vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
“VIẾT TỪ SƯƠNG MÙ VÀ TRÊN CÁNH HOA” ( * ) CHẾ DIỄM TRÂM (Thạc sĩ Văn học) Đọc và thích tác phẩm của một nhà thơ chưa một lần diện kiến, giống như một mình đặt chân đến một xứ lạ phương xa, rất nhiều điều để khám phá trong sự tò mò pha chút nghi ngại. Đó là cảm giác có thật khi cầm trên tay tập Thơ haiku Nguyễn Thánh Ngã (NXB Văn học, 2014). Thơ haiku là thể thơ tinh túy của đất nước Mặt Trời Mọc. Ai thích và đi theo lối thơ “hẹp” này là người thích trầm tĩnh, suy tư. Nói “hẹp” là vì haiku là thể thơ kiệm lời nhất trong tất cả các thể thơ của nhân loại. Một bài thơ haiku “nửa ngậm nửa thốt” bởi chỉ có 17 âm tiết, chia làm ba phần: phá (5 âm tiết) – thực (7 âm tiết) – kết (5 âm tiết). Tiếng Nhật đa âm tiết nên một bài thơ haiku chỉ trong vòng 7 – 8 từ (và không vượt quá 10 từ). Đã vậy, haiku ít dùng những từ biểu đạt tâm trạng, ít dùng tính từ, trạng từ… Thơ haiku thường lấy đề tài thiên nhiên bốn mùa, và tâm trạng con người trước thiên nhiên làm đề tài. Vì tính chất hàm súc cần có, và phải có, nên thơ haiku phải dùng đến các từ ngữ chỉ cây cỏ, hoa lá, con vật có tính đặc trưng để làm nên ước lệ, gọi là “quý ngữ” (tiếng Nhật là “kigo”). Chẳng hạn, mùa xuân thì có hoa anh đào, hoa mơ, hoa nở,…; mùa thu là trăng, cỏ lau,…; mùa hè là con ve, con đom đóm,…; mùa đông là tuyết, cánh đồng tuyết,… Thơ haiku mang nhiều Thiền tính của triết cảm phương Đông, ưa suy tư, thích chiêm nghiệm. Mỗi bài thơ là một khoảnh khắc trực cảm, đạt đến sự đốn ngộ để hướng đến những triết lý phổ quát. Bạn đọc phải tự nhìn thấu vào cảnh qua vài nét chấm phá, tự đón nhận những thanh âm mơ hồ, tự lắng lòng mà đoán nhận, chiêm cảm triết lý vĩnh hằng được ký thác ẩn kín. Tiếp nhận thơ haiku đã khó, sáng tác haiku còn khó hơn. Để đạt đến tứ tính: chất sabi (tịch lặng), u huyền (yugen), đơn sơ (wabi), bi cảm (aware), thơ haiku xem sự tối giản là yêu cầu hàng đầu của sáng tạo. Tối giản lời nhưng ý phải thâm sâu. Do vậy, đọc một bài thơ haiku là một thách thức, nhưng đồng thời cũng là một thích thú đầy tính thẩm mỹ. Tác giả Nguyễn Thánh Ngã Tập Thơ haiku Nguyễn Thánh Ngã gồm 251 bài, cùng một lời đề từ vừa tự dẫn nhập, khái quát thần thái của thể thơ, vừa như mời gọi độc giả bước vào một thế giới nghệ thuật của sự “ hư không ”: Ở đây Ngoài câu chữ Hư không tràn đầy Trên câu chữ, bạn đọc nhận biết những đề tài nhà thơ quan tâm: cuộc sống, con người, tình quê, tình nhà… Những thi tứ về cuộc sống bình dị, nhẹ nhàng và dịu dàng đi suốt tập thơ. Không khó để bắt gặp một ý thơ “đời nhẹ như mây khói” (Trịnh Công Sơn): Giỏ hoa loa kèn Xe đạp đẩy dốc Dép cô gái đứt quai Cảnh khá quen trên những con dốc dài và cũng khá kịch tính; song, giỏ hoa là tất cả, nó lấp đầy tất cả – sự nhọc nhằn (xe đạp đẩy dốc), sự trớ trêu (chiếc dép đứt quai)… Tất cả chỉ còn là cái Đẹp – cái đẹp của giỏ hoa, cái đẹp của con dốc, cái đẹp của cô thôn nữ, cái đẹp của cuộc sống lao động thường nhật bình dị… Trên nguồn mỹ cảm đó, nhà thơ luôn gửi đi một thông điệp thao thiết: “Hãy nâng niu cái đẹp, hãy tận hưởng cái đẹp!” qua khá nhiều bài (1, 2, 5, 7, 11, 15, …, 103, 104, … 160, …). Ví dụ, bài đánh số 160: Nắp vỡ Ấm nước cắm hoa Nghiêng vòi một nụ Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã gốc người Quảng Ngãi, nhưng sinh sống tại Đà Lạt. Quảng Ngãi không thiếu trong tập thơ (bài 101, 105, 106…) nhưng ăm ắp là hình, là dáng, là bóng thành phố Đà Lạt thông qua những quý ngữ rất riêng của Nguyễn Thánh Ngã. Như là hoa, là thông, là sương khói, là mưa phùn, là mây mù… để Đà Lạt đúng với biệt danh “xứ sở ngàn hoa”, “xứ sở ngàn thông”: Thông và tiếng reo Là hai người bạn Ca hát lưng đèo ( Bài 15 ) Thông thường, người ta tả thông và gió. Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã lại dùng thông và tiếng reo (cái “bóng” của gió) theo lối tả khách hình chủ để không chỉ nói về bạn gió, bạn thông mà cái chính là nói đến tiếng reo vui, ca hát vang vang hoặc thầm thĩ trong lòng chủ thể tự tại trên lưng đèo… Hình ảnh Đà Lạt bàng bạc suốt từ bài 1, 2, 5, 6, 7, 15, 18, 26, cho đến khi khép lại tập thơ. Không ngoa khi nhận định rằng, đây là tập haiku đầy đặn về Đà Lạt – Lâm Đồng xao xuyến, mênh mang, sâu lắng… Đề tài về Mẹ, bằng một tình yêu gián cách không – thời gian, làm tan chảy trái tim bạn đọc (từ bài 139 đến 144). Những thi ảnh: đôi mắt mẹ, bầu sữa mẹ, màn sương thu, nhất là nấm mộ, làn khói hương… thổn thức, nhói đau về một thứ tình cảm thiêng liêng nhất của nhân loại – tình mẫu tử: Mắt mẹ già còn ấm Làn sương thu Đợi con về vuốt mặt Bất giác, ta như trở về, lặn vào thơ Basho khi Basho làm một cuộc du hành, trở về nhà thì mẹ đã mất, người anh đưa cho ông di vật còn lại của mẹ là một mớ tóc bạc: Lệ trào nóng hổi / tan trên tay tóc mẹ / làn sương thu . Thơ haiku Nhật Bản thường đậm chất Thiền. Thơ haiku Nguyễn Thánh Ngã nhiều Thiền tính. Nếu không muốn nói là đậm, đậm đặc. Mỗi bài thơ đều mang tới một mật ngữ, một ẩn ngôn phảng phất triết cảm. Đọc bài thơ dưới đây không thể không nghĩ và ngẫm: Chỉ còn một chiếc giày Đạt Ma quảy một chiếc Còn một chiếc trên vai Giày thường tồn tại dưới dạng một đôi, mất một chiếc là bỏ cả đôi. Đây mất một chiếc mà vẫn “ còn ”, từ “ còn ” lặp đi lặp lại tới hai lần, như một sự nhấn mạnh trong mất có được, trong được có mất, đừng bao giờ cất công đi tìm sự hoàn hảo, và nhất là đừng bao giờ đánh mất khát khao hy vọng. Chiếc giày còn, không vất đi mà quảy trên vai, như Đức Đạt Ma quảy dép phi hành ngang dọc, phóng khoáng và siêu thoát, phá chấp và an nhiên… Nhiều bài thơ haiku của Nguyễn Thánh Ngã đã cố gắng và dường như đạt tới “sát na” – một khoảnh khắc bừng ngộ và bừng cảm (bài 37, 38, 41, 54, 62, 66, 114, 175, 177,…). Bài Đứa trẻ , bài thơ đoạt giải Nhất thơ Haiku Việt – Nhật năm 2009: Xó chợ Chiếc lon trống Hạt mưa mồ côi Đứa bé mồ côi trong một chiều mưa lạnh, nép mình vào một xó chợ. Đói. Lạnh. Đơn côi. Bấy nhiêu đó cũng đã đủ se sắt, dẫu có là một trái tim sắt! Nhưng, chưa hết, nhà thơ còn đọc trong chiếc lon rỗng, hạt mưa trong, hạt mưa ngoài, như những giọt nước mắt thánh thót, tung tóe sự thổn thức về thân phận nghèo khổ, về kiếp người hư vô… “ Hạt mưa mồ côi ” – một ẩn tượng nhân văn, nhiều người trong chúng ta từng chứng kiến, nhưng đã vô tình đi qua. Bắt gặp tứ thơ này, chúng ta cảm động đến nghẹn lời, và ân hận đến nghẹn ngào! Tập Thơ Haiku Nguyễn Thánh Ngã cuốn hút không chỉ bằng lời thơ, mà còn thông qua những hình ảnh minh họa của chính nhà thơ, đem đến những trực cảm – mỹ cảm ngỡ ngàng mà thú vị. Trên nền mỗi trang thơ, thoáng ẩn thoáng hiện hình ảnh núi Fuji độc đáo – biểu tượng của đất nước hoa anh đào, như một lời thầm nhắc hãy khám phá, ở chiều cao, ở chiều sâu và bề sau vẻ đẹp thơ haiku – một vẻ đẹp được người Nhật tôn thờ và nhân loại ngưỡng mộ. Bởi, thơ haiku: càng mở ra(**) càng vang lên sự im lặng bất ngờ Nha Trang 7.2018 C.D.T (*)(**)thơ nguyễn thánh ngã
“VIẾT TỪ SƯƠNG MÙ VÀ TRÊN CÁNH HOA” ( * ) CHẾ DIỄM TRÂM (Thạc sĩ Văn học) Đọc và thích tác phẩm của một nhà thơ chưa một lần diện kiến, giống như một mình đặt chân đến một xứ lạ phương xa, rất nhiều điều để khám phá trong sự tò mò pha chút nghi ngại. Đó là cảm giác có thật khi cầm trên tay tập Thơ haiku Nguyễn Thánh Ngã (NXB Văn học, 2014). Thơ haiku là thể thơ tinh túy của đất nước Mặt Trời Mọc. Ai thích và đi theo lối thơ “hẹp” này là người thích trầm tĩnh, suy tư. Nói “hẹp” là vì haiku là thể thơ kiệm lời nhất trong tất cả các thể thơ của nhân loại. Một bài thơ haiku “nửa ngậm nửa thốt” bởi chỉ có 17 âm tiết, chia làm ba phần: phá (5 âm tiết) – thực (7 âm tiết) – kết (5 âm tiết). Tiếng Nhật đa âm tiết nên một bài thơ haiku chỉ trong vòng 7 – 8 từ (và không vượt quá 10 từ). Đã vậy, haiku ít dùng những từ biểu đạt tâm trạng, ít dùng tính từ, trạng từ… Thơ haiku thường lấy đề tài thiên nhiên bốn mùa, và tâm trạng con người trước thiên nhiên làm đề tài. Vì tính chất hàm súc cần có, và phải có, nên thơ haiku phải dùng đến các từ ngữ chỉ cây cỏ, hoa lá, con vật có tính đặc trưng để làm nên ước lệ, gọi là “quý ngữ” (tiếng Nhật là “kigo”). Chẳng hạn, mùa xuân thì có hoa anh đào, hoa mơ, hoa nở,…; mùa thu là trăng, cỏ lau,…; mùa hè là con ve, con đom đóm,…; mùa đông là tuyết, cánh đồng tuyết,… Thơ haiku mang nhiều Thiền tính của triết cảm phương Đông, ưa suy tư, thích chiêm nghiệm. Mỗi bài thơ là một khoảnh khắc trực cảm, đạt đến sự đốn ngộ để hướng đến những triết lý phổ quát. Bạn đọc phải tự nhìn thấu vào cảnh qua vài nét chấm phá, tự đón nhận những thanh âm mơ hồ, tự lắng lòng mà đoán nhận, chiêm cảm triết lý vĩnh hằng được ký thác ẩn kín. Tiếp nhận thơ haiku đã khó, sáng tác haiku còn khó hơn. Để đạt đến tứ tính: chất sabi (tịch lặng), u huyền (yugen), đơn sơ (wabi), bi cảm (aware), thơ haiku xem sự tối giản là yêu cầu hàng đầu của sáng tạo. Tối giản lời nhưng ý phải thâm sâu. Do vậy, đọc một bài thơ haiku là một thách thức, nhưng đồng thời cũng là một thích thú đầy tính thẩm mỹ. Tác giả Nguyễn Thánh Ngã Tập Thơ haiku Nguyễn Thánh Ngã gồm 251 bài, cùng một lời đề từ vừa tự dẫn nhập, khái quát thần thái của thể thơ, vừa như mời gọi độc giả bước vào một thế giới nghệ thuật của sự “ hư không ”: Ở đây Ngoài câu chữ Hư không tràn đầy Trên câu chữ, bạn đọc nhận biết những đề tài nhà thơ quan tâm: cuộc sống, con người, tình quê, tình nhà… Những thi tứ về cuộc sống bình dị, nhẹ nhàng và dịu dàng đi suốt tập thơ. Không khó để bắt gặp một ý thơ “đời nhẹ như mây khói” (Trịnh Công Sơn): Giỏ hoa loa kèn Xe đạp đẩy dốc Dép cô gái đứt quai Cảnh khá quen trên những con dốc dài và cũng khá kịch tính; song, giỏ hoa là tất cả, nó lấp đầy tất cả – sự nhọc nhằn (xe đạp đẩy dốc), sự trớ trêu (chiếc dép đứt quai)… Tất cả chỉ còn là cái Đẹp – cái đẹp của giỏ hoa, cái đẹp của con dốc, cái đẹp của cô thôn nữ, cái đẹp của cuộc sống lao động thường nhật bình dị… Trên nguồn mỹ cảm đó, nhà thơ luôn gửi đi một thông điệp thao thiết: “Hãy nâng niu cái đẹp, hãy tận hưởng cái đẹp!” qua khá nhiều bài (1, 2, 5, 7, 11, 15, …, 103, 104, … 160, …). Ví dụ, bài đánh số 160: Nắp vỡ Ấm nước cắm hoa Nghiêng vòi một nụ Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã gốc người Quảng Ngãi, nhưng sinh sống tại Đà Lạt. Quảng Ngãi không thiếu trong tập thơ (bài 101, 105, 106…) nhưng ăm ắp là hình, là dáng, là bóng thành phố Đà Lạt thông qua những quý ngữ rất riêng của Nguyễn Thánh Ngã. Như là hoa, là thông, là sương khói, là mưa phùn, là mây mù… để Đà Lạt đúng với biệt danh “xứ sở ngàn hoa”, “xứ sở ngàn thông”: Thông và tiếng reo Là hai người bạn Ca hát lưng đèo ( Bài 15 ) Thông thường, người ta tả thông và gió. Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã lại dùng thông và tiếng reo (cái “bóng” của gió) theo lối tả khách hình chủ để không chỉ nói về bạn gió, bạn thông mà cái chính là nói đến tiếng reo vui, ca hát vang vang hoặc thầm thĩ trong lòng chủ thể tự tại trên lưng đèo… Hình ảnh Đà Lạt bàng bạc suốt từ bài 1, 2, 5, 6, 7, 15, 18, 26, cho đến khi khép lại tập thơ. Không ngoa khi nhận định rằng, đây là tập haiku đầy đặn về Đà Lạt – Lâm Đồng xao xuyến, mênh mang, sâu lắng… Đề tài về Mẹ, bằng một tình yêu gián cách không – thời gian, làm tan chảy trái tim bạn đọc (từ bài 139 đến 144). Những thi ảnh: đôi mắt mẹ, bầu sữa mẹ, màn sương thu, nhất là nấm mộ, làn khói hương… thổn thức, nhói đau về một thứ tình cảm thiêng liêng nhất của nhân loại – tình mẫu tử: Mắt mẹ già còn ấm Làn sương thu Đợi con về vuốt mặt Bất giác, ta như trở về, lặn vào thơ Basho khi Basho làm một cuộc du hành, trở về nhà thì mẹ đã mất, người anh đưa cho ông di vật còn lại của mẹ là một mớ tóc bạc: Lệ trào nóng hổi / tan trên tay tóc mẹ / làn sương thu . Thơ haiku Nhật Bản thường đậm chất Thiền. Thơ haiku Nguyễn Thánh Ngã nhiều Thiền tính. Nếu không muốn nói là đậm, đậm đặc. Mỗi bài thơ đều mang tới một mật ngữ, một ẩn ngôn phảng phất triết cảm. Đọc bài thơ dưới đây không thể không nghĩ và ngẫm: Chỉ còn một chiếc giày Đạt Ma quảy một chiếc Còn một chiếc trên vai Giày thường tồn tại dưới dạng một đôi, mất một chiếc là bỏ cả đôi. Đây mất một chiếc mà vẫn “ còn ”, từ “ còn ” lặp đi lặp lại tới hai lần, như một sự nhấn mạnh trong mất có được, trong được có mất, đừng bao giờ cất công đi tìm sự hoàn hảo, và nhất là đừng bao giờ đánh mất khát khao hy vọng. Chiếc giày còn, không vất đi mà quảy trên vai, như Đức Đạt Ma quảy dép phi hành ngang dọc, phóng khoáng và siêu thoát, phá chấp và an nhiên… Nhiều bài thơ haiku của Nguyễn Thánh Ngã đã cố gắng và dường như đạt tới “sát na” – một khoảnh khắc bừng ngộ và bừng cảm (bài 37, 38, 41, 54, 62, 66, 114, 175, 177,…). Bài Đứa trẻ , bài thơ đoạt giải Nhất thơ Haiku Việt – Nhật năm 2009: Xó chợ Chiếc lon trống Hạt mưa mồ côi Đứa bé mồ côi trong một chiều mưa lạnh, nép mình vào một xó chợ. Đói. Lạnh. Đơn côi. Bấy nhiêu đó cũng đã đủ se sắt, dẫu có là một trái tim sắt! Nhưng, chưa hết, nhà thơ còn đọc trong chiếc lon rỗng, hạt mưa trong, hạt mưa ngoài, như những giọt nước mắt thánh thót, tung tóe sự thổn thức về thân phận nghèo khổ, về kiếp người hư vô… “ Hạt mưa mồ côi ” – một ẩn tượng nhân văn, nhiều người trong chúng ta từng chứng kiến, nhưng đã vô tình đi qua. Bắt gặp tứ thơ này, chúng ta cảm động đến nghẹn lời, và ân hận đến nghẹn ngào! Tập Thơ Haiku Nguyễn Thánh Ngã cuốn hút không chỉ bằng lời thơ, mà còn thông qua những hình ảnh minh họa của chính nhà thơ, đem đến những trực cảm – mỹ cảm ngỡ ngàng mà thú vị. Trên nền mỗi trang thơ, thoáng ẩn thoáng hiện hình ảnh núi Fuji độc đáo – biểu tượng của đất nước hoa anh đào, như một lời thầm nhắc hãy khám phá, ở chiều cao, ở chiều sâu và bề sau vẻ đẹp thơ haiku – một vẻ đẹp được người Nhật tôn thờ và nhân loại ngưỡng mộ. Bởi, thơ haiku: càng mở ra(**) càng vang lên sự im lặng bất ngờ Nha Trang 7.2018 C.D.T (*)(**)thơ nguyễn thánh ngã
Phản biện tác giả Nguyễn Trọng Bình về văn bản “Tôi đi học” trong sách giáo khoa Việc rút gọn văn bản để đưa vào sách giáo khoa có thể chưa phải là giải pháp tối ưu nhưng đó chắc chắn không phải là cách làm tùy tiện, ngẫu hứng. Trao đổi về việc cắt gọn văn bản “ Tôi đi học ” trong cuốn sách giáo khoa tiếng Việt, tập 2, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, cô giáo Thanh Nguyên – một giáo viên Ngữ văn ở Trà Vinh đã có bài viết phân tích, phản biện với tác giả Nguyễn Trọng Bình. Bàn về văn bản “ Tôi đi học” (theo Thanh Tịnh) xuất hiện trong sách giáo khoa tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, có nhiều ý kiến xuất hiện trên báo và cả mạng xã hội rất đáng quan tâm, trong đó có một ý kiến cho rằng: Trong cuộc đời của mỗi con người, có rất nhiều “buổi mai”. Cụm “ một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh ” trong nguyên tác rất quan trọng. Nó có ý nghĩa và tác dụng giải thích đồng thời nhấn mạnh đến cái “ buổi mai hôm ấy ” – cái lần đầu tiên trong đời mà tác giả được mẹ mình “ âu yếm nắm tay dẫn đi trên con đường dài và hẹp” để đến ngôi trường làng. Vậy nên, tôi lấy làm lạ là tại sao Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng vốn là một chuyên gia ngôn ngữ lại có thể tùy tiện cắt gọt và gộp lại 2 câu văn của Thanh Tịnh thành một câu như thế? Việc làm này theo chúng tôi, đã vô tình làm méo mó nội dung, ý nghĩa, khiến khó nhận ra cái hồn cốt, văn phong cũng như sắc thái tình cảm, cảm xúc của cố nhà văn Thanh Tịnh trong nguyên tác “ Tôi đi học “. Chúng tôi xin có ý kiến trao đổi thêm với tác giả bài viết trên như sau: 1. Xem xét từ góc độ yêu cầu cần đạt của môn tiếng Việt 1 theo Chương trình 2018 Tập trung vào năng lực đọc hiểu văn bản văn học, Chương trình yêu cầu như sau: Đọc hiểu nội dung: Hỏi và trả lời được những câu hỏi đơn giản liên quan đến các chi tiết được thể hiện tường minh Trả lời được các câu hỏi đơn giản về nội dung cơ bản của văn bản dựa vào gợi ý, hỗ trợ. Đọc hiểu hình thức: Nhận biết được hình dáng, hành động của nhân vật thể hiện qua một số từ ngữ trong câu chuyện dựa vào gợi ý của giáo viên. Nhận biết được lời nhân vật trong truyện dựa vào gợi ý của giáo viên. [2; tr.18,19] Từ đó cho thấy, năng lực văn học thẩm bình phong cách tác giả chưa phải là yêu cầu cần đạt của môn tiếng Việt, ở khối lớp 1. Như vậy, lí do của tác giả bài viết đưa ra về việc sử dụng văn bản rút gọn sẽ khiến học sinh khó nhận ra cái hồn cốt, văn phong cũng như sắc thái tình cảm, cảm xúc của cố nhà văn Thanh Tịnh trong nguyên tác “ Tôi đi học “, vì không nằm trong yêu cầu cần đạt của chương trình, nên không phải là điểm trừ của văn bản mà tác giả sách giáo khoa đã chọn và đưa vào bộ sách của mình. 2. Xem xét từ cấu trúc sách giáo khoa và cấu trúc đơn vị bài học trong sách giáo khoa tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống Mục lục sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, chủ điểm Mái trường mến yêu với bài 1 “Tôi đi học” Nhìn vào cách sắp xếp bài học trong chủ điểm Mái trường mến yêu, chúng ta dễ nhận ra trình tự xen kẽ về thể loại: văn xuôi – thơ – văn xuôi – thơ – văn xuôi – thơ. Như vậy để phục vụ cho một đơn vị bài học, tác giả biên soạn sách giáo khoa phải huy động đồng thời nhiều văn bản với một ma trận yêu cầu cần đạt (về thể loại văn bản, về đơn vị kiến thức tiếng Việt, về phục vụ 4 kĩ năng đọc – viết – nói – nghe,…). Chính vì vậy, nếu ai không tiếp cận trọn vẹn cuốn sách giáo khoa này sẽ nghĩ đến việc sao không thay văn bản “ Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) đó bằng một văn bản khác (có người đề xuất văn bản Đi học, trùng với văn bản 2 của chủ điểm vì không biết rằng nó cũng đã được tác giả sách giáo khoa huy động; có người đề xuất “ Con cò be bé ”, hay “ Mẹ đi vắng ” là ca từ của bài hát thiếu nhi, thì ngôn ngữ của các văn bản đó gần với thơ, trong khi cuốn sách đang cần một văn bản văn xuôi cho chủ điểm này, bên cạnh 2 văn bản văn xuôi. Mặt khác, nhìn lại toàn bộ tiến trình hoạt động dạy học được thiết kế trong sách giáo khoa liên quan trực tiếp đến văn bản “Tôi đi học” (theo Thanh Tịnh), nhất là hệ thống câu hỏi kèm theo trước, trong và sau khi đọc văn bản, chúng ta nhận thấy nó đạt yêu cầu về năng lực đọc hiểu văn bản văn học quy định trong chương trình 2018 đã nêu ở trên. 3.Xem xét từ phương pháp xử lí ngữ liệu khi đưa vào sách giáo khoa Ai cũng hiểu nếu chọn và đưa được nguyên tác vào sách giáo khoa là một cách làm rất đúng đắn, ít gây ra tranh cãi (tiền đề là văn bản đó đã thỏa mãn yêu cầu khoa học và sư phạm). Song song đó, ai cũng hiểu đặc thù của ngữ liệu trong sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học, và nhất là lớp 1, còn có những đòi hỏi khắt khe về tỉ lệ từ vựng, ngữ âm,… đã học của trẻ. Chính vì vậy để chọn một văn bản thỏa mãn các tiêu chí ấy không hề đơn giản, và với một chủ điểm thì cần phải đến 6 văn bản phải vừa thơ vừa văn xuôi cùng ma trận yêu cầu cần đạt khác quả là một thách thức mà chúng tôi tin không một tác giả sách giáo khoa nào dám tùy tiện cả. Người biên soạn nếu không chọn được một văn bản có sẵn, họ có thể tự tạo lập một văn bản, đó cũng là một giải pháp. Tuy nhiên, cũng có một giải pháp khác đó là tóm tắt lại một văn bản đã có và đây là một giải pháp được nhiều người dùng chứ không phải là sự ngẫu hứng của tác giả bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Vấn đề bàn cãi là chất lượng của bản tóm tắt. Đây lại là một khía cạnh có khả năng dẫn đến những nhận định chủ quan vì nó chịu sự tác động của tiếp nhận văn học, sự tiếp nhận đó lại chịu ảnh hưởng của cả kí ức tiếp nhận của các thế hệ. Như vậy, để khách quan nhất, chúng ta chỉ nên xét văn bản “ Tôi đi học” (theo Thanh Tịnh) trong bộ sách và tác phẩm “ Tôi đi học” (nguyên văn Thanh Tịnh) trên cơ sở nội dung và hình cơ bản của 2 văn bản này. Thứ nhất, nội dung của văn bản gồm các thành tố đề tài, chủ đề, tình thái. [3 ; 36] Tác phẩm “ Tôi đi học ” (nguyên văn Thanh Tịnh): Đề tài: kỉ niệm ngày đi học Chủ đề: kỉ niệm ấy vô cùng sống động, gần gũi với không gian, thời gian và con người hiện ra Tình thái văn bản: thái độ trân trọng, thiết tha với kỉ niệm đó. Đọc văn bản “ Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) trong Sách giáo khoa tiếng Việt 1 (bộ Kết nối tri thức với cuộc sống), ta thấy cũng có sự triển khai nội dung rất gần với nội dung văn bản gốc. Để chủ đề của văn bản gốc được tái hiện triển khai đầy đủ, văn bản rút gọn đã khéo léo giữ lại các không gian từ con đường, ngoài và trong lớp học; con người: mẹ, thầy và bạn bè; Đó cũng chính là một ưu điểm đáng ghi nhận của văn bản rút gọn này. Văn bản này được học sinh lớp 1 học ở học kì 2, cách thời gian khai trường lớp 1 của bản thân các em khoảng 4, 5 tháng. Trong một chừng mực nào đó sẽ gợi nhắc cho các em về một kỉ niệm rất gần vừa diễn ra đối với chính các em. Thứ hai, hình thức văn bản gồm tiêu đề và chính văn, chính văn có các thuộc tính như sau: hoàn chỉnh, thống nhất, liên kết và mạch lạc. Hình thức của văn bản “ Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) thỏa mãn các thuộc tính trên. Như vậy, văn bản “Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) trong bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống là một văn bản rút gọn từ tác phẩm văn học khác, bản thân nó là một văn bản thỏa mãn các thuộc tính về nội dung và hình thức cần có của một văn bản nói chung và cũng là một văn bản rút gọn không phản lại văn bản gốc của tác giả. Văn bản rút gọn có thể không giữ được trọn vẹn “hồn cốt, văn phong” của tác giả, đó là hiển nhiên, nhưng đối với văn bản rút gọn này, cá nhân tôi vẫn cảm nhận sự gợi nhớ đến văn bản gốc, và với tư cách một giáo viên đang đứng lớp, thầy/cô ấy hoàn toàn có thể chủ động mời gọi học sinh thưởng thức một trích văn từ “ Tôi đi học ” của Thanh Tịnh và tìm đọc văn bản đầy đủ của tác phẩm. Ngoài ra, không biết tác phẩm này có dịp quay lại trong sách giáo khoa cũng ở bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống ở khối lớp khác không? Khi đó, với đối tượng học sinh đã đọc thông, tác phẩm sẽ dễ dàng có cơ hội trình hiện đầy đủ và việc một tác phẩm được nhắc đi nhắc lại nhiều lần với mức độ yêu cầu đọc và hiểu khác nhau cũng là một phương pháp sư phạm chạm khắc vào ghi nhớ xưa nay. Tóm lại, việc rút gọn văn bản để đưa vào sách giáo khoa có thể chưa phải là giải pháp tối ưu, chất lượng văn bản rút gọn có thể sẽ có nhiều người khen chê, nhưng đó chắc chắn không phải là cách làm tùy tiện, ngẫu hứng của tác giả sách giáo khoa bộ Kết nối tri thức với cuộc sống trong trường hợp văn bản “ Tôi đi học “, mà nó là một giải pháp có cân nhắc, có sự thận trọng về mặt chuyên môn. Điều này rất xứng đáng được tiếp nhận và đóng góp một cách xây dựng, để học sinh có được một tài liệu học tập tốt hơn. THANH NGUYÊN* Báo Giáo Dục Việt Nam Tài liệu tham khảo: – Nguyễn Trọng Bình, Cắt gọt “Tôi đi học” từ sách giáo khoa lớp 8 xuống lớp 1 là cách làm tùy tiện – Bộ Giáo dục và đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018) – Chim Văn Bé, Văn bản và làm văn – Rèn luyện kĩ năng viết văn bản nghị luận, Trường Đại học Cần Thơ, 2008. * Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả, tiêu đề bài viết do Tòa soạn đặt lại.
Phản biện tác giả Nguyễn Trọng Bình về văn bản “Tôi đi học” trong sách giáo khoa Việc rút gọn văn bản để đưa vào sách giáo khoa có thể chưa phải là giải pháp tối ưu nhưng đó chắc chắn không phải là cách làm tùy tiện, ngẫu hứng. Trao đổi về việc cắt gọn văn bản “ Tôi đi học ” trong cuốn sách giáo khoa tiếng Việt, tập 2, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, cô giáo Thanh Nguyên – một giáo viên Ngữ văn ở Trà Vinh đã có bài viết phân tích, phản biện với tác giả Nguyễn Trọng Bình. Bàn về văn bản “ Tôi đi học” (theo Thanh Tịnh) xuất hiện trong sách giáo khoa tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, có nhiều ý kiến xuất hiện trên báo và cả mạng xã hội rất đáng quan tâm, trong đó có một ý kiến cho rằng: Trong cuộc đời của mỗi con người, có rất nhiều “buổi mai”. Cụm “ một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh ” trong nguyên tác rất quan trọng. Nó có ý nghĩa và tác dụng giải thích đồng thời nhấn mạnh đến cái “ buổi mai hôm ấy ” – cái lần đầu tiên trong đời mà tác giả được mẹ mình “ âu yếm nắm tay dẫn đi trên con đường dài và hẹp” để đến ngôi trường làng. Vậy nên, tôi lấy làm lạ là tại sao Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng vốn là một chuyên gia ngôn ngữ lại có thể tùy tiện cắt gọt và gộp lại 2 câu văn của Thanh Tịnh thành một câu như thế? Việc làm này theo chúng tôi, đã vô tình làm méo mó nội dung, ý nghĩa, khiến khó nhận ra cái hồn cốt, văn phong cũng như sắc thái tình cảm, cảm xúc của cố nhà văn Thanh Tịnh trong nguyên tác “ Tôi đi học “. Chúng tôi xin có ý kiến trao đổi thêm với tác giả bài viết trên như sau: 1. Xem xét từ góc độ yêu cầu cần đạt của môn tiếng Việt 1 theo Chương trình 2018 Tập trung vào năng lực đọc hiểu văn bản văn học, Chương trình yêu cầu như sau: Đọc hiểu nội dung: Hỏi và trả lời được những câu hỏi đơn giản liên quan đến các chi tiết được thể hiện tường minh Trả lời được các câu hỏi đơn giản về nội dung cơ bản của văn bản dựa vào gợi ý, hỗ trợ. Đọc hiểu hình thức: Nhận biết được hình dáng, hành động của nhân vật thể hiện qua một số từ ngữ trong câu chuyện dựa vào gợi ý của giáo viên. Nhận biết được lời nhân vật trong truyện dựa vào gợi ý của giáo viên. [2; tr.18,19] Từ đó cho thấy, năng lực văn học thẩm bình phong cách tác giả chưa phải là yêu cầu cần đạt của môn tiếng Việt, ở khối lớp 1. Như vậy, lí do của tác giả bài viết đưa ra về việc sử dụng văn bản rút gọn sẽ khiến học sinh khó nhận ra cái hồn cốt, văn phong cũng như sắc thái tình cảm, cảm xúc của cố nhà văn Thanh Tịnh trong nguyên tác “ Tôi đi học “, vì không nằm trong yêu cầu cần đạt của chương trình, nên không phải là điểm trừ của văn bản mà tác giả sách giáo khoa đã chọn và đưa vào bộ sách của mình. 2. Xem xét từ cấu trúc sách giáo khoa và cấu trúc đơn vị bài học trong sách giáo khoa tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống Mục lục sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, chủ điểm Mái trường mến yêu với bài 1 “Tôi đi học” Nhìn vào cách sắp xếp bài học trong chủ điểm Mái trường mến yêu, chúng ta dễ nhận ra trình tự xen kẽ về thể loại: văn xuôi – thơ – văn xuôi – thơ – văn xuôi – thơ. Như vậy để phục vụ cho một đơn vị bài học, tác giả biên soạn sách giáo khoa phải huy động đồng thời nhiều văn bản với một ma trận yêu cầu cần đạt (về thể loại văn bản, về đơn vị kiến thức tiếng Việt, về phục vụ 4 kĩ năng đọc – viết – nói – nghe,…). Chính vì vậy, nếu ai không tiếp cận trọn vẹn cuốn sách giáo khoa này sẽ nghĩ đến việc sao không thay văn bản “ Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) đó bằng một văn bản khác (có người đề xuất văn bản Đi học, trùng với văn bản 2 của chủ điểm vì không biết rằng nó cũng đã được tác giả sách giáo khoa huy động; có người đề xuất “ Con cò be bé ”, hay “ Mẹ đi vắng ” là ca từ của bài hát thiếu nhi, thì ngôn ngữ của các văn bản đó gần với thơ, trong khi cuốn sách đang cần một văn bản văn xuôi cho chủ điểm này, bên cạnh 2 văn bản văn xuôi. Mặt khác, nhìn lại toàn bộ tiến trình hoạt động dạy học được thiết kế trong sách giáo khoa liên quan trực tiếp đến văn bản “Tôi đi học” (theo Thanh Tịnh), nhất là hệ thống câu hỏi kèm theo trước, trong và sau khi đọc văn bản, chúng ta nhận thấy nó đạt yêu cầu về năng lực đọc hiểu văn bản văn học quy định trong chương trình 2018 đã nêu ở trên. 3.Xem xét từ phương pháp xử lí ngữ liệu khi đưa vào sách giáo khoa Ai cũng hiểu nếu chọn và đưa được nguyên tác vào sách giáo khoa là một cách làm rất đúng đắn, ít gây ra tranh cãi (tiền đề là văn bản đó đã thỏa mãn yêu cầu khoa học và sư phạm). Song song đó, ai cũng hiểu đặc thù của ngữ liệu trong sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học, và nhất là lớp 1, còn có những đòi hỏi khắt khe về tỉ lệ từ vựng, ngữ âm,… đã học của trẻ. Chính vì vậy để chọn một văn bản thỏa mãn các tiêu chí ấy không hề đơn giản, và với một chủ điểm thì cần phải đến 6 văn bản phải vừa thơ vừa văn xuôi cùng ma trận yêu cầu cần đạt khác quả là một thách thức mà chúng tôi tin không một tác giả sách giáo khoa nào dám tùy tiện cả. Người biên soạn nếu không chọn được một văn bản có sẵn, họ có thể tự tạo lập một văn bản, đó cũng là một giải pháp. Tuy nhiên, cũng có một giải pháp khác đó là tóm tắt lại một văn bản đã có và đây là một giải pháp được nhiều người dùng chứ không phải là sự ngẫu hứng của tác giả bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Vấn đề bàn cãi là chất lượng của bản tóm tắt. Đây lại là một khía cạnh có khả năng dẫn đến những nhận định chủ quan vì nó chịu sự tác động của tiếp nhận văn học, sự tiếp nhận đó lại chịu ảnh hưởng của cả kí ức tiếp nhận của các thế hệ. Như vậy, để khách quan nhất, chúng ta chỉ nên xét văn bản “ Tôi đi học” (theo Thanh Tịnh) trong bộ sách và tác phẩm “ Tôi đi học” (nguyên văn Thanh Tịnh) trên cơ sở nội dung và hình cơ bản của 2 văn bản này. Thứ nhất, nội dung của văn bản gồm các thành tố đề tài, chủ đề, tình thái. [3 ; 36] Tác phẩm “ Tôi đi học ” (nguyên văn Thanh Tịnh): Đề tài: kỉ niệm ngày đi học Chủ đề: kỉ niệm ấy vô cùng sống động, gần gũi với không gian, thời gian và con người hiện ra Tình thái văn bản: thái độ trân trọng, thiết tha với kỉ niệm đó. Đọc văn bản “ Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) trong Sách giáo khoa tiếng Việt 1 (bộ Kết nối tri thức với cuộc sống), ta thấy cũng có sự triển khai nội dung rất gần với nội dung văn bản gốc. Để chủ đề của văn bản gốc được tái hiện triển khai đầy đủ, văn bản rút gọn đã khéo léo giữ lại các không gian từ con đường, ngoài và trong lớp học; con người: mẹ, thầy và bạn bè; Đó cũng chính là một ưu điểm đáng ghi nhận của văn bản rút gọn này. Văn bản này được học sinh lớp 1 học ở học kì 2, cách thời gian khai trường lớp 1 của bản thân các em khoảng 4, 5 tháng. Trong một chừng mực nào đó sẽ gợi nhắc cho các em về một kỉ niệm rất gần vừa diễn ra đối với chính các em. Thứ hai, hình thức văn bản gồm tiêu đề và chính văn, chính văn có các thuộc tính như sau: hoàn chỉnh, thống nhất, liên kết và mạch lạc. Hình thức của văn bản “ Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) thỏa mãn các thuộc tính trên. Như vậy, văn bản “Tôi đi học ” (theo Thanh Tịnh) trong bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống là một văn bản rút gọn từ tác phẩm văn học khác, bản thân nó là một văn bản thỏa mãn các thuộc tính về nội dung và hình thức cần có của một văn bản nói chung và cũng là một văn bản rút gọn không phản lại văn bản gốc của tác giả. Văn bản rút gọn có thể không giữ được trọn vẹn “hồn cốt, văn phong” của tác giả, đó là hiển nhiên, nhưng đối với văn bản rút gọn này, cá nhân tôi vẫn cảm nhận sự gợi nhớ đến văn bản gốc, và với tư cách một giáo viên đang đứng lớp, thầy/cô ấy hoàn toàn có thể chủ động mời gọi học sinh thưởng thức một trích văn từ “ Tôi đi học ” của Thanh Tịnh và tìm đọc văn bản đầy đủ của tác phẩm. Ngoài ra, không biết tác phẩm này có dịp quay lại trong sách giáo khoa cũng ở bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống ở khối lớp khác không? Khi đó, với đối tượng học sinh đã đọc thông, tác phẩm sẽ dễ dàng có cơ hội trình hiện đầy đủ và việc một tác phẩm được nhắc đi nhắc lại nhiều lần với mức độ yêu cầu đọc và hiểu khác nhau cũng là một phương pháp sư phạm chạm khắc vào ghi nhớ xưa nay. Tóm lại, việc rút gọn văn bản để đưa vào sách giáo khoa có thể chưa phải là giải pháp tối ưu, chất lượng văn bản rút gọn có thể sẽ có nhiều người khen chê, nhưng đó chắc chắn không phải là cách làm tùy tiện, ngẫu hứng của tác giả sách giáo khoa bộ Kết nối tri thức với cuộc sống trong trường hợp văn bản “ Tôi đi học “, mà nó là một giải pháp có cân nhắc, có sự thận trọng về mặt chuyên môn. Điều này rất xứng đáng được tiếp nhận và đóng góp một cách xây dựng, để học sinh có được một tài liệu học tập tốt hơn. THANH NGUYÊN* Báo Giáo Dục Việt Nam Tài liệu tham khảo: – Nguyễn Trọng Bình, Cắt gọt “Tôi đi học” từ sách giáo khoa lớp 8 xuống lớp 1 là cách làm tùy tiện – Bộ Giáo dục và đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018) – Chim Văn Bé, Văn bản và làm văn – Rèn luyện kĩ năng viết văn bản nghị luận, Trường Đại học Cần Thơ, 2008. * Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả, tiêu đề bài viết do Tòa soạn đặt lại.
Những anh em là nhà văn Mộc Uyển Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, không ít gia đình có hai, thậm chí ba anh em đều theo nghiệp viết lách. Khi nghĩ đến việc viết văn, nhiều người thường nghĩ đó là nghề lao động chữ nghĩa cần mẫn, ít người theo đuổi. Những tưởng gia đình có một người theo văn chương đã là hiếm, nhưng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại không ít gia đình có hai, thậm chí ba anh em đều theo nghiệp cầm bút. Việc xuất hiện của Tự lực văn đoàn làm thay đổi căn bản mô hình văn học trung đại với văn – thơ – phú – lục sang thơ, kịch nói, văn xuôi tiểu thuyết, tiểu luận phê bình. Đồng thời, từ các hoạt động văn hóa xã hội, báo chí, xuất bản, nhóm đã vận động cho văn minh, Âu hóa, đấu tranh cho tiến bộ xã hội dưới chế độ thực dân. Khá nhiều tác phẩm của nhóm gây được tiếng vang với bạn đọc ở thời điểm đó. Có thể kể đến như: Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Thừa tự của Khái Hưng; Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, đôi bạn của Nhất Linh; Con đường sáng của Hoàng Đạo; Gió đầu mùa của Thạch Lam; Mấy vần thơ của Thế Lữ; Dòng nước ngược của Tú Mỡ; Thơ thơ của Xuân Diệu. Cạnh đấy, nhóm còn thành lập cơ quan ngôn luận là tuần báo Phong hóa và Ngày nay . Nhóm có nhà xuất bản Đời nay để tự xuất bản sách của mình. Một gia đình ở thôn Lương Kiệt, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định cũng có ba người con đều theo văn nghiệp là Vũ Cao (tên thật Vũ Hữu Chỉnh), Vũ Ngọc Bình, Vũ Tú Nam (tên thật Vũ Tiến Nam). Người anh cả là nhà thơ Vũ Cao nổi tiếng với bài Núi Đôi : “Bảy năm về trước, em mười bảy / Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng / Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa / Bữa thì em tới, bữa anh sang”. Người anh thứ hai Vũ Ngọc Bình là một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Tác phẩm có thể kể đến như các tập thơ: Mười nàng tiên, Tiếng hót, Nhạc hoa … cùng các truyện dịch: Chuyện phiêu lưu của Mít đặc và các bạn, Chiếc hài cườm pha lê, Người báo tín hiệu và người thổi kèn hiệu … Người em út là nhà văn Vũ Tú Nam viết đa dạng hơn ở các mảng đề tài, với các tập truyện như: Bên đường 12, Quê hương, Sống với thời gian hai chiều… ; tập thơ: Túc tắc ; ở mảng thiếu nhi nổi tiếng nhất với truyện Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công . Ông từng làm Tổng thư ký Hội Nhà văn khóa IV. Nhịp đôi văn chương Nhịp đôi ở đây là anh em trong gia đình cùng theo đuổi nghề văn. Có thể kể đến hai nhà thơ Trần Nhuận Minh và Trần Đăng Khoa. Nhà thơ Trần Đăng Khoa được độc giả biết đến sớm với tập thơ Từ góc sân nhà em (sau tái bản, chỉnh sửa, bổ sung mang tên Góc sân và khoảng trời) in năm 1968 lúc vừa mười tuổi, tính đến nay đã tái bản hơn một trăm lần. Nhà thơ Trần Nhuận Minh được biết đến muộn hơn, ông in tập thơ đầu Đấy là tình yêu vào năm 1971. Sau này, dù vị trí công tác, phong cách sáng tác khác nhau hai anh em vẫn giúp đỡ nhau trong lĩnh vực thi ca. Nhà thơ Trần Đăng Khoa có bài thơ cảm động, thấm đẫm tình huynh đệ mang tên Gửi bác Trần Nhuận Minh với những câu như: “… Bỏ làng ra thành phố / Hai anh em thợ cày / Thân cũng như hoa cỏ / Hồn gửi vào gió mây…/ Bác âm thầm chìm nổi / Cùng kiếp người lang thang / Em lông nhông bầu bạn / Với kiến đen chó vàng…” Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, tác giả của những tập kịch thơ nổi tiếng như: Chu Du đại chiến Uất Trì, Yêu Ly, Lê Lai đổi áo, Kiều Công Tiễn, Quán Thăng Long, Cô Giang, Hoàng Hoa Thám… , chính là anh trai của nhà thơ Lưu Trùng Dương, tác giả của những tập thơ và tiểu thuyết: Những người đáng yêu nhất, Nỗi nhớ màu xanh, Bài thơ về chim hải âu, Họ đi tìm thiên đường, Con đường sắt vô hình… Chính niềm say mê với thơ và kịch của nhà thơ Lưu Quang Thuận đã để lại dấu ấn sâu đậm với con trai ông, nhà thơ Lữu Quang Vũ, cùng nhà nghiên cứu văn học Lưu Khánh Thơ. Chẳng thế mà nhà nghiên cứu văn học Lưu Khánh thơ từng viết về con đường nghiên cứu của mình như sau: “Tôi may mắn được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu thích văn chương. Các thành viên trong gia đình tôi đều mang nợ văn chương từ trong huyết quản. Văn chương cũng như tình yêu, làm cho con người phong phú và giàu có hơn”. Gần đây có thể kể đến tác giả của Quân khu Nam Đồng và Đi trốn, nhà văn Bình Ca. Cái tên Bình Ca lần đầu xuất hiện ở Quân khu Nam Đồng khiến nhiều người tò mò. Sau một thời gian độc giả “truy lùng”, được biết tên thật của ông là Trần Hữu Bình. Ông là anh trai của nhà thơ Hữu Việt (tên thật Trần Hữu Việt), người được biết đến với các tập thơ Phố lạc tiên, Đếm mùa, Mắt bò… Bình Ca và Hữu Việt là con của nhà văn Hữu Mai (tên thật Trần Hữu Mai), tác giả của những bộ tiểu thuyết lừng danh một thời như: Cao điểm cuối cùng, Vùng trời, Ông cố vấn … Nhà văn Hữu Mai cũng là người thể hiện những hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua các tập: Từ nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử. Dịch giả của những cuốn sách “khó nhằn” như: Đốn hạ, Diệt vong của Thomas Bernhard, Thời nắng lịm của Eugen Ruge, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz là Hoàng Đăng Lãnh, hiện sinh sống và làm việc ở Đức. Ít người biết ông là anh trai của nhà văn Bảo Ninh (tên thật Hoàng Ấu Phương), tác giả của Nỗi buồn chiến tranh và là con của giáo sư ngôn ngữ học Hoàng Tuệ. Qua đây mới thấy mầm văn chương mọc lạ lắm, lúc thì một, khi thì đôi ba mầm trong cùng một gia đình. Những mầm này khi mọc lên thường nương nhau, nói cách khác bao bọc, che chở nhau trong nghiệp cầm bút.
The brothers are writers Moc Uyen In history literature In modern Vietnam, many families have two or even three brothers pursuing a career in writing. When thinking about writing, many people often think of it as a hard-working, literate profession that few people pursue. It was thought that having a literary person in the family was rare, but in history In modern Vietnamese literature, many families have two or even three brothers who all pursue writing careers. The appearance of the Tu Luc Van Doan fundamentally changed the model of medieval literature from prose - poetry - rich - luc to poetry, drama, prose novels, and critical essays. At the same time, from social and cultural activities, journalism, and publishing, the group campaigned for civilization, Europeanization, and fought for social progress under colonialism. Quite a few of the group's works resonated with you read at that time. May be mentioned as: The soul of a butterfly dreams of a fairy, Halfway through spring, Inheritance by Khai Hung; Break up, Cold, couple by Nhat Linh; Bright path of the Zodiac; The first wind of the season by Thach Lam; Some poems by The Lu; Backward by Tu Mo; Poetry poetry by Xuan Dieu. Besides that, the group also established a mouthpiece, a weekly newspaper Weathered and Nowadays . The group has a publishing house This Life to self-publish their books. A family in Luong Kiet village, Lien Minh commune, Vu Ban district, province Nam Dinh He also has three children who all pursue literary careers: Vu Cao (real name Vu Huu Chinh), Vu Ngoc Binh, Vu Tu Nam (real name Vu Tien Nam). The eldest brother was poet Vu Cao, famous for his poems Two moutain : "Seven years ago, I was seventeen / I was only 20, the youngest in the village / Xuan Duc, Doai Dong two fields of rice / Some days you come, some days I come." The second brother Vu Ngoc Binh is a writer specializing in writing for children. The works can be mentioned as poetry collections: Ten fairies, Singing songs, Flower music …with translated stories: The Adventures of Jackfruit and His Friends, The Crystal Beaded Slipper, The Signalman and the Trumpeter … The youngest brother, writer Vu Tu Nam, writes more diversely on topics, with collections of stories such as: Side of Street 12, Hometown, Living with two-way time... ; poetry collection: Tuc Tac ; In the children's section, it is most famous for its stories The adventure of General Van Ngan . He used to be General Secretary of the Writers' Association, term IV. Literary double rhythm The couple here is brothers in the same family pursuing the same literary career. We can mention two poets Tran Nhuan Minh and Tran Dang Khoa. Poet Tran Dang Khoa became known to readers early with his collection of poems From the Corner of My Yard (later republished, edited, and supplemented with the title Corner of the Yard and the Sky) published in 1968 at the age of ten, and has since been republished. copies more than a hundred times. Poet Tran Nhuan Minh became known later, he published his first collection of poems That's love in 1971. Later, despite their different working positions and writing styles, the two brothers still helped each other in the field of poetry. Poet Tran Dang Khoa has a touching poem imbued with brotherly love called Dear Mr. Tran Nhuan Minh with lines like: “… Leaving the village for the city / Two plowmen brothers / Bodies are like flowers and grass / Souls sent to the wind and clouds... / Uncle silently floats / Along with the life of a wanderer / I am your companion / With black ants and yellow dogs…” Poet and playwright Luu Quang Thuan, author of famous poetic plays such as: Chu Du fought against Uat Tri, Yeu Ly, Le Lai changed clothes, Kieu Cong Tien, Quan Thang Long, Co Giang, Hoang Hoa Tham... , is the brother of poet Liu Chongyang, author of poetry collections and novels: The loveliest people, Blue nostalgia, Poem about seagulls, They seek paradise, The invisible railway... It was poet Luu Quang Thuan's passion for poetry and drama that left a deep impression on his son, poet Luu Quang Vu, and literary researcher Luu Khanh Tho. That's why literary researcher Luu Khanh once wrote about his research path as follows: "I was fortunate to be born and raised in a family with a tradition of loving literature. My family members all have literature in their blood. Literature, like love, makes people richer and richer. Recently we can mention the author of Nam Dong Military Region and Go hide, writer Binh Ca. The name Binh Ca first appeared in Nam Dong Military Region makes many people curious. After a period of "hunting" readers learned that his real name is Tran Huu Binh. He is the older brother of poet Huu Viet (real name Tran Huu Viet), who is known for his poetry collections Passion Street, Counting the Seasons, Cow's Eye... Binh Ca and Huu Viet are the children of writer Huu Mai (real name Tran Huu Mai), author of famous novels such as: Final climax, Skyspace, Mr. Advisor … Writer Huu Mai is also the one who expressed the memories of General Vo Nguyen Giap through the episodes: From the people, Unforgettable years, Fighting in siege, Road to Dien Bien Phu, Dien Bien Phu historical rendezvous. Translator of "difficult" books such as: Cut down, Destroy by Thomas Bernhard, Sunny time by Eugen Ruge, German Literature Hour Siegfried Lenz's name is Hoang Dang Lanh, currently living and working in Germany. Few people know that he is the brother of writer Bao Ninh (real name Hoang Au Phuong), author of The sadness of war and is the son of linguistics professor Hoang Tue. Through here, I see that literary sprouts grow very strangely, sometimes one, sometimes two or three in the same family. When these sprouts grow, they often rely on each other, in other words, cover and protect each other in their career as a writer.
Tô Hoài không thiêng hóa nghề văn Vương Trí Nhàn Trong khi nhiều người lý tưởng hóa, coi nghề viết là thiêng liêng, Tô Hoài nói nghề văn như dệt cửi, phải chăm chỉ đầu hôm tối mai. Có một căn bệnh thoạt nhìn cũng vô can, song bởi vậy, nên khó chữa, nó tồn tại ở nhiều nhà văn Việt Nam và để lại nhiều giai thoại ngồ ngộ, đó là sự lý tưởng hóa nghề nghiệp, xem nghề của mình một chiều thiêng liêng, người làm nghề toàn hạng tâm huyết với nhiệt tình. Mặc dù không cố ý, song loại người mắc bệnh này động nói tới văn chương là ngả sang giọng rưng rưng cảm động. Chữ nghĩa được dùng cao sang. Làm như ở đây toàn là thánh thần cả! Phải thành thật mà thú nhận là lúc mới vào nghề, tôi cũng không tránh khỏi căn bệnh quý hóa đó. Chỉ dần dần, dạn dĩ lên trong tiếp xúc, tôi mới tìm tới được một cách nghĩ về văn chương tạm gọi là phải chăng. Và một trong những người giúp tôi có cách nghĩ hợp lý hơn này, là Tô Hoài. Như trên vừa kể, trong những năm cộng tác với đề tài khoa học KX-06-17, tôi có dịp tiếp xúc với nhà văn này gần như hàng tuần và sớm nhận ra một điều: Không muốn thì thôi, còn khi đã muốn, ông có cái lối riêng để đến gần mọi người. Những lúc có vài phút dư thừa, ngồi tán hão bên bàn, nếu cần xích lại với người đang nói chuyện với mình, ông chỉ cần vài câu, diễn tả đúng cái đơn giản tầm thường của đời sống, trước tiên là về chính mình, thế là mọi khoảng cách bị xóa sạch. Một lần, nghe chúng tôi hỏi có những tác phẩm nào sắp cho in, Tô Hoài cắt nghĩa giản dị: – Ấy toàn của xếp hàng từ mấy năm trước. Cần có cái in ra để thỉnh thoảng làm một hai chén với anh em, lại phải có món để mang về cho bà nó đong gạo nữa chứ. Một lần khác, đến một nhà xuất bản nọ, trước khi ngồi nán lại một lúc, ông nhờ gọi điện về nhà nhắn với đứa cháu ngoại là bảo bà cho ông ăn cơm trưa với: – Sao lại phải gọi về thế anh? – Hàng ngày chúng tôi vẫn gọi Tô Hoài là anh, dù biết người đối thoại với mình đã trên 70 từ lâu. – Nghe có mình về, bà ấy còn làm thêm tí thức ăn, chứ không có mấy bà cháu ở nhà, lại trần xì có nồi cơm nguội. Khi nói về những chuyện này Tô Hoài chỉ mỉm một nụ cười nhũn nhặn, con mắt lim dim gật gù, như có ý muốn nói: Chúng ta cùng một cảnh ngộ cả, tôi có khác gì các anh các chị đâu. Và mặc dù nói đông nói tây đủ thứ song cách nói chuyện của Tô Hoài vẫn dẽ dàng tự nhiên không mang tiếng là người nói nhiều, nói át người khác. Nam Cao là một nhân vật lớn của cả văn học tiền chiến lẫn những năm sau 1945. Bản thân Tô Hoài trước sau đã viết năm sáu bài, khi để tưởng nhớ Nam Cao, khi để phân tích quá trình trưởng thành của một nhà văn cùng lớn lên từ cuộc sống cần lao như mình. Song trong khi miêu tả Nam Cao đáng yêu đáng quý, Tô Hoài vẫn cho người ta thấy nhà văn rất gần với mọi người. Nào những băn khoăn của Nam Cao muốn kiếm một cái vé sợi cho vợ. Nào những thèm muốn thường tình ở anh giáo nghèo khi từ nhà quê, nhìn vào đời sống thành thị. Và đây công việc viết văn của Tô Hoài mà cũng là của Nam Cao: “Mỗi tháng chúng tôi túi bụi bận viết vào mấy ngày cuối tháng. Đã vào nghề viết, nhưng nghề thế nào tôi không bao giờ có được kinh nghiệm và thành thạo, chỉ biết lúc nào cũng là nỗi dằn vặt. Cứ sắp đến ngày hẹn đem truyện xuống nhà xuất bản tôi mới ráo riết, cắm cúi thâu đêm. Có khi, chúng tôi phải viết đổi tay cho nhau mới làm kịp. Nam Cao thạo tả nhân vật, tôi nhờ anh viết cho tôi những đoạn như thế. Lúc Nam Cao buồn ngủ hay chán viết, anh bảo tôi: ‘Cậu làm hộ mình thế này nhé. Sắp mưa, bờ ao có bụi tre. Buổi chiều. Mấy trang cũng được’. Tôi vốn thích tả cảnh. Tôi lia hộ bạn vài trang như anh đã phác. Cũng là một thứ công ti”, (trích Tự truyện của Tô Hoài, NXB Văn học 1985). Trước mắt chúng ta, công việc viết văn hiện ra lam lũ, như nghề dệt cửi đầu hôm tối mai mà Tô Hoài vẫn tả. Sống mòn là một tác phẩm mang nhiều yếu tố tự truyện của Nam Cao. Đã có một nhà văn lớp sau xem cái gì tác giả Chí Phèo viết ra cũng là lý tưởng, khi giải thích tại sao trước 1945 cuốn Sống mòn này không in ra được, đã khoác cho sự việc một cớ rất sang: Bởi nó đặt các vấn đề xã hội một cách xa xôi kín đáo nên Sở kiểm duyệt cũ của thực dân ngửi hơi thấy và xoay đi xoay lại nhiều lần không cho in. Song, là người chứng kiến việc Nam Cao viết Sống mòn từ đầu, Tô Hoài lại hé ra cho bạn đọc thấy một sự thực khác. Theo Tô Hoài, khi viết xong tiểu thuyết (mà ban đầu gọi là Chết mòn), Nam Cao hay nói nửa đùa nửa thật: “Bao giờ những người trong tiểu thuyết này chết đi, mình mới đem in được sách. In bây giờ thì không dám nhìn mặt ai nữa”. Vả chăng hồi đó Nam Cao chưa thành một cái tên để người ta nhận in tiểu thuyết dày, Tô Hoài nói thêm. Hóa ra chỉ đơn giản có thế! Biết những chuyện này, chúng ta không chán Sống mòn mà chỉ thấy mừng là một quyển sách như thế lang bạt suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, may mắn sao lại còn sống sót để tồn tại vĩnh viễn trong văn học Việt Nam. Cũng như biết thêm con người yếu đuối, con người cái gì cũng thèm, cái gì cũng tiếc của Nam Cao, chúng ta càng quý cái sự vượt lên của ông và càng cắt nghĩa được tại sao người ta có thể đọc Nam Cao mãi. Những tầm thường vốn có không làm hại tình cảm của chúng ta đối với nhau. Ngược lại đằng khác. Với người sống lâu trong nghề nói là một lý do để an ủi: Đấy, điều kiện sống của chúng ta eo hẹp vậy, làm sao để có tác phẩm lớn được. Mà làm thế nào biết được tác phẩm ấy sẽ lớn, sẽ sống mãi, thôi hãy sống nhì nhằng qua ngày! Riêng với người còn đang định vào nghề, nó là một lời cảnh tỉnh, nghề văn vất vả lắm, anh có chịu được thì hãy đến. Bằng cái biết cái hiểu của người trong cuộc, rỉ rả mỗi ngày một tí, Tô Hoài hé ra những sự thật chung quanh cái nghề mà ông thành thạo, theo cái hướng như thế. Kể làm sao hết những sự thực nghề nghiệp mà Tô Hoài đã nói tới đây đó vui vui mà đau xót. Nhắc đến Nguyễn Công Hoan, bên cạnh câu chuyện nghiêm chỉnh viết thư xin phép cho diễn Tấm lòng vàng , là những chuyện buồn cười, Nguyễn Công Hoan khi về già viết truyện cổ lỗ thế nào trong khi lại chủ quan, thơ ngây với sự đời ra sao. Liên quan Nguyên Hồng là câu chuyện đi khuân thùng bia hộ mấy bà phe phẩy. Trong hình ảnh thân thuộc của Nguyễn Bính, có hình ảnh anh chàng si tình cầm chiếc hộp sắt đầy những lá thư tình dở hơi. Hình như Tô Hoài muốn tìm lấy sự công bằng, trong khi vẫn giữ một tình cảm ấm áp giữa các đồng nghiệp, và nhiều lần, chỉ cần một nhận xét bỏ nhỏ thôi, ông phác ra cả một tính cách. Về một nhà văn nổi tiếng viết về đời sống nông thôn: – Tranh chánh hội mấy lượt không được, nên cái sự cụ ấy ghét cường hào có gì là lạ! Về một nhà văn say rượu tự mình làm hỏng cuộc đời của mình vì rượu : – Ông này đi họp với tôi ở Liên Xô mấy lần, từ máy bay xuống đã say, trước cái vòng quay trả hành lý, có mỗi cái vali cũng không lấy nổi: Cứ chạm vào lại trượt, lại phải chờ vòng quay sau, say như thế nên mới hỏng cả người. Về một nhà thơ, chỗ nào cũng có mặt, mà thơ thẩn thì không ra sao: – Cứ trông thấy thơ của ông ấy là tôi phải đọc. Đọc vì tò mò. Đọc cho nó đỡ buồn. Về một giọng văn “công chức bẩm sinh”: – Lúc nào văn ông ấy cũng nhạt, chỉ không biết lúc nào thì nhạt thật, mà lúc nào nhạt giả. Mỗi người một vẻ, cuộc đời khá nhiều các bạn đồng nghiệp đi qua, để lại trong Tô Hoài những ấn tượng hơi buồn: Chúng ta sống không ra sao, đáng lẽ chúng ta phải biết mình biết người hơn, phải sống và viết cho khá hơn, mà cũng ra người hơn một chút, chứ thế này sao tiện?! Cùng với việc lý tưởng hóa nghề nghiệp, có một nguyên tắc không ghi thành văn bản chi phối quan hệ giữa những người viết văn là để chuyện tiền nong sang một bên, không đả động đến nó bao giờ. Có thể là trong câu chuyện hàng ngày cũng đôi khi người ta hỏi nhau, kháo nhau tỉ mỉ và nhất là trong đầu óc từng người, việc so đo tính viết thế này cho báo này được tiền hơn, viết thế kia, gửi cho báo kia, được ít lắm… những chuyện ấy luôn luôn trở đi trở lại, song viết ra thì không, hầu như là chuyện cấm kỵ. Về phần mình, Tô Hoài công khai bày ra sự tính đếm của mình khá sớm. Sao báo Chủ nhật đăng truyện mà không trả tiền cho mình? Nhuận bút một truyện in trong Hà Nội tân văn là bao nhiêu, tương đương ra sao với thu nhập của một anh thư ký hãng buôn? Cách ký hợp đồng của các ông chủ xuất bản thời xưa… Cách nhận bản thảo… Bấy nhiêu chuyện đã kể không làm cho người ta thấy văn chương hèn hạ mà ngược lại nó giúp người đọc nhận ra những xót xa còn ẩn giấu giữa những dòng chữ. – Mấy năm 1943-1944, có lệ là sáng mồng một, phải đến mừng tuổi ông Tân Dân. Mừng tuổi thế nào? Dọn dẹp cỗ bàn cúng giao thừa xong, tôi còn ngồi lia luôn được một cái truyện. Đến nơi, mừng tuổi ông ấy cái truyện mới viết, thì ông mừng tuổi lại năm đồng. Thế là hòa, mà lại được cái tiếng lịch sự (Truyện Tết viết năm nay, ông cất vào kho, để sang năm, lại in vào số Tết). – Nhuận bút báo Tết có cao hơn báo thường? – Không. Nhưng người viết văn ngày xưa có cái sướng hơn hẳn người viết văn bây giờ là tiền ấy, do chính tay ông chủ trao, chứ không phải như bây giờ, giám đốc chỉ tay bảo mình ra gặp kế toán, rồi có tiền thì có kế toán bảo đến đấy mà lấy, không có tiền bảo hôm khác đến, muốn hành thế nào mình cũng phải chịu.
Tô Hoài không thiêng hóa nghề văn Vương Trí Nhàn Trong khi nhiều người lý tưởng hóa, coi nghề viết là thiêng liêng, Tô Hoài nói nghề văn như dệt cửi, phải chăm chỉ đầu hôm tối mai. Có một căn bệnh thoạt nhìn cũng vô can, song bởi vậy, nên khó chữa, nó tồn tại ở nhiều nhà văn Việt Nam và để lại nhiều giai thoại ngồ ngộ, đó là sự lý tưởng hóa nghề nghiệp, xem nghề của mình một chiều thiêng liêng, người làm nghề toàn hạng tâm huyết với nhiệt tình. Mặc dù không cố ý, song loại người mắc bệnh này động nói tới văn chương là ngả sang giọng rưng rưng cảm động. Chữ nghĩa được dùng cao sang. Làm như ở đây toàn là thánh thần cả! Phải thành thật mà thú nhận là lúc mới vào nghề, tôi cũng không tránh khỏi căn bệnh quý hóa đó. Chỉ dần dần, dạn dĩ lên trong tiếp xúc, tôi mới tìm tới được một cách nghĩ về văn chương tạm gọi là phải chăng. Và một trong những người giúp tôi có cách nghĩ hợp lý hơn này, là Tô Hoài. Như trên vừa kể, trong những năm cộng tác với đề tài khoa học KX-06-17, tôi có dịp tiếp xúc với nhà văn này gần như hàng tuần và sớm nhận ra một điều: Không muốn thì thôi, còn khi đã muốn, ông có cái lối riêng để đến gần mọi người. Những lúc có vài phút dư thừa, ngồi tán hão bên bàn, nếu cần xích lại với người đang nói chuyện với mình, ông chỉ cần vài câu, diễn tả đúng cái đơn giản tầm thường của đời sống, trước tiên là về chính mình, thế là mọi khoảng cách bị xóa sạch. Một lần, nghe chúng tôi hỏi có những tác phẩm nào sắp cho in, Tô Hoài cắt nghĩa giản dị: – Ấy toàn của xếp hàng từ mấy năm trước. Cần có cái in ra để thỉnh thoảng làm một hai chén với anh em, lại phải có món để mang về cho bà nó đong gạo nữa chứ. Một lần khác, đến một nhà xuất bản nọ, trước khi ngồi nán lại một lúc, ông nhờ gọi điện về nhà nhắn với đứa cháu ngoại là bảo bà cho ông ăn cơm trưa với: – Sao lại phải gọi về thế anh? – Hàng ngày chúng tôi vẫn gọi Tô Hoài là anh, dù biết người đối thoại với mình đã trên 70 từ lâu. – Nghe có mình về, bà ấy còn làm thêm tí thức ăn, chứ không có mấy bà cháu ở nhà, lại trần xì có nồi cơm nguội. Khi nói về những chuyện này Tô Hoài chỉ mỉm một nụ cười nhũn nhặn, con mắt lim dim gật gù, như có ý muốn nói: Chúng ta cùng một cảnh ngộ cả, tôi có khác gì các anh các chị đâu. Và mặc dù nói đông nói tây đủ thứ song cách nói chuyện của Tô Hoài vẫn dẽ dàng tự nhiên không mang tiếng là người nói nhiều, nói át người khác. Nam Cao là một nhân vật lớn của cả văn học tiền chiến lẫn những năm sau 1945. Bản thân Tô Hoài trước sau đã viết năm sáu bài, khi để tưởng nhớ Nam Cao, khi để phân tích quá trình trưởng thành của một nhà văn cùng lớn lên từ cuộc sống cần lao như mình. Song trong khi miêu tả Nam Cao đáng yêu đáng quý, Tô Hoài vẫn cho người ta thấy nhà văn rất gần với mọi người. Nào những băn khoăn của Nam Cao muốn kiếm một cái vé sợi cho vợ. Nào những thèm muốn thường tình ở anh giáo nghèo khi từ nhà quê, nhìn vào đời sống thành thị. Và đây công việc viết văn của Tô Hoài mà cũng là của Nam Cao: “Mỗi tháng chúng tôi túi bụi bận viết vào mấy ngày cuối tháng. Đã vào nghề viết, nhưng nghề thế nào tôi không bao giờ có được kinh nghiệm và thành thạo, chỉ biết lúc nào cũng là nỗi dằn vặt. Cứ sắp đến ngày hẹn đem truyện xuống nhà xuất bản tôi mới ráo riết, cắm cúi thâu đêm. Có khi, chúng tôi phải viết đổi tay cho nhau mới làm kịp. Nam Cao thạo tả nhân vật, tôi nhờ anh viết cho tôi những đoạn như thế. Lúc Nam Cao buồn ngủ hay chán viết, anh bảo tôi: ‘Cậu làm hộ mình thế này nhé. Sắp mưa, bờ ao có bụi tre. Buổi chiều. Mấy trang cũng được’. Tôi vốn thích tả cảnh. Tôi lia hộ bạn vài trang như anh đã phác. Cũng là một thứ công ti”, (trích Tự truyện của Tô Hoài, NXB Văn học 1985). Trước mắt chúng ta, công việc viết văn hiện ra lam lũ, như nghề dệt cửi đầu hôm tối mai mà Tô Hoài vẫn tả. Sống mòn là một tác phẩm mang nhiều yếu tố tự truyện của Nam Cao. Đã có một nhà văn lớp sau xem cái gì tác giả Chí Phèo viết ra cũng là lý tưởng, khi giải thích tại sao trước 1945 cuốn Sống mòn này không in ra được, đã khoác cho sự việc một cớ rất sang: Bởi nó đặt các vấn đề xã hội một cách xa xôi kín đáo nên Sở kiểm duyệt cũ của thực dân ngửi hơi thấy và xoay đi xoay lại nhiều lần không cho in. Song, là người chứng kiến việc Nam Cao viết Sống mòn từ đầu, Tô Hoài lại hé ra cho bạn đọc thấy một sự thực khác. Theo Tô Hoài, khi viết xong tiểu thuyết (mà ban đầu gọi là Chết mòn), Nam Cao hay nói nửa đùa nửa thật: “Bao giờ những người trong tiểu thuyết này chết đi, mình mới đem in được sách. In bây giờ thì không dám nhìn mặt ai nữa”. Vả chăng hồi đó Nam Cao chưa thành một cái tên để người ta nhận in tiểu thuyết dày, Tô Hoài nói thêm. Hóa ra chỉ đơn giản có thế! Biết những chuyện này, chúng ta không chán Sống mòn mà chỉ thấy mừng là một quyển sách như thế lang bạt suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, may mắn sao lại còn sống sót để tồn tại vĩnh viễn trong văn học Việt Nam. Cũng như biết thêm con người yếu đuối, con người cái gì cũng thèm, cái gì cũng tiếc của Nam Cao, chúng ta càng quý cái sự vượt lên của ông và càng cắt nghĩa được tại sao người ta có thể đọc Nam Cao mãi. Những tầm thường vốn có không làm hại tình cảm của chúng ta đối với nhau. Ngược lại đằng khác. Với người sống lâu trong nghề nói là một lý do để an ủi: Đấy, điều kiện sống của chúng ta eo hẹp vậy, làm sao để có tác phẩm lớn được. Mà làm thế nào biết được tác phẩm ấy sẽ lớn, sẽ sống mãi, thôi hãy sống nhì nhằng qua ngày! Riêng với người còn đang định vào nghề, nó là một lời cảnh tỉnh, nghề văn vất vả lắm, anh có chịu được thì hãy đến. Bằng cái biết cái hiểu của người trong cuộc, rỉ rả mỗi ngày một tí, Tô Hoài hé ra những sự thật chung quanh cái nghề mà ông thành thạo, theo cái hướng như thế. Kể làm sao hết những sự thực nghề nghiệp mà Tô Hoài đã nói tới đây đó vui vui mà đau xót. Nhắc đến Nguyễn Công Hoan, bên cạnh câu chuyện nghiêm chỉnh viết thư xin phép cho diễn Tấm lòng vàng , là những chuyện buồn cười, Nguyễn Công Hoan khi về già viết truyện cổ lỗ thế nào trong khi lại chủ quan, thơ ngây với sự đời ra sao. Liên quan Nguyên Hồng là câu chuyện đi khuân thùng bia hộ mấy bà phe phẩy. Trong hình ảnh thân thuộc của Nguyễn Bính, có hình ảnh anh chàng si tình cầm chiếc hộp sắt đầy những lá thư tình dở hơi. Hình như Tô Hoài muốn tìm lấy sự công bằng, trong khi vẫn giữ một tình cảm ấm áp giữa các đồng nghiệp, và nhiều lần, chỉ cần một nhận xét bỏ nhỏ thôi, ông phác ra cả một tính cách. Về một nhà văn nổi tiếng viết về đời sống nông thôn: – Tranh chánh hội mấy lượt không được, nên cái sự cụ ấy ghét cường hào có gì là lạ! Về một nhà văn say rượu tự mình làm hỏng cuộc đời của mình vì rượu : – Ông này đi họp với tôi ở Liên Xô mấy lần, từ máy bay xuống đã say, trước cái vòng quay trả hành lý, có mỗi cái vali cũng không lấy nổi: Cứ chạm vào lại trượt, lại phải chờ vòng quay sau, say như thế nên mới hỏng cả người. Về một nhà thơ, chỗ nào cũng có mặt, mà thơ thẩn thì không ra sao: – Cứ trông thấy thơ của ông ấy là tôi phải đọc. Đọc vì tò mò. Đọc cho nó đỡ buồn. Về một giọng văn “công chức bẩm sinh”: – Lúc nào văn ông ấy cũng nhạt, chỉ không biết lúc nào thì nhạt thật, mà lúc nào nhạt giả. Mỗi người một vẻ, cuộc đời khá nhiều các bạn đồng nghiệp đi qua, để lại trong Tô Hoài những ấn tượng hơi buồn: Chúng ta sống không ra sao, đáng lẽ chúng ta phải biết mình biết người hơn, phải sống và viết cho khá hơn, mà cũng ra người hơn một chút, chứ thế này sao tiện?! Cùng với việc lý tưởng hóa nghề nghiệp, có một nguyên tắc không ghi thành văn bản chi phối quan hệ giữa những người viết văn là để chuyện tiền nong sang một bên, không đả động đến nó bao giờ. Có thể là trong câu chuyện hàng ngày cũng đôi khi người ta hỏi nhau, kháo nhau tỉ mỉ và nhất là trong đầu óc từng người, việc so đo tính viết thế này cho báo này được tiền hơn, viết thế kia, gửi cho báo kia, được ít lắm… những chuyện ấy luôn luôn trở đi trở lại, song viết ra thì không, hầu như là chuyện cấm kỵ. Về phần mình, Tô Hoài công khai bày ra sự tính đếm của mình khá sớm. Sao báo Chủ nhật đăng truyện mà không trả tiền cho mình? Nhuận bút một truyện in trong Hà Nội tân văn là bao nhiêu, tương đương ra sao với thu nhập của một anh thư ký hãng buôn? Cách ký hợp đồng của các ông chủ xuất bản thời xưa… Cách nhận bản thảo… Bấy nhiêu chuyện đã kể không làm cho người ta thấy văn chương hèn hạ mà ngược lại nó giúp người đọc nhận ra những xót xa còn ẩn giấu giữa những dòng chữ. – Mấy năm 1943-1944, có lệ là sáng mồng một, phải đến mừng tuổi ông Tân Dân. Mừng tuổi thế nào? Dọn dẹp cỗ bàn cúng giao thừa xong, tôi còn ngồi lia luôn được một cái truyện. Đến nơi, mừng tuổi ông ấy cái truyện mới viết, thì ông mừng tuổi lại năm đồng. Thế là hòa, mà lại được cái tiếng lịch sự (Truyện Tết viết năm nay, ông cất vào kho, để sang năm, lại in vào số Tết). – Nhuận bút báo Tết có cao hơn báo thường? – Không. Nhưng người viết văn ngày xưa có cái sướng hơn hẳn người viết văn bây giờ là tiền ấy, do chính tay ông chủ trao, chứ không phải như bây giờ, giám đốc chỉ tay bảo mình ra gặp kế toán, rồi có tiền thì có kế toán bảo đến đấy mà lấy, không có tiền bảo hôm khác đến, muốn hành thế nào mình cũng phải chịu.
Giá trị tích cực trong truyện Nguyễn Nhật Ánh GS Phong Lê Đọc Nguyễn Nhật Ánh, ta vẫn có lòng tin. Cái thiện, cái tốt, cái đẹp vẫn có trong cuộc đời và trong quan hệ giữa con người, khơi dậy lòng khao khát sống tử tế, sống vì người khác. Tuổi thơ hoặc tuổi trẻ – tôi muốn tìm một khái niệm thích hợp với công chúng đọc của văn học thiếu nhi nói chung, Nguyễn Nhật Ánh nói riêng ở thời điểm hôm nay, có khác với nhiều chục năm trước đây. […] Tôi xin phép dông dài vài câu chuyện chung quanh hoặc ngoài lề, để nói về Nguyễn Nhật Ánh như là một hiện tượng, một sự kiện nổi bật hoặc đột xuất trong đời sống văn học nói chung, văn học thiếu nhi nói riêng hôm nay. […] Trong số 45 tên sách, tôi sẽ chọn một cuốn thuộc truyện loài vật: Tôi là Bêtô , như là sự tiếp nối Dế mèn … của Tô Hoài, và một cuốn mới đây mà tôi ấn tượng: Làm bạn với bầu trời (2019), để kiểm nghiệm và giải thích sự yêu thích của mình. Tôi là Bêtô – lời tự giới thiệu và cũng là lời tự khẳng định về mình của một chú Cún, xuất hiện ở trang cuối chương cuối truyện, nhưng lại có ý nghĩa dẫn dắt ngay từ đầu cho câu chuyện được kể. Đó là chuyện Cún với các bạn bè của Cún, như Binô, cả hai cùng sống với cô chủ bé là Ni và ba mẹ của cô, cùng bà cố – ở một nơi khác, nơi Cún có thêm một bạn mới là Laica. Nhìn, nghĩ và ứng xử theo cách của Cún, ngoài hàng trăm “điều thú vị ở đời”, ta còn nhận ra được sự phân biệt tốt – xấu trong thế giới người, một cảm nhận hồn nhiên, không lý sự và trong tầm nhìn của Bêtô, rồi của cả cặp bạn Bêtô – Binô, được “nhân hoá” ở tuổi vừa là trẻ con, vừa đang chuẩn bị làm người lớn. Chọn nhân vật chính là một chú Cún – động vật gần gũi, quen thuộc và thông minh nhất của con người, đương nhiên tác giả rất thuộc tính cách, sinh hoạt, và cả… ngôn ngữ của Cún; đồng thời trong vai Cún để nhìn đời, tác giả cũng rất thuộc tâm, sinh lý lứa tuổi trẻ mới lớn, qua đó cho thấy người lớn cần phải ứng xử như thế nào đối với trẻ, trong bước ngoặt từ bé con sang người lớn, cái bước ngoặt quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất, trong đường đời con người. Viết cho trẻ em, theo tôi, khó nhất là ở lứa tuổi này. Chúng chẳng còn là trẻ con để chỉ nghĩ những điều ngây thơ, ngộ nghĩnh. Nhưng cũng chưa là người lớn để có thể nghe và hiểu được những gì chỉ người lớn mới có thể nghe và chấp nhận. Thông báo quan trọng nhất qua Tôi là Bêtô , đó là tình bạn, là loại tình cảm đưa con người từ khuôn viên gia đình mà ra xã hội; là cái nhìn rộng ra ngoài gia đình, hoặc nhìn gia đình trong gắn bó với xã hội. Xem cách Nguyễn Nhật Ánh chọn và mở rộng dần các mối quan hệ và sự ứng xử của Bêtô đối với chung quanh, và chung quanh đối với Bêtô, ta có thể hình dung ra gương mặt con trẻ của chúng ta ở lứa tuổi này, trong cái thế giới chúng ta đang sống hôm nay. Đó cũng là cơ sở cho ta hiểu một truyện viết cho thiếu nhi đạt được giá trị đích thực của nó cũng sẽ là một tác phẩm hay đối với người lớn. Tôi là Bêtô được Nguyễn Nhật Ánh kể với ngôn ngữ của nhân vật chính, tức là ngôn ngữ của trẻ. Chứ không phải là ngôn ngữ của một người kể nào đó ở ngôi thứ ba, chắc chắn sẽ làm cho truyện vừa dài ra, vừa khô đi mà không chứa nổi mọi chuyện tươi xanh của cuộc đời. Nhưng làm sao mà tránh được sự có mặt của Nguyễn Nhật Ánh, người điều hành toàn bộ câu chuyện, người đã qua Bêtô mà kể lại câu chuyện trong một thứ văn phong theo tôi là rất gọn, rất hay; một văn phong chứng tỏ người viết rất thuộc và rất yêu đối tượng khảo sát của mình. Phải nói đó là loại văn rất thích hợp cho thiếu nhi ở một lứa tuổi đang rất cần rèn giũa cho sự giàu có, tinh tế và ăn ý giữa ý và lời. Và, không chỉ là khảo sát mà còn là sự đúc kết cho con trẻ quen dần với các suy tưởng, kể cả triết lý về cuộc sống, vốn lúc nào cũng hiện hữu quanh chúng như ánh sáng, như khí trời, để cho chúng vừa chóng lớn, lại vừa không mất đi tất cả những gì là quà tặng của tuổi thơ, rồi sẽ cùng chúng đi suốt hành trình của đường đời con người. Một cách kể tự nhiên về những chuyện của đời thường không tẻ nhạt, có sức chứa những ý tưởng mới mẻ và những triết lý hồn nhiên, nhằm mở rộng sự sống của thế giới trẻ thơ, và gieo trồng những tình cảm đặc trưng cho bước chuyển từ trẻ con sang người lớn, từ gia đình ra xã hội – đó là cái hay, cái hấp dẫn của Tôi là Bêtô. Đã lâu lắm, tôi mới lại được đọc một truyện thú như thế! Sách Làm bạn với bầu trời. Ảnh: NXB Trẻ. Làm bạn với bầu trời có 250 trang, với chỉ một nhân vật trung tâm, có tên là Tèo, mới 8 tuổi bị tai nạn nằm một chỗ, chỉ có thể nhìn ngắm bầu trời làm bạn, thế mà lại có sức chứa một dung lượng rộng lớn các mối quan hệ xã hội, gồm từ phố thị đến nhà quê, đi từ gia đình ra xã hội, vừa xưa cũ vừa mới mẻ, làm nên gương mặt cuộc sống hôm nay, vừa trong những bận rộn, lo toan cho sự sinh tồn hàng ngày, vừa trong viễn cảnh những tiếp nối giữa các thế hệ được nương tựa bởi những gì là tốt lành và nhân hậu. Qua nhân vật Tèo, qua những quan hệ gắn nối gần xa với Tèo, và qua cách ứng xử với Tèo của những người thân thuộc, những đường biên của sự sống dần được mở rộng và cho thấy: Con người có thể vượt qua những bất hạnh để có được những bù đắp bằng chính tình thương và lòng nhân hậu trong cõi đời này. Một thế giới nhân vật, gồm những ai gần gũi với Tèo, kể từ nhân vật xưng tôi là Lam, cùng đám trẻ Nghị, Hằng, Diệu, Cường… đến những người trong gia đình, gia tộc, gồm từ cô Hạnh, dượng Quế, dì Hảo, chú Vịnh, chú Toàn, bác Đỉnh, cô Đài, chú Quỳ, với các danh xưng khác nhau… không dễ nhận ra rành rõ ngay từ đầu, mà chỉ có thể hé lộ và sáng tỏ về sau, thậm chí đến hết truyện mới thật sự sáng tỏ. Tèo – chú bé sa vào hoàn cảnh đau khổ mà tuyệt không than vãn, có tài kể chuyện và giỏi toán, có sức kết nối bạn bè cùng lứa, nhận được mọi sự săn sóc từ những cô, dì, cậu, dượng, chú, bác, anh chị… ở cả hai nơi: Nhà quê và phố thị, ngay từ khi bị tai nạn rồi nằm một chỗ lại là một đứa trẻ không cha (bởi chính người mẹ cũng không biết), và mẹ thì bỏ làng đi xa ngay từ khi chú chào đời… Một đứa trẻ không rõ ai là cha, nhưng có nhiều người nhận làm cha. Một đứa trẻ mẹ bỏ nhà ra đi, nhưng được nhiều người nhận làm mẹ. Một đứa trẻ tật nguyền, nhưng lòng trong veo tình yêu thương cuộc sống, lòng ấm áp hồn hậu với mọi người, không chỉ ý chí, khát vọng, biết cách sống vui, sống có ích, đứa trẻ bị tật đó hóa ra lại là chỗ dựa của nhiều người, là trung tâm kết nối, đặc biệt là trung tâm lan tỏa tiếng cười, niềm tin… Cái kết bất ngờ làm sáng tỏ mọi bí ẩn trong thân phận một đứa trẻ, đã làm rung động, và gây thổn thức cho không ít người khi đọc truyện, không riêng thế hệ trẻ. Giữa cái ác, cái giả đang bủa vây hôm nay, đọc Nguyễn Nhật Ánh, ta vẫn có lòng tin: Cái thiện, cái tốt, cái đẹp vẫn có trong cuộc đời, và trong quan hệ giữa con người, khơi dậy lòng khao khát sống tử tế, sống vì người khác. Đó là giá trị tích cực nơi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đem lại trước hết cho trẻ em, và không chỉ trẻ em mà còn là những bậc làm ông bà, cha mẹ.
Giá trị tích cực trong truyện Nguyễn Nhật Ánh GS Phong Lê Đọc Nguyễn Nhật Ánh, ta vẫn có lòng tin. Cái thiện, cái tốt, cái đẹp vẫn có trong cuộc đời và trong quan hệ giữa con người, khơi dậy lòng khao khát sống tử tế, sống vì người khác. Tuổi thơ hoặc tuổi trẻ – tôi muốn tìm một khái niệm thích hợp với công chúng đọc của văn học thiếu nhi nói chung, Nguyễn Nhật Ánh nói riêng ở thời điểm hôm nay, có khác với nhiều chục năm trước đây. […] Tôi xin phép dông dài vài câu chuyện chung quanh hoặc ngoài lề, để nói về Nguyễn Nhật Ánh như là một hiện tượng, một sự kiện nổi bật hoặc đột xuất trong đời sống văn học nói chung, văn học thiếu nhi nói riêng hôm nay. […] Trong số 45 tên sách, tôi sẽ chọn một cuốn thuộc truyện loài vật: Tôi là Bêtô , như là sự tiếp nối Dế mèn … của Tô Hoài, và một cuốn mới đây mà tôi ấn tượng: Làm bạn với bầu trời (2019), để kiểm nghiệm và giải thích sự yêu thích của mình. Tôi là Bêtô – lời tự giới thiệu và cũng là lời tự khẳng định về mình của một chú Cún, xuất hiện ở trang cuối chương cuối truyện, nhưng lại có ý nghĩa dẫn dắt ngay từ đầu cho câu chuyện được kể. Đó là chuyện Cún với các bạn bè của Cún, như Binô, cả hai cùng sống với cô chủ bé là Ni và ba mẹ của cô, cùng bà cố – ở một nơi khác, nơi Cún có thêm một bạn mới là Laica. Nhìn, nghĩ và ứng xử theo cách của Cún, ngoài hàng trăm “điều thú vị ở đời”, ta còn nhận ra được sự phân biệt tốt – xấu trong thế giới người, một cảm nhận hồn nhiên, không lý sự và trong tầm nhìn của Bêtô, rồi của cả cặp bạn Bêtô – Binô, được “nhân hoá” ở tuổi vừa là trẻ con, vừa đang chuẩn bị làm người lớn. Chọn nhân vật chính là một chú Cún – động vật gần gũi, quen thuộc và thông minh nhất của con người, đương nhiên tác giả rất thuộc tính cách, sinh hoạt, và cả… ngôn ngữ của Cún; đồng thời trong vai Cún để nhìn đời, tác giả cũng rất thuộc tâm, sinh lý lứa tuổi trẻ mới lớn, qua đó cho thấy người lớn cần phải ứng xử như thế nào đối với trẻ, trong bước ngoặt từ bé con sang người lớn, cái bước ngoặt quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất, trong đường đời con người. Viết cho trẻ em, theo tôi, khó nhất là ở lứa tuổi này. Chúng chẳng còn là trẻ con để chỉ nghĩ những điều ngây thơ, ngộ nghĩnh. Nhưng cũng chưa là người lớn để có thể nghe và hiểu được những gì chỉ người lớn mới có thể nghe và chấp nhận. Thông báo quan trọng nhất qua Tôi là Bêtô , đó là tình bạn, là loại tình cảm đưa con người từ khuôn viên gia đình mà ra xã hội; là cái nhìn rộng ra ngoài gia đình, hoặc nhìn gia đình trong gắn bó với xã hội. Xem cách Nguyễn Nhật Ánh chọn và mở rộng dần các mối quan hệ và sự ứng xử của Bêtô đối với chung quanh, và chung quanh đối với Bêtô, ta có thể hình dung ra gương mặt con trẻ của chúng ta ở lứa tuổi này, trong cái thế giới chúng ta đang sống hôm nay. Đó cũng là cơ sở cho ta hiểu một truyện viết cho thiếu nhi đạt được giá trị đích thực của nó cũng sẽ là một tác phẩm hay đối với người lớn. Tôi là Bêtô được Nguyễn Nhật Ánh kể với ngôn ngữ của nhân vật chính, tức là ngôn ngữ của trẻ. Chứ không phải là ngôn ngữ của một người kể nào đó ở ngôi thứ ba, chắc chắn sẽ làm cho truyện vừa dài ra, vừa khô đi mà không chứa nổi mọi chuyện tươi xanh của cuộc đời. Nhưng làm sao mà tránh được sự có mặt của Nguyễn Nhật Ánh, người điều hành toàn bộ câu chuyện, người đã qua Bêtô mà kể lại câu chuyện trong một thứ văn phong theo tôi là rất gọn, rất hay; một văn phong chứng tỏ người viết rất thuộc và rất yêu đối tượng khảo sát của mình. Phải nói đó là loại văn rất thích hợp cho thiếu nhi ở một lứa tuổi đang rất cần rèn giũa cho sự giàu có, tinh tế và ăn ý giữa ý và lời. Và, không chỉ là khảo sát mà còn là sự đúc kết cho con trẻ quen dần với các suy tưởng, kể cả triết lý về cuộc sống, vốn lúc nào cũng hiện hữu quanh chúng như ánh sáng, như khí trời, để cho chúng vừa chóng lớn, lại vừa không mất đi tất cả những gì là quà tặng của tuổi thơ, rồi sẽ cùng chúng đi suốt hành trình của đường đời con người. Một cách kể tự nhiên về những chuyện của đời thường không tẻ nhạt, có sức chứa những ý tưởng mới mẻ và những triết lý hồn nhiên, nhằm mở rộng sự sống của thế giới trẻ thơ, và gieo trồng những tình cảm đặc trưng cho bước chuyển từ trẻ con sang người lớn, từ gia đình ra xã hội – đó là cái hay, cái hấp dẫn của Tôi là Bêtô. Đã lâu lắm, tôi mới lại được đọc một truyện thú như thế! Sách Làm bạn với bầu trời. Ảnh: NXB Trẻ. Làm bạn với bầu trời có 250 trang, với chỉ một nhân vật trung tâm, có tên là Tèo, mới 8 tuổi bị tai nạn nằm một chỗ, chỉ có thể nhìn ngắm bầu trời làm bạn, thế mà lại có sức chứa một dung lượng rộng lớn các mối quan hệ xã hội, gồm từ phố thị đến nhà quê, đi từ gia đình ra xã hội, vừa xưa cũ vừa mới mẻ, làm nên gương mặt cuộc sống hôm nay, vừa trong những bận rộn, lo toan cho sự sinh tồn hàng ngày, vừa trong viễn cảnh những tiếp nối giữa các thế hệ được nương tựa bởi những gì là tốt lành và nhân hậu. Qua nhân vật Tèo, qua những quan hệ gắn nối gần xa với Tèo, và qua cách ứng xử với Tèo của những người thân thuộc, những đường biên của sự sống dần được mở rộng và cho thấy: Con người có thể vượt qua những bất hạnh để có được những bù đắp bằng chính tình thương và lòng nhân hậu trong cõi đời này. Một thế giới nhân vật, gồm những ai gần gũi với Tèo, kể từ nhân vật xưng tôi là Lam, cùng đám trẻ Nghị, Hằng, Diệu, Cường… đến những người trong gia đình, gia tộc, gồm từ cô Hạnh, dượng Quế, dì Hảo, chú Vịnh, chú Toàn, bác Đỉnh, cô Đài, chú Quỳ, với các danh xưng khác nhau… không dễ nhận ra rành rõ ngay từ đầu, mà chỉ có thể hé lộ và sáng tỏ về sau, thậm chí đến hết truyện mới thật sự sáng tỏ. Tèo – chú bé sa vào hoàn cảnh đau khổ mà tuyệt không than vãn, có tài kể chuyện và giỏi toán, có sức kết nối bạn bè cùng lứa, nhận được mọi sự săn sóc từ những cô, dì, cậu, dượng, chú, bác, anh chị… ở cả hai nơi: Nhà quê và phố thị, ngay từ khi bị tai nạn rồi nằm một chỗ lại là một đứa trẻ không cha (bởi chính người mẹ cũng không biết), và mẹ thì bỏ làng đi xa ngay từ khi chú chào đời… Một đứa trẻ không rõ ai là cha, nhưng có nhiều người nhận làm cha. Một đứa trẻ mẹ bỏ nhà ra đi, nhưng được nhiều người nhận làm mẹ. Một đứa trẻ tật nguyền, nhưng lòng trong veo tình yêu thương cuộc sống, lòng ấm áp hồn hậu với mọi người, không chỉ ý chí, khát vọng, biết cách sống vui, sống có ích, đứa trẻ bị tật đó hóa ra lại là chỗ dựa của nhiều người, là trung tâm kết nối, đặc biệt là trung tâm lan tỏa tiếng cười, niềm tin… Cái kết bất ngờ làm sáng tỏ mọi bí ẩn trong thân phận một đứa trẻ, đã làm rung động, và gây thổn thức cho không ít người khi đọc truyện, không riêng thế hệ trẻ. Giữa cái ác, cái giả đang bủa vây hôm nay, đọc Nguyễn Nhật Ánh, ta vẫn có lòng tin: Cái thiện, cái tốt, cái đẹp vẫn có trong cuộc đời, và trong quan hệ giữa con người, khơi dậy lòng khao khát sống tử tế, sống vì người khác. Đó là giá trị tích cực nơi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đem lại trước hết cho trẻ em, và không chỉ trẻ em mà còn là những bậc làm ông bà, cha mẹ.
Nguyễn Dữ và tác phẩm bất hủ Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ là con trai Nguyễn Tường Phiên, đỗ tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 27 đời Lê Thánh Tông (1496), làm quan tới chức Thừa chánh sứ, sau khimất, được phong chức Thượng thư và được phong làm Phúc thần. Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân xưa, nay là thôn Đỗ Lâm, xã Phạm Kha (Thanh Miện). Chưa rõ ông sinh và mất năm nào. Nhưng căn cứ vào tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của ông và bài tựa của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất đời Mạc Phúc Nguyên (1574) cùng những ghi chép của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, ta có thể khẳng định, Nguyễn Dữ là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Từ nhỏ, Nguyễn Dữ đã ham học, học giỏi, đọc rộng, nhớ nhiều và đã ôm ấp lý tưởng hành đạo. Ông đã đi thi Hương, đỗ cử nhân; rồi đi thi Hội, đạt trúng trường và được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền, nay là huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhưng chỉ được một năm, Nguyễn Dữ từ quan về quê phụng dưỡng mẹ, ẩn cư nơi thôn dã, không hề bước chân trở lại chốn thị thành. Chính thời gian mấy mươi năm xa rời cảnh bon chen, ông dồn tâm sức vào viết sách và đã để lại một tác phẩm bất hủ cho văn chương Việt Nam: Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm văn chương kỳ lạ này ngay từ khi ông hoàn thành đã được người đương thời trân trọng đón nhận. Hà Thiện Hán, một danh nho cùng thời với Nguyễn Dữ đã viết bài tựa và một người cùng thời khác là Nguyễn Thế Nghi đã dịch Truyền kỳ mạn lục ra văn Nôm. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn chương nước nhà đương thời cũng như văn chương các thế kỷ nối tiếp. Nhiều danh sĩ ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII đã bình phẩm, hết lời ngợi ca cái hay, cái lạ của bút lực Nguyễn Dữ. Sang thế kỷ XVIII, Vũ Khâm Lân, một tác gia lớn, đã đánh giá Truyền kỳ mạn lục là “Thiên cổ kỳ bút”. Truyền kỳ là một loại hình văn học, thường được gọi là văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết, hoặc đoản thiên tiểu thuyết, cổ điển tiểu thuyết, xuất hiện ở Trung Quốc vào cuối triều Tùy (581-618). Đến đời Đường (618-907), văn chương truyền kỳ phát triển mạnh mẽ. Truyện truyền kỳ có đặc điểm là nhiều tình tiết mang tính thần dị, lạ kỳ, bắt nguồn từ loại truyện chí quái thời Lục triều. Loại hình truyền kỳ có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ở nước ta, loại hình văn học truyền kỳ xuất hiện đầu tiên là tác phẩm Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, đời Trần. Tiếp theo là Lĩnh nam chích quái của Trần Thế Pháp, thế kỷ thứ XV. Tập Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện của Lê Thánh Tông là những truyện truyền kỳ khá đặc sắc và đậm đà bản sắc Việt Nam, đặc biệt là nhiều truyện mang tính ngụ ngôn. Nếu Thánh Tông di thảo là tác phẩm văn chương truyền kỳ đánh dấu mốc quan trọng về sự trưởng thành của văn chương Việt Nam viết bằng chữ Hán thế kỷ XV thì sang thế kỷ thứ XVI, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một thành tựu thật to lớn của văn chương nước nhà. Và văn chương truyền kỳ của Nguyễn Dữ đã trở thành mẫu mực về thể loại này của Việt Nam kể từ khi nó ra đời cho đến các đời sau. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ kể về nhiều nhân vật, nhiều sự kiện kỳ lạ xảy ra từ thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Với một tầm hiểu biết sâu sắc về con người, về cuộc sống và trí tưởng tượng phong phú, một bút pháp linh hoạt, Nguyễn Dữ dẫn người đọc vào một thế giới huyền bí, lạ lùng, vừa có người, vừa có thần. Xuyên qua lớp mù kỳ dị, linh ảo mà Nguyễn Dữ tạo ra một cách tài tình, ông khiến người đọc nhận rõ cái thế giới thực của đời sống con người, trong đó có nhiều kẻ quyền thế, độc ác, đồi bại. Đó chính là những hình ảnh của xã hội mà Nguyễn Dữ đang sống, cái xã hội phong kiến vào thời kỳ suy yếu, mục ruỗng. Tuy vậy, giữa xã hội mà cái xấu, các ác tác yêu, tác quái, Nguyễn Dữ vẫn nhìn rõ những phẩm giá đầy tình yêu thương, cái chân, cái thiện vĩnh hằng trong dân chúng và ông đã miêu tả với tất cả tấm lòng đẹp đẽ nhất của mình. Trong Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, tất cả đều thể hiện thật rõ ràng thái độ nhân sinh, ý tưởng đạo đức, quan điểm chính trị của Nguyễn Dữ. Ở cuối mỗi truyện, ông đều có một lời bình. Mỗi lời bình hầu như là một sự tổng kết mang ý nghĩa triết lý do Nguyễn Dữ đúc rút từ những suy ngẫm của ông về truyện đời, về tất cả buồn, vui, sướng, khổ của con người. Như trong truyện Chức phán sự điền Tản Viên, kể về Ngô Tử Văn cương trực “thấy sự gian tà không chịu được”, đã không khuất phục trước quyền uy, Nguyễn Dữ bình về nhân cách kẻ sĩ: “Than ôi, người ta vẫn nói cứng quá thì gẫy. Nhưng kẻ sĩ chỉ lo không cứng được, còn gẫy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước sẽ gẫy mà chịu đổi cứng ra mềm?…”. Trong lời bình truyện Đối đáp của người tiều phu núi Nưa, Nguyễn Dữ như muốn mượn truyện nhà Hồ để nói nên cái đạo trị nước mà các bậc vua chúa phải hiểu: “Bậc làm vua chúa cần lấy việc giữ ngay lòng mình để làm cái gốc chính cho triều đình; cần sửa cho trăm quan ngay thẳng, sửa cho muôn dân ngay thẳng, đừng để các kẻ ẩn dật nơi rừng núi phải bàn ra, nói vào, là tốt hơn cả”. Có thể nói trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã vượt ra khỏi sự gò bó, khắt khe, đầy hạn chế của ý thức hệ đương thời. Vì vậy, văn chương của ông trở nên khoáng đạt, rộng rãi, nhất là khi ông viết về tình yêu nam nữ. Nguyễn Dữ tỏ ra rất táo bạo, phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối. Truyện của ông hấp dẫn người đọc chính vì ông đã biểu đạt vừa táo bạo, vừa sâu sắc cả sự đam mê, lòng hân hoan, nỗi đau thương của cuộc sống con người. Nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật của Nguyễn Dữ đã vượt xa các tác giả trước ông vốn ít chú trọng đến đời sống riêng tư, ít chú trọng đến tính cách nhân vật. Đó chính là giá trị to lớn của Truyền kỳ mạn lục, là đóng góp không nhỏ của Nguyễn Dữ vào quá trình phát triển của văn học nước nhà.
Nguyen Du and his immortal work Legend of Man Luc Nguyen Du is the son of Nguyen Tuong Phien, passed his doctorate in the 27th year of Hong Duc in the reign of Le Thanh Tong (1496), worked as a mandarin to the position of Chief Minister, and after his death, was promoted to the title of Minister and appointed to the title of Phuc Than. Nguyen Du, from Do Tung commune, former Truong Tan district, now Do Lam village, Pham Kha commune (Thanh Mien). It is unclear when he was born and died. But based on his work Truyen Ky Man Luc and the preface by Ha Thien Han written in the first year of Vinh Dinh under Mac Phuc Nguyen's reign (1574) and the notes of Le Quy Don In Kien Van Tieu Luc, we can confirm that Nguyen Du was a contemporary of Nguyen Du Nguyen Binh Khiem (1491-1585). Since childhood, Nguyen Du was eager to learn, studied well, read widely, remembered a lot and embraced the ideal of practicing religion. He took the Huong exam and passed his bachelor's degree; Then he took the exam, passed the school exam and was appointed governor of Thanh Tuyen district, now Binh Xuyen district, Vinh Phuc province. But after only one year, Nguyen Du resigned from the mandarin and returned to his hometown to take care of his mother, secluding himself in the countryside, never stepping foot back into the city. During his decades away from the hustle and bustle, he devoted himself to writing books and left behind an immortal work for Vietnamese literature: Legend of Man Luc. This strange literary work was respectfully accepted by his contemporaries right after he completed it. Ha Thien Han, a famous scholar at the same time as Nguyen Du, wrote the foreword and another contemporary, Nguyen The Nghi, translated Truyen Ky Man Luc into Nom. Nguyen Du's Legend of Man Luc has a great influence on the contemporary literary life of the country as well as the literature of succeeding centuries. Many famous scholars in the 16th and 17th centuries commented and praised the beauty and strangeness of Nguyen Du's writing. In the 18th century, Vu Kham Lan, a great author, evaluated Truyen Ky Man Luc as "Thien Co Ky pen". Legend is a type of literature, often called literary short fiction, or short fiction, classical novel, appearing in China at the end of the Sui Dynasty (581-618). During the Tang Dynasty (618-907), legendary literature developed strongly. Legendary stories are characterized by many mystical and strange details, originating from the strange stories of the Six Dynasties period. This type of legend has an important position in the history of Chinese literature. In our country, the first type of legendary literature to appear was the work Viet Dien U Linh by Ly Te Xuyen, Tran Dynasty. Next is Linh nam chich quai by Tran The Phap, 15th century. The collection of Thanh Tong's manuscripts includes 19 stories by Le Thanh Tong, which are quite unique and imbued with Vietnamese identity, especially many of the stories are allegorical. If Thanh Tong's manuscript was a legendary literary work that marked an important milestone in the maturity of Vietnamese literature written in Chinese in the 15th century, then in the 16th century, Nguyen Du's Legend of the Legend was a success. truly a great achievement of our country's literature. And Nguyen Du's legendary literature has become a model of this genre in Vietnam since its inception until later generations. Legend of man luc by Nguyen Du tells about many characters and many strange events that happened during the Ly, Tran, Ho and early Le dynasties. With a deep understanding of people, life, rich imagination, and a flexible writing style, Nguyen Du leads readers into a mysterious and strange world, with both humans and gods. Through the strange, magical haze that Nguyen Du skillfully creates, he makes readers clearly see the real world of human life, including many powerful, cruel, and corrupt people. Those are the images of the society in which Nguyen Du lives, a feudal society in a period of weakness and decay. However, in the midst of a society filled with evil, evil, and evil acts, Nguyen Du still clearly saw the dignity of love, truth, and eternal goodness in the people, and he described it with all his heart. your most beautiful heart. In Legend of Man Luc includes 20 stories, all of which clearly express Nguyen Du's human attitude, moral ideas, and political views. At the end of each story, he has a comment. Each comment is almost a summary of philosophical meaning drawn by Nguyen Du from his reflections on life stories, on all the sadness, joy, happiness, and suffering of humans. As in the story Chuc Su Di Dien Tan Vien, which tells about Ngo Tu Van's uprightness, "seeing evil and not being able to stand it", and not submitting to authority, Nguyen Du comments on the character of the scholar: "Alas, people Still say if it's too hard it will break. But the scholar only worries about not being able to stay strong, whether it breaks or not is up to God. Why do you predict that it will break and then change the hardness to softness?...". In his commentary on the story "Response of the Woodcutter of Nua Mountain", Nguyen Du seems to want to borrow the Ho Dynasty's story to express the way of ruling the country that kings must understand: "Those who are kings need to take care of their own hearts to do it." the main source for the royal court; It is necessary to correct the integrity of hundreds of officials, correct the integrity of all peoples, and not let those who are hidden in the mountains and forests have to discuss or speak about it, which is best." It can be said that in Legend of Man Luc, Nguyen Du has gone beyond the constraints, strictness, and limitations of contemporary ideology. Therefore, his literature became open and spacious, especially when he wrote about love between men and women. Nguyen Du appears to be very bold and liberal when writing about infatuation and passionate love. His stories attract readers because he boldly and deeply expresses the passion, joy, and pain of human life. Nguyen Du's art of creating stories and building characters has far surpassed the authors before him who paid little attention to private life and character personalities. That is the great value of Legend of Man Luc, and Nguyen Du's significant contribution to the development of the country's literature.
Sự nghiệp xuất bản sách thất bại của thi sĩ Tản Đà Là một thi sĩ đậm hồn xưa cũ, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939) tạo lập riêng cho mình một chỗ đứng trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ XX. Không chỉ làm thơ, ông còn làm báo với An Nam tạp chí, xuất bản với những thư điếm, thư cục. Dù lập ra Tản Đà thư điếm, rồi Tản Đà thư cục, An Nam ấn thư cục, nhưng sự nghiệp xuất bản sách mà nhà thơ Tản Đà thân làm ông chủ xuất bản, lại long đong lận đận. Cái thu hoạch lớn nhất, có lẽ là đa phần những tác phẩm của ông đã ra đời từ những thư điếm, thư cục này. Trước khi có Tản Đà thư cục, nhà thơ lập Tản Đà thư điếm, được hiểu là cửa hàng bán sách. Ngay trên bìa 1 sách Tản Đà tùng văn in năm 1922 thể hiện rõ đơn vị in ấn là Tản Đà thư điếm, địa chỉ số 99 phố Hàng Gai, Hà Nội. Bìa 2 sách này dành nguyên trang “Tản Đà thư điếm quảng cáo”. Nội dung quảng cáo cho biết hàng do thư điếm bán “lấy sách vở làm trọng hơn hết”. Và sách cũng chia làm hai hạng. Thứ nhất là những sách Tứ thư, Ngũ kinh dịch ra quốc ngữ; thứ hai là sách văn thơ của đông tây kim cổ được dịch ra quốc ngữ. Bên cạnh bán sách, thư điếm còn “nhận in để bán mà tính chia lời” những văn thơ của văn thi sĩ. Không rõ Tản Đà thư điếm đã in được tất cả bao nhiêu đầu sách, nhưng những tác phẩm Tản Đà tùng văn, Đại học là do thư điếm này in ấn, phát hành. Và logo người quảy bồ sách đã có trên bìa 4 của Tản Đà tùng văn năm 1922. Về thời gian ra đời của Tản Đà thư điếm, trong Giấc mộng lớn, nhà thơ tâm sự thư điếm được lập tháng 8.1922 với ba người hợp lại là Tản Đà, một ông Tú và một ông Kép. Thông tin ấy cũng tương ứng với hồi ức Tôi với Tản Đà của Nguyễn Văn Phúc, người cháu của nhà thơ. Đến sự xuất hiện Tản Đà thư cục Vẫn lời nhà thơ chia sẻ trong Giấc mộng lớn, sau này Tản Đà thư điếm hợp với Nghiêm Hàm ấn quán để thành Tản Đà tu thư cục, mà tên trên các sách xuất bản gọi là Tản Đà thư cục. Trong lời quảng cáo cho thư cục in nơi cuốn Giấc mộng lớn, Tản Đà ghi rõ việc chủ trương thư cục: “Bản cục canh trương, sẽ có nhiều các thứ sách, truyện, văn tập xuất bản, mới hay cũ, toàn là của bản cục chủ nhân Nguyễn Khắc Hiếu trước thuật, biên dịch, không nhận in sách ngoài”. Thường các thư cục ra đời, muốn khuếch trương, phát triển, không thể bo bo việc in mỗi “sách nhà”, mà còn in ấn sách của các cộng tác viên, tác giả khác. Trường hợp Tản Đà thư cục “không nhận in sách ngoài”, có lẽ phản ánh đúng cái tinh thần khác người, thiếu thực tế của chủ nhân lập ra nó. Tuy nhiên, tiếng là chỉ in sách của Tản Đà, nhưng thực tế không hoàn toàn vậy, Tản Đà thư cục còn in sách của một số cộng tác viên viết cho An Nam tạp chí như Ngô Tất Tố (Cẩm Hương Đình, dịch thuật), Đoàn Tư Thuật (Truyện Tỳ bà, dịch thuật), Nguyễn Trọng Đường (Chết sống thuyền quyên, Ba Lan, dịch thuật), Nguyễn Đạo Quán (Sự tích mười tám đời Hùng Vương, Khai tâm Hán văn giáo khoa, soạn), Nguyễn Can Mộng (Bức tranh lòng son)… Sách ‘Tản Đà tùng văn’ do Tản Đà thư điếm xuất bản (ảnh trái) và ‘Nhàn tưởng’ do Tản Đà thư cục xuất bản Về giá cả buôn bán sách của Tản Đà thư cục, vẫn lời quảng cáo ở trên, đối với đối tác mua sách để bán buôn, thì việc chiết khấu tùy vào số lượng tiền mua. Cụ thể là mua cứ 10 đồng trở lên, không phân biệt là mua một đầu hay nhiều đầu sách, sẽ được chiết khấu 20%, nếu mua từ 50 đồng trở lên, chiết khấu tăng là 25%. Lại cũng để kích thích khách mua, lời rao ghi rõ “mỗi thứ sách, cứ 12 quyển, xin xếp biếu thêm một quyển ngoài”. Đối với khách mua lẻ, Tản Đà thư cục cũng chiều lòng dù có mua chỉ một cuốn, cứ gửi tiền sách, phí bưu điện về thư cục là sẽ nhận sách qua đường bưu điện. Còn mua hơn một cuốn, thư cục sẽ miễn luôn phí bưu điện, và “ngài nào mua tới mười quyển, xin biếu thêm một quyển ngoài”. Logo để nhận diện Tản Đà thư cục là người đội nón quảy bồ sách. Logo này được giới thiệu nhiều lần trên An Nam tạp chí và đã xuất hiện từ khi có sách do Tản Đà thư điếm in. Một số sách của Tản Đà xuất bản không thể hiện tên Tản Đà thư cục, nhưng vẫn có logo quảy bồ sách. Sách của Tản Đà thư cục được in tại Đông Kinh ấn quán (Trần ai tri kỷ), Nghiêm Hàm ấn quán (Giấc mộng lớn), Nhà in Thụy Ký (Thề non nước), Kim Đức giang ấn quán (Lên sáu)… Vậy Tản Đà thư cục tồn tại thời gian nào? Ghi nhận sách của Tản Đà thư cục có vào năm 1924. Cuốn Trần ai tri kỷ in tại Đông Kinh ấn quán dù không đề tên của Tản Đà thư cục, nhưng logo người quảy bồ sách có trên bìa 4. Đến năm 1932, Tản Đà thư cục vẫn còn được chủ nhân duy trì. Quảng cáo sách của Tản Đà thư cục trên An Nam tạp chí số 1, ra ngày 1.7.1926 ẢNH: T.L Qua những trang quảng cáo, ta thấy đại lý bán sách của Tản Đà thư cục trải khắp ba kỳ. Chẳng hạn như Nam Tân ( Hải Phòng ), Dương Xuân (Hải Dương), Châu Tịnh ấn quán, Tam Kỳ thư quán (Vinh), Quản Hải thư xã, Vĩnh Tường (Huế), Tín Đức thư xã (Sài Gòn)… Trong trí nhớ của Nguyễn Vỹ còn ghi lại nơi Văn thi sĩ tiền chiến, tác giả của Tuấn, chàng trai nước Việt cho biết rất thích cái logo của Tản Đà thư cục: “Tôi vẫn yêu cái hình vẽ “gánh văn lên bán chợ Trời” trên các bìa sách của Tản Đà thư cục”, bán rất chạy vào những năm 1925-1930”. Trong thời gian tồn tại, Tản Đà thư cục đã in nhiều đầu sách, trong đó có những cuốn được in, tái bản nhiều lần, như Lên sáu đến năm 1929 đã in tới lần thứ mười, Lên tám năm 1928 in tới lần thứ sáu… Năm 1930, Tản Đà lại ra tiếp An Nam ấn thư cục. Thư cục này được quảng cáo trên An Nam tạp chí số 12, ra ngày 2.7.1930 nguyên trang 28 với lời giới thiệu là “Một cơ quan về sự in có quan hệ mật thiết với An Nam tạp chí, sẽ tiếp tục tường cáo”. Ở số 13, trong mẩu tin quảng cáo cho biết thêm thư cục này được lập ra để in An Nam tạp chí và in các sách để bán, và đây là thư cục được góp vốn với mỗi cổ phần là 25 đồng. Như tâm sự của thi sĩ, từ 16 tuổi đã bắt đầu kiếm sống bằng văn chương. Rồi theo dòng thời cuộc, nào làm báo, nào xuất bản, nhưng kết cục của sự nghiệp kinh doanh ấy ra sao? Trương Tửu nhìn về công việc bán chữ của thi sĩ, đã nhận xét thẳng thắn trong tác phẩm Uống rượu với Tản Đà, rằng: “Thực ra, trong công cuộc xuất bản sách và báo, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu chỉ gặp toàn thất bại”.
The failed book publishing career of poet Tan Da As a poet imbued with the soul of the past, Tan Da Nguyen Khac Hieu (1888-1939) established a place for himself in Vietnamese literature in the early twentieth century. Not only did he write poetry, he also did journalism with An Nam magazine and published with booksellers and bureaus. Despite establishing the Tan Da bookshop, then the Tan Da book office, and the An Nam press book department, his book publishing career, in which the poet Tan Da himself was the publisher, was uncertain. The biggest harvest, perhaps most of his works, came from these libraries and libraries. Before there was Tan Da library, the poet established Tan Da library, which is understood as a book store. Right on the cover of the book Tan Da Tung Van printed in 1922, it clearly shows that the printing unit is Tan Da bookshop, address 99 Hang Gai street, Hanoi. The covers of these two books dedicate an entire page "Tan Da bookshop advertising". The advertising content said that the goods sold by the library "take books as the most important thing". And books are also divided into two classes. Firstly, the Four Books and Five Classics translated into the national language; Second, books of literature and poetry from the East, West, and Ancient Metals are translated into the national language. Besides selling books, bookshops also "printed for sale with the intention of dividing the profit" of poets' poems. It is unclear how many books the Tan Da Bookstore has printed, but the works Tan Da Tung Van and University were printed and published by this Library. And the book collector's logo was on cover 4 of Tan Da Tung Van in 1922. Regarding the birth time of Tan Da bookshop, in The Big Dream, the poet confided that the bookshop was established in August 1922 with three people: Tan Da, a Mr. Tu and a Mr. Kep. That information also corresponds to the memoir Me and Tan Da of Nguyen Van Phuc, the poet's nephew. To the appearance of the Tan Da library bureau According to the poet's words in The Big Dream, later Tan Da Thu Thu Thuat merged with Nghiem Ham Nhan Quan to become Tan Da Tu Thu Thu Department, whose name in published books is called Tan Da Thu Thu Cuc. In the advertisement for the bureau's library published in The Big Dream, Tan Da clearly stated the policy of bureau library: "The department will expand, there will be many books, stories, and literary collections published, new or old, all edited and translated by the department's owner, Nguyen Khac Hieu, and no outside books will be printed." Often when libraries are born, wanting to expand and develop, they cannot only print "house books" only, but also print books by other collaborators and authors. The case of the Tan Da Library Department "not accepting outside books to be printed", perhaps reflects the unique and impractical spirit of its founder. However, it is reputed to only print Tan Da's books, but in reality this is not entirely the case. Tan Da library also prints books by some collaborators who wrote for An Nam magazine such as Ngo Tat To (Cam Huong Dinh, translation). ), Doan Tu Thuat (Tale of the Bhikkhu, translation), Nguyen Trong Duong (Death and Life on the Boat, Poland, translation), Nguyen Dao Quan (The story of the eighteenth dynasty of Hung Kings, Initiation of Chinese textbooks, compiled ), Nguyen Can Mong (Painting of a red heart)… Book ‘Tan Da Tung Van’ published by Tan Da Thu Thuc (left photo) and ‘Nhan Thien’ published by Tan Da Thu Thuc Department Regarding the price of books sold by Tan Da Library, as advertised above, for partners who buy books for wholesale, the discount depends on the amount of purchase. Specifically, for every purchase of 10 VND or more, regardless of whether you buy one book or many books, you will receive a 20% discount. If you buy 50 VND or more, the discount increases to 25%. Also to stimulate customers to buy, the advertisement clearly states "for every 12 books, please arrange an extra book as a gift". For retail customers, Tan Da library department is also satisfied even if you only buy one book. Just send the money for the book and postage fee to the library department and the book will be received by mail. If you buy more than one book, the library department will waive the postage fee, and "if you buy up to ten books, please give me an extra book." The logo to identify the Tan Da Library Department is a person wearing a hat with a book bag. This logo was introduced many times in An Nam magazine and has appeared since the book was printed by Tan Da Thu Thuat. Some books published by Tan Da do not display the name Tan Da library, but still have the book logo. Tan Da Thu Cuc's books are printed at Dong Kinh An Quan (Tran Ai's Soulmate), Nghiem Ham An Quan (The Big Dream), Thuy Ky Printing House (The Great Vow), Kim Duc Giang An Quan (Up Six)... So when did Tan Da library exist? Records of Tan Da's books appeared in 1924. The book Tran ai confidant was printed at Dong Kinh publishing house, although the name of Tan Da's book was not mentioned, the logo of the bookkeeper was on the cover. 4. In 1932, Tan The momentum of the library is still maintained by the owner. Advertisement for Tan Da's book in An Nam magazine Không. 1, dated July 1, 1926 PHOTO: T.L Through the advertising pages, we see that Tan Da library's book dealers are spread across three periods. For example, Nam Tan ( Hai Phong ), Duong Xuan (Hai Duong), Chau Tinh An Quan, Tam Ky Thu Quan (Vinh), Quan Hai Thu Commune, Vinh Tuong Commune (Hue), Tin Duc Thu Commune (Saigon)... In Nguyen Vy's memory, it is also recorded Going back to pre-war poets' literature, the author of Tuan, a Vietnamese boy, said he really liked the logo of Tan Da library: "I still love the drawing "carrying literature to sell at the flea market" on Tan's book covers. Da Thu Cuc", sold very well in the years 1925-1930". During its existence, Tan Da Library Department printed many books, some of which were printed and reprinted many times, such as Up Six in 1929, printed for the tenth time, Up Eight in 1928, printed for the tenth time. six… In 1930, Tan Da again visited the An Nam press office. This office was advertised in An Nam magazine Không. 12, dated July 2, 1930, full page 28 with the introduction: "A printing agency with close ties to An Nam magazine, will continue to report ”. In number 13, the advertisement adds that this library was established to print An Nam magazine and print books for sale, and this is a library with capital contributed to each share of 25 VND. As the poet confided, from the age of 16 he began to make a living through literature. Then, according to the times, we started journalism and publishing, but what was the end of that business career? Truong Tuu, looking at the poet's literary work, commented frankly in his work Drinking with Tan Da: "In fact, in the work of publishing books and newspapers, Confucianist Nguyen Khac Hieu only met with total failure. lose".
Nhà thơ Nguyễn Khuyến: Tiểu sử và những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Nhà thơ Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi. Ông sinh ngày 15/02/1835 (tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi), tại quê ngoại là làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ở bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu đôi nét về tiểu sử và những tác phẩm của ông để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về nhà thơ này. Nhà thơ Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi. Ông sinh ngày 15/02/1835 (tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi), tại quê ngoại là làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay thuộc huyện Ý Yên , tỉnh Nam Định . Quê nội của nhà thơ ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ này là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nhà thơ Nguyễn Khuyến là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi và mẹ là Bà Trần Thị Thoan. Có thể nói ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Hai bên gia đình đều có truyền thống khoa bảng. Bố ông đỗ 3 khóa tú tài và làm nghề dạy học, mẹ ông nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc. Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha mình cho đến năm lên 8 tuổi ông theo gia định về quê nội ở Bình Lục để sinh sống. Nguyễn Khuyến được biết là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864 ông đỗ đầu cử nhân. Năm sau tức năm 1865, ông thi trượt kỳ thi Hội, nên tu chí ở lại kinh đô học tại Trường Quốc Tử Giám đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa. Đến năm 1871, ông mới thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Kể từ đó Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Vào năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Đến năm 1877, nhà thơ Nguyễn Khuyến được thăng làm Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Năm sau đó, ông bị giáng chức và được điều về Huế được giữ chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Năm 1884 Ông cáo quan về quê Yên Đổ và ông qua đời ở đây. Nhà thơ Nguyễn Khuyến được biết đến là một vị quan có phẩm chất trong sạch, mặc dù làm quan nhưng ông nổi tiếng là người rất thanh liêm, chính trực. Nhiều những giai thoại kể về đời sống và những gắn bó của ông với nhân dân. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất, nhà tan. Thời gian này, triều đại nhà Nguyễn đang ở giai đoạn lụi tàn. Cơ đồ của nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Ở giai đoạn này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp và đến năm 1882 quân Pháp bắt đầu tiến đánh Hà Nội. Vào Năm 1885, thực dân Pháp lại tấn công vào kinh thành Huế. Kinh thành nhà Nguyễn bị thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân đứng lên đấu tranh, phong trào được hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng Phong trào Cần Vương tan rã. Có thể nói, nhà thơ Nguyễn Khuyến sống giữa một thời kỳ mà các phong trào đấu tranh yêu nước thời bấy giờ, phần lớn các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị thực dân, đế quốc dập tắt. Nhà thơ Nguyễn Khuyến thời gian này cảm thấy bất lực vì không thể làm được gì để có thể thời đổi được thời cuộc lúc bấy giờ nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân. Ông là một trong những nhà thờ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn vì sự nghèo đói của họ, nhưng ông càng đau đớn hơn khi nhìn thấy cảnh đất nước bị dày xéo và cảm thấy day dứt nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế. “Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười, Sự đời đến thế, thế thời thôi! Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm, Nước độc ma thiêng mấy vạn người. Khoét rỗng ruột gan trời đất cả, Phá tung phên giậu hạ di rồi. Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ, Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.” Trích: Bài thơ Hoài Cổ – Nguyễn Khuyến Các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến bao gồm: Yên Đổ thi tập, Quế Sơn thi tập, Cẩm Ngữ, Bách Liêu thi văn tập, cùng với đó là nhiều những bài ca, văn tế, hát ả đào và nhiều câu đối truyền miệng. Trong tác phẩm Quế Sơn thi tập có khoảng hơn 200 bài thơ được viết bằng chữ Hán và hơn 100 bài thơ được viết bằng chữ Nôm với nhiều các thể loại khác nhau. Trong bộ phận những nhà thơ Nôm thời bấy giờ thì Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng, vừa là một nhà thơ trữ tình nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của nhà thơ hầu hết được viết là thơ trữ tình. Có thể nói là cả 2 lĩnh vực trên thì nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đều rất thành công. Những tác phẩm của nhà thơ đã khiến cho người đọc của bao nhiêu thế hệ xúc động và đang phải suy ngẫm. Những câu thơ là những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Chúng ta, nên tự hào vì nên văn học Việt Nam đã có một nhà thơ như thế. Nhà thơ Nguyễn Khuyến – Một nhà thơ có đức và có tài, với một lòng yêu nước, thương dân mà không thể giúp được gì ngoài những ngòi bút đau vì dân, khóc vì dân đã giúp cho văn thơ của ông đã đi vào lịch sử và sẽ mãi mãi đi sâu vào lòng của biết bao nhiêu thế hệ.
Poet Nguyen Khuyen: Biography and famous works of the poet Poet Nguyen Khuyen's real name is Nguyen Thang, his nickname is Que Son, and his personal name is Mieu Chi. He was born on February 15, 1835 (January 18, At Mui year), in his maternal hometown, Van Khe village, Hoang Xa commune, Y Yen district, Ha Nam province, now Y Yen district, Nam Dinh province. In this article we will introduce some of his biography and works so that readers can better understand this poet. Poet Nguyen Khuyen's real name is Nguyen Thang, his nickname is Que Son, and his personal name is Mieu Chi. He was born on February 15, 1835 (January 18, At Mui year), in his maternal hometown, Van Khe village, Hoang Xa commune, Y Yen district, Ha Nam province, now part of the district. Y Yen , conscious Nam Dinh . The poet's paternal hometown is Vi Ha village, Yen Do commune, Trung Luong commune, Binh Luc district, Ha Nam province. Poet Nguyen Khuyen is the son of Mr. Nguyen Tong Khoi and his mother, Mrs. Tran Thi Thoan. It can be said that he came from a poor Confucian family. Both families have a tradition of academics. His father passed 3 baccalaureate courses and worked as a teacher. His mother was originally the child of Tran Cong Trac, who passed the baccalaureate during the Le Mac era. As a child, Nguyen Khuyen studied with his father until he was 8 years old when he followed his family to his father's hometown in Binh Luc to live. Nguyen Khuyen is known as an intelligent and studious person. In 1864, he passed the first bachelor's degree. The following year, in 1865, he failed the Association exam, so he decided to stay in the capital to study at Quoc Tu Giam School, changing his name from Nguyen Thang to Nguyen Khuyen with the implication of having to make more efforts. By 1871, he passed the Hoi Nguyen and Dinh Nguyen exams. Since then, Nguyen Khuyen is often called Tam Nguyen Yen Do. In 1873, he was appointed Doc Hoc, then promoted to An Sat in Thanh Hoa province. In 1877, poet Nguyen Khuyen was promoted to Bo Chinh in Quang Ngai province. The following year, he was demoted and sent to Hue to hold the position of minor official with the responsibility of completely repairing the National History Palace. In 1884, he reported to his hometown Yen Do and he died here. Poet Nguyen Khuyen is known as a mandarin with pure qualities. Even though he is a mandarin, he is famous for being a very honest and upright person. Many anecdotes tell about his life and his connections with the people. Nguyen Khuyen became an official in the midst of the country's loss and the family's dissolution. At this time, the Nguyen dynasty was in its dying stage. The Nguyen dynasty's fortunes almost completely collapsed, so his dream of ruling the country to bring peace to the world could not be realized. At this stage, Cochinchina fell into the hands of the French colonialists and in 1882 French troops began to attack Hanoi. In 1885, the French colonialists attacked the capital city of Hue again. The Nguyen Dynasty's capital fell, Ton That Thuyet in the name of King Ham Nghi descended on the Can Vuong edict, calling on people to stand up and fight, the movement was responded to everywhere. But in the end the Can Vuong Movement disintegrated. It can be said that poet Nguyen Khuyen lived in a period when the patriotic fighting movements of that time, most of the patriotic fighting movements, were extinguished by colonialists and imperialists. Poet Nguyen Khuyen felt helpless at this time because he could not do anything to change the situation at that time, so he asked the mandarin to go into hiding. The poet is not only a typical Vietnamese soul. He is also considered a typical Vietnamese personality of that time, an era when the country was lost, the Vietnamese people were trampled, hungry, and miserable. Returning to hide in the countryside, he still maintained the so-called temperament and qualities of a true patriot and mingled with the people. He was one of the churches who felt the pain of the people, he was sad because of their poverty, but he was even more painful when he saw the country being trampled and felt the pain of a privileged person. Such a sensitive time. “It's funny to think about the past, Life comes to this, that's all! Green forests and red mountains more than a thousand miles away, There are tens of thousands of people in the sacred poisonous country. Hollowing out the bowels of heaven and earth, Destroyed the lower fence. Well, that's it, that's it, isn't it? Wherever the white water goes, the water flows." Excerpt: Nostalgic poem – Nguyen Khuyen Poet Nguyen Khuyen's works include: Yen Do thi tap, Que Son thi tap, Cam Ngu, Bach Lieu thi van tap, along with many songs, orations, A Dao singing and many traditional couplets. mouth. In the work Que Son thi tap, there are more than 200 poems written in Chinese characters and more than 100 poems written in Nom script with many different genres. Among the Nom poets at that time, Nguyen Khuyen was both a satirical poet and a lyrical poet deeply imbued with Lao Trang ideology and Eastern philosophy. The poet's Chinese poetry is mostly written as lyric poetry. It can be said that in both of the above fields, poet Nguyen Khuyen was also very successful. The poet's works have touched and pondered readers of many generations. The verses are tormented worries, with the poet's tears and smiles. We should be proud that Vietnamese literature has such a poet. Poet Nguyen Khuyen - A virtuous and talented poet, with a patriotism and love for the people, he could do nothing but write in pain for the people and cry for the people, which helped his poetry go down in history. history and will forever go deep into the hearts of countless generations.
CẢM NHẬN BÀI THƠ CÁO TẬT THỊ CHÚNG CỦA THIỀN SƯ MÃN GIÁC Thiên Hạnh Một Thiền sư nhận định “Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó.” Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ . CÁO TẬT THỊ CHÚNG . Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tùng đầu thượng lai Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. Nghĩa : CÁO BỆNH DẠY ĐỆ TỬ . Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa nở . Việc trước mắt qua mãi Trên đầu già đến rồi. Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai. ( Mãn Giác Thiền Sư ) Thời gian với lộ trình vô tận mà sự đổi thay là một thuộc tính bất di bất dịch, sự triển chuyển là cơ sở để có sự phát sinh và cả hoại diệt , sự tăng trưởng sinh sôi cũng đồng thời tàn tạ mỏi mòn. Quy luật là như thế và nền tảng của sự sống cũng như vậy. Bài thơ không còn dừng lại ở dấu ấn xưa nay của thi ca là ca ngợi miêu tả thuần túy một vẻ đẹp hay một cảm xúc bay bổng, đôi cánh cảm nhận mang màu sắc trí tuệ đã nâng lên những giá trị mang tính muôn thuở , một thế giới quan và hơn thế nữa_nhân sinh quan sống động . Xuân đi trăm hoa rụng. Một mệnh đề tưởng bình thường , chẳng có gì cao sâu, nhưng mấy ai cảm nhận và chấp nhận được.Ta vẫn đau lòng khi ai đó mất đi, vẫn hụt hẫng vì một sớm chia lìa hay một chiều tang tóc, ta biết sự đến đi là tất nhiên nhưng vẫn mong cho”thời gian dừng lại” hay “tuổi thơ quay về . Ta vô tình tự mâu thuẫn chí ít là với những hiểu biết cơ bản nhất của chính mình. Ở điểm này, câu thơ đã có giá trị cảnh tỉnh sâu sắc . Xuân đến trăm hoa nở. Đây chính là sự tất nhiên mang tính vĩnh hằng. Vốn dĩ xưa nay con người chỉ muốn và mãi muốn thụ hưởng và chấp nhận những gì quy luật mang lại, hợp với chí hướng của mình, do đó mà có tâm lý vui khi Xuân về hoa nở, buồn khi Đông đến hoang liêu. Đâu biết rằng Đông chính là nền tảng để một ngày Xuân bừng dậy tinh khôi hào nhoáng . Không có đêm, làm gì có ngày, không có Đông làm gì có mùa Xuân , hiểu cả về mặt sự đối chiếu làm nổi bật và tính triết lý nền tảng . Những nỗi đau càng chồng chất nỗi đau khi bên cạnh sự khắc khoải của thịt da, ta lại bồi đắp thêm sự xót xa tiếc nuối hay sợ hãi triền miên , thì tất yếu sự khổ đau càng gấp bội và đáng thương cho ai vẫn mong mỏi một điều không thật có là trẻ mãi không già, sống hoài không chết ,… Vậy nên hoa nở và hoa rụng chẳng qua là một vòng quay, sự tuần hoàn tất yếu mà với cái nhìn biện chứng , tự nó không mâu thuẫn mà là hai mặt hữu cơ và bổ sung nhau . Và từ sự tổng quan rộng lớn, Thiền sư đã đưa về mảng thời sự tính, đó là thân phận con người , điều mà bất cứ ai cũng phải đối mặt: Trước mắt sự qua mãi Trên đầu già đến rồi. Quy luật của trời đất vốn mang tính lạnh lùng và công bằng đến tuyệt đối . Khổng Lão Trang có quan điểm : Thiên trường địa cửu hữu thời tận …. Thiên địa bất nhân… Bất nhân ở đây chính là không thiên vị , nhân nhượng bất cứ ai, bất cứ điều gì.Đó là quy luật tự nhiên . Rồi một ngày có kẻ sĩ kiêm nhà hiền triết đất Trung nguyên tiễn đưa bạn đời quá cố về miền vĩnh hằng với khúc Cổ bồn phiêu nhiên vô tư lự! Bóng câu qua cửa sổ, giấc mộng kê vàng, đời người giấc mộng ,…là những ý tứ người ta vẫn thường chỉ về sự đổi thay . Nhưng chẳng có gì nhanh, chẳng có gì chậm, mức độ vẫn bấy nhiêu, chẳng qua do con người áp đặt lên chúng bằng một thứ người ta quen gọi là thời gian tâm lý , do tiếc nuôí sự đã qua, do mong mỏi kéo dài những gì tâm đắc : Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết Một ván cờ thua ngả bóng chiều (Vũ Hoàng Chương) Việc vẫn trôi qua đều đều, người cũng tuần tự già đi . Già bởi đã trải qua thời trai trẻ, và trẻ rồi cũng sẽ già, vết thời gian in đậm trên thân xác mỗi sinh linh , ta không thể chuyển dời, duy tâm ta thì có thể . Ta hiểu được cuộc đời , sống chung với sanh, già, bệnh, chết vô tư như một dòng triển chuyển tất nhiên, ta cứ lạc quan khi tuổi già gõ cửa, có thể làm được quá đi chứ ! Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai. Con người chỉ nắm bắt hiện tượng đang diễn ra , và rồi cố chấp vào những ảnh hóa đó bằng tâm cứng đọng phi biện chứng . Sự cố chấp này chi phối cả thế giới tư duy và màu sắc cảm nhận của chủ thể . Khi Thiền sư nói “đừng bảo…”cũng có nghĩa, Ngài chỉ ra sự phiến diện của tư duy què quặt cố hữu của con người . Đó là những rối rắm nội tại phát sinh từ sự thiếu chân xác trong kiến quan hạn hẹp để rồi bao hệ lụy cũng từ đó phát sinh theo mô thức phản ứng dây chuyền trong thế giới hạt nhân phóng xạ . Có thể nói câu thơ như một hình thức KHAI ( mở), mang lại cái nhìn mới chân xác và thiết thực hơn cho các đối tượng. Đêm qua sân trước một nhành mai. Hãy thoát ly sự cố chấp đi, anh sẽ nhìn rõ hơn sự mầu nhiệm của cuộc sống. Cành mai hôm nào, nay đã không còn và anh sẽ bảo chẳng có mai . Thiền sư không nói về cành mai cụ thể trong một thời điểm cụ thể đó, Ngài đang nói về cành mai BẤT DIỆT , cành mai bản thể ( bản chất , nền tảng ). Đây có thể gọi là phần THỊ( chỉ rõ)so với phần KHAI ở trên. Về phương diện biện chứng học, chẳng có gì biến mất, chẳng có gì tự nhiên xuất hiện , chỉ có sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Tôi tuy không phải là cha tôi nhưng cha tôi vẫn hiện hữu trong tôi mặc dầu ông ấy đã mất từ lâu, dị mà đồng, đồng mà dị . Biết rõ sự đổi thay là hiện tượng ,sự miên viễn là vĩnh hằng, quy luật là việc của trời đất, tâm lý và thế giới tâm lý là của riêng ta. Sống chung với quy luật của trời đất là biết chấp nhận nó, hòa mình cùng nó trên lộ trình biến diệt vô thường mà ta không thể nào cưỡng lại được . Một Thiền sư nhận định” Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó “ Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ . Một trong những tiêu chí của Thiền học là thâm nhập được vào thế giới vô thời trong thời gian và vô không trong không gian . Có thể hiểu nôm na là tâm không còn bị chi phối do cố chấp vào những giới hạn thường tình của thời gian và không gian , hai tiêu chuẩn để xác định sự tồn tại của một sự vật , hiện tượng . Sự an nhiên tự tại trước cái chết ( thị tịch )của Thiền Sư biểu hiện cao độ , thay vì Ngài là nhân tố đáng thương hại , lại chính là nhân tố chủ động trấn an những đệ tử , những người vẫn đang khỏe mạnh trẻ trung. Đối diện sự ra đi, Ngài vẫn dõng dạc trong những Pháp kệ được Đường thi hóa, vừa mang giá trị nghệ thuật văn học , lại hàm dung triết lý sâu xa . Cả một đời phụng sự Đạo Pháp , trải bao bài thuyết pháp độ sinh , nay, ngay cả trong giờ khắc còn lại ít ỏi trên cõi đời và đang đối diện cái mà con người kinh khiếp nhất (cai chết ), Thiền Sư vẫn tự tại biến đó thành bài Pháp cuối cùng của đời mình và đã trở thành bài thơ bất hủ trên thi đàn dân tộc xưa và nay . Xin cảm ơn Thiền Sư đã để lại cho chúng ta một hình ảnh phi phàm về khí phách LÝ- TRẦN đã một thời oanh liệt của cha ông .
CẢM NHẬN BÀI THƠ CÁO TẬT THỊ CHÚNG CỦA THIỀN SƯ MÃN GIÁC Thiên Hạnh Một Thiền sư nhận định “Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó.” Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ . CÁO TẬT THỊ CHÚNG . Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tùng đầu thượng lai Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. Nghĩa : CÁO BỆNH DẠY ĐỆ TỬ . Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa nở . Việc trước mắt qua mãi Trên đầu già đến rồi. Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai. ( Mãn Giác Thiền Sư ) Thời gian với lộ trình vô tận mà sự đổi thay là một thuộc tính bất di bất dịch, sự triển chuyển là cơ sở để có sự phát sinh và cả hoại diệt , sự tăng trưởng sinh sôi cũng đồng thời tàn tạ mỏi mòn. Quy luật là như thế và nền tảng của sự sống cũng như vậy. Bài thơ không còn dừng lại ở dấu ấn xưa nay của thi ca là ca ngợi miêu tả thuần túy một vẻ đẹp hay một cảm xúc bay bổng, đôi cánh cảm nhận mang màu sắc trí tuệ đã nâng lên những giá trị mang tính muôn thuở , một thế giới quan và hơn thế nữa_nhân sinh quan sống động . Xuân đi trăm hoa rụng. Một mệnh đề tưởng bình thường , chẳng có gì cao sâu, nhưng mấy ai cảm nhận và chấp nhận được.Ta vẫn đau lòng khi ai đó mất đi, vẫn hụt hẫng vì một sớm chia lìa hay một chiều tang tóc, ta biết sự đến đi là tất nhiên nhưng vẫn mong cho”thời gian dừng lại” hay “tuổi thơ quay về . Ta vô tình tự mâu thuẫn chí ít là với những hiểu biết cơ bản nhất của chính mình. Ở điểm này, câu thơ đã có giá trị cảnh tỉnh sâu sắc . Xuân đến trăm hoa nở. Đây chính là sự tất nhiên mang tính vĩnh hằng. Vốn dĩ xưa nay con người chỉ muốn và mãi muốn thụ hưởng và chấp nhận những gì quy luật mang lại, hợp với chí hướng của mình, do đó mà có tâm lý vui khi Xuân về hoa nở, buồn khi Đông đến hoang liêu. Đâu biết rằng Đông chính là nền tảng để một ngày Xuân bừng dậy tinh khôi hào nhoáng . Không có đêm, làm gì có ngày, không có Đông làm gì có mùa Xuân , hiểu cả về mặt sự đối chiếu làm nổi bật và tính triết lý nền tảng . Những nỗi đau càng chồng chất nỗi đau khi bên cạnh sự khắc khoải của thịt da, ta lại bồi đắp thêm sự xót xa tiếc nuối hay sợ hãi triền miên , thì tất yếu sự khổ đau càng gấp bội và đáng thương cho ai vẫn mong mỏi một điều không thật có là trẻ mãi không già, sống hoài không chết ,… Vậy nên hoa nở và hoa rụng chẳng qua là một vòng quay, sự tuần hoàn tất yếu mà với cái nhìn biện chứng , tự nó không mâu thuẫn mà là hai mặt hữu cơ và bổ sung nhau . Và từ sự tổng quan rộng lớn, Thiền sư đã đưa về mảng thời sự tính, đó là thân phận con người , điều mà bất cứ ai cũng phải đối mặt: Trước mắt sự qua mãi Trên đầu già đến rồi. Quy luật của trời đất vốn mang tính lạnh lùng và công bằng đến tuyệt đối . Khổng Lão Trang có quan điểm : Thiên trường địa cửu hữu thời tận …. Thiên địa bất nhân… Bất nhân ở đây chính là không thiên vị , nhân nhượng bất cứ ai, bất cứ điều gì.Đó là quy luật tự nhiên . Rồi một ngày có kẻ sĩ kiêm nhà hiền triết đất Trung nguyên tiễn đưa bạn đời quá cố về miền vĩnh hằng với khúc Cổ bồn phiêu nhiên vô tư lự! Bóng câu qua cửa sổ, giấc mộng kê vàng, đời người giấc mộng ,…là những ý tứ người ta vẫn thường chỉ về sự đổi thay . Nhưng chẳng có gì nhanh, chẳng có gì chậm, mức độ vẫn bấy nhiêu, chẳng qua do con người áp đặt lên chúng bằng một thứ người ta quen gọi là thời gian tâm lý , do tiếc nuôí sự đã qua, do mong mỏi kéo dài những gì tâm đắc : Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết Một ván cờ thua ngả bóng chiều (Vũ Hoàng Chương) Việc vẫn trôi qua đều đều, người cũng tuần tự già đi . Già bởi đã trải qua thời trai trẻ, và trẻ rồi cũng sẽ già, vết thời gian in đậm trên thân xác mỗi sinh linh , ta không thể chuyển dời, duy tâm ta thì có thể . Ta hiểu được cuộc đời , sống chung với sanh, già, bệnh, chết vô tư như một dòng triển chuyển tất nhiên, ta cứ lạc quan khi tuổi già gõ cửa, có thể làm được quá đi chứ ! Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai. Con người chỉ nắm bắt hiện tượng đang diễn ra , và rồi cố chấp vào những ảnh hóa đó bằng tâm cứng đọng phi biện chứng . Sự cố chấp này chi phối cả thế giới tư duy và màu sắc cảm nhận của chủ thể . Khi Thiền sư nói “đừng bảo…”cũng có nghĩa, Ngài chỉ ra sự phiến diện của tư duy què quặt cố hữu của con người . Đó là những rối rắm nội tại phát sinh từ sự thiếu chân xác trong kiến quan hạn hẹp để rồi bao hệ lụy cũng từ đó phát sinh theo mô thức phản ứng dây chuyền trong thế giới hạt nhân phóng xạ . Có thể nói câu thơ như một hình thức KHAI ( mở), mang lại cái nhìn mới chân xác và thiết thực hơn cho các đối tượng. Đêm qua sân trước một nhành mai. Hãy thoát ly sự cố chấp đi, anh sẽ nhìn rõ hơn sự mầu nhiệm của cuộc sống. Cành mai hôm nào, nay đã không còn và anh sẽ bảo chẳng có mai . Thiền sư không nói về cành mai cụ thể trong một thời điểm cụ thể đó, Ngài đang nói về cành mai BẤT DIỆT , cành mai bản thể ( bản chất , nền tảng ). Đây có thể gọi là phần THỊ( chỉ rõ)so với phần KHAI ở trên. Về phương diện biện chứng học, chẳng có gì biến mất, chẳng có gì tự nhiên xuất hiện , chỉ có sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Tôi tuy không phải là cha tôi nhưng cha tôi vẫn hiện hữu trong tôi mặc dầu ông ấy đã mất từ lâu, dị mà đồng, đồng mà dị . Biết rõ sự đổi thay là hiện tượng ,sự miên viễn là vĩnh hằng, quy luật là việc của trời đất, tâm lý và thế giới tâm lý là của riêng ta. Sống chung với quy luật của trời đất là biết chấp nhận nó, hòa mình cùng nó trên lộ trình biến diệt vô thường mà ta không thể nào cưỡng lại được . Một Thiền sư nhận định” Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó “ Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ . Một trong những tiêu chí của Thiền học là thâm nhập được vào thế giới vô thời trong thời gian và vô không trong không gian . Có thể hiểu nôm na là tâm không còn bị chi phối do cố chấp vào những giới hạn thường tình của thời gian và không gian , hai tiêu chuẩn để xác định sự tồn tại của một sự vật , hiện tượng . Sự an nhiên tự tại trước cái chết ( thị tịch )của Thiền Sư biểu hiện cao độ , thay vì Ngài là nhân tố đáng thương hại , lại chính là nhân tố chủ động trấn an những đệ tử , những người vẫn đang khỏe mạnh trẻ trung. Đối diện sự ra đi, Ngài vẫn dõng dạc trong những Pháp kệ được Đường thi hóa, vừa mang giá trị nghệ thuật văn học , lại hàm dung triết lý sâu xa . Cả một đời phụng sự Đạo Pháp , trải bao bài thuyết pháp độ sinh , nay, ngay cả trong giờ khắc còn lại ít ỏi trên cõi đời và đang đối diện cái mà con người kinh khiếp nhất (cai chết ), Thiền Sư vẫn tự tại biến đó thành bài Pháp cuối cùng của đời mình và đã trở thành bài thơ bất hủ trên thi đàn dân tộc xưa và nay . Xin cảm ơn Thiền Sư đã để lại cho chúng ta một hình ảnh phi phàm về khí phách LÝ- TRẦN đã một thời oanh liệt của cha ông .
ĐÔI NÉT VỀ QUAN THƯỢNG THƯ-THI SĨ DƯƠNG KHUÊ Cụ Dương Khuê (1839-1902), hiệu Vân Trì, xuất thân trong một gia đình nhà Nho; là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm; quê ở làng Vân Đình huyện Sơn Minh phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa , Hà Nội). Nhờ chuyên cần, cụ Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, cụ Cụ Dương Khuê thi Hội đỗ Cử nhân, cùng khoa này Nguyễn Khuyến đỗ Hội nguyên. Năm Mậu Thìn (1868), thời vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ. Sau khi đỗ Tiến sĩ, Dương Khuê được bổ làm tri phủ Bình Giang ( Hải Dương ), rồi được thăng làm Bố chánh. Đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ XIX, trước việc tay lái buôn người Pháp Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người Việt ở Bắc Kỳ để tự do sử dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông đã dâng sớ lên can vua Tự Đức: không nên nhượng bộ Pháp nữa, nên ông bị giáng xuống làm Chánh sứ sơn phòng lo việc khai hoang. Năm 1873, người Pháp đem quân đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế, thì Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng. Năm 1878, nhân lễ “ngũ tuần khánh thọ ” của mình, vua Tự Đức xuống chỉ cho ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình. Năm 1897, Toàn quyền Paul Doummer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guống máy cai trị của Chính phủ bảo hộ, thì Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh. Trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông, nổi tiếng là bài Hồng hồng, Tuyết tuyết, đây là bài thơ phổ cập cho những người bắt đầu hát ca trù. Hai anh em Dương Khuê, Dương Lâm, cùng với các tài tử văn nhân như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm,…, góp phần làm nghệ thuật ca trù trở nên nổi tiếng. Dương Khuê mất ngày 6 tháng Ba năm Nhâm Dần (1902). Nghe tin, bạn thân ông là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ nổi tiếng nhan đề Khóc bạn để viếng ông (trong đó mở đầu bằng câu: “Bác Dương thôi đã thôi rồi”). Tác phẩm của ông để lại có Vân Trì thi thảo (Bản thảo thơ Vân Trì); và một số bài ca trù, bài văn, câu đối, trướng… Trước đây, ông vẫn được xem là một đại biểu của khuynh hướng “thoát ly hưởng lạc” trong văn học Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX. Song gần đây, bước đầu giới nghiên cứu đã có cách lý giải mới đối với phần tâm sự của ông gửi gắm trong thơ văn. Là một viên chức buổi giao thời, đường làm quan không mấy suôn sẻ…, vì thế các sáng tác của ông, chính là một phương tiện giúp ông giải tỏa những bất mãn đối với hiện thực… Tuy có làm thơ chữ Hán, nhưng ông nổi tiếng nhờ những bài ca trù. Với sự tinh luyện về ngôn ngữ và sự hài hòa trong thanh điệu của ông, khiến những bài ấy luôn cuốn hút người nghe bởi lời ca-thơ của cụ Dương Khuê đã đạt đến trình độ “thanh thoát, uyển chuyển và hóm hỉnh” như nhận xét của giới chuyên môn. Dòng họ Dương của cụ Dương Khuê, vốn có nguồn gốc từ Hà Tĩnh, ra định cư ở vùng Vân Đình (Hà Tây) từ thời chúa Trịnh Cương (1709-1725). Từ thời Dương Khuê, dòng họ này trở nên nổi tiếng nhờ tên tuổi ông và người em trai ông là Dương Lâm. Cụ Dương Lâm (1851-1920), từng giữ chức Phó Tổng tài Quốc sử quán nhà Nguyễn, rồi được thăng hàm Thái tử Thiếu Bảo (năm 1902), làm chủ bút báo Đồng Văn… sau xin cáo quan về hưu ở quê để dạy học và viết sách (năm 1903)..Cụ Dương Lâm là người tao nhã, yêu nước, có tài văn chương, và là một nhà giáo giỏi. Các cháu nội của hai ông cũng là những văn nghệ sĩ, nhà khoa học nổi tiếng như: nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Giáo sư-Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, nhà thơ Dương Tuyết Lan, Nhà khoa học Dương Nguyệt Ánh (đang làm việc cho Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ), nhạc sĩ Dương Thụ, nhạc sĩ kiêm thi sĩ Dương Hồng Kỳ. Đại tá Dương Xuân Bình (Sưu tầm)
SOME FEATURES ABOUT THE MINISTER-POET DUONG KHUE Mr. Duong Khue (1839-1902), nicknamed Van Tri, came from a Confucian family; is the eldest son of Do royal historian Duong Quang, and the biological brother of famous scholar Duong Lam; He is from Van Dinh village, Son Minh district, Ung Hoa district, Ha Dong province (now Van Dinh town, Van Dinh district). Ung Hoa , Hanoi). Thanks to diligence, Mr. Duong Khue is a good writer and good writer. In 1864, Mr. Duong Khue passed the Bachelor's exam, and in the same department, Nguyen Khuyen passed the Bachelor's exam. In the year of Mau Thin (1868), during the reign of King Tu Duc, he took the Dinh exam and passed the 3rd doctoral degree. After passing his doctorate, Duong Khue was appointed governor of Binh Giang ( Hai Duong ), then was promoted to Chief. In the early seventies of the nineteenth century, when French merchant Jean Dupuis threatened Vietnamese officials in Tonkin to freely use the Red River, he was in a group of intellectuals who resolutely resisted. He presented a petition to King Tu Duc: he should no longer give in to the French, so he was demoted to the position of Chief Mountain Envoy in charge of reclamation. In 1873, the French sent troops to attack Tonkin for the first time. After negotiations, they agreed to return the four citadels to the Hue court, then Duong Khue was assigned to be the Hai Phong Assassin. In 1878, on the occasion of his "pentecostal celebration", King Tu Duc came down to instruct him to become the Director of Nam Dinh. After that, he successively held the following positions: Chief of Staff, Colonel of the Tonkin Strategy Office, and Governor of Nam Dinh-Ninh Binh. In 1897, Governor-General Paul Doummer abolished article 7 of the 1884 Giap Than Peace Treaty, which laid the basis for the governing system of the Protectorate Government, then Duong Khue At the age of 58, I was awarded the rank of Minister of Infantry. During his career as a poet, he is famous for the poem "Hong Hong, Tuyet Tuyet", a popular poem for those starting to sing Ca Tru. The two brothers Duong Khue and Duong Lam, along with talented writers such as Nguyen Cong Tru, Nguyen Khuyen, Chu Manh Trinh, Vu Pham Ham,..., contributed to making the art of Ca Tru famous. Duong Khue died on March 6, Nham Dan year (1902). Hearing the news, his close friend, Tam Nguyen Yen Do Nguyen Khuyen, wrote a famous poem titled Crying for you to pay his respects (which begins with the sentence: "Uncle Duong is done with it"). The works he left behind include Van Tri poetry draft (Van Tri poetry manuscript); and some ca tru songs, essays, couplets, truongs... Previously, he was still considered a representative of the "hedonistic escape" trend in Vietnamese literature in the second half of the 19th century. But recently, researchers have initially come up with a new explanation for his confessions in his poetry. As a civil servant in the transition period, his path to becoming a mandarin was not very smooth..., so his compositions were a means to help him relieve his dissatisfaction with reality... Although he wrote poetry in Chinese, he was famous for his ca tru songs. With the refinement of his language and the harmony of his tones, those songs always attract listeners because Mr. Duong Khue's poetry has reached the level of "elegant, flexible and humorous". as commented by experts. Mr. Duong Khue's Duong family, originally from Ha Tinh, settled in the Van Dinh area (Ha Tay) since the reign of Lord Trinh Cuong (1709-1725). Since Duong Khue's time, this family became famous thanks to the names of him and his younger brother Duong Lam. Mr. Duong Lam (1851-1920), once held the position of Deputy General of the National History Institute of the Nguyen Dynasty, then was promoted to the rank of Crown Prince Thieu Bao (in 1902), became the editor of Dong Van newspaper... then asked the mandarin to retire to his hometown to taught and wrote books (in 1903). Mr. Duong Lam was elegant, patriotic, talented in literature, and a good teacher. The two men's grandchildren are also famous artists and scientists such as: musician Duong Thieu Tuoc, Professor-Doctor Duong Thieu Tong, poet Duong Tuyet Lan, scientist Duong Nguyet Anh (currently working working for the US Department of Defense), musician Duong Thu, musician and poet Duong Hong Ky. Colonel Duong Xuan Binh (Collected)
Dương Khuê trong nền văn học dân tộc Dương Khuê hiệu là Vân Trì, người làng Vân Đình, huyện Tiên Minh, tỉnh Hà Đông. Ông sinh năm Kỷ Hợi (1839), mất năm Nhâm Dần (1902), thọ 63 tuổi. Cùng với Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Dương Lâm… Dương Khuê đã góp phần phát triển, nối liền dòng mạch văn học các nhà nho tài tử nửa cuối thế kỷ XIX, làm phong phú thêm nền văn hóa và văn học dân tộc Việt Nam. Thời niên thiếu, Dương Khuê rất thông minh, nổi tiếng văn hay chữ tốt, bạn bè ai ai cũng kính mến. Năm Giáp Tý, 1864, ông đã thi đỗ cử nhân. Năm sau, ông vào kinh thi hội nhưng không đỗ. Bấy giờ Tùng Thiện Vương đã chiếu cố mời ông về phủ dạy dỗ cho con cháu, ông ở lại kinh chờ khoa thi sau. Năm Mậu Thìn (1868 – năm Tự Đức thứ 21), ông đỗ tiến sĩ. Đồng thời là lúc bang giao với Pháp ở vào giai đoạn khó khăn, vua Tự Đức nhân thời thế đó ra đề thi là “Chiến hay hòa”. Trong bài văn Dương Khuê làm có câu: “Độc bệ hạ chi chiếu nhi bất thống khóc giả, phi nhân thần dã” (Đọc chiếu của bệ hạ không khóc lên đau đớn thì không phải là người thần vậy), để nói lên nỗi đau thương của ông trước tình hình của đất nước. Tự Đức vốn là một nhà vua rất ưa chuộng văn thơ cho nên khi thi đỗ rồi, vào triều bệ kiến, nhà vua thấy ông tiến sĩ mới lại có lời phê rằng: “Trẫm kiến tiến sĩ Dương Khuê bẩm chất ty nhược, yếu nghi gia tâm điều dưỡng, vị quốc trừ dụng…”. Và nhà vua đặc ban cho một miếng quế để dùng vào việc thuốc thang. Dương Khuê làm quan sơ bổ chức tri phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương . Trên hoạn lộ, ông trải nhiều phen thăng trầm. Thời làm bố chánh, ông có dâng sớ lên vua Tự Đức xin đánh Pháp, song gặp phải lúc triều đình chủ hòa, vì thế, nhà vua phê vào sớ rằng: “Bất thức thời vụ” và giáng ông xuống chức chánh sứ sơn phòng để lo việc khai khẩn hoang. Sau đó không lâu, nhà vua nhớ tới Dương Khuