vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Bài làm Có thể nói xã hội ngày càng phát triển thì dường như tất cả những nhu cầu của con người trở nên cao hơn, từ “ăn no mặc ấm” đã được nâng dần lên thành“ăn ngon mặc đẹp”. Cũng vì lẽ đó mà nhất là các bạn trẻ cho rằng, chúng ta phải biết ăn mặc sành điệu, chơi sành điệu, sống sành điệu để bắt kịp với nhịp sống hiện đại ngày nay. Và cũng phải nói rằng chính sự sành điệu ởcách ăn – mặc – chơi liệu có đúng với ý nghĩa của nó? Vậy, lối sống sành điệu được hiểu như thế nào? Lối sống sành điệu đó chính là từ để chỉ những người vừa có kiến thức và họ lại như đã có những hiểu biết về cách ăn mặc. Hơn nữa họ lại biết cách phối hợp đồ một cách tinh tế và phù hợp nhất với bản thân người mặc. Thực tế hiện nay thì với đa số giới trẻ ngày nay, thì từ “sành điệu” được gán cho những thứ mới mẻ, những thứ thật lạ lẫm và những điều mà ở tuổi mình không ai dám làm. Ta như cũng đã thấy được sự ăn mặc đẹp sẽ giúp cho bạn tự tin hơn vào ngoại hình của mình, cũng như đã giúp bạn có được thiện cảm của mọi người ngay cả những người chỉ mới gặp mặt. Ông cha ta ngày trước cũng đã nói một câu rất đúng đó là “ Người đẹp vì lụa”. Việc ăn mặc thì phải phù hợp với bản thân, với hoàn cảnh sẽ và khi có sự phù hợp thì sẽ khiến chúng ta tự tin thể hiện bản thân. Điều đó thật dễ nhận thấy nếu như khi đi chơi với bạn bè thì ta không nên mặc vest điều này sẽ gây ra những sự khó hiểu mà trong trường hợp này chúng ta nên mặc những quần áo năng động, thoải mái, dễ hoạt động, hoặc chính là việc bạn đi tiệc thì bạn không nên mặc váy đi giày thể thao được nó sẽ không hợp lý… Có thể nhận thấy mặc dù ngoại hình không phải là tất cả, nhưng dường như cũng khá quan trọng và cho thấy bạn là một người thông minh, tinh tế. Có thể thấy được các bạn trẻ hiện nay thường cho rằng, sành điệu tức là nhuộm tóc, dùng quần áo đắt tiền, hay cả hút thuốc. Và giới trẻ cho rằng khi làm những điều ấy để khẳng định bản thân, và cho dù những thứ ấy chẳng phù hợp với lứa tuổi và bản thân mình. Ta có thể thấy được những bộ cánh lòe loẹt, những khuôn mặt trẻ con nhưng lại rất đầy son phấn đã khiến các bạn mất đi nét hồn nhiên của tuổi học trò vốn được. Và có thể thấy được chính những nhận thức sai lầm đã khiến các bạn a dua theo chúng bạn không tốt, và điều đó dẫn đến những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Và chính vì thế thì “Sành điệu” không phải là như vậy.
Assignment It can be said that as society develops more and more, it seems that all human needs become higher, from "eating well and wearing warm clothing" has gradually upgraded to "eating well and dressing well". For that reason, especially young people, we must know how to dress stylishly, play stylishly, and live stylishly to keep up with today's modern pace of life. And it must also be said that being stylish in the way you eat - dress - play is true to its meaning? So, how is a stylish lifestyle understood? Stylish lifestyle is the word for people who have both knowledge and they seem to have knowledge about how to dress. Furthermore, they know how to coordinate clothes in a subtle way that best suits the wearer's personality. In fact, for most young people today, the word "trendy" is assigned to new things, strange things and things that no one at their age dares to do. We have also seen that dressing well will help you be more confident in your appearance, as well as help you gain the sympathy of everyone, even those you have just met. Our ancestors also said a very true sentence in the past: "Beauty is because of silk". Dressing must suit ourselves and the situation, and when appropriate, it will make us confident in expressing ourselves. It's easy to see that if when going out with friends, we should not wear a vest. This will cause confusion. In this case, we should wear active, comfortable, and easy-to-move clothes. , or if you go to a party, you should not wear a dress and sneakers, it will not be appropriate... It can be seen that although appearance is not everything, it seems to be quite important and shows that you are is an intelligent, sophisticated person. It can be seen that today's young people often think that being trendy means dying their hair, wearing expensive clothes, or even smoking. And young people think that doing those things is to assert themselves, even though those things are not appropriate for their age and themselves. We can see that the flashy outfits and childish faces full of makeup have made you lose the innocence you once had as a student. And it can be seen that it was the wrong perceptions that caused you to follow them in a bad way, and that led to unfortunate consequences. And that's why "Stylish" is not like that.
Bài làm Người xưa cũng đã từng có câu “người đẹp vì lụa” có thể nói rằng chính điều đó khẳng định vai trò của trang phục vô cùng quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp, cũng như một phần nhân cách con người. Xã hội ngày nay phát triển, và dường như các vấn đề thời trang càng trở nên quan trọng đối với đời sống của mỗi người, nhất là giới trẻ. Con người như muốn tồn tại thì dường như nhu cầu cơm ăn, áo mặc là nhu cầu vô cùng cần thiết. Câu nói “Ăn cho mình, mặc cho người” là một câu nói như để nhắc nhớ về trang phục của mỗi chúng ta. Vế một “Ăn cho mình” có nghĩa là ăn để duy trì sự sống, do đó ăn trước hết là vì nhu cầu của chính mình. Còn vế thứ hai “mặc cho người” thì điều này có nghĩa là trang phục trên người mình nhưng lại để cho người khác ngắm nhìn, thậm chí có thể làm khuôn mẫu cho những người xung quanh học tập. Có thể nói rằng mặc đẹp hiện nay không chỉ làm đẹp cho bản thân mà còn đem đến sự say mê, thích thú tạo nên thiện cảm cho người khác. Và đồng thời như lại còn thể hiện sự tôn trọng bản thân và mọi người xung quanh. Có lẽ cũng chính vì thế mà dân gian có câu “ăn cho mình, mặc cho người”. Nhưng, dường như việc mặc cũng không hẳn là cho người, vì mặc trước hết là cho chính mình, mặc để bảo vệ cơ thể, để làm đẹp cho bản thân. Nếu một người mặc đẹp bao giờ cũng được người khác ngưỡng mộ. Nó cũng như đãthể hiện gu thẩm mỹ và trình độ văn hóa của mỗi người, do đó chúng ta cần nên hiểu mặc cho mình mà còn cho mọi người. Những vấn đề đặt ra là phải mặc sao cho đẹp, sang trọng, đứng đắn, đúng với điều kiện, hoàn cảnh làm việc. Và điều quan trọng hơn cả chính là mặc thế nào để hòa vào lối sống cộng đồng, người mặc bộ trang phục đó như làm đẹp cùng cộng đồng, xã hội và dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại. Hiện nay, có thể nói rằng giới trẻ là đối tượng nhạy bén thời trang nhất, nó là phần không thể thiếu đối với cuộc sống của họ. Nhưng dường như thời trang của đối tượng này vẫn còn hay bị đưa ra tranh cãi. Chính với những phong cách thời trang hài hòa, phù hợp giới tính rồi thì độ tuổi và hoàn cảnh giao tiếp thường được mọi người ưa chuộng, được hưởng ứng, tán đồng. Và việc nếu như có phong cách thời trang ăn mặc ấn tượng, bắt chước những thần tượng của mình, gây sự chú ý, làm nổi bật cá tính.
Assignment The ancients also had the saying "beauty is made of silk", it can be said that this confirms the extremely important role of clothing in expressing beauty, as well as a part of human personality. Today's society is developing, and it seems that fashion issues are becoming more important in the lives of everyone, especially young people. As humans want to survive, it seems that the need for food and clothing is an extremely necessary need. The saying "Eat for yourself, dress for others" is a saying that reminds us of each of us's clothes. Clause one "Eat for yourself" means eating to maintain life, so eating is first of all for your own needs. As for the second part, "dressing for others", this means wearing clothes on one's body but for others to see, and can even be a model for those around to learn. It can be said that dressing well today not only beautifies yourself but also brings passion and excitement, creating sympathy for others. And at the same time, it also shows respect for yourself and everyone around you. Perhaps that's why people have the saying "eat for yourself, dress for others". But, it seems that wearing is not really for other people, because wearing is first of all for yourself, wearing to protect the body, to beautify yourself. If a person dresses well, others will always admire him. It also shows each person's aesthetic taste and cultural level, so we need to understand it for ourselves but also for everyone. The issues are to dress beautifully, elegantly, properly, and in accordance with working conditions and circumstances. And the most important thing is how to dress to blend into the community lifestyle. The person wearing that outfit seems to be beautifying the community, society and nation, in accordance with the trends of the times. Nowadays, it can be said that young people are the most sensitive to fashion, it is an indispensable part of their lives. But it seems that this subject's fashion is still controversial. With harmonious fashion styles that are suitable for gender, age and communication situations are often favored, responded to, and approved by everyone. And if you have an impressive fashion style, imitate your idols, attract attention, and highlight your personality.
Bài làm Nhà danh ngôn Benjamin Franklin từng nói: “ Nghị lực và bền bỉ có thể chinh phục mọi thứ”. Đúng thế, mỗi con người trong cuộc sống hàng ngày luôn gặp phải những vấn đề khó khăn, bắt buộc ta phải đối mặt với nó. Khi chúng ta cố gắng vượt qua nó chúng ta sẽ bước đến được con đường thành công. Nhưng để vượt qua nó chúng ta phải có ý chí thật kiên cường, dũng cảm. Vậy nghị lực là gì? Nghị lực là một năng lực tinh thần, là tài sản lớn nhất và vô giá mà cuộc sống ban tặng. Ý chí, nghị lực luôn là người bạn cùng bước với ta đến cuối con đường. Sống ở đời, cuộc sống của mỗi người là muôn màu, muôn vẻ. Có người được sống trong nhung lụa thì cũng có người phải chịu số phận tủi cực, bất hạnh ngay từ khi sinh ra. Những người từ khi sinh ra số phận đã không được may mắn như những người khác họ đã rất buồn nhưng trong họ luôn cháy lên một ngọn lửa, niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Họ không chấp nhận cái số phận mà ông trời sắp đặt cho mình. Họ đặt ra thử thách cho bản thân mình để vượt qua và vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong xã hội hiện đại hiện nay cũng có rất nhiều tâm gương để mọi người học tập, chẳng hạn như anh Nguyễn Ngọc Kí từ khi sinh ra anh đã bị mắc bệnh tàn tật, ai cũng tưởng chừng những người bị bệnh như anh sẽ mất hết niềm tin vào cuộc sống, nhưng do lòng ham học của chính mình dù không có tay thì anh vẫn có chân anh vẫn có thể viết bằng chân. Hay là những người mắc những căn bệnh hiểm nghèo không thể chữa được họ vẫn luôn sống vui vẻ không một chút lo lắng trên môi họ luôn là những nụ cười ấm áp, bởi họ tin rằng biết đâu sẽ có một phép màu, biết đâu mình sẽ vượt qua được căn bệnh này hay dù cho mình có chết đi mình cũng phải sống thật có ý nghĩa trong những phút giây cuối cuộc đời để họ chẳng bao giờ hối hận cả. Và có một tấm gương sáng không thể không thể không kể đến đó chính là anh chàng Nick, mặc dù bị cụt cả hai tay hai chân không thể đi lại nhưng anh vẫn cố gắng vượt qua số phận bằng nghị lực của mình. Anh luôn nở nụ cười trên môi và cũng chính là người truyền cảm hứng cho mọi người bằng những bài văn, câu chuyện về cuộc đời mình. Ý chí, nghị lực có ý nghĩa rất quan trọng với con người trong cuộc sống. Nó tạo cho ta bản lĩnh và lòng dũng cảm, dám đương đầu với những khó khăn thử thách, giúp ta dám nghĩ, dám làm, dám sống. Ý chí, nghị lực còn giúp chúng ta khắc phục những khó khăn, rèn cho ta sự tự tin đấy chúng ta tiến lên phía trước, vững tin vào một tương lai. Giúp con người ta luôn tự tin vào bản thân, tự tin với những việc mình làm. Dù thất bại vẫn không bỏ cuộc, nản chí.
Assignment The famous writer Benjamin Franklin once said: "Energy and perseverance can conquer everything." That's right, every person in everyday life always encounters difficult problems, forcing us to face them. When we try to overcome it, we will get on the path to success. But to overcome it we must have strong will and courage. So what is willpower? Willpower is a mental ability, the greatest and priceless asset that life gives. Willpower and determination are always our friends who walk with us to the end of the road. Living in life, each person's life is colorful and diverse. Some people live in luxury, while others suffer a fate of misery and misfortune right from birth. People who from birth have not been as lucky as others. They are very sad, but within them there is always a fire burning, faith in a bright future. They do not accept the fate that God has arranged for them. They set challenges for themselves to overcome and reach a better life. In today's modern society, there are also many examples for people to learn from, such as Mr. Nguyen Ngoc Ki. Since he was born, he has had a disability. Everyone thinks that sick people like him will die. He lost all faith in life, but due to his own desire to learn, even though he had no arms, he still had legs and could still write with his feet. Or people with serious diseases that cannot be cured still live happily without any worries, always with warm smiles on their lips, because they believe that maybe there will be a miracle, who knows? Will I overcome this disease or even if I die, I must live meaningfully in the last moments of my life so that they will never regret it. And there is a shining example that cannot be ignored: Nick. Even though he had both arms and legs amputated and could not walk, he still tried to overcome his fate with his determination. He always has a smile on his face and is also the one who inspires people with his essays and stories about his life. Willpower and determination are very important to people in life. It gives us bravery and courage, dare to face difficulties and challenges, helps us dare to think, dare to do, dare to live. Willpower and determination also help us overcome difficulties and give us confidence so we can move forward, firmly believing in a future. Help people always be confident in themselves and confident in what they do. Even if you fail, don't give up or get discouraged.
Bài làm Ngày nay, nước ta đang trên đà hội nhập với thế giới, có rất nhiều các vấn đề nhức nhối và phức tạp theo đó mà phát triển. Trong số đó vấn đề nan giải nhất là biến đổi khí hậu, không chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đang phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng của biến đổi khí hậu. Khí hậu là nguồn sống, là bầu không khí chúng ta hít thở hàng ngày, nhưng nó đang bị phá hủy một cách nghiêm trọng, nếu chúng ta không biết bảo vệ khí hậu một cách an toàn thì sự bình yên của mọi người cũng như chính bạn sẽ bị đe doạ, chính con người là người phá hoại nguồn sống của mình. Vậy chúng ta bảo vệ môi trường như thế nào để khí hậu không bị biến đổi, để cuộc sống luôn phát triển một cách trong lành nhất. Khí hậu nước ta đang diễn biến một cách phức tạp, mưa gió thất thường, mùa đông ngắn, mùa hè kéo dài rất lâu, nắng gắt với thời gian dài và nhiệt độ càng ngày càng tăng. Khí độc trong không khí ngày càng tăng, hiệu ứng nha kính với số lượng khí CO2 trong không khí vượt quá mức cho phép. Nhiều trận lũ lụt kéo dài và mạnh đã phá hoại đi cuộc sống của người dân các vùng biển. Theo thống kê thì nhiệt độ hàng năm tăng lên, trái đất đang nóng lên, băng ở hai cực tan ra làm nước biển dâng cao gây nhiều thiệt hại. Nguyên nhân là do con người từ khi phát triển công nghiệp càng ngày càng sử dụng nhiều năng lượng, chủ yếu từ nguồn nguyên liệu hóa thạch qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Xe cộ thải ra môi trường hàng tấn khí thải hàng ngày làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Vấn đề quan trọng nữa là do ô nhiễm môi trường trầm trọng làm biến đổi lớp khí quyển dẫn đến biến đổi khí hậu.
Assignment Today, our country is on the verge of integrating with the world, and there are many painful and complicated problems that develop accordingly. Among them, the most difficult problem is climate change. Not only in Vietnam but also all countries in the world are suffering from the serious consequences of climate change. Climate is the source of life, the atmosphere we breathe every day, but it is being seriously destroyed. If we do not know how to protect the climate safely, everyone's peace will also be affected. it is you who will be threatened, it is humans who destroy their source of life. So how do we protect the environment so that the climate does not change, so that life always develops in the healthiest way? Our country's climate is developing in a complicated way, with erratic rain and wind, short winters, very long summers, intense sunshine for long periods of time and ever-increasing temperatures. Toxic gases in the air are increasing, causing cataract effects with the amount of CO2 in the air exceeding the permissible level. Many long and strong floods have destroyed the lives of people in coastal areas. According to statistics, the annual temperature increases, the earth is warming, the ice at the poles is melting, causing sea levels to rise and causing a lot of damage. The reason is that since industrial development, humans have increasingly used more and more energy, mainly from fossil fuels, thereby releasing more and more gases into the atmosphere that cause the greenhouse effect. , leading to an increase in the earth's temperature. Vehicles release tons of exhaust gases into the environment every day, seriously polluting the environment. Another important issue is that serious environmental pollution changes the atmosphere, leading to climate change.
Bài làm Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, ai cũng sẽ trải qua vui, buồn, hạnh phúc và khó khăn gian khổ. Mỗi điều đó sẽ mang lại những trải nghiệm và kinh nghiệm quý báu trên đường đời của mỗi con người. Không một ai sinh ra có thể chọn cho mình bố mẹ hay hoàn cảnh sống như thế nào cả, có thể sinh ra bình thường đã là một hạnh phúc không gì bằng, nhưng không may mắn cho những người mới sinh ra đã mồ côi, mới sinh ra đã khuyết tật đã không nhìn thấy bầu trời. Nhưng trong họ luôn khao khát được sống hạnh phúc và nghị lực sống cháy mãnh liệt trong lòng họ giúp cho con người thực hiện được niềm ước mơ hoài bão. Vậy nghi lực là gì? Nghị lực là một năng lực tinh thần, tác động đến suy nghĩ cách làm việc của mỗi người, nó không có sẵn mà phải qua tôi luyện mới có được. Nghị lực sống là động lực, là niềm tin, sức mạnh giúp chúng ta vượt qua biết bao những khó khăn thử thách trong cuộc sống của mình, động lực giúp ích cho cuộc sống, con người cũng như tao nên nhiều giá trị to lớn cho cuộc sống của mình. Cuộc sống hiện nay làm con người ta bị u mê, luôn đánh mất chính mình, luôn lùi bước trước những khó khăn phía trước vì nghi bản thân không thể vượt qua, vì vậy mỗi người cần rèn luyện cho mình nghe lực sống là một cho những việc quan trọng trong cuộc sống của mỗi chúng ta để khi có bất kì thử thách nào ta cũng luôn sẵn sàng đối mặt, sẵn sàng vượt qua. Nghị lực sống giúp chúng ta có thêm nhiều niềm tin, tự bản thân chúng ta sẽ thắp nên những ngọn lửa hi vọng và tạo nó thành một sức mạnh ghê gớm để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống này. Nghị lực sống là phẩm chất quan trọng để giúp chúng ta có được nhiều giá trị, ý nghĩa trong cuộc sống của mình, nghị lực giúp ta có thêm nhiều sức mạnh để vượt qua khó khăn, giúp chúng ta có thêm nhiều động lực, vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Nghị lực sống rất quan trọng với mỗi người nó giúp thực hiện ước mơ hoài bão. Có những con người bình thường họ có những ước vong cao trong xã hội, vượt qua những khó khăn để đặt được ước mơ đó rất khó khăn. Với người bình thường đã khó khăn như thế nhưng Nguyễn Ngọc Kí không hề lùi bước trước số phận, cố gắng viết bằng chân, cố sống vui vẻ và có ích như người bình thường và cuối cùng ông cũng thành nhà giáo ưu tú. Hay như cậu bé Hà Văn Tài, sinh ra đã không may mắn, thân thể bé không có đôi tay, chỉ có đôi chân bên ngắn bên dài. Chỉ có ba ngoại là người thân duy nhất trên đời, cậu rất nghe lời, chăm chỉ, chịu khó. Không có đôi tay em sử dụng đôi chân nhỏ nhắn để làm việc, và luyện từng nét chữ nắn nót. Lê Minh Châu, chàng trai 25 tuổi lớn lên tại làng Hòa Bình đã thực hiện thành công ước mơ chay bỏng trở thành hoa sĩ và nha thiết kế thời trang để đưa sản phẩm của mình ra thế giới. Dù cơ thể không trọn vẹn nhưng chàng trái nghi lực này đã vô cùng tai năng, đặc biệt là thông thạo tiếng anh, tiếng Nhật. Ngưỡng mộ hơn khi cụt cả hai chân, Đi lại khó khăn, thế nhưng chàng trai dung cảm Hoàng Lê Anh Tú vẫn kiên cường vươn lên. Hiện tại anh đang đam nhiệm vai trò công nhân bắn nhau. Toàn những tấm gương đáng để ta học hỏi, thua người bình thường về các bộ phận nhưng hơn hẳn về tri tuệ. Họ luôn phấn đấu tìm ra cho mình những niềm tin sống và sống bằng khả năng của mình. Tuy vậy, có rất nhiều người không có nghị lực, ỉ lại vào người khác, luôn chấp nhận những gì đã có. Sinh ra trong một gia đình giàu có, họ chỉ dựa vào gia đình mình, tiêu tiền của bố mẹ mà không hề cố gắng nỗ lực vào bản thân. Điều đó đáng bị phê phán và cảnh tỉnh những con người như thế để họ có thể tìm nghi lực của bản thân.
Assignment In each of our lives, we will experience joy, sadness, happiness and hardship. Each of these things will bring valuable experiences and experiences on each person's life path. No one who is born can choose their parents or their living situation. Being able to be born normally is an unparalleled happiness, but those who are born orphans are unlucky. He was born with a disability and couldn't see the sky. But they always desire to live happily and the energy to live burns strongly in their hearts to help people realize their dreams and ambitions. So what is doubt? Willpower is a mental ability that affects how each person thinks and works. It is not available but must be acquired through practice. The will to live is the motivation, the belief, the strength that helps us overcome many difficulties and challenges in our lives, the motivation that helps life and people as well as creates many great values. for your life. Today's life makes people confused, always losing themselves, always stepping back from the difficulties ahead because they doubt they can overcome them, so each person needs to train themselves to hear that the force of life is one thing. for the important things in each of our lives so that when there are any challenges, we are always ready to face them and ready to overcome them. The will to live helps us have more faith, we ourselves will light the flames of hope and create a formidable strength to overcome all difficulties in this life. The will to live is an important quality that helps us gain more value and meaning in our lives. Willpower helps us have more strength to overcome difficulties, helps us have more motivation, overcome difficulties and challenges in life. The will to live is very important for each person, it helps realize dreams and ambitions. There are ordinary people who have high aspirations in society, and overcoming difficulties to achieve that dream is very difficult. It was so difficult for ordinary people, but Nguyen Ngoc Ki never backed down from fate, tried to write with his feet, tried to live happily and usefully like ordinary people and in the end he became an excellent teacher. Or like the boy Ha Van Tai, born unlucky, his body has no arms, only short legs and long legs. With his maternal father as his only relative in the world, he is very obedient, hard-working, and industrious. Without hands, I use my small feet to work, and practice each neat stroke. Le Minh Chau, a 25-year-old boy who grew up in Hoa Binh village, has successfully fulfilled his childhood dream of becoming a flower artist and fashion designer to bring his products to the world. Although his body is not perfect, this talented guy is extremely talented, especially fluent in English and Japanese. I admire him even more when he has both legs amputated and has difficulty walking, but brave young man Hoang Le Anh Tu still perseveres. Currently, he is taking on the role of a shooting worker. All are examples worth learning from, inferior to normal people in parts but superior in intelligence. They always strive to find their own beliefs and live according to their abilities. However, there are many people who have no willpower, depend on others, and always accept what they have. Born into a rich family, they only rely on their family, spending their parents' money without making any effort on themselves. That deserves criticism and a warning to such people so they can find their own doubts.
Bài làm Chúng ta thật tự hào khi là người con mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, làm rạng ngời lên truyền thống dân tộc vốn có từ bao đời, trong đó có thể nói biểu hiện rõ nhất là tình thương con người trong cùng một cộng đồng luôn là một truyền thống tốt, đó chẳng khó tìm trong cuộc sống, những tình cảm tốt đẹp, gắn kết những mảnh đời đau khổ nối với nhau bởi khoảng cách từ trái tim đến trái tim, là sự cảm thông,tình cảm tuyệt vời của mỗi người dành cho người khác, giúp cho cộng đồng tạo thành khối đại đoàn kết to lớn, xã hội càng vững mạnh, bền chặt. Lòng nhân ái chính chỉ đơn giản với khái niệm là tình yêu thương của con người với nhau. Sâu hơn, đó là cách mà chúng ta trao đi yêu thương đối với người khác. Nhưng trên tất cả chính là cái giá trị mà nó mang lại không thể nào cao quý hơn, vì đơn thuần tình cảm đó xuất phát từ trái tim mỗi người, không ép buộc, không cưỡng cầu, không đòi hỏi phải nhận lại những gì, những con người có biểu hiện của tình nhân ái họ sẽ luôn giữ cái cảm nhận lòng mình luôn thanh thản, an yên khi làm được điều tốt cho người khác. Nó thiết thực đến mức, xuất hiện liên tục trong chính cuộc sống thực tại của mỗi chúng ta, qua các hành động, cử chỉ, lời nói xuất phát từ con tim ấm nồng nhiệt, hay đôi khi không cần ngôn ngữ để diễn tả, chỉ cần thấu hiểu được cảm xúc vô bờ bến người ta dành cho nhau. Chỉ cần là điều giản dị nhưng vô cùng quý báu đã khiến cho thế giới trở nên ấm áp hơn bao nhiêu. Cuộc sống này không phải lúc nào cũng bằng phẳng với mọi người,chúng ta sẽ có những lúc cảm thấy tuyệt vọng, buồn chán, đau khổ vì những khó khăn trong cuộc sống, nhưng đâu phải ai cũng có thể mạnh mẽ đứng dậy sau mỗi lần vấp, những bước đi thất bại trên con đường cuộc đời dài, khi ấy chính lòng nhân ái của người khác có lẽ chính là niềm hi vọng, là một sức mạnh, điểm tựa cho những con người đáng thương đó, tiếp thêm cho họ nghị lực vượt qua, giúp đỡ họ cũng chính là giúp đỡ chúng ta, vì ai cũng biết rằng chúng ta sống cùng một cộng đồng, cùng một dòng máu, cùng là một cá thể nhỏ bé để tạo thành một sự thống nhất của xã hội, chứ không phải ai hoàn hảo hết, có khi mình mạnh ở điểm này, nhưng yếu ở điểm kia, sẽ có người bù trừ, chỉ ra, giúp đỡ mình, thì tại sao chúng ta lại có ý nghĩ muốn sống tách biệt khỏi xã hội, chối bỏ tuân theo cái đạo lý tốt đẹp về lòng nhân ái cao thượng của cha ông.Vì vậy, trong thực tâm mỗi người cần phải nuôi dưỡng được trong mình một tâm hồn toàn vẹn, với trách nhiệm và thái độ sống tích cực cao, mới mong xây dựng được một xã hội trọn vẹn, phát triển toàn diện. Để xây dựng được nền tảng của lòng nhân ái trong mỗi người thật không phải là điều khó khăn gì, vì chỉ cần trái tim, đầu óc bạn còn hoạt động, bạn có thể suy nghĩ được những điều giúp cho bản thân phát triển, nhưng sống ích kỉ đâu phải là cái hay, cái cần mà một con người tốt hướng đến, hãy sống sao cho xứng đáng, vì bộ não và trái tim của bạn có khả năng nhiều hơn bạn nghĩ, nó có một sức mạnh, sức mạnh đó dù tưởng chừng như đơn giản nhưng đã là cả một sự rèn giũa ngay từ nhỏ qua cách nhìn cuộc sống, qua người lớn, qua môi trường giáo dục, đó là tình yêu thương, lòng nhân ái, sự trắc ẩn trong tâm hồn đầy cảm xúc không hề có chỗ cho khô khan,đen tối, có thể giúp đỡ, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với người thân cận nhất với bản thân, còn xa hơn nữa sẽ là sự thay đổi diện mạo, tiến tới một xã hội phát triển, đi kèm với những chuẩn mực đạo đức cũng cao tương ứng. Tục ngữ của chúng ta phản ánh rất nhiều về thông điệp này, vẫn có câu “Lá lành đùm lá rách” hay “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Có thể thấy được nó càng đúng khi đất nước trong thời kì chiến tranh, để lịch sử nước ta luôn cất vang bài ca chiến thắng kẻ thù, đôi khi không chỉ của vũ khí, những sách lược của người làm quân sự,…, mà quan trọng hơn hết là tinh thần đoàn kết, tương than tương ái không khất phục trước kẻ thù, động viên nhau vượt qua khó khăn, chia sẻ vui buồn, quân dân như một…Rồi chiến tranh qua đi, nhưng đâu phải đã hết nỗi đau dành cho người dân nước Việt, vì nhân dân ta vốn canh tác, là một nước thuần nông, nên thiên nhiên dù ưu ái đến cỡ nào, nhưng cũng có những lúc thiên tai đến bất ngờ, con người phải oằn mình chịu đựng bao nhiêu đợt liên tiếp. Những vùng dân là sự mất mát, đau thương, là dư âm cho mãi đến nhiều năm, họ mất trắng về kinh tế, họ còn mất đi người thân yêu nhất,gia súc….Khó ai có thể hiểu nỗi đau cho người trong cuộc đau đớn biết nhường nào. Chính lúc đó, khi họ hoàn toàn tuyệt vọng, cả xã hội không thể quay lưng đứng nhìn những nỗi đau đó, đã và đang có những đôi tay dang rộng, giúp đỡ họ như nhằm gánh vác những thương tổn mà thiên nhiên gây ra quá lớn, động viên họ bằng tình cảm, nhiều tổ chức và quỹ từ thiện đã tiếp tế lương thực cũng như động viên tinh thần để họ sớm ổn định lại cuộc sống. Vô vàn mảnh đời bất hạnh, nghèo khó có thể thấy rằng chúng ta sẽ kiềm lòng như thế nào khi biết Họ không thể cắn răng chịu đựng nỗi đau này một mình,cần lắm sự san sẻ, giúp đỡ bằng hành động chứ không phải bằng lời nói. Nên đã có những chương trình từ thiện, những nhà hảo tâm đã giúp đỡ kịp thời, các bạn trẻ làm thiện nguyện, những slogan, những lời tuyên truyền kêu gọi giúp đỡ,… Và bước ngoặt đã tạo nên bởi chính con người Việt, chứng tỏ rằng chúng ta ai cũng có trong mình tâm hồn thiện lương, biết đồng cảm, chia sẻ, nhờ thế mà những chương trình đó nhanh chóng được hưởng ứng bởi nhiều người trong nước, việt kiều,cả người nước ngoài đem đến được những số tiền thiết thực, đáng quý của những tấm lòng vàng. “Nỗi vòng tay lớn”, “trung thu cho em”, “Hơi ấm Sa Pa”,… đã đạt được những tiếng vang lớn, làm bùng nổ chuỗi các hoạt động thiện nguyện tiếp sau này.
Assignment We are so proud to be children of Lac Hong blood, shining a light on the national tradition that has existed for many generations, in which it can be said that the most obvious expression is the love for people in the same community. is always a good tradition, it is not difficult to find in life, good feelings, connecting suffering lives connected by the distance from heart to heart, is great sympathy and affection. of each person for others, helping the community form a great solidarity, making society stronger and more durable. Compassion is simply the concept of love between people. Deeper, it is the way we give love to others. But above all, the value it brings cannot be more noble, because that sentiment simply comes from each person's heart, without forcing, without forcing, without asking for anything in return. , people who show signs of compassion will always keep the feeling of peace and peace in their hearts when they do good things for others. It is so practical that it appears continuously in each of our real lives, through actions, gestures, and words that come from a warm heart, or sometimes do not need language to express. , just need to understand the boundless feelings people have for each other. Just something simple but extremely precious makes the world much warmer. This life is not always fair for everyone, we will have times when we feel hopeless, bored, and miserable because of the difficulties in life, but not everyone can stand up strong after Every time you stumble or fail on the long path of life, then the kindness of others may be the hope, the strength, the fulcrum for those poor people, continuing Give them the strength to overcome, helping them is also helping us, because everyone knows that we live in the same community, the same blood, the same small individual to form a unity. of society, not everyone is perfect, sometimes we are strong at this point, but weak at that point, there will be people who will compensate, point out, and help us, so why do we have the thought of wanting to live? separated from society, refusing to follow the good morality of noble compassion of our ancestors. Therefore, in their hearts, each person needs to nurture within themselves a complete soul, with responsibility and With a highly positive attitude towards life, we hope to build a complete and comprehensively developed society. To build a foundation of kindness in each person is not difficult at all, because as long as your heart and mind are still active, you can think of things to help yourself develop. But living selfishly is not a good thing or a need that a good person strives for. Live in a worthy way, because your brain and heart are capable of more than you think, they have a power. That strength, even though it seems simple, is something that has been trained from an early age through the way of looking at life, through adults, through the educational environment, which is love, kindness, and compassion in the heart. A soul full of emotions has no place for dryness or darkness. It can help and share joys and sorrows with those closest to you. Even further, it will change your appearance and move forward. A developed society comes with correspondingly high moral standards. Our proverbs reflect a lot on this message, there is still the saying "Good leaves protect torn leaves" or "A horse that is in pain leaves the ship to the grass". It can be seen that it is even more true when the country is in a period of war, so that our country's history always sings the song of victory over the enemy, sometimes not only with weapons, military strategies,..., but most importantly, the spirit of solidarity, mutual love, not surrendering before the enemy, encouraging each other to overcome difficulties, sharing joys and sorrows, soldiers and people as one... Then the war passed, but that was not the end. All the pain for the Vietnamese people, because our people are farmers and are a purely agricultural country, so no matter how kind nature is, there are times when natural disasters come unexpectedly, people have to buckle down. how many times in a row to endure? The people in these areas are full of loss, pain, and an echo that lasts for many years. They lose everything economically, they also lose their most beloved people, livestock.... Hardly anyone can understand the pain for those in need. How painful it is. At that moment, when they were completely desperate, the whole society could not stand back and watch that pain, it has been extending its hands to help them as if to shoulder the damage caused by nature. was so great, encouraging them with love, many organizations and charity funds provided food as well as mental encouragement to help them quickly stabilize their lives. Countless lives of unfortunate and poor people can see how we will restrain ourselves when we know that they cannot endure this pain alone, they need sharing and help through actions, not words. verbal. So there were charity programs, benefactors helped promptly, young people volunteered, slogans, propaganda calling for help,... And the turning point was created by the Vietnamese people themselves. , proving that we all have a kind soul within us, knowing how to sympathize and share. Thanks to that, those programs were quickly responded to by many people in the country, overseas Vietnamese, and even foreigners. receive practical and precious amounts of money from golden hearts. "Big embrace", "Mid-Autumn Festival for you", "Warmth of Sa Pa",... have achieved great resonance, sparking a series of subsequent volunteer activities.
Bài làm Học sinh la những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước,thái độ của họ rất quan trong đến việc rèn luyện nhân cách của bản thân, sự phát triển bền vững của đất nước, xa hơn nữa là luôn được các nước trên thế giới muốn đặt mối quan hệ, bảo vệ sau này. Thấy được thái độ cư xử của người trẻ phải biết hòa đồng với mọi người, biết lịch sự với mọi người, nhưng giới trẻ ngày nay không phải ai cũng làm tốt việc đó, họ chưa có thái độ cư xử đúng mực, đó là điều họ nên được thức tỉnh, hướng vào đúng giá trị đạo đức chuẩn mực của xã hội ta. Ứng xử có thể hiểu được là cả tổng hợp không chỉ một quá trình giao tiếp, xử lí thông tin, giải quyết vấn đề bằng cách nói, hành động cử chỉ đúng mực, khả năng truyền đạt thông tin, cảm xúc của bản thân với người khác, và với nhiều người trong cộng đồng. Chuẩn mực trong cách ứng xử được nhắc nhiều ở đây nó có nghĩa là phải có lòng tự trọng, lịch sự và khiểm tốn để vừa lòng người nghe vừa dễ chịu lời mình nói.Cái “văn hóa” ở đây cũng nên hiểu là cách ăn nói đúng đắn, thái độ trong cả cử chỉ và ngôn từ hợp lý, hợp hoàn cảnh, ra mình là người có học thức, nên việc “ứng xử có văn hóa “cũng là khi con người ta biết nói dễ dàng đưa vào tai người khác. Vậy nên có thể thấy được một cách ứng xử mà biểu hiện của nó đi ngược lại với những điều trên thì không thể chấp nhận được nó là một sự văn hóa. Lối nói khó nghe, thô tục, buông những lời nói mà vô tình làm đau lòng, tổn thương đến người nghe vì do nguyên nhân chủ quan như không kiềm chế được cảm xúc của bản thân, không rèn luyện cho mình sự đúng mực trong cách cư xử ngay từ đầu, sống trong hoàn cảnh không được phù hợp… Ở thế hệ học sinh những mầm non trẻ của đất nước, ta được nhà trường, thầy cô, bố mẹ, người thân, cả cộng đồng chú trọng việc rèn luyện thái độ ứng xử phù hợp, sống biết lẽ phải, không được văng tục chửi bậy, nếu không tuân thủ theo những nội quy vô hình hay hữu hình thì ta sẽ đối diện với những hình thức kỉ luật tùy mức độ. Có thể khẳng định rằng thái độ ứng xử chính là thước đo cho học sinh ngoan, hay dở. Ta có thể chiêm nghiệm được rằng những học sinh tốt, sẽ là những con người chăm ngoan, thái độ ứng xử phù hợp với độ tuổi, được người lớn quan tâm rèn giũa trở thành con người có nếp sống tốt, biết ngoan ngoãn vâng lời bố mẹ, thầy cô vì chỉ có như thế các em mới thành người tốt sau này, và đương nhiên đi kèm đó sẽ luôn được bạn bè thương yêu, thầy cô trân trọng và mọi người quý trọng. Một điển hình của người học sinh có thái độ ứng xử tốt thật đáng quý là sống hòa đồng với bạn bè, nói năng có tính khiêm tốn, cởi mở với bạn bè, không hề văng tục chửi bậy, và ta có thể thấy được những em học sinh rèn cho mình được biết học sinh khoanh tay chào và nói chuyện rất lễ phép với thầy cô, người lớn tuổi. Chan hòa, biết cư xử đúng,biết yêu thương cả qua hành động và lời nói, không đành hanh,không lớn tiếng quát tháo, chành chọe với các em nhỏ hơn mình. Nhưng bên cạnh đó trước hoàn cảnh, không chú tâm rèn luyện ứng xử, không được sự quan tâm của người lớn đúng mực,phải tiếp xúc với quá nhiều những vấn đề xã hội, những điều không hay trên thứ mạng Internet qua sớm… đã vô tình làm cho một số bộ phận học sinh đã không biết giữ mình, các bạn nhanh chóng để tâm hồn mình bị lấm bẩn bởi những thứ không tốt, thành thử ra chính thái độ cư xử của các bạn cũng đã phản ánh được điều đó, thật đáng buồn khi nó đang trở thành một vấn đề nan giải khi nhiều bạn vẫn chưa được hiểu rõ về cach cư xử của bản thân để chỉnh lý để phát triển bản thân theo chiều hướng tốt. Đúng như dân ta có câu “cái xấu thì nhiễm rất dễ, cái tốt thì khó”.Rồi cũng khó có thể chấp nhận sự thực rằng, những nền văn hóa giao tiếp đã mất dần khi con người ta học nhiều mà thấm vào người thì chẳng được bao nhiêu.
Assignment Students are the future generation of owners of the country, their attitude is very important in cultivating their own personality, the sustainable development of the country, and furthermore, they are always recognized by countries around the world. The world wants to establish relationships and protect them in the future. Seeing the behavior of young people, they must know how to get along with everyone, know how to be polite to everyone, but today's youth are not all good at that, they do not have the right attitude, that is What they should be awakened to is the correct moral values ​​and standards of our society. Behavior can be understood as a combination of not only a process of communication, information processing, problem solving by speaking, appropriate gestures, and the ability to convey information and one's own emotions. with others, and with many people in the community. Standards of behavior are mentioned a lot here, which means to have self-esteem, politeness and modesty to please the listener and be comfortable with what you say. The "culture" here should also be understood as the way speak correctly, the attitude in both gestures and language is reasonable and appropriate to the situation, showing that one is an educated person, so "cultural behavior" is also when people know how to speak easily and put it into practice. other people's ears. Therefore, it can be seen that a behavior whose expression goes against the above cannot be accepted as a culture. The way of speaking is harsh, vulgar, letting out words that unintentionally hurt and hurt the listener due to subjective reasons such as not being able to control one's emotions, not training oneself to be correct in speech. how to behave from the beginning, living in inappropriate circumstances... In the country's young generation of students, schools, teachers, parents, relatives, and the whole community focus on training appropriate behavior, living with common sense, and not being rude. swearing, if we do not comply with the invisible or visible rules, we will face disciplinary measures depending on the level. It can be affirmed that behavior is the measure of good or bad students. We can contemplate that good students will be obedient, have age-appropriate behavior, and will be trained by adults to become people with a good lifestyle and obedient behavior. the words of their parents and teachers because only then will they become good people in the future, and of course they will always be loved by their friends, respected by their teachers and respected by everyone. A typical example of a student with a valuable good attitude is living in harmony with friends, speaking humbly and openly with friends, not cursing at all, and we can see that Students train themselves to know that students fold their arms to greet and speak very politely to teachers and elders. Be peaceful, know how to behave properly, know how to love both through actions and words, don't be rude, don't shout loudly, or brag about children younger than you. But besides that, given the circumstances, not paying attention to behavior training, not receiving proper attention from adults, having to be exposed to too many social issues, bad things on the Internet that pass too soon... unintentionally caused some students to not know how to keep themselves, they quickly let their souls be contaminated by bad things, so their own behavior also reflected It's sad that it is becoming a difficult problem when many of you still do not understand clearly how to adjust your behavior to develop yourself in a good direction. As our people have a saying, "Bad things are easy to acquire, good things are difficult to acquire". Then it is also difficult to accept the fact that communication cultures have gradually disappeared as people learn more and seep into them. it's not much.
Bài làm Nước là một quà tặng của mẹ thiên nhiên. Nó là sự sống của nhân loại, chảy trôi mãi không ngừng, nó tinh khiết, nó cũng đáng quý giống như thời gian vậy. Tài nguyên ấy không hữu hạn, nó lại là thứ cần thiết phục vụ sự sống, mọi lĩnh vực, mọi mục đích sống của con người,. Sự nhận thức về tính cấp bách, tầm quan trọng của nước với hệ sinh thái,con người như vậy, nâng việc giải quyết sự việc gây ô nhiễm nguồn nước lên hàng đầu, những việc làm lãng phí nguồn nước cũng cần được nhanh chóng lên án, khắc phục. Nguồn nước trên trái đất ta có thể chia chủ yếu thành hai loại, nước mặn ở biển khơi chiếm số lượng lớn, chỉ một số ít là nguồn nước ngọt, chúng ta sử dụng cho vô vàn mục đích của con người. Từ xưa đến nay, con người đã tận dụng, khai thác thêm nhiều vùng đất để tìm kiếm những nguồn nước, họ sống bằng nguồn nước mát, phục vụ cho tưới tắm nông nghiệp, giặt giũ,…Ngày nay khi xã hội càng phát triển,trong quá trình sinh hoạt đồng thời mọi mặt của cuộc sống cũng đi lên, dân số cũng tăng, làm sao tránh khỏi cái nạn nhức nhối khi người dân không quan tâm, không đầy đủ kiến thức để bảo vệ nguồn nước như một tài sản vô giá, vì cuối cùng cũng có thể đến cái ngày chung ta sẽ phải sống trong cảnh không còn nguồn nước mát lành để nuôi sống cơ thể vì cơ thể sinh vật đa số cần nước. Có một câu nói “Bạn có thể sống thiếu thức ăn trong 3 ngày, nhưng không thể thiếu nước trong 3 giờ, không thể thiếu O2 trong 3 phút.Mới chứng tỏ sự vô cùng quan trọng của nước. Cụm từ ô nhiễm nguồn nước dường như đã quá quen thuộc trong nhiều năm trở lại đây, nó được hiểu rằng sự thay đổi của nguồn nước theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước.Có hai kiểu gây ô nhiễm do tự nhiên và do con người. Ô nhiễm do tự nhiên được hiểu là do mưa,tuyết tan, lũ lụt, gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt động sống của sinh vật, kể cả xác chết của chúng ngấm vào nguồn nước ngầm cứ thế chảy trôi. Cây cối, sinh vật chết đi, chúng bị vi sinh vật phân hủy thành chất hữu cơ. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hoá được, hàm lượng ôxy trong nước sẽ bị giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước.Những vụ thiên tai, lũ quét, giông bão, làm bẩn, khuấy động nguồn nước, làm xảy ra tình trạng ô nhiễm. Nước đó ngấm đầy những loại hóa chất tạp nham nguy hiểm cho con người và sinh vật, cuốn đầy vào nhà cửa, quần áo lênh láng mỗi khi có thiên tai.Nhưng nó không quá ảnh hưởng thường xuyên đến chất lượng cuộc sống của hành tinh này. Mà nó chủ yếu là ô nhiễm do con người gây nên. Con người ngày trước, được sống được gắn bó tuổi thơ mình với những dòng sông hiền hóa, sạch sẽ vô cùng. Ngày nay, con người vô cùng văn minh,càng tiến bộ, càng thay đổi thế nhưng họ lại càng sống thiếu trách nhiệm với việc giữ vệ sinh nguồn nước người dân vẫn có thói quen dùng bồn chứa nước không an toàn và kém vệ sinh như bể xi măng, chum, vại, họ đang ngày càng phải đối mặt với thách thức lớn về tình trạng ô nhiễm, nhất là các thành phố lớn, nền công nghiệp phát triển, thải thẳng các chất độc không qua xử lí ra thẳng môi trường, ở khu vực nông thôn chất thải của người dân, của gia súc không được xử lý, việc lạm dụng các chất bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp dễ thấm xuống đất hoặc rửa trôi làm cho tình trạng ô nhiễm nặng hơn, sử dụng nước ngầm dưới hình thức khoan nguồn nước ngầm, sau khi ngưng không sử dụng không bịt kín các lỗ khoan lại làm cho nước bẩn chảy lẫn vào làm ô nhiễm. Các nhà máy xí nghiệp xả khói bụi công nghiệp vào không khí làm ô nhiễm không khí, khi trời mưa, các chất ô nhiễm này sẽ lẫn vào trong nước mưa cũng góp phần làm ô nhiễm nguồn nước.. Nước chảy trôi không ngừng ra hồ, ra suối, ra sông, ra biển người dân khac lại sử dụng nguồn nước đó,nguồn đất đó để sinh hoạt,các sinh vật biển lại hấp thu nguồn nước đó,nó như một vòng tuần hoàn lớn, rồi tất cả chỉ gây ô nhiễm, gây bệnh cho mọi sinh vật, ảnh hưởng đến môi trường trên trái đất. Ngày nay con người gặp phải nhiều bệnh tật vô cùng hiểm nghèo,quái ác đặc biệt phải kể đến như ung thư đột biến, bênh liên quan đến hệ tiêu hóa, viêm da cấp và mãn, viêm nhiễm nấm, … do các chất độc, các ion kim loại cao, các hợp chất hữu cơ được tổng hợp bao gồm các nhiên liệu, thuốc trừ sâu, chất tẩy, hóa chất, các vi khuẩn sinh sôi, vi rút truyền bệnh có trong nguồn nước, không khí ô nhiễm. Gây ra nhiều cái chết thương tâm.
Assignment Water is a gift from mother nature. It is the life of humanity, flowing endlessly, it is pure, it is as precious as time. That resource is not finite, it is necessary to serve life, all fields, all human life purposes. Such awareness of the urgency and importance of water to the ecosystem and people raises the problem of water pollution to the top priority, and wasteful actions of water resources also need to be quickly resolved. condemn, correct. Water resources on earth can be divided mainly into two types, salt water in the sea accounts for a large amount, only a few are freshwater sources, which we use for countless human purposes. From ancient times until now, people have taken advantage of and exploited more lands to find water sources. They live on cool water sources, serving agricultural irrigation, washing, etc. Nowadays, when society is more developed, development, in the process of living, at the same time all aspects of life are also growing, the population is also increasing, how to avoid the painful problem when people do not care, do not have enough knowledge to protect water sources as a priceless asset, because eventually the day may come when we will have to live in a situation where there is no longer a source of cool water to nourish our bodies because most living organisms need water. There is a saying "You can live without food for 3 days, but you cannot live without water for 3 hours, you cannot live without O2 for 3 minutes". This proves the extremely important importance of water. The phrase water pollution seems to be very familiar in recent years. It is understood that the change of water resources in the direction of worsening physical - chemical - biological properties, with the appearance of Foreign substances in liquid and solid form make water sources toxic to humans and creatures. Reduces biological diversity in water. There are two types of pollution caused by nature and by humans. Natural pollution is understood to be caused by rain, melting snow, floods, windstorms... or by the products of living activities of living organisms, including their corpses, seeping into underground water sources and continuing to flow. When plants and animals die, they are decomposed by microorganisms into organic matter. Due to the excessive amount of mineral salts and organic substances that cannot be assimilated by the biological populations in the water, the oxygen content in the water will suddenly decrease, toxic gases will increase, and the turbidity of the water will increase. Water. Natural disasters, flash floods, thunderstorms, dirty and stir up water sources, causing pollution. That water is filled with all kinds of chemicals that are dangerous for humans and animals, and gets washed into houses and clothes every time there is a natural disaster. But it doesn't often affect the quality of life of the planet. This crystal. But it is mainly pollution caused by humans. People in the past, lived and attached their childhood to extremely clean and gentle rivers. Nowadays, people are extremely civilized, the more they progress, the more they change, but they live more and more irresponsibly when it comes to keeping water sources clean. People still have the habit of using unsafe and unsanitary water tanks. such as cement tanks, jars, and jars, they are increasingly facing big challenges in pollution, especially big cities with developed industries, which discharge untreated toxins directly into the air. environment, in rural areas, waste from people and livestock is not treated, and the overuse of plant protection substances in agricultural production can easily seep into the ground or be washed away, causing serious pollution. Furthermore, using groundwater in the form of drilling underground water sources, after stopping use, not sealing the drill holes causes dirty water to flow in and cause pollution. Factories release industrial dust and smoke into the air, causing air pollution. When it rains, these pollutants will mix into rainwater, also contributing to water pollution. Water flows continuously. lakes, streams, rivers, and seas, other people use that water source, that land source for living, marine creatures absorb that water source, it's like a big cycle, then everything just ends. pollutes, causes disease in all living things, and affects the environment on earth. Nowadays, people encounter many extremely dangerous and monstrous diseases, especially cancer mutations, diseases related to the digestive system, acute and chronic dermatitis, fungal infections, etc. due to toxins. , high metal ions, synthetic organic compounds including fuels, pesticides, detergents, chemicals, growing bacteria, disease-carrying viruses in water sources, polluted air . Causing many tragic deaths.
Bài làm Để có một xã hội của sự ưu tiên tiến bộ như hiện nay, nó là khởi nguồn từ các sự song hành với,chính là sự đi lên của nhiều lĩnh vực bổ sung cho xã hội hoàn chỉnh, đặc biệt không thể đánh giá thấp sự phát triển dữ dội của ngành công nghệ thông tin số,cập nhật liên tục hàng ngày, hàng giờ.Có thể kể ra được quá nhiều lợi ích thiết thực mà internet mang lại, nhưng bên cạnh đó cái gì dù tốt đến đâu cũng đều có nhược điểm, những mặt tiêu cực không ít thì nhiều, mặt trái về Internet cũng đang được chú trọng, lưu tâm với mọi thế hệ. Được thiết kế tỉ mỉ, sau nhiều công trình nghiên cứu, Internet đã được biết đến một thời gian dài về trước. Sự có mặt của Internet quả thực là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển không chỉ của một nước mà toàn thể nhân loại chúng ta. Nó tập hợp được những giá trị đích thực của sự sáng tạo, nhìn xa, biết chia sẻ thông tin. Như sứ mệnh, hy vọng của người tạo dựng, nó mang trong mình những khả năng giúp cung cấp cho lợi ích cho con người. Nó đầy tính tiện lợi, lưu trữ những kiến thức của tri thức nhân loại, sự phong phú và đa dạng ấy thể hiện sau mỗi cú “click” chuột đơn giản, nó có sự ứng dụng cao trong nhiều nghành nghề khác nhau trong xã hội. Thử hỏi nếu bạn sống trong xã hội thông tin nhanh chóng từng ngày mà bạn không chủ động, thì bạn sẽ bị tụt hậu. Vì nó cảm tưởng như Không giới hạn, ta có thể cảm nhận kiến thức của mình có thể được bổ sung bởi vô vàn điều bổ ích trên đây. Nó cũng là nơi giao lưu vô tận, làm cho cuộc sống của chúng ta tiện lợi, dễ dàng hơn, kết bạn bốn phương- một điều mà con người dường như hoàn toàn bị giới hạn ở thời gian trước kia, nó còn mang sự thoải mái về thời gian, công cụ, thao tác dễ dàng. Nó tạo dựng cho một sự vững bền trong xã hội, thiết nghĩ nếu như chưa có internet, chắc hẳn nhân loại vẫn đang quay trở lại hình thái phát triển như một xã hội cũ, vẫn ngập ngụa trong giao thương kinh tế khó khăn, vẫn là cảnh tượng chiến tranh thôn tính, ít sự ủng hộ, biết đến của nhiều quốc gia nói chung đến từng cá nhân nói riêng, eo hẹp về kiến thức, đời sống lạc hậu. Internet được biết thực chất rằng nó phổ cập ở nước ta khá muộn, mãi đến những năm của thế hệ 8x- 9x mới là được tiếp cận dầu tiên, có thể nói rằng nó hợp với hoàn cảnh của đất nước ta, vì từ một nước thuần nông, vươn lên bằng cách học hỏi các kinh nghiệm thành công mọi lĩnh vực của các nước phương Tây, nước ta mới dần đi lên, hiện tại vẫn là một nước đang phát triền, nhưng cũng đã có khá nhiều mối quan hệ với các nước khác trong toàn thế giới. Cũng có lẽ nhờ một phần không nhỏ của sự phát triển công nghệ thồng tin, nó đã khằng định sức mạnh, vai trò của mình. Bằng những con số biết nói về mức độ người dân sử dụng công cụ Internet này, bằng sự sử dụng thành thạo Internet ở đại đa số dân cư nước ta đã một lần nữa chứng thực “Internet thực sự có sức hút, tầm quan trọng đối với con người”. Nhưng còn những trường hợp sử dụng mang tính lạm dụng, không biết làm chủ trước mạng xã hội rộng lớn, quá nhiều thông tin can nhiễu đến chúng ta, đặc biệt những thế hệ non trẻ chưa đủ vốn sống, bị dễ dàng trước cám dỗ.Có lẽ được gọi hay nhìn theo sự phát triển thì nó là mặt tiêu cực, còn được nâng lên thành những vấn nạn xã hội đã được nói đến khá nhiều. Ta có thể bắt gặp ngay trong cuộc sống những điều trái chiều với mục đích đúng đắn của mạng Internet ngay từ ban đầu, không ít những hình ảnh cậu học trò vì mải mê những thứ trò chơi online trên mạng, quen dần, lâu dầu, thành “con nghiện điện tử” từ lúc nào không hay. Đến mức sẵn sàng bỏ học, bỏ tiền của bố mẹ chắt chiu cho những tài khoản ảo. Mang sức lực, tinh thần tràn trề nhựa sống, cái đầu óc minh mẫn để tiếp thu kiến thức, trong sáng thì bị dễ dàng cám dỗ tước mạng xã hội,ảnh hưởng không chỉ phần lớn đến chính người nghiện, mà còn cho nỗi thương, lo lắng không dứt về phía gia đình, nhà trường, xa hơn nữa là gây ra nhiều vấn đề tệ nạn thực sự nhức nhối, gây ra bao nhiêu vụ mất trật tự an ninh. Internet như đã nói cũng chính là con dao hai lưỡi, tuy công cụ tìm kiếm thông tin tuyệt vời, sự sáng tạo tối đa của loài người.Nhưng phải nói thực tế rằng, rất nhiều vấn đề ở trên mạng, không được qua xử lí, chưa đảm bảo tính chính xác hoàn toàn như ở loại sách giáo khoa,… nên chỉ thuộc diện “tư liệu tham khảo”, các quá dễ dãi trong việc chia sẻ, các nguồn tài liệu có khi không chính thống, gây hoang mang, nhầm lẫn cho người đọc, người cần tìm thông tin. Tốn thời gian, công sức, sự tập trung của bạn hàng giờ liền…
Assignment To have a society of progressive priorities like today, it originates from the parallel, the rise of many complementary fields for a complete society, especially cannot be underestimated. the intense development of the digital information technology industry, continuously updated daily and hourly. There are too many practical benefits that the internet brings, but besides that, no matter how good, All have disadvantages, more or less negative aspects, the negative side of the Internet is also being emphasized and paid attention to by all generations. Meticulously designed, after much research, the Internet was known a long time ago. The presence of the Internet is truly a major turning point in the development history of not only a country but our entire humanity. It brings together the true values ​​of creativity, foresight, and information sharing. Like the mission and hope of the creator, it carries within it the capabilities to help provide benefits to humans. It is full of convenience, storing knowledge of human knowledge, that richness and diversity is shown after each simple "click" of the mouse, it has high application in many different professions in society. festival. Imagine if you live in a fast-paced information society every day and you are not proactive, you will fall behind. Because it feels like Unlimited, we can feel that our knowledge can be supplemented by countless useful things above. It is also a place for endless exchanges, making our lives more convenient and easier, making friends from all over - something that people seemed to be completely limited to in the past, it also carries the Comfortable in terms of time, tools, and easy operations. It creates stability in society. I think that if there was no internet, humanity would still be returning to the form of development like an old society, still immersed in difficult economic transactions. It is still a scene of annexation war, little support and knowledge from many countries in general and individuals in particular, limited knowledge, and a backward life. It is known that the Internet was actually popularized in our country quite late, it was not until the years of the 8x - 9x generation that it was first accessed. It can be said that it is suitable for the circumstances of our country, because from a A purely agricultural country, rising by learning from the successful experiences in all fields of Western countries, our country has gradually progressed, currently it is still a developing country, but it also has many relationships. with other countries around the world. Perhaps thanks in no small part to the development of information technology, it has affirmed its strength and role. With telling numbers about the level of people using this Internet tool, with the proficient use of the Internet in the vast majority of our country's population, it has once again proven that "The Internet is truly attractive and important. for man". But there are still cases of abusive use, not knowing how to control the vast social network, too much information that interferes with us, especially the young generations who do not have enough capital to live, and are easily susceptible to temptation. Perhaps called or viewed in terms of development, it is a negative aspect, and has been raised to become social problems that have been talked about quite a lot. We can immediately encounter in life things that are contrary to the right purpose of the Internet right from the beginning, many images of schoolboys being engrossed in online games, gradually getting used to it over time. , became an "electronic addict" without realizing it. To the point where he was willing to drop out of school and spend his parents' savings on virtual accounts. If you have strength, a spirit full of vitality, and a clear mind to absorb knowledge, you will easily be tempted to take away social networks, affecting not only the addicts themselves, but also the addiction. endless pain and worry towards the family, the school, and beyond, causing many truly painful problems and causing many incidents of disorder and security. The Internet as said is also a double-edged sword, although it is a great information search tool and the maximum creativity of humanity. But the reality is that many problems on the internet are not handled. not guaranteed to be completely accurate like textbooks, etc., so they only belong to the category of "reference materials", but are too easy to share, the sources are sometimes unofficial, causing confusion. brings and confuses readers and people looking for information. Wasting your time, effort, and concentration for hours on end...
Bài làm “Chiếc lược ngà” được biết đến là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Quang Sáng đây có thể xem là một truyện ngắn đặc sắc nhất khi viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu thời kì chiến tranh. Và đây cũng chính là một truyện ngắn thật giản dị nhưng lại chứa đầy những sự bất ngờ như ta thường thấy ở phong cách văn của Nguyễn Quang Sáng. Có thể thật dễ nhận ra rằng truyện ngắn như xoay quanh đề tài tình cảm cha con ông Sáu mà tác giả Nguyễn Quang Sáng dường như cũng đã chú trọng đặc biệt đến nhân vật bé Thu. Bé Thu là một nhân vật có nội tâm đầy sự mâu thuẫn. Ở bé Thu là một cô bé phải sống xa cha từ nhỏ. Nhưng tuy vậy trong tâm tưởng của Thu, dường như những hình ảnh người cha phải xa cách từ lâu luôn luôn tồn tại qua những tấm ảnh cũ. Mặc dù yêu cha da diết, luôn luôn muốn được gặpcha là thế nhưng khi gặp cha rồi Thu lại có những hành động mâu thuẫn với suy nghĩ của mình. Nhất là khi nghe tiếng ông Sáu gọi con, Thu dường như cũng đã không hề mừng rỡ như ông Sáu vẫn tưởng, nó giật mình, tròn mắt nhìn nó như đã thật ngơ ngác lạ lùng, chớp mắt nhìn như muốn hỏi, thậm chí mặt nó bỗng tái mét rồi vụt chạy và kêu thét lên. Có thể thấy dường như tất cả đều là những cử chỉ mà không ai ngời tới. Và dường như những cử chỉ thể hiện sự sợ hãi khác thường giữa cha và con. Không chỉ có thế, mà chính những hành động của Thu còn chứa đầy sự lạnh nhạt và lảng tránh. Người đọc như đã thấy được độ kịch tính câu chuyện được đẩy lên cao khi bé Thu nấu cơm. Nó dường như cũng đã góp phần tạo nên độ căng của mạch kể. Và chi tiết cái nồi cơm quá to, con bé cần có sự giúp đỡ của người lớn nhưng nó đã nhất quyết không chịu gọi ba, nhất định nó không chịu nhờ vả. Cho đến đỉnh điểm nữa là khi bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho. Có thể nói đây chính là một hành động rất tự nhiên và hợp lí của Thu để qua đó bộc lộ được cá tính mạnh mẽ của cô bé dần được biểu lộ.
Assignment "The Ivory Comb" is known as a unique work by Nguyen Quang Sang. This can be considered the most unique short story when it is written about the deep father-son relationship between Mr. Sau's father and son during the war period. And this is also a very simple short story but full of surprises as we often see in Nguyen Quang Sang's writing style. It is easy to see that the short story revolves around the emotional theme of Mr. Sau's father and son, but author Nguyen Quang Sang also seems to have paid special attention to the character of little Thu. Baby Thu is a character with inner contradictions. Thu is a girl who has had to live away from her father since she was young. But nevertheless, in Thu's mind, it seems that the images of her long-separated father always exist through old photos. Although she loved her father very much and always wanted to meet him, when she met him, Thu took actions that contradicted her thoughts. Especially when she heard Mr. Sau calling her child, Thu didn't seem to be as happy as Mr. Sau thought, she was startled, her eyes widened as if she was strangely bewildered, she blinked as if she wanted to ask, even His face suddenly turned pale, then he ran away and screamed. It can be seen that all seem to be gestures that no one expected. And it seems that the gestures show unusual fear between father and child. Not only that, but Thu's actions are also filled with coldness and avoidance. Readers can see that the story's drama is heightened when little Thu cooks rice. It also seems to have contributed to the tension of the narrative. And the details were that the rice cooker was too big, she needed help from an adult, but she refused to call her father, she definitely refused to ask for help. Until the climax was when little Thu threw away the fish eggs that Mr. Sau had picked up for her. It can be said that this is a very natural and reasonable action of Thu, thereby revealing her strong personality gradually.
Bài làm Có thể nói rằng con người ta sinh sống được là nhờ có môi trường thiên nhiên-nhờ có bầu không khí trong lành, và đó chính là nguồn nước mát và sắc xanh kì diệu của rừng-của muôn ngàn cây lá. Môi trường thiên nhiên hiện nay dường như đã có ảnh hưởng rất lớn tới sự sống và sự phát triển của con người. Chính bởi vậy ” bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta”. Có thể dễ dàng nhận thấy môi trường sống bao gồm cả thiên nhiên và những thứ gọi là nhân tạo. Chúng như đã có ảnh hưởng, tác động đến đời sống của loài người. Nói chung, thiên nhiên là kho tàng quý giá giúp cho con người ta được tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, môi trường thiên nhiên không phải vô tận còn con người vẫn cứ khai thác đến khi cạn kiệt. Và những việc làm như tàn phá môi trường sống cũng là tàn phá chính cuộc sống chúng ta. Trước tiên là rừng, rừng được coi là “lá phổi xanh” của nhân loại. Rừng đã cung cấp oxy cho hoạt động hô hấp sinh tồn của mỗi con người. Và chính nhờ có rừng mà phần nào làm chậm lại dòng nước lũ ở những vùng đồi núi, và con kéo dài thời gian để người dân sắp xếp công việc của mình. Rừng còn được biết đến là nguồn khai thác lâm sản, rừng như đã tạo ra những bộ bàn ghế gỗ sang trọng trong phòng khách, những bàn học chắc chắn hay gần gũi hơn là vở chứa đựng kiến thức của thầy cô. Ngoài lâm sản mà rừng mang lại thì thảo dược cũng là một nguồn khai thác quý giá – liều thuốc của mẹ thiên nhiên ban tặng và dùng để chữa nhiều căn bệnh trong cuộc sống. Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng đã từng được nghe về sách Đỏ – ghi danh những động vật quý hiếm. Đó chính là những ích lợi của rừng chỉ vậy thôi mà ta đã thấy rừng giúp cho chúng ta sống khỏe, chặn dòng chảy của thần chết, cứu sống hàng trăm người trong gang tấc, và rừng còn mang ý nghĩa kinh tế, xuất khẩu cao từ những các loại lâm sản…Nhưng rừng hiện nay đang bị tàn phá nghiêm trọng. Cũng mang một ý nghĩa quan trọng trong đời sống của con người hiện nay đó chính là đất đai. Tất cả các động vật và con người thế nào nếu thiếu đất? Đất đai còn chính là một nơi để lao động sản xuất của nông dân. Và cũng chính nhờ có đất đai nên trồng trọt, chăn nuôi luôn phát triển. Và hiện nay còn nhiều vùng đất còn “giấu” trong mình khoáng sản quý giá có thể kể ra như vàng, bạc, đồng… kể cả kim cương quý hiếm để chế tạo thành những nữ trang làm đẹp. Qủa đúng như ông cha ta từng nói “Tấc đất tấc vàng”. Và yếu tố thứ ba cần được nhắc đến là sông ngòi, biển cả. Biển đã cung cấp cho con người nguồn muối – gia vị tất yếu trong bữa ăn. Sông ngòi, biển như đã còn mang trong mình thủy, hải sản để chế biến thành những thứ bổ dưỡng như: tôm hùm hấp, cua rang me… Ta như thấy được giữa đất đai và sông ngòi luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau đó là trồng trọt trên cạn cung cấp thức ăn cho các loại cá dưới sông và ngược lại, sông ngòi dường như cũng bù đắp phù sa đế việc trồng trọt đạt hiệu quả. Và chính việc thay vì có “cộng sinh” trong giới động vật thì trong các yếu tố tự nhiên có “cộng phát triển”. Nước hiện nay cũng đã được sử dụng nhiệt điện để cung cấp điện. Còn ở dưới biển cả bí ẩn chứa đựng những mỏ dầu mang giá trị kinh tế cao. Tiếp đến là nguồn năng lượng không thể thiếu được đó là mặt trời. Có thể nói thiếu mặt trời thì thế giới sẽ chỉ là một màu đen không áng sáng và cũng hiếm có sự sống nào tồn tại được Ta như hiểu được bên cạnh ý nghĩa về mặt vật chất, thiên nhiên còn mang ý nghĩa quan trọng về cả những giá trị tinh thần. Chúng như đã khơi gợi ý tưởng cho các nhà khoa học như Newton chỉ vói việc nhờ có quả táo “vĩ đại” mà ông tìm ra được trọng lực; đó chính là nguồn cảm hứng của mọi bức tranh, bài tình ca của những nhạc sĩ, họa sĩ nổi tiếng thế giới… Thiên nhiên dường như đã đem đến cho con người vật chất, niềm vui. Vậy mà con người chỉ trả lại bằng những hậu quả đau thương…
Assignment It can be said that people can live thanks to the natural environment - thanks to the fresh air, and that is the source of cool water and the magical green color of the forest - of thousands of trees and leaves. The current natural environment seems to have a great influence on human life and development. That's why "protecting the environment is protecting our own lives". It can be easily seen that the living environment includes both natural and so-called artificial things. They seem to have influenced and impacted human life. In general, nature is a precious treasure that helps people survive and develop. However, the natural environment is not endless and humans still exploit it until it is exhausted. And actions like destroying the living environment also destroy our lives. First is the forest, which is considered the "green lungs" of humanity. Forests provide oxygen for every human being's vital breathing activities. And it is thanks to the forest that the floodwaters in the mountainous areas are somewhat slowed down, and it buys time for people to arrange their affairs. Forests are also known as the source of forest products, such as creating luxurious wooden tables and chairs in the living room, sturdy study desks or, more closely, notebooks containing teachers' knowledge. In addition to the forest products that the forest brings, herbs are also a valuable source - the medicine given by Mother Nature and used to treat many diseases in life. Surely all of us have heard about the Red Book - a register of rare animals. Those are the benefits of forests, but we have seen that forests help us live healthy lives, block the flow of death, narrowly save hundreds of people's lives, and forests also have economic and export significance. high from forest products... But forests are currently being seriously destroyed. Also carrying an important meaning in people's lives today is land. How would all animals and humans be without land? Land is also a place for farmers to work and produce. And thanks to the land, farming and animal husbandry always develop. And today there are many lands that still "hide" valuable minerals such as gold, silver, copper... including rare diamonds to be made into beauty jewelry. It is true as our ancestors once said, "An inch of land equals an inch of gold". And the third factor that needs to be mentioned is rivers and seas. The sea has provided humans with a source of salt - an indispensable spice in meals. Rivers and seas seem to still carry aquatic products to be processed into nutritious things such as steamed lobster, fried crab with tamarind... We can see that there is always a close connection between land and rivers. The difference is that terrestrial farming provides food for fish in the river and vice versa, rivers also seem to compensate for silt so that farming is effective. And instead of having "symbiosis" in the animal kingdom, there is "co-development" in natural elements. Water is now also used thermoelectricity to provide electricity. And under the mysterious sea there are oil fields with high economic value. Next is the indispensable source of energy, which is the sun. It can be said that without the sun, the world would just be black without light and hardly any life could exist. We understand that besides its material meaning, nature also has important spiritual values. They seem to have inspired ideas for scientists like Newton. It was only thanks to the "great" apple that he discovered gravity; That is the inspiration of all paintings and love songs of world-famous musicians and painters... Nature seems to have brought people material things and joy. Yet people only respond with painful consequences...
Bài làm Có thể nói thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước bước vào thơ ca đã có nhiều chân dung quen thuộc và đáng yêu, và rất đáng cảm phục như những chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, hay cả những cô gái mở đường trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mĩ Dạ,… Và Lê Minh Khuê, được biết đến là một nhà văn thuộc thế hệ những tác giả bắt đầu sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ – cũng đã như đóng góp một chân dung như thế cho văn học nước nhà và cô gái Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Đó chính là một nữ chiến sĩ thanh niên xung phong xinh đẹp, trong sáng, giàu tình cảm dũng cảm và đấu tranh ngoan cường. Được xây dựng lên là một cô gái thanh niên xung phong có nhiệm vụ cùng đồng đội san lấp những hố bom trên tuyến đường Trường Sơn lửa đạn,và ngày đêm đối mặt với đất bụi, khói bom nhưng Phương Định không hề mất đi vẻ trẻ trung, xinh đẹp của một cô gái mới lớn. Phương Định là người nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức của mình. Chị cũng đã tự đánh giá: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Với ai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn đôi mắt thì đây là một cô có cái nhìn sao mà xa xăm”, vẻ đẹp ấy của chị đã hấp dẫn bao chàng trai ”các anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm tôi”. Nhưng điều đặc biệt ở nhân vật Phương Định đó là không bị ”cái nết đánh chết cái đẹp”; ngược lại, chị như đã để sự dũng cảm, ngoan cường và vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, giàu tình thương tôn thêm vẻ đẹp cho mình. Phương Định đã cùng những người bạn của mình sống và chiến đấu trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Chị đã phải chạy trên cao điểm đánh phá của máy bay địch. Và sau mỗi trận bom, Phương Định cùng đồng đội phải lao ra trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, và đã phải đi đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá nó. Đó chính là một công việc mạo hiểm với cái chết luôn gần kề tạo áp lực khiến thần kinh vô cùng căng thẳng. Và để thực hiện công việc đó, Phương Định và đồng đội dường như phải vô cùng bình tĩnh và họ đã thực sự bình tĩnh, ung dung một cách lạ thường. Thậm chí đối với họ những công việc ấy đã trờ thành bình thường với các cô gái thanh niên xung quanh này “Có ở đâu như thế này không, đó chính là các hình ảnh của chiến tranh đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Có thể thấy rằng thần kinh lúc này phải căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, và dường như chân chạy đi mà vẫn biết rằng có nhiều quả bom chưa nổ, nhưng nhất định là sẽ nổ… Rồi cho tới khi xong việc, quay lại nhìn đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang”. Mặc dù, tưởng như đã quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí vào một ngày có thể phải phá tới năm quả bom, và tưởng như trong mỗi lần vẫn là một thử thách tột độ với thần kinh của Phương Định. Có thể thấy từ những khung cảnh và không khí chứa đầy căng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia cùng đang theo dõi từng động tác cử chỉ của mình để lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng như “Tôi đến gần quả bom… đàng hoàng mà bước tới”. Và khi ở bên quả bom, đã kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn nữa “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng… dấu hiệu chẳng lành”. Khi phải sống giữa nơi sự sống và cái chết tranh giành nhau từng li một như thế nhưng Phương Định không để tâm hồn mình mòn đi. Chị là một người rất giàu tình cảm với đồng chí, đồng đội, quê hương và vô cùng lạc quan yêu đời. Và cũng giống như hai người đồng đội trong tổ trinh sát, Phương Định cũng rất yêu mến những người đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình. Đặc biệt, cô gái này yêu mến và cảm phục tất cả những người chiến sĩ mà hằng đêm cô gặp trên trọng điểm của những con đường vào mặt trận. Phương Định dường như cũng đã lo lắng, sốt ruột khi đồng đội lên cao điểm chưa về. Chị cũng rất yêu thương và gắn bó với bạn bè nên có những nhận xét tốt đẹp đầy thiện cảm về Nho, và mỗi khi phát hiện ra vẻ đẹp dễ thương ”nhẹ, mát như một que kem trắng” của bạn. Chị còn như đã hiểu và đồng cảm sâu sắc với những sở thích và tâm trạng của chị Thao. Phương Định là một nhân vật có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ thân thương trong một căn buồng nho nhỏ nằm trên một đường phố yên tĩnh khi hồi ở Hà Nội còn thanh bình trước chiến tranh. Dường như những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô giữa chiến trường dữ dội. Nó có thể chính là niềm khao khát làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến trường. Khi vào chiến trường đã ba năm, khi mà đã làm quen với những thử thách hiểm nguy, giáp mặt hàng ngày với cái chết nhưng ở cô gái Phương Định không mất đi sự hồn nhiên trong sáng và cả những mơ ước về tương lai đó là “Tôi thích nhiều bài hát, dân ca quan họ dịu dàng, dân ca Ý trữ tình giàu có”. “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê thực sự như đã miêu tả chân thực và sinh động tâm lí nhân vật. Tác phẩm đã được kể từ ngôi thứ nhất để tạo thuận lợi để tác giả miêu tả thế giới nội tâm qua việc để nhân vật tự sự về mình. Phương Định được biết đến là cô thanh niên xung phong trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn những ngày kháng chiến chống Mĩ. Và có thể thấy qua nhân vật này, chúng ta như đã hiểu hơn thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng hào hùng ấy. Có thể nói khi bước chân lên đường đánh Mĩ, những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong khi mà tuổi đời còn rất trẻ, có những người vừa rời ghế nhà trường. Tâm hồn các anh, các chị trong trẻo, đầy ước mơ, khao khát và đặc biệt là giàu lí tưởng. Chính những kỉ niệm êm đẹp về gia đình như những kỉ niệm về người mẹ trên căn gác nho nhỏ xưa của Phương Định hay những những kỉ niệm về bàn bè, mái trường,… là hành trang để các anh, các chị mang vào trận chiến. Và khi phải sống giữa nơi đầu tên mũi đạn họ chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ một cách ngoan cường, dũng cảm. Ai bảo không có những phút giây yếu lòng, lo lắng? Ai bảo tâm hồn họ là thép là đá? Không. Con tim họ cũng biết run lên khi tiếng súng phát nổ. Thần kinh của họ dường như lúc nào cũng căng ra khi quan sát trái bom… Nhưng điều đáng quý nhấy điều mà đã làm nên sự khác biệt ở họ là các anh các chị đã giữ được tâm hồn trong trẻo, giàu yêu thương đối với gia đình, đồng đội, đất nước. Và rồi, có thể thấy chính những tình cảm cao đẹp đó đã trở thành động lực để họ chiến thắng những phút giây hiểm nguy, nao núng. Dường như hình ảnh các anh các chị thực sự là “… những con người Việt Nam đẹp nhất -Biết căm thù và cũng biết yêu thương” như nhà thơ cách mạng Tố Hữu từng ca ngợi. Họ ra đi khi không tiếc tuổi thanh xuân, họ hiến dâng trọn vẹn cho Tố quốc những gì quý giá nhất:
Bài làm Có thể nói thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước bước vào thơ ca đã có nhiều chân dung quen thuộc và đáng yêu, và rất đáng cảm phục như những chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, hay cả những cô gái mở đường trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mĩ Dạ,… Và Lê Minh Khuê, được biết đến là một nhà văn thuộc thế hệ những tác giả bắt đầu sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ – cũng đã như đóng góp một chân dung như thế cho văn học nước nhà và cô gái Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Đó chính là một nữ chiến sĩ thanh niên xung phong xinh đẹp, trong sáng, giàu tình cảm dũng cảm và đấu tranh ngoan cường. Được xây dựng lên là một cô gái thanh niên xung phong có nhiệm vụ cùng đồng đội san lấp những hố bom trên tuyến đường Trường Sơn lửa đạn,và ngày đêm đối mặt với đất bụi, khói bom nhưng Phương Định không hề mất đi vẻ trẻ trung, xinh đẹp của một cô gái mới lớn. Phương Định là người nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức của mình. Chị cũng đã tự đánh giá: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Với ai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn đôi mắt thì đây là một cô có cái nhìn sao mà xa xăm”, vẻ đẹp ấy của chị đã hấp dẫn bao chàng trai ”các anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm tôi”. Nhưng điều đặc biệt ở nhân vật Phương Định đó là không bị ”cái nết đánh chết cái đẹp”; ngược lại, chị như đã để sự dũng cảm, ngoan cường và vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, giàu tình thương tôn thêm vẻ đẹp cho mình. Phương Định đã cùng những người bạn của mình sống và chiến đấu trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Chị đã phải chạy trên cao điểm đánh phá của máy bay địch. Và sau mỗi trận bom, Phương Định cùng đồng đội phải lao ra trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, và đã phải đi đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá nó. Đó chính là một công việc mạo hiểm với cái chết luôn gần kề tạo áp lực khiến thần kinh vô cùng căng thẳng. Và để thực hiện công việc đó, Phương Định và đồng đội dường như phải vô cùng bình tĩnh và họ đã thực sự bình tĩnh, ung dung một cách lạ thường. Thậm chí đối với họ những công việc ấy đã trờ thành bình thường với các cô gái thanh niên xung quanh này “Có ở đâu như thế này không, đó chính là các hình ảnh của chiến tranh đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Có thể thấy rằng thần kinh lúc này phải căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, và dường như chân chạy đi mà vẫn biết rằng có nhiều quả bom chưa nổ, nhưng nhất định là sẽ nổ… Rồi cho tới khi xong việc, quay lại nhìn đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang”. Mặc dù, tưởng như đã quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí vào một ngày có thể phải phá tới năm quả bom, và tưởng như trong mỗi lần vẫn là một thử thách tột độ với thần kinh của Phương Định. Có thể thấy từ những khung cảnh và không khí chứa đầy căng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia cùng đang theo dõi từng động tác cử chỉ của mình để lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng như “Tôi đến gần quả bom… đàng hoàng mà bước tới”. Và khi ở bên quả bom, đã kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn nữa “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng… dấu hiệu chẳng lành”. Khi phải sống giữa nơi sự sống và cái chết tranh giành nhau từng li một như thế nhưng Phương Định không để tâm hồn mình mòn đi. Chị là một người rất giàu tình cảm với đồng chí, đồng đội, quê hương và vô cùng lạc quan yêu đời. Và cũng giống như hai người đồng đội trong tổ trinh sát, Phương Định cũng rất yêu mến những người đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình. Đặc biệt, cô gái này yêu mến và cảm phục tất cả những người chiến sĩ mà hằng đêm cô gặp trên trọng điểm của những con đường vào mặt trận. Phương Định dường như cũng đã lo lắng, sốt ruột khi đồng đội lên cao điểm chưa về. Chị cũng rất yêu thương và gắn bó với bạn bè nên có những nhận xét tốt đẹp đầy thiện cảm về Nho, và mỗi khi phát hiện ra vẻ đẹp dễ thương ”nhẹ, mát như một que kem trắng” của bạn. Chị còn như đã hiểu và đồng cảm sâu sắc với những sở thích và tâm trạng của chị Thao. Phương Định là một nhân vật có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ thân thương trong một căn buồng nho nhỏ nằm trên một đường phố yên tĩnh khi hồi ở Hà Nội còn thanh bình trước chiến tranh. Dường như những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô giữa chiến trường dữ dội. Nó có thể chính là niềm khao khát làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến trường. Khi vào chiến trường đã ba năm, khi mà đã làm quen với những thử thách hiểm nguy, giáp mặt hàng ngày với cái chết nhưng ở cô gái Phương Định không mất đi sự hồn nhiên trong sáng và cả những mơ ước về tương lai đó là “Tôi thích nhiều bài hát, dân ca quan họ dịu dàng, dân ca Ý trữ tình giàu có”. “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê thực sự như đã miêu tả chân thực và sinh động tâm lí nhân vật. Tác phẩm đã được kể từ ngôi thứ nhất để tạo thuận lợi để tác giả miêu tả thế giới nội tâm qua việc để nhân vật tự sự về mình. Phương Định được biết đến là cô thanh niên xung phong trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn những ngày kháng chiến chống Mĩ. Và có thể thấy qua nhân vật này, chúng ta như đã hiểu hơn thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng hào hùng ấy. Có thể nói khi bước chân lên đường đánh Mĩ, những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong khi mà tuổi đời còn rất trẻ, có những người vừa rời ghế nhà trường. Tâm hồn các anh, các chị trong trẻo, đầy ước mơ, khao khát và đặc biệt là giàu lí tưởng. Chính những kỉ niệm êm đẹp về gia đình như những kỉ niệm về người mẹ trên căn gác nho nhỏ xưa của Phương Định hay những những kỉ niệm về bàn bè, mái trường,… là hành trang để các anh, các chị mang vào trận chiến. Và khi phải sống giữa nơi đầu tên mũi đạn họ chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ một cách ngoan cường, dũng cảm. Ai bảo không có những phút giây yếu lòng, lo lắng? Ai bảo tâm hồn họ là thép là đá? Không. Con tim họ cũng biết run lên khi tiếng súng phát nổ. Thần kinh của họ dường như lúc nào cũng căng ra khi quan sát trái bom… Nhưng điều đáng quý nhấy điều mà đã làm nên sự khác biệt ở họ là các anh các chị đã giữ được tâm hồn trong trẻo, giàu yêu thương đối với gia đình, đồng đội, đất nước. Và rồi, có thể thấy chính những tình cảm cao đẹp đó đã trở thành động lực để họ chiến thắng những phút giây hiểm nguy, nao núng. Dường như hình ảnh các anh các chị thực sự là “… những con người Việt Nam đẹp nhất -Biết căm thù và cũng biết yêu thương” như nhà thơ cách mạng Tố Hữu từng ca ngợi. Họ ra đi khi không tiếc tuổi thanh xuân, họ hiến dâng trọn vẹn cho Tố quốc những gì quý giá nhất:
Bài làm Nguyễn Quang Sáng được biết đến là một nhà văn Nam Bộ nên trong văn thơ của ông có cái chất hồn hậu, chất mộc mạc mà thấm tình người như chính con người Nam Bộ vậy. Và có truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sáng tác năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ gay gắt, và rất quyết liệt ở chiến trường miền Nam. Và trong không khí chiến tranh, tình cảm cha con trong truyện ngắn được nhà văn làm nổi bật tạo sự xúc động mãnh liệt cho người đọc. Có thể thất trong các nhân vật trong truyện ngắn, hình ảnh người cha tức ông Sáu thật như đã khiến người đọc cảm thấy thật bình dị song cũng thật đẹp biết bao nhiêu tình yêu ông dành cho bé Thu làm lay động tâm hồn của độc giả. Ông Sáu, sau tám năm chiến đấu ở chiến trường khi được nghỉ phép về thăm nhà, lòng ông nôn nao và vui mừng vì biết sắp được gặp con gái của mình. Trong lúc khi ông đi, con gái của mình lúc đó mới được hơn một tuổi. Chính vì vậy,lần này trở về không tránh khỏi cảm giác hồi hộp, mong chờ và có cả một chút lo lắng. Có lẽ, tình cảm cha con thiêng liêng dường như đã khiến ông nhận ngay ra bé Thu khi thuyền vừa mới cập bến, đó chính là một đứa bé gái khoảng lên chín, lên mười đang chơi ở gốc xoài. Và không thể giấu đi sự xúc động, vui sướng khiến ông nghẹn ngào gọi tên con gái của ông “Thu! con”. Và sự nôn nóng, xúc động của ông Sáu chúng ta như hoàn toàn có thể hiểu được. Với một người cha mà nói thì dường như sự xa cách, biệt li suốt tám năm ròng với chính đứa con gái mình hết mực yêu thương, nay đượ ctrở về đoàn tụ, được gặp lại vừa là niềm vui đoàn viên, vừa là niềm hạnh phúc vô bờ bến. Tuy nhiên, dường như giờ đây mọi niềm vui của ông Sáu dường như không được lâu, bởi ngay sau đó, khi ông Sáu “bước tới vừa đưa tay đón chờ con” thì bé Thu không chạy lại ôm chặt lấy ông như ông từng mường tượng ra từ trước đó. Ngược lại con bé đã “tròn mắt nhìn”, cái nhìn “vừa lạ lùng, vừa ngơ ngác”. Sự xúc động đã làm cho vết thẹo trên mặt của ông “giật giật”, cùng với giọng nói run run không còn kìm chế được được sự xúc động nói nghẹn ngào “Ba đây con! Ba đây con”. Vì sự nôn nóng, và dường như sự biểu hiện có phần gấp gáp, vồ vập của ông Sáu. Đặc biệt lại thêm vết sẹo đỏ ửng trên mặt giật giật khiến cho bé Thu hoảng sợ, bé Thu đã toan chạy đi, vừa chạy vừa kêu thét “má! Má”. Bé Thu là một đứa trẻ, khi mà trước mặt có người lạ, lại có phần đáng sợ bởi vết sẹo trên mặt, dường như sự hoảng hốt của bé, ông Sáu cũng phần nào hiểu được. Nhưng, có lẽ bởi vì quá hi vọng vào cuộc đoàn viên hạnh phúc này nên khi bị bé Thu khước từ đón nhận, hoảng sợ chạy vụt đi thì đã khiến cho ông Sáu đã “ngạc nhiên, đau đớn và hụt hẫng”. Có thể nói sự đau khổ của người cha bị chính con mình từ chối thừa nhận được nhà văn Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế miêu tả rất xúc động ra thành câu “đau đớn khiến mặt anh sầm lại…hai tay buông thỏng như bị gãy”. Người cha háo hức vì niềm vui khi trở về mà mong được gặp con gái,muốn ôm con vào lòng với tất cả sự âu yếm dành dụm bao năm xa cách nơi chiến trường, nhưng dường như lại bị đứa con hoảng sợ, chối từ. Đó chẳng phải nỗi đau đớn, và nỗi tuyệt vọng nhất của một người cha hay sao? Hai ngày ở nhà, ông Sáu dường như cũng chẳng dám đi đâu xa, cứ quanh quẩn tìm mọi cách để được gần con, mong mỏi sự đón nhận của bé Thu. Tuy nhiên, hiện thực diễn ra đã khiến ông Sáu vô cùng đau lòng đến tốt cùng. Cô bé Thu không những nhất quyết không chịu nhận ông, mà một chút quan tâm hay cả một chút lễ phép đối với ông cũng không có. Và khi được má sai vào gọi ba xuống ăn cơm, bé Thu cũng chỉ gọi cộc lốc, trống không và nó gọi chỉ vì bắt buộc phải làm vậy mà thôi “cơm chín rồi”. Lúc ấy thì ông Sáu “vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Tuy là cười đấy, nhưng sao nụ cười này của ông thật buồn, còn man mác cả một sự thất vọng, bất lực, khổ tâm của người cha sau bao năm xa cách. Và cho dù bao nhiêu cố gắng đi nữa thì tất cả dường như cũng đều vô vọng, chính đứa con gái ruột thịt mình yêu quý bấy lâu đều một mực khước từ, thậm chí còn phủ nhận sự xuất hiện của ông. Tuy rất buồn, rất thất vọng nhưng chưa một phút giây nào ông Sáu thôi cố gắng, thôi chăm chút, lo lắng cho bé Thu cả. Trong bữa cơm gia đình, có lẽ chính vì yêu thương con nên ông Sáu đã gắp cho con miếng trứng cá to nhất và ngon nhất. Nhưng để đáplại cử chỉ ân cần ấy là một sự chối bỏ quyết liệt của con bé, con bé không những không đón nhận miếng trứng cá mà ông Sáu gắp cho nó mà còn dùng đũa hất miếng trứng ra ngoài. Vì quá tức giận nên ông Sáu đã đánh con. Đánh con nhưng có lẽ chính lòng người cha còn đau gấp bội. Cũng chỉ vì hành động nóng nảy này mà đến lúc hi sinh, ông Sáu vẫn mang theo sự hối hận đó. Đến tận lúc chia tay, khi đã lên đường vào chiến trận, ông Sáu vẫnthật buồn, “buồn nẫu ruột”, ông không dám chạy lại ôm con, và bế con vì sợ con bé hoảng sợ như lần trước. Ông chỉ đưa mắt lên nhìn, và dường như cái nhìn lúc này cũng “buồn rầu”. Nhưng thật bất ngờ,chính vào giây phút cuối cùng, khi sắp phải chia tay, ông Sáu lại vỡ òa trong cảm xúc, vỡ òa trong sự hạnh phúc vì tiếng gọi ba bất ngờ từ bé Thu “b…a..”. Ông Sáu lúc đó như đã sững sờ, một lần nữa không kìm nén được xúc động, người đàn ông ấy một tay ôm con, một tay ông lau nước mắt. Có thể nói, đây chính là món quà ý nghĩa nhất mà ông Sáu nhận được trước giây phút lên đường để vào chiến trận. Khi vào chiến trường, ông Sáu không giây phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ con, vì lời hứa mua cho bé Thu một chiếc lược, cho nên khi nhặt được một mảnh ngà, ông đã vui sướng lắm, ông như nhặt được một thứ gì lớn lao lắm. Rồi cũng chính tự tay ông làm món quà này tặng cho con gái yêu của mình. Trên chiếc lược ông còn khéo léo và kỳ công khắc lên những dòng chứa đầy yêu thương: “Yêu nhớ, tặng Thu con của ba”. Trong khi chiến đấu,chính vào giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông Sáu vẫn nhớ đến con. Ông lấy ra cây lược, trao cho ông Ba, bạn chiến đấu thân thiết của mình và ông Ba cũng là người ông tin tưởng nhất lúc này. Không đủ sức chăng chối điều gì nữa, lúc đó ông Sáu chỉ nhìn ông Ba. Và có thể thấy được ánh nhìn ấy ám ảnh và thiêng liêng hơn một lời di chúc. Và đến lúc nhận được lời hứa từ ông Ba: “Tôi sẽ mang về trao tận tay cháu”, ông mới nhắm mắt đi xuôi được. Ông Sáu ra đi, nhưng kỉ vật là cây lược ngà do tự tay ông làm là vật chứa đựng biết bao tình cảm của ông dành cho con thì vẫn còn mãi đó. Dường như tấm lòng của người cha dành cho con đến phút cuối của cuộc đời vẫn bao la như vậy, da diết như vậy.
Assignment Nguyen Quang Sang is known as a Southern writer, so in his poetry there is a soulful, rustic quality that is imbued with humanity like the Southern people themselves. And there is the short story "The Ivory Comb" written in 1966, when the resistance war against American imperialism was fierce and very fierce in the Southern battlefield. And in the atmosphere of war, the father-son relationship in the short story is highlighted by the writer, creating intense emotions for the reader. It can be seen that among the characters in the short story, the image of the father, Mr. Sau, seems to make the reader feel so simple but also so beautiful. The love he has for little Thu moves the reader's soul. fake. Mr. Sau, after eight years of fighting in the battlefield, when he was on leave to visit home, he was excited and happy because he knew he was about to meet his daughter. While he was gone, his daughter was just over a year old at that time. That's why this time I can't help but feel nervous, expectant, and even a little worried. Perhaps, the sacred love between father and daughter seemed to have made him immediately recognize little Thu when the boat had just docked. She was a little girl about nine or ten years old playing under a mango tree. And unable to hide his emotions and joy, he choked up and called out his daughter's name, "Thu! child". And Mr. Sau's impatience and emotion are completely understandable. For a father, it seems that the separation and separation for eight long years from the daughter he loved so much, and now being reunited and reunited again is both a joy of reunion and a joy. boundless happiness. However, it seems that now Mr. Sau's happiness did not last long, because right after that, when Mr. Sau "stepped forward and held out his hand to welcome the child", little Thu did not run back and hug him tightly like he used to. envisioned from before. On the contrary, the girl "looked wide-eyed", her look was "both strange and bewildered". The emotion made the scar on his face "twitch", along with his trembling voice, he could no longer control the emotion and said chokingly, "It's dad!" Here's my dad." Because of Mr. Sau's impatience, and seemingly hasty and rushed expression. In particular, the red scar on her face twitched, causing little Thu to panic. Little Thu tried to run away, screaming "mommy!" Mother". Baby Thu is a child, when in front of strangers, he is somewhat scared because of the scar on his face. It seems that Mr. Sau also partly understands her panic. But, perhaps because he had too much hope for this happy reunion, when Thu refused to accept it and ran away in panic, Mr. Sau was "surprised, hurt and disappointed". It can be said that the pain of a father being refused recognition by his own son was delicately and emotionally described by writer Nguyen Quang Sang in the sentence "pain made his face darken...his hands hung limply as if broken." ”. The father was excited because of the joy of returning and looked forward to meeting his daughter, wanting to hug her with all the tenderness he had saved for many years away from the battlefield, but it seemed that his daughter was scared and rejected. . Isn't that the greatest pain and despair of a father? During the two days at home, Mr. Sau didn't seem to dare go anywhere far, just wandering around looking for ways to be close to his child, hoping for Thu's welcome. However, the reality that happened made Mr. Sau extremely sad to the end. Not only did little Thu absolutely refuse to accept him, but she didn't have the slightest bit of concern or even the slightest bit of politeness towards him. And when her mother sent her to call her father to come down to eat, little Thu only called out curtly and blankly, calling only because she had to, "rice is cooked". At that time, Mr. Sau "gently shook his head and smiled". Even though it was a smile, his smile was so sad, filled with the disappointment, helplessness, and heartache of a father after so many years of separation. And no matter how much he tried, it all seemed hopeless, the very daughter he loved for so long steadfastly refused, even denied his presence. Even though he was very sad and disappointed, Mr. Sau never stopped trying, caring, and worrying about little Thu. During the family meal, perhaps because he loved his child, Mr. Sau gave him the biggest and tastiest piece of fish roe. But in response to that kind gesture was a fierce refusal from the girl. Not only did she not accept the piece of fish roe that Mr. Sau gave her, but she also used chopsticks to throw the piece of egg out. Because he was so angry, Mr. Sau beat his child. While beating the child, perhaps the father's heart hurts even more. Just because of this impatient action, when he died, Mr. Sau still carried that regret. Until the moment of separation, when he left to go to war, Mr. Sau was still very sad, "heartbroken", he did not dare run back to hug his child, and carry him because he was afraid that she would panic like last time. He just raised his eyes to look, and it seemed that his look was also "sad" at this time. But surprisingly, right at the last moment, when he was about to say goodbye, Mr. Sau burst into emotion, burst into happiness because of Thu's unexpected call for dad "ba...a...". Mr. Sau seemed stunned at that moment, once again unable to contain his emotions. The man held his child with one hand and wiped his tears with the other. It can be said that this is the most meaningful gift that Mr. Sau received before leaving for battle. When he entered the battlefield, Mr. Sau never stopped missing his son for a moment, because of his promise to buy little Thu a comb, so when he picked up a piece of ivory, he was so happy, he felt like he had picked up something. very big. Then he personally made this gift for his beloved daughter. On the comb, he skillfully and meticulously engraved lines filled with love: "Love, remember, for my son Thu." While fighting, right at the last moment of his life, Mr. Sau still remembered his son. He took out the comb and gave it to Mr. Ba, his close fighting friend and Mr. Ba was also the person he trusted the most at this time. Not having the strength to deny anything anymore, Mr. Sau just looked at Mr. Ba. And it can be seen that that look is more haunting and sacred than a will. And when he received a promise from Mr. Ba: "I will bring it back and give it to you", he could close his eyes and go forward. Mr. Sau passed away, but the souvenir, an ivory comb made by his own hands, containing so much of his love for his son, remains forever. It seems that the father's heart for his child until the end of his life is still as vast and as intense.
Bài làm Kim Lân được biết đến là một nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Trong tất cả các truyện của ông dường như đã đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được Kim Lân sáng tác ở trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đã được đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Trong tác phẩm nổi lên nhân vật chính là ông Hai người làng chợ Dầu. Tác giả dường như cũng đã miêu tả khá thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin đồn làng ông theo giặc. Qua đó, tác giả như đã muốn ca ngợi tinh thần yêu nước của ông Hai nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung. Ông Hai được xây dựng lên là một người rất tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Khi phải di tản cư thì ông Hai cứ như nhắc đi nhắc lại với những người chung quanh cái không khí cách mạng của làng ông: “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai…”. Và cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi cứ vén quần lên tận bẹn mà nói liên miên về cái làng của ông mà ông rất mực tự hào. Ông nói cho sướng miệng và dường như để cho đỡ nhớ làng chứ không chú ý người khác có nghe không? Và có thể sau những giây phút làm việc mệt nhọc, nằm gác tay lên trán, ông Hai lại nghĩ về làng. Ông cứ muốn về làng của ông mà thôi, ông đã muốn được “cùng mọi người đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”. Vì quá yêu, và cũng quá tự hào về cái làng của ông mà ông “nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, ông như “chết lặng đi tưởng như không thở được” khi mà nghe tin cả làng mình theo Việt gian! Lúc đầu ông không thể tin nổi chuyện này, ông đã đi hỏi đi, hỏi lại “giọng ông như lạc hẳn” đi và hỏi “Liệu có thật không hở bác. Khi có người quả quyết như vậy vì ra ở dưới ấy lên và nói chắc như đinh đóng cột ở làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”…, thì dường như ở ông Hai không thể nghe thêm được nữa. Ông như đã đánh trống lảng rồi đi thẳng. Và như văng vẳng bên tai ông tiếng người đàn bà cho con bú “Cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. Còn giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”. Dường như những lời nói ấy như những nhát dao chém, như cắt cứa vào ông, tim ông se thắt lại. Dường như là bao nhiêu câu hỏi giằng xé trong ông. Tức quá, ông như cũng đã nắm chặt hai tay lại mà rít lên rằng “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thể này!”… Rồi ông Hai lại nghĩ lại “chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được, ông như đã kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ hoàn toàn là những người có tinh thần cả. Trong ông Hai dường như lúc này đang diễn ra sự giằng xé. Nửa tin, nửa ngờ.
Assignment Kim Lan is known as a writer who is very knowledgeable about the lives of farmers in the Northern countryside. All of his stories seem to revolve around the plight and activities of farmers. The short story "Village" was composed by Kim Lan in the early period of the resistance war against the French and was published in Van Nghe magazine in 1948. In the work, the main character emerges as Mr. Hai from Cho Dau village. The author also seems to have quite successfully described the evolution of his state of mind when he heard rumors that his village had joined the enemy. Through that, the author seemed to want to praise the patriotism of Mr. Hai in particular and of the Vietnamese people in general. Mr. Hai was built as a man who was very proud of his Cho Dau village. When he had to evacuate, Mr. Hai kept repeating to the people around him the revolutionary atmosphere of his village: "Even the old women, including those with white hair and beards, also carried sticks to practice one or two...". And so, all night long, the old man sat with his pants pulled up to his groin and talked continuously about his village that he was very proud of. He spoke for pleasure and seemed to avoid missing the village, not paying attention to whether others heard him or not? And maybe after moments of tiring work, lying with his hands on his forehead, Mr. Hai thought about the village again. He just wanted to go back to his village, he wanted to "join everyone in digging roads, building mounds, cutting trenches, carrying rocks...". Because he loved so much, and was so proud of his village, he "got choked up, his face was numb," he felt "dumbfounded, as if he couldn't breathe" when he heard the news that his entire village had followed Vietnam. time! At first he couldn't believe this story, he asked again and again, "his voice seemed completely lost" and asked "Is it true, uncle? When someone makes such an assertion because he came from down there and says it firmly in his village, "Vietnamese cheats came from the president"..., it seems that Mr. Hai cannot listen any more. He seemed to have made a mistake and then went straight. And it seemed like the sound of a woman breastfeeding her child was echoing in his ears: "Your parents and teachers! People are hurt when they're hungry and miserable, and when they're caught, people still feel sorry for them. As for the Vietnamese who cheat and sell their country, just give each one a shot! It seemed like those words were like knives, cutting into him, and his heart tightened. It seemed like so many questions were tugging at him. He was so angry that he clenched his hands and hissed, "If you take a piece of rice or something in your mouth, you're doing something like a Vietnamese traitor who sells the country to humiliate you!"... Then Mr. Hai thought again. “There's no way the people in the village could cut down that much, he seemed to have reviewed each person in his mind. No, they are completely spiritual people. Inside Mr. Hai, there seems to be a struggle going on right now. Half believe, half doubt.
Bài làm Truyện “Người con gái Nam Xương” được biết đến là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị xỉ nhục và đã bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để có thể tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận,và hình ảnh của Vũ Nương một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương. Ông dường như đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất của người phụ nữ luôn luôn thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắc. Và trong cuộc sống vợ chồng hết sức bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào vợ chồng phải để đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng tình hay ghen tuông, khong có những chính kiến riêng. Còn đối với người vợ mình thì lại vòng ngừa quá mức. Đây có thể nói thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, và khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính. Nếu như thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công danh gì mang về để vinh hiển trở về. Nhưng còn đối với Vũ Nương thì nàng lại không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu chồng được binh yên trở về. Và nàng như cũng đã còn cảm thông với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng. Vũ Nương như đã nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần; đằm thắm tình cảm. Khi xa chồng, Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, nàng đã yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ thế miên man không dứt cứ như dài theo măm tháng “ bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi” tác giả Nguyễn Dữ như đã dùng hình ảnh ước lệ tựng trưng, mượn những cảnh vật thiên nhiên để diễn như diễn tả cho sự trôi chảy của thời gian. Nàng còn được biết đến là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, một mình mà nàng vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng đau ốm. Nàng đã lo thuốc thang, cầu khấn phật trời và dường như lúc nào cũng ân cần dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về. Chính vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương quả thực là một người con dâu tốt khi Trương Sinh về sẽ không phụ lòng tốt của nàng. Rồi lúc đó nàng cũng hết sức thương sót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình vậy. Cứ tưởng rằng khi người chồng- Trương sinh về thì Vũ nương được sống ngập tràn trong niềm vui và hạnh phúc. Và khi Trương Sinh về thì từ đây nàng cũng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai ngờ nàng bị một nỗi oan không tài nào thanh minh nổi. Cho dù nàng đã hết lời phân trần tấm long son sắc thủy chung của mình cho chồng hiểu như nàng đã có nói đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giầu có. Có thể thấy được dường như tình nghĩa vợ chồng bao năm và nàng đã khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan cho nàng. Như vậy, dường như cũng đã chứng tỏ nàng đã hết yêu chồng mình, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Sau nữa, nàng Vũ Nương như đã nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công. Và lúc này nàng như không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Cố thể thấy hạnh phúc gia đình niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bóng xà phòng mong manh. Và sau tất cả dường như những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa.
Assignment The story "The Daughter of Nam Xuong" is known as the story of the cruel fate of a beautiful and virtuous woman under the feudal regime, who was suspected of being accused just because of a child's innocent words. doubted, humiliated and pushed to the end, having to end his life to show his purity of heart. That is the fate and image of Vu Nuong, a character who suffered many injustices. Nguyen Du was very skillful in building the image of a woman, specifically Vu Nuong. He seems to have placed the character in different situations to clearly show the qualities of a woman who always loves her husband, loves her children, is filial to her parents-in-law and is also extremely faithful. And in a very normal married life, she has maintained discipline, never letting the couple fall into discord even though Truong Sinh is a jealous husband and does not have his own opinions. As for his wife, he is too careful. It can be said that this is truly a scene that makes everyone emotional, and when Vu Nuong sees her husband off to the army. Normally, when the husband goes to the army, many people hope that the husband will have some merit to bring home so he can return home gloriously. But as for Vu Nuong, she did not expect glory but only prayed for her husband to return peacefully. And she also seemed to sympathize with the hardships and hardships that her husband would have to endure. Vu Nuong seemed to have mentioned her longing and longing with very kind words; affectionately. When leaving her husband, Vu Nuong was a faithful wife. She loved her husband dearly. The sadness and longing continued endlessly, as if it had lasted for years, "butterflies filled the garden", "clouds covered the mountains". Author Nguyen Du seems to have used symbolic conventional images, borrowing natural scenes to represent the flow of time. She is also known as a filial daughter-in-law, a gentle mother, raising her children alone while also devotedly taking care of her sick mother-in-law. She took care of the medicine, prayed to God and always seemed to be kind and gentle, using sweet and tactful words to advise her mother to take care of her health to wait for Truong Sinh to return. That's why, before her mother-in-law closed her eyes, she told Vu Nuong that Vu Nuong was indeed a good daughter-in-law. When Truong Sinh returned, she would not disappoint her kindness. At that time, she deeply felt sorry for her mother and took care of the funeral and rites as if she were taking care of her biological parents. It was thought that when her husband Truong gave birth, Nuong Vu would live a life filled with joy and happiness. And when Truong Sinh returned, from now on she also shared some of the burden of life with her husband who suspected that she had suffered an injustice that could not be cleared up. Even though she had gone out of her way to explain her faithfulness to her husband, she had mentioned that she was poor and relied on the rich. It can be seen that the love between husband and wife seems to have existed for many years and she has affirmed her pure and loyal heart, begging her husband not to wrongly suspect her. Thus, it seems to prove that she has stopped loving her husband and hopes to mend the family happiness that is in danger of falling apart. Next, Vu Nuong seemed to express her pain and disappointment when she did not understand why she was treated unfairly. And right now she seems to have no right to protect herself, even when relatives and brothers come to help her. One could see that family happiness and the desire of her whole life had shattered like a fragile soap bubble. And after all, it seems that the previous sufferings waiting for her husband can no longer be undone.
I. GIẢI THÍCH – Hiền tài là người có kiến thức, có tài năng và phẩm chất tốt đẹp, có tâm huyết và khát vọng cho đất nước cho dân tộc, Hiền tài còn gọi là tri thức. – Nguyên khí theo nghĩa đen của đông y là loại khí không mùi, không màu không vị, nhưng con người không có nguyên khí là con người chết, hiểu theo nghĩa rộng, nguyên khí là khí chất là nội lực làm nên sức sống ban đầu Nguyên khí của quốc gia là khát vọng, là sức sống của dân tộc. – Ý kiến của Thân Nhân Trung nhằm đề cao và khảng định vai trò quan trọng của người trí thức.Họ chính là rường cột của nước nhà, có quan hệ lớn đến sự thịnh suy của đất nước. II. BÌNH LUẬN 1. Coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là một ý kiến đúng đắn: – Hiền tài là người định hướng chính trị: Họ là những người xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạt định đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng đất nước. – Hiền tài là tinh hoa của văn hóa xã hội: họ là những người định hướng văn hóa cho xã hội, định hướng tư tưởng, dẫn dắt dư luận, diện mạo văn hóa của xã hội, đóng góp to lớn trong việc xây dựng nên một xã hội văn minh, một xã hội vì con người. – Hiền tài là nền tảng tiến bộ của xã hội: Họ là những người phát minh ra khoa học, dung khoa học để chế ngự thiên nhiên, đưa khoa học phục vụ các chương trình xã hội, cải thiện điều kiện vật chất, cải thiện thương mại và công nghiệp. – Hiền tài là động lực của tang trưởng kinh tế: Họ là nững người đề ra những phương pháp tiên tiến cho sản xuất của cải vật chất phục vụ xã hội. Ở đâu có nhiều tri thức, ở đó nền kinh tế phát triển bền vững hơn; những công ty, đơn vị nào có nhiều tri thức sẽ phát triển mạnh hơn…Trong thời đại kinh tế hiện nay, tri thức được coi là thành phần mang lại giá trị kinh tế lớn nhất. – Hiền tài là lực lượng nồng cốt trong quản lí xã hội: Họ là những người có khả năng phán đoán và nhận định sáng suốt, nhạy bén xử lý các tình huống, đề ra lối sách thích hợp để vận hành tốt công việc, đặc biệt huy động được nhiều tài năng trong lĩnh vực mình phụ trách, và giải quyết được các vấn đề ở tầm cao. Tóm lại, hiền tài có quan hệ tới sự thịnh suy của đất nước, nguyên khí thịnh thì đất nước giàu mạnh, nguyên khí suy thì nước yếu và càng ngày càng xuống cấp. 2. Ý kiến của Thân Nhân Trung thể hiện sự quan tâm đến giáo dục và trọng dụng nhân tài của nhà nước phong kiến đương thời: – Ý kiến trên được trích từ Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ ba ( 1442) mà Thân Nhân Trung được vua giao cho soạn, để khắc vào các bia tiến sĩ đầu tiên của việt Nam hiện đặt lại Văn Miếu Quốc Tử Giám. – Việc dựng bia đá nhằm mục đinh vinh danh hiền tài, khiến cho họ đem tài năng ra cống hiến và giúp sức cho nước nhà; khuyến khích mọi người noi gương hiền tài; ngăn ngừa điều ác. Dựng bia đúng là cách tôn vinh quá khứ, làm gương cho thế hệ tương lai, tạo dựng truyền thống hiếu học. – Việc dựng bia đã thể hiện tư tưởng lớn về đào tạo nhân tài, sử dụng nhân tài đất nước của các bậc minh quân. 3. Ý kiến của Thân Nhân Trung còn là lời nhắc nhở các nhà lãnh đạo của các thế hệ sau phải biết coi trọng việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ. 4. Việc sử dụng nhân tài trọng sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. – Trong thời phong kiến: Thành phần trí thức được coi là hàng đầu, sĩ, nông, công, thương). Thời Lí, năm 1075, mở trường đại học đầu tiên là Quốc Tử Giám để đào tạo nhân tài. Khoa cử thời Lí, Trần góp phần phát triển văn minh Đại Việt.Đến thời Lê sơ, Năm 1442 mở khoa thi Hội đầu tiên để chọn Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.Từ năm 1462, đời vua Lê Thánh Tông, việc thi cử càng được coi trọng. Trên bia tiến sĩ đã ghi “việc chính trị lớn của đế vương không gì cần bằng nhân tài”. Lời dụ của vua Lê Hiến Tông (1498- 1504) có ghi: “Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí mạnh mẽ thì trị đạo mới thịnh”. Nhiều bậc trí thức đã làm vẻ vang cho đất nước như Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn Ăn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, v.v… – Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ: chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của tri thức và coi trọng sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, Bác cho rằng: “Kiến thiết phải có nhân tài” và “Một dân tọc dốt là một dân tộc yếu”.Đảng, Ban chấp hành Trung ương khóa X đã đánh giá về đóng góp của tri thức: Đội ngũ tri thức Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thự dân Pháp và đế Quốc Mĩ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều bậc trí thức đã đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp Đế quốc Mĩ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều bậc trí thức đã đóng góp cho đất nước: huỳnh Thúc Kháng, Đặn Thai Mai, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, v.v… – Trong công cuộc đổi mới: Đảng và nhà nước chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì đảy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Hiện số lượng thanh lien tri thức khá đông được đào tạo ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ…đem kiến thức về nước để phục vụ trong các kĩnh vực kinh tế, văn hóa, du lịch,…Nhiều doanh nhân thường xuyên ra nước ngoài để nâng cao trình độ, kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tìm đối tác, kêu gọi đàu tư, v.v…Tuy nhiên do chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc còn thiếu thốn, đời sống còn khó khan nên lực lượng hiền tài chưa toàn tâm, toàn ý cho công việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học kĩ thuật. III. RÚT RA NÀI HỌC NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG – Đối với đât nước: Để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đòi hỏi con người ta phải chọn con đường rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ tri thức; ngăn ngừa nạ chảy máu chất xám. Cụ thể là cần có chính sách giúp đỡ, phát hiện, đánh giá, bồi dưỡng và trọng dụng hiền tài, đồng thời cũng cần quan tâm đén sự nghiệp giáo dục, tôn vinh những người có công chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục, giúp đỡ hiền tài. – Đối với bản thân: Học tập chăm chỉ, nghiêm túc để nâng cao trình độ, khả năng sáng tạo, năng lực làm việc và rèn luyện nhân cách để chở thành hiền tài góp phần xây dựng đất nước. IV. THAM KHẢO THÊM – Nếu ai có thể tạo ra quả bom nguyên tử, thì người đó là bác học, chỉ khi nào ông bác học ý thức được cái khí giới giết người ghê gớm ấy, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, lúc đó ông ta là trí thức.(J.P.Sartre) – Trí thức là sức mạnh.(Francis Bacon) – Tần Thủy Hoàng – vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên, có công thống nhất đất nước, nhưng cai trị đất nước bằng bao quyền, đốt sách, phỉ bách tri thức cho nên chỉ được thời gian ngắn nhà tần đã suy vong. Đối với mỗi một quốc gia, muốn phát triển giàu mạnh, bền vững thì yếu tố con người là vô cùng quan trọng. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Một đất nước với nhiều người tài giỏi, thì sẽ có khả năng làm giàu cho đất nước. Và câu nói: “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” của Thân Nhân Trung có giá trị thúc đẩy vô cùng to lớn về vấn đề này. Chúng ta hiểu thế nào là hiền tài? Hiền tài nghĩa là những con người tài giỏi, có khả năng làm việc, cùng với sự đức độ, có tâm có đức. Họ có những đóng góp quan trọng và ý kiến đúng đắn cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đất nước nói chung. Những người tài giỏi, có lương thiện sẽ đóng góp không nhỏ cho sự phát triển phồn vinh của đất nước. Theo như ý kiến của Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì nước yếu, rồi xuống thấp.” Có thể thấy, đây là một quy luật tất yếu của mỗi quốc gia. Những quốc gia coi trọng con người, luôn xem trọng người tài thì đất nước sẽ phát triển bền vững. Có thể lấy ví dụ như đất nước Nhật Bản, họ luôn khẳng định mình là quốc gia vững mạnh trên thế giới, nhờ vào sự xem trọng hiền tài để phát huy khả năng của họ. Còn như ở dân tộc ta, câu nói này lại càng khẳng định điều đó. Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm với những mất mát, hi sinh để chống lại quân xâm lược, giành lại độc lập tự do như ngày hôm nay. Và để làm được điều đó, chắc chắn không thể không kể đến công lao của những bậc hiền tài, tiêu biểu là Hồ Chí Minh, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt… Nếu như không có những bậc hiền tài, những công thần đó đã đi đúng hướng, thì liệu chúng ta có được như ngày hôm nay hay không? Đó chính là nhờ tài đức của những bậc hiền tài đó. Họ là người tài giỏi, và họ lại có đức, họ sẵn sàng hy sinh bản thân mình đề cống hiến cho cả dân tộc. Đây đều là những tấm gương sáng để thế hệ sau noi theo và học tập.
