởng của ta không cần lớn lao dù chỉ là một chiếc lá, nhưng chúng ta cũng cần có cho mình một lý tưởng bình dị như để vươn lên. Hãy sống có lý tưởng! Bạn có thể ra đi từ nhiều phía, theo những con đường khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người phải lựa chọn cho mình mục đích của cuộc sống. Ta sống cho ta, cho những người thân, bạn bè và cho mọi người. Vì vậy, chỉ có hạnh phúc khi “mình vì mọi người và mọi người phấn đấu vì hạnh phúc của từng người”. Rõ ràng lý tưởng là mục đích sống, là ý nghĩa của mỗi cuộc đời. Lý tưởng quyết định sự thành công trong cuộc sống. Lý tưởng dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh cho mọi người để đạt đến thành công trong sự nghiệp. Lý tưởng cho ta sức mạnh vượt qua khó khăn và thử thách trong cuộc sống.
Nhà văn Pháp Đi-dơ-rô từng nói: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích tầm thường”. Câu nói đó, lời khẳng định đó thật rõ ràng. Nó khuyên chúng ta sống thì phải có mục đích, lý tưởng phải cao đẹp thì sống mới có ý nghĩa, mới làm được những điều vĩ đại.
Trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, kinh tế thế giới hội nhập, khoa học kĩ thuật hiện đại, con người đặt ra vấn đề về lẽ sống của cuộc đời và sống như thế nào cho xứng đáng? Chúng ta nên hiểu sống có mục đích và lý tưởng cao đẹp là như thế nào ? Đó là phải sống để xây dựng đất nước, sống vì xã hội vì sự tiến bộ của nhân loại. Vậy thì tại sao ta phải sống có lí tưởng cao đẹp ? Vì nếu “sống không mục đích không làm được gì cả” và nếu “mục đích tầm thường thì không làm được điều gì vĩ đại”. Thế chúng ta phải làm gì để trở thành người có mục đích cao cả và có ích cho xã hội? Trước hết, ta cần phải xác định lý tưởng sống đúng đắn – dự tính về tương lai sẽ cống hiến cho xã hội về những mặt nào. Tiếp theo ta cần phải lên kế hoạch học tập, rèn luyện kĩ năng, sức khoẻ, tư tưởng nhằm thực hiện mục đích đó. Sau đó, ta phải tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chính trị; điều này sẽ giúp cho bản thân hòa nhập cộng đồng. Ta cần phải phát huy những thế mạnh của bản thân, khắc phục các điểm yếu và vận dụng những điều đã học vào thực tế.
Ngày xưa, anh hùng Lý Tự trọng đã từng nói: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác!”. Trong thời kỳ chiến tranh bao lớp thanh niên xông pha lên đường với một mục tiêu – lý tưởng tất cả vì tiền tuyến, vì độc lập tư do của đất nước. Tư tưởng đó đã đi vào lời ca tiếng hát của bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. “Anh lên xe trời đổ cơn mưa, Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ; Em xuống núi nắng vàng rực rỡ; Cái nhành hoa gạt mối riêng tư” hay “Khi tạm biệt mua xuân; Anh lính về biên giới; Cô gái vào ca ba”. Bên cạnh một tình yêu nồng cháy của tuổi trẻ nhưng họ phải tạm gác lại để dành tất cả cho một mục tiêu cao cả. Trong thời kỳ ngày nay có lẽ chúng ta khó có thể tìm kiếm được một ca khúc nói về tình yêu đep như vậy. Biết bao thế hệ thanh niên đã ngã xuống vì một lý tưởng duy nhất là giành lại độc lập tự do cho đất nước. Đến hôm nay khi đất nước hoà bình và đang trên đà phát triển, thì lý tưởng sống cao đẹp của thanh niên, thế hệ trẻ lại càng rộng hơn, bao la hơn, ”Vì một Việt Nam Phát triển”.
Thế hệ trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, là chủ thể của thế giới, động lực giúp cho xã hội phát triển. Chính vì vậy mà các bạn thanh thiếu niên càng cần phải sống có mục đích cao đẹp. Hãy nhớ rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không đó là nhờ vào công học tập của các em”. Lời nhắn như thiêng liêng ấy phải được thực hiện! Bác luôn mong lớp lớp thanh niên sau này sẽ không chùn bước trước những khó khăn trước mắt, luôn vững chí bền tâm vượt qua thử thách để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
(Hồ Chí Minh)
Chúng ta chắc còn nhớ hai chiến thắng vẻ vang liên tiếp của đội tuyển Robocon Việt Nam, hay những tấm huy chương vàng, huy chương bạc từ những môn Olympic Toán, Lý, Hoá, Sinh hay trong những giải thể thao hàng đầu của châu lục và thế giới. Đó là những tấm gương gần gũi, rõ ràng mà thanh thiếu niên cần noi theo. Tôi xin được nhắn nhủ các bạn thanh thiếu niên, học sinh: “Hãy học tập để nắm lấy tri thức vì tri thức là sức mạnh. Có tri thức, các bạn như đứng trên vai những người đi trước để cao hơn người khác. Hãy phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chấp nhận và vượt qua thử thách, bởi không có người thất bại, chỉ có người không biết cố gắng mà thôi”. Và chắc hẳn ai trong chúng ta đều biết những Enstein, Môza, Đác-uyn,… Tất cả họ đều là những người sống có lý tưởng cao đẹp, tất cả đều làm nên điều vĩ đại và được lưu danh muôn thuở. Như mục đích “ra đi tìm đường cứu nước, hi sinh cuộc đời vì cách mạng, vì dân tộc“ của Bác. Đó là một minh chứng rất cao đẹp!
|
Bài làm
“Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác vào năm 1976. Bài thơ mang đậm chất trữ tình khi hòa bình lặp lại, tác giả lần đầu được gặp lại hình ảnh Bác Hồ khi thăm lăng. Đặc biệt, bài thơ thể hiện được tình cảm sâu nặng, thành kính của nhà thơ nói riêng, nhân dân miền Nam nói chung khi được về viếng Bác khi hoà vào dòng người. Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác sẽ giúp người đọc hiểu rõ tình cảm của nhân dân dành cho Bác.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Mở đầu bài thơ là cảm xúc dâng trào trong lòng của tác giả khi vừa bước chân vào lăng thể hiện qua đại từ nhân xưng “con” và gọi “Bác”. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng được những tình cảm gần gũi, thân thương và lòng kính trọng vô cùng đối với Người – chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xưng “Bác” nghĩa là nhà thơ đã phần nào thể hiện được sự gần gũi của Người đối với bà con nhân dân.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ như lời thổn thức của nhà thơ khi ở miền Nam xa xôi nhưng cùng đồng lòng hướng về Bác. Điều này không quá khó hiểu khi trước lúc lâm chung Người vẫn luôn hướng về miền Nam ruột thịt.
Với sự kính yêu vô cùng, nhà thơ mới thốt lên rằng:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Nếu mặt trời thứ nhất chỉ mặt trời của thiên nhiên, nhưng mặt trời thứ hai được chỉ về “Người”. Một mặt trời đang nằm trong lăng rất đỏ nghĩa là mặt trời của nhân dân chiếu sáng con đường cho nhân dân Việt Nam tìm lại độc lập.
Tiếp theo câu thơ, Viễn Phương tiếp lời
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác mang trong mình nỗi thương nhớ khôn nguôi. Bảy mươi chín mùa xuân ý chỉ số năm người sống trên cõi đời, số năm người cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Điệp ngữ “ngày ngày” được đưa ra thể hiện quy luật trình tự của dòng người vào thăm Bác.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh Bác đang nằm trước mắt nhà thơ thể hiện sự hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng sáng dịu hiền. Bác đang nằm ngủ, hình dáng Bác vẫn còn mãi trong tâm trí người dân Việt Nam.
Bác luôn là trời xanh mãi mãi trong lòng người dân. Tuy nhiên, nhà thơ thay mặt người dân nghe nhói trong tim khi hình ảnh Bác chỉ còn năm trong lăng, lặng yên.
Dù đang đứng trong lăng nhưng nhà thơ luôn lo sợ phải rời xa. Vì vậy Viễn Phương thốt lên rằng:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
|
Assignment
"Visiting Uncle Ho's Mausoleum" was composed by Vien Phuong in 1976. The poem has a lyrical quality when peace returns, the author first met the image of Uncle Ho when visiting the mausoleum. In particular, the poem shows the deep and respectful feelings of the poet in particular and the Southern people in general when they are able to visit Uncle Ho and join the crowd. Analyzing the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum will help readers clearly understand the people's feelings for Uncle Ho.
“I was in the South to visit Uncle Ho's mausoleum
I saw vast rows of bamboo trees in the mist
Oh, the green bamboo of Vietnam
Storm rain fell upright rows"
The beginning of the poem is the author's overflowing emotions as soon as he steps into the mausoleum, expressed through the personal pronoun "son" and calling "Uncle". The poem is rustic and simple but contains feelings of closeness, affection and immense respect for him - President Ho Chi Minh.
Calling "Uncle" means that the poet has partly shown his closeness to the people.
"I'm in the South to visit Uncle Ho's mausoleum"
The poem is like the poet's sobbing words when he was in the far South but united towards Uncle Ho. This is not too difficult to understand when before his death he always looked towards his biological South.
With great respect, the poet exclaimed:
“Every day the sun passes over the mausoleum
Seeing a red sun in the steering so"
If the first sun refers to the sun of nature, but the second sun is pointed to "Man". A sun lying in a very red mausoleum means the people's sun illuminates the path for the Vietnamese people to regain independence.
Following the verse, Vien Phuong continued
“Every day a stream of people walks in longing
The flower garland offers seventy-nine springs.
The image of a stream of people entering Uncle Ho's mausoleum brings with it endless nostalgia. Seventy-nine springs refer to the number of years people lived in this world, the number of years people devoted themselves to the cause of national liberation. The alliteration "day by day" is given to show the order of the flow of people coming to visit Uncle Ho.
“Uncle lies in a peaceful sleep
In the middle of a gentle bright moon
I still know that the sky is blue forever
But why listen to the throbbing in my heart"
The image of Uncle Ho lying before the poet's eyes shows his gentleness and kindness like a gentle bright moon. Uncle Ho is sleeping, his image is still forever in the minds of the Vietnamese people.
Uncle Ho is always blue sky forever in people's hearts. However, the poet, on behalf of the people, felt the pain in their hearts when the image of Uncle Ho remained in the mausoleum, silent.
Even though he was standing in the mausoleum, the poet was always afraid of leaving. Therefore, Vien Phuong exclaimed:
“Tomorrow when I return to the South I feel tears in my eyes
I want to be a bird that sings around Uncle Ho's mausoleum
I want to be a fragrant flower somewhere
|
Bài làm
“ Có ai bảo trăn châu là khổ chứ? Khi tôi đang mơ màng, lắng tai nghe tiếng chim hót trên cành cao”. Đó là những hình ảnh con trâu đi trước, cái cày đi sau chắc hẳn đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam khi sinh ra và lớn lên ở các vùng quê trên dải đất hình chữ S. Thuyết minh một loài vật nuôi ở quê em dưới đây sẽ giúp các bạn trở về ký ức tuổi thơ, tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm, hữu ích của loài vật thân thuộc này đối với cuộc sống của chốn thôn quê Việt Nam chúng ta.
Trâu thuộc họ bò, sừng rỗng, thuộc bộ nhai lại, lớp thú có vú. Xưa kia, trâu vốn sống trong rừng rậm, sau này khi nghề trồng lúa nước phát triển, trâu đã được con người thuần hóa và trở thành người trợ thủ đắc lực cho công việc đồng áng của người nông dân. Một chú trâu đực có cân nặng trung bình từ 400 đến 450 kg, trâu cái thì thấp hơn một chút, từ 300kg đến 350kg.
Với thân hình lực lưỡng, vạm vỡ mà quả không sai khi nói con trâu là đầu cơ nghiệp, là biểu tượng từ bao đời nay của sự chăm chỉ, cần cù. Chúng ta thường nghe câu ca dao “Trâu ơi ta bảo trâu này! trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta nhé”. Từ sáng sớm tinh mơ, khi gà vừa cất tiếng gáy, trâu đã cùng người nông dân ra đồng.
Trung bình một ngày, trâu có thể cày từ 3 – 4 sào đất, thậm chí ở Tây Nguyên, đồng bào còn dùng trâu để kéo gỗ, bởi sức bền và sự chịu đựng dẻo dai của loài vật này. Ngoài ra, đối với người dân nơi đây, trâu còn là loài vật linh thiêng, dùng để tế các vị thần linh, xua đuổi tà ma, bảo vệ dân làng.
Không chỉ hoàn thành xuất sắc công việc đồng áng mà thịt trâu còn là nguồn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng cần thiết, khắc phục được nhược điểm bị tê, phong ngừa ở thịt bò. Bởi vậy, những người bị dị ứng thịt bò có thể cung cấp nguồn protein dồi dào từ thịt trâu thơm ngon. Với những chú trâu già, con người còn sử dụng da trâu để làm mặt trống, dùng cặp sừng để gia công mỹ nghệ. Chưa hết, phân trâu còn được xem là phân bón thần thánh, để bón ruộng, vườn cây ăn quả, cho cây trái thêm phần tươi tốt.
Là người Việt Nam, có ai là không biết đến câu ca dao: “Dù ai đi ngược về xuôi, mùng chính tháng tám chọi trâu thì về” Lễ hội chọi trâu nức tiếng với quy mô hoành tráng được nhắc đến trong câu ca dao chính là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, Hải Phòng, thu hút hàng trăm chú trâu to, khỏe, được tuyển chọn từ khắp vùng miền trên đất nước. Thân thuộc là vậy nên chú trâu vàng được Việt Nam chọn là biểu tượng SEAGAMES 22, nhằm quảng bá hình ảnh đất nước tươi đẹp, con người thân thận, hiền lành, chăm chỉ đến bạn bè khắp nơi trên thế giới.
To khỏe là vậy nhưng không phải ngẫu nhiên mà loài vật này có được sức lực như thế. Cũng giống như bao loài vật khác, trâu cần được chăm sóc, nuôi dưỡng đúng cách. Thức ăn của trâu thường là rơm rạ, cỏ đôi khi để bổ sung chất dinh dưỡng cho trâu, người nông dân còn cho chúng ăn cám ngô, cám gạo đã nấu chín.
|
Assignment
“Who said python is suffering? When I was daydreaming, I listened to the birds singing on the high branches." Those images of the buffalo in front and the plow in the back must have been deeply ingrained in the subconscious of every Vietnamese person born and raised in the countryside on the S-shaped strip of land. Explanation of an animal The following animals raised in my hometown will help you return to your childhood memories and learn more about the characteristics and usefulness of this familiar animal to the life of our Vietnamese countryside.
Buffalo belongs to the bovine family, has hollow horns, belongs to the ruminant order, the class of mammals. In the past, buffaloes lived in the jungle. Later, when wet rice farming developed, buffaloes were domesticated by humans and became effective assistants to farmers' farming work. A male buffalo has an average weight of 400 to 450 kg, a female buffalo is a bit lower, from 300kg to 350kg.
With a muscular and muscular body, it is not wrong to say that the buffalo is the head of a family's fortune, a symbol of hard work and diligence for generations. We often hear the folk song "Buffalo, I say buffalo!" Come out to the buffalo fields and plow with me." From early morning, when the rooster crowed, the buffalo went out to the fields with the farmer.
On average, a buffalo can plow 3-4 acres of land per day. Even in the Central Highlands, people still use buffaloes to pull wood, because of the endurance and endurance of this animal. In addition, for the people here, the buffalo is also a sacred animal, used to sacrifice to the gods, ward off evil spirits, and protect the villagers.
Not only does it excellently complete farm work, but buffalo meat is also a food source rich in essential nutrients, overcoming the disadvantages of numbness and prevention in beef. Therefore, people with beef allergies can get a rich source of protein from delicious buffalo meat. With old buffaloes, people also use buffalo skin to make drum faces, and use horns to make handicrafts. Not only that, buffalo manure is also considered divine fertilizer, used to fertilize fields and orchards, making fruit trees more lush.
As a Vietnamese, is there anyone who does not know the folk song: "No matter who goes back and forth, the buffalo fighting festival will return on the main day of August?" The famous buffalo fighting festival with its grand scale is mentioned in the folk song. is the Do Son buffalo fighting festival, Hai Phong, attracting hundreds of big, strong buffaloes, selected from all regions of the country. Because of its familiarity, the golden buffalo was chosen by Vietnam as the symbol of SEAGAMES 22, in order to promote the image of a beautiful country, careful, gentle, and hard-working people to friends all over the world.
Although it is strong and strong, it is not by chance that this animal has such strength. Like many other animals, buffaloes need to be cared for and raised properly. The buffalo's food is usually straw and grass, sometimes to supplement nutrients for the buffalo. Farmers also feed them corn bran and cooked rice bran.
|
Bài làm
Có ai đó đã từng nói: “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Câu nói quả thật vô cùng chính xác cho nên từ xưa tới nay, nhân ai luôn được coi là một phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam ta. Mỗi đứa trẻ sinh ra đều được người lớn dạy bảo về lòng nhân ái. Đó là truyền thống từ bao đời này mà ông ta cha vẫn luôn bảo tồn và phát triển nét đẹp này.
Nhân ái là một cụm từ chỉ tình yêu thương của con người. “Nhân” là người, “ái” là tình yêu. Lòng nhân ái là tình cảm giữa người với người, là sự giúp đỡ giữa những con người với nhau. Tình cảm đó xuất phát từ sự chân thành từ sự bao dung giữa người với người chứ không xuất phát từ những mục đích riêng.
Lòng nhân ái không phải là những hành động cao cả mà nó xuất phát từ những hành động nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. Lòng nhân ái có thể là sự giúp đỡ một manh áo cũ, một cuốn vở cũ hay một chút tiền tiết kiệm để gửi tới những người khó khăn. Hoặc lòng nhân ái là hành động giúp một cụ già qua đường, giúp đỡ một em nhỏ đi lạc, một con vật bị thương…
Trong cuộc sống, lòng nhân ái có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là cầu nối để gắn kết tình cảm, gắn kết mọi người xa lại lại gần nhau hơn. Lòng nhân ái góp phần tạo nên một khối đoàn kết mạnh mẽ khó có thể tách rời, nó giúp tạo nên sức mạnh của tập thể. Dẫn chứng tốt nhất về sức mạnh của lòng nhân ái đó là sự đoàn kết gắn bó của người dân Việt Nam trong các cuộc chiến tranh. Nếu không có sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, không có sự đồng sức đồng lòng của tất cả người dân thì làm sao có thể tạo ra những chiến thắng oanh liệt cho Tổ quốc.
Mặt khác, lòng nhân ái còn tạo ra sự lan tỏa đến với cộng đồng. Nó có thể ảnh hưởng tích cực đến mọi người trong xã hội, nó giúp thay đổi hành động và tạo ra những việc làm có ý nghĩa cho cộng đồng. Chính vì nhận thấy sức mạnh của lòng nhân ái vô cùng to lớn nên Đài phát thanh Truyền hình Việt Nam đã có một số chương trình tôn vinh những tấm lòng nhân ái như “Người tử tế”, “Cặp lá yếu thương”…. Lòng tốt của mối người là nguồn cảm hứng thôi thức những người khác hành động theo mình.
Nhiều tấm lòng nhân ai, nhiều sự giúp đỡ của mọi người không phải xuất phát từ mục đích nào đó mà nó hình thành từ chính tình cảm của mỗi người. Họ đều mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn, mong những người khó khăn có cuộc sống tốt hơn. Chính vì thế, đôi khi sự giúp đỡ người khác sẽ giúp tâm hồn con người thanh thản và trở nên hạnh phúc hơn bao giờ hết.
|
Assignment
Someone once said: "Compassion is the most beautiful expression of humanity." The saying is indeed extremely accurate, so from ancient times until now, humanity has always been considered a good quality of Vietnamese people. Every child born is taught by adults about kindness. It is a tradition that has existed for many generations, but our ancestors have always preserved and developed this beauty.
Compassion is a phrase that refers to human love. “Nhan” is a person, “love” is love. Compassion is the affection between people, the help between people. That love comes from sincerity and tolerance between people, not from personal goals.
Compassion is not noble actions but it comes from small actions in everyday life. Compassion can be the help of an old shirt, an old notebook or a little savings to send to those in need. Or kindness is the act of helping an old man cross the street, helping a lost child, an injured animal...
In life, kindness is very important. It is a bridge to connect emotions, bringing distant people closer together. Compassion contributes to creating a strong solidarity that is difficult to separate, it helps create collective strength. The best evidence of the power of compassion is the solidarity of the Vietnamese people during wars. Without love, mutual support, and the unanimity of all people, how can we create glorious victories for the Fatherland?
On the other hand, kindness also spreads to the community. It can positively influence people in society, it helps change actions and create meaningful jobs for the community. Because of realizing the immense power of kindness, Vietnam Radio and Television has had a number of programs honoring compassionate hearts such as "Kind people", "Weak leaves"... The kindness of each other is a source of inspiration that motivates others to follow their actions.
Many people's kindness, many people's help do not come from some purpose but are formed from each person's own feelings. They all hope for a better life, hope that difficult people have a better life. Therefore, sometimes helping others will help people's souls be at peace and become happier than ever.
|
Bài làm
Giữa cuộc sống ồn ào và vội vã chỉ có gia đình luôn là bến đỗ bình yên cho tâm hồn. Chỉ có mái ấm gia đình mới giúp bao nỗi muộn phiền của chúng ta tan biến một cách nhanh nhất. Chỉ có gia đình mới luôn là điểm tựa vững chắc nhất dành cho mỗi chúng ta trên bước đường đời
Gia đình là gì? Gia đình hai tiếng thân thương ấy là một tế bào của xã hội, là nơi sinh sống của những người thân thương dưới cùng một mái nhà. Trong một mái ấm gia đình sẽ luôn có tình yêu thương, sự dạy dỗ, chăm sóc của ông bà, bố mẹ dành cho con cái. Trong một mái ấm gia đình sẽ có những tiếng cười của trẻ thơ, có sự kính trọng của con cái dành cho ông bà, cha mẹ. Gia đình chính là nơi để mọi người yêu thương, chia sẻ, chở che cho nhau. Gia đình là nơi mà dù chúng ta có đi xa đến đâu, có phạm phải lỗi lầm gì thì vẫn luôn mở rộng cửa chào đón chúng ta trở về. Một gia đình được xây dựng bằng tình yêu thương sẽ giúp mỗi thành viên trong gia đình luôn biết yêu thương, quan tâm đến nhau để trở thành một công nhân tốt.
Có được một gia đình ấm áp, bình yên là niềm hạnh phúc của mỗi người. Niềm hạnh phúc đó có thể đơn giản là những bữa cơm gia đình ấm áp với đầy đủ thành viên. Niềm hạnh phúc đó có thể là được mẹ nâng niu chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ. Những phút giây tràn đầy yêu thương bên gia đình là những giây phút hạnh phúc mà không có giá trị vật chất nào có thể mua được. Nhưng để có được một gia đình bình yên, hạnh phúc thì phụ thuộc vào chính bản thân của mỗi thành viên trong gia đình. Mỗi thành viên phải biết hoàn thành đúng vai trò, nghĩa vụ, bổn phận của mình. Đối với cha mẹ thì phải luôn làm gương cho con cái, luôn yêu thương, dạy bảo con những điều hay lẽ phải. Đối với con cái thì phải biết kính trọng, biết ơn cha mẹ, biết nỗ lực rèn luyện bản thân để trở thành một người tốt. Có như vậy thì mới có được một mái ấm gia đình trọn vẹn, hạnh phúc.
Bản thân mỗi người ai cũng có khát vọng về một gia đình hạnh phúc được xây dựng bằng tình yêu thương. Nhưng trong thực tế xã hội hiện nay vẫn có nhiều những mảnh đời bất hạnh không có được một gia đình trọn vẹn.
Đó là những trẻ em lang thang, cơ nhỡ bị bỏ rơi phải lang mạt mưu sinh kiếm sống. Các em luôn khao khát có được một mái ấm bình dị để được che chở, được ăn uống đầy đủ, được đến trường đi học. Nhưng họ lại không thể có được.
Đó có thể là những người già không nơi nương tựa phải sống trong cảnh cô đơn. Những ngày tháng gần đất xa chơi họ cũng mong được sống bên con cháu đầm ấm, hạnh phúc.Nhưng họ cũng không thể có được.
|
Assignment
In the midst of a noisy and hurried life, only family is always a peaceful haven for the soul. Only a warm family can help all of our worries disappear as quickly as possible. Only family is always the strongest fulcrum for each of us on our life's journey
What is family? That beloved two-word family is a cell of society, a place where loved ones live under the same roof. In a warm family home, there will always be love, teaching, and care from grandparents and parents for their children. In a warm family home, there will be the laughter of children and the respect of children for their grandparents and parents. Family is the place where people love, share, and protect each other. Family is a place where no matter how far we go or what mistakes we make, the door is always open to welcome us back. A family built with love will help each family member always love and care for each other to become a good worker.
Having a warm and peaceful family is everyone's happiness. That happiness can be as simple as warm family meals with all members. That happiness can be having a mother cherish and take care of every bite of food and sleep. Moments full of love with family are moments of happiness that no material value can buy. But to have a peaceful and happy family depends on each family member. Each member must know how to properly fulfill his or her role, duties and responsibilities. For parents, they must always set an example for their children, always love and teach them good things. For children, they must respect and be grateful to their parents, and make efforts to train themselves to become a good person. Only then can we have a complete and happy family.
Everyone has the desire for a happy family built with love. But in today's society, there are still many unfortunate people who do not have a perfect family.
These are homeless and abandoned children who have to wander around to make a living. Children always desire to have a simple home where they can be protected, have enough food, and go to school. But they couldn't have it.
These could be homeless elderly people who have to live in loneliness. In the days when they were near and far away, they also wished to live warmly and happily with their children and grandchildren. But they could not have it either.
|
Bài làm
Trong cuộc sống không ai trong chúng ta là hoàn hảo. Ai cũng có thể phạm những lỗi lầm trong đời. Điều quan trọng là khi chúng ta nhận biết và sửa chữa những lỗi lầm đó thì chúng ta phải biết khoan dung với nhau. Lòng khoan dung sẽ giúp chúng ta xích lại gần nhau hơn bằng tình yêu thương, giúp mỗi người chúng ta đều trở lên tốt đẹp hơn.
Lòng khoan dung đó là một phẩm chất tốt đẹp ẩn chứa trong mỗi con người. Lòng khoan dung là sự rộng lượng, bao dung, sẵn sàng tha thứ, xóa bỏ những lỗi lầm của người khác phạm phải. Khoan dung là biết chấp nhận những sai lầm, thiếu sót của người khác và giúp họ đứng lên sau những sai lầm, vấp ngã.
Khoan dung đó có thể là từ những hành động rất nhỏ đến những hành động lớn. Đó có thể là sự khoan dung cho một lần nói dối của bạn thân khiến bạn buồn. Đó có thể là sự khoan dung của mẹ dành cho đứa con trong một lần nông nổi bỏ nhà ra đi. Người mẹ ấy vẫn luôn mở rộng trái tim, mở rộng vòng tay đón con trở về bằng những lời khuyên bảo, bằng tình yêu thương. Đó có thể sự khoan dung dành cho những con người lầm lỡ bước vào con đường sai trái nhưng đã biết quay đầu lại hoàn lương trở lại xã hội. Lòng khoan dung sẽ mang lại lợi ích cho cả người thứ tha và người được thứ tha. Người khoan dung là một người có trái tim đẹp, nhân hậu. Người được khoan dung sẽ có động lực để luôn hoàn thiện bản thân, tránh phạm phải những sai lầm, thiếu sót trong cuộc sống. Nếu mọi người luôn khoan dung, nhân hậu với nhau thì xã hội sẽ trở lên tốt đẹp hơn.
|
Assignment
In life, none of us are perfect. Anyone can make mistakes in life. It is important that when we recognize and correct those mistakes, we must be tolerant of each other. Tolerance will help us get closer to each other with love, helping each of us become better.
Tolerance is a good quality hidden in every person. Tolerance is generosity, tolerance, willingness to forgive, and erase the mistakes of others. Tolerance is knowing how to accept the mistakes and shortcomings of others and helping them stand up after mistakes and stumbles.
That tolerance can range from very small actions to large actions. It could be tolerance for a lie your best friend once told you that made you sad. It could be the mother's tolerance for her child when she impulsively ran away from home. That mother always opens her heart and arms to welcome her child back with advice and love. That may be tolerance for people who mistakenly step on the wrong path but know how to turn around and return to society. Forgiveness benefits both the forgiver and the forgiven. A tolerant person is a person with a beautiful, kind heart. People who are tolerant will have the motivation to always improve themselves and avoid making mistakes and shortcomings in life. If everyone is always tolerant and kind to each other, society will become better.
|
Bài làm
Con người là một thành phần trong xã hội. Con người góp phần vào việc đổi mới và xây dựng xã hội. Chính vì thế mà con người cần phải có ý thức và tinh thần trách nhiệm để xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh. Một lối sống có trách nhiệm sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho chính bản thân, gia đình và xã hội.
Việc sống trách nhiệm là việc mà con người làm tròn phẩn phẩn của mình với xã hội, với gia đình và với chính bản thân mình. Con người dám làm, giám chịu trách nhiệm với chính hành động của bản thân thế mới là trách nhiệm. Trách nhiệm của một người học sinh đó là phải trau dồi nhiều kiến thức, rèn luyện tâm hồn để hoàn thành nghĩa vụ với bản thân và trở thành một công dân có ích cho xã hội.
Biểu hiện của việc sống có trách nhiệm rất đa dạng và phong phú. Hành động có trách nhiệm có thể bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày. Chẳng hạn như đi ngủ đúng giờ để đảm bảo sức khỏe bản thân, không bỏ bữa sáng, lễ phép và kính trọng mọi người….. Mỗi một hành động nhỏ hàng ngày sẽ góp phần tích lũy thành một thói quen hàng ngày, trở thành một lối sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, việc sống trách nhiệm với bản thân không chỉ đơn giản là làm những việc có ích cho chính bản thân mình mà việc làm ấy phải gắn với lợi ích của gia đình và xã hội. Nếu chỉ biết sống có trách nhiệm với bản thân thì đó không phải là lối sống trách nhiệm mà đó sẽ trở thành lối sống ích kỷ hẹp hòi. Chính vì thế con người cần phải hòa mình vào xã hội, phải biết san sẻ yêu thương và làm nhiều việc có ích cho mọi người thì đó mới gọi là người có trách nhiệm.
Xã hội đang dần phát triển từng ngày, và học sinh cũng cần phải góp phần vào sự phát triển của xã hội. Chúng ta phải có trách nhiệm với nơi mà chúng ta tồn tại. Mỗi người chỉ cần làm những hành động nhỏ như bỏ rác đúng nơi quy định, không hút thuốc, uống rượu, giữ gìn vệ sinh chung… cũng là đóng góp cho xã hội. Hay những hành động tình nguyện vào dịp hè của thanh niên cũng là một hành động có trách nhiệm với bản thân. Họ đi về vùng sâu vùng xa giúp đỡ những người già neo đơn, sửa lại cầu đường, lợp lại mái lá… tất cả những nghĩa cử đó đều thể hiện rõ rệt những cống hiến của họ đối với xã hội, mong muốn một đất nước tốt đẹp hơn.
|
Assignment
Humans are a part of society. People contribute to innovation and building society. That is why people need to have awareness and a sense of responsibility to build a healthy and civilized society. A responsible lifestyle will bring many good things to yourself, your family and society.
Living responsibly is where people fulfill their part with society, with their family and with themselves. People dare to do things and take responsibility for their own actions. That is responsibility. The responsibility of a student is to cultivate a lot of knowledge, train the soul to fulfill obligations to oneself and become a useful citizen for society.
Expressions of responsible living are very diverse and rich. Responsible action can start with small things in daily life. For example, going to bed on time to ensure your health, not skipping breakfast, being polite and respectful to everyone... Each small daily action will contribute to accumulating into a daily habit, becoming a daily habit. into a lifestyle that is responsible for yourself, your family and is beneficial to society.
However, living responsibly with yourself is not simply about doing things that are beneficial to yourself, but that work must be associated with the benefits of family and society. If you only know how to live responsibly with yourself, that is not a responsible lifestyle but will become a narrow, selfish lifestyle. That's why people need to immerse themselves in society, know how to share love and do many useful things for everyone, then they can be called responsible people.
Society is gradually developing day by day, and students also need to contribute to the development of society. We must be responsible for the place where we exist. Each person only needs to do small actions such as putting trash in the right place, not smoking, drinking alcohol, maintaining general hygiene... to also contribute to society. Or youth volunteering in the summer is also an act of personal responsibility. They go to remote areas to help lonely elderly people, repair bridges and roads, re-thatch roofs... all of these gestures clearly demonstrate their contributions to society, their desire for a better land. better water.
|
Bài làm
Xã hội luôn vận động và không ngừng phát triển. Điều này đòi hỏi bản thân mỗi người phải luôn vận động để theo kịp sự phát triển đó. Để theo kịp thì việc cập nhật kiến thức trong trường lớp, trong trường đời là vô cùng quan trọng. Việc cập nhật kiến thức không chỉ thụ động mà quan trọng để nhớ lâu, hiểu sâu mọi vấn đề thì bản thân mỗi người phải chủ động, phải có tính tự học.
Vậy tự học là như thế nào? Tự học đó là quá trình chủ động trong việc tìm kiếm, lĩnh hội tri thức từ nhiều nguồn thay vì trông chờ sự dạy bảo từ thầy cô hay những người đi trước. Đối với những người có tính tự học, họ sẽ luôn biết tìm kiếm, nghiên cứu, cập nhật mọi tri thức từ trong sách vở lẫn trong thực tế. Với những người như thế họ sẽ luôn có kiến thức sâu rộng, hiểu được cội rễ của mọi vấn đề, không bị tụt hậu và luôn nhạy bén trong quá trình áp học những kiến thức đã học.
Kiến thức thì vô biên còn con người chúng ta thì nhỏ bé. Nếu không tự giác trong việc học thì chúng ta sẽ tự làm bản thân chúng ta đi lùi so với những bước tiến của xã hội. Nếu chúng ta chỉ thụ động tiếp thu kiến thức, học tủ, học vẹt thì những kiến thức ấy cũng như một dòng nước vừa chảy vào chưa kịp ngưng đọng đã chảy ra. Như thế, chúng ta sẽ mau chóng quên những kiến thức đã được học và chẳng thể áp dụng vào thực tế để mang lại những giá trị. Nhưng nếu chúng ta có tính tự học, tự mò mẫm, say mê tìm kiếm thì mọi kiến thức sẽ ngấm sâu vào trong tâm trí, tạo nên một thói quen tích cực. Nếu chúng ta tự học sẽ khắc phục được những nhược điểm của phương pháp học tủ, học vẹt. Nếu chúng ta tự học chúng ta sẽ luôn có một nền tảng vững chắc để tiếp thu nhanh chóng những kiến thức cao hơn một cách dễ dàng. Có thể nói, tính tự học chính là một trong những đức tính giúp đưa bạn đến sự thành công.
|
Assignment
Society is always moving and constantly developing. This requires each person to always move to keep up with that development. To keep up, updating knowledge in school and in life is extremely important. Updating knowledge is not only passive but important to remember for a long time and deeply understand all issues, each person must be proactive and self-study.
So what is self-study like? Self-study is the proactive process of searching and absorbing knowledge from many sources instead of waiting for instruction from teachers or predecessors. For those who are self-taught, they will always know how to search, research, and update all knowledge from books and in reality. With such people, they will always have extensive knowledge, understand the roots of all problems, will not fall behind and will always be sharp in the process of applying the knowledge they have learned.
Knowledge is boundless and we humans are small. If we are not self-aware in learning, we will make ourselves go backwards compared to the progress of society. If we just passively absorb knowledge, learn it by heart, learn by rote, then that knowledge is like a stream of water that has just flowed in and has not yet had time to condense. Thus, we will quickly forget the knowledge we have learned and cannot apply it in practice to bring value. But if we are self-taught, self-inquisitive, and passionate about searching, all knowledge will penetrate deeply into our minds, creating a positive habit. If we self-study, we will overcome the disadvantages of rote learning methods. If we self-study, we will always have a solid foundation to quickly absorb higher knowledge easily. It can be said that self-study is one of the qualities that helps bring you success.
|
Bài làm
Sống có ích chẳng bao giờ là điều dễ dàng nhưng cũng không phải là quá khó khăn. Cuộc sống của bất cứ ai trong xã hội này đều luôn luôn có sự hiện hữu của muôn vàn khó khăn. Để có hướng tới một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, trước hết mỗi người phải cố gắng sống có ích từng ngày từng giờ, để mỗi ngày trôi qua thêm ý nghĩa. Bài nghị luận xã hội về lối sống có ích dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về cách sống đẹp này.
Sống có ích là cuộc sống có ý nghĩa
Khi mới nghe qua, có thể các bạn sẽ thấy có vẻ sống có ích khá đơn giản, tuy nhiên phải sống sao cho mỗi ngày luôn cảm thấy có ích lại là một câu hỏi khó. Vậy sống có ích là như thế nào?
Đầu tiên, sống có ích là lối sống tích cực, sống hết mình, phát huy hết tất cả các khả năng của bản thân, không ngừng trau dồi kỹ năng, tri thức để ngày một hoàn thiện bản thân về mọi mặt. Tiếp đó, sống có ích, là lối sống đem lại lợi ích cho bản thân mình và cho cả những người xung quanh. Như một chú ong chăm chỉ dâng mật ngọt cho đời, bắt đầu từ những việc nhỏ, rồi tới những việc lớn lao để cống hiến cho xã hội, con người.
Sống có ích thể hiện qua nhiều góc độ, khía cạnh của cuộc sống. Nếp sống này không chỉ dừng lại ở siêng năng, chăm chỉ, chịu khó làm việc, mà nó còn được biểu hiện qua cách đối nhân xử thế. Có thể là khi chúng ta trao đi tình cảm yêu thương, sự giúp đỡ đến người khác mà không hề đòi hỏi sự đền đáp nào. Khi đó chúng ta biết nghĩ đến người khác, không bị cám dỗ bởi những điều xấu, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích chung của tất cả mọi người. Biết khắc phục những thiếu sót, vấp ngã trong cuộc sống, thừa nhận và sửa sai khi có lỗi, coi đó là một bài học để không bao giờ mắc phải một lần nữa. Tự đề ra cho mình mục tiêu làm việc, học tập và thực hiện tốt, giúp đỡ bạn bè, những người xung quanh hay đơn giản là sống có hiếu với ông bà, cha mẹ là bạn đã phần nào thể hiện được lối sống có ích của bản thân.
Bên cạnh đó, việc phê phán thái độ thờ ơ, vô cảm của một số con người hiện nay là việc vô cùng quan trọng. Ỷ vào những thứ đã có mà sống buông thả, sa đọa, gặp cảnh khó khăn thì vô tâm, hờ hững. Cuộc sống của những người này không có mục tiêu, ý chí phấn đấu, lười nhác, khi gặp khó khăn một chút sẽ dễ dàng buông xuôi, gục ngã. Như vậy cuộc sống không có ích là cuộc sống vô nghĩa, vô tình đẩy con người vào những tệ nạn như rượu chè, hút chích,… mà không thể nào thoát ra được, gây ảnh hưởng cực kỳ xấu đến bản thân và xã hội.
|
Assignment
Living a useful life is never easy but it is not too difficult either. The life of anyone in this society always has the presence of countless difficulties. To lead a happy and joyful life, first of all, each person must try to live usefully every day and every hour, so that each day passes more meaningfully. The social discussion about a useful lifestyle below will help you better understand this beautiful way of living.
A useful life is a meaningful life
When you first hear it, you may think that living a useful life is quite simple, but living in such a way that you always feel useful every day is a difficult question. So what is a useful life?
First, a useful life is a positive lifestyle, living to the fullest, promoting all of one's abilities, constantly cultivating skills and knowledge to increasingly perfect oneself in all aspects. Next, living a useful life is a lifestyle that benefits yourself and those around you. Like a hardworking bee offering sweet honey to life, starting with small things, then moving on to big things to contribute to society and people.
Living a useful life is expressed through many angles and aspects of life. This lifestyle does not stop at being diligent, hard-working, and hard-working, but it is also expressed through the way we treat people. Maybe it's when we give love and help to others without asking for anything in return. Then we know how to think of others, not be tempted by bad things, and know how to sacrifice personal interests for the common good of everyone. Know how to overcome shortcomings and stumbles in life, admit and correct mistakes, consider it a lesson to never make the same mistake again. Setting yourself a goal of working, studying and doing well, helping friends, people around you or simply being filial to your grandparents and parents, you have partly demonstrated a virtuous lifestyle. own benefit.
Besides, criticizing the indifferent and insensitive attitude of some people today is extremely important. Relying on what you already have and living carelessly and depravedly, when encountering difficult situations, you are heartless and indifferent. The lives of these people have no goals, no will to strive, and are lazy. When faced with a little difficulty, they will easily give up and fall. Thus, an unproductive life is a meaningless life, unintentionally pushing people into evils such as alcohol, drugs, etc. that cannot be escaped, causing extremely negative effects on themselves and society. .
|
Bài làm
Nhắc đến hình ảnh con cò là người ta nhắc đến một hình ảnh thân quen của người nông dân Việt Nam tự bao đời nay. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh con cò bỗng lại xuất hiện trong các câu dân ca, trong những câu hát của cha ông ta. Hình ảnh con cò có lúc được mượn để ví thân phận người phụ nữ chịu thương chịu khó. Cũng có khi hình ảnh con cò lại được mượn để nói lên tình mẫu tử thiêng liêng. Nhà thơ Chế Lan Viên đã sáng tạo thật độc đáo, ông mượn hình ảnh con cò cùng với đó là chất liệu từ ca dao, dân ca để sáng tác ra bài thơ “Con cò”. Bài thơ viết thật chân thực và sâu sắc về tình mẹ.
Ngay từ khổ thơ đầu tiên ta đã cảm nhận thấy được khổ thơ thực sự nhẹ nhàng và êm ái biết bao nhiêu:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ ru
Có cánh cò đang bay
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng”
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng…”
Ngủ yên! ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân
Thông qua đoạn thơ đầu này ta cảm nhận thấy đúng là đứa trẻ còn quá bé bỏng để hiểu được thế nào là “con cò”, “con vạc”. Đặc biệt hơn ngay từ giấc ngủ đầu thì người mẹ thật tinh tế và cũng thật nhẹ nhàng đem cánh cò đến với đứa con yêu của mình bằng lời ru vô cùng dịu dàng và đằm thắm biết bao nhiêu. Chính người mẹ đã nhẹ nhàng đem cánh cò đến với con bằng lời ru dịu dàng, nồng ấm. Chế Lan Viên còn sử dụng điệp từ “con cò” nhiều lần để tạo ra một điệp khúc ngân vang. Như vậy thì người đọc cũng có thể cảm nhận được trong thơ có nhạc. Chính với nhạc điệu là lời ru của mẹ đối với con, là lời kể cũng như lời tả của mẹ về hình ảnh cò trong dân gian cho con nghe. Hình ảnh trong bài thơ được xuất hiện vô cùng rõ nét “con cò bay la,….. bay lả”, từ “cổng phủ” cho đến “Đồng Đăng” được nhà thơ miêu tả hình ảnh cò thung dung bay lượn một cách tự do trên khắp mọi nẻo quê hương. Và từ đó thì cánh cò lúc này đây cũng đã trở thành biểu tượng gắn bó với làng quê Việt Nam. Với hình ảnh cò “xa tổ”, cò “ăn đêm”, con cò sợ gặp “cành mềm”, sợ bị “xáo măng”,… cũng phần nào gợi hình ảnh cò lẻ loi một mình đi kiếm mồi trong đêm tăm tối có muôn vàn cạm bẫy đang chực chờ ở phía trước. Qua đây thì tác giả như cũng muốn nhắc đến thân phận yếu đuối của người phụ nữ và nỗi vất vả gian truân trong cuộc mưu sinh để có thể nuôi con âm thầm. Nhất là khi bên ngoài xã hội còn nhiều cạm bẫy đang giăng mắc. Cho dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời thế nhưng mẹ muốn hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê hương, thuộc về đất nước. Từ đó cũng có thể hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Người mẹ luôn mong muốn con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì lúc đó đã có mẹ chở che trong câu thơ :
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân
Không ai không cảm động khi đứng trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn tấm bé. Để rồi, người con từng bước trưởng thành nhưng vẫn có mẹ sẻ chia bên cạnh.
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Tiếp đến với khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại thì ta cũng vẫn là ý nghĩa của hình ảnh con cò lại gắn bó mật thiết và trở nên người bạn đồng hành đối với cuộc đời con trẻ ngay từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành.
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Thông qua đây chính là một mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Con cò như đứng ở quanh nôi, cò vào trong tổ con có ngủ thì cò mới ngủ. Từ tất cả các hình ảnh cò tới đây không còn là hình ảnh con cò giản dị nữa, mà tác giả Chế Lan Viên cũng đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Nhất là khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn thứ hai được thể hiện như sau:
Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Cánh cò cũng là hình ảnh đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Ngay từ buổi ban đầu chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, thông qua đây thì người mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, người mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi chân chính mình. Có thể thấy rằng ngay từ ban đầu, thì cò dắt con đi học. Dần dần cánh trắng cò chỉ bay theo gót chân con cho đến khi niên thiếu thì tình yêu thương của người mẹ cũng có cách thể hiện khác nhưng không hề vơi bớt đi tình yêu thương. Người mẹ luôn mong muốn con hãy bước đi bằng đôi chân của chính mình. Bởi con người ta chỉ có bước đi bằng đôi chân của mình thì khi vấp ngã mới có thể đứng lên được và thành công. Người mẹ không còn nâng niu con nữa nhưng sẽ đồng hành cùng con, ủng hộ con hết mình.
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn
Ngay cả lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ dường như cũng cứ luôn luôn là nguồn cảm xúc dạt dào. Đồng thời cũng lại là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự nghiệp. Thêm nữa, có thể nói rằng hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người luôn luôn sát cánh bên con.
Dù được gần con
Dù ở xa con
Lên rừng, xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn, vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con
Người đọc đọc đoạn thơ này cũng có thể thấy được đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng thành, và ở đó khung trời và lối đi riêng? Mặc dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa thì mẹ vẫn dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ, là điểm tựa cho con bởi: con dù lớn vẫn là con của mẹ mà thôi. Cho nên đi hết cuộc đời thì lòng mẹ vẫn theo con không bao giờ thay đổi.
À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Ngủ đi! Ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi
|
Assignment
Referring to the image of a stork, people recall a familiar image of Vietnamese farmers for many generations. It is no coincidence that the image of a stork suddenly appears in folk songs and in the songs of our ancestors. The image of a stork is sometimes borrowed to compare the fate of a woman who endures pain and suffering. Sometimes the image of a stork is borrowed to express sacred motherhood. Poet Che Lan Vien created a unique creation, he borrowed the image of a stork along with materials from folk songs and folk songs to compose the poem "Stork". The poem is truly and deeply written about mother's love.
Right from the first stanza, we can feel how gentle and gentle the poem really is:
The child was still carried in his arms
I don't know the stork yet
But in my mother's lullaby
There are stork wings flying
“The stork flew away screaming
The stork flew away
The government gate stork
Dong Dang stork"
The stork is alone, the stork has to find food
I have a mother, I play and then sleep
“The stork eats at night
The stork is far from the nest
The stork meets a soft branch
Storks are afraid of disturbing bamboo shoots..."
Sleep peacefully! sleep peacefully! Hey stork, don't be afraid
Soft spike, the mother had already raised hands
In my mother's lullaby, I see the breath of spring
I don't know the stork or the cauldron
I don't know how the soft branch my mother sings
Mother's milk is abundant, baby sleeps without hesitation
Through this first poem, we feel that the child is too young to understand what a "stork" and "cauldron" are. More specifically, right from the first sleep, the mother very delicately and gently brought the stork's wings to her beloved child with extremely gentle and loving lullabies. It was the mother who gently brought the stork's wings to her child with a gentle, warm lullaby. Che Lan Vien also used the phrase "stork" many times to create a resounding chorus. Thus, readers can also feel that there is music in poetry. The music is the mother's lullaby to her child, the mother's narrative and description of the folk image of storks for her child to listen to. The image in the poem appears very clearly: "the stork flying away,... flying away", from "the palace gate" to "Dong Dang", the poet describes the image of the stork leisurely flying around. freedom in all corners of the homeland. And since then, the stork's wings have now become a symbol of attachment to Vietnamese villages. With the image of a stork "far from the nest", a stork "feeding at night", a stork afraid of encountering "soft branches", afraid of being "disturbed",... also partly evokes the image of a lonely stork searching for prey alone in the dark night. There are countless traps waiting ahead. Through this, the author also wants to mention the weak status of women and the hardships in making a living to be able to raise children quietly. Especially when there are still many traps outside society. Even though the mother knows her child is still too young for life, she wants to sing to her child so that he or she can form love for things that belong to the homeland and the country. From there we can also understand the immense love that a mother has for her child. The mother always wants her child to feel secure in life, because at that time she had her to protect her in the verse:
Mother's milk is abundant, baby sleeps without hesitation
No one is touched when faced with the immense, profound love of a mother, comforting and protecting us since we were little. Then, the child gradually matures but still has his mother by his side to share with him.
Sleep peacefully! Sleep peacefully! Sleep peacefully!
Let the white stork come and get acquainted
The stork stood around the cradle
Then the stork entered the nest
If the child sleeps peacefully, the stork also sleeps
The two of us covered the stork's wings together.
When I grow up, I will follow the stork to school
The stork's white wings flew along the heels of its feet
Grow up! Grow up! Grow up!
What do you do?
I'm a poet!
The white stork's wings flew again and again without stopping
On the front porch and in the cool air of the sentence.
Moving on to the second stanza, it can be divided into three stages. Overall, the meaning of the image of the stork is closely linked and becomes a companion in a child's life from the very beginning. childhood until adulthood.
Sleep peacefully! Sleep peacefully! Sleep peacefully!
Let the white stork come and get acquainted
The stork stood around the cradle
Then the stork entered the nest
If the child sleeps peacefully, the stork also sleeps
The two of us covered the stork's wings together.
Through this is a close relationship between storks and children throughout childhood. The stork seems to stand around the cradle. When the stork enters the nest, only then will the stork sleep. From all the images of storks, this is no longer the simple image of a stork, but the author Che Lan Vien has also metaphorized the image of a mother who cares for, comforts, and cherishes every bite of food and sleep for her child. Sleep. Especially when the child is a little older, how will the mother's love be for the child? The second paragraph is expressed as follows:
When I grow up, I will follow the stork to school
The stork's white wings flew along the heels of its feet
The stork's wings are also the image of a mother's companion with her child during childhood. Right from the first step into life, a child needs his mother's guiding hands. However, through this, the mother will not guide her child forever, but over the years, the mother will train her child to walk on his or her own feet. It can be seen that right from the beginning, storks took their children to school. Gradually, the stork's white wings only fly around the child's heels until when he is a teenager, the mother's love also has a different expression but it does not lessen the love. A mother always wants her child to walk on his own two feet. Because people only have to walk with their own feet so that when they fall, they can stand up and succeed. The mother no longer cherishes her child but will accompany her child and support her wholeheartedly.
Grow up! Grow up! Grow up!
What do you do?
I'm a poet!
The white stork's wings flew again and again without stopping
On the front porch and in the cool air of the sentence
Even when I grow up, no matter what career I do, my mother's image seems to always be a source of abundant emotions. At the same time, it is also a catalyst to help you be more successful in your career path. In addition, it can be said that the beloved image of a mother becomes of great significance to each person's life and is always by her child's side.
Even though I'm close to you
Even though I'm far away from you
Up in the forest, down to the lake
The stork will find you
Stork loves you forever
Children, big is still the mother
For the rest of my life, my heart will still love you
Readers who read this poem can also see that this is also the narrative of all mothers with grown children, and there is a private sky and path? No matter where, no matter what the situation, a mother still opens her arms of love, is still a shore, a fulcrum for her child because: no matter how big she is, she is still her child. So throughout life, a mother's heart will always follow her child and will never change.
Oh my!
Just a stork
The mother stork sings
It's also life
Flap wings over the cradle
Go to sleep! Go to sleep!
For stork wings and cauldron wings
Even the color of the sky
Come sing
Around the crib
|
Bài làm
Chắc hẳn rằng trong cuộc sống chúng ta muốn có thể tồn tại được thì chúng ta cũng phải có rất nhiều mối quan hệ và trong đó không thể thiếu được tình bạn. Con người ai ai cũng cần phải có một tình bạn đẹp để có thể giúp đỡ ta vượt qua được tất cả những chông gai, những khó khăn mà cuộc sống đang giăng mắc.
Bạn biết không? Một tình bạn đẹp không đến từ một người bình thường mà nó phải đến từ một người có được sự sẻ chia, thông cảm, hơn hết đó còn là sự thấu hiểu về nhau giữa hai người. Thực sự thì một tình bạn đẹp phải xuất phát từ sự chân thành, trong sáng, xuất phát từ một sự vô tư và tin tưởng. Tất cả những điều này tưởng như đơn giản nhưng đó lại là điều kiện vô cùng tiên quyết để khởi đầu một tình bạn đẹp. Thực tế thì con người luôn sợ cô đơn, luôn muốn có người đáng tin tưởng để có thể sẻ chia, chia sẻ được những tâm sự nhưng cũng luôn dè chừng, cảnh giác với những người muốn chạm vào cảm xúc của họ. Cuộc sống cũng sẽ thật tồi tệ nếu một người bạn coi là bạn, lắng nghe những điều họ sẻ chia biết đâu sau đó lại đem những câu chuyện của bạn ra làm trò đùa. Chúng ta cũng nên hiểu được tình bạn cũng không thể bền vững nếu không trong sáng, đồng thời cũng lại có mục đích hay để lợi dụng lẫn nhau. Tất cả trong số chúng ta không thể gọi một người là bạn mà luôn phải đề phòng họ.
Chúng ta cũng nên biết được rằng để có thể khiến cho hai người khác nhau trở thành bạn của nhau cần rất lớn sự thấu hiểu. Chính bởi mỗi người sẽ có một tính cách khác nhau. Dẫu cho dù có thể có nét tương đồng nhưng điểm khác nhau sẽ vẫn rất lớn. Thêm với đó là sự thấu hiểu đối với nhau không dễ dàng có được, nó cũng luôn luôn cần phải có thời gian để vun đắp, có khó khăn hoạn nạn để thử thách và trưởng thành. Chúng ta cũng cần phải có sự sẻ chia, thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau giữa hai người bạn mới thì mới khiến họ hiểu nhau hơn. Mặt khác, con người không hoàn hảo, luôn luôn có những thói quen xấu bên cạnh những cái tốt. Nếu như mong muốn tình bạn được bền lâu, ta không được bao che, dung túng trước những thói quen xấu này của bạn mà hãy chỉ ra cho bạn để bạn sửa chữa. Tốt hơn nữa thì đừng ngại ngần gì mà không cùng bạn sửa chữa những sai lần này.
|
Assignment
Surely in life, if we want to survive, we must have many relationships, and friendship is indispensable. Every human being needs to have a beautiful friendship to help us overcome all the hardships and difficulties that life holds.
Do you know? A beautiful friendship does not come from an ordinary person, but it must come from someone who has sharing, sympathy, and above all, an understanding of each other between two people. In fact, a beautiful friendship must come from sincerity, purity, impartiality and trust. All of these things seem simple, but they are extremely prerequisites for starting a beautiful friendship. In reality, people are always afraid of loneliness, always want someone trustworthy to share their feelings with, but are also always cautious and wary of people who want to touch their emotions. Life would also be terrible if a person you considered a friend listened to what they shared and then made fun of your stories. We should also understand that friendship cannot be sustainable if it is not pure, and at the same time has a good purpose to take advantage of each other. All of us cannot call a person our friend but always have to be wary of them.
We should also know that to be able to make two different people become friends requires a lot of understanding. Because each person will have a different personality. Even though there may be similarities, the differences will still be huge. In addition, understanding each other is not easy to come by, it also always takes time to cultivate, difficulties and hardships to challenge and grow. We also need to have sharing, sympathy and mutual help between two new friends to make them understand each other better. On the other hand, people are not perfect, they always have bad habits alongside good ones. If we want our friendship to last long, we must not cover up or tolerate these bad habits of yours, but point them out to you so you can correct them. Better yet, don't hesitate to help me correct the mistakes this time.
|
Bài làm
Trên sân trường em có trồng rất nhiều cây bóng mát để cho chúng em vui chơi không bị ướt mồ hôi. Đồng thời còn giúp cho không khí thêm trong lành hơn, và trong số những cây đó thì em thích nhất chính là cây phượng già nơi góc sân trường thân yêu của em.
Cây phượng cao lắm, lá cũng xanh như những lá me, tuy nó không um tùm nhưng nhiều lá phượng đan xen vào nhau cũng tạo ra một bóng râm mát lớn cho chúng em. Nhìn từ xa cây phượng chẳng khác gì chiếc ô khổng lồ và lũ chim rất thích đến đây hót líu lo. Em rất thích cây hoa phượng vào mùa hè bởi khi mùa hè đến cây phượng ra hoa đỏ rực rỡ và thật đẹp biết bao nhiêu. Hoa phượng không thơm nhưng nó lại có một màu sắc vô cùng đẹp và rực rỡ đó chính là màu đỏ. Khi hoa phượng nở rộ thì đã khiến cho cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực và khiến ai ai cũng chú ý đến. Cứ mỗi một loại hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm
tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra, trên đậu khít nhau bằng muôn ngàn con bướm thắm đỏ trông mới đẹp làm sao. Thế rồi màu hoa phượng chói lói, sinh sống như sắc cờ của tổ quốc Việt Nam. Hoa phượng như càng thêm thắm trong ánh nắng chói chang của mùa hè. Người ta không biết nắng đã tô điểm cho sắc hoa phượng thêm thắm hay chính sắc hoa phượng đã khiến cho nắng chói chang và rực lửa hơn.
Cho dù trồng ở đâu, cũng chỉ có học sinh yêu và hiểu hoa phượng nhất. Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói hoa phượng là hoa-học-trò. Còn ai quen với phượng cho học sinh cắp sách đến trường một ngày hai buổi cơ chứ? Nhìn cây phượng với cành lá xanh um, lại còn thật mát rượi, ngon lành trông hệt như lá me non. Ngắm nhìn lá phượng cũng thật đặc biệt biết bao nhiêu. Lá phượng cứ xanh um, cứ e ấp và cứ để chị gió bay quâ bay lại đưa đẩy nhìn cũng đẹp đến khó tả.
Thế rồi khi bình minh của hoa phượng là một màu đó còn non, nếu có mưa, lại càng tươi dịu. Khi ngày xuân dần hết, số hoa tăng, màu cũng đậm dần. Rồi hoà nhịp với mặt trời như thật chói lọi, màu phượng mạnh mẻ kêu vang; hè đến rồi đấy! Lúc này đây thì khắp thành phố bỗng rực lên, như đến tết nhà nhà đều dán câu đối đỏ rực rỡ sắc hoa phượng. Khi buổi sớm mai thức dậy, cậu học trò vào hẳn trong mùa phượng; thôi nghỉ hè sắp rồi. Hay còn là báo hiệu mùa thi cử cũng sắp đến nữa.
|
Assignment
On the school grounds, I have planted many shade trees so that we can play without getting sweaty. At the same time, it also helps make the air fresher, and among those trees, my favorite is the old phoenix tree in the corner of my beloved school yard.
The phoenix tree is very tall, its leaves are as green as tamarind leaves. Although it is not luxuriant, many phoenix leaves interwoven together create a large cool shade for us. From a distance, the phoenix tree looks like a giant umbrella and the birds love to come here and chirp. I really like the poinciana tree in the summer because when summer comes, the poinciana tree produces bright red flowers and is so beautiful. Poinciana flowers are not fragrant, but they have an extremely beautiful and vibrant color, red. When the poinciana flowers bloom, it makes an entire area, an entire corner of the sky, red and attracts everyone's attention. Each type of flower is just a part of the beautiful society
fresh; People forget about the flowers, they only think about the trees, the rows, the large spread out canopy, covered with thousands of red butterflies, how beautiful it looks. Then the color of the poinciana flower shines brightly, living like the flag of the Vietnamese nation. Poinciana flowers seem to become even more vibrant in the bright sunlight of summer. People do not know whether it is the sunlight that makes the poinciana flower's color more vivid or whether it is the poinciana flower's color that makes the sun brighter and more fiery.
No matter where they are planted, only students love and understand poinciana flowers the most. It's no coincidence that people say poinciana flowers are student flowers. Who else is familiar with phoenix sending students to school twice a day? Looking at the phoenix tree with its green branches and leaves, it is so cool and delicious that it looks just like a young tamarind leaf. Seeing phoenix leaves is also very special. As long as the phoenix leaves are green, shy, and let the wind blow around them, they look so beautiful that it's hard to describe.
Then, when the phoenix flower dawns, it is still a young color, and if it rains, it will be even brighter. As the spring days gradually end, the number of flowers increases and the color also becomes darker. Then, in harmony with the dazzling real sun, the strong phoenix color resonates; Summer is here! At this time, the whole city suddenly lit up, as if it was Tet, every house had red couplets decorated with bright phoenix flowers. When he woke up early in the morning, the student was completely in phoenix season; Summer vacation is almost here. Or it also signals that the exam season is coming.
|
Bài làm
Thực sự rằng chính trong cuộc sống của mỗi chúng ta thì hình ảnh nụ cười được coi là một yếu tố quan trọng. Bạn biết không? Nụ cười cũng đã lại đại diện cho niềm vui, hạnh phúc. Đôi lúc, thì nụ cười cũng lại thay cho lời an ủi, động viên… Nụ cười chắc chắn cũng sẽ đem lại cho những người xung quanh ta một nguồn động lực tốt đẹp hơn, để ta có thêm động lực bước trên đường đời cho dù có khó khăn, cho dù có vất vả đến đâu đi chăng nữa. Và đối với em thì nụ cười của mẹ thực sự là một món quà vô giá. Hình ảnh nụ cười của mẹ cũng chính là nụ cười đẹp nhất mà em thấy được và không bao giờ em quên.
Không quá chút nào khi nói nẹ em được coi là một người phụ nữ chuẩn mực. Mẹ em thật vĩ đại, cả cuộc đời của mẹ, trước nay, luôn sống vì chồng, vì con chứ không bao giờ nghĩ đến bản thân. Cứ cả ngày, mẹ luôn chăm sóc đầy đủ cho cả gia đình mình và chính mẹ lúc nào cũng dậy sớm để chuẩn bị cơm nước cho cả nhà, Và cũng rồi sau đó làm việc đến tối khuya mới đi ngủ. Thế nhưng, mẹ cũng là một người rất yêu đời và hạnh phúc. Với mẹ thì mẹ em luôn luôn hạnh phúc với cuộc sống hiện tại của mình. Mẹ cũng đã nói với em rằng mẹ có gia đình, có những người mẹ yêu thương bên cạnh đó chính là những gì hạnh phúc nhất. Chính việc chăm sóc gia đình chính là hạnh phúc của mẹ. Với em thì nụ cười luôn thường trực trên môi của mẹ cũng là niềm hạnh phúc nhất đối với em rồi.
Mẹ em có một nụ cười tỏa nắng, đẹp như hoa. Nhìn mẹ cười thật đẹp và chân thành biết bao nhiêu, ai đã nhìn thấy nụ cười của mẹ chắc chắn sẽ không bao giờ quên được. Nụ cười của mẹ làm sáng cả gương mặt. Nhìn nụ cười của mẹ mới thật hạnh phúc biết bao nhiêu. Ai cũng sẽ bị nụ cười này cuốn hút, một nụ cười thật dịu dàng biết bao nhiêu. Cuộc sống cứ khó khăn, cứ vất vả thế nhưng nụ cười của mẹ cũng cứ vẫn thường trực trên môi mẹ, dù mẹ có gặp khó khăn, vất vả thế nào.
Em cũng biết được rằng chính nụ cười của mẹ chính là động lực, là niềm tin trong sự trưởng thành của em. Có những lúc em thức khuya học bài, thì chính mẹ lại cười khích lệ cho em cố gắng. Hay có bao nhiêu lúc em buồn, mẹ sẽ ở cạnh đồng thời cũng lại an ủi em bằng những tâm sự và nụ cười dịu dàng. Mẹ rất vui khi em đạt được thành tích cao trong học tập và em cũng nhận được sự vui mừng của mẹ em thông qua hình ảnh nụ cười của mẹ. Nụ cười của mẹ cứ dấy lên trong lòng em biết bao nhiêu xúc cảm, bao nhiêu niềm hạnh phúc khó tả.
Thế nhưng có những lúc em cũng tự trách mình, bởi chính em đã làm mất đi nụ cười của mẹ. Và đó cũng chính là những lúc em ngang bướng, quậy phá, cãi lời ba mẹ. Và lại có những lúc em làm mẹ mệt mỏi, phiền lòng. Thực sự cứ mỗi lần như vậy, khi nghĩ lại, lúc này đây em cũng càng lại cảm thấy bản thân thật có lỗi. Em cũng đã tự hứa với lòng mình, sau này sẽ không tái phạm nữa.Em tự nhủ với bản thân mình cứ mỗi ngày, em một cố gắng hơn, để mẹ vui vẻ và cười nhiều hơn nữa.
|
Assignment
In fact, in each of our lives, the image of a smile is considered an important factor. Do you know? Smile also represents joy and happiness. Sometimes, a smile also replaces words of comfort and encouragement... A smile will definitely give those around us a better source of motivation, so that we have more motivation to walk on the path of life. no matter how difficult it is, no matter how hard it is. And for me, my mother's smile is truly a priceless gift. The image of my mother's smile is also the most beautiful smile I have seen and I will never forget it.
It's not an exaggeration to say that I am considered a standard woman. My mother is so great. All her life, she has always lived for her husband and children, never thinking about herself. All day long, mother always takes full care of her whole family and she herself always wakes up early to prepare meals for the whole family, and then works until late at night before going to bed. However, my mother is also a person who loves life and is happy. As for my mother, my mother is always happy with her current life. My mother also told me that having a family and having loving mothers by my side is the happiest thing. Taking care of the family is a mother's happiness. For me, the constant smile on my mother's lips is also the happiest thing for me.
My mother has a sunny smile, as beautiful as a flower. Seeing how beautiful and sincere your mother's smile is, anyone who has seen her smile will definitely never forget it. Mom's smile lights up her whole face. Seeing my mother's smile makes me so happy. Everyone will be attracted to this smile, such a gentle smile. Life is difficult and difficult, but my mother's smile is always on her lips, no matter how difficult or difficult she is.
I also know that my mother's smile is my motivation and belief in my growth. There were times when I stayed up late to study, and it was my mother who smiled and encouraged me to try harder. Or how many times when I'm sad, my mother will be by my side and comfort me with her confidences and gentle smiles. My mother is very happy when I achieve high academic results and I also receive my mother's joy through the image of her smile. My mother's smile keeps stirring up so many emotions and indescribable happiness in my heart.
But there are times when I blame myself, because I lost my mother's smile. And those were also the times when I was stubborn, disruptive, and disobeyed my parents. And there are times when I make my mother tired and upset. Actually, every time that happens, when I think back, I feel even more guilty now. I also promised myself that I would not do it again in the future. I told myself that every day, I would try harder to make my mother happy and smile more.
|
Bài làm
Làng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Tác phẩm được khai thác qua lăng kính hết sức hiện thực, đồng thời qua cảm quan, cách nhìn nhận cuộc sống đầy tính nhân văn và chất nhân đạo của nhà văn, câu chuyện trong tác phẩm mang một chiều sâu tư tưởng hết sức đáng quan tâm và suy ngẫm. Nhân vật chính trong tác phẩm là ông Hai, một người nông dân nghèo và có tinh thần yêu làng, yêu nước rất đặc biệt, rất đáng quý.
Ông Hai vốn là người chợ Dầu, nhưng vì tình hình kháng chiến, tình hình của cuộc cách mạng chung mà gia đình ông phải đi tản cư, sống tạm bợ ở một nơi ở mới. Điều này chính là điều mà ông luôn lo lắng, là sự trăn trở khôn nguôi của ông. Bởi ông yêu ngôi làng chợ Dầu của ông khôn cùng, đó không chỉ đơn thuần là nơi chôn rau cắt rốn của ông mà còn là nơi mà ông gắn bó cả cuộc đời, là phần máu thịt trong ông, là những điều mà ông quan tâm nhất, là niềm vui, nỗi buồn trong cõi lòng của ông. Phải ra đi, phải rời xa, lòng ông đau như cắt, nhưng đau đớn hơn là chuyện phải rời bỏ làng đúng lúc tình hình kháng chiến đang nguy cấp. Ông không đồng ý, không hề muốn như vậy, sống chết ông vẫn có nguyện ước cùng anh em chiến hữu trong làng kề vai sát cánh để bảo vệ ngôi làng, cùng làm kháng chiến, tuy nhiên, mọi việc không được như ý ông muốn, chính vì thế mà ông đớn đau vô cùng.
Đối với ông, tình cảm dành cho ngôi làng thân yêu của mình là mãnh liệt vô cùng, ở nơi tản cư, không lúc nào ông quên hỏi tin tức về làng của mình. Ông luôn luôn dành sự tự tin, niềm tự hào về ngôi làng thân yêu của mình. Ông không ngại việc khoe khoang, gặp được những người mà ông nghĩ có thể sẻ chia, đồng cảm được là ông thấy vui vô cùng, là ông lại khoe khoang: “Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Nói đến đâu là miệng ông lại nhoẻn cười, đôi mắt sáng ngời sự vui vẻ và hạnh phúc. Đối với ông, niềm tự hào nhất, đáng giá nhất trong những giá trị của ngôi làng mà ông thương quý nhất đời đó chính là tấm lòng mà con người quê hương ông dành cho kháng chiến, tinh thần kháng chiến, chống giặc ngoại xâm của người dân quê ông: “Ông khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai”, ông nhớ đến những kỷ niệm đó khôn cùng.
Những ngày ở nơi tản cư, ông khôn nguôi nhớ về ngôi làng, ông chăm chỉ đọc tin tức kháng chiến, những tin tức chiến thắng của quân ta khiến ông sung sướng khôn cùng. Cứ bàn đến chuyện kháng chiến hay trận mạc là trong ông lại sốt sắng hết cả lên: “Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục”.
Ông yêu nước là thế, yêu làng quê của ông là thế mà cuối cùng ông lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu, như một thử thách đối với cuộc đời của ông lão vậy. Đó là việc ông nghe tin làng mình theo Tây. Sự việc xảy qua quá đột ngột, ông biết đến câu chuyện này quá nhanh khiến ông hoang mang vô cùng. Ông đau đớn khôn cùng, bao nhiêu hy vọng trong ông dường như bị dập tắt hết. Tưởng chừng ông chẳng còn chút hy vọng nào cho cuộc sống của ông nữa, bởi đối với ông, ngôi làng là niềm vui, sự hạnh phúc, là những điều nghĩ suy trong ông. Cách mạng còn, kháng chiến còn tiếp diễn thì ông mới có cơ hội được trở về làng. Mất hết hy vọng, mất hết niềm tin, giờ đây trí nghĩ của ông rối bời vô cùng. Ông kéo thằng con út của mình lại mà tâm tình thủ thỉ với nó:
“ -Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
-Là con thầy mấy lỵ con u.
-Thế nhà con ở đâu?
-Nhà ta ở làng chợ Dầu.
-Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
-Có. Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
-À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
-Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
-Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.”
|
Assignment
The Village is one of the best works of writer Kim Lan when writing about the topic of farmers in the old society. The work is exploited through a very realistic lens, and at the same time through the writer's senses and way of looking at life full of humanity and humanity, the story in the work has an extremely worthy depth of thought. care and reflection. The main character in the work is Mr. Hai, a poor farmer with a very special and precious spirit of love for the village and country.
Mr. Hai was originally from Dau market, but because of the resistance war and the general revolution, his family had to evacuate and live temporarily in a new place. This is what he is always worried about, his constant concern. Because he loved his Dau market village so much, it was not simply the place where his birthplace was born, but also the place where he had been attached all his life, the flesh and blood of him, the things that he cared about. The most important thing is the joy and sadness in his heart. Having to leave, having to leave, his heart hurt like hell, but what was more painful was having to leave the village right when the resistance situation was in danger. He did not agree, he did not want to do so. Whether he lived or died, he still had the wish to stand side by side with his comrades in the village to protect the village and fight together, however, things did not go as he expected. wanted, that's why he was in so much pain.
For him, the love for his beloved village was extremely strong. While in the evacuation area, he never forgot to ask for news about his village. He always had confidence and pride in his beloved village. He was not afraid to brag. When he met people he thought could share and sympathize, he felt extremely happy. He bragged again: "He bragged that his village had a bright and spacious information and propaganda room. The most spacious in the area, the radio tower is as tall as a bamboo tree, and the whole village can hear it every afternoon. He showed off his village with tiled houses close together and as busy as the province. The roads in the village are all paved with green stones. In rainy and windy weather, you can freely walk all over the village, the mud does not stick to your heels. On the tenth day of the fifth month, the straw is dried, the rice is of the highest quality, there is not a single grain of rice left on the ground. Wherever he spoke, his mouth smiled, his eyes shining with joy and happiness. For him, the most proud and most valuable of the values of the village that he loves most in life is the heart that the people of his homeland have for the resistance, the spirit of resistance, against foreign invaders. of the people of his hometown: "He bragged about the days of continuous uprisings in the village, but he joined the movement during the dark period. Military exercises. Even the old women with white hair and beards also carried sticks to practice one or two times," he remembers those memories fondly.
During the days in the evacuation area, he fondly remembered the village. He diligently read news of the resistance war. The news of our army's victory made him extremely happy. Every time he talked about the resistance war or the battle, he became extremely enthusiastic: "Today's National Salvation Newspaper is so good to hear. Uncle Ho's responses to foreign journalists were spot on. Hard but very soft. He said that our people only want Independence and Unity, otherwise our people will fight to the end. Really, if we don't get Independence this trip, we'll die, there's no point in living to humiliate it."
He loved his country so much, loved his village so much, but in the end he encountered an ironic situation, like a challenge to the old man's life. That was when he heard that his village was following the West. The incident happened so suddenly, he learned about this story so quickly that he was extremely confused. He was in excruciating pain, all hope in him seemed to be extinguished. It seemed that he no longer had any hope for his life, because for him, the village was his joy, his happiness, his thoughts. As long as the revolution and resistance continue, he will have the opportunity to return to his village. Having lost all hope, lost all faith, his thinking was now extremely confused. He pulled his youngest son closer and whispered to him:
“-Huc there! Let me ask you, whose child are you?
-It's the teacher's son, you son of a bitch.
-Where is your house?
-My house is in Cho Dau village.
-Do you like going to Dau market village? The boy nestled his head against his father's chest and answered softly:
-Have. The old man hugged the boy tightly, and after a while asked:
- Well, let me ask you. So who do you support? The boy raised his hand, boldly and clearly:
-Long live support for Uncle Ho Chi Minh! Tears welled up in the old man's eyes, flowing down his cheeks. He whispered:
-Yes, that's right, support Uncle Ho, right?"
|
Bài làm
Lặng lẽ Sa Pa được biết đến là một trong những tác phẩm hay, đặc sắc và có độ phổ biến với công chúng bạn đọc sâu sắc nhất của Nguyễn Thành Long. Tác phẩm là câu chuyện viết về những con người trẻ trong cuộc sống mới với những tư tưởng sống hết sức tiến bộ, hết lòng vì đất nước với những cống hiến to lớn. Trong những con người trẻ đó, có nhân vật anh thanh niên đứng trung tâm, thông qua việc tìm hiểu về anh, ta có thể thấy được anh chính là một điển hình sống về con người tài đức.
Anh thanh niên được coi là một con người rất đặc biệt. Anh sống và làm việc trong môi trường sống chỉ có một mình, tự lo toan mọi việc sinh hoạt đồng thời cũng tự phải giải quyết mọi chuyện phát sinh trong công việc. Hơn nữa điều kiện sống và làm việc của anh cũng khác người vô cùng. Chỉ có một thân một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có sương mù và gió rét
Với một con trai, lại là thanh niên trai tráng, cuộc sống đó thực sự khiến con người ta phải bất ngờ. Công việc của anh thực sự rất vất vả. Là nhân viên khí tượng kiêm vật lý địa cầu, nhân viên dự báo thời tiết, lúc nào cũng phải thật chú ý đến giờ ốp “bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng”. Lúc nào cũng cần sự chuẩn xác về giờ giấc. Nhưng khó khăn không phải ở chỗ đó, mà còn ở chỗ sự khác nghiệt của thiên nhiên và thời tiết, đó chính là thử thách cho lòng bền chí, sự chăm chỉ và kiên định: “Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được”. Vậy mà đó lại là cuộc sống kèm theo tính chất công việc của anh, một người thanh niên chưa vợ, bị bó buộc mình tại nơi như thế này. Nhưng cách nhìn nhận về cuộc đời, về cuộc sống của anh là như thế nào?
Vì phải sống cuộc sống một mình nên anh thanh niên thực sự rất thèm người. Cơ duyên gặp gỡ của anh với bác lái xe đường dài cũng vì cái cớ đó, cũng vì quá thèm người, muốn nhìn thấy mặt người, được nghe kể chuyện.
Công việc của anh tuy vất vả, lại phải sống một mình cô đơn nhưng anh lại rất thiết thực với công việc của mình: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Điều thiết thực nhất là anh biết được công việc của anh là hữu ích cho mọi người, có đóng góp quan trọng trong cuộc sống của người dân cũng như tình hình sản xuất của đất nước. Chính vì vậy, anh làm việc và cống hiến hết mình, luôn trăn trở với nghề, yêu nghề và luôn cố gắng phát triển nhiều hơn nữa. Đã có lần nhờ sự phát hiện của anh với một đám mây đen trên bầu trời mà giúp không quan ta hạ được nhiều máy bay địch, anh cảm thấy vui vô cùng vì những đóng góp đó của mình.
Là một người con trai, lại sống một mình, nhưng anh đem lại cho mọi người cái nhìn đầy bất ngờ, nhiều sự thiện cảm: “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc gường con, một chiếc bàn học, một giá sách”. Không ai nghĩ được rằng một người con trai lại có cuộc sống chỉnh chu và khoa học như vậy. Anh còn tự biến cuộc sống của mình đủ đầy và lãng mạng khi nuôi gà và trồng hoa
Anh thanh niên còn là một người hết sức chu đáo và tinh tế. Anh luôn lắng nghe mọi người và biết ơn những điều mà mọi người làm cho mình. Dành sự quan tâm đến mọi người từ những việc nhỏ nhặt nhất, củ tam thất cho vợ bác lái xe đang bị bệnh ốm, bó hoa tươi dành tặng cho cô kỹ sư, giỏ trứng gà tặng ông họa sỹ.
|
Assignment
Quietly Sa Pa is known as one of Nguyen Thanh Long's best, unique and most popular works with the reading public. The work is a story about young people in a new life with very progressive ideas, wholeheartedly serving the country with great contributions. Among those young people, there is a young man standing in the center. Through learning about him, we can see that he is a living example of a virtuous person.
The young man was considered a very special person. He lives and works in an environment where he lives alone, takes care of all his daily activities and also has to solve all problems that arise at work. Furthermore, his living and working conditions are also extremely different from other people. Only one person is alone on the top of Yen Son mountain 2600m high, all year round there is only fog and cold wind.
For a son, a young man, that life really surprises people. His work is really very hard. As a meteorologist and geophysicist, a weather forecaster, you always have to pay close attention to the time of "four o'clock, eleven o'clock, seven o'clock in the evening, then one o'clock in the morning". Always need precision in timing. But the difficulty is not there, but also in the harshness of nature and weather, which is a challenge for perseverance, hard work and steadfastness: "There's even rain and snow here. In the middle of the night, lying under the blanket, I heard the clock ringing and just wanted to turn it off. Getting out of the blanket, no matter how loud the hurricane lamp was, it still wasn't bright enough. Carrying the lantern out into the garden, the snowy wind and silence outside seemed to rush in just waiting for me to come out. The silence at that time was so scary: it felt like it was being chopped into pieces, and the wind was like brooms wanting to sweep everything away and throw it everywhere... The silence was freezing cold yet burning like fire. After finishing work, I came back and couldn't go back to sleep." Yet that was his life and the nature of his work, an unmarried young man, bound in a place like this. But what is your perspective on life and your life?
Because he had to live alone, the young man really craved people. His fateful meeting with the long-distance driver was also because of that reason, also because he was so hungry for people, wanted to see people's faces, and hear stories.
Although his job is hard and he has to live alone and lonely, he is very practical with his work: "When I was not in the profession, on nights when the sky was pitch black, if you looked closely you could see a distant star, my son. I also thought that star was alone. Now that I'm doing this job, I don't think like that anymore. Besides, when we work, we are a couple, so how can we be called alone? What's more, my work is closely tied to the work of many brothers and comrades down there. My job is so arduous, if I take it away, I will be sad to death." The most practical thing is that he knows his work is useful to everyone, making an important contribution to people's lives as well as the country's production situation. That's why he works and devotes himself, always thinking about his job, loving his job and always trying to develop more. Once, thanks to his discovery of a dark cloud in the sky, he helped us shoot down many enemy planes. He felt extremely happy for his contributions.
As a boy, he lives alone, but he gives everyone a surprising look and a lot of sympathy: "A clean, three-room house, with tables and chairs, books, charts, and statistics." millet, walkie-talkie. The young man's personal life is reduced to a corner of the world with a small bed, a desk, and a bookshelf. No one would have thought that a boy would have such a neat and scientific life. He also made his life full and romantic by raising chickens and growing flowers
The young man is also a very thoughtful and sophisticated person. He always listens to people and is grateful for the things people do for him. Pay attention to everyone from the smallest things, Panax notoginseng tubers for the sick driver's wife, a bouquet of fresh flowers for the engineer, a basket of eggs for the artist.
|
Bài làm
Tác phẩm Tắt đèn được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Ngô Tất Tố viết về đề tài thân phận của người nông dân trong xã hội xưa. Tác phẩm được viết lên qua cái nhìn đầy chất hiện thực và thông qua lăng kính cảm quan đầy tinh thần nhân đạo của nhà văn. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm này là chị Dậu – một người phụ nữ chuẩn mực theo lễ giáo phong kiến nhưng cuộc đời cũng nhiều cay đắng chính như sự cay nghiệt của chế độ phong kiến ảnh hưởng đến cuộc đời của chị.
Tác phẩm Tắt đèn cũng được xếp vào những tác phẩm thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán đương thời, không chỉ nêu ra được những mảng hiện thực sâu kín nhất trong xã hội, trong lòng quần chúng nhân dân mà còn phản ánh sinh động và cụ thể, có chiều sâu đời sống của con người.
Xã hội Việt Nam trong giai đoạn 1936 – 1939 thật sự đen tối vô cùng. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 1929-1933 đã khiến cho mâu thuẫn tư bản chủ nghĩa càng trở nên sâu sắc. Các nước tư bản đế quốc ra sức bóc lột các nước thuộc địa nhiều hơn nữa. Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng bj chịu ảnh hưởng vô cùng nặng nề, đời sống của nhân dân càng ngày cành thêm bi thảm
Hoàn cảnh sống cũng như nhân cách của chị Dậu được phản ánh vô cùng rõ nét trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ. Gia đình nhà chị Dậu vốn khá giả, nhưng từ khi anh Dậu bị bệnh, mọi lo toan trong gia đình một tay chị Dậu phải gồng gánh, khổ cực trăm bề. Đã đói lại còn rách, đến hạn nộp sưu, phận phần của anh Dậu chị Dậu lo còn vã mồ hôi nhưng chẳng biết cái lý lẽ từ nách dời nào rơi xuống bắt nhà chị Dậu còn phải nộp cả thêm sưu của người em anh Dậu đã mất.
Không đủ tiền nộp sưu, chưa chạy vạy kịp, anh Dậu bị lôi ra đình là phạt, anh Dậu đau yếu quá không chịu nooit, bị ngất xỉu ở sân đình, sợ bị vạ lây, bọn tay sai lôi anh Dậu nhếch nhác trả lại về cho chị Dậu. Chị Dậu xót xa vô cùng, hết cách chăm sóc chồng, vừa chăm chồng vừa nghĩ cách có tiền nộp sưu, chị không thể để anh Dậu như vậy được, chị không đành lòng, chị thương anh vô cùng.
Chị Dậu thương chồng quá, nhà cũng chẳng còn gì ăn nhưng cũng kiếm được ít gạo, nấu được nồi cháo mà bưng đến chỗ chồng dịu dàng dỗ dành anh Dậu ăn. Chị thấm thía được rằng, chị thấy khổ một nhưng anh Dậu cũng đau đến mười. Vợ chồng sống với nhau nặng nghĩa nặng tình, tâm tư tình cảm của anh Dậu thế nào, chị thấu hết. Một người đàn ông lực bất tòng tâm nhìn vợ khổ, ruột gan anh Dậu cứ như muốn sôi lên sùng sục: “Thầy hãy cố dậy húp một ít cháo cho đỡ xót ruột”. Rồi chị ngồi theo dõi chồng ăn hết, để ý xem chồng ăn có ngon miệng không. Tấm lòng của người vợ ấy thật đáng quý, khiến con người ta thấy cảm động vô cùng.
Thân phận người nông dân trong xã hội phong kiến xưa thật khổ sở, thật nhiều trớ trêu. Người ta nói trời đánh còn tránh miếng ăn vậy mà bọn tay sai cai lệ lại ác với anh Dậu đến thế. Khi anh Dậu còn chưa trôi được miếng cháo thì bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đã rầm rập tiến vào nhà anh với những roi song, tay thước, dây thừng…Chưa gì chúng đã mở miện dọa dẫm, chửi bới, mỉa mai.
Thấy cảnh tượng như vậy, chị Dậu muôn phần hoảng hốt, tất cả nguyên nhân cũng chỉ vì lo nghĩ cho chồng, thương chồng, chị không đành lòng để chồng mình bị hành hạ hơn nữa, chị lo anh Dậu sẽ không trụ nổi. Không chần chừ nghĩ ngợi, chị thiết tha nài nỉ bọn chúng: “Khốn nạn nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng thế thôi, xin ông trông lại”. Hết sức luồn cúi, chị xưng hô ông cháu mong sao bọn tay sai hạ hỏa mà nhẹ tay với chồng chị. Tuy nhiên, đã thành bản chất, bọn tay sai bỏ hết ngoài tai những lời van xin của chị Dậu. Chúng hung hăng lao tới cho anh Dậu, định lôi kéo anh đi. Đến nước này, đến giờ phút này thì chị Dậu thấy mình không thể và cũng không nên nín nhịn thêm nữa, còn nín nhịn, sự nguy hiểm cho anh Dậu càng thêm cao. Tức nước thì vỡ bờ, chị chủ động phản kháng lại với những tên côn đồ, bợm chạ kia: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Hành động của chị quyết liệt và nhanh như cắt chị nắm ngay gậy của hắn, túm tóc lẳng cho một cái khiến gã kia ngã nhào ra thềm. Không còn gì để mất, giờ đây chị hiểu rằng nếu chị không ra tay, chồng chị có khi phải trả giá bằng cả tính mạng. Thực sự là tức nước vỡ bờ: “Thà ngồi tù chứ để cho bọn chúng làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được” biểu hiện mãnh liệt sức phản kháng, lòng căm thù giai cấp chất chứa từ lâu.
|
Assignment
The work Turn off the lights is considered one of the best works of writer Ngo Tat To on the topic of the fate of farmers in ancient society. The work is written through a realistic perspective and through the writer's humanitarian lens. The central character in this work is Ms. Dau - a woman who follows feudal standards but whose life is also full of bitterness, just as the harshness of feudalism affects her life.
The work Lights Out is also classified as one of the works belonging to the contemporary critical realist literary movement, not only highlighting the deepest realities in society and in the hearts of the masses but also reflecting the lives of the people. Dynamic and specific, with depth of human life.
Vietnamese society during the period 1936 - 1939 was truly extremely dark. As a result of the world economic crisis of 1929-1933, capitalist contradictions became even deeper. Imperialist capitalist countries strive to exploit colonial countries even more. Indochina in general and Vietnam in particular were affected extremely severely, people's lives became more and more tragic day by day.
Ms. Dau's living situation as well as her personality are reflected very clearly in the excerpt "The water broke its banks". Ms. Dau's family was originally quite wealthy, but since Mr. Dau got sick, Ms. Dau had to bear all the family's worries single-handedly, suffering countless hardships. Already hungry and still torn, when the due date comes, Mr. Dau and Ms. Dau's part is still sweating, but she doesn't know where the argument will fall from her armpit to force Ms. Dau's family to also pay Mr. Dau's brother's collection. lost.
Not having enough money to pay the bill, before he could run away in time, Mr. Dau was dragged to the communal house as punishment. Mr. Dau was too sick and refused to pay, he fainted in the communal house yard, afraid of being punished, the henchmen dragged the disheveled Mr. Dau back. back to Ms. Dau. Ms. Dau is extremely sad, she has no way to take care of her husband, while taking care of him she also thinks of a way to have money to pay taxes, she cannot leave Mr. Dau like that, she cannot bear it, she loves him very much.
Ms. Dau loved her husband so much, there was nothing left to eat at home, but she found some rice, cooked a pot of porridge and brought it to her husband to gently coax Mr. Dau to eat. She understood that, although she felt miserable, Mr. Dau also suffered ten times. Husband and wife live together with a lot of meaning and love. She understands everything about Mr. Dau's thoughts and feelings. A strong man couldn't help but look at his miserable wife, Mr. Dau's stomach felt like it was about to boil: "Teacher, try to get up and drink some porridge to ease the pain in your stomach." Then she sat and watched her husband finish eating, paying attention to see if he had a good appetite. That wife's heart is so precious, it makes people feel deeply touched.
The fate of farmers in ancient feudal society was miserable and full of ironies. People say that if God fights against you, you will avoid food, but the ruler's henchmen are so cruel to Mr. Dau. When Mr. Dau had not yet finished the porridge, the rulers and the chief's family came loudly into his house with whips, rulers, ropes... Before they could open their mouths to threaten, curse, and sarcasm. .
Seeing such a scene, Ms. Dau panicked, all because she was worried about her husband and loved him. She could not bear to let her husband be tortured further. She was worried that Mr. Dau would not be able to survive. Without thinking twice, she earnestly pleaded with them: "My family's misfortune is gone, even if you scold me, it will still be the same, please look back." With all her might, she addressed her grandfather and grandson, hoping that the henchmen would calm down and be gentle with her husband. However, as was their nature, the henchmen ignored Ms. Dau's pleas. They aggressively rushed towards Mr. Dau, intending to drag him away. At this point, at this moment, Ms. Dau feels that she cannot and should not hold back any longer. If she holds back, the danger for Mr. Dau is even higher. Immediately the water broke its banks, she actively protested against those thugs and liars: "Tie your husband immediately, I'll show you." Her actions were so fierce and fast that she immediately grabbed his stick, grabbed his hair, and made the other guy fall onto the steps. With nothing left to lose, she now understands that if she does not take action, her husband may have to pay with his life. It's really angry: "I'd rather go to jail than let them make love and commit crimes like that forever, I can't stand it" shows the strong resistance and hatred of the class that has been stored for a long time.
|
Bài làm
Thi phẩm đặc sắc “Qua đèo Ngang” là một trong những tác phẩm đặc sắc và đã làm lên tên tuổi cho bà Huyện Thanh Quan. Thi phẩm có hoàn cảnh sách tác là khi tác giả đang trên đường vào Phú Xuân. Khi đó đứng lặng nhìn cảnh đèo Ngang – một địa danh nức tiếng ở nước ta sở hữu một phong cảnh hữu tình thì bằng giọng thơ như man mác cùng với hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện đã giúp cho sáng tác“Qua đèo Ngang” có hồn hơn, Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, người đọc cũng nhận thấy được nó cũng có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.
Khi đi tìm hiểu sâu sắc bài thơ “Qua đèo Ngang” đầu tiên là nó được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề nói lên được khung cảnh đèo Ngang nơi đây:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Bà Huyện Thanh Quan cũng thật tài tình biết bao nhiêu, cũng chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, khái quát lên được không gian, thời gian khi viết bài thơ. Không thể phủ nhận được với cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép nào và tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình khi tác giả đứng trước khung cảnh đèo Ngang. Khung cảnh đèo Ngang lúc này đây ở trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Thế rồi hình ảnh “bóng xế tà” được tác hỉa lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” thực sự là một sự sáng tạo, điều này cũng đã gợi tả cho chúng ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, đồng thời cũng lại có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua.
Khi đứng trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả dường như chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang để đưa vào trong thơ đó là hình ảnh “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Sử dụng thành công biện pháp nhân hóa các cảnh vật cũng đã khiến cho động từ “chen” lúc này đây cũng đã cho thấy được nét sống động trong bức tranh có khung cảnh này. Có thể thấy được hình ảnh cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa dường như cứ đua nhau vươn lên thật đầy sức sống mãnh liệt nhất. Với những hình ảnh nhỏ bé là vậy nhưng nó cũng có được một sức sống mãnh liệt không gì có thể tiêu diệt được.
Tiếp đến là hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, tác giả lúc này đây như đang phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người trong bức tranh thiên nhiên rộng lớn:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Chỉ cần đọc bài thơ thôi là chính với hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Người viết thật tinh tế khi chọn lựa và sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Hình ảnh những con người ở đây chỉ có tiều vài chú được kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Có lẽ rằng chính với các cảnh vật thì cứ thật lác đác chợ mấy nhà. Điều này cũng cho thấy rằng tất cả nhưng cũng quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Không khí ở đây như hiu quạnh.
Người đọc nhận thấy được hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Thực sự chỉ cần nghe tiếng kêu quốc quốc, gia gia cũng chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” được lấy từ điển tích xưa về vua Thục bị mất nước và biến thành con cuốc mà chỉ biết kêu “cuốc, cuốc” sao đến rầu lòng.
Cuối cùng đến hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
|
Assignment
The unique poem "Over Ngang Pass" is one of the outstanding works and has made a name for Ms. Huyen Thanh Quan. The author's writing situation was when the author was on his way to Phu Xuan. At that time, standing still and looking at the scene of Ngang Pass - a famous place in our country that possesses a charming landscape, with a poetic voice like a poetic voice along with a delicate poetic soul and skillful poetic style, it helped to compose "Over the Pass". Ngang" is more soulful. The poem is not only a colorful picture of the millennium but also reveals the author's lonely mood. The reader can also see that it also has some regrets about the glorious feudal times. has gradually withered.
When looking deeply into the poem "Over Ngang Pass", the first thing is that it is written in the seven-word, eight-syllable Tang Luat style. The opening are two sentences that describe the scenery of Ngang Pass here:
Stepping to Ngang Pass, the shadow is fading
Chen stone plants, leaves flowers chen.
Ms. Huyen Thanh Quan is also very talented. With just the first verse, the author has generalized the entire situation, the space and time when writing the poem. It cannot be denied that the opening is very natural, not at all forced, and it seems like the author just "stepped in" and then saw the scene of lovemaking when the author stood in front of the scene of Ngang Pass. The scene of Ngang Pass right now is in the "sunset" sunset. Then the image of "the evening shadow" inspired by the idiom "afternoon shadow" is truly a creation, this also suggests to us something sad and immense. , and at the same time feel a little regretful about the day that is about to pass.
While standing in that beautiful but sad sunset scene, the author seemed to pay attention to a few unique images of Ngang Pass to include in the poem, which is the image of "Grass and trees overlap rocks, leaves overlap flowers". Successfully using the method of personification of scenes has also made the verb "chen" now also show the vividness in the painting with this scene. We can see the image of grass and trees along with mountain rocks, leaves and flowers seemingly racing to rise with the most intense vitality. Although the images are so small, they also have a strong vitality that nothing can destroy.
Next are two true sentences: when the author is on a high pass, the author at this moment seems to be looking around, beyond the rocks, mountains, and trees to find the human figure in the natural picture. wide:
Crouching under the mountain to make a few trees
Few sporadic riverside home market
Just by reading the poem, the image of a human being appears, but it only seems to make the picture more gloomy. The writer is very delicate in choosing and using inversions and descriptive words to express this. The image of people here with only a few bows is combined with the word "hunched over" under the mountain. Perhaps it is because of the scenery that there are so many houses in the market. This also shows that everything is too small compared to the majestic natural scenery of Ngang Pass. The atmosphere here seems lonely.
Readers can see that the sadness in these two sentences is clearly portrayed through mournful sounds:
Missing the country is painful for the country's children
Trade the mouth so adhered fatigue.
Really, just listen to the cry of the nation and the family, which is also the voice of the author's heart. "Remembering the country hurts the country's son" is taken from the old legend about King Thuc who lost his country and turned into a hoe that only knew how to cry "hoe, hoe" so sad.
Finally, there are two concluding sentences, closing the emotions as well as the natural scenery of the poem:
Stop and stand: sky, mountains, water
A piece of me with my own situation.
|
Bài làm
Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh (1942 – 1988) được mệnh danh chính là một nhà thơ được rất nhiều người mến một nhà thơ nữ được nhiều người yêu thơ mến mộ. Thơ Xuân Quỳnh được biết đến là có một hồn thơ trẻ trung, sôi nổi đậm chất trữ tình. Thơ của bà xoay quanh những đề tài bình dị nhất, gần gũi nhất và một trong những bài thơ nổi tiếng của Xuân Quỳnh không thể không nhắc đến bài thơ “Tiếng gà trưa”. “Tiếng gà trưa” là một bài thơ nói về tình cảm bà cháu, tình yêu quê hương đất nước.
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tiếng gà trưa” là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ trên phạm vi cả nước. Khi quên địch bị thua ở chiến trường miền Nam, giặc Mĩ lúc này đây điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại bằng máy bay, bom đạn… ra miền Bắc với âm mưu hòng tàn phá hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Có thể nhận thấy được chính trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy thì lúc này đây có hàng triệu thanh niên đã lên đường với khí thế hừng hực nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này chính là người lính trẻ. Khi cùng đồng đội trên đường hành quân vào Nam chiến đấu thì tiếng gà trưa đã nhắc nhớ về một kỷ niệm thật đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Chính với tình cảm gia đình, quê hương dường như cũng đã làm sâu sắc thêm tình yêu đất nước.
Người đọc có thể nhận thấy được như bao trùm bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết. Thêm với đó chính là những nỗi nhớ nhà, đó là tâm trạng tất yếu của những người lính trẻ đã xếp bút nghiêng mà đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, của non sông. Một nỗi nhớ như trào dâng như chất chứa, với tiếng gà trưa bất chợt nghe thấy khi người lính “Dừng chân bên xóm nhỏ” đã làm xao xuyến tâm hồn anh và anh nhớ về kỷ niệm tuổi thơ bên bà.
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Hình ảnh quê nhà lúc này đây dường như cũng lại hiện lên rõ nét trong tâm tưởng và những kỉ niệm tuổi thơ lần lượt sống dậy rõ ràng và còn đó là những hình ảnh thân thương. Khi nghe thấy tiếng gà trưa nhắc nhớ đến hình ảnh “Ổ rơm hồng những trứng” của mấy chị mái mơ, mái vàng xinh xắn, mắn đẻ nữa. Rồi người cháu nhớ bà, nhớ tiếng gà nhảy ổ và sợ khi nhìn thấy thì bị lang mặt,…tay bà cầm quả trứng nâng niu vào soi trứng như hi vọng sẽ có được một đàn gà thật đông đúc.
Cuộc đời bà là vậy, suốt một đời lam lũ, lo toan hình ảnh người bà tần tảo này cứ luôn luôn nhắc nhớ đến bản thân của người cháu mà thôi. Bà chăm sóc đàn gà để hi vọng đến cuối năm khi bán đi thì cháu cũng sẽ có quần áo mới để mặc. Mong ước của người cháu lúc đó cũng giản dị lắm, đó chỉ là mong có được một cái quần chéo go, cái áo cánh trúc bâu còn nguyên vẹn lần hồ sột soạt và đồng thời lại thơm mùi vải mới nữa. Hạnh phúc gia đình là thế đó, nó cứ giản dị mà thật quan trọng với mỗi người.
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc,
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Độc giả có thể nhận thấy được khi thông qua nỗi nhớ đưuọc khơi dậy từ tiếng gà trưa, nhà thơ Xuân Quỳnh lúc này đây cũng đã miêu tả tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và tình cảm yêu mến, luôn luôn kính trọng bà của một em bé nông thôn. Tình cảm bà cháu thắm thiết đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người chiến sĩ khi hôm nay được mặt áo lính đang trên đường hành quân chiến đấu.
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
|
Assignment
Female poet Xuan Quynh (1942 - 1988) is known as a poet loved by many people. A female poet admired by many poetry lovers. Xuan Quynh's poetry is known to have a youthful, vibrant poetic soul full of lyricism. Her poems revolve around the simplest and most intimate topics, and one of Xuan Quynh's famous poems cannot help but mention the poem "The Sound of Chicken at Lunch". "The Sound of Chicken at Noon" is a poem about the love between grandparents and grandchildren, and the love for one's homeland.
The context for composing the poem "The Noon Chicken Sound" was during the early years of the resistance war against American imperialism nationwide. Having forgotten that the enemy had lost in the Southern battlefield, the American enemy now frantically expanded the war of sabotage with planes, bombs, etc. to the North with a plot to destroy the large rear of the large front line. It can be seen that in that situation of boiling water and fire, at this time, millions of young people have set out with a fiery spirit to heed the call of the Fatherland. The lyrical character in this poem is the young soldier. When he and his comrades were on the march to the South to fight, the sound of the noon cock reminded them of a beautiful memory of childhood and the love between grandparents and grandchildren. The love of family and homeland also seems to have deepened the love for the country.
Readers can see that the poem is covered with a deep, painful nostalgia. Added to that is homesickness, which is the inevitable mood of young soldiers who have folded their pens and followed the call of the Fatherland and the mountains. A nostalgia seemed to overflow, with the sound of a chicken at noon suddenly heard when the soldier "Stopped by the small hamlet" stirred his soul and he remembered his childhood memories with his grandmother.
On a long march
Stop by the small hamlet
The sound of a chicken jumping into the nest:
“Cluck… cluck cluck cluck me”
Listen to the stirrings of the noon sun
Feeling less tired feet
Calling back to childhood
The image of home at this time also seems to appear clearly in my mind and childhood memories come back to life clearly and are still dear images. When I hear the sound of chickens at noon, I remember the image of the "pink straw nest with eggs" of the beautiful, fertile apricot hens and yellow hens. Then the grandchild missed her, missed the sound of the chickens jumping into the nest and was afraid that if she saw it, she would go crazy...her hand held the egg and caressed it, looking at the eggs as if hoping to have a very crowded flock of chickens.
Such is her life, a lifetime of hard work and worries, the image of this hard-working grandmother always reminds her grandchild of herself. She takes care of the chickens in the hope that when she sells them at the end of the year, she will have new clothes to wear. The nephew's wish at that time was very simple, he just wanted to have a pair of jeans, a bamboo blouse that was still intact, rustling and at the same time smelled of new fabric. Family happiness is like that, it's simple but important to everyone.
Noon chicken sound
Bring so much happiness,
That night I dreamed
Pink egg sleep.
Readers can see that through the nostalgia aroused by the sound of the noon cock, poet Xuan Quynh also described the pure, innocent soul and love and always respected her grandmother. a rural child. The passionate love between grandmother and grandchild has become an important part of the spiritual life of the soldiers today when they are wearing soldiers' uniforms on the march and fighting.
I fight today
For love of Fatherland
Because the village is familiar
Grandma, it's also because of you
Because of the clucking sound of chickens
The pink nest of childhood
|
Bài làm
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một điểm sáng trong thiên truyện nổi tiếng “Truyền kì mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ. Tác giả Nguyễn Dữ dường như cũng đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Chỉ với việc mô tả, kể lại cuộc đời đầy trắc trở, bi kịch của của nhân vật Vũ Nương thì tác giả cũng đã nói lên được số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Nhân vật Vũ Nương cũng mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu suy nghĩ.
Đọc truyện ngắn “Chuyện người con gái Nam Xương” được xây dựng dựng trên một câu chuyện có thật được dân gian lưu truyền đó là chuyện “Vợ chàng Trương” vốn được lưu truyền trong nhân gian. Từ một cơ sở là truyện cổ tích mà thông qua lăng kính của nhà văn Nguyễn Dữ cũng đã có được những hư cấu và sáng tạo tình tiết kì ảo để giúp cho “Chuyện người con gái Nam Xương” trở thành một áng văn hấp dẫn, đặc sắc, giàu giá trị nhân văn và nhận được sự ưu ái của rất nhiều bạn đọc hiện nay.
Giới thiệu nhân vật Vũ Nương có tên thật là Vũ Thị Thiết (thường gọi là Vũ Nương) quê ở Nam Xương. Sinh ra ở trong một gia đình nghèo khó Vũ Nương lại là một người luôn nghèo khó, đẹp người, đẹp nết. Tiếng tăm của Vũ Nương đã nức tiếng gần xa nên Trương Sinh cũng đã xin mẹ 100 lạng vàng để làm vợ. Cuộc sống vợ chồng trong ấm ngoài êm vì Vũ Nương luôn luôn biết giữ thuận hòa cho gia đình. Rồi khi có giặc thì chồng đi lính, Vũ Nương lúc này đây cũng ở nhà thay chồng tận tình phụng dưỡng mẹ già, luôn luôn chăm lo con nhỏ. Khi giặc tan, Trương Sinh trở về, và chàng cũng luôn luôn đau buồn vì nghe tin mẹ mất. Cũng chính bởi tin lời nói ngây thơ của con trẻ, nhân vật Trương Sinh cho rằng vợ mình đã thất tiết cho nên đã có những hành động không thể chấp nhận được đó là sỉ nhục, lăng mạ, và đánh đập Vũ Nương tàn tệ. Hậu quả đáng trách nhất là khi Vũ Nương đã giải thích, rồi hàng xóm khuyên ngăn mà Trương Sinh cũng không chấp nhận được. Rồi khi mọi việc đã được sáng tỏ vì bé Đản đã nói với Trương Sinh về người cha thường hay đến với mẹ trong đêm chính là cái bóng của mẹ.
Khi Vũ Nương chết thì cảm động trước mối oan tình của Vũ Nương, Linh Phi cũng đã cứu nàng và cho nàng về sống ở thủy cung. Chính nhờ có Phan Lang, Trương Sinh lúc này đây cũng đã hiểu ra mọi việc, Trương Sinh lại luôn rất hối hận nhưng tất cả đã muộn màng và cũng lập đàn giả oan cho vợ. Vũ Nương hiện về nói lời cảm tạ nhưng nàng không trở về nữa.
Người đọc có thể nhận thấy được ở nhân vật Vũ Nương là hội tụ vẻ đẹp của một con người lý tưởng, có đầy đủ vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật Vũ Nương là một người con gái có ngoại hình xinh đẹp, đồng thời lại có thêm tính cách cao quý. Chính với vẻ đẹp ấy được Nguyễn Dữ giới thiệu ngày từ đầu thiên truyện của mình. Thực sự người đọc có thể nhận thấy được sự kết hợp hoàn hảo, toàn vẹn giữa diện mạo và phẩm chất.
Khi nàng làm vợ thì những phẩm chất tốt đẹp ấy có dịp để thể hiện, phô bày. Nàng cũng đã tỏ ra hiểu tính chồng, hết lòng giữ gìn khuôn phép, chính nàng cũng không từng để lúc nào vợ chồng phải dẫn đến thất hòa – đây mà điều thực sự khiến chúng ta khâm phục. Vũ Nương luôn cư xử thật đúng mực và vun vén cho hạnh phúc gia đình. Sống có đạo nghĩa, sống có hiếu khiến mẹ chồng hết lời khen ngợi. Nhưng chỉ vì sự vô học, tính nhu nhược, bảo thủ của Trương Sinh cũng đã gây ra cái chết cho chính nàng.
|
Assignment
"The Story of the Girl of Nam Xuong" is a highlight in the famous story "The Legend of Man Luc" by author Nguyen Du. Author Nguyen Du also seems to have been very successful in building the image of the character Vu Nuong. Just by describing and narrating the difficult and tragic life of the character Vu Nuong, the author has also expressed the fate of women in contemporary feudal society. The character Vu Nuong also gives us so many thoughts.
Read the short story "The Story of the Nam Xuong Girl" which is based on a true story passed down by folk, the story of "Mr. Truong's Wife" which has been passed down in the human world. From a base of fairy tales, through the lens of writer Nguyen Du, there are also fictional and creative fantasy details to help "The Story of a Nam Xuong Girl" become an attractive piece of literature. , unique, rich in humanistic values and receiving the favor of many readers today.
Introducing the character Vu Nuong whose real name is Vu Thi Thiet (often called Vu Nuong) from Nam Xuong. Born into a poor family, Vu Nuong is always poor, beautiful, and beautiful. Vu Nuong's reputation was famous near and far, so Truong Sinh also asked his mother for 100 taels of gold to become his wife. Married life is warm on the inside and outside because Vu Nuong always knows how to keep the family harmonious. Then when there was an enemy, her husband joined the army. Vu Nuong now stayed at home to replace her husband and wholeheartedly take care of her elderly mother, always taking care of her small children. When the war ended, Truong Sinh returned, and he was always sad because he heard the news of his mother's death. Also because of believing the child's innocent words, the character Truong Sinh believed that his wife was unchaste, so he committed unacceptable actions such as humiliating, insulting, and brutally beating Vu Nuong. . The most deplorable consequence was when Vu Nuong explained, then the neighbors advised her to stop it, but Truong Sinh could not accept it. Then when everything became clear, Dan told Truong Sinh that the father who often came to his mother at night was her mother's shadow.
When Vu Nuong died, she was moved by Vu Nuong's injustice. Linh Phi also saved her and let her live in the aquarium. Thanks to Phan Lang, Truong Sinh now understood everything. Truong Sinh was always very regretful, but it was all too late and he also set up a fake altar for his wife. Vu Nuong appeared to say thank you, but she did not return.
Readers can see in the character Vu Nuong the beauty of an ideal person, full of beauty and noble qualities of Vietnamese women. The character Vu Nuong is a girl with a beautiful appearance and a noble personality. It was with that beauty that Nguyen Du introduced at the beginning of his story. Readers can really see the perfect, complete combination of appearance and qualities.
When she becomes a wife, those good qualities have the opportunity to express and display. She also showed that she understood her husband's personality, wholeheartedly maintained discipline, and she herself never let the couple fall into discord - this is what truly makes us admire. Vu Nuong always behaves properly and takes care of family happiness. Living a virtuous and filial life makes my mother-in-law full of praise. But just because of Truong Sinh's lack of education, weakness, and conservatism, it also caused her own death.
|
Bài làm
Đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa”của tác giả Nguyễn Thành Long chắc chắn ai ai cũng sẽ không bao giờ quên được hình ảnh nhân vật anh thanh niên. Nhân vật anh thanh niên chính là nhân vật chính của chuyện. Với đức tính chân thành, nồng hậu trong cuộc sống đầy tin yêu cùng với sự cống hiến cho nước nhà. Nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm cũng đã để lại cho em biết bao nhiêu cảm nhận thật đẹp về những người lao động trẻ mong muốn giúp cho đất nước phát triển hơn.
Anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trong tác phẩm cũng đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ. Người đọc có thể nhận thấy được đầu tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, anh đẹp ở sự nhiệt huyết yêu nghề trong công việc. Rồi làm việc có tinh thần trách nhiệm cao. Thế rồi chính trong lời giới thiệu của ông họa sỹ già và cô gái, bác lái xe cũng đã dành cho anh một cái tên “người cô độc nhất thế gian”. Cũng đã mấy năm nay anh thanh niên “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”. Thế rồi chính với công việc hàng ngày của anh là “đo gió, đo mưa ,đo chấn động mặt đất” đã rồi ghi chép, gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Có rất nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”. Chính vì thế mà anh rất yêu công việc của mình.
Anh thanh niên luôn luôn quan niệm rằng “khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?” Anh cũng đã lại hiểu rõ rằng “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Khi sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi anh thấy lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện vì anh tìm thấy được niềm vui khi được đọc sách. Tuy anh sống trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy dường như cũng cứ vẫn ham mê công việc, biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh thanh niên có một cuộc sống đơn giản, anh cũng tự nuôi gà, trồng hoa, đọc sách cứ thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.
Anh thanh niên sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Đáng nói là khi sống trong hoàn cảnh như thế thì anh thanh niên luôn luôn đáng yêu ở nỗi thèm người. Thế rồi chính với lòng hiếu khách cho đến nồng nhiệt như vậy thì chính sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu. Thế rồi chính với lòng mến khách, sự nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên nhất đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ. Khi niềm vui được đón khách dào dạt trong anh, niềm vui này dường như cứ đã toát lên qua nét mặt, cử chỉ. Khi đó anh biếu bác lái xe củ tam thất, anh lại còn mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ, rồi cũng thật hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”. Anh thanh niên luôn luôn hồn nhiên kể về công việc, đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ hoang sơ này.
Thực sự khó có người đọc nào quên, việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là anh phải hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết. Khi anh thanh niên hái bó hoa cho cô gái, mang nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu… Tất cả những hành động, những cử chỉ này của anh thanh niên đã chứng tỏ rằng anh chính là một người con trai vô cùng tâm lý, đồng thời cũng lại là một tấm lòng đẹp luôn tận tình với khách.
|
Assignment
Reading the short story "Quiet Sa Pa" by author Nguyen Thanh Long, surely everyone will never forget the image of the young man. The character of the young man is the main character of the story. With sincerity and warmth in a life full of faith and love along with dedication to the country. The young man character in the work also left me with so many beautiful feelings about young workers who want to help the country develop more.
The young man who worked as a meteorologist and geophysicist in the work also left us with many unforgettable impressions. Readers can first see that this young man is beautiful in his love of life, and in his enthusiasm for his job. Then work with a high sense of responsibility. Then, in the introduction of the old artist and the girl, the driver also gave him the name "the loneliest person in the world". For several years now, the young man "has lived alone on Yen Son peak, 2,600m high, with only grass, trees and cold clouds on all four sides." Then, with his daily work of "measuring wind, measuring rain, measuring ground vibrations", he took notes and called the walkie-talkie to report to the center. There were many nights when he had to "fight against the wind, snow and terrifying silence". That's why he loves his job so much.
The young man always believed that "when we work, we are a couple, how can we call ourselves alone?" He also understood clearly that "My job is so arduous, if I take it away, I will be sad to death." Even though he lives alone, he is not alone because he sees that I always have someone to talk to because he finds joy in reading books. Even though he lives in poor conditions, the young man seems to still be passionate about work and know how to arrange a neat and stable personal life. The young man has a simple life, he also raises chickens, grows flowers, reads books, and occasionally goes down the street to meet the bus driver and passengers to chat to ease his homesickness.
A young man living in such a situation will gradually shrink into loneliness. It is worth mentioning that when living in such circumstances, the young man is always adorable in his desire for people. Then with such warm hospitality comes thoughtful concern for others. Right from the first moments of meeting. Then it was with his hospitality and enthusiasm that caused the most natural sympathy for the old artist and the young engineer. When the joy of welcoming guests overflowed in him, this joy seemed to radiate through his facial expressions and gestures. At that time, he gave the driver a bamboo tube, he was even more happy to receive the book he bought for him, and then he was also very excited to welcome everyone to visit his "home". The young man always innocently talked about his work, colleagues and life in this quiet, pristine Sapa.
It's really hard for any reader to forget that the first thing he did when a guest came to visit his residence was to pick a bouquet of colorful flowers to give to the girl he first met. When the young man picked a bouquet of flowers for the girl, brought tea to the old painter, eggs and sugar for the two of them... All of these actions and gestures of the young man proved that he was A very thoughtful son, at the same time, he also has a beautiful heart and is always devoted to customers.
|
Bài làm
Mỗi người chúng ta đâu chỉ có những mối quan hệ tình cảm gia đình, những người thân mà muốn sống ý nghĩa, sống hạnh phúc hơn thì không thể không nói đến tình bạn. Tình bạn chính là một điều quan trọng mà ai ai trong số chúng ta cũng luôn muốn kiếm tìm.
Vậy bạn có hiểu bạn bè là gì? Bạn bè được hiểu chính là những người quen biết và có quan hệ gần gũi, lại luôn luôn thân thiện với nhau. Tình bạn chính là tình cảm gắn bó của một người (hoặc có rất nhiều người) ở cùng lứa tuổi hoặc chênh lệch nhau về tuổi tác biết quan tâm, cũng như biết giúp đỡ, đồng cảm. Bạn được xem chính là một người mình có thể tin tưởng để chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn. Thế rồi tình bạn được coi chính là một phạm trù xã hội dùng để chỉ quan hệ giữa người với người đồng thời lại còn có được những nét giống nhau về tâm tư, tình cảm, quan điểm hay hoàn cảnh… Những người bạn cũng có thể chia sẻ, đồng cảm, an ủi và đồng thời cũng sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và thành công trong cuộc sống. Rồi tình bạn cũng được nảy sinh giữa những người hợp tính, luôn luôn hợp ý, cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động.
Sẽ cũng có nhiều mức độ tình bạn khác nhau cho một mối quan hệ. Có khi chính là bạn bè tâm giao (bạn vàng, bạn lòng, thân thiết). Cũng có khi là bạn nối khố đồng cam cộng khổ từ nhỏ chơi thân với nhau. Rồi cũng có khi là bạn vong niên (không kể tuổi tác chênh lệch), rồi ccó khi là bạn đường (cùng đường, cùng chí hướng)…
Và chính tong lịch sử hiện nay cũng sẽ có nhiều tình bạn nảy sinh dựa trên những đức tính hay hoàn cảnh đặc biệt. Người xưa cũng đã từng ca ngợi tình bạn của Bá Nha và Tử Kỳ chính là tình bạn tri âm. Thế rồi chính với tình bạn của Quản Trọng Và Bão Thúc Nha (tình bạn tri kỉ). Hay đó chính là tình bạn Tô Đông Pha và Phật Ấn đây là một tình bạn tri âm. Rồi có tình bạn giữa ba anh en Lưu – Quan – Trương được biết đến là tình bạn sinh tử chi giao.
Tại sao cuộc sống cần phải có bạn bè? Nhìn nhận trong cuộc sống này rất cần có bạn bè, và cũng bởi không có ai trên đời là hoàn hảo cả. Thế rồi với mỗi con người đều có những điểm mạnh, thêm với đó thì là một điểm tốt của riêng mình. Đối với những người bạn quanh ta cũng vậy, ai ai cũng có những điểm đáng cho ta học hỏi. Chúng ta cũng hãy mở lòng ra cùng bạn bè và học hỏi những tính tốt, thế mạnh của họ để giúp bản thân tốt hơn từng ngày để cuộc sống vui tươi hơn.
Ngay cả ở trong học tập thôi thì bạn bè cùng nhau tương trợ, cùng tiến bộ trong tri thức. Bạn bè cũng sẽ ngồi lại cùng bàn bạc giúp nhau hiểu bài, làm bài. Bạn bè dường như cùng ta chia sẻ tài liệu, kinh nghiệm học tập, rồi lại có thể định hướng tương lai,…Rồi chính trong việc rèn luyện nhân cách, thế rồi bạn bè chân thành chỉ ra những sai lầm đồng thời cũng phải hạn chế của nhau để khắc phục. Họ được biết đến chính là người gắn bó với ta từng ngày. Mỗi người cũng cùng ta làm những công việc gần gũi nhau, tất hiểu ta nhiều hơn. Có lẽ chính bởi thế, họ sẽ nhìn thấy những hạn chế hoặc nhìn thấy được những lỗi lầm mà ta không nhìn thấy được. Từ đó người bạn cũng sẽ cho mình những lời khuyên bảo đúng đắn và kịp thời.
Bạn bè cũng sẽ giúp ta có được những phương pháp làm việc và tìm kiếm giải pháp tốt nhất. Thế rồi từ trong công việc sẽ đúc rút kinh nghiệm để đạt hiệu quả cao trong công việc. Và với ý khiến kiến chân thành của bạn bè giúp ta hoàn thiện những dự định, những kế hoạch của cuộc đời của bạn bè.
Còn nếu như chúng ta ở cùng bạn thân chắc chắn ta cũng sẽ cảm nhận thấy được một sự tự tin, một sự thoải mái khi được là chính mình. Chúng ta cũng sẽ làm được những điều mà chúng ta thích, đồng thời cũng được thử sức với những thứ mà mình yêu. Không chỉ thế ta mới có động lực, ta có được sự động viên ta tiếp tục theo đuổi những ước mơ, đam mê của bản thân mình.
|
Assignment
Each of us not only has emotional relationships with family and loved ones, but if we want to live a meaningful and happier life, we cannot help but talk about friendship. Friendship is an important thing that all of us always want to find.
So do you understand what friends are? Friends are understood as people who know each other and have close relationships, and are always friendly with each other. Friendship is the emotional attachment between a person (or many people) of the same age or different in age who cares, knows how to help, and empathizes. You are seen as someone you can trust to share your joys and sorrows. Then friendship is considered a social category used to refer to relationships between people while also having similarities in thoughts, feelings, opinions or circumstances... Friends also have can share, sympathize, comfort and at the same time help each other progress and succeed in life. Then friendship is also born between people who are compatible, always agree, have the same situation, have the same direction, and have the same activities.
There will also be different levels of friendship for a relationship. Sometimes they are soul friends (golden friends, best friends, close friends). Sometimes they are close friends who have been together since childhood and have been close friends. Then sometimes they are long-time friends (regardless of age difference), then sometimes they are traveling companions (same path, same direction)...
And in today's history, there will also be many friendships that arise based on special qualities or circumstances. Ancient people also praised the friendship of Ba Nha and Tu Ky as a close friendship. Then it was with the friendship of Quan Trong and Bao Thuc Nha (soul-friendship). Or is that the friendship between To Dong Pha and Phat An? This is a close friendship. Then there is the friendship between the three brothers Luu - Quan - Truong, known as the friendship of life and death.
Why does life require friends? Recognizing that in this life it is necessary to have friends, and also because no one in this world is perfect. Then every person has their strengths, plus there is a good point of their own. The same goes for the friends around us, everyone has something worth learning. Let's also open up to our friends and learn from their good qualities and strengths to help ourselves become better every day for a happier life.
Even in studying, friends support each other and progress together in knowledge. Friends will also sit together to discuss and help each other understand the lesson and do the homework. Friends seem to share documents and learning experiences with us, and can then orient the future... Then it is in cultivating character, then friends sincerely point out mistakes and at the same time must each other's limitations to overcome. They are known as the people who stick with us every day. Each person also does close work with us, so they understand us better. Perhaps because of that, they will see limitations or see mistakes that we cannot see. From there, your friend will also give you correct and timely advice.
Friends will also help us get working methods and find the best solutions. Then from work, experience will be drawn to achieve high efficiency at work. And with the sincere opinions of friends, they help us complete our friends' plans and life plans.
If we are with close friends, we will definitely feel a sense of confidence and comfort when being ourselves. We will also be able to do the things we like, and at the same time try the things we love. Not only that, we have motivation, we have encouragement to continue pursuing our own dreams and passions.
|
Bài làm
Người phụ nữ từ lâu đã được gắn là những người chân yếu tay mềm và chẳng làm được tích sự gì. Thân phận của người phụ nữ luôn luôn bị hắt hủi trái ngược hoàn toàn với nam giới được trọng dụng, coi trọng. Thương thay cho số phận người phụ nữ mà đã có rất nhiều các tác phẩm hay và sâu sắc viết thật chân thật về hình ảnh người phụ nữ họ có tài, có sắc nhưng vẫn bị khinh rẻ và phải chịu những hậu quả đáng thương. Nguyễn Dữ – một nhà văn nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam cũng đã sáng tác tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” và trong đó truyện Chuyện Người Con Gái Nam Xương viết về nhân vật Vũ Nương là được coi trọng hơn cả.
Nói về nhân vật Vũ Nương thì không khó để nhận thấy được rằng đây chính là người phụ nữ hội tụ nhiều nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Có thể thấy được vẻ đẹp của nàng được thể hiện trong nhiều mối quan hệ ở từng hoàn cảnh khác nhau. Vũ Nương từ khi còn là một thiếu nữ, Vũ Nương sở hữu nét tính cách thùy mị nết na, đã thế một điểm cộng cho Vũ Nương là nàng có tư dung tốt đẹp. Vũ Nương được mọi người vô cùng quý mến. Vì sự nết na và xinh đẹp thì Trương Sinh đã xin mẹ 100 lạng vàng để cưới về. Vũ Nương khi được gả về nhà chàng Trương, nàng là người vợ thủy chung son sắt và lại còn hết lòng chăm lo cho gia đình nhỏ. Chính Vũ Nương cũng biết được người chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép lễ nghi, chính vì thế mà nàng cũng không để xảy ra bất hòa. Có thể nói chính ngày tiễn chồng lên đường ra nơi biên ải, nàng Vũ Nương như xé lòng dặn dò chồng đầy tình nghĩa mặn nồng, Nếu như những người phụ nữ khác trong thời chinh chiến luôn mong chồng có thể lập được nhiều chiến công, mang vinh hoa phú quý về. Thế nhưng Vũ Nương – một người con gái chuẩn mực luôn hết lòng vì chồng vì con nhắc chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Thông qua lời dặn dò của nàng, ta thấy nhân vật Vũ Nương không hề mong được vinh quang hiển hách mà dường như cũng chỉ cầu sao cho chồng được bình an mà thôi. Không chỉ vậy thôi đâu mà chính nàng còn cảm thông với những vất vả khó khăn mà sau này chính chồng mình sẽ phải chịu đựng phía trường chinh.
Rồi năm tháng xa trồng là những ngày Vũ Nương làm việc vô cùng mệ nhọc. Ở nhà Vũ Lương luôn luôn thương nhớ chồng trở về. Biết bao nhiêu ngày tháng làm lụng vất vả nàng vẫn luôn thủy chung một lòng. Còn Vũ Nương còn luôn đối xử thật tốt với mẹ chồng, nhân vật Vũ Nương là một nàng dâu vô cùng ngoan ngoãn, hiếu thảo. Khi mà người mẹ chồng lâm bệnh nặng, nàng chăm sóc tận tịu chu đáo, đồng thời cũng lại lo thuốc thang trị liệu, lo lễ bái thần phật, dịu dàng dùng lí lẽ ngọt ngào khuyên lơn để mong sao cho mẹ bệnh tiêu tan. Mẹ chồng biết mình chẳng thể tiếp tục cõi đời và đã kịp thời trăng trối trước lúc lâm chung để khẳng định về nhân cách, khẳng định về công lao đức độ của Vũ Nương đối với bà với một lời như sau “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi người mẹ chồng mất, chính nàng một mình một thân lo việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình vậy. Có thể thấy được chính với ấm gương tần tảo nghĩa hiếu ấy dường như khó ai mà có được trong hoàn cảnh côi cút, vất vả như Vũ Nương.
|
Assignment
Women have long been labeled as weak and unable to do anything. The status of women who are always rejected is in complete contrast to men who are respected and respected. I pity the fate of women who have written many good and profound works that honestly describe the image of talented and beautiful women but are still despised and have to suffer pitiful consequences. Nguyen Du - a famous writer in Vietnamese medieval literature also wrote the work "The Legend of Man Luc" and in which the story The Story of the Nam Xuong Girl about the character Vu Nuong is considered the most important.
Talking about the character Vu Nuong, it is not difficult to see that this is a woman who brings together many traditional beauty features of Vietnamese women. Her beauty can be seen expressed in many relationships in different situations. Since she was a young girl, Vu Nuong has had a modest personality, a plus point for Vu Nuong is that she has a good mind. Vu Nuong is extremely loved by everyone. Because of her modesty and beauty, Truong Sinh asked her mother for 100 taels of gold to marry her. When Vu Nuong was married to Mr. Truong's family, she was a faithful wife and also devoted herself to taking care of her small family. Vu Nuong herself also knew that her husband was suspicious, she always maintained the rules of etiquette, that's why she did not let discord happen. It can be said that on the very day she sent her husband off to the border, Vu Nuong seemed to tear her heart out and instruct her husband with full of love and affection, If other women in times of war always hope that their husbands can achieve many victories. , bringing glory and wealth. However, Vu Nuong - a standard girl who is always devoted to her husband and children, reminded her husband, "You're going on this trip, I don't dare to expect to wear the seal of a servant, wear a brocade shirt and return to my hometown. Having two words of peace, that's enough." Through her advice, we see that the character Vu Nuong does not wish for glory at all, but seems to only pray for her husband to be safe. Not only that, but she also sympathized with the hardships that her husband would later have to endure on the long march.
Then, the years away from planting were the days when Vu Nuong worked extremely hard. At home, Vu Luong always missed her husband's return. No matter how many days of hard work she worked, she was always faithful. As for Vu Nuong, she always treats her mother-in-law very well. The character Vu Nuong is an extremely obedient and filial daughter-in-law. When her mother-in-law fell seriously ill, she took good care of her, and at the same time took care of medicine, worshiped gods and Buddha, and gently used sweet arguments to advise her mother's illness. . The mother-in-law knew that she could not continue in this world and promptly passed away before her death to affirm Vu Nuong's personality and virtuous merits towards her with the following words: "God will judge later." good heart, bestowing blessings, good lineage, many descendants, that green tree will not betray its child, just as a child has not failed its mother. When her mother-in-law died, she took care of the funeral and rites alone, just like she would her own parents. It can be seen that with the warm example of filial piety, it seems that no one can have it in an orphaned, difficult situation like Vu Nuong.
|
Bài làm
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta ai ai cũng đều có gia đình riêng của mình, ai ai cũng đều được che trở trong vòng tay của người cha, được sống trong tình yêu thương và sự chở che của người mẹ của mình. Có lẽ chính vì thế tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng, đặc biệt cũng thật cao quý nhất của dân tộc Việt Nam.
Không sai chút nào khi nói tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng, tình cảm gia đình là một thứ tình cảm vô bờ bến của mỗi cá nhân con người. Tình cảm gia đình đây là nơi ấm áp chứa đựng tình thương giữa con người với con người với nhau. Bạn có biết được rằng trong nhiều hoàn cảnh con người được sống trong tình yêu thương của người thân, có lẽ chính vì thế tình cảm gia đình là vô cùng thiêng liêng, là vô cùng cao quý đối với tất cả mọi người trong cuộc sống. Thực sự chính với tình cảm đó chúng ta cần phải biết gìn giữ, chúng ta cũng cần phải biết trân trọng và phát huy những giá trị quý báu của dân tộc Việt Nam. Cứ mỗi giá trị đó cần phải biết tôn tạo và giữ gìn mỗi ngày, đồng thời cũng luôn phải được phát huy.
Từ xưa đến nay thì tình cảm gia đình vẫn được coi là nơi thiêng liêng, hàm chứa nhiều xúc cảm quan trọng nhất của con người. Tình cảm gia đình nó bao gồm nhiều cung bậc tình cảm quan trọng, cao quý mà con người ta luôn luôn dành với nhau. Ai ai trong số chúng ta cũng đều được cảm nhận tình cảm đó thông qua gia đình, thông qua chính những mối quan hệ trong xã hội. Một mái nhà nhỏ nơi đó có gia đình thân yêu của bạn thì ở đó có được những người thân yêu luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Những bậc làm cha, làm mẹ cũng luôn dành tình yêu thương của mình cho con cái. Không chỉ thế mà chính họ cũng là người có thể tha thứ mọi lỗi lầm khi con họ mắc lỗi, họ luôn luôn sẵn sàng cho những người con của họ cơ hội để sửa sai, cho đứa con có được sửa chữa những lỗi lầm của mình. Sống trong cuộc sống này thì cũng chỉ có cha mẹ mới là người luôn yêu con cái hết mực, luôn sẵn sàng hi sinh và dành cả cuộc đời của mình cho họ.
|
Assignment
In the life of each of us, we all have our own family, we are all protected in the arms of our father, and live in the love and protection of our mother. Perhaps that is why family love is the most sacred, special and noble feeling of the Vietnamese people.
It is not wrong to say that family love is a sacred love, family love is a boundless love of each individual human being. Family love is a warm place containing love between people. Did you know that in many situations people live in the love of their loved ones? Perhaps that is why family love is extremely sacred and noble for everyone in life. . Actually, it is with that sentiment that we need to know how to preserve, we also need to know how to appreciate and promote the precious values of the Vietnamese people. Each of those values needs to be enhanced and preserved every day, and must always be promoted.
From ancient times until now, family love is still considered a sacred place, containing many of the most important human emotions. Family love includes many important and noble feelings that people always have for each other. Each of us feels that love through our family and through our social relationships. A small home where your beloved family is, there are loved ones who always love and support each other. Fathers and mothers also always give their love to their children. Not only that, but they are also the ones who can forgive all mistakes when their children make mistakes, they are always ready to give their children the opportunity to correct their mistakes, so that their children can correct their own mistakes. me. In this life, only parents are the ones who always love their children, are always ready to sacrifice and devote their whole lives to them.
|
Bài làm
Trong cuộc sống có biết bao nhiêu khó khăn giăng mắc chính vì thế con người ngoài việc có kiến thức, sự thông minh ra thì phải có lòng dũng cảm. Và lòng dũng cảm được coi là một trong những đức tính vô cùng cần thiết và đáng quý trọng ở mỗi con người. Lòng dũng cảm sẽ giúp cho chúng con người chúng ta dám đối mặt với khó khăn, thử thách khi đó thì sẽ thành công.
Lòng dũng cảm trong mọi thời đại đề cần thiết, thực tế lịch sử cho thấy rằng chính với cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc chúng ta chắc chắn đã có rất nhiều những tấm gương dũng cảm họ đã dám vì nước quên thân, luôn sẵn sàng đối mặt với kẻ thù, với khó khăn gian khổ. Thế rồi thậm chí cả hy sinh mất mát họ cũng sẵn sàng đánh đổi tất cả để có thể bảo vệ tổ quốc mình.
Không chỉ thế lòng dũng cảm là một trong những phẩm chất vô cùng quan trọng và cần thiết của con người. Bởi chính trong cuộc đời mình, chúng ta luôn luôn phải đối diện với khó khăn, đối diện với biết bao nhiêu thử thách. Nói không sai chút nào khi nói lòng dũng cảm là nghị lực, là sức mạnh, đồng thời cũng là ý chí kiên cường để con người có thể vượt lên mọi gian nan thử thách, để có được sức mạnh chế ngự thiên nhiên, chiến thắng kẻ thù … Cũng có nhiều khi là để chiến thắng chính bản thân mình. Hình ảnh người chiến sĩ ung dung, bình thản, không hề run sợ khi đứng trước mũi súng quân thù, đó là dũng cảm. Hình ảnh chú bé thoăn thoát bước đi dưới cơn mưa đạn quân thù để đưa cho được bức thư đề “thượng khẩn”. Ta vẫn còn nhắc đến cái tên chị Trần thị Lí không hề run sợ và không chịu khuất phục trước những đòn tra tấn vô cùng dã man của giặc. Khi đứng trước những khó khăn, hiểm nguy là thế nhưng chính con người vẫn quyết tâm làm việc, hoàn thành nhiệm vụ, đó là dũng cảm biết bao nhiêu. Sự dũng cảm là sẵn sàng đối diện với gian khó để thực hiện cho được mục đích đề ra nên nó rất quan trọng và cần thiết với con người.
Khi được sống trong cuộc sống hoà bình, tất cả chúng ta vẫn hàng ngày hàng giờ chứng kiến những hành động dũng cảm hơn bao giờ hết. Sự dũng cảm vạch trần những việc làm sai trái của người khác cho đó là những kẻ có chức có quyền, hay có là người chiến sĩ công an dũng cảm bắt tội phạm để giữ cho nhân dân có cuộc sống thanh bình. Ta vẫn còn nhắc nhớ đến tấm gương của một bạn học sinh sẵn sàng lao xuống dòng nước chảy xiết đề cứu bạn… Và rồi vẫn còn đó những con người dũng cảm ấy đã góp phần làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, đáng sống hơn nữa.
Thực sự chiến thắng được người khác đã rất khó khăn thế nhưng chiến thắng được chính bản thân mình còn khó khăn hơn rất nhiều. Luôn luôn phải dũng cảm để nhìn ra và công nhận những sai lầm khuyết điểm của mình. Đồng thời cũng luôn luôn phải dũng cảm để chiến thắng những ham muốn cá nhân, những tham vọng và những nhu cầu vô tận của mình. Nếu như chúng ta không đủ nghị lực để vượt qua khó khăn thì cũng đã bao người rơi vào cạm bẫy của những cám dỗ, để rồi trở nên nghiện ngập, trộm cắp… Con người không đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật, không dám sửa chữa sai lầm mà bao người ngày càng dấn sâu vào con đường tội lội, tất nhiên hậu quả để lại là khó lường trước được, cho đến khi nhìn lại thì cũng đã quá muộn.
|
Assignment
There are so many difficulties in life, so in addition to having knowledge and intelligence, people must also have courage. And courage is considered one of the extremely necessary and valuable virtues in every human being. Courage will help us humans dare to face difficulties and challenges, then we will succeed.
Courage is necessary in all times, historical reality shows that with our nation's national defense war, there were certainly many brave examples who dared to forget themselves for the sake of their country. Be ready to face the enemy and face hardships. Then, even if they sacrifice or lose, they are willing to trade everything to protect their country.
Not only that, courage is one of the extremely important and necessary human qualities. Because in our lives, we always have to face difficulties and face many challenges. It is not wrong to say that courage is determination, strength, and at the same time a resilient will so that people can overcome all hardships and challenges, to have the power to control nature and fight. Win over the enemy... Sometimes it's to win over yourself. The image of a soldier who is leisurely and calm, not afraid at all when standing in front of the enemy's guns, is brave. The image of the little boy quickly walking under a rain of enemy bullets to deliver a letter titled "urgent". We still mention the name of Ms. Tran Thi Ly, who did not tremble and did not yield to the extremely brutal torture of the enemy. When faced with such difficulties and dangers, people are still determined to work and complete their tasks, which is how brave they are. Courage is the willingness to face difficulties to achieve a set goal, so it is very important and necessary for humans.
While living in a peaceful life, we all still witness braver actions every day and every hour than ever before. The courage to expose the wrong doings of others, whether they are those in positions of authority, or whether it is a brave police officer who arrests criminals to keep people living a peaceful life. We still remember the example of a student who was willing to dive into the fast-flowing water to save his friend... And then there are still those brave people who have contributed to making life better and more worthy. live more.
Actually winning over others is very difficult, but winning over yourself is much more difficult. Always have to be brave to see and admit your mistakes and shortcomings. At the same time, we must always be courageous to overcome our personal desires, ambitions and endless needs. If we do not have enough strength to overcome difficulties, many people will fall into the trap of temptations, then become addicted, steal... People do not have enough courage to look straight at the truth. Not daring to correct mistakes, many people continue to go deeper and deeper into the path of sin. Of course, the consequences are difficult to predict. By the time they look back, it is too late.
|
Bài làm
Nhắc đến dòng văn hiện thực thì không thể không nhắc đến những nhà văn hiện thực nhân đạo như: Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao,….Nói riêng về nhà văn Nam Cao thì có rất nhiều các sáng tác chuẩn mực và vô cùng đặc sắc mang được ý nghĩa nhân đạo, nhân sinh vô cùng sâu sắc. Một trong số các tác phẩm viết về người nông dân của nhà văn Nam Cao không thể không nhắc đến Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn này thực sự cảm động biết bao nhiêu vì đã phản ánh được chân thực số phận người nông dân trong xã hội cũ.
Truyện ngắn “Lão Hạc” xuất hiện lần đầu trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” năm 1943 và đã nhận được những lời đánh giá là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng. Người đọc đọc tác phẩm cũng sẽ cảm thấy sự bùi ngùi và thương cảm cho kiếp sống bèo bọt nổi lên trên mặt bể hiện tượng. Đồng thời hiểu được sự tha hóa biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội đương thời lúc bấy giờ.
Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ của người nông dân trước Cách mạng qua nhân vật Lão Hạc. Có thể thấy được cuộc đời của lão Hạc được biết đến chính là một chuỗi những đau khổ và bất hạnh. Lão Hạc hiện lên là một kiếp đời chua chát và đắng cay. Khi đó thì vợ lão mất sớm, một mình lão “gà trống nuôi con”. Rồi đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao cho nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Mà đồn điền cao su được biết đến là một nơi đi dễ khó về. Trong những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, sống trong cảnh phiền muộn vì chưa làm tròn bổn phận của người cha. Thực sự sẽ chẳng còn gì xót xa hơn cảnh già gần đất xa trời, lão Hạc lúc này đây cũng phải sống trong cô độc, thui thủi một mình. Lão Hạc như cứ bầu bạn với con chó vàng, chó vàng chính là kỷ vật của người con để lại. Lão Hã vô cùng yêu nó, coi nó như người thân. Nhưng có thể thấy được gia cảnh nghèo ngày càng túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Lão Hạc phải bán “cậu Vàng” – thực sự đây là một quyết định không hề mong muốn. Nhưng nếu lão không bán cậu Vàng đi thì sẽ không có tiền nôi nó. Người nông dân già này cứ đắn đo, day dứt khi trót đánh lừa một con chó.
Từ khi bán cạu Vàng lão Hạc như kiến ăn bằng củ chuối, con ốc,…nhưng khi không còn lo được nữa thì lão quyết định tìm đến bả chó. Lão Hạc đã chết vì không còn đường sống. Hình ảnh một lão nông dân suốt đời lao động cần cù ấy không thể sống cho dù là sống trong nghèo khổ. Chính với cuộc sống khốn cùng và cái chết bi thương của lão Hạc cũng đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân trong cái xã hội tăm tối đương thời. Chắc chắn rằng phải cảm thông sâu sắc với người nông dân, đồng thời cũng phải thấu hiểu nỗi đau của họ thì nhà văn Nam Cao mới thấy được cái tình cảnh khốn cùng của người nông dân.
Hay truyện ngắn còn phản ánh số phận nghèo khổ của người nông dân thông qua hình ảnh nghèo khổ của cậu con trai lão Hạc. Cũng chính vì nghèo đói, không có được hạnh phúc bình dị như mình mong muốn thì anh con trai phẫn chí bỏ làng đi đồn điền cao su. Và chính anh ra đi với hi vọng “có bạc trăm” mới trở về” vì khổ quá, sống nục quá. Ngay cả khi biết đi đến chốn đó khó có ngày trở về.
Rồi nhân vật ông giáo cũng là một hiện thân cho những người nghèo khổ. Nếu như lão Hạc yêu quý cậu Vàng như thế nào thì ông giáo cũng yêu sách của ông ý như vậy. Thế nhưng vì ốm đau mà ông giáo đã phải bán sách của mình đi. Hay còn như Binh Tư vì nghèo khó mà đã đánh đổi lương tâm của mình mà đi bả chó.
Từ tất cả những nhân vật được xây dựng hông chỉ giúp ta hiểu được nỗi đau trực tiếp của người nông dân thôi đâu mà ruyện còn giúp ta hiểu được căn nguyên sâu xa nỗi đau của họ. Và đó cũng chính là sự nghèo đói. Họ sống trong đói nghèo và bị cái đói nghèo đe dọa.
|
Assignment
When talking about realistic writing, it is impossible not to mention humanitarian realist writers such as: Ngo Tat To, Nguyen Hong, Nam Cao, etc. Speaking specifically about writer Nam Cao, there are many standard and original works. extremely unique, carrying extremely profound humane and humane meanings. One of writer Nam Cao's works about farmers cannot fail to mention Lao Hac in the short story of the same name. This short story is truly touching because it truly reflects the fate of farmers in the old society.
The short story "Old Hac" first appeared in the weekly magazine "Novel Saturday" in 1943 and received reviews as one of the excellent short stories about the situation of farmers before the Revolution. Readers who read the work will also feel sadness and sympathy for the meager life floating on the surface of the sea of phenomena. At the same time, understand the corruption and corruption of a part of the peasantry in contemporary society at that time.
Reading the short story Lao Hac by Nam Cao helps us understand the miserable situation of farmers before the Revolution through the character Lao Hac. It can be seen that the life of old Hac is known to be a series of suffering and misfortune. Old Hac appears to have a sour and bitter life. At that time, his wife passed away early, leaving him alone to raise the children. Then when the son was old enough to get married, the old man's family was very poor and the bride's family was very demanding, so the son could not get a wife, so he was frustrated and left the rubber plantation. The rubber plantation is known as a place that is easy to get to and difficult to return to. During the days he was away from his son, he lived in anxiety and depression because he had not yet fulfilled his duties as a father. There's really nothing more painful than the old man's old age, Mr. Hac now has to live in solitude, alone. Old Hac seemed to keep company with the yellow dog. The yellow dog was a souvenir left by his son. Lao Ha loved it very much and considered it a relative. But it can be seen that the poor family situation is becoming more and more miserable, threatening him more and more. Old Hac had to sell "Mr. Vang" - this was truly an undesirable decision. But if he doesn't sell Mr. Vang, he won't have any money to support him. This old farmer was hesitant and tormented when he tricked a dog.
Since selling the Vang, Mr. Hac has been eating bananas, snails, etc., but when he can no longer worry, he decides to go to the dog bait. Old Hac died because he had no way to live. The image of an old farmer who worked hard all his life could not live even in poverty. The miserable life and tragic death of old Hac also poignantly expressed the tragic fate of farmers in the dark society of the time. Certainly, one must deeply sympathize with the farmers and at the same time understand their pain for writer Nam Cao to see the miserable situation of the farmers.
Or the short story also reflects the poor fate of the farmer through the poor image of old Hac's son. Because of poverty and not having the simple happiness he wanted, the frustrated son left the village to go to the rubber plantation. And he himself left with the hope of "returning with a hundred dollars" because he was too miserable and lived too hard. Even if you know how to go to that place, it will be difficult to return.
Then the teacher character is also an embodiment of poor people. If Mr. Hac loved Mr. Vang as much as he did, the teacher would love his books the same way. But because of illness, the teacher had to sell his books. Or like Binh Tu, because of poverty, he traded his conscience to bait dogs.
From all the characters built, the story not only helps us understand the direct pain of the farmers, but also helps us understand the deep root of their pain. And that is also poverty. They live in poverty and are threatened by poverty.
|
Bài làm
Nhà văn Kim Lân được mệnh danh là một nhà văn tên tuổi viết về đề tài người nông dân. Ngoài tác phẩm “Vợ nhặt” ra thì ông còn có rất nhiều tác phẩm hay và đặc sắc khác viết về người nông dân, tiêu biểu chính là nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân.
Xây dựng lên nhân vật ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông Hai luôn luôn và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, luôn luôn hào hứng. Ngay cả ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu xem tình hình như thế nào.
Có thể nhận thấy được chính với tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Tác giả Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để có thể bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Tình huống mà tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Có thể thấy được ông Hai từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, khi cứ nghe nhắc đến tên làng, khi đó ông Hai quay phắt lại, cái miệng thì lắp bắp hỏi. Trong ông luôn luôn hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ đối ả làng Việt gian theo Tây”. Thế rồi những tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn biết bao nhiêu. Những câu nói khi tả “Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, rồi da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi, câu hỏi của ông nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Thế rồi khi đứng trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông Hai cũng cứ luôn luôn tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái biết bao nhiêu, ông nói: “cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
Tâm trạng ông Hai còn diễn biến cụ thể hơn đó chính là khi đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”. Lúc đó ông cứ nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Thực sự chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông Hai luôn luôn căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông Hai lúc này đây luôn luôn nắm chặt hai tay lại mà rít lên mà rằng “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Thực sự chính với niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông Hai như đã kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy”. Ông thực sự đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu cả mà “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, hay ông cũng rất sợ người ta đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Có thể thấy được chính với nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông Hai dường như cứ đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi…
Có thể nhận thấy được chính tình thế của ông càng trở nên bế tắc, càng trở nên thật tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Khi mà trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy thì chính ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ đó chính là một sự “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”.
Qủa thật chính với tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Nhân vật ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát mà rằng: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Cho dù cũng đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Có lẽ chính bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn đến tủi hơn. Chính với tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông Hai lúc này đây cũng chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông Hai cũng đã hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai ?”. Thế rồi chính lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị như nói hộ lòng ông “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”. Chắc chắn rằng những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm và ông cũng mong an hem đồng chí luôn cho biết bố con ông, tấm lòng của bố con ông về đất nước cho thấy tinh thần yêu nước của cha con ông.
|
Assignment
Writer Kim Lan is known as a famous writer who writes on the topic of farmers. In addition to the work "The Wife Picked Up", he also has many other good and unique works about farmers, the most typical being the character Mr. Hai in the work "The Village" by writer Kim Lan.
Build up the character of Mr. Hai as well as many rural farmers who have always been attached to their village. Mr. Hai is always and proud of Cho Dau village and often brags about it enthusiastically, always excitedly. Even in the evacuation area, he always remembered the village, followed resistance news and asked about Cho Dau to see how the situation was.
It can be seen that his love for the village is revealed even more deeply and touchingly in challenging circumstances. Author Kim Lan placed the character in a harsh situation to reveal the character's emotional depth. The situation in which Cho Dau village was believed to have gathered to join the enemy. It can be seen that Mr. Hai came out of the information room, excited and excited by the good news of the resistance war, when he met the displaced people. When he kept hearing the name of the village, Mr. Hai turned around, his mouth open. then stammered and asked. He always hoped to hear good news, but never expected to hear bad news for the Vietnamese village girl who followed the West." Then, as soon as that unexpected news reached his ears, it shocked and hurt him so much. Sentences when describing "The old man's throat was completely choked, then his face felt numb, the old man was silent as if he couldn't breathe, for a long time he pushed and groaned to swallow something stuck in his neck. He asked, his voice completely lost, his question hoping that what he had just heard was not the truth. Then, when faced with the evacuees' firm assertions, Mr. Hai always tried to find a way to escape. The echoing curse of the breastfeeding woman made him feel so numb, he said: "Their ancestors and masters, hungry and hungry, stealing and stealing, people still love them, they are Vietnamese traitors who sell their country." Just give each one a shot."
Mr. Hai's mood changed even more specifically: when he arrived at his house, he was bored and "fell on the bed". At that time, he kept looking at his children, tears welling up in his eyes, "Are they also the children of the Vietnamese village?" Are they really being snubbed by people?" Mr. Hai always hated those who followed the West and betrayed the village. At this time, Mr. Hai always clenched his hands and hissed, "If you take a piece of rice or something in your mouth, then go and do something like a Vietnamese traitor." Selling the country to be humiliated like this. Actually, it was with faith that doubt tugged within him. Mr. Hai seemed to have reviewed each person in his mind and found that they all had the spirit of "no way in their life would they be willing to do such a humiliating thing". He was really sad thinking about the scene where "people are disgusted, people hate the Vietnamese traitors who sell their country". For several days in a row, he did not dare to go anywhere but "just stayed at home to listen to the situation", always He worried that people were paying attention, or he was also very afraid that people were talking about his village. It can be seen that the obsession, torment, and heaviness turned into constant fear in him. Mr. Hai seemed to be in pain and shame as if he were the one at fault...
It can be seen that his situation became more and more deadlocked and desperate when the landlady tried to evict his family on the grounds that it did not accommodate people from the Vietnamese village. When he thought there was no way to live, he briefly had the thought of returning to the village but then immediately dismissed it because "returning to the village means giving up the resistance, leaving Uncle Ho is a "resignation to return". to be a slave to the West".
Indeed, the love for the village at this time has expanded into love for the country because even though the love, faith and pride in Dau village has been shaken, the faith in Uncle Ho and the resistance has not faded. The character Mr. Hai made a painful and decisive choice, saying: "The village truly loves us, but once the village follows the West, we must hate it!". Even though he had made that decision, he still could not let go of his feelings for his homeland. Perhaps that's why he felt even more sorrow and pain. With that pent-up and deadlocked mood, Mr. Hai at this moment could only find comfort in confiding in his young son. Talking to your child is actually pouring your heart out. Mr. Hai also asked me things I already knew the answer to: "Where is your home?", "Who do you support?". Then the child's words rang out in him, sacred and simple, as if speaking for him, "My house is in Cho Dau village", "Long live support for Uncle Ho Chi Minh!". Surely he already knows these things, and still wants to keep them in mind with his children, and he also hopes that his comrades will always let him know that he and his father, their hearts for the country, show their father's patriotic spirit. his son.
|
Bài làm
Từ xưa đến nay có thể thấy được chính tình cảm của cha mẹ dành cho con cái của mình là tình cảm thiêng liêng và đáng quý nhất. Thực sự chính thứ tình cảm đó đáng được chân trọng, giữ gìn và phát huy mỗi ngày, chính từ lời tâm sự của một người mẹ”. Tình mẫu tử chính là một tình cảm rất đỗi thiêng liêng và không gì có thể thay thế được.
Bạn có biết được tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, cao quý của con người, trong mỗi chúng ta ai ai cũng đều có tình cảm với cha mẹ. Ai ai cũng sẽ có tình cảm đáng quý, tin yêu đối với những người có công lao to lớn sinh thành ra chúng ta, đúng như dân gian ta cũng có câu:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Công sinh thành của cha mẹ, rồi nhờ sự yêu thương của những người làm cha, làm mẹ cũng không thể đong đếm được mang lại cho chúng ta vượt qua được cuộc sống đầy khó khăn.
Cuộc đời mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng và giữ gìn những tình cảm mà chúng ta đang có để từ đó có thể giúp cảm nhận sâu sắc được tình mẫu tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, những tình cảm đáng quý, tình cảm cũng sẽ đáng được chân trọng, yêu thương và trân trọng mỗi ngày, giá trị đó là điều quan trọng và luôn mang lại những điều hữu ích cho cuộc sống của mình.
Thực sự tình cảm của cha mẹ là thiêng liêng, đáng kính. Chính vì tình cảm đó chúng ta cần phải biết giữ gìn, phải luông luôn biết trân trọng và phát huy nó mỗi ngày. Mỗi người chúng ta hãy luôn luôn biết ơn người đã có công sinh thành ra mỗi chúng ta, người luôn yêu thương chúng ta vô điều kiện, họ là những người không tiếc bất cứ điều gì, luôn cố gắng dành cho chúng ta những điều tốt nhất. Cha mẹ luôn luôn nuôi nấng chúng ta thành con người có ích cho xã hội này, chính vì thế cha mẹ là người mà chúng ta cần phải biết quan tâm. Cha mẹ đáng được yêu thương và dành tình cảm cao quý cho những người đã có công sinh thành ra mỗi chúng ta.
Thực sự tình mẫu tử không có một bài ca, không có một tiếng hát nào có thể nói được hết giá trị cũng như vẻ đẹp của tình cảm này trong cuộc sống. Tình mẫu tử chính là tình yêu của người mẹ dành cho con, người mẹ luôn luôn yêu thương con hết mình, luôn chăm sóc, quan tâm và dành những điều tốt nhất cho người con của mình. Tình mẫu tử cũng đáng được tôn vinh, giữ gìn, chính vì thế dân tộc của chúng ta có những ngày lễ để tôn vinh những người cha, người mẹ,. Mẹ đã sinh ra ta chăm sóc ta từ thuở lọt lòng, bế con từ yêu từ bé, bế bồng bế ngửa và luôn yêu thương con. Cho đến khi người con trưởng thành thì người mẹ vẫn cứ luôn luôn yêu thương con, dang rộng bàn tay để ôm con vào lòng cho dù cả thế giới có hắt hủi, có tránh xa con như thế nào.
Người mẹ là người cũng có thể sẵn lòng tha thứ cho chúng ta là bởi vì mẹ cũng là người luôn yêu thương nếu chúng ta làm sai điều gì đó, sẵn sàng cho chúng ta cơ hội làm lại từ đầu. Với một người luôn nhân từ với con của mình, luôn sẵn sang tha thứ và tạo nên niềm tin để những người con của mình làm lại cuộc sống, biết sống đúng đắn, tạo nên những giá trị to lớn cho bản thân, đồng thời cũng luôn yêu thương và biết trân trọng cuộc sống của mình mỗi ngày.
Người mẹ cũng sẽ là người sẽ luôn chăm sóc và tạo điều kiện tốt nhất cho những người con của mình, dành tình yêu quý, chăm sóc. Tất cả dường như cũng đã tạo nên những giá trị sống cho người con, luôn luôn biết thương yêu, chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn với người con của mình.
|
Assignment
From ancient times until now, it can be seen that the love parents have for their children is the most sacred and precious love. Actually, it is that feeling that deserves to be respected, preserved and promoted every day, precisely from the confession of a mother." Motherly love is a very sacred feeling and nothing can replace it.
Did you know that motherly love is a sacred and noble human feeling? Each of us has feelings for our parents. Everyone will have precious feelings and love for those who have made great contributions to giving birth to us, just like our folk saying:
"The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source."
The contributions of our parents and the love of our parents are immeasurable, allowing us to overcome a difficult life.
In life, each of us needs to know how to appreciate and preserve the feelings we have so that we can deeply feel motherly love, the love between parents and children, precious feelings. , love also deserves to be respected, loved and cherished every day, that value is important and always brings useful things to your life.
In fact, parental love is sacred and honorable. Because of that love, we need to know how to preserve it, always know how to appreciate and promote it every day. Each of us should always be grateful to the people who gave birth to each of us, the people who always love us unconditionally, they are the people who do not regret anything, always try to give us the best things. the best. Parents always raise us to become useful people for this society, that's why parents are the people we need to care about. Parents deserve love and noble affection for those who have contributed to giving birth to each of us.
Truly, motherly love does not have a song, there is no song that can express the full value and beauty of this love in life. Motherly love is the love of a mother for her child. A mother always loves her child with all her heart, always takes care of her child, cares for her, and gives the best things to her child. Motherhood also deserves to be honored and preserved, that's why our nation has holidays to honor fathers and mothers. Mother gave birth to me, took care of me from birth, held me lovingly since I was a baby, held me up and always loved me. Until the child becomes an adult, the mother will always love her child and hold her child in her arms wide open no matter how much the whole world rejects or avoids her.
A mother is someone who can willingly forgive us because she is also someone who always loves us if we do something wrong, and is willing to give us a chance to start over. For a person who is always benevolent to his children, always ready to forgive and create trust so that his children can rebuild their lives, know how to live right, create great values for themselves, and at the same time Always love and appreciate your life every day.
A mother will also be the one who will always take care of and create the best conditions for her children, giving love and care. Everything seems to have created life values for the child, always knowing how to love and share all joys and sorrows with his child.
|
Bài làm
Nguyễn Dữ là một trong những tác giả nổi tiếng của nền văn chương trung đại Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của ông là Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm được phóng bút với những yếu tố tưởng tượng kỳ ảo nhưng tinh thần chung đem lại lại thấm đẫm chất hiện thực, phản ánh không khí chung của xã hội đương thời. Tác phẩm cũng có tư tưởng rất rõ ràng, hướng đến tư tưởng giáo dục, nhìn nhận vấn đề cho con người một cách rất sát sao.
Chuyện người con gái Nam Xương là một câu chuyện như thế. Trong câu chuyện, kể và tả về nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữ rất tiêu biểu cho thân phận phụ nữ Việt Nam trong xã hội đương thời. Viết về Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã dành nhiều tình cảm trân trọng, sự bênh vực cho người phụ nữ yếu thế. Đó là một trong những điểm cộng, một trong những cái được, cái đi trước thời đại của Nguyễn Dữ. Vì trong thời kỳ ông sống, vấn đề trọng nam khinh nữ vẫn còn khá nặng nề, người có cái nhìn khách quan như ông là rất hiếm.
Vũ Nương là một người con gái đúng với cái nhìn về đạo “tứ đức” công, dung, ngôn, hạnh. Nàng xinh đẹp, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp, chỉ khổ cái xuất thân con nhà nghèo. Nàng thấu hiểu thân phận của mình vô cùng. Trong làng có nhà phú hộ mến cái đức của Vũ Nương mà xin cưới nàng cho con trai họ – Trương Sinh – một con người ít học và có tính gia trưởng. Trong cuộc sống vợ chồng, biết tính chồng hay ghen, nàng hết sức nín nhịn, không bao giờ để đến việc vợ chồng thất hòa. Lấy chồng, niềm vui, nỗi buồn và những mối quan tâm của nàng dồn hết vào chồng và gia đình nhà chồng. Nàng đã phải hy sinh rất nhiều cho hạnh phúc và sự ấm êm trong gia đạo. Nhưng yên ấm chẳng được bao lâu thì chồng nàng phải đi lính. Việc chồng nàng phải tòng quân vì đất nước là điều không thể tránh khỏi, nàng thấm thía sự khổ ải nơi chiến địa vô cùng. Nàng thương và lo lắng cho chồng nàng vô cùng. Nàng chỉ mong chồng mình có ngày trở về, bình yên để gia đình sum vầy là nàng đã thỏa nguyện. Những ngày chồng đi vắng, nàng đương mang thai, một mình gồng gánh những mối lo toan không có chồng giúp sức, nhưng nàng đều vượt qua hết, hơn tất cả nàng chỉ nghĩ cho chồng, lúc nào cũng hướng về sự vất vả và hy sinh của chồng nơi biên ải, mong ngóng những tin tức bình an.
Chồng đi vắng, một mình nàng tảo tần, gánh vác việc gia đình. Chăm sóc mẹ chồng và con thơ. Mẹ chồng nàng vì thương con trai mà đâm ra suy nghĩ, bệnh tật triền miên, nàng âu lo vô cùng. Hết sức chạy chữa thuốc thang lễ bái thần phật. Tuy nhiên, bà cụ vẫn không thể qua khỏi, nàng xót xa vô cùng. Mẹ chồng nàng cũng hiểu thấu tấm chân tình của nàng, ước nguyện cuối cùng của bà là mong muốn nàng dâu thảo hiền của mình sẽ được đền đáp bởi hạnh phúc xứng đáng”Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”
Mẹ chồng cũng bỏ nàng mà đi, một mình nàng phải gánh vác việc gia đình, vất vả vô cùng. Sinh con, nàng vừa phải làm cha, vừa gánh trách nhiệm người mẹ dạy dỗ con cái. Nàng khổ nhọc nhưng cũng thương con thiệt thòi vì không có cha bên cạnh. Nàng nghĩ ra cách chỉ bóng mình vào vách và nói với con đó là cha nó, để nó cảm nhận rằng cha nó luôn luôn bên cạnh nó. Nhưng không ngờ đó lại là nguồn cơn của những bất hạnh sắp cận kề đến với nàng.
|
Assignment
Nguyen Du is one of the famous authors of Vietnamese medieval literature. The work that made his name is Legend of Man Luc. The work is written with elements of fantasy and fantasy, but the overall spirit it brings is imbued with realism, reflecting the general atmosphere of contemporary society. The work also has a very clear ideology, oriented towards educational ideology, looking at problems for people very closely.
The story of the girl Nam Xuong is such a story. In the story, the character Vu Nuong is told and described, a woman who represents the status of Vietnamese women in contemporary society. Writing about Vu Nuong, Nguyen Du devoted a lot of respect and protection to vulnerable women. That is one of the plus points, one of the advantages, one of the things that was ahead of Nguyen Du's time. Because during the time he lived, the issue of favoring men over women was still quite serious, and people with an objective view like him were very rare.
Vu Nuong is a girl who lives up to the vision of the "four virtues" of merit, tolerance, speech, and conduct. She is beautiful, modest, and has a good personality, but only suffers from being from a poor family. She understands her identity extremely well. In the village, there was a rich man who loved Vu Nuong's virtue and asked her to marry their son - Truong Sinh - an uneducated and patriarchal person. In her married life, knowing her husband's jealous nature, she was extremely patient and never let the couple fall out. When she gets married, her joys, sorrows and concerns focus on her husband and his family. She had to sacrifice a lot for happiness and peace in the family. But peace didn't last long when her husband had to join the army. It was inevitable that her husband would have to join the army for the country, and she deeply understood the immense suffering in the battlefield. She loved and worried about her husband extremely. She only hoped that her husband would return one day peacefully so that the family could reunite, and that was her wish. During the days when her husband was away, she was pregnant and had to bear all her worries alone without her husband's help, but she overcame them all. More than anything, she only thought about her husband, always thinking about the hardships and hardships. Her husband's sacrifice at the border, waiting for news of peace.
Her husband was away, so she was alone and took care of the family. Take care of your mother-in-law and young children. Her mother-in-law, out of love for her son, became depressed, constantly sick, and she was extremely worried. Do your best to seek medical treatment and worship Buddha. However, the old lady still could not survive, she was extremely sad. Her mother-in-law also understood her sincerity, her last wish was that her gentle daughter-in-law would be rewarded with the happiness she deserved. It's not that I don't want to wait for my husband and children to come home, but I have to force myself to eat porridge. But life expectancy is limited, fate is difficult to avoid. At night the bell rings, fate ends; A broken body, in danger in the morning and evening, cannot help but bother you. My husband and children are far away, and when my mother dies, I cannot return in time to make amends. In the future, God will help good people, bestow blessings, good lineage, many descendants. I hope that green man will not betray me just like I did not dare to betray my mother.
Her mother-in-law also left her, and she had to take care of the family alone, and it was extremely difficult. When she gives birth, she must both be a father and take on the responsibility of a mother to educate her children. She is miserable but also loves her children who are disadvantaged because they do not have their father by their side. She thought of a way to point her shadow at the wall and tell her child that it was his father, so that he could feel that his father was always by his side. But unexpectedly that was the source of the misfortunes that were about to come to her.
|
Bài làm
Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm hay, đặc sắc, có độ phổ biến với công chúng bạn đọc vô cùng sâu sắc của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm viết về câu chuyện chia xa và hội ngộ của cha con ông Sáu – bé Thu trong hoàn cảnh thời chiến tranh. Người thắt nút và mở nút cho câu chuyện là nhân vật bé Thu, cô bé mới 9 tuổi thôi mà có những suy nghĩ và hành động khiến nhiều người phải nể phục. Em có cách thể hiện tình cảm với người cha của mình cũng vô cùng đặc biệt.
Bé Thu trong câu chuyện có một cuộc sống cho cuộc đời mình trong hoàn cảnh đất nước gặp nạn chiến tranh. Gia đình nhỏ của cô bé với ba, mẹ và bé Thu không được sống trong sự đoàn viên trọn vẹn khi ba em nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, là một người lính với những tận tụy, gian lao, hết mình cống hiến cho Tổ quốc. Được gặp ba lần cuối cùng từ khi còn đỏ hỏn, 8 năm xa cách đằng đẵng, bé Thu mới lại được gặp ba, không biết những cảm xúc nào diễn tả được cho tường tận khi trong 8 năm dài, cho dù tuổi đời còn rất nhỏ nhưng Thu cũng thực sự định hình được tình cảm mình dành cho ba là như thế nào. Và có thể chốt lại bằng những dòng tâm tình rằng, bé Thu yêu ba của mình vô cùng, không chỉ yêu mà còn là tình thương, sự xót xa khi phần nào hiểu được nghịch cảnh của chiến tranh và những gian khổ mà cuộc đời người lính phải chịu. Nhưng bé Thu chỉ dành tình yêu thương đích thực đó cho người ba đích thực của mình mà thôi, nhất định là không ai khác.
Bao nhiêu năm đằng đẵng đợi ba cùng mẹ, ước mơ đau đáu nhất trong tâm can bé Thu là được gặp lại ba, được cảm nhận gần nhất tình cảm cha con. Tuy nhiên, khi giấc mơ trở thành hiên thực, nó lại khiến Thu bất ngờ vô cùng, thay vì sung sướng, hạnh phúc hay mãn nguyện, em sợ hãi và lẩn trốn khỏi ba. Ông Sáu thì nhớ thương con vô cùng, từng giây từng phút đếm ngược mong đến thời gian để gặp con gái của mình. Nhìn thấy con, ông Sáu không khỏi xúc động, tuy nhiên, phản ứng của bé Thu lại là giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…”. Ông Sáu run rẩy vì hạnh phúc khi nhìn thấy đứa con gái bé bỏng của mình còn Thu thì lại: “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi,rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má !”.
Qua việc theo dõi diễn tiến của câu chuyện, bé Thu chứng tỏ rằng hành động kháng cự ngay từ buổi gặp đầu tiên ấy cũng không phải là cảm tính, cho dù mọi người có tham gia góp ý cho em thế nào. Ông Sáu được về nhà trong ba ngày và trong suốt ba ngày ấy, ông chẳng dám đi đâu xa, chỉ muốn ở gần bên em, được yêu thương con, được bù đặp những thiếu thốn tình cảm của con nhưng ông càng lại gần thì bé Thu lại càng đẩy ông ra xa nó, nó phản ứng rất quyết liệt và dữ dội, bé Thu nói trống không với ông Sáu: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” khiến ông Sáu đau lòng tột cùng, khóc không nổi, chỉ khe khẽ lắc đầu cười. Be Thu còn cương quyết không nhận sự giúp đỡ của ba nó khi nó cần chắt nước nồi cơm, vẫn nói trống không, ông Sáu cứ nuôi hy vọng, còn cn gái ông thì dập tắt hy vọng của ông một cách hết sức lạnh lùng
Đỉnh điểm của kịch tính trong câu chuyện là đến bữa ăn, bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Đến nước này cũng là hết sức chịu đựng của minhg, ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ, ông đánh vào mông nó rất đau, bé Thu bực tức, giận dỗi bỏ sang nhà ngoại. Bé Thu ngây thơ nhưng cũng đầy sự cố chấp. Và chính sự cố chấp ấy lại chứng tỏ tình cảm của Thu dành cho ba là thế nào.
Vì thực tế, Thu rất yêu ba, qua tấm hình ba chụp chung với má, nó đã có những hình dung nhất định về ba của mình. Và nó luôn mặc định, người có những đặc điểm như vậy là ba của nó, nhưng nó lại còn quá nhỏ, không thể hiểu được sự thay đổi của thời gian, nó càng ngày càng lớn còn ba nó càng ngày càng già. Và chiến tranh là một kẻ tội đồ vô hình trong dòng chảy hạnh phúc của gia đình bé Thu. Chiến tranh khiến má của ba có hằn vết sẹo, sương gió cuộc đời, sự vất vả của cuộc chiến đấu khiến ba Thu già và gầy đi rất nhiều, chẳng còn là người thanh niên đứng cạnh mẹ em trong bức hình. Chính điều đó làm Thu nghi ngờ về tính chân thực của việc ông Sáu là ba mình. Thu không hề có ý xấu với ông Sáu, nhưng với Thu, việc gọi một người xa lạ là ba lại là chuyện không thể. Thu yêu ba vô cùng, và cũng chỉ dành tình cảm với người ba duy nhất của mình mà thôi. Tình cảm ấy thật sự quá đỗi xúc động và thiên liêng, tình cảm gia đình là cao quý vô cùng.
|
Assignment
The Ivory Comb is one of Nguyen Quang Sang's great, unique, and extremely popular works with the reading public. The work is about the separation and reunion of Mr. Sau's father and his son - little Thu during the wartime situation. The person who tied and unbuttoned the story was the character of little Thu, a 9-year-old girl whose thoughts and actions made many people admire. I have a very special way of expressing my feelings for my father.
Baby Thu in the story has a life for herself in a situation where the country is in war. Her small family with her father, mother and little Thu could not live in complete unity when her father followed the call of the Fatherland and became a soldier with dedication, hard work, and dedication to the cause. Country. Having met her father three last times since she was still young, after 8 long years of separation, little Thu was able to meet her father again. I don't know what feelings can be fully expressed after 8 long years, even though she is still young. very small, but Thu also really shaped the feelings she had for her father. And it can be concluded with the sentiments that little Thu loves her father very much, not only love but also love and grief when she partly understands the adversities of war and the hardships of life. Soldiers must endure. But little Thu only gives that true love to her true father, definitely no one else.
After many years of waiting for her father and mother, the most painful dream in little Thu's heart was to see her father again, to feel the closest feeling between father and daughter. However, when the dream became reality, it surprised Thu greatly. Instead of being happy, happy or satisfied, she was scared and hid from her father. Mr. Sau misses his child very much, counting down every second until the time to meet his daughter. Seeing his child, Mr. Sau couldn't help but feel emotional, however, little Thu's reaction was startled, eyes wide open... bewildered, strange...". Mr. Sau trembled with happiness when he saw his little daughter and Thu said: "The girl felt so strange, her face suddenly turned pale, then she ran away and screamed: Mom! Mom!”.
By watching the story progress, little Thu proves that the act of resistance right from that first meeting was not emotional, no matter how much people contributed to her suggestions. Mr. Sau was allowed to go home for three days and during those three days, he did not dare to go anywhere far, he just wanted to be close to his child, to love his child, to make up for his child's lack of love, but the closer he got, the more Little Thu pushed him even further away from her. She reacted very fiercely and violently. Little Thu said blankly to Mr. Sau: "Go in and eat!"; “The rice is cooked!”; "I called out but people didn't listen." The two words "people" made Mr. Sau extremely heartbroken. He couldn't cry. He only gently shook his head and smiled. Be Thu was still determined not to accept her father's help when she needed to drain the rice cooker, still saying it was empty. Mr. Sau kept holding on to hope, while his daughter coldly extinguished his hope.
The dramatic climax in the story is when at mealtime, little Thu threw away the fish eggs that Mr. Sau had picked for her, causing the rice to splash. At this point, Mr. Sau could no longer stand the cold attitude of the daughter he loved so much. He got angry and without thinking, he hit her butt. It was very painful, little Thu was upset, angry and left to go to her grandmother's house. Baby Thu is innocent but also full of stubbornness. And it is that stubbornness that proves Thu's feelings for her father.
Because in reality, Thu loves her father very much. Through the photo of her father taken with her mother, she has certain images of her father. And he always assumes that the person with such characteristics is his father, but he is still too young and cannot understand the changes of time. He is getting bigger and bigger and his father is getting older and older. And war is an invisible sinner in the happy flow of Thu's family. The war left her father with scars on her cheeks, the winds of life, and the hardships of the battle made Thu's father a lot older and thinner, no longer the young man standing next to her mother in the photo. That made Thu doubt the authenticity of Mr. Sau being her father. Thu has no bad intentions towards Mr. Sau, but for Thu, calling a stranger dad is impossible. Thu loves her father very much, and only has feelings for her only father. That feeling is truly so touching and sacred, family love is extremely noble.
|
Bài làm
Nam Cao là một trong những nhà văn với bút lực rất chắc tay của nền văn chương Việt Nam hiện đại. Văn chương Nam Cao bám sát hiện thực, thể hiện cái nhìn đầy nhân văn, nhân đạo đối với đời sống con người của nhà văn. Lão Hạc là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông viết về cảnh ngội của người nông dân trong xã hội cũ. Người nông dân trong xã hội cũ của Việt Nam ta có hoàn cảnh đáng thương vô cùng nhưng vẫn luôn ngời sáng tinh thần và đạo đức trong sáng.
Cuộc đời Lão Hạc vốn đã rất đáng thương, vợ lão bỏ lão đi từ sớm, một mình lão gà trống nuôi con, nhà chỉ có hai cha con dựa nhau mà sống. Thương con, sợ con phải gặp tình cảnh vợ ghẻ con chồng mà ông quyết định ở vậy nuôi con, không đi bước nữa. Ông lão là người thật thà, chăm chỉ, chịu khó làm ăn vô cùng nhưng cuộc sống của ông với đại đa số những người nông dân Việt Nam thời kỳ đó thật cực chẳng đã vô cùng. Nào những gánh nặng sưu thuế đè nặng rồi mất mùa đói kém khiến cái cảnh nghèo cứ hoàn nghèo. Gia đình hai cha con nhà ông còn rơi vào cảnh cùng quẫn hơn là không đủ tiền cho con trai cưới vợ. Bị nhà gái khước từ, mặc cảm trước hoàn cảnh, người con trai của ông lão bỏ nhà ra đi. Điều này chính là sự day dứt lớn lao nhất của ông, ông thương con trai của mình vô cùng, đau đớn khi mang thân phận người làm cha mà để cho con trai của mình phải sống cùng quẫn như vậy. Từ ngày con trai ra đi, cuộc sống của ông có nhiều sự xáo trộn. Con người ông có nhiều sự trầm lặng.
Ông quyết lòng sống kham khổ để giữ của cho con trai. Ăn không dám ăn, mặc cũng không dám mặc, nhất nhất mọi việc làm và nghĩ suy đều hướng về con trai. Ông sống một thân một mình, có một con chó làm bạn, ông đặt tên cho nó là cậu Vàng, ông thương quý nó như người bạn tốt nhất của cuộc đời mình, có cái gì ăn cũng chia sẻ với nó, có chuyện gì cũng chia sẻ cùng nó, dành sự yêu thương cho nó rất nhiều.
Cuộc sống của ông tưởng chừng coi như cũng không đến nỗi nào, nhưng sau một vụ mất mùa, cuộc sống của ông có nhiều sự đảo lộn. Rau cháo cũng phải đi bòn từng bữa, khổ sở vô cùng. Nuôi thân không đủ, còn sợ ảnh hưởng đến chút tài sản ông dành bòng cho con, bấn quá, ông đành liều, bán cậu Vàng đi, điều này khiến ông khổ sở, day dứt vô cùng. Cậu Vàng không chỉ là một người bạn mà còn là kỷ vật sót lại duy nhất của con trai ông, phải bán đi, ông như chẳng còn sự dựa dẫm, đau đớn, xót xa vô cùng. Ông tự trách mình vì thấy xấu hổ, nên nông nỗi nào mà ông phải bán cả con chó Vàng đi, cái con chó mà chỉ mới ngày hôm qua thôi, vẫn là người bạn duy nhất của ông, cùng ông chia ngọt sẻ bùi, cùng ông ra vào sớm tối. Nhìn vào mắt con chó, ông thấy tội lỗi vô cùng. Cuộc đời ông sau khi bán con chó tưởng sẽ tốt đẹp hơn, ai ngờ bớt được miệng ăn nhưng trong lòng lúc bào cũng như có tảng đá đè nặng.
Không còn con chó Vàng, chẳng còn ai bầu bạn tâm sự, ông lão tìm đến ông giáo bày tỏ nỗi lòng của mình. Cực chẳng đã ông mới phải đưa ra quyết định đó, lòng ông ngổn ngang bộn bề bao nhiêu sự sầu muộn. Giờ đây đến mục đích sống chờ con trai của ông cũng chẳng còn vẹn tròn như trước nữa.
Nhưng có một điều không ai ngờ đến, đó là sự khủng hoảng trong lòng của ông càng ngày càng to lớn, khiến ông đau đớn tột cùng, để rồi quyết định kết thúc sự sống của bản thân bằng một cách cũng không thể đau đớn hơn. Đó là đi xin bả chó để tự tử. Ông sợ rồi mình sẽ vì cái nghèo, cái đói mà làm thêm nhiều điều liều lĩnh, phải bán con chó vàng đi với ông đã là quá đủ, ông không muốn mình mắc tiếp sai lầm nữa. Kết thúc cuộc đời bi kịch tại đây.
|
Assignment
Nam Cao is one of the writers with a very strong pen in modern Vietnamese literature. Nam Cao's literature closely follows reality, expressing the writer's humane and humane view of human life. Old Hac is one of his famous works about the plight of farmers in the old society. Farmers in our old Vietnamese society had extremely pitiful circumstances but were always bright in spirit and pure in morality.
Old Hac's life was already very pitiful, his wife left him early, the old rooster raised his children alone, and the family only had father and son living together. Loving his child, afraid that he would encounter a step-wife situation, he decided to stay and raise the child and not move on. The old man was an honest, hard-working, and hard-working person, but his life compared to the majority of Vietnamese farmers at that time was extremely difficult. The heavy burden of tax collection and poor harvests, famine, make poverty worse. His father and son's family was in even more dire straits than not having enough money for their son to get married. Rejected by the bride's family, feeling guilty about the situation, the old man's son left home. This was his greatest torment. He loved his son so much and was in pain as a father and allowed his son to live in such misery. Since his son left, his life has been in turmoil. He has a lot of quietness in his personality.
He was determined to live a miserable life to keep his son's wealth. I don't dare to eat, I don't dare to wear anything, most of all my actions and thoughts are directed towards my son. He lives alone, has a dog as his friend, he named it Mr. Vang, he loves it like the best friend of his life, he shares everything he eats with him, no matter what happens. also share with it, give it a lot of love.
His life seemed not so bad, but after a crop failure, his life had many changes. Vegetable porridge also has to be harvested every meal, which is extremely miserable. Not having enough to support himself, he was also afraid that it would affect the few assets he had saved for his children, so he had to take the risk and sell Mr. Vang away, this made him extremely miserable and tormented. Uncle Vang was not only a friend but also the only remaining souvenir of his son. Having to sell it made him feel like he no longer had any reliance, pain and sadness. He blamed himself for feeling ashamed, so why did he have to sell the Golden Dog, the dog that just yesterday, was still his only friend, with whom he shared joys and sorrows. with him in and out early and in the evening. Looking into the dog's eyes, he felt extremely guilty. After selling the dog, he thought his life would be better. Who would have thought that he would have fewer mouths to feed, but his heart felt like there was a heavy rock weighing him down.
Without the Golden Dog, without anyone to confide in, the old man went to the teacher to express his feelings. It was extremely unfortunate that he had to make that decision, his heart was filled with so much sadness. Now the purpose of living and waiting for his son is no longer as fulfilling as before.
But one thing no one expected was that the crisis in his heart became increasingly greater, causing him extreme pain, and then he decided to end his life in a way that was not painful. than. That is asking for dog bait to commit suicide. He was afraid that because of poverty and hunger, he would do more reckless things. Selling the yellow dog was enough for him. He didn't want to make the same mistake again. End your tragic life here.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.