I. GIẢI THÍCH – Hiền tài là người có kiến thức, có tài năng và phẩm chất tốt đẹp, có tâm huyết và khát vọng cho đất nước cho dân tộc, Hiền tài còn gọi là tri thức. – Nguyên khí theo nghĩa đen của đông y là loại khí không mùi, không màu không vị, nhưng con người không có nguyên khí là con người chết, hiểu theo nghĩa rộng, nguyên khí là khí chất là nội lực làm nên sức sống ban đầu Nguyên khí của quốc gia là khát vọng, là sức sống của dân tộc. – Ý kiến của Thân Nhân Trung nhằm đề cao và khảng định vai trò quan trọng của người trí thức.Họ chính là rường cột của nước nhà, có quan hệ lớn đến sự thịnh suy của đất nước. II. BÌNH LUẬN 1. Coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là một ý kiến đúng đắn: – Hiền tài là người định hướng chính trị: Họ là những người xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạt định đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng đất nước. – Hiền tài là tinh hoa của văn hóa xã hội: họ là những người định hướng văn hóa cho xã hội, định hướng tư tưởng, dẫn dắt dư luận, diện mạo văn hóa của xã hội, đóng góp to lớn trong việc xây dựng nên một xã hội văn minh, một xã hội vì con người. – Hiền tài là nền tảng tiến bộ của xã hội: Họ là những người phát minh ra khoa học, dung khoa học để chế ngự thiên nhiên, đưa khoa học phục vụ các chương trình xã hội, cải thiện điều kiện vật chất, cải thiện thương mại và công nghiệp. – Hiền tài là động lực của tang trưởng kinh tế: Họ là nững người đề ra những phương pháp tiên tiến cho sản xuất của cải vật chất phục vụ xã hội. Ở đâu có nhiều tri thức, ở đó nền kinh tế phát triển bền vững hơn; những công ty, đơn vị nào có nhiều tri thức sẽ phát triển mạnh hơn…Trong thời đại kinh tế hiện nay, tri thức được coi là thành phần mang lại giá trị kinh tế lớn nhất. – Hiền tài là lực lượng nồng cốt trong quản lí xã hội: Họ là những người có khả năng phán đoán và nhận định sáng suốt, nhạy bén xử lý các tình huống, đề ra lối sách thích hợp để vận hành tốt công việc, đặc biệt huy động được nhiều tài năng trong lĩnh vực mình phụ trách, và giải quyết được các vấn đề ở tầm cao. Tóm lại, hiền tài có quan hệ tới sự thịnh suy của đất nước, nguyên khí thịnh thì đất nước giàu mạnh, nguyên khí suy thì nước yếu và càng ngày càng xuống cấp. 2. Ý kiến của Thân Nhân Trung thể hiện sự quan tâm đến giáo dục và trọng dụng nhân tài của nhà nước phong kiến đương thời: – Ý kiến trên được trích từ Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ ba ( 1442) mà Thân Nhân Trung được vua giao cho soạn, để khắc vào các bia tiến sĩ đầu tiên của việt Nam hiện đặt lại Văn Miếu Quốc Tử Giám. – Việc dựng bia đá nhằm mục đinh vinh danh hiền tài, khiến cho họ đem tài năng ra cống hiến và giúp sức cho nước nhà; khuyến khích mọi người noi gương hiền tài; ngăn ngừa điều ác. Dựng bia đúng là cách tôn vinh quá khứ, làm gương cho thế hệ tương lai, tạo dựng truyền thống hiếu học. – Việc dựng bia đã thể hiện tư tưởng lớn về đào tạo nhân tài, sử dụng nhân tài đất nước của các bậc minh quân. 3. Ý kiến của Thân Nhân Trung còn là lời nhắc nhở các nhà lãnh đạo của các thế hệ sau phải biết coi trọng việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ. 4. Việc sử dụng nhân tài trọng sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. – Trong thời phong kiến: Thành phần trí thức được coi là hàng đầu, sĩ, nông, công, thương). Thời Lí, năm 1075, mở trường đại học đầu tiên là Quốc Tử Giám để đào tạo nhân tài. Khoa cử thời Lí, Trần góp phần phát triển văn minh Đại Việt.Đến thời Lê sơ, Năm 1442 mở khoa thi Hội đầu tiên để chọn Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.Từ năm 1462, đời vua Lê Thánh Tông, việc thi cử càng được coi trọng. Trên bia tiến sĩ đã ghi “việc chính trị lớn của đế vương không gì cần bằng nhân tài”. Lời dụ của vua Lê Hiến Tông (1498- 1504) có ghi: “Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí mạnh mẽ thì trị đạo mới thịnh”. Nhiều bậc trí thức đã làm vẻ vang cho đất nước như Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn Ăn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, v.v… – Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ: chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của tri thức và coi trọng sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, Bác cho rằng: “Kiến thiết phải có nhân tài” và “Một dân tọc dốt là một dân tộc yếu”.Đảng, Ban chấp hành Trung ương khóa X đã đánh giá về đóng góp của tri thức: Đội ngũ tri thức Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thự dân Pháp và đế Quốc Mĩ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều bậc trí thức đã đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp Đế quốc Mĩ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều bậc trí thức đã đóng góp cho đất nước: huỳnh Thúc Kháng, Đặn Thai Mai, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, v.v… – Trong công cuộc đổi mới: Đảng và nhà nước chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì đảy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Hiện số lượng thanh lien tri thức khá đông được đào tạo ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ…đem kiến thức về nước để phục vụ trong các kĩnh vực kinh tế, văn hóa, du lịch,…Nhiều doanh nhân thường xuyên ra nước ngoài để nâng cao trình độ, kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tìm đối tác, kêu gọi đàu tư, v.v…Tuy nhiên do chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc còn thiếu thốn, đời sống còn khó khan nên lực lượng hiền tài chưa toàn tâm, toàn ý cho công việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học kĩ thuật. III. RÚT RA NÀI HỌC NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG – Đối với đât nước: Để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đòi hỏi con người ta phải chọn con đường rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ tri thức; ngăn ngừa nạ chảy máu chất xám. Cụ thể là cần có chính sách giúp đỡ, phát hiện, đánh giá, bồi dưỡng và trọng dụng hiền tài, đồng thời cũng cần quan tâm đén sự nghiệp giáo dục, tôn vinh những người có công chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục, giúp đỡ hiền tài. – Đối với bản thân: Học tập chăm chỉ, nghiêm túc để nâng cao trình độ, khả năng sáng tạo, năng lực làm việc và rèn luyện nhân cách để chở thành hiền tài góp phần xây dựng đất nước. IV. THAM KHẢO THÊM – Nếu ai có thể tạo ra quả bom nguyên tử, thì người đó là bác học, chỉ khi nào ông bác học ý thức được cái khí giới giết người ghê gớm ấy, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, lúc đó ông ta là trí thức.(J.P.Sartre) – Trí thức là sức mạnh.(Francis Bacon) – Tần Thủy Hoàng – vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên, có công thống nhất đất nước, nhưng cai trị đất nước bằng bao quyền, đốt sách, phỉ bách tri thức cho nên chỉ được thời gian ngắn nhà tần đã suy vong. Đối với mỗi một quốc gia, muốn phát triển giàu mạnh, bền vững thì yếu tố con người là vô cùng quan trọng. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Một đất nước với nhiều người tài giỏi, thì sẽ có khả năng làm giàu cho đất nước. Và câu nói: “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” của Thân Nhân Trung có giá trị thúc đẩy vô cùng to lớn về vấn đề này. Chúng ta hiểu thế nào là hiền tài? Hiền tài nghĩa là những con người tài giỏi, có khả năng làm việc, cùng với sự đức độ, có tâm có đức. Họ có những đóng góp quan trọng và ý kiến đúng đắn cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đất nước nói chung. Những người tài giỏi, có lương thiện sẽ đóng góp không nhỏ cho sự phát triển phồn vinh của đất nước. Theo như ý kiến của Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì nước yếu, rồi xuống thấp.” Có thể thấy, đây là một quy luật tất yếu của mỗi quốc gia. Những quốc gia coi trọng con người, luôn xem trọng người tài thì đất nước sẽ phát triển bền vững. Có thể lấy ví dụ như đất nước Nhật Bản, họ luôn khẳng định mình là quốc gia vững mạnh trên thế giới, nhờ vào sự xem trọng hiền tài để phát huy khả năng của họ. Còn như ở dân tộc ta, câu nói này lại càng khẳng định điều đó. Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm với những mất mát, hi sinh để chống lại quân xâm lược, giành lại độc lập tự do như ngày hôm nay. Và để làm được điều đó, chắc chắn không thể không kể đến công lao của những bậc hiền tài, tiêu biểu là Hồ Chí Minh, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt… Nếu như không có những bậc hiền tài, những công thần đó đã đi đúng hướng, thì liệu chúng ta có được như ngày hôm nay hay không? Đó chính là nhờ tài đức của những bậc hiền tài đó. Họ là người tài giỏi, và họ lại có đức, họ sẵn sàng hy sinh bản thân mình đề cống hiến cho cả dân tộc. Đây đều là những tấm gương sáng để thế hệ sau noi theo và học tập.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước ở thế kỉ XIX. Ông là một tấm gương chói sáng trong lịch sử văn học Việt Nam. Truyện thơ Lục VânTiên là một tác phâm được mọi người yêu thích và truyền tụng cho tới ngày nay bởi nó là bài học lớn về đạo làm người được xây dựng trên luân lý cổ truyền đó là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga được nằm ở phần đầu của tác phẩm kể về chuyện trên đường đi thi Lục Vân Tiên đã gặp cảnh dân chúng bị cướp bóc và đã ra tay cứu giúp, trong đó có Nguyệt Nga. Qua đoạn trích nói làm nổi bật về tính cách cao quý trọng nghĩa khinh tài của đấng anh hùng. Đồng thòi đó còn là mốc son đánh dấu cuộc gặp gỡ giữa Vân Tiên – Nguyệt Nga và khởi đầu mối tình thủy chung son sắt giữa hai người. Với quan niệm sống của đấng trượng phu cho nên dọc đường gặp cảnh lũ cướp Phong Lai quấy nhiễu dân lành, chàng đã bẻ cây làm gậy nhằm để xông vô, một mình tung hoành “tả đột hữu xông” không sợ nguy hiểm. Hành động đó là hoàn toàn tự nguyện, xuất phát từ lòng thương người, ghét những cái ác. Nhà thơ đã so sánh khí thế của chàng Vân Tiên với Triệu Tử Lọng, một tướng trẻ tài ba thời Tam Quốc: “Vân Tiên tả đột hữu xông, Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”. Hành động dũng cảm đã đánh bại lũ cướp. Tên đầu đảng đã bị triệt hạ và bọn cướp lúc này chẳng khác gì rắn mất đầu. “Lâu la bốn phía vỡ tan, Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Phong Lai trở chẳng kịp tay, Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”. Sau khi đã dẹp tan, nghe tiếng phụ nữ than khóc, Vân Tiên vội vàng ân cần thăm hỏi “Ai than khóc ở trong xe nầy?” Qua sự thưa bẩm của tỳ Nữ Kim Liên đi cùng Nguyệt Nga thì Vân Tiên đã động lòng thương và lo lắng cho cả hai người. Trước hai cô gái Vân Tiên là một người cư xử hết sức đúng mực theo khuôn phép của lễ nghi phong kiến. “Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai”. Khi Kiều Nguyệt Nga kể đầu đuôi việc mình mắc nạn và xin được lạy tạ đền ơn thì: “Vân Tiên nghe nói liền cười: Làm ơn há dễ trông người trả ơn Nay đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì. Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Nguyen Dinh Chieu was a patriotic poet in the 19th century. He is a shining example in the history of Vietnamese literature. Luc Van Tien's poetic story is a work loved and recited by everyone to this day because it is a great lesson about human morality built on traditional morality: kindness, righteousness, decency, wisdom, and faith. The excerpt from Luc Van Tien rescuing Kieu Nguyet Nga is at the beginning of the work, telling the story of how on the way to the exam, Luc Van Tien encountered people being robbed and helped, including Nguyet Nga. Through the excerpt, it highlights the hero's noble personality of respecting righteousness and contempt for talent. At the same time, it was also a milestone marking the meeting between Van Tien - Nguyet Nga and the beginning of the faithful love between the two. With the life concept of a man, along the way, when he encountered Phong Lai bandits harassing civilians, he broke a tree to use as a stick to rush in, roaming alone "left, right, right" without fear of danger. That action is completely voluntary, stemming from compassion for people and hatred of evil. The poet compared the spirit of Van Tien with Trieu Tu Long, a talented young general during the Three Kingdoms period: “Van Tien suddenly rushed from left to right, It's like Trieu Tu breaking the Dang Dang circle." His brave actions defeated the bandits. The leader of the gang has been eliminated and the bandits are now like headless snakes. “The castle is broken on all sides, They all threw down their swords and spears to find a way to run away. Phong Lai couldn't keep up, Being beaten by Tien with a stick, he died." After they had calmed down and heard the women's cries, Van Tien hastily greeted them with kindness “Who is mourning in this car?” Through the words of Bhikkhu Kim Lien who accompanied Nguyet Nga, Van Tien was moved and worried about both of them. In front of the two girls, Van Tien was a person who behaved very properly according to the rules of feudal etiquette. “Wait, sit there, don't come out. She is a girl, I am a boy." When Kieu Nguyet Nga told the story of her accident and asked to bow in gratitude: “When Van Tien heard this, he laughed: Please, it's easy to expect someone to return the favor Now the source is clear, Who cares about the pros and cons? Remember the saying that views and meanings are immutable,
Nguyễn Du là một đại thi hào lớn của dân tộc, ông có tài đặc biệt trong việc tả các nhân vật chính diện, ông dùng bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ ca cổ điển, còn khi tả các nhân vật phản diện thì ông lại dùng bút pháp tả thực. Trong đoạn trích chị em Thúy Kiều, tác giả đã khai thác một cách triệt để về ưu thế của nghệ thuật ước lệ. Điều đó thể hiện được tình cảm yêu mến, trân trọng của ông đối với Thúy Kiều, Thúy Vân. Chúng ta có thể thấy Nguyễn Du đã dồn hêt mọi tâm huyết và tài năng của mình vào ngòi bút để giúp làm nổi bật thần thái trong chân dung của hai chị em: “Mai cốt cách tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Nhà thơ đã khéo léo khi lấy nét đẹp của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người, ở các nhà thơ khác nếu như tả theo lối này thì chung chung, mờ nhạt nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thì lại biên hóa khôn lường và làm rõ được vẻ đẹp thực của nhân vật. Chúng ta có thể hình dung ra được vẻ đẹp, hình dáng của Thúy Kiểu, Thúy vân, yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần). Rõ ràng qua đó chúng ta còn nhận ra được đây là con của một gia đình gia giáo, được giáo dục tốt. Thúy Vân hiện lên với dáng dấp đài các, kiêu sa của một tiểu thư con nhà khá giả: “Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Vân có gương mặt phúc hậu, nụ cười tươi cùng với tiếng nói thánh thót giống như tiếng ngọc rơi ở trên mâm vàng: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Da trắng còn hơn tuyết, tóc đen hơn cả mây. Có thể nói sắc đẹp của Thúy Vân đã đạt tới độ hoàn mỹ như báo trước một cuộc đời bình yên, viên mãn được sống trong giàu sang nhung lụa cũng không bị ai gen gét đố kị. Thế nhưng vẻ đẹp trang trọng đó lại khác với Thúy Vân, nó vẫn nằm trong khuôn khổ được người đời công nhận, thán phục và chiêm ngưỡng biết bao nhiêu. Nhưng nếu như đặt bên cạnh Thúy Kiều thì cái nhan sắc đó lại mờ nhạt tới bao nhiêu, nó chỉ còn tác dụng làm phông nền để giúp nổi bật vẻ đẹplộng lẫy và phá vỡ mọi khuôn mẫu: Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Nguyễn Du đã khẳng định chắc chắn như thế và ông nhấn mạnh tới bản chất của cái đẹp từ bên trong tỏa ra bên ngoài: sắc sảo, mặn mà và sự đánh giá khái quát về tài sắc của Kiều còn hơn cả Vân. Khi tả Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tập trung nhiều nhất là vào đôi mắt bởi chính đôi mắt là cửa sổ tâm hồn và cũng là điểm cuốn hút nhất ở trên gương mặt của nàng: Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Vẫn là bắt gặp những hình ảnh ước lẹ nhưng không sáp mòn, ngược lại dường như không còn gì hợp hơn để tả đôi mắt long lanh đó giống như nước hồ thu, nét mày thanh tú không khác gì núi của màu xuân. Đôi mắt này nếu như ai thấy một lần chắc chắn sẽ không thể nào quên được. Kiều được miêu tả đẹp tới nỗi khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn. Thúy Kiều đẹp đến mức không ai có thể so sánh nổi: “Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Trong cách tả, Nguyễn Du đã hé lộ về một dự cảm bất an của cuộc đời Kiều, Kiều ắt sẽ bị người đời ghen và đày đọa. Ngoài sắc đẹp hiếm có thì Kiều còn là một cô gái đa tài: “Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Cũng theo Nguyễn Du: Chữ tài liền với chữ tai một vần. và đặc biệt trong đời ít ai có nhiều tài như Kiều. Những tài này đều cảm bảo trước cho Kiều một tương lai đầy sóng gió. Điều đáng lo ngại ấy luôn thấm đẫm trong từng nốt nhạc, từng câu chữ mà chính Kiều đã soạn riêng cho mình: “Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”. Qua những dòng thơ này ta có thể thấy được Nguyễn Du đã dành tình cảm yêu mến, trân trọng cho nhân vật chính của mình ở trong tác phẩm. Đó là sự hội tụ cao nhất về vẻ đẹp mặn mà từ hình thức cho tới trí tuệ. Trong đoạn trích cảnh ngày xuân, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du cũng đã đạt tới trình độ điêu luyện. Nhắc tới mùa xuân là lại nhắc tới hình ảnh của con chim én chao liệng giống như đưa thoi giữa bầu trời trong xanh cao rộng: Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Nguyễn du đã nắm vững nghệ thuật hội họa, bức tranh được miêu tả có gần có xa, có cao có thấp, có động có tĩnh. Màu sắc vừa tương phản vừa hài hòa, đường nét thanh tú, uyển chuyển cùng với hình ảnh đẹp đẽ có khả năng gợi tả, cũng như sự gợi cảm cao. Chỉ bằng hai câu thơ lục bát mà đại thi hào đã thể hiện được thần tình sức sống mạnh mẽ của mùa xuân. Ánh thiều quang rực rỡ của ngày xuân nhanh chóng lụi tàn, nhường chỗ cho bóng tà dương: “Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Nếu ai đủ tinh tế thì sẽ nhận ra được bức tranh mùa xuân mà Nguyễn Du miêu tả không chỉ đơn thuần là cảnh thực mà còn là bức tranh tâm cảnh được nhìn qua đôi mắt và tâm trạng của Thúy Kiều. Lúc hội thưa người, nắng nhạt đi thì Thúy Kiều lại rơi vào trạng thái bâng khuâng khó tả.
Nguyen Du is a great poet of the nation. He has a special talent in describing positive characters. He uses conventional penmanship commonly found in classical poetry. When describing villains, he using realistic writing style. In the excerpt from Thuy Kieu's sisters, the author thoroughly exploited the advantages of conventional art. That shows his love and respect for Thuy Kieu and Thuy Van. We can see that Nguyen Du has put all his enthusiasm and talent into his pen to help highlight the charisma in the portrait of the two sisters: “The bone is separated from the spirit snow, Each person looks completely unique. The poet was skillful in comparing the beauty of nature with the beauty of humans. In other poets, if described in this way, it would be general and vague, but under Nguyen Du's talented pen, it is different. Unpredictable editing and clarifying the true beauty of the character. We can imagine the beauty and shape of Thuy Kieu, Thuy Van, graceful (mai coc cha), soul as pure as dew, as snow (spiritual snow). Clearly through this we can also realize that this is the child of a well-educated family. Thuy Van appears with the elegant and elegant appearance of a young lady from a well-off family: “Van looks so solemn, Mold plump moon bouncing his strokes". Van has a kind face, a bright smile and a sweet voice like the sound of pearls falling on a golden tray: “Laughing flowers and dignified pearls, Cloudy lose hair color snow ceded skin color". Skin whiter than snow, hair blacker than clouds. It can be said that Thuy Van's beauty has reached perfection, heralding a peaceful and fulfilling life, living in luxury and luxury without being envied or envied by anyone. However, that solemn beauty is different from Thuy Van's, it is still within the framework that people recognize, admire and admire so much. But if placed next to Thuy Kieu, that beauty pales, it only serves as a backdrop to help highlight her gorgeous beauty and break all stereotypes: Kieu is more sharp and salty, Compared surface is the more talented back. Nguyen Du firmly affirmed that and he emphasized the nature of beauty radiating from the inside to the outside: sharpness, charm, and the general assessment of Kieu's beauty is even better than Van's. When describing Thuy Kieu, Nguyen Du focused most on her eyes because the eyes are the windows to the soul and also the most attractive point on her face: Autumn water and spring paint, United jealous loser poor petal blue willow hon. Still encountering images that are fleeting but not worn away, on the contrary, there seems to be nothing more suitable to describe those sparkling eyes like autumn lake water, delicate eyebrows that are no different from the mountains of spring. If anyone sees these eyes once, they will definitely never forget them. Kieu is described as so beautiful that it makes flowers jealous and willows angry. Thuy Kieu is so beautiful that no one can compare: “One or two tilts the water tilts the city, Had demanded a sharp, two graphics resource officers". In his description, Nguyen Du revealed an uneasy premonition in Kieu's life, that Kieu would be envied and exiled by people. In addition to her rare beauty, Kieu is also a multi-talented girl: “Intelligence is inherent in heaven, Mixing the craft of painting is full of the scent of singing. The bow and arrow of the five-syllable level, One's own profession is better than the price of a violin." Also according to Nguyen Du: The word talent is next to the word tai in one rhyme. And especially in life, few people have as much talent as Kieu. These talents all foretold Kieu a turbulent future. That worrying thing is always imbued in every note and every word that Kieu herself composed specifically for herself: “Handpicked songs create chapters, A Silver fate is even more brainless." Through these lines of poetry, we can see that Nguyen Du has love and respect for his main character in the work. It is the highest convergence of savory beauty from form to intelligence. In the spring scene excerpt, Nguyen Du's art of scene description has also reached a level of virtuosity. When we talk about spring, we recall the image of a swallow flying like a shuttle in the clear blue sky: On spring days, swallows shuttle, Optical Thieu was past sixty nine decades. Green grass reaches the horizon, There are some blossoms on the white pear branch. Nguyen du has mastered the art of painting. The picture is described as near and far, high and low, moving and still. The colors are both contrasting and harmonious, the lines are delicate and flexible, and the images are beautiful and expressive, as well as highly sensual. With just two six-eight verses, the great poet has expressed the spirit of strong vitality of spring. The bright light of a spring day quickly fades, giving way to the shadow of the setting sun: “The evil shadow leans towards the west, The sisters leisurely crossed their arms and left. Step by step along the top of Tieu Khe, Views landscape with bar bar surface. The water flows around me, Last occasion a small bridge crossing rapids". If anyone is sophisticated enough, they will realize that the spring picture that Nguyen Du describes is not simply a real scene but also a picture of the scene seen through Thuy Kieu's eyes and mood. When the festival had fewer people and the sunlight faded, Thuy Kieu fell into an indescribable state of sadness.
Giắc Lân-đơn (1876 – 1916) là một nhà văn Mỹ, tên thật của ông là Giôn Gri-phit Lân-đơn, Ông trải qua thời kỳ thơ ấu thực sự vất vả, cũng làm nhiều nghề kiếm sống. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp sáng tác với những truyện ngắn đăng ở trên một tờ báo của sinh viên. Thời kì phát triển cao nhất cho sự nghiệp sáng tác của ông là vào đầu thế kỉ XX. Tiếng gọi nơi hoang dã là tiểu thuyết được viết sau khi ông theo những người đào vàng tới miền đất Clân-đai-cơ trở về vào năm 1903. Con chó Bấc là một đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết đó. Tác phẩm kể về con chó bị bắt cóc bị đưa lên chỗ vùng sơn Bắc cực nhọc kéo tuyết cho những người đi tìm vàng. Bác đã quay tay rất nhiều ông chủ độc ác nhưng đã có ông chủ Giôn Thoóc-tơn là người có lòng nhân từ đối với nó, sau khi ông ấy chết thì nó đã rời bỏ con người và đi theo tiếng gọi nơi hoang dã, trở thành một con chó hoang. Ở trong đoạn trích này, nhà văn Lân Đơn đã có những nhận xét thực sự tinh tế cùng với trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào đời sống tâm hồn của con chó Bấc, đồng thời còn thể hiện tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật. Qua cách miêu tả kể chuyện chúng ta thấy được nhà văn muốn thể hiện lòng biết ơn và tình cảm yêu thương của con chó Bấc đối với người chủ giàu lòng nhân ái. Ở đoạn thứ nhất tác giả đã kể về mối quan hệ của con chó Bấc đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ là chủ đề lấy làm cơ sở so sánh với Thoóc-tơn: Đối với những cậu con trai của ông Thẩm, trong những buổi đi săn hoặc là lang thang thì tình cảm ấy là chuyện làm ăn cùng hội, với những đứa cháu nhỏ là ra oai hộ vệ còn đối với ông Thẩm thì đó là thứ tình bạn trịnh trọng. Đối với chó Bấc thì Giôn Thoóc-tơn chính là một ông chủ lí tưởng, các ông chủ trước đã chăm sóc nó vì lợi ích và nghĩa vụ chứ không thực sự yêu thương nó. Thoóc-tơn đã đối xử với bầy chó như con cái của mình còn đối với Bấc thì anh lại coi nó như một người bạn thân thiết hết mức. Anh có thói quen dùng bàn tay nắm chặt túm lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu của nó hoặc cứ đẩy tới đẩy lui. Bấc thấy không có gì vui hơn bằng việc một cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rửa rí rí bên tai. Khi được buông ra thì nó bật vùng dậy lên, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời. Tình cảm của Thoóc-tơn biểu hiện rõ nhất khi anh kêu lên, trân trọng: Trời đất! Đằng ấy hình như biết nói đấy! Anh coi Bấc như một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong đoạn văn này tác giả đã tập trung miêu tả về những biểu hiện của con chó, trước đó nhà văn đã kể về tình cảm của Thoóc-tơn đối với bầy chó nói chung và Bấc nói riêng để nhấn mạnh về tình cảm đặc biệt mà anh giành cho Bấc. Đọc những dòng miêu tả Bấc thì chúng ta sẽ thấy được tài năng quan sát và cả sự hiểu biết của nhà văn đối với loài chó: Bấc có tài biểu lộ tình thương yêu giống như làm đau lòng người ta, nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay của Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh tới nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Lân-đơn có nhận xét tỉ mỉ tinh tế khi miêu tả từng con chó ở trong bầy chó kéo xe. Những biểu hiện về tình cảm của chúng chính là đặc điểm chung của các loài chó nhưng nhà văn đã chú trọng tới nét riêng của mỗi con nhằm làm nổi bật nét khác biệt của Bấc so với những con chó khác ở trong bầy.
Jack Lan-don (1876 - 1916) was an American writer, his real name was Jon Griphit Lan-don. He went through a really hard childhood, and also did many jobs to make a living. Lan-don began his writing career with short stories published in a student newspaper. The period of highest development for his creative career was in the early twentieth century. The Call of the Wild is a novel written after he returned from following gold miners to the land of Cleveland in 1903. Buck Dog is an excerpt from that novel. The work tells the story of a kidnapped dog who was taken to the Northern mountains to work hard pulling snow for people looking for gold. Uncle had turned away many cruel bosses, but there was a boss named Jon Thornton who was kind to him. After he died, he left humans and followed the call of the wild. become a stray dog. In this excerpt, writer Lan Don has made really subtle comments along with great imagination when delving into the soul life of the dog Bac, while also expressing his love and affection. for animals. Through the narrative description, we can see that the writer wants to express the gratitude and love of the dog Buck towards his compassionate owner. In the first paragraph, the author tells about the dog Buck's relationship with Judge Miller's family, which is the subject used as a basis for comparison with Thornton: For Mr. Tham's sons, when hunting or wandering, that love is about doing business with the group, for the young grandchildren it is being protective, and for Mr. Tham, it is a kind of love. you are formal. For Buck Dog, Jon Thornton is an ideal owner. The previous owners took care of him out of profit and obligation, not really loving him. Thornton treated the dogs like his own children, and Buck treated them like a very close friend. He has a habit of using his clenched fist to grab Buck's head and then lean his head against its head or just push it back and forth. Buck felt that there was nothing more pleasant than a strong hug and the sound of washing in his ears. When let go, it jumped up, eyes sparkling, throat vibrating with wordless sounds. Thornton's feelings were most clearly expressed when he exclaimed respectfully: Oh my God! It seems like he can talk! He considered Buck a close friend and confidant. In this passage, the author focused on describing the dog's expressions. Before that, the writer talked about Thornton's feelings for dogs in general and Buck in particular to emphasize the special feelings. which he won for Buck. Reading the lines describing Buck, we will see the writer's observational talent and understanding of dogs: Buck had a talent for expressing his love and pain. He often opened his mouth to bite Thornton's hand and then pressed his teeth down so hard that the marks of his teeth burned into the skin for a long time. Lan-don has meticulous and subtle comments when describing each dog in the sled dog pack. Their emotional expressions are common characteristics of dogs, but the writer has focused on the unique characteristics of each dog to highlight Buck's differences compared to other dogs in the pack.
Môi trường sống là điều trực tiếp ảnh hướng tới con người và cách chúng ta tiếp thu mọi thứ xung quanh. Chúng ta phải cảm thấy may mắn nếu chúng ta được sống trong một môi trường với nhiều người tốt. Nhưng cũng thật đáng tiếc khi chúng ta kết bạn giao hữu với những người chưa thực sự là người tốt hay người có thói quen tốt người có một góc nhìn về cuộc sống tốt. Chính vì vậy ông cha ta mới có câu là: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” Đây là một câu nói mang tính so sánh và mang ý nghĩa nói bóng gió và khuyên răn con người. Mực vốn dĩ chỉ những thứ tối màu và không có lấy một chút ánh sáng. Còn đèn chính là nguồn sáng để soi tỏ mọi thứ, cũng là thứ có màu sắc sáng rỏ khiến chúng ta có thể dễ dàng phát hiện ra. Ở đây mực còn để chỉ những người chưa tốt, là những người có thể cso thói quen hay hành vi chưa tích cực. và chúng ta khi kết giao bằng hữu với những người như vậy thì chúng ta cũng có thể bị lây bởi tính cách và lối sống đó. Nếu bạn bè của chúng ta là những người buông thả và lười nhác thì cuối cùng chúng ta cũng trở nên ỉ lại và chỉ muốn ăn không muốn làm. CHúng ta chỉ muốn hưởng thụ mà quên đi phần cống hiến. trong học tập, gặp một người bạn ham chơi không chịu học hỏi thì chúng ta cũng sẽ suốt ngày la cà quán xa và không chú tâm học hành. Đèn chỉ môi trường sống tố có giáo dục có văn hóa. Là môi trường mà những người xung quanh là những người chúng ta có thể học tập và noi theo. Sống và làm việc với những người này chúng ta sẽ tạo dựng cho mình một lối sống tích cực, luôn luôn không ngừng cố gắng để trau dồi và thử thách bản thân vượt qua khó khăn. Bởi ở những người tốt những môi trường tốt luôn tồn tại những thứ khiến cho chúng ta tích cực. Những người xấu giống như những hạt sạn mà chúng ta cần thay đổi cũng như chuyển hóa họ. CHúng ta cần phải biết phân biệt và giúp đỡ những con người như vậy thoát ra khỏi những cái xấu cái chưa tốt của xã hội để họ có thể đóng góp một phần công sức của họ cho xã hội. Mọi thứ đều có hai mặt và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu chúng ta gần mực mà chúng ta là một ngọn đèn sáng thì chắc chắn với sức nóng của ngọn đèn dần dần sẽ chuyển hóa được những con người có lối sống chưa tích cực. Ngược lại chúng ta cũng phải biết bảo vệ bản thân thông qua những hành động những con người và môi trường khiến cho bản thân đi xuống và tiêu cực hơn. Trong xã hội, con người không bao giờ sống biệt lập, con người sống giữa những sự giao tiếp với người thân, bạn bè, hàng xóm, láng giềng, anh chị em cùng cơ quan, đoàn thể. Quan hệ giao tiếp nào cũng để lại ít nhiều ảnh hưởng nơi ta, quan hệ càng mật thiết thì ảnh hưởng ấy càng sâu đậm. Tùy trường hợp, mà ảnh hưởng xấu tốt khác nhau. Vì thế, tục ngữ có câu: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng Mực đây là mực nho ngày xưa, màu đen sẫm; gần nó hay bị vấy bẩn, nhọ đen. Đèn khi thắp lên, bao giờ cũng tỏa ánh sáng ra xung quanh; ai ở gần nó cũng thêm sáng sủa. Nhưng dân gian chỉ mượn nghĩa đen ấy, cốt để lưu ý nghĩa bóng này: gần kẻ xấu dễ lây nhiễm hư hỏng theo; chơi với người tốt, trái lại, sẽ tiếp nhận, học tập được nết tốt. Nhìn vào thực tế, ta thấy rõ ràng tình hình đó. Trong học tập, thường dễ lây nhiễm thói lười biếng, quay cóp, những thủ đoạn đối phó với thầy cô. ở nhà trường hiện nay, rải rác có những kẻ xấu rủ rê, mồi chài các bạn học sinh sa đọa vào vòng nghiện hút với chúng. Lại có cả những nữ sinh con nhà khá giả, cũng “cúp cua”, bỏ nhà theo bạn đi lang thang bụi đời. Trong lao động làm ăn cũng vậy. “Buôn có bạn, bán có phường”, rủi mà kết bạn, họp phường với kẻ quen buôn gian bán lận, trước sau dễ bị lôi cuốn theo chúng vào vòng phi pháp. Khi lao động, cùng làm vởi kẻ chĩ giỏi mồm miệng đỡ chân tay, ta rất dễ hùa theo lối làm dối trá, cẩu thả. Trong tu dưỡng cũng thế. Chỉ cần vài buổi rủ nhau đi giải khát cùng kẻ sành ngón chụp giựt, muốn ăn chơi mà chẳng chịu làm lụng, ta rất có thể đua đòi theo lối sống ích kỷ, ranh ma của họ. Ngược lại, gặp gỡ thân tình với người tốt, có được bạn hiền, là một điều may mắn cho ta. Qua những lần chia sẻ tâm sự, những buổi cùng học cùng làm, cả những dịp giải trí đi chơi… ít nhiều ta cũng hấp thụ dược hoặc cảm hóa theo cách sống đàng hoàng… thái độ trung thực, lối ứng xử có văn hóa, lòng tử tế nhân hậu của bạn. Em nhớ có lần cùng đi với bạn, gặp một phụ nữ đeo đồ nặng bị đổ xe đang loay hoay lúng túng giữa đường xe cộ nườm nượp; em có liếc thấy, nhưng ngại nên vẫn phóng qua, nhưng bạn em đã lập tức dừng lại, đến giúp chị kia dựng chiếc xe lên, buộc lại đồ. Chuyện đó làm em thấy xấu hổ, cứ tự trách thầm mình mãi. Một vài lần sau này, gặp trường hợp tương tự, em đã nhớ đến cử chỉ bạn mình, và không hề ngần ngại, em đã nhanh chóng bắt tay vào giúp đỡ.
The living environment is something that directly affects people and how we perceive everything around us. We must feel lucky if we live in an environment with many good people. But it is also a pity when we make friends with people who are not really good people or people with good habits, people with a good perspective on life. That's why our ancestors said: "Close to ink, it's black, close to light, it's bright" This is a comparative statement and is meant to imply and advise people. Ink inherently refers to things that are dark and without any light. The light is the source of light to illuminate everything, and is also the thing with bright colors that we can easily detect. Here ink also refers to people who are not good, who may have negative habits or behaviors. And when we make friends with such people, we can also be infected by that personality and lifestyle. If our friends are indulgent and lazy people, we will eventually become lazy and just want to eat and not work. We just want to enjoy and forget the contribution. In studying, if we meet a friend who is playful and refuses to learn, we will spend all day hanging out in faraway places and not paying attention to studying. The light indicates a good living environment with education and culture. It is an environment where the people around us are people we can learn from and follow. Living and working with these people, we will create a positive lifestyle for ourselves, always constantly trying to cultivate and challenge ourselves to overcome difficulties. Because good people and good environments always have things that make us positive. Bad people are like particles that we need to change and transform. We need to know how to distinguish and help such people escape the bad and bad things of society so that they can contribute their part to society. Everything has two sides and is closely related to each other. If we are close to the point where we are a bright light, then surely the heat of the light will gradually transform people whose lifestyles are not positive. On the contrary, we must also know how to protect ourselves through actions from people and environments that make us go down and become more negative. In society, people never live in isolation, they live between interactions with relatives, friends, neighbors, neighbors, brothers and sisters, and agencies and organizations. Every communication relationship leaves some impact on us, the closer the relationship, the deeper that impact. Depending on the situation, the good and bad effects are different. Therefore, the proverb says: Black near ink near the bright lights The ink here is the old grape ink, dark black; Near it is often dirty and black. When a lamp is lit, it always radiates light to its surroundings; Anyone near it becomes brighter. But people only borrow that literal meaning, in order to note this figurative meaning: being close to bad people can easily cause infection and corruption; If you hang out with good people, on the contrary, you will receive and learn good habits. Looking at reality, we see that situation clearly. In studying, it is often easy to spread laziness, cheating, and tricks to deal with teachers. In today's schools, there are scattered bad guys who invite and lure students to fall into the cycle of drug addiction with them. There are also girls from well-off families who are also "out of touch", leaving home to follow their friends to wander the world. The same is true in work and business. "Trading has friends, selling has wards", if you make friends or have meetings with people who are used to trading fraudulently, you will easily be drawn into the illegal ring with them. When working, working with someone who is only good at talking, talking, and helping, it is easy to follow a deceitful and careless way of doing things. The same is true in cultivation. With just a few sessions of going out for refreshments with people who are connoisseurs of taking things, wanting to have fun but not work, we can emulate their selfish, cunning lifestyle. On the contrary, meeting intimately with good people, having good friends, is a blessing for us. Through sharing thoughts, working together, studying together, even going out for entertainment... we more or less absorb medicine or are influenced by a dignified way of life... honest attitude, cultured behavior. , your kind kindness. I remember one time when I was with a friend, I met a woman wearing heavy clothes whose car had crashed and was struggling awkwardly in the middle of a busy road; I glanced at it, but was shy so I still drove past, but my friend immediately stopped and came to help the other woman set up the car and tie her things up. That made me feel ashamed, and I kept blaming myself. A few times later, when I encountered a similar situation, I remembered my friend's gesture, and without hesitation, I quickly started to help.
Trong cuộc sống, khi mọi thứ phát triển thì con người cũng có cơ hội để tiếp thu văn minh văn hóa nhân loại có điều kiện phát triển toàn diện hơn và mạnh mẽ hơn. Những con người, những nhân tố đóng góp vào sự phát triển của xã hội ngày càng phong phú đa dạng. KHông những bởi những sản phẩm trí tuệ mà họ mang lại mà còn là những nét tính cách riêng biệt. tuy nhiên để phát triển một cách bền vưng thì đòi hỏi con người phải thật khéo léo nhất là đối với mối quan hệ giữa người với người. Trong số đó đức tính khiêm tốn luôn được người ta đề cao. Xã hội càng văn minh thì con người cũng có cơ hội phát triển Nhiều người trước sự biến đổi đó cũng khiến cho mình trở nên năng động hơn. Nhưng không những vì thế mà họ có quyền làm biến chất tính cách và bản ngã của mỗi bản thân mình. Điều cao quí nhất là họ nhận ra đâu là Cái Tôi của họ và đâu là cái họ cần giữ. Đức tính khiêm tốn sẽ la nền tảng vững chắc để con người bằng một cách công bằng nhất nhận ra mình là ai, cần làm gì trong xã hội hiện đại. Khiêm tốn là đức tình tốt của con người, ở đó con người không phô trương bản thân mình, sống giản dị chân thành luôn biết lắng nghe ý kiến của người khác và tôn trọng ý kiến của người khác tù đó rút ra bài học cho mình và cho cả những người xung quanh. Trong đời sống xã hội, những người khiêm tốn, họ có thể rất giỏi nhưng những gì họ thể hiện cái giỏi của họ là qua cách đối xử chan hòa hàng ngày và cả những sản phẩm trí tuệ mà họ làm ra. Những con người đó không khoa trương mình ở đâu, vị trí của mình so với mọi người là như thế nào mà chính là cách mà họ làm luôn khiến người khác cảm thấy mình được tôn trọng. Bên cạnh những người có đức tính khiêm tốn. trong công việc, cái giỏi và thông minh của họ được thể hiện ở những hành động chứ không phải nói. Có rất nhiều người luôn tỏ ra mình là người tài giỏi nhưng thực chất họ đang giấu đi sự giốt nát của mình. Họ khoa trương về mọi thứ họ làm và đạt được với ước muốn những người xung quanh ca tụng. Những người khiêm tốn sẽ luôn giữ thái độ hòa nhã khi nói chuyện. KHi nói về một ý kiến hay tranh luân một điều gì đó, thường họ sẽ chăm chú lắng nghe những gì của người đối diện rồi mới đưa ra quan điểm của mình. Đức tính khiêm tốn không chỉ giúp con người cảm thấy mình nhỏ bé với thế giới để tìm cách mày mò học hỏi vươn lên mà còn là kích thích họ không ngừng phấn đấu để phát triển bản thân. Những người có đức tính khiêm tốn, tâm họ sẽ tĩnh hơn, quyết định và lắng nghe mọi thứ cẩn thân để có cái nhìn toàn cục. Những người có đức tính khiêm tốn luôn được bạn bè và mọi người yêu mến và nể phuc. Trong xã hội ngày nay rất cần tới những con người mang đức tính như thế để có thể thúc đẩy một xã hội phát triển lành mạnh. Trong xã hội hiện nay, chúng ta cần phải trang bị cho mình những hành trang cần thiết để có thể tự hoàn thiện bản thân mình và hội nhập vào cộng vào xã hội. Một trong những đức tính cần thiết nhất để có thể hòa nhập có được mối quan hệ tốt là khiêm nhường. Khiêm nhường không chỉ là nghệ thuật sống mà còn là nền tảng dẫn đến thành công. Khiêm nhường là một bản chất tốt cần phải có trong cách đối xử hàng ngày. Đó là thái độ không tự đề cao mình, đánh giá đúng mực về bản thân, luôn học hỏi người khác và biết kính trên nhường dưới. Những người khiêm nhường thường rất hòa nhã, nhún nhường, tôn trọng người khác và nghe nhiều hơn nói. Họ luôn nhanh chóng nhìn nhận và sửa đổi các khuyết điểm mình, học tập những cái hay, cái tốt từ người khác và không tự mãn với những gì mình đã đạt được. Bác Hồ là tấm gương sáng ngời về đức tính khiêm nhường. Suốt cuộc đời mình, Bác luôn giữ một lối sống giản dị, thanh đạm. Dù cương vị một Chủ tịch nước, Bác vẫn ở trong ngôi nhà sàn đơn sơ với những dụng hết sức giản dị, mộc mạc, vẫn tự tay chăm sóc vườn cây, nuôi cá,… Hay anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sapa” luôn khiêm nhường, cho mình không xứng đáng để được vẽ tranh. Khiêm nhường là một đức tính rất cần thiết và là thái độ sống đẹp trong xã hiện nay. Vì không ai trong chúng ta là hoàn hảo cả, trí tuệ của mỗi chúng ta chi là một hạt cát bé nhỏ giữa sa mạc rộng lớn, khiêm nhường sẽ giúp chúng có thể hoàn thiện bản thân và mở rộng vốn hiểu biết của mình hơn. Khiêm nhường là thái độ cần có của mỗi chúng ta bất kể ta là ai, có chức vụ gì, tài giỏi nào vì đức tính ấy giúp ta có được thiện cảm với những người xung quanh có được những mối quan hệ gần gũi và cần thiết.
In life, when everything develops, people also have the opportunity to absorb human civilization and culture to develop more comprehensively and stronger. The people and factors contributing to the development of society are increasingly diverse. Not only because of the intellectual products they bring but also because of their unique personality traits. However, to develop sustainably, people are required to be very skillful, especially with relationships between people. Among them, the virtue of humility is always highly appreciated. The more civilized the society, the more people have the opportunity to develop. Many people, facing that change, also make themselves more active. But not only that, but they have the right to corrupt each other's personality and ego. The most noble thing is that they realize what is their Self and what they need to keep. The virtue of humility will be a solid foundation for people to realize in the fairest way who they are and what they need to do in modern society. Humility is a good human virtue, in which people do not show off themselves, live simply and sincerely, always listening to the opinions of others and respecting the opinions of others, thereby drawing lessons for themselves. yourself and those around you. In social life, humble people can be very good, but what they show is through their daily friendly behavior and the intellectual products they create. Those people do not flaunt where they are or what their position is compared to everyone else, but the way they do things always makes others feel respected. Next to people with humble qualities. At work, their goodness and intelligence are shown in actions, not words. There are many people who always pretend to be talented people but in fact they are hiding their incompetence. They brag about everything they do and achieve with the desire to be praised by those around them. Humble people will always maintain a gentle attitude when talking. When talking about an opinion or arguing about something, they will often listen attentively to what the other person is saying before giving their opinion. The virtue of humility not only helps people feel small in the world so they can find ways to learn and improve, but also stimulates them to constantly strive for self-development. People who have the virtue of humility will have a calmer mind, make decisions, and listen carefully to everything to have an overall view. People with humble qualities are always loved and respected by friends and people. In today's society, people with such virtues are needed to promote a healthy society. In today's society, we need to equip ourselves with the necessary equipment to be able to improve ourselves and integrate into society. One of the most necessary qualities to be able to integrate and have good relationships is humility. Humility is not only the art of living but also the foundation for success. Humility is a good nature that must be present in daily dealings. That is the attitude of not promoting oneself, properly valuing oneself, always learning from others and knowing how to respect superiors and subordinates. Humble people are often very gentle, humble, respectful of others and listen more than they talk. They are always quick to acknowledge and correct their shortcomings, learn good things from others and are not complacent with what they have achieved. Uncle Ho is a shining example of humility. Throughout his life, Uncle Ho always maintained a simple and frugal lifestyle. Even though he was the President of the country, Uncle Ho still lived in a simple stilt house with very simple and rustic amenities, still personally taking care of the garden, raising fish, etc. Or the young man in the work "Quietly". Sapa” is always humble, considering himself unworthy to be painted. Humility is a very necessary virtue and a beautiful living attitude in today's society. Because none of us is perfect, each of us's intelligence is just a tiny grain of sand in the middle of a vast desert, humility will help us improve ourselves and expand our knowledge. . Humility is a necessary attitude for each of us, regardless of who we are, what position we have, or what talents we have because that virtue helps us gain sympathy with those around us and have close and necessary relationships. set.
Nguyễn Thành Long thuộc thế hệ nhà văn, nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông thường viết truyện ngắn pha chất ký.Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là cái kết của chuyến đi Lào Cai trong mùa hè năm 1970 của tác giả. Đó cũng là khoảng thời gian mà phong trào “ba sẵn sàng” ở miền Bắc đang diễn ra sôi nổi. Đọc truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa, người đọc ấn tượng sâu sắc hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu luôn chân thành, cần mẫn và say mê trong công việc dù vượt qua nhiều khó khăn gian khổ. Anh thanh niên là một người luôn miệt mài với công việc. Một mình anh sông trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 m. Trong suốt bốn năm trời, hàng ngày anh “có nhiệm vụ đo gió, đo nắng, đo mưa, đo chấn động mặt đất, dự vào báo thời tiết hàng ngày phục vụ sản xất, phục vụ chiến đấu”. Ngày qua ngày anh sống trong bóng đêm với mưa sương gió tuyết, ít tai thấy bóng người. Bác lái xe nói anh là người “ cô độc nhất thế gian” nhưng anh lại nói “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí khác. Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn chết mất”. Qua lời tâm sự của anh thanh niên, người đọc nhận thấy hình ảnh một người trẻ tuổi yêu nghề và sẵn sàng cống hiến. Dường như anh nhận ra rằng công việc của mình đang làm vô cùng quan trọng và có tính tập thể cao bởi gắn liền với rất nhiều đồng chí. Anh không nhận thấy mình lạc lõng giữa nơi núi rừng heo hút, không thấy mình cô độc vì ngoài công việc ra anh còn có một người bạn để trò chuyện, đó chính là những cuốn sách. Anh nói “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện, nghĩa là có sách ấy mà”. Mặc dù sống trong điều kiệu thiếu thốn và khắc nghiệt nhưng anh thanh niên luôn cố gắng vượt qua mọi khó khăn. Anh tự sắp xếp cuộc sống, dù một mình ở trên đỉnh núi cao anh vẫn có bầy gà đẻ trứng, có trà ngon, có vườn hoa. Điều đó cho người đọc thấy được anh biết vượt qua khó khăn để yêu đời và tận hưởng cuộc sống bình dị trốn rừng hoang. Anh không ngại khó, ngại khổ dầm mình trong “mưa tuyết”. Anh kể rằng “Gian khổ là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng… Ở đây có cả mưa tuyết đấy”, rồi “ ngọn đèn bão vặn to cỡ nào cũng không đủ sáng”, “ gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ đợi mình ra là ào ào xô tới”. Anh thanh niên kể về sự lặng im lúc một giờ sáng đó mới thật đáng sợ “nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống như nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung”. Công việc của người thanh niên trên đỉnh núi Yên Sơn vất vả cực nhọc như thế đấy. Cái lúc một giờ sáng, khi mà người ta còn đang say giấc ngủ, anh vẫn tỉnh dậy vượt cái gió, cái lạnh, bão tuyết và sự lặng im đến rợn người của núi rừng hoang vu để hoàn thành công việc. Anh kể “ những lúc im lặng lạnh cóng mà lại như hừng hực cháy”. Có lẽ, cái điều làm anh không ngại khó ngại khổ, vượt qua tất cả mọi cản trở chính là cái sự hừng hực ấy, cái nhiệt tình, bản lĩnh và sống hết mình của sức trẻ. Phải chăng khắc họa hình ảnh của anh thanh niên, Nguyễn Thành Long muốn phần nào nhấn mạnh sự nhiệt tình, chăm chỉ và khát khao muốn cống hiến của những người thanh niên thời ấy gắn với phong trào “ba sẵn sàng”. Không chỉ cần mẫn trong công việc, vượt mọi khó khăn thử thách, anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa còn là một người chân thành. Anh có những đóng góp quan trọng trong phục vụ sản xuất và chiến đấu, góp một phần không nhỏ cho đất nước nhưng anh vẫn rất khiêm tốn.Khi bác họa sĩ già phác họa chân dung của mình trong cuốn sổ tay, anh ngượng ngùng và vui vẻ giới thiệu những người đáng vẽ hơn mình cho bác họa sĩ. Anh giời thiệu “ông kỹ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, rồi anh say sưa kể về người kỹ sư với một sự ngưỡng mộ “ngày này qua ngày khác ông ngồi dưới vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn thụ phấn cho hoa su hào”, “tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày lúc chín mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong”. Anh ca ngợi ông kỹ sư già đã tận tâm trong công việc để “su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn ngọt ngơn trước”. Nghe qua cách kể chuyện hào hứng của anh về người kỹ sư và việc từ chối được vẽ chân dung, người đọc nhận thấy anh thanh niên luôn khiêm tốn khi được khen ngợi những hi sinh thầm lặng của mình nhưng lại rất trân trọng những cống hiến của mọi người xung quanh. Anh không chỉ giới thiệu bác họa sĩ vẽ chân dung ông kỹ sư nông nghiệp mà còn cả “đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan” anh.Anh nhận thấy xung quanh còn bao nhiêu người đáng vẽ hơn mình, đóng góp nhiều hơn mình. Anh thốt lên “ông kỹ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá”. Đọc tới đây, ta càng thêm yêu quý anh thanh niên nhiều hơn, anh cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống, thấy cuộc đời đẹp và ý nghĩa hơn khi chứng kiến bao người đang ngày đêm miệt mài, hi sinh và đóng góp cho tổ quốc. Người đọc không chỉ nhận thấy sự chân thành trong đức tính khiêm tốn, mà còn thấy được sự tinh tế, hiếu khách và quan tâm đến mọi người. Anh gây được thiện cảm với bác họa sĩ và cô kỹ sư ngay lần gặp mặt đầu tiên. Bác lái xe được anh biếu một “củ tam thất” cho vợ bác mới ốm dậy.Anh đón nhận cuốn sách bác mua hộ với tâm trạng hào hứng, mừng vui.Và một chi tiết rất nhỏ thôi nhưng đủ để người đọc nhận ra sự tinh tế và hiếu khách của anh đó là tặng bó hoa cho cố gái “rất tự nhiên như một người đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái”. Tất cả những cử chỉ quan tâm ấy tới tất cả mọi người, chúng ta càng thấy thêm yêu mến và quý trọng anh thanh niên nhiều hơn. Với một ngợi ca chân thành, nhà văn Nguyễn Thành Long đã vẽ nên một bức tranh thật đẹp về sự cống hiến thầm lặng của con người trong những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Người thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa là biếu tượng của con người và những thanh niên thời ấy vượt qua khó khăn, vẫn miệt mài, say mê trong công việc, sống chân thành, khiêm tốn và đóng góp sức trẻ, nhiệt huyết cho sự phát triển của đất nước. Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tình cảm, pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình của nhà văn Nguyễn Thành Long, “Lặng lẽ Sa Pa” đã ra đời để lại trong lòng độc giả nhiều xao xuyến, vấn vương. Đọc truyện ngắn này ta không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Các nhân vật trong “Lặng lẽ Sa Pa” đều được tác giả xây dựng với những nét thanh cao, đáng khâm phục, đặc biệt nổi lên là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Anh chính là đại diện cho một thế hệ những con người, trong thời kỳ miền Bắc đang tích cực xây dựng cuộc sống mới. Một nhân vật để lại trong lòng chúng ta ấn tượng khó phai mờ. Người thanh niên ấy hiện lên trên những dòng viết của Nguyễn Thành Long là người yêu đời, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Chúng ta có thể thấy được tấm lòng đẹp của người thanh niên qua lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái,bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”.Công việc hàng ngày của anh là“đo gió,đo mưa,đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép,gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”.Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. Anh quan niệm:“khi ta làm việc ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,chứ cất nó đi,cháu buồn đến chết mất”.Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện.Nghĩa là có sách ấy mà ”. Con người đang ở tuổi thanh xuân thường ưa thích những nơi xô bồ, đông đúc, ấy vậy mà anh lại yêu một nơi yên ắng, vắng vẻ là Sa Pa. Bởi vì sao, vì ở đây anh được thỏa thích với lòng đam mê công việc của mình, dù cho điều kiện sống và làm việc ở đây là vô cùng thiếu thốn. Bên cạnh việc hết mình với công việc, anh thanh niên còn biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt trên núi cao ở Sa Pa không làm cho trái tim nhiệt huyết cháy bỏng của anh nguội dần và dần trở về thu mình trong nỗi cô đơn. Ngược lại, nó lại thổi bùn trong anh ý chí sống và làm việc quên mình, lại mang lại những cảm giác đáng yêu đó là nỗi “thèm người” của anh, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ ngay từ những phút đầu gặp gỡ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh,toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên,việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái,nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quí.
Nguyễn Thành Long thuộc thế hệ nhà văn, nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông thường viết truyện ngắn pha chất ký.Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là cái kết của chuyến đi Lào Cai trong mùa hè năm 1970 của tác giả. Đó cũng là khoảng thời gian mà phong trào “ba sẵn sàng” ở miền Bắc đang diễn ra sôi nổi. Đọc truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa, người đọc ấn tượng sâu sắc hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu luôn chân thành, cần mẫn và say mê trong công việc dù vượt qua nhiều khó khăn gian khổ. Anh thanh niên là một người luôn miệt mài với công việc. Một mình anh sông trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 m. Trong suốt bốn năm trời, hàng ngày anh “có nhiệm vụ đo gió, đo nắng, đo mưa, đo chấn động mặt đất, dự vào báo thời tiết hàng ngày phục vụ sản xất, phục vụ chiến đấu”. Ngày qua ngày anh sống trong bóng đêm với mưa sương gió tuyết, ít tai thấy bóng người. Bác lái xe nói anh là người “ cô độc nhất thế gian” nhưng anh lại nói “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí khác. Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn chết mất”. Qua lời tâm sự của anh thanh niên, người đọc nhận thấy hình ảnh một người trẻ tuổi yêu nghề và sẵn sàng cống hiến. Dường như anh nhận ra rằng công việc của mình đang làm vô cùng quan trọng và có tính tập thể cao bởi gắn liền với rất nhiều đồng chí. Anh không nhận thấy mình lạc lõng giữa nơi núi rừng heo hút, không thấy mình cô độc vì ngoài công việc ra anh còn có một người bạn để trò chuyện, đó chính là những cuốn sách. Anh nói “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện, nghĩa là có sách ấy mà”. Mặc dù sống trong điều kiệu thiếu thốn và khắc nghiệt nhưng anh thanh niên luôn cố gắng vượt qua mọi khó khăn. Anh tự sắp xếp cuộc sống, dù một mình ở trên đỉnh núi cao anh vẫn có bầy gà đẻ trứng, có trà ngon, có vườn hoa. Điều đó cho người đọc thấy được anh biết vượt qua khó khăn để yêu đời và tận hưởng cuộc sống bình dị trốn rừng hoang. Anh không ngại khó, ngại khổ dầm mình trong “mưa tuyết”. Anh kể rằng “Gian khổ là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng… Ở đây có cả mưa tuyết đấy”, rồi “ ngọn đèn bão vặn to cỡ nào cũng không đủ sáng”, “ gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ đợi mình ra là ào ào xô tới”. Anh thanh niên kể về sự lặng im lúc một giờ sáng đó mới thật đáng sợ “nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống như nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung”. Công việc của người thanh niên trên đỉnh núi Yên Sơn vất vả cực nhọc như thế đấy. Cái lúc một giờ sáng, khi mà người ta còn đang say giấc ngủ, anh vẫn tỉnh dậy vượt cái gió, cái lạnh, bão tuyết và sự lặng im đến rợn người của núi rừng hoang vu để hoàn thành công việc. Anh kể “ những lúc im lặng lạnh cóng mà lại như hừng hực cháy”. Có lẽ, cái điều làm anh không ngại khó ngại khổ, vượt qua tất cả mọi cản trở chính là cái sự hừng hực ấy, cái nhiệt tình, bản lĩnh và sống hết mình của sức trẻ. Phải chăng khắc họa hình ảnh của anh thanh niên, Nguyễn Thành Long muốn phần nào nhấn mạnh sự nhiệt tình, chăm chỉ và khát khao muốn cống hiến của những người thanh niên thời ấy gắn với phong trào “ba sẵn sàng”. Không chỉ cần mẫn trong công việc, vượt mọi khó khăn thử thách, anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa còn là một người chân thành. Anh có những đóng góp quan trọng trong phục vụ sản xuất và chiến đấu, góp một phần không nhỏ cho đất nước nhưng anh vẫn rất khiêm tốn.Khi bác họa sĩ già phác họa chân dung của mình trong cuốn sổ tay, anh ngượng ngùng và vui vẻ giới thiệu những người đáng vẽ hơn mình cho bác họa sĩ. Anh giời thiệu “ông kỹ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, rồi anh say sưa kể về người kỹ sư với một sự ngưỡng mộ “ngày này qua ngày khác ông ngồi dưới vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn thụ phấn cho hoa su hào”, “tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày lúc chín mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong”. Anh ca ngợi ông kỹ sư già đã tận tâm trong công việc để “su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn ngọt ngơn trước”. Nghe qua cách kể chuyện hào hứng của anh về người kỹ sư và việc từ chối được vẽ chân dung, người đọc nhận thấy anh thanh niên luôn khiêm tốn khi được khen ngợi những hi sinh thầm lặng của mình nhưng lại rất trân trọng những cống hiến của mọi người xung quanh. Anh không chỉ giới thiệu bác họa sĩ vẽ chân dung ông kỹ sư nông nghiệp mà còn cả “đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan” anh.Anh nhận thấy xung quanh còn bao nhiêu người đáng vẽ hơn mình, đóng góp nhiều hơn mình. Anh thốt lên “ông kỹ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá”. Đọc tới đây, ta càng thêm yêu quý anh thanh niên nhiều hơn, anh cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống, thấy cuộc đời đẹp và ý nghĩa hơn khi chứng kiến bao người đang ngày đêm miệt mài, hi sinh và đóng góp cho tổ quốc. Người đọc không chỉ nhận thấy sự chân thành trong đức tính khiêm tốn, mà còn thấy được sự tinh tế, hiếu khách và quan tâm đến mọi người. Anh gây được thiện cảm với bác họa sĩ và cô kỹ sư ngay lần gặp mặt đầu tiên. Bác lái xe được anh biếu một “củ tam thất” cho vợ bác mới ốm dậy.Anh đón nhận cuốn sách bác mua hộ với tâm trạng hào hứng, mừng vui.Và một chi tiết rất nhỏ thôi nhưng đủ để người đọc nhận ra sự tinh tế và hiếu khách của anh đó là tặng bó hoa cho cố gái “rất tự nhiên như một người đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái”. Tất cả những cử chỉ quan tâm ấy tới tất cả mọi người, chúng ta càng thấy thêm yêu mến và quý trọng anh thanh niên nhiều hơn. Với một ngợi ca chân thành, nhà văn Nguyễn Thành Long đã vẽ nên một bức tranh thật đẹp về sự cống hiến thầm lặng của con người trong những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Người thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa là biếu tượng của con người và những thanh niên thời ấy vượt qua khó khăn, vẫn miệt mài, say mê trong công việc, sống chân thành, khiêm tốn và đóng góp sức trẻ, nhiệt huyết cho sự phát triển của đất nước. Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tình cảm, pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình của nhà văn Nguyễn Thành Long, “Lặng lẽ Sa Pa” đã ra đời để lại trong lòng độc giả nhiều xao xuyến, vấn vương. Đọc truyện ngắn này ta không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Các nhân vật trong “Lặng lẽ Sa Pa” đều được tác giả xây dựng với những nét thanh cao, đáng khâm phục, đặc biệt nổi lên là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Anh chính là đại diện cho một thế hệ những con người, trong thời kỳ miền Bắc đang tích cực xây dựng cuộc sống mới. Một nhân vật để lại trong lòng chúng ta ấn tượng khó phai mờ. Người thanh niên ấy hiện lên trên những dòng viết của Nguyễn Thành Long là người yêu đời, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Chúng ta có thể thấy được tấm lòng đẹp của người thanh niên qua lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái,bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”.Công việc hàng ngày của anh là“đo gió,đo mưa,đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép,gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”.Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. Anh quan niệm:“khi ta làm việc ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,chứ cất nó đi,cháu buồn đến chết mất”.Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện.Nghĩa là có sách ấy mà ”. Con người đang ở tuổi thanh xuân thường ưa thích những nơi xô bồ, đông đúc, ấy vậy mà anh lại yêu một nơi yên ắng, vắng vẻ là Sa Pa. Bởi vì sao, vì ở đây anh được thỏa thích với lòng đam mê công việc của mình, dù cho điều kiện sống và làm việc ở đây là vô cùng thiếu thốn. Bên cạnh việc hết mình với công việc, anh thanh niên còn biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt trên núi cao ở Sa Pa không làm cho trái tim nhiệt huyết cháy bỏng của anh nguội dần và dần trở về thu mình trong nỗi cô đơn. Ngược lại, nó lại thổi bùn trong anh ý chí sống và làm việc quên mình, lại mang lại những cảm giác đáng yêu đó là nỗi “thèm người” của anh, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ ngay từ những phút đầu gặp gỡ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh,toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên,việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái,nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quí.
Đối với mỗi quốc gia, thế hệ trẻ luôn luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Họ là tương lai, là trụ cột của đất nước trong thời kỳ mới. Và thế hệ đó cần phải được rèn luyện, từ nhân cách đạo đức cho đến kiến thức, để có thể vững vàng chèo lái tương lai của đất nước sau này. Bản thân những người thanh niên cần phải nhận thức được rằng, nỗ lực học tập là trách nhiệm của thanh niên, của chính bản thân họ. Nói đến thanh niên, tức là nói đến thế hệ trẻ, những người đang là học sinh, sinh viên. Họ đều là những người trẻ, có sức khỏe, có nhiệt huyết và đam mê. Họ cần phài làm việc hết mình để cống hiến cho đất nước, xây dựng đất nước ngày một giàu manh. Họ cần xác định được hướng đi đúng đắn để có thể hướng đến mục tiêu xây dựng đất nước mai sau. Mỗi người thanh niên cần phải đề cao việc học lên hàng đầu.Họ cần phải học tập không ngừng, nỗ lực nâng cao kiến thức. Bởi kiến thức thì không bao giờ là đủ, là thừa. Nếu muốn xây dựng đất nước, họ cần phải có nền tảng kiến thức tốt, sâu rộng, để làm hành trang bước vào đời. Đã bắt đầu học thì thanh niên cần phải có quyết tâm, có nỗ lực. Họ cần phải chăm chỉ, không bỏ cuộc giữa chừng dù khó khăn, thử thách thế nào. Sự nỗ lực cần phải được thể hiện mỗi ngày bởi nếu không, tuổi trẻ dù giàu nhiệt huyết nhưng cũng rất nhanh chán nản, để rồi bỏ dở những gì đang học tập, đang phấn đấu. Mỗi người cần phải có mục tiêu, có nghị lực rồi nỗ lực học tập, làm việc đế đạt được điều mình mong muốn.
For each country, the young generation always plays an extremely important role. They are the future, the pillars of the country in the new era. And that generation needs to be trained, from moral character to knowledge, to be able to firmly steer the future of the country. Young people themselves need to realize that learning efforts are the responsibility of young people and themselves. When we talk about young people, we mean the young generation, those who are students. They are all young, healthy, enthusiastic and passionate. They need to work hard to contribute to the country and build the country more and more prosperous. They need to determine the right direction to be able to aim at the goal of building the country in the future. Every young person needs to put education first. They need to constantly study and strive to improve their knowledge. Because knowledge is never enough or redundant. If they want to build the country, they need to have a good and extensive knowledge base to prepare them for life. Once they start studying, young people need to have determination and effort. They need to work hard and not give up halfway, no matter how difficult or challenging it is. Effort needs to be shown every day because otherwise, even though young people are full of enthusiasm, they will quickly become discouraged, and then give up what they are studying and striving for. Each person needs to have a goal, have the will to study and work hard to achieve what they want.
Đối với mỗi một quốc gia, muốn phát triển giàu mạnh, bền vững thì yếu tố con người là vô cùng quan trọng. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Một đất nước với nhiều người tài giỏi, thì sẽ có khả năng làm giàu cho đất nước. Và câu nói: “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” của Thân Nhân Trung có giá trị thúc đẩy vô cùng to lớn về vấn đề này. Chúng ta hiểu thế nào là hiền tài? Hiền tài nghĩa là những con người tài giỏi, có khả năng làm việc, cùng với sự đức độ, có tâm có đức. Họ có những đóng góp quan trọng và ý kiến đúng đắn cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đất nước nói chung. Những người tài giỏi, có lương thiện sẽ đóng góp không nhỏ cho sự phát triển phồn vinh của đất nước. Theo như ý kiến của Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì nước yếu, rồi xuống thấp.” Có thể thấy, đây là một quy luật tất yếu của mỗi quốc gia. Những quốc gia coi trọng con người, luôn xem trọng người tài thì đất nước sẽ phát triển bền vững. Có thể lấy ví dụ như đất nước Nhật Bản, họ luôn khẳng định mình là quốc gia vững mạnh trên thế giới, nhờ vào sự xem trọng hiền tài để phát huy khả năng của họ. Còn như ở dân tộc ta, câu nói này lại càng khẳng định điều đó. Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm với những mất mát, hi sinh để chống lại quân xâm lược, giành lại độc lập tự do như ngày hôm nay. Và để làm được điều đó, chắc chắn không thể không kể đến công lao của những bậc hiền tài, tiêu biểu là Hồ Chí Minh, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt… Nếu như không có những bậc hiền tài, những công thần đó đã đi đúng hướng, thì liệu chúng ta có được như ngày hôm nay hay không? Đó chính là nhờ tài đức của những bậc hiền tài đó. Họ là người tài giỏi, và họ lại có đức, họ sẵn sàng hy sinh bản thân mình đề cống hiến cho cả dân tộc. Đây đều là những tấm gương sáng để thế hệ sau noi theo và học tập. Và điều tác giả muốn nói đến ở đây, không chỉ đơn giản là coi trọng hiền tài. Mà chúng ta cần phải tìm kiếm, đào tạo, phát triển những người có khả năng gánh vác và đóng góp cho quốc gia. Một quốc gia có nhiều hiền tài, người vừa có tài lại vừa có đức, quốc gia đó sẽ nhanh chóng phát triển. Nhưng để nói và làm lại là hai điều hoàn toàn khác nhau. Thực trạng đáng buồn hiện nay là những người tài giỏi lại không có cơ hội để phát triển vì nhiều lý do. Có thể do môi trường không đủ điều kiện để họ phát triển, cũng có thể do họ không được trao cho cơ hội, định hướng để phát triển đúng đắn. Vậy nên điều chúng ta cần làm hiện nay, đó là làm sao để không để xảy ra tình trạng chảy máu chất xám. Chúng ta có người tài, nhưng lại không biết làm sao để phát triển tài năng ấy. Như vậy sẽ rất lãng phí, và quan trọng là ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của đất nước. Qua đây có thể thấy, đối với một quốc gia thì việc xem trọng người tài đức là một việc vô cùng quan trọng. Những quốc gia biết cách sử dụng người tài, sẽ là những quốc gia giàu mạnh. Mỗi người trong chúng ta hãy cùng nhau cố gắng, để đất nước ta ngày càng có nhiều hiền tài, để đất nước ngày càng phát triển hơn, như câu nói của Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì nước yếu, rồi xuống thấp.” Một trong những phương thức để các quốc gia phong kiến hưng thịnh, trường tồn chính là chiêu hiền, đãi sĩ. Nhận thức về vai trò của các bậc hiền tài đối với vận mệnh quốc gia, trong Bài kí đề danh tiến sĩ, Thân Nhân Trung đã viết: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Cần thiết phải thấy rằng Thân Nhân Trung không viết “nhân tài” mà là “hiền tài”. Theo quan niệm của người xưa, hiền tài là người có cả tài năng và đức hạnh. Hiền tài là những người học rộng, biết nhiều, có tài kinh bang tế thế, là người có phẩm chất đạo đức mẫu mực, vẹn toàn. Về khái niệm “nguyên khí”, trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa đã có nhiều sách như Bạch Hổ Thông, Đường thư…đề cập. Ở đây, Thân Nhân Trung đã vận dụng một cách sáng tạo ý nghĩa trong sách Đường thi, theo đó, có thể hiểu “nguyên khí quốc gia” chính là tinh khí, khí chất, là cái hồn cốt của dân tộc ấy. Lịch sử các triều đại phong kiến đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hiền tài và sự thịnh suy của các triều đại, của quốc gia. Nhưng chỉ đến Thân Nhân Trung, vấn đề “hiền tài là nguyên khí” của quốc gia mới trở thành một đường lối chiến lược về văn hóa, giáo dục. Đến năm Hồng Đức thứ mười tám (1487), tư tưởng ấy một lần nữa được nhắc lại trong bài kí đề bia Tiến sĩ khoa Đinh Mùi: Nếu không có người tài đông đảo thì làm sao có được sự thịnh trị thanh bình và muốn có nền giáo hóa, đất nước thịnh trị thì cái gốc của nó là phải có hiền tài. Quan niệm “hiền tài là nguyên khí quốc gia” do Thân Nhân Trung đưa ra đã được vương triều phong kiến từ thời Lê Thánh Tông trở đi coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hóa giáo dục.
For every country to develop richly and sustainably, the human factor is extremely important. People have a strong new rich in the country. A country with many talented people will have the ability to enrich the country. And the saying: "Talent is the vital energy of the nation" by Than Nhan Trung has great motivating value in this issue. What do we understand by talent? Talented people mean talented people, capable of working, with virtue, and a virtuous heart. They have important contributions and correct opinions for the development of businesses in particular and the country in general. Talented and honest people will contribute significantly to the prosperous development of the country. According to Than Nhan Trung's opinion: "Talent is the vital energy of the nation. If the vital energy is strong, the country will be strong, then it will rise, if the natural energy is weak, the country will be weak, then it will decrease." It can be seen that this is an inevitable rule of each country. Countries that value people and always value talented people will have a sustainable development. We can take Japan as an example. They always assert themselves as a strong country in the world, thanks to their respect for talented people to promote their abilities. As for our people, this saying even more confirms that. Our country has gone through thousands of years of losses and sacrifices to fight invaders and regain independence and freedom today. And to do that, it is certainly impossible not to mention the contributions of talented people, typically Ho Chi Minh, Tran Quoc Tuan, Ly Thuong Kiet... If it weren't for those talented people and heroes. If we were on the right track, would we be where we are today? That is thanks to the virtue of those talented people. They are talented, and they have virtue, they are willing to sacrifice themselves to contribute to the whole nation. These are all shining examples for the next generation to follow and learn from. And what the author wants to talk about here is not simply valuing talent. We need to find, train, and develop people who are able to shoulder and contribute to the nation. A country with many talented people, people who are both talented and virtuous, that country will quickly develop. But to say and to do are two completely different things. The current sad situation is that talented people do not have the opportunity to develop for many reasons. It may be because the environment is not favorable for them to develop, or it may be because they are not given the opportunity or direction to develop properly. So what we need to do now is to avoid brain drain. We have talented people, but we don't know how to develop that talent. This would be very wasteful, and importantly affect the long-term development of the country. From here we can see that for a country, valuing talented and virtuous people is extremely important. Countries that know how to use talented people will be rich and strong countries. Let each of us try together so that our country has more and more talented people, so that the country becomes more and more developed, as Than Nhan Trung said: "Talent is the nation's vitality, the source If the energy is strong, the water will be strong, then it will rise higher; if the vital energy is weak, the water will be weak, then it will go down." One of the ways for feudal countries to prosper and endure is to treat wise men and women. Aware of the role of talented people in the nation's destiny, in the Doctor's Nomination Memoir, Than Nhan Trung wrote: Talent is the vital energy of the nation, when the vital energy is strong, the country will be strong, then it will rise. high, the vital energy is weak, the water is weak, then low. It is necessary to see that Than Nhan Trung did not write "talent" but "talent". According to ancient beliefs, a talented person is a person who has both talent and virtue. Talented people are people who are well-educated, know a lot, have great economic talent, and are people with exemplary and perfect moral qualities. Regarding the concept of "principal energy", in the treasury of ancient Chinese bibliographies, many books such as Bach Ho Thong, The Book of Tang... have mentioned. Here, Than Nhan Trung has creatively applied the meaning in the book Duong Thi, according to which, "national energy" can be understood as the essence, temperament, the soul of that nation. The history of feudal dynasties has shown the close relationship between talent and the rise and fall of dynasties and nations. But it was only with Than Nhan Trung that the issue of "talent is the nation's natural energy" became a strategic policy on culture and education. In the eighteenth year of Hong Duc's reign (1487), that thought was once again reiterated in the inscription inscribed on the stele of Doctor of Science Dinh Mui: If there are not many talented people, how can there be peaceful prosperity and prosperity? If there is education and a prosperous country, its root is to have talent. The concept of "talent is the national resource" proposed by Than Nhan Trung was considered an important idea in the national cultural and educational policy by the feudal dynasty from the reign of Le Thanh Tong onwards.
Nhà văn Lỗ Tấn (1881- 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ông là nhà văn hiện thực rất nổi bật và xuất sắc của Trung Quốc, có tư tưởng yêu nước tiến bộ. Truyện ngắn “ Cố hương” là một tác phẩm tiêu biểu của ông, kể vè một chuyến trở lại thăm quê hương của tác giả sau bao năm xa cách. Tác phẩm khép lại bằng hình ảnh con đường, để lại trong tâm trí người đọc nhiều trăn trở và suy nghĩ. Câu nói của tác giả: “ Trên đời làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.” Con đường ông nhắc đến ở đây liệu có mang ý nghĩa sâu xa nào không? Có lẽ con đường vừa mang ý nghĩa thực, vừa là hình ảnh mang tính biểu tượng trong suy nghĩ của tác giả. Lỗ Tấn đi xa quê hơn 20 năm, có thể đây là lần cuối cùng ông về thăm lại quê hương. Ông muốn đưa gia đình của mình đến định cư ở nơi khác cùng ông. Nhưng nhìn con đường về quê với khung cảnh tiêu điều, nhà cửa thưa thớt, hoang vu khiến tâm trạng của ông như trùng xuống. Khi ông được trở về nhà, về quê hương nơi mình đã sinh ra, Lỗ Tấn nhận ra làng quê của mình vẫn như xưa, không có gì đổi mới. Một làng quê đang dần trì trệ, hay nói đúng hơn là chậm phát triển, dường như không có lối thoát với rất nhiều hủ tục xưa cũ, nặng nề. Xã hội phong kiến Trung Hoa hà khắc đã khiến cho những người nông dân nghèo khổ, lạc hậu phải lâm vào bước đường cùng. Họ thật dáng thương, bị đẩy xuống tận cùng của xã hội, nhưng lại không đủ can đảm để thay đổi số phận. Lỗ Tấn nhận ra rằng, quê hương của ông cần phải có con đường mới, một hướng đi mới để có thể phát triển hơn, chứ không thể trì trệ như bây giờ. Con đường mà Lỗ Tấn nhắc đến ở đây, có lẽ là con đường của tự do, của hạnh phúc, của niềm vui và hi vọng. Và để tạo nên được con đường đó, cẩn phải có nhiều người cùng chung sức, chung lòng. Ông khẳng định rằng: Trên đời vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.” Sự khẳng định này có lẽ chính là niềm tin của ông vào sự xuất hiện một con đường mới, do chính những con người nơi đây tạo ra. Con đường là cuộc sống mới, một nơi mà con người sẽ sống với sự tiến bộ và văn minh hơn, không còn là xã hội phong kiến hà khắc, lạc hậu của người dân Trung Hoa. Có thể thấy, chỉ với một câu nói, một hình ảnh, nhưng điều Lỗ Tấn muốn gửi gắm đến người đọc, chính là cần phải dũng cảm đứng lên mở ra một con đường mới, một chân trời mới với mỗi người, hướng đến cuộc sống văn minh, tươi đẹp với tất cả chúng ta. Xa quê hương mấy chục năm xa cách Mãi trong ta nhớ miền quê yêu dấu Cánh đồng xanh lưng trâu chim sáo đậu Nghe quê hương đất mẹ gọi ta về. Đó chính là tâm trạng của một con người sau bao nhiêu năm xa quê, từng hình ảnh, từng kĩ niệm của tuổi thơ có lẽ sẽ không bao giờ quên được. Và cũng cái tâm trạng ấy, con người ấy còn đi vào các tác phẩm văn học. Một trong những tác phẩm văn học có để lại dấu ấn sâu sắc trong tôi là Cố Hương của Lỗ Tấn. Và trong truyện, có lẽ hình ảnh ‘con đường’ được tác giả nhắc đến để lại cho người đọc nhiều cảm xúc nhất, nổi bâng khuâng, suy nghĩ chất chứa trong lòng.
Writer Lu Xun (1881- 1936) real name is Zhou Shuren, from Zhejiang province, China. He is a very prominent and outstanding Chinese realistic writer, with progressive patriotic ideas. The short story "The Old Country" is a typical work of his, telling about the author's return to visit his homeland after many years away. The work ends with the image of a road, leaving the reader with many concerns and thoughts. Author's quote: "There are no roads in this world, if people keep walking, they will become roads." Does the path you mention here have any profound meaning? Perhaps the road has both a real meaning and a symbolic image in the author's mind. Lu Xun has been away from home for more than 20 years, and this may be the last time he returns to visit his homeland. He wanted to take his family to settle elsewhere with him. But looking at the road back to his hometown with desolate scenery, sparse houses, and desolation made his mood sink. When he returned home, to his hometown where he was born, Lu Xun realized that his village was still the same as before, nothing had changed. A village that is gradually stagnating, or rather, slowly developing, seems to have no way out with many old and heavy customs. China's harsh feudal society forced poor and backward farmers into a dead end. They are pitiful, pushed to the bottom of society, but do not have the courage to change their fate. Lu Xun realized that his homeland needed a new path, a new direction to develop more, not stagnate like now. The path that Lu Xun mentions here is probably the path of freedom, happiness, joy and hope. And to create that path, there must be many people working together and sharing the same heart. He affirmed that: There are no roads in the world, if people keep walking, they will become roads. This affirmation is probably his belief in the emergence of a new path, created by the people here. The road is a new life, a place where people will live with more progress and civilization, no longer the harsh, backward feudal society of the Chinese people. It can be seen that with just one sentence and one image, what Lu Tan wants to convey to the reader is the need to courageously stand up and open a new path, a new horizon for each person, towards the future. A civilized, beautiful life for all of us. Being away from home for decades We will always remember our beloved countryside Green fields with buffalo backs and starlings perching Listen to our motherland calling us home. That is the mood of a person after many years away from home, every image, every memory of childhood will probably never be forgotten. And that same mood, that person also goes into literary works. One of the literary works that left a deep impression on me is Lu Xun's Guxiang. And in the story, perhaps the image of the 'road' mentioned by the author leaves the reader with the most emotions, filled with sadness and thoughts.
Nhà văn Nguyễn Thành Long( 1925-1991), quê ở huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Ông có rất nhiều tác phẩm hay ở các thể loại truyện, bút ký, thơ và cả phê bình văn học. Tiêu biểu trong đó phải kể đến truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa”, được ra đời trong chuyến đi công tác Lào Cai của ông. Câu truyện làm nổi bật lên vẻ đẹp bình dị của những con người với những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Và nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Hình ảnh anh thanh niên trong câu truyện được khắc họa đậm nét, rõ rệt trong từng trang viết. Anh là một người yêu nghề, yêu công việc mình đang làm. Anh làm với một tấm lòng nhiệt huyết đam mê, không quản ngại khó khăn để hoàn thành công việc được giao. Anh sống bình lặng và giản dị “ một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, bốn bể chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo.” Cuộc sống của anh hiện lên có một chút gì đó vô cùng tẻ nhạt và buồn chán. Anh là một thanh niên, người đang còn trẻ, ở độ tuổi sung sức, cần một cuộc sống tươi vui, mới mẻ, nhưng anh lại sẵn sàng cống hiển tuổi xuân của mình vì công việc. Cuộc sống của anh buồn tẻ đến mức, bác lái xe còn gọi anh là “ người cô độc nhất thế gian”. Cô độc như vậy nhưng anh luôn có một tình yêu với nghề sâu sắc và làm việc với một sự nhiệt huyết vô cùng. Đức tình này của anh thật đáng quý. Anh yêu nghề đến mức tâm sự với mọi người rằng “ công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”. Có lẽ đối với anh, công việc chính là tình yêu, là lẽ sống. Niềm vui của anh là ở những trang sách, ở công việc anh đang làm. Anh chính là tấm gương đáng để những người trẻ hiện nay cần noi theo, đó là phải luôn yêu công việc mình đang làm, và làm việc với một tâm thế tràn đầy nhiệt huyết, không ngại khó khăn. Chắc hẳn khi đọc đến một người thanh niên như vậy, chúng ta đang hình dung ra một người sống chỉ biết công việc, ngại giao tiếp với mọi người. Nhưng không, anh lại rất “ thèm người”. Anh rất hiếu khách, nhiệt tình mỗi khi có người đến chơi. Anh vui vẻ tiếp đón, kể cho họ nghe về cuộc sống, về con người và nét đẹp của vùng đất Sa Pa, nơi mà anh đang sống và làm việc. Chính những điều này làm cho hai nhân vật là ông họa sỹ và cô kỹ sư trẻ thêm phần yêu quý anh, dành cho anh tình cảm đặc biệt. Anh còn tặng hoa cho cô kỹ sư và gói trà cho ông họa sỹ già. Hành động quan tâm, chia sẻ với người khác của anh, khiến cho người đọc một lần nữa cảm thấy ngưỡng mộ và khâm phục. Và dù là con người đáng quý như vậy, nhưng anh lại rất khiêm tốn. Anh đang làm một công việc có những đóng góp quan trọng cho đất nước, nhưng anh lại cảm thấy điều đó là bình thường. Anh thấy mình thật nhỏ bé so với những người khác. Vì vậy, khi ông họa sỹ già muốn phác thảo chân dung anh vào cuốn sổ tay, anh ngượng ngùng và khiêm tốn nói rằng: “ không không, bác đừng mất công vẽ cháu, để cháu giới thiệu cho bác những người đáng vẽ hơn.” Anh thanh niên yêu công việc, nhiệt huyết với công việc, ngày đêm thầm lặng cống hiến cho đất nước nhưng lại khiêm tốn như vậy đấy. Đức tính này của anh thật đáng quý, đây là một đức tình cần có ở thế hệ trẻ, nhưng không phải ai cũng như vậy. Bằng giọng văn nhẹ nhàng trữ tình, những trang viết mộc mạc chân thực, Nguyễn Thành Long đã khiến cho người đọc cảm thấy thổn thức, nhớ nhung sau từng trang viết. Và qua nhân vật anh thanh niên ấy, có lẽ tác giả muốn gửi gắm đến người đọc về một cuộc sống tươi đẹp, nơi có những con người vẫn đang thầm lặng hy sinh, cần mẫn làm việc để chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Writer Nguyen Thanh Long (1925-1991), native of Duy Xuyen district, Quang Nam province. He has many good works in the genres of stories, memoirs, poetry and even literary criticism. A typical example is the short story "Quiet Sa Pa", which was born during his business trip to Lao Cai. The story highlights the simple beauty of people with sincere and warm feelings in a life full of love and trust. And the character of a young man who works in meteorology and geophysics has left readers with a lot of emotions. The image of the young man in the story is portrayed boldly and clearly in each page. He is a person who loves his profession and loves the job he is doing. He works with enthusiasm and passion, not afraid of difficulties to complete the assigned work. He lives a quiet and simple life "alone on the 2600m high Yen Son peak, with four lakes filled with only trees and cold clouds." His life appears to be somewhat boring and boring. He is a young man, who is still young, in his prime, in need of a new, joyful life, but he is willing to devote his youth to his work. His life was so boring that the driver even called him "the loneliest person in the world". Despite being so lonely, he always had a deep love for his job and worked with great enthusiasm. This kindness of yours is so precious. He loved his job so much that he confided to everyone that "my job is so arduous, if I take it away, I will die of sadness." Perhaps for him, work is love and life. His joy is in the pages of books, in the work he is doing. He is a worthy example for today's young people to follow, which is to always love the work you are doing, and work with a spirit full of enthusiasm, not afraid of difficulties. Surely when we read about a young man like that, we are imagining a person who only knows how to work and is afraid of communicating with people. But no, he really "craves people". He is very hospitable and enthusiastic whenever someone comes to visit. He happily welcomed them and told them about life, the people and the beauty of Sa Pa, where he lives and works. These are the things that make the two characters, the artist and the young engineer, love him more and give him special affection. He also gave flowers to the engineer and a tea bag to the old artist. His actions of caring and sharing with others make readers once again feel admiration and admiration. And even though he is such a precious person, he is very humble. He is doing a job that makes important contributions to the country, but he feels that is normal. He felt very small compared to others. So, when the old artist wanted to sketch his portrait in his notebook, he shyly and humbly said: "No no, don't waste your time drawing me, let me introduce you to people more worthy of drawing." .” The young man loves his job, is enthusiastic about his work, day and night silently contributes to the country but is so humble. This quality of yours is very precious, this is a virtue that is needed in the young generation, but not everyone is like that. With a gentle, lyrical voice and rustic and authentic pages, Nguyen Thanh Long makes readers feel sobbing and nostalgic after each page. And through the character of that young man, perhaps the author wants to convey to readers about a beautiful life, where there are people who are still silently sacrificing and working diligently so that we can have a good life. more beautiful.
Bài làm Nhà thơ Y Phương là một nhà thơ có cách viết vô cùng khác lạ độc đáo, một nét đặc trưng của người dân tộc Tày. Trong những bài thơ của ông thể hiện tiếng lòng vô cùng gần gũi, giản dị, một cuộc sống yêu thương bình dị. Bài thơ “Nói với con” thể hiện cho phong cách sáng tác của tác giả y Phương. Bài thơ chính là những lời tâm sự thủ thỉ của người cha dành cho đứa con bé bỏng của mình khi con chào đời, lớn lên và đi xa. Nói với con là những lời thủ thỉ, chuyện trò của người cha dành cho đứa con thơ của mình, từ khi con chỉ là giọt máu và lọt lòng mẹ sống trong bàn tay yêu thương che chở của cha mẹ. Mạch cảm xúc của toàn bộ bài thơ chính là những lời tâm sự yêu thương, xuyên suốt cuộc đời của một đứa trẻ. Mở đầu bài thơ chính là khi con còn nhỏ những lời của Y Phương đã gợi lên một bức tranh gia đình vô cùng hạnh phúc. Châm phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước chạm tiêng cười Một người con khi sinh ra đời được nhận nhiều tình cảm yêu thương của ba mẹ, được nhận rất nhiều những nỗi niềm lo lắng của ba mẹ thì con cái mới có thể trưởng thành nên vóc nên hình. Từ khi con tập đi chấp chững những bước đi đâu đời thì con đã có một vị trí không thể thiếu trong lòng của ba mẹ. Trong một không gian bao la ấp áp đó từng nhịp của bài thơ thể hiệ một bức tranh gia đình hạnh phúc. Cuộc sống ngoài kia dù có nhiều khó khăn, nhiều giông bão nhưng trong ngôi nhà của mình thì con luôn được yêu thương. Ông đã vẽ lên hình ảnh đứa con của mình khi còn thơ bé, còn chập chững những bước đi đầu đời trên con đường mênh mông rộng lớn. Phân tích bài thơ “Nói với con” Trong khổ thơ tiếp theo nhà thơ Y Phương đã mở rộng không gian nhiều hơn, nói về người quê hương của mình. Về truyền thống của người đồng bào dân tộc Tày và dạy cho con của mình những tinh thần quả cảm, biết ơn, biết nhớ tới nguồn cội của mình dù đi đâu, làm gì, ở đâu. Người đồng bào mình thương lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời Những người đồng bào dân tọc giản dị, mộc mạc, những con người chăm chỉ vô cùng tinh tế khéo léo trong công việc cuộc sống thường ngày. Cuộc sống của những người đồng bào dân tộc gắn liền với việc làm rẫy, làm nương, công việc vất vả nhưng ý nghĩa và cho họ những niềm vui trong cuộc sống. Những người đồng bào dân tọc luôn sống khăng khíp bên nhau, đoàn kết sẻ chia giúp đỡ lẫn nhau. Họ luôn giúp đỡ nhau vượt lên khó khăn, những người dân tộc luôn có tinh thần tương thân tương ái vô cùng cao. Tác giả Y Phương đã nói con của mình biết truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc mình. Tác giả muốn con của mình hay trân trọng quê hương này, quê hương của những người kiên cường, thủy chung son sắc, dù sau này đi đâu làm gì thì quê hương vẫn luôn là nguồn cội của mỗi chúng ta. Tác giả cũng nhắc lại ngày cưới của mình chính là ngày cha mẹ thành đôi, nhờ có ngày này mà có con ra đời sản phẩm kết tinh của tình yêu. Y Phương muốn con của mình hiểu rằng tất cả đều có nguồn gốc của nó. Cao đô nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Sống trên đá không chê đá gập ghènh Sông trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Mỗi chúng ta sinh ra ai cũng sẽ có những khi gặp sóng gió, kho khăn thử thách, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải có nghị lực để vượt qua những khó khăn thử thách của mình. Chiến thắng chính bản thân mình đó là chiến thắng vô cùng vẻ vang. Tác giả đã nhắn nhủ tới con của mình không nên quên đi nguồn cội dù nguồn cội có nghèo khổ thì cũng có những ưu điểm của mình. Điệp từ “sống” được đặt ở những câu thơ thơ thể hiện một sức sống mãnh liệt bền bỉ mà tác giả muốn gửi gắm tới con cái của mình. Đó là một chân lý sống không bao giờ chịu khuất phục hay đầu hàng số phận. Đó cũng là một lời mà tác giả muốn gửi gắn tới con trai của mình. Cuộc sống dù khó khăn tới mấy thì chỉ cần ý chí của con người vững vàng sẽ không bao giờ gục ngã, không bao giờ lo lắng khi chúng ta gặp khó khăn thử thách Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Những người dân tộc của chúng ta tuy nghèo về vật chất nhưng không bao giờ nghèo ý chí, tinh thần. Trong mỗi con người đồng bào dân tộc Tày đều có ý chí sống mạnh mẽ kiên cường, dũng cảm. Tác giả Y Phương muốn con của mình hãy nhớ lấy những lời dạy đó để phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương mình, không bao giờ gục ngã trước khó khăn
Assignment Poet Y Phuong is a poet with an extremely unique writing style, a characteristic of the Tay ethnic people. In his poems, he expresses a very close and simple heart, a simple love life. The poem "Talk to your child" represents the author Y Phuong's writing style. The poem is the father's whispered words to his little child when the child is born, grows up and goes away. Talk to your child are the whispers and conversations a father has for his young child, since the child was just a drop of blood and born into the mother's womb living in the loving and protective hands of the parents. The emotional flow of the entire poem is the love confessions throughout a child's life. The beginning of the poem is when Y Phuong was a child, Y Phuong's words evoked a picture of an extremely happy family. Cham had to walk towards his father Left foot steps towards mother One step to touch the voice Two steps to laughter When a child is born, he receives a lot of love and affection from his parents and receives a lot of his parents' worries so that the child can grow into a good figure. Since I learned to walk and took my first steps in life, I have had an indispensable place in my parents' hearts. In that vast, warm space, each beat of the poem represents a picture of a happy family. Even though life out there has many difficulties and storms, in my house you are always loved. He drew the image of his child when he was still a baby, still taking his first steps on the vast road. Analysis of the poem "Talk to me" In the next stanza, poet Y Phuong expanded the space more, talking about her hometown people. About the traditions of the Tay ethnic people and teach their children the spirit of courage, gratitude, and remembering their roots no matter where they go, what they do, or where they are. My compatriots love me very much Weaving with spokes The walls of the house sing songs The forest gives flowers The path for the hearts Parents always remember their wedding day The most beautiful first day in life The ethnic people are simple, rustic, hard-working people who are extremely sophisticated and skillful in their daily work. The lives of ethnic minorities are associated with farming, farming, hard but meaningful work that gives them joy in life. The ethnic minorities always live closely together, united, sharing and helping each other. They always help each other overcome difficulties, ethnic people always have an extremely high spirit of solidarity. Author Y Phuong said her children know that good tradition of their people. The author wants his children to cherish this homeland, the homeland of resilient and faithful people. No matter where we go in the future, our homeland will always be the origin of each of us. The author also recalled that his wedding day was the day his parents became a couple, thanks to this day, a child was born, the crystallized product of love. Y Phuong wants her children to understand that everything has its origin. High capital of sadness Far from raising great ambition Living on rocks doesn't mean rocks are bumpy The river in the valley does not criticize the valley for poverty Live like a river like a stream Up the waterfall and down the rapids Don't worry about hardship Each of us is born and there will be times when we encounter turbulence and difficulties, but the important thing is that we must have the strength to overcome our difficulties and challenges. Winning over yourself is an extremely glorious victory. The author reminded his children not to forget their roots, even if they are poor, they still have their advantages. The refrain "live" is placed in the poetic verses, expressing a strong and enduring vitality that the author wants to convey to his children. It is a truth of life to never surrender or surrender to fate. That is also a word that the author wants to send to his son. No matter how difficult life is, as long as a person's will is strong, he will never give up, never worry when he We encounter difficulties and challenges People with rough skin and flesh Not many people are small Although our people are poor in material things, they are never poor in will or spirit. In every person of the Tay ethnic group, there is a strong, resilient and courageous will to live. Author Y Phuong wants her children to remember those teachings to promote the good traditions of their homeland, never to give up in the face of difficulties.
Bài làm “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm vô cùng xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng viết về đề tài chiến tranh vô cùng xúc động. Ông Sáu và bé Thu là nhân vật hai cha con vô cùng tình cảm, khi chiến tranh xảy ra họ bị chia cắt. Xuyên suốt truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đó chính là tình cảm cha vô cùng xúc động, truyện kể về ông Sáu một người chiến sĩ cách mạng vì chiến tranh nên phải chia chắt với gia đình mình. Ông tham gia kháng chiến khi con gái ông mới được một tuổi. Chiến tranh liên miên khiến cho ông không có cơ hội gặp được con của mình. Một lần bị thương ông Sáu tưởng như đã thiết mạng nhưng qua khỏi trên khuôn mặt ông có một vết seo lớn. Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua Chiếc lược ngà Ông Sáu được nghỉ phép nên về thăm con ba ngày và trong ba ngày đó ông được gần gũi con gái bé bỏng của mình. Đó là một dịp may vô cùng hiếm có, nên ông vô cùng mong chờ, khi thuyền vừa cập bến ông Sáu đã nhảy vội lên bờ, và đi về nhà vừa nhìn thấy bé Thu ông Sáu liền ôm chầm lấy con của mình. Nhưng đáp lại tình cảm của ông Sáu bé Thu gỡ tay của ba ra và chạy đi. Khi có một người đàn ông hoàn toàn xa lạ ôm lấy mình bé Thu phản ứng như vậy là điều hoàn toàn dễ hiểu. Nên việc nó chạy đi là phù hợp tâm lý của một đứa trẻ. Bé Thu không nhận ra ông Sáu bởi vì bé Thu chỉ biết ba mình qua những bức ảnh ngày cưới mà ba mẹ để lại. Một sự tránh né phũ phàng của người con dành cho ba của mình. Bức ảnh ngày cưới của ông Sáu là bức ảnh cách đây cả chục năm, ngày ấy ông Sáu còn trẻ trung phong độ chưa bị mưa nắng thời gian làm cho phai nhạt, chưa có vết sẹo trên khuôn mặt của mình nên bé Thu làm sao nhận ra được người cha của mình. Khi bé Thu gỡ tay ba mình ra nó không ngờ rằng đó chính là vòng tay của người ba mà nó đã mong ước từ rất lâu. Trong khi ông Sáu luôn muốn được gần gũi thân thiết với con gái của mình, thì bé Thu lại luôn lảng tránh. Những ngày ở nhà ông luôn tìm cách để bù đắp cho con sau những tháng năm xa cách. Nhưng con bé luôn lảng tránh, nếu má có kêu nó bảo ba vào ăn cơm thì nó cũng chỉ gọi trống không vô ăn cơm. Nó thể hiện thái độ vô cùng lạnh lùng, nhưng trong thâm tâm bé Thu là một cô bé vô cùng sống nội tâm tình cảm dù vẻ ngoài khá cá tính, gai góc. Việc Thu lành lùng có nguyên nhân của no bởi nó không muốn một người đàn ông lạ thay thế ba của mình, chỉ có điều Thu không hiểu được đo chính là người ba mà nó mong đợi. Nhưng rồi bé Thu đã được bà ngoại giải thích về việc ba của nó những vết sẹo trên mặt. Nó thương ba vô cùng ngày ông Sáu đi chiến trường tạm biệt bé Thu nó đã ôm ba mà khóc. Tình cảm bị dồn nén mong đợi đã lâu nay bộc phát làm cho tất cả vỡ òa trong cảm xúc.
Assignment "The Ivory Comb" is an extremely excellent work by Nguyen Quang Sang written about the extremely emotional topic of war. Mr. Sau and little Thu are extremely emotional father and son characters, when the war broke out they were separated. Throughout the short story "The Ivory Comb" there is an extremely touching fatherly sentiment. The story is about Mr. Sau, a revolutionary soldier who, because of the war, had to separate his great-grandchildren from his family. He joined the resistance when his daughter was only one year old. The constant war gave him no chance to see his children. Once injured, Mr. Sau thought his life was fatal, but he survived with a large scar on his face. Thinking about family love life during the war through The Ivory Comb Mr. Sau was on leave so he visited his child for three days and during those three days he was close to his baby daughter. It was an extremely rare opportunity, so he was extremely looking forward to it. As soon as the boat docked, Mr. Sau jumped ashore, and when he went home, when he saw little Thu, Mr. Sau immediately hugged his child. But in response to Mr. Sau's feelings, little Thu removed her father's hand and ran away. When a completely strange man hugged her, Thu's reaction was completely understandable. So for him to run away is in accordance with the psychology of a child. Little Thu didn't recognize Mr. Sau because little Thu only knew her father through the wedding day photos her parents left behind. A cruel avoidance of a son towards his father. The photo of Mr. Sau's wedding day is a photo from ten years ago. At that time, Mr. Sau was still young and handsome, not yet faded by the rain and sun of time. There were no scars on his face, so what did little Thu do? recognized his father. When little Thu removed her father's hand, she did not expect that it was the father's arms that she had wished for for a long time. While Mr. Sau always wanted to be close to his daughter, little Thu always avoided her. During his days at home, he always found ways to make up for his children after the months of separation. But she was always evasive. If her mother asked her to tell her father to come eat, she would just call her to come eat. She shows an extremely cold attitude, but in her heart, Thu is a very introverted and emotional girl despite her quite personality and prickly appearance. The reason for Thu's kindness is because she doesn't want a strange man to replace her father, but what Thu doesn't understand is that it's the father she's been waiting for. But then little Thu was told by her grandmother about her father's scars on his face. He loved his father so much that when Mr. Sau went to the battlefield to say goodbye to little Thu, he hugged his father and cried. The long-awaited pent-up emotions burst out, causing everyone to burst into tears.
Bài làm Mùa xuân chính là mùa đẹp nhất trong năm, cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận của những nhà văn nhà thơ của nước ta. Trong những bài thơ viết về mùa xuân bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải mang vẻ đẹp vô cùng gợi cảm, làm say đắm lòng người. Mùa xuân ở trong bài thơ của nhà thơ Thanh Hải có một sức sống vô cùng mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Thông qua từng câu thơ tác giả đã khái quát lên vẻ đẹp của quê hương chúng ta và con đường lịch sử mà dân tộc chúng ta đã đi qua. Mở đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” nhà thơ Thanh Hải đã vẽ lên một bức tranh chân dung vô cùng tươi đẹp giản dị nhưng lại có sức sống mạnh mẽ làm rung động trái tim của những thính giả. Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Bức tranh thiên nhiên mới sinh động làm sao một dòng sông xanh quanh co được uốn lượn tựa như những khúc vẽ quanh co vô cùng mượt mà. Trên những gam màu xanh nổi lên thật đẹp mắt, những bông hoa tím tím biêng biếc tạo nên một điểm nhấn nổi bất trên dòng sông xanh mơ màng. Ngoài xa có những bông hoa màu vàng bên cạnh nhưng bông hoa màu tím tạo nên một bức tranh nhiều điểm nhấn. Nhà thơ Thanh Hải đã sử dụng ngôn ngữ thơ vô cùng nghệ thuật vừa giản dị gần gũi với người đọc. Nhà thơ Thanh Hải đã tinh tế khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo ngữ đẻ tạo nên một vẻ đẹp quyến rũ của bài thơ và cảnh vật xứ Huế mộng mơ cho toàn bài thơ. Tiếng chim hót của con chim chiền chiện như reo vang toàn trời đất, khiến cho trời đất giao hòa làm một. Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng Trong những câu thơ tiếp theo của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ta thấy được những giọt mưa xuân trong đất trời mùa xuân như reo vui, bởi đất trời của quê hương ta đang thay áo mới. Bằng một cảm nhận cảm nhân vô cùng dịu dàng tinh tế, nhà thơ Thanh Hải đó là những tiếng chim hót, một sự sáng tạo vô cùng mới mẻ của tâm hồn đa cảm với cái đẹp đó. Từ vẻ đẹp của mùa xuân nơi xứ Hếu nhà thơ thể hiện được mùa xuân đổi mới trên quê hương đất nước chúng ta. Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đông Lộc trải dài nương lúa Hình ảnh người cầm súng là hình ảnh kiên cường anh dũng của những người chiến sĩ luôn muốn bảo vệ quê hương tổ quốc của chúng ta. Những người phụ nữ thì ra đồng làm nương, trồng lúa sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho quê hương được phát triển. Hình ảnh lộc non chồi biếc chính là một cuộc sống mới nhiều an lành thanh bình của mùa xuân mới trên đất nước ta. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải Tất cả mọi thứ tạo nên một mùa xuân mới nhiều sức sống, bình yên và hạnh phúc trên quê hương Việt Nam chúng ta. Lúc này, nhà thơ Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh nhưng tác giả vẫn luôn mong muốn cống hiến sức lực của mình cho quê hương đất nươc. Mong ước trở thành một con người có ích cho quê hương mới. Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao.. Trong những câu thơ này nhà thơ Thanh Hải sử dụng những từ lấy tạo nên sự nhộn nhịp, vui vẻ, xốn xang cho bài thơ. Những âm thanh ấy tạo nên một lịch sử quê hương bốn nghìn năm anh dũng, kiên cường. Đất nước chúng ta đã trải qua nhiều khó khăn thử thách nhưng chúng ta vẫn luôn hiên ngang tiến lên phía trước. Đất nước bốn ngàn năm Vất ả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước Đất nước chúng ta đã đi lên từ những khó khăn thử thách, một đất nước với truyền thống lịch sử có nhiều thăng trầm trong lịch sử. Chính cảm xúc hối hả, xôn xao đó đã tạo nên một bức tranh quê hương mới. Nhà thơ đã tạo nên một bài thơ vô cùng hiên ngang tạo nên một vẻ đầy tự hào dân tộc. Những caia thơ đã tạo được nhiều xúc cảm cho người đọc. Trong không khí hào hoa tưng bừng của mùa xuân quê hương đất nước, nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận được từng sự thay đổi trên cành cây ngọn cỏ của đất nước, đó là một mùa xuân vui vẻ của lòng người và của đất trời. Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến Trong những câu thơ tiếp theo của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thể hiện một bức tranh vô cùng tươi đẹp, những nét đẹp vô cùng trẻ trung. Khổ thơ như một lời hoan ca của tác giả dành cho quê hương tươi đẹp của chúng ta. Trong những câu thơ này đã nói lên mơ ước của tác giả mong muốn trở thành một người có ích đóng góp sức lực của mình cho quê hương, dù là chúng ta trẻ trung hay già cỗi nhưng cũng mong muốn mình có được những giây phút có ý nghĩa. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc Trong những câu thơ này thể hiện một mong muốn vô cùng nhân văn của tác giả, nói lên quy luật tuần hoàn của tạo hóa. Con người ta ai cũng sinh ra lớn lên rồi chết đi, nhưng trong quá trình chúng ta sống ai cũng mong muốn mình sống có ý nghĩa có đóng góp cho quê hương đất nước của mình. Nhưng quy luật sinh lão bệnh tử của con người không thể nào tránh được, nhưng khi còn sống ta sẽ sống hết mình, cống hiến hết mình cho quê hương. Mùa xuân tôi xin hát Câu Nam ai Nam bình Nước nôn ngàn dặm mình Nước non ngàn dăm tình
Assignment Spring is the most beautiful season of the year, and is also an endless source of creative inspiration for our country's writers and poets. Among the poems written about spring, the poem "Little Spring" by Thanh Hai has an extremely sexy beauty, captivating people's hearts. Spring in the poem by poet Thanh Hai has an extremely strong vitality of our Vietnamese people. Through each verse, the author summarizes the beauty of our homeland and the historical path that our nation has gone through. At the beginning of the poem "Little Spring", poet Thanh Hai painted an extremely beautiful, simple portrait but with strong vitality that touched the hearts of the listeners. Growing in the middle of the green river A purple flower Oh lark Why sing to the sky? The picture of nature is so vivid: a winding green river winding like extremely smooth winding curves. On the beautiful blue tones, the bright purple flowers create a striking highlight on the dreamy blue river. In the distance there are yellow flowers next to it, but the purple flowers create a picture with many highlights. Poet Thanh Hai used poetic language that is extremely artistic and simple, close to the reader. Poet Thanh Hai has cleverly used the art of syncopation to create a charming beauty of the poem and the dreamy landscape of Hue for the entire poem. The song of the lark seemed to resonate throughout heaven and earth, causing heaven and earth to harmonize as one. Every drop of glitter falls I put my hand inspiration In the next verses of the poem "Little Spring" we see the spring raindrops in the spring sky and earth seeming to rejoice, because the earth and sky of our homeland are changing into new clothes. With an extremely gentle and delicate feeling, poet Thanh Hai is the sound of birds singing, an extremely new creation of a sentimental soul with that beauty. From the beauty of spring in the land of Hieu, the poet can express the spring of renewal in our homeland. Spring man holding gun Lots of luck on my back In spring, people go out to winter Loc stretches across rice fields The image of a man holding a gun is the image of heroic resilience of soldiers who always want to protect our homeland. The women go to the fields to farm and grow rice to produce a lot of material wealth for the development of their homeland. The image of green buds is a new, peaceful and peaceful life of the new spring in our country. Analysis of the poem Little Spring by Thanh Hai Everything creates a new spring full of vitality, peace and happiness in our homeland of Vietnam. At this time, poet Thanh Hai was lying on his hospital bed, but the author always wanted to devote his strength to his homeland. Wishing to become a useful person for my new homeland. Everything seems to be in a hurry It's all a stir.. In these verses, poet Thanh Hai uses words that create excitement, joy, and excitement for the poem. Those sounds create a heroic and resilient four thousand year homeland history. Our country has gone through many difficulties and challenges but we still move forward courageously. The country of four thousand years Hard and arduous The country is like a star Just go forward Our country has risen from difficulties and challenges, a country with a historical tradition that has many ups and downs in history. It is that hustle and bustle that creates a new picture of the homeland. The poet created an extremely proud poem, creating a look of national pride. These poems have created many emotions for readers. In the joyful and pompous atmosphere of spring in his homeland, poet Thanh Hai felt every change in the trees and grass of the country. It was a joyful spring for the hearts of people and for heaven and earth. . I make the bird sing I make a flower branch We join the chorus A bass note flutters In the next verses of the poem "Little Spring" presents an extremely beautiful picture, with extremely youthful beauty. The poem is like a song of praise from the author for our beautiful homeland. In these verses, it is expressed the author's dream of becoming a useful person who contributes his strength to his homeland. Whether we are young or old, we also wish to have moments meaningful. A little spring Quietly give to life Even in my twenties Whether it's the gray hair These verses express an extremely humane wish of the author, expressing the cyclical law of creation. We are all born, grow up and die, but in the process of living we all want to live meaningfully and contribute to our homeland and country. But the human law of birth, old age, sickness and death cannot be avoided, but while we are alive we will live to the fullest, dedicating ourselves to our homeland. In spring I sing Gou Nam ai Nam Binh Water vomits thousands of miles away Mountain water has thousands of miles of love
Bài làm Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, chúng ta thường tập ttrung vào những đề tài xoay quanh cuộc đời và số phận của Thúy Kiều. Trong cuộc đời Kiều, ngoài Kim Trọng ra thì cần phải nhắc đến Từ Hải – một người anh hùng có chí lớn ở bốn phương. Từ Hải là người đã giúp Kiều báo ân, báo oán, cho Kiều những khoảng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng đầy hạnh phúc. Qua nhân vật này ta còn thấy được ý muốn ký thác của Nguyễn Du đối với Từ Hải. Tác giả xây dựng nhân vật Từ Hải trong truyện Kiều không chỉ là người đàn ông có công cứu vớt cuộc đời người con gái tài năng nhưng bạc mệnh kia mà còn để xây dựng lên một hình tượng có tầm vóc và ý chí anh hùng trong thời đại xưa. Một con người mang những phẩm chất anh hùng, không quản những khó khăn của trần gian, chí lớn không bao giờ bị bó hẹp và giới hạn. Trước hết ta phân tích về vẻ đẹp ngoại hình của Từ Hải, đó là hình tượng giống với những người anh hùng trong xã hội lúc bấy giờ. Dáng hình “Vai năm thước rộng, thân mười thước cao”, một hình ảnh người anh hùng thứ thiệt, tầm vóc của cơ thể đã sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được con người anh hùng thời xưa có tầm vóc ngang tàng, hoành tráng đến thế nào. “Râu hùm, hàm én, mày ngài” đó chính là những nét phương phi của người anh hùng thời xưa, không chỉ chuẩn mực anh hùng ở hình dáng mà Từ Hải còn bộc lộ những phẩm chất anh hùng. Đó là tình thương dành cho người má đào, mắt xanh, xinh đẹp tuyệt thế, Kiều và Từ Hải là một cặp rất xứng. Từ Hải không hề chê bai thân phận của Thúy Kiều mà chỉ quan tâm tới nhan sắc và tài năng của nàng, cùng như vì mến tấm lòng đó mà chàng đã bày tỏ tình cảm của mình: “Bấy lâu nghe tiếng má đào… Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi” Người anh hùng ấy đã có công cứu vớt cuộc đời Kiều ra khỏi cảnh cá lồng chim chậu, về sau hai người đã sống bên nhau đúng nghĩa vợ chồng thực sự. Sau khi dựng lên được nghiệp lớn, Từ Hải đã giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải còn hiện lên là một anh hùng có ý chí kiên cường: “Nửa năm hương lửa đương nồng
Assignment In "The Story of Kieu" by Nguyen Du, we often focus on topics surrounding the life and fate of Thuy Kieu. In Kieu's life, in addition to Kim Trong, it is necessary to mention Tu Hai - a hero with great ambition in all four directions. Tu Hai is the person who helped Kieu repay kindness and revenge, giving Kieu short but happy times. Through this character, we can also see Nguyen Du's desire to entrust Tu Hai. The author built the character Tu Hai in the story Kieu not only as a man who saved the life of that talented but unfortunate girl, but also to build an image of heroic stature and will in the story. ancient times. A person with heroic qualities, regardless of worldly difficulties, with great ambition is never confined or limited. First, we analyze Tu Hai's physical beauty, which is an image similar to heroes in society at that time. The figure "Shoulders five meters wide, body ten meters high", an image of a true hero, the stature of the body is comparable to the stature of the universe. Nguyen Du has shown readers how arrogant and majestic the ancient hero was. "Lobster beard, swallow jaw, big eyebrows" are the majestic features of ancient heroes. Not only is Tu Hai standard in appearance, but Tu Hai also exhibits heroic qualities. That is the love for the peach-cheeked, blue-eyed, and incredibly beautiful person, Kieu and Tu Hai are a very suitable couple. Tu Hai did not criticize Thuy Kieu's status but only cared about her beauty and talent, and because he loved that heart, he expressed his feelings: “For a long time, I heard the sound of peach cheeks… It's worth it to play with fish in pots and cages." That hero was instrumental in saving Kieu's life from being in a cage, and the two later lived together as husband and wife. After building a great career, Tu Hai helped Kieu repay kindness and revenge. Tu Hai also appears as a hero with strong will: “For half a year, the fragrance of the fire is strong
Bài làm Truyện ngắn “Lặng lẽ Sapa” của tác giả Nguyễn Thành Long được sáng tác vào năm 1970, giữa lúc miền Bắc đang hăng say lao động sản xuất để vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa, vừa chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. Là một người dân miền Bắc, anh thanh niên trong truyện đã trở thành biểu tượng đẹp cho những con người tích cực, trách nhiệm. Anh là một người sống lạc quan, yêu đời, có lí tưởng sống, có tình nghĩa với mọi người và đầy trách nhiệm với công việc. Anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm cả vật lí địa cầu, cuộc sống của anh cứ lủi thủi một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hơn 2600m, quanh năm suốt tháng sống giữa cây cỏ và mây núi Sa Pa. Tuy vậy những sự trống vắng ấy không làm chai được những cảm xúc và tình cảm rất đỗi con người trong anh. Ngược lại anh sống rất lạc quan, yêu quý tất cả mọi người, là con trai nhưng anh luôn gọn gàng, sạch sẽ, anh còn trồng hoa trong “vườn nhà”, nuôi gà để “tăng gia”,… Tất cả những công việc đó là khẳng định một điều rằng anh không hề buồn chán hay cô độc, anh muốn tạo lập cho mình một cuộc sống bình thường như một người dưới xuôi. Nghe bác lái xe kể về vợ mới ốm dậy, anh liền biếu bác của tam thất, có khách lên thăm anh lại tặng họ những bó hoa và những quả trứng gà… Hành động đó của anh không chỉ đơn giản thể hiện anh là một con người tình cảm mà còn truyền tải một thông điệp rằng hãy sống đẹp và quan tâm đến nhau hơn, hãy đến với nhau bằng tất cả tấm lòng của mình. Anh thanh niên còn là một người đầy trách nhiệm, khiêm tốn và có niềm say mê với công việc của mình.
Assignment The short story "Quietly Sapa" by author Nguyen Thanh Long was composed in 1970, while the North was enthusiastically working in production to both build socialism and support the South to fight the US. As a northerner, the young man in the story has become a beautiful symbol of positive and responsible people. He is an optimistic person, loves life, has ideals in life, has compassion for people and is responsible for his work. The young man works in meteorology and geophysics. His life is spent alone on Yen Son peak over 2,600m high, living all year round among the trees and clouds of Sa Pa mountain. However, those emptiness could not bottle the very human emotions and feelings within him. On the contrary, he lives very optimistically, loves everyone, as a boy he is always neat and clean, he also grows flowers in his "home garden", raises chickens to "increase the family",... All of those jobs confirm that he is not bored or lonely, he wants to create a normal life for himself like a downlander. Hearing the driver talk about his wife who had just gotten sick, he immediately gave them to the third-party uncle. When guests came to visit him, he gave them bouquets of flowers and eggs... That action of his did not simply show that he was a good person. emotional people but also conveys a message that let's live beautifully and care for each other more, let's come together with all our hearts. The young man is also responsible, humble and passionate about his work.
Bài làm Bạn đã bao giờ đọc câu chuyện “Sắc màu của tình bạn”? Đó là câu chuyện của các gam màu tranh cãi nhau về vấn đề màu sắc nào quan trọng hơn trong cuộc sống. Nhưng thực tế cuộc sống của ta chỉ đẹp khi những sắc màu đó kết hợp với nhau làm nên một chỉnh thể. Đó cũng giống với việc những người chỉ biết sống vì mình sẽ trở thành người thừa với những người còn lại. Trong xã hội hiện đại ngày nay thì việc những người chỉ biết sống vì mình đã trở thành một vấn nạn. Họ là những người chỉ biết nghĩ, biết sống cho mình mà quên đi những người xung quanh. Thậm chí họ có thể đánh đổi rất nhiều điều để bản thân mình có một cuộc sống tốt đẹp hơn và sẵn sàng dẫm đạp lên người khác để sống. Ta đã từng biết đến biển đen với hiện tượng bất kì vật nào cũng nổi trên đó. Tất cả chỉ vì hồ không có sự giao lưu nước với bên ngoài, chỉ giữ tất cả lại cho mình. Lâu dần, nước hồ có sự biến chuyển thành màu đen. Hãy thử nghĩ nếu bạn là biển hồ đó thì bạn chính là một kẻ chỉ biết nghĩ đến bản thân, chỉ biết ôm hết tất cả những gì tốt đẹp nhất về mình. Nhưng rồi những gì bạn nhận lại sẽ chỉ là tính ích kỉ, là cái vỏ bọc tách bản thân ra khỏi xã hội mà thôi. Chúng ta có thể bắt gặp những người như vậy ở khắp nơi, trên xe buýt, ngoài công viên, trong lớp học, thậm chí là trong chính gia đình mình. Đó là những bạn thanh niên “thân dài vai rộng” chiếm ghế của những người lớn tuổi hay phụ nữ có thai trên xe buýt. Đó là những ánh mắt thờ ơ của mọi người khi thấy một vụ tai nạn trên đường. Đó là những người cha, người mẹ vì hạnh phúc cá nhân mà bỏ con nơi đầu đường, xó chợ. Đó là thái độ thờ ơ của những đứa con hư hỏng chỉ biết đòi hỏi bố mẹ mọi thứ mà chưa một lần quan tâm xem bố mẹ đã phải vất vả ra sao để có thể lo cho họ một cuộc sống no đủ… Thử nghĩ mà xem, với một cuộc sống mà bạn có mọi điều tốt đẹp tất nhiên là bạn sẽ rất hạnh phúc. Làm gì có ai lại cảm thấy bất hạnh với những điều tuyệt vời đang đến với mình? Nhưng hãy nghĩ mà xem những điều tốt đẹp đó do đâu mà có?
Assignment Have you ever read the story "The Colors of Friendship"? It's a story of colors arguing about which color is more important in life. But in reality, our life is only beautiful when those colors combine together to create a whole. That is similar to the fact that people who only know how to live for themselves will become redundant to the rest. In today's modern society, people who only know how to live for themselves has become a problem. They are people who only think and live for themselves and forget about those around them. They can even trade a lot of things to have a better life for themselves and are willing to trample on others to live. We have known about the black sea with the phenomenon of any object floating on it. All because the lake has no water exchange with the outside world, it just keeps everything for itself. Over time, the lake water turns black. Try to think that if you were that ocean, you would be someone who only thinks about yourself, only knows how to embrace all the best things about yourself. But then what you get in return will only be selfishness, a cover to separate yourself from society. We can encounter such people everywhere, on the bus, in the park, in the classroom, even in our own families. These are young men with "long bodies and broad shoulders" who occupy the seats of older people or pregnant women on the bus. Those are the indifferent eyes of people when they see an accident on the road. These are fathers and mothers who, for their own happiness, leave their children on the streets and in the corners of the markets. That is the indifferent attitude of spoiled children who only know how to demand everything from their parents without once caring about how hard their parents have to work to provide them with a full life... Think about it. See, with a life where you have all the good things, of course you will be very happy. How could anyone feel unhappy with the wonderful things that are coming to them? But think about where these good things come from?
Hướng dẫn Cảm nhận về ba nhân vật trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê sáng tác dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 9 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Tóm tắt truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê Phân tích Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê Đề bài: Dù cuộc sống đầy gian khổ, nguy hiểm nhưng các cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm: “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Phương vẫn giữ được tâm hồn trong sáng hồn nhiên và sự lạc quan dũng cảm. Hãy phân tích và làm rõ ý kiến trên. (Cảm nhận về ba nữ thanh niên xung phong) Bài làm. Lê Minh Khuê (1949) quê ở Tĩnh Gia – Thanh Hóa, là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Trong chiến tranh các tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Tiêu biểu là truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” ra đời năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Đây là một số tác phẩm đầu tay của chị, truyện kể về ba nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát phá bom trên một cao điểm Trường Sơn. Vậy mà họ luôn phải sống trong gian khổ, nhiệm vụ khiến họ phải đối mặt với cái chết. Vậy mà họ vẫn hồn nhiên trong sáng, dũng cảm và luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Trước hết hoàn cảnh sống, chiến đấu nơi tuyến lửa đã gắn bó nhau thành một khối, họ ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm tức là nơi tập trung nhất, bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. “Nơi ở của họ có biết bao thương tích” đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn, hai bên đường không có lá xanh chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”. Chỉ với vài chi tiết miêu tả cũng đủ khiến người đọc hình dung được cuộc sống ở nơi đây đang bị hủy diệt tàn khốc. Hoàn cảnh sống của ba nữ thanh niên xung phong khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh sống và chiến đấu của những chiến sĩ lái xe mà ta bắt gặp trong thơ của Phạm Tiến Duật. “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” Không những thế công việc của họ lại càng ngày càng nguy hiểm, họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình dưới con mắt “cú vọ của giặc Mỹ”. Sau mỗi trận bom họ phải lao ra trọng điểm để “đo khối lượng đất đá, san lấp mặt đường, đánh dấu vị trí những quả bom chưa nổ nếu cần thì phá bom”. Đó là một công việc nguy hiểm có khi cận kề với cái chết, “thần chết là một tay không thích đùa, hắn ta lẩn trong ruột của những quả bom”, làm công việc ấy thần kinh ta luôn căng thẳng đòi hỏi phải có lòng dũng cảm và sự bình tĩnh: “Có ở đâu như thế này không: Thần kinh căng như chảo, tim đập bất chấp nhịp điệu, xung quanh có nhiều quả bom cưa nổ, nó có thể nổ bây giờ, có thể nổ chốc nữa nhưng nhất định sẽ nổ”. Có thể nói công việc vô cùng nguy hiểm nhưng với các cô thì đây là việc hết sức bình thường. Chính trong hoàn cảnh gian khổ ác liệt ấy những phẩm chất đáng quý của các cô gái dần được bộc lộ. Trước hết họ đều có những phẩm chất chung của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở tuyến đường trường Sơn, đó là tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ và lòng dũng cảm không sợ hi sinh. Theo tiếng gọi của Tổ Quốc họ phải lên đường và khi đã lên đường là phải hoàn thành tốt nhiệm vụ với họ những ai phải ngồi trực điện thoại trong hang là một cực hình, có bao nhiêu trái bom chưa nổ họ không cần ai giúp à phân công nhau phá cho hết “tôi một quả bom trên đồi, Nho hai quả bom dưới lòng đường, chị Thao một quả dưới chân cái hầm Barie cũ. Đặc biệt tinh thần dũng cảm của các cô gái trẻ được bộc lộ rõ nét trong những lần phá bom. Mặc dù không phải đối mặt trực tiếp với kẻ thù nhưng các cô phải đối mặt với thần chết do kẻ thù ném bom xuống. Trong những lúc như vậy họ đã suy nghĩ gì và làm như thế nào để hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến thắng thần chết”. Bản thân vốn là nữ thanh niên xung phong nên Lê Minh Khuê tỏ ra am hiểu sâu sắc, miêu tả cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ của ba nữ thanh niên xung phong trong truyện. Nhất là Phương Định, trong một lần phá bom, một mình Phương Định phá quả bom trên đồi quang cảnh vắng lặng đến phát sợ, lẽ ra Phương Định phải đi khom người nhưng sợ các anh cao xa có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt nhìn thấy từng hành động cử chỉ của mình nên Phương Định cứ: “Đàng hoàng mà bước tới” và thế là lòng dũng cảm của cô đã được kích thích bằng sự tự trọng. Khi đến gần quả bom, từng cảm giác của cô cũng trở nên sắc nhọn hơn, cô bình tĩnh trong các thao tác chạy đua với quả bom “thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào vỏ bom một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí, vỏ quả bom nóng một dấu hiệu chẳng lành” Thế nhưng Phương Định vẫn không hề run tay, vẫn tiếp tục công việc “tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào châm ngòi, dây mìn dài cong mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy vào chỗ ẩn nấp của mình, cuối cùng là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Điều đáng chú ý là công việc khủng khiếp không chỉ diễn ra một lần trong ngày mà nó diễn ra thường xuyên quen rồi một ngày chúng tôi phá bom đến 5 lần ngày nào ít cũng 3 lần. Những lúc phá bom Phương Định có nghĩ đến cái chết nhưng đó chỉ là một cái chết mờ nhạt không cụ thể cái chính là bom có nổ hay không. Đó chính là tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, là lòng quả cảm vô song, một ngày trong những năm tháng trường Sơn của các cô là như vậy. Những trang sử Trường Sơn không thể quên đi một ngày như thế, không chỉ có lòng dũng cảm trong công việc họ còn gắn bó với nhau trong tình đồng đội. Điều này được thể hiện sâu sắc trong một lần phá bom Nho bị thương Phương Định và chị Thao đã chăm sóc cho Nho như một người em gái. Phương Định “tôi bế Nho lên, rửa vết thương cho Nho bằng nước đun sôi, tiêm thuốc cho Nho”, còn chị Thao lo cuống cuồng không chỉ vậy với Phương Định mỗi lần đồng đội đi làm nhiệm vụ ở ngoài cao điểm là cô lo lắng và căng thẳng. Đặc biệt cô dành tình cảm yêu mến khâm phục những chiến sĩ hàng đêm cô gặp trên con đường ra mặt trận đối với cô: “Những người đẹp nhất, thông minh, can đảm, cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Mang vẻ đẹp của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở họ còn có những nét chung rất đáng yêu của những cô gái trẻ dễ xúc cảm, mơ mộng, trong sáng. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay trong hoàn cảnh ác liệt: Nho thích ăn kẹo, chị Thảo thích chép bài hát, thích thêu thùa, còn Phương Định thích ngắm mắt mình trong gương và ngồi bó gối mơ màng và chỉ cần mưa đá thoáng qua cũng khiến họ vui thích cuống cuồng, những niềm vui của con trẻ. Những cảm xúc hồn nhiên ấy như nguồn sống, như điểm tựa giúp họ thêm vững vàng để họ vượt qua những khó khăn gian khổ. Dù sống trong một tập thể nhỏ rất gắn bó với nhau nhưng mỗi người vẫn có một nét cá tính. Nho có nét trẻ trung xinh xắn “trông nó mát mẻ như một que kem trắng” đồng thời cũng rất hồn nhiên. “Nho thích tắm suối, dù biết khúc suối ấy đang có bom nổ chậm” hồn nhiên nhưng cô vẫn rất kiên định dũng cảm khi Nho bị thương không hề rên la, không muốn đồng đội phải lo lắng cho mình. Còn Phương Định là cô gái thành phố rất nhạy cảm và hay quan tâm đến hình thức của mình. Đặc biệt cô thường sống với những kỉ niệm vì thế khi trận mưa đá thoáng qua là tất cả những kỉ niệm về gia đình, về thành phố thân yêu sống dậy trong lòng cô một cách say sưa tràn đầy. Cuối cùng chị Thao là đội trưởng từng trải hơn, không còn hồn nhiên như hai người đồng đội nhưng cũng không thiếu những khát khao những rung động tuổi trẻ. Chị chiến đấu dũng cảm nhưng lại rất sợ khi nhìn thấy máu, thấy vắt. Những nét riêng đó làm cho nhân vật hiện lên một cách sống động và đáng yêu hơn. Có thể nói ngòi bút của Lê Minh Khuê rất thành công trong việc làm nổi bật vẻ đẹp của những nữ thanh niên xung phong. Điều đầu tiên là tác giả đã chọn một trong ba nhân vật là Phương Định kể lại câu truyện làm cho nó vừa chân thật nhưng cũng hết sức khách quan. Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật rất suất sắc. Như vậy, bằng việc chọn ngôi kể thứ nhất, khắc họa nhân vật qua lời nói, hành động đồng thời sự am hiểu tâm lý nhân vật Lê Minh Khuê đã khắc họa tâm hồn trong sáng hồn nhiên và tính cách của Nho, Phương Định và chị Thao – những nữ thanh niên trong truyện: “Những ngôi sao xa xôi”. Qua họ Lê Minh Khuê đã giúp người đọc hình dung rõ vẻ đẹp của thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Họ sống chiến đấu đầy gian khổ hi sinh nhưng vô cùng lạc quan dũng cảm. Họ tiêu biểu cho thế hệ thanh niên xung phong trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Hướng dẫn Cảm nhận về ba nhân vật trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê sáng tác dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 9 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Tóm tắt truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê Phân tích Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê Đề bài: Dù cuộc sống đầy gian khổ, nguy hiểm nhưng các cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm: “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Phương vẫn giữ được tâm hồn trong sáng hồn nhiên và sự lạc quan dũng cảm. Hãy phân tích và làm rõ ý kiến trên. (Cảm nhận về ba nữ thanh niên xung phong) Bài làm. Lê Minh Khuê (1949) quê ở Tĩnh Gia – Thanh Hóa, là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Trong chiến tranh các tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Tiêu biểu là truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” ra đời năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Đây là một số tác phẩm đầu tay của chị, truyện kể về ba nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát phá bom trên một cao điểm Trường Sơn. Vậy mà họ luôn phải sống trong gian khổ, nhiệm vụ khiến họ phải đối mặt với cái chết. Vậy mà họ vẫn hồn nhiên trong sáng, dũng cảm và luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Trước hết hoàn cảnh sống, chiến đấu nơi tuyến lửa đã gắn bó nhau thành một khối, họ ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm tức là nơi tập trung nhất, bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. “Nơi ở của họ có biết bao thương tích” đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn, hai bên đường không có lá xanh chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”. Chỉ với vài chi tiết miêu tả cũng đủ khiến người đọc hình dung được cuộc sống ở nơi đây đang bị hủy diệt tàn khốc. Hoàn cảnh sống của ba nữ thanh niên xung phong khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh sống và chiến đấu của những chiến sĩ lái xe mà ta bắt gặp trong thơ của Phạm Tiến Duật. “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” Không những thế công việc của họ lại càng ngày càng nguy hiểm, họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình dưới con mắt “cú vọ của giặc Mỹ”. Sau mỗi trận bom họ phải lao ra trọng điểm để “đo khối lượng đất đá, san lấp mặt đường, đánh dấu vị trí những quả bom chưa nổ nếu cần thì phá bom”. Đó là một công việc nguy hiểm có khi cận kề với cái chết, “thần chết là một tay không thích đùa, hắn ta lẩn trong ruột của những quả bom”, làm công việc ấy thần kinh ta luôn căng thẳng đòi hỏi phải có lòng dũng cảm và sự bình tĩnh: “Có ở đâu như thế này không: Thần kinh căng như chảo, tim đập bất chấp nhịp điệu, xung quanh có nhiều quả bom cưa nổ, nó có thể nổ bây giờ, có thể nổ chốc nữa nhưng nhất định sẽ nổ”. Có thể nói công việc vô cùng nguy hiểm nhưng với các cô thì đây là việc hết sức bình thường. Chính trong hoàn cảnh gian khổ ác liệt ấy những phẩm chất đáng quý của các cô gái dần được bộc lộ. Trước hết họ đều có những phẩm chất chung của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở tuyến đường trường Sơn, đó là tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ và lòng dũng cảm không sợ hi sinh. Theo tiếng gọi của Tổ Quốc họ phải lên đường và khi đã lên đường là phải hoàn thành tốt nhiệm vụ với họ những ai phải ngồi trực điện thoại trong hang là một cực hình, có bao nhiêu trái bom chưa nổ họ không cần ai giúp à phân công nhau phá cho hết “tôi một quả bom trên đồi, Nho hai quả bom dưới lòng đường, chị Thao một quả dưới chân cái hầm Barie cũ. Đặc biệt tinh thần dũng cảm của các cô gái trẻ được bộc lộ rõ nét trong những lần phá bom. Mặc dù không phải đối mặt trực tiếp với kẻ thù nhưng các cô phải đối mặt với thần chết do kẻ thù ném bom xuống. Trong những lúc như vậy họ đã suy nghĩ gì và làm như thế nào để hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến thắng thần chết”. Bản thân vốn là nữ thanh niên xung phong nên Lê Minh Khuê tỏ ra am hiểu sâu sắc, miêu tả cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ của ba nữ thanh niên xung phong trong truyện. Nhất là Phương Định, trong một lần phá bom, một mình Phương Định phá quả bom trên đồi quang cảnh vắng lặng đến phát sợ, lẽ ra Phương Định phải đi khom người nhưng sợ các anh cao xa có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt nhìn thấy từng hành động cử chỉ của mình nên Phương Định cứ: “Đàng hoàng mà bước tới” và thế là lòng dũng cảm của cô đã được kích thích bằng sự tự trọng. Khi đến gần quả bom, từng cảm giác của cô cũng trở nên sắc nhọn hơn, cô bình tĩnh trong các thao tác chạy đua với quả bom “thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào vỏ bom một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí, vỏ quả bom nóng một dấu hiệu chẳng lành” Thế nhưng Phương Định vẫn không hề run tay, vẫn tiếp tục công việc “tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào châm ngòi, dây mìn dài cong mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy vào chỗ ẩn nấp của mình, cuối cùng là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Điều đáng chú ý là công việc khủng khiếp không chỉ diễn ra một lần trong ngày mà nó diễn ra thường xuyên quen rồi một ngày chúng tôi phá bom đến 5 lần ngày nào ít cũng 3 lần. Những lúc phá bom Phương Định có nghĩ đến cái chết nhưng đó chỉ là một cái chết mờ nhạt không cụ thể cái chính là bom có nổ hay không. Đó chính là tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, là lòng quả cảm vô song, một ngày trong những năm tháng trường Sơn của các cô là như vậy. Những trang sử Trường Sơn không thể quên đi một ngày như thế, không chỉ có lòng dũng cảm trong công việc họ còn gắn bó với nhau trong tình đồng đội. Điều này được thể hiện sâu sắc trong một lần phá bom Nho bị thương Phương Định và chị Thao đã chăm sóc cho Nho như một người em gái. Phương Định “tôi bế Nho lên, rửa vết thương cho Nho bằng nước đun sôi, tiêm thuốc cho Nho”, còn chị Thao lo cuống cuồng không chỉ vậy với Phương Định mỗi lần đồng đội đi làm nhiệm vụ ở ngoài cao điểm là cô lo lắng và căng thẳng. Đặc biệt cô dành tình cảm yêu mến khâm phục những chiến sĩ hàng đêm cô gặp trên con đường ra mặt trận đối với cô: “Những người đẹp nhất, thông minh, can đảm, cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Mang vẻ đẹp của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở họ còn có những nét chung rất đáng yêu của những cô gái trẻ dễ xúc cảm, mơ mộng, trong sáng. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay trong hoàn cảnh ác liệt: Nho thích ăn kẹo, chị Thảo thích chép bài hát, thích thêu thùa, còn Phương Định thích ngắm mắt mình trong gương và ngồi bó gối mơ màng và chỉ cần mưa đá thoáng qua cũng khiến họ vui thích cuống cuồng, những niềm vui của con trẻ. Những cảm xúc hồn nhiên ấy như nguồn sống, như điểm tựa giúp họ thêm vững vàng để họ vượt qua những khó khăn gian khổ. Dù sống trong một tập thể nhỏ rất gắn bó với nhau nhưng mỗi người vẫn có một nét cá tính. Nho có nét trẻ trung xinh xắn “trông nó mát mẻ như một que kem trắng” đồng thời cũng rất hồn nhiên. “Nho thích tắm suối, dù biết khúc suối ấy đang có bom nổ chậm” hồn nhiên nhưng cô vẫn rất kiên định dũng cảm khi Nho bị thương không hề rên la, không muốn đồng đội phải lo lắng cho mình. Còn Phương Định là cô gái thành phố rất nhạy cảm và hay quan tâm đến hình thức của mình. Đặc biệt cô thường sống với những kỉ niệm vì thế khi trận mưa đá thoáng qua là tất cả những kỉ niệm về gia đình, về thành phố thân yêu sống dậy trong lòng cô một cách say sưa tràn đầy. Cuối cùng chị Thao là đội trưởng từng trải hơn, không còn hồn nhiên như hai người đồng đội nhưng cũng không thiếu những khát khao những rung động tuổi trẻ. Chị chiến đấu dũng cảm nhưng lại rất sợ khi nhìn thấy máu, thấy vắt. Những nét riêng đó làm cho nhân vật hiện lên một cách sống động và đáng yêu hơn. Có thể nói ngòi bút của Lê Minh Khuê rất thành công trong việc làm nổi bật vẻ đẹp của những nữ thanh niên xung phong. Điều đầu tiên là tác giả đã chọn một trong ba nhân vật là Phương Định kể lại câu truyện làm cho nó vừa chân thật nhưng cũng hết sức khách quan. Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật rất suất sắc. Như vậy, bằng việc chọn ngôi kể thứ nhất, khắc họa nhân vật qua lời nói, hành động đồng thời sự am hiểu tâm lý nhân vật Lê Minh Khuê đã khắc họa tâm hồn trong sáng hồn nhiên và tính cách của Nho, Phương Định và chị Thao – những nữ thanh niên trong truyện: “Những ngôi sao xa xôi”. Qua họ Lê Minh Khuê đã giúp người đọc hình dung rõ vẻ đẹp của thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Họ sống chiến đấu đầy gian khổ hi sinh nhưng vô cùng lạc quan dũng cảm. Họ tiêu biểu cho thế hệ thanh niên xung phong trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Hướng dẫn Bài làm Trong kho tàng tục ngữ, ca dao, dân ca của cha ông ta; mỗi câu, mỗi lời nói đều đúc rút kinh nghiệm sống quý báu cho thế hệ sau học tập. Câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” có ý nghĩa răn dạy rất lớn đối với mỗi người. Câu tục ngữ này có hai vế đối song song đối lập nhau nhưng lại bổ sung để hoàn thiện ý nghĩa cho nhau. Trong cuộc sống câu tục ngữ này được vận dụng rất nhiều nhằm đưa ra lời khuyên răn, dạy bảo, hướng con người đến những điều tốt đẹp hơn. “Mực” trong câu tục ngữ này có nghĩa tường minh và nghĩa hàm ngôn. “Mực” theo nghĩa tường minh chính là chỉ màu đen của một loại dung dịch tạo nên nét chữ sau khi viết. Người ta thường dùng mực để hút vào bút và bắt đầu viết. Nhưng hàm ý sâu xa của nó là chỉ những điều đen tối, xấu xa, không nên dây dưa vào. “Đèn” nghĩa tường minh là vật dụng cần thiết để tạo nên ánh sáng trong mỗi gia đình, nếu thiếu nó thì căn nhà sẽ trở nên tối tăm. Còn hàm ý của ‘đèn” là ám chỉ những việc tốt đẹp, là chân lý, ánh sáng đáng trân trọng trong xã hội. Cha ông ta rất có dụng ý khi đặt “mực” và “đèn” có ý nghĩa đối lập nhau ở cạnh nhau là nhằm thức tỉnh mỗi chúng ta. Trong cuộc sống có rất nhiều điều tốt đẹp, cần học tập và phát huy nhưng ngược lại đâu đó vẫn còn những góc khuất, những điều xấu, những con người xấu có thể khiến chúng ta sa vào bùn lầy. Câu tục ngữ vẽ ra hai viễn cảnh, hai con đường đi. Nếu chúng ta ở gần “mực”- gần điều xấu xa thì chắc chắn chúng ta sẽ bị nhiễm, và tồi tệ hơn nữa chúng ta sẽ biến thành những kẻ xấu. Ngược lại nếu được sống trong môi trường gần ‘đèn” thì chúng ta sẽ học hỏi được nhiều điều tốt đẹp, trở thành người tốt giúp ích cho xã hội. Câu tục ngữ nhắc nhở, khuyên răn chúng ta cần biết “chọn bạn mà chơi”, chọn nơi tốt đẹp để sinh sống, chọn điều hay để học. Đừng để những thói hư, tật xấu cám dỗ. Xã hội đầy rẫy những điều xấu, nếu chúng ta không biết cách lựa chọn cách sống, không có lập trường thì rất dễ dàng bị lôi kéo vào đó. Bởi vậy làm người cần có chính kiến, cần biết chắt lọc điều tốt đẹp nhất để sống có ích. Tuy nhiên, có những người rất giàu nghị lực, sống bên cạnh những người xấu xa vẫn giữ vững được lòng son. Đó là những người thực sự đáng ngưỡng mộ và học hỏi.
Instruct Assignment In the treasure trove of proverbs, folk songs, and folk songs of our ancestors; Every sentence, every word draws valuable life experiences for the next generation to learn. The proverb "Near the ink, it's black, near the light, it's bright" has great teaching meaning for everyone. This proverb has two parallel clauses that oppose each other but complement each other to complete each other's meaning. In life, this proverb is used a lot to give advice, teach, and guide people to better things. “Ink” in this proverb has an explicit and implicit meaning. “Ink” in an explicit sense refers to the black color of a solution that creates handwriting after writing. People often use ink to suck into the pen and start writing. But its deeper meaning is that it refers to dark, evil things that should not be involved. “Lamp” clearly means a necessary item to create light in every family, without it the house will become dark. The meaning of 'light' is to refer to good things, truth, and respectable light in society. Our ancestors were very intentional in placing "ink" and "lamp" with opposing meanings next to each other to awaken each of us. In life there are many good things that need to be learned and promoted, but on the contrary, there are still hidden corners, bad things, and bad people that can make us fall into the mud. The proverb paints two perspectives, two paths. If we are near "squid" - near evil, we will definitely be infected, and worse yet, we will turn into bad people. On the contrary, if we live in an environment near "lights", we will learn many good things and become good people to help society. The proverb reminds and advises us to know how to "choose friends to play with", choose a good place to live, choose good things to learn. Don't be tempted by bad habits and bad habits. Society is full of bad things. If we don't know how to choose how to live, if we don't have a stance, we can easily be drawn into it. Therefore, as a human being, we need to have political opinions and know how to filter the best things to live a useful life. However, there are people who are very strong-willed, living next to evil people and still maintaining their integrity. Those are people who are truly worth admiring and learning from.
Hướng dẫn Bài làm Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này. Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện chân thực bức tranh sinh động về cuộc sống kiêu sa, vương giả và hiện thực cuộc sông nơi phủ chúa. Vào Trịnh phủ là một phần của tập Thượng kinh kí sự, là tác phẩm thuộc thế kỉ. Vì vậy đoạn trích là lời kể mộc mạc và chân thực, có ghi rõ thời gian Mồng 1 tháng 2, sáng tinh mơ và có sự việc: Có thánh chỉ triệu vào cung. Song điều làm cho chúng ta chú ý đó là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lẽn vô cùng rực rờ qua cái nhìn của tác giả. Ban đầu Lê Hữu Trác được hò chìm trong khung cảnh vườn phủ chúa: Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. Tiếp đến tác giả ghi lại những sự việc minh nhìn thấy: Nlìững dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác già cũng nghĩ mình đang ở trong mơ: Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan… Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một cảm xúc chân thành cứa một tâm hồn nhạy cảm: Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt Cả trời Nam sang nhất là đây… … Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào. Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác không tỏ ra miệt thị, phản diện trong cách nhìn nơi mà ông không hề muốn đến này. Trái lại ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm trước vẻ đẹp tuyệt vời nơi đây, có được điều này là do Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Có một điều chúng ta nhận thấy rằng ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng không hoàn toán ngợi ca tất cả, dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài của tác giả: Quê mùa cung cẩm chưa quen Ông tự coi mình là kẻ quê mùa lạc vào chốn cung đình, có khác gì Đào nguyên lạc vào chốn thần tiên. Cảnh thì đẹp đấy, nhưng lòng người nào có vui gì. Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động. Lê Hữu Trác nhanh chóng nhận ra khuyết tật của phủ chúa, phán xét chính xác căn bệnh của thế tử, đồng thời cũng thấy được căn bệnh chung của nơi giàu sang này. Chính vì thế mà có lúc ông đã do dự: Nếu mình làm, sao về núi được nữa, chi bằng ta dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu. Từ xưa đến nay, con người chỉ sợ thất bại, khổ đau. Còn với Lê Hữu Trác thì hoàn toàn ngược lại, ông sợ công danh, sợ uy quyền ràng buộc. Nhưng những suy nghĩ ấy nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho chữ trung, chữ đức cha ông mình đời đời… để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được. Là một nhà nho chân chính, dù lánh xa danh lợi, nhưng để giữ vững khí tiết của mình, ông vẫn đặt chữ trung lên hàng đầu, dù vị chúa mà ông thờ, triều đại mà ông sống là một xã hội thối nát, suy đồi. Ông có thể làm như suy nghĩ ban đầu, không hại ai, cũng không gây đau khổ cho ai, nhưng vì tấm lòng lương y như từ mẫu cứu người không phân biệt sang hèn, đẳng cấp, Lê Hữu Trác đã làm đúng tâm đức của một thầy thuốc. Tấm lòng ấy đáng được ca ngợi.
Instruct Assignment Hai Thuong Lan Ong - Le Huu Trac is not only a famous physician, but also an author with many valuable medieval literary works. Le Huu Trac left behind a huge medical career, most notably the book Hai Thuong Y Tong Tam Linh, considered an encyclopedia of medicine in the 18th century. His works not only have medical value but also have profound literary values ​​because they record true emotions and reveal the enthusiasm and virtue of the physician. Thuong Kinh Ky is a famous collection of memoirs in the life of Le Huu Trac. The work tells about the luxurious life in Lord Trinh's palace and the power and authority of the Lord's family as well as what he saw and heard on the occasion of being summoned by Lord Trinh Sam for treatment. The excerpt from Trinh Palace not only describes the luxurious life in the lord's palace, but also clearly shows the soul and personality of this talented and virtuous physician. Entering the Trinh Palace is an excerpt recounting the incident where the author was summoned by Lord Trinh Sam to treat Prince Trinh Can's illness in Dong Cung. Through the excerpt, the author has realistically presented a vivid picture of the luxurious, royal life and the reality of life in the lord's palace. Entering the Trinh Palace is part of the collection Thuong Kinh Ky, a work of the century. Therefore, the excerpt is a simple and truthful account, clearly stating the time of February 1, early morning, and the incident: There was a divine edict to summon him to the palace. But what makes us pay attention is that the golden scene of the lord's palace appears extremely brightly through the author's eyes. At first, Le Huu Trac was immersed in the scene of the royal garden: I raised my head, everywhere were luxuriant trees, birds chirping, famous flowers blooming, the wind swayed with a faint scent. That scene makes us feel that this place is some kind of paradise garden in the fairy world in folk fairy tales, not the real scene that the author sees. Next, the author recorded the events he saw: The rows of winding corridors connected one after another, people passing back and forth like a trap. At the same time, the author also revealed his sincere thoughts when having something related to setting foot in a place where the author himself thought he was in a dream: I thought to myself: I'm a mandarin... I just came here. Or the wealth of kings is really different from ordinary people. This proves the author's surprised attitude. That rich scene was beyond his imagination. Standing before that most beautiful scene in the South, the physician's soul was filled with a sincere emotion from a sensitive soul: The thousand-door soldiers carried the poles strictly The most luxurious sky in the South is here... … No different from the original fisherman. He himself is a person who does not care about fame and fortune, but standing in front of this majestic scene, Le Huu Trac does not show contempt or villainy in the way he looks at this place where he does not want to go. On the contrary, he still praised and was still filled with emotion at the wonderful beauty of this place. This is because Le Huu Trac is a poet with an emotional soul towards nature, creatures, and world affairs. One thing we notice is that he sees and feels with objective eyes. Standing in front of a beautiful scene, he praises it, but does not completely praise it all. It seems that behind these lines of poetry there is still a hidden sadness. Author's melancholy: The country is not used to the palace season yet He considered himself a rustic lost in a royal court, no different from Dao Nguyen lost in a fairyland. The scenery is beautiful, but no one's heart is happy. The excerpts are emotional memoirs about the opulence of the lord's palace and the prince's illness. But besides those realistic lines, readers still see above all the soul and noble personality of famous physician Hai Thuong Lan Ong. He did not care about fame and fortune, so he chose a quiet place in the mountains and forests to live a secluded life, taking birds as friends and flowers as joy. That's why Le Huu Trac seemed unfamiliar with royal life. Although unfamiliar, he was not bewildered and still maintained the majesty and calmness of a hermit. In front of the ranks of mandarins, he did not show any humility or arrogance when his reputation was widely known. The language he used was very humble: I am a person from the countryside, how could I know that you live in a crowded royal court like this. He also bravely pointed out the ignorance of the royal physicians in the court, that is, he did not listen to the hint of the court official but still acted according to his professional conscience, presenting the prescription to the saint. He was also the one who accurately saw the disease of excess and ignorance among the princesses: Because the Crown Prince was in a place covered by a veil... his internal organs were weak. That place has made people become worn out, lost all morale, and is filled with ignorant people like officials and royal doctors who only care about using public medicine to punish them as they please. Showing me this is understanding, but it only makes the prince weaker and weaker. The crown prince is the victim of ignorance and excess in the lord's palace. Those are also the clearest manifestations of a decadent dynasty that has reached its end of fortune and destruction, the product of a regime that only knows how to flatter, indulge and not care about the lives of the working people. . Le Huu Trac quickly recognized the shortcomings of the lord's palace, accurately judged the prince's illness, and also saw the common illness of this wealthy place. That's why there was a time when he hesitated: If we do it, how can we go back to the mountain? Let's just use the peaceful remedy. If it doesn't work, it won't be much of a mistake. From ancient times until now, people have only been afraid of failure and suffering. As for Le Huu Trac, it was the exact opposite, he was afraid of fame and authority. But those thoughts quickly disappeared, giving way to the word loyalty, the word of virtue to one's ancestors forever... to continue the loyalty of one's ancestors. As a true Confucian, even though he shunned fame and fortune, to maintain his integrity, he still put loyalty first, even though the lord he worshiped and the dynasty he lived in were a corrupt society. decadent. He could have done as he initially thought, without harming anyone, nor causing pain to anyone, but because of his kind heart like a mother's to save people without distinction of rank or class, Le Huu Trac did the right thing. of a physician. That heart deserves praise.
Hướng dẫn Cơm hến Cơm hến là món ăn dân dã, nghèo mà vẫn sang, đậm đà hương vị. Cơm cồn hến người ta còn cho nó cái tên sang trọng: “Cao lâu cồn” để tôn vinh cái giản dị, mộc mạc, thanh đạm mang đầy chất Huế. Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương… Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt tươi, kêu cái “bụp!” rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon cơm hến. Thế nên, có người còn gọi là “món ngon trời hành”. Các thôn nữ đội nón lá mỗi sáng gánh cơm hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao lanh lảnh ngọt ngào “hến khô… ông” là hình ảnh và âm điệu không thể nào quên của những người xa Huế. Vả Huế Vả là món ăn dân dã của Huế và vả cũng trở thành món ăn thượng lưu của du khách khi đến Huế. Vả đã để lại trong lòng người xa quê nỗi nhớ quê nhà. Thiên nhiên dành cho Huế một loài cây thuộc họ sung nhưng trái lớn, đó là cây vả. Vả cho trái ăn vừa ngọt vừa bùi. Vả tạo thêm hương vị đậm đà ngon miệng cho các món ăn từ xào, nấu, kho cho đến ăn sống. Món rau sống kèm với những món ăn như bún thịt nướng, bún thịt kẹp tôm chua, bánh khoái, thịt bò nhúng dấm… thì vùng miền nào cũng như nhau, nhưng ở đây kẹp với miếng vả trắng hồng chấm với mắm nêm trộn với ớt xanh vừa giòn vừa cay đến độ hít hà thì không gì ngon bằng. Đặc biệt là món vả trộn. Để có món vả trộn xúc ăn với bánh tráng, luộc vả trong nước sôi cho đến lúc nào có thể dùng tay chà bóc lớp vỏ xanh, xong cho vào nồi luộc tiếp cho thật nhừ, bóp tơi quả vả cho thật nhuyển. Mè đem rang vàng chà vỏ, thịt nạc và da heo luộc chín xắt hạt lựu, ướp gia vị nước mắm, hành tiêu, bột ngọt, muối, ớt bột… Các thứ trên trộn đều thành hỗn hợp, thái nhỏ rau thơm, hành, ngò rải trên mặt. Vả trộn ăn với bánh tráng (bánh đa) nướng. Chưa dừng ở món vả trộn, vả còn cho vào kho chung với thịt heo, thịt bò nhưng hấp dẫn hơn cả là vả kho với cá rô, cá nục, cá ngừ… Bún bò giò heo Một tô bún giò hay bún bò hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Phải có một lần ăn bún đến chảy nước mắt lúc đó mới cảm được cái hương vị xứ Huế nó thâm trầm như thế nào. Bún thì không đâu không có, nhưng hình thức của con bún thì mỗi miền mỗi khác. Ở Hà Nội, xưa và nay cũng la liệt bún “bún riêu, bún chả, bún ốc, bún thang…” mà có lẽ đặc biệt nhất là bún chả, sợi bún rất mảnh lại cuộn từng lá mỏng, còn chả thì là thịt ba chỉ cặp vào thanh tre rồi đem nướng trên than hoa, chẳng khác gì bún thịt nướng ở Huế nhưng ngon hơn nhờ nước chấm và rau húng. Ở Huế cũng thế, có bún giò heo. Dọc hai bên đường bạn sẽ gặp ngay ở đây những gánh bún rất bình dân nhưng cũng rất ngon, rất đông khách… Một tô bún giò hay bún bò hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Đặc biệt là nồi bún, một nồi bằng nhôm dẻo rất mỏng và được người thợ gò xứ Huế gò rất khéo, trông giống một chiếc nồi đồng ngày xưa nhưng sâu và miệng rộng hơn. Cái nồi được chùi rửa kỳ cọ rất kỹ nên bao giờ cũng sáng trắng, trông rất thích mắt. Ăn một tô bún đang bốc khói, những sợi bún trắng trong nổi bật trên đó là những viên mọc hồng (được viên từ giò sống và thịt cua), những miếng móng giò được ninh mềm nhừ, với một chút màu trắng của những cọng rá và màu xanh của rau sống, húp một ít nước beo béo đậm đà kèm theo một chút gia vị mắm ớt chanh bạn sẽ thấy vô cùng thú vị, vừa cay, vừa nóng, vừa xuýt xoa, vừa nghe vị ngọt của nước bún của thịt chạy dần vào trong thực quản, chắc chắn bạn sẽ không quên được cái hương vị này. Phải có một lần ăn bún đến chảy nước mắt lúc đó mới cảm được cái hương vị xứ Huế nó thâm trầm như thế nào. Bánh bèo xứ Huế Không biết có từ bao giờ, nhưng bánh bèo đã là một đặc sản, một món ăn không thể thiếu của người dân xứ Huế. Bánh bèo có mặt từ mâm cơm dân dã ở mỗi gia đình cho đến các bữa tiệc, ngày lễ, ngày Tết và các dịp đãi khách trọng thể. Có dịp đến Huế, mới thấy bánh bèo gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân cố đô như thế nào. Khoảng từ 3 đến 5 giờ chiều, đâu đó trên các ngõ phố những phụ nữ gọn gàng trong bộ áo dài thong thả bách bộ với quanh gánh nhẹ trên vai hoặc chiếc thúng nhỏ cắp ngang hông, đi bán bánh bèo, bánh lọc đến từng nhà. Người Huế rất thích và đã thành thói quen dùng loại bánh đầy hương vị quê nhà này vào các bữa ăn phụ, chỉ cần 1.000 đồng là đã có một đĩa bánh bèo lót dạ thơm ngon. Bánh bèo cũng không thiếu trong các bữa “cơm vua” phục vụ khách du lịch và trong các bữa tiệc “cơm cung đình” chiêu đãi các khách quý. Từ khi quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO xếp loại là di sản thế giới, khách du lịch trong và ngoài nước đến Huế ngày càng đông. Vì vậy, song song với kiểu kinh doanh “cơm vua” trong các khách sạn, nhà hàng… ở Huế bây giờ còn mọc lên nhiều “phố bánh bèo” quanh cung An Định, đường Ngự Bình, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm… Những “phố bánh bèo” này, thực khách không chỉ là dân Huế mà phần đông là khách từ phương xa đến. Quả thật, ai có dịp đến Huế cũng đều muốn thưởng thức món bánh bèo – một món đặc sản của đất cố đô. Bánh khoái
Instruct Mussel rice Mussel rice is a rustic dish, poor but still luxurious and rich in flavor. People also give it a luxurious name: "Cao Lau alcohol" to honor the simplicity, rusticity, and frugality that is full of Hue. Mussel rice is a spicy dish, spicy enough to make your eyes water, spicy enough to make you sweat. The rice of mussel rice is cold rice, the smell of salty shrimp is so fragrant, the sour taste of star fruit, the ecstatic aroma of herbs, banana, mint, the sweet taste of mussel juice, the greasiness of pork rinds, The spicy taste of chili sauce is so spicy that it tears the tongue and burns the mouth... People who eat mussel rice are sometimes still not satisfied with the spicy chili sauce available, so they bite into a fresh chili and make a "poof!" Then, slurping, sniffing, and sniffing until tears dripped, I was able to fully absorb the deliciousness of mussel rice. Therefore, some people also call it "a heavenly delicacy". Every morning, village women wearing conical hats carry rice with mussels around the streets, shouting sweetly "dried mussels... grandfather" - an unforgettable image and melody of people far from Hue. Hue fig Figs are a rustic dish of Hue and figs have also become a luxury dish for tourists when coming to Hue. It has left in the hearts of those far away from home a longing for home. Nature gives Hue a tree belonging to the fig family but with large fruit, that is the fig tree. Fig fruit is both sweet and fleshy. Figs add a rich and delicious flavor to dishes from stir-frying, cooking, braising to eating raw. Raw vegetables come with dishes such as grilled meat vermicelli, meat vermicelli with sour shrimp, banh hoi, beef dipped in vinegar... all regions are the same, but here it is sandwiched with pink and white fig pieces dipped in seasoning sauce mixed with Green chili is both crunchy and spicy to the point of inhaling it, there's nothing better than it. Especially the mixed fig dish. To have a dish of figs mixed with rice paper, boil the figs in boiling water until you can use your hands to peel off the green skin, then put them in the pot and boil until soft, then squeeze the figs until smooth. Roast the sesame until golden, peel it, boil the lean meat and pork skin, cut into cubes, marinate with fish sauce, onions, pepper, monosodium glutamate, salt, chili powder... Mix the above ingredients into a mixture, chop the herbs and onions finely. , cilantro sprinkled on top. Mixed figs and eaten with grilled rice paper (rice paper). Not stopping at the mixed fig dish, figs are also braised with pork and beef, but the most attractive are figs braised with perch, scampi, tuna... Pork bun bo A bowl of vermicelli with pork sausage or vermicelli with beef attracts diners thanks to its sweet and fragrant liquid. It takes a time when you eat vermicelli to tears to feel how profound the flavor of Hue is. Vermicelli is everywhere, but the form of vermicelli is different in each region. In Hanoi, past and present, there are also many vermicelli noodles "bun rieu, bun cha, vermicelli snail, vermicelli thang..." but perhaps the most special is bun cha, the noodles are very thin and rolled into thin leaves, and the patties are meat. The pork belly is put on a bamboo stick and then grilled over charcoal, just like grilled meat vermicelli in Hue but more delicious thanks to the dipping sauce and basil. In Hue, too, there is pork sausage vermicelli. Along both sides of the road, you will meet here very popular but also very delicious vermicelli stalls, very crowded... A bowl of vermicelli with pork sausage or vermicelli with beef attracts diners thanks to the delicious and fragrant liquid. Especially the vermicelli pot, a pot made of very thin flexible aluminum and skillfully built by Hue craftsmen, looks like an old copper pot but deeper and with a wider mouth. The pot is cleaned very carefully so it is always bright white and looks very pleasing to the eye. Eat a steaming bowl of vermicelli, the clear white noodles standing out on top are the pink sprouts (made from raw sausage and crab meat), the pork hocks are simmered until soft, with a bit of white from the stalks. Roasted and green of raw vegetables, slurping up a little rich fatty water with a little lemon chili sauce, you will find it extremely interesting, spicy, hot, sizzling, and smell the sweetness of the vermicelli water. of meat running gradually into the esophagus, you will definitely not forget this taste. There must be a time when you eat vermicelli to the point of tears to feel how profound the flavor of Hue is. Banh beo of Hue I don't know when it existed, but banh beo has been a specialty, an indispensable dish of the people of Hue. Banh Beo is present from the rustic rice tray in every family to parties, holidays, New Year's Day and formal occasions to entertain guests. Having the opportunity to come to Hue, I see how banh beo is closely linked to the daily life of the people of the ancient capital. Around 3 to 5 p.m., somewhere on the streets, neat women in ao dai leisurely walk around with light burdens on their shoulders or small baskets slung across their hips, selling banh beo and banh loc to each restaurant. home. Hue people love it and have become accustomed to using this type of cake full of hometown flavors for side meals. Just 1,000 VND is enough to have a delicious plate of banh beo to fill the stomach. Banh Beo is also indispensable in "king's rice" meals serving tourists and in "royal rice" parties entertaining distinguished guests. Since the Hue ancient capital complex was classified by UNESCO as a world heritage site, domestic and foreign tourists have increasingly come to Hue. Therefore, in parallel with the "king rice" business style in hotels, restaurants... in Hue, there are now many "banh beo streets" around An Dinh palace, Ngu Binh street, Nguyen Binh Khiem street... These " In this "banh beo" street, diners are not only Hue residents but most are visitors from far away. Indeed, everyone who has the opportunity to come to Hue wants to enjoy banh beo - a specialty of the ancient capital. Delicious cake
Hướng dẫn Đề 1. Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè, em về thăm lại trường cũ. Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó. I – Tìm hiểu đề: – Thể loại: tự sự ( kết hợp với miêu tả và biểu cảm ). – Nội dung: kể về một buổi thăm trường vào một ngày hè, sau 20 năm xa cách. – Hình thức: một lá thư gửi bạn học cùng lớp. – Yêu cầu: Người viết phải tưởng tượng mình đã trưởng thành,đóng vai một người có một vị trí, một công việc nào đó, nay trở lại thăm ngôi trường. Cần trả lời được các câu hỏi sau: + Lí do về thăm trường cũ là gì? + Thăm trường vào thời gian nào? Với ai? + Đến trường gặp ai? Thấy quang cảnh trường thế nào? Nhớ lại cảnh trường ngày xưa mình học ra sao? + Những gì gợi lại cho em những kỉ niệm buồn, vui của tuổi học trò, trong giờ phút đó bạn bè hiện lên như thế nào?…. * Chú ý: – Bài viết cần tự nhiên, chân thành. – Để bài văn hấp dẫn, sinh động hơn, trong quá trình làm bài, cần kết hợp các yếu tố miêu tả (hình ảnh ngôi trường với những hang cây,mái ngói, cột cờ, lớp học…) và yếu tố biểu cảm ( tâm trạng bồi hồi, xúc động khi nhớ lại kỉ niệm xưa bên thầy cô, bạn bè; xúc động khi bất ngờ gặp lại thầy(cô) giáo cũ…) II – Dàn ý chi tiết: 1. Đầu thư: – Thời gian, địa điểm viết thư. – Lời chào gửi đầu thư. – Lí do viết thư. 2. Nội dung bức thư: – Hỏi thăm tình hình trong những năm qua ( học tập, cuộcsống, công tác của bạn và một số bạn khác trong lớp ). – Giới thiệu về hoàn cảnh hiện tại của bản thân ( công việc,gia đình…) – Kể lại tình huống về thăm trường: + Lí do về thăm trường cũ ( đi ngang qua, có chủ định về thăm…) + Thời gian ( mùa hè); đi một mình hay đi với ai? + Tâm trạng trước khi về thăm ( nếu là chủ định ): bồi hồi,xúc động, hồi hộp… – Quang cảnh ngôi trường khi đếm thăm: + Ấn tượng đầu tiên khi nhìn thấy trường. + Cảnh vật, thiên nhiên, sự thay đổi của cảnh vật ( hàng cây, cổng trường…) + Quang cảnh ngôi trường khi đến thăm: miêu tả đôi nét về ngôi trường ( các dãy nhà, các phòng học, phòng chức năng, cơ sở vật chất của trường…) + Cảnh vật gợi nhớ đến những hình ảnh xưa của bạn bè, thầy cô ( những kỉ niệm buồn, vui của tuổi học trò…) ( Chú ý: Lồng cảm nghĩ và nhận xét về sự thay đổi của ngôi trường) – Kể lại những cuộc gặp gỡ: đã gặp ai ( thầy cô, bạn bè…)?Nói chuyện gì? (tâm sự, ôn lại những kỉ niệm trong quá khứ…)? Cảm nghĩ sau buổi trò chuyện? – Kết thúc buổi thăm trường: cảm xúc về buổi thăm trường;những suy tưởng; tình cảm; những động lực thúc đẩy bản thân trong tương lai… 3. Cuối thư: – Lời chào, lời chúc và lời hứa hẹn. – Ký tên. Đề 2: Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày. I – Tìm hiểu đề: – Thể loại: tự sự ( kết hợp với miêu tả và biểu cảm): – Nội dung: kể lại một giấc mơ gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày. – Hình thức: bố cục rõ ràng, đủ ba phần mở bài, thân bài, và kết bài. – Yêu cầu: Đề bài đưa ra giả định em có một người thân đã xa cách lâu ngày, nay trong mơ được gặp lại. Người đó phải là người có những gắn bó sâu nặng, quen thuộc và thân thiết với em, nay đang đi công tác xa hoặc chuyển đến nơi ở khác hoặc đã mất từ lâu… Cần trả lời được các câu hỏi sau: + Giấc mơ ấy diễn ra khi nào? + Người ấy là ai? Bây giờ ở đâu? Làm gì? + Hoàn cảnh gặp lại là gì? + Hình dáng, nét mặt, cử chỉ, lời nói… của người ấy khi em gặp lại như thế nào? + Khi tỉnh dậy, tâm trạng của em như thế nào? * Chú ý: – Đây là dạng bài kể chuyện sáng tạo, người viết cần thể hiện được trí tưởng tượng của mình trong quá trình kể, tưởng tượng nhưng vẫn phải phù hợp, gần gũi với thực tế cuộc sống. – Câu chuyện về cuộc gặp gỡ ấy phải thể hiện một ý nghĩa nào đó đối với người viết hoặc đối với độc giả ( nhằm ca ngợi một điều gì đó tốt đẹp, khẳng định những ảnh hưởng tích cực mà nhân vật hay cuộc gặp gỡ ấy tác động tới…) – Để bài văn thêm sinh động, hấp dẫn, người viết nên sử dụng kết hợp với yếu tố miêu tả ( hình dáng, nét mặt, cử chỉ của người thân; khung cảnh nơi gặp gỡ;…), yếu tố biểu cảm (tâm trạng, cảm xúc khi được gặp lại người thân, khi giấc mơ qua đi,…) II – Dàn ý chi tiết: 1. Mở bài: – Giới thiệu về giấc mơ, về người thân được gặp trong giấc mơ. 2. Thân bài: * Kể lại hoàn cảnh diễn ra giấc mơ: – Giấc mơ ấy diễn ra khi nào? Vì sao lại có giấc mơ ấy ( do được gợi nhớ bởi một điều gì đó, do hôm ấy là ngày có liên quan đến người thân…)? Thời gian của giấc mơ? – Gặp ai? (Người ấy còn sống hay đã mất? Khoảng cách về địa lí? Tình cảm của mình đối với người thân ấy?Đã bao lâu không gặp?) – Bối cảnh của giấc mơ( không gian, thời gian, màu sắc, cảnh vật chủ đạo trong giấc mơ). – Gặp người thân như thế nào? (Người ấy bỗng xuất hiện hay tình cờ gặp nhau?). * Kể lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện: – Chào hỏi giữa mình và người thân đó. – Miêu tả người thân: khuôn mặt, mái tóc, ánh mắt, dáng điệu, lời nói, cử chỉ ( thay đổi nhiều hay vẫn nguyên vẹn như trong tiềm thức của mình) – Nội dung cuộc trò chuyện: + Hỏi về công việc, cuộc sống hiện tại của người thân ( của mình ) + Nhắc lại kỉ niệm ( sự gắn bó ) giữa mình và người thân đó. + Lời động động, khích lệ, nhắc nhở, dặn dò của người thân với mình. + … * Kể lại tình huống khiến mình tỉnh giấc: – Chợt tỉnh dậy, nhận ra là mơ. – Những hình ảnh vẫn còn đọng lại, những chi tiết về giấc mơ in sâu vào tâm trí. 3. Kết bài: – Cảm xúc, suy nghĩ ( nhớ người thân, mong gặp người ấy…) – Hứa hẹn với bản thân, với người thân về một điều gì đó trong tương lai. Đề 3: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. I – Tìm hiểu đề: – Khi làm bài văn này, người viết cần kể lại được chi tiết,các sự việc chính. Đó là trận chiến đấu nào? Diễn biến của trận chiến ấy ra sao? … Đó phải là một trận chiến đầu có ý nghĩa to lớn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta hoặc của các dân tộc yêu chuộng hòa bình khác trên thế giới. Lời kể phải tự nhiên, chân thực như em đã từng được tham gia hoặc trực tiếp chứng kiến. – Để bài viết hay và sinh động hơn, các em nên sử dụng kết hợp với yếu tố miêu tả ( quang cảnh cuộc chiến, hành động của “các nhân vật”…)kết hợp với biểu cảm ( cảm xúc, suy nghĩ của em). Việc miêu tả ( trang phục, vũ khí…) cũng như sử dụng từ ngữ xưng hô cũng phải phù hợp với thời kì lịch sử mà trận chiến diễn ra. II – Dàn ý chi tiết: 1. Mở bài: – Đất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu các liệt với những chiến công hiển hách. – Trận chiến đấu… đã để lại cho em những cảm xúc khó phai. 2. Thân bài: – Kể khái quát về trận chiến đấu: + Diễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu? + Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông (bà) kể lại haysau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim? – Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn: + Chuẩn bị, phòng ngự. + Tấn công: tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch… ( Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dùng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân ta). – Kể lại kết quả của trận chiến đấu: + Quân ta: chiến thắng ( kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính) và những hi sinh mất mát… + Quân địch: thất bại ( kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót…) – Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sử. 3. Kết bài: – Cảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy. – Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc ta. – Suy nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ sau. Đề 4: Đã có lần em cùng bố, mẹ ( hoặc anh,chị) đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết. Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó. Yêu cầu chung: HS nắm vững phương pháp làm bài văn tự sự có kết hợp miêu tả. Bố cục chặt chẽ, rõ ràng, diễn đạt tốt, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. Yêu cầu cụ thể: HS có thể trình bày nhiều cách khác nhau, nhưng cần phải làm được các yêu cầu sau đây: 1. Mở bài: – Giới thiệu về buổi đi thăm mộ người thân cùng bố, mẹ… – Ấn tượng chung của bản thân về buổi đi thăm đó. 2. Thân bài: * Kể, tả về sự chuẩn bị cho buổi đi thăm: ( thu xếp thời gian, mua sắm lễ vật,…) * Xuất phát: mấy giờ, đi xe gì? Quang cảnh trên đường đi,tâm trạng lúc đó? * Đến thăm mộ: – Miêu tả cụ thể quang cảnh xung quanh. – Kể lại những việc làm trong buổi đi thăm mộ: + Dọn dẹp sạch sẽ xung quanh ngôi mộ. + Bày các đồ cúng lễ ( hoa quả, vàng hương…) + Thắp hương và làm lễ khấn vái ( nói lên ước nguyện của gia đình, bản thân, như là tâm sự với người đã khuất…) + Bố, mẹ ( hoặc anh,chị) đã kể lại những kỉ niệm gì về người thân đã khuất. Kết hợp với miêu tả cảnh hương cháy và tâm trạng của mọi người trong gia đình. – Nỗi xúc động, thể hiện tình cảm của bản thân với người thân đã mất. – Kết thúc buổi viếng thăm như thế nào? ( hóa vàng và tiền âm phủ, tưới rượu lên mộ, thắp hương cho những ngôi mộ xung quanh…) 3. Kết bài: – Khẳng định lại tình cảm của bản thân đối với người thân đã mất.
Hướng dẫn Đề 1. Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè, em về thăm lại trường cũ. Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó. I – Tìm hiểu đề: – Thể loại: tự sự ( kết hợp với miêu tả và biểu cảm ). – Nội dung: kể về một buổi thăm trường vào một ngày hè, sau 20 năm xa cách. – Hình thức: một lá thư gửi bạn học cùng lớp. – Yêu cầu: Người viết phải tưởng tượng mình đã trưởng thành,đóng vai một người có một vị trí, một công việc nào đó, nay trở lại thăm ngôi trường. Cần trả lời được các câu hỏi sau: + Lí do về thăm trường cũ là gì? + Thăm trường vào thời gian nào? Với ai? + Đến trường gặp ai? Thấy quang cảnh trường thế nào? Nhớ lại cảnh trường ngày xưa mình học ra sao? + Những gì gợi lại cho em những kỉ niệm buồn, vui của tuổi học trò, trong giờ phút đó bạn bè hiện lên như thế nào?…. * Chú ý: – Bài viết cần tự nhiên, chân thành. – Để bài văn hấp dẫn, sinh động hơn, trong quá trình làm bài, cần kết hợp các yếu tố miêu tả (hình ảnh ngôi trường với những hang cây,mái ngói, cột cờ, lớp học…) và yếu tố biểu cảm ( tâm trạng bồi hồi, xúc động khi nhớ lại kỉ niệm xưa bên thầy cô, bạn bè; xúc động khi bất ngờ gặp lại thầy(cô) giáo cũ…) II – Dàn ý chi tiết: 1. Đầu thư: – Thời gian, địa điểm viết thư. – Lời chào gửi đầu thư. – Lí do viết thư. 2. Nội dung bức thư: – Hỏi thăm tình hình trong những năm qua ( học tập, cuộcsống, công tác của bạn và một số bạn khác trong lớp ). – Giới thiệu về hoàn cảnh hiện tại của bản thân ( công việc,gia đình…) – Kể lại tình huống về thăm trường: + Lí do về thăm trường cũ ( đi ngang qua, có chủ định về thăm…) + Thời gian ( mùa hè); đi một mình hay đi với ai? + Tâm trạng trước khi về thăm ( nếu là chủ định ): bồi hồi,xúc động, hồi hộp… – Quang cảnh ngôi trường khi đếm thăm: + Ấn tượng đầu tiên khi nhìn thấy trường. + Cảnh vật, thiên nhiên, sự thay đổi của cảnh vật ( hàng cây, cổng trường…) + Quang cảnh ngôi trường khi đến thăm: miêu tả đôi nét về ngôi trường ( các dãy nhà, các phòng học, phòng chức năng, cơ sở vật chất của trường…) + Cảnh vật gợi nhớ đến những hình ảnh xưa của bạn bè, thầy cô ( những kỉ niệm buồn, vui của tuổi học trò…) ( Chú ý: Lồng cảm nghĩ và nhận xét về sự thay đổi của ngôi trường) – Kể lại những cuộc gặp gỡ: đã gặp ai ( thầy cô, bạn bè…)?Nói chuyện gì? (tâm sự, ôn lại những kỉ niệm trong quá khứ…)? Cảm nghĩ sau buổi trò chuyện? – Kết thúc buổi thăm trường: cảm xúc về buổi thăm trường;những suy tưởng; tình cảm; những động lực thúc đẩy bản thân trong tương lai… 3. Cuối thư: – Lời chào, lời chúc và lời hứa hẹn. – Ký tên. Đề 2: Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày. I – Tìm hiểu đề: – Thể loại: tự sự ( kết hợp với miêu tả và biểu cảm): – Nội dung: kể lại một giấc mơ gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày. – Hình thức: bố cục rõ ràng, đủ ba phần mở bài, thân bài, và kết bài. – Yêu cầu: Đề bài đưa ra giả định em có một người thân đã xa cách lâu ngày, nay trong mơ được gặp lại. Người đó phải là người có những gắn bó sâu nặng, quen thuộc và thân thiết với em, nay đang đi công tác xa hoặc chuyển đến nơi ở khác hoặc đã mất từ lâu… Cần trả lời được các câu hỏi sau: + Giấc mơ ấy diễn ra khi nào? + Người ấy là ai? Bây giờ ở đâu? Làm gì? + Hoàn cảnh gặp lại là gì? + Hình dáng, nét mặt, cử chỉ, lời nói… của người ấy khi em gặp lại như thế nào? + Khi tỉnh dậy, tâm trạng của em như thế nào? * Chú ý: – Đây là dạng bài kể chuyện sáng tạo, người viết cần thể hiện được trí tưởng tượng của mình trong quá trình kể, tưởng tượng nhưng vẫn phải phù hợp, gần gũi với thực tế cuộc sống. – Câu chuyện về cuộc gặp gỡ ấy phải thể hiện một ý nghĩa nào đó đối với người viết hoặc đối với độc giả ( nhằm ca ngợi một điều gì đó tốt đẹp, khẳng định những ảnh hưởng tích cực mà nhân vật hay cuộc gặp gỡ ấy tác động tới…) – Để bài văn thêm sinh động, hấp dẫn, người viết nên sử dụng kết hợp với yếu tố miêu tả ( hình dáng, nét mặt, cử chỉ của người thân; khung cảnh nơi gặp gỡ;…), yếu tố biểu cảm (tâm trạng, cảm xúc khi được gặp lại người thân, khi giấc mơ qua đi,…) II – Dàn ý chi tiết: 1. Mở bài: – Giới thiệu về giấc mơ, về người thân được gặp trong giấc mơ. 2. Thân bài: * Kể lại hoàn cảnh diễn ra giấc mơ: – Giấc mơ ấy diễn ra khi nào? Vì sao lại có giấc mơ ấy ( do được gợi nhớ bởi một điều gì đó, do hôm ấy là ngày có liên quan đến người thân…)? Thời gian của giấc mơ? – Gặp ai? (Người ấy còn sống hay đã mất? Khoảng cách về địa lí? Tình cảm của mình đối với người thân ấy?Đã bao lâu không gặp?) – Bối cảnh của giấc mơ( không gian, thời gian, màu sắc, cảnh vật chủ đạo trong giấc mơ). – Gặp người thân như thế nào? (Người ấy bỗng xuất hiện hay tình cờ gặp nhau?). * Kể lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện: – Chào hỏi giữa mình và người thân đó. – Miêu tả người thân: khuôn mặt, mái tóc, ánh mắt, dáng điệu, lời nói, cử chỉ ( thay đổi nhiều hay vẫn nguyên vẹn như trong tiềm thức của mình) – Nội dung cuộc trò chuyện: + Hỏi về công việc, cuộc sống hiện tại của người thân ( của mình ) + Nhắc lại kỉ niệm ( sự gắn bó ) giữa mình và người thân đó. + Lời động động, khích lệ, nhắc nhở, dặn dò của người thân với mình. + … * Kể lại tình huống khiến mình tỉnh giấc: – Chợt tỉnh dậy, nhận ra là mơ. – Những hình ảnh vẫn còn đọng lại, những chi tiết về giấc mơ in sâu vào tâm trí. 3. Kết bài: – Cảm xúc, suy nghĩ ( nhớ người thân, mong gặp người ấy…) – Hứa hẹn với bản thân, với người thân về một điều gì đó trong tương lai. Đề 3: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. I – Tìm hiểu đề: – Khi làm bài văn này, người viết cần kể lại được chi tiết,các sự việc chính. Đó là trận chiến đấu nào? Diễn biến của trận chiến ấy ra sao? … Đó phải là một trận chiến đầu có ý nghĩa to lớn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta hoặc của các dân tộc yêu chuộng hòa bình khác trên thế giới. Lời kể phải tự nhiên, chân thực như em đã từng được tham gia hoặc trực tiếp chứng kiến. – Để bài viết hay và sinh động hơn, các em nên sử dụng kết hợp với yếu tố miêu tả ( quang cảnh cuộc chiến, hành động của “các nhân vật”…)kết hợp với biểu cảm ( cảm xúc, suy nghĩ của em). Việc miêu tả ( trang phục, vũ khí…) cũng như sử dụng từ ngữ xưng hô cũng phải phù hợp với thời kì lịch sử mà trận chiến diễn ra. II – Dàn ý chi tiết: 1. Mở bài: – Đất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu các liệt với những chiến công hiển hách. – Trận chiến đấu… đã để lại cho em những cảm xúc khó phai. 2. Thân bài: – Kể khái quát về trận chiến đấu: + Diễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu? + Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông (bà) kể lại haysau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim? – Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn: + Chuẩn bị, phòng ngự. + Tấn công: tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch… ( Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dùng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân ta). – Kể lại kết quả của trận chiến đấu: + Quân ta: chiến thắng ( kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính) và những hi sinh mất mát… + Quân địch: thất bại ( kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót…) – Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sử. 3. Kết bài: – Cảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy. – Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc ta. – Suy nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ sau. Đề 4: Đã có lần em cùng bố, mẹ ( hoặc anh,chị) đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết. Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó. Yêu cầu chung: HS nắm vững phương pháp làm bài văn tự sự có kết hợp miêu tả. Bố cục chặt chẽ, rõ ràng, diễn đạt tốt, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. Yêu cầu cụ thể: HS có thể trình bày nhiều cách khác nhau, nhưng cần phải làm được các yêu cầu sau đây: 1. Mở bài: – Giới thiệu về buổi đi thăm mộ người thân cùng bố, mẹ… – Ấn tượng chung của bản thân về buổi đi thăm đó. 2. Thân bài: * Kể, tả về sự chuẩn bị cho buổi đi thăm: ( thu xếp thời gian, mua sắm lễ vật,…) * Xuất phát: mấy giờ, đi xe gì? Quang cảnh trên đường đi,tâm trạng lúc đó? * Đến thăm mộ: – Miêu tả cụ thể quang cảnh xung quanh. – Kể lại những việc làm trong buổi đi thăm mộ: + Dọn dẹp sạch sẽ xung quanh ngôi mộ. + Bày các đồ cúng lễ ( hoa quả, vàng hương…) + Thắp hương và làm lễ khấn vái ( nói lên ước nguyện của gia đình, bản thân, như là tâm sự với người đã khuất…) + Bố, mẹ ( hoặc anh,chị) đã kể lại những kỉ niệm gì về người thân đã khuất. Kết hợp với miêu tả cảnh hương cháy và tâm trạng của mọi người trong gia đình. – Nỗi xúc động, thể hiện tình cảm của bản thân với người thân đã mất. – Kết thúc buổi viếng thăm như thế nào? ( hóa vàng và tiền âm phủ, tưới rượu lên mộ, thắp hương cho những ngôi mộ xung quanh…) 3. Kết bài: – Khẳng định lại tình cảm của bản thân đối với người thân đã mất.
Hướng dẫn Trong tất cả các dụng cụ của học sinh, chúng tôi được xem như là anh cả, bởi lẽ chúng tôi có thân hình to lớn nhất. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi là những chiếc cặp xinh xinh giúp các bạn đựng đồ dụng học tập. Họ hàng chúng tôi có tự bao giờ không rõ lắm, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa, khi con người có nhu cầu đi học. Cha ông chúng tôi trước kia được làm rất đơn giản, thân hình chỉ gồm những mảnh da lớn được may lại, nắp cặp có khóa sắt hoặc có day kéo để đóng mở cặp. Còn ngày nay, với công nghệ tiên tiến và hiện đại, chúng tôi được thiết kế với nhiều kiểu mẫu đẹp hơn, đa dạng hơn. Họ hàng chúng tôi có nhiều loại: cặp đeo, cặp mang trên vai, cặp xách. Chất liệu để làm ra chúng tôi cũng phong phú hơn xưa. Có loại làm bằng da mềm, có loại làm bằng vải dù, vải gin, vải bố… Riêng tôi, tôi có một thân hình tương đối đẹp, được làm bằng một loại vải da tốt. Bên ngoài có trang trí nhiều hình vẽ và màu sắc nổi bật. Tôi thích nhất là hình chú chó Pikachu ngộ nghĩnh, đáng yêu ở phía trước mặt cặp. Bên trên là nắp cặp với một cái khóa bằng sắt bóng loáng để đóng, mở. Mỗi khi đóng, mở cặp, những âm thanh vang lên lách cách rất vui tai. Bên dưới nắp cặp là một cái túi phụ có dây kéo để các cô, cậu học trò đựng các đồ vật nhỏ cần thiết. Bên hông là một cái túi lưới để đựng những chai nước mà các cô, cậu thường hay mang đến lớp. Tôi không chỉ có quai đeo mà còn có một cái quai nhỏ để xách. Bên trong quai có lót xốp nên sử dụng rất êm. Quan trọng nhất là bên trong cơ thể tôi. Nơi ấy có ba ngăn chính dùng để đựng sách vở. Ngoài ba ngàn chính tôi còn có một ngăn phụ để đựng bút, thước, compa. Mỗi ngăn cặp được ngăn bởi một miếng vải mỏng và bền. Tuy thân hình chúng tôi cấu tạo chỉ như thế nhưng chúng tôi rất có ích. Nhờ có chúng tôi, các cô, cậu chủ cảm thấy tiện lợi hơn, thoải mái hơn khi đến trường. Chúng tôi che nắng cho sách, vở. Và chúng tôi chũng lấy làm vinh dự với chức năng bảo vệ nguồn tri thức của các cô, cậu học trò. Có chúng tôi, nguồn tri thức ấy sẽ không bị mất đi, không bị mai một đi khi trải qua mọi sự thay đổi của thời tiết.
Instruct Of all the student equipment, we are considered the oldest, because we have the largest body. Do you know who we are? We are beautiful briefcases to help you store your school supplies. It's not clear when our relatives first came into existence, but it was certainly a long time ago, when people needed to go to school. Our ancestors used to make things very simply, the body only consisted of large pieces of sewn leather, the lid of the briefcase had an iron lock or pull to open and close the briefcase. Today, with advanced and modern technology, we are designed with more beautiful and diverse models. Our relatives have many types: briefcases, shoulder bags, briefcases. The materials used to make them are also richer than before. Some are made of soft leather, some are made of parachute fabric, canvas, canvas... As for me, I have a relatively nice body, made of a good leather fabric. The outside is decorated with many outstanding drawings and colors. My favorite is the funny, adorable Pikachu dog image on the front of the bag. Above is the briefcase lid with a shiny iron lock to open and close. Every time I close or open my bag, the clicking sounds are very pleasant. Underneath the lid of the bag is an extra pocket with a zipper for girls and students to store necessary small items. On the side is a mesh bag to hold the water bottles that girls and boys often bring to class. Not only do I have a carrying strap, but I also have a small handle for carrying. The inside of the strap is lined with foam so it is very soft to use. The most important thing is inside my body. There are three main compartments used to store books. In addition to the main three thousand, I also have an extra compartment to hold pens, rulers, and compasses. Each briefcase compartment is divided by a thin and durable fabric. Even though our body structure is just like that, we are very useful. Thanks to us, the girls and boys feel more convenient and comfortable when going to school. We shade books and notebooks from the sun. And we are also honored with the function of protecting the source of knowledge of our students. With us, that source of knowledge will not be lost or eroded through all changes of weather.
Hướng dẫn Bài làm Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê – chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch. Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” (!). Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu: “Quê mùa, cung cấm chưa quen Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!” Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”. Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột… Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực. Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (…). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Instruct Assignment Hai Thuong Lan Ong Le Huu Trac was a talented physician, rich in medical ethics, who lived in the late 18th century, during the reign of King Le - Lord Trinh. He is also a respected writer and poet. In the book "Thuong Kinh Ky" (written in 1782), with an honest and sharp pen, he painted a vivid picture of the luxurious life in Lord Trinh's palace, of the authority and power of the king. Lord's house, describing the capital of Thang Long at that time on the occasion when he was summoned to the capital to treat crown prince Trinh Can. The excerpt Entering Lord Trinh's palace is one of the passages that focuses on the value of this memoir. Also through the excerpt, we see some features of Hai Thuong Lan Ong's soul and personality. The excerpt Entering Lord Trinh's Palace as well as the book Thuong Kinh Ky realistically portrays what he saw and heard on the occasion of Lan Ong being summoned to the capital to treat Crown Prince Trinh Can's illness. Through the excerpt, we can clearly see the beauty of his soul and personality: his disregard for fame and fortune, in order to keep his personality pure. Le Huu Trac was surprised by the view of the capital. That's because "the wealth of kings is really different from ordinary people" (!). The rich scene here is so different. Le Huu Trac, a mandarin who was born in a prosperous land, had to exclaim: "This is the most luxurious place in the entire South!" All wealth and wealth are concentrated in the lord's palace. Ordinary people have never known this rich scene. But that was just the initial manifestation. The poem that Mr. Le Huu Trac recited on the way ends with the sentence: “The countryside and the forbidden palace are not familiar What song did the original fisherman dig? That ending sentence partly reflects his thoughts. Life outside and inside the royal palace is very different. Like the fishermen of old, lost in a fairyland, magical and poetic. There is a feeling of sadness somewhere here. A confusion and concern in the soul of a medical practitioner. It was not by chance that Mr. Trac was inspired to recite poetry, but it was to remember the unusual wealth in the lord's palace. "Everywhere there are luxuriant trees, birds chirping, famous flowers blooming, and the wind carries a faint scent." Sitting on a stretcher to go to the palace was "suffering beyond words". Just that detail shows that Le Huu Trac's soul is not suitable for this place. He was not born for places with "jewel curtains, jade porches, and apricot shadows shining in". The surprise also gradually increased with each place he set foot on. “Strange trees and strange stones” never before seen were placed in the lakeside spot. Then all the furniture in the lord's palace was painted and gilded, from the palanquin for the king to ride in, to the ceremonial objects, from the trap to the pillars... The tables and chairs were all "unprecedented by humans" furniture. . The author only dares to "raise his eyes and then bow his head again". That gesture of bowing his head proves that Le Huu Trac is not a person passionate about glory, wealth, money or profit. That is a beautiful feature of his personality. He felt strange and out of place amid the luxurious life in the royal palace. All of these things are revealed through the unique and authentic pen. The personality and soul of the famous physician Le were also revealed in his thoughts when prescribing medicine for crown prince Trinh Can. A fierce fight before the court of conscience. On one side is the bondage of fame and fortune, on the other side is the mind of a physician, the morality of being a human being, the duty of being a servant. “If I get results right away, I will be bound by fame and profit, and I won't be able to return to the mountain (…). But then I thought: "Our ancestors have always loved our country. We must devote all our sincerity to continue the loyalty of our ancestors." It can be seen that Le Huu Trac is a person who does not care about fame and fortune. On the contrary, he fought with himself to escape that bondage, to live freely in the mountains to have peace of mind. On the other hand, he is also a dedicated and virtuous physician. That's why he prescribed to the prince "the peaceful remedy, if it doesn't work, it won't be much wrong", because his conscience wouldn't allow it. If you do it wrong, you will have to defame your medical profession, and you will feel guilty in your heart; If you do it right and well, you will be bound by fame and fortune. No matter what, you must keep your soul pure and your personality complete. The explanation of Trinh Can's illness as well as his thoughts and mood when prescribing showed that Le Huu Trac is a conscientious physician.
Hướng dẫn Trong các dụng cụ cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người, có lẽ chúng tôi thuộc họ bé nhất. Tuy bé nhưng nhà ai cũng cần đến. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi là cái kim khâu, bằng kim loại, bề ngang độ nửa mi-li-mét, chiều dài khoảng hai, ba xăng-ti-mét, một đầu nhọn, một đầu tù, có lỗ trên để xâu chỉ. Kim phải cứng mới dùng được. Khi đứt cúc, sứt chỉ, thế nào cũng phải có tôi thì mới xong. Tôi có từ lúc nào, không rõ lắm, nhưng chắc chắn là từ rất xưa. Từ khi con người biết trồng bông dệt vải may áo, chắc là phải cần đến kim để khâu áo. Làm ra cây kim lúc đầu hẳn là rất khó khăn, cho nên bây giờ mới có câu tục ngữ Có công mài sắt, có ngày nên kim. Họ nhà Kim chúng tôi rất đông. Ngoài kim khâu vải may áo, còn có loại kim dùng để thêu thùa, lại có kim khâu trong phẫu thuật, kim khâu giày, kim đóng sách,… Công dụng của kim là đưa chỉ mềm luồn qua các vật dày, mỏng để kết chúng lại. Thiếu chúng tôi thì nhiều nhà sản xuất gặp khó khăn đấy! Nghe nói từ cuối thế kỷ XVIII, một người Anh đã sáng chế ra máy khâu, nhưng máy khâu vẫn cứ phải có kim thì mới khâu được! Cùng họ Kim chúng tội còn có cây kim châm cứu. Nó bé mà dài, làm bằng bạc, dùng để châm vào huyệt nhằm chữa bệnh. Những cây kim của ông Nguyễn Tài Thu đã nổi tiêng thế giới!
Instruct Among the tools necessary for human daily life, we probably belong to the smallest family. Even though it's small, everyone's home needs it. Do you know who we are? We are sewing needles, made of metal, about half a millimeter wide, about two or three centimeters long, one pointed end, one blunt end, with a hole in the top to thread thread. The needle must be hard to use. When a button breaks or a thread is torn, it always has to be me to get it done. I didn't know when, but it was definitely a long time ago. Since people knew how to grow cotton and weave fabric to make clothes, they probably needed needles to sew clothes. Making a needle must have been very difficult at first, that's why now there is a proverb: "If work sharpens iron, one day a needle will be made." Our Kim family is very large. In addition to fabric sewing needles, there are also needles used for embroidery, surgical sewing needles, shoe sewing needles, bookbinding needles, etc. The use of needles is to thread soft thread through thick and thin objects to bind. them again. Without us, many manufacturers would have difficulty! It is said that at the end of the 18th century, an Englishman invented a sewing machine, but a sewing machine still requires a needle to sew! With the Kim family, we also have acupuncture needles. It is small but long, made of silver, used to prick acupuncture points for healing. Mr. Nguyen Tai Thu's needles are world famous!
Hướng dẫn Bài làm 1 Ông Hai là một người nông dân rất yêu làng và tự hào về làng Chợ Dầu của mình nhưng vì chiến tranh và hoàn cảnh gia đình nên ông phải rời làng đi tản cư. Sống trong hoàn cảnh bó buộc ở nơi tản cư, ông Hai luôn bứt rứt nhớ về cái làng Chợ Dầu. Một hôm ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức như mọi khi ông bỗng nghe được từ một người đàn bà tản cư tin làng Dầu “Việt gian theo Tây”. Tin dữ đến bất ngờ khiến da mặt ông “tê rân rân”, cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại”, ông “lặng đi tưởng như đến không thở được” rồi chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đy về. Về nhà, ông nằm vật ra giường mấy ngày không dám đy đâu, hoang mang lo lắng, ai nói gì cũng tưởng họ bàn tán về làng mình. Khi mụ chỉ nhà có ý đuổi gia đình ông đy nơi khác, ông chớm có ý định quay về làng nhưng rồi ông lại xác định “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Không biết tâm sự cùng ai nỗi đau khổ trong lòng, ông trò chuyện với đứa con nhỏ một lòng ủng hộ cụ Hồ. Khi chủ tịch xã lên cải chính làng Dầu không theo Tây, ông sung sướng đy khoe với tất cả mọi người, khoe cả tin làng ông bị Tây đốt nhẵn Bài làm 2 Truyện ngắn Làng của Kim Lân viết năm 1948, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Ông Hai phải đi tản cư nên ông rất nhớ làng và yêu làng, ông thường tự hào và khoe về làng Chợ Dầu giàu đẹp của mình, nhất là tinh thần kháng chiến và chính ông là một công dân tích cực. Ở nơi tản cư, đang vui với tin chiến thắng của ta, bất chợt ông Hai nghe tin dữ về làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Ông cụt hứng, đau khổ, xấu hổ. Ông buồn chán và lo sợ suốt mấy ngày chẳng dám đi đâu, càng bế tắc hơn khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi không cho ở nhờ vì là người của làng Việt gian. Ông chỉ biết trút bầu tâm sự cùng đứa con trai bé nhỏ như nói với chính lòng mình: theo kháng chiến, theo Cụ Hồ chứ không theo giặc, còn làng theo giặc thì phải thù làng. Nhưng đột ngột, nghe được tin cải chính làng Dầu không theo Tây, lòng ông phơi phới trở lại. Ông khoe với mọi người nhà ông bị Tây đốt sạch, làng Dầu bị đốt sạch, đốt nhẵn. Ông lại khoe và tự hào về làng Dầu kháng chiến như chính ông vừa tham gia trận đánh vậy. Bài làm 3 – Ông Hai là người một người nông dân yêu tha thiết yêu làng Chợ Dầu của mình. – Do yêu cầu của ủy ban kháng chiến, ông Hai phải cùng gia đình tản cư. xa làng ông nhớ làng da diết. – Trong những ngày xa quê, ông luôn nhớ đến làng Chợ Dầu và muốn trở về. – Một hôm, ông nghe tin làng Chợ Dầu của ông làm Việt gian theo Tây. Ông Hai vừa căm uất vừa tủi hổ, chỉ biết tâm sự cùng đứa con thơ.
Instruct Exercise 1 Mr. Hai is a farmer who loves his village and is proud of his Cho Dau village, but because of the war and family circumstances, he had to leave the village and evacuate. Living in forced circumstances in a displaced area, Mr. Hai always remembered the village of Cho Dau uneasily. One day, when he went to the information room to listen to news as usual, he suddenly heard from a displaced woman the news that Dau village "Vietnamese is following the West". The sudden bad news made his face "tingle", the old man's throat was completely choked up", he "fell silent as if he couldn't breathe" and could only bow his head and go home. Returning home, he lay on the bed for several days not daring to touch him, confused and worried, no matter what anyone said, he thought they were talking about his village. When the woman pointed out the house, intending to chase his family somewhere else, he initially had the intention of returning to the village, but then he determined, "The village really loves me, but once the village follows the West, it must be hated." Not knowing who to confide his pain in, he talked to his young child who wholeheartedly supported Uncle Ho. When the commune chairman came to rectify Dau village for not following the West, he was happy to show it off to everyone, showing off his belief that his village had been burned by the West. Exercise 2 Kim Lan's short story Village was written in 1948, during the early years of the resistance war against the French. The story is about Mr. Hai who loves his village and country very much. Mr. Hai had to evacuate, so he missed the village and loved it very much. He was often proud and boasted about his rich and beautiful Cho Dau village, especially the spirit of resistance and that he was an active citizen. In the evacuation area, happy with the news of our victory, Mr. Hai suddenly heard bad news about Cho Dau Viet village cheating on the West. He was frustrated, miserable, embarrassed. He was bored and scared for several days and did not dare to go anywhere. He was even more stuck when the landlady threatened to evict his family and not let him stay because they were from a Vietnamese village. He only knew how to confide in his little son as if speaking to his own heart: follow the resistance, follow Uncle Ho, not the enemy, and if the village follows the enemy, you will have to hate the village. But suddenly, when he heard the news that Dau village was being reformed to not follow the West, his heart felt happy again. He bragged to everyone that his house had been burned by the West, Dau village had been burned to the ground. He showed off and was proud of Dau village's resistance as if he himself had just participated in the battle. Exercise 3 – Mr. Hai is a farmer who loves his Cho Dau village dearly. – Due to the request of the resistance committee, Mr. Hai had to evacuate with his family. Away from the village, he missed the village very much. – During the days away from home, he always remembered Cho Dau village and wanted to return. – One day, he heard that his Cho Dau village was a Vietnamese traitor following the West. Mr. Hai was both angry and ashamed, and could only confide in his young child.
Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên Đây là một đề văn mở, tùy vào cảm nhận của mỗi người về nhân vật, song cần bám sát vào văn bản và phương pháp cảm nhận một nhân vật trong tác phẩm tự sự. Sau đây là một gợi ý: Mở bài: Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và nhân vật -Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ và xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn Nguyễn Thành Long, có thể coi dây là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện với những nhân vật không tên mà tiêu biểu là anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Nhà văn muốn giới thiệu với bạn đọc một điển hình trong công cuộc lao động xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này. Thân bài: Cần đạt được các nội dung sau: Nhân vật anh thanh niên Trước khi xuất hiện nhân vật chính, nhà văn đã giới thiệu cho người đọc một vùng đất đầy ấn tượng. Phong cảnh Sa Pa núi cao với thác đổ trắng xóa, đường núi quanh co, cây cối chen nhau hiện dần mỗi lúc một hấp dẫn. Nhân vật được khắc họa rõ nét dần dần, cảnh thơ mộng, con người mộng mơ, tất cả từ bác lái xe đến ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ… dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một điều giản dị nhưng thật quý giá, thiêng liêng. Vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp của con người Sa Pa – những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người, trong đó có anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và làm việc Anh là “người cô độc nhất thế gian”, một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng bốn bề mây phủ cây phong, lạnh rét. Anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người, bởi anh sinh ra có gia đình, cha mẹ, quê hương, làm sao không thèm, không nhớ? Nỗi nhớ khiến anh phải chặt cây chắn đường để được gặp người. Anh đã làm quen được với bác lái xe từ đó. Lần này qua bác lái xe, anh lại được làm quen với ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống hơn bao giờ hết. Công việc mỗi ngày của anh là: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. + Hàng ngày, anh phải báo ốp về nhà vào các giờ 01 giờ sáng, 04 giờ, 11 giờ t rưa. 19 giờ tối. Gian khổ nhất là lúc 01 giờ sáng rét, mưa, tuyết rơi, đang nằm trong chăn ấm phải chui ra khi nghe tiếng chuông đồng hồ báo Ốp, chỉ muốn thò tay ra tắt ngay đi nhưng công việc chính xác đến không thể, đòi hỏi ý chí, tinh thẩn cao. Anh vùng dậy, xách đèn đi, gió, bão tuyết ào ào xô tới tấn công như chặt từng khúc, như muốn quét đi, bứt phá lung tung tất cả… xong việc, trở về không làm sao ngủ lại được. + Công việc thật gian khổ, vất vả nhưng anh vẫn yêu nó, làm việc hết mình và chính xác. Có lần anh đã phát hiện ra một đám mây khô nên không quân ta đã tiêu diệt được nhiều phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Anh thấy mình thật hạnh phúc. Chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua nỗi cô đơn. buồn chán của bản thân. Anh tâm sự với ông họa sĩ về công việc của mình, có lẽ đây là những suy nghĩ chân thành và sâu sắc nhất của anh: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới, thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”… Đọc những lời tâm sự này, ta càng thấy đó là suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh, ta càng thấy mến yêu, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc được mục đích làm việc. Anh quả là con người mới, tiêu biểu cho lớp thanh niên: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có thanh niên”, “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” (Hồ Chí Minh). Vẻ đẹp trong nếp sống, cách ứng xử Anh thanh niên là người sống có nề nếp, nhân cách. Một mình trên núi cao, anh có thể sống tự do, thoải mái. Nhưng không, thật bất ngờ khi mọi người đến thăm lại thấy ngôi nhà của anh thật ngăn nấp, gọn gàng. Anh tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng, ý nghĩa và anh yêu sống nhường nào! + Anh trồng hoa: “Hoa dơn, hoa thược dược vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong,…”, vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng ngày như động viên, tiếp sức, làm cho tâm hồn anh tươi mát, mộng mơ, thêm yêu cuộc sống. + Anh đọc sách, trò chuyện, giao tiếp với sách, lấy sách làm bạn tri âm tri kỉ + Anh nuôi gà vừa có thêm thực phẩm hàng ngày vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm. + Thế giới riêng của anh: “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”, một cuộc đời riêng “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”, và ở ngoài sân: đàn gà, vườn hoa,… đẹp, giản dị mà tao nhã biết bao! Có lẽ chính lối sống đẹp đẽ khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc nhàm chán, khắc nghiệi để thấy yêu nghề, yêu cuộc sống hơn. Anh là người khiêm tốn, thành thực. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh, anh từ chối bởi thấy công việc và những đóng góp của mình còn nhỏ bé, chưa thấm vào đâu so với những người mà anh rất cảm phục như “ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, “người đồng chí nghiên cứu khoa học” cùng cơ quan đang nghiên cứu lập bản đồ sét, với tất cả niềm say mê, hào hứng… Anh nhiệt thành giới thiệu để ông họa sĩ vẽ chân dung của họ – những con người làm việc hết mình, thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng và khâm phục. Anh là người có tấm lòng rộng mở, chân thành, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi ngưòi. + Với bác lái xe dường như đã trở thành người bạn thân tình, anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác mới ốm dậy, gửi củ tam thất về làm quà cho bác. + Với những người bạn mới như ông họa sĩ, cô gái trẻ, anh vui mừng đến luống cuống, hấp tấp khi biết họ sẽ lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Anh bộc lộ tình cảm thật hồn nhiên, chân thành đến cảm động: tặng bó hoa tươi, đẹp rực rỡ cho cô gái trẻ, đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quý hiếm vô cùng, anh giới thiệu qua công việc của mình năm phút, còn hai mươi phút mời mọi người uống trà, trò chuyện. Anh thèm và khao khát được nghe chuyện dưới xuôi, anh tiếc: “Trời ơi, chỉ còn có năm phút”. Với anh không chỉ thèm người mà còn đói cả thông tin. Thời gian trôi đi thật nhanh, giờ phút chia tay đã đến, anh không dám tiễn hai người, xúc động “quay mặt đi” và ấn vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn trên đường. => Chỉ bằng vài nét phác họa nhẹ nhàng, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh anh thanh niên – bức chân dung với những vẻ đẹp về tinh thần, tình cảm, lối sống, những suy nghĩ về lí tưởng, công việc của anh. Thật đáng tiếc! Chính tác giả cũng đã nhận xét truyện ngắn này là “một bức chân dung” – chân dung được hiện lên ở một số nét đẹp, nhưng chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính, Kết bài: Mở rộng vấn để và liên hệ
Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên Đây là một đề văn mở, tùy vào cảm nhận của mỗi người về nhân vật, song cần bám sát vào văn bản và phương pháp cảm nhận một nhân vật trong tác phẩm tự sự. Sau đây là một gợi ý: Mở bài: Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và nhân vật -Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ và xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn Nguyễn Thành Long, có thể coi dây là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện với những nhân vật không tên mà tiêu biểu là anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Nhà văn muốn giới thiệu với bạn đọc một điển hình trong công cuộc lao động xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này. Thân bài: Cần đạt được các nội dung sau: Nhân vật anh thanh niên Trước khi xuất hiện nhân vật chính, nhà văn đã giới thiệu cho người đọc một vùng đất đầy ấn tượng. Phong cảnh Sa Pa núi cao với thác đổ trắng xóa, đường núi quanh co, cây cối chen nhau hiện dần mỗi lúc một hấp dẫn. Nhân vật được khắc họa rõ nét dần dần, cảnh thơ mộng, con người mộng mơ, tất cả từ bác lái xe đến ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ… dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một điều giản dị nhưng thật quý giá, thiêng liêng. Vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp của con người Sa Pa – những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người, trong đó có anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và làm việc Anh là “người cô độc nhất thế gian”, một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng bốn bề mây phủ cây phong, lạnh rét. Anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người, bởi anh sinh ra có gia đình, cha mẹ, quê hương, làm sao không thèm, không nhớ? Nỗi nhớ khiến anh phải chặt cây chắn đường để được gặp người. Anh đã làm quen được với bác lái xe từ đó. Lần này qua bác lái xe, anh lại được làm quen với ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống hơn bao giờ hết. Công việc mỗi ngày của anh là: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. + Hàng ngày, anh phải báo ốp về nhà vào các giờ 01 giờ sáng, 04 giờ, 11 giờ t rưa. 19 giờ tối. Gian khổ nhất là lúc 01 giờ sáng rét, mưa, tuyết rơi, đang nằm trong chăn ấm phải chui ra khi nghe tiếng chuông đồng hồ báo Ốp, chỉ muốn thò tay ra tắt ngay đi nhưng công việc chính xác đến không thể, đòi hỏi ý chí, tinh thẩn cao. Anh vùng dậy, xách đèn đi, gió, bão tuyết ào ào xô tới tấn công như chặt từng khúc, như muốn quét đi, bứt phá lung tung tất cả… xong việc, trở về không làm sao ngủ lại được. + Công việc thật gian khổ, vất vả nhưng anh vẫn yêu nó, làm việc hết mình và chính xác. Có lần anh đã phát hiện ra một đám mây khô nên không quân ta đã tiêu diệt được nhiều phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Anh thấy mình thật hạnh phúc. Chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua nỗi cô đơn. buồn chán của bản thân. Anh tâm sự với ông họa sĩ về công việc của mình, có lẽ đây là những suy nghĩ chân thành và sâu sắc nhất của anh: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới, thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”… Đọc những lời tâm sự này, ta càng thấy đó là suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh, ta càng thấy mến yêu, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc được mục đích làm việc. Anh quả là con người mới, tiêu biểu cho lớp thanh niên: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có thanh niên”, “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” (Hồ Chí Minh). Vẻ đẹp trong nếp sống, cách ứng xử Anh thanh niên là người sống có nề nếp, nhân cách. Một mình trên núi cao, anh có thể sống tự do, thoải mái. Nhưng không, thật bất ngờ khi mọi người đến thăm lại thấy ngôi nhà của anh thật ngăn nấp, gọn gàng. Anh tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng, ý nghĩa và anh yêu sống nhường nào! + Anh trồng hoa: “Hoa dơn, hoa thược dược vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong,…”, vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng ngày như động viên, tiếp sức, làm cho tâm hồn anh tươi mát, mộng mơ, thêm yêu cuộc sống. + Anh đọc sách, trò chuyện, giao tiếp với sách, lấy sách làm bạn tri âm tri kỉ + Anh nuôi gà vừa có thêm thực phẩm hàng ngày vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm. + Thế giới riêng của anh: “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”, một cuộc đời riêng “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”, và ở ngoài sân: đàn gà, vườn hoa,… đẹp, giản dị mà tao nhã biết bao! Có lẽ chính lối sống đẹp đẽ khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc nhàm chán, khắc nghiệi để thấy yêu nghề, yêu cuộc sống hơn. Anh là người khiêm tốn, thành thực. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh, anh từ chối bởi thấy công việc và những đóng góp của mình còn nhỏ bé, chưa thấm vào đâu so với những người mà anh rất cảm phục như “ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, “người đồng chí nghiên cứu khoa học” cùng cơ quan đang nghiên cứu lập bản đồ sét, với tất cả niềm say mê, hào hứng… Anh nhiệt thành giới thiệu để ông họa sĩ vẽ chân dung của họ – những con người làm việc hết mình, thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng và khâm phục. Anh là người có tấm lòng rộng mở, chân thành, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi ngưòi. + Với bác lái xe dường như đã trở thành người bạn thân tình, anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác mới ốm dậy, gửi củ tam thất về làm quà cho bác. + Với những người bạn mới như ông họa sĩ, cô gái trẻ, anh vui mừng đến luống cuống, hấp tấp khi biết họ sẽ lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Anh bộc lộ tình cảm thật hồn nhiên, chân thành đến cảm động: tặng bó hoa tươi, đẹp rực rỡ cho cô gái trẻ, đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quý hiếm vô cùng, anh giới thiệu qua công việc của mình năm phút, còn hai mươi phút mời mọi người uống trà, trò chuyện. Anh thèm và khao khát được nghe chuyện dưới xuôi, anh tiếc: “Trời ơi, chỉ còn có năm phút”. Với anh không chỉ thèm người mà còn đói cả thông tin. Thời gian trôi đi thật nhanh, giờ phút chia tay đã đến, anh không dám tiễn hai người, xúc động “quay mặt đi” và ấn vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn trên đường. => Chỉ bằng vài nét phác họa nhẹ nhàng, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh anh thanh niên – bức chân dung với những vẻ đẹp về tinh thần, tình cảm, lối sống, những suy nghĩ về lí tưởng, công việc của anh. Thật đáng tiếc! Chính tác giả cũng đã nhận xét truyện ngắn này là “một bức chân dung” – chân dung được hiện lên ở một số nét đẹp, nhưng chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính, Kết bài: Mở rộng vấn để và liên hệ
Hướng dẫn Khi nói đến cái lặng im và lặng lẽ của Sa Pa thì người ta sẽ nghĩ ngay đến việc nghỉ ngơi. Nhưng Nguyễn Thành Long lại cho ta biết về những con người đang âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết sức mình cho đất nước, để rồi ông viết nên Lặng lẽ Sa Pa. Anh thanh niên trong truyện ngắn này là người tiêu biểu, đại diện cho lớp người lao động thầm lặng ấy. Anh không xuất hiện từ đầu tác phẩm, không trực tiếp nhận xét về bản thân mình. Nguyễn Thành Long đã cho anh thanh niên – nhân vật chính của tác phẩm – tự bộc lộ vẻ đẹp của mình. Qua lời giới thiệu của bác lái xe: anh sống cô độc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét, làm công tác khí tượng kiêm vật ụ địa cầu, sống giữa rừng xanh, mây trắng, bốn bề chỉ toàn là cỏ cây. Dường như người đọc không thể hình dung một cách cụ thể con người của anh. Nhưng khi anh xuất hiện, ông họa sĩ sau khi nghe lời giới thiệu thì bỗng như đứng sững sờ, xúc động khi thấy “người con trai bé nhỏ, nét mặt rạng ngời”. Anh thanh niên quả là một người đầy bản lĩnh, có như thế thì mới dám sống và làm việc ở một nơi thiếu bóng người như thế. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi giữa anh thanh niên, ông họa sĩ và cô kĩ sư nông nghiệp đã đưa người đọc đến gần hơn tâm hồn và tính cách của anh thanh niên. Hàng ngày, anh thanh niên làm việc với đủ loại máy đo mưa, máy nhập quang kí đo ánh sáng mặt trời, cái máy đo gió và cái máy đo chấn động của vỏ trái đất. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng và báo về “nhà” bằng máy bộ đàm. Công việc ấy cần phải chính xác và đúng giờ. Anh còn bảo: “Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất”. Công việc tuy vất vả nhưng anh thanh niên đã vượt qua tất cả và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cuộc sống của anh hòa vào cuộc sống của mọi người. Anh rất vui và tự hào khi mình đã góp phần phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta bắn hạ máy bay của Mĩ. Những công việc tưởng chừng như đơn giản và thầm lặng ấy của anh đã góp phần rất lớn trong việc đự báo thời tiết để sản xuất. Nhờ hăng say trong công việc, anh không thấy cô đơn khi làm việc một mình ở vùng cao hẻo lánh và cảm thấy vui khi hoàn thành tốt công việc của mình. Anh còn là một người hiếu khách: rót nước mời ông họa sĩ và cô kĩ sư, cắt hoa tặng cô gái và tặng một làn trứng cho bác lái xe, ông họa sĩ và cô gái trẻ. Những món quà ấy tuy không đáng là bao nhưng thấm đượm tình nghĩa, giàu lòng hiếu khách. Anh thanh niên không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, quan tâm đến người khác, anh còn có một lối sống ngăn nắp, mẫu mực. Bác họa sĩ lấy làm ngạc nhiên khi bước vào nhà của anh. Trước khi đến đây, bác đã tưởng tượng ra một căn nhà chưa kịp quét, một tấm chăn chưa kịp gấp nhưng hiện ra trước mắt bác lại là một căn nhà ba gian sạch sẽ, tất cả mọi thứ được để ngăn nắp. Anh hái hoa tặng khách. Hoa anh trồng đang khoe sắc. Nào hoa đơn, thược dược, và các loại rau. Điều đó đã làm những vị khách mới này bất ngờ. Ngoài những công việc này anh còn nghiên cứu sách báo. Anh có thể dùng số tiền mua sách vở cho việc sắm sửa các vật dụng khác phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhưng anh mừng quýnh lên với những cuốn sách anh nhờ bác lái xe mua hộ. Và anh không hề cảm thấy cô đơn vì đã có sách làm bầu bạn. Anh nói với cô kĩ sư trẻ: “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà”. Bởi vậy, anh không cảm thấy cô đơn khi sống một mình ở vùng cao hẻo lánh. Anh khiêm tốn khi thấy ông họa sĩ vẽ mình, anh thấy mình chưa xứng đáng để được vẽ nên anh đã giới thiệu cho ông họa sĩ một số người khác thích hợp hơn mình. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, luôn tìm cách thụ phấn cho su hào để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao. Không chỉ giới thiệu ông kĩ sư, anh còn cho ta biết về anh cán bộ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu riêng bản đồ sét cho nước ta. Anh luôn nghĩ cho mọi người. Chính vì thế nên ông họa sĩ phải thốt lên: “Chao ôi, bắt gặp được một người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác”.
Instruct When talking about the silence and quiet of Sa Pa, people will immediately think of resting. But Nguyen Thanh Long told us about the people who are silently and quietly dedicating their best to the country, and then he wrote Quiet Sa Pa. The young man in this short story is a typical person, representing that class of silent workers. He does not appear from the beginning of the work and does not directly comment on himself. Nguyen Thanh Long allowed the young man - the main character of the work - to reveal his beauty. Through the driver's introduction: he lives alone on Yen Son peak, 2,600 meters high, works as a meteorologist and geodesist, lives in the middle of green forests, white clouds, surrounded by only trees. tree. It seems that the reader cannot concretely imagine his personality. But when he appeared, the artist, after hearing the introduction, suddenly stood stunned, moved to see "the little boy with a radiant face". The young man is truly a brave person. Only like that can he dare to live and work in a place with such a lack of people. The short conversation between the young man, the artist and the agricultural engineer brought the reader closer to the soul and personality of the young man. Every day, the young man works with all kinds of rain gauges, photometers that measure sunlight, wind meters and machines that measure the vibrations of the earth's crust. His job is to measure wind, rain, sun and report back "home" by walkie-talkie. That work needs to be accurate and on time. He also said: "What's more, my work is closely tied to the work of many brothers and comrades down there. My job is so arduous, if I take it away I will be sad to death." Although the work was difficult, the young man overcame everything and completed his tasks well. His life blends into everyone's life. He was very happy and proud when he contributed to discovering a dry cloud that helped our air force shoot down an American plane. His seemingly simple and silent work has greatly contributed to weather forecasting for production. Thanks to his enthusiasm at work, he did not feel lonely when working alone in a remote highland area and felt happy when he completed his work well. He was also a hospitable person: he poured water for the artist and the engineer, cut flowers for the girl, and gave a bunch of eggs to the driver, the artist, and the young girl. Although these gifts are not worth much, they are imbued with gratitude and hospitality. The young man not only fulfilled his duties well and cared for others, he also had an orderly and exemplary lifestyle. The artist was surprised when he entered his house. Before coming here, he imagined a house that had not yet been swept, a blanket that had not yet been folded, but what appeared before his eyes was a clean three-room house, with everything neatly kept. He picked flowers to give to guests. The flowers he planted are blooming. There are single flowers, dahlias, and vegetables. That surprised these new guests. In addition to these jobs, he also researches books and newspapers. You can use the money to buy books to buy other items to serve your life. But he was overjoyed with the books he asked his driver to buy for him. And he didn't feel lonely at all because he had books to keep him company. He told the young engineer: “I always have someone to talk to. That means there is a book." Therefore, he does not feel lonely when living alone in a remote highland area. He was humbled when he saw the artist painting him. He felt that he was not worthy to be painted, so he introduced the artist to some other people who were more suitable than him. That is the engineer in Sa Pa vegetable garden, always finding ways to pollinate kohlrabi to create high quality products. Not only did he introduce the engineer, he also told us about the scientific researcher who specifically researched lightning maps for our country. He always thinks about everyone. That's why the artist had to exclaim: "Wow, meeting someone like him is a rare opportunity for creativity."
Hướng dẫn Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Có lẽ đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong tác phẩm là những vần thơ tuyệt bút. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần: “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu: Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười. Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu: Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da Vẻ đẹp của Thuý Vân có sự hoà hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng. Tác giả dùng thủ pháp đòn bẩy, tả khách hình chủ, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp, Kiều càng muôn phần đẹp hơn. Thuý Kiều lại có nhan sắc “ sắc sảo mặn mà”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên ấy phải đố kị, ghen ghét: “ Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn, Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” Nếu như nhan sắc của Thuý Kiều khiến cho nghiêng thành đổ nước, không ai sánh bằng thì tài năng của nàng may ra mới có người thứ hai. “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai, Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm” Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác. Khúc nhạc “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác làm cho người nghe phải rơi lệ. Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp giữa sắc-tài-tình. Chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm dự báo một số phận không êm đềm, bình lặng như Thuý Vân, mà đầy trắc trở, éo le. Những câu thơ cuối khái quát về cuộc sống đức hạnh của chị em Thuý Kiều: “Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai” Hai chị em sống trong môi trường gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời.
Instruct Nguyen Du is a great poet of our nation. His name is associated with the work "The Tale of Kieu" - the number one masterpiece of Vietnamese medieval literature. Perhaps the poem "Thuy Kieu Sisters" quoted in the work is a masterpiece. In just 24 six-eight verses, Nguyen Du described the talent, beauty and virtue of the two sisters Thuy Van and Thuy Kieu with all the poet's love and respect. The excerpt "Thuy Kieu Sisters" is in the section: "Meeting and engagement", after the introduction of Thuy Kieu's family. With enthusiastic praise, Nguyen Du used classical conventional artistic style, taking natural images to evoke, describe, and portray the beauty of Thuy Kieu's sisters into stunning beauties. First of all, Nguyen Du shows us the overall beauty of the two sisters Thuy Kieu in the first four sentences: At first, the two girls denounced each other, Thuy Kieu is the older sister, the younger is Thuy Van. Mai bone way, spirit snow, Each person looks completely different. The poet uses the Sino-Vietnamese word "to nga" to refer to beautiful and delicate girls to refer to the two sisters Thuy Van and Thuy Kieu. The two sisters are said to have noble personalities like apricot blossoms and pure souls like white snow. Each person has their own beauty and is beautiful in a comprehensive way. From that comprehensive view, the poet describes each person. Using the art of symbolic convention, listing, and personification, the author describes Thuy Van's beauty as solemn, noble, and kind: Van looks so solemn, Mold plump moon bouncing his strokes Flowers smile, jade is dignified, Cloudy lose hair color snow ceded skin color Thuy Van's beauty is in harmony with nature, as if implicitly predicting a warm, peaceful future in her life. The author uses leverage, describing the guest as the main character, describing Thuy Van first and then describing Thuy Kieu. Van is beautiful, Kieu is even more beautiful. Thuy Kieu has a "sharp and salty" beauty. Kieu is "sharp" in intelligence, "salty" in soul. In particular, that beauty is expressed through the eyes of "autumn water and spring". The eyes are the windows to the soul, Kieu's eyes are clear and sparkling like autumn water, her eyebrows are as delicate as spring mountains. If the beauty of Thuy Van is readily tolerated by nature, then with Thuy Kieu, that beauty overwhelms nature, causing that nature to be envious and jealous: “Kieu is more sharp and salty, Compared surface is the more talented back, The waters of autumn, the features of spring, United jealous loser poor petal blue willow hon" If Thuy Kieu's beauty makes people fall apart, no one can match her, then her talent is fortunately second to none. "For looks you have to ask for one, but for talent you have to ask for two, Intelligence is inherently innate, Mixed with the art of painting, full of the scent of singing." Thuy Kieu is naturally intelligent, so in all the arts: poetry, singing, she is very skilled, especially in playing the lute: "Cung thuong lou five-syllable level". She is not only good at music but also knows how to compose. The song "Silver Destiny" that she composed made listeners shed tears. Thus, Thuy Kieu's beauty is a combination of beauty, talent and love. That beauty also implicitly predicts a fate that is not peaceful and calm like Thuy Van, but full of difficulties and hardships. The last verses summarize the virtuous life of Thuy Kieu sisters: “Softly, draped with curtains, The wall is crowded with butterflies and bees, no one cares." The two sisters live in a well-educated, orderly environment, away from gossip and gossip in real life.
Hướng dẫn Nhắc đến khoảng trời Trường Sơn là nhắc đến biết bao sự hy sinh mất mát, nơi mà lính Mỹ đã thả bom dồn dập nhằm ngăn cản bước tiền dũng mãnh của các đoàn quân tiến về Sài Gòn giải phóng miền Nam. Nhưng Trường Sơn đâu chỉ mang trong mình bao sự thương đau, Trường Sơn con là nơi ghi dấu của những tâm hồn tự nhiên, lạc quan của những người chiến sĩ lái xe không kính, những chàng trai cô gái thanh niên xung phong đã hy sinh tuổi trẻ để cống hiến cho đất nước. Là một người đã từng gắn bó với khoảng trời bom đạn ấy, nhà văn Lê Minh Khuê đã khai thác đề tài quen thuộc đã làm nên nhiều tên tuổi lớn trân văn đàn chống Mỹ nhưng cùng với sự sáng tạo và một chút lãng mạn của mình, “Những ngôi sao xa xôi” của bà, đã khắc họa hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong, mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định với những vẻ đẹp hồn nhiên vốn có của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ. Câu chuyện kể về ba cô gái, ba cô gái thanh niên xung phong Nho, Thao và Phương Định, sống trên một cao điểm giữa mênh mông khói bụi Trường Sơn, nơi mà “màu đất đỏ, trắng lẫn lộn”. Công việc của họ là “ngôi đây”,”khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hồ bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Trong lúc đơn vị thường làm việc khi mặt trời lặn, thì tổ trinh sát lại làm việc ban ngày, khi thần chết luôn “lẩn trong ruột những quả bom”, khi mà lính Mỹ thả bom nhiều nhất và cái chết luôn theo sát ba cô gái ấy. Công việc của họ là công việc quan trọng và cũng đầy gian khổ hy sinh, đòi hỏi tinh thần dũng cảm, sự nhạy bén quyết đoán và sự nhanh nhẹn. Trong hoàn cảnh ấy, ta mới thấy sáng ngời lên là những phẩm chất cao đẹp của ba nhân vật, và đặc biệt là Phương Định, nhân vật chính của truyện. Phương Định là một cô gái Hà Nội, “một cô gái khá”, chỉ vừa mới bước ra khỏi cuộc đời hồn nhiên vô tư lự của mình. Cô có vẻ bề ngoài đáng yêu trẻ trung và xinh xắn, “ hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”, còn đôi mặt thì có “cái nhìn sao mà xa xăm”. Những nét đẹp của cô đã được những anh lái xe để ý đến, bằng chứng là những bức thư dài gửi đường dây mặc dù có thể chào nhau hằng ngày, nhưng Phương Định cũng không săn sóc vồn vã, cô gái vẫn hay đứng ra xa, khoanh tay trước mặt và nhìn đi nơi khác mỗi khi một đám con gái xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy. Một hành động đó thôi đã làm Phương Định trở nên thật kiêu kì, cái điệu của cô thật đáng yêu và cũng thật phù hợp với một người con gái như vậy. Tâm hồn cô giữa khoảng trời Trường Sơn thật làm cho người ta thật ngạc nhiên. Cô mê hát, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”, lời cô bịa lộn xộn ngớ, ngẩn ngởn đến không ngờ, đôi lúc nó cũng làm cho cô bò ra mà cười một mình, cô thích “những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận”, cô thích “dân ca quan họ mềm mại dịu dàng” và kể cả “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô”, “ ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh””. Và Phương Định hát khi có sự im lặng không bình thường, “tiếng máy bay trinh sát rè rè”, cô hát để cổ động viên hai người đồng đội Nho, Thao và cũng là hát để động viên chính bản thân mình. Chính những lúc mê hát ấy đã làm cô quên đi cái sự buồn chán của cuộc sống Trường Sơn, quên đi mùi khói bom đạn mà cô vẫn tiếp xúc hằng ngày, và đó cũng là bước đà để cô có được một tâm hồn mơ mộng khi cơn mưa đá vừa ập đến. Mang theo tuổi trẻ của mình vào Trường Sơn, Phương Định còn mang theo cả những kỉ niệm đẹp về góc phố Hà Nội của mình, đó là hình ảnh người mẹ, cái cửa sổ, tiếng rao của bà bán xôi có cái mủng đội trên đầu, kể cả những cú sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Cơn mưa đá đi nhanh cũng như lúc nó vừa đến, nhưng lại mang những dòng kí ức tuổi thơ về cho Phương Định, và tất cả như xoáy mạnh trong tâm trí cô. Có lẽ chính những điều ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cô gái, để cô luôn nghĩ rằng, gia đình, bạn thân và cả những kỉ niệm kia sẽ luôn theo cô trong suốt quãng đời ở Trường Sơn. Tâm hồn, tính cách của Phương Định hồn nhiên như thế, nhưng nổi bật lên trên tất cả vẫn là tinh thần dũng cảm, vượt lên trên hiểm nguy luôn ẩn chứa trong thân hình nhỏ bé của cô gái Hà Nội kia. Đó là những lúc mà bom của giặc Mỹ vẫn còn chưa nổ, và cô phải làm nhiệm vụ của mình, còn thần chết thì có vẻ vẫn đang “lẩn trong ruột những quả bom” chờ đợi cô. Tuy vậy, Phương Định vẫn tỏ ra thật bình thản, cái chết thì cô có nghĩ đến nhưng lại là “một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, mà cô quan tâm nhất là liệu bom có nổ hay không, không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai, cô luôn đặt nhiệm vụ của mình lên hàng đầu. Và trong những lúc phá bom như vậy, ta vẫn còn thấy thấp thoáng cái sự nhạy cảm, tinh tế trong cảm xúc của cô, “một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí!! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành.”, phải là một người bình tĩnh mới có dược những cảm nhận chân thực như vậy. Chính những lúc đó, ta mới thấy được cái sự dũng cảm của cô gái. Công việc không có một chút gì là an toàn, nhưng do “quen rồi”, ngày nào cũng phải phá bom đến năm lần, ngày nào ít thì ba lần, mà Phương Định luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Và trong cái sự dũng cảm ấy, ta vẫn thấy Phương Định luôn thường trực một tình cảm đồng chí đồng đội nồng ấm và chân thành. Đó là tấm lòng vị tha với mọi người mà cô quan tâm, cô lo lắng khi Thao lên cao điểm chưa về, cô tận tình, vỗ về chăm sóc Nho khi cô ấy bị thương lúc phá bom. Ngược lại, chính tình cảm đồng chí đồng đội, đã làm cho Phương Định thêm một chút tự tin, ấm lòng khi được sống giữa tình yêu thương của mọi người. Hiểu được công việc của mình là gian khổ, nhưng Phương Định vẫn luôn ngưỡng mộ “những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” bởi họ là những đẹp nhất, thông mình, can đảm và cao thượng nhất. Những lúc chạy đi phá bom, vẫn mang một chút lo sợ trong người, nhưng nhờ những cái nhìn của những người chiến sĩ, đã dập tan đi nỗi sợ trong cô và chỉ còn một mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ, “ cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi mà có thể đàng hoàng mà bước tới”. Trong truyện ngắn, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính, điều đó giúp cho tác phẩm càng trở nên chân thực, những cảm xúc, thế giới nội tâm của nhân vật đều được thể hiện tự nhiên rõ nét, vẽ lên một khoảng trời mộng mơ ngay giữa Trường Sơn mênh mông và ác liệt.
Instruct Talking about the Truong Son sky is mentioning countless sacrifices and losses, where American soldiers dropped bombs to stop the brave advance of the troops marching towards Saigon to liberate the South. But Truong Son is not only filled with pain, Truong Son is a place marked by the natural, optimistic souls of soldiers who drove without glasses, young volunteer boys and girls who sacrificed their lives. give birth to youth to contribute to the country. As a person who has been closely associated with that space of bombs and bullets, writer Le Minh Khue has exploited the familiar topic that has made many great names anti-American writers, but with the creativity and a bit of romance of "Distant Stars", her "Distant Stars", portrayed the images of young female volunteers, typically the character Phuong Dinh with the innocent beauty inherent in Vietnamese youth during the Vietnam War. America. The story is about three girls, three young volunteer girls Nho, Thao and Phuong Dinh, living on a peak amidst the immense smoke and dust of Truong Son, where "the colors of the soil are red and white mixed". Their job is to "stand here", "when a bomb explodes, run up, measure the volume of soil filling the bomb lake, count unexploded bombs and, if necessary, detonate the bomb." While the unit often works when the sun goes down, the reconnaissance team works during the day, when death always "hides in the bowels of the bombs", when American soldiers drop the most bombs and death always follows three people. that girl. Their work is important and also full of hardships and sacrifices, requiring a spirit of courage, sharpness, decisiveness and agility. In that situation, we can see the noble qualities of the three characters, and especially Phuong Dinh, the main character of the story. Phuong Dinh is a Hanoi girl, "a pretty girl", who has just stepped out of her innocent and carefree life. She has a lovely, youthful and pretty appearance, "two thick, relatively soft braids, a high neck, as proud as the calyx of a lily", and her face has "a distant look". . Her beautiful features were noticed by the drivers, as evidenced by the long letters sent to the phone line. Even though they could greet each other every day, Phuong Dinh did not take care of her too much, the girl still stood out. far away, crossing his arms in front of him and looking away every time a group of girls gathered to answer a good-speaking soldier. That single action made Phuong Dinh become so arrogant, her manner was so adorable and so suitable for such a girl. Her soul in the Truong Son sky really makes people surprised. She loves singing, "usually she memorizes a certain tune and then makes up the lyrics to sing", her lyrics are messy, unexpectedly silly, sometimes it makes her crawl out and laugh to herself, she likes it. “the marching songs that soldiers often sing on the front roads”, she likes “soft and gentle Quan Ho folk songs” and even “Ca-chius-sa of the Soviet Red Army”, “sitting on my knees dreaming Memories: "Come back here while your hair is still green". And Phuong Dinh sings when there is unusual silence, "the shrill sound of reconnaissance planes", she sings to cheer up her teammates Nho and Thao and also sings to encourage herself. It was those times when she loved singing that made her forget the boredom of Truong Son life, forget the smell of bombs and smoke that she was exposed to every day, and that was also the stepping stone for her to have a dreamy soul. when the hailstorm just hit. Bringing her youth to Truong Son, Phuong Dinh also brought with her beautiful memories of her Hanoi street corner, the image of her mother, the window, the sound of the sticky rice seller with a hat on her head. head, including the innocent shots of children on a street corner. The hailstorm went as quickly as it came, but it brought back childhood memories to Phuong Dinh, and everything seemed to swirl strongly in her mind. Perhaps it was those things that gave the girl strength, so that she always thought that her family, close friends and those memories would always follow her throughout her life in Truong Son. Phuong Dinh's soul and personality are so innocent, but what stands out above all is still the courageous spirit, overcoming the dangers always hidden in the small body of that Hanoi girl. Those were the times when the American enemy's bombs had not yet exploded, and she had to do her duty, and the angel of death still seemed to be "lurking in the bowels of the bombs" waiting for her. However, Phuong Dinh still appeared calm, she did think about death but it was "a vague, non-specific death", what she was most concerned about was whether the bomb would explode or not, otherwise what would happen? How to light a mine a second time, she always puts her duty first. And during those moments of defusing bombs, we can still see a glimpse of the sensitivity and delicacy in her emotions, "a sharp, spine-tingling sound, cutting into my skin. I shivered and suddenly saw why I was doing it so slowly. Hurry up a bit!! Hot bomb shell. It's a bad sign.", it takes a calm person to have such true feelings. It is at those times that we see the girl's courage. The job is not at all safe, but because she is "used to it", she has to defuse bombs up to five times a day, at least three times a day, but Phuong Dinh always tries to complete her tasks. And in that courage, we still see that Phuong Dinh always has a warm and sincere feeling of comradeship. It's her altruistic heart towards everyone she cares about. She worried when Thao was at peak and didn't return. She devotedly comforted and cared for Nho when she was injured while disposing of a bomb. On the contrary, it was the feelings of comrades and teammates that made Phuong Dinh a little more confident and warm-hearted when living among everyone's love. Understanding that her job is arduous, Phuong Dinh always admires "those who wear military uniforms and have stars on their hats" because they are the most beautiful, intelligent, courageous and noble. When running to destroy bombs, she still had a little fear in her, but thanks to the looks of the soldiers, her fear was extinguished and she only had one goal to complete the mission, "feeling there is With the soldiers' eyes following me, I'm not afraid anymore. I will not go stoop. They don't like the way they stoop when they can walk forward properly." In a short story, the narrator is also the main character, which makes the work more realistic, the emotions and inner world of the character are expressed clearly and naturally, painting a different space. Dreamy heaven right in the middle of the vast and fierce Truong Son.
Hướng dẫn Từ xa xưa cây nêu đã trở thành biểu tượng của ngày Tết Nguyên Đán ở Việt Nam, và đến bây giờ vẫn vậy, cứ đến những ngày cuối cùng của năm mọi nhà đều dựng cây nêu. Đây được coi là một biểu tượng của nền văn hóa Việt Nam. Ông cha ta đã có câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” Đây chính là những đặc trưng của ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền ở Việt Nam và cây nêu chính là một trong những đặc trưng đó. Cây nêu gắn với câu chuyện cổ tích từ xa xưa giữa con người và loài quỷ. Khi ấy, mọi ruộng đất đều nằm trong tay quỷ, con người chỉ như “người làm thuê”, với quy tắc mà quỷ đặt ra khi con người trồng lúa là “quỷ ăn ngọn còn người ăn gốc”, được Phật bày cách con người chuyển sang trồng khoai, và kết quả là con người thu được nhiều khoai còn phần của quỷ chỉ toàn những dây và lá là những thứ không ăn nổi.Quỷ rất hậm hực và khi vào mùa mới quỷ chuyển quy tắc “quỷ ăn gốc còn cho người ngọn”, con người lại chuyển sang trồng lúa và quỷ lại không nhận được gì ngoài những gốc rạ. Thấy vậy, vào mùa sau quỷ quyết định “ăn cả gốc lẫn ngọn”, Phật lại bày cho con người trồng ngô, và kết quả đều như những lần trước, lũ quỷ đều không nhận được gì vào vụ thu hoạch. Cuối cùng chúng tịch thu ruộng đất không cho con người làm nữa, nhờ vào sự gợi ý của Phật, con người xin với lũ quỷ cho một miếng đất chỉ bằng bóng của chiếc áo cà sa, tức là người sẽ trồng một cây tre và mắc chiếc áo cà sa lên đó bóng của chiếc áo cà sa đến đâu thì đó là phần đất của con người. Quỷ sau khi xem xét, chúng thấy chiếc áo cà sa chẳng đáng là bao nên chúng đồng ý. Nhưng chúng không thể ngờ, khi chiếc áo được mắc lên ngọn tre và khi được Phật làm phép thì cây tre cứ cao mãi lên, bóng của chiếc áo cà sa che kín cả bầu trời, cuối cùng quỷ không còn đất nữa phải chạy ra biển. Cuộc chiến của quỷ và con người còn kéo dài nhưng nhờ sự giúp đỡ của Phật nên chúng đều phải nhận thất bại. Và cứ thế vào ngày Tết Nguyên Đán, con người lại trồng cây nêu và kèm theo đó là một số đồ vật như chuông khánh hoặc vòng tròn nhỏ tùy vào phong tục của mỗi địa phương để ngăn không cho lũ quỷ quấy phá. Cây nêu có nhiều loại được làm từ những vật khác nhau tùy thuộc vào phong tục của mỗi vùng miền. Có nơi cây nêu được làm bằng một cây tre được tỉa sạch cành và lá ở dưới chỉ để mỗi phần ngọn, trên ngọn tre treo một vòng tròn nhỏ, có thể buộc vào vòng tròn đó nhiều thứ khác như vàng mã, lá dứa, cành đa…Ở một số nơi, cây nêu chỉ là một thân cây tre vút lên trời, trên thân cây tre có giấy màu và từng đốt tre có tua để trang trí. Nhưng cũng có nơi họ thay thế cây tre bằng cây mai – một loại cùng họ với tre và cây mai này cũng được trang trí tương tự để trở thành cây nêu trong ngày Tết. Việc trồng cây nêu vào ngày Tết có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, đó là tượng trưng cho mong muốn bảo vệ con người khỏi ma quỷ – ma quỷ tượng trưng cho những điều không may mắn, sự rủi ro. Mỗi một vật được gắn trên cây nêu cũng đều mang ý nghĩa riêng của nó. Như lá dứa có ý nghĩa để đe dọa ma quỷ vì theo sự tích câu chuyện xưa kia thì quỷ sợ lá dứa, tỏi và máu của loài chó, cành đa thì tượng trưng cho tuổi thọ và mọi điều tốt lành, tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc, ta thấy ở chùa người ta cũng thường xuyên đốt vàng mã để cầu sự may mắn. Thường là ngày 23 tháng Chạp – tức ngày ông Công ông Táo lên chầu trời, người ta sẽ dựng cây nêu vì mọi người cho rằng ma quỷ sẽ lợi dụng lúc này để quấy nhiễu con người nên dựng cây nêu để ngăn không cho chúng vào nhà, và đến ngày mùng 7 hoặc mùng 8 người ta sẽ hạ cây nêu vì lúc đó gia đình đã có những vị thần linh bảo vệ. Nhưng ở một số vùng dân tộc, cây nêu không những được dựng trong dịp Tết mà còn được dựng khi thu hoạch xong mùa màng, đó là dân tộc Sán Dìu, họ dựng cây nêu để tạ ơn trời đất và cầu mong sự bình yên cho con người. Mặc dù cây nêu là một biểu tượng ngày Tết từ lâu đời chỉ có ở Việt Nam, nó mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc nhưng hiện nay nét văn hóa này đang dần bị mai một, chỉ còn tồn tại ở một số vùng quê nông thôn. Đa số mọi người đều hướng tới một cái Tết đơn giản hơn không cầu kì về mặt hình thức, vẫn có “bánh chưng xanh”, “câu đối đỏ”, “dưa hành”,vẫn có hoa đào, hoa mai…nhưng lại thiếu đi hình ảnh của cây nêu, phải chăng con người đã dần quên đi hình tượng này và cây nêu đã được thay thế bằng những loại cây khác mà họ cho là sang trọng hơn.
Instruct Since ancient times, the neem tree has become a symbol of the Lunar New Year in Vietnam, and it still is today, in every last day of the year every house puts up a neu tree. This is considered a symbol of Vietnamese culture. Our ancestors had a saying: “Fatty meat, pickled onions, red couplets Tree Miraculous, green banh chung" These are the characteristics of the traditional Lunar New Year in Vietnam and the new year tree is one of those characteristics. The tree is associated with an ancient fairy tale between humans and demons. At that time, all land was in the hands of the devil, people were just "employees", with the rule that the devil set when people planted rice was "the devil eats the tops and people eat the roots", which was explained by Buddha in this way. People switched to growing potatoes, and as a result, people got a lot of potatoes while the devil's part was only vines and leaves that were inedible. The devil was very angry and when the new season came, the devil changed the rule "the devil eats the roots". and give people the top", people switched to growing rice and the demons received nothing but stubble. Seeing that, the next season the demons decided to "eat both the roots and the tops", Buddha again showed people to grow corn, and the results were the same as before, the demons did not receive anything in the harvest. Finally, they confiscated the land so that people could not work anymore. Thanks to Buddha's suggestion, people asked the demons for a piece of land just the size of the shadow of a robe, meaning that they would plant a bamboo tree and Hanging a cassock on it, no matter how far the shadow of the cassock goes, that is human land. After the devils considered it, they saw that the robe was not worth much, so they agreed. But they could not have imagined that when the robe was hung on a bamboo top and the Buddha blessed it, the bamboo tree kept growing taller and taller, the shadow of the robe covered the sky, and eventually the ghosts had no more land left and had to run out. sea. The war between demons and humans continued, but thanks to Buddha's help, they all had to admit defeat. And so on the Lunar New Year, people plant neem trees and accompany them with some objects such as opening bells or small circles depending on the customs of each locality to prevent demons from harassing them. There are many types of bamboo trees made from different materials depending on the customs of each region. There are places where the bamboo tree is made from a bamboo tree that has been trimmed of branches and leaves at the bottom, leaving only the top, on top of the bamboo hangs a small circle, many other things can be tied to that circle such as votive papers, pandan leaves, etc. banyan branches... In some places, the bamboo tree is just a bamboo trunk soaring into the sky, on the bamboo trunk there is colored paper and each bamboo segment has tassels for decoration. But there are also places where they replace bamboo with apricot trees - a species of the same family as bamboo, and this apricot tree is also decorated similarly to become a tree during Tet. Planting a tree on Tet has a very profound meaning, it symbolizes the desire to protect people from demons - demons symbolize bad luck and misfortune. Each object attached to the tree also has its own meaning. Like pandan leaves are meant to threaten demons because according to ancient stories, demons are afraid of pandan leaves, garlic and the blood of dogs, banyan branches symbolize longevity and all good things, and votive money to To pray for wealth and fortune, we see people often burn votive paper at temples to pray for luck. Usually on December 23 - the day Mr. Cong Ong Tao ascends to heaven, people will erect a bamboo tree because people believe that demons will take advantage of this time to harass people, so they erect a bamboo tree to prevent them from entering. house, and on the 7th or 8th, people will take down the tree because at that time the family will have the protection of gods. But in some ethnic areas, neem trees are not only erected during Tet but also when the harvest is completed. That is the San Diu ethnic group, they erect neu trees to thank heaven and earth and pray for peace. for human. Although the tree is a long-standing symbol of Tet only found in Vietnam, it is imbued with the nation's cultural identity, but now this culture is gradually being lost, only remaining in some regions. rural countryside. Most people aim for a simpler Tet without any fuss in terms of formality, there are still "green banh chung", "red couplets", "pickled onions", there are still peach blossoms, apricot blossoms... but Lacking the image of the neem tree, perhaps people have gradually forgotten this image and the neem tree has been replaced by other types of trees that they consider more luxurious.
Hướng dẫn A – Tìm hiểu đề: – Thể loại: Tự sự kết hợp yếu tố nghị luận, miêu tả nội tâm. – Ngôi kể: Kể theo ngôi thứ nhất – xưng tôi – Nội dung: Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận (Từ đầu đến “Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi”) B – Dàn ý: 1. Mở bài – Lời giới thiệu của Trương Sinh (về quê quán, gia cảnh…) – Lời giới thiệu của Trương Sinh về người vợ của mình (tên, tính tình, hình thức …) 2. Thân bài – Trước khi đi lính: + Vừa xây dựng gia đình, cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc. + Đất nước có chiến tranh, triều đình bắt đi lính đánh giặc. Tuy con nhà hào phú, nhưng không có học nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. + Xa gia đình trong cảnh mẹ già, vợ bụng mang dạ chửa. – Khi trở về: + Mẹ đã mất, con trai đang tuổi học nói. + Tin vào câu nói của con nên đã hiểu lầm. + Ghen tuông mù quáng nên đã đẩy người vợ đến cái chết oan ức. + Sau đó, biết là mình đã nghi oan cho vợ nhưng việc trót đã qua rồi. 3. Kết bài – Ân hận vì mình đã mù quáng nghi oan cho vợ khiến gia đình tan nát – Mong mọi người nhìn vào bi kịch gia đình để rút ra bài học. C – Viết bài: THAM KHẢO BÀI VIẾT SAU: Đã bao năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những việc làm mà mình gây ra khiến vợ tôi – Vũ Nương chọn con đường bức tử. Một nỗi ân hận ghê gớm vò xé nỗi lòng. Tôi sẽ kể cho các bạn cùng nghe câu chuyện ấy. Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương, thuộc tỉnh Hà Nam. Lúc bấy giờ, trong cùng làng có một người con gái đẹp người đẹp nét, con nhà nghèo khó, tên là Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ Nương. Mến vì dung hạnh đoan trang, nên tôi đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Tuy là con nhà giàu nhưng lại kém học học hành nên tôi phải đi lính ở danh sách đầu tiên.Không còn cách nào khác, tôi đành phải chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên: -Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng: – Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về. Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở. Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trường thì Vũ Nương đến kì đã sinh được một bé trai. Cháu được đặt tên là Đản. Nhưng mẹ tôi, vì quá nhớ thương tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nương đã thay tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nương rất mực thương xót, lo ma chay chu tất như cha mẹ đẻ. Nàng là một người trọn tình, vẹn nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thương, nể phục. Cuối cùng, tôi cũng được bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy. Mấy năm xa cách nhớ thương, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ: “Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ nghĩ Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng được thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh: “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp…”. Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương Vũ Nương cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhưng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng: – Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa. Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn.
Instruct A – Understand the topic: – Genre: Narrative combining elements of discussion and inner description. – Person of narration: Narrated in the first person – I – Content: Truong Sinh recounts the story and expresses his regret (From the beginning to "At that time he woke up, understood his wife's injustice, but the matter was over") B – Outline: 1. Open the lesson – Truong Sinh's introduction (about hometown, family background...) – Truong Sinh's introduction to his wife (name, personality, appearance...) 2. Body of the article – Before joining the army: + Having just built a family, married life is very happy. + The country was at war, the court conscripted soldiers to fight the enemy. Even though he was from a wealthy family, he was not educated so his name had to be written in the military book as the first class. + Being away from family with an aging mother and pregnant wife. – When returning: + The mother has passed away, the school-aged son said. + Believed in what I said so I misunderstood. + Blind jealousy pushed his wife to an unjust death. + After that, I knew that I had wrongly suspected my wife, but the matter was over. 3. Conclusion – I regret that I blindly doubted my wife, causing the family to fall apart – I hope everyone looks at the family tragedy to learn a lesson. C – Write articles: REFER TO THE FOLLOWING ARTICLE: Many years have passed, but I still cannot forget the actions I caused that caused my wife - Vu Nuong to choose the path of suicide. A terrible regret tears at my heart. I will tell you that story. I was born into a well-off family in Nanchang, in Henan province. At that time, in the same village there was a beautiful girl, from a poor family, named Vu Thi Thiet, people around her often called her Vu Nuong. Because of her kindness and dignity, I asked my mother for a hundred taels of gold to marry her. We live together in harmony, happily and eagerly await the birth of our first child. Suddenly, war broke out and chaos broke out everywhere. Even though I was from a rich family, I was poor at studying, so I had to join the army first. There was no other way, I had to say goodbye to my old mother and young wife and go to war. On the day I joined the army, my old mother held my hand tightly and sadly advised: -Now I have to temporarily join the army and leave under my pillow. Although it is a rare association of honor and merit, in military affairs, you must take care of yourself as important, know when you are in trouble then retreat, use your strength to fight, don't be greedy for the fragrant bait, lest you accidentally get caught in a fish net. Great mandarins and nobles leave it to others. Only then can the mother stay at home and not worry about her child. I knelt down to obey my mother's instructions. My wife poured a full cup of wine, lifted it with both hands, gave it to me and said: - My husband is going on this trip, I don't dare to hope to wear the marquis seal and brocade shirt and return to my hometown. I only ask that the day I return, I can bring with me two words of peace, that's enough. I'm just afraid that the army's affairs are difficult to predict, the enemy's situation is unpredictable, barbarians are committing crimes, and the king's efforts are in vain; The great success in defeating the enemy has already passed, the appointment to replace the army is late, making me feel nostalgic, my old mother is constantly worried. Looking at the moon of Truong An, quickly putting on the cold coat, watching the withering willows swaying with the feeling of a distant frontier. Suppose there are thousands of letters, but I'm afraid not a single message arrives. When she said that, everyone had two tears in their eyes. Then, as soon as the farewell party ended, I took off my clothes and left. Everything around me remained the same, but my heart was saddened by the scene of separation and love thousands of miles apart. While I was on the battlefield, Vu Nuong gave birth to a baby boy. My name is Dan. But my mother, because she missed me so much, was sick and tired. Vu Nuong wholeheartedly provided me with medicine and encouragement, but because of her serious illness, she passed away. Neighbors said that Vu Nuong was very merciful and took care of the funeral as well as her own parents. She is a person full of love, full of meaning, and full of filial piety, which makes me love and respect her even more. Finally, I can return safely after many hardships and dangers. After several years of separation and longing, now reunited, the couple is happy and sad. When I heard that my mother had passed away, I felt so sad. I asked about my mother's grave and then took my child to visit. Along the way, baby Dan cried, I comforted him: "Stop it, my grandmother passed away, my heart is very sad." Little Dan immediately said I was not his father, his father was the person who used to come to his mother every night. I was stunned. The ground beneath my feet seemed to collapse. I thought Vu Nuong was a good and virtuous wife, but did I expect that she would become so spoiled? I suddenly felt angry with Vu Nuong. My doubts flared up more and more each time, and there was no way to extinguish it. When I got home, I yelled loudly to vent my anger. Vu Nuong was shocked and shocked. She cried as she explained: "I come from a poor family and rely on a rich family, but I still put my modesty and good manners first. The couple had not been reunited for long, but separated only because of the fire and for no other reason. During the three years of separation, I always maintained my chastity, did not wear makeup, did not indulge in flirting with venereal women, and always loved and remained faithful to him. Please believe me, don't wrongly doubt me and feel sorry for me...". But no amount of truthful words could ease my doubts. Neighbors who loved Vu Nuong also tried their best to defend and justify her, but I didn't listen to anyone. The fire of jealousy is burning all my emotions and thoughts. I scolded her mercilessly and chased her away. Feeling unable to convince me, Vu Nuong reluctantly said in pain, sorrow, and bitterness: - The reason why I rely on you is because I have the pleasure of being at home, having the peace of being like the shadow of a tall tree. Unexpectedly, kindness and love are like leaves, but slander makes them young. Now the vase has fallen and the brooch has broken, the clouds have stopped and the rain has dissipated, the lotus has drooped in the pond, the willow has withered in the wind; Crying for snow, the flower's stem broke, crying for spring, the swallow left the curtain, the deep water sailed far away, it was impossible to go to that Vong Phu mountain again. Then she washed herself, went to Hoang Giang wharf, cried, swore, and threw herself into the river to commit suicide.
Hướng dẫn Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Vâng đúng là như vậy. Mọi nguời sinh ra đếu mang trong mình một tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả. Tình mẹ ấm áp, bao dung dành cho con hay tình cảm kính trọng yêu quý của những đứa con dành cho mẹ mình củng bao điều tốt đẹp. “ Mẹ! “- thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao. Mẹ là người đã mang nặng đẻ đau, là người chấp cho ta những đôi cánh uớc mơ để bay đến chân trời hi vọng. Những việc làm và tình cảm mẹ dành cho con không gì có thể sánh bằng. Tình mẹ ấm áp như vầng thái dương, dịu hiền như dòng sông xanh. Ngay từ những ngày đầu, mẹ là người nâng đõ, yêu thương chúng ta. Ngay cả khi lớn lên, mẹ vẫn sát cánh cùng chúng ta trên con đường đời đầy gian lao và thử thách. Tình mẫu tử caoquý ấy không gì có thể sánh bằng. Và cũng chính vì vậy mà những đứa con luôn trân trọng điều ấy. Chúng ta phải đáp lại những tình cảm mà mẹ dành cho mình qua những biểu hiện cụ thể. Chúng ta phải siêng năng học hành, nghe lời cha mẹ. Như vậy, tình mẫu tử càng trở nên cao cả hơn. Tình mẫu tử được thể hiện trong các câu hát, câu thơ mượt mà và sâu lắng. Có câu hát nói rằng “ Tình mẹ bao la như biễn Thái Bình dạt dào…”,tình mẹ bao la, vô tận được so sánh như biển Thái Bình rộng lớn. Nếu thử tưởng tượng một ngày chúng ta không có mẹ sẽ ra sao? Lúc ấy, cuộc sống này thật tẻ nhạt, vô vọng. Mẹ là nguồn ánh sáng, soi lói, dẫn đường cho chúng ta. Mẹ là tấm gương sáng cho chúng at noi theo. Mẹ là niềm hi vọng, nguồn động viên mỗi khi ta vấp ngã. Mẹ là tất cả cuộc sống của những đứa con. Tình mẫu tử của mẹ và con là thứ tình cảm đáng quí nhất mà suốt cuộc đời này những đứa con sẽ mãi trân trọng. Dù “ tung cánh muôn phương”, con vẫn sẽ mãi mang theo tình mẫu tử cao đẹp mà mẹ dành cho con. Những ai đang và đã được nhận tình mẫu tử thiêng liêng ấy, hãy cố gắng trân trọng và giữ gìn vì nếu như một ngày nào đó nếu tình cảm ấy không còn thi` cuộc sống này sẽ trở nên tẻ nhạt. Ôi! Tình mẫu tử thật cao đẹp biết bao. Bài làm 2 Tôi viết về một tình cảm thiêng liêng nhỏ bé vô cùng. Tôi viết lên câu thơ về hình ảnh một vầng trăng khuyết, vầng trăng khuyết như một dáng nằm nghiêng, giữ cái khuyết cho mình nhưng là để ôm vòng lấy yêu thương, vầng trăng tuy khuyết nhưng đối với tôi, đó sẽ mãi là vầng trăng đẹp nhất, sáng nhất, và cái ánh sáng nhẹ nhàng, hiền dịu như tình Mẫu tử ấy sẽ mãi mãi soi sáng cho tôi trong suốt cuộc đời này. Với tôi, bất cứ những điều thuộc về tình Mẫu tử, dẫu bình thường nhưng cũng rất thiêng liêng. Tình Mẫu tử là tình thương yêu, là sự hi sinh, sự chở che và bao dung của người mẹ đối với con của mình. Với tôi, tôi không thật sự hiểu sâu sắc về tình Mẫu tử, nhưng tôi có thể cảm nhận được những tình cảm thiêng liêng và sâu sắc của nó. Nếu như bạn hỏi tôi tình Mẫu tử như thế nào thì có lẽ tôi sẽ không thể trả lời bạn được, nhưng tôi có thể dùng cả cuộc đời của mình để nói cho bạn biết về sự thiêng liêng của tình mẫu tử, tôi sẽ kể về câu chuyện của tôi cũng như câu chuyện của người khác, tôi sẽ biểu đạt cho bạn biết được tình cảm của tôi cũng như tình cảm của người khác…Đối với tôi, tình Mẫu tử là thiêng liêng hơn cả! Mẹ sẽ mãi mãi là người đi cùng bạn trong suốt những cuộc hành trình trong đời bạn. Khi bạn bước chân vào thế giới này, mẹ đã ôm bạn trong tay, bạn cảm ơn mẹ bằng cách khóc như một nữ thần báo tử. Và rồi một ngày kia, mẹ lặng lẽ ra đi. Tất cả những điều bạn chưa làm sụp đổ tan tành. “Hãy ru con ngủ, ru con suốt đêm dài. Bàn tay đưa nôi…có thể cai trị cả thế giới”. Ta hãy dành một giây nào đó để báo hiếu và tỏ lòng kính trọng với người ta gọi là Mẹ, dù rằng một số người có thể sẽ không nói điều đó thẳng thắn với mẹ mình. Chẳng điều gì có thể thay thế mẹ được. Hãy trân trọng từng giây phút, dẫu rằng đôi khi mẹ không phải là người hiểu ta nhất trong những người bạn của ta, có thể không đồng ý với những suy nghĩ của chúng ta, nhưng người ấy vẫn là mẹ bạn!!! Mẹ sẽ luôn ở bên bạn; lắng nghe những phiền muộn, niềm vui cũng như những nỗi thất vọng của bạn. Hãy tự hỏi chính mình: ” Mình có dành đủ thời gian cho mẹ để lắng nghe những phiền muộn và buồn chán của một người nội trợ suốt ngày ở trong bếp không???” Suốt cuộc đời tần tảo nuôi con, một người mẹ không trông mong gì ở con mình sự báo đáp, niềm hạnh phúc lớn lao nhất nhất của một người mẹ là được nhìn thấy con mình hạnh phúc. Mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con! Người mẹ đã dành hết cuộc đời cho con, đế cuối cùng, các bà không nhận được gì cả, các bà mẹ sẽ trở nên già nua và nhăn nheo nhưng các bà sẽ mãi mãi không bao giờ xấu xí. Một bông hồng cho em/ Một bông hồng cho anh/ Và một bông hồng cho những ai/ Cho những ai đang còn mẹ/ Đang còn mẹ để lòng vui sướng hơn/ Rủi mai này mẹ hiền có mất đi/ Như đóa hoa không mặt trời/ Như trẻ thơ không nụ cười/ Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm/ Như bầu trời thiếu ánh sao đêm/ Mẹ, mẹ là dòng suối dịu hiền/ Mẹ, mẹ là bài hát thần tiên/ Là bóng mát trên cao/ Là mắt sáng trăng sao/ Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối/ Mẹ, mẹ là lọn mía ngọt ngào/ Mẹ, mẹ là nải chuối buồng cau/ Là tiếng dế đêm thâu/ Là nắng ấm nương dâu/ Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời… Lời bài hát nghe thật buồn, nó đã thể hiện được sự quan trọng của người mẹ đối với người con cũng như là sự thiếu thốn, mất mát không gì bù đắp được khi không còn mẹ. Một cuộc sống hạnh phúc không hẳn phải là một cuộc sống có đầy đủ tiền tài, vật chất. Đôi khi, cho dù bạn là một người giàu sang, của cải đếm không hết, nhưng từ tận sâu trong con tim mình, bạn có cảm thấy thật sự hạnh phúc không, đặc biệt là khi mẹ của bạn đã không còn. Tôi nghĩ có lẽ bên ngoài vỏ bọc hạnh phúc ấy, vào một thời khắc nào đó, sẽ có lúc bạn cảm thấy mình rất cô đơn. Niềm hạnh phúc lớn nhất của một con người là được trải qua một tuổi thơ bên cạnh mẹ, được mẹ yêu thương, chăm sóc, bảo bọc. Đối với mẹ, bạn sẽ mãi chỉ là một đứa trẻ nhỏ bé luôn cần có mẹ chăm nom, những kí ức về mẹ sẽ mãi là những kí ức vĩnh cửu và nếu như thời gian như một cuốn băng quay ngược dòng thời gian và cả không gian để trở về với tuổi thơ xinh đẹp ấy thì liệu bạn có còn trân trọng những thời khắc tuyệt đẹp đó nữa hay không? Hãy nhớ, yêu thương và kính trọng mẹ, dù rằng bạn có thể có cách nhìn khác với mẹ. Khi mẹ ra đi, những kỉ niệm yêu mến của quá khứ và cả nuối tiếc sẽ ở lại, cũng như cái tình Mẫu tử bị
Instruct The father as a mountain Motherhood is like water flowing from a source." Yes, that's right. Everyone is born with a sacred and noble motherly love. A mother's warm, tolerant love for her children or the respect and love that children have for their mother are all good things. " Mom! “- how sacred and beautiful it is. Mother is the one who bore the burden of giving birth, the one who gave us the wings of our dreams to fly to the horizon of hope. A mother's actions and love for her children are incomparable. A mother's love is as warm as the sun, gentle as a blue river. From the first days, mothers are the ones who support and love us. Even when we grow up, our mothers still stand side by side with us on the path of life full of hardships and challenges. That noble motherly love cannot be compared to anything. And that's why children always appreciate it. We must respond to the feelings our mothers have for us through specific expressions. We must study diligently and listen to our parents. Thus, motherly love becomes even more noble. Motherly love is expressed in smooth and profound songs and verses. There is a song that says, "A mother's love is as vast as the vast Thai Binh ocean...", a mother's love is vast and endless, compared to the vast Thai Binh ocean. If we try to imagine what it would be like one day without our mother? At that time, this life was boring and hopeless. Mother is a source of light, enlightenment, and guidance for us. Mother is a shining example for them to follow. Mother is our hope and source of encouragement every time we stumble. Mother is the whole life of children. The motherly love between mother and child is the most precious love that children will always cherish throughout their lives. Even though I "spread my wings in all directions", I will always carry with me the beautiful motherly love that you have for me. Those who are and have received that sacred motherly love should try to cherish and preserve it because if one day that love no longer exists, this life will become boring. Oh! How beautiful a mother's love is. Exercise 2 I write about an extremely small spiritual feeling. I wrote a poem about the image of a crescent moon, the crescent moon is like a lying position, keeping the crescent for myself but to embrace love, the moon is crescent but for me, it will always be the crescent moon. The most beautiful, brightest moon, and that gentle, gentle light like a mother's love will forever illuminate me throughout this life. To me, anything related to motherhood, although normal, is also very sacred. Maternal love is the love, sacrifice, protection and tolerance of a mother your child. For me, I don't really understand Motherly love deeply, but I can feel its sacred and profound emotions. If you ask me what motherly love is like, I probably won't be able to answer you, but I can use my whole life to tell you about the sacredness of motherly love, I will tell you. About my story as well as the stories of others, I will express to you my feelings as well as the feelings of others... For me, Mother's love is the most sacred! Mother will forever be the person who accompanies you throughout your life's journeys. When you entered this world, your mother held you in her arms. You thanked her by crying like a banshee. And then one day, mother quietly passed away. All the things you haven't done fall to pieces. “Lullaby, lull me to sleep, lull me all night long. The hand that rocks the cradle…can rule the world.” Let's take a moment to show filial piety and respect to the person called Mother, even though some people may not say it directly to their mother. Nothing can replace mother. Cherish every moment, even though sometimes your mother is not the person who understands you best among your friends, may not agree with our thoughts, but she is still your mother!!! Mom will always be with you; listen to your worries, joys and disappointments. Ask yourself: "Do I spend enough time with my mother to listen to the worries and boredom of a housewife who spends all day in the kitchen???" Throughout her life of raising her children, a mother does not expect anything in return from her children. A mother's greatest happiness is seeing her child happy. I am willing to give up a year of happiness to avoid giving you an hour of pain, I can beg to feed you, I can sacrifice my life to save your life! Mothers have devoted all their lives to their children, in the end, they receive nothing, mothers will become old and wrinkled but they will never be ugly. A rose for you/ A rose for me/ And a rose for everyone/ For Those who still have their mother/ While they still have their mother, let their hearts be happier/ If this unfortunate fate of a gentle mother is lost/ Like a flower without the sun/ Like a child without a smile/ Thinking that my life will not grow any more/ Like the sky without Starlight at night/ Mother, you are a gentle stream/ Mother, you are a fairy song/ Are the shade above/ Are the bright eyes of the moon and stars/ Are the torchlight in the night when lost/ Mother, you are the sweet sugar cane sweet/ Mom, you are a bunch of bananas and areca trees/ You are the sound of crickets late at night/ You are the warm sunshine of a mulberry field/ You are the capital of love for life... The lyrics sound so sad, it shows the importance of a mother For the child, it is like the lack and loss that nothing can compensate for when the mother is no longer there. A happy life is not necessarily a life full of money and material things. Sometimes, even if you are a rich person with countless possessions, but from the bottom of your heart, do you feel truly happy, especially when your mother is no longer there? I think maybe outside that happy shell, at some point, there will be times when you feel very lonely. The greatest happiness of a person is to spend a childhood next to his mother, to be loved, cared for, and protected by his mother. To your mother, you will always be just a small child who always needs her care, the memories of your mother will always be eternal memories and if time is like a tape that goes back in time and space to return to that beautiful childhood, will you still cherish those beautiful moments? Remember, love and respect your mother, even though you may have different views from her. When a mother leaves, fond memories of the past and regrets will remain, as well as the lost mother-child love.
Hướng dẫn Bài làm Bữa cơm hôm ấy, tôi chẳng nhớ nổi điều gì đã khơi mào câu chuyện, chỉ biết mẹ kể về những ngày xưa khó nghèo, bố phải đi làm xa. Đang mùa mưa bão mà nhà thì dột, bí quá, mẹ đánh liều vác cả bụng to trèo lên sửa mái. Mẹ chép miệng: “nghĩ lại kể cũng liều, lần ấy mà ngã thì đi cả mẹ lẫn con”. Tôi hỏi: – Thế lúc ấy mẹ đang mang đứa nào? – Con chứ ai! Nghe thế, tôi chợt thấy vui kì lạ, như thể phát hiện ra điều gì. Hóa ra mình phúc lớn mệnh lớn, từ bé đã cùng mẹ trèo mái nhà mà không sao. Hóa ra tôi, ngay từ đầu đã có duyên với cuộc sống này đến thế. Được sinh ra đúng là một niềm hạnh phúc. Hạnh phúc lắm chứ, bởi có ai được sinh ra một cách dễ dàng đâu. Mỗi người mẹ mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, ấp ủ trong lòng đứa con dần khôn lớn. Trong cõi lòng ấm áp của người mẹ, một tế bào lớn dần lên thành một sinh linh. Kì diệu thay quá trình ấy. Tôi có cảm giác nó xảy ra như một phép màu. Mà hình như cũng cần thêm chút cơ duyên. Như tôi đã bắt duyên với cuộc đời này. Như hàng triệu con người đã bắt duyên và sinh ra trên cuộc đời này. Nhưng cũng có hàng triệu thai nhi, có lẽ vì không nắm được sợi tơ ấy mà bị tước đi quyền sống. Ở Việt Nam có những nơi người ta gọi là ngọn đồi của những thiên thần, nhưng là thiên thần bị cha mẹ – vì một lí do nào đó – nhẫn tâm bỏ rơi. Hàng ngàn nấm mồ tí xíu trắng toát nằm lạnh lẽo với chút khói nhang vương vất và tấm lòng xót thương từ những người hảo tâm không ruột rà máu mủ. Không thể thống kê hết mỗi năm có bao nhiêu hài nhi bị phá bỏ, chỉ biết một phần trong số đó đã được đưa về nghĩa trang này, kín những đồi rộng. Thế nên, được sinh ra là đã là một sự may mắn, là hạnh phúc hơn biết bao đứa trẻ chưa từng một lần chạm tới cuộc đời. Niềm hạnh phúc ấy không của riêng ai. Khi đứa trẻ cất tiêng khóc chào đời là khi cả bố mẹ, ông bà… mỉm cười hạnh phúc. Mỗi đứa trẻ mang trong nó sự sống tiếp nối của cả gia đình, là kết tinh của yêu thương, là mảnh ghép cho tròn tổ ấm. Bạn có để ý không, bàn tay trẻ sơ sinh nắm rất chặt. Ấy là để níu giữ yêu thương dành cho bé. Lớn dần lên, bàn tay ấy mở ra, để nắm lấy, để đan vào một bàn tay khác, để không chỉ nhận mà còn biết trao đi yêu thương. Bàn tay ấy cùng cha mẹ vun đắp gia đình. Tôi chợt nghĩ làm cha làm mẹ có lẽ là một ngưỡng cửa trưởng thành nữa trong đời người. Mỗi đứa trẻ trong sáng như một tấm gương mà soi vào đó, cha mẹ chú trọng hơn tới lời nói và việc làm. Có không ít trường hợp cha mẹ vì con mà tiếp tục gắn bó hoặc chí ít là vì con mà bình tâm hơn, nhẫn nại hơn khi giải quyết mâu thuẫn gia đình. Một người sinh ra có lẽ còn là để làm đầy thêm, ý nghĩa thêm cuộc sống của nhiều người khác. Nhưng hơn hết, được sinh ra – đó là món quà ý nghĩa nhất đối với bản thân mỗi người. Vì khi bạn chào đời, cả thế giới mở ra. Hãy suy ngẫm một chút về những gì bạn từng trải qua, những gì đang có và những gì bạn có thể đạt được, cả yêu thương, cả hạnh phúc… Nếu bạn chưa từng ra đời, tất cả chỉ là con số 0. Hoặc giả như món quà sự sống bị tước mất. BÙM! Tối đen, và bạn mất tất cả. Niềm hạnh phúc ấy quý giá lắm nên con người luôn gắng sức giữ gìn. Y học phát triển để làm gì nếu không phải vì kéo dài món quà sự sống? Được sinh ra là một niềm hạnh phúc nhưng không phải tất cả. Đó chỉ là khởi đầu để chúng ta bắt tay xây dựng hạnh phúc cho riêng mình. Cuộc sống có bao giờ là dễ dàng? Cái gì cũng có giá của nó. Phải trải qua khó khăn sóng gió, bạn mới có thể trưởng thành hơn, cứng cáp hơn để tìm kiếm và bảo vệ hạnh phúc. Nhiều người than thân trách cứ số phận họ không may mắn, rằng cuộc đời bất công. Xin hãy nghe Dave Pelzer kể lại cuộc đời – câu chuyện về một vụ bạo hành trẻ em khủng khiếp nhất trong lịch sử nước Mĩ. Dave Pelzer đã bị bạo hành dã man bởi chính người mẹ ruột – cũng từng là một nạn nhân của bạo hành gia đình. Lớn lên, Dave đã gắng hết sức để thoát khỏi bóng đen quá khứ, không đi lại con đường của người mẹ, sống một cuộc đời khác, trở thành phi công như mơ ước, rồi viết tự truyện và tích cực tham gia vào các chiến dịch chống bạo hành gia đình. Cùng một hoàn cảnh nhưng người mẹ và đứa con đã hành xử khác nhau và rồi cuộc đời họ cũng khác biệt. Hãy nắm chặt tay lại, bạn sẽ thấy nhìn một nửa đường sống nằm gọn trong bàn tay. Nghĩa là cuộc đời chỉ có thể quyết định được một nửa. Nửa còn lại là do chính bạn, phụ thuộc vào cách bạn hành động. Một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ hiện nay dường như đã quên mất điều này. Vấp váp một chút, không vừa ý một chút, họ lại gầm lên “Tại sao tôi lại sinh ra trên đời này?”, “giá như tôi chưa từng sinh ra”, “giá như tôi biến mất”… Đó là những con người lành lặn về thể xác mà què cụt về tâm hồn. Những chàng trai, cô gái hễ không vừa lòng là đã có ý định từ bỏ cuộc sống, vì nhu cầu cá nhân mà sẵn sàng ra tay hủy hoại tất cả: học sinh lớp 8 tự tử vì tình; hai mươi tuổi giết bạn gái vì bị từ chối tình yêu… có quá nhiều con người nhẫn tâm chối bỏ cuộc đời mình, kéo theo nhiều số phận khác. Họ không biết hay cố tình không biết có rất nhiều người đang phải đấu tranh từng giây phút để được sống dù khó khăn đến mấy? Như hiệp sĩ công nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng – một nạn nhân chất độc da cam – đã vượt qua mặc cảm cá nhân, góp phần tạo công ăn việc làm cho biết bao người khuyết tật. Họ mang trên mình những thua thiệt, những đớn đau nhưng họ lại đang sống một cách mạnh mẽ và có ý nghĩa nhất. Với họ, được sinh ra thực sự là một niềm hạnh phúc để bắt đầu cho hạnh phúc được sinh sôi. Đừng tự vứt bỏ cuộc sống của mình vì một khi bạn đã quay lưng, cuộc sống cũng sẽ quay lưng với bạn. Cái chết khi ấy không phải sự giải thoát mà đường cùng, vì nó đặt dấu chấm hết cho khó khăn nhưng cũng là chấm hết cho tất cả. Mà chết đâu phải là hết. Đằng sau cái chết còn lại nỗi đau. Một người ra đi sẽ để lại khoảng trống không thể lấp đầy trong lòng người ở lại. Hãy cố gắng sống dù có những khi cuộc sống trở nên không thể chịu đựng nổi. Và đồng thời hãy nhớ trân trọng sự sống của người khác. Đừng tự cho mình quyền phán quyết sự sống của bất kì ai.
Instruct Assignment At dinner that day, I don't remember what started the conversation. I only know that my mother told me about the poor old days and my father had to work far away. It was the rainy season and the house was leaking and so stuffy that my mother risked carrying her big belly up to fix the roof. Mother smacked her lips: "Thinking back, it was risky. If I fell that time, both mother and child would be gone." I ask: – So which child were you carrying at that time? – Me! Hearing that, I suddenly felt strangely happy, as if I had discovered something. It turned out that I was blessed with great destiny. Since I was a child, I have climbed the roof with my mother without any problems. It turns out that I was destined for this life from the beginning. Being born is truly a happiness. Very happy, because no one is born easily. Each mother carries the burden of giving birth for 9 months and 10 days, cherishing in her heart the child who gradually grows up. In the warmth of a mother's heart, a cell gradually grows into a living being. How magical that process is. I feel like it happened like a miracle. But it seems like a little more fate is needed. Like I've fallen in love with this life. Like millions of people who were destined to be born into this life. But there are also millions of fetuses who, perhaps because they cannot grasp that thread, are deprived of their right to life. In Vietnam, there are places people call the hills of angels, but the angels are cruelly abandoned by their parents - for some reason. Thousands of tiny white graves lie cold with a bit of incense smoke lingering and the compassion from benefactors who have no blood or blood involved. It is impossible to estimate how many babies are aborted each year, only a portion of them are brought to this cemetery, covering the wide hills. Therefore, being born is a blessing, happier than many children who have never touched life. That happiness does not belong to anyone. When a child is born crying, both parents, grandparents... smile happily. Each child carries within it the continuing life of the whole family, a crystallization of love, a piece of the puzzle that completes the family. Have you noticed, a newborn's hand is clenched very tightly. That is to hold on to love for the baby. Growing older, that hand opens, to grasp, to intertwine with another hand, to not only receive but also give love. That hand together with parents raised the family. I suddenly think that becoming a parent is perhaps another threshold of maturity in a person's life. Each child is as pure as a mirror. Looking into it, parents pay more attention to their words and actions. There are many cases where parents continue to bond for their children or at least become calmer and more patient when resolving family conflicts. A person is probably born to fill and add meaning to the lives of many others. But most of all, being born - it is the most meaningful gift for each person. Because when you are born, the whole world opens up. Think for a moment about what you have experienced, what you have and what you can achieve, love, happiness... If you were never born, everything would be zero. Or Suppose the gift of life is taken away. BOOM! It's dark, and you lose everything. That happiness is very precious, so people always try to preserve it. What is the purpose of medical development if not to prolong the gift of life? Being born is a happiness but not everything. That is just the beginning for us to start building our own happiness. Is life ever easy? Everything has its price. Only through hardships can you become more mature and stronger to find and protect happiness. Many people feel sorry for themselves and blame their unlucky fate, that life is unfair. Please listen to Dave Pelzer tell the story of his life - the story of the most terrible case of child abuse in American history. Dave Pelzer was brutally abused by his biological mother - who was also a victim of domestic violence. Growing up, Dave tried his best to escape the shadow of his past, not following his mother's path, living a different life, becoming a pilot as he dreamed, then writing his autobiography and actively participating in events. campaign against domestic violence. In the same situation, the mother and child behaved differently and their lives were also different. Hold your hand tightly and you will see half of your life line in your hand. That means life can only be decided by half. The other half is up to you, depending on how you act. A large part of today's youth seems to have forgotten this. A little stumbling, a little unsatisfactory, they roar again, "Why was I born into this world?", "If only I had never been born", "If only I had disappeared"... Those are the children. A person who is physically healthy but mentally crippled. Boys and girls who are dissatisfied intend to give up life, ready to destroy everything for personal needs: 8th grade students commit suicide because of love; twenty years old killed his girlfriend because his love was rejected... there are too many people who callously reject their lives, leading to many other fates. Do they not know or intentionally not know that there are many people who are fighting every moment to live no matter how difficult it is? Like information technology knight Nguyen Cong Hung - a victim of Agent Orange - who overcame personal guilt and contributed to creating jobs for many people with disabilities. They carry losses and pain, but they are living in the strongest and most meaningful way. For them, being born is truly a happiness that begins the birth of happiness. Don't throw your life away because once you turn your back, life will also turn its back on you. Death then is not liberation but a dead end, because it puts an end to difficulties but is also the end to everything. But death is not the end. Behind death, pain remains. A person leaving leaves a void that cannot be filled in the heart of the person who stays. Try to live even though there are times when life becomes unbearable. And at the same time, remember to appreciate the lives of others. Don't give yourself the right to judge anyone's life.
Hướng dẫn “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày.” => Gợi ý: 1. Giải thích: “đã khóc”: Sự buồn bã, đau xót và tuyệt vọng, buông xuôi; – “không có giày để đi”: Hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn (về vật chất); – “không có chân để đi giày”: Hoàn cảnh bất hạnh, nghiệt ngã (của số phận); – “đã… cho đến khi”: Sự nhận thức, “ngộ” ra một vấn đề cuộc sống. * Ý nghĩa của lời tâm sự: Sự thiếu thốn, khó khăn của riêng ta chẳng thấm gì nếu so sánh với những xót đau, bất hạnh của nhiều người khác quanh ta. 2. Bình luận – Rút ra bài học: – Cuộc sống của mỗi người vốn luôn có thể gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Trước những điều đó, con người – nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực và nhận thức – dễ buồn đau, thất vọng, buông xuôi. – Tuy nhiên, nếu bước ra cuộc đời, hoặc nhìn lại xung quanh, ta sẽ thấy có những con người phải chịu những thiệt thòi, bất hạnh hơn ta rất nhiều. – Nhận thức về điều đó, một mặt, ta phải tự vươn lên hoàn cảnh của chính mình – bởi thực ra, nó chưa thực sự đáng sợ như ta nghĩ; mặt khác, phải hiểu rằng: chính hoàn cảnh khó khăn ấy là sự thử thách, tôi luyện để ta ngày càng trưởng thành, hoàn thiện. – Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng. Hơn thế nữa, ta còn phải nhìn ra cuộc đời để nhận biết, đồng cảm, chia sẻ; từ đó mà thêm động lực, thêm tin yêu để sống, làm việc và cống hiến. => Bài làm của bạn Nguyễn Tam Giang, lớp 12 Chuyên Văn – Quốc Học ( Đạt 7/8 điểm ) Cuộc sống quả thật rất kì lạ. Có những con người sinh ra được hưởng đầy đủ mọi ưu ái vật chất và tinh thần. Nhưng lại có những người bất hạnh mất đi một phần ưu ái đó. Và trớ trêu thay khi những người có đầy đủ mọi thứ lại thường cảm thấy không thỏa mãn khi thiếu đi một thứ vật chất thông thường nào đó. Họ cứ mãi nghĩ về bản thân mình mà không biết rằng xung quanh còn có biết bao nhiêu người còn kém may mắn hơn mình rất nhiều. Nữ nhà văn Mĩ Hellen Keller đã từng như thế cho đến một ngày bà chợt nhận ra những may mắn mà mình được hưởng, bà tâm sự “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày”. Lời tâm sự chân thành đó đã đánh thức biết bao cảm xúc trong trái tim mỗi người. Không đề cập trực tiếp đến vấn đề hay nêu ra bài học, chỉ bằng một câu kể rất thực nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, Hellen Keller đã khiến mọi người phải suy ngẫm, phải nhìn nhận lại những gì mình đang có để trân trọng, để giữ gìn. “Tôi đã khóc vì không có giày để đi” đó là một lời thú nhận rất chân thành, trung thực bởi lẽ đối với những người sống trong đủ đầy, quen có đủ mọi thứ thì sẽ cảm thấy buồn, thấy chán nản khi không có “giày” hay có thể nói là những phụ kiện vật chất cần thiết để làm đẹp cho mình, làm mình tự tin. Tôi đã thấy nhiều cô bé, cậu bé, nhiều bạn học sinh-những người sinh ra được nhận tình yêu thương của bố mẹ, được sống hạnh phúc, ấm no… trở nên bướng bĩnh, giận dỗi hay khóc vì bố mẹ không đáp ứng những nhu cầu của mình, thậm chí có những người nông nổi vì giận bố mẹ mà bỏ nhà đi hay làm bất cứ việc gì để được thứ mình muốn. Thế nhưng, họ đâu biết rằng ở ngoài xã hội, ở xung quanh chúng ta hay thậm chí ngay cạnh nhà bạn lại có những cảnh đời bất hạnh, tồn tại biết bao con người “không có chân để đi giày”. Hình ảnh rất thực ấy nói về những người khuyết tật hay nói rộng ra là những người thiếu may mắn, những người sinh ra đã không được cuộc sống, được tạo hóa thương yêu để ban tặng những thứ cần thiết cho mỗi con người. Hai vế câu đối lập trong lời tâm sự của nhà văn Mĩ được kết nối với nhau bởi cụm từ “cho đến khi tôi nhìn thấy” giống như một sự nhận thức, một lời thức tỉnh đối với biết bao người. Sống trên đời đâu phải chỉ có riêng mình gặp khó khăn hay thiếu thốn. Hãy tự nhìn bên ngoài kia còn biết bao người kém may mắn hơn, họ không chỉ thiếu thốn vật chất, không chỉ thiếu thốn tình thương mà có người còn không thể tự chăm sóc mình, phải sống nhờ vào người khác hay phải nhận những ánh nhìn tội nghiệp của người xung quanh. Những người như vậy mới thực sự là kém may mắn, đáng để “khóc” hơn chúng ta. Đọc lời tâm sự của Hellen, tôi chợt nhớ đến người thầy giáo đáng kính Nguyễn Ngọc Ký – người bị tật nguyền đôi tay và phải dùng đôi chân của mình để tập viết. Đã nhiều lần, những khó khăn, vất vả, những lần bị chuột rút đến quặp cả bàn chân, đau đớn đến vã mồ hôi nhưng sức mạnh của niềm tin, sức mạnh được nhân lên cả với sự mặc cảm đối với cuộc sống đã giúp thầy “đứng vững”, dũng cảm bước tiếp và trở thành một nhà giáo ưu tú. Hay những cậu học sinh bị mất đôi chân, những người mù hoặc không thể nói nhưng bằng trí óc, bằng những gì mà họ còn lại vẫn dũng cảm vượt qua khó khăn để sống tốt đẹp. Tôi tin chắc rằng không ít lần họ rơi nước mắt, không ít lần muốn bỏ cuộc nhưng họ vẫn can đảm, chính những gì họ đang thiếu hay không có đã thúc đẩy họ, đem đến sức mạnh giúp họ thành công. Vậy thì mỗi chúng ta, những người có đầy đủ chân tay, những người có thể lao động để nuôi sống mình tại sao phải buồn khi ta thiếu đi một đôi giày hay chiếc áo, chiếc quần? Hãy nhìn những tấm gương đó, hãy soi mình vào đó để tự hỏi và tự biết chúng ta hơn họ những gì nhưng lại thua họ những thứ căn bản này. Có một triết gia nổi tiếng đã nói rằng: “Tôi hạnh phúc vì có đủ cả tay lẫn chân”. Được sinh ra trọn vẹn là một con người, được có thể bằng đôi tay và đôi chân để tự lao động, tự nuôi sống bản thân, kiếm được đồng tiền chính nghĩa đã là một hạnh phúc lớn nhất cả đời người! Đừng vì những thứ nhỏ nhất, những vật phòng thân bên ngoài mà tự cho mình là khổ, mà đánh mất sức mạnh của mình. Chỉ là một lời tâm sự, cảm nhận rút ra từ cuộc sống, từ thực tế mình quan sát nhưng Hellen Keller đã thức tỉnh, đã đánh lên một hồi chuông báo động cho những người chỉ chăm chăm nghĩ đến mình, ích kỉ hay tự ti. Lời tâm sự đó đã trở thành một bài học ý nghĩa một chiêm nghiệm sâu sắc không chỉ dành riêng cho một cá nhân nào mà là cho tất cả mọi người về một cuộc sống, một cách sống tích cực trong xã hội: Phải biết ơn cuộc sống ban cho ta những điều đáng quý, hãy trân trọng những gì mình đang có và cố gắng hết sức mình để giành lấy những gì mình mong muốn. Đừng bao giờ buông xuôi bởi “không có gì là không thể”! Hãy sống dũng cảm và kiên cường như cô bé Aya trải qua năm tháng bệnh tật, đã qua đời trong nước mắt thương tiếc của mọi người và những đóa hồng đỏ thắm bao quanh.
Hướng dẫn “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày.” => Gợi ý: 1. Giải thích: “đã khóc”: Sự buồn bã, đau xót và tuyệt vọng, buông xuôi; – “không có giày để đi”: Hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn (về vật chất); – “không có chân để đi giày”: Hoàn cảnh bất hạnh, nghiệt ngã (của số phận); – “đã… cho đến khi”: Sự nhận thức, “ngộ” ra một vấn đề cuộc sống. * Ý nghĩa của lời tâm sự: Sự thiếu thốn, khó khăn của riêng ta chẳng thấm gì nếu so sánh với những xót đau, bất hạnh của nhiều người khác quanh ta. 2. Bình luận – Rút ra bài học: – Cuộc sống của mỗi người vốn luôn có thể gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Trước những điều đó, con người – nếu thiếu bản lĩnh, nghị lực và nhận thức – dễ buồn đau, thất vọng, buông xuôi. – Tuy nhiên, nếu bước ra cuộc đời, hoặc nhìn lại xung quanh, ta sẽ thấy có những con người phải chịu những thiệt thòi, bất hạnh hơn ta rất nhiều. – Nhận thức về điều đó, một mặt, ta phải tự vươn lên hoàn cảnh của chính mình – bởi thực ra, nó chưa thực sự đáng sợ như ta nghĩ; mặt khác, phải hiểu rằng: chính hoàn cảnh khó khăn ấy là sự thử thách, tôi luyện để ta ngày càng trưởng thành, hoàn thiện. – Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng. Hơn thế nữa, ta còn phải nhìn ra cuộc đời để nhận biết, đồng cảm, chia sẻ; từ đó mà thêm động lực, thêm tin yêu để sống, làm việc và cống hiến. => Bài làm của bạn Nguyễn Tam Giang, lớp 12 Chuyên Văn – Quốc Học ( Đạt 7/8 điểm ) Cuộc sống quả thật rất kì lạ. Có những con người sinh ra được hưởng đầy đủ mọi ưu ái vật chất và tinh thần. Nhưng lại có những người bất hạnh mất đi một phần ưu ái đó. Và trớ trêu thay khi những người có đầy đủ mọi thứ lại thường cảm thấy không thỏa mãn khi thiếu đi một thứ vật chất thông thường nào đó. Họ cứ mãi nghĩ về bản thân mình mà không biết rằng xung quanh còn có biết bao nhiêu người còn kém may mắn hơn mình rất nhiều. Nữ nhà văn Mĩ Hellen Keller đã từng như thế cho đến một ngày bà chợt nhận ra những may mắn mà mình được hưởng, bà tâm sự “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày”. Lời tâm sự chân thành đó đã đánh thức biết bao cảm xúc trong trái tim mỗi người. Không đề cập trực tiếp đến vấn đề hay nêu ra bài học, chỉ bằng một câu kể rất thực nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, Hellen Keller đã khiến mọi người phải suy ngẫm, phải nhìn nhận lại những gì mình đang có để trân trọng, để giữ gìn. “Tôi đã khóc vì không có giày để đi” đó là một lời thú nhận rất chân thành, trung thực bởi lẽ đối với những người sống trong đủ đầy, quen có đủ mọi thứ thì sẽ cảm thấy buồn, thấy chán nản khi không có “giày” hay có thể nói là những phụ kiện vật chất cần thiết để làm đẹp cho mình, làm mình tự tin. Tôi đã thấy nhiều cô bé, cậu bé, nhiều bạn học sinh-những người sinh ra được nhận tình yêu thương của bố mẹ, được sống hạnh phúc, ấm no… trở nên bướng bĩnh, giận dỗi hay khóc vì bố mẹ không đáp ứng những nhu cầu của mình, thậm chí có những người nông nổi vì giận bố mẹ mà bỏ nhà đi hay làm bất cứ việc gì để được thứ mình muốn. Thế nhưng, họ đâu biết rằng ở ngoài xã hội, ở xung quanh chúng ta hay thậm chí ngay cạnh nhà bạn lại có những cảnh đời bất hạnh, tồn tại biết bao con người “không có chân để đi giày”. Hình ảnh rất thực ấy nói về những người khuyết tật hay nói rộng ra là những người thiếu may mắn, những người sinh ra đã không được cuộc sống, được tạo hóa thương yêu để ban tặng những thứ cần thiết cho mỗi con người. Hai vế câu đối lập trong lời tâm sự của nhà văn Mĩ được kết nối với nhau bởi cụm từ “cho đến khi tôi nhìn thấy” giống như một sự nhận thức, một lời thức tỉnh đối với biết bao người. Sống trên đời đâu phải chỉ có riêng mình gặp khó khăn hay thiếu thốn. Hãy tự nhìn bên ngoài kia còn biết bao người kém may mắn hơn, họ không chỉ thiếu thốn vật chất, không chỉ thiếu thốn tình thương mà có người còn không thể tự chăm sóc mình, phải sống nhờ vào người khác hay phải nhận những ánh nhìn tội nghiệp của người xung quanh. Những người như vậy mới thực sự là kém may mắn, đáng để “khóc” hơn chúng ta. Đọc lời tâm sự của Hellen, tôi chợt nhớ đến người thầy giáo đáng kính Nguyễn Ngọc Ký – người bị tật nguyền đôi tay và phải dùng đôi chân của mình để tập viết. Đã nhiều lần, những khó khăn, vất vả, những lần bị chuột rút đến quặp cả bàn chân, đau đớn đến vã mồ hôi nhưng sức mạnh của niềm tin, sức mạnh được nhân lên cả với sự mặc cảm đối với cuộc sống đã giúp thầy “đứng vững”, dũng cảm bước tiếp và trở thành một nhà giáo ưu tú. Hay những cậu học sinh bị mất đôi chân, những người mù hoặc không thể nói nhưng bằng trí óc, bằng những gì mà họ còn lại vẫn dũng cảm vượt qua khó khăn để sống tốt đẹp. Tôi tin chắc rằng không ít lần họ rơi nước mắt, không ít lần muốn bỏ cuộc nhưng họ vẫn can đảm, chính những gì họ đang thiếu hay không có đã thúc đẩy họ, đem đến sức mạnh giúp họ thành công. Vậy thì mỗi chúng ta, những người có đầy đủ chân tay, những người có thể lao động để nuôi sống mình tại sao phải buồn khi ta thiếu đi một đôi giày hay chiếc áo, chiếc quần? Hãy nhìn những tấm gương đó, hãy soi mình vào đó để tự hỏi và tự biết chúng ta hơn họ những gì nhưng lại thua họ những thứ căn bản này. Có một triết gia nổi tiếng đã nói rằng: “Tôi hạnh phúc vì có đủ cả tay lẫn chân”. Được sinh ra trọn vẹn là một con người, được có thể bằng đôi tay và đôi chân để tự lao động, tự nuôi sống bản thân, kiếm được đồng tiền chính nghĩa đã là một hạnh phúc lớn nhất cả đời người! Đừng vì những thứ nhỏ nhất, những vật phòng thân bên ngoài mà tự cho mình là khổ, mà đánh mất sức mạnh của mình. Chỉ là một lời tâm sự, cảm nhận rút ra từ cuộc sống, từ thực tế mình quan sát nhưng Hellen Keller đã thức tỉnh, đã đánh lên một hồi chuông báo động cho những người chỉ chăm chăm nghĩ đến mình, ích kỉ hay tự ti. Lời tâm sự đó đã trở thành một bài học ý nghĩa một chiêm nghiệm sâu sắc không chỉ dành riêng cho một cá nhân nào mà là cho tất cả mọi người về một cuộc sống, một cách sống tích cực trong xã hội: Phải biết ơn cuộc sống ban cho ta những điều đáng quý, hãy trân trọng những gì mình đang có và cố gắng hết sức mình để giành lấy những gì mình mong muốn. Đừng bao giờ buông xuôi bởi “không có gì là không thể”! Hãy sống dũng cảm và kiên cường như cô bé Aya trải qua năm tháng bệnh tật, đã qua đời trong nước mắt thương tiếc của mọi người và những đóa hồng đỏ thắm bao quanh.
Hướng dẫn Dàn bài: I. Mở bài: Lá xanh tươi rồi cũng sẽ về với cội, cuộc sống con người hối hả rồi cũng sẽ lắng vào dòng cát bụi thời gian. Nên lá kia đâu thể mãi màu xanh tháng năm. Nên tuổi đời con người đâu thể “Hai lần thắm lại”. Cho nên là người thì phải sống một cuộc đời có ý nghĩa. Phải có ý chí, nghị lực để vượt lên hoàn cảnh, vượt lên những khó khăn, gian nan phía trước. Giống như anh Nguyễn Ngọc Ký, anh Hoa Xuân Tứ, anh Đỗ Trọng Khôi… họ đều là những người không may mắn nhưng họ vẫn tự mình vươn lên. Họ là “những người không chịu thua số phận”, là những tấm gương sáng cho tất cả chúng ta học tập. II. Thân bài: 1. Giải thích: – “Số phận” ở đây được hiểu là những nỗi khốn khổ về hoàn cảnh hoặc bất hạnh ( tàn tật, khiếm khuyết,…) về thể xác của một ai đó. Xưa nay, số phận thường được nhiều người coi là sự an bài của ông trời, do trời định đoạt “Ngẫm hay muôn sự tại trời” (Nguyễn Du, “Truyện Kiều”) nên người có số phận bất hạnh thường có tâm lí cam chịu, trời phạt đành chịu… – “Những người không chịu thua số phận” là những con người có ý chí, nghị lực, niềm tin vào cuộc sống. Họ không đầu hàng trước số phận mà mạnh mẽ vươn lên để sống một cuộc sống có ích và ý nghĩa. 2. Biểu hiện: – Những con người không chịu thua số phận là những con người: + Có nhận thức đúng đắn về số phận ( họ nhận ra rằng số phận nằm trong tay mỗi con người và họ quyết tâm vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho mình và người thân, để trở thành người có ích…) + Có nhiều đóng góp cho xã hội ( họ tự phục vụ mình, làm ra của cải nuôi sống bản thân, giảm bớt gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, cống hiến cho xã hội…) + Họ là những tấm gương sáng ( tấm gương vươn lên trên nỗi bất hạnh của mình để cất lên những tiếng ca ca ngợi cuộc đời, nhen lên niềm tin lẽ sống cho mọi người…) – Nhắc đến “những người không chịu thua số phận”, trong chúng ta, ai cũng vô cùng cảm phục khi nói về những tấm gương giàu nghị lực như: + Thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí, mặc dù bị liệt hai tay từ nhỏ nhưng thầy vẫn quyết tâm đến trường, kiên trì học viết bằng chân, học hết đại học, trở thành Nhà giáo Ưu tú, nhà văn, nhà thơ. Từ nghị lực và ý chí vượt khó vươn lên của bản thân, thầy Nguyễn Ngọc Kí đã viết lên trang huyền thoại cho chính cuộc đời mình và trở thành tấm gương của biết bao thế hệ học sinh, thanh niên Việt Nam. + Hiệp sĩ công nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng, từ khi còn nhỏ đã mắc căn bệnh hiểm nghèo khiến anh bị liệt toàn thân, nhưng anh vẫn cố gắng học tập, mở trung tâm tin học dành cho người khuyết tật, giúp đỡ họ có một hướng đi trong cuộc đời mình, có niềm tin vào cuộc sống. Anh làm cho mọi người cảm phục bởi ý chí phi thường vươn lên trong cuộc sống, sống có ích, có cống hiến cho xã hội… + Hay Nick Vujicic – chàng trai người Úc sinh ra với cơ thể không tay không chân, nhưng điều đó không khiến anh nản chí. Vượt qua những khiếm khuyết trên cơ thể mình, anh trở thành một diễn giả nổi tiếng khắp thế giới, được mọi người biết đến như một tấm gương của sự vượt khó… => Họ chính là những tấm gương tiêu biểu cho một lẽ sống đẹp, không chịu khuất phục sự nghiệt ngã của số phận. 3. Nguyên nhân: Nhờ đâu họ có sức mạnh để vượt lên số phận? – Bởi vì họ có ý chí nghị lực, có niềm tin yêu mãnh liệt vào cuộc sống. Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn,gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì,nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ là những bông hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời. – Bên cạnh đó, nhờ có sự động viên khích lệ của gia đình, bạn bè xã hội nên họ có đủ dũng cảm, tự tin để vượt qua hoàn cảnh, số phận và những chông gai ở phía trước. 4. Ý nghĩa: – Nếu như chim mang tiếng hót cho đời thêm vui, nếu như hoa mang vẻ đẹp cho đời thêm sắc, thì nghị lực, không chịu thua số phận đã mang lại cho họ những điều đáng quý. “Không chịu thua số phận” giúp họ có tinh thần, quyết tâm vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình để sống có ích, sống có cống hiến cho xã hội, giảm bớt gánh nặng cho gia đình… “Tàn” nhưng không “phế”, bằng khả năng của mình họ đã có nhiều thành công và khẳng định được mình trong xã hội. – Hơn hết, họ là những tấm gương sáng để lại trong chúng ta bài học sâu sắc về nghị lực và ý chí vươn lên. Chính những tấm gương về họ dạy cho chúng ta phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện hoài bão ước mơ. Không ai khác, họ là thần tượng của mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày hôm nay. 5. Phản đề: Cuộc đời thì có 2 mặt: đúng – sai, phải – trái…cho nên, bên cạnh ca ngợi những tấm gương vượt khó thì chúng ta cũng cần phê phán những cá nhân không kiên cường, nhụt chí trước những chông gai cuộc sống. Mõi khi gặp khó khăn thường rất dễ nản lòng, chưa thật sự cố gắng đã đầu hàng số phận, dễ buông xuôi hoặc ý lại, hoặc phải ứng tiêu cực…( Học sinh lấy một vài dẫn chứng tiêu biểu ). Đó là những người hèn nhát, không dám đối diện với sự thật nên khó thành công trong mọi việc. 6. Ý kiến đánh giá, bình luận: – Không đao to búa lớn, chính cuộc đời họ – “những người không chịu thua số phận” là thông điệp cao cả về lối sống có ích. Làm thơ, viết văn, dạy học… bằng những công việc thầm lặng, họ đã cống hiến cho xã hội như cây xanh làm đẹp cho đời, điểm tô cho cuộc sống – Họ là bài học lớn cho thể hệ trẻ hôm nay, trong hoàn cảnh đầy đủ tiện nghi sung túc, được sống trong sự yêu thương, quan tâm của cha mẹ, xã hội thì không ít học sinh, thanh niên tự đánh mất mình, lao vào tệ nạn xã hội, lối sống vô nghĩa ăn chơi, hưởng thụ, không biết cố gắng phấn đấu, để trở thành người cho ích cho xã hội, đất nước. – Họ là những tấm gương khiến chúng ta vô cùng khâm phục, trân trọng, quý mến… – Trách nhiệm của chúng ta: + Những người tàn tật cần được quan tâm, giúp đỡ hơn nữa. ( Phần lớn những người may mắn như chúng ta đã bao giờ cho rằng giúp đỡ những người tàn tật là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa không? Và chúng ta đã làm được những gì cho họ? ) + Giúp đỡ người tàn tật là trách nhiệm của cả cộng đồng ( Giúp đỡ họ không chỉ là trách nhiệm của những tổ chức nhân đạo, các cơ quan chính quyền mà còn là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta ). + Giúp đỡ người tàn tật là biểu hiện sâu sắc nhất của lòng nhân ái. III. Kết bài: – “Những người không chịu thua số phận” mãi mãi được mọi người yêu quý, khâm phục và kính trọng. – Rút ra được nhiều bài học bổ ích về lẽ sống, về ý chí, nghị lực, niềm tin, khát vọng… ( trong bất kì hoàn cảnh nào, dù số phận có nghiệt ngã đến mấy vẫn quyết tâm vươn lên, vượt qua mọi thử thách để sống có ích). – Ngưỡng mộ họ, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ để họ bớt đi những đau đớn, nhọc nhằn. Bài làm Có những con người không may mắn khi chào đời. Tạo hóa đã thật bất công với họ. Trong số ấy không ít người chấp nhận số phận, thở ngắn than dài ngậm ngùi cho qua ngày tháng. Nhưng, vẫn có rất nhiều người trong số họ đã ko chấp nhập sự bằng lòng, họ đã dũng cảm và bền bỉ vượt lên sự an bài của tạo hóa. Thật đáng quý! Một Nguễn Ngọc Kí liệt cả hai tay vẫn kiên trì tìm cách viết bằng chân. Từ chỗ viết dc, đến viết đẹp là cả một quá trình. Không dừng lại ở đó, anh còn quyết tâm thực hiện giấc mơ đại học. Và, giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực của đời anh. Để hôm nay, anh trở thành thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí trên giảng đường Sư phạm. Đó còn là một Nguyễn Minh Phú, nạn nhân cảu chật độc màu da cam, mất cả hai tay tử khi cất tiếng khóc chào đời, không chịu thua số phận, vươn lên học tốt và học giỏi, giúp đỡ gia đình. Họ là những tấm gương vượt lên số phận, học tập thành công đáng để cho ta ngưỡng mộ, tự hào Ở họ cái đáng quý nhất chính là nghị lực, ý chí vươn lên ko ngừng. Sự thua thiệt vốn rất dễ dẫn đến con ngươi mặc càm tự ti. Từ đó, không còn ham muốn, ước mơ, hoài bão. Con người sống lay lắt, trông chờ vào lòng thương hại của người khác. không, không phải là sống mà chỉ là tồn tại. Những tấm gương ấy đã không nằm trong số đó. Tạo hóa đã không công bằng với họ nưung ko có nghĩa lả lấy tất cả của họ. Họ vẫn còn một trái tim, một khối óc. Họ vẫn có thể sống đàng hoàng, tự tin như bao nhiêu người khác nếu họ biết vươn lên, chiến thắng số phận. Vâng, chính tình yêu và niềm tin vào cuộc đời đã tiế[ thêm ý chí và nghị lực. Để rồi chính sức mạnh ấy đã không phụ lòng những ngưởi thua thiệt. Hạnh phúc đã mỉm cười với họ. Dẫu hạnh phúc có đến muộn hơn, chật vật hơn nhưng dư vị của nó vẫn không vì vậy mà kém ngọt ngào hơn người khác. Những tấm gương vượt lên số phận, thànnh công trong học tập ấy không chỉ giúp chúng ta thấm thía giá trị của ý chí và nghị lực mà còn hiểu sâu hơn ý nghĩa về một cuộc sống có ý nghĩa. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta biết sống có ích, sống đẹp với nó. Sự thua thiệt lúc này lại trở thành phép thử đối với tình yêu cuộc sống trong mỗi trái tim con người ấy. Vậy nên họ đã không chịu an bải trưước số phận. Họ đã chứng tỏ được rằng, cuộc đời cuộc đời vẫn rất cấn đến sựa có mặt của họ trên thế gian này. Những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm vẫn đang từng ngày, từng phút. từng giây góp mặt cho đời. Sự đóng góp của họ thật đáng để chúng ta soi ngắm lại chính mình.
Hướng dẫn Dàn bài: I. Mở bài: Lá xanh tươi rồi cũng sẽ về với cội, cuộc sống con người hối hả rồi cũng sẽ lắng vào dòng cát bụi thời gian. Nên lá kia đâu thể mãi màu xanh tháng năm. Nên tuổi đời con người đâu thể “Hai lần thắm lại”. Cho nên là người thì phải sống một cuộc đời có ý nghĩa. Phải có ý chí, nghị lực để vượt lên hoàn cảnh, vượt lên những khó khăn, gian nan phía trước. Giống như anh Nguyễn Ngọc Ký, anh Hoa Xuân Tứ, anh Đỗ Trọng Khôi… họ đều là những người không may mắn nhưng họ vẫn tự mình vươn lên. Họ là “những người không chịu thua số phận”, là những tấm gương sáng cho tất cả chúng ta học tập. II. Thân bài: 1. Giải thích: – “Số phận” ở đây được hiểu là những nỗi khốn khổ về hoàn cảnh hoặc bất hạnh ( tàn tật, khiếm khuyết,…) về thể xác của một ai đó. Xưa nay, số phận thường được nhiều người coi là sự an bài của ông trời, do trời định đoạt “Ngẫm hay muôn sự tại trời” (Nguyễn Du, “Truyện Kiều”) nên người có số phận bất hạnh thường có tâm lí cam chịu, trời phạt đành chịu… – “Những người không chịu thua số phận” là những con người có ý chí, nghị lực, niềm tin vào cuộc sống. Họ không đầu hàng trước số phận mà mạnh mẽ vươn lên để sống một cuộc sống có ích và ý nghĩa. 2. Biểu hiện: – Những con người không chịu thua số phận là những con người: + Có nhận thức đúng đắn về số phận ( họ nhận ra rằng số phận nằm trong tay mỗi con người và họ quyết tâm vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho mình và người thân, để trở thành người có ích…) + Có nhiều đóng góp cho xã hội ( họ tự phục vụ mình, làm ra của cải nuôi sống bản thân, giảm bớt gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, cống hiến cho xã hội…) + Họ là những tấm gương sáng ( tấm gương vươn lên trên nỗi bất hạnh của mình để cất lên những tiếng ca ca ngợi cuộc đời, nhen lên niềm tin lẽ sống cho mọi người…) – Nhắc đến “những người không chịu thua số phận”, trong chúng ta, ai cũng vô cùng cảm phục khi nói về những tấm gương giàu nghị lực như: + Thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí, mặc dù bị liệt hai tay từ nhỏ nhưng thầy vẫn quyết tâm đến trường, kiên trì học viết bằng chân, học hết đại học, trở thành Nhà giáo Ưu tú, nhà văn, nhà thơ. Từ nghị lực và ý chí vượt khó vươn lên của bản thân, thầy Nguyễn Ngọc Kí đã viết lên trang huyền thoại cho chính cuộc đời mình và trở thành tấm gương của biết bao thế hệ học sinh, thanh niên Việt Nam. + Hiệp sĩ công nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng, từ khi còn nhỏ đã mắc căn bệnh hiểm nghèo khiến anh bị liệt toàn thân, nhưng anh vẫn cố gắng học tập, mở trung tâm tin học dành cho người khuyết tật, giúp đỡ họ có một hướng đi trong cuộc đời mình, có niềm tin vào cuộc sống. Anh làm cho mọi người cảm phục bởi ý chí phi thường vươn lên trong cuộc sống, sống có ích, có cống hiến cho xã hội… + Hay Nick Vujicic – chàng trai người Úc sinh ra với cơ thể không tay không chân, nhưng điều đó không khiến anh nản chí. Vượt qua những khiếm khuyết trên cơ thể mình, anh trở thành một diễn giả nổi tiếng khắp thế giới, được mọi người biết đến như một tấm gương của sự vượt khó… => Họ chính là những tấm gương tiêu biểu cho một lẽ sống đẹp, không chịu khuất phục sự nghiệt ngã của số phận. 3. Nguyên nhân: Nhờ đâu họ có sức mạnh để vượt lên số phận? – Bởi vì họ có ý chí nghị lực, có niềm tin yêu mãnh liệt vào cuộc sống. Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn,gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì,nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ là những bông hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời. – Bên cạnh đó, nhờ có sự động viên khích lệ của gia đình, bạn bè xã hội nên họ có đủ dũng cảm, tự tin để vượt qua hoàn cảnh, số phận và những chông gai ở phía trước. 4. Ý nghĩa: – Nếu như chim mang tiếng hót cho đời thêm vui, nếu như hoa mang vẻ đẹp cho đời thêm sắc, thì nghị lực, không chịu thua số phận đã mang lại cho họ những điều đáng quý. “Không chịu thua số phận” giúp họ có tinh thần, quyết tâm vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình để sống có ích, sống có cống hiến cho xã hội, giảm bớt gánh nặng cho gia đình… “Tàn” nhưng không “phế”, bằng khả năng của mình họ đã có nhiều thành công và khẳng định được mình trong xã hội. – Hơn hết, họ là những tấm gương sáng để lại trong chúng ta bài học sâu sắc về nghị lực và ý chí vươn lên. Chính những tấm gương về họ dạy cho chúng ta phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện hoài bão ước mơ. Không ai khác, họ là thần tượng của mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày hôm nay. 5. Phản đề: Cuộc đời thì có 2 mặt: đúng – sai, phải – trái…cho nên, bên cạnh ca ngợi những tấm gương vượt khó thì chúng ta cũng cần phê phán những cá nhân không kiên cường, nhụt chí trước những chông gai cuộc sống. Mõi khi gặp khó khăn thường rất dễ nản lòng, chưa thật sự cố gắng đã đầu hàng số phận, dễ buông xuôi hoặc ý lại, hoặc phải ứng tiêu cực…( Học sinh lấy một vài dẫn chứng tiêu biểu ). Đó là những người hèn nhát, không dám đối diện với sự thật nên khó thành công trong mọi việc. 6. Ý kiến đánh giá, bình luận: – Không đao to búa lớn, chính cuộc đời họ – “những người không chịu thua số phận” là thông điệp cao cả về lối sống có ích. Làm thơ, viết văn, dạy học… bằng những công việc thầm lặng, họ đã cống hiến cho xã hội như cây xanh làm đẹp cho đời, điểm tô cho cuộc sống – Họ là bài học lớn cho thể hệ trẻ hôm nay, trong hoàn cảnh đầy đủ tiện nghi sung túc, được sống trong sự yêu thương, quan tâm của cha mẹ, xã hội thì không ít học sinh, thanh niên tự đánh mất mình, lao vào tệ nạn xã hội, lối sống vô nghĩa ăn chơi, hưởng thụ, không biết cố gắng phấn đấu, để trở thành người cho ích cho xã hội, đất nước. – Họ là những tấm gương khiến chúng ta vô cùng khâm phục, trân trọng, quý mến… – Trách nhiệm của chúng ta: + Những người tàn tật cần được quan tâm, giúp đỡ hơn nữa. ( Phần lớn những người may mắn như chúng ta đã bao giờ cho rằng giúp đỡ những người tàn tật là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa không? Và chúng ta đã làm được những gì cho họ? ) + Giúp đỡ người tàn tật là trách nhiệm của cả cộng đồng ( Giúp đỡ họ không chỉ là trách nhiệm của những tổ chức nhân đạo, các cơ quan chính quyền mà còn là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta ). + Giúp đỡ người tàn tật là biểu hiện sâu sắc nhất của lòng nhân ái. III. Kết bài: – “Những người không chịu thua số phận” mãi mãi được mọi người yêu quý, khâm phục và kính trọng. – Rút ra được nhiều bài học bổ ích về lẽ sống, về ý chí, nghị lực, niềm tin, khát vọng… ( trong bất kì hoàn cảnh nào, dù số phận có nghiệt ngã đến mấy vẫn quyết tâm vươn lên, vượt qua mọi thử thách để sống có ích). – Ngưỡng mộ họ, sẵn sàng sẻ chia, giúp đỡ để họ bớt đi những đau đớn, nhọc nhằn. Bài làm Có những con người không may mắn khi chào đời. Tạo hóa đã thật bất công với họ. Trong số ấy không ít người chấp nhận số phận, thở ngắn than dài ngậm ngùi cho qua ngày tháng. Nhưng, vẫn có rất nhiều người trong số họ đã ko chấp nhập sự bằng lòng, họ đã dũng cảm và bền bỉ vượt lên sự an bài của tạo hóa. Thật đáng quý! Một Nguễn Ngọc Kí liệt cả hai tay vẫn kiên trì tìm cách viết bằng chân. Từ chỗ viết dc, đến viết đẹp là cả một quá trình. Không dừng lại ở đó, anh còn quyết tâm thực hiện giấc mơ đại học. Và, giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực của đời anh. Để hôm nay, anh trở thành thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí trên giảng đường Sư phạm. Đó còn là một Nguyễn Minh Phú, nạn nhân cảu chật độc màu da cam, mất cả hai tay tử khi cất tiếng khóc chào đời, không chịu thua số phận, vươn lên học tốt và học giỏi, giúp đỡ gia đình. Họ là những tấm gương vượt lên số phận, học tập thành công đáng để cho ta ngưỡng mộ, tự hào Ở họ cái đáng quý nhất chính là nghị lực, ý chí vươn lên ko ngừng. Sự thua thiệt vốn rất dễ dẫn đến con ngươi mặc càm tự ti. Từ đó, không còn ham muốn, ước mơ, hoài bão. Con người sống lay lắt, trông chờ vào lòng thương hại của người khác. không, không phải là sống mà chỉ là tồn tại. Những tấm gương ấy đã không nằm trong số đó. Tạo hóa đã không công bằng với họ nưung ko có nghĩa lả lấy tất cả của họ. Họ vẫn còn một trái tim, một khối óc. Họ vẫn có thể sống đàng hoàng, tự tin như bao nhiêu người khác nếu họ biết vươn lên, chiến thắng số phận. Vâng, chính tình yêu và niềm tin vào cuộc đời đã tiế[ thêm ý chí và nghị lực. Để rồi chính sức mạnh ấy đã không phụ lòng những ngưởi thua thiệt. Hạnh phúc đã mỉm cười với họ. Dẫu hạnh phúc có đến muộn hơn, chật vật hơn nhưng dư vị của nó vẫn không vì vậy mà kém ngọt ngào hơn người khác. Những tấm gương vượt lên số phận, thànnh công trong học tập ấy không chỉ giúp chúng ta thấm thía giá trị của ý chí và nghị lực mà còn hiểu sâu hơn ý nghĩa về một cuộc sống có ý nghĩa. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta biết sống có ích, sống đẹp với nó. Sự thua thiệt lúc này lại trở thành phép thử đối với tình yêu cuộc sống trong mỗi trái tim con người ấy. Vậy nên họ đã không chịu an bải trưước số phận. Họ đã chứng tỏ được rằng, cuộc đời cuộc đời vẫn rất cấn đến sựa có mặt của họ trên thế gian này. Những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm vẫn đang từng ngày, từng phút. từng giây góp mặt cho đời. Sự đóng góp của họ thật đáng để chúng ta soi ngắm lại chính mình.
Hướng dẫn Văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là của Hi-pô-lít Ten (1828 – 1893), viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, nhà nghiên cứu văn học, vị triết gia, sử gia lỗi lạc của Pháp trong thế kỉ XIX. Qua văn bản này, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau giữa Buy-phông (1707 – 1788) nhà vạn vật học và La Phông-ten (1621 – 1695), nhà thơ ngụ ngôn Pháp khi nói về con chó sói và con cừu. 1. Phần thứ nhất nói về con cừu Buy-phông trong công trình khoa học của mình, đã mô tả và chỉ ra những đặc tính tự nhiên của con cừu như ngu ngốc và sợ sệt, hay tụ tập thành bầy, co cụm lại với nhau, sợ sệt và đần độn, chỉ biết đứng nguyên trong mưa hay trên tuyết, chỉ biết làm theo con đầu đàn nếu không bị gã chăn cừu thôi thúc hay bị chó xua đi. Còn La Phông-ten trong bài thơ ngụ ngôn của mình, đã chỉ ra đời sống tâm hồn của con cừu. Con cừu rất “thân thương và tốt bụng”. Nghe tiếng cừu con kêu thì cừu mẹ liền chạy tới, nó có thể nhận ra con mình trong đàn cừu, nó đứng yên trên miền đất lạnh và bùn lầy cho con bú xong, với vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng. Có thể nói, hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten còn ngụ ý về tình mẫu tử và đức hy sinh của người mẹ trong cuộc đời. Đúng như Hi-pô-lít Ten đã nói: “La Phông-ten đã động lòng thương cảm với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như thế… ” 2. Phần thứ hai nói về con sói Chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh. Mắt thì lấm lét, cơ thể gầy gò, bị truy đuổi. Nó là “một gã vô lại, luôn luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn”. Buy-phông đã nói lên bản năng của chó sói, một thú dữ, hoang dã. Chúng chỉ biết kết bầy lúc săn mồi, khi cuộc chinh chiến đã xong xuôi thì mỗi con một nơi, sống lộng lẽ và cô đơn. Bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc… là đăc tính tự nhiên của loài sói. Sói trong thơ La Phông-ten là một bạo chúa. Hắn vu khống đặt điều. Hắn gầm lên. Và cuối cùng “Sói nhai Chiên nhỏ, chẳng cần đôi co”. Nếu nhà bác học Buy- phông chỉ nhìn thấy sói là con vật có hại thì nhà thơ với đầu óc phóng khoáng và trí tưởng tượng đã phát hiện ra những khía cạnh khác: con sói độc ác mà khổ sở, thường bị mắc mưu, vụng về, bị đói meo, và vì đói mà hóa rồ! Buy-phông “dựng một vở bi kịch về sự độc ác” (thú dữ hoang dã), còn La Phông-ten “dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc” (bị đói khát, mắc mưu và ăn đòn). Qua sự so sánh và khám phá, văn bản của Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại văn bản khoa học và văn bản nghệ thuật. Văn bản khoa học đi sâu nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, rút ra những phán đoán về đặc tính, về tính chất của sự vật. Văn bản nghệ thuật xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống tâm hồn, sự vật bằng tưởng tượng.
Instruct The text of The Wolf and the Lamb in La Fontaine's allegorical poetry is by Hipolit Ten (1828 - 1893), academician of the French Academy, literary researcher, philosopher, and eminent historian. of France in the 19th century. Through this text, the author pointed out the difference between Bui-phon (1707 - 1788), a naturalist, and La Fontaine (1621 - 1695), a French allegorical poet, when talking about the wolf and the wolf. sheep. 1. The first part is about sheep Buy-font in his scientific work, described and pointed out the natural characteristics of sheep such as stupidity and fear, gathering in flocks, huddling together, fear and stupidity, only know how to stand still in the rain or in the snow, only know how to follow the leader unless urged by the shepherd or chased away by the dog. And La Fontaine, in his allegorical poem, pointed out the spiritual life of the sheep. The sheep is very “dear and kind”. Hearing the sound of the lamb crying, the mother sheep immediately ran towards it. She could recognize her baby in the flock of sheep. She stood still on the cold and muddy ground after breastfeeding, with a patient look and absent-minded eyes. It can be said that the image of the sheep in La Fontaine's allegorical poetry also implies maternal love and the mother's sacrifice in life. Just as Hipolit Ten said: "La Fontaine was moved by so much sadness and kindness..." 2. The second part is about the wolf The wolf in La Fontaine's fable is a thief but miserable and unfortunate. Eyes are blurred, body is skinny, being chased. He is "a scoundrel, always hungry and always beaten". Buy-font spoke about the instincts of the wolf, a ferocious, wild animal. They only know how to group together when hunting, when the battle is over, each animal goes to its own place, living alone and alone. The dirty face, wild appearance, creepy howl, disgusting smell... are the natural characteristics of wolves. The wolf in La Fontaine's poem is a tyrant. He slandered things. He roared. And finally, "The Wolf chews the Little Lamb, there is no need to argue." If the scholar Buy-font only saw the wolf as a harmful animal, the poet with his open mind and imagination discovered other aspects: the wolf is cruel but miserable, often deceived, clumsy, hungry, and crazy because of hunger! Buy-phong "staged a tragedy about cruelty" (wild beasts), while La Fontaine "staged a comedy about stupidity" (being hungry, thirsty, tricked, and beaten). Through comparison and discovery, Hipolit Ten's text showed the difference between two types of scientific texts and artistic texts. Scientific texts delve deeply into natural characteristics, drawing judgments about the characteristics and properties of things. Artistic texts build images and describe spiritual life and things through imagination.
Hướng dẫn Bài làm Nếu như gia đình là một tế bào, tạo nên xã hội thì nhà trường chính là một xã hội thu nhỏ phản ánh quán trình học tập, ý thức và trách nhiệm của các bạn học sinh. Bởi vậy, nhà trường cần phải có kỷ luật học đường để có thể kiểm soát hành vi của học sinh. Kỉ luật học đường là những quy tắc, quy định, điều lệ được đặt cho cho cả giáo viên và học sinh để cùng nhau xây dựng một môi trường có kỉ luật và khuôn phép. Kỉ luật học đường được xem là một công cụ hữu hiệu để quản lý cũng như kiểm soát những hành vi của các thành viên trong nhà trường. Hiện nay tại các trường học kỉ luật học đường được biểu hiện rất rõ. Cụ thể ở trang phục, đầu tóc, giữ gìn vệ sinh, trật tự trong lớp, thái độ đối với thầy cô giáo, trách nhiệm đối với mỗi bài học. Tất cả những điều đó sẽ tạo nên một môi trường lành mạnh và trong sáng. Đến các trường học, chúng ta vẫn thấy đồng phục trường được quy định mặc vào thứ 2,4,6 và bắt buộc phải sơ vin. Khi đến trường thì phải dừng xe ở cổng và đẩy vào, không được đi xe vào trường. Gặp thầy cô giáo thì phải lễ phép chào hỏi. Tất cả đều là những quy định đã được hình thành từ thái độ của các bạn hằng ngày. Mỗi nhà trường đều có một nội quy, thường thì sẽ được đặt tấm bảng này ở ngoài cổng trường hoặc ngay gần cột cờ để nhắc nhở các em chú ý chấp hành đúng. Khi đã gọi là kỉ luật học đường thì cần yêu cầu mọi thành viên trong nhà trường phải chấp hành và tuân thủ nghiêm minh. Kỷ luật học đường xuất phát từ ý thức của mỗi cá nhân, từ học sinh đến thầy cô giáo cần phải chấn chỉnh lại ý thức để xây dựng ngôi trường ngày càng văn minh hơn. Mặc dù nhà trường là nơi để học hỏi kiến thức, trao đổi kinh nghiệm giữa thầy cô giáo với học sinh, nơi tình bạn được ươm mầm. Đó sẽ là cái nôi để chúng ta có thể định hướng được tương lai của bản thân mình từ bây giờ. Bởi vậy hình thành và trau dồi kỉ luật học đường thường xuyên không những góp phần xây dựng nhà trường phát triển mà còn hoàn thiện được nhân cách và lối sống cho bản thân mình. Mỗi học sinh đến trường đều biết tuân thủ những kỉ luật học đường, không vi phạm những quy định được đề ra thì sẽ tạo thành thói quen tốt giúp cho học sinh rèn luyện bản thân mình hằng ngày. Ngược lại thầy cô cũng phải là những người cần phải chấp hành kỉ luật học đường trước tiên để có thể làm gương cho học sinh. Nếu nhà trường quy định không được đánh học sinh bằng roi, thước kẻ nhưng thầy cô lại vi phạm, không chấp hành thì chính thầy cô đã để lại ấn tượng xấu đối với học sinh. Bởi vậy kỉ luật học đường không chỉ có học sinh mới phải tuân thủ mà ngay cả giáo viên cũng phải là những người chấp hành đầu tiên. Khi học sinh chấp hành đúng kỉ luật sẽ được thầy cô và bạn bè yêu quý. Ngược lại nếu đến trường học nhưng học sinh lại xem trường học như cái chợ, cãi lại thầy cô, nói ngang trong giờ học, ăn mặc không phù hợp khi đến trường. Hành vi cá biệt đó sẽ tạo nên hình tượng cá biệt, thầy cô và bạn bè xa lánh.
Instruct Assignment If the family is a cell, creating society, then the school is a miniature society that reflects the learning process, awareness and responsibility of students. Therefore, schools need to have school discipline to control student behavior. School discipline is the rules, regulations, and regulations set for both teachers and students to work together to build a disciplined and disciplined environment. School discipline is considered an effective tool to manage and control the behavior of school members. Nowadays, in schools, school discipline is clearly shown. Specifically in clothing, hair, maintaining hygiene and order in the classroom, attitude towards teachers, and responsibility for each lesson. All of these things will create a healthy and pure environment. When we go to schools, we still see school uniforms that are required to be worn on Mondays, Wednesdays, and Fridays and are required to be untucked. When arriving at school, you must stop your car at the gate and push it in. You are not allowed to drive into the school. When you meet teachers, you must greet them politely. These are all rules that have been formed from your everyday attitude. Each school has a rule, usually a sign will be placed outside the school gate or right near the flagpole to remind students to pay attention and comply. When it is called school discipline, it is necessary to require all members of the school to strictly follow and comply with it. School discipline comes from the consciousness of each individual, from students to teachers, who need to correct their consciousness to build a more civilized school. Although school is a place to learn knowledge, exchange experiences between teachers and students, where friendships are nurtured. That will be the cradle so we can orient our future from now on. Therefore, forming and cultivating regular school discipline not only contributes to the development of the school but also perfects one's personality and lifestyle. Every student who comes to school knows how to comply with school discipline and not violate the established regulations, which will create good habits to help students practice themselves every day. On the contrary, teachers are also the ones who need to comply with school discipline first to be able to set an example for students. If the school stipulates that students cannot be beaten with whips or rulers, but the teachers violate and do not comply, then the teachers themselves have left a bad impression on the students. Therefore, not only students must comply with school discipline, but also teachers must be the first to comply. When students comply with proper discipline, they will be loved by teachers and friends. On the contrary, if students go to school, they see school as a market, argue with teachers, talk nonsense during class, and dress inappropriately when going to school. That unique behavior will create a unique image and will be shunned by teachers and friends.
Hướng dẫn Bài tập làm văn nghị luận tư tưởng đạo lí về lòng nhân ái bao gồm dàn ý nghị luận về lòng nhân ái và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh làm tốt bài văn nghị luận tư tưởng đạo lí về lòng nhân ái. Giới thiêu vấn đề cần nghị luận: lòng nhân ái, tình yêu thương con người Giải thích: nhân ái nghĩa là tình yêu thương giữa người với người Một số biểu hiện của lòng nhân ái: Ý nghĩa của lòng nhân ái: Phê phán: những người không có lòng nhân ái Mỗi cá nhân cần thể hiện lòng nhân ái bằng cách giúp đỡ những người xung quanh Khẳng định lại vấn đề và liên hệ bản thân “Có gì đẹp trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau” Hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu như muốn nhắc nhở chúng ta rằng: cần có lòng yêu thương để cuộc sống này tốt đẹp hơn. Lòng nhân ái, yêu thương lẫn nhau là một tình cảm tốt đẹp, một truyền thống ngàn đời của dân tộc ta từ xưa đến nay. Lòng nhân ái không phải cái gì cao xa, trìu tượng hay khó hiểu mà chính là cách chúng ta đối xử với nhau hằng ngày. Trước tiên, chúng ta cần hiểu: nhân ái là gì? Nhân nghĩa là người, còn ái nghĩa là yêu. Nhân ái chính là tình yêu thương giữa người với người. Lòng nhân ái có thể chỉ biểu hiện qua một lời nói ấm áp dành cho nhau, một cái ôm thật chặt khi yếu đuối, một cử chỉ cao đẹp lúc cuộc sống lâm vào khó khăn. Tình cảm ấy xuất phát từ trái tim chân thành của mỗi người, không cưỡng cầu, ép buộc. Bởi khi trao đi yêu thương, thứ chúng ta nhận được chính là tình yêu thương và sự thanh thản từ trong tâm hồn. Con Người là hai tiếng kì diệu được viết hoa. Chúng ta khác với động vật ở chỗ chúng ta không sinh tồn bằng bản năng, chúng ta có ý thức, có cảm xúc. Và điều khác biệt lớn nhất đó là chúng ta biết yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Lòng nhân ái có thể dễ dàng nhận ra trong cuộc sống hàng ngày. Trước hết, đó chính là những tình cảm gần gũi giữa những người thân thiết, ruột thịt với nhau: tình mẫu tử, tình anh em, tình bà cháu… Rộng hơn gia đình đó là xã hội. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu thương, đoàn kết, lá lành đùm lá rách. Những người khuyết tật, người nhiễm chất độc màu da cam vốn chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Thấu hiểu hoàn cảnh của họ, chúng ta đã lập ra những quỹ vì người khuyết tật, vì nạn nhân chất độc màu da cam nhằm giúp cuộc sống của họ phần nào bớt khó khăn. “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Cứ mỗi mùa mưa bão, khi nghe tin nhân dân miền Trung đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, lòng mỗi người con Việt Nam lại quặn thắt xót xa. Và khi ấy, tình đồng bào lại mạnh mẽ, thắm thiết hơn bao giờ hết. Mỗi người, không phân biệt giàu sang, nghèo hèn đều góp chút của cải, công sức để giúp miền Trung vượt qua khó khăn. Bác Hồ- vị Cha già của chúng ta là người có tấm lòng nhân ái vĩ đại. Bác đã hi sinh cả cuộc đời, hạnh phúc cá nhân vì sự độc lập của dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Hay mẹ Teresa- một nhân vật nổi tiếng toàn cầu với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong cảnh tuyệt vọng. Sự cống hiến lớn lao và không mệt mỏi của bà đã thay đổi cuộc đời nhiều người và giúp họ có niềm tin vào cuộc sống. Trong bức thư Einstein gửi con gái, ông cho rằng tình yêu là thứ lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất. Quả thật như vậy, tình yêu thương, lòng nhân ái là sợi dây gắn kết trái tim con người, giúp ta cảm nhận được sụ ấm áp, quan tâm sẻ chia. Được che chở bởi lòng nhân ái, ta có thể đối mặt và vượt qua những thử thách khắc nghiệt nhất của cuộc sống. Lòng nhân ái cũng là yếu tố cốt lõi để tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, một xã hội phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lên án, phê phán nghiêm khắc những người sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình yêu thương ngay với chính đồng loại mình. Họ là những con robot lạnh lùng, và sẽ sớm mang bệnh án trái tim rạn vỡ đến hết đời. Mỗi chúng ta hoàn toàn có thể lan tỏa lòng nhân ái bằng những việc làm rất nhỏ hằng ngày. Đó có thể chỉ là một cử chỉ ân cần, sự quan tâm đối với những mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, chúng ta đang góp sức mình để làm cho xã hội tốt đẹp hơn. “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”. Hãy để gió thổi đi lòng nhân ái xuất phát từ trái tim, và bạn sẽ thấy cuộc sống này chẳng còn khổ đau hay oán hận gì nữa. Từ xưa đến nay tình yêu thương giữa người với người luôn là truyền thống mà mỗi chúng ta cần phải phát huy. Đó là một trong những tình cảm tốt đẹp, gắn két những trái tim lại với nhau, giúp cho xã hội ngày càng vững mạnh hơn. Nói cách khác những tình cảm mà chúng ta trao đi cho nhau đó chính là lòng nhân ái. Lòng nhân ái là gì? Chúng ta có thể cắt nghĩa từng từ để hiểu được ý nghĩa của nó. Nhân chính là người. Ái là yêu thương. Nhân ái chính là tình yêu thương giữa người với người. Đó là cách mà chúng ta trao đi yêu thương đối với người khác. Tình cảm đó xuất phát từ trái tim mỗi người, không ép buộc, không cưỡng cầu, không đòi hỏi phải nhận lại những gì. Bởi rằng đối với nhiều người thì khi trao đi yêu thương họ thấy bản than được thanh thản và yên lòng. Lòng nhân ái không phải là những điều gì quá xa xôi. Nó tồn tại ngay trong chính cuộc sống của mỗi người. Từng biểu hiện của chúng ta dành cho nhau, cử chỉ, lời nói, hành động hay chỉ là cảm xúc dành cho nhau. Dù nó giản dị nhưng cũng đã khiến cho trái tim nhau trở nên ấm áp hơn bao nhiêu. Mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội chính là một cá thể tạo nên sự thống nhất cũng chính là một móc xích kết nối với nhau để tạo nên một chỉnh thể. Không ai là sống tách biệt ra khỏi xã hội. Mỗi người cần phải có trách nhiệm và thái độ sống tích cực để cùng xây dựng và phát triển xã hội này. Tục ngữ vẫn có câu “Lá lành đùm lá rách” hay “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Tình yêu thương giữa con người với con người là điều cần thiêt để có thể giúp đỡ, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với nhau. Đất nước ta đã phải trải qua bao nhiêu biến cố, mất mát và đau thương. Để có được sự thái bình, thịnh vượng như hôm nay chẳng phải cần rất nhiều tấm lòng nhân ái, cần rất nhiều sự sẻ chia cũng như yêu thương nhau hay sao. Sức mạnh để chiến thắng kẻ thù đôi khi không phải là sức mạnh của vũ khí, mà là sức mạnh của đoàn kết, tương than tương ái không khất phục trước kẻ thù. Hằng năm trên mảnh đất miền Trung phải hứng chịu biết bao nhiêu trận bão lũ. Nhân dân miền trung phải gồng mình hứng chịu những mất mát, đau thương đó. Không ai hiểu, chỉ mình họ mới biết được nỗi đau mà mình phải trải qua. Để đồng hành với những nỗi đau đó cũng như nhằm gánh vác những thương tổn mà thiên nhiên gây ra, nhiều tổ chức và quỹ từ thiện đã tiếp tế lương thực cũng như động viên tinh thần để họ sớm ổn định lại cuộc sống. Xung quanh chúng ta còn rất nhiều mảnh đời bất hạnh, nghèo khó. Họ cần sự san sẻ, giúp đỡ bằng hành động chứ không phải bằng lời nói. Lòng nhân ái của chúng ta sẽ giúp đỡ được rất nhiều người, rất nhiều mảnh đởi ở ngoài kia. Dù chỉ là những hành động hết sức nhỏ bé nhưng đó là niềm đọng viên và an ủi lớn đối với họ. Tuy nhiên trong xã hôi vẫn còn tồn tại những người chỉ biết sống chi riêng mình, không biết giúp đỡ nhiều người xung quanh. Làm việc gì cũng chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình.
Hướng dẫn Bài tập làm văn nghị luận tư tưởng đạo lí về lòng nhân ái bao gồm dàn ý nghị luận về lòng nhân ái và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh làm tốt bài văn nghị luận tư tưởng đạo lí về lòng nhân ái. Giới thiêu vấn đề cần nghị luận: lòng nhân ái, tình yêu thương con người Giải thích: nhân ái nghĩa là tình yêu thương giữa người với người Một số biểu hiện của lòng nhân ái: Ý nghĩa của lòng nhân ái: Phê phán: những người không có lòng nhân ái Mỗi cá nhân cần thể hiện lòng nhân ái bằng cách giúp đỡ những người xung quanh Khẳng định lại vấn đề và liên hệ bản thân “Có gì đẹp trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau” Hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu như muốn nhắc nhở chúng ta rằng: cần có lòng yêu thương để cuộc sống này tốt đẹp hơn. Lòng nhân ái, yêu thương lẫn nhau là một tình cảm tốt đẹp, một truyền thống ngàn đời của dân tộc ta từ xưa đến nay. Lòng nhân ái không phải cái gì cao xa, trìu tượng hay khó hiểu mà chính là cách chúng ta đối xử với nhau hằng ngày. Trước tiên, chúng ta cần hiểu: nhân ái là gì? Nhân nghĩa là người, còn ái nghĩa là yêu. Nhân ái chính là tình yêu thương giữa người với người. Lòng nhân ái có thể chỉ biểu hiện qua một lời nói ấm áp dành cho nhau, một cái ôm thật chặt khi yếu đuối, một cử chỉ cao đẹp lúc cuộc sống lâm vào khó khăn. Tình cảm ấy xuất phát từ trái tim chân thành của mỗi người, không cưỡng cầu, ép buộc. Bởi khi trao đi yêu thương, thứ chúng ta nhận được chính là tình yêu thương và sự thanh thản từ trong tâm hồn. Con Người là hai tiếng kì diệu được viết hoa. Chúng ta khác với động vật ở chỗ chúng ta không sinh tồn bằng bản năng, chúng ta có ý thức, có cảm xúc. Và điều khác biệt lớn nhất đó là chúng ta biết yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Lòng nhân ái có thể dễ dàng nhận ra trong cuộc sống hàng ngày. Trước hết, đó chính là những tình cảm gần gũi giữa những người thân thiết, ruột thịt với nhau: tình mẫu tử, tình anh em, tình bà cháu… Rộng hơn gia đình đó là xã hội. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu thương, đoàn kết, lá lành đùm lá rách. Những người khuyết tật, người nhiễm chất độc màu da cam vốn chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Thấu hiểu hoàn cảnh của họ, chúng ta đã lập ra những quỹ vì người khuyết tật, vì nạn nhân chất độc màu da cam nhằm giúp cuộc sống của họ phần nào bớt khó khăn. “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Cứ mỗi mùa mưa bão, khi nghe tin nhân dân miền Trung đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, lòng mỗi người con Việt Nam lại quặn thắt xót xa. Và khi ấy, tình đồng bào lại mạnh mẽ, thắm thiết hơn bao giờ hết. Mỗi người, không phân biệt giàu sang, nghèo hèn đều góp chút của cải, công sức để giúp miền Trung vượt qua khó khăn. Bác Hồ- vị Cha già của chúng ta là người có tấm lòng nhân ái vĩ đại. Bác đã hi sinh cả cuộc đời, hạnh phúc cá nhân vì sự độc lập của dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Hay mẹ Teresa- một nhân vật nổi tiếng toàn cầu với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong cảnh tuyệt vọng. Sự cống hiến lớn lao và không mệt mỏi của bà đã thay đổi cuộc đời nhiều người và giúp họ có niềm tin vào cuộc sống. Trong bức thư Einstein gửi con gái, ông cho rằng tình yêu là thứ lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất. Quả thật như vậy, tình yêu thương, lòng nhân ái là sợi dây gắn kết trái tim con người, giúp ta cảm nhận được sụ ấm áp, quan tâm sẻ chia. Được che chở bởi lòng nhân ái, ta có thể đối mặt và vượt qua những thử thách khắc nghiệt nhất của cuộc sống. Lòng nhân ái cũng là yếu tố cốt lõi để tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, một xã hội phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lên án, phê phán nghiêm khắc những người sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình yêu thương ngay với chính đồng loại mình. Họ là những con robot lạnh lùng, và sẽ sớm mang bệnh án trái tim rạn vỡ đến hết đời. Mỗi chúng ta hoàn toàn có thể lan tỏa lòng nhân ái bằng những việc làm rất nhỏ hằng ngày. Đó có thể chỉ là một cử chỉ ân cần, sự quan tâm đối với những mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, chúng ta đang góp sức mình để làm cho xã hội tốt đẹp hơn. “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”. Hãy để gió thổi đi lòng nhân ái xuất phát từ trái tim, và bạn sẽ thấy cuộc sống này chẳng còn khổ đau hay oán hận gì nữa. Từ xưa đến nay tình yêu thương giữa người với người luôn là truyền thống mà mỗi chúng ta cần phải phát huy. Đó là một trong những tình cảm tốt đẹp, gắn két những trái tim lại với nhau, giúp cho xã hội ngày càng vững mạnh hơn. Nói cách khác những tình cảm mà chúng ta trao đi cho nhau đó chính là lòng nhân ái. Lòng nhân ái là gì? Chúng ta có thể cắt nghĩa từng từ để hiểu được ý nghĩa của nó. Nhân chính là người. Ái là yêu thương. Nhân ái chính là tình yêu thương giữa người với người. Đó là cách mà chúng ta trao đi yêu thương đối với người khác. Tình cảm đó xuất phát từ trái tim mỗi người, không ép buộc, không cưỡng cầu, không đòi hỏi phải nhận lại những gì. Bởi rằng đối với nhiều người thì khi trao đi yêu thương họ thấy bản than được thanh thản và yên lòng. Lòng nhân ái không phải là những điều gì quá xa xôi. Nó tồn tại ngay trong chính cuộc sống của mỗi người. Từng biểu hiện của chúng ta dành cho nhau, cử chỉ, lời nói, hành động hay chỉ là cảm xúc dành cho nhau. Dù nó giản dị nhưng cũng đã khiến cho trái tim nhau trở nên ấm áp hơn bao nhiêu. Mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội chính là một cá thể tạo nên sự thống nhất cũng chính là một móc xích kết nối với nhau để tạo nên một chỉnh thể. Không ai là sống tách biệt ra khỏi xã hội. Mỗi người cần phải có trách nhiệm và thái độ sống tích cực để cùng xây dựng và phát triển xã hội này. Tục ngữ vẫn có câu “Lá lành đùm lá rách” hay “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Tình yêu thương giữa con người với con người là điều cần thiêt để có thể giúp đỡ, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với nhau. Đất nước ta đã phải trải qua bao nhiêu biến cố, mất mát và đau thương. Để có được sự thái bình, thịnh vượng như hôm nay chẳng phải cần rất nhiều tấm lòng nhân ái, cần rất nhiều sự sẻ chia cũng như yêu thương nhau hay sao. Sức mạnh để chiến thắng kẻ thù đôi khi không phải là sức mạnh của vũ khí, mà là sức mạnh của đoàn kết, tương than tương ái không khất phục trước kẻ thù. Hằng năm trên mảnh đất miền Trung phải hứng chịu biết bao nhiêu trận bão lũ. Nhân dân miền trung phải gồng mình hứng chịu những mất mát, đau thương đó. Không ai hiểu, chỉ mình họ mới biết được nỗi đau mà mình phải trải qua. Để đồng hành với những nỗi đau đó cũng như nhằm gánh vác những thương tổn mà thiên nhiên gây ra, nhiều tổ chức và quỹ từ thiện đã tiếp tế lương thực cũng như động viên tinh thần để họ sớm ổn định lại cuộc sống. Xung quanh chúng ta còn rất nhiều mảnh đời bất hạnh, nghèo khó. Họ cần sự san sẻ, giúp đỡ bằng hành động chứ không phải bằng lời nói. Lòng nhân ái của chúng ta sẽ giúp đỡ được rất nhiều người, rất nhiều mảnh đởi ở ngoài kia. Dù chỉ là những hành động hết sức nhỏ bé nhưng đó là niềm đọng viên và an ủi lớn đối với họ. Tuy nhiên trong xã hôi vẫn còn tồn tại những người chỉ biết sống chi riêng mình, không biết giúp đỡ nhiều người xung quanh. Làm việc gì cũng chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình.
Hướng dẫn Một cuộc đối thoại về con trâu. Văn 9 Đề bài: Một cuộc đối thoại về con trâu. Bài làm Trời thu mát mẻ đang đần trải khắp làng quê Việt Nam. Chiều tà, ông mặt trời đang khoan thai hưởng thụ chút gió, chút nắng cuối cùng của một ngày. Gió hiu hiu thổi làm cách đồng lúa nhẹ nhàng dập dềnh như sóng biển vỗ bờ: không ào ạt mà mềm mại, dịu dàng. Trên cánh đồng, một nhóm bạn đang ngồi bàn luận rất sôi nổi: nào là bạn Ngô, Khoai, Sắn và cả bạn Lúa nữa. Các bạn đang tranh luận xem điều gì trực tiếp giúp đỡ các bác nông dân trên cánh đồng để có được những mùa bội thu như bây giờ đấy. Ngô mở đầu: – Theo tớ nghĩ, để có được những vụ mùa tốt tươi, con người phải có được loại hạt giống tốt. Chắc chắn hạt giống là quan trọng nhất. Ngô đang chắc chắn như đinh đóng cột thì Khoai phản đối ngay: – Ngô ơi, cậu quên mất rằng phải có đất thì mới gieo trồng được chứ. Đất mới là đúng nhất. – Nhưng các cậu không nhớ câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” à? Cánh đồng nào mà chả cần nước để sinh sống? Không là chết khô hết đấy! – Sắn không đồng tình với hai bạn. Ba bạn tiếp tục tranh cãi gay gắt, chỉ riêng Lúa nãy giờ vẫn suy nghĩ. – Kìa Lúa, ý kiến cậu thế nào? Đất là quan trọng nhất đúng không? – Khoai thúc giục Lúa, mong Lúa sẽ theo ý kiến của mình. Lúa nghĩ ngợi thêm một chút rồi lên tiếng, giọng phân vân: – ừm… Các cậu đều nói đúng cả. Đất, nước và hạt giống đều rất quan trọng nhưng đó đều là những yếu tố tự nhiên, được trời đất ban cho. Nhưng điều trực tiếp giúp đỡ con người trên đồng ruộng là gì nhỉ?… Sự chăm chỉ chăng?… Cũng không phải… A! Tớ nghĩ ra rồi! Cả ba bạn cùng chăm chú lắng nghe Lúa nói. Chắc hẳn, đây chính là một điều gì cao quý lắm đây. – Đó chính là Trâu – Lúa mỉm cười nói tiếp. – Hả! Là bác Trâu ấy à! – bất giác, cả ba bạn cùng đồng thanh rồi phá lên cười. Nhưng bị bạn bè chê cười không làm cho Lúa thay đổi ý kiến. Lúa tự tin bảo vệ ý kiến của mình: – Đúng thế, là bác Trâu. Các cậu không biết đấy thôi chứ bác Trâu đã gắn bó với con người lâu lắm rồi. Từ thuở khai thiên lập địa, con người không thể tự san bằng đất được nên đã cầu cứu đến các con vật. Thế nhưng chỉ duy nhất có trâu là đồng ý giúp đỡ con người. Từ đó trở đi, trâu và người trở thành đôi bạn thân thiết của cánh đồng Việt Nam đấy. Ngô vẫn lắc đầu: – Cậu nói thế nào ấy chứ. Làm sao mà con trâu đen đen, người thì to đùng, cục mịch, chân thì ngắn cũn lại giúp đỡ nhiều cho bác nông dân được? Mà riêng miệng trâu nhé, lúc nào tớ cũng thấy nhai nhóp nhép mấy miếng cỏ non từ hôm trước ấy. Ghê lắm! – Ngô lấy tay che miệng, thì thầm cho chúng bạn nghe. – Thật á? Sao bác Trâu lại phải ăn uống khổ sở thế? – Sắn ngạc nhiên hỏi. Lúa cười phá lên rồi hân hoan nói: – Đấy là do các cậu không biết thôi. Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng, được con người thuần hoá. Loài trâu là thuộc họ Bò, bộ Guốc chẵn, nhóm Sừng rỗng và đặc biệt là thuộc phân bộ Nhai lại. Thế nên, bác Trâu nhai đi nhai lại cỏ non là một đặc điểm riêng trâu có chứ không xấu đâu nhé! Nghe Lúa nói, Ngô, Khoai và sắn vẫn chưa tin lắm, càng nghe càng thấy tò mò về bác Trâu. Khoai thắc mắc: – Thế còn cậu bảo trâu giúp ích cho con người nông dân là giúp ích thế nào? Không lẽ chỉ vì chuyện từ hồi xưa thế thôi à? – Ừ, đúng đấy, cậu nói đi xem nào! – các bạn còn lại đồng thanh nói. – Đây nhé! – Lúa bắt đầu giải thích – Vì mỗi bác trâu đều nặng từ khoảng 200 đến 400 kg nên các bác rất khoẻ mạnh, việc gì khó nhọc, các bác đều giúp đỡ người nông dân hết. Từ sáng sớm tinh mơ, bác trâu đi trước, chăm chỉ, cần mẫn kéo chiếc cày, theo sau là bác nông dân. Thế mà mỗi ngày trâu phải kéo cày được 1,5 đến 4 sào cơ đấy. Mà chưa hết, trâu còn kéo xe chở hàng hoá giúp con người. Hay thịt trâu, sữa trâu đều cung cấp chất dinh dưỡng; phân trâu thì để bón ruộng, Tất có lợi cho cây trồng. Mà hằng ngày, các cậu đều nghe thấy tiếng trống trường làng ta vang lên, nhắc nhở các bạn học sinh vào lớp thì chính mặt trống ấy được làm bằng da trâu, trông vừa đẹp lại rất bền. Thế nhưng, một khi nhà ai đó có trâu thì yêu quý trâu nhiều lắm, không muốn xẻ thịt nó đâu. Trâu là bạn của con người mà! Ngồi nghe chăm chú, tới lúc này, cả ba bạn đều gật gật đồng ý với Lúa. Khoai vui vẻ nói: – Ừ, đúng đấy nhỉ. Công nhận là trâu thật sự rất quan trọng với làng quê Việt Nam. Mà hôm nào tớ cũng thấy các bạn nhỏ dắt trâu ra đồng ăn cỏ. Các bạn không chỉ ngồi nhìn trâu ăn cỏ mà còn cưỡi lên lưng, ngồi đó đọc sách, thả diều hay thổi sáo. Không chỉ có vậy mà các bạn còn chơi đùa với trâu vui vẻ lắm nhé! – Dĩ nhiên rồi! Các bạn nhỏ đều gắn bó với trâu từ thuở nhỏ đến khi trưởng thành cơ mà. Trâu gắn liền với tuổi thơ của không chỉ các bạn nhỏ mà còn của các cụ sinh ra và lớn lên ở làng quê đấy nhé – Ngô đồng tình. – Các cháu đúng là giỏi quá! – Bác cổ Thụ ở gần đó lên tiếng. – A! Bác Cổ Thụ! Chúng cháu chào bác ạ! – Cả bốn bạn cùng đồng thanh chào bác. – Chào các cháu – bác cổ Thụ ôn tồn nói tiếp – Nãy giờ, bác đã nghe hết câu chuyện và rất đồng ý với các cháu. Quả thật, hình ảnh những chú trâu giản dị, vạm vỡ đang thung thăng gặm cỏ non trên cánh đồng mênh mông, xanh mượt; trên lưng chở một chú bé ba chòm tóc đang ngồi thổi sáo diều vi vu, trong trẻo,… trông mới đẹp làm sao! – Còn nữa bác ạ, con trâu còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Ở Đồ Sơn ấy bác, năm nào người ta cũng tổ chức một hội hội trâu tưng bừng, náo nhiệt lắm. Cờ hoa tung bay phấp phới. Những chú trâu được chọn để thi đấu khi bước ra thì bệ vệ, trông quyết tâm lắm. Rồi khi đã vào cuộc đấu, hai chú trâu bao giờ cũng chọi nhau cho tới khi phân biệt thắng bại rõ ràng thì thôi. Cuộc chiến đấu gay go, kịch tính lắm bác ạ — sắn nói trong niềm phấn khởi – Mà chẳng phải đi đâu xa, ở làng mình ấy, hôm nào có lễ hội gì, các bác nông dân đều dẫn trâu ra đình, mặc cho trâu những tấm áo màu vàng, đỏ rất trang trọng. Trâu chính là niềm tự hào của người nông dân đấy mà! – Chưa hết đâu – Lúa tiếp lời – Hình ảnh con trâu còn có trong cả thơ ca, lời hát đấy nhé. Mà các cậu có nhớ, trong đợt SEA GAME 22 tổ chức ở Việt Nam, con trâu vàng được chọn làm biểu tượng chính thức đấy nhé – Mắt Lúa ánh lên vẻ tự hào về Việt Nam mình. Bác Cổ Thụ khen: – Các cháu đều nói đúng cả! Con trâu chính là biểu tượng của cánh đồng, của làng quê và đặc biệt, trâu tượng trưng cho con người Việt Nam: chăm chỉ, cần cù, kiên trì và dũng cảm; không bao giờ lùi bước. Những chú trâu mang đến cho chúng ta một cảm giác quen thuộc và ấm áp. Con người, dù là đi đến nước nào trên thế giới, khi quay lại chỉ cần nhìn thấy con trâu trên cánh đồng là biết ngay mình đã về quê nhà. Năm bác cháu tiếp tục ngồi trò chuyện. Ở đằng xa, mặt trời đã xuống núi. Những tia nắng cuối cùng cũng khuất dần. Phía cuối con đường, bác nông dân đang dắt trâu về sau một ngày làm việc vất vả. Hình ảnh ấy mới đẹp làm sao! Con trâu của làng quê Việt Nam là một nét đẹp truyền thống cao quý mà không gì có thể thay đổi được! Trần Hà Giang (Trường THCS Trưng Vương)
Hướng dẫn Một cuộc đối thoại về con trâu. Văn 9 Đề bài: Một cuộc đối thoại về con trâu. Bài làm Trời thu mát mẻ đang đần trải khắp làng quê Việt Nam. Chiều tà, ông mặt trời đang khoan thai hưởng thụ chút gió, chút nắng cuối cùng của một ngày. Gió hiu hiu thổi làm cách đồng lúa nhẹ nhàng dập dềnh như sóng biển vỗ bờ: không ào ạt mà mềm mại, dịu dàng. Trên cánh đồng, một nhóm bạn đang ngồi bàn luận rất sôi nổi: nào là bạn Ngô, Khoai, Sắn và cả bạn Lúa nữa. Các bạn đang tranh luận xem điều gì trực tiếp giúp đỡ các bác nông dân trên cánh đồng để có được những mùa bội thu như bây giờ đấy. Ngô mở đầu: – Theo tớ nghĩ, để có được những vụ mùa tốt tươi, con người phải có được loại hạt giống tốt. Chắc chắn hạt giống là quan trọng nhất. Ngô đang chắc chắn như đinh đóng cột thì Khoai phản đối ngay: – Ngô ơi, cậu quên mất rằng phải có đất thì mới gieo trồng được chứ. Đất mới là đúng nhất. – Nhưng các cậu không nhớ câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” à? Cánh đồng nào mà chả cần nước để sinh sống? Không là chết khô hết đấy! – Sắn không đồng tình với hai bạn. Ba bạn tiếp tục tranh cãi gay gắt, chỉ riêng Lúa nãy giờ vẫn suy nghĩ. – Kìa Lúa, ý kiến cậu thế nào? Đất là quan trọng nhất đúng không? – Khoai thúc giục Lúa, mong Lúa sẽ theo ý kiến của mình. Lúa nghĩ ngợi thêm một chút rồi lên tiếng, giọng phân vân: – ừm… Các cậu đều nói đúng cả. Đất, nước và hạt giống đều rất quan trọng nhưng đó đều là những yếu tố tự nhiên, được trời đất ban cho. Nhưng điều trực tiếp giúp đỡ con người trên đồng ruộng là gì nhỉ?… Sự chăm chỉ chăng?… Cũng không phải… A! Tớ nghĩ ra rồi! Cả ba bạn cùng chăm chú lắng nghe Lúa nói. Chắc hẳn, đây chính là một điều gì cao quý lắm đây. – Đó chính là Trâu – Lúa mỉm cười nói tiếp. – Hả! Là bác Trâu ấy à! – bất giác, cả ba bạn cùng đồng thanh rồi phá lên cười. Nhưng bị bạn bè chê cười không làm cho Lúa thay đổi ý kiến. Lúa tự tin bảo vệ ý kiến của mình: – Đúng thế, là bác Trâu. Các cậu không biết đấy thôi chứ bác Trâu đã gắn bó với con người lâu lắm rồi. Từ thuở khai thiên lập địa, con người không thể tự san bằng đất được nên đã cầu cứu đến các con vật. Thế nhưng chỉ duy nhất có trâu là đồng ý giúp đỡ con người. Từ đó trở đi, trâu và người trở thành đôi bạn thân thiết của cánh đồng Việt Nam đấy. Ngô vẫn lắc đầu: – Cậu nói thế nào ấy chứ. Làm sao mà con trâu đen đen, người thì to đùng, cục mịch, chân thì ngắn cũn lại giúp đỡ nhiều cho bác nông dân được? Mà riêng miệng trâu nhé, lúc nào tớ cũng thấy nhai nhóp nhép mấy miếng cỏ non từ hôm trước ấy. Ghê lắm! – Ngô lấy tay che miệng, thì thầm cho chúng bạn nghe. – Thật á? Sao bác Trâu lại phải ăn uống khổ sở thế? – Sắn ngạc nhiên hỏi. Lúa cười phá lên rồi hân hoan nói: – Đấy là do các cậu không biết thôi. Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng, được con người thuần hoá. Loài trâu là thuộc họ Bò, bộ Guốc chẵn, nhóm Sừng rỗng và đặc biệt là thuộc phân bộ Nhai lại. Thế nên, bác Trâu nhai đi nhai lại cỏ non là một đặc điểm riêng trâu có chứ không xấu đâu nhé! Nghe Lúa nói, Ngô, Khoai và sắn vẫn chưa tin lắm, càng nghe càng thấy tò mò về bác Trâu. Khoai thắc mắc: – Thế còn cậu bảo trâu giúp ích cho con người nông dân là giúp ích thế nào? Không lẽ chỉ vì chuyện từ hồi xưa thế thôi à? – Ừ, đúng đấy, cậu nói đi xem nào! – các bạn còn lại đồng thanh nói. – Đây nhé! – Lúa bắt đầu giải thích – Vì mỗi bác trâu đều nặng từ khoảng 200 đến 400 kg nên các bác rất khoẻ mạnh, việc gì khó nhọc, các bác đều giúp đỡ người nông dân hết. Từ sáng sớm tinh mơ, bác trâu đi trước, chăm chỉ, cần mẫn kéo chiếc cày, theo sau là bác nông dân. Thế mà mỗi ngày trâu phải kéo cày được 1,5 đến 4 sào cơ đấy. Mà chưa hết, trâu còn kéo xe chở hàng hoá giúp con người. Hay thịt trâu, sữa trâu đều cung cấp chất dinh dưỡng; phân trâu thì để bón ruộng, Tất có lợi cho cây trồng. Mà hằng ngày, các cậu đều nghe thấy tiếng trống trường làng ta vang lên, nhắc nhở các bạn học sinh vào lớp thì chính mặt trống ấy được làm bằng da trâu, trông vừa đẹp lại rất bền. Thế nhưng, một khi nhà ai đó có trâu thì yêu quý trâu nhiều lắm, không muốn xẻ thịt nó đâu. Trâu là bạn của con người mà! Ngồi nghe chăm chú, tới lúc này, cả ba bạn đều gật gật đồng ý với Lúa. Khoai vui vẻ nói: – Ừ, đúng đấy nhỉ. Công nhận là trâu thật sự rất quan trọng với làng quê Việt Nam. Mà hôm nào tớ cũng thấy các bạn nhỏ dắt trâu ra đồng ăn cỏ. Các bạn không chỉ ngồi nhìn trâu ăn cỏ mà còn cưỡi lên lưng, ngồi đó đọc sách, thả diều hay thổi sáo. Không chỉ có vậy mà các bạn còn chơi đùa với trâu vui vẻ lắm nhé! – Dĩ nhiên rồi! Các bạn nhỏ đều gắn bó với trâu từ thuở nhỏ đến khi trưởng thành cơ mà. Trâu gắn liền với tuổi thơ của không chỉ các bạn nhỏ mà còn của các cụ sinh ra và lớn lên ở làng quê đấy nhé – Ngô đồng tình. – Các cháu đúng là giỏi quá! – Bác cổ Thụ ở gần đó lên tiếng. – A! Bác Cổ Thụ! Chúng cháu chào bác ạ! – Cả bốn bạn cùng đồng thanh chào bác. – Chào các cháu – bác cổ Thụ ôn tồn nói tiếp – Nãy giờ, bác đã nghe hết câu chuyện và rất đồng ý với các cháu. Quả thật, hình ảnh những chú trâu giản dị, vạm vỡ đang thung thăng gặm cỏ non trên cánh đồng mênh mông, xanh mượt; trên lưng chở một chú bé ba chòm tóc đang ngồi thổi sáo diều vi vu, trong trẻo,… trông mới đẹp làm sao! – Còn nữa bác ạ, con trâu còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Ở Đồ Sơn ấy bác, năm nào người ta cũng tổ chức một hội hội trâu tưng bừng, náo nhiệt lắm. Cờ hoa tung bay phấp phới. Những chú trâu được chọn để thi đấu khi bước ra thì bệ vệ, trông quyết tâm lắm. Rồi khi đã vào cuộc đấu, hai chú trâu bao giờ cũng chọi nhau cho tới khi phân biệt thắng bại rõ ràng thì thôi. Cuộc chiến đấu gay go, kịch tính lắm bác ạ — sắn nói trong niềm phấn khởi – Mà chẳng phải đi đâu xa, ở làng mình ấy, hôm nào có lễ hội gì, các bác nông dân đều dẫn trâu ra đình, mặc cho trâu những tấm áo màu vàng, đỏ rất trang trọng. Trâu chính là niềm tự hào của người nông dân đấy mà! – Chưa hết đâu – Lúa tiếp lời – Hình ảnh con trâu còn có trong cả thơ ca, lời hát đấy nhé. Mà các cậu có nhớ, trong đợt SEA GAME 22 tổ chức ở Việt Nam, con trâu vàng được chọn làm biểu tượng chính thức đấy nhé – Mắt Lúa ánh lên vẻ tự hào về Việt Nam mình. Bác Cổ Thụ khen: – Các cháu đều nói đúng cả! Con trâu chính là biểu tượng của cánh đồng, của làng quê và đặc biệt, trâu tượng trưng cho con người Việt Nam: chăm chỉ, cần cù, kiên trì và dũng cảm; không bao giờ lùi bước. Những chú trâu mang đến cho chúng ta một cảm giác quen thuộc và ấm áp. Con người, dù là đi đến nước nào trên thế giới, khi quay lại chỉ cần nhìn thấy con trâu trên cánh đồng là biết ngay mình đã về quê nhà. Năm bác cháu tiếp tục ngồi trò chuyện. Ở đằng xa, mặt trời đã xuống núi. Những tia nắng cuối cùng cũng khuất dần. Phía cuối con đường, bác nông dân đang dắt trâu về sau một ngày làm việc vất vả. Hình ảnh ấy mới đẹp làm sao! Con trâu của làng quê Việt Nam là một nét đẹp truyền thống cao quý mà không gì có thể thay đổi được! Trần Hà Giang (Trường THCS Trưng Vương)
Hướng dẫn Giới thiệu con trâu đối thoại. Văn 9 Đề bài: Giới thiệu con trâu theo cách đối thoại. Bài làm Nắng hè rải nhẹ trên đồng cỏ xanh mướt. Gió lượn khẽ khàng làm rung rinh những ngọn cỏ non. Những ngọn tre cao vút cũng rì rào. – A! Chào bác trâu Vạn! Bác đang nghỉ trưa ạ? – Nghé ọ chào trâu Vạn. – Chào nghé con, bác vừa cày xong thửa ruộng mà! – Trâu Vạn dừng gặm cỏ, nhìn nghé ọ. – Bác ơi, sao họ nhà trâu chúng ta cứ phải làm việc vất vả cho con người như vậy? – Nghé có vẻ bức xúc. Trâu giải thích: – Chúng ta làm việc để trả ơn con người mà cháu. Chính họ đã thuần hoá trâu rừng Đông Nam Á – tổ tiên chúng ta thành trâu nhà ngày nay đấy. Nghé con gặm búi cỏ non, hếch mặt thắc mắc: – Hoá ra vậy. Không biết hình dáng của tổ tiên có giống chúng ta ngày nay không hả bác? Vừa gặm cỏ, trâu Vạn vừa giảng giải: – Bác chỉ biết rằng trâu rừng sống hoang dã to lớn và dữ tợn hơn trâu nhà. Nhưng nhìn chung, trâu rừng hay trâu nhà cũng có những điểm chung. Trâu lông ngắn màu đen hoặc xám, cũng có khi màu trắng gọi là trâu bạc. Bụng và đầu trâu to, mông dốc, bốn chân vững chãi. Trâu có cái trán gồ, đôi mắt hơi lồi, đen và rất sáng. Họ nhà trâu đặc biệt vì có đôi sừng dài và cong nhọn như lưỡi liềm ở trên đầu. Cặp sừng này khiến kẻ thù dù đáng sợ cũng phải gờm. Nghé con vẫn ngây thơ hỏi: – Bác bảo họ nhà trâu to thế sao cháu bé tí thế này. Mà bác sao cũng không to bằng bác trâu Mộng? – Đó là vì cháu mới chỉ là con nghé, là trâu con chưa trưởng thành. – Trâu Vạn tủm tỉm cười vì sự nôn nóng của nghé con, lại kiên nhẫn giảng giải – Lúc mới sinh, trâu chỉ nặng 25 đến 30 kg, khi trưởng thành nặng 400 đến 450 kg. Cân nặng còn tuỳ thuộc loài và giống; giống cái thường nhẹ cân hơn, như bác đây chỉ nặng 350 kg thôi. – Thế bao giờ cháu mới mọc sừng? Các anh chị của cháu ai cũng có sừng rồi – Nghé phụng phịu. – Mỗi trâu mẹ có khoảng năm hay sáu con, cháu chưa phải là con út đâu. Các anh chị của cháu đã trưởng thành nên mọc sừng, phải đi làm việc như trâu bố mẹ. Còn cháu mới là con nghé chưa mọc răng thì so sánh làm gì!. – Vâng, cháu nhớ rồi, bác bảo đến ba tuổi trâu mới mọc răng cửa giữa cố định, đến sáu tuổi thì có tám răng cửa giữa. Vậy là còn ba năm nữa cháu là trâu trưởng thành, bác nhỉ? – Cháu nhớ giỏi lắm! – Trâu Vạn khen nghé. Tất cả những gì bác dạy cháu đều nhớ, nhất là những kiến thức về họ trâu nhà mình. – Nghé con tự hào – Bác dạy cháu rằng: Trâu là loài động vật thuộc họ Bò, thuộc nhóm Sừng rỗng, bộ Móng guốc chẩn, lớp Động vật có vú. Và… – Nghé con cau mày nhớ bài cũ. Và vì có tới bốn ngăn dạ dày nên trấu thuộc phân bộ Nhai lại. Điều này thuận lợi cho chúng ta vì trâu làm việc vất vả nên cần có thức ăn dự trữ khi đói – Bác trâu cười, nhắc bài cho nghé con. – Như vậy trời sinh ra trâu là để làm việc nặng nhọc hả bác? Bác trâu Vạn tự hào, mắt sáng lên: – Ừ, có thể nói như vậy vì nhà nông nuôi chúng ta để lấy sức kéo cày, mà kéo căy là công việc rất nặng nhọc. Như bác đây là loại trâu khoẻ, có thể cày được từ ba đến bốn sào mộng mỗi ngày, còn có trâu chỉ cày được đến ba sào. Trâu còn giúp cho người nhiều việc như kéo xe, kéo gỗ,… Cái đáng quý nhất là họ nhà trâu ai cũng chăm chỉ, cần mẫn. – Chưa hết đâu ạ. Sữa trâu còn là nguồn dinh dưỡng tuyệt vời cho con người. Mỗi chu kì, trâu sữa cho từ 400 đến 500 kg sữa tươi. Sữa này làm nguyên liệu chế biến bánh kẹo – Nghé bổ sung. Trâu Vạn nói với nghé con: – Họ nhà trâu giúp người làm ra cây ngô, cây lúa nên người cũng yêu quý trâu hết lòng, người chăm sóc trâu rất chu đáo. Người nấu cháo gạo và cám chợ trâu ăn khi trâu làm việc nhiều. Trâu được người cho ăn cỏ non, rơm tươi. Mùa đông ít cỏ tươi thì cho ăn rơm, ăn cỏ khô, lá ngô,…; mùa hè cho trâu tắm mát dưới sông. Trâu là bạn của người nông dân. Từ tuổi thơ, trẻ con ở làng quê đã quen với việc chăn trâu, cắt cỏ. Chiều chiều, lũ trẻ cưỡi trâu, thổi sáo từ cánh đồng trở về là cảnh không thể quên khi nhớ về làng quê. Cảnh này đã đi vào thơ ca, chắc ai cũng nhớ câu thơ của vua Trần Nhân Tông “Mục đồng địch lí ngưu quy tận” (“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết”) tả cảnh buổi chiều trên cánh đồng. Trâu đi vào tranh dân gian, điêu khắc,… Tục ngữ có biết bao câu nói đến trâu: Con trâu là đầu cơ nghiệp, Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng,… Lòng trâu dịu đi sau những lúc vất vả lại nghe người hát: ‘Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Câỳ cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây, trâu đấy ai mà quản công. Bao giờ cây lúa cố bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.” Nghé con gật gù như người lớn nhưng vẫn cứ hỏi: – Bác ơi, người yêu trâu thế sao vẫn cứ làm thịt trâu để lấy thịt, lấy sừng, lấy da trâu? Rồi người còn tổ chức hội chọi trâu, lễ đâm trâu? Vừa nói xong, nghé con đã sụt sịt. Bác trâu Vạn an ủi: – Cháu còn nhỏ nên nhiều điều chưa hiểu cũng phải thôi. Da, thịt, sừng là những bộ phận của trâu mang đến lợi ích cho người, được người dùng làm thực phẩm, đồ mĩ nghệ hoặc đồ dùng. Còn hội chọi trâu, đâm trâu là những phong tục có ý nghĩa tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam nên rất có ý nghĩa, cả thế giới loài người đối xử với trâu bò như vậy mà. Cháu à, ở đời, sống chết là chuyện sớm muộn, cái chính là phải sống sao cho có ích, có tình, có nghĩa để khi chết đi vẫn là một cái chết có ích cho đời, không phụ công người đối với ta. “Trâu chết để da, người ta để tiếng” là như vậy. – Vâng, cháu hiểu rồi, cháu sẽ cần cù chăm chỉ như họ nhà trâu bao đời. Cao Khánh Linh (Trường THCS Trưng Vương)
Instruct Introducing the dialogue buffalo. Literature 9 Topic: Introduce the buffalo in a conversational way. Assignment Summer sunshine gently spreads on the green grassland. The wind gently sways the young blades of grass. The tall bamboo trees also whisper. – Ah! Hello Mr. Van! Are you on your lunch break? – The calves say hello to buffalo Van. – Hello baby, I just finished plowing the field! – Buffalo Van stopped grazing and looked at the calf. – Uncle, why do our buffalo family have to work so hard for humans? – He seems annoyed. Buffalo explains: – We work to repay humanity, child. It was they who domesticated the Southeast Asian wild buffalo - our ancestors - into today's domestic buffalo. The baby munched on a tuft of young grass, raising its face in wonder: – So it turns out. I wonder if our ancestors' appearance was similar to ours today? While grazing, Van buffalo explained: – I only know that wild buffaloes are bigger and fiercer than domestic buffaloes. But in general, wild buffalo and domestic buffalo also have things in common. Short-haired buffalo is black or gray, sometimes white, called silver buffalo. The buffalo's belly and head are large, the buttocks are sloping, and the four legs are sturdy. Buffaloes have a bulging forehead, slightly bulging eyes, black and very bright. The buffalo family is special because it has long, sharp curved horns like a sickle on its head. These horns make even scary enemies formidable. The baby still innocently asked: – You said the buffalo family is so big, why are you so small? But why isn't he as big as Mong the buffalo? – That's because you're just a calf, an immature buffalo. - Trau Van smiled at the calf's impatience, and patiently explained - At birth, the buffalo weighed only 25 to 30 kg, when mature it weighed 400 to 450 kg. Weight depends on species and breed; Females usually weigh less, like this guy only weighs 350 kg. – So when will I grow horns? All my brothers and sisters have horns - Nghe pouted. – Each mother buffalo has about five or six children, you are not the youngest child yet. My older brothers and sisters have grown up and have grown horns and have to go to work like their parents. As for me, I'm just a calf that hasn't even grown teeth yet, so what's the point of comparing? – Yes, I remember, you said that when buffaloes are three years old, they have permanent central incisors, and by the age of six, they have eight central incisors. So in three more years I will be an adult buffalo, right? – I remember very well! – Trau Van complimented him. I remember everything you taught me, especially the knowledge about our buffalo family. - Proud baby calf - Uncle taught me that: Buffalo is an animal that belongs to the Bovine family, belongs to the Hollow Horn group, the Diagnostic Hooves, the Mammal class. And… – The baby frowned, remembering the old lesson. And because there are four stomach compartments, rice husks belong to the Rumination suborder. This is convenient for us because buffaloes work hard so they need to have food in reserve when they are hungry - Uncle buffalo smiled and reminded the calf. – So buffaloes were born to do hard work, right? Uncle Van was proud, his eyes lit up: – Yes, it can be said that because farmers raise us to have the strength to pull plows, and plowing is very hard work. Like you, this type of buffalo is strong and can plow from three to four acres per day, while there are buffaloes that can only plow up to three acres. Buffaloes also help people with many tasks such as pulling carts, pulling wood, etc. The most precious thing is that everyone in the buffalo family is hard-working and diligent. – It's not over yet. Buffalo milk is also an excellent source of nutrition for humans. Each cycle, dairy buffaloes give from 400 to 500 kg of fresh milk. This milk is used as an ingredient for confectionery processing - Nghe supplement. Buffalo Van said to his calf: – The buffalo family helps people grow corn and rice, so people also love the buffalo wholeheartedly, and take care of the buffalo very thoughtfully. People cook rice porridge and bran at the buffalo market to eat when the buffalo work a lot. Buffaloes are fed young grass and fresh straw. In winter when there is little fresh grass, feed straw, dry grass, corn leaves, etc.; In the summer, let the buffalo cool off in the river. Buffalo is the farmer's friend. From childhood, children in villages are used to herding buffalo and cutting grass. In the afternoon, children riding buffaloes and playing flutes returning from the fields is an unforgettable scene when thinking about the village. This scene has gone into poetry, everyone probably remembers the poem of King Tran Nhan Tong "The shepherd's enemy will return to the buffalo" ("The shepherd's flute and the buffalo have all returned") describing the afternoon scene in the fields. Buffaloes appear in folk paintings, sculptures, etc. There are many proverbs that refer to buffaloes: The buffalo is the head of the inheritance, The deep fields of the sow are not as good as the first daughter, etc. The buffalo's heart softens after hard times. listen to the singer: 'O buffalo, I say to this buffalo, The buffalo went out into the buffalo fields to plow with me. Plowing is the capital of farmers, I'm here, there's no one in charge of the work. When will the rice plant bloom? There is still a blade of grass in the field for the buffalo to eat.” The baby nodded like an adult but still asked: – Uncle, people who love buffaloes so much, why do they still kill buffaloes for meat, horns, and buffalo skin? Then people also organize buffalo fighting festivals and buffalo stabbing ceremonies? As soon as he finished speaking, the baby started to sniffle. Uncle Van consoled: – I'm still young, so it's okay that there are many things I don't understand. Skin, meat, and horns are parts of the buffalo that bring benefits to humans, and are used as food, handicrafts, or utensils. Buffalo fighting and buffalo stabbing festivals are customs that have spiritual and cultural significance of the Vietnamese people, so they are very meaningful. The whole human world treats buffaloes and cows like that. My dear, in life, life and death are a matter of sooner or later. The main thing is to live in a way that is useful, loving, and meaningful so that when we die, it will still be a useful death for the world, without being a waste to others. "The buffalo dies and leaves its skin, but people leave its reputation" is like that. – Yes, I understand, I will be diligent and diligent like the buffalo family for generations. Cao Khanh Linh (Trung Vuong Secondary School)
Hướng dẫn Thuyết minh về con trâu. Văn 9 Đề bài: Con trâu tự kể. Bài làm “Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra đồng ruộng trâu cày với ta”. Không biết tự bao giờ, người nông dân đã gọi chúng tôi một cách tha thiết và thân mật đến như vậy. Cũng không biết tự bao giờ, chúng tôi đã gắn liền với người nông dân, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay của làng quê Việt Nam. Là một con vật cần cù, chịu khó, chúng tôi được con người yêu quý, trân trọng. Giống như các loài trâu trên thế giới, chúng tôi thuộc họ Bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp Thú có vú. Tổ tiên của chúng tôi là những bác trâu rừng thuộc lớp trâu đầm lầy đã được thuần hoá. Giống như tổ tiên, chúng tôi có thân hình to lớn, vạm vỡ. Bốn cái chân của chúng tôi chắc như bốn cái cột nhà nhỏ. Vai u lên những bắp thịt thể hiện sức kéo vô địch. Lông chúng tôi có màu xám hoặc xám đen, bóng mượt và cũng có khi là màu trắng. Thấp thoáng sau lớp lông ấy là bộ da căng bóng. Phía sau, cái đuôi chúng tôi luôn ngoe nguẩy theo nhịp bước. Trên đầu, hai chiếc sừng rỗng cong như hình trăng lưỡi liềm, có những đốt như đốt mía. Bật mí cho các bạn biết, nhờ vào cặp sừng ấy mà các bác nông dân phân biệt được trâu dữ hay trâu lành. Đặc biệt hơn cả là chúng tôi chỉ có mỗi hàm trên mà không có hàm dưới. Tôi nghe truyện Trí khôn của ta đây nói sở dĩ như vậy vì tổ tiên tôi cười đập răng vào đá nên gãy hết hàm dưới. Chúng tôi “Làm hùng hục như trâu húc mả” nhưng ăn uống lại rất đơn giản, không đòi hỏi cao lương mĩ vị mà chỉ có rơm và cỏ, thậm chí lại còn nhai lại nữa. Vì yêu thương những người nông dân nên chúng tôi tiết kiệm đấy. Chúng tôi là tài sản lớn của những người nông dân. “Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”, mua được chúng tôi là một trong ba việc trọng đại nhất trong cuộc đời người nông dân. Vào những ngày tháng ba hay tháng tám nông nhàn, khi những bông lúa lên cao xanh mướt, chúng tôi được nghỉ ngơi đôi chút, suốt ngày thung thăng gặm cỏ rồi nằm dài nghếch đầu lắng nghe tiếng sáo diều du dương của lũ trẻ mục đồng. Đây là thời gian nhàn nhã nhất của chúng tôi trong năm. Nhưng sung sướng hơn cả là chúng tôi được chia sẻ sự khó khăn vất vả với những người nông dân một nắng hai sương “Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Vâng, không quản cái nắng như thiêu như đốt, không quản trời rét căm căm như cắt da cắt thịt, không quản mưa to gió lớn, chúng tôi luôn đồng hành cùng người nông dân trên cánh đồng làng. Chúng tôi cần cù, chậm rãi theo sự chỉ huy “vắt, diệc” của bác nông dân. Chúng tôi cứ nhẫn nại ngày này sang ngày khác, cày hết thửa ruộng này đến thửa ruộng khác. Chúng tôi làm đất tơi xốp màu mỡ để hạt lúa đâm mầm nảy lộc thành những hạt gạo – hạt ngọc. Vào những ngày mùa, lúa chín vàng cả cánh đồng, chúng tôi lại kéo xe, chở những lượm lúa trĩu hạt từ đồng vể nhà, Dường như cảm nhận được sự chịu thương chịu khó của chúng tôi, bác nông dân vừa âu yếm xoa lưng tôi vừa thủ thỉ: “Cấy cày vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy ai mà quản công. Bao giờ cầy lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”. Không chỉ biết kéo cày, thịt chúng tôi còn là nguồn thực phẩm rất tốt cho mọi người, da có thể làm mặt trống, sừng làm đồ trang trí,… Trâu chúng tôi xem ra có rất nhiều lợi ích, chả thế mà được con người nâng niu, trìu mến. Từ bao đời nay chúng tôi đã là báu vật của người nông dân. Ngày nay, cho dù có máy móc hiện đại nhưng vị trí của chúng tôi vẫn không hề bị suy suyển trong trái tim người Việt Nam. Hoàng Thanh Hương (Trường THCS Lê Quý Đôn)
Instruct Explanation about the buffalo. Literature 9 Topic: The buffalo tells itself. Assignment “O buffalo, I say to this buffalo, Buffaloes go to the fields and plow with me." I don't know when the farmer called us so earnestly and intimately. We don't know when, but we have been closely associated with farmers, with the fields of Vietnamese countryside. As an industrious and hard-working animal, we are loved and respected by humans. Like other buffalo species in the world, we belong to the Bovine family, the Ruminant suborder, the Hollow Horn group, the Even-hoofed order, and the Mammal class. Our ancestors were wild buffaloes of the domesticated swamp buffalo class. Like our ancestors, we have large, muscular bodies. Our four legs are as strong as four pillars of a small house. The shoulders are bulging with muscles, showing unrivaled pulling power. Our fur is gray or dark gray, shiny and sometimes white. Looming behind that layer of fur is shiny skin. Behind us, our tails always wiggle to the rhythm of our steps. On the head, two hollow horns curve like a crescent moon, with segments like sugar cane segments. Let me tell you, thanks to those horns, farmers can distinguish between evil buffaloes and healthy buffaloes. What's more special is that we only have the upper jaw and no lower jaw. I heard the story of Our Wisdom say that this was because my ancestors laughed and hit their teeth on the rock, breaking their entire lower jaw. We "work hard like buffaloes ramming graves" but eating and drinking is very simple, not requiring delicacies but only straw and grass, and even chewing again. Because we love the farmers, we save money. We are a great asset to farmers. "Buy a buffalo, get married, build a house", buying them is one of the three most important things in a farmer's life. On the leisurely days of March or August, when the rice flowers were green and tall, we could rest a bit, munching grass all day long and then lying down with our heads tilted up to listen to the melodious sound of the kite flutes of the shepherd children. copper. This is our most leisurely time of the year. But the happiest thing is that we get to share the hardships with the farmers "On co shallow depth under contract Husband went plowing ox harrows bark". Yes, regardless of the scorching sun, regardless of the biting cold weather, regardless of the heavy rain and wind, we always accompany the farmers in the village fields. We diligently and slowly followed the farmer's "squeeze, heron" command. We patiently continued day after day, plowing one field after another. We make the soil loose and fertile so that the rice seeds sprout and grow into grains of rice - pearls. On harvest days, when the rice fields are ripe and golden, we pull carts and carry the laden rice baskets from the fields to home. As if sensing our pain and suffering, the farmer lovingly rubs us. My back just whispered: “Plowing is the capital of farmers I am a buffalo, who cares? As long as the rice crop still blooms, There is still a blade of grass in the field for the buffalo to eat." Not only can we pull plows, our meat is also a very good food source for everyone, our skin can be used to make drum faces, our horns can be used as decorations, etc. Our buffaloes seem to have many benefits, but we can't afford them. someone who cherishes and cherishes. For many generations we have been the treasure of farmers. Today, even with modern machinery, our position remains unaltered in the hearts of Vietnamese people. Hoang Thanh Huong (Le Quy Don Secondary School)
Hướng dẫn Thuyết minh về con chó. Văn 9 Đề bài: Thuyết minh về con chó. Bài làm Trong cuộc sống bộn bề những lo toan, khó khăn vất vả, một con vật nuôi sẽ là bạn tốt cho ta, giúp ta thư giãn, thoải mái hơn. Nếu như bạn đang băn khoăn không biết nuôi con vật nào thì một chú chó sẽ là người bạn trung thành và thân thiết. Còn nếu như bạn đang nuôi một chú chó và yêu thương nó hết mực thì bạn có chắc là mình đã hiểu rõ nó chưa? Thống kê trên thế giới cho thấy có rất nhiều loài chó và nguồn gốc của chúng là do cáo và chó sói tiến hoá mà thành. Có một số loài chó phổ biến như chó béc giê (phần lớn là ở Trung Quốc và Đức) có bộ lông vàng pha đen trên lưng, mõm cũng có màu sẫm, thường được cảnh sát huấn luyện để bắt giữ tội phạm, tìm ma tuý; một số loại chó được huấn luyện để dẫn đường cho người mù và phát hiện những người bị bệnh ung thư. Giống chó Chihuahua – loài chó nhỏ nhất – thường được các gia đình khá giả ưa chuộng. Giống chó Papilon hay còn gọi là chó bướm bởi đôi tai có hình dáng của đôi cánh bướm, rất thân thiện và thông minh. Giống chó Shih Tzu mà chúng ta vẫn quen gọi là chó Nhật thường được nuôi trong nhà làm cảnh. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau bốn mươi tuổi nó đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến ba mí: mí trên, mí dưới và mí thứ ba nằm giữa hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chó cực thính, chúng có thể nhận được ba mươi lăm ngàn âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm thấy cả những cây nấm con nằm rất sâu trong rừng, bởi lẽ, chúng có thể phân biệt gần hai trăm hai mươi triệu mùi. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động, sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng, vì thị giác của chúng rất kém. Ta có thể thấy, vào mùa đông, khi nằm thỉnh thoảng chó lại lấy đuôi che cái mũi ướt át. Đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến hai lớp lông. Lớp lông bên ngoài tuỳ vào những loại chó khác nhau mà có màu sắc khác nhau. Lớp lông bên trong như một cái máy điều hoà, giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét hoặc “hạ nhiệt” trong những ngày nóng bức. Khi nhiệt độ cao, chó thường lè lưỡi ra để thở. Đấy là một cách làm hạ nhiệt cơ thể. Các loài chó ngày nay hầu hết là do lai giữa các loại khác nhau. Giống chó mới thường mang thuộc tính của bố mẹ chúng. Như chúng ta đã biết, sau nhiều năm được con người thuần hoá, chó sói tiến hoá và trở thành chó nhà. Thói quen săn mồi theo bầy đàn của chó sói đã bị mất khi nó trở thành chó nhà. Nhưng, có một đặc tính chung cho cả chó sói lẫn chó nhà, đó là thói quen khoanh vùng sống bằng nước tiểu. Bất kể con chó nào từ vùng khác đến, nếu không to khoẻ, dũng mãnh hơn con chó đã khoanh “chủ quyền” bằng nước tiểu trước đây thì sẽ phải bỏ đi nơi khác, ngược lại, nếu dũng mãnh hơn thì ngay lập tức nó sẽ khoanh vùng bằng bãi nước tiểu của nó để đánh dấu. Chó được nhiều người yêu thích không chỉ do thân thiết, thông minh mà còn do tính trung thành. Chó là người bạn hoàn toàn không vụ lợi, không vô ơn, không bao giờ tráo trở. Nó luôn ở cạnh ta trong phú quý cũng như trong bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như khi đau ốm. Nó sẽ phủ phục trên nền đất lạnh trong mùa đông buốt giá, miễn sao được cận kề bên chủ, được bảo vệ chủ. Nó hôn tay ta dù ta không có gì cho nó. Nó sẵn sàng chống trả lại những kẻ dám động đến chủ nó. Nó canh giấc ngủ cho ta cho dù ta là một ông hoàng hay một gã ăn xin. Dù ta có tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì con chó vẫn trung thành với ta. Nếu chẳng may ta trở thành kẻ vô gia cư thì chắc chắn bạn đồng hành với ta trên con đường hoạn nạn sẽ là con chỏ. Và một khi thân xác ta đã nằm trong lòng đất lạnh thì khi ấy, khi mọi người đã quay về hết, chỉ còn lại con chó nằm gục mõm giữa hai chân trước trên nấm mồ của ta, đồi mắt ướt buồn như muốn cùng ta nằm trong ngôi mộ lạnh lẽo này. Theo một nhà dân tộc học, tục thờ chó khá phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ban đầu tục này xuất phát từ các dân tộc chăn nuôi gia súc khu vực Tây Nam Á với vai trò canh giữ đàn gia súc. Sau đó, có thể người Ân – Âu đã mang vào Đông Á những tập tính chăn nuôi cùng tín ngưỡng thờ chó. Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó – kẻ canh giữ gia súc – đã sớm chuyển thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ. Trong thế giới tâm linh của một số dân tộc, những đức tính của chó được tôn vinh. Chó không chỉ là loại vật nuôi trung thành mà còn là người bạn tận tuỵ bên ta trong suốt cuộc đời. Trịnh Hồng Vân ( Trường THCS Ngô Gia Tự)
Instruct Explanation about the dog. Literature 9 Topic: Explanation about dogs. Assignment In a life full of worries and difficulties, a pet will be a good friend for us, helping us relax and feel more comfortable. If you are wondering which animal to raise, a dog will be a loyal and close friend. And if you are raising a dog and love it with all your heart, are you sure you understand it? World statistics show that there are many dog ​​species and their origin is due to the evolution of foxes and wolves. There are some popular dog breeds such as German Shepherds (mostly in China and Germany) that have yellow and black fur on their backs and dark muzzles. They are often trained by police to arrest criminals and find ghosts. drug; Some types of dogs are trained to guide the blind and detect people with cancer. The Chihuahua dog breed - the smallest dog breed - is often favored by well-off families. Papilon dog breed, also known as butterfly dog ​​because of its ears shaped like butterfly wings, is very friendly and intelligent. The Shih Tzu dog breed, which we are used to calling Japanese dogs, is often raised indoors as a pet. At birth, puppies have no teeth, but only after the age of forty they can have 28 teeth. The full set of jaws of this animal is 42 jaws. Dog eyes have three eyelids: the upper eyelid, the lower eyelid and the third eyelid located slightly deep in the middle, helping to protect the eyes from dirt. Dogs' ears are extremely sensitive, they can receive thirty-five thousand vibrations in just one second. Their sense of smell is also excellent. People can smell the smell of food in the kitchen, but dogs can distinguish each spice in the pot. Hunting dogs can even find baby mushrooms deep in the forest, because they can can distinguish nearly two hundred and twenty million odors. Dogs distinguish objects first based on movement, then light and finally shape, because their eyesight is very poor. We can see that in winter, when lying down, dogs sometimes use their tails to cover their wet noses. That's how they keep themselves warm. Dogs have up to two layers of fur. The outer coat has different colors depending on different types of dogs. The inner layer of fur is like an air conditioner, helping them stay warm and dry on cold rainy days or "cool down" on hot days. When the temperature is high, dogs often stick out their tongues to breathe. This is a way to cool down the body. Today's dog breeds are mostly hybrids between different types. New dog breeds often take on the attributes of their parents. As we know, after many years of being domesticated by humans, wolves evolved and became domestic dogs. The wolf's habit of hunting in packs was lost when it became a domestic dog. But, there is a common characteristic for both wolves and domestic dogs, which is the habit of living by urine. Any dog ​​coming from another area, if it is not bigger, stronger, and stronger than the dog that previously marked its "sovereignty" with urine, will have to leave somewhere else; on the contrary, if it is stronger, it will immediately be removed. It will use its urine to mark the area. Dogs are loved by many people not only because of their friendliness and intelligence but also because of their loyalty. A dog is a friend who is completely disinterested, not ungrateful, and never deceitful. It is always by our side in wealth and in poverty, in health and in sickness. It will prostrate itself on the cold ground in the bitter winter, as long as it can stay close to its owner and protect it. It kisses my hand even though I have nothing to give it. It is ready to fight back against those who dare to touch its owner. It watches over our sleep whether we are a king or a beggar. Even if my family is bankrupt and my reputation is ruined, the dog will still be loyal to me. If unfortunately we become homeless, surely our companion on the path of trouble will be the cursor. And once my body was lying in the cold ground, then, when everyone had returned, only the dog was left lying with its snout between its front legs on my grave, its eyes wet and sad as if it wanted to be with me. lying in this cold tomb. According to an ethnologist, the custom of dog worship is quite popular in many ethnic groups around the world. Initially, this custom came from the herding peoples of Southwest Asia with the role of guarding livestock. After that, it is possible that Indo-Europeans brought to East Asia animal husbandry habits and dog worship beliefs. In Mediterranean and Near Eastern mythology, the image of the dog - the guardian of livestock - soon transformed into the guardian of the underworld. In the spiritual world of some peoples, the virtues of dogs are honored. Dogs are not only loyal pets but also devoted friends who stay with us throughout our lives. Trinh Hong Van (Ngo Gia Tu Secondary School)
Hướng dẫn Giới thiệu về cá heo. Văn 9 Đề bài: Giới thiệu về cá heo. Bài làm Ngày nay, hình ảnh của đàn cá heo tung mình trên mặt nước, nô đùa với tàu thuyền và lao vun vút giữa biển khơi đã trở nến quen thuộc với không chỉ ngư dân ven biển mà còn đối với mọi người trên khắp thế giới. Cá heo có nhiều loại, chúng khác nhau về hình dạng, màu sắc, tập tính và tiếng kêu. Dân chài nước ta có nơi còn gọi là “cá lợn” hoặc “cá ông sư”. Cá heo là động vật có vú, có máu nóng và thở bằng phổi. Mũi cá heo ở phía trên mồm chứ không chuyển về phía sau và nằm trên lưng như cá voi. Để thích nghi với cuộc sống dưới nước, cá heo có cấu tạo với hình dáng cơ thể đặc biệt, mình dài hình thoi, chân- sau thoái hoá, chân trước biến thành hai vây ngực để bơi. Đuôi của các loài cá nằm dọc, còn đuôi của cá heo nằm ngang để lái khi di chuyển. Cá heo có hai vú chính, một số cặp vú phụ. Cá heo là loài đẻ con, mỗi lần một con, cũng có khi sinh dôi, sinh ba nhưng rất hiếm. Thời gian mang thai của cá heo là 10, 11 tháng nhưng có loài kéo dài đến 16 tháng và nuôi con bằng sữa mẹ. Thức ăn của cá heo ià các loại cá nhỏ như cá cơm, cá trích, các loại tôm nhỏ và cả giun biển. Đàn cá nhỏ di chuyển đến đâu thì đàn cá heo theo sau đến săn mồi. Cá heo mẹ quấn quýt với con cái, chăm sóc những con non, kể cả khi con đã có cuộc đời tự lập. Tính cách “đại gia đình” của cá heo cũng rất đặc biệt, quần thể hợp thành đàn lớn vài trăm con. Đầu đàn là cá heo mẹ, không phải cá heo bố. Chúng có thể đi xa tới hàng nghìn ki lô mét, lặn sâu hàng nghìn mét, nín thở gần hai tiếng đồng hồ. Cá heo có chiều dài trung bình 2 – 2,5 m, thậm chí có con dài 3,6 m như cá heo hai bên sườn trắng và có tuổi thọ khoảng 25-30 nărri; Cá heo bơi rất nhanh, thường là 20 – 30 km/h, thậm chí 70 km/h. Sở dĩ cá heo lao đi nhanh như vậy là do chúng liên tục lột da và cứ sau khoảng 2 giờ cá lại có một bộ da hoàn toàn mới, hỗ trợ cho việc bơi trong nước. Hiện tượng cá heo lột da liên tục khi bơi cùng với hình dáng thuôn gọn nhằm giảm áp lực của nước lên da và giảm ma sát. Con người có thể huấn luyện cá heo làm xiếc. Cá heo còn có khả năng lặp lại lời nói của con người. Ngày nay, nhiều công viên trên thế giới và ở Tuần Châu, vịnh Hạ Long nước ta đã có cá heo biểu diễn những trò như nhảy cao, nhảy dài, đánh bóng rổ, vượt vòng tròn lửa, biểu diễn đội hình đồng ca,… Cá heo còn dẫn đường cho tàu thuyền qua những vùng biển sóng dữ. Trên biển, cá heo luôn là người bạn đồng hành với con người và sẵn sàng chủ động cứu vớt khi con người bị lâm nạn. Ngoài ra, một số nước trên thế giới sử dụng cá heo cho mục đích thực phẩm, y dược bởi cá heo có hàm lượng dinh dưỡng cao, mỡ và gan của chúng được sử dụng để sản xuất vitamin A và làm thuốc chữa bỏng. Cá heo là loài động vật có vú cao cấp, rất thông minh, hiền lành và nhân hậu, luôn là bạn thân thiết của trẻ em và ngư dân trên biển. Do vậy, con người cần giữ gìn môi trường biển để bảo vệ đời sống người bạn động vật này. Bùi Hồng Anh (Trường THCS Nguyễn Trường Tộ)
Instruct Introducing dolphins. Literature 9 Topic: Introduction to dolphins. Assignment Today, the image of dolphins splashing on the water, playing with boats and rushing in the middle of the ocean has become familiar not only to coastal fishermen but also to people around the world. There are many types of dolphins, they differ in shape, color, behavior and sound. In some places, our country's fishermen also call it "pig fish" or "monk fish". Dolphins are mammals, warm-blooded and breathe through lungs. A dolphin's nose is above its mouth, not moved backwards and on its back like a whale. To adapt to life underwater, dolphins have a special body shape, a long, diamond-shaped body, degenerated hind legs, and front legs that turn into two pectoral fins for swimming. Fish's tails are vertical, while dolphins' tails are horizontal to steer when moving. Dolphins have two main breasts and several pairs of secondary breasts. Dolphins are species that give birth to babies, one at a time, and sometimes they give birth to twins or triplets, but it's very rare. The gestation period for dolphins is 10 or 11 months, but some species last up to 16 months and feed their babies with breast milk. Dolphins' food includes small fish such as anchovies, herring, small shrimps and sea worms. Wherever the small fish moves, the dolphins follow to hunt. Mother dolphins bond with their children and take care of them, even when the children are independent. The "big family" personality of dolphins is also very special, the population forms large herds of several hundred animals. The leader of the group is the mother dolphin, not the father dolphin. They can travel thousands of kilometers, dive thousands of meters deep, and hold their breath for nearly two hours. Dolphins have an average length of 2 - 2.5 m, some are even 3.6 m long like the white flanked dolphin and have a lifespan of about 25-30 years; Dolphins swim very fast, usually 20 - 30 km/h, even 70 km/h. The reason dolphins rush so fast is because they constantly shed their skin and every about 2 hours the fish has a completely new set of skin, supporting swimming in the water. The phenomenon of dolphins continuously shedding their skin while swimming with a streamlined shape to reduce water pressure on the skin and reduce friction. Humans can train dolphins to perform circus acts. Dolphins also have the ability to repeat human speech. Today, many parks around the world and in Tuan Chau and Ha Long Bay in our country have dolphins performing tricks such as jumping high, jumping long, playing basketball, jumping over fire circles, performing in choir formations, ... Dolphins also guide ships through rough seas. At sea, dolphins are always a companion to humans and are ready to proactively save people when they are in trouble. In addition, some countries around the world use dolphins for food and medicine purposes because dolphins have high nutritional content, their fat and liver are used to produce vitamin A and as medicine to treat burns. Dolphins are high-class mammals, very intelligent, gentle and kind, always close friends of children and fishermen at sea. Therefore, people need to preserve the marine environment to protect the life of this animal friend. Bui Hong Anh (Nguyen Truong To Secondary School)
Hướng dẫn Cây lúa Việt Nam tự giới thiệu. Văn 9 Đề bài: Cây lúa Việt Nam tự giới thiệu. Bài làm Những tia nắng ban mai dịu dàng chiếu xuống mặt đất. Những chú chim líu lo gọi nhau rời tổ kiếm ăn. Tôi đang ngủ say chợt nghe có tiếng gọi: “Lúa ơi, dậy đi em!”. Tiếng gọi quen thuộc khiến tôi khẽ cựa mình, tỉnh giấc. Tưởng ai hoá ra là chị Gió hằng ngày vẫn kể cho tôi nghe về những miền đất xa xôì mà chị đã từng đi qua. Không biết hôm nay có chuyện gì mà chị tới tìm tôi sớm thế nhỉ? Như đọc được suy nghĩ của tôi, chị Gió tươi cười giải thích: – Hôm nay, chị có nhiệm vụ phỏng vấn họ nhà lúa các em đấy. Em có thể tự giới thiệu về mình được không? – Em là lúa, tên khoa học là Cryza Sativa. Em là loài thực vật thuộc thân thảo, sống một năm, có rễ chùm, thuộc lớp một lá mầm. – Em có biết gì về tổ tiên của mình không? – Tổ tiên của em là loại lúa hoang, xuất hiện từ cách đây 3000 đến 2000 năm, trước Công nguyên đã được con người thuần hoá thành các giống lúa hiện nay. – Em sinh sống ở đâu? – Em rất dễ trồng. Chỉ cần đất không quá chua và đủ nước là em có thể sống được. Vì thế, trên đất nước Việt Nam, từ Bắc vào Nam, đâu đâu cũng thấy những cánh đồng lúa xanh ngút ngàn. – Vậy em có thể cho chị biết quá trình sinh trưởng của em được không? – Lúa chúng em chủ yếu có hai vụ là vụ chiêm và vụ mùa. Đầu vụ, các bác nông dân sẽ chọn ra những hạt thóc tốt làm giống. Hạt giống sẽ được gieo ở ruộng riêng cho phát triển thành những cây lúa non gọi là mạ. Đến khi mạ cao khoảng 15-20 cm, các bác nông dần nhổ mạ sang cấy ở ruộng chính. Làm như thế, các bác nông dân vừa tiết kiệm được thóc giống mà lúa chúng em lại phát triển khoẻ mạnh. Được sự chăm bẵm của các bác nông dân, chúng em phát triển, cao dần và đẻ nhánh. Đó là lúc chúng em “đương thì con gái”. Rồi chúng em ra đòng, trổ bông, hình thành nên các hạt lúa và dần chín. Khi lúa chín vàng, đòng uốn cong vì sức nặng của những hạt thóc vàng mẩy, các bác nông dân sẽ đem liềm hái gặt chúng em về. – Thế thì các bác nông dân chắc vất vả lắm nhỉ? – Vâng. Chị biết không, khi chúng em ra đòng là lúc rất dễ bị sâu bệnh phá hoại nên các bác nông dân phải vất vả, nào là phun thuốc trừ sâu, nào là bón phân để bổ sung chất dinh dưỡng cho chúng em. Phải vất vả lắm mới làm nên được hạt thóc nên họ coi đó là “hạt ngọc”. – Họ hàng của em rất đông đúc, đúng không? Chị thấy có bao nhiêu loại lúa: Khang Dân, Bắc Hương, Tám,… – Họ hàng nhà em đông lắm. Hiện nay, các nhà khoa học đã lai tạo được hơn 30 giống lúa. Đấy đều là những giống lúa có năng suất cao, hứa hẹn cho những vụ mùa bội thu. – Suýt nữa chị quên mất, sau khi nông dân gặt lúa về thì họ làm gì? – Họ cho chúng em vào máy tuốt để tách rơm và thóc, rơm để đun hoặc lợp mái nhà, còn thóc họ đem đi xát để tách vỏ (gọi là trấu) và nhân (gọi là gạo). Gạo là nguồn lương thực chủ yếu của hơn một nửa dân số thế giới. Việt Nam ta có hơn 80% người dân sống bằng nghề trồng lúa. Ngoài ra, ta còn có những đồng bằng màu mỡ thẳng cánh cò bay để trồng lúa, do vậy, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới sau Thái Lan. – Ngoài nấu cơm ăn hằng ngày, người ta còn dùng gạo để làm gì nữa hả lúa? – Ngoài gạo tẻ để nấu cơm còn có gạo nếp dùng để làm bánh chưng, bánh giầy, thổi xôi, nấu chè,… Đây là những thứ không thể thiếu được trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta. Chị đã bao giờ được thưởng thức hương vị của cốm chưa? Cốm được làm từ lúa nếp non. Đấy là một thức quà dân dã nhưng vô cùng thanh tao của dân tộc. Từ gạo người ta cũng có thể làm ra các loại bánh như bánh giò, bánh cuốn, bánh tẻ, bánh rợm,…tạo nên một nét văn hoá ẩm thực rất đặc trưng của người Việt. – Ngoài ra, em còn có vai trò gì trong đời sống của người Việt Nam? – Em không chỉ giữ vai trò quan trọng trong đời sống vật chất mà còn cả trong đời sống tinh thần của người Việt. Từ khi còn nằm nôi, những đứa trẻ đã thấm đượm những câu hát ru của mẹ: “Con cò bay lả bay la Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng”. (Ca dao) Hình ảnh cánh đồng lúa đã đi sâu vào trong tiềm thức và trái tim mỗi người con dân đất Việt khi nhớ về quê hương Tổ quốc: “Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”. (Nguyễn Đình Thi – Bài thơ Hắc Hài) Cây lúa đã gắn bó với đất nước, với con người Việt Nam từ bao đời nay, tạo nên một nền văn minh lúa nước phát triển rực rỡ từ trong quá khứ. Hiện nay, đất nước đang bước vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cây lúa vẫn đi cùng sự phát triển của đất nước. Cầy lúa không chỉ giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước mà còn là một nét đẹp văn hoá rất riêng, rất ấn tượng của con người và đất nước Việt Nam. Lê Trần Bích Ngọc ( Trường THCS Nguyễn Huy Tưởng)
Instruct Vietnamese rice plants introduce themselves. Literature 9 Topic: Vietnamese rice introduces itself. Assignment The morning rays of sunlight gently shine on the ground. The birds chirp and call each other to leave their nests to find food. I was sleeping soundly and suddenly heard a voice calling: "Lua, wake up!". The familiar call made me stir slightly, waking up. I thought it was someone who turned out to be Ms. Gio who every day told me about the far away lands she had been to. I wonder what happened today that made you come to me so early? As if reading my thoughts, Ms. Gio smiled and explained: – Today, I have the task of interviewing your rice family. Can you introduce yourself? – I am rice, scientific name is Cryza Sativa. It is a herbaceous plant, living one year, with clustered roots, belonging to the monocotyledonous class. – Do you know anything about your ancestors? – My ancestors are wild rice, which appeared 3,000 to 2,000 years ago, BC, and has been domesticated by humans into today's rice varieties. – Where do you live? – It is very easy to grow. As long as the soil is not too acidic and has enough water, you can survive. Therefore, in Vietnam, from North to South, you can see endless green rice fields everywhere. – So can you tell me about your growth process? – We mainly have two rice crops: the dip crop and the summer crop. At the beginning of the season, farmers will select good rice seeds as seeds. Seeds will be sown in separate fields to grow into young rice plants called seedlings. When the seedlings are about 15-20 cm tall, farmers gradually uproot the seedlings and plant them in the main field. By doing so, the farmers not only save rice seeds but also grow healthy rice. With the care of the farmers, we grow, grow taller and branch out. That was when we "became girls". Then we go to the field, flower, form rice grains and gradually ripen. When the rice is ripe and golden, the stalks bend under the weight of the golden grains, the farmers will bring us sickles to harvest. – Then the farmers must have a hard time, right? - Yes. You know, when we go to the fields, it is very easy to be damaged by pests, so the farmers have to work hard, spraying pesticides and fertilizing to supplement nutrients for us. It takes a lot of hard work to produce a grain of rice, so they consider it a "pearl." – Your relatives are very crowded, right? How many types of rice do you see: Khang Dan, Bac Huong, Tam,... – My family has many relatives. Currently, scientists have bred more than 30 rice varieties. These are all high-yield rice varieties, promising bumper harvests. – I almost forgot, what do they do after the farmers return from harvesting rice? – They put us in the threshing machine to separate straw and paddy, the straw for cooking or roofing, and the paddy they grind to separate the husk (called husk) and the kernel (called rice). Rice is the main food source for more than half of the world's population. In Vietnam, more than 80% of people live by growing rice. In addition, we also have fertile plains to grow rice, so our country has become the second rice exporter in the world after Thailand. – Besides cooking rice every day, what else do people use rice for? - In addition to ordinary rice to cook rice, there is also sticky rice used to make banh chung, banh giay, steam sticky rice, cook sweet soup, etc. These are indispensable things in the traditional Tet holiday of our people. Have you ever enjoyed the taste of green rice? Com is made from young sticky rice. This is a rustic but extremely elegant gift of the nation. From rice, people can also make cakes such as banh gio, banh cuon, banh te, banh rom,... creating a very typical culinary culture of Vietnamese people. – In addition, what role do you play in the lives of Vietnamese people? – You not only play an important role in the material life but also in the spiritual life of Vietnamese people. From the time they were in their cradles, children were imbued with their mother's lullabies: “The stork flew away screaming Fly from the gate to the fields." (Folk) The image of rice fields has gone deep into the subconscious and heart of every Vietnamese person when remembering their homeland: “Vietnam, my country Where vast rice sea sky more beautiful". (Nguyen Dinh Thi – Poem Black Comedy) Rice has been attached to the country and Vietnamese people for many generations, creating a wet rice civilization that has flourished since the past. Currently, the country is entering the process of industrialization and modernization, rice still accompanies the country's development. Rice civets not only play an important role in the country's economic development but are also a very unique and impressive cultural beauty of the people and country of Vietnam. Le Tran Bich Ngoc (Nguyen Huy Tuong Secondary School)
Hướng dẫn Thuyết minh về cây tre. Văn 9 Đề bài: Thuyết minh về cây tre trong đời sống con người Việt Nam. Bài làm Đã tự bao đời nay, tre xuất hiện bên người dân Việt Nam một cách tự nhiên như phải thế, không thể nào khác được. Qua bao thăng trầm của lịch sử, dù khó khăn vất vả, tre vẫn đứng đó, vẫn sát cánh bên người dân Việt. Và cũng chính vì lẽ đó, tre trở thành biểu tượng cho sự dẻo dai, tràn đầy sức sống của dân tộc. “Tre xanh xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”. (Nguyễn Duy –Tre Việt Nam) Trong khu vực Đông Nam Á, không chỉ có Việt Nam mà cả Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a,…cũng đều có tre. Tuy vậy, tre mỗi nơi mỗi khác. Tre ở Ấn Độ thân gầy mà cao; tre ở Nhật Bản, Trung Quốc vỏ dày mà xanh. Còn tre ở Việt Nam lại khác. Tre Việt Nam thuộc họ thân đốt, gầy và rắn, không giống như tre Nhật Bản có vỏ dày nhưng mềm. Nhưng dù ở đâu thì tre cũng mang dáng dấp như nhau, mọc thành bụi như một gia đình. Tre thật đặc biệt. Tre có thể sống trên mọi loại đất đai. Nó có một sức sống thật tuyệt vời. ở Hi-rô-si-ma, nơi đất đã bị nhiễm xạ, tre vẫn kiên cường sống. Dưới chân núi lửa Pi-na-tu-bo ở Phi-líp-pin, nơi đất đai dường như đã hoá thành than, tre vẫn vươn lên, dẻo dai, mạnh mẽ. Hay ở ngay đất lửa Quảng Trị, mảnh đất cằn cỗi “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, tre vẫn mọc, tràn đầy nhựa sống. Tre cao, thẳng từ 8 đến 18 mét, thân màu xanh nhẵn thín, lá nhỏ, dài, sắc mọc trên cành từ thân cây. Thế nhưng, nếu tìm hiểu kĩ đời sống của tre, ta sẽ ngạc nhiên và khâm phục trước gì mà thiên nhiên ban tặng cho tre. Cuộc sống của tre như một bài học về triết lí sống dành cho con người. Tre chịu được mọi loại thời tiết, mọi loại đất đai. Ớ đâu, trong hoàn cảnh nào, tre vẫn sống, vẫn không ngừng vươn cao, như con người, không chịu khuất phục mọi gian lao, vất vả. Tre luôn mọc thành bụi, thành rặng, như một gia đình, một dân tộc luôn kề vai sát cánh bên nhau chống lại mọi phong ba bão táp. Tre vươn eao, mọc thẳng như sự ngay thẳng, trung thực của người dân Việt… Đã bao lần trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, tre đã trở thành vũ khí, trở thành thành luỹ bảo vệ non sông gấm vóc. Muôn ngàn đời còn ngợi ca Thánh Gióng nhổ tre làm vũ khí đuổi giặc Ân. Nỏ thần trăm phát trăm trúng của Thục An Dương Vương cũng được làm từ cây tre trong vườn. Rồi những cọc tre cùng cọc gỗ đã đâm thủng thuyền giặc trên sông Bạch Đằng bao năm trước… Không chỉ góp phần đuổi giặc ngoại xâm, tre còn đi vào đời sống hằng ngày của người dân đất Việt. Còn gì thanh bình hơn những buổi chiều tà, bên bờ ao, những cụ già đang chăm chú nhìn vào đầu những chiếc cần câu mềm mại, cong cong được làm từ tre. Những đêm trăng sáng, trên cái chõng tre ngoài hiên nhà, những người nông dân khoan khoái chuyền tay nhau cái điếu cày làm từ tre, thanh thản lắng nghe tiếng sáo tre cao vút. Sáng ra, xen lẫn tiếng cười tiếng nói là tiếng đòn gánh tre kĩu kịt trên vai các bà, các chị… Vốn gần gũi với con người, tre dần trở thành nguồn cảm hứng trong văn thơ. Từ những câu chuyện cổ tích đến những câu ca dao, tục ngữ đều có hình bóng của cây tre (Cây tre trăm đốt, “Tre già măng mọc”)… Hẳn chúng ta cũng không thể nào quên bộ phim nổi tiếng Cây tre Việt Nam cùng lời thuyết minh bất hủ của Thép Mới. Tre gắn với làng quê Việt Nam. Tre mộc mạc, thanh cao mà giản dị. Dù đất nước đang trên đà phát triển nhưng tre vẫn luôn có chỗ trong tâm hồn mỗi người dân Việt. Tre giúp người tránh được những cơn giận dữ của thiên tai. Thân tre trở thành nguyên liệu sản xuất giấy, đồ thủ công mĩ nghệ. Những cọc tre cao, chắc chắn là nền móng vững chắc cho những ngôi nhà… Tre không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt. Cùng với cây đa, bến nước, sân đình,… tre đã trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Bùi Doãn Bách ( Trường THCS Ngô Gia Tự)
Instruct Explanation about bamboo. Literature 9 Topic: Explanation about bamboo in Vietnamese people's lives. Assignment For many generations, bamboo has appeared naturally with the Vietnamese people as it should be, it cannot be otherwise. Through many ups and downs of history, despite difficulties and hardships, bamboo still stands there, still standing side by side with the Vietnamese people. And for that reason, bamboo has become a symbol of the nation's resilience and vitality. “Bamboo has always been green Once upon a time, there was a green bamboo bank." (Nguyen Duy – Tre Vietnam) In Southeast Asia, not only Vietnam but also the Philippines, Indonesia, Malaysia,... also have bamboo. However, bamboo is different from place to place. Bamboo in India has thin but tall stems; Bamboo in Japan and China has thick, green skin. But bamboo in Vietnam is different. Vietnamese bamboo belongs to the stem family, is thin and solid, unlike Japanese bamboo which has thick but soft bark. But no matter where it is, bamboo has the same appearance, growing in bushes like a family. Bamboo is special. Bamboo can live on all types of land. It has a wonderful vitality. In Hiroshima, where the soil has been contaminated with radiation, bamboo still lives resiliently. At the foot of Mount Pinatubo in the Philippines, where the land seems to have turned into cinders, bamboo still rises, supple and strong. Or right in the fire land of Quang Tri, a barren land where "dogs eat rocks, chickens eat pebbles", bamboo still grows, full of life. Bamboo is 8 to 18 meters tall and straight, with smooth green stems and small, long, sharp leaves growing on branches from the trunk. However, if we carefully study the life of bamboo, we will be surprised and admired at what nature bestows on bamboo. The life of bamboo is like a lesson in life philosophy for humans. Bamboo can withstand all types of weather and all types of soil. Wherever, under any circumstances, bamboo still lives, continues to grow, like humans, refusing to submit to all hardships and hardships. Bamboo always grows in bushes and groves, like a family, a people standing side by side against all storms. Bamboo stretches its waist and grows straight like the integrity and honesty of the Vietnamese people... Many times in the nation's history of fighting against foreign invaders, bamboo has become a weapon and a rampart to protect the country and its rivers. Thousands of generations still praise Saint Giong for pulling out bamboo as a weapon to chase away An invaders. The magic crossbow of Thuc An Duong Vuong was also made from bamboo in the garden. Then bamboo and wooden stakes pierced enemy boats on the Bach Dang River many years ago... Not only did they contribute to expelling foreign invaders, bamboo also entered the daily lives of Vietnamese people. There is nothing more peaceful than late afternoons, on the banks of the pond, old people are attentively looking at the tips of soft, curved fishing rods made from bamboo. On moonlit nights, on bamboo cots on the porch, farmers happily pass hand-to-mouth pipes made from bamboo, serenely listening to the high-pitched sound of bamboo flutes. In the morning, mixed with laughter and voices, there was the sound of heavy bamboo poles on the shoulders of women and sisters... Being close to humans, bamboo gradually becomes a source of inspiration in poetry. From fairy tales to folk songs and proverbs, all have the image of bamboo (Bamboo with a hundred nodes, "Old bamboo with shoots growing")... Surely we cannot forget the famous movie Vietnamese Bamboo Nam and the immortal voice-overs of Thep Moi. Bamboo is associated with Vietnamese villages. Bamboo is rustic, elegant yet simple. Although the country is on the rise, bamboo still has a place in the soul of every Vietnamese person. Bamboo helps people avoid the wrath of natural disasters. Bamboo stalks become raw materials for paper production and handicrafts. High, sturdy bamboo poles are a solid foundation for houses... Bamboo is indispensable in the lives of Vietnamese people. Along with the banyan tree, water wharf, communal house yard,... bamboo has become a symbol of the Vietnamese people. Bui Doan Bach (Ngo Gia Tu Secondary School)
Hướng dẫn Thuyết minh về cây dừa. Văn 9 Đề bài: Thuyết minh về cây dừa. Bài làm Mỗi lần đi dạo ven Hồ Tây, tôi lại có dịp ngắm những hàng dừa bên hồ. Và tự bao giờ, không rõ nữa, cây dừa đã trở thành loại cây quen thuộc đối với tôi. Dừa là loại cây phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là vùng Nam Bộ. Nguồn gốc của cây dừa cho đến nay vẫn là chủ đề gây ra nhiều tranh cãi. Một số học giả cho rằng, dừa có nguồn gốc ở miền tây Bắc Mĩ. Các mẫu hoá thạch tìm thấy ở New Zealand chỉ ra rằng, các loại thực vật nhỏ tương tự cây dừa đã mọc ở khu vực này từ khoảng 15 triệu năm trước. Hiện nay, dừa đã được nhân giống khắp vùng nhiệt đới. Dừa là một loại cây trong họ cau với các lá đơn xẻ thuỳ lông chim một gân. Cuống và gân chính dài từ 4 đến 6 mét. Dừa thân tròn, màu nâu, in dấu những bẹ lá đã rụng. Các thuỳ với gân cấp hai có thể dài từ 6 đến 9 mét. Dừa có thể phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn. Nó cũng thích ứng với những vùng đất nhiều mưa, nắng có độ ẩm cao. Điều này lí giải tại sao chúng ta khó tìm thấy dừạ ở những vùng đất có độ ẩm thấp, chẳng hạn như khu vực Địa Trung Hải. Dừa ra hoa liên tục. Hoa dừa nhỏ li ti, màu trắng ngà, thơm nhẹ. Trên một cụm hoa còn có cả hoa đực và hoa cái. Hoa cái tạo ra hạt. Người tạ cho rằng, dừa là loại cây chủ yếu là thụ phấn. Quả dừa hình tròn, nhọn ở dưới, có vỏ cứng và mang màu xanh nhẵn bóng. Ẩn sau lớp vỏ xanh là một lớp xơ dừa màu nâu bọc lấy quả dừa. Nếu chúng ta bổ quả dừa ra sẽ được một lớp cùi dừa màu trắng và nước dừa trong vắt như nước suối. Trái dừa thường mọc thành buồng lớn, lúc la lúc lỉu. Trong đời sống, dừa có rất nhiều công dụng. Chẳng hạn, nhựa dừa thu được từ việc rạch các cụm hoa sẽ được ủ cho lên men để sản xuất rượu vang dừa. Xơ dừa được dùng để sản xuất dây thừng, thảm, bàn chải, chão,… Thảm xơ dừa xuất khẩu đã đem lại nguồn thu đáng kể cho những người nông dân miệt vườn, vỏ dừa có thể dùng làm nguồn nhiên liệu. Lá dừa dùng để kết thành giỏ đựng đồ hoặc làm chổi quét nhà. Các que xiên để nướng thịt chính là các gân giữa của lá dừa vì nó có độ cứng rất thích hợp. Còn nữa, bạn đã bao giờ được thưởng thức kẹo dừa chưa nhỉ? Món kẹo đặc trưng này của miền Nam được làm từ nước cốt dừa cô đặc, ăn vừa béo vừa thơm. Mỗi độ Tết về, chúng ta lại được thưởng thức mứt dừa, làm từ cùi dừa non… Với vẻ đẹp riêng, đặc trưng cho vùng sông nước êm đềm và thơ mộng, dừa đã đi vào thơ ca, đi vào cuộc sống tinh thần của những người dân Việt Nam: “Cây dừa xanh toả nhiều tàu, Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng. Thân dừa bạc phếch tháng năm, Quả dừa đàn lợn con nằm trên cao”. (Trần Đăng Khoa) Trải qua bao thế kỉ, cây dừa vẫn luôn gắn bó thân thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người dân Việt Nam. Với riêng em, những cây dừa cạnh ngôi trường Đông Thái thân yêu luôn khiến trái tim em xao xuyến. Chúng như những người bạn lớn, luôn vẫy tay chào đón chúng em tới trường. Bùi Thu Hường (Trường THCS Đông Thái)
Instruct Explanation about coconut trees. Literature 9 Topic: Explanation about coconut trees. Assignment Every time I walk along West Lake, I have the opportunity to look at the coconut rows by the lake. And since when, I don't know, the coconut tree has become a familiar tree to me. Coconut is a popular tree in Vietnam, especially in the Southern region. The origin of the coconut tree is still a controversial topic. Some scholars believe that coconut originated in western North America. Fossil samples found in New Zealand indicate that small plants similar to coconut trees grew in this area about 15 million years ago. Currently, coconuts have been bred throughout the tropics. Coconut is a tree in the areca family with single, pinnately lobed leaves. The stem and main vein are 4 to 6 meters long. Coconut trunk is round, brown, imprinted with fallen leaf sheaths. Lobes with secondary veins can be 6 to 9 meters long. Coconut can grow well on sandy soil and is resistant to salinity. It also adapts to rainy, sunny areas with high humidity. This explains why it is difficult to find bamboo in areas with low humidity, such as the Mediterranean region. Coconut flowers continuously. Coconut flowers are tiny, ivory white, lightly fragrant. On an inflorescence there are both male and female flowers. Female flowers produce seeds. People believe that coconut is a tree that is mainly pollinated. The coconut is round, pointed at the bottom, has a hard shell and is smooth and green. Hidden behind the green shell is a layer of brown coconut fiber covering the coconut. If we cut open the coconut, we will get a layer of white coconut flesh and clear coconut water like spring water. Coconuts often grow in large chambers, sometimes growling and sometimes growling. In life, coconut has many uses. For example, coconut sap obtained from cutting inflorescences is fermented to produce coconut wine. Coconut fiber is used to produce ropes, carpets, brushes, cordages, etc. Exported coconut fiber mats have brought significant income to garden farmers, coconut shells can be used as a source of fuel. Coconut leaves are used to make baskets or make brooms. The skewers for grilling meat are the middle veins of coconut leaves because they have a very suitable hardness. Also, have you ever enjoyed coconut candy? This typical Southern candy is made from condensed coconut milk and is both fatty and fragrant. Every Tet holiday, we enjoy coconut jam, made from young coconut pulp... With its own beauty, typical of the peaceful and poetic river area, coconut has entered the poetry and spiritual life of the Vietnamese people: “The green coconut tree radiates many ships, Open your arms to the wind and nod to call the moon. Coconut trunks turn silver in May, Coconut fruit and piglets lying on high. (Tran Dang Khoa) Over the centuries, coconut trees have always been closely associated with the material and spiritual lives of the Vietnamese people. For me, the coconut trees next to my beloved Dong Thai school always make my heart flutter. They are like big friends, always waving to welcome us to school. Bui Thu Huong (Dong Thai Secondary School)
Hướng dẫn Thuyết minh về hoa sen. Văn 9 Đề bài: Giới thiệu về hoa sen. Bài làm Trên đất nước ta có biết bao loài hoa. Mỗi người có thể chọn cho mình một loài hoa yêu thích nhưng hoa sen – thứ hoa cao quý thì hẳn ai cũng biết. Sen là loài sống dưới nước, mọc từ bùn lên. Thân sen ngập dưới bùn, dân gian quen gọi là ngó sen. Cuống lá xốp rỗng, vươn lên đỡ hoa và lá sen vượt khỏi mặt nước. Khi bẻ, cuống lá có những sợi tơ dài, dính kết, hình ảnh ấy gợi sự vương vấn nên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Phía ngoài cuống có những gai ngắn, mềm màu sẫm. Lá sen to tròn như cái mẹt nhỏ, xanh biếc, hơi khum xoè rộng trên mặt nước. Mùa hè, sen nở, lá sen phủ kín mặt hồ. Hoa sen có hai loại: sen trắng và sen hồng, màu hoa tươi thắm, sáng. Hoa sen có nhiều lớp cánh khum khum, ôm ấp nhau. Gánh to ở ngoài, cánh nhỏ ở trong ôm lấy đài hoa và nhị hoa. Đài sen to tròn, hình chóp ngược, màu xanh gọi lạ gương sen, khi già chuyển sang màu nâu. Trong gương có những hạt nhỏ. Khi sen già, cánh hoa rụng, gương sen lớn dần, những hạt đó phát triển thành hạt sen, Nhị hoa mọc quanh đài, màu vàng, là những tua nhỏ. Lớp hạt trắng ở đầu tua nhị gọi là gạo sen. Đây là túi hương của sen, dùng để ướp trà. Hương sen thơm dịu, man mác, thanh cao. Ca dao đã ca ngợi vẻ đẹp của sen: “Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Sen là loài dễ trồng, dễ sống. Chỉ cần thả ngó sen xuống bùn là cây sen tự mọc. Cây sen có sức sống mãnh liệt. Hết mùa thì sen tàn, năm sau sen lại tự mọc. Sen có thể xuyên qua bờ đất lan sang đầm bên cạnh. Những đầm lầy nhiều bùn, khó canh tác, người ta thường thả sen. Sen là loài cây có ích. Tất cả mọi bộ phận của cây đều mang đến lợi ích cho con người. Ngó sen dùng để nấu canh, làm gỏi, là vị thuốc chữa mất ngủ. Lá sen dùng gói thức ăn: gói xôi, gói thịt quay,… và không thể thiếu để gói cốm: “Trời sinh ra cốm ủ trong lá sen và trời sinh ra ĩá sen để bao bọc cốm” (Thạch Lam). Người ta còn sắc lá sen khô lấy nước uống để giảm cân, giảm mỡ máu. Hạt sen để nấu chè, làm mứt. Đám cưới hỏi, khi Tết đến, mứt sen là thứ không thể thiếu. Uống nước trà sen, nhấm nháp vài hạt mứt sen là thú thư giãn tinh tế của người Hà Nội. Ngay trong hạt sen, cái tâm sen đắng cũng là vị thuốc chữa mất ngủ rất hiệu nghiệm. Hoa sen không chỉ dùng để trưng bày mà còn lấy hạt nhị ướp trà, làm nên thứ trà sen quý giá và độc đáo. Sen không chỉ đẹp, có ích mà sen còn gắn bó với người Việt Nam ta. Đầm sen thoảng hương là nơi hóng mát, thư giãn lí tưởng. Ngồi bên bờ hồ, đón làn gió mát dịu thơm hương sen, lòng dâng bao cảm xúc. Cái lá sen đội đầu khi trời nắng vừa mát vừa thơm. Hoa sen có vẻ đẹp tự nhiên, thanh tao, là thứ hoa thờ. Bình sen trên bàn thờ luôn tạo ấn tượng thiêng liêng, trang trọng. Sen trở thành đài sen, nơi Phật ngự và là hình ảnh của Phật giáo. Sen gắn bó mật thiết với đời sống văn hoá của người Việt Nam từ tâm linh đến nghệ thuật. Hình ảnh chú bé cưỡi trâu, tay cầm cành sen trong tranh dân gian là biểu tượng của niềm vui. Trong điêu khắc, hoa văn sen được dùng để trang trí đình chùa cũng như vật dụng: bàn, ghế, tủ,… Điều đặc biệt nhất là hoa sen đã trở thành biểu tượng con người Việt Nam dịu dàng, thanh cao mà vững vàng bởi hoa sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Trên cánh máy bay của hàng không Việt Nam, biểu tượng bông sen nổi bật, đưa tâm hồn Việt nam đến khắp nơi trên thế giới. Thành Hương Linh (Trường THCS Trưng Vương)
Instruct Explanation about lotus flowers. Literature 9 Topic: Introduction to lotus flowers. Assignment There are many types of flowers in our country. Each person can choose their favorite flower, but everyone knows the lotus - a noble flower. Lotus is an aquatic species that grows from mud. The lotus stem is submerged in mud, people often call it lotus stem. The leaf stalks are hollow and spongy, reaching up to support the flowers and lotus leaves above the water. When broken, the leaf stalks have long, sticky filaments. That image evokes lingering feelings, so in Nguyen Du's Tale of Kieu, there is a saying: "Even if you leave your mind, your heart still lingers." The outside of the stem has short, soft, dark spines. The lotus leaves are as big and round as small, green, slightly cupped leaves spreading out on the water surface. In summer, lotus blooms and lotus leaves cover the lake surface. There are two types of lotus flowers: white lotus and pink lotus, the flower color is bright and fresh. The lotus flower has many layers of cupped petals, hugging each other. The big petals are on the outside, the small petals are on the inside, embracing the sepals and stamens. The lotus stem is large and round, has an inverted pyramid shape, and has a green color called a lotus mirror. When it gets old, it turns brown. In the mirror there are small particles. When the lotus gets old, the petals fall, the lotus grows larger, those seeds develop into lotus seeds, the stamens grow around the sepal, yellow in color, and are small tassels. The layer of white seeds at the tip of the tassel is called lotus rice. This is the scent bag of lotus, used to marinate tea. The scent of lotus is gentle, gentle, and noble. Folk songs praise the beauty of lotus: "In what beautiful dress with lotus, Green leaves, white flowers surrounded by yellow stamens. Yellow stamens, white flowers, green leaves, Nearly mud that does not stink of mud." Lotus is an easy species to grow and live. Just drop the lotus stem into the mud and the lotus plant will grow on its own. The lotus plant has strong vitality. When the season ends, the lotus fades, and the next year it grows again. Lotus can penetrate the land bank and spread to the adjacent lagoon. In muddy swamps that are difficult to cultivate, people often release lotus plants. Lotus is a useful plant. All parts of the tree bring benefits to humans. Lotus roots are used to cook soup, make salads, and are a cure for insomnia. Lotus leaves are used to wrap food: wrap sticky rice, roast meat,... and are indispensable for wrapping green rice: "Heaven created green rice to be incubated in lotus leaves and heaven gave birth to lotus leaves to wrap green rice" (Thach Lam). People also boil dried lotus leaves to drink water to lose weight and reduce blood fat. Lotus seeds are used to make sweet soup and jam. At weddings, when Tet comes, lotus jam is indispensable. Drinking lotus tea and sipping a few lotus jam seeds is a delicate relaxation hobby of Hanoi people. Even in lotus seeds, the bitter lotus heart is also a very effective cure for insomnia. Lotus flowers are not only used for display, but also the seeds are used to marinate tea, making precious and unique lotus tea. Lotus is not only beautiful and useful, but it is also attached to the Vietnamese people. The fragrant lotus pond is an ideal place to cool off and relax. Sitting on the shore of the lake, enjoying the cool breeze fragrant with lotus scent, my heart filled with many emotions. The lotus leaf worn on the head when the weather is sunny is both cool and fragrant. The lotus has a natural, elegant beauty and is an altar flower. The lotus vase on the altar always creates a sacred and solemn impression. The lotus becomes the lotus base, the place where Buddha resides and is the image of Buddhism. Lotus is closely associated with the cultural life of Vietnamese people, from spirituality to art. The image of a boy riding a buffalo and holding a lotus branch in folk paintings is a symbol of joy. In sculpture, lotus patterns are used to decorate pagodas and temples as well as objects: tables, chairs, cabinets, etc. The most special thing is that the lotus has become a symbol of the gentle, noble and steadfast Vietnamese people. by the lotus flower "Close to the mud but does not smell of mud". On the wings of Vietnamese airlines, the lotus symbol stands out, bringing the soul of Vietnam to all over the world. Thanh Huong Linh (Trung Vuong Secondary School)
Hướng dẫn I – ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU CỦA VĂN BẢN HÀNH CHÍNH Văn bản hành chính là loại văn bản thường dùng để truyền đạt những nội dung và yêu cầu nào đó từ cấp trên xuống hoặc bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của cá nhân hay tập thể tới các cơ quan và người có thẩm quyền để giải quyết. Cũng xếp vào loại này những văn bản tường trình, thông báo, biên bản, hợp đồng và cả thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi. Ví dụ: Cần bày tỏ nguyện vọng, hay báo cáo với cấp trên, người ta viết đề nghị, báo cáo (Ngữ văn 7). cần trình bày diễn biến sự việc, hậu quả và trách nhiệm của người tham gia (người liên quan) với cá nhân hay tổ chức có thẩm quyền xem xét, giải quyết, người ta viết văn bản tường trình. Cần thông báo rõ chủ trương của tập thể, cấp trên, người ta ra văn bản thông báo (Ngữ văn 8). Cần ghi chép lại một sự việc quan trọng đối với cá nhân hay tổ chức người ta lập biên bản. Cần ghi lại sự thoả thuận về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các bên tham gia giao dịch thì phải làm hợp đồng, cần thăm hỏi, chúc mừng thì dùng thư hoặc điện. Trừ loại thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi có mẫu riêng, văn bản biên bản và hợp đồng thường được trình bày theo một quy ước nhất định, trong đó phải ghi rõ: – Quốc hiệu và tiêu ngữ. – Tên văn bản. – Ngày tháng năm, địa điểm làm văn bản. – Họ tên của những người tham gia và chức trách của họ. – Nội dung chính của văn bản: diễn biến sự việc, các thoả thuận. – Kết thúc văn bản: họ tên, chữ kí của người có trách nhiệm. II – CÁC KIỂU VĂN BẢN HÀNH CHÍNH Ở LỚP 9 1. Biên bản Biên bản là văn bản ghi chép một cách trung thực, chính xác, đầy đủ một sự việc đang xảy ra hoặc vừa mới xảy ra. Người ghi biên bản chịu trách nhiệm về tính xác thực của biên bản. Biên bản được trình bày theo thể thức quy định. Điều quan trọng không thể thiếu là quốc hiệu và tiêu ngữ, thời gian, địa đĩểm, sự việc, họ tên những người liên quan, mức độ trách nhiệm đối với sự việc. 2. Hợp đồng Hợp đồng là văn bản có tính chất pháp lí ghi lại nội dung thoả thuận về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của hai bên tham gia giao dịch nhằm đảm bảo thực hiện đúng thoả thuận đã cam kết. Văn bản hợp đồng được trình bày theo một số mục quy định. Điều không thể thiếu là các mục: quốc hiệu và tiêu ngữ, tên hợp đồng, thời gian, địa điểm và tên người (đại diện cho cá nhân hoặc tổ chức), nội dung thoả thuận theo từng điều khoản, chữ kí của hai người đại diện (nếu là cơ quan, cần có dấu của cơ quan xác nhận). 3. Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi là văn bản bày tỏ tình cảm của cá nhân (hoặc tổ chức) gửi đến cá nhân (hoặc tổ chức) khác. Nội dung thư (điện) thường nêu rõ lí do của việc gửi thư, hay điện, bày tỏ tình cảm của cá nhân (hoặc tổ chức) gửi và lời động viên đối với cá nhân (tổ chức) nhận. Thư (điện) thường ngắn gọn, theo một công thức chung. III. CÁCH LÀM VĂN BẢN HÀNH CHÍNH 1. Biên bản Biên bản yêu cầu người viết phải nắm vững thể thức, nội dung biên bản, loại biên bản (biên bản hội nghị, biên bản sự vụ). Phải ghi rõ: sự việc xảy ra ở đâu, thời gian nào, kết quả (hậu quả) ra sao, những người liên quan có trách nhiệm kí tên. Các mục của một biên bản hội nghị: Các mục của một biên bản sự vụ: 2. Hợp đồng Văn bản hợp đồng yêu cầu người viết phải nắm vững thể thức, nội dung hợp đồng: tên hợp đồng, thời gian, địa điểm và tên người (đại diện cho cá nhân hoặc tổ chức), nội dung thoả thuận theo từng điều khoản, chữ kí của hai người đại diện. Các mục của một hợp đồng: 3. Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi Văn bản thư (điện) yêu cầu người viết phải nắm vững thể thức, nội dung thư (điện): thư (điện) thăm hỏi haỵ chúc mừng, gửi tổ chức hay cá nhân, nhân sự kiện gì, nội dung bày tỏ là gì. a) Các muccủa môt văn bản thư chúc mừng và thăm hỏi: (lưu ý rằng văn bản này không giống với một bức thư thông thường)
Instruct I – CHARACTERISTICS AND REQUIREMENTS OF ADMINISTRATIVE DOCUMENTS Administrative documents are a type of document often used to convey certain contents and requirements from superiors down or express opinions and aspirations of individuals or groups to competent agencies and people for resolution. decided. Also included in this category are written reports, notices, minutes, contracts and even letters (emails) of congratulations and visits. For example: Need to express wishes, or report to superiors, people write proposals and reports (Literature 7). It is necessary to present the development of the incident, the consequences and responsibilities of the participants (related people) to the individual or organization with the authority to consider and resolve, and write a written report. It is necessary to clearly inform the group's and superiors' policies and issue a written notice (Literature 8). It is necessary to record an important event for the individual or organization that makes the minutes. If you need to record the agreement on the responsibilities, obligations, and rights of the parties involved in the transaction, you must make a contract. If you need to visit or congratulate, use mail or telegram. Except for letters of congratulations and visits that have separate templates, written minutes and contracts are usually presented according to a certain convention, which must clearly state: – National name and motto. - Name of Document. – Date, month, year, place of writing. – Full names of participants and their responsibilities. – Main content of the document: events, agreements. – End of document: full name and signature of responsible person. II – TYPES OF ADMINISTRATIVE DOCUMENTS IN GRADE 9 1. Minutes Minutes are documents that honestly, accurately, and completely record an event that is happening or has just happened. The person taking the minutes is responsible for the authenticity of the minutes. Minutes are presented in the prescribed format. The indispensable important things are the national name and motto, time, place, incident, full names of people involved, and level of responsibility for the incident. 2. Contract A contract is a legal document that records the content of the agreement on the responsibilities, obligations, and rights of the two parties participating in the transaction to ensure the correct implementation of the committed agreement. Contract documents are presented according to a number of prescribed sections. What is indispensable are the items: national name and motto, contract name, time, location and name of person (representing individual or organization), content of agreement according to each clause, signature of both parties. representative (if it is an agency, confirmation agency's stamp is required). 3. Letter (email) of congratulations and greetings Letters (emails) of congratulations and visits are documents expressing feelings from an individual (or organization) sent to another individual (or organization). The content of the letter (email) usually clearly states the reason for sending the letter or telegram, expressing the feelings of the sending individual (or organization) and encouragement to the receiving individual (or organization). Letters (emails) are usually brief, following a general formula. III. HOW TO MAKE ADMINISTRATIVE DOCUMENTS 1. Minutes Minutes require the writer to master the format, content of the minutes, and type of minutes (conference minutes, incident minutes). Must clearly state: where the incident happened, what time, what the outcome (consequences), and the people involved are responsible for signing. Sections of a conference minutes: Sections of an incident record: 2. Contract Contract documents require the writer to master the form and content of the contract: contract name, time, location and name of person (representing individual or organization), content of agreement according to each clause. , signature of two representatives. Sections of a contract: 3. Letter (email) of congratulations and greetings The text of an email requires the writer to master the format and content of the email: a letter of visit or congratulation, to an organization or individual, on what occasion, and what the content is expressed. What. a) Elements of a written letter of congratulations and greetings: (note that this text is not the same as a regular letter)
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Ánh trăng Đề bài: Nêu cảm nghĩ về khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một khổ thơ trong một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là khổ thơ kết của bài thơ Ánh trăng của tác giả Nguyễn Duy. – Phân tích cảm nhận sấu sắc của nhà thơ đối với một hiện tượng của cuộc – Sống thông qua hình thức nghệ thuật của khổ thơ. – Bài viết có mối liên kết chặt chẽ, hợp lí giữa khổ kết với toàn bài thơ để làm rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. 2. Gợi ý – Đọc kĩ bài thơ nhất là khổ thơ kết (4 câu). – Tham khảo các tư liệu nghiên cứu phê bình về bài thớ, về nhà thơ, về thơ ca thời hậu chiến. – Chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để thấy được ý tưởng sâu xa mà tác giả gửi gắm trong hình ảnh thơ đó. – Kết hợp khéo léo với biểu cảm. 3. Lập dàn ý a. Mở bài – Thơ ca hậu chiến dẫn đến cảm hứng chủ đạo. – Nguyễn Duy có cái nhìn chiêm nghiệm và sâu sắc về con người để nhắc nhở, cảnh tỉnh họ. b. Thân bài – Cảm nhận chung về hình ảnh ánh trăng trong toàn bài – Khổ thơ kết (4 câu) c. Kết bài: Trân trọng, giữ gìn quá khứ để vững bước tới tương lai. 4. Bài làm minh họa Cuộc sống là những chuỗi biến chuyển và đổi thay mà con người không thể nào lường trước được. Đôi khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy bất tận của nó mà vội vã bỏ quên những giá trị, những nghĩa tình thuỷ chung cũng chưa xa trong quá khứ. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến mà biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống cho sự thống nhất của dân tộc, cuộc chiến mà trong nó hiển hiện bao nhiêu chiến công lẫy lừng, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng, chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến sự thờ ơ, lạnh nhạt của con người trước những năm tháng tưởng như không thể nào quên ấy. Văn học thời kì đó nhận thức rõ điều đó. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đầy ngỡ ngàng và chua xót đối với cái xã hội đang quẩn quanh trong nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bài thơ Ảnh trăng của Nguyễn Duy là một trong số đó. Tác giả đặt nhan đề cho “bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng – vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng, biển bạc. vầng trăng ấy đã theo chân tác giả thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với một vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa, con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ đó bền chặt, xoắn xuýt qua bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên: Ngỡ không bao giờ quên Cái ương trăng tình nghĩa Nhưng cuộc đời không phải sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay, không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở thành thừa thãi, vô nghĩa, xa lạ, lạnh lúng,… bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn chỉ là quá khứ, Tần có thể bị che khuất bởi những lo toan, dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ớ đây tác giả đã kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người, vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay, giờ đây lại chỉ như “người dưng qua,đường”. Cái ngớ thân quen xưa nay trở nên âm thầm và xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ đã tạo nên bước ngoặt của tác phẩm, khi để tình huống bất ngờ “đèn điện tắt” xảy ra. Lúc đó, con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ, khiến họ chợt nhận ra vẻ đẹp và giá trị đích thực của những ngày xưa cũ ẩn sau sự dịu dàng, bao dung của ánh trăng. Trên cơ sở đó, tác giả đã viết nên khổ thơ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triêt lí sâu sắc của toàn bài thơ. Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi người vô tình Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho tơ giật mình. Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn và cao thượng đến lạ lụng. Mặc cho con người có thờ ơ, lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên, thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn mà hào hùng, vinh quang thuở trước, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương, chở che, đùm bọc cách mạng: Trăng cứ tròn vành vạnh Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân tình thuỷ chung của một thời oanh liệt – dù đã lùi xa ẩn mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy, viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người càng làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước tòa án lương tâm. Quả thật, chẳng có toà án nào xét xử sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri ở sâu thẳm tâm hồn mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm với quá khứ. Sự cao thượng, vị tha của vầng trăng bất chấp ta vô tình, xa lạ – buộc nhà thơ phải suy nghĩ lại về chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ ba năm với cuộc sống thị thành, với những bộn bề lo toan thường nhật lại có thể làm người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửà đạn, thiếu thốn, trong ấm áp tình đồng đội, trong/vòng tay che chở của nhân dần? vẫn biết không có gì là mãi mãi trướe sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng những điều đang diễn ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại. Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng vẫn nặng lòng sáng soi. Với biện pháp nhân hoá tinh tế: Ánh trăng im phăng phắc Ta đã thấy sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó im lặng trước sự bội bạc vô tình của con người, cái im lặng dịu dàng, tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy sâu vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ, chính sự im lặng ấy, tưởng như yếu ớt và lẻ lói ấy lại có sức mạnh khiến con người ta phải trầm ngâm xét lại mình. Họ chợt nhận ra giá trị của những điều mình đã bỏ quên – quá khứ của chính mình và một thời hào hùng oanh liệt của toàn dân tộc: Đủ cho ta giật mình Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng quanh vòng xoáy của bao lo toan và mưu tính. Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai! Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đa qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là tiếp nối những điều cha ông ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ? Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người, làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ thơ cuối bài là một chút “giật mình” của tác giả, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta! (Phan Tuấn Ngọc, lớp 9A1, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét Bài nghị luận về một khổ thơ khá thành công. Ngòi bút nghị luận vững vàng, chắc chắn. Tác phẩm văn học trích đã được phấn tích thấu đáo với tư duy rành mạch, ngòi bút giàu cảm xúc. Đáng khen cho Tuấn Ngọc, một bạn học sinh nam mà có những rung cảm nhẹ nhàng, sâu lắng về một đoạn trích thơ trữ tình, về một nhân vật trữ tình của bài thơ. Cái nhìn sâu sắc của bạn đã giúp cho người đọc hiểu được ý tưởng của Nguyễn Duy, và cũng thấm thìa lời nhắn nhủ chân tình của bài thơ.
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Ánh trăng Đề bài: Nêu cảm nghĩ về khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một khổ thơ trong một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là khổ thơ kết của bài thơ Ánh trăng của tác giả Nguyễn Duy. – Phân tích cảm nhận sấu sắc của nhà thơ đối với một hiện tượng của cuộc – Sống thông qua hình thức nghệ thuật của khổ thơ. – Bài viết có mối liên kết chặt chẽ, hợp lí giữa khổ kết với toàn bài thơ để làm rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. 2. Gợi ý – Đọc kĩ bài thơ nhất là khổ thơ kết (4 câu). – Tham khảo các tư liệu nghiên cứu phê bình về bài thớ, về nhà thơ, về thơ ca thời hậu chiến. – Chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để thấy được ý tưởng sâu xa mà tác giả gửi gắm trong hình ảnh thơ đó. – Kết hợp khéo léo với biểu cảm. 3. Lập dàn ý a. Mở bài – Thơ ca hậu chiến dẫn đến cảm hứng chủ đạo. – Nguyễn Duy có cái nhìn chiêm nghiệm và sâu sắc về con người để nhắc nhở, cảnh tỉnh họ. b. Thân bài – Cảm nhận chung về hình ảnh ánh trăng trong toàn bài – Khổ thơ kết (4 câu) c. Kết bài: Trân trọng, giữ gìn quá khứ để vững bước tới tương lai. 4. Bài làm minh họa Cuộc sống là những chuỗi biến chuyển và đổi thay mà con người không thể nào lường trước được. Đôi khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy bất tận của nó mà vội vã bỏ quên những giá trị, những nghĩa tình thuỷ chung cũng chưa xa trong quá khứ. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến mà biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống cho sự thống nhất của dân tộc, cuộc chiến mà trong nó hiển hiện bao nhiêu chiến công lẫy lừng, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng, chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến sự thờ ơ, lạnh nhạt của con người trước những năm tháng tưởng như không thể nào quên ấy. Văn học thời kì đó nhận thức rõ điều đó. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đầy ngỡ ngàng và chua xót đối với cái xã hội đang quẩn quanh trong nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bài thơ Ảnh trăng của Nguyễn Duy là một trong số đó. Tác giả đặt nhan đề cho “bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng – vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng, biển bạc. vầng trăng ấy đã theo chân tác giả thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với một vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa, con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ đó bền chặt, xoắn xuýt qua bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên: Ngỡ không bao giờ quên Cái ương trăng tình nghĩa Nhưng cuộc đời không phải sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay, không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở thành thừa thãi, vô nghĩa, xa lạ, lạnh lúng,… bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn chỉ là quá khứ, Tần có thể bị che khuất bởi những lo toan, dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ớ đây tác giả đã kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người, vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay, giờ đây lại chỉ như “người dưng qua,đường”. Cái ngớ thân quen xưa nay trở nên âm thầm và xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ đã tạo nên bước ngoặt của tác phẩm, khi để tình huống bất ngờ “đèn điện tắt” xảy ra. Lúc đó, con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ, khiến họ chợt nhận ra vẻ đẹp và giá trị đích thực của những ngày xưa cũ ẩn sau sự dịu dàng, bao dung của ánh trăng. Trên cơ sở đó, tác giả đã viết nên khổ thơ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triêt lí sâu sắc của toàn bài thơ. Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi người vô tình Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho tơ giật mình. Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn và cao thượng đến lạ lụng. Mặc cho con người có thờ ơ, lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên, thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn mà hào hùng, vinh quang thuở trước, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương, chở che, đùm bọc cách mạng: Trăng cứ tròn vành vạnh Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân tình thuỷ chung của một thời oanh liệt – dù đã lùi xa ẩn mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy, viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người càng làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước tòa án lương tâm. Quả thật, chẳng có toà án nào xét xử sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri ở sâu thẳm tâm hồn mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm với quá khứ. Sự cao thượng, vị tha của vầng trăng bất chấp ta vô tình, xa lạ – buộc nhà thơ phải suy nghĩ lại về chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ ba năm với cuộc sống thị thành, với những bộn bề lo toan thường nhật lại có thể làm người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửà đạn, thiếu thốn, trong ấm áp tình đồng đội, trong/vòng tay che chở của nhân dần? vẫn biết không có gì là mãi mãi trướe sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng những điều đang diễn ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại. Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng vẫn nặng lòng sáng soi. Với biện pháp nhân hoá tinh tế: Ánh trăng im phăng phắc Ta đã thấy sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó im lặng trước sự bội bạc vô tình của con người, cái im lặng dịu dàng, tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy sâu vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ, chính sự im lặng ấy, tưởng như yếu ớt và lẻ lói ấy lại có sức mạnh khiến con người ta phải trầm ngâm xét lại mình. Họ chợt nhận ra giá trị của những điều mình đã bỏ quên – quá khứ của chính mình và một thời hào hùng oanh liệt của toàn dân tộc: Đủ cho ta giật mình Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng quanh vòng xoáy của bao lo toan và mưu tính. Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai! Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đa qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là tiếp nối những điều cha ông ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ? Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người, làm thay đổi con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ thơ cuối bài là một chút “giật mình” của tác giả, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta! (Phan Tuấn Ngọc, lớp 9A1, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét Bài nghị luận về một khổ thơ khá thành công. Ngòi bút nghị luận vững vàng, chắc chắn. Tác phẩm văn học trích đã được phấn tích thấu đáo với tư duy rành mạch, ngòi bút giàu cảm xúc. Đáng khen cho Tuấn Ngọc, một bạn học sinh nam mà có những rung cảm nhẹ nhàng, sâu lắng về một đoạn trích thơ trữ tình, về một nhân vật trữ tình của bài thơ. Cái nhìn sâu sắc của bạn đã giúp cho người đọc hiểu được ý tưởng của Nguyễn Duy, và cũng thấm thìa lời nhắn nhủ chân tình của bài thơ.
Hướng dẫn Phân tích bài thơ mây và sóng Đề bài: Suy nghĩ về vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc trong bài thơ Mây và sóng của Ta-go. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một bài thơ dịch. – Vấn đề cần nghị luận: chất trữ tình mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc trong bài thơ của thi hào Ta-go. – Phân tích những cảm nhận về vẻ đẹp hình thức cũng như nội dung của bài thơ. – Làm rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ: niềm vui thú, hạnh phúc nhất của con người là tình yêu thương và sự hi sinh. 2. Gợi ý – Đọc kĩ văn bản và các tư liệu bàn về bài thơ, về tác giả Ta-go. – Thấy rõ được quá trình phát triển trong tình yêu thương mẹ của đứa con (từ thấp đến cao) và vẻ đẹp thơ mộng nhưng đầy hơi thổ hiện thực cuộc sống trong bức tranh thiên nhiên. – Kết hợp chặt chẽ giữa nghị luận và biểu cảm. – Đối với thơ dịch, tránh phân tích phân tích từ ngữ mà chủ yếu phân tích hình ảnh thơ. 3. Lập dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài – Thơ về tình mẫu tử. – Sự độc đáo của Mây và sóng: vẻ đẹp mộng mơ nhưng hàm ý sâu sắc. b. Thân bài – Tình mẫu tử là đề tài muôn thuở của thi ca – Sự khước từ mọi thú vui hâp dẫn và hi sinh của đứa con dành cho mẹ để được ở bên mẹ – Ca ngợi tình cảm mẹ con gắn bó, yêu thương là niềm hạnh phúc thiêng liêng cao cả nhất trên cõi nhân gian này c. Kết bài: Mượn tình cảm mẫu tử để khẳng định tình yêu thương và sự hi sinh là niềm vui bất tử và cao quý nhất của con người. 4. Bài làm minh họa Văn học muôn đời vẫn đầy ắp tình yêu thương. Nhiệm vụ của nó là thể hiện và ngợi ca những tình cảm đẹp đẽ trong cuộc sống con người. Chính vì vậy mà tình mẫu tử được đưa vào thơ ca và trở thành một chủ đề không bao giờ vơi cạn. Mây và sóng là một trong những bài thơ đó. Với thi pháp độc đáo, thi phẩm đã ca ngợi tình cảm của đứa con dành cho mẹ. Sức gợi cảm của bài thơ không chỉ là nghệ thuật đặc sắc mà còn là chiều sâu ý nghĩa của một vẻ đẹp chan chứa tình cảm thiêng liêng của con người. Bài thơ là lời kể của em bé, được chia thành hai phần có nhịp điệu giống nhau nhưng các từ ngữ, hình ảnh có sự khác biệt mới mẻ và mức độ tình cảm của em bé dành cho mẹ phát triển ngày càng sâu sắc, mạnh mẽ hơn. Chính điều này làm nên sự hấp dẫn cho bài thơ. Phần thứ nhất của bài thơ, em bé kể việc mình được rủ đì chơi và em đã từ chối; phần thứ hai là sự sáng tạo ra trò chơi của em bé. Tinh yêu quý cha mẹ là điều không mới mẻ nhưng ở đây, tình cảm đó bộc lộ một cách không giống lẽ thường mà nó vượt qua mọi thử thách, vượt qua mọi cám dỗ ở đời. Hai phần của bài thơ đứng cạnh nhau, giúp chúng ta hiểu rõ về tình mẫu tử sâu sắc và trọn vẹn của em bé đã dành cho mẹ. Những trò chơi trên mây, dưới sóng được mời chào rất lí thú và hấp dẫn trên nền của bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và thơ mộng đã gợi nên trong lòng con người sự ham mê khó có thể cưỡng lại được… Chúng ta tưởng như những trò chơi đó chỉ có thể có ở những xứ sở thần tiên hay ở cõi thiên đường huyền bí: Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc. Trẻ em ai chẳng thích đi chơi, nhất là khi trò chơi lại thú vị và lôi cuốn như thê. Vậy mà những lạc thú vui chơi nào đã dừng lại! Càng về sau chúng càng rủ rê, chèo kéo tha thiết hơn, sôi nổi hơn, hết lần này đến lần khác, mỗi lần một lí thú hơn, hấp dẫn hơn: Bọn tớ cơ hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du từ nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao. Thật là những thú vui đến trong mơ cũng khó thú vị hơn được. Lời mời ngọt ngàò, lôi cuốn ngay cả người lớn chắc cũng khó cưỡng nổi nữa là trẻ. Chúng ta nghe!ời hỏi của đứa bé để thấy Ta-go am hiểu tâm lí các em như thế nào: Nhưng làm thế nào mình lên đó được? Nhưng lảm thế nào mình ra ngoài đó được? Những lời hỏi thể hiện mong muốn được đi chơi của em bé. Vậy mà bỗng chốc nó đã từ chối tất cả chỉ vì một lí do đơn giản nhưng tràn ngập tình yêu thương: Mẹ mình đang đợi ở nhà Làm sao có thể rời mẹ mà đến được? Hoặc: Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được? Lời khước từ ngây thơ nhưng chân thật đó như một minh chứng cao đẹp cho tình mẫu tử thiêng liêng và sâu sắc của nhân vật trữ tỉnh trong tác phẩm của Ta-go. Những thú vui dù hấp dẫn, dù đáng mơ ước đến đâu cũng không thể vượt qua hình ảnh ấm áp của mẹ trong trái tim em bé. Dường như em bé hiểu rằng, khi được ở bên mẹ thì cuộc sống sẽ đẹp đẽ hơn bất kì thế giới thần tiên nào. Em hiểu được niềm hạnh phúc của tình yêu thương và sự nâng niu chiều chuộng của mẹ sẽ đem lại cho em những điều cần thiết hơn tất cả những thú vui hấp dẫn khác trên cõi đời này. Em bé đã sớm nhận thức được những trò chơi trên mây, dưới sóng với bạn bè trong chốc lát làm sao thay thế được những giây phút được cận kề bên mẹ. Được gần gũi bên người mẹ thân yêu thay vì những thú vui chốc lát chính là niềm hạnh phúc của sự hi sinh. Nếu bài thơ chỉ dừng ở đó thì thơ Ta-go cũng không thể vượt biên giới mà đến với chúng ta, với năm châu bạn bè được. Ớ phần thứ hai, với trí tưởng tượng và tình cảm tha thiết, em bé đã nghĩ ra trò chơi hết sức thú vị, Dựa trên những thú vui thần tiên mà em vừa được nghe kể để sáng tạo ra trò chơi cho riêng mình, ở đó cũng có mây và trăng, lại không hề thiếu sóng và bến bờ kì lạ… nhưng điều quý giá nhất trong những trò chơi của em bé là có cả mẹ nữa. Từ chối niềm vui riêng của mình để vui cùng mẹ là cả một quá trình diễn biến tâm lí sinh động và thú vị. Bằng trí thông minh và trái tim yêu thương, em bé tự tạo ra những niềm vui cho mình, đặc biệt là cho cả hai mẹ con. Em hiểu sâu sắc rằng niềm vui của mìrih chỉ trở nên trọn vẹn khi có mẹ ở bên và ngược lại. Hai mẹ con không chỉ chơi với mây và sóng mà chính họ đã hoá thân vào mây và sóng: Con là mây và mẹ sẽ là trăng Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ. Đây không còn là những trò chơi bình thường nữa mà là trò chơi muôn đời bền vững và trường tồn, không bao giờ nhàm chán. Bởi lẽ trong đó là hình ảnh đẹp tuyệt vời của hai mẹ con quấn quýt bên nhau trong tình yêu lớn lao và cao cả: Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ. Dư âm của tiếng cười như những giọt pha lê ngân mãi trong lòng chúng ta bởi niềm vui bất tận của tình mẫu tử thiêng liêng và kì diệu. Niềm vui đó như được ủ kín, như của chỉ riêng hai mẹ con mà người ngoài không ai tìm được: Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào. Tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý đã hoà vào vũ trụ và cuộc sống xung quanh. Nó hiện hữu ở mọi nơi trên thế gian để khẳng định tình yêu thương có sức mạnh biến đổi khôn lường. Qua câu chuyện thần tiên giản dị đó, bài thơ còn gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ là lời ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng mà còn gửi gắm nhiều suy ngẫm về cuộc sống. Cũng như những trò chơi trên mây dưới sóng, cuộc sống có rất nhiều cám dỗ mà mỗi con người rất khó vượt qua. Nhưng người ta hoàn toàn có thể vượt qua những thử thách ấy bằng sức mạnh của những tình cảm tốt đẹp trong cuộc đời. Tình mẹ con là một trong những chỗ dựa ấm áp nhất, vững chắc nhất của con người. Nó là ngọn lửa khơi nguồn sáng tạo, nó làm thăng hoa vẻ đẹp tinh thần muôn đời bất diệt của nhân loại. Cũng như em bé đã hướng lòng mình vào sự vĩnh cửu của tình mẫu tử, chúng ta luôn tin tưởng vào sức trường tổn của tình cảm con người. Nhờ đó con người có đủ dũng cảm để đối mặt với mọi cám dỗ, mọi thử thách trong cuộc sống bộn bề gian khó hôm nay. Ta-go đã lựa chọn được một đề tài rất độc đáo cho thị phẩm của mình: tình yêu thương đầy hi sinh và sáng tạo của đứa con đối với mẹ – điều mà từ trước đến nay rất ít người đề cập. Và ông đã thành công trong việc miêu tả, ngợi ca nộ bằng hình thức đối thoại trong lời kể của em bé, lồng vào bức tranh thiên nhiên thơ mộng đầy sức sống. Bài thơ đá thành công khi thể hiện những suy ngẫm sâu sắc, tâm hồn và trái tím mơ mộng của con người. (Lê Hoàng Hoa, lớp 9A1, Trường THCS Nqô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét Bài viết thể hiện tư duy nghị luận lô-gíc, giàu thuyết phục. Sự cảm nhận của bạn Hoàng Hoa vừa giàu xúc cảm, vừà tinh tế khiến người đọc thêm yêu quý và gần gũi với nhà thơ trữ tình lớn của thi ca Ân Độ nói riêng, thi ca nhân loại nói chung. Hoàng Hoa đã có nhiều cố gắng cắt nghĩa nhịp thơ trong toăn bài để chúng ta hiểu được tình cảm mẫu tử thiêng liêng đã phát triển từng bước một trong tâm hồn cũng như trong việc làm của đứa bé trong bài thơ. Vô hình trung, các bạn trẻ tự nhìn lại mình, tự so sánh tình cảm của mình với mẹ qua nhân vật trữ tình của bài thơ. Chúng ta thật cảm động khi bạn Hoa viết: Những thú vui dù hấp dẫn, dù đáng mơ ước đến đâu cũng không thể vượt qua hình ảnh ấm áp của mẹ trong trái tim em bé. Dường như em bé hiểu rằng, khi được ở bên mẹ thì cuộc sống sẽ đẹp đễ hơn bất kì thế giới thần tiên nào hoặc Em hiêu sâu sắc rằng niềm vui của mình chỉ trở nên trọn vẹn khi có mẹ ở bên uà ngược lại.
Hướng dẫn Phân tích bài thơ mây và sóng Đề bài: Suy nghĩ về vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc trong bài thơ Mây và sóng của Ta-go. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một bài thơ dịch. – Vấn đề cần nghị luận: chất trữ tình mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc trong bài thơ của thi hào Ta-go. – Phân tích những cảm nhận về vẻ đẹp hình thức cũng như nội dung của bài thơ. – Làm rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ: niềm vui thú, hạnh phúc nhất của con người là tình yêu thương và sự hi sinh. 2. Gợi ý – Đọc kĩ văn bản và các tư liệu bàn về bài thơ, về tác giả Ta-go. – Thấy rõ được quá trình phát triển trong tình yêu thương mẹ của đứa con (từ thấp đến cao) và vẻ đẹp thơ mộng nhưng đầy hơi thổ hiện thực cuộc sống trong bức tranh thiên nhiên. – Kết hợp chặt chẽ giữa nghị luận và biểu cảm. – Đối với thơ dịch, tránh phân tích phân tích từ ngữ mà chủ yếu phân tích hình ảnh thơ. 3. Lập dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài – Thơ về tình mẫu tử. – Sự độc đáo của Mây và sóng: vẻ đẹp mộng mơ nhưng hàm ý sâu sắc. b. Thân bài – Tình mẫu tử là đề tài muôn thuở của thi ca – Sự khước từ mọi thú vui hâp dẫn và hi sinh của đứa con dành cho mẹ để được ở bên mẹ – Ca ngợi tình cảm mẹ con gắn bó, yêu thương là niềm hạnh phúc thiêng liêng cao cả nhất trên cõi nhân gian này c. Kết bài: Mượn tình cảm mẫu tử để khẳng định tình yêu thương và sự hi sinh là niềm vui bất tử và cao quý nhất của con người. 4. Bài làm minh họa Văn học muôn đời vẫn đầy ắp tình yêu thương. Nhiệm vụ của nó là thể hiện và ngợi ca những tình cảm đẹp đẽ trong cuộc sống con người. Chính vì vậy mà tình mẫu tử được đưa vào thơ ca và trở thành một chủ đề không bao giờ vơi cạn. Mây và sóng là một trong những bài thơ đó. Với thi pháp độc đáo, thi phẩm đã ca ngợi tình cảm của đứa con dành cho mẹ. Sức gợi cảm của bài thơ không chỉ là nghệ thuật đặc sắc mà còn là chiều sâu ý nghĩa của một vẻ đẹp chan chứa tình cảm thiêng liêng của con người. Bài thơ là lời kể của em bé, được chia thành hai phần có nhịp điệu giống nhau nhưng các từ ngữ, hình ảnh có sự khác biệt mới mẻ và mức độ tình cảm của em bé dành cho mẹ phát triển ngày càng sâu sắc, mạnh mẽ hơn. Chính điều này làm nên sự hấp dẫn cho bài thơ. Phần thứ nhất của bài thơ, em bé kể việc mình được rủ đì chơi và em đã từ chối; phần thứ hai là sự sáng tạo ra trò chơi của em bé. Tinh yêu quý cha mẹ là điều không mới mẻ nhưng ở đây, tình cảm đó bộc lộ một cách không giống lẽ thường mà nó vượt qua mọi thử thách, vượt qua mọi cám dỗ ở đời. Hai phần của bài thơ đứng cạnh nhau, giúp chúng ta hiểu rõ về tình mẫu tử sâu sắc và trọn vẹn của em bé đã dành cho mẹ. Những trò chơi trên mây, dưới sóng được mời chào rất lí thú và hấp dẫn trên nền của bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và thơ mộng đã gợi nên trong lòng con người sự ham mê khó có thể cưỡng lại được… Chúng ta tưởng như những trò chơi đó chỉ có thể có ở những xứ sở thần tiên hay ở cõi thiên đường huyền bí: Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc. Trẻ em ai chẳng thích đi chơi, nhất là khi trò chơi lại thú vị và lôi cuốn như thê. Vậy mà những lạc thú vui chơi nào đã dừng lại! Càng về sau chúng càng rủ rê, chèo kéo tha thiết hơn, sôi nổi hơn, hết lần này đến lần khác, mỗi lần một lí thú hơn, hấp dẫn hơn: Bọn tớ cơ hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du từ nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao. Thật là những thú vui đến trong mơ cũng khó thú vị hơn được. Lời mời ngọt ngàò, lôi cuốn ngay cả người lớn chắc cũng khó cưỡng nổi nữa là trẻ. Chúng ta nghe!ời hỏi của đứa bé để thấy Ta-go am hiểu tâm lí các em như thế nào: Nhưng làm thế nào mình lên đó được? Nhưng lảm thế nào mình ra ngoài đó được? Những lời hỏi thể hiện mong muốn được đi chơi của em bé. Vậy mà bỗng chốc nó đã từ chối tất cả chỉ vì một lí do đơn giản nhưng tràn ngập tình yêu thương: Mẹ mình đang đợi ở nhà Làm sao có thể rời mẹ mà đến được? Hoặc: Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được? Lời khước từ ngây thơ nhưng chân thật đó như một minh chứng cao đẹp cho tình mẫu tử thiêng liêng và sâu sắc của nhân vật trữ tỉnh trong tác phẩm của Ta-go. Những thú vui dù hấp dẫn, dù đáng mơ ước đến đâu cũng không thể vượt qua hình ảnh ấm áp của mẹ trong trái tim em bé. Dường như em bé hiểu rằng, khi được ở bên mẹ thì cuộc sống sẽ đẹp đẽ hơn bất kì thế giới thần tiên nào. Em hiểu được niềm hạnh phúc của tình yêu thương và sự nâng niu chiều chuộng của mẹ sẽ đem lại cho em những điều cần thiết hơn tất cả những thú vui hấp dẫn khác trên cõi đời này. Em bé đã sớm nhận thức được những trò chơi trên mây, dưới sóng với bạn bè trong chốc lát làm sao thay thế được những giây phút được cận kề bên mẹ. Được gần gũi bên người mẹ thân yêu thay vì những thú vui chốc lát chính là niềm hạnh phúc của sự hi sinh. Nếu bài thơ chỉ dừng ở đó thì thơ Ta-go cũng không thể vượt biên giới mà đến với chúng ta, với năm châu bạn bè được. Ớ phần thứ hai, với trí tưởng tượng và tình cảm tha thiết, em bé đã nghĩ ra trò chơi hết sức thú vị, Dựa trên những thú vui thần tiên mà em vừa được nghe kể để sáng tạo ra trò chơi cho riêng mình, ở đó cũng có mây và trăng, lại không hề thiếu sóng và bến bờ kì lạ… nhưng điều quý giá nhất trong những trò chơi của em bé là có cả mẹ nữa. Từ chối niềm vui riêng của mình để vui cùng mẹ là cả một quá trình diễn biến tâm lí sinh động và thú vị. Bằng trí thông minh và trái tim yêu thương, em bé tự tạo ra những niềm vui cho mình, đặc biệt là cho cả hai mẹ con. Em hiểu sâu sắc rằng niềm vui của mìrih chỉ trở nên trọn vẹn khi có mẹ ở bên và ngược lại. Hai mẹ con không chỉ chơi với mây và sóng mà chính họ đã hoá thân vào mây và sóng: Con là mây và mẹ sẽ là trăng Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ. Đây không còn là những trò chơi bình thường nữa mà là trò chơi muôn đời bền vững và trường tồn, không bao giờ nhàm chán. Bởi lẽ trong đó là hình ảnh đẹp tuyệt vời của hai mẹ con quấn quýt bên nhau trong tình yêu lớn lao và cao cả: Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ. Dư âm của tiếng cười như những giọt pha lê ngân mãi trong lòng chúng ta bởi niềm vui bất tận của tình mẫu tử thiêng liêng và kì diệu. Niềm vui đó như được ủ kín, như của chỉ riêng hai mẹ con mà người ngoài không ai tìm được: Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào. Tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý đã hoà vào vũ trụ và cuộc sống xung quanh. Nó hiện hữu ở mọi nơi trên thế gian để khẳng định tình yêu thương có sức mạnh biến đổi khôn lường. Qua câu chuyện thần tiên giản dị đó, bài thơ còn gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ là lời ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng mà còn gửi gắm nhiều suy ngẫm về cuộc sống. Cũng như những trò chơi trên mây dưới sóng, cuộc sống có rất nhiều cám dỗ mà mỗi con người rất khó vượt qua. Nhưng người ta hoàn toàn có thể vượt qua những thử thách ấy bằng sức mạnh của những tình cảm tốt đẹp trong cuộc đời. Tình mẹ con là một trong những chỗ dựa ấm áp nhất, vững chắc nhất của con người. Nó là ngọn lửa khơi nguồn sáng tạo, nó làm thăng hoa vẻ đẹp tinh thần muôn đời bất diệt của nhân loại. Cũng như em bé đã hướng lòng mình vào sự vĩnh cửu của tình mẫu tử, chúng ta luôn tin tưởng vào sức trường tổn của tình cảm con người. Nhờ đó con người có đủ dũng cảm để đối mặt với mọi cám dỗ, mọi thử thách trong cuộc sống bộn bề gian khó hôm nay. Ta-go đã lựa chọn được một đề tài rất độc đáo cho thị phẩm của mình: tình yêu thương đầy hi sinh và sáng tạo của đứa con đối với mẹ – điều mà từ trước đến nay rất ít người đề cập. Và ông đã thành công trong việc miêu tả, ngợi ca nộ bằng hình thức đối thoại trong lời kể của em bé, lồng vào bức tranh thiên nhiên thơ mộng đầy sức sống. Bài thơ đá thành công khi thể hiện những suy ngẫm sâu sắc, tâm hồn và trái tím mơ mộng của con người. (Lê Hoàng Hoa, lớp 9A1, Trường THCS Nqô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét Bài viết thể hiện tư duy nghị luận lô-gíc, giàu thuyết phục. Sự cảm nhận của bạn Hoàng Hoa vừa giàu xúc cảm, vừà tinh tế khiến người đọc thêm yêu quý và gần gũi với nhà thơ trữ tình lớn của thi ca Ân Độ nói riêng, thi ca nhân loại nói chung. Hoàng Hoa đã có nhiều cố gắng cắt nghĩa nhịp thơ trong toăn bài để chúng ta hiểu được tình cảm mẫu tử thiêng liêng đã phát triển từng bước một trong tâm hồn cũng như trong việc làm của đứa bé trong bài thơ. Vô hình trung, các bạn trẻ tự nhìn lại mình, tự so sánh tình cảm của mình với mẹ qua nhân vật trữ tình của bài thơ. Chúng ta thật cảm động khi bạn Hoa viết: Những thú vui dù hấp dẫn, dù đáng mơ ước đến đâu cũng không thể vượt qua hình ảnh ấm áp của mẹ trong trái tim em bé. Dường như em bé hiểu rằng, khi được ở bên mẹ thì cuộc sống sẽ đẹp đễ hơn bất kì thế giới thần tiên nào hoặc Em hiêu sâu sắc rằng niềm vui của mình chỉ trở nên trọn vẹn khi có mẹ ở bên uà ngược lại.
Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Sang thu Đề bài: Cảm nhận về bài thợ Sang thu của Hữu Thỉnh. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh. – Phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức các khổ thơ. – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan giữa các khổ với nhau và với toàn bài, đồng thời làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ. 2. Gơi ý – Đọc kĩ cả bài thơ. – Tham khảo các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ, kể cả một số bài viết trong Những bài làm uăn chọn lọc lớp 9 (sđd). – Những cảm nhận mùa thu thể hiện qua các giác quan nào? Sự tinh tế và mới lạ trong cách cảm nhận và thể hiện là gì? – Khổ thơ thứ hai đã mở rộng không gian và đối tượng như thế nào? – Khổ thơ thứ ba chiêm nghiệm về mùa thu ra sao? Mối Hên quan của khổ thơ này với hai khổ trên? – Sự sang thu của thiên nhiên và sang thu của hồn người có chung nhau và khác nhau điều gì? – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lâp dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài: Thơ về mùa thu và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh. b. Thân bài – Cảm nhận mùa thu của tác giả ở khổ đầu. – Khổ thơ thứ hai – Khổ thơ thứ ba – Thành công của tác giả viết về mùa thu thiêrì nhiên ở thời khắc giao mùa. c. Kết bài: Nhấn mạnh vẻ đẹp của toàn bài: mùa thu của đất trời và mùa thu trong hồn người. 4. Bài làm minh hoạ Không biết tự bao giờ thu đã thành bến đợi của nhiều thi sĩ. Người ta yêu thu bởi cái dịu dàng, nhẹ nhàng mà thanh thoát. Thu đã gieo tình cho mỗi tâm hồn thi sĩ và dệt vần nên những bài thơ. Cái duyên tình thu ấy đã dệt nên vẻ đẹp tinh xảo trong Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu nổi tiếng ; lắng sâu trong thơ Tản Đà với Cảm thu và Tiễn thu ; lại còn nồng nàn trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu,… Nhưng thu trong Sang thu của Hữu Thỉnh thật đặc biệt. Nó không hẳn là một bài thơ về mùa thu, mà là tiếng thầm thì của khoảnh khắc giữa hạ chuyển sang thu, cái khoảnh khắc sầu lắng một cách thật đáng yêu và cũng đáng nhớ. Ngay từ khổ đầu, bốn câu thơ như gợi dậy ở ta một tình cảm sâu thẳm như rất thân quèn, hay như đã lâu mới gặp lại: Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Từ “bỗng” mở đầu bài thơ đã thông báo về sự xuất hiện đột ngột của sự vật trong không gian. Nhân vật trữ tình bỗng cảm nhận thấy nhiều điều ở trong ấy. Đó là cảm nhận bằng khứu giác hương thơm của ổi. Hương vị ấy không thoang thoảng, không bay bổng nữa mà nó đậm đặc, ngào ngạt thành từng luồng “phả vào trong gió se”, nó hoà quyện vào vởi tiết thu, với gió thu nhẹ nhàng, phảng phất đâu đây! Đó là cảm nhận bằng xúc giác qua cơn gió thu – thứ gió khô, lạnh và lại dịu dàng mà không mùa nào có được. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm củà thời thơ ấu, là mùi vị quê hương đã thấm đẫm vào tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về là nó lại trở thành tác nhân gợi hứng để gợi nhớ thương. Sự cảm nhận bằng thị giác của nhà thơ cũng được thể hiện rất rõ. Đó là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ vào lúc lập thu với tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Vì vậy, sương cũng là một trong những dấu hiệu để nhận biết mùa thu. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ“ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. Từ láy gợi hình “chùng chình” là một sáng tạo của riêng Hữu Thỉnh, nó gợi cảm giác sương như đang ngưng lại mịt mù hơi nước mà chưa kịp lan toả vào không gian. Hình như sương còn đang lưu luyến chưa muốn rời xa cảnh vật, còn đang say suầ ngắm nhìn hai mùa đằm thắm, giao hoà với nhau. Như vậy, qua tất cả các giác quan, dấu hiệu mùa thu đã rất rõ. Nó không nhất thiết cứ phải như thơ cổ xưa đã tả: Ngô đồng nhất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu. (Một lá ngô đồng rụng Thiên hạ biết thu sang.) Hay phảng phất nỗi sầu vương vấn như Xuân Diệu: Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. mà là một sự tinh tế, cụ thể ; nó hiện hữu trong không gian ngõ hẹp, đang xích lại gần, đang cố đánh thức hồn người. Vậy tại sao nhân vật trữ tình ở đây lại đầy lưỡng lự, chưa đủ “tự tin” để tiếp nhận mùa thu qua cách nói lấp lửng “Hình như thu đã về?”. “Hình như” sao mà lại vô tình, dửng dưng quá vậy! Một sự mâu thuẫn đầy dụng ý. Nó đã làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng nhân vật trữ tình trước khung cảnh mùa thu đã hiện hữu trước mắt. “Bỗng nhận ra… ”, đó đã là một sự khẳng định, thừa nhận một cách khách quan, vậy mà ở cuối khổ thơ thi nhân lại nói “hình như” – tạo ra một sự hẫng hụt vô cùng. Một tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng mà cũng phong phú đến lạ kì. Đó là đang muốn “cố tình” lảng tránh khi chẳng dám đối diện với mùa thu – với chính mình, lại vừa sung sướng khi cảm nhận thấy thu càng ngày càng hiện hữu trước mắt. Phải chăng một không gian hạ nắng vẫn đang tràn ngập cả tâm tư nhân vật, hay là chính nhân vật đã biết rõ rằng mùa thu đã đến gần và cả một sự sung sướng, hạnh phúc đang trào dâng trong lòng nhưng vẫn còn dè dặt, e ngại, chưa dám tiếp nhận? Rồi không gian mùa thu không chỉ là “ngõ” nữa mà là cả một trời thu: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu. Không gian mùa thu mở rộng dần, ngày càng đậm nét hơn qua hình ảnh “sông… dềnh dàng”, “chim… vội vã” – những hình ảnh rất chân thật về thiên nhiên mùa thu. Nhân vật trữ tình đã cảm nhận mùa thu bằng tất cả tâm hồn và con người của mình. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, luỹ tre dọc theo lối ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây đều nhẹ nhàng, thanh thản trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim dường như cũng vội vã hơn. Cả một trời thu mênh mang hiện ra trước mắt, vậy mà “đám mây mùa hạ” mới chỉ “vắt nửa mình” sang thôi. Chưa bước hẳn sang thu nhưng cũng đã là một cách thừa nhận, dù không dứt khoát. Đây là hình ảnh thật độc đáo miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Âm điệu câu thơ như bị bỏ dở, lỡ làng chứ không hoàn chỉnh như những lời thơ trên. Rõ ràng chỗ đứng của thiên nhiên vẫn đang là ở mùa hạ. Động từ “vắt” tạo ra một thế di chuyển vô cùng mềm mại, nhẹ nhàng của thời gian. Ấn tượng về mùa hạ vẫn còn đọng lại nhưng nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã lan nhẹ vào hương hoa trái, sông nước, mây trời từ lúc nào chẳng rõ. Cái thời khắc giao mùa từ hạ sang thu sao mà vẫn còn dùng dằng, khiên cưỡng quá! Hình như vẫn không bước nổi “sang thu”. Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa ào ạt cũng thưa dần: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa. Nếu như ở hai khổ thơ đầu, dấu hiệu mùa thu đã quá rõ ràng qua không gian, thời gian thì ở khổ thơ cuối dấu hiệu mùa hạ vẫn còn vì những “nắng”, “mưa” vẫn tồn tại đấy. Chỉ khác là chúng dịu bớt đi mà thôi. Cảm xúc của nhân vật trữ tình đã được khắc hoạ rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: chợt, phả vào, chùng chình, hình như, dềnh dàng, vắt nửa mình,… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa giữa hạ – thu được Hữu Thỉnh tập trung thể hiện ở hai câu cuối bài thơ: Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Hai câu này có nhiều lớp nghĩa khác nhau. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa mùa hạ. Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn muồ dông mùa hạ đã bớt đi, hàng cây không còn bị giật mình và run rẩy vì tiếng sấm. Tầng nghĩa thứ hai hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. “Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời ; “hàng cây đứng tuổi” ngụ ý chỉ con người đã trưởng thành về mặt tuổi tác, trải nghiệm nhiều trong đường đời. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng mượn hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên để ông gửi gắm suy nghĩ, tâm tư của mình. Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh càng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời. Đó chính là sự khẳng định sức sống mãnh liệt của tâm hồn dù đã “sang thu” vẫn còn rạo rực và nồng nàn hạ nắng. Câu tứ bài thơ thật tự nhiên và hợp lí. Từ chỗ dè dặt, e ngại, đôi lúc muốn lảng tránh, chưa thật dứt khoát đến chấp nhận hoàn toàn rằng mùa thu đã về, đến lúc nhà thơ giúp chúng ta như nhìn thấy mùa thu, nghe thấy mùa thu, thậm chí có cả mùi hương thơm của hoa trái mùa thu ôm ấp quanh ta. Bằng cảm nhận tinh tế và dùng từ tự nhiên, chân thật của các phép ẩn dụ, nhân hoá tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Bài thơ chính là sự cưỡng lại, níu kéo thời gian, một sự dùng dằng khó tả của một tâm hồn không hề muốn già đi theo năm tháng. (Nguyễn Hoàng Lan, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét
Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Sang thu Đề bài: Cảm nhận về bài thợ Sang thu của Hữu Thỉnh. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh. – Phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức các khổ thơ. – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan giữa các khổ với nhau và với toàn bài, đồng thời làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ. 2. Gơi ý – Đọc kĩ cả bài thơ. – Tham khảo các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ, kể cả một số bài viết trong Những bài làm uăn chọn lọc lớp 9 (sđd). – Những cảm nhận mùa thu thể hiện qua các giác quan nào? Sự tinh tế và mới lạ trong cách cảm nhận và thể hiện là gì? – Khổ thơ thứ hai đã mở rộng không gian và đối tượng như thế nào? – Khổ thơ thứ ba chiêm nghiệm về mùa thu ra sao? Mối Hên quan của khổ thơ này với hai khổ trên? – Sự sang thu của thiên nhiên và sang thu của hồn người có chung nhau và khác nhau điều gì? – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lâp dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài: Thơ về mùa thu và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh. b. Thân bài – Cảm nhận mùa thu của tác giả ở khổ đầu. – Khổ thơ thứ hai – Khổ thơ thứ ba – Thành công của tác giả viết về mùa thu thiêrì nhiên ở thời khắc giao mùa. c. Kết bài: Nhấn mạnh vẻ đẹp của toàn bài: mùa thu của đất trời và mùa thu trong hồn người. 4. Bài làm minh hoạ Không biết tự bao giờ thu đã thành bến đợi của nhiều thi sĩ. Người ta yêu thu bởi cái dịu dàng, nhẹ nhàng mà thanh thoát. Thu đã gieo tình cho mỗi tâm hồn thi sĩ và dệt vần nên những bài thơ. Cái duyên tình thu ấy đã dệt nên vẻ đẹp tinh xảo trong Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu nổi tiếng ; lắng sâu trong thơ Tản Đà với Cảm thu và Tiễn thu ; lại còn nồng nàn trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu,… Nhưng thu trong Sang thu của Hữu Thỉnh thật đặc biệt. Nó không hẳn là một bài thơ về mùa thu, mà là tiếng thầm thì của khoảnh khắc giữa hạ chuyển sang thu, cái khoảnh khắc sầu lắng một cách thật đáng yêu và cũng đáng nhớ. Ngay từ khổ đầu, bốn câu thơ như gợi dậy ở ta một tình cảm sâu thẳm như rất thân quèn, hay như đã lâu mới gặp lại: Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Từ “bỗng” mở đầu bài thơ đã thông báo về sự xuất hiện đột ngột của sự vật trong không gian. Nhân vật trữ tình bỗng cảm nhận thấy nhiều điều ở trong ấy. Đó là cảm nhận bằng khứu giác hương thơm của ổi. Hương vị ấy không thoang thoảng, không bay bổng nữa mà nó đậm đặc, ngào ngạt thành từng luồng “phả vào trong gió se”, nó hoà quyện vào vởi tiết thu, với gió thu nhẹ nhàng, phảng phất đâu đây! Đó là cảm nhận bằng xúc giác qua cơn gió thu – thứ gió khô, lạnh và lại dịu dàng mà không mùa nào có được. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm củà thời thơ ấu, là mùi vị quê hương đã thấm đẫm vào tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về là nó lại trở thành tác nhân gợi hứng để gợi nhớ thương. Sự cảm nhận bằng thị giác của nhà thơ cũng được thể hiện rất rõ. Đó là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ vào lúc lập thu với tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Vì vậy, sương cũng là một trong những dấu hiệu để nhận biết mùa thu. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ“ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. Từ láy gợi hình “chùng chình” là một sáng tạo của riêng Hữu Thỉnh, nó gợi cảm giác sương như đang ngưng lại mịt mù hơi nước mà chưa kịp lan toả vào không gian. Hình như sương còn đang lưu luyến chưa muốn rời xa cảnh vật, còn đang say suầ ngắm nhìn hai mùa đằm thắm, giao hoà với nhau. Như vậy, qua tất cả các giác quan, dấu hiệu mùa thu đã rất rõ. Nó không nhất thiết cứ phải như thơ cổ xưa đã tả: Ngô đồng nhất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu. (Một lá ngô đồng rụng Thiên hạ biết thu sang.) Hay phảng phất nỗi sầu vương vấn như Xuân Diệu: Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. mà là một sự tinh tế, cụ thể ; nó hiện hữu trong không gian ngõ hẹp, đang xích lại gần, đang cố đánh thức hồn người. Vậy tại sao nhân vật trữ tình ở đây lại đầy lưỡng lự, chưa đủ “tự tin” để tiếp nhận mùa thu qua cách nói lấp lửng “Hình như thu đã về?”. “Hình như” sao mà lại vô tình, dửng dưng quá vậy! Một sự mâu thuẫn đầy dụng ý. Nó đã làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng nhân vật trữ tình trước khung cảnh mùa thu đã hiện hữu trước mắt. “Bỗng nhận ra… ”, đó đã là một sự khẳng định, thừa nhận một cách khách quan, vậy mà ở cuối khổ thơ thi nhân lại nói “hình như” – tạo ra một sự hẫng hụt vô cùng. Một tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng mà cũng phong phú đến lạ kì. Đó là đang muốn “cố tình” lảng tránh khi chẳng dám đối diện với mùa thu – với chính mình, lại vừa sung sướng khi cảm nhận thấy thu càng ngày càng hiện hữu trước mắt. Phải chăng một không gian hạ nắng vẫn đang tràn ngập cả tâm tư nhân vật, hay là chính nhân vật đã biết rõ rằng mùa thu đã đến gần và cả một sự sung sướng, hạnh phúc đang trào dâng trong lòng nhưng vẫn còn dè dặt, e ngại, chưa dám tiếp nhận? Rồi không gian mùa thu không chỉ là “ngõ” nữa mà là cả một trời thu: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu. Không gian mùa thu mở rộng dần, ngày càng đậm nét hơn qua hình ảnh “sông… dềnh dàng”, “chim… vội vã” – những hình ảnh rất chân thật về thiên nhiên mùa thu. Nhân vật trữ tình đã cảm nhận mùa thu bằng tất cả tâm hồn và con người của mình. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, luỹ tre dọc theo lối ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây đều nhẹ nhàng, thanh thản trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim dường như cũng vội vã hơn. Cả một trời thu mênh mang hiện ra trước mắt, vậy mà “đám mây mùa hạ” mới chỉ “vắt nửa mình” sang thôi. Chưa bước hẳn sang thu nhưng cũng đã là một cách thừa nhận, dù không dứt khoát. Đây là hình ảnh thật độc đáo miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Âm điệu câu thơ như bị bỏ dở, lỡ làng chứ không hoàn chỉnh như những lời thơ trên. Rõ ràng chỗ đứng của thiên nhiên vẫn đang là ở mùa hạ. Động từ “vắt” tạo ra một thế di chuyển vô cùng mềm mại, nhẹ nhàng của thời gian. Ấn tượng về mùa hạ vẫn còn đọng lại nhưng nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã lan nhẹ vào hương hoa trái, sông nước, mây trời từ lúc nào chẳng rõ. Cái thời khắc giao mùa từ hạ sang thu sao mà vẫn còn dùng dằng, khiên cưỡng quá! Hình như vẫn không bước nổi “sang thu”. Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa ào ạt cũng thưa dần: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa. Nếu như ở hai khổ thơ đầu, dấu hiệu mùa thu đã quá rõ ràng qua không gian, thời gian thì ở khổ thơ cuối dấu hiệu mùa hạ vẫn còn vì những “nắng”, “mưa” vẫn tồn tại đấy. Chỉ khác là chúng dịu bớt đi mà thôi. Cảm xúc của nhân vật trữ tình đã được khắc hoạ rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: chợt, phả vào, chùng chình, hình như, dềnh dàng, vắt nửa mình,… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa giữa hạ – thu được Hữu Thỉnh tập trung thể hiện ở hai câu cuối bài thơ: Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Hai câu này có nhiều lớp nghĩa khác nhau. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa mùa hạ. Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn muồ dông mùa hạ đã bớt đi, hàng cây không còn bị giật mình và run rẩy vì tiếng sấm. Tầng nghĩa thứ hai hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. “Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời ; “hàng cây đứng tuổi” ngụ ý chỉ con người đã trưởng thành về mặt tuổi tác, trải nghiệm nhiều trong đường đời. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng mượn hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên để ông gửi gắm suy nghĩ, tâm tư của mình. Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh càng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời. Đó chính là sự khẳng định sức sống mãnh liệt của tâm hồn dù đã “sang thu” vẫn còn rạo rực và nồng nàn hạ nắng. Câu tứ bài thơ thật tự nhiên và hợp lí. Từ chỗ dè dặt, e ngại, đôi lúc muốn lảng tránh, chưa thật dứt khoát đến chấp nhận hoàn toàn rằng mùa thu đã về, đến lúc nhà thơ giúp chúng ta như nhìn thấy mùa thu, nghe thấy mùa thu, thậm chí có cả mùi hương thơm của hoa trái mùa thu ôm ấp quanh ta. Bằng cảm nhận tinh tế và dùng từ tự nhiên, chân thật của các phép ẩn dụ, nhân hoá tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Bài thơ chính là sự cưỡng lại, níu kéo thời gian, một sự dùng dằng khó tả của một tâm hồn không hề muốn già đi theo năm tháng. (Nguyễn Hoàng Lan, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Muốn làm thằng cuội Đề bài: Cảm nhận về tâm trạng của Tản Đà trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội 1. Yêu cầu – “Cảm nhận về tâm trạng” thực chất là viết bài văn nghị luận về một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là tâm trạng tác giả trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà. – Phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức các khổ thơ để thể hiện tâm trạng của người viết. – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan giữa các khổ với nhau và với toàn bài, đồng thời làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ. 2. Gợi ý – Đọc kĩ cả bài thơ. – Tham khảo các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ. – Cảm nhận về nỗi buồn của tác giả, sự “chán nửa” euộc đời trần thế. – Tiếng gọi thiết tha với chị Hằng để bày tỏ tình cảm. – Ước muốn lên cung trăng để xa lánh cõi đời. – Sự lãng mạn, phong tình và cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn lên mặt trăng. – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lập dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài: Tản Đà với bài thơ Muốn làm thằng Cuội. b. Thân bài – Nỗi buồn và chán của Tản Đà – Mong ước lên cung trăng để làm thằng Cuội lớn – Tính chất lãng mạn, phong tình và cái “ngông” của Tản Đà: sánh vai với chị Hằng, làm người trên cung trăng, cười thế gian tầm thường, nhỏ bé. – Thành công của thơ Đường luật, nhưng lời lẽ phóng túng, tình cảm lãng mạn. c. Kết bài: Nhấn mạnh nỗi buồn và tinh thần thoát li, bất hoà với thực tại xã hội thực dân phong kiến là một điều tiến bộ. 4. Bài làm minh hoạ Nước gợn sông Đà con cá nhảy Mây trùm non Tản cánh diều bay. Tản Đà là bút danh cửa nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, được ghép từ tên núi Tản (núi Tản Viên hay còn gọi là núi Ba Vì) và sông Đà, thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây cũ, quê hương tác giả. Trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một hiện tượng đột xuất, dồi dào năng lực sáng tạo. Ông đã đem lại cho thi ca Việt Nam một sức sống mới, một khẳng định cho sự cách tân mạnh mẽ của trào lưu Thơ mới lúc đó và mãi mãi sau này. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa tây nửa ta, thơ Tản Đà phản ánh sự bất bình trước thực tại rối ren, ngột ngạt, đồng thời thể hiện một hồn thơ vừa bay bổng vùa phóng khoáng trong trái tim đa tình của người nghệ sĩ! Thoát trần lên trăng là chủ đề của bài thơ Muốn làm thằng Cuội in lần đầu trong tác phẩm Khối tình con vào năm 1917. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện khát vọng được thoát khỏi cõi đời ô trọc đương thời để đến với một thế giới đẹp đẽ, tự do. Bài thơ đã bộc lộ rõ nét đặc trưng về phong cách thơ Tản Đà, điểu mà người ta quen gọi là lãng mạn, phong tình và “ngông”. Muốn làm thằng Cuội được viết theo thể thất ngôn bát củ của thơ Đường, niêm luật rõ ràng, đối ý, đối thanh rất chuẩn, giọng điệu chung của bài thơ là thể hiện tâm tình tha thiết của thi sĩ. Ngay ở hai câu đề: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi Trần thế em nay chán nửa rồi. Đã bộc bạch tâm trạng buồn chán của nhà thơ trong đêm thu trăng sáng. Thi sĩ, một mình than thở với vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật mà cũng không khoậ lấp được nỗi buồn canh cánh bên lòng. Nhà thơ bất bình trước thực tại một xã hội tối tăm, bế tắc. Cuộc sống ngột ngạt, tù túng làm sao dung nạp được một tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do như Tản Đà? Trái tim muốn cất cánh bay xa, nhưng đi đâu khi xã hội thực dân phong kiến đương thời như một nhà tù lớn giam hãm con người! Để cách biệt hẳn với cõi tục trần gian lắm nhiễu nhương, buồn khổ, thi sĩ đã chọn mặt trăng, một địa điểm tuyệt vời và hoàn toàn tĩnh lặng để tha hồ giãi bày tâm sự. Nhà thơ gọi trăng là “chị” Hằng, xưng là “em” nghe mới êm ái và dịu ngọt làrri sao! Nếu chị Hằng nghe được chắc chị cũng xao xuyến, bồi hồi bởi giọng điệu thơ tha thiết của nhà thơ khi ướm hỏi xem có kẻ nào chán đời đã trốn lên cõi tiên trước mình: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Rồi mới khẩn khoản thỉnh cầu: Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Dường, như nhà thơ ước muốn trở lại làm trẻ con như thuở nào để cứ mỗi đêm Trung thu rước đèn, phá cỗ trông trăng, lại thi nhau tìm cây đa, chú Cuội và thầm mong ước được chị Hằng “nhắc lên chơi” để vui vầy thoả thích với trăng sao, mây gió. Ước trở lại tuổi thơ ấu hồn nhiên trong sáng là để giũ sạch bụi trần, gõ bỏ ngoài tai, ngoài mắt “những điều trông,thấy mà đau đớn lòng” trong suốt nửa đời người. Bỗng chốc, nhà thơ trở lại tuổi thơ với giọng điệu nũng nịu, thiết tha của lời thỉnh nguyện đặc biệt có một không hai này. cảnh và tình trong hai câu đề là nỗi buồn thấm thìa nhưng giọng điệu lại lộ ra nét cười hóm hỉnh. Nếu ở câu thực, nỗi buồn chỉ còn phảng phất thì đến hai câu luận niềm vui được bộc lộ rõ khi nhà thơ tưởng tượng mình đang được sống cùng tiên nữ Hằng Nga ở trên cung trăng: Có bầu có bạn, can chi tủi Cùng gió cùng mây, thế mới vui. Nhà thơ muốn làm thằng Cuội để giải thoát nỗi buồn tích tụ bấy lâu nay. Sống trên cung trăng, thi sĩ vùng thoát khỏi cảnh đục trong của chốn nhân gian, vừa thoả mãn thú tiêu dao được bầu bạn “cùng mây gió”. Nhưng thích nhất vẫn là được kề vai sát cánh với người đẹp tiên nga mà ngắm, mà nhìn, mà vui buồn. Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian, cười. Tâm trạng nhà thơ khi đã thoát tục thành tiên, nhìn xuống trần gian thấy thế giới thật nhỏ bé, chật chội, tù túng với đủ mọi chuyện nực cười. Nhà thơ muốn được thành tiên để “cười” vào thói bon chen danh lợi và cảnh lo toan miếng cơm manh áo chật vật của kiếp người nơi trần thế. Hai câu luận giống như lời tự nhủ: “Có bầu có bạn can chi tủi” thì cái cười ờ câu kết đã bật lên thành tiếng “Tựa nhau trông xuống thế gian, cười”. Sau chuỗi cười dài ấy, thi sĩ từ cõi mộng trở về với cõi thực thì nỗi buồn lại đầy ắp trái tim ; mong được lên tiên chỉ là niềm vui tinh thần để được tự do của Tản Đà. Nó là ảo giác, là khát vọng ám ảnh bởi nhà thơ suốt đời phải sống trong một thực tế phũ phàng. Bài thơ không gây ra cảm giác bi quan, yếu thế mà gợi lên nỗi buồn man mác, thôi thúc người đọc đến với tự do, đến với những gì đẹp, đẽ, hoàn mĩ nhất. Muốn làm thằng Cuội là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Tản Đà, một nhà thơ nổi tiếng là “ngông”. Cùng thời với ông và muộn hơn một chút, Chế Lan Viên tìm đến chốn “Điêu tàn”, đổ nát, sống cô đơn với quá khứ đau thương ; còn Xuân Diệu say đắm với tình yêu đôi lứa ; Huy Cận giấu mình vào “Vũ trụ ca”, Vũ Hoàng Chương triền miên với thơ “Say”,… thì Tản Đà lại xin chị Hằng cho trốn lên cung Quảng để vui thú với cõi tiên. Tản Đà “ngông” vì muốn được làm bạn với Hằng Nga, với gió, với mây và được thành tri âm tri kỉ với chị Hằng. Trỏng xã hội thối nát đương thời bấy giờ, bao kẻ vì ham chữ “danh”, chữ “lợi” mà đánh mất hết nhân cách, nhà thơ “ngông” của chúng ta muốn thoát tục để giữ mình được trong sạch, để hướng tới một sự tự do cao cả. Đó là cái trái khoáy đáng quý, đáng trân trọng về nhân cách của thi sĩ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay về nội dung ý nghĩa, độc đáo sáng tạo về nghệ thuật. Nó tiêu biểu cho phong cách tài hoa của nhà thơ núi Tản sông Đà. Bài thơ đã được dệt nên bằng bút pháp lãng mạn bằng trái tim nhân hậu của nhà thơ. Tuy được viết theo thể Đường luật, nhưng người đọc vẫn nhận thấy nét tự nhiên như lời nói hằng ngày, nó còn phảng phất âm hưởng.của ca dao, dân ca như một sự Việt hoá thành công. Đọc Muốn làm thằng Cuội, chúng ta thấy toát lên một nỗi buồn chán trước toàn cảnh thực tại của xã hội đương thời. Nhà thơ muốn thoát li khỏi hiện thực đen tối bằng mộng tưởng. Đây là giấc ảo giác táo bạo, hợp với tính cách con người nhà thơ. Nỗi buồn của Tản Đà không dừng ở nỗi buồn thời thế của riêng ai mà là nỗi buồn cho thời đại, cho viễn cảnh của xã hội, cho tâm trạng chung của tầng lớp trí thức, nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ. (Trần Minh Trang, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Muốn làm thằng cuội Đề bài: Cảm nhận về tâm trạng của Tản Đà trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội 1. Yêu cầu – “Cảm nhận về tâm trạng” thực chất là viết bài văn nghị luận về một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là tâm trạng tác giả trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà. – Phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức các khổ thơ để thể hiện tâm trạng của người viết. – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan giữa các khổ với nhau và với toàn bài, đồng thời làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ. 2. Gợi ý – Đọc kĩ cả bài thơ. – Tham khảo các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ. – Cảm nhận về nỗi buồn của tác giả, sự “chán nửa” euộc đời trần thế. – Tiếng gọi thiết tha với chị Hằng để bày tỏ tình cảm. – Ước muốn lên cung trăng để xa lánh cõi đời. – Sự lãng mạn, phong tình và cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn lên mặt trăng. – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lập dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài: Tản Đà với bài thơ Muốn làm thằng Cuội. b. Thân bài – Nỗi buồn và chán của Tản Đà – Mong ước lên cung trăng để làm thằng Cuội lớn – Tính chất lãng mạn, phong tình và cái “ngông” của Tản Đà: sánh vai với chị Hằng, làm người trên cung trăng, cười thế gian tầm thường, nhỏ bé. – Thành công của thơ Đường luật, nhưng lời lẽ phóng túng, tình cảm lãng mạn. c. Kết bài: Nhấn mạnh nỗi buồn và tinh thần thoát li, bất hoà với thực tại xã hội thực dân phong kiến là một điều tiến bộ. 4. Bài làm minh hoạ Nước gợn sông Đà con cá nhảy Mây trùm non Tản cánh diều bay. Tản Đà là bút danh cửa nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, được ghép từ tên núi Tản (núi Tản Viên hay còn gọi là núi Ba Vì) và sông Đà, thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây cũ, quê hương tác giả. Trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một hiện tượng đột xuất, dồi dào năng lực sáng tạo. Ông đã đem lại cho thi ca Việt Nam một sức sống mới, một khẳng định cho sự cách tân mạnh mẽ của trào lưu Thơ mới lúc đó và mãi mãi sau này. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa tây nửa ta, thơ Tản Đà phản ánh sự bất bình trước thực tại rối ren, ngột ngạt, đồng thời thể hiện một hồn thơ vừa bay bổng vùa phóng khoáng trong trái tim đa tình của người nghệ sĩ! Thoát trần lên trăng là chủ đề của bài thơ Muốn làm thằng Cuội in lần đầu trong tác phẩm Khối tình con vào năm 1917. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện khát vọng được thoát khỏi cõi đời ô trọc đương thời để đến với một thế giới đẹp đẽ, tự do. Bài thơ đã bộc lộ rõ nét đặc trưng về phong cách thơ Tản Đà, điểu mà người ta quen gọi là lãng mạn, phong tình và “ngông”. Muốn làm thằng Cuội được viết theo thể thất ngôn bát củ của thơ Đường, niêm luật rõ ràng, đối ý, đối thanh rất chuẩn, giọng điệu chung của bài thơ là thể hiện tâm tình tha thiết của thi sĩ. Ngay ở hai câu đề: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi Trần thế em nay chán nửa rồi. Đã bộc bạch tâm trạng buồn chán của nhà thơ trong đêm thu trăng sáng. Thi sĩ, một mình than thở với vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật mà cũng không khoậ lấp được nỗi buồn canh cánh bên lòng. Nhà thơ bất bình trước thực tại một xã hội tối tăm, bế tắc. Cuộc sống ngột ngạt, tù túng làm sao dung nạp được một tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do như Tản Đà? Trái tim muốn cất cánh bay xa, nhưng đi đâu khi xã hội thực dân phong kiến đương thời như một nhà tù lớn giam hãm con người! Để cách biệt hẳn với cõi tục trần gian lắm nhiễu nhương, buồn khổ, thi sĩ đã chọn mặt trăng, một địa điểm tuyệt vời và hoàn toàn tĩnh lặng để tha hồ giãi bày tâm sự. Nhà thơ gọi trăng là “chị” Hằng, xưng là “em” nghe mới êm ái và dịu ngọt làrri sao! Nếu chị Hằng nghe được chắc chị cũng xao xuyến, bồi hồi bởi giọng điệu thơ tha thiết của nhà thơ khi ướm hỏi xem có kẻ nào chán đời đã trốn lên cõi tiên trước mình: Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Rồi mới khẩn khoản thỉnh cầu: Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Dường, như nhà thơ ước muốn trở lại làm trẻ con như thuở nào để cứ mỗi đêm Trung thu rước đèn, phá cỗ trông trăng, lại thi nhau tìm cây đa, chú Cuội và thầm mong ước được chị Hằng “nhắc lên chơi” để vui vầy thoả thích với trăng sao, mây gió. Ước trở lại tuổi thơ ấu hồn nhiên trong sáng là để giũ sạch bụi trần, gõ bỏ ngoài tai, ngoài mắt “những điều trông,thấy mà đau đớn lòng” trong suốt nửa đời người. Bỗng chốc, nhà thơ trở lại tuổi thơ với giọng điệu nũng nịu, thiết tha của lời thỉnh nguyện đặc biệt có một không hai này. cảnh và tình trong hai câu đề là nỗi buồn thấm thìa nhưng giọng điệu lại lộ ra nét cười hóm hỉnh. Nếu ở câu thực, nỗi buồn chỉ còn phảng phất thì đến hai câu luận niềm vui được bộc lộ rõ khi nhà thơ tưởng tượng mình đang được sống cùng tiên nữ Hằng Nga ở trên cung trăng: Có bầu có bạn, can chi tủi Cùng gió cùng mây, thế mới vui. Nhà thơ muốn làm thằng Cuội để giải thoát nỗi buồn tích tụ bấy lâu nay. Sống trên cung trăng, thi sĩ vùng thoát khỏi cảnh đục trong của chốn nhân gian, vừa thoả mãn thú tiêu dao được bầu bạn “cùng mây gió”. Nhưng thích nhất vẫn là được kề vai sát cánh với người đẹp tiên nga mà ngắm, mà nhìn, mà vui buồn. Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian, cười. Tâm trạng nhà thơ khi đã thoát tục thành tiên, nhìn xuống trần gian thấy thế giới thật nhỏ bé, chật chội, tù túng với đủ mọi chuyện nực cười. Nhà thơ muốn được thành tiên để “cười” vào thói bon chen danh lợi và cảnh lo toan miếng cơm manh áo chật vật của kiếp người nơi trần thế. Hai câu luận giống như lời tự nhủ: “Có bầu có bạn can chi tủi” thì cái cười ờ câu kết đã bật lên thành tiếng “Tựa nhau trông xuống thế gian, cười”. Sau chuỗi cười dài ấy, thi sĩ từ cõi mộng trở về với cõi thực thì nỗi buồn lại đầy ắp trái tim ; mong được lên tiên chỉ là niềm vui tinh thần để được tự do của Tản Đà. Nó là ảo giác, là khát vọng ám ảnh bởi nhà thơ suốt đời phải sống trong một thực tế phũ phàng. Bài thơ không gây ra cảm giác bi quan, yếu thế mà gợi lên nỗi buồn man mác, thôi thúc người đọc đến với tự do, đến với những gì đẹp, đẽ, hoàn mĩ nhất. Muốn làm thằng Cuội là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Tản Đà, một nhà thơ nổi tiếng là “ngông”. Cùng thời với ông và muộn hơn một chút, Chế Lan Viên tìm đến chốn “Điêu tàn”, đổ nát, sống cô đơn với quá khứ đau thương ; còn Xuân Diệu say đắm với tình yêu đôi lứa ; Huy Cận giấu mình vào “Vũ trụ ca”, Vũ Hoàng Chương triền miên với thơ “Say”,… thì Tản Đà lại xin chị Hằng cho trốn lên cung Quảng để vui thú với cõi tiên. Tản Đà “ngông” vì muốn được làm bạn với Hằng Nga, với gió, với mây và được thành tri âm tri kỉ với chị Hằng. Trỏng xã hội thối nát đương thời bấy giờ, bao kẻ vì ham chữ “danh”, chữ “lợi” mà đánh mất hết nhân cách, nhà thơ “ngông” của chúng ta muốn thoát tục để giữ mình được trong sạch, để hướng tới một sự tự do cao cả. Đó là cái trái khoáy đáng quý, đáng trân trọng về nhân cách của thi sĩ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay về nội dung ý nghĩa, độc đáo sáng tạo về nghệ thuật. Nó tiêu biểu cho phong cách tài hoa của nhà thơ núi Tản sông Đà. Bài thơ đã được dệt nên bằng bút pháp lãng mạn bằng trái tim nhân hậu của nhà thơ. Tuy được viết theo thể Đường luật, nhưng người đọc vẫn nhận thấy nét tự nhiên như lời nói hằng ngày, nó còn phảng phất âm hưởng.của ca dao, dân ca như một sự Việt hoá thành công. Đọc Muốn làm thằng Cuội, chúng ta thấy toát lên một nỗi buồn chán trước toàn cảnh thực tại của xã hội đương thời. Nhà thơ muốn thoát li khỏi hiện thực đen tối bằng mộng tưởng. Đây là giấc ảo giác táo bạo, hợp với tính cách con người nhà thơ. Nỗi buồn của Tản Đà không dừng ở nỗi buồn thời thế của riêng ai mà là nỗi buồn cho thời đại, cho viễn cảnh của xã hội, cho tâm trạng chung của tầng lớp trí thức, nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ. (Trần Minh Trang, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Nói với con Đề bài: Trình bày hiểu biết của mình về bài thơ Nói với con của Y Phương. 1. Yêu cầu – Trình bày hiểu biết thực chất là viết bài văn nghị luận về một bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là bài thơ Nói với con của Y Phương. – Phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức các khổ thơ – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan giữa các khổ với nhau và với toàn bài, đồng thời làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ. 2. Gợi ý – Đọc kĩ cả bài thơ. – Tham khảo các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ. – Những cảm nhận về đời sống tình cảm (gia đình, quê hương) của người con như thế nào? Sự tinh tế và độc đáo trong cách cảm nhận và thể hiện là gì? – Những gì là điều tốt đẹp của người đồng mình cần phải gìn giữ? – Thái độ sống mà người cha muốn nhắn nhủ con là gì? – Biện pháp nghệ thuật chủ yếu của bài thơ: cách diễn tả bằng hình ảnh cụ thể của người miền núi. – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lập dàn ý a. Mở bài: Y Phương và bài thơ Nói với con. b. Thân bài – Người con lớn lên trong tình yêu thương của gia đình và nâng niu của quê hương – Những vẻ đẹp và truyền thống của người đồng mình – Lời dặn của người cha: sánh vai với bạn bè, không làm người nhỏ bé, không báo giờ nhỏ bé. – Thành công của tác giả viết về tình yêu quê hương, sống xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của quê hương. c. Kết bài: Nhấn mạnh niềm tự hào về quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống làm một người “không bao giờ nhỏ bé”. 4. Bài làm minh hoạ Có thể hình dung bố cục bài thơ gồm hai phần. Tình cảm gia đình, quê hương, đầm ấm, yên vui được tác giả thể hiện trong 11 câu thơ đầu. Tình quê hương tha thiết, sâu nặng, truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người miền núi được tác giả thể hiện trong 17 câu thơ tiếp sau. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp tiếng nói và tiếng cười: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Một mái nhà có cha và mẹ, con lớn trong tình thương yêu. Hơn thế nữa, con sinh ra, lớn lên trong tình yêu, trong vẻ đẹp của người đồng mình: Người đồng mình yêu lắm con ơi Ngày đẩu tiên đẹp nhất trên đời. Suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Tác giả đã vận dụng chính lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Bằng cách diễn đạt như vậy, tác giả đã sáng tạo những hình ảnh vừa cụ thể, vừa mang tính khái quát cao mà vẫn giàu chất thơ bay bổng về vẻ đẹp trong cuộc sống của người dân miền núi: Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát – Rừng cho hoa ; và về truyền thống nghĩa tình, gắn bó, chia sẻ: Con đường cho những tấm lòng. Người cha muốn con mình thấy được vẻ nên thơ của người đồng mình để mà yêu. Cách diễn đạt độc đáo ấy còn được thể hiện ở những hình ảnh đặc sắc trong những câu thơ tiếp theo: Người đồng mình thương lắm con ơi Sống trong thung không chê thung nghèo đói. Từ những câu thơ bộc lộ một cách cụ thể tình cảm gia đình, nghĩa tình quê hương ở phần thứ nhất, sang phần thứ hai của bài thơ, tác giả mượn lời của người con để nói về sức mạnh truyền thống, lòng thuỷ chung với quê hương. Lấy cái “cao”, “xa” của đất trời làm chiều kích của nỗi buồn và chí hướng. Đó là tầm vóc của núi cao, rừng thẳm, của những Đăm Săn, Xinh Nhã. Người cha nói cho con cũng là nhắn nhủ, khuyên răn con mình biết trân trọng nơi mình đã sinh thành (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh – Sống trong thung không chê thung nghèo đói), sống hồn nhiên, cần cù, lạc quan để vượt qua gian khó (Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc). Con hãy nhớ lấy những điều ấy để mà thương. Và cũng là để sống cho xứng đáng. Bởi vì, người đồng mình tuy mộc mạc, thô sơ nhiửig không nhỏ bé. Ớ đầy, ta lại bắt gặp lối nói độc đáo của người dân miền núi trong câu Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương. Có thể thấy ở câu thơ này có hai lớp ý nghĩa: nghĩa thực và nghĩa ẩn dụ. Đục đá kê cao là hoạt động có thực, thường thấy ở vùng miền núi. Quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của một con người nào đó, gia đình nào đó. Nói tự đục đá kê cao quê hương là muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội. Lần thứ nhất người cha nói đến người đồng mình thô sơ da thịt để nói cho con về sức sống mạnh mẽ, sức mạnh truyền thống quê hương ; lần thứ hai, người cha nhắc lại để con khắc cốt ghi xương rằng: Quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình íuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng để xứng đáng là người đồng mình. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương. Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định, phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, lúc nhẹ nhàng, lúc khúc chiết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong những lời cha truyền thấm sang cho con. Ngôn ngữ thơ giản dị, hình ảnh thơ mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động. Quả đúng là một thứ “ngôn ngữ thổ cẩm” quyến rũ. Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân miền núi. Từ bài thơ này, người cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ? (Nguyễn Văn Hồng, lớp 9A, Trường THCS Nông Tiến, Tuyên Quang) Nhận xét Nắm chắc cách làm bài nghị luận về tác phẩm thơ. Người viết đã phân tích, cảm nhận về tình cảm gia đinh quê hương của người đồng mình và lời người cha nhắn nhủ, trao gửi cho con, cũng là cho thế hệ trẻ: hãy tự hào, hãy sống cho xứng đáng với tầm vóc lớn lao của những người sống hồn nhiên, mộc mạc, chân thành trên quê hương miền núi.
Instruct Analyze the poem Talk to your children Topic: Present your understanding of the poem "Talk to your children" by Y Phuong. 1. Requirements – Presenting understanding is essentially writing an argumentative essay about a poem. – The issue that needs to be discussed (analyzed, felt) is the poem Talking to Children by Y Phuong. – Analyze feelings about the goodness and beauty of the content and form of the poem's stanzas – The feelings and analyzes must be placed in relation between the stanzas with each other and with the whole poem, and at the same time clearly highlight the thematic idea of ​​the poem. 2. Suggestions – Read the whole poem carefully. – Refer to articles by critical researchers about the poem. – How do you feel about your child's emotional life (family, homeland)? What is the sophistication and uniqueness in feeling and expression? – What are the good things about our comrades that need to be preserved? – What is the life attitude that the father wants to convey to his children? – The main artistic device of the poem: the specific image expression of the mountain people. – Combine argument with expression. 3. Make an outline a. Opening article: Y Phuong and the poem Talk to your children. b. Body of the article – The child grows up in the love of his family and the care of his homeland – The beauty and traditions of our people – Father's advice: stand shoulder to shoulder with friends, don't be small, don't be small. – The author's success writes about love for the homeland, living worthy of the good traditions of the homeland. c. Conclusion: Emphasizes pride in one's homeland and the will to excel in life as a person who is "never small". 4. Illustrative exercise The composition of the poem can be imagined as having two parts. The feelings of family, homeland, warmth, and joy are expressed by the author in the first 11 verses. The author's passionate and deep love for his homeland, the tradition of gratitude, and the strong vitality of the mountain people are expressed in the following 17 verses. The poem opens with a cozy family scene, full of voices and laughter: Right foot steps towards father Left foot steps towards mother One step to touch the voice Two steps to laughter A home with a father and mother and children growing up in love. Moreover, I was born and grew up in love and in the beauty of my ally: The person I love so much, my child The most beautiful first day in the world. Thoughts, feelings, and emotions are expressed directly through images. The author has used the expression style of mountainous ethnic people to build poetic images. By expressing it like that, the author has created images that are both specific and highly general while still being rich in poetic poetry about the beauty in the lives of mountain people: Knitting needles with spokes – The walls of the house are lined with songs - The forest gives flowers; and about the tradition of love, attachment, and sharing: The path for the hearts. The father wants his son to see the poetry of his comrade so he can love him. That unique expression is also shown in the unique images in the following verses: My comrades love me very much, my child Living in the valley does not condemn poverty. From the verses that specifically reveal family affection and hometown love in the first part, to the second part of the poem, the author borrows the son's words to talk about the strength of tradition and loyalty. with homeland. Take the "high" and "far" of heaven and earth as the dimensions of sadness and ambition. That is the stature of high mountains, deep forests, of Dam San and Xinh Nha. The father telling his son is also to remind and admonish his son to appreciate the place where he was born (Living on a rock, not criticizing the rough rocks - Living in the valley, not criticizing the poverty of the valley), living innocently, diligently, and happily. to overcome difficulties (Live like a river like a stream - Up waterfalls and down rapids - Don't worry about drudgery). Please remember these things to love. And also to live worthy. Because, although our companions are simple and primitive, they are not small. Here, we again encounter the unique way of speaking of the mountain people in the sentence "A fellow man carves a rock to raise his homeland." It can be seen that in this verse there are two layers of meaning: real meaning and metaphorical meaning. High-pitched rock chiseling is a real activity, often found in mountainous areas. Homeland is inherently an abstract concept, referring to the birthplace of a certain person, a certain family. To say that one can carve out a rock to raise one's homeland is to generalize the spirit of self-respect and the sense of preserving one's roots. For the first time, the father spoke of his rough-skinned ally to tell his son about the strong vitality and strength of the homeland's traditions; The second time, the father reminded his son to engrave in his bones: Although our homeland is simple and sincere, our people are poor in skin but live beautifully, so along the way in life you must do great things. , you must live nobly to be worthy of being an ally. The father passed on to his child the beauty and strength of his homeland's traditions. Free verse, with an irregular number of words, fits the natural, flexible emotional flow of the poem. The rhythm is sometimes soaring, sometimes gentle, sometimes concise, clear, sometimes strong, sharp,... creating a harmonious resonance with the different emotional levels in the words passed down from father to child. The poetic language is simple, the poetic images are rustic and concise but still rich and vivid. It is truly a charming "brocade language". Phuong understands and therefore portrays the soul of the traditional identity of the mountain people. From this poem, is the father speaking to his son or is it a message to the generation? (Nguyen Van Hong, class 9A, Nong Tien Secondary School, Tuyen Quang) Comment Understand how to write an essay about a work of poetry. The writer analyzed and felt the love for his family and his homeland and the father's message to his children, as well as to the younger generation: be proud, live worthy of your stature. greatness of those who live innocently, simply and sincerely in their mountainous homeland.
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ Đề bài: Chép lại và phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải 1. Yêu cầu – Thuộc lòng và chép lại chính xác khổ đầu (6 dòng) trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải. – Viết bài văn nghị luận về một khổ thơ trong bài thơ. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là khổ đẩu của bài thơ. – Phân tích, cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình. – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan với cả bài và làm nổi rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ 2. Gợi ý – Đọc kĩ cả bài thơ, đặc biệt là khổ đầu. – Tham khảo các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ. – Những cảm nhận mùa xuân thể hiện qua các giác quan nào? Sự tinh tế và mới lạ trong cách cảm nhận và thể hiện là gì? – Hiểu thế nào về “giọt long lanh rơi”? Sự trân trọng của tác giả với tín hiệu mùa xuân. – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lập dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài: Thanh Hải và hoàn cảnh sáng tác bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. b. Thân bài – Cảm nhận về mùa xuân của tác giả. – Phân tích vai trò các giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác). – Vẻ đẹp của việc đảo trật tự cú pháp: mọc… bông hoa tím biếc. – Suy nghĩ về tín hiệu mùa xuân: hoa, tiếng chim. – Sự trân trọng của tác giả với mùa xuân: hứng giọt long lanh. c. Kết bài: Nhấn mạnh vẻ đẹp của khổ thơ trong vẻ đẹp của toàn bài: mùa xuân của đất trời và mùa xuân dâng hiến của mỗi con người. 4. Bài làm minh họa Thanh Hải đến với chúng ta trong một niềm cảm mến sâu xa. Ông đã tặng lại chúng ta một mùa xuân thấm đượm lòng người trước lúc đi xa. Và cũng chính ông đã nuôi dưỡng được trong trái tim mỗi người chúng ta một mùa xuân tươi đẹp và rạo rực hương sắc của thiên nhiên, tâm tình con người. Điều đó thể hiện rõ ngay từ khổ đầu của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải thể hiện cảm xúc của tác giả về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước, mùa xuân con người của xứ Huế, Việt Nam. Ớ khổ thơ đầu bài thơ, chỉ bằng một vài nét “phác thảo”, nhà thơ Thanh Hải đã vẽ ra một khung cảnh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp, trong trẻo. Không gian mùa xuân ấy mở ra cả chiều ngang theo dòng sông, cả chiều cao theo cánh chim chiền chiện. Tác giả sử dụng hai gam màu: xanh, tím, trộn lẫn hài hoà chúng với nhau thành một sắc màu rất Huế. Tác giả dùng hai hình ảnh: chim chiền chiện và hoa tím tạo thành một quang cảnh đậm chất miền Trung. Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời. Cứ thế, nhà thơ Thanh Hải khắc hoạ trước mắt chúng ta một mùa xuân yên bình, thanh tĩnh, trong sáng của xứ Huế. Trong câu thơ đầu, tác giả còn sử dụng phép đảo cấu trúc câu, đặt động từ “mọc” lên trước làm cho không gian như lan toả sức sống căng trào của dòng sông. Sự sinh sôi, nảy nở của “bông hoa tím biếc” đã được nhấn mạnh một cách khéo léo. Bức tranh với những sắc màu trang nhã, đậm đà và sâu lắng. Đường nét, màu sắc hoà vào trong sự dịu dàng, duyên dáng của xứ Huế mộng mơ. Không những thiên nhiên cho chúng ta cảm nhận về thị giác, mà còn gợi lên cả âm thanh ngọt ngào đó là tiếng hót trong trẻo tươi vui của loài chim chiền chiện. Thán từ “ơi” cho chúng ta thấy sự bất ngờ, ngạc nhiên, vui thú của tác giả khi nghe tiếng chim hót. Phần đặc sắc nhất của khổ thơ nằm ở hai câu thơ cuối: Từng giọt long lanh Tôi đưa tay tôi hứng. Câu “Từng giọt long lanh rơi” gợi ra nhiều cách hiểu khác nhau. “Giọt” ở đây, phải chăng chính là những hạt sương, hạt mưa xuân rơi dưới ánh nắng mặt trời ấm áp, trở nên long lanh, lấp lánh. Hay đó là chuỗi hạt được cô đọng lại từ tiếng hót tuyệt diệu của những chú chim chiền chiện? Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, ta có thể nhận ra tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, giúp chúng ta chạm được âm thanh cao vút của mùa xuân, chứ chẳng phải là nghe thấy nó. Cách hiểu này hơi cầu kì, tinh tế hơn cách nhìn trước. Nhưng hiểu theo cách nào cũng rất hay, rất đẹp. Không chỉ có chúng ta mà tác giả cũng rất muốn “hứng được dòng âm thanh tinh tuý của đất trời” đó. Đại từ “tôi” được lặp lại hai lần cho thấy tác giả trân trọng những giọt này hay mùa xuân Việt Nam như thế nào: Tôi đưa tay tôi hứng. Tình cảm của tác giả dành cho mùa xuân là tình cảm yêu quý, trân trọng thiên nhiên cuộc sống. Thanh Hải đã vĩnh viễn đi xa nhưng bài thơ của ông vẫn làm nên mùa xuân trong lòng mỗi chúng ta. Bất chấp thời gian, lao động và cống hiến của con người sẽ chính là mùa xuân bất diệt của dân tộc, của đất nước. (Nguyễn Việt Hương, lớp 9A3, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Instruct Analysis of the poem Little Spring Topic: Copy and analyze the first stanza of Thanh Hai's Little Spring 1. Requirements – Memorize and accurately copy the first stanza (6 lines) of Thanh Hai's poem Little Spring. – Write an argumentative essay about a stanza in the poem. – The issue that needs to be discussed (analyzed, felt) is the first stanza of the poem. – Analyze and feel the goodness and beauty of content and images. – Feelings and analyzes must be placed in relation to the whole poem and clearly highlight the poem's theme 2. Suggestions – Read the whole poem carefully, especially the first stanza. – Refer to articles by critical researchers about the poem. – What senses are spring feelings expressed through? What is the sophistication and novelty in the way of feeling and expressing? – How do you understand “drops of glitter falling”? The author's appreciation for the spring signal. – Combine argument with expression. 3. Make an outline (brief outline) a. Introduction: Thanh Hai and the circumstances of composing the poem Little Spring. b. Body of the article – The author's feelings about spring. – Analyze the role of the senses (sight, hearing, touch). – The beauty of inverting the syntactic order: growing... purple flowers. – Think about spring signals: flowers, bird sounds. – The author's appreciation for spring: catching drops of glitter. c. Conclusion: Emphasize the beauty of the poem in the beauty of the entire poem: the spring of heaven and earth and the spring of dedication of each person. 4. Illustrative exercise Thanh Hai comes to us with deep affection. He gave us a heartwarming spring before going away. And it was he who nurtured in the hearts of each of us a beautiful spring filled with the fragrance of nature and human emotions. That is evident right from the first stanza of the poem Little Spring Growing in the middle of the green river A purple flower, dear lark Why sing to the sky? Every drop of glitter falls I put my hand inspiration. The poem Little Spring by poet Thanh Hai expresses the author's feelings about the natural spring, the country's spring, and the human spring of Hue, Vietnam. In the first stanza of the poem, with just a few "sketches", poet Thanh Hai has painted a beautiful, clear natural spring scene. That spring space opens horizontally along the river and height along the lark's wings. The author uses two colors: blue and purple, harmoniously mixing them together into a very Hue color. The author uses two images: larks and purple flowers to create a scene typical of the Central region. Growing in the middle of a green river, a purple flower, oh lark. Why is your song so loud in the sky? Just like that, poet Thanh Hai portrays before our eyes a peaceful, quiet, and pure spring of Hue. In the first verse, the author also uses the inversion of sentence structure, placing the verb "grow" first, making the space seem to spread the overflowing vitality of the river. The proliferation and proliferation of the "blue purple flower" has been skillfully emphasized. The painting has elegant, rich and deep colors. Lines and colors blend into the gentleness and charm of dreamy Hue. Not only does nature give us visual sensations, but it also evokes sweet sounds, the clear and cheerful song of the lark. The interjection "oh" shows us the author's surprise, surprise, and joy when hearing the birds sing. The most unique part of the stanza lies in the last two lines: Every drop glitters I put my hand inspiration. The sentence "Every drop of glitter falls" suggests many different interpretations. The "drops" here are probably dew drops or spring raindrops falling under the warm sunlight, becoming glittering and sparkling. Or is it a necklace condensed from the wonderful song of larks? If we understand the second meaning, we can realize that the author has used a metaphor to convert feelings, helping us to touch the high-pitched sound of spring, rather than hear it. This understanding is a bit more sophisticated and sophisticated than the previous one. But any way you understand it, it's very good, very beautiful. Not only us, but the author also really wants to "capture the quintessential sound of heaven and earth". The pronoun "I" is repeated twice, showing how much the author appreciates these drops or the Vietnamese spring: I raised my hand to catch them. The author's feelings for spring are feelings of love and appreciation for nature and life. Thanh Hai has passed away forever, but his poems still create spring in each of us. Regardless of time, human labor and dedication will be the eternal spring of the nation and the country. (Nguyen Viet Huong, class 9A3, Ngo Si Lien Secondary School, Hoan Kiem District, Hanoi)
Hướng dẫn Suy nghĩ về nhân vật Thúy Kiều Đề bài: Suy nghĩ về nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du. 1. Yêu cầu – Viết bài văn nghị luận về nhân vật của truyện thơ trong một đoạn trích. – Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều. – Cần phân tích cảm nhận về thái độ và tình cảnh của Thuý Kiều khi phải tự nguyện biến thành một món hàng. – Những điều cảm nhận, phân tích phải đặt trong tương quan với nhân vật trong toàn bộ tác phẩm. 2. Gợi ý – Đọc kĩ đoạn trích, nhất là những câu nói về Kiều. – Cần đọc các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về đoạn trích và về nhân vật Thuý Kiều. – Hoàn cảnh của Kiều (để cho người mua xem mặt, thử tài). – Thái độ của nàng: ngượng ngùng, đau khổ. – Hành động của nàng: lặng lẽ, không nói một lời. – Kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lập dàn ý (dàn ý sơ lược) a. Mở bài: Giới thiệu nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích. b. Thân bài – Phân tích thái độ “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, “thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng” của Thúy Kiều. – Thái độ “ngại ngùng dợn gió e sương”. – Sự im lặng mặc cho Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. c. Kết bài: Nhấn mạnh nỗi đau của người con gái hi sinh tình yêu, trở thành vật bán mua của kẻ buôn người. 4. Bài làm minh họa Nguyễn Du được tôn vinh không chỉ đơn thuần vì tài năng mà ở tấm lòng của ông với những kiếp sống bị đoạ đày, đau khổ. Trái tim nhỏ bé của nhà văn đập bởi nhịp đập của quần chúng cần lao, để mỗi ngày sống qua, mỗi cảnh trông thấy đều khiên cho nhà thơ “thêm đau đớn lòng“. Mà dù thời đại nào, hoàn cảnh nào, người đau khổ nhất trong những người đau khổ vẫn là người phụ nữ. Lòng nhân hậu của bậc thiên tài đã giúp ông hiểu sâu sắc được nỗi bất hạnh muôn đời của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thối nát, để thốt lên đầy xót xa, ai oán trong thơ của mình: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Thuý Kiều là một trong những nhân vật có số phận như vậy. Trong Truyện Kiều của ông, nàng hiện thân cho những kiếp “hồng nhan bạc mệnh” điển hình của chế độ phong kiến xưa kia. Điều đó được thể hiện sinh động qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều. Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu lứơng thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, Thuý Kiều và Thuý Vân vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ. Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh. Một là số phận bi kịch của Đạm Tiên như thầm dự báo trước tương lai của Kiều, cuộc gặp sau là niềm đam mê, hạnh phúc với chàng Kim Trọng tài hoa nhất bậc. Nếu không có “tai biến bất kì” thì cuộc đời cô gái “nghiêng nước nghiêng thành” này đã chẳng có trong thơ Nguyễn Du. Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết đính bán mình chuộc cha. Mặc dù đau đớn vô cùng, Kiều vẫn phải rời xa gia đình, từ bỏ mối tình đầu đép đẽ và trong sáng với Kim Trọng để trở thành món hàng mua bán với gã con buôn đê tiện Mã Giám Sinh. Khi mụ mối đưa người viễn khách họ Mã tới để hỏi Kiều về làm vợ thì cuộc gặp gỡ ban đầu đã diễn ra trong đau đớn tuyệt vọng. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất mà chỉ ngay đêm hôm đó Kiều đã nhận xét với mẹ mình rất đúng về hắn: Khác màu kẻ quỷ người thanh Chẳng hay con lại mắc tay bợm già. Khó có thể hình dung ra cuộc gặp mặt nào não nề, đớn đau hơn thế! Tâm tình ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,… Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng. Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các: Ngại ngùng dợn gió e sương Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày. Hình ảnh thẹn thùng của nàng là nỗi xấu hổ của người con gái mới lớn không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu lại vừa là sự hổ thẹn cho thân phận bất hạnh của mình. Trước nỗi đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh không một chút mảy may thương cảm mà còn xem nàng như xem một món hàng cần mua ở chợ: Mối càng vén tóc bắt tay Nét buồn như cúc điệu gầy như mai. Xem xét mọi vẻ chứa đủ, hắn còn thử tài của Kiều theo kiểu của kẻ có tiền muốn mua hàng hoá xứng đáng với đồng tiền sẽ bỏ ra: Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Người thiếu nữ “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai” được tên lái buôn họ Mã “đắn đo” mãi để “cân sắc cân tài”: ước lượng để sao mua được thật rẻ “món hàng” vô giá này. Chúng ta không thể không thương xót cho Kiều khi kẻ đê tiện “cò kè”, “thêm bớt” từng tí để ngã giá mua nàng với bốn trăm lượng… Kiều đau đớn thế nào khi nghĩ gã buôn thịt bán người ti tiện nhất thế gian này lại có thể làm chồng mình? Càng tan nát lòng hơn khi trong trái tim nàng in sâu hình bóng chàng Kim Trọng “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”. Bắt đầu từ đây cuộc đời nàng bước ngoặt sang một trang khác, không còn êm đềm, ngọt ngào như trước nữa. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh’ mua Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Trái tim tràn đầy nhân ái, yêu thương của nhà thơ đã để cho Kiều trong khi quyết liệt đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cho người phụ nữ nói chung thì cũng tố cáo sâu sắc cái xã hội lúc bấy giờ. (Đinh Thuỳ Linh, lớp 91, Trường THCS Trưng Nhị, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội)
Instruct Thinking about the character Thuy Kieu Topic: Thinking about the character Thuy Kieu in the excerpt Ma Giam Sinh mua Kieu by Nguyen Du. 1. Requirements – Write an essay about the character of the poem in an excerpt. – The issue that needs to be discussed (analyzed, felt) is the character Thuy Kieu in the excerpt Ma Giam Sinh buys Kieu. – It is necessary to analyze the perception of Thuy Kieu's attitude and situation when she had to voluntarily turn into a commodity. – Feelings and analyzes must be placed in relation to the characters in the entire work. 2. Suggestions – Read the excerpt carefully, especially the sentences about Kieu. – Need to read articles by critical researchers about the excerpt and about the character Thuy Kieu. – Kieu's situation (to let buyers see her face and test her skills). – Her attitude: shy, miserable. – Her actions: quietly, not saying a word. – Combine argument with expression. 3. Make an outline (brief outline) a. Introduction: Introducing the character Thuy Kieu in the excerpt. b. Body of the article – Analyzing Thuy Kieu's attitude of "my anger adds to my family's anger" and "one step on a flower shelf brings tears to several rows of flowers". – Attitude "shy and afraid of the wind and frost". – Silence lets Ma Giam Sinh "weigh his beauty and fortune". c. Conclusion: Emphasizes the pain of a girl who sacrifices love and becomes a commodity for human traffickers. 4. Illustrative exercise Nguyen Du is honored not simply for his talent but for his compassion for lives of torture and suffering. The writer's small heart beats with the rhythm of the working masses, so that each day he lives, each scene he sees makes the poet "more heartbroken". But no matter what era or situation, the most miserable of those who suffer are still women. The genius's kindness helped him deeply understand the eternal misfortune of women under the corrupt feudal regime, so that he could exclaim with sadness and lament in his poetry: Woman pain rather division Word that silver is also a common destiny. Thuy Kieu is one of the characters with such a fate. In his Tale of Kieu, she embodies the typical lives of the "unlucky beauty" of the ancient feudal regime. That is vividly shown through the excerpt from Ma Giam Sinh buying Kieu. Originally born into a good middle-class family, living in a "peaceful and curtained" environment, Thuy Kieu and Thuy Van are both stunningly beautiful and innocent. One spring afternoon while going to visit the grave, she had two fateful encounters. One is Dam Tien's tragic fate as if silently foreshadowing Kieu's future, the next meeting is passion and happiness with the most talented Kim Trong. If it weren't for "any accident", this girl's life would not be in Nguyen Du's poetry. Faced with family events, she knew how to endure and sacrifice when she decided to sell herself to redeem her father. Despite the immense pain, Kieu still had to leave her family, give up her beautiful and pure first love with Kim Trong to become a commodity with the despicable businessman Ma Giam Sinh. When the matchmaker brought a passenger named Ma to ask Kieu to become his wife, the initial meeting took place in pain and despair. Ma Giam Sinh appeared at the meeting as the most inhumane and despicable person, but just that night Kieu commented very accurately on him to her mother: Different color from the demon to the bar I didn't know that I would fall into the hands of an old trickster. It is difficult to imagine a more painful and painful meeting than that! The chaotic feelings, the pain of the broken first love, the frustration of the unjust sentence that his father and younger brother had to endure, the shame and embarrassment when he was in a situation where he had to let a strange man come to see him, … The image of her as she stepped out of her room was so pitiful: My sadness makes me angry at home Flower shelf Flower charter a few steps up. Her tears soaked the page, every step was painful. The tears of heartbreak and suffering make the reader's heart ache, making everyone feel sorry for Kieu's fate. Entering the living room with the reserved, embarrassed look of a rich girl: Embarrassed by the wind and mist Stop feeling embarrassed looking at your thick face. Her shy image is both the shame of a teenage girl who unfortunately fell into an ironic situation and also the shame of her unfortunate fate. Faced with Kieu's pain, Ma Giam Sinh did not have the slightest bit of sympathy, but also looked at her like an item to be bought at the market: Termites pulled back their hair and shook hands Sad as a daisy, thin as apricot. All things considered, he also tested Kieu's talent in the manner of someone with money who wants to buy goods worthy of the money he will spend: Forced to hold the moon and try the fan poem. The young woman, "if you have good looks, you can only ask for money, you can't get two" was "considered" by the merchant named Ma forever to "weigh her beauty against her talent": estimating how to buy this priceless "item" very cheaply. We can't help but feel sorry for Kieu when the despicable person "haggles" and "adds and subtracts" little by little to negotiate the price to buy her for four hundred taels... How painful is Kieu to think of the most despicable meat and human trafficker in the world? Can this time be my husband? It's even more heartbreaking when the image of Kim Trong is imprinted in her heart, "elegant on the inside, gallant on the outside". From here, her life turned to another page, no longer as peaceful and sweet as before. With his talented pen, Nguyen Du has shown readers some of Kieu's sad and tragic fate in the excerpt Ma Giam Sinh' mua Kieu. This talented and beautiful person should have been the happiest among the happy people, but the corrupt feudal society brutally trampled on her, causing her to suffer pain and unhappiness in her life. Ten years of bitterness. The poet's heart full of compassion and love allowed Kieu, while fiercely demanding the right to life and the right to happiness for women in general, to also deeply denounce the society at that time. (Dinh Thuy Linh, class 91, Trung Nhi Secondary School, Hai Ba Trung District, Hanoi)
Hướng dẫn Phân tích truyện những ngôi sao xa xôi Đề bài: Hình ảnh những nữ thanh niên xung phong trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận (mặc dù không có từ ngữ trực tiếp nêu yêu cầu về dạng bài). – Bài viết về một nhóm nhân vật trong tác phẩm, do đó cần làm rõ nét riêng và chung của các nhân vật. – Đề bài không đưa ra nhận xét về nhân vật, cần tự xác định nội dung trình bày trong bài. 2. Gợi ý – Cần đọc kĩ và nắm vững tác phẩm trước khi làm bài. – Đặt câu hỏi tìm nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác phẩm. – Đặt câu hỏi để phát hiện điểm giống nhau về tính cách của ba nhân vật. Tìm dẫn chứng minh hoạ cho những điểm này: + Điểm giống nhau của họ là gì? + Điểm khác nhaụ của họ là gì? 3. Lập dàn ý a. Mở bài – Giới thiệu tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. – Giới thiệu chung về ba cô gái trong tổ trinh sát mặt đường. b. Thân bài – Nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác phẩm – Phân tích chung ba nhân vật – Họ đều rất trẻ, dễ xúc động, mơ mộng – Thế nhưng mỗi người vẫn giữ được nét cá tính riêng của mỗi người: c. Kết bài: Kể về ba nữ thanh niên xung phong nhưng tác phẩm cho ta hiểu về những nữ thanh niên xung phong thời kì chống Mĩ cứu nước, về thế hệ trẻ Việt Nam… 4. Bài lảm minh họa Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi là tác phẩm của nhà văn Lê Minh Khuê – một nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm là bức tranh hiện thực về cuộc sống chiến đấu, từ đó nêu lên vẻ đẹp trong sáng của ba cô gái ở tổ trinh sát mặt đường trong kháng chiến chống Mĩ. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, tác giả để cho nhân vật xưng “tôi” kể về mình và đồng đội. Việc lựa chọn ngôi kể cũng góp phần làm nên thành công cho câu chuyện. Nhân vât vừa bộc lộ được những suy nghĩ cảm xúc của mình, vừa miêu tả những điều đang diễn ra, góp phần tạo nên một câu chuyện chân thực, mềm mại gợi nhiều xúc cảm cho người đọc. Tổ trinh sát mặt đường có ba cô gái là Phương Định, Nho, Thao. Họ còn rất trẻ, nhiều mơ mộng. Công việc chính của các cô là “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom” – rất nguy hiểm và đòi hỏi ý chí cao. Nhưng ba cô gái ấy luôn hoàn thành tốt công việc. Công việc không hề đơn giản chút nào, luôn phải chạy trên cao điểm suốt cả ngày. Đôi lúc bị bom vùi về chỉ nhìn thấy hai con mắt lấp lánh, những lúc ấy họ thường gọi nhau bằng cái tên rất ngộ nghĩnh “những con quỷ mắt đen”. Bất chấp những khó khăn của công việc họ vẫn tìm được cho mình những niềm vui, lấp đi nỗi buồn khi nhớ về gia đình, bạn bè. Say mê ca hát, làm đẹp cho cuộc sống. Họ cũng giống như nhiều cô gái tuổi mới lớn khác. Mặc dù sống trong chiến tranh với những hiểm nguy luôn rình rập nhưng họ vẫn yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp. Và trong công việc họ là những người có tinh thần trách nhiệm, có lòng dũng cảm, không ngại hi sinh thân mình. Một ngày của các cô gái trẻ thường kết thúc khi “phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Với họ công việc không đơn giản là nhiệm vụ nữa, mà nó đã ăn sâu vào tâm trí, như một điều gì đó không thể thiếu. Hình ảnh Phương Định và Thao moi đất bế Nho lên khi hầm bị sập thật cảm động. Ở một nơi nguy hiểm, cái chết luôn cận kề nhưng trong họ vẫn có tình đồng đội thắm thiết, hơn thế nữa đó còn là tình chị em gắn bó trong một gia đình. Cùng chung sống với nhau, nhưng ở mỗi người vẫn bộc lộ những tính cách riêng biệt. Thao là chị cả của nhóm, là người chỉ huy công việc. Không hiểu có phải vì lí do này hay không mà trong tác phẩm cô luôn hiện ra với vẻ bề ngoài cứng rắn, xử lí công việc một cách cương quyết, táo bạo. Có lỗ, do chị là người lớn tuổi nhất trong nhóm nên suy nghĩ có phần thiết thực và những dự tính về tương lai rõ ràng hơn. Nhưng ẩn chứa sau vẻ cứng cỏi là trái tim giàu tình cảm. Chị luôn giành những công việc khó khăn về mình. Sở thích của chị thật giản dị, lúc rảnh rỗi chị thích chép lời bài hát, thậm chí chép cả những lời tự bịa ra. Qua nhân vật Thao, ta cũng thấy rõ được những khát khao trong công việc và những rung động của tuổi trẻ thời kháng chiến.. Không trầm tư như Thao, Nho là một cô gái hồn nhiên, thích được ăn kẹo, trắng trẻo và có vóc người nhỏ bé. Những hình ảnh trên cho người đọc hình dung ra một cô gái rất đáng yêu và vô tư. Nhưng trái lại Nho rất dũng cảm trong công việc. Đó là khi Nho bị thương, mọi người thì rất lo, còn Nho lại nói: “Không chết đâu, đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì khiến mọi người lo lắng”. Cả ba nhân vật đều cho người đọc những cảm nhận riêng. Nhưng có lẽ, để lại ấn tượng sâu đậm nhất đối với tôi cũng như đa số người đọc tác phẩm là cô gái tên Phương Định. Là con gái Hà Nội, Định tự nhận là “một cô gái khá” với đôi mắt mà các anh lái xe thường nói: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”. Định có ý thức về mình, biết được có nhiều anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm hoặc đơn giản là “viết những thư dài gửi đường dây, làm như ở cách xa hàng nghìn cây số”. Cô thấy vui vì mình được các anh yêu quý, nhưng với sự kín đáo của một cô gái Hà Nội, Định chỉ cất giữ ở trong lòng. Mặc dù với cô, người can đảm, thông minh nhất vẫn là những người mặc quân phục, có sao trên mũ. Cũng giống như Thao, Phương Định là người yêu âm nhạc, rất mê hát. Cô thích ngồi dựa vào thành đá và khẽ hát trong những buổi trưa im lặng. Đôi lúc buồn cô nghĩ vẩn. vơ về Hà Nội, về những ngày sống trong hoà bình cùng gia đình. Trong công việc, Định cũng không thua kém một ai cả. Bình tĩnh và tự chủ trong mọi tình huống. Vì cô biết à đâu đó có sự dõi theo của các anh cao xạ, nên sẽ không còn run sợ mà dũng cảm làm nhiệm vụ. Sống trong bom đạn, sự ác liệt của chiến tranh nhưng Định vẫn giữ được tâm hồn, nét đẹp trong sáng của một cô gái Hà Nội. Chính nhờ những điều ấy, nhân vật Phương Định đã thật sự toả sáng trong tác phẩm với hình ảnh của nữ thanh niên xung phong trong thời chiến. Chiến tranh, bom đạn giờ chỉ còn trong kí ức. Nhưng với tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, hình ảnh ba cô gái thanh niên xung phong đã gợi nhắc cho mỗi người về một thế hệ nữ thanh niên thời chống Mĩ. Họ can đảm và dám hi sinh cả tuổi trẻ cho đất nước. Đó không chỉ là hình ảnh tiêu biểu của một thời kì mà còn là hình ảnh tượng trứng cho cả thế hệ phụ nữ Việt Nam. (Trần Mai Vy, lớp 9A1, Trường THCS Trứng Vương, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) Nhận xét
Instruct Analyze the stories of distant stars Topic: Images of young female volunteers in the short story Distant Stars by Le Minh Khue. 1. Requirements – Write an argumentative essay (although there are no direct words stating the format requirements). – The article is about a group of characters in the work, so it is necessary to clarify the individual and common characteristics of the characters. – The essay does not provide comments on the characters, you need to determine the content presented in the essay yourself. 2. Suggestions – Need to read carefully and master the work before doing the test. – Ask questions to find unique features in the art of building the work's characters. – Ask questions to discover similarities in the personalities of the three characters. Find evidence to illustrate these points: + What are their similarities? + What are their differences? 3. Make an outline a. Opening – Introducing the work Distant Stars by Le Minh Khue. – General introduction to the three girls in the road reconnaissance team. b. Body of the article – Unique features in the art of building the work's characters – General analysis of the three characters – They are all very young, emotional, and dreamy – But each person still retains their own personality: c. Conclusion: Telling about three young female volunteers, but the work helps us understand about the young female volunteers during the anti-American era to save the country, about the young generation of Vietnam... 4. Illustrative exercise The short story Distant Stars is the work of writer Le Minh Khue - a writer who grew up during the resistance war against America. The work is a realistic picture of combat life, thereby highlighting the pure beauty of three girls in the street reconnaissance group during the resistance war against America. The story is told in the first person, the author lets the character say "I" talk about himself and his teammates. The choice of narrator also contributes to the success of the story. The character can both express his thoughts and feelings and describe what is happening, contributing to creating a realistic, soft story that evokes many emotions for the reader. The road reconnaissance team has three girls, Phuong Dinh, Nho, and Thao. They are very young and have many dreams. Their main job is to "measure the volume of soil to fill bomb craters, count unexploded bombs and, if necessary, detonate them" - very dangerous and requires high willpower. But those three girls always do a good job. The job is not simple at all, always having to run on rush hour all day long. Sometimes when they were buried by bombs, only two sparkling eyes could be seen. At that time, they often called each other by the very funny name "black-eyed devils". Despite the difficulties of work, they still find joy and fill their sadness when remembering family and friends. Passionate about singing, beautifying life. They are like many other teenage girls. Even though they live in war with dangers always lurking, they still love art and beauty. And at work, they are people with a sense of responsibility, courage, and are not afraid to sacrifice themselves. A young girl's day often ends by "defusing bombs five times. Every day less: three times. For them, work is no longer simply a task, but it is ingrained in their minds, as something indispensable. The image of Phuong Dinh and Thao digging up soil and lifting Nho when the tunnel collapsed was truly touching. In a dangerous place, death is always near, but within them there is still a deep sense of camaraderie, moreover, it is the bond between sisters and brothers in a family. They live together, but each person still exhibits their own unique personalities. Thao is the eldest sister of the group and is the leader of the work. I don't know if it's for this reason or not, but in her works she always appears with a tough exterior, handling her work resolutely and boldly. There is a loss, because she is the oldest in the group, so her thinking is more practical and her plans for the future are clearer. But hidden behind the tough exterior is a heart rich in affection. She always takes the difficult jobs for herself. Her hobbies are simple, in her free time she likes to copy song lyrics, even copying words she made up herself. Through the character of Thao, we can clearly see the desires at work and the vibrations of youth during the resistance war. Not as contemplative as Thao, Nho is an innocent girl who likes to eat candy, is white and have a small stature. The images above let readers imagine a very lovely and carefree girl. But on the contrary, Nho is very brave in his work. That's when Nho was injured, everyone was very worried, and Nho said: "I'm not dead, the unit is building the road." What makes people worried? All three characters give readers their own feelings. But perhaps, leaving the deepest impression on me as well as the majority of readers of the work is a girl named Phuong Dinh. As a girl from Hanoi, Dinh considers herself "a pretty girl" with eyes that drivers often say: "You have such a distant look!". Dinh was conscious of himself, knowing that there were many gunners and drivers who often inquired or simply "wrote long letters to the line, as if they were thousands of kilometers away." She felt happy because she was loved by her brothers, but with the discreetness of a Hanoi girl, Dinh only kept it in her heart. Although for her, the bravest and smartest people are still those wearing military uniforms with stars on their hats. Like Thao, Phuong Dinh is a music lover and loves singing. She likes to sit against the rock and sing softly during silent afternoons. Sometimes when she's sad, she thinks. I longed for Hanoi, for the days living in peace with my family. At work, Dinh is not inferior to anyone. Calm and collected in all situations. Because she knows that somewhere the anti-aircraft gunners are watching, she will no longer tremble in fear but bravely carry out the mission. Living in bombs and the fierceness of war, Dinh still retains the soul and pure beauty of a Hanoi girl. Thanks to these things, the character Phuong Dinh truly shines in the work with the image of a young female volunteer during wartime. War and bombs are now only memories. But with Le Minh Khue's work Distant Stars, the image of three young female volunteers reminded everyone of a generation of young women during the anti-American era. They are courageous and dare to sacrifice their youth for the country. It is not only a typical image of a period but also an egg statue image for an entire generation of Vietnamese women. (Tran Mai Vy, class 9A1, Egg Vuong Secondary School, Hoan Kiem District, Hanoi) Comment
Hướng dẫn Suy nghĩ về người phụ nữ dưới xã hội cũ Đề bài: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ dưới xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận văn học: giải quyết một vấn đề trong tác phẩm truyện. – Qua nhân vật Vũ Nương, làm rõ những suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. – Bài viết phải xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ để làm rõ vấn đề: thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. – Biết kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự với nghị luận. 2. Gợi ý – Trước khi làm bài cần đọc kĩ, nắm vững nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của tác phẩm. Đặc biệt là hiểu đúng về nhân vật Vũ Nương. – Từ nhân vật trong tác phẩm mà xây dựng hệ thống luận điểm, các chi tiết, sự việc nói về nhân vật. Sau đó khái quát, nêu suy nghĩ về thân phận người phụ nữ. – Trong bài cần làm rõ những nội dung sau: + Người phụ nữ trong xã hội phong kiến chịu nhiều bất công, oan trái, thân phận của họ vô cùng đau khổ. + Cảm thông sâu sắc với người phụ nữ trong xã hội phong kiến. + Lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên thân phận người phụ nữ. – Bài viết có thể bố cục theo nhiều cách: + Cách 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương, sau đó nêu suy nghĩ về người phụ nữ trong xã hội cũ. + Cách 2: Nêu suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, sau đó chứng minh qua thân phận Vũ Nương. + Cách 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương xen lẫn với những nhận định, đánh giá về thân phận người phụ nữ. 3. Lập dàn ý (theo cách 1) a.Mở bài – Đề tài phụ nữ trong văn học nói chung, trong văn học trung đại nói riêng. – Giới thiệu nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và tính chất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế độ cũ. b. Thân bài * Vũ Nương – người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp nhưng số phận đau khổ: – Vũ Nương là người phụ nữ đẹp. + Tư dung tốt đẹp – người con gái bình dân. + Là người con hiếu thảo, người mẹ thương con, người vợ chung thuỷ. + Là người cố lòng tự trọng. – Vũ Nương lại là người phải gánh chịu nhiều khổ đau: + Một mình nuôi con, lo lắng thuốc thang, chôn cất mẹ chồng. + Bị Trương Sinh đối xử phũ phàng: nghi ngờ, không cho nàng biết nguyên do, mắng nhiếc thậm tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết. + Muốn quay trở lại cuộc sống trần gian nhưng không thể được. * Suy nghĩ về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến: – Con người không làm chủ được vận mệnh của mình. – Xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, vô nhân đạo gây ra bao bất công cho người phụ nữ ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng. – Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có điều kiện phát triển. – Cảm thông và hiểu rõ đĩều tốt đẹp trong phẩm chất của họ. (lấy ví dụ qua ca dao, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều,…) c. Kết bài: Hiểu về thời đã qua để thêm yêu hiện tại. 4. Bài làm minh họa Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ. Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bẳn thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều: Đau đớn thay phậh đàn bà, Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung. Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được. Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày”? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết: Thân em ưừa trắng lại ưừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điểu kiện phát triển. Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy. (Phan Hồ Thuý Hằng, lớp 9A1, Trường THCS Trưng Vương, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét
Hướng dẫn Suy nghĩ về người phụ nữ dưới xã hội cũ Đề bài: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ dưới xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận văn học: giải quyết một vấn đề trong tác phẩm truyện. – Qua nhân vật Vũ Nương, làm rõ những suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. – Bài viết phải xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ để làm rõ vấn đề: thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. – Biết kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự với nghị luận. 2. Gợi ý – Trước khi làm bài cần đọc kĩ, nắm vững nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của tác phẩm. Đặc biệt là hiểu đúng về nhân vật Vũ Nương. – Từ nhân vật trong tác phẩm mà xây dựng hệ thống luận điểm, các chi tiết, sự việc nói về nhân vật. Sau đó khái quát, nêu suy nghĩ về thân phận người phụ nữ. – Trong bài cần làm rõ những nội dung sau: + Người phụ nữ trong xã hội phong kiến chịu nhiều bất công, oan trái, thân phận của họ vô cùng đau khổ. + Cảm thông sâu sắc với người phụ nữ trong xã hội phong kiến. + Lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên thân phận người phụ nữ. – Bài viết có thể bố cục theo nhiều cách: + Cách 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương, sau đó nêu suy nghĩ về người phụ nữ trong xã hội cũ. + Cách 2: Nêu suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, sau đó chứng minh qua thân phận Vũ Nương. + Cách 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương xen lẫn với những nhận định, đánh giá về thân phận người phụ nữ. 3. Lập dàn ý (theo cách 1) a.Mở bài – Đề tài phụ nữ trong văn học nói chung, trong văn học trung đại nói riêng. – Giới thiệu nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và tính chất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế độ cũ. b. Thân bài * Vũ Nương – người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp nhưng số phận đau khổ: – Vũ Nương là người phụ nữ đẹp. + Tư dung tốt đẹp – người con gái bình dân. + Là người con hiếu thảo, người mẹ thương con, người vợ chung thuỷ. + Là người cố lòng tự trọng. – Vũ Nương lại là người phải gánh chịu nhiều khổ đau: + Một mình nuôi con, lo lắng thuốc thang, chôn cất mẹ chồng. + Bị Trương Sinh đối xử phũ phàng: nghi ngờ, không cho nàng biết nguyên do, mắng nhiếc thậm tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết. + Muốn quay trở lại cuộc sống trần gian nhưng không thể được. * Suy nghĩ về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến: – Con người không làm chủ được vận mệnh của mình. – Xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, vô nhân đạo gây ra bao bất công cho người phụ nữ ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng. – Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có điều kiện phát triển. – Cảm thông và hiểu rõ đĩều tốt đẹp trong phẩm chất của họ. (lấy ví dụ qua ca dao, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều,…) c. Kết bài: Hiểu về thời đã qua để thêm yêu hiện tại. 4. Bài làm minh họa Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ. Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bẳn thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều: Đau đớn thay phậh đàn bà, Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung. Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được. Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày”? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết: Thân em ưừa trắng lại ưừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điểu kiện phát triển. Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy. (Phan Hồ Thuý Hằng, lớp 9A1, Trường THCS Trưng Vương, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét
Hướng dẫn Nghị luận xã hội lớp 9 Đề bài: Nhiều bạn học sinh hiện nay vì ham mê trò chơi điện tử mà sao nhãng học tập, mắc khuyết điểm,… Ý kiến của em về hiện tượng này như thế nào? 1. Yêu cầu – Nghị luận về một vấn đề xã hội mang tính thời sự hiện nay: Hiện tượng ham mê trò chơi điện tử mà sao nhãng việc học, có người còn phạm sai lầm. – Cần đưa ra được những ý kiến đánh giá đúng về hiện tượng trên các mặt: tích cực, tiêu cực và giải pháp. – Bố cục cần cân đối giữa việc nêu mặt tích cực và tiêu cực, nhấn mạnh phần tiêu cực để phê phán và nêu giải pháp khắc phục. 2. Gợi ý – Ý kiến đưa ra nên xuất phát từ thực tế cuộc sống và qua các phương tiện truyền thông mà mình biết. – Nên đặt ra một số câu hỏi để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo, ví dụ: + Trò chơi điện tử có gì hấp dẫn? Tại sao nó được mọi người say mê.? + Những mặt nào là lợi ích của trò chơi điện tử? + Những mặt nào là tác hại? + Hiện tượng nào cần báo động cho học sinh từ trò chơi điện tử? + Nguyên nhân của hiện tượng là gì? + Phương hướng giải quyết hiện tượng trên như thế nào? 3. Lập dàn ý a.Mở bài: Dẫn dắt vào vấn đề tại sao phải bàn về trò chơi điện tử. b. Thân bài – Thực trạng của việc phát triển trò chơi điện tử. – Nguyên nhân của những hiện tượng trên là gì? – Phương hướng giải quyết vấn đề c. Kết bài: Hãy cảnh giác với các trò chơi điện tử. 4. Bài làm minh hoa Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học và công nghệ. Chính vì vậy mà nhu cầu giải trí của con người càng tăng cao. Một trong những hình thức giải trí thu hút được số đông mọi người là trò chơi điện tử. Nhưng hiện nay, một số bạn trẻ đang quá lạm dụng trò chơi điện tử, dẫn tới những hiện tượng không hay xảy ra trong xã hội. Như chúng ta đã biết, trò chơi điện tử đang rất phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Các nước tiên tiến sản xuất trò chơi điện tử từ khi ngành lập trình ra đời và phát triển. Vài năm gần đây, chúng đã du nhập vào nước ta và đã có những ảnh hưởng nhanh chóng. Đi học trên một con phố ở thành phố lớn, ta có thể bắt gặp hàng mấy chục hàng điện tử. Do vậy, số lượng người tham gia chơi cũng không nhỏ. Không chỉ ở thành thị, tuy có quy mô nhỏ hơn nhưng ở nông thôn, trò chơi điện tử cũng khá phổ biến, nhất là với các bạn trẻ. Hiện nay, từ người lớn đến trẻ nhỏ, nam hay nữ đã đều biết tới khái niệm trò chơi điện tử và hẳn đã từng một lần xem, chơi chúng. Chính vì quá phổ biến như vậy mà số lượng những người tham gia chơi điện tử ngày càng tăng. Do tính hiếu kì, tò mò và sự hấp dẫn của các trò chơi đã cuốn hút người chơi ngay từ thời gian đầu. Nhiều người không thể kìm hãm sự thích thú khi tham gia trò chơi, vậy nên đã tiếp tục chơi với thời gian rất lâu. Hành động đó đã gây nên tình trạng “nghiện game” ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Gần đây, trào lưu ấy đang trở nên xấu đi bởi hậu quả của sự “nghiện” đó. Nó ảnh hưởng tới sức khoẻ, dẫn đến kết quả học tập giảm sút. Một số bạn do không đủ tiền để chơi game, còn mắc phải những sai lầm rất đáng tiếc. Hậu quả của sự việc trên là: sau nhiều ngày ngồi lâu, chăm chú vào màn hình máy vi tính, sức khoẻ của nhiều người giảm sút. Nhiều bạn do ham chơi còn mắc một số bệnh như: cận thị, rối loạn thần kinh,… Thậm chí, nếu chơi quá nhiều còn có thể gây hôn mê vì thần kinh làm việc làm việc quá căng thẳng. Kéo theo đó là kết quả học tập yếu dần do dành thời gian cho các trò chơi. Điều đó không những gây phiền lòng cha mẹ và thầy cô giáo, nghiêm trọng hơn, nó đã làm suy hổng thêm vốn kiến thức mà họ đã dày công thu nhập bấy lâu. Nhưng đáng cảnh báo nhất là hiện tượng trộm cắp vặt, các hành vi thuộc nhiều loại tệ nạn xã hội. Tình trạng trộm cắp chỉ là hành động bước đầu khi nhiều người thiếu tiền chơi điện tử. Một hai lần lấy của nhà đì. Lâu dần cũng thành quen, hình thành bản tính xấu trong con người họ. Hậu quả lớn thứ hai của trò chơi điện tử là dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội. Nhưng ta biết rằng, hiện nay hình thức chơi điện tử đã cải tiến, đó là người chơi có thể giao đấu trực tiếp với đối thủ nếu cả hai đều ở trên mạng. Nhiều trò chơi hiện đại có thể gia nhập, mọi người có thể biết tới tên tuổi của nhau. Nhưng do mâu thuẫn khi chơi hay nói chuyện, hai địch thủ đối đầu nhai;, không còn qua những trò chơi mà qua thực tế. Cuộc đối đầu ấy đã trở thành một cuộc lăng mạ nhau hay thậm chí gây gổ – đối với một số đối tượng hư hỏng. Từ một một người ngoan ngoãn, hiền lành, khi quá ham mê trò chơi điện tử, rất có thể bạn sẽ trở thành một người hoàn toàn khác. Để khẳng định mình thắng thế, dù ở trong game hay thực tế, họ bất chấp, làm mọi thứ. Cho dù điều đó là phạm pháp. Hậu quả thứ ba và cũng là đáng lo ngại nhất, nếu sự việc trên tiếp diễn thì trò chơi điện tử sẽ tạo ra một thế hệ con người mới, chỉ biết ăn chơi mà không lao động. Đó là điều không thể chấp nhận đối với một nước đang rất cần sự giúp đỡ của thế hệ thành niên để có thể trở thành nước công nghiệp. Vậy nguyên nhân của hiện tượng trên là từ đâu? Chúng ta không phủ nhận sự hấp dẫn của trò chơi điện tử và lợi ích mà nó mang lại. Thế giới điện tử là nơi người chơi có thể tưởng tượng, mơ ước, từ đó làm giảm đi sự căng thẳng trong công việc. Đó là mục đích mà các nhà phần sản xuất mềm khi tung ra mặt hàng này. Trò chơi điện tử hấp dẫn bởi những hình ảnh sống động cùng với nhiều chi tiết, cốt chuyệrì hay được lồng ghép với nhau. Hình ảnh của chúng thường rất lạ mắt, ngộ nghĩnh, vì vậy mà rất phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thường thì các nhà sản xuất phần mềm hay chọn cốt truyện của những tập truyện tranh, truyền thuyết hay nhân vật nổi tiếng để tạo ra những game mới. Do vậy, sự hưởng ứng của người chơi là sẽ rất lớn. Nguyên nhân thứ hai là sự tưởng tượng của người chơi sẽ được kích thích. Ngoài đời họ chỉ là những người bình thường. Nhưng trong một trò chơi, họ sẽ trở thành nhữlng dũng sĩ trừ gian, diệt bạo như một trò chơi hiện nay. Ngoài ra còn có một số trò đòi hỏi người chơi phải tự mày mò cách giả thoát. Nên với mục đích cao cả, nhiều người bất chấp thời gian trôi qua, ngồi miệt mài dán mắt vào màn hình. Muốn chơi điện tử cũng không hẳn là khó, với số tiền khoảng 2000đ một giờ, bất cứ ai cũng có thể tung hoành trong thế giới của riêng mình Những hiện tượng không đáng có trên còn do trách nhiệm của những phụ huynh và ý thức của mỗi học sinh. Nhiều phụ huynh đã đặt toàn bộ sự tin tưởng vào con mình, chỉ biết vùi đầu vào kinh doanh kiếm tiền mà quên mất việc chăm sóc, dạy dỗ con. Thiếu sự chăm lo của bố mẹ, các bạn đã không biết điểm dừng, vô tư, yên tâm ngồi trong quán điện tử cả ngày mà không sợ bị ai bắt gặp. Nhưng không vì đổ trách nhiệm cho bố mẹ mà tuổi trẻ chúng ta không có lỗi. Do ý thức kém của mỗi học sinh khi chơi cũng như khi học, một số bạn đã mắc phải những sai lầm đáng xấu hổ. Không những coi thường môn học, các bạn còn bị rủ rê mà sao nhãng mất trách nhiệm của mình. Nếu mỗi học sinh chúng ta đều tự nhận thức được cách chơi điện tử lành mạnh, có mức độ, thì sẽ không còn tồn tại những tai tiếng. Trò chơi điện tử thật thú vị nhưng cũng có hại khi chúng ta lạm dụng nó. Vậy chúng ta phải làm gì để ngăn chặn những hậu quả trên? Điều đáng làm hiện nay là giáo dục cho thế hệ trẻ biết mặt hại của trò chơi điện tử và những vấn đề liên quan, giúp họ tránh tình trạng nghiện chơi, dẫn đến những hậu quả đáng buồn. Nhà trường có thể phối hợp với gia đình, chính quyền địa phương giúp đỡ các bạn trong tình trạng say mê điện tử, thoát ra khỏi cạm bẫy ấy. Không những vậy, chúng ta cần yêu cầu toàn bộ các cửa hàng trò chơi điện tử đóng cửa trước 21 giờ, tránh tình trạng học sinh đi chơi thâu đêm, ảnh hưởng tới sức khoẻ và học tập. Và thiết thực là nhà nước nên xây dựng các trung tâm giải trí, các trò chơi dân gian để thu hút các bạn trẻ. Như vậy chúng ta có thể tránh được tình trạng gia tăng số lượng con nghiện trò chơi điện tử. Trò chơi điện tử thật hấp dẫn, nhưng tác hại mà nó đem lại là không nhỏ. Vì vậy chúng ta hãy thưởng thức nó đúng cách và đúng mực. Hãy cảnh giác với trò chơi hấp dẫn nhưng cũng không ít tai hại này. (Nguyễn Kim Chi, lớp 9A2, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét Chơi trò chơi điện tử, kể cả việc chơi game (trò chơi) và chat (tán gẫu) trên mạng đang trở nên khá phổ biến trong những năm gần đây ở nước ta. Đã có không ít những “tai nạn” xảy ra với những người ham mê thái quá. Vấn đề đã được không ít các bài báo lên tiếng báo động.
Hướng dẫn Nghị luận xã hội lớp 9 Đề bài: Nhiều bạn học sinh hiện nay vì ham mê trò chơi điện tử mà sao nhãng học tập, mắc khuyết điểm,… Ý kiến của em về hiện tượng này như thế nào? 1. Yêu cầu – Nghị luận về một vấn đề xã hội mang tính thời sự hiện nay: Hiện tượng ham mê trò chơi điện tử mà sao nhãng việc học, có người còn phạm sai lầm. – Cần đưa ra được những ý kiến đánh giá đúng về hiện tượng trên các mặt: tích cực, tiêu cực và giải pháp. – Bố cục cần cân đối giữa việc nêu mặt tích cực và tiêu cực, nhấn mạnh phần tiêu cực để phê phán và nêu giải pháp khắc phục. 2. Gợi ý – Ý kiến đưa ra nên xuất phát từ thực tế cuộc sống và qua các phương tiện truyền thông mà mình biết. – Nên đặt ra một số câu hỏi để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo, ví dụ: + Trò chơi điện tử có gì hấp dẫn? Tại sao nó được mọi người say mê.? + Những mặt nào là lợi ích của trò chơi điện tử? + Những mặt nào là tác hại? + Hiện tượng nào cần báo động cho học sinh từ trò chơi điện tử? + Nguyên nhân của hiện tượng là gì? + Phương hướng giải quyết hiện tượng trên như thế nào? 3. Lập dàn ý a.Mở bài: Dẫn dắt vào vấn đề tại sao phải bàn về trò chơi điện tử. b. Thân bài – Thực trạng của việc phát triển trò chơi điện tử. – Nguyên nhân của những hiện tượng trên là gì? – Phương hướng giải quyết vấn đề c. Kết bài: Hãy cảnh giác với các trò chơi điện tử. 4. Bài làm minh hoa Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học và công nghệ. Chính vì vậy mà nhu cầu giải trí của con người càng tăng cao. Một trong những hình thức giải trí thu hút được số đông mọi người là trò chơi điện tử. Nhưng hiện nay, một số bạn trẻ đang quá lạm dụng trò chơi điện tử, dẫn tới những hiện tượng không hay xảy ra trong xã hội. Như chúng ta đã biết, trò chơi điện tử đang rất phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Các nước tiên tiến sản xuất trò chơi điện tử từ khi ngành lập trình ra đời và phát triển. Vài năm gần đây, chúng đã du nhập vào nước ta và đã có những ảnh hưởng nhanh chóng. Đi học trên một con phố ở thành phố lớn, ta có thể bắt gặp hàng mấy chục hàng điện tử. Do vậy, số lượng người tham gia chơi cũng không nhỏ. Không chỉ ở thành thị, tuy có quy mô nhỏ hơn nhưng ở nông thôn, trò chơi điện tử cũng khá phổ biến, nhất là với các bạn trẻ. Hiện nay, từ người lớn đến trẻ nhỏ, nam hay nữ đã đều biết tới khái niệm trò chơi điện tử và hẳn đã từng một lần xem, chơi chúng. Chính vì quá phổ biến như vậy mà số lượng những người tham gia chơi điện tử ngày càng tăng. Do tính hiếu kì, tò mò và sự hấp dẫn của các trò chơi đã cuốn hút người chơi ngay từ thời gian đầu. Nhiều người không thể kìm hãm sự thích thú khi tham gia trò chơi, vậy nên đã tiếp tục chơi với thời gian rất lâu. Hành động đó đã gây nên tình trạng “nghiện game” ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Gần đây, trào lưu ấy đang trở nên xấu đi bởi hậu quả của sự “nghiện” đó. Nó ảnh hưởng tới sức khoẻ, dẫn đến kết quả học tập giảm sút. Một số bạn do không đủ tiền để chơi game, còn mắc phải những sai lầm rất đáng tiếc. Hậu quả của sự việc trên là: sau nhiều ngày ngồi lâu, chăm chú vào màn hình máy vi tính, sức khoẻ của nhiều người giảm sút. Nhiều bạn do ham chơi còn mắc một số bệnh như: cận thị, rối loạn thần kinh,… Thậm chí, nếu chơi quá nhiều còn có thể gây hôn mê vì thần kinh làm việc làm việc quá căng thẳng. Kéo theo đó là kết quả học tập yếu dần do dành thời gian cho các trò chơi. Điều đó không những gây phiền lòng cha mẹ và thầy cô giáo, nghiêm trọng hơn, nó đã làm suy hổng thêm vốn kiến thức mà họ đã dày công thu nhập bấy lâu. Nhưng đáng cảnh báo nhất là hiện tượng trộm cắp vặt, các hành vi thuộc nhiều loại tệ nạn xã hội. Tình trạng trộm cắp chỉ là hành động bước đầu khi nhiều người thiếu tiền chơi điện tử. Một hai lần lấy của nhà đì. Lâu dần cũng thành quen, hình thành bản tính xấu trong con người họ. Hậu quả lớn thứ hai của trò chơi điện tử là dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội. Nhưng ta biết rằng, hiện nay hình thức chơi điện tử đã cải tiến, đó là người chơi có thể giao đấu trực tiếp với đối thủ nếu cả hai đều ở trên mạng. Nhiều trò chơi hiện đại có thể gia nhập, mọi người có thể biết tới tên tuổi của nhau. Nhưng do mâu thuẫn khi chơi hay nói chuyện, hai địch thủ đối đầu nhai;, không còn qua những trò chơi mà qua thực tế. Cuộc đối đầu ấy đã trở thành một cuộc lăng mạ nhau hay thậm chí gây gổ – đối với một số đối tượng hư hỏng. Từ một một người ngoan ngoãn, hiền lành, khi quá ham mê trò chơi điện tử, rất có thể bạn sẽ trở thành một người hoàn toàn khác. Để khẳng định mình thắng thế, dù ở trong game hay thực tế, họ bất chấp, làm mọi thứ. Cho dù điều đó là phạm pháp. Hậu quả thứ ba và cũng là đáng lo ngại nhất, nếu sự việc trên tiếp diễn thì trò chơi điện tử sẽ tạo ra một thế hệ con người mới, chỉ biết ăn chơi mà không lao động. Đó là điều không thể chấp nhận đối với một nước đang rất cần sự giúp đỡ của thế hệ thành niên để có thể trở thành nước công nghiệp. Vậy nguyên nhân của hiện tượng trên là từ đâu? Chúng ta không phủ nhận sự hấp dẫn của trò chơi điện tử và lợi ích mà nó mang lại. Thế giới điện tử là nơi người chơi có thể tưởng tượng, mơ ước, từ đó làm giảm đi sự căng thẳng trong công việc. Đó là mục đích mà các nhà phần sản xuất mềm khi tung ra mặt hàng này. Trò chơi điện tử hấp dẫn bởi những hình ảnh sống động cùng với nhiều chi tiết, cốt chuyệrì hay được lồng ghép với nhau. Hình ảnh của chúng thường rất lạ mắt, ngộ nghĩnh, vì vậy mà rất phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thường thì các nhà sản xuất phần mềm hay chọn cốt truyện của những tập truyện tranh, truyền thuyết hay nhân vật nổi tiếng để tạo ra những game mới. Do vậy, sự hưởng ứng của người chơi là sẽ rất lớn. Nguyên nhân thứ hai là sự tưởng tượng của người chơi sẽ được kích thích. Ngoài đời họ chỉ là những người bình thường. Nhưng trong một trò chơi, họ sẽ trở thành nhữlng dũng sĩ trừ gian, diệt bạo như một trò chơi hiện nay. Ngoài ra còn có một số trò đòi hỏi người chơi phải tự mày mò cách giả thoát. Nên với mục đích cao cả, nhiều người bất chấp thời gian trôi qua, ngồi miệt mài dán mắt vào màn hình. Muốn chơi điện tử cũng không hẳn là khó, với số tiền khoảng 2000đ một giờ, bất cứ ai cũng có thể tung hoành trong thế giới của riêng mình Những hiện tượng không đáng có trên còn do trách nhiệm của những phụ huynh và ý thức của mỗi học sinh. Nhiều phụ huynh đã đặt toàn bộ sự tin tưởng vào con mình, chỉ biết vùi đầu vào kinh doanh kiếm tiền mà quên mất việc chăm sóc, dạy dỗ con. Thiếu sự chăm lo của bố mẹ, các bạn đã không biết điểm dừng, vô tư, yên tâm ngồi trong quán điện tử cả ngày mà không sợ bị ai bắt gặp. Nhưng không vì đổ trách nhiệm cho bố mẹ mà tuổi trẻ chúng ta không có lỗi. Do ý thức kém của mỗi học sinh khi chơi cũng như khi học, một số bạn đã mắc phải những sai lầm đáng xấu hổ. Không những coi thường môn học, các bạn còn bị rủ rê mà sao nhãng mất trách nhiệm của mình. Nếu mỗi học sinh chúng ta đều tự nhận thức được cách chơi điện tử lành mạnh, có mức độ, thì sẽ không còn tồn tại những tai tiếng. Trò chơi điện tử thật thú vị nhưng cũng có hại khi chúng ta lạm dụng nó. Vậy chúng ta phải làm gì để ngăn chặn những hậu quả trên? Điều đáng làm hiện nay là giáo dục cho thế hệ trẻ biết mặt hại của trò chơi điện tử và những vấn đề liên quan, giúp họ tránh tình trạng nghiện chơi, dẫn đến những hậu quả đáng buồn. Nhà trường có thể phối hợp với gia đình, chính quyền địa phương giúp đỡ các bạn trong tình trạng say mê điện tử, thoát ra khỏi cạm bẫy ấy. Không những vậy, chúng ta cần yêu cầu toàn bộ các cửa hàng trò chơi điện tử đóng cửa trước 21 giờ, tránh tình trạng học sinh đi chơi thâu đêm, ảnh hưởng tới sức khoẻ và học tập. Và thiết thực là nhà nước nên xây dựng các trung tâm giải trí, các trò chơi dân gian để thu hút các bạn trẻ. Như vậy chúng ta có thể tránh được tình trạng gia tăng số lượng con nghiện trò chơi điện tử. Trò chơi điện tử thật hấp dẫn, nhưng tác hại mà nó đem lại là không nhỏ. Vì vậy chúng ta hãy thưởng thức nó đúng cách và đúng mực. Hãy cảnh giác với trò chơi hấp dẫn nhưng cũng không ít tai hại này. (Nguyễn Kim Chi, lớp 9A2, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét Chơi trò chơi điện tử, kể cả việc chơi game (trò chơi) và chat (tán gẫu) trên mạng đang trở nên khá phổ biến trong những năm gần đây ở nước ta. Đã có không ít những “tai nạn” xảy ra với những người ham mê thái quá. Vấn đề đã được không ít các bài báo lên tiếng báo động.
Hướng dẫn Suy nghĩ về trí tuệ của Việt Nam Đề bài: Qua các kì thi học sinh giỏi quốc tế, em có suy nghĩ gì về trí tuệ Viêt Nam. 1. Yêu cầu – Vấn đề cần bàn luận là trí tuệ Việt Nam. – Bài viết đặt ra việc tìm hiểu và thâm nhập thực tế cuộc sống, việc tích luỹ kiến thức qua sách báo, qua các phương tiện truyền thông. – Quá trình nghị luận ngoài vốn kiến thức, người viết phải có sự kết hợp khéo léo, hợp lí với các phương thức miêu tả, tự sự, biểu cảm, thuyết minh. – Cần thể hiện rõ niềm tự hào và niềm tin tưởng các tài năng của thế hệ trẻ Việt Nam để từ đó càng thấy rõ trách nhiệm và vai trò của bản thân đối với việc học hỏi, rèn luyện ý chí vươn lên. 2. Gợi ý – Nên tìm đọc các tài liệu nói về các kì thi học sinh giỏi quốc tế, thi sáng tạo robot. – Tham khảo các cuộc thi “Thắp sáng tài năng trẻ Việt Nam”, “Trí tuệ Việt Nam”, thi chế tạo Rôbôtcon do đài truyền hình Trung ương tổ chức và phát hình trực tiếp. – Theo dõi cuộc họp mặt của thành phố Hà Nội sắp tới với học sinh đã đạt giải kì thi quốc tế trong 5 năm trở lại đây (2000 – 2005). – Cần thuyết phục người đọc tin tưởng, tự hào về trí tuệ Việt Nam qua những gương mặt tài năng trẻ. 3. Lập dàn ý a. Mở bài – Truyền thống hiếu học và truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc (hoặc trích dẫn lời Nguyễn Thiếp, hoặc văn thơ). – Học sinh đạt giải trong các kì thi quốc tế luôn là niềm tự hào của thế hệ trẻ nói riêng và cả nước nói chung. b. Thân bài – Các kì thi học sinh giỏi quốc tế là một sân chơi trí tuệ cho những người trẻ tuổi. – Học sinh Việt Nam được đánh giá như thế nào trong các cuộc thi này? (Dự thi các môn? Thành tích đạt được? Thứ hạng và những giải đặc biệt.) – Suy nghĩ của bản thân (trọng tâm) – Những đề bạt mong muốn c. Kết bài: Nhấn mạnh niềm tự hào, cảm ơn những người đã đem vinh quang về cho đất nước. 4. Bài làm minh hoạ Việt Nam được biết đến không phải chỉ là đất nước anh hùng với bao chiến công lẫy lừng, với những con người cần cù chịu thương chịu khó mà bạn bè năm châu còn trân trọng chúng ta vì tài năng, trí tuệ. Biết bao công trình khoa học, bao phát minh, sáng chế, bao thành tích đáng vị nể, bao huy chương đã đưa dân tộc ta bước lên “đài vinh quang” để “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Đặc biệt, thành tích của học sinh, sinh viên ta đạt được trong các kì thi học sinh giỏi quốc tế là niềm kiêu hãnh và tự hào cho mỗi chúng ta. Hằng năm đều có rất nhiều các cuộc thi quốc tế được tổ chức trên thế giới với các bộ môn khoa học tự nhiên như: Toán, Lí, Hoá, Tin,… thu hút các bạn trẻ thuộc nhiều độ tuổi tham dự. Việt Nam cũng là một đất nước đã có khá nhiều học sinh ưu tú dự thi và giành được những thành công đáng kể. Chúng ta có bao nhiêu hào kiệt, nhân tài làm rạng danh cho đất nước, khiến cho các quốc gia khác phải nể phục, kính trọng. Xưa kia, đi sứ sang Trung Quốc, Lương Thế Vinh, nổi tiếng với bài toán cân voi khiến triều đình Trung Hoa phải lắc đầu nể phục. Mạc Đĩnh Chi với bài phú Hoa sen giếng ngọc thể hiện cốt cách thanh tao của một người con đất Việt. Tuy vẻ bề ngoài xấu xí nhưng tài năng của ông đã khiến cho sứ thần Trung Quốc phải kinh ngạc và e dè. Cậu bé Nguyễn Hiền là người đã đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi và là ông Trạng trẻ nhất trong lịch sử dân tộc ta. Đây chỉ là một vài tên tuổi tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ mẫn tiệp của người Việt Nam xưa. Họ đã làm nên những điều đủ cho ta thấy được trí tuệ Việt Nam từ lâu đời đã tạo nên danh tiếng cho nước Việt Nam nhỏ bé, làm cho bạn bè yêu quý, nể phục còn kẻ thù thì khiếp sợ. Ngày nay, thế hệ trẻ Việt Nam vẫn luôn tiếp bước ông cha xưa, nỗ lực vươn lên học tập không ngừng nhằm đem vinh quang cho Tổ quốc. Thanh thiếu niên ở mọi lứa tuổi đang liên tục giành được các huy chương vàng, bạc, đồng, các giải thưởng của các cuộc thi uy tín trên toàn thế giới tô thêm màu son chói lọi vào bảng vàng thành tích của dân tộc ta. Hẳn chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh những em học sinh tiểu học rạng rỡ bước ra từ trên máy bay ùa vào vòng tay người thân trước cửa sân bay Tân Sơn Nhất sau khi tham gia cuộc thi Toán quốc tế tháng 9 năm 2004 từ Ấn Độ trở về. Với 20 huy chương, trong đó 14 huy chương vàng, đoàn học sinh Việt Nam đã giành giải nhất toàn đoàn. Những con số đã từng khiến ta thấy sung sướng và tự hào khi nghĩ về những giây phút ấy. Trí tuệ Việt Nam quả thật đã toả sáng trên đất bạn. Chúng ta có thể tự hào hình dung được những cái nhìn đầy bất ngờ, đầy khâm phục của bè bạn năm châu. Những thành công mà các bạn học sinh gặt hái hôm nay sẽ là nền tảng cho những bước tiến sau này của đất nước. Những chiếc huy chương quý giá ấy sẽ là một sự tôn vinh của tài năng người Việt Nam ta trên con đường chinh phục những đỉnh cao tri thức của nhân loại. Nói về lứa tuổi phổ thông trung học, phải kể đến Đỗ Hoài Anh – một học sinh tuổi “teen” Việt Nam khiến nhiều học sinh xuất sắc nhất nước Mĩ phải ghen tị. Nếu nghe qua bảng thành tích của chị, chúng ta không thể nào không trầm trồ thán phục: Giải nhất kì thi học sinh giỏi các trường phổ thông Đông Bắc Mĩ ; là một trong năm học sinh có điểm tổng kết cao nhất toàn Đông Bắc Mĩ với số điểm 99,7/100, chưa kể số điểm tuyệt đối 800/800 của môn Toán trong kì thi đại học. Cô gái trẻ tuổi này đã nhận được “Giải thưởng giáo dục” của Tổng thống Mĩ dành cho những học sinh trung học xuất sắc nhất toàn Mĩ và đã có tên trong Who is who among American High School Students (cuốn sách viết về những học sinh xuất sắc nhất của Mĩ). Chị nhận được học bổng của ba trường đại học Mĩ… Đó mới chỉ là một phần trong những thành tích mà chị Hoài Anh đã đạt được. Ngoài ra, chúng ta còn nhiều học sinh đi du học ở nhiều nước trên thế giới. Họ tuy gặp khó khăn về mặt ngôn ngữ, về phong tục, tập quán và cả sự eo hẹp về tài chính,… nhưng họ đã vượt qua những trở ngại đó để học tập thật tốt, đạt được những thành tích cao, làm rạng danh dân tộc Việt Nam ở các quốc gia trên toàn thế giới. Ba học sinh của khối chuyên trường Đại học Khoa học tự nhiên đã đoạt giải nhì AGAMES một cuộc thi sáng tạo lập trình do Liên minh công nghệ truyền thông – thông tin Châu Á (AIC) tổ chức. Đây là một cuộc thi có đẳng cấp quốc tế vì có sự góp mặt của các cường quốc công nghệ thông tin sừng sổ như Xin-ga-po, An Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, In-đô-nê-xi-a,… Giải nhì này cùng với giải ba của các anh chị đội Học viện Bưu chính Viễn thông giành được trong nội dung Micro Mouse đã giúp đoàn Việt Nam vượt qua những cường quốc công nghệ thông tin khác. Thật đáng tự hào biết bao! Nếu so sánh Việt Nam với những đất nước như Nhật Bản hay Ấn Độ về cơ sở vật chất và nền giáo dục tân tiến thì có thể nhận thấy rõ sự chênh lệch rất bất lợi của ta, vậy mà những thanh thiếu niên học sinh ưu tú đó không ngần ngại vượt qua bao khó khăn, trắc trở để đến với những đình cao tri thức mới. Chúng ta thật tâm đắc với câu nói: “Nhân tài là do 99% của sự cần cù chăm chỉ còn 1% của sự thông minh”. Những học sinh Việt Nam đã thấm nhuần câu nói đó và hơn thế nữa đã biết kết hợp hai yếu tố chăm chỉ và thông minh một cách hợp lí để đạt được thành tích ngày càng cao trong các kì thi quốc tế góp phần tôn vinh trí tuệ Việt Nam với bạn bè năm châu bốn bể. Nền giáo dục của Việt Nam chưa phát triển bằng nhiều nước khác nên học sinh giỏi của chúng ta đã phải nỗ lực không ngừng để đạt được thành tích trên. Hình như càng khó khăn thì họ càng được tôi luyện và thử thách để thể hiện tài năng và bản lĩnh của người Việt Nam. Có được người tài đã là khó nhưng sử dụng và phát huy được tài năng của họ là việc không đơn giản. Chế độ, chính sách, đãi ngộ,… là những việc làm trước mắt cần được quan tâm đúng mực hơn nữa. Riêng cuộc thi viết thư UPU, về thực chất là một dạng thi học sinh giỏi văn quốc tế, cũng cần được quan tâm để tim ra những giải pháp hữu hiệu hơn nữa trong việc giành giải cao. Mong rằng, trong cuộc thi Olimpic các môn tự nhiên vào tháng tám này tại Mê-xi-cộ, đội tuyển Việt Nam sẽ tiếp tục đứng lên bậc cao nhất làm rạng danh non sông đất nước ta. Cũng mong rằng ánh sáng bất diệt của trí tuệ Việt Nam sẽ toả ngời trong cuộc gặp gỡ các gương mặt đoạt giải quốc tế trong 5 năm trở lại đây của Thành phố Hà Nội. Đây là sự tụ hội của các anh tài, là sự bày tỏ niềm tự hào và tin tưởng của thành phố cũng như cả nước đối với các anh chị. Hãnh diện và tự hào, khâm phục và ước mơ… Đó chính là cảm xúc của mỗi chúng ta trước các thành tích đáng quý đó. (Vũ Ngọc Trâm, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét
Hướng dẫn Suy nghĩ về trí tuệ của Việt Nam Đề bài: Qua các kì thi học sinh giỏi quốc tế, em có suy nghĩ gì về trí tuệ Viêt Nam. 1. Yêu cầu – Vấn đề cần bàn luận là trí tuệ Việt Nam. – Bài viết đặt ra việc tìm hiểu và thâm nhập thực tế cuộc sống, việc tích luỹ kiến thức qua sách báo, qua các phương tiện truyền thông. – Quá trình nghị luận ngoài vốn kiến thức, người viết phải có sự kết hợp khéo léo, hợp lí với các phương thức miêu tả, tự sự, biểu cảm, thuyết minh. – Cần thể hiện rõ niềm tự hào và niềm tin tưởng các tài năng của thế hệ trẻ Việt Nam để từ đó càng thấy rõ trách nhiệm và vai trò của bản thân đối với việc học hỏi, rèn luyện ý chí vươn lên. 2. Gợi ý – Nên tìm đọc các tài liệu nói về các kì thi học sinh giỏi quốc tế, thi sáng tạo robot. – Tham khảo các cuộc thi “Thắp sáng tài năng trẻ Việt Nam”, “Trí tuệ Việt Nam”, thi chế tạo Rôbôtcon do đài truyền hình Trung ương tổ chức và phát hình trực tiếp. – Theo dõi cuộc họp mặt của thành phố Hà Nội sắp tới với học sinh đã đạt giải kì thi quốc tế trong 5 năm trở lại đây (2000 – 2005). – Cần thuyết phục người đọc tin tưởng, tự hào về trí tuệ Việt Nam qua những gương mặt tài năng trẻ. 3. Lập dàn ý a. Mở bài – Truyền thống hiếu học và truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc (hoặc trích dẫn lời Nguyễn Thiếp, hoặc văn thơ). – Học sinh đạt giải trong các kì thi quốc tế luôn là niềm tự hào của thế hệ trẻ nói riêng và cả nước nói chung. b. Thân bài – Các kì thi học sinh giỏi quốc tế là một sân chơi trí tuệ cho những người trẻ tuổi. – Học sinh Việt Nam được đánh giá như thế nào trong các cuộc thi này? (Dự thi các môn? Thành tích đạt được? Thứ hạng và những giải đặc biệt.) – Suy nghĩ của bản thân (trọng tâm) – Những đề bạt mong muốn c. Kết bài: Nhấn mạnh niềm tự hào, cảm ơn những người đã đem vinh quang về cho đất nước. 4. Bài làm minh hoạ Việt Nam được biết đến không phải chỉ là đất nước anh hùng với bao chiến công lẫy lừng, với những con người cần cù chịu thương chịu khó mà bạn bè năm châu còn trân trọng chúng ta vì tài năng, trí tuệ. Biết bao công trình khoa học, bao phát minh, sáng chế, bao thành tích đáng vị nể, bao huy chương đã đưa dân tộc ta bước lên “đài vinh quang” để “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Đặc biệt, thành tích của học sinh, sinh viên ta đạt được trong các kì thi học sinh giỏi quốc tế là niềm kiêu hãnh và tự hào cho mỗi chúng ta. Hằng năm đều có rất nhiều các cuộc thi quốc tế được tổ chức trên thế giới với các bộ môn khoa học tự nhiên như: Toán, Lí, Hoá, Tin,… thu hút các bạn trẻ thuộc nhiều độ tuổi tham dự. Việt Nam cũng là một đất nước đã có khá nhiều học sinh ưu tú dự thi và giành được những thành công đáng kể. Chúng ta có bao nhiêu hào kiệt, nhân tài làm rạng danh cho đất nước, khiến cho các quốc gia khác phải nể phục, kính trọng. Xưa kia, đi sứ sang Trung Quốc, Lương Thế Vinh, nổi tiếng với bài toán cân voi khiến triều đình Trung Hoa phải lắc đầu nể phục. Mạc Đĩnh Chi với bài phú Hoa sen giếng ngọc thể hiện cốt cách thanh tao của một người con đất Việt. Tuy vẻ bề ngoài xấu xí nhưng tài năng của ông đã khiến cho sứ thần Trung Quốc phải kinh ngạc và e dè. Cậu bé Nguyễn Hiền là người đã đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi và là ông Trạng trẻ nhất trong lịch sử dân tộc ta. Đây chỉ là một vài tên tuổi tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ mẫn tiệp của người Việt Nam xưa. Họ đã làm nên những điều đủ cho ta thấy được trí tuệ Việt Nam từ lâu đời đã tạo nên danh tiếng cho nước Việt Nam nhỏ bé, làm cho bạn bè yêu quý, nể phục còn kẻ thù thì khiếp sợ. Ngày nay, thế hệ trẻ Việt Nam vẫn luôn tiếp bước ông cha xưa, nỗ lực vươn lên học tập không ngừng nhằm đem vinh quang cho Tổ quốc. Thanh thiếu niên ở mọi lứa tuổi đang liên tục giành được các huy chương vàng, bạc, đồng, các giải thưởng của các cuộc thi uy tín trên toàn thế giới tô thêm màu son chói lọi vào bảng vàng thành tích của dân tộc ta. Hẳn chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh những em học sinh tiểu học rạng rỡ bước ra từ trên máy bay ùa vào vòng tay người thân trước cửa sân bay Tân Sơn Nhất sau khi tham gia cuộc thi Toán quốc tế tháng 9 năm 2004 từ Ấn Độ trở về. Với 20 huy chương, trong đó 14 huy chương vàng, đoàn học sinh Việt Nam đã giành giải nhất toàn đoàn. Những con số đã từng khiến ta thấy sung sướng và tự hào khi nghĩ về những giây phút ấy. Trí tuệ Việt Nam quả thật đã toả sáng trên đất bạn. Chúng ta có thể tự hào hình dung được những cái nhìn đầy bất ngờ, đầy khâm phục của bè bạn năm châu. Những thành công mà các bạn học sinh gặt hái hôm nay sẽ là nền tảng cho những bước tiến sau này của đất nước. Những chiếc huy chương quý giá ấy sẽ là một sự tôn vinh của tài năng người Việt Nam ta trên con đường chinh phục những đỉnh cao tri thức của nhân loại. Nói về lứa tuổi phổ thông trung học, phải kể đến Đỗ Hoài Anh – một học sinh tuổi “teen” Việt Nam khiến nhiều học sinh xuất sắc nhất nước Mĩ phải ghen tị. Nếu nghe qua bảng thành tích của chị, chúng ta không thể nào không trầm trồ thán phục: Giải nhất kì thi học sinh giỏi các trường phổ thông Đông Bắc Mĩ ; là một trong năm học sinh có điểm tổng kết cao nhất toàn Đông Bắc Mĩ với số điểm 99,7/100, chưa kể số điểm tuyệt đối 800/800 của môn Toán trong kì thi đại học. Cô gái trẻ tuổi này đã nhận được “Giải thưởng giáo dục” của Tổng thống Mĩ dành cho những học sinh trung học xuất sắc nhất toàn Mĩ và đã có tên trong Who is who among American High School Students (cuốn sách viết về những học sinh xuất sắc nhất của Mĩ). Chị nhận được học bổng của ba trường đại học Mĩ… Đó mới chỉ là một phần trong những thành tích mà chị Hoài Anh đã đạt được. Ngoài ra, chúng ta còn nhiều học sinh đi du học ở nhiều nước trên thế giới. Họ tuy gặp khó khăn về mặt ngôn ngữ, về phong tục, tập quán và cả sự eo hẹp về tài chính,… nhưng họ đã vượt qua những trở ngại đó để học tập thật tốt, đạt được những thành tích cao, làm rạng danh dân tộc Việt Nam ở các quốc gia trên toàn thế giới. Ba học sinh của khối chuyên trường Đại học Khoa học tự nhiên đã đoạt giải nhì AGAMES một cuộc thi sáng tạo lập trình do Liên minh công nghệ truyền thông – thông tin Châu Á (AIC) tổ chức. Đây là một cuộc thi có đẳng cấp quốc tế vì có sự góp mặt của các cường quốc công nghệ thông tin sừng sổ như Xin-ga-po, An Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, In-đô-nê-xi-a,… Giải nhì này cùng với giải ba của các anh chị đội Học viện Bưu chính Viễn thông giành được trong nội dung Micro Mouse đã giúp đoàn Việt Nam vượt qua những cường quốc công nghệ thông tin khác. Thật đáng tự hào biết bao! Nếu so sánh Việt Nam với những đất nước như Nhật Bản hay Ấn Độ về cơ sở vật chất và nền giáo dục tân tiến thì có thể nhận thấy rõ sự chênh lệch rất bất lợi của ta, vậy mà những thanh thiếu niên học sinh ưu tú đó không ngần ngại vượt qua bao khó khăn, trắc trở để đến với những đình cao tri thức mới. Chúng ta thật tâm đắc với câu nói: “Nhân tài là do 99% của sự cần cù chăm chỉ còn 1% của sự thông minh”. Những học sinh Việt Nam đã thấm nhuần câu nói đó và hơn thế nữa đã biết kết hợp hai yếu tố chăm chỉ và thông minh một cách hợp lí để đạt được thành tích ngày càng cao trong các kì thi quốc tế góp phần tôn vinh trí tuệ Việt Nam với bạn bè năm châu bốn bể. Nền giáo dục của Việt Nam chưa phát triển bằng nhiều nước khác nên học sinh giỏi của chúng ta đã phải nỗ lực không ngừng để đạt được thành tích trên. Hình như càng khó khăn thì họ càng được tôi luyện và thử thách để thể hiện tài năng và bản lĩnh của người Việt Nam. Có được người tài đã là khó nhưng sử dụng và phát huy được tài năng của họ là việc không đơn giản. Chế độ, chính sách, đãi ngộ,… là những việc làm trước mắt cần được quan tâm đúng mực hơn nữa. Riêng cuộc thi viết thư UPU, về thực chất là một dạng thi học sinh giỏi văn quốc tế, cũng cần được quan tâm để tim ra những giải pháp hữu hiệu hơn nữa trong việc giành giải cao. Mong rằng, trong cuộc thi Olimpic các môn tự nhiên vào tháng tám này tại Mê-xi-cộ, đội tuyển Việt Nam sẽ tiếp tục đứng lên bậc cao nhất làm rạng danh non sông đất nước ta. Cũng mong rằng ánh sáng bất diệt của trí tuệ Việt Nam sẽ toả ngời trong cuộc gặp gỡ các gương mặt đoạt giải quốc tế trong 5 năm trở lại đây của Thành phố Hà Nội. Đây là sự tụ hội của các anh tài, là sự bày tỏ niềm tự hào và tin tưởng của thành phố cũng như cả nước đối với các anh chị. Hãnh diện và tự hào, khâm phục và ước mơ… Đó chính là cảm xúc của mỗi chúng ta trước các thành tích đáng quý đó. (Vũ Ngọc Trâm, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét
Hướng dẫn Lòng tự trọng của mỗi con người trong cuộc sống Đề bài: Lòng tự trọng của mỗi người trong cuộc sống 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. – Vấn đề cần bàn luận là: lòng tự trọng trong cuộc sống. – Bài cần có luận điểm rõ ràng, luận cứ đầy đủ và lập luận rành mạch. – Cần trình bày được những suy nghĩ về lòng tự trọng và vai trò của nó trong cuộc sống. 2. Gợiý – Cần đọc những sách báo về gương những con người có lòng tự trọng để hiểu về các khía cạnh biểu hiện của lòng tự trọng. – Cần làm rõ lòng tự trọng là gì. Lòng tự trọng khác với tính tự kiêu và sự tự ái như thế nào? – Những suy nghĩ của bản thân về lòng tự trọng. – Lòng tự trọng cần thiết như thế nào trong cuộc sống? – Cần kết hợp nghị luận với biểu cảm. 3. Lập dàn ý (dàn ý chung) a. Mở bài: Tự trọng và ý nghĩa của lòng tự trọng đối với phẩm chất con người. b. Thân bài – Thế nào là lòng tự trọng? – Tự trọng khác với tự kiêu, tự mãn và tự ái như thế nào? – Vai trò của lòng tự trọng trong cuộc sống. Một vài dẫn chứng về người có lòng tự trọng. – Suy nghĩ về người có lòng tự trọng. c. Kết bài: Nhấn mạnh lòng tự trọng trong cuộc sống luôn luôn nâng cao phẩm giá con người. 4. Bài làm minh họa Tự trọng là một trong những phẩm chất làm nên giá trị của con người. Là con người, nếu không biết tự trọng thì không thể nhận ra giá trị của mình, của người khác. Vậy tự trọng là gì? Thiết nghĩ, tự trọng chính là lòng tự quý mình, tự coi mình có giá trị. Trong vũ trụ, chỉ riêng loài người biết mình có đời sống tinh thần mà vượt lên trên hết mọi vật, biết phân biệt được đúng – sai, xấu – tốt, thiện – ác, hay – dở, biết hướng mình về chỗ đúng, chỗ thiện ấy mà phấn đấu vượt lên mọi khó khăn, làm đẹp cho cuộc đời. Con người cũng biết dùng ý chí và nghị lực để tự do chọn lấy hướng hành động ở đời, biết cách lợi dụng, phát triển khả năng cá nhân mình. Con người biết rằng mình có những ưu điểm nói trên, tự nhiên nhận ra được giá trị của mình và sinh lòng tự tôn, tự trọng. Lòng tự trọng là một tính tốt. Tự trọng không giống với tự kiêu, tự đắc bởi tự kiêu, tự đắc là một tính xấu. Nhiều kẻ quá ỷ vào sự thông minh của mình hay quá ảo tưởng, đề cao chút tài năng của cá nhân mình rồi coi thường, coi khinh người khác. Đó là lòng tự kiêu, tự đắc. Lòng tự trọng, trái lại thường đí đôi với đức nhân hậu, tính khiêm nhường. Cho nên người có tự trọng không hề cố ý làm việc hay nói những câu nói làm hạ thấp phẩm giá mình đi ; nhưng cũng không quá đề cao cá nhân mình mà xem thường người khác. Người có lòng tự trọng luôn luôn biết nhìn vào lương tâm, vào “con người lí tưởng” của chính mình, cẩn thận từng li, không bao giờ để một chút hạ thấp hay đề cao bản thân mình. Giữ được như thế, khó lắm thay. Lòng tự trọng cũng khác với tính tự ái, mặc dù nhìn bề ngoài thì chúng có vẻ gần gũi. Tự ái là tự yêu mình quá, tự đánh giá cao mình, không chấp nhận những góp ý dù là chân tình, đúng đắn của người khác. Hễ ai nói haỵ góp ý cho mình, dù là đúng, nhưng tính tự ái làm cho bản thân không chịu tiếp thu. Lòng tự trọng là một động cơ cực kì quan trọng trong đời sống cá nhân và xã hội. Đối với cá nhân, vì biết tự trọng, nên kìm hãm được biết bao ham muốn cá nhân hay hành động tầm thường ảnh hưởng đến nhân cách. Người xưa có câu: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Đấy là sự đánh giá cao yếu tố tinh thần, coi nhẹ sự cám dỗ của vật chất. “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Đó chẳng phải là phương châm sống tự trọng hay sao? Tự trọng không phân biệt người giàu kẻ nghèo, không phân biệt người lớn hay bé, già hay trẻ. Những kẻ giàu có, chức trọng quyền cao mà xu nịnh, khom lưng uốn gối – kẻ đó đâu có lòng tự trọng? Có thể có người nghèo nhưng lòng tự trọng rất cao. Lão Hạc từ chối sự giúp đỡ của vợ chồng ông giáo, từ chối một cách hách dịch chỉ vì lão có lòng tự trọng rất cao. Lão thà chịu chết chứ nhất quyết không làm bậy. Nhân vật ông Hai trong truyện Làng của Kim Lân là người đầy lòng tự trọng, tự hào về danh dự của làng. Chính vì thế khi nghe tin làng mình là làng Việt gian, ông không dám đi đâu, một mình âm thầm đau khổ. Mãi đến khi được cải chính, ông Hai vui mừng đi khoe tất cả mọi người, khoe cả việc nhà mình bị đốt nhẵn mà không tỏ ra tiếc của. Người có lòng tự trọng là người biết gắng sức làm nảy nở các khả năng tinh thần để xứng đáng là một Con Người. Người tự trọng là người không chịu hãm mình trong vòng ngu dốt, cũng không chịu để cho lương tâm hay đời sống tình cảm khô khan, nghèo nàn, tối tăm, thô bạo. Người có lòng tự trọng là người có đủ nghị lực làm chủ được nội tâm, khiến cho những tình cảm được thể hiện ra đúng chỗ, đúng lúc, phù hợp với đối tượng và không mất thăng bằng. Người tự trọng là người biết tự rèn luyện để ứng phó với cuộc đời nhưng luôn giữ mình theo phương châm sống: “Giàu sang không đắm đuối say mê ; nghèo hèn không thất tiết, đổi lòng ; gặp kẻ mạnh không chịu uốn gối khom lưng”. Tóm lại, người tự trọng là người đứng trước mọi biến cố ở đời đều có cách cư xử hợp đạo lí, hợp lương tâm. Chẳng những mình không hổ thẹn, mà con cháu có quyền ngẩng cầo đầu tự hào. Đối với mọi người trong xã hội, người tự trọng là cẩn thận trong lời nói, cử chỉ, không a dua, xiểm nịnh cũng không cậy quyền, hống hách, biết giữ lòng trung thực, hoà nhã, kính cẩn, coi trọng người khoẻ mà khồng hà hiếp kẻ yếu, thà chịu chết còn hơn để mất phẩm giá của mình. Phải biết tự trọng! Đó là một điều cần thiết trong lẽ sống đối với bản thân ta và đối với hết thảy mọi người! (Trần Thuý Hồng, lớp 9B, Trường THCS Lê Quý Đôn, Sơn La) ⇒ Nhận xét
Instruct Self-esteem of every person in life Topic: Each person's self-esteem in life 1. Requirements – Write an essay about an ideological or ethical issue. – The issue to discuss is: self-esteem in life. – The article needs to have a clear thesis, complete arguments and clear arguments. – Need to present thoughts about self-esteem and its role in life. 2. Hint – Need to read books and articles about examples of people with self-esteem to understand the manifestation aspects of self-esteem. – Need to clarify what self-esteem is. How is self-esteem different from pride and narcissism? – Personal thoughts about self-esteem. – How necessary is self-esteem in life? – Need to combine discussion with expression. 3. Make an outline (general outline) a. Introduction: Self-esteem and the meaning of self-esteem for human qualities. b. Body of the article – What is self-esteem? – How is self-esteem different from arrogance, complacency and self-love? – The role of self-esteem in life. Some examples of people with self-esteem. – Think about people with self-esteem. c. Conclusion: Emphasizing self-esteem in life always enhances human dignity. 4. Illustrative exercise Self-respect is one of the qualities that make up human value. As a human being, if we do not know self-respect, we cannot recognize our own value or that of others. So what is self-esteem? I think self-esteem is self-esteem and self-esteem. In the universe, only humans know that they have a spiritual life that transcends everything, know how to distinguish right - wrong, bad - good, good - evil, good - bad, know how to direct themselves to the right place, that goodness that strives to overcome all difficulties and beautifies life. People also know how to use their will and energy to freely choose their direction of action in life, and how to take advantage of and develop their personal abilities. People know that they have the above advantages, naturally realize their value and develop self-esteem and self-esteem. Self-esteem is a good quality. Self-esteem is not the same as arrogance and arrogance because arrogance and arrogance are a bad quality. Many people rely too much on their own intelligence or are too delusional, promoting their own personal talents and then looking down on and looking down on others. That is pride and self-satisfaction. Self-esteem, on the contrary, is often coupled with kindness and humility. Therefore, people with self-respect do not intentionally do things or say things that lower their dignity; But don't think too highly of yourself and look down on others. People with self-esteem always know how to look at their conscience, at their own "ideal self", be careful of every inch, never letting the slightest bit of downgrading or exalting themselves. Keeping it like that is very difficult. Self-esteem is also different from narcissism, although on the surface they appear close. Self-love is loving yourself too much, valuing yourself highly, and not accepting even sincere and correct suggestions from others. Whenever someone gives me advice or suggestions, even if they are right, my pride makes me refuse to accept them. Self-esteem is an extremely important motivator in personal and social life. For individuals, because they know self-respect, they can restrain many personal desires or trivial actions that affect their personality. There is an ancient saying: "Greetings are higher than the feast." That is appreciating the spiritual element, disregarding the temptation of material things. "Hungry for clean tear for flavor". Isn't that the motto of living with dignity? Self-respect does not differentiate between rich and poor, big or small, old or young. People who are rich and have high positions of power but flatter and bend over backwards - do those people have any self-esteem? There may be poor people but their self-esteem is very high. Old Hac refused the help of the teacher and his wife, arrogantly refusing because he had very high self-esteem. He would rather die than do anything wrong. The character Mr. Hai in Kim Lan's story Village is a man full of self-esteem and proud of the village's honor. That's why when he heard that his village was a Vietnamese village, he did not dare to go anywhere, suffering silently alone. Until he was rectified, Mr. Hai happily showed off to everyone, even showing off the fact that his house had been burned down without showing any regret. A person with self-esteem is someone who knows how to strive to develop their mental abilities to be worthy of being a Human. A self-respecting person is someone who refuses to be trapped in ignorance, nor does he refuse to let his conscience or emotional life be dry, poor, dark, or rough. A person with self-esteem is someone who has enough strength to control their inner self, causing emotions to be expressed in the right place, at the right time, in accordance with the object and without losing balance. A self-respecting person is someone who knows how to train himself to cope with life but always keeps himself according to the motto of life: "Wealth does not lead to infatuation; The poor do not lose their temper or change their hearts; Meet strong people who refuse to bend their knees." In short, a self-respecting person is someone who, in the face of every event in life, behaves ethically and conscientiously. Not only are we not ashamed, but our children and grandchildren have the right to hold their heads high and be proud. For everyone in society, a self-respecting person is careful in speech and gestures, not flattering, not relying on power or overbearing, knowing how to maintain honesty, gentleness, respect, and respect for others. If you are strong but do not oppress the weak, you would rather die than lose your dignity. Must have self-respect! It is a necessary thing in life for ourselves and for everyone! (Tran Thuy Hong, class 9B, Le Quy Don Secondary School, Son La) ⇒ Comments
Hướng dẫn Nghị luận về vấn đề tự lực cánh sinh Đề bài. Nêu quan điểm về vấn đề tự lực cánh sinh, cần cù lao động. 1. Yêu cầu – Viết bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. – Vấn đề cần bàn luận là tự lực cánh sinh, cần cù lao động. – Bài cần có luận điểm rõ ràng, luận cứ đầy đủ và lập luận rành mạch. – Cần trình bày được những suy nghĩ về vấn đề tự lực, cần cù và sự phối hợp, hỗ trợ, hợp tác trong công việc và cuộc sống của cá nhân và cộng đồng. 2. Gợi ý – Cần đọc tài liệu và suy nghĩ để hiểu thế nào là tự lực, là cần cù. – Cần làm cho mọi người hiểu vai trò của tự lực, cần cù trong đời sống cá nhân cũng như của cộng đồng. Nếu phát huy tốt việc tự lực, cần cù thì kết quả như thế nào. Ngược lại thì kết quả ra sao. – Những suy nghĩ của bản thân về tự lực và cần cù. – Cần kết hợp ở mức cần thiết nghị luận với các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm. 3. Lập dàn ý (dàn ý chung) a. Mở bài: Dẫn dắt vào vấn đề tầm quan trọng của việc tự lực và cần cù trong cuộc sống của mỗi con người hay cộng đồng. b. Thân bài – Thế nào là tự lực và cần cù.? Vai trò của đức tính này trong cuộc sống con người. – Những tấm gương về tự lực, cần cù. – Tự lực, cần cù không có nghĩa là từ chối sự hợp tác và giúp đỡ. – Tự lực, cần cù trong thời buổi hội nhập hiện nay. c. Kết bài: Suy nghĩ về vấn đề tự lực cần cù đối với người học sinh, với bản thân mình. 4. Bài làm minh hoa Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. (Hoàng Trung Thông) Hẳn trong chúng ta rất nhiều người thuộc hai câu thơ trên. Bản thân tôi, mỗi khi đọc hai câu thơ tôi lại có những suy nghĩ về vấn đề tự lực cánh sinh, cần cù lao động. Quả thực, sẽ không thể có một thành quả lao động nào vững bền nếu không tự mình cần cù lao động, tự tạo lập bằng chính sức lao động của mình. Và với sự cần cù lao động chắc chắn chúng ta sẽ thu được nhiều thành quả vĩ đại. Ngày bé, đọc truyện Mai An Tiêm, tôi rất vui khi tưởng tượng ra Mai An Tiêm vững vàng trên cánh đồng dưa hấu bạt ngàn với câu nói “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Sự nghiệp gây dựng từ bàn tay lao động đã trở thành hình tượng sống cao đẹp của người lao động Việt Nam tự tin, cần cù vượt khó, thông minh và dũng cảm kiên cường. Không thể có thành quả nào vững bền nếu không tạo lập bằng sức mình, bằng công lao của chính bản thân, từ mồ hôi, gian khó mà có. Muốn sung sướng thì phải tự lực cánh sinh, cần cù lao động. Tự lực cánh sinh có nghĩa là biết tự chủ lao động bằng trí tuệ và bàn tay để tạo lập đời sống và phát triển. Muốn sung sướng phải tự lực cánh sinh, cần cù lao động. Chẳng phải là với bàn tay và ý chí vượt khó, An Tiêm đã tạo dựng cuộc sống ngoài đảo hoang đó sao? Chẳng phải Sọ Dừa đã chăm chỉ chăn bò mà giành được sự thương yêu của cô út, rồi sau lại miệt mài học hành mà thi đỗ trạng nguyên đó sao? Không phải chỉ trong những câu chuyện cổ tích, trong cuộc sống, tự lực cánh sinh là ý chí tiềm tàng trong huyết quản dân ta, trở thành niềm tự hào của người nông dân lam lũ “mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”, nhưng tin tưởng “bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu”. Tuy nhiên, tự lực không có nghĩa là cứ làm một mình, không tranh thủ sự hợp tác, viện trợ, giúp đỡ của người khác. Tự lực nhưng khi cần phải nương tựa vào nhau, đoàn kết hợp tác với nhau. Cha ông ta đã tổng kết: Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Ở đây không chỉ là vấn đề đoàn kết mà còn là sự hợp tác, sự giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng muốn sự giúp đỡ có hiệu quả thì bản thân người được giúp đỡ phải có tinh thần tự lực, không chờ đợi, không dựa dẫm vào người khác. Tinh thần tự lực, tự chủ và cần cù lao động đã được khẳng định hùng hồn hơn cả trong những năm cả nước chống đế quốc Mĩ vừa qua. Kẻ thù không tưởng tượng được rằng với những tấn bom rải xuống hàng ngày, với sự phong toả kinh tế, với chất độc hoá học cùng hàng triệu quân chư hầu mà một dân tộc trên một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn vẫn vững vàng để đối phó và chiến thắng. Mà chúng ta đâu có phải một cường quốc kinh tế. Đất nước chúng ta nghèo, phải chắt chiu: Dọn chút phân rơi, nhặt từng ngọn lá […] Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ! Trong những năm chiến tranh, anh em bè bạn năm châu đã nhiệt tình giúp đỡ ta trên tinh thần quốc tế vô sản với lương tâm của thời đại. Nhưng thực tế sức mạnh để chiến thắng là lòng yêu nước và sự tự lực của nhân dân ta, điều ấy vô cùng vĩ đại. Cho nên, ngày nay sự hợp tác quốc tế của nhân dân ta trong xây dựng đất nước càng ngày càng mỏ rộng và phát triển, nhưng nếu ta không tự lực cánh sinh – bằng sự cần cù lao động và ý chí tự chủ vượt khó – thì không thể thay đổi tình trạng kém phát triển của đất nước! Đất nước ta còn nghèo, dân số lại đông. Chúng ta tuy có lực lượng lao động đông đảo nhưng lại đang lạc hậu về cơ sở vật chất. Lao động trong hoàn cảnh hiện nay chắc chắn dựa trên tinh thần làm chủ, tiết kiệm, đoàn kết và sáng tạo. Việc học tập không ngừng để tiếp thu khoa học kĩ thuật tiên tiến rất cần thiết. Tinh thần cần cù lao động, lao động “vì mọi người” và xây dựng một lực lượng người lao động có trình độ khoa học kĩ thuật là then chốt của sức bật trong lao động. Có làm thì mới có ăn Không dưng ai dễ đem phần đến cho. Thời kì đầu đổi mới, sáng tạo trong lao động xây dựng đất nước đang còn nghèo, chắc chắn còn không ít kẻ cơ hội sống phè phỡn trên sự lao khổ của nhân dân, dựâ vào những khe hở của chính sách nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng tư. Chúng ta sẽ quyết định dần dần làm trong sạch xã hội để người lao động nói chung được hưởng sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ lao động. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Lao động là vẻ vang, cần thiết cho bản thân, cho dân, cho nước. Lao động là nghĩa vụ”. Thế hệ trẻ chúng ta hiểu sâu sắc nhiệm vụ học tập và lao động để làm cho dân giàu, nước mạnh. Và chắc chắn tinh thần tự lực và sự cần cù lao động của nhân dân ta từ xưa càng được nâng cao trong cuộc xây dựng đất nước của chúng ta hôm nay. Muốn tự lực cánh sinh, cần cù lao động, trước hết phải đoàn kết để cùng lao động, chia sẻ sự cống hiến và giữ được đạo đức cách mạng. (Nguyễn Thị Xinh, lớp 9A, Trường THCS Chiềng Xôm, s.ơn La)
Instruct Discussion on the issue of self-reliance Topic. Express your views on the issue of self-reliance and hard work. 1. Requirements – Write an essay about an event or phenomenon in life. – The issue that needs to be discussed is self-reliance and hard work. – The article needs to have a clear thesis, complete arguments and clear arguments. – It is necessary to present thoughts on the issues of self-reliance, diligence and coordination, support, and cooperation in the work and life of individuals and the community. 2. Suggestions – Need to read documents and think to understand what self-reliance and diligence are. – It is necessary to make people understand the role of self-reliance and diligence in personal life as well as that of the community. If self-reliance and diligence are well promoted, what will be the results? Otherwise, what is the result? – Personal thoughts about self-reliance and diligence. – It is necessary to combine at the necessary level discussion with narrative, descriptive, and expressive elements. 3. Make an outline (general outline) a. Introduction: Introduction to the issue of the importance of self-reliance and diligence in the life of each person or community. b. Body of the article – What is self-reliance and diligence? The role of this virtue in human life. – Examples of self-reliance and diligence. – Self-reliance and diligence do not mean refusing cooperation and help. – Self-reliant and diligent in the current integration era. c. Conclusion: Think about the issue of self-reliance and diligence for students and yourself. 4. Demonstration homework Our hands make it all Man's strength stones into the rice. (Hoang Trung Thong) Surely many of us know the two verses above. Personally, every time I read these two verses, I have thoughts about self-reliance and hard work. Indeed, it will not be possible to have a lasting result of labor if you do not work hard and create it yourself with your own labor. And with hard work we will certainly achieve many great results. When I was a child, reading the story Mai An Tiem, I was happy to imagine Mai An Tiem standing firmly in the vast watermelon field with the saying "A gift is a worry, a gift is a debt". The career built from the hands of labor has become a noble living image of Vietnamese workers who are confident, diligent in overcoming difficulties, intelligent and courageous and resilient. There can be no lasting results if not created with one's own strength, with one's own efforts, through sweat and hardship. If you want to be happy, you must be self-reliant and work hard. Self-reliance means knowing how to work autonomously with your mind and hands to create a life and develop. If you want to be happy, you must be self-reliant and work hard. Isn't it true that with his hands and will to overcome difficulties, An Tiem created a life on that deserted island? Didn't So Dua work hard herding cows to win the love of the youngest girl, and then study hard to pass the poinsettia exam? Not only in fairy tales, in life, self-reliance is the will hidden in the veins of our people, becoming the pride of hard-working farmers "sweating like rain from plowed fields". , but believes that "now when it's hard, there will be a prosperous day". However, self-reliance does not mean doing it alone, without taking advantage of the cooperation, aid, and help of others. Self-reliant but when necessary, we need to rely on each other, unite and cooperate with each other. His father summarized: One tree does not make a mountain - Three trees gathered together make a high mountain. Here it is not only a matter of solidarity but also of cooperation and mutual help. But if help is to be effective, the person being helped must have a spirit of self-reliance, not waiting, not relying on others. The spirit of self-reliance, self-reliance and hard work has been affirmed most eloquently in recent years of the country's resistance to American imperialism. The enemy could not imagine that with the bombs dropped every day, the economic blockade, the toxic chemicals and millions of vassal troops, a people in a small, poor country would still be strong. to cope and win. But we are not an economic power. Our country is poor, we must save money: Clean up some fallen manure, pick up every leaf [...] I cherish and gather to build my fortune! During the war years, our brothers and friends from all over the world enthusiastically helped us in the spirit of proletarian internationalism and the conscience of the times. But in reality, the strength to win is the patriotism and self-reliance of our people, which is extremely great. Therefore, today the international cooperation of our people in building the country is increasingly expanding and developing, but if we are not self-reliant - with hard work and the will to overcome difficulties. – cannot change the country's underdevelopment! Our country is still poor and the population is large. Although we have a large workforce, we are outdated in terms of facilities. Labor in the current situation is certainly based on the spirit of mastery, thrift, solidarity and creativity. Continuous learning to absorb advanced science and technology is very necessary. The spirit of hard work, working "for everyone" and building a workforce with scientific and technical qualifications are the key to resilience in labor. If you work, you will eat. No wonder someone easily gives you a portion. In the early period of innovation and creativity in labor to build the country, the country was still poor. Surely there were still many opportunists who lived luxuriantly on the hardships of the people, relying on loopholes in state policies to scheme. seek private benefits. We will decide to gradually purify society so that workers in general can enjoy equality in labor rights and obligations. The late Prime Minister Pham Van Dong said, “Labor is glorious and necessary for oneself, for the people, and for the country. Labor is an obligation." Our young generation deeply understands the task of studying and working to make the people rich and the country strong. And certainly the spirit of self-reliance and hard work of our people from the past has been enhanced in the construction of our country today. If you want to be self-reliant and work hard, you must first unite to work together, share dedication and maintain revolutionary ethics. (Nguyen Thi Xinh, class 9A, Chieng Xom Secondary School, Son La)
Hướng dẫn Suy nghĩ về vấn đề thanh niên phải sống có lí tưởng Đề bài: Suy nghĩ về vấn đề thanh niên phải sống có lí tưởng 1. Yêu cầu – Viết bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. – Vấn đề cần bàn luận là “Thanh niên phải sống có lí tưởng”. – Bài viết cần có luận điểm rõ ràng, luận cứ đầy đủ và lập luận rành mạch. – Cần trình bày được những suy nghĩ về lí tưởng sống cao đẹp, phê phán cuộc sống tầm thường, ích kỉ, cá nhân và nêu lên lí tưởng sống cho thanh niên. 2. Gơi ý – Cần làm rõ lí tưởng sống là gì, vì sao cuộc sống lại phải có lí tưởng ; lí tưởng sống như thế nào được coi là tiến bộ, tốt đẹp? Những biểu hiện nào là trái với lí tưởng sống tốt đẹp? – Trong bài viết cần làm cho mọi người biết về những tấm gương có lí tưởng sống cao đẹp. – Những suy nghĩ về “lí tưởng sống” và phương hướng phấn đấu của bản thân. – Cần kết hợp nghị luận với các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm một cách thích hợp. 3. Lập dàn ý (dàn ý chung) a. Mở bài: Lí tưởng sống và cuộc đời của mỗi con người. b. Thân bài – Lí tưởng sống là gì? Vì sao con người cần sống có lí tưởng? – Suy nghĩ của người viết về cuộc sống có lí tưởng. – Những tấm gương về cuộc đời những người có lí tưởng sống cao đẹp. – Phê phán cách sống ích kỉ, cá nhân của những người không có lí tưởng. c. Kết bài: Suy nghĩ về việc phấn đấu cho lí tưởng sống phục vụ cho đất nước và dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay. 4. Bài làm minh hoa Nhà văn Pháp Đ. Đi-đơ-rô từng quan niệm: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì vĩ đại nếu như mục đích bình thường”. Đây là một quan niệm đúng và rất phù hợp vói thế hệ trẻ Việt Nam. Là thanh niên, phải có lí tưởng sống cao đẹp. Vậy lí tưởng là gì? Theo tôi, lí tưởng chính là mục đích sống. Nói đến lí tưởng có nghĩa là nói đến mục đích sống cao đẹp. Lí tưởng sống cao đẹp là lí tưởng sống mình vì mọi người. Mỗi một con người muốn sống có ý nghĩa phải sống có mục đích, có lí tưởng cao đẹp. Lí tưởng của người thanh niên Việt Nam trong những giai đoạn cách mạng vừa qua là sống chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các lớp thanh niên Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ vừa qua thực sự đã trở thành mũi nhọn xung kích – lực lượng tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc Họ đã tham gia nhiệt tình vào cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, họ đã “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lại”. Hạnh phúc cao đẹp nhất là được sống chiến đấu và hi sinh cho cách mạng. Chính vì sống có lí tưởng cao đẹp vì sự nghiệp chung cho nên nhiều thế hệ Việt Nam dù “bình thường” nhưng rất “vĩ đại”. Tại sao sống cần lí tưởng và lí tưởng sống phải cao cao đẹp? Bởi vì con người luôn muốn sống hạnh phúc, và hạnh phúc là cả cuộc đời. Có những hạnh phúc bình thường như ăn ngon, mặc đẹp, vợ hiền, con ngoan, bạn tốt,… và hạnh phúc có thể đến từ gia đình, tiền bạc, bạn bè, cha mẹ, người yêu. Lí tưởng sống của đời người chỉ có chừng ấy cũng từng đã khiến con người ta phải cố gắng, mưu cầu mà có được! Nhưng có những lí tưởng sống rất tầm thường của kẻ có mong muốn có nhiều tiền, có sự giàu sang để trấn áp, để khinh rẻ kẻ khác, dùng đồng tiền để khuynh đảo người xung quanh. Lí tưởng sống như vậy dễ dàng làm bạn với tội ác, với cái xấu. Muốn sống đẹp phải có lí tưởng sống cao đẹp. Người có lí tưởng sống cao đẹp thường rất hạnh phúc khi hi sinh cho người khác, hạnh phúc bởi được cống hiến cho cuộc đời chung. Điều vĩ đại mà Anh-xtanh, Ê-đi-xơn, Pát-xtơ, đặc biệt là Các Mác, Lê-nin, Hồ Chí Minh, hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… làm được cho hậu thế chắc chắn đã được nuôi dưỡng trong tâm huyết họ lí tưởng sống thật cao cả cho muôn người! Lí tưởng là lẽ sống của cuộc đời. Lí tưởng phải cao đẹp thì tâm hồn mới thanh cao và hành động phi thường! Lí tưởng cao cả, đẹp đẽ của con người là điều kiện để con người sống có ý nghĩa và sống xứng đáng. Trên cơ sở đó, chúng ta có. quyền phê phán đối với những mưu cầu đời sống tầm thường: sống chỉ được muốn hưởng thụ vật chất, sống ích kỉ chỉ lo cho mình và không quan tâm đến hạnh phúc của kẻ khác. Trong cuộc đời mỗi con người, lí tưởng sống – lẽ sống cuộc đời – được hình thành rõ ở tuổi thanh niên. Tố Hữu nói: Thành niên phải biết ước mơ và hành động! Và cũng chính nhà thơ ở cái tuổi học trò đã gặp được “mặt trời chân lí’ – lí tưởng cách mạng, lí tưởng sống cao đẹp khiến nhà thơ cảm thấy trái tim “bừng nắng hạ”, thấy tâm hồn là “vườn hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Lí tưởng sống cách mạng đã cho nhà thơ một quan niệm sống mới “Tôi buộc hồn tôi với mọi người – Để tình trang trải với muôn nơi – Để hồn tôi với bao hồn khổ – Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”,… Hay nói như người thanh niên Nga Pa-ven Coóc-sa-ghin, lí tưởng sống cao đẹp chính là biết sống có mục đích chân thành mà vô cùng cao cả “Tôi muốn cống hiến cho cách mạng đến tế bào sống cuối của đời mình”. Ở Việt Nam có rất nhiều những tấm gương sống theo lí tưởng sống cao đẹp. Đó là Lí Tự Trọng, người thanh niên cộng sản trẻ tuổi, đã sớm nhận ra “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không có con đường nảo khác!” và đã đi theo con đường phấn đấu và hi sinh cho công cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc. Người thợ điện Nguyễn Văn Trỗi cũng sớm nhìn thấy “Lí tưởng sống của đời tôi là hạnh phúc của đồng bào tôi. Còn thằng giặc Mĩ thì không ai có hạnh phúc nổi cả…” và anh đã chọn hướng đi cho cuộc đời là đấu tranh giải phóng miền Nam khỏi ách đô hộ của đế quốc Mĩ. Lí tưởng sống cao đẹp có nhiều biểu hiện khác nhau nhưng chung quy lại, sống có lí tưởng nghĩa là biết sống vì hạnh phúc của con người. Có khi nó là sự cống hiến bền bỉ, miệt mài trên vùng núi cao hơn nghìn mét nơi lặng lẽ Sa Pa để đo độ nắng, độ gió. để tìm ra một giống cây mới. Cũng có khi đó là một nguyện ước được “lặng lẽ dâng cho đời” những sức lực của con người với những việc làm nho nhỏ nhưng có ý nghĩa: … Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến. (Thanh Hải, Mùa xuân nho nhỏ) Chính vì thế đã là thanh niên là phải biết tìm và tìm được lí tưởng sống cao đẹp cho cuộc đời mình. Tương lai của tuổi trẻ hôm nay – những người chủ nhân đất nước sắp tới – tuỳ thuộc vào sự khẳng định lí tưởng sống của tuổi trẻ Việt Nam. Đất nước còn nghèo, dân ta còn lạc hậu, nếu tha thiết với cuộc đời chung thì ắt hẳn mỗi chúng ta phải biết sống, học tập, lao động và chiến đấu quên mình. Lời nói của Đ. Đi-đơ-rô như nhắc nhở mỗi người biết chọn lẽ sống cao đẹp. Mỗi con người hôm nay dù ở vai trò xã hội nào, cũng sẽ hiểu sâu xa đất nước và dân tộc làm gì, ta phải làm gì! Cảm ơn những tấm gương sống cao đẹp của từng vĩ nhân kim cổ – những tấm gương đẹp về mục đích sống cho chúnig em noi theo. Là chủ nhân của đất nước ngày mai, thế hệ trẻ chúng em quyết tâm hướng cuộc đời vào xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng to đẹp hơn” bằng hành động cống hiến chân thành của mình. (Nguyễn Bảo Nguyên, lớp 9H2, Trường THCS Trưng Vương, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét
Hướng dẫn Suy nghĩ về vấn đề thanh niên phải sống có lí tưởng Đề bài: Suy nghĩ về vấn đề thanh niên phải sống có lí tưởng 1. Yêu cầu – Viết bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. – Vấn đề cần bàn luận là “Thanh niên phải sống có lí tưởng”. – Bài viết cần có luận điểm rõ ràng, luận cứ đầy đủ và lập luận rành mạch. – Cần trình bày được những suy nghĩ về lí tưởng sống cao đẹp, phê phán cuộc sống tầm thường, ích kỉ, cá nhân và nêu lên lí tưởng sống cho thanh niên. 2. Gơi ý – Cần làm rõ lí tưởng sống là gì, vì sao cuộc sống lại phải có lí tưởng ; lí tưởng sống như thế nào được coi là tiến bộ, tốt đẹp? Những biểu hiện nào là trái với lí tưởng sống tốt đẹp? – Trong bài viết cần làm cho mọi người biết về những tấm gương có lí tưởng sống cao đẹp. – Những suy nghĩ về “lí tưởng sống” và phương hướng phấn đấu của bản thân. – Cần kết hợp nghị luận với các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm một cách thích hợp. 3. Lập dàn ý (dàn ý chung) a. Mở bài: Lí tưởng sống và cuộc đời của mỗi con người. b. Thân bài – Lí tưởng sống là gì? Vì sao con người cần sống có lí tưởng? – Suy nghĩ của người viết về cuộc sống có lí tưởng. – Những tấm gương về cuộc đời những người có lí tưởng sống cao đẹp. – Phê phán cách sống ích kỉ, cá nhân của những người không có lí tưởng. c. Kết bài: Suy nghĩ về việc phấn đấu cho lí tưởng sống phục vụ cho đất nước và dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay. 4. Bài làm minh hoa Nhà văn Pháp Đ. Đi-đơ-rô từng quan niệm: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì vĩ đại nếu như mục đích bình thường”. Đây là một quan niệm đúng và rất phù hợp vói thế hệ trẻ Việt Nam. Là thanh niên, phải có lí tưởng sống cao đẹp. Vậy lí tưởng là gì? Theo tôi, lí tưởng chính là mục đích sống. Nói đến lí tưởng có nghĩa là nói đến mục đích sống cao đẹp. Lí tưởng sống cao đẹp là lí tưởng sống mình vì mọi người. Mỗi một con người muốn sống có ý nghĩa phải sống có mục đích, có lí tưởng cao đẹp. Lí tưởng của người thanh niên Việt Nam trong những giai đoạn cách mạng vừa qua là sống chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các lớp thanh niên Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ vừa qua thực sự đã trở thành mũi nhọn xung kích – lực lượng tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc Họ đã tham gia nhiệt tình vào cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, họ đã “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lại”. Hạnh phúc cao đẹp nhất là được sống chiến đấu và hi sinh cho cách mạng. Chính vì sống có lí tưởng cao đẹp vì sự nghiệp chung cho nên nhiều thế hệ Việt Nam dù “bình thường” nhưng rất “vĩ đại”. Tại sao sống cần lí tưởng và lí tưởng sống phải cao cao đẹp? Bởi vì con người luôn muốn sống hạnh phúc, và hạnh phúc là cả cuộc đời. Có những hạnh phúc bình thường như ăn ngon, mặc đẹp, vợ hiền, con ngoan, bạn tốt,… và hạnh phúc có thể đến từ gia đình, tiền bạc, bạn bè, cha mẹ, người yêu. Lí tưởng sống của đời người chỉ có chừng ấy cũng từng đã khiến con người ta phải cố gắng, mưu cầu mà có được! Nhưng có những lí tưởng sống rất tầm thường của kẻ có mong muốn có nhiều tiền, có sự giàu sang để trấn áp, để khinh rẻ kẻ khác, dùng đồng tiền để khuynh đảo người xung quanh. Lí tưởng sống như vậy dễ dàng làm bạn với tội ác, với cái xấu. Muốn sống đẹp phải có lí tưởng sống cao đẹp. Người có lí tưởng sống cao đẹp thường rất hạnh phúc khi hi sinh cho người khác, hạnh phúc bởi được cống hiến cho cuộc đời chung. Điều vĩ đại mà Anh-xtanh, Ê-đi-xơn, Pát-xtơ, đặc biệt là Các Mác, Lê-nin, Hồ Chí Minh, hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… làm được cho hậu thế chắc chắn đã được nuôi dưỡng trong tâm huyết họ lí tưởng sống thật cao cả cho muôn người! Lí tưởng là lẽ sống của cuộc đời. Lí tưởng phải cao đẹp thì tâm hồn mới thanh cao và hành động phi thường! Lí tưởng cao cả, đẹp đẽ của con người là điều kiện để con người sống có ý nghĩa và sống xứng đáng. Trên cơ sở đó, chúng ta có. quyền phê phán đối với những mưu cầu đời sống tầm thường: sống chỉ được muốn hưởng thụ vật chất, sống ích kỉ chỉ lo cho mình và không quan tâm đến hạnh phúc của kẻ khác. Trong cuộc đời mỗi con người, lí tưởng sống – lẽ sống cuộc đời – được hình thành rõ ở tuổi thanh niên. Tố Hữu nói: Thành niên phải biết ước mơ và hành động! Và cũng chính nhà thơ ở cái tuổi học trò đã gặp được “mặt trời chân lí’ – lí tưởng cách mạng, lí tưởng sống cao đẹp khiến nhà thơ cảm thấy trái tim “bừng nắng hạ”, thấy tâm hồn là “vườn hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Lí tưởng sống cách mạng đã cho nhà thơ một quan niệm sống mới “Tôi buộc hồn tôi với mọi người – Để tình trang trải với muôn nơi – Để hồn tôi với bao hồn khổ – Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”,… Hay nói như người thanh niên Nga Pa-ven Coóc-sa-ghin, lí tưởng sống cao đẹp chính là biết sống có mục đích chân thành mà vô cùng cao cả “Tôi muốn cống hiến cho cách mạng đến tế bào sống cuối của đời mình”. Ở Việt Nam có rất nhiều những tấm gương sống theo lí tưởng sống cao đẹp. Đó là Lí Tự Trọng, người thanh niên cộng sản trẻ tuổi, đã sớm nhận ra “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không có con đường nảo khác!” và đã đi theo con đường phấn đấu và hi sinh cho công cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc. Người thợ điện Nguyễn Văn Trỗi cũng sớm nhìn thấy “Lí tưởng sống của đời tôi là hạnh phúc của đồng bào tôi. Còn thằng giặc Mĩ thì không ai có hạnh phúc nổi cả…” và anh đã chọn hướng đi cho cuộc đời là đấu tranh giải phóng miền Nam khỏi ách đô hộ của đế quốc Mĩ. Lí tưởng sống cao đẹp có nhiều biểu hiện khác nhau nhưng chung quy lại, sống có lí tưởng nghĩa là biết sống vì hạnh phúc của con người. Có khi nó là sự cống hiến bền bỉ, miệt mài trên vùng núi cao hơn nghìn mét nơi lặng lẽ Sa Pa để đo độ nắng, độ gió. để tìm ra một giống cây mới. Cũng có khi đó là một nguyện ước được “lặng lẽ dâng cho đời” những sức lực của con người với những việc làm nho nhỏ nhưng có ý nghĩa: … Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến. (Thanh Hải, Mùa xuân nho nhỏ) Chính vì thế đã là thanh niên là phải biết tìm và tìm được lí tưởng sống cao đẹp cho cuộc đời mình. Tương lai của tuổi trẻ hôm nay – những người chủ nhân đất nước sắp tới – tuỳ thuộc vào sự khẳng định lí tưởng sống của tuổi trẻ Việt Nam. Đất nước còn nghèo, dân ta còn lạc hậu, nếu tha thiết với cuộc đời chung thì ắt hẳn mỗi chúng ta phải biết sống, học tập, lao động và chiến đấu quên mình. Lời nói của Đ. Đi-đơ-rô như nhắc nhở mỗi người biết chọn lẽ sống cao đẹp. Mỗi con người hôm nay dù ở vai trò xã hội nào, cũng sẽ hiểu sâu xa đất nước và dân tộc làm gì, ta phải làm gì! Cảm ơn những tấm gương sống cao đẹp của từng vĩ nhân kim cổ – những tấm gương đẹp về mục đích sống cho chúnig em noi theo. Là chủ nhân của đất nước ngày mai, thế hệ trẻ chúng em quyết tâm hướng cuộc đời vào xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng to đẹp hơn” bằng hành động cống hiến chân thành của mình. (Nguyễn Bảo Nguyên, lớp 9H2, Trường THCS Trưng Vương, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét
Hướng dẫn Để làm tốt bài văn nghị luận 9 I. ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU CỦA VĂN NGHỊ LUẬN Trong đời sống, người ta luôn luôn phải bày tỏ ý kiến của mình về những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh. Một cuộc thảo luận, một cuộc họp, một vấn đề trong cuộc sống, một chính sách mới, một tác phẩm nghệ thuật,… đều đòi hỏi mọi người bày tổ thái độ của mình. Khác với lối bày tỏ bằng cảm xúc trong văn biểu cảm, việc bày tỏ ý kiến trong văn nghị luận nhằm giải thích, chứng minh, thuyết phục người nghe, người đọc một tư tưởng, một quan điểm nào đó. Muốn cho người đọc người nghe cũng hiểu như mình, đồng tình và ủng hộ quan niệm của mình, người viết văn nghị luận phải có những luận điểm rõ ràng, có lí lẽ đúng đắn, chặt chẽ đúc rút từ sách vở, từ đời sống ; có những dẫn chứng đáng tin cậy, thuyết phục. Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luặn điểm, luận cứ và lập luận để dẫn đến luận điểm. Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận điểm là linh hồn của bài viết. Luận điểm đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục. Ví dụ trong bài Chống nạn thất học, luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Phải nông cao dân trí, muốn nâng cao dân trí thì phải chống nạn thất học, cụ thể là mỗi người Việt Nam phải biết đọc, biết viết. Trong bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt, luận điểm chính ià: Tiếng Việt của chúng ta là một thứ tiếng vừa giàu, vừa đẹp. Đó là quan niệm, là cách đánh giá của nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai. Luận điểm mà người viết nêu ra muốn có tính thuyết phục phải có hai yếu tố quan trọng. Đó là phải được đảm bảo bằng luận cứ chắc chắn và lập luận chặt chẽ. Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu luận điểm: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Luận điểm này được đảm bảo bằng luận cứ rút ra từ sự thực lịch sử các thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… được đảm bảo bởi luận cứ lấy từ cuộc kháng chiến chống Pháp ở mọi miền, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp. Lập luận là cách đưa ra lí lẽ, cách sắp xếp các luận cứ để dẫn đến kết luận nêu trong luận điểm. Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài Đức tính giản dị của Bác Hồ đã nêu lên luận điểm: Bác là nhà cách mạng có sự nhất quán giữa đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống vô cùng giản dị và khiêm tốn. Để chứng minh cho luận điểm này, tác giả đã nêu các luận cứ và trình bày theo trình tự: Bác giản dị trong bữa cơm, đồ dùng, cái nhà, lối sống. Mỗi luận cứ đều có các dẫn chứng cụ thể có thể kiểm chứng được dễ dàng. II. CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN 1. Quy trình làm bài văn nghị luận Bài văn nghị luận cũng được làm theo quy trình chung của một bài tập làm văn gồm 4 bước: tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài và sửa bài. Muốn viết được bài văn nghị luận thành công thì phải tìm hiểu đề và tìm được các ý cho đề bài đó. Sau khi tìm được ý (theo cách lập ý thường gặp dưới đây) sẽ lập dàn ý và viết bài. Trong khi viết có thể bổ sung, thêm bớt ý cho dàn bài hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là soát lại bài viết, nhất là sửa các lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp. 2. Cách lập ý cho bài văn nghị luận Muốn lập ý cho bài văn nghị luận, đầu tiên cần phải đọc kĩ đề bài để xác định luận điểm. Người viết cần xác định đúng vấn đề, phạm vi, tính chất của nó. Luận điểm chính đòi hỏi cần bàn bạc, cho ý kiến là gì? Tuỳ theo đề bài thuộc loại nào (giải thích, ca ngợi, khuyên bảo, nhắn nhủ, suy nghĩ, bàn luận, tranh luận, phản bác,…) mà xác định luận điểm chính cho phù hợp.
Instruct To do well in an argumentative essay 9 I. CHARACTERISTICS AND REQUIREMENTS OF DISCUSSION WRITINGS In life, people always have to express their opinions about natural and social phenomena happening around them. A discussion, a meeting, a problem in life, a new policy, a work of art, etc. all require people to express their attitudes. Different from expressing emotions in expressive writing, expressing opinions in argumentative writing aims to explain, prove, and convince the listener or reader of a certain thought or point of view. In order for readers and listeners to understand as well as themselves, to agree and support their ideas, the writer of argumentative essays must have clear, well-reasoned, and rigorous arguments drawn from books and life. living ; There are reliable and convincing evidence. Every argumentative essay must have a thesis, arguments, and arguments leading to a thesis. A thesis is an opinion expressing the thoughts and opinions of the essay stated in an affirmative (or negative) form, expressed clearly, easily understood, and consistently. The thesis is the soul of the article. Only if the argument is correct, truthful, and meets practical needs will it be convincing. For example, in the article Fighting illiteracy, President Ho Chi Minh's thesis is: We must educate the people, if we want to raise the people's knowledge, we must fight illiteracy, specifically, every Vietnamese person must know how to read and write. . In the article The Rich and Beautiful Language, the main argument is: Our Vietnamese language is both rich and beautiful. That is the concept and assessment of researcher Dang Thai Mai. To be convincing, the argument that the writer raises must have two important elements. That must be guaranteed by solid arguments and rigorous arguments. Argument is the reason and evidence given as a basis for a thesis. In the article Patriotism of our people, President Ho Chi Minh stated the thesis: Our people have a passionate patriotism. This argument is guaranteed by arguments drawn from historical facts during the periods of Ba Trung, Ba Trieu, Tran Hung Dao, Le Loi, Quang Trung,... guaranteed by arguments taken from the resistance war against the French in every country. all regions, all ages, all classes. Argument is the way of giving reasons, the way of arranging arguments to lead to the conclusion stated in the thesis. Prime Minister Pham Van Dong in the article The Simplicity of Uncle Ho raised the argument: Uncle Ho is a revolutionary who has the consistency between his political activities that move heaven and earth with an extremely simple and humble life. To prove this thesis, the author has stated the arguments and presented them in order: Uncle Ho was simple in meals, utensils, house, and lifestyle. Each argument has specific evidence that can be easily verified. II. HOW TO MAKE AN ARGUMENTARY ESSAY 1. Process of writing an argumentative essay The argumentative essay is also made according to the general process of an essay writing exercise including 4 steps: understanding the topic, finding ideas, making an outline, writing and editing the essay. If you want to write a successful argumentative essay, you must research the topic and find ideas for that topic. After finding ideas (according to the common way of creating ideas below), you will create an outline and write the article. While writing, you can add or remove ideas for a complete outline. The final step is to review the article, especially correcting spelling and grammatical errors. 2. How to create ideas for an argumentative essay To create an idea for an argumentative essay, first you need to read the topic carefully to determine the thesis. The writer needs to correctly identify the problem, its scope, and its nature. What is the main argument that requires discussion and opinion? Depending on the type of topic (explanation, praise, advice, message, reflection, discussion, debate, rebuttal, etc.), determine the main thesis accordingly.
Hướng dẫn Kể lại buổi đi thăm mộ cùng gia đình Đề 4. Hãy kể lai buổi đi thăm mộ người thân cùng gia đình vào dịp lễ, tết. 1. Yêu cầu – Kể lại những cảm xúc, suy nghĩ, kỉ niệm về người thân đã mất qua buổi thăm mộ (Thanh minh, tảo mộ, ngày giỗ,…). – Xây dựng câu chuyện cho bài tự sự – nhân vật là người thân đã mất. Câu chuyện nhằm có một nội dung ý nghĩa giáo dục. – Đây là câu chuyện gắn liền với đời sống tâm linh của con người, cần tìm hiểu về tục lệ Thanh minh, viếng mộ người thân vào các dịp lễ, tết, giỗ,… Việc làm vừa thể hiện lòng thành kính vừa gửi gắm những nguyện vọng, ước mơ của người sống đối với người thân đã mất. – Luyện tập, củng cố thêm về độc thoại nội tâm khi kể chuyện. 2. Gơi ý – Cần chọn nhân vật (đã mất) có nhiều kỉ niệm gắn bó với người kể, hoặc nghe kể nhiều (cũng có thể người thân là liệt sĩ ở một nghĩa trang liệt sĩ nào đó). – Chọn thời gian, địa điểm cho thích hợp. – Nên sử dụng liên tưởng để câu chuyện trở nên sinh động và giàu ý nghĩa hơn. 3. Lập dàn ý a. Mở bài: Nhân dịp tết, giỗ, lễ, ngày thương binh liệt sĩ,… ; gợi nhớ nhất là buổi thăm mộ. b. Thân bài * Chuẩn bị – Cùng bố mẹ, vào thời gian nào (tối, sáng, trưa…). – Địa điểm nghĩa trang. * Tả lại các công việc thăm mộ – Thắp hương – bày lễ – làm lễ – hoá vàng. – Tả cảnh sắc thiên nhiện phù hợp với tâm trạng con người. – Tự nhủ trong lòng, mong người đã mất có mặt để được gặp gỡ. – Khấn, ước nguyện (độc thoại nội tâm). * Hồi tưởng kỉ niệm xuầ (trọng tâm) – Những kỉ niệm gần gũi, gắn bó. – Câu chuyện về một kỉ niệm sâu sắc (có cảm giác như người thân có mặt bên mình cùng tham gia vào câu chuyện của kỉ niệm). – Mong muốn. – Hình ảnh sống mãi trong kí ức người thân. – Khoẻ mạnh, học giỏi, trưởng thành, làm tiếp những gì còn dang dở của người thân. * Ra về: Cảm xúc, ấn tượng về buổi thăm mộ. c. Kết bài: Luôn dành cho những người thân yêu những tình cảm tốt đẹp nhất 4. Bài làm minh hoạ Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Cứ sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, mọi người, mọi nhà lại đi tảo mộ để tưởng nhớ đến những người thân đã khuất. Gia đình tôi cũng vậy. Mọi người đang rậm rịch cho buổi đi tảo mộ ngày mai. Nghe bố mẹ tôi nói, người ta đi tảo mộ sau mỗi dịp lễ, tết để sửa sang, dọn dẹp phần mộ của tổ tiên. Đồng thời cũng là để cầu mong các cụ phù hộ độ trì cho con cháu mạnh khoẻ, thành đạt. Tôi rất háo hức nhưng cũng hơi lo vì đây là lần đầu tiên tôi đi tảo mộ. Mẹ tôi thường dặn: “Đi tảo mộ phải chuẩn bị kĩ mọi thứ. Không được quên hương, hoa, oản, quả, rượu, vàng mã,… đôi khi còn phải mang cả cuốc, xẻng để trồng cây quanh mộ để phần mộ của các cụ được “mát mẻ”. Và mọi thứ cũng được chuẩn bị đầy đủ, tươm tất dưới bàn tay tài ba của mẹ tôi. Sáng hôm sau, đúng sáu giờ rưỡi chúng tôi xuất phát. Mộ của các cụ và ông nội tôi ở nghĩa trang Thanh Tước – Vĩnh Phúc. Thời tiết sau tết thật dễ chịu. Nền trời không còn đùng đục như màu pha lê mờ mà bây giờ đã trong xanh hơn hẳn. Khiến ai cũng có cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Trên xe, mọi người tâm sự với nhau. – Thời tiết hôm nay đẹp thật. Đi thăm mộ hôm nay đúng là tuyệt. Hai tiếng sau, chúng tôi có mặt tại nghĩa trang. Nghĩa trang Thanh Tước là những quả đồi và những rừng thông xanh um tùm quanh năm, được chia làm nhiều khu vực. Vừa xuống xe, bố tôi, đứng dưới chân đồi chỉ lên và nói: – A! Kia rồi! Mộ của các cụ ở trên kia! Tay bố hướng lên. Rồi ai làm việc nấy, bố bê lễ lên, mẹ sắp xếp lễ. Còn bọn trẻ chúng tôi được miễn, chỉ việc đi lên thôi. Sau khi leo lên, bố mẹ sắp xếp đồ lễ rồi thắp hương. Còn tôi được giao nhiệm vụ nhổ cỏ ờ xung quanh. Nhổ được một lúc, thì bố mẹ gọi vào làm lễ. Tôi khép tay lại, hai lòng bàn tay quay vào nhau rồi khấn. Mỗi người tự mong cho mình một điều còn tôi mong các cụ phù hộ độ trì cho mọi người trong gia đình khoẻ mạnh, bình an, hạnh phúc. Thằng em tôi, cũng bắt chước làm theo mọi người rồi nói rõ to: – Ông ơi, ông cho Tí ăn với nhé! Ôi trời ơi! Buồn quá đi mất! Bố tôi ra bảo nó. Nhưng cu cậu cứ mè nheo. – Không được đâu! Mình đang thắp hương cúng cụ cơ mà! Thôi bố dẫn con đi chơi nhé! Trong lúc đó, tôi và mẹ tiếp tục công việc. Mẹ thì thắp hương cho các cụ và ông tôi xong thì thắp hương cho các mộ xung quanh, gọi là mộ “hàng xóm” để ở dưới ấy, các cụ có bạn. Còn tôi, tiếp tục nhặt cổ mọc ở những mộ xung quanh. Đến ngôi mộ của ông nội, tôi có cảm giác gì đó. Tôi nhìn thấy hình ông cùng với những kỉ niệm của hai ông cháu. Hình như tôi cũng đang nghe thấy tiếng ông căn dặn: – Phương à! Cháu phải ngoan ngoãn nghe lời bố mẹ nghe không! Có việc gì làm được thì nhớ giúp bố mẹ. Chiều em một tí đi, đừng bướng bỉnh như trước nữa! Tôi xúc động lắm, đến rơi cả nước mắt. Rồi tôi hỏi ông: – Ông ơi, ông có khoẻ không ạ? Cuộc sống của ông thế nào? Ông chỉ mỉm cười hiền hậu rồi bỗng… quay mặt đi. Hình ảnh của ông cũng mờ dần. Tôi cố gọi nhưng không được. Rồi hình ảnh của ông biến mất hẳn. Nhưng trong trái tim tôi luôn có một ngăn dành sự yêu thương, kính trọng cho ông. Quay trở lại với công việc được giao, tôi tiếp tục nhọ cỏ. Xong xuôi, tôi chạy ra chỗ mẹ. Mẹ bảo tôi cùng đem vàng hương ra hoá. Sau khi hoàn tất công việc thì cũng là lúc bố và em tôi trở xuống. Bố nói: – Ở đây còn có khu tưởng niệm những vị anh hùng đấy. Mình ra đấy thắp hương đi! Rồi chúng tôi cùng đi ra khu tưởng niệm, ở đây có một cái đỉnh to để mọi người cùng thắp hương tưởng nhớ. Những ngôi mộ ở đầy còn có ngôi không tên, không được chăm sóc chu đáo thường xuyên. Thỉnh thoảng mới có một vài người xin nhận đó là mộ nhà mình để chăm sóc. Xong xuôi, gia đĩnh tôi đi bộ một lát rồi trở về Hà Nội. Đúng bảy giờ tối, chúng tôi có mặt tại Hà Nội. Một ngày dài mệt mỏi nhưng vui vẻ. Có thể nói, tảo mộ là một tục lệ truyền thống rất có ý nghĩa của nhân dân ta. Nó thể hiện sự hiếu thuận, biết ơn của con cháu đối với ông bà tổ tiên. Tôi cũng hi vọng mình sẽ thể hiện được sự hiếu thuận, biết ơn của mình qua việc làm bé nhỏ này. (Phan Nguyễn Hoài Phương, lớp 9A8, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét Bạn đã kể lại một chuyến đi tảo mộ của gia đỉnh lên nghĩa trang Thanh Tước. Câu chuyện phát triển theo thời gian hợp lí. Có chi tiết thú vị là cu Tí đòi ăn đồ lễ với ông trong khi chưa cúng xong. Những việc nhổ cỏ, đặt lễ, thắp hương, hoá vàng được kể lại không sót. Bạn cũng không quên kể lại việc thắp hương cho những ngôi mộ xung quanh. Có điều cần lưu ý rằng bạn thể hiện mình là người quá nhạy cảm. Nhổ cỏ ở mộ ông nội mà nhìn thấy cả hình ông, còn nghe cả tiếng ông căn dặn, xúc động đến rơi cả nước mắt, lại còn hổi han ông nữa chứ. Cứ y như là trong một giấc mơ.
Hướng dẫn Kể lại buổi đi thăm mộ cùng gia đình Đề 4. Hãy kể lai buổi đi thăm mộ người thân cùng gia đình vào dịp lễ, tết. 1. Yêu cầu – Kể lại những cảm xúc, suy nghĩ, kỉ niệm về người thân đã mất qua buổi thăm mộ (Thanh minh, tảo mộ, ngày giỗ,…). – Xây dựng câu chuyện cho bài tự sự – nhân vật là người thân đã mất. Câu chuyện nhằm có một nội dung ý nghĩa giáo dục. – Đây là câu chuyện gắn liền với đời sống tâm linh của con người, cần tìm hiểu về tục lệ Thanh minh, viếng mộ người thân vào các dịp lễ, tết, giỗ,… Việc làm vừa thể hiện lòng thành kính vừa gửi gắm những nguyện vọng, ước mơ của người sống đối với người thân đã mất. – Luyện tập, củng cố thêm về độc thoại nội tâm khi kể chuyện. 2. Gơi ý – Cần chọn nhân vật (đã mất) có nhiều kỉ niệm gắn bó với người kể, hoặc nghe kể nhiều (cũng có thể người thân là liệt sĩ ở một nghĩa trang liệt sĩ nào đó). – Chọn thời gian, địa điểm cho thích hợp. – Nên sử dụng liên tưởng để câu chuyện trở nên sinh động và giàu ý nghĩa hơn. 3. Lập dàn ý a. Mở bài: Nhân dịp tết, giỗ, lễ, ngày thương binh liệt sĩ,… ; gợi nhớ nhất là buổi thăm mộ. b. Thân bài * Chuẩn bị – Cùng bố mẹ, vào thời gian nào (tối, sáng, trưa…). – Địa điểm nghĩa trang. * Tả lại các công việc thăm mộ – Thắp hương – bày lễ – làm lễ – hoá vàng. – Tả cảnh sắc thiên nhiện phù hợp với tâm trạng con người. – Tự nhủ trong lòng, mong người đã mất có mặt để được gặp gỡ. – Khấn, ước nguyện (độc thoại nội tâm). * Hồi tưởng kỉ niệm xuầ (trọng tâm) – Những kỉ niệm gần gũi, gắn bó. – Câu chuyện về một kỉ niệm sâu sắc (có cảm giác như người thân có mặt bên mình cùng tham gia vào câu chuyện của kỉ niệm). – Mong muốn. – Hình ảnh sống mãi trong kí ức người thân. – Khoẻ mạnh, học giỏi, trưởng thành, làm tiếp những gì còn dang dở của người thân. * Ra về: Cảm xúc, ấn tượng về buổi thăm mộ. c. Kết bài: Luôn dành cho những người thân yêu những tình cảm tốt đẹp nhất 4. Bài làm minh hoạ Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Cứ sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, mọi người, mọi nhà lại đi tảo mộ để tưởng nhớ đến những người thân đã khuất. Gia đình tôi cũng vậy. Mọi người đang rậm rịch cho buổi đi tảo mộ ngày mai. Nghe bố mẹ tôi nói, người ta đi tảo mộ sau mỗi dịp lễ, tết để sửa sang, dọn dẹp phần mộ của tổ tiên. Đồng thời cũng là để cầu mong các cụ phù hộ độ trì cho con cháu mạnh khoẻ, thành đạt. Tôi rất háo hức nhưng cũng hơi lo vì đây là lần đầu tiên tôi đi tảo mộ. Mẹ tôi thường dặn: “Đi tảo mộ phải chuẩn bị kĩ mọi thứ. Không được quên hương, hoa, oản, quả, rượu, vàng mã,… đôi khi còn phải mang cả cuốc, xẻng để trồng cây quanh mộ để phần mộ của các cụ được “mát mẻ”. Và mọi thứ cũng được chuẩn bị đầy đủ, tươm tất dưới bàn tay tài ba của mẹ tôi. Sáng hôm sau, đúng sáu giờ rưỡi chúng tôi xuất phát. Mộ của các cụ và ông nội tôi ở nghĩa trang Thanh Tước – Vĩnh Phúc. Thời tiết sau tết thật dễ chịu. Nền trời không còn đùng đục như màu pha lê mờ mà bây giờ đã trong xanh hơn hẳn. Khiến ai cũng có cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Trên xe, mọi người tâm sự với nhau. – Thời tiết hôm nay đẹp thật. Đi thăm mộ hôm nay đúng là tuyệt. Hai tiếng sau, chúng tôi có mặt tại nghĩa trang. Nghĩa trang Thanh Tước là những quả đồi và những rừng thông xanh um tùm quanh năm, được chia làm nhiều khu vực. Vừa xuống xe, bố tôi, đứng dưới chân đồi chỉ lên và nói: – A! Kia rồi! Mộ của các cụ ở trên kia! Tay bố hướng lên. Rồi ai làm việc nấy, bố bê lễ lên, mẹ sắp xếp lễ. Còn bọn trẻ chúng tôi được miễn, chỉ việc đi lên thôi. Sau khi leo lên, bố mẹ sắp xếp đồ lễ rồi thắp hương. Còn tôi được giao nhiệm vụ nhổ cỏ ờ xung quanh. Nhổ được một lúc, thì bố mẹ gọi vào làm lễ. Tôi khép tay lại, hai lòng bàn tay quay vào nhau rồi khấn. Mỗi người tự mong cho mình một điều còn tôi mong các cụ phù hộ độ trì cho mọi người trong gia đình khoẻ mạnh, bình an, hạnh phúc. Thằng em tôi, cũng bắt chước làm theo mọi người rồi nói rõ to: – Ông ơi, ông cho Tí ăn với nhé! Ôi trời ơi! Buồn quá đi mất! Bố tôi ra bảo nó. Nhưng cu cậu cứ mè nheo. – Không được đâu! Mình đang thắp hương cúng cụ cơ mà! Thôi bố dẫn con đi chơi nhé! Trong lúc đó, tôi và mẹ tiếp tục công việc. Mẹ thì thắp hương cho các cụ và ông tôi xong thì thắp hương cho các mộ xung quanh, gọi là mộ “hàng xóm” để ở dưới ấy, các cụ có bạn. Còn tôi, tiếp tục nhặt cổ mọc ở những mộ xung quanh. Đến ngôi mộ của ông nội, tôi có cảm giác gì đó. Tôi nhìn thấy hình ông cùng với những kỉ niệm của hai ông cháu. Hình như tôi cũng đang nghe thấy tiếng ông căn dặn: – Phương à! Cháu phải ngoan ngoãn nghe lời bố mẹ nghe không! Có việc gì làm được thì nhớ giúp bố mẹ. Chiều em một tí đi, đừng bướng bỉnh như trước nữa! Tôi xúc động lắm, đến rơi cả nước mắt. Rồi tôi hỏi ông: – Ông ơi, ông có khoẻ không ạ? Cuộc sống của ông thế nào? Ông chỉ mỉm cười hiền hậu rồi bỗng… quay mặt đi. Hình ảnh của ông cũng mờ dần. Tôi cố gọi nhưng không được. Rồi hình ảnh của ông biến mất hẳn. Nhưng trong trái tim tôi luôn có một ngăn dành sự yêu thương, kính trọng cho ông. Quay trở lại với công việc được giao, tôi tiếp tục nhọ cỏ. Xong xuôi, tôi chạy ra chỗ mẹ. Mẹ bảo tôi cùng đem vàng hương ra hoá. Sau khi hoàn tất công việc thì cũng là lúc bố và em tôi trở xuống. Bố nói: – Ở đây còn có khu tưởng niệm những vị anh hùng đấy. Mình ra đấy thắp hương đi! Rồi chúng tôi cùng đi ra khu tưởng niệm, ở đây có một cái đỉnh to để mọi người cùng thắp hương tưởng nhớ. Những ngôi mộ ở đầy còn có ngôi không tên, không được chăm sóc chu đáo thường xuyên. Thỉnh thoảng mới có một vài người xin nhận đó là mộ nhà mình để chăm sóc. Xong xuôi, gia đĩnh tôi đi bộ một lát rồi trở về Hà Nội. Đúng bảy giờ tối, chúng tôi có mặt tại Hà Nội. Một ngày dài mệt mỏi nhưng vui vẻ. Có thể nói, tảo mộ là một tục lệ truyền thống rất có ý nghĩa của nhân dân ta. Nó thể hiện sự hiếu thuận, biết ơn của con cháu đối với ông bà tổ tiên. Tôi cũng hi vọng mình sẽ thể hiện được sự hiếu thuận, biết ơn của mình qua việc làm bé nhỏ này. (Phan Nguyễn Hoài Phương, lớp 9A8, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét Bạn đã kể lại một chuyến đi tảo mộ của gia đỉnh lên nghĩa trang Thanh Tước. Câu chuyện phát triển theo thời gian hợp lí. Có chi tiết thú vị là cu Tí đòi ăn đồ lễ với ông trong khi chưa cúng xong. Những việc nhổ cỏ, đặt lễ, thắp hương, hoá vàng được kể lại không sót. Bạn cũng không quên kể lại việc thắp hương cho những ngôi mộ xung quanh. Có điều cần lưu ý rằng bạn thể hiện mình là người quá nhạy cảm. Nhổ cỏ ở mộ ông nội mà nhìn thấy cả hình ông, còn nghe cả tiếng ông căn dặn, xúc động đến rơi cả nước mắt, lại còn hổi han ông nữa chứ. Cứ y như là trong một giấc mơ.
Hướng dẫn Kể lại giấc mơ gặp người thân đã xa cách lâu Đề bài: Kể lại một giấc mơ, ở đó em được gặp lại một người thân đã xa cách lâu nay. 1. Yêu cầu – Viết bài kể chuyện sáng tạo; đòi hỏi người kể phải biết xây dựng câu chuyện bằng trí tưởng tượng cùng với sự liên tưởng vào thực tế cuộc sống. – Câu chuyện gặp gỡ đó phải có ý nghĩa xác thực (ca ngợi tấm gương, khẳng định ảnh hưởng tích cực, sự yêu thương thân thiết,…). – Hình ảnh của giấc mơ khác với hình ảnh của những câu chuyện diễn ra xung quanh (vừa mờ tỏ vừa hư hư thực thực,…), tránh kể như các câu chuyện khác. – Tình cảm của người kể chuyện chân thực, sinh động. 2. Gợi ý – “Người thân” ở đây là nhân vật chính của câu chuyện. Có thể là bạn bè, thầy cô… Người đó có thể ở xa hoặc đã mất. – Câu chuyện vừa gợi kỉ niệm đã qua vừa tâm sự những vướng mắc, những mong ước. – Nhân vật trong mơ đã phân tích, gợi mở cho người kể nhiều điều mới mẻ. – Nhân vật đó vừa gần gũi thân thiết, vừa khó xích lại gần. Gợi lại những cử chỉ, biểu hiện quen thuộc,… 3. Lâp dàn ý a. Mở bài: Có nhiều hiện tượng kì lạ trong cuộc đời – ảnh hưởng trực tiếp tới con người (linh tính, giấc mơ, lời dự đoán…) ; ấn tượng sâu sắc nhất: gặp lại… trong giấc mơ. b. Thân bài * Hoàn cảnh diễn ra giấc mơ – Giấc ngủ trong hoàn cảnh cụ thể (sau kì thi học kì, những ngày hè, một đêm mưa,…). – Gặp người thân và kể lại. – Giới thiệu về người thân gặp trong mơ (là ai, có mối quan hệ như thế nào, tình cảm trước kia ra sao). * Tả nhân vật – Ngoại hình. – Cử chỉ, lời nói. * Những chuyên giữa người kể và nhân vật (trọng tâm) – Bộc lộ tình cảm thương nhớ vì xa cách và khẳng định nhân vật là hình ảnh không phai mờ. – Kể chuyện nhà, chuyện mình trong thời gian xa cách. – Gợi lại kỉ niệm về những cậu chuyện đầy cảm xúc (chuyện vui, chuyện buồn, những kỉ niệm khó quên,…). – Tâm sự về ước mơ và lời khuyên của nhân vật. – Tỉnh giấc: tiếc vì cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, mong ước của người viết. c. Kết bài: Khẳng định dù gần hay xa, tình cảm mến yêu và thương nhớ không có gì thay thế được. 4. Bài làm minh hoa Tuổi thơ của tôi có biết bao điều thú vị… Nhưng ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi là câu chuyện gặp ông nội trong một giấc mơ, cho tới tận bây giờ tôi vẫn trân trọng ghi nhớ. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái; lúc đó trên tivi đang chiếu bộ phim nhiều tập của Mĩ – Phép thuật. Ai thì không biết chứ lũ trẻ chúng tôi thì mê điên mẹ đảo, mà cũng vì sây mê bộ phim đó mà tôi mắc bao nhiêu lỗi. Nào quên nấu cơm, quên dọn dẹp, quên cất quần áo để trời mưa ướt hết… Có lẽ đáng ngại nhất là quên học bài. Cái gì thì bố mẹ tôi đều có thể tha thứ được – vì chả gì tôi cũng út ít nhất nhà mà! – Nhưng riêng chuyện học hành thì họ căng thẳng lắm. Tôi đã thề rằng đừng có mà dại dây vào việc không học bài và để điểm kém và tôi đã làm được điều đó lâu nay rồi. Cũng lạ, thường thì hai phụ huynh nhà tôi hay bất đồng ý kiến lắm, chỉ có mỗi việc học hành của tôi là luôn luôn nhất trí với nhau. Không học cho tốt thì cả hai xúm vào, mẹ thì đay nghiến, bố doạ cho về quê chăn vịt. Cái gì tôi cũng thấy sợ cả, vì có bao giờ tôi phải sống xa cả nhà và có phải tự mình làm việc gì đâu. Không biết có phải vì thế mà tôi rất chăm chỉ học hành hay còn vì truyền thống của các anh chị hai họ nội ngoại nhà tôi nũà. Ai cũng chăm ngoan, ai cũng học giỏi cả. Bằng chứng rõ nhất là chị Hồng tôi đấy, ở phổ thông, chị luôn học ở các lớp chuyên, chọn, thi đại học thì “một phát ăn liền”, đỗ ngay vào Đại học Ngoại giao. Xung quanh tôi toàn những người như vậy hỏi làm sao tôi không cố học cho giỏi bằng các anh chị cơ chứ! Ấy vậy mà bộ phim quái quỷ kia làm đổ vỡ hết, tôi chả còn bụng dạ nào mà học bài cả. Liên tiếp tôi “xơi” mấy điểm kém liền, nhất là môn Văn, môn tôi vốn học thuộc loại nhất nhì của lớp. Tôi giấu biến, cấm có biểu hiện gì cả. Nếu như không có việc gì xảy ra thì có lẽ năm học đó tôi ở lại lớp mất. Chiều hôm qua, hình như có linh tính gì, mẹ hỏi điểm học của tôi ngay trong bữa ăn, nghe tôi chối bai bải, mặt tỉnh bơ, mẹ bần thần, nghi ngại lắm. Thoáng chút ân hận, rồi cũng qua mau, sau đó tôi ngủ ngon lành… và tôi đã được gặp ông nội. Ông tôi vẫn như xưa, tóc bạc trắng, dáng người cao to, mặt hồng hào trông phương phi, phúc hậu. Lúc đầu tôi cảm thấy ngỡ ngàng thật sự vì đã năm năm nay, từ khi ông mất, tôi đã không còn gặp lại ông nữa. Tôi chạy tới sà vào lòng ông. Bàn tay ấm áp của ông xoa nhẹ đầu tôi, ánh mắt nhìn tôi trìu mến như ông chưa hề xa cách chị em tôi ngày nào… Tôi được nghe lại giọng nói quen thuộc của ông. Trong câu chuyện, ông phê bình tội lười học và nói dối bố mẹ. Giọng ông trầm xuống, như thoáng có nỗi buồn: – Ông rất buồn vì cháu đã không còn biết vâng lời ông như trước. Ông thất vọng vì cháu bao nhiêu thì thương cháu bấy nhiêu. Cháu nghĩ mình học hộ ai hay sao? Cháu quên mất trách nhiệm của mình mất rồi. Ông nói đến đây, tôi chợt nhớ tới lời dặn dò của ông trước lúc đi xa. Ông dặn các con phải yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, với các cháu ông khuyên phải chăm chỉ học để làm người sống có ích cho mọi xã hội. Riêng với tôi, đứa cháu gái nội, thì ông dặn học sao cho rạng danh con cháu họ Phạm nhà mình. Bây giờ, nghe ông nói, lòng tôi trĩu nặng nỗi ân hận, tôi đã khóc một cách cay đắng cho lỗi lầm của mình. Ông còn cho tôi biết những chuyện từ khi tôi chưa sinh ra. Bố mẹ tôi xưa kia vất vả lắm. Nhà đông anh chị em, nhà cửa chật chội,… cả hai đã vật lộn để mưu sinh, để nuôi con cái học hành thành đạt. Sau này, chính sách mở cửa của nhà nước đã nâng cao đời sống người dân nói chung, trong đó có gia đình tôi, tôi còn bé lại sinh sau nên được hưởng sướng hơn. Lời ông khiến tôi thấy được vị mặn chát của giọt mồ hôi bố mẹ tôi đã đổ ra lo toan cho chị em tôi. Tôi buồn vì sự non dại, sự dối trá hồ đồ của mình! Đang suy nghĩ cách xin lỗi bố mẹ, thì thoáng một cái, tôi đã không thấy ông ở bên cạnh nữa. Vội nhìn quanh, thấp thoáng bóng hỉnh ông mờ dần vào chân trời phía xa… Tôi chợt hiểu ra điều mình cần phải làm. Giật mình tỉnh dậy, tôi tự tin và hào hứng với một kế hoạch mới. Ai trong cuộc sống của mình cũng có nhiều giấc mơ, vui có buồn có, song với tôi giấc mơ gặp ông là có ý nghĩa nhất. Nó giúp cuộc đời tôi chuyển sang một bước ngoặt mới, tôi sống có trách nhiệm hơn, với mình, với gia đình, với mọi người xung quanh. Tất cả qua lâu rồi, nhưng lòng tôi vẫn nhớ, biết ơn ông và thầm hứa sẽ không bao giờ quên lời ông dạy dỗ. (Nguyễn Thu Hà, lớp 9A8, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét Câu chuyện về một giấc mơ gặp gỡ người thân. Cách kể của bạn khá lôi cuốn vì ngôn ngữ tự nhiên, chân thành. Bạn đã bắt đầu bằng câu chuyện bộ phim Mĩ cực kì cuốn hút. Cuốn hút đến mức dù rất sợ bố mẹ, dù đã thề không bao giờ vi phạm về chuyện học hành, nhưng rốt cuộc bạn vẫn ham phim mà liên tục xơi điểm kém.
Hướng dẫn Kể lại giấc mơ gặp người thân đã xa cách lâu Đề bài: Kể lại một giấc mơ, ở đó em được gặp lại một người thân đã xa cách lâu nay. 1. Yêu cầu – Viết bài kể chuyện sáng tạo; đòi hỏi người kể phải biết xây dựng câu chuyện bằng trí tưởng tượng cùng với sự liên tưởng vào thực tế cuộc sống. – Câu chuyện gặp gỡ đó phải có ý nghĩa xác thực (ca ngợi tấm gương, khẳng định ảnh hưởng tích cực, sự yêu thương thân thiết,…). – Hình ảnh của giấc mơ khác với hình ảnh của những câu chuyện diễn ra xung quanh (vừa mờ tỏ vừa hư hư thực thực,…), tránh kể như các câu chuyện khác. – Tình cảm của người kể chuyện chân thực, sinh động. 2. Gợi ý – “Người thân” ở đây là nhân vật chính của câu chuyện. Có thể là bạn bè, thầy cô… Người đó có thể ở xa hoặc đã mất. – Câu chuyện vừa gợi kỉ niệm đã qua vừa tâm sự những vướng mắc, những mong ước. – Nhân vật trong mơ đã phân tích, gợi mở cho người kể nhiều điều mới mẻ. – Nhân vật đó vừa gần gũi thân thiết, vừa khó xích lại gần. Gợi lại những cử chỉ, biểu hiện quen thuộc,… 3. Lâp dàn ý a. Mở bài: Có nhiều hiện tượng kì lạ trong cuộc đời – ảnh hưởng trực tiếp tới con người (linh tính, giấc mơ, lời dự đoán…) ; ấn tượng sâu sắc nhất: gặp lại… trong giấc mơ. b. Thân bài * Hoàn cảnh diễn ra giấc mơ – Giấc ngủ trong hoàn cảnh cụ thể (sau kì thi học kì, những ngày hè, một đêm mưa,…). – Gặp người thân và kể lại. – Giới thiệu về người thân gặp trong mơ (là ai, có mối quan hệ như thế nào, tình cảm trước kia ra sao). * Tả nhân vật – Ngoại hình. – Cử chỉ, lời nói. * Những chuyên giữa người kể và nhân vật (trọng tâm) – Bộc lộ tình cảm thương nhớ vì xa cách và khẳng định nhân vật là hình ảnh không phai mờ. – Kể chuyện nhà, chuyện mình trong thời gian xa cách. – Gợi lại kỉ niệm về những cậu chuyện đầy cảm xúc (chuyện vui, chuyện buồn, những kỉ niệm khó quên,…). – Tâm sự về ước mơ và lời khuyên của nhân vật. – Tỉnh giấc: tiếc vì cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, mong ước của người viết. c. Kết bài: Khẳng định dù gần hay xa, tình cảm mến yêu và thương nhớ không có gì thay thế được. 4. Bài làm minh hoa Tuổi thơ của tôi có biết bao điều thú vị… Nhưng ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi là câu chuyện gặp ông nội trong một giấc mơ, cho tới tận bây giờ tôi vẫn trân trọng ghi nhớ. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái; lúc đó trên tivi đang chiếu bộ phim nhiều tập của Mĩ – Phép thuật. Ai thì không biết chứ lũ trẻ chúng tôi thì mê điên mẹ đảo, mà cũng vì sây mê bộ phim đó mà tôi mắc bao nhiêu lỗi. Nào quên nấu cơm, quên dọn dẹp, quên cất quần áo để trời mưa ướt hết… Có lẽ đáng ngại nhất là quên học bài. Cái gì thì bố mẹ tôi đều có thể tha thứ được – vì chả gì tôi cũng út ít nhất nhà mà! – Nhưng riêng chuyện học hành thì họ căng thẳng lắm. Tôi đã thề rằng đừng có mà dại dây vào việc không học bài và để điểm kém và tôi đã làm được điều đó lâu nay rồi. Cũng lạ, thường thì hai phụ huynh nhà tôi hay bất đồng ý kiến lắm, chỉ có mỗi việc học hành của tôi là luôn luôn nhất trí với nhau. Không học cho tốt thì cả hai xúm vào, mẹ thì đay nghiến, bố doạ cho về quê chăn vịt. Cái gì tôi cũng thấy sợ cả, vì có bao giờ tôi phải sống xa cả nhà và có phải tự mình làm việc gì đâu. Không biết có phải vì thế mà tôi rất chăm chỉ học hành hay còn vì truyền thống của các anh chị hai họ nội ngoại nhà tôi nũà. Ai cũng chăm ngoan, ai cũng học giỏi cả. Bằng chứng rõ nhất là chị Hồng tôi đấy, ở phổ thông, chị luôn học ở các lớp chuyên, chọn, thi đại học thì “một phát ăn liền”, đỗ ngay vào Đại học Ngoại giao. Xung quanh tôi toàn những người như vậy hỏi làm sao tôi không cố học cho giỏi bằng các anh chị cơ chứ! Ấy vậy mà bộ phim quái quỷ kia làm đổ vỡ hết, tôi chả còn bụng dạ nào mà học bài cả. Liên tiếp tôi “xơi” mấy điểm kém liền, nhất là môn Văn, môn tôi vốn học thuộc loại nhất nhì của lớp. Tôi giấu biến, cấm có biểu hiện gì cả. Nếu như không có việc gì xảy ra thì có lẽ năm học đó tôi ở lại lớp mất. Chiều hôm qua, hình như có linh tính gì, mẹ hỏi điểm học của tôi ngay trong bữa ăn, nghe tôi chối bai bải, mặt tỉnh bơ, mẹ bần thần, nghi ngại lắm. Thoáng chút ân hận, rồi cũng qua mau, sau đó tôi ngủ ngon lành… và tôi đã được gặp ông nội. Ông tôi vẫn như xưa, tóc bạc trắng, dáng người cao to, mặt hồng hào trông phương phi, phúc hậu. Lúc đầu tôi cảm thấy ngỡ ngàng thật sự vì đã năm năm nay, từ khi ông mất, tôi đã không còn gặp lại ông nữa. Tôi chạy tới sà vào lòng ông. Bàn tay ấm áp của ông xoa nhẹ đầu tôi, ánh mắt nhìn tôi trìu mến như ông chưa hề xa cách chị em tôi ngày nào… Tôi được nghe lại giọng nói quen thuộc của ông. Trong câu chuyện, ông phê bình tội lười học và nói dối bố mẹ. Giọng ông trầm xuống, như thoáng có nỗi buồn: – Ông rất buồn vì cháu đã không còn biết vâng lời ông như trước. Ông thất vọng vì cháu bao nhiêu thì thương cháu bấy nhiêu. Cháu nghĩ mình học hộ ai hay sao? Cháu quên mất trách nhiệm của mình mất rồi. Ông nói đến đây, tôi chợt nhớ tới lời dặn dò của ông trước lúc đi xa. Ông dặn các con phải yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, với các cháu ông khuyên phải chăm chỉ học để làm người sống có ích cho mọi xã hội. Riêng với tôi, đứa cháu gái nội, thì ông dặn học sao cho rạng danh con cháu họ Phạm nhà mình. Bây giờ, nghe ông nói, lòng tôi trĩu nặng nỗi ân hận, tôi đã khóc một cách cay đắng cho lỗi lầm của mình. Ông còn cho tôi biết những chuyện từ khi tôi chưa sinh ra. Bố mẹ tôi xưa kia vất vả lắm. Nhà đông anh chị em, nhà cửa chật chội,… cả hai đã vật lộn để mưu sinh, để nuôi con cái học hành thành đạt. Sau này, chính sách mở cửa của nhà nước đã nâng cao đời sống người dân nói chung, trong đó có gia đình tôi, tôi còn bé lại sinh sau nên được hưởng sướng hơn. Lời ông khiến tôi thấy được vị mặn chát của giọt mồ hôi bố mẹ tôi đã đổ ra lo toan cho chị em tôi. Tôi buồn vì sự non dại, sự dối trá hồ đồ của mình! Đang suy nghĩ cách xin lỗi bố mẹ, thì thoáng một cái, tôi đã không thấy ông ở bên cạnh nữa. Vội nhìn quanh, thấp thoáng bóng hỉnh ông mờ dần vào chân trời phía xa… Tôi chợt hiểu ra điều mình cần phải làm. Giật mình tỉnh dậy, tôi tự tin và hào hứng với một kế hoạch mới. Ai trong cuộc sống của mình cũng có nhiều giấc mơ, vui có buồn có, song với tôi giấc mơ gặp ông là có ý nghĩa nhất. Nó giúp cuộc đời tôi chuyển sang một bước ngoặt mới, tôi sống có trách nhiệm hơn, với mình, với gia đình, với mọi người xung quanh. Tất cả qua lâu rồi, nhưng lòng tôi vẫn nhớ, biết ơn ông và thầm hứa sẽ không bao giờ quên lời ông dạy dỗ. (Nguyễn Thu Hà, lớp 9A8, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) ⇒ Nhận xét Câu chuyện về một giấc mơ gặp gỡ người thân. Cách kể của bạn khá lôi cuốn vì ngôn ngữ tự nhiên, chân thành. Bạn đã bắt đầu bằng câu chuyện bộ phim Mĩ cực kì cuốn hút. Cuốn hút đến mức dù rất sợ bố mẹ, dù đã thề không bao giờ vi phạm về chuyện học hành, nhưng rốt cuộc bạn vẫn ham phim mà liên tục xơi điểm kém.
Hướng dẫn Thuyết minh về cây lúa 1. Yêu cầu – Đề bài thuộc dạng thuyết minh. – Qua bài làm cần cho người đọc hiểu về lịch sử, đặc điểm, quá trình phát triển của cây lúa cũng như vai trò của cây lúạ trong đời sống con người Việt Nam. – Đây là bài văn thuyết minh đầu tiên ở lớp 9, sau khi học cách thuyết minh theo một số biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, tự sự,… Do đó, bài viết phải có hình thức mới mẻ so với các bài thuyết minh đã làm ở lớp 8. 2. Gợi ý – Cây lúa rất gần gũi với đời sống con người Việt Nam ta nhưng không phải ai cũng hiểu về cây lúa. Vì vậy, trước khi làm bài, cần đọc kĩ những bài viết về cây lúa. Những tài liệu này có thể tìm trên mạng Vietnamnet hoặc từ điển sinh học. – Về hình thức, có thể để cây lúa tự kể chuyện về cuộc đời của nó. – Cũng có thể thuyết minh bình thường, kết hợp với miêu tả, biểu cảm, tự sự khi diễn đạt ý cần thuyết minh. 3. Lâp dàn ý Tuỳ thuộc việc sử dụng biện pháp nghệ thuật thuyết minh mà lập dàn ý khác nhau do hình thức tự thuật đối thoại, diễn ca,… Dù thế nào, nội dung bài viết cũng cần có những ý sau: a. Mở bài: Giới thiệu cây lúa trong đời sống con người nói chung, người Việt Nam nói riêng. b. Thân bài – Nguồn gốc – Lịch sử – Gieo trồng và chăm sóc – Cây lúa với đời sống văn hoá Việt Nam + Cây lúa nuôi sống con người, giúp xã hội phát triển. + Bánh trái thờ cúng tổ tiên làm từ gạo, sản phẩm của cây lúa. + Hình ảnh lúa trên trống đồng và các sản phẩm văn hoá từ xuất của nền văn minh lúa nước. + Cây lúa vá sản phẩm văn hoá ẩm thực. – Tương lai của cây lúa Việt Nam + Sự phát triển của họ nhà lúa nhờ các nhà khoa học nông nghiệp + Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. c. Kết bài: Cảm nhận về sự gắn bó của cây lúa với đất nước, con người Việt Nam. 4. Bài làm minh họa Cây lúa là hình ảnh rất đỗi gần gũi và thân quen đối với người dân Việt Nam ta. Từ ngàn đời nay nghề trồng lúa vẫn được người dân ta coi trọng ; cây lúa vẫn là lẽ sống, là vận mệnh và gắn bó máu thịt với người dân mình. Cây lúa vỉ thế đã đi sâu vào cách cảm, cách nghĩ của người dân và tạo nên những nét đặc trưng của văn hoá nước ta, một nền văn hoá – văn minh lúa nước. Nói về lúa thì từ Bắc tới Nam không ai không biết. Có lúa cạn gieo ở trên nương, có lúa nước cấy ở dưới ruộng, có lúa gieo thẳng như ở một số tỉnh miền Trung và miền Nam. Ở miền Bắc, thóc giống được ngâm cho nảy mầm. Đem hạt nẩy mầm (mộng mạ) gieo xuống đất, mầm lớn lên thành cây mạ. Mạ được nhổ đem ra ruộng cấy và phát triển thành cây lúa. Cây lúa được chăm nước, bón phân, làm cỏ ; qua thời gian nó chia vè, đứng cái, làm đòng rồi trổ bông, kết hạt. Hạt ngậm sữa, chắc xanh. Bông lúa uốn câu, hoe vàng, chín vàng và chín rộ. Để biến thành gạo, lúa cũng phải chịu “năm nắng mười mưa”, “xay sẩy giần sàng”. Khi lúa chín người dân ta gặt lúa về, trục lúa, phơi lúa, giã lúa – ngày nay thì xay lúa – xay, xát, quạt, rê, sàng, sẩy. Việt Nam ta có rất nhiều giống lúa như: thơm, tám xoan, dự, nàng hương, bắc thơm, nếp cái, nếp hoa vàng, ba giăng, mùa, gié, mộc tuyền, di hương, tạp giao, nếp dâu, ải 32, 203, V10,… Các sản phẩm làm ra từ lúa gạo cũng rất nhiều. Ngoài cơm (tẻ), ta ăn hằng ngày còn có xôi, bún, phở, cháo. Các loại bánh làm từ lúa gạo thì nhiều vô kể (mỗi vùng miền trên đất nước ta đều có những thứ bánh đặc trưng cho vùng miền ấy, rất phong phú, nhiều kiểu loại). Ví dụ như bánh đa, bánh đúe, bánh xèo, bánh bèo, bánh cuốn, bánh chay, bánh trôi, bánh ít, bánh rán, bánh phồng, bánh giày, bánh chưng,… Các loại nước uống từ lúa gạo cũng rất nhiều, về các loại xôi có thể kể như xôi trắng, xôi vò, xôi đỗ, xôi gấc, xôi lúa (xôi ngô), xôi hành mỡ, xôi lạc, xôi cúc, xôi nghệ,… Từ bao đời nay cây lúa bao giờ cũng được coi là công sức, là mồ hôi của người lao động ; “bát cơm đầy” dẻo thơm đấy nhưng cũng “đắng cay muôn phận”. Trần Đăng Khoa đã gọi những công sức đó, những cái giá để đổi lấy hạt cơm là những “giọt mồ hôi sa những trừa tháng sáu”. Đó chính là giá trị của hạt gạo. Người dân Việt Nam ta còn khẳng định hạt gạo đó là “hạt ngọc hạt vàng” nói theo cách ca dao thì đó là “tấc đất tấc vàng”. Ý thức được lúa gạo là kho báu cho nên ông cha ta đã quen nói cân gạo, đong gạo mà không nói mua gạo (như ta nói ngày nay – khi mà lúa gạo cũng bị ảnh hưởng của kinh tế thị trường). Lúa gạo không chỉ là một thứ hàng hoá có thể bán tống bán táng tuỳ tiện. Ngay cả việc mua bán đi như thế ông cha ta cũng gọi cái giá bán đắt – bán rẻ ấy!à gạo hơn, gạo kém – người dân mình rất trân trọng, nâng niu hạt gạo. Khi ăn cơm làm rớt một hạt cơm, theo phản xạ, ta lập tức nhặt và đưa nó vào bát ngay vì không làm như thế sẽ bị xem là một tội – điều này dường như đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người chúng ta. Đó là một hành vi văn hoá rất đáng khen ngợi và khích lệ, làm cảm động lòng người và mang một ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc. “Cơm tẻ mẹ ruột” là một câu thành ngữ dân gian nói rõ nhất giá trị của hạt gạo. Ớ đầy hạt gạo được ví như cội nguồn máu thịt của con người, là cái ăn hằng ngày và cũng là nguồn gốc của sự sống. Từ hoạt động thực tiễn của nghề trồng lúa, từ nhận thức giá trị và lòng yêu cây lúa, gắn sự sống của mình với sự tồn tại cây lúa, dân ta đã nâng cây lúa lên thành một biểu tượng cao đẹp: cây lúa chính là người. Ông cha ta và cả chúng ta thường nói đi thăm đồng, thăm lúa – lúa thật đáng cho sự chăm nom của con người, một việc mà chỉ dành cho người thân. Ông cha ta cũng nói “một nắng hai sương” để nói về mình nhưng cũng để nói về lúa. Vì thế, gặp lũ lụt, hạn hán, ta phải cứu lúa: vận mệnh cây lúa có tầm quan trọng như vận mệnh con người. Trong tục ngữ ca dao, người Việt Nam ta đã gọi “gió đông là chồng lúa chiêm, gió bắc là duyên lúa mùa”, hoặc gọi cây lúa cấy lại lần thứ hai là “tái giá”, thời cây lúa làm đòng gọi là thời con gái,… Chúng ta thật khó lòng phân biệt được như thế là nhân hoá cây lúa hay lúa hoá con người. Cây lúa từ bao đời đã đi vào nhạc, vào thơ. Biết bao nhiêu bài hát ca ngợi cây lúa, ca ngợi nghề trồng lúa. Chúng ta có tục cúng cơm mới, có ngày hội xuống đồng cũng là những nghi lễ tôn vinh cây lúa. Nhánh lúa vàng còn được người hoạ sĩ thể hiện trên quốc huy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trân trọng giá trị của cây lúa, nâng tầm quan trọng của vận mệnh cây lúa lên ngang tầm quan trọng của vận mệnh con người, đó chính là nét đặc sắc và tiêu biểu của văn hoá Việt Nam, của tâm hồn người Việt Nam ta. (Trần Văn Nghi, lớp 9A, Trường THCS Chu Văn An, Thái Nguyên)
Instruct Explanation about rice 1. Requirements – The topic is in the form of exposition. – Through the assignment, it is necessary for readers to understand the history, characteristics, development process of rice as well as the role of strange rice plants in Vietnamese people's lives. – This is the first expository essay in grade 9, after learning how to explain using a number of artistic methods such as personification, narrative, etc. Therefore, the article must have a new form compared to other essays. Explanation done in 8th grade. 2. Suggestions – Rice is very close to the lives of Vietnamese people, but not everyone understands rice. Therefore, before doing the test, you need to carefully read the articles about rice. These documents can be found on Vietnamnet or biology dictionary. – In terms of form, it is possible to let the rice plant tell its own story about its life. – Can also do normal narration, combined with description, expression, and narrative when expressing the idea that needs to be narrated. 3. Make an outline Depending on the use of narrative art, the outline will be different due to the form of narrative dialogue, song performance, etc. In any case, the content of the article should have the following ideas: a. Introduction: Introducing rice in human life in general, and Vietnamese people in particular. b. Body of the article - Source - History – Planting and care – Rice with Vietnamese cultural life + Rice feeds people and helps society develop. + Ancestor worship fruit cake made from rice, a product of the rice plant. + Images of rice on bronze drums and cultural products from the wet rice civilization. + Rice plants and culinary cultural products. – The future of Vietnamese rice + The development of the rice family thanks to agricultural scientists + Vietnam has become one of the world's largest rice exporters. c. Conclusion: Feeling about the attachment of rice to the country and people of Vietnam. 4. Illustrative exercise Rice is a very close and familiar image to the Vietnamese people. For thousands of years, rice growing has been highly valued by our people; Rice is still the reason for life, the destiny and the bond of flesh and blood with the people. The rice plant has thus penetrated deeply into people's way of feeling and thinking and created the characteristic features of our country's culture, a wet rice culture and civilization. Talking about rice, from North to South, no one knows. There is dry rice sown in the fields, there is wet rice planted in the fields, and there is rice sown directly like in some central and southern provinces. In the North, rice seeds are soaked to germinate. Sow the germinated seeds (seedlings) in the ground and the sprouts grow into seedlings. The seedlings are plucked and planted in the field and grow into rice plants. Rice plants are watered, fertilized, and weeded; Over time, it splits, stands, forms spikes, then blooms and produces seeds. The seeds are milky, firm and green. The rice flowers are curled, yellow, ripe and fully ripe. To be turned into rice, rice also has to endure "years of sun and ten days of rain", "milling, sifting". When the rice is ripe, our people come home from harvesting the rice, rolling the rice, drying the rice, pounding the rice - today, we grind the rice - grind, grind, fan, winnow, sift, winnow. In Vietnam, we have many rice varieties such as: Thom, Tam Xoan, Du, Nang Huong, Bac Thom, Sticky Rice, Yellow Flower Sticky Rice, Ba Giang, Moi, Giac, Moc Tuyen, Di Huong, Nhac Giao, Strawberry Sticky Rice, and Hai 32, 203, V10,… There are also many products made from rice. In addition to rice (rice), we also eat sticky rice, vermicelli, pho, and porridge every day. There are countless types of cakes made from rice (each region in our country has cakes that are specific to that region, very rich, with many types). For example, banh da, banh due, banh xeo, banh beo, banh cuon, banh vegetarian, banh troi, banh it, donut, puff cake, banh day, banh chung,... There are also many types of rice drinks. , about the types of sticky rice that can be mentioned as white sticky rice, rolled sticky rice, bean sticky rice, gac sticky rice, rice sticky rice (corn sticky rice), fatty onion sticky rice, peanut sticky rice, chrysanthemum sticky rice, turmeric sticky rice,... For generations, rice has always been considered the effort and sweat of workers; "a bowl full of rice" is fragrant but also "bitter and bitter". Tran Dang Khoa called those efforts, the prices in exchange for grains of rice, "drops of sweat in the summer months of June". That is the value of a grain of rice. Vietnamese people also affirm that a grain of rice is "a pearl and a grain of gold". In the folk song, it is "an inch of earth and an inch of gold". Aware that rice is a treasure, our ancestors were used to saying how to weigh rice and measure rice without saying to buy rice (as we say today - when rice is also affected by the market economy). Rice is not just a commodity that can be sold and buried arbitrarily. Even when buying and selling like that, our ancestors also called the price of selling high - selling cheap! "better rice, less rice" - our people highly respect and cherish rice grains. When eating rice and dropping a grain of rice, we reflexively immediately pick it up and put it in the bowl because not doing so will be considered a crime - this seems to be deeply ingrained in each of us's subconscious. . It is a very commendable and encouraging cultural act that touches people's hearts and carries a deep spiritual meaning. "The mother's own rice is plain rice" is a folk proverb that best describes the value of a grain of rice. Rice grains are considered the source of human flesh and blood, daily food and also the source of life. From practical activities of rice cultivation, from awareness of the value and love of rice, attaching their lives to the existence of rice, our people have raised rice into a beautiful symbol: the main rice plant. is human. Our ancestors and we often say that visiting the fields, visiting the rice - rice is truly worthy of human care, something that is only reserved for relatives. Our ancestors also said "one sun, two dew" to talk about themselves but also to talk about rice. Therefore, when faced with floods or droughts, we must save rice: the fate of rice is as important as the fate of people. In proverbs and folk songs, Vietnamese people call "the east wind is the husbandry of rice, the north wind is the fate of summer rice", or call the rice transplanted a second time "remarriage", the time when the rice grows into rice fields is called girlhood,... It is difficult for us to distinguish whether this is humanizing rice or rice humanizing. Rice has been in music and poetry for many generations. There are so many songs praising rice and praising rice farming. We have the custom of offering new rice, and there is a festival going down to the fields, which are also rituals to honor the rice plant. The artist also depicted the golden rice branch on the national emblem of the Democratic Republic of Vietnam, now the Socialist Republic of Vietnam. Appreciating the value of rice, raising the importance of rice's destiny to the level of human destiny, that is the unique and typical feature of Vietnamese culture, of the soul of the Vietnamese people. . (Tran Van Nghi, class 9A, Chu Van An Secondary School, Thai Nguyen)
Hướng dẫn Dạng bài văn thuyết minh lớp 9 I. DẠNG 1: THUYẾT MINH VỀ MỘT LOÀI SINH VẬT Lưu ý chung a. Thuyết minh một loài sinh vật (loài cây, loài con) là trình bày những hiểu biết về loài sinh vật đó. Người viết cần giới thiệu được sinh vật đó trong thiên nhiên và trong đời sống của con người. Nếu có thể, cần giới thiệu được lịch sử ra đời của nó, và những biến đổi theo vùng, miền, theo thời gian (một cách khái quát). Những sinh vật (cây, con) gần gũi đối với học sinh có thể là con mèo, con chó, con gà, con trâu, con ngựa…, những loài cây có thể là cây lúa, cây ngô, cây cau, cây mía, cây chè, cây tre, cây dừa, cây phượng…, các loại cây hoa như hoa nhài, hoa hồng, hoa giấy, phong lan,… Thuyết minh về một loài sinh vật bao giờ cũng phải nêu được hình dáng, tập tính, cách nuôi dưỡng, chăm sóc như thế nào; lợi ích kinh tế thu được ra sao; làm thế nào để duy trì và phát triển,. b. Khi thuyết minh về một loài sinh vật, người viết cần phải biết nguồn gốc, đặc điểm sinh học, thời gian sinh trưởng… của nó Như vậy, ngoài những hiểu biết trực quan khi tiếp xúc, quan sát kĩ đối tượng từ nhiều phía, rất cần phải có những hiểu biết gián tiếp. Hỏi người lớn tuổi, tìm đọc những sách báo, tài liệu như các sách sinh vật học, các từ điển, các sách chuyên môn (ví dụ Hỏi đáp về thực vật, Bách khoa tri thức thế kỉ XXI,…) liên quan đến sinh vật đó ; ghi chép lại và sử dụng làm tư liệu để thuyết minh. Nói chung, văn thuyết minh cần đảm bảo yếu tố khách quan, chính xác. Nhưng khi nói về loài cây, con vật gần gũi, thân thiết, vẫn có thể thể hiện tình cảm cá nhân của người viết. Chính điều này làm cho bài thuyết minh có màu sắc riêng, độc đáo. Cần nhớ rằng có rất nhiều phương pháp thuyết minh. Hãy chọn lấy phương pháp chính và không quên việc có thể vận dụng các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm để làm cho bài thuyết minh sinh động. Chính việc miêu tả những nét nổi bật của đối tượng kết hợp với các phương pháp thuyết minh được cân nhắc và lựa chọn sẽ giúp người viết có cơ hội để tạo lập một văn bản thuyết minh hay. II. Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Lưu ý chung a. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh là trình bày những hiểu biết về danh lam thắng cảnh đó. Người viết cần giới thiệu được vị trí của cảnh đẹp, nét độc đáo của nó so với những cảnh tương tự, giá trị văn hoá, lịch sử, kiến trúc của nó. Nếu là di tích lịch sử thì di tích đó gắn với sự kiện, nhân vật lịch sử nào, cách đây bao nhiêu năm ; ý nghĩa của di tích đối với việc phản ánh tiến trình lịch sử của địa phương hay đất nước.
Instruct Expository essay format for grade 9 I. FORM 1: NOTES ABOUT A SPECIES OF ORGANISMS General note a. Explaining an organism (plant species, subspecies) is presenting knowledge about that organism. The writer needs to introduce that creature in nature and in human life. If possible, it is necessary to introduce its history, and the changes by region, region, and time (in a general way). Organisms (trees, animals) that are close to students can be cats, dogs, chickens, buffaloes, horses..., plants can be rice, corn, areca trees, sugarcane trees. , tea trees, bamboo trees, coconut trees, phoenix trees..., flower plants such as jasmine, roses, bougainvillea, orchids,... Explanations about an organism must always state its appearance, behavior, and how to nurture and care for it; What economic benefits are obtained; how to maintain and develop,. b. When explaining about an organism, the writer needs to know its origin, biological characteristics, growth time, etc. Thus, in addition to intuitive knowledge when touching and closely observing the object from many sides, it is necessary to have indirect knowledge. Ask the elders, read books and documents such as biology books, dictionaries, and specialized books (eg Q&A about plants, Encyclopedia of 21st century knowledge, etc.) related to the topic. that creature ; Record and use as material for explanation. In general, explanatory writing needs to ensure objectivity and accuracy. But when talking about plants and animals that are close and familiar, they can still express the writer's personal feelings. This is what makes the presentation colorful and unique. Remember that there are many methods of narration. Choose the main method and don't forget to be able to apply narrative, descriptive, and expressive elements to make the presentation lively. It is the description of the subject's outstanding features combined with considered and selected explanatory methods that will give the writer the opportunity to create a good expository text. II. Explanation about scenic spots General note a. Explanation about a scenic spot means presenting knowledge about that scenic spot. The writer needs to introduce the location of the beautiful scene, its uniqueness compared to similar scenes, its cultural, historical, and architectural value. If it is a historical relic, what historical event or character is it associated with, how many years ago; The significance of monuments is to reflect the historical process of the locality or country.
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc * * * * * * – Căn cứ vào Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày … tháng … năm … của Thú tướng Chính phủ, các văn bản hướng dẫn thi hành của các cấp các ngành. – Căn cứ vào nhu cầu và khả năng của hai bên. Hôm nay, ngày 22 tháng 03 năm 2009 Tại Cầu Lự II, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai Chúng tôi gồm: Nhân, dân xã… huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai Địa chỉ: xã… huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai Điện thoại: … Đại diện là ông (bà): Nguyễn Hà Thu Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND xã Công ty TNHH Thiên Nông Địa chỉ: đường … thành phố Lào Cai Điện thoại: … Đại diện là ông (bà): Phạm Minh Tâm Chức vụ: Trưởng phòng Kinh doanh Hai bên thoả thuận kí kết Hợp đồng đặt đại lí tiêu thụ sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu với nội dung và các điều khoản sau: Điều 1. Nội dung giao dịch: đặt đại lí tiêu thụ sản phàm phân bón, thuốc trừ sâu (cụ thể chủng loại sản phẩm được ghi rõ trong bảng sản phẩm của công ti). Điều 2. Trách nhiệm và nghĩa vụ bên A – Mở đại lí tiêu thụ sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu như trên cho bên B; – Nhận hàng, kiếm tra số lượng, chủng loại, chát lượng và bốc xếp hàng hoá từ phương tiện chuyên chở vào cửa hàng đại lí. – Thanh toán đầy đủ và đúng thời gian cho bên B. – Bán đúng giá đã quy định. Điều 3. Trách nhiệm và nghĩa vụ của bên B. – Đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời, đúng chủng lạo, chất lượng hàng hoá cho bên A; – Vận chuyến hàng hoá an toàn đến giao tại cửa hàng đại lí cho bên A. Điều 4. Phương thức thanh toán – Bên A được hưởng chiết khấu 30% tồng giá trị hàng hoá bán được. – Hằng tháng từ ngày 25 đến ngày 30, hai bên thanh toán với nhau một lần và thống nhất kế hoạch tháng tới. – Để hàng hoá hư hỏng, mất mát, bên A phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên B. Điểu 5. Hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng này có hiệu lực từ ngày 22 tháng 03 năm 2009 đến hết ngày 22 tháng 09 năm 2009. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có điểm nào chưa phù hợp thi hai bên sẽ bàn bạc đi đến thống nhất cách giải quyết. Hợp đồng này được thành lập thành 05 bản có giá trị như nhau, bên A giữ 02 bán, bên B giữ 03 bản. Đại diện bên A Đại diện bên B p. Chủ tịch xã Trưởng phòng Kinh doanh
Socialist Republic of Vietnam Independence – Freedom – Happiness * * * * * * – Pursuant to the Economic Contract Ordinance dated … month … year … of the Prime Minister, and guiding documents of all levels and branches. – Based on the needs and capabilities of both parties. Today, March 22, 2009 At Cau Lu II, Bao Yen district, Lao Cai province We include: People, commune people... Bao Yen district, Lao Cai province Address: commune... Bao Yen district, Lao Cai province Phone: … Representative is Mr. (Mrs.): Nguyen Ha Thu Position: Vice Chairman of Commune People's Committee Thien Nong Company Limited Address: street ... Lao Cai city Phone: … Representative is Mr. (Mrs.): Pham Minh Tam Position: Head of Sales Department The two parties agree to sign a contract to place distribution agents for fertilizer and pesticide products with the following content and terms: Article 1. Transaction content: placing a sales agent for fertilizer and pesticide products (specific product types are clearly stated in the company's product table). Article 2. Responsibilities and obligations of Party A – Open an agency to sell fertilizer and pesticide products as above for Party B; – Receive goods, check quantity, type, quality and load and unload goods from the vehicle to the agent store. – Pay fully and on time to Party B. – Sell at the prescribed price. Article 3. Responsibilities and obligations of Party B. – Ensuring adequate, timely supply, correct type and quality of goods for Party A; – Safely transport goods to deliver at the agent store for Party A. Article 4. Payment method – Party A is entitled to a discount of 30% of the total value of goods sold. – Every month from the 25th to the 30th, both parties pay each other once and agree on the next month's plan. – If the goods are damaged or lost, Party A must be responsible for compensating Party B. Article 5. Validity of the contract. This contract is effective from March 22, 2009 to September 22, 2009. During the implementation of the contract, if there is any inappropriate point, the two parties will discuss to agree on a solution. . This contract is made into 05 copies of equal value, Party A keeps 02 copies, Party B keeps 03 copies. Representative of Party A Representative of Party B p. Commune Chairman Head of Sales Department
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc * * * * * * Hà Nội, ngày … tháng.. năm 2009 – Căn cứ Luật Dân sự năm 2005 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Chúng tôi gồm: Bên cho thuê nhà (sau đây gọi tắt là bên A): Ông (bà): SỐ CMTND (hộ chiếu) … do CA … cấp ngày … Địa chỉ: Điện thoại: Bên thuê (sau đây gọi tắt là bên B): Ông (bà): Số CMTND (hộ chiếu) … do CA … cấp ngày … Đại diện cho Trung tâm nghiên cứu, hợp tác và bồi dưỡng kiến thức Điện thoại: Hai bên thống nhất kí kết Hợp đồng thuê nhà dùng cho mục đích làm văn phòng với các nội dung sau: 1. Địa chỉ: p. 402 G4, đường Trung Yên 2. Cấp nhà làm việc: Nhà chung cư. 3. Tổng diện tích bao gồm 4 phòng làm việc, 1 phòng khác, 2 phòng vệ sinh, 2 ban công (diện tích dử dụng 75m2) 4. Trang thiết bị chủ yếu gắn liền với nhà làm việc: đèn chiếu sáng, hệ thống điện nước. 1. Giá thuê: 500.000.000d (năm triệu đồng chẵn) một tháng. 2. Bên B sẽ thanh toán cho bên A những khoản phát sinh hàng tháng từ việc sử dụng điện nước và điện thoại. Mức phát sinh sẽ tuỳ thuộc vào thực tế sử dụng và bên A sẽ thông báo bên B hàng tháng. 3. Phương thức thanh toán: Bằng tiền mặt trả vào ngày 05 đầu quý. 1. Thời hạn cho thuê là 12 tháng kế từ ngày 01/03/2009 2. khi hết hạn hợp đồng tuỳ theo tình hình thực tế 2 bên có thế thoa thuận gia hạn hoặc chấm dứt hợp đồng 3. Một trong 2 bên ngừng thời hạn trước thời hạn đã thóa thuận thì phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất 3 tháng. 1. Quyền và nghĩa vụ của bên A – Được lấy lại nhà khi thời hạn thuê đã hết. – Cam kết báo đảm quyền sử dụng trọn vẹn hợp pháp và tạo mọi điều kiện thuận lợi để bên B sử dụng mặt bằng cho mượn hiệu quá. – Bàn giao toàn bộ các trang thiết bị đồ dùng hiện có như đã thoả thuận ngay sau khi hợp đồng được ký – Trong trường hợp cần chấm dứt hợp đồng thuê nhà trưởc thời hạn cần báo trước cho bên B bằng văn bản trước ít nhất 03 tháng. 2. Quyền và nghĩa vụ của bên B – Sử dụng nhà đúng mục đích thuê, khi cần sửa chữa cải tạo theo yêu cầu sử dụng riêng sẽ bàn bạc cụ thể với bên A và được thống nhất bằng văn bản. – Chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của Trung tâm theo đúng pháp lệnh hiện hành. – Thanh toán các khoản chi phí phát sinh như tiền điện dùng, tiền nước, điện thoại đầy đủ và đúng hạn trong thời gian thuê nhà. – Trả nhà cho bên A theo đúng thoả thuận. Trường hợp cần chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn cần báo trước cho bên A bằng văn bản trước ít nhát 03 tháng. Việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà làm việc được thực hiện trong các trường hợp sau: 1. Thời hạn thuê đã hết. 2. Nhà làm việc không còn. 3. Nhà làm việc cho thuê phải phá dỡ do bị hư hỏng nặng có nguy cơ sập đổ hoặc do thực hiện quy hoạch cùa Nhà nước 4. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn 1. Hai bên cùng cam kết thực hiện đúng các nội dung đã ký. Trong quá trình thực hiện nếu phát hiện thấy những vấn đề cần thoả thuận thì 2 bên có thể lập thêm phụ lục hợp đồng. Nội dung hợp đồng phụ có giá trị pháp lý như hợp đồng chính 2. Hợp đồng được lập thành 04 bản có giá trị như nhau. Bên cho thuê giữ 01 bản, bên thuê giữ 03 bản.
Socialist Republic of Vietnam Independence – Freedom – Happiness * * * * * * Hanoi, date... month.. 2009 – Pursuant to the 2005 Civil Law of the Socialist Republic of Vietnam We include: The lessor (hereinafter referred to as party A): Grandparents): ID card number (passport) … issued by CA … on … Address: Phone: Lessee (hereinafter referred to as party B): Grandparents): ID card number (passport) ... issued by CA ... on ... Representing the Center for research, cooperation and knowledge fostering Phone: The two parties agree to sign a Lease Contract for office purposes with the following contents: 1. Address: p. 402 G4, Trung Yen Street 2. Working house level: Apartment house. 3. Total area includes 4 working rooms, 1 other room, 2 bathrooms, 2 balconies (usable area 75m2) 4. Main equipment attached to the workplace: lights, electricity and water system. 1. Rental price: 500,000,000 VND (five million dong) per month. 2. Party B will pay Party A monthly expenses arising from the use of electricity, water and telephone. The amount incurred will depend on actual usage and Party A will notify Party B monthly. 3. Payment method: In cash paid on the 5th day of the first quarter. 1. Lease term is 12 months from March 1, 2009 2. When the contract expires, depending on the actual situation, the two parties can agree to extend or terminate the contract. 3. Either party must terminate the deadline before the agreed deadline and must notify the other party at least 3 months in advance. 1. Rights and obligations of Party A – Get your house back when the lease term has expired. – Commitment to ensure full legal use rights and create all favorable conditions for Party B to effectively use the loaned premises. – Hand over all existing equipment and supplies as agreed upon immediately after the contract is signed – In case it is necessary to terminate the rental contract before the term, it is necessary to notify Party B in writing at least 03 months in advance. 2. Rights and obligations of Party B – Use the house for the right rental purpose. When needing to repair or renovate according to specific use requirements, it will be discussed specifically with Party A and agreed in writing. – Responsible for all aspects of the Center's operations in accordance with current ordinances. – Pay additional expenses such as electricity, water, and telephone in full and on time during the rental period. – Return the house to Party A according to the agreement. In case it is necessary to terminate the rental contract ahead of time, it is necessary to notify Party A in writing at least 3 months in advance. Termination of a working house lease contract is carried out in the following cases: 1. The lease term has expired. 2. The workhouse no longer exists. 3. The rental office must be demolished due to severe damage and risk of collapse or due to implementation of State planning. 4. Both parties agree to terminate the contract before the deadline 1. Both parties commit to comply with the signed contents. During the implementation process, if issues that need to be agreed upon are discovered, the two parties can create additional contract appendices. The content of the sub-contract has the same legal value as the main contract 2. The contract is made into 04 copies of equal value. The lessor keeps 01 copy, the lessee keeps 03 copies.
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc * * * * * * – Căn cứ vào Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày … tháng … năm … của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản hướng dẫn thi hành của các cấp các ngành. – Căn cứ vào nhu cầu và khả năng của hai bên. Hôm nay, ngày 16 tháng 05 năm 2009 Tại địa điểm: Trung tâm Thương mại huyện Nam Sách, Hải Dương Chúng tôi gồm: Bên A: Cửa hàng vật liệu xây dựng Thành Phong Địa chỉ: tầng 2 Trung tâm Thương mại huyện Nam Sách, Hải Dương Điện thoại: 0320… Fax: 0320… Tài khoản: … Mã số thuế: … Đại diện là ông Nguyễn Văn Quyền Chức vụ: Trưởng-phòng Kinh doanh Bên B: Bà Trần Thị Minh Việt Địa chỉ số nhà … đường … thành phố Hải Dương Điện thoại: 0906868XXX Hai bên thoả thuận kí kết Hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng với nội dung và các điều khoản sau: Điều 1. Nội dung giao dịch bao gồm việc mua và bán vật liệu xây dựng gồm sắt, thép. Điều 2. Trách nhiệm và nghĩa vụ bên A – Bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời sắt, thép cho bên B theo đúng đơn giá đã công bố; – Vận chuyển hàng hoá bảo đảm, an toàn đến giao tận địa chỉ đã đăng kí của bên B. Điều 3. Trách nhiệm và nghĩa vụ của bên B. – Kiếm tra số lượng, chủng loại, chất lượng và bốc xếp hàng hoá tư phương tiện chuyên chở vào cửa hàng. – Thanh toán đầy đủ theo đơn giá của bên A và đúng thời gian cho bên A. Điều 4 Phương thức thanh toán – Bên B thanh toán cho bên A chậm nhất là 7 ngày sau khi nhận hàng; – Bên B chủ động gặp bên A để hoàn tất việc thanh toán. Điều 5. Hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng này có hiệu lực từ ngày 16 tháng 05 năm 2009 đến hết ngày 16 tháng 11 năm 2009. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có điểm nào chưa phù hợp thì hai bên sẽ bàn bạc đi đến thống nhất cách giải quyết. Những nội dung hiệu chỉnh sẽ được ghi lại trong bản “Phụ lục hợp đồng”. “Phụ lục hợp đồng” có giá trị như hợp đồng chính thức. Hợp đồng này được lập. thành 04 bản có giá trị như nhau, mỗi bên giữ 02 bản.
Socialist Republic of Vietnam Independence – Freedom – Happiness * * * * * * – Pursuant to the Economic Contract Ordinance dated … month … year … of the Prime Minister, and guiding documents of all levels and branches. – Based on the needs and capabilities of both parties. Today, May 16, 2009 Location: Nam Sach District Trade Center, Hai Duong We include: A side: Thanh Phong construction materials store Address: 2nd floor, Nam Sach District Trade Center, Hai Duong Phone: 0320… Fax: 0320… Account: … Tax code: … Representative is Mr. Nguyen Van Quyen Position: Head of Sales Department B side: Ms. Tran Thi Minh Viet Address house number … street … Hai Duong city Phone: 0906868XXX The two parties agree to sign a Contract for purchasing and selling construction materials with the following content and terms: Article 1. Transaction content includes buying and selling construction materials including iron and steel. Article 2. Responsibilities and obligations of Party A – Ensuring adequate and timely supply of iron and steel to Party B according to the published unit price; – Secure and safe transportation of goods to Party B's registered address. Article 3. Responsibilities and obligations of Party B. – Check quantity, type, quality and loading and unloading of goods from means of transport into the store. – Pay in full according to Party A's unit price and on time to Party A. Article 4 Payment method – Party B pays Party A no later than 7 days after receiving the goods; – Party B proactively meets with Party A to complete the payment. Article 5. Validity of the contract. This contract is effective from May 16, 2009 to November 16, 2009. During the implementation of the contract, if there is any inappropriate point, the two parties will discuss to agree on a solution. . The adjusted contents will be recorded in the "Contract Appendix". “Contract appendix” has the same value as the official contract. This contract is made. into 04 copies of equal value, each party keeps 02 copies.
Trường THCS Phan Đình Giót Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Lớp 9A Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIÊN BẢN SINH HOẠT LỚP Tuần từ ngày 02 tháng 05 đển ngày 09 thang 05 năm 2009 Thời gian: 11 giờ, ngày 09 tháng 05 năm 2009 Địa điểm: Phòng học lớp 9A, Trường THCS Phan Đình Giót Thành phần tham dự: – Cô giáo chú nhiệm lớp – 45 học sinh lớp 9A Điều khiển: Lớp trưởng Lê Vân Anh Thư ký: Chứ Mai Linh Nội dung sinh hoạt 1. Bạn Lê Vân Anh tổng kết thi đua trong tuần. – Về học tập: + Tiến hành thi học kì các mòn: Thể dục, Lịch sử, Địa lí, Hoá học; tiếp tục ôn thi học kì các môn còn lại. + Việc thi cử của lớp diễn ra nghiêm túc, không có hiện tượng gian lận. – Về nề nếp, kí luật: + Chấp hành đúng nội quy, quy chế của nhà trường. + Không bị trừ điểm thi đua về kí luật nề nếp. 2. Ý kiến phát biểu – Lớp phó Học tập Trần Thanh Mai: + Cần làm đề cương cân thận, nghiêm túc, các nhóm học tập nên trao đổi ý kiến về các môn học để có cách học và làm bài hiệu quả. + Trong giờ thi, hạn chế trao đổi bài, tránh việc cho bạn khác chép bài (lớp chưa có trường hợp bị kỉ luật nhưng đã có trường hợp bị nhắc nhở vì cho bạn chép bài). – Bạn Nguyễn Quang: Nội dung ôn tập môn Văn khá dài, lại sắp đển ngày thi, các bạn học khá Văn trong lớp nên lên kế hoạch học nhóm để giúp đỡ các bạn học yếu hơn. – Bạn Trần Thuý Nga: Dù bận thi học kì nhưng không nên xao lãng việc chăm sóc công trình “Kế hoạch nhỏ” và việc nhận giúp đỡ Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. 3. Phát biểu của cô giáo chủ nhiệm – Biểu dương sự cố gắng của tập thể lớp. – Đã xác định đúng nhiệm vụ học tập đồng thời không quên những hoạt động xã hội có ích. – Nên sáng tạo giờ sinh hoạt hơn, tiến hành hoạt động “Chơi mà học” vừa thoải mái vừa giúp ôn tập thi học kì. Buổi sinh hoạt chi đội kết thúc vào hồi 11 giờ 45 phút cùng ngày
Phan Dinh Giot Secondary School, Socialist Republic of Vietnam Class 9A Independence – Freedom – Happiness MINUTES OF CLASS ACTIVITIES Week from May 2 to May 9, 2009 Time: 11 am, May 9, 2009 Location: Classroom 9A, Phan Dinh Giot Secondary School Participants: – The teacher takes charge of the class – 45 students of class 9A Controller: Class leader Le Van Anh Secretary: Chu Mai Linh Activity content 1. Le Van Anh summarizes the week's competition. - About learning: + Conducting semester exams for subjects: Physical Education, History, Geography, Chemistry; Continue studying for the remaining semester exams. + The class's exams were taken seriously, with no cheating phenomenon. – Regarding discipline and discipline: + Comply with school rules and regulations. + No points will be deducted in competition for discipline. 2. Opinions expressed – Vice Class Academic Tran Thanh Mai: + It is necessary to make a careful and serious outline. Study groups should exchange opinions about subjects to have effective ways to study and do homework. + During exam time, limit the exchange of papers, avoid letting other students copy papers (the class has not had any disciplinary cases, but there have been cases of being warned for letting others copy papers). – Nguyen Quang: The Literature review content is quite long, and the exam day is coming, so the students who are good at Literature in class should plan to study in groups to help the weaker students. – Tran Thuy Nga: Even though you are busy with semester exams, you should not neglect taking care of the "Small Plan" project and accepting help for Vietnamese Heroic Mothers. 3. Statement from the homeroom teacher – Praise the efforts of the class. – Correctly identified learning tasks while not forgetting useful social activities. - You should be more creative with your living hours, conduct "Play and learn" activities that are both comfortable and help review for semester exams. The branch activity ended at 11:45 a.m. the same day
SỞ GTCC Hà Nội Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Công an quận Cầu Giấy Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Số:………. BB/TLTV, PT ——— ————— BIÊN BẢN XỬ LÍ VI PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG – Căn cứ điều…, điều…, điều… Pháp lệnh xử lí vi phạm trật tự an toàn giao thông ngày…. tháng … năm; – Căn cứ quyết định/ Biên bản số:… ngày…. tháng….. năm….. do: Ỏng (bà):…… Chức vụ:……. Kí về việc:…. Hôm nay, hồi 12 giờ 15 phút, ngày 17 tháng 04 năm 2009 Tại ngã tự đường Xuân Thuỷ – Phạm Hùng Tôi Đặng Quang Nam Cấp bậc:……………. Chức vụ:….. Đơn vị công tác: Phòng CSGT quận cầu Giấy Tiến hành lập biên bản xử lí vi phạm trật tự an toàn giao thông đối với bà Ngô Thanh Tùng Là chủ sở hữu chiếc xe máy mang biển số 29 Z1 93XX Nơi cư trú (hoặc địa chỉ): cầu Giấy, Hà Nội Nghề nghiệp (hoặc lĩnh vực hoạt động): Kinh doanh Vi phạm phần đường dành cho xe thô sơ và người đi bộ gây cản trở trật tự an toàn giao thông. – Biện pháp xử lí: + Tạm thu giữ giấy tờ xe trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày 17 tháng 04 năm 2009 đến ngày 17 tháng 05 năm 2009 + Thu phạt hành chính bằng tiền mặt trị giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng chẵn) Biên bản được lập thành hai bản có nội dung và giá trị như nhau. Một bản đựơc giao cho cá nhân vi phạm và một bản lưu hồ sơ. Biên bản lập xong hồi 13 giờ 00 phút cùng ngày, đã đọc lại cho những người có tên nêu trên cùng nghe công nhận đúng và cùng kí tên dưới đây.
Hanoi Department of Public Transport, Socialist Republic of Vietnam Cau Giay District Police Independence – Freedom – Happiness Number:………. BB/TLTV, PT ——— ————— MINUTES OF HANDLING OF VIOLATIONS OF TRAFFIC ORDER AND SAFETY – Pursuant to article…, article…, article… Ordinance on handling violations of traffic order and safety dated…. May; – Pursuant to decision/ Minute No:… date…. month….. year….. due to: Ong (grandmother):…… Position:……. Sign about:…. Today, at 12:15 a.m., April 17, 2009, at the intersection of Xuan Thuy - Pham Hung street I am Dang Quang Nam Rank:……………. Position:….. Working unit: Cau Giay District Traffic Police Department Prepare a record to handle violations of traffic order and safety for Ms. Ngo Thanh Tung Is the owner of a motorbike with license plate number 29 Z1 93XX Place of residence (or address): Cau Giay, Hanoi Occupation (or field of activity): Business Violating the road reserved for non-motorized vehicles and pedestrians obstructs traffic order and safety. – Treatment measures: + Temporary seizure of vehicle documents for a period of 30 days from April 17, 2009 to May 17, 2009 + Collect an administrative fine in cash worth 200,000 VND (two hundred thousand dong only) The minutes are made in two copies with the same content and value. One copy is given to the violator and one copy is kept for records. The minutes were completed at 1:00 p.m. on the same day, and were read again for the above-named people to acknowledge and sign below.
Ca dao, dân ca là tiếng nóị tình cảm của nhân dân lao động. Đó là những tình cám ấm áp, mặn mà dành cho gia đình, bạn bè, quê hương đất nước, và cả nhửng kiếp người khổ đau khốn cùng trong xã hội. Những lời ca nghĩa tình sâu nặng trước hết được dành để ngợi ca công ơn sinh thành dường dục như trời như bể cúa cha mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Chính những ân nghĩa sâu nặng ấy đã nhắc nhở chúng ta: “Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Viết về tình cảm bạn bè, cạ dao cũng hết lời ca ngợi: “Ra đi vừa gặp bạn hiền Cũng bằng ăn quả đào tiên trong chùa”. Không chỉ bày tỏ đối với những người thân yêu, ca dao còn bộc lộ niềm tự hào về quê hương gấm vóc, giàu truyền thống của mỗi người. Khắp ba miền Bác – Trung – Nam, nơi đâu cũng có quyền kiêu hãnh về vẻ đẹp độc đáo của mình: “Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tày Hồ”; “Đường vô xứ Huê quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”; “Tháp Mười đẹp nhất bông sen”…. Không dừng lại ớ đó, ca dao còn thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả khi dành những yêu thương, đồng cảm cho những kiếp người bất hạnh. Đó là những người phụ nữ, những người nông dân,, trong xã hội xưa. Chao ôi, dưới chế độ phong kiến, thân phận những kiếp người ấy sao nhỏ bé, mong manh đến vậy! “Thân cm như trái bần trôi
Folk songs and folk songs are the emotional voice of the working people. Those are warm, salty feelings for family, friends, homeland, and even the lives of suffering and miserable people in society. The songs of profound love are first of all dedicated to praising the parents' gratitude for giving birth to a child like heaven: "The father as a mountain Motherhood is like water flowing from a source." It is these deep gratitudes that remind us: "One Heart Worship Mother Glass Father Fulfilling filial piety is the way of life." Writing about the love of friends, I also praise him: “Just left and met a good friend It's as good as eating peaches in the temple." Not only expressing love for loved ones, folk songs also express pride in each person's rich, traditional homeland. Throughout the three regions of North - Central - South, everywhere has the right to be proud of its unique beauty: “The wind moves the bamboo branches to the la da Tran Vu bell ringing, Tho Xuong chicken soup Fog and smoke radiate thousands of mist The rhythm of the Yen Thai pestle and the mirror of Tay Ho"; “The road to Hue is all around Green non specifically Graphic picturesque"; “Thap Muoi is the most beautiful lotus”…. Not stopping there, folk songs also express a noble humanitarian spirit when giving love and sympathy to unfortunate people. Those are women, farmers, in ancient society. Alas, under feudalism, the fate of those lives is so small and fragile! “The body is like a floating cork fruit
Bài làm Con người chúng ta sinh ra đã có trái tim để yêu thương những người xung quanh mình. Có bàn tay để làm việc và bộ óc để tư duy suy nghĩ nhưng để trao đổi và hiểu hơn về nhau thì lời nói chính là phương tiện giao tiếp giúp cho con người với con người xích lại gần nhau hơn nữa.Lời nói chính là phương tiện trao đổi, gắn kết trái tim, tinh thần suy nghĩ của con người lại gần nhau hơn. Thông qua phương tiện ngôn ngữ con người sẽ có thể hiểu hơn về cuộc sống. Câu thành ngữ “Lời nói gói vàng” muốn nhắc nhở chúng ta hãy thận trọng với mỗi câu nói của mình. Lời nói gói vàng vì sao? Lời nói gói vàng bởi lời nói được so sánh và quan trọng như vàng bạc châu báu. Thông qua câu thành ngữ này người xưa muốn con người chúng ta phải biết điều tiết lời nói của mình sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau. Bởi lời nói không đơn thuần là một lời nói vô thưởng vô phạt, mà nó còn hàm chứa nhiều ý nghĩa nhiều tình cảm và nó quý giá như vàng vậy. Nhiều người cứ nghĩ lời nói là thứ vô hại, khẩu xà tâm phật, có nghĩa là mình nói ra như vậy nhưng không ác ý thì sẽ không sao. Nhưng họ không biết rằng khẩu nghiệp là thứ vô cùng nguy hiểm. Có những lời nói có sức sát thương người khác hơn cả dao kéo, hoặc vũ khí. Một lời nói thốt ra không suy nghĩ nhưng nếu nó làm ảnh hưởng hoặc xúc phạm tới người khác thì nó còn nguy hiểm hơn cả vũ khí. Chính vì lời nói gói vàng nên các ông vua chúa ngày xưa thường rất tôn trọng lời nói của mình. Và thường suy nghĩ rất khĩ trước khi phát ngôn bởi lời nói của vua là nhất ngôn cửu đinh. Một lời nói ra nặng tựa chín ngọn núi không gì có thể lung lay được không gì có thể làm họ thay đổi. Một lời nói của các vị vua ban xuống có thể thay đổi số phận của nhiều người, có thể làm cả một dòng họ bị giết hai chu di cửu tộc. Nhưng lại có thể mang tới vinh quang cho nhiều người khác. Giải thích câu thành ngữ Lời nói gói vàng
Assignment We humans are born with a heart to love those around us. There are hands to work and brains to think, but in order to exchange and understand each other better, speech is the means of communication that helps people get closer together. Speech is the key. A means of exchange, bringing the hearts and minds of people closer together. Through the medium of language, people will be able to better understand life. The idiom "Words wrapped in gold" wants to remind us to be careful with every word we say. Why are words wrapped in gold? Words are packed with gold because words are compared and are as important as gold, silver and jewels. Through this idiom, the ancients wanted us humans to know how to regulate our speech to suit each different situation. Because words are not simply innocuous words, but they also contain many meanings and emotions and are as valuable as gold. Many people think that words are harmless things, the speech and mind of Buddha, which means that if you say it without malice, it will be okay. But they don't know that verbal karma is an extremely dangerous thing. There are words that can damage others more than knives or weapons. A word is uttered without thinking, but if it affects or offends others, it is more dangerous than a weapon. Because words are wrapped in gold, ancient kings often respected their words. And often think very carefully before speaking because the king's words are consistent. One word is as heavy as nine mountains, nothing can shake them, nothing can change them. One word given by the kings can change the fate of many people, and can cause an entire family to be killed. But it can bring glory to many others. Explain the idiom Words wrapped in gold
Hướng dẫn – Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: vai trò của lời khen trong cuộc sống. a) Giải thích – Lời khen: là lời ghi nhận, động viên, khích lệ tinh thẩn của người khác khi họ làm được điều gì đó tốt đẹp. – Mặt trời: tỏa ra ánh sáng tươi vui, ấm áp cho vạn vật, mang lại sự sống cho muôn loài. “Lời khen giống nhưmặt trời: bạn càng cho đi, mọi sự chung quanh bạn càng toà sáng”. Câu nói đã khẳng định vai trò quan trọng của lời khen trong cuộc sống – giúp cho mọi người cảm thấy hạnh phúc hơn và nỗ lực nhiều hơn. b) Phân tích vai trò của lời khen trong cuộc sống – Lời khen có tác dụng tiếp thêm sựtựtin, tự hào cho người khác, để họ biết họ đang đi đúng hướng và nên duy trì, tiếp tục. – Tăng sự hưng phấn, tiếp thêm động lực để người khác tiếp tục cố gắng và gặt hái nhiểu thành công hơn nữa. – Lời khen chứng tỏ việc làm của họ được quan tâm, được theo dõi. Họ sẽ cảm thấy hạnh phúc, thấy mình không đơn độc và muốn cố gắng nhiều hơn. – Nếu sự nỗ lực và thành quả không được ghi nhận và ghi nhận kịp thời, có thể làm người ta buồn tủi, nản chí, cảm thấy sự cố gắng của mình không có giá trị hoặc trở nên tự ti và dễ buông xuôi. (Học sinh lấy ví dụ cụ thể.) => Khuyến khích những lời động viên, khen ngợi kịp thời, đúng lúc, đúng người, đúng sự việc. c) Bàn bạc – Lời khen không được giả tạo, nếu không sẽ gây ra chứng “ảo tưởng”cho người được khen. Điều đó, khiến họ không tiến bộ được, thậm chí còn chủ quan, tự mãn dễ vấp ngã, thất bại. – Lời khen không chỉ dành cho người thành công mà còn cẩn cho những người dù chưa thành công nhưng đã có sựcố gắng và tiến bộ hơn chính họ của ngày hôm qua.
Instruct – Introduce the issue to be discussed: the role of praise in life. a) Explain – Compliment: is a word of recognition, encouragement, and spiritual encouragement of others when they do something good. – Sun: radiates cheerful, warm light to all things, bringing life to all creatures. “Praise is like the sun: the more you give it, the brighter everything around you shines.” The saying affirms the important role of compliments in life - helping people feel happier and put in more effort. b) Analyze the role of praise in life – Compliments have the effect of giving others confidence and pride, letting them know they are on the right track and should maintain and continue. – Increase excitement, motivate others to continue trying and achieve more success. – Compliments prove that their work is cared for and monitored. They will feel happy, see that they are not alone and want to try harder. – If efforts and achievements are not recognized and recognized promptly, it can make people sad, discouraged, feel their efforts are not valuable or become self-conscious and easily give up. (Students give specific examples.) => Encourage words of encouragement and praise promptly, at the right time, to the right person, to the right thing. c) Discussion – Compliments must not be fake, otherwise it will cause "delusion" for the person being praised. That makes them unable to progress, even subjective and complacent, easily stumbling and failing. – Praise is not only for successful people but also for those who, although not successful, have tried and made better progress than they did yesterday.
Hướng dẫn Giới thiệu tác giả:Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam ngay từ buổi đẩu. Giới thiệu tác phẩm: “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu đất nước thiết tha và những ước nguyện của nhà thơ. Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ đã cho đã tái hiện thành công không khí của một mùa xuân mới trên đất nước ta trong những ngày đầu hòa bình lập lại và khát vọng cống hiến rất chân thành, mãnh liệt của nhà thơ. Ba khổ thơ đã cho nằm ở giữa bài, sau những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời xứ Huế. Nếu sáu câu đầu của bài là mùa xuân của đất trời thì ở đoạn sau là mùa xuân của đất nước, của dân tộc, của lòng người. a) Không khí xuân tràn ngập khắp mọi nẻo đất nước. “Mùa xuân người câm súng Tất cả như xôn xao” Hai câu đầu khổ gợi liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận với cành lá ngụy trang. “Lộc dắt đầy quanh lưng”gợi màu xanh của sứcsống mới đang căng tràn trong mỗi sựvật và cả trong lòng người, trong sức trẻ. Hai câu tiếp là hình ảnh những người nông dân cần cù, chăm chỉ đang ươm mẩm cho sự sống trên những cánh đồng quê hương. Hai câu thơ gợi ra cái màu xanh non mơn mởn trải dài mênh mông trên mọi miền quê nước Việt. => Qua đó, tác giả đã khái quát được hai nhiệm vụ chính của nước ta thời kì mới: vừa “vững tay cày” – tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, vừa “chắc tay súng”- bảo vệ nền độc lập mới giành được. Đồng thời, tiếng thơ cũng bộc lộ tình yêu mến, tự hào về những con người đã góp phẩn quan trọng làm nên diện mạo đất nước: người lao động và người chiến sĩ. – “Tất cả như hối hả/Tất cả nhưxôn xao”:Điệp từ “tấtcả”cùng các từ láy tượng hình, tượng thanh đã tái hiện không khí hối hả, vội vã, khẩn trương, không ngừng nghỉ trên khắp đất nước. Cái náo nức, hồ hởi, sự hăm hở như căng tràn trong mỗi con người. b) Cảm nhận của nhà thơ về đất nước = > Đất nước được nhân hóa như một bà mẹ “vất vả và gian lao”- câu thơ như chứa đựng trong nó cả ngàn năm lịch sử dựng nước, giữ nước đẩy gian khổ, nhọc nhằn, đau thương của dân tộc ta. => Nhà thơ bộc lộ niểm tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng, trường tổn, bất diệt của đất nước qua hình ảnh so sánh “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”.Chữ” cứ” thật hay, thể hiện được những bước đi vững chãi, hiên ngang kiên cường của dân tộc. – Hình ảnh “đất nước”điệp lại hai lần cũng thể hiện niềm xúc động, tự hào và tình yêu nước của nhà thơ. Những ước nguyện chân thành, tha thiết được thể hiện qua điệp từ “ta làm”, cụm từ “ta nhập”và phép liệt kê: làm con chim nhỏ bé để cất tiếng hót vui, làm một cành hoa nhỏ xinh giữa vườn hoa xuân rực rỡ, vô tư dâng hương sắc cho đời, làm “một nốt trầm”dâng góp vào bản hòa ca của đất nước, của cuộc đời chung. Những hình ảnh đó thật tự nhiên, giản dị mà đẹp đẽ. Đó là những ước muốn khiêm nhường nhưng chứa đựng một lẽ sống lớn: sống có ích và cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. – Điệp từ “ta” (thay cho từ “tôi” như ở đẩu bài thơ) đã mang đến một thông điệp ý nghĩa cho tất cả mọi người: Mỗi chúng ta hãy cùng nhau làm một con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm nhỏ bé để cất lên bản tình ca chung – cuộc đời. d) Nghệ thuật Thể thơ năm chữ gần với những làn điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần chân tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. Hình ảnh tự nhiên, giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng (“cành hoa”, “con chim”, nốt trầm”). Câu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời -> đất nước -> con người. Giọng thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đẩu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân, thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước, cuối cùng là trắm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch tâm niệm.
Instruct About the author: Thanh Hai's birth name is Pham Ba Ngoan, from Phong Dien district, Thua Thien Hue province. He is one of the writers who contributed to building revolutionary literature in the South right from the beginning. Introduction to the work: "Little Spring" was written in November 1980, not long before the poet's death, expressing the poet's love for life, his passionate love for his country and his wishes. Introducing the excerpt: The poem is given Successfully recreates the atmosphere of a new spring in our country in the early days of peace and the poet's very sincere and strong desire to contribute. The three given stanzas are located in the middle of the poem, following the poet's feelings before the spring of nature, the land and sky of Hue. If the first six sentences of the article are the spring of heaven and earth, then the following paragraphs are the spring of the country, the nation, and the hearts of people. a) Spring air pervades every corner of the country. “In the spring, people silence their guns Everything is like a stir" The first two stanzas evoke thoughts of soldiers going into battle with branches and leaves as camouflage. "Luck is full around the back" evokes the green color of new life that is overflowing in every thing and even in people's hearts, in youth. The next two sentences are images of diligent, hard-working farmers cultivating life in the fields of their homeland. The two verses evoke the lush green color that stretches across the vast countryside of Vietnam. => Through that, the author has summarized the two main tasks of our country in the new era: both "steady on the plow" - increasing production and economic development, and "steady on the gun" - protecting the country's independence. just won. At the same time, poetry also reveals love and pride for the people who have made important contributions to the country's appearance: workers and soldiers. – "Everything seems to be in a hurry/Everything is like a stir": The refrain "all" along with figurative and onomatopoeic words recreates the bustling, hasty, urgent, and non-stop atmosphere across the country. The excitement, excitement, and eagerness seem to overflow in every person. b) The poet's feelings about the country = > The country is personified as a "hard and arduous" mother - the poem seems to contain within it thousands of years of history of building the country, maintaining the country, pushing the hardships, hardships, and pain of our nation. => The poet expressed his belief and pride in the country's bright, long-lasting, eternal future through the comparison image "The country is like a star/ Keep moving forward". The word "keep" is true. Or, showing the steadfast, resilient steps of the nation. – The image of "country" repeated twice also shows the poet's emotion, pride and patriotism. Sincere, earnest wishes are expressed through the words "I do", the phrase "I enter" and enumeration: to be a small bird to sing happily, to be a beautiful little flower in the middle of a flower garden. Brilliant spring, carefree offering fragrance to life, making "a deep note" to contribute to the harmony of the country and of common life. Those images are natural, simple but beautiful. These are humble desires but contain a great reason for life: living usefully and contributing to life is a natural thing. – The refrain "I" (instead of the word "I" as at the beginning of the poem) brings a meaningful message to everyone: Let each of us work together to be a singing bird, a flower, a A small low note to sing a common love song - life. d) Art The five-word poetic form is close to folk melodies, the sound is clear, gentle, earnest, the rhythm of the poem is like the rhythm of the soul, the rhyme scheme creates a seamless flow of emotions. Natural, simple images that are rich in symbolic meaning ("flower branch", "bird", deep note"). The four verses of the poem are tight, mainly based on the development of the image of spring: from spring, earth and sky -> country -> people. The poetic voice matches the author's feelings: the first part is happy, intoxicated with the beauty of spring and nature, then excited and bustling with the working spirit of the country, and finally quiet and a bit solemn. Seriously but earnestly expressing his thoughts.
Hướng dẫn Giới thiệu tác giả: Kim Lân là một trong những cây bút hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, có sở trường về truyện ngắn, ông am hiểu về đời sống sinh hoạt của người nông dân và được mệnh danh là người “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy nông thôn”. Giới thiệu tác phẩm: Truyện “Làng” được viết trong thời kì đẩu của cuộc kháng chiến chổng Pháp, đăng lẩn đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948; là một trong những truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Truyện xây d ựng thành công nhân vật ông Hai, một nông dân cẩn cù, chất phác, có lòng yêu làng, yêu nước thủy chung, son sắt – điểu đó thể hiện rõ nét nhất qua diễn biến tâm trạng nhân vật từ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc đến khi tin được cải chính. a. Tóm tắt tác phẩm và nêu tình huống truyện -Truyện kể về ông Hai – người nông dân yêu làng tha thiết nhưng phải đi tản cư. Ngày ngày ông đều chăm chỉ nghe đọc báo trên đài phát thanh để nắm bắt thông tin về làng của mình. Nhưng thật không may, ông phải đối diện với thông tin làng mình theo giặc nên vô cùng đau khổ, tủi nhục, xấu hổ, sợ hãi. b. Diễn biến tâm trạng của ông Hai * Khi nghe tin làng mình theo giặc: Cổ ông nghẹn, da mặt tê rân rân, giọng lạc hẳn đi. Lúc đầu ông không tin nên hỏi lại. Ông quá xấu hổ nên đã chép miệng, đánh trống lảng: “Hà, nắng gớm, về nào…” rổi cúi mặt mà đi. Khi về nhà, ông nằm vật ra giường. Tối hôm đó ông trằn trọc không ngủ được. Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rổi khóc. Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thẩn cả nên Ông vẫn không tin lại có ai làm điểu nhục nhã ấy. Lo sợ sẽ bị bà chủ nhà sẽ đuổi vì ông biết rằng nơi đây ai cũng khinh bỉ và không chứa chấp Việt gian. Đấu tranh tư tưởng: đi đâu hay về làng? Rồi chính ông kiên quyết không về “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rỗi thì phải thù”. – Ông đối thoại với đứa con trai út, cũng là nói với chính mình: “Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông. Anh em đồng chí soi xét cho bố con ông” quyết tâm đến cùng “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. => Với ông Hai, tin làng Chợ Dầu theo giặc là một cú “sốc” lớn. Niềm tự hào về làng của ông sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay đả quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như đã chết đi rồi. * Khi nghe tin làng được cải chính: – Mặt ông vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. -Về nhà, ông chia quà cho lũ trẻ xong liền chạy khắp xóm để loan tin. Ông qua nhà bác Thứ và kể chuyện về làng của mình, tự hào khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác Thứ ạ! Đốt nhẵn!”. Định nuôi lợn để ăn mừng. Ông nh được hồi sinh: lại nhanh nhẹn, sôi nổi, thích nói chuyện với mọi người xung quanh. => Ông Hai như người chết đi được sống lại, sung sướng, hạnh phúc vô bờ. c. Nhận xét Nhân vật ông Hai đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng nồng nàn, thấm thiết. Những tình cảm ấy hài hòa, thống nhất, hòa quyện vào nhau, thật cảm động. Điểu này cho thấy những chuyển biến mới trong nhận thức và tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Nghệ thuật: + Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ. + Tạo dựng tình huống đặc sắc; ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.
Instruct About the author: Kim Lan is one of the typical realistic writers of Vietnamese literature, with a knack for short stories, he understands the daily life of farmers and is known as the "" wholeheartedly return to the land, to the people, and to the pure, primitive countryside." Introduction to the work: The story "The Village" was written during the early period of the resistance war against the French, first published in Van Nghe magazine in 1948; is one of Kim Lan's most successful short stories. Introducing the issue to be discussed: The story successfully builds the character of Mr. Hai, a diligent, simple farmer who loves his village, loves his country, and is loyal and loyal - that is shown most clearly through the acting. The character's mood changes from the moment he hears the news that Cho Dau village has joined the enemy until the news is corrected. a. Summarize the work and state the story situation -The story is about Mr. Hai - a farmer who loved his village dearly but had to evacuate. Every day he diligently listens to newspapers on the radio to get information about his village. But unfortunately, he had to face the news that his village had joined the enemy, so he was extremely miserable, humiliated, ashamed, and afraid. b. Evolution of Mr. Hai's mood * When I heard that my village had joined the enemy: His throat was tight, his face was numb, his voice was lost. At first he didn't believe it so he asked again. He was so embarrassed that he smacked his lips and deflected: "Ha, the sun is terrible, let's go home..." then bowed his head and left. When he got home, he lay down on the bed. That night he couldn't sleep. He looked at the innocent children who were labeled as Vietnamese and cried. He reviewed everyone in the village but found that everyone had the same spirit He still couldn't believe that anyone would do such a humiliating thing. He was afraid that the landlady would evict him because he knew that everyone here despised and did not tolerate Vietnamese traitors. Ideological struggle: where to go or go back to the village? Then he himself was determined not to return, "The village is truly loved, but the village that follows the West must hate it if it loses its fortunes." - He was talking to his youngest son, also talking to himself: "Uncle Ho is looking out for you and your father. Comrades, we look after him and his son" and are determined to "support Ho Chi Minh". => For Mr. Hai, the news that Cho Dau village had joined the enemy was a big "shock". His pride in his village collapsed before that thunderous news. The thing he loved most had now turned its back on him. Not only was he embarrassed in front of his relatives, but he also felt like he had lost his own happiness, and his life seemed to be dead. * When hearing news that the village has been rectified: – His face was cheerful and radiant. -When he got home, he distributed the gifts to the children and immediately ran throughout the neighborhood to spread the news. He went to Uncle Thu's house and told stories about his village, proudly boasting, "The West burned my house, Uncle Thu! Burn smoothly!”. Planning to raise pigs to celebrate. He was revived: agile, lively, and liked to talk to everyone around him. => Mr. Hai is like a dead person who comes back to life, happy and boundless happiness. c. Comment The character Mr. Hai left a deep impression in the hearts of readers because of his passionate and profound love for the village, patriotism, and revolution. Those feelings are harmonious, unified, intertwined, and very touching. This shows new changes in the awareness and emotions of Vietnamese farmers during the resistance war against the French. Art: + Simple, natural storytelling, oral language. + Create unique situations; sharp psychological analysis pen.
Hướng dẫn Giới thiệu về tác giả: Nguyễn Thành Long (1925-1991), quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam. ông viết văn từthời kì kháng chiến chống Pháp, là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Thành công trong sáng tác của Nguyễn Thành Long không phải ở khai thác tình huống dữ dội mà là sự nhẹ nhàng, trong trẻo, thấm đẫm chất trữ tình. Giới thiệu tác phẩm: “Lặng lẽ Sa Pa” sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Lào Cai, in trong tập “Giữa trong xanh” (1972), là một trong những tác phẩm thành công của ông. Giới thiệu nhân vật: Truyện xây dựng thành công nhân vật anh thanh niên với những vẻ đẹp tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước Công việc và hoàn cảnh sống Anh sống và làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn, quanh năm làm bạn với cỏ cây, mây mù lạnh lẽo. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cẩu. Cụ thể là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết. Xung quanh anh chỉ là máy móc và cây rừng. Anh có bốn ca: 4 giờ, 11 giờ, 7 giờ tối, 1 giờ sáng.Tính chất công việc là đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác; điểu kiện làm việc vô cùng khấc nghiệt, thường là giữa đêm tối, lúc còn tờ mờ sáng, lại có mưa gió, bão tuyết. Khó khăn lớn nhất anh phải đối diện là nỗi cô đơn vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao. Anh thèm người đến độ có khi phải tự lăn cây ra chắn giữa đường để xe dừng lại, để được gặp mọi người một lát rồi lại tiếp tục công việc. => Sự lựa chọn công việc, nơi làm việc đã hé mở ở anh thanh niên nhiều điều đặc biệt, thú vị, nhất là nghị lực và ý chí vượt khó. – Đó là một thanh niên có lí tưởng sống rất đẹp và giàu nghị lực. Anh quan niệm sống là cống hiến. Anh có ý thức về công việc, yêu nghề và thấy được ý nghĩa cao quý trong công việc: yên tâm với nghể khi biết mình đã đóng góp phẩn phát hiện kịp thời một đám mây khô nhờ đó “không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”; suy nghĩ: “ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”. – Anh có cuộc sống lành mạnh, khoa học, một lối sống đẹp: + Tuỵ ở một mình nhưng căn nhà của anh luôn ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ: căn nhà ba gian, chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách. + Anh trồng hoa, nào hoa dơn, thược dược rực rỡ sắc màu, khiến nơi anh ở đẹp đẽ, thơ mộng hơn. + Anh thích đọc sách, coi sách là người bạn thân thiết. Lúc nào anh cũng có người trò chuyện, đó là sách. Sách với anh không chỉ là niềm vui, là người thân mà còn là một người thầy. + Anh còn chăm chỉ nuôi gà – luôn biết tạo thêm niềm vui trong cuộc sống, cũng thể hiện tình yêu lao động trong anh. + Anh thích giao lưu, gặp gỡ đến mức thèm người. – Một người hiếu khách, cởi mở, chân tình: + Với ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ mới gặp lẩn đầu: anh hiếu khách, vui mừng, ân cẩn mời hai người lên nhà, cắt hoa tặng cô gái, dẫn khách đi thăm vườn khí tượng, giới thiệu các loại máy móc, kể công việc hàng ngày của mình, pha trà ngon đãi khách, giãi bày tâm sựtự nhiên, chân thành. Đến khi chia tay, anh xúc động đến nỗi phải quay mặt đi và không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”, và có lẽ để che giấu cái e ấp, xao xuyến, bâng khuâng của hai người con gái con trai mới gặp nhau đột ngột, quý mến nhau rồi chia tay nhau ngay, bởi biết là không bao giờ gặp nhau nữa. + Với bác tài xế xe khách: có tình cảm thân thiết, chuyến nào chạy lên, bác đểu ghé lại trạm khí tượng để người thanh niên gặp gỡ, trò chuyện; anh tìm và tặng củ tam thất cho vợ bác lái xe đang bị ốm. – Anh khiêm tốn, thành thật: Trong suy nghĩ, anh luôn cho rằng những đóng góp của mình là nhỏ bé. Anh có ba mươi phút để nói chuyện nhưng chỉ nói về mình trong năm phút. Khi ông họa sĩ muốn vẽ bức chân dung về những con người có đóng góp, anh lại giới thiệu những người khác, đó là anh kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày chỉ biết trong vườn su hào rình xem cách bướm thụ phấn, lấy phấn; người có công làm cho củ su hào miền Bắc nước ta to hơn, ngọt hơn trước; rồi cả đồng chí khoa học lúc nào cũng trong tư thế chờ sét. Anh kể về những đồng nghiệp của mình với thái độ say sưa. Anh làm cho những người tiếp xúc với mình cảm thấy khâm phục: ông họa sĩ thấy “Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quớ”. Nhọc là vì ông không biết làm thế nào để vẽ hết cái hôn của người thanh niên vào bức chân dung của mình. Còn cô kĩ SƯ cảm thấy bàng hoàng, làm cô hiểu thêm về cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới của những người mà anh kể và về cả con đường cô đang đi tới. -Tạo tình huống gặp gỡ bất ngờ, thú vị. Miêu tả nhân vật từ các góc nhìn, qua cảm nhận của những nhân vật khác nhau như bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ tạo sự khách quan, chân thực. Nhân vật bộc lộ tính cách qua cử chỉ, hành động, đối thoại – Lời văn giản dị, tinh tế. Miêu tả nhân vật không có tên tuổi, lai lịch rõ ràng, nhà văn dường như muốn xây dựng một biểu tượng về con người mới của xã hội chủ nghĩa, có lí tưởng đẹp, giàu nghị lực, tinh thẩn trách nhiệm với công việc, tình yêu lao động, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước; từ đó truyền cảm hứng lao động, cống hiến và tiếp thêm niềm tin yêu cuộc sống cho thế hệ trẻ Việt Nam. Rút ra bài học cho bản thân:
Instruct About the author: Nguyen Thanh Long (1925-1991), native of Duy Xuyen, Quang Nam. He has been writing since the resistance war against the French, and is a writer specializing in writing short stories and memoirs. The success of Nguyen Thanh Long's compositions is not in exploiting intense situations but in lightness, clarity, and lyricism. Introducing the work: "Quiet Sa Pa" composed in 1970, during the author's field trip in Lao Cai, published in the collection "In the middle of the blue" (1972), is one of his successful works. . Character introduction: The story successfully builds a young man with typical beauty of the young generation of Vietnam in the process of building the country. Work and living situation He lives and works alone on the top of Yen Son, all year round making friends with trees, plants, and cold clouds. He works in meteorology and geophysics. Specifically, wind measurement, rain measurement, sunshine measurement, cloud calculation, ground vibration measurement, and weather forecasting. Around him are only machines and forest trees. He has four shifts: 4:00, 11:00, 7:00 pm, 1:00 am. The nature of the work requires meticulousness and accuracy; Working conditions are extremely harsh, often in the middle of the night, in the early morning, with rain, wind, and snowstorms. The biggest difficulty he had to face was loneliness, being alone all year round on the top of a high mountain. He craved people so much that he sometimes had to roll a tree out in the middle of the road to stop the car, to meet everyone for a while and then continue working. => The choice of job and workplace has revealed many special and interesting things in the young man, especially his willpower and will to overcome difficulties. – He is a young man with a very beautiful and energetic ideal of life. He believes that life is dedication. He is conscious of his work, loves his job and sees the noble meaning in his work: he feels secure in his job knowing that he has contributed to the timely discovery of a dry cloud, thanks to which "our air force was able to bring down many people." American jets on Ham Rong Bridge"; thinking: "You and work are a couple, how can you call yourself alone?" – He has a healthy, scientific life, a beautiful lifestyle: + Tuy lives alone, but his house is always neat, tidy, and clean: a three-room house, a child's bed, a desk, a bookshelf. + He grows flowers, colorful dahlias and dahlias, making the place where he lives more beautiful and poetic. + He likes reading books, considers books a close friend. He always has someone to talk to, it's books. Books for him are not only a joy and a relative, but also a teacher. + He also works hard at raising chickens - always knows how to create more joy in life, which also shows his love of work. + He likes to interact and meet people to the point of craving people. – A hospitable, open, sincere person: + With the artist and the young engineer who had just met for the first time: he was hospitable, happy, and thoughtfully invited them to his house, cut flowers for the girl, took them to visit the meteorological garden, and introduced the machines. , telling his daily work, making delicious tea for guests, confiding naturally and sincerely. When it was time to say goodbye, he was so emotional that he had to turn away and did not dare to see the guests to the car even though it was not yet time for the meeting, and perhaps to hide the shyness, anxiety, and hesitation of the two daughters. The boys met suddenly, fell in love with each other and then broke up immediately, because they knew they would never see each other again. + With the bus driver: there is a close relationship, on every trip, he stops at the meteorological station so the young man can meet and chat; He found and gave Panax notoginseng roots to the driver's wife who was sick. – He is humble and honest: In his mind, he always thinks that his contributions are small. He had thirty minutes to talk but only talked about himself for five minutes. When the artist wanted to paint portraits of people who contributed, he introduced others, that is, the vegetable garden engineer in Sa Pa who only spent his days in the kohlrabi garden watching how butterflies pollinate, take chalk; The person who made the northern kohlrabi tubers of our country bigger and sweeter than before; And even the scientific comrades are always waiting for lightning. He spoke passionately about his colleagues. He made those who came into contact with him feel admiration: the artist felt, "That boy is really lovely, but makes him work hard." It was difficult because he didn't know how to fully depict the young man's kiss in his portrait. The engineer felt shocked, making her understand more about the young man's beautiful and courageous life alone, about the world of the people he told about and about the path she was on. -Create unexpected and interesting meeting situations. Describing characters from different perspectives, through the feelings of different characters such as the driver, the artist, and the young engineer creates objectivity and authenticity. Characters reveal their personalities through gestures, actions, and dialogue – The writing is simple and sophisticated. Describing a nameless character with a clear background, the writer seems to want to build a symbol of a new socialist person, with beautiful ideals, rich in energy, and a sense of responsibility towards work. , love of work, love of life, love of homeland; thereby inspiring labor, dedication and adding faith and love for life to the young generation of Vietnam. Learn lessons for yourself:
Hướng dẫn – Nêu vấn đề cần nghị luận: tính trung thực.2. Thân Bài a) Giải thích – Trung thực là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật. b) Những biểu hiện của tính trung thực -Trong cuộc sống: thẳng thắn nhận lỗi khi mắc lỗi; không báo cáo sai sự thật; không tham lam lấy của người khác làm của mình ; sản xuất kinh doanh sản phẩm có chất lượng, đúng giá, không làm giả, làm hại đến người tiêu dùng,… – Trong học hành, thi cử: không quay cóp, chép bài của bạn; không mở tài liệu khi làm bài thi, bài kiểm tra; không chạy điểm; không dùng bằng giả Vì sao chúng ta cần có tính trung thực? Đó là một phẩm chất tốt đẹp, khiến mọi người yêu mến, tôn trọng. Học thật, thi thật giúp ta có kiến thức thật, không ảo tưởng về bản thân; từ đó có nển tảng tốt để thành công trong cuộc sống. Trung thực trong kinh doanh, dịch vụ sẽ tạo dựng được uy tín và có được niềm tin của khách hàng, mang lại hiệu quả cao. Trung thực sẽ làm nên một xã hội trong sạch, văn minh, ngày càng phát triển. Dám trung thực với cái sai, cái yếu kém của mình sẽ tiến bộ, hoàn thiện bản thân hơn. * Nếu chúng ta đều gian lận… Mọi giá trị trong xã hội sẽ bị đảo lộn, gây mất niềm tin, hoang mang trong xã hội. Làm giả, làm láo khiến chất lượng cuộc sống con người giảm sút, gây ảnh hưởng nặng nể. Ví dụ: thực phẩm bẩn gây ung thư, báo cáo sai làm thất thoát tiền bạc của nhà nước,… Không trung thực sẽ không có niềm tin và sự tôn trọng của mọi người. Thiếu trung thực trở thành căn bệnh lây lan nhanh, làm xuống cấp đạo đức xã hội Bàn luận Cần nêu cao ý nghĩa của tính trung thực, phê phán những hành vi gian lận giả dối.
Instruct – State the issue that needs to be discussed: honesty.2. Body Post a) Explain – Honesty is being upright, honest, telling the truth, not distorting the truth. b) Expressions of honesty -In life: frankly admit mistakes when you make mistakes; do not make false reports; Don't be greedy and take other people's things as your own; Producing and trading quality products, at the right price, without counterfeiting or harming consumers,... – In studying and taking exams: do not plagiarize or copy your classmates' papers; Do not open documents when taking exams or tests; do not run points; Do not use fake degrees Why do we need honesty? It is a good quality that makes people love and respect you. Real learning and real testing help us have real knowledge, without illusions about ourselves; From there, you will have a good foundation for success in life. Honesty in business and services will build reputation and gain customer trust, bringing high efficiency. Honesty will create a clean, civilized, and increasingly developed society. Dare to be honest with your mistakes and weaknesses, you will progress and improve yourself. * If we all cheat… All values ​​in society will be turned upside down, causing loss of trust and confusion in society. Counterfeiting and lying cause the quality of people's lives to decrease, causing serious impacts. For example: dirty food causes cancer, false reporting causes loss of state money, etc. Being dishonest will not have people's trust and respect. Dishonesty becomes a fast-spreading disease, degrading social morality Discuss It is necessary to uphold the meaning of honesty and criticize fraudulent acts.
Hướng dẫn Thực chất, đây vẫn là một bài nghị luận xã hội nhưng được thể hiện dưới dạng tự sự. Để làm được để này, các em cần hiểu rõ thực trạng của biển nước ta, nguyên nhân của thực trạng đó, các giải pháp liên quan là gì. Bài viết có thể chọn một trong các vấn đề dưới đây: Tiếng kêu cứu của biển trước tình trạng bị ô nhiễm nặng nề. Mong ước nâng cao, cải thiện nhận thức và ý thức của người dân khi khai thác tài nguyên biển. Mong ước phát triển du lịch gắn liền với bảo vệ cảnh quan, môi trường biển. Tinh trạng bị lấn chiếm chủ quyển trên biển và tiếng kêu khẩn thiết muốn được bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Với mỗi vấn đề, cần trả lời được những càu hỏi sau: vấn đề đó đang diễn ra nhưthế nào (quy mô, tính chất, mức độ, tần suất,…)?. Mong ước của biển là gì? Vì sao biển có mong ước đó? Những giải pháp cụ thể được để xuất là gì? Mời em tham khảo những ý chính cho vấn đề thứnhất nêu trên! “Tiếng kêu cứu của biển trước tình trạng bị ô nhiễm nặng nề” Biển có vai trò quan trọng đối với môi trường, đời sống con người, sự phát triển kinh tế – chính trị của nước ta. Biển cho ta hải sản, những mỏ dầu,… để nuôi sống con người và phát triển công nghiệp; cho những bãi cát dài và đẹp để thu hút khách du lịch; biển là cửa ngõ giao lưu với nước ngoài,… Tuy nhiên, biển nước ta đang bị ô nhiễm nặng nề: Tài nguyên biển đang dẩn hao cạn, nhiều loài động vật biển dần biến mất. Hiện tượng cá chết xảy ra ở nhiểu nơi. Tràn dầu trên biển ngày càng gia tăng. Xảy ra hiện tượng sạt lở bờ biển. Hằng năm, bão lũ tăng và cường độ ngày càng lớn. Nguyên nhân Do sự khai thác quá mức của con người nên dẫn tới tình trạng cạn kiệt tài nguyên biển. Do ýthức của người dân cũng nhưcác doanh nghiệp chưa cao:xả rácthải sinh hoạt và rác thải công nghiệp ra biển một cách bừa bãi. Do sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Mong ước của biển: bảo vệ mỏi trường biển, tài nguyên biển. Giải pháp Có chiến lược khai thác tài nguyên biển hợp lí, khai thác đi liền với bảo vệ, nuôi trồng, không làm phá vỡ cảnh quan tự nhiên. Giáo dục, tuyên truyền làm nâng cao ý thức của người dân trong việc giữ vệsinh môi trường biển: không vứt rác bừa bãi.
Instruct In essence, this is still a social commentary but expressed in narrative form. To do this, you need to clearly understand the current situation of our country's sea, the causes of that situation, and what the related solutions are. The article can choose one of the following issues: The sea's cry for help in the face of severe pollution. Desire to raise and improve people's awareness and awareness when exploiting marine resources. The desire to develop tourism is associated with protecting the landscape and marine environment. The situation of encroachment of sovereignty at sea and the urgent cry for territorial integrity to be protected. For each problem, it is necessary to answer the following questions: How is that problem happening (scale, nature, level, frequency,...)?. What is the sea's wish? Why does the sea have that wish? What are the specific solutions proposed? Please refer to the main ideas for the first issue mentioned above! “The sea's cry for help in the face of severe pollution” The sea plays an important role in the environment, human life, and the economic and political development of our country. The sea gives us seafood, oil fields,... to feed people and develop industry; for long and beautiful sandy beaches to attract tourists; The sea is the gateway to exchange with foreign countries,... However, our country's sea is heavily polluted: Marine resources are being depleted, many marine animal species are gradually disappearing. Fish deaths occur in many places. Oil spills at sea are increasing. Coastal erosion occurs. Every year, storms and floods increase and become more and more intense. Reason Due to overexploitation by humans, it has led to the depletion of marine resources. Because the awareness of people and businesses is not high: they discharge household waste and industrial waste into the sea indiscriminately. Due to global climate change. The wish of the sea: protecting the marine environment and marine resources. Solution Have a reasonable strategy for exploiting marine resources, combining exploitation with protection and farming, without destroying the natural landscape. Education and propaganda raise people's awareness of keeping the marine environment clean: do not throw trash indiscriminately.
Hướng dẫn Giới thiệu tác giả:Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, trong đó, tiêu biểu nhất là “Truyện Kiều”. Giới thiệu tác phẩm:”Truyện Kiều”(tên gọi khác là “Đoạn trường tân thanh” – tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột) là một truyện thơ Nôm gồm 3254 câu lục bát, được sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết “Kim Vân Kiểu truyện”của Thanh TâmTài Nhân – Trung Quốc. “Truyện Kiều”gồm ba phẩn {Gặp gỡ và đính ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ),kể về cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều, qua đó, bộc lộ cái nhìn thương cảm của nhà thơ trước những kiếp người bạc mệnh. Bởi có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, đồng thời là đỉnh cao của ngôn ngữ thơ ca dân tộc, “Truyện Kiều” xứng đáng là kiệt tác sốmột của nền văn học Việt Nam. Giới thiệu đoạn trích:Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”thuộc phẩn đầu – Gặp gỡ và đính ước, là bức chân dung của Thúy Vân, Thúy Kiều; qua đó, cho ta thấy tài năng xây dựng và khắc họa nhân vật của Nguyễn Du. Đoạn trích có thể chia làm 4 phẩn: +Phần 1 (4 câu đầu): Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều. +Phẩn 2 (4 câu tiếp): Chân dungThúyVân. +Phắn 3(12 câu tiếp): Chân dung Thúy Kiều. +Phần 4 (còn lại): Bình luận chung về hai nhân vật. Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (4 câu đầu) Nguyễn Du đã giới thiệu chị em Thúy Kiều là hai cô con gái đầu lòng của gia đình họ Vương, Kiều là chị, Vân là em. Tác giả sử dụng hình ảnh ước lệ cổ điển để miêu tả vẻ đẹp của hai cô gái: +”Hai ả tố nga”:hai người con gái rất đẹp. +”Mai cốt cách”:có cốt cách thanh thoát, tao nhã như mai. +”Tuyết tinh thán”:có phong thái tinh thẩn thanh sạch, trắng trong. Qua đó, người đọc dễ dàng hình dung và cảm nhận được vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng của hai cô. Nhưng mỗi người đều có vẻ đẹp riêng và đều đẹp vẹn toàn: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.Lời giới thiệu rất ngắn gọn nhưng đã mang đến cho người đọc nhiều thông tin phong phú và còn mang đến những ấn tượng đậm nét nhất về vẻ đẹp của hai cô gái. => Có thể nói, dù mới giới thiệu khái quát nhưng cảm hứng ngợi ca tài năng và nhan sắc con người đã tràn trề trong câu chữ của Nguyễn Du. Chân dung Thúy Vân (4 câu tiếp) Thúy Vân được miêu tả trước hết là phong thái “trang trọng khác vời” -vẻ ung dung, cao sang, quý phái hiếm gặp ở người khác. Tác giả dùng bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của tự nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của nàng +”Khuôn trăng đầy đặn”:gương mặt sáng như trăng rằm. +”Nétngài nở nang”:nét lông mày cong đẹp. +”Hoa cười”:cười tươi như hoa. +”Ngọc thốt”:giọng nói trong như ngọc. +Mái tóc óng ả hơn mây. +Làn da trắng mịn màng hơn tuyết. * Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài tình, làm toát lên vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, thùy mị, đoan trang, phúc hậu vẹn toàn của Thúy Vân, một vẻ đẹp phù hợp với chuẩn mực của xã hội phong kiến, thậm chí khiến thiên nhiên phải “thua”, “nhường”.Hai động từ này cho thấy thiên nhiên ưu ái, bao bọc, nâng đỡ cho Thúy Vân biết bao, ngẩm báo trước một tương lai êm đềm, bình lặng, không sóng gió. Chân dungThúy Kiều (12 câu tiếp) Kiều là nhân vật chính nhưng Nguyễn Du không miêu tả nàng trước mà tả Vân trước để làm đòn bẩy, tô đậm thêm nét đẹp của nàng. -Trước tiên là sự so sánh trực tiếp: nàng”sắcsảo”về tính cách, “mặnmà”vềtâm hồn hơn Vân và tài sắc cũng đểu hơn cả. Vân đã đẹp hoàn mĩ, Kiều lại càng đẹp hơn – xứng đáng là bậc giai nhân tuyệt thế. Chân dung Thúy Kiều: Nguyễn Du tập trung miêu tả kĩ gương mặt của nàng bằng hình ảnh ước lệ, ẩn dụ”làn thu thủy”(mắt trong trẻo, sâu thẳm như nước mùa thu), “nét xuân sơn”(lông mày mượt mà, tươi tắn, thanh thanh như dáng núi mùa xuân), gợi ấn tượng về thế giới tâm hồn phong phú, sâu sắc, sắc sảo, linh hoạt, đa sầu đa cảm của nhân vật. =>Vẻ đẹp của nàng khiến tạo hóa phải”hoa ghen”, “liễu hờn”.Đây là những từ ngữ thể hiện tâm lí oán trách, sự ghen ghét đố kị của tạo hóa, báo trước một tương lai đầy sóng gió đang chờ đợi người con gái tài sắc này. Kiều còn là cô gái tài hoa, trí tuệ vào bậc nhất nhì trong thiên hạ: “Sác đành đòi một, tài đành họa hai”.Nàng vừa thông minh, sắc sảo vừa có tài đủ cả “câm, kì, thi, họa”,trong đó tài đàn được tác giả viết rất kĩ, bằng cả bốn câu thơ. Nàng chơi đàn hay, tự mình sáng tác khúc nhạc khiến người nghe xúc động: “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. =>Ngòi bút của Nguyễn Du đả rất ưu ái khi miêu tả chân dung Thúy Kiều. Ở nàng hội tụ cả ba yếu tố: tài – sắc – tình nhưng cuộc đời chứa đầy những dự cảm không an vui, tiêu biểu cho sốphận của người phụ nữ “hồng nhan bạc phận”. Vì vậy trong “Truyện Kiều”Nguyễn Du đã hơn một lần thốt lên “Trờixanh quen thói má hồngđánh ghen”. Và sau này Tố Hữu cũng xót xa cho cuộc đời nàng mà viết: “Chạnh thương cô Kiều nhưđời dân tộc Sác tài sao mà lắm truân chuyên” Lời bình luận chung về hai nhân vật (4 câu cuối)về gia cảnh, họ sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung lưu, nềnếp. Cuộc sống của hai chị em êm đềm, bình lặng, chưa từng va vấp, chưa từng phải đối mặt với những sóng gió của cuộc đời. Họ được che chở, yêu thương. Cả hai đểu đến tuổi búi tóc, cài trâm nhưng họ chưa từng biết đến chuyện nam nữ. Họ vẫn là những thiếu nữcó tâm hổn trong sáng, sống đúng với khuôn phép, đức hạnh của lễ giáo phong kiến: “Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Đặc sắc nghệ thuật… – Đoạn trích khắc họa một cách sinh động chân dungThúy Vân,Thúy Kiều. Qua đó, Nguyễn Du đã thể hiện được tài năng miêu tả nhân vật độc đáo. + Cách miêu tả nhân vật chủ yếu bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy
Instruct Author introduction: Nguyen Du is a great poet of the Vietnamese people, a world cultural celebrity, he left behind a huge literary career, of which the most typical is "The Tale of Kieu". Introduction to the work: "The Tale of Kieu" (another name is "Doan Truong Tan Thanh" - a new cry about gut-wrenching pain) is a Nom poem consisting of 3,254 six-eight verses, composed based on the plot of the novel. Theory of "The Story of Kim Van" by Thanh TamTai Nhan - China. “The Tale of Kieu” consists of three parts {Meeting and engagement; Family transformation and wandering; Reunited), tells the story of Kieu's troubled life, thereby revealing the poet's sympathetic look at the unfortunate lives of people. Because it has profound realistic and humanitarian value, and is the pinnacle of the national poetic language, "The Tale of Kieu" deserves to be the number one masterpiece of Vietnamese literature. Introducing the excerpt: The excerpt "Thuy Kieu Sisters" belongs to the first part - Meeting and engagement, is a portrait of Thuy Van and Thuy Kieu; Thereby, showing us Nguyen Du's talent for building and portraying characters. The excerpt can be divided into 4 parts: +Part 1 (first 4 sentences): General introduction about the two sisters Thuy Kieu. +Part 2 (4 more sentences): Portrait of ThuyVan. +Part 3 (12 more sentences): Portrait of Thuy Kieu. +Part 4 (remaining): General comments about the two characters. General introduction about the two sisters Thuy Kieu (first 4 sentences) Nguyen Du introduced Thuy Kieu sisters as the first two daughters of the Vuong family, Kieu is the older sister, Van is the younger. The author uses classical conventional images to describe the beauty of the two girls: +"Two girls": two very beautiful girls. +"Mai bone style": has a graceful and elegant bone style like a plum. + "Snow Star": has a pure, pure white spirit. Through that, readers can easily imagine and feel the pure and gentle beauty of the two girls. But each person has their own beauty and is completely beautiful: "Each person has a unique look." The introduction is very brief but gives the reader a lot of rich information and also gives impressions. The beauty of the two girls is boldest. => It can be said that, although it is only a general introduction, the inspiration to praise human talent and beauty is overflowing in Nguyen Du's words. Portrait of Thuy Van (4 more sentences) Thuy Van is described first of all as having an "unusually solemn" style - a leisurely, noble, and noble look that is rarely seen in others. The author uses symbolic conventional writing, using the beauty of nature as a measure of her beauty +"Full moon face": face as bright as the full moon. + "Beautiful features": beautiful curved eyebrows. +"Smiling flower": smile as bright as a flower. +"Pearl": clear voice like jade. +Hair more shiny than clouds. +Skin whiter and smoother than snow. * Each verse is a skillful drawing, exuding the gentle, loving, modest, dignified, and good-natured beauty of Thuy Van, a beauty consistent with the standards of feudal society. Even causing nature to "lose" and "give in". These two verbs show how much nature favors, covers, and supports Thuy Van, implicitly foreshadowing a peaceful, calm, wave-free future. wind. Portrait of Thuy Kieu (continued 12 sentences) Kieu is the main character, but Nguyen Du does not describe her first, but describes Van first to use as leverage and highlight her beauty. -First of all, there is a direct comparison: she is "sharper" in personality, "more passionate" in soul than Van, and also has the worst talent. Van is already flawlessly beautiful, Kieu is even more beautiful - worthy of being a peerless beauty. Portrait of Thuy Kieu: Nguyen Du focused on carefully describing her face with the conventional, metaphorical image of "autumn water" (clear, deep eyes like autumn water), "spring features" (eyebrows smooth, fresh, and elegant like a mountain in spring), giving an impression of the character's rich, profound, sharp, flexible, and sentimental spiritual world. =>Her beauty makes creation "jealous", "willow". These are words that express nature's resentment and jealousy, foreshadowing a turbulent future. waiting for this talented girl. Kieu is also a talented girl, her intelligence is one of the best in the world: "Books require one, talent requires two". She is both smart, sharp and talented enough to be "dumb, cunning, exam, drawing". ", in which the author wrote very carefully, in all four verses. She plays the piano well and composes her own music, touching the listener: "A fateful person is even more miserable." =>Nguyen Du's pen is very loving when describing the portrait of Thuy Kieu. In her, all three elements converge: talent - beauty - love, but her life is full of unhappy premonitions, typical of the fate of a "unlucky-looking" woman. Therefore, in "The Tale of Kieu" Nguyen Du exclaimed more than once, "The blue sky is used to jealousy." And later, To Huu also felt sorry for her life and wrote: "I feel sorry for Ms. Kieu like the talented Sac people have so many troubles" General comments about the two characters (last 4 sentences) about their family background, they were born and raised in a middle-class, middle-class family. The lives of the two sisters are peaceful and calm, they have never stumbled, never had to face the storms of life. They are protected and loved. Both are old enough to wear their hair in buns and hairpins, but they have never known anything about men and women. They are still young women with pure hearts, living according to the rules and virtues of feudal rites: "The wall is crowded with bees and butterflies, no one cares." Artistic features… – The excerpt vividly portrays the portraits of Thuy Van and Thuy Kieu. Thereby, Nguyen Du has demonstrated his unique talent for character description. + The way to describe characters is mainly using conventional, symbolic, and leverage techniques
Hướng dẫn Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Giới thiệu nhân vật: ông Sáu là nhân vật chính của tác phẩm, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc về một người cha rất mực yêu con. Ông Sáu là một người nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước, từng cẩm súng suốt cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng ông không tập kết ra Bắc mà ở lại kiên trì đấu tranh, gây dựng lực lượng để tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến chổng Mĩ. ông đã chiến đấu và hi sinh vì Tổ quốc, là một người lính anh hùng của dân tộc nhưng nhà văn không tập trung khắc họa con người ông ở khía cạnh đó mà đi vào đời sống riêng của ông để viết về tình phụ tử. -Tinh cảm của ông Sáu với con rất sâu nặng. Đó không ch? là tình cảm cha con mà còn là tình đồng chí, đồng đội giữa các thế hệ. Tác giả cũng không đi sâu vào cuộc chiến đấu mà tập trung miêu tả tình cha con sâu sắc, cao đẹp, là giá trị vĩnh hằng của con người. Tinh thương con của ông được thể hiện trong hai tình huống: Tình huống thứ nhất Sau tám năm vào sinh ra tử, chỉ được ngắm nhìn con trong ảnh, khi được về thăm nhà, nỗi khao khát được gặp con, được ôm con vào lòng khiến ông Sáu không kìm nén được cảm xúc. ông vội vàng, hấp tấp nhảy lên bờ gọi con, đưa tay đón và bước những bước dài tới bên con, khuôn mặt biến đổi vì nỗi xúc động. Bé Thu không nhận ra cha bởi vết thẹo trên mặt khiến ông khác quá và trông dữtợn. Nó sợ hãi bỏ chạy khiến ông vô cùng đau khổ: sẩm mặt, đứng sững lại, hai tay buông thõng như bị gãy. Suốt 3 ngày phép, ông đã làm mọi cách để được gần con, để được nghe bé Thu gọi một tiếng “ba”: + ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con. + Không giận con mà chỉ khe khẽ lắc đẩu, cười trước sự bướng bỉnh, xa lánh của con. + Thậm chí khi con bé hất miếng trứng cá ra ngoài, chối từsựchăm sóc của ông, ông đã đau đớn không giữđược bình tĩnh mà trách phạt con. =>Vì yêu con, ông đã kiên nhẫn, dịu dàng, bao dung rất mực đối với con mình. Song cũng chính vì tình yêu ấy cộng với nỗi đau đớn khi bị khước từ và thời gian bên con đang dẩn rút ngắn lại mà ông đã lỡ tay đánh con. Hành động đó đã cho thấy tột cùng của sự đau khổ và nỗi bất lực nơi ông. – Trong giờ phút chia tay, ông bộc lộ tình yêu con sâu nặng. + Ông không dám lại gần con, chỉ nhìn con bằng ánh mắt trìu mến, buồn rẩu và cố nén giọt nước mắt. + Cuối cùng, khi con gọi “ba”, ông chỉ kịp rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên tóc con, ôm chặt lấy nó rồi ra đi, mang theo ước nguyện của con về một cây lược nhỏ. =>Tình yêu con của ông Sáu đã chiến thắng mọi khoảng cách của sự biệt li. Tinh cảm ấy luôn vẹn nguyên, ấm áp và tràn đẩy. Tinh huống thứ hai Khi nằm vùng ở khu căn cứ, thiếu gạo, nhiều khi phải ăn bắp thay cơm, lại bị giặc khủng bố liên miên, cái chết bủa vây từng ngày nhưng tâm trí ông luôn nhớ về những ngày ở nhà, nhất là việc đã nóng vội mà đánh con vô lí. Đó là nỗi ân hận luôn ám ảnh, day dứt trong tâm hồn ông. Ông nhớ như in lời con dặn vội vàng lúc chia tay “Ba vể, ba mua cho con một cây lược nghe ba!”.Điểu đó thôi thúc ông làm một chiếc lược ngà. ông đã dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ con để tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược, cần thận khắc từng nét chữ “Yêu nhớtặng Thu con của ba”.Lúc nhớ con, ông lại lấy cây lược ra ngắm nghía, mài lên mái tóc. Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu. Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình. Cây lược đã được trao lại cho béThu, trở thành cầu nối giữa hai cha con, để nối dài tình phụ tử thiêng liêng. Nhận xét. – Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng và miêu tả nhân vật: + Tác giả xây dựng được những tình huống truyện đặc sắc, đầy éo le, bất ngờ và cảm động. + Ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, chính xác, bắt nguồn từ một tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng yêu thưong, trân trọng con người.
Instruct Introducing the author and his work: Character introduction: Mr. Sau is the main character of the work, leaving a deep impression on readers as a father who loves his children very much. Mr. Sau is a patriotic Southern farmer who used to hold a gun during the resistance war against the French, but he did not gather to go to the North but stayed and persistently fought, building up forces to continue participating in the resistance. American war. He fought and sacrificed for the Fatherland, being a heroic soldier of the nation, but the writer did not focus on portraying him in that aspect but went into his personal life to write about fatherhood. -Mr. Sau's feelings for his child are very deep. Is that right? is the love between father and son but also the love of comrades and teammates between generations. The author also does not go deeply into the battle but focuses on describing the deep and beautiful love between father and son, which is the eternal value of humans. His love for his children is shown in two situations: First situation After eight years of birth and death, only being able to see his child in photos, when he returned home to visit, the desire to see his child and hold him in his arms made Mr. Sau unable to contain his emotions. He quickly and impulsively jumped onto the shore to call his child, reached out his hand to welcome him and took long steps to his side, his face transformed by emotion. Little Thu did not recognize her father because the scar on his face made him look different and fierce. It ran away in fear, making him extremely miserable: his face darkened, he stood still, his arms hanging down as if broken. During the three days of leave, he did everything to be close to his child, to hear little Thu call out "daddy": + He doesn't go anywhere, he just hangs around me. + Don't be angry with your child, just gently shake your head and laugh at your child's stubbornness and alienation. + Even when the little girl threw out the fish eggs and refused his care, he was in so much pain that he couldn't keep calm and scolded her. =>Because he loved his children, he was patient, gentle, and very tolerant towards his children. But because of that love combined with the pain of being rejected and the time with his child was shortening, he accidentally hit his child. That action showed the extreme of his suffering and helplessness. – In the moment of parting, he expressed his deep love for his son. + He did not dare to come close to his child, but only looked at him with affectionate, sad eyes and tried to hold back his tears. + Finally, when I called "Dad", he only had time to pull out a towel to wipe my tears, kiss my hair, hug it tightly and leave, carrying with me my wish for a small comb. => Mr. Sau's love for his child has overcome all the distances of separation. That feeling is always intact, warm and overwhelming. Second situation While lying in the base area, lacking rice, he often had to eat corn instead of rice, and was constantly terrorized by the enemy. Death surrounded him every day, but his mind always remembered the days at home, especially the hot weather. Hurry and beat your child unreasonably. That is the regret that always haunts and torments his soul. He clearly remembered his son's hasty instructions when saying goodbye, "Daddy, please buy me a comb!" That inspired him to make an ivory comb. He put all his love and longing for his son into meticulously sawing each tooth of the comb, carefully engraving each line "I love you, my son Thu". When he missed his son, he took out the comb to look at it and sharpen it. hair. Even death could not take away Mr. Sau's love for his children. The serious injury he suffered during a raid left him exhausted and unable to say anything, but he still used all his strength to pick up a comb and give it to his comrades. The comb was given to baby Thu, becoming a bridge between father and son, to prolong the sacred father-child relationship. Comment. – Unique in the art of character construction and description: + The author creates unique story situations, full of twists, surprises and touching emotions. + The pen describes psychology delicately and accurately, originating from a sensitive soul and a heart that loves and appreciates people.
Hướng dẫn – Dẫn dắt, nêu ra vấn đề cần nghị luận – ý kiến của Albert Einstein. Đừng phấn đấu để thành công mà hãy phấn đấu để mình có ích. Thành công là đạt được mục đích, thỏa mãn ước mơ, mong muốn nào đó, được cộng đồng xã hội thừa nhận, vinh danh, ngưỡng mộ. Người có ích là người có nhiều đóng góp tốt đẹp cho gia đình, xã hội, có ảnh hưởng tích cực tới những người xung quanh. => Câu nói của Albert Einstein đã chia sẻ một quan niệm sống: Hãy sống đẹp, sống thiện, làm điều có ích cho mọi người chứ đừng cố gắng theo đuổi tiếng tăm, danh vọng hào nhoáng; đó mới là giá trị đích thực của sự sống. Đừng phấn đấu để thành công -Thành công, được mọi người tôn vinh, ngưỡng mộ là khao khát chính đáng của tất cả mọi người. Nó là động lực to lớn để mỗi người không ngừng cố gắng, nỗ lực, vươn lên trong cuộc sống. -Tuy nhiên, nếu cứ mãi chạy theo ánh hào quang đó, sẽ có lúc con người mệt mỏi bởi chính áp lực do mình tạo ra. Thành công được tạo nên từ sự nỗ lực, tài năng chân chính thật đáng trân trọng nhưng nếu bất chấp tất cả, hành động bằng mọi giá, kể cả làm việc xấu, việc ác thì con người đó thật đáng sợ, bởi con đường họ đi chắc chắn sẽ phải giẫm đạp lên những giá trị đích thực, có thể gây tổn hại cho xã hội. => Không nên hướng đến những mục tiêu, đích đến quá xa vời, quá lí tưởng, không nên coi sựvinh danh bản thân là giá trị cao nhất. Hãy phấn đấu để mình có ích Sống có ích tức là sẽ giúp đỡ, tạo ra nhiều giá trị cho những người quanh mình, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuộc sống có ích cũng sẽ thật nhiểu niểm vui vì được sự trân trọng, yêu mến của mọi người. Sống có ích sẽ truyển cảm hứng sống đẹp cho những người xung quanh, việc tốt được nhân lên trong xã hội, xã hội sẽ ngày càng văn minh. Sống có ích cũng là một sự thành công trong đời. -Trước khi muốn thành công, hãy khiến mình trở thành người có ích: sống có lí tưởng, có đạo đức, trách nhiệm với gia đình, biết sẻ chia, giúp đỡ cộng đồng.
Instruct – Leading and raising issues that need to be discussed – Albert Einstein's opinion. Don't strive for success, but strive to be useful. Success is achieving a goal, satisfying a certain dream or desire, and being recognized, honored, and admired by the social community. Useful people are people who make many good contributions to family and society, and have a positive influence on those around them. => Albert Einstein's quote shared a concept of life: Live beautifully, live well, do things that are useful to everyone, don't try to pursue fame or flashy fame; That is the true value of life. Don't strive for success - Success, being honored and admired by everyone is the legitimate desire of everyone. It is a great motivation for each person to constantly try, strive, and rise up in life. -However, if you keep chasing after that halo, there will be times when people will get tired because of the pressure they create. Success is created from effort and genuine talent that is admirable, but if despite everything, acting at all costs, including doing bad things, that person is truly scary, because the path They will certainly have to trample on true values, possibly causing harm to society. => You should not aim for goals and destinations that are too far away or too ideal, and should not consider self-glorification as the highest value. Strive to be useful Living usefully means helping and creating value for the people around you, making life better. A useful life will also be filled with joy because of the respect and love of everyone. Living a useful life will inspire those around you to live a beautiful life, good deeds will multiply in society, and society will become more and more civilized. Living usefully is also a success in life. -Before wanting to succeed, make yourself a useful person: live with ideals, be ethical, responsible to your family, know how to share, and help the community.
Hướng dẫn Giới thiệu tác giả:Chính Hữu là nhà thơ quân đội. ông sống và viết xuyên suốt chiểu dài hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc nên những sáng tác của ông tập trung chủ yếu vào đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông mang đậm chất liệu của hiện thực cuộc sống. Giới thiệu tác phẩm:Bài thơ “Đổng chí”được sáng tác vào đầu xuân năm 1948, thời kì đẩu của cuộc kháng chiến chổng Pháp. Tác phẩm đã viết rất chân thực, cảm động về tình đồng đội, đồng chí cao quý của các anh bộ đội cụ Hó thời kháng chiến chống Pháp và trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về để tài này. Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/…/Đầu súng trăng treo” thể hiện rất rõ nội dung đó. a. 7 câu thơ đầu Hiện thực gian khổ nơi chiến trường Những người lính phải đối mặt với bệnh tật ngay giữa hoàn cảnh thiếu thốn, không thuốc men. Căn bệnh sốt rét rừng hành hạ các anh bằng những “cơn ớn lạnh”,những trận “sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi”.Thậm chí, nhiều người bị vắt kiệt sức lực hay phải nằm lại giữa rừng.Thực tế ấy cũng từng được ghi lại trong bài thơ “Tây Tiến” củaQuang Dũng sau này: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá, dữ oai hùm” Áo rách, quần vá, chân đi đất: đó là những thiếu thốn, khó khăn chung của những ngày đẩu kháng chiến. Miệng cười buốt giá: Đó là cái buốt giá của đất trời, của núi rừng. Hai từ “buốt giá”khiến người đọc cảm nhận thật rõ cái khắc nghiệt của rừng thiêng nước độc! Tinh đồng đội keo sơn Những người lính đã đồng cam cộng khổ, khi là sự sánh đôi “anh với tôi”,khi là sự đối xứng ” áo anh” – “quần tôi”. Nhưng cảm động nhất là họ vẫn trao nhau những nụ cười, vẫn nắm chặt tay nhau để xoa dịu đi những khó khăn, thiếu thốn ấy. Một nụ cười bằng cả mười thang thuốc bổ và ở đây còn có sức mạnh sưởi ấm. Cả cái siết tay nắm chặt cũng đầy sự cảm thông và chia sẻ, như muốn truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tiếng “thương”nghe sao thật ấm áp, ân tình! Anh với tôi luôn luôn sóng đôi với nhau, có khi cùng nằm trong một câu thơ, có khi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đổng đội. 3 câu cuối – bức tranh trước giờ chiến đấu Hình ảnh những người lính được miêu tả trên nển thiên nhiên khấc nghiệt + Thời gian: đêm tối, lạnh lẽo. + Không gian: “Rừng hoang sương muối” -không gian vừa mênh mông, hoang sơ, vừa lạnh lẽo. Họ vẫn vững vàng tay súng “chờ giặc tới”- tư thế chủ động, tự tin, sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập, tự do của dân tộc. Có được tâm thế ấy là bởi họ có đồng đội “đứng cạnh bên nhau”. Quả thực, tình đổng đội, tình đồng chí giúp họ tự tin, bình tĩnh, chủ động đối diện với kẻ thù và vượt qua tất cả. “Đầu súng trâng treo”là một hình ảnh đặc sắc. Trước hết, đó là hình ảnh thực mà Chính Hữu đã nhận ra trong suốt những đêm phục kích chờ giặc. Nhưng đó còn là một hình ảnh giàu biểu tượng: +Súng là biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. Đổng thời là biểutượng cho lí tưởng, nhiệm vụ của người lính. +Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp mơ mộng, yên bình, lãng mạn. => Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh đơn sơ mà đầy thi vị về người lính. Trong không gian bát ngát của rừng khuya, vầng trảng bất ngờ xuất hiện, chơi vơi trên đầu ngọn súng. Người lính nông dân hiện lên như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị mà đẹp đẽ. Hai hình ảnh súng và trăng kết hợp tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Đó là vẻ đẹp mang cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và dạt dào cảm hứnglãng mạn. c) Nghệ thuật Bút pháp tả thực và nghệ thuật liệt kê đã vẽ nên bức tranh hiện thực vô cùng chân thực về đời sống chiến đấu của những người lính thời chống Pháp. -Thể thơ tự do, linh hoạt trong việc giãi bày, miêu tả. Tạo dựng được hình ảnh có sức gợi, sức biểu tượng cao (nắm tay, đầu súng trâng treo).
Instruct Author introduction: Chinh Huu is a military poet. He lived and wrote throughout the nation's two resistance wars against the French and the Americans, so his works focused mainly on the topic of soldiers and war. His poetry is imbued with the essence of real life. Introduction to the work: The poem "Dong Solstice" was composed in the early spring of 1948, the beginning of the resistance war against the French. The work was written very honestly and touchingly about the noble comradeship and camaraderie of Mr. Ho's soldiers during the resistance war against the French and became one of the most typical poems written about this subject. Introducing the excerpt: The poem "You and I know every chill/.../The moon's gun tip hangs" clearly shows that content. a. First 7 verses The reality of hardship on the battlefield Soldiers had to face illness in the midst of poverty and no medicine. Jungle malaria torments them with "chills", "fever and shivers, sweaty foreheads". Many people are even exhausted or have to lie down in the middle of the forest. Reality That was also recorded in the poem "Tay Tien" by Quang Dung later: “The army of Tay Tien does not grow hair The army is green and green, fierce and majestic." Torn shirts, patched pants, bare feet: these are the common deprivations and difficulties of the early days of the resistance war. The mouth smiles coldly: That is the coldness of heaven and earth, of the mountains and forests. The two words "cold" make the reader clearly feel the harshness of the sacred forest and poisonous water! Strong team spirit The soldiers shared the same suffering, sometimes it was the comparison "you and me", sometimes it was the symmetry "your shirt" - "my pants". But the most touching thing is that they still exchange smiles and hold each other's hands tightly to ease those difficulties and deprivations. A smile is equal to ten doses of tonic and here there is also the power of warmth. Even the tight grip of hands is full of sympathy and sharing, as if wanting to transmit warmth and strength to each other. The word "love" sounds so warm and affectionate! You and I are always together, sometimes in the same verse, sometimes in pairs of consecutive sentences, expressing the attachment and sharing of teammates. Last 3 sentences – picture before battle Images of soldiers are depicted against harsh nature + Time: dark, cold night. + Space: "Wild forest with hoarfrost" - the space is both vast, wild, and cold. They are still steadfast gunmen "waiting for the enemy to come" - proactive, confident posture, ready to fight for noble ideals, for the independence and freedom of the nation. Having that mindset is because they have teammates "standing side by side". Indeed, the camaraderie and camaraderie help them be confident, calm, and proactive in facing enemies and overcoming everything. “The hanging gun head” is a unique image. First of all, that is the real image that Chinh Huu recognized during the nights of ambushing and waiting for the enemy. But it is also an image rich in symbolism: +Guns are a symbol of war, of fierce reality. At the same time, it is a symbol of the soldier's ideals and duties. +The moon symbolizes dreamy, peaceful, and romantic beauty. => Combining realism and romance, Chinh Huu has painted a simple yet poetic picture of a soldier. In the vast space of the late night forest, a glade suddenly appeared, hovering above the tip of the gun. Peasant soldiers appear as poetic, simple but beautiful artists. The two images of gun and moon combined create a beautiful symbol of a soldier's life: soldier and poet, reality and dream. That is the beauty that carries the characteristics of resistance poetry - a poetry rich in realism and romantic inspiration. c) Art The realistic writing style and art of listing have painted an extremely realistic picture of the fighting life of soldiers during the anti-French period. -Free poetic style, flexible in exposition and description. Create highly evocative and symbolic images (fist, hanging gun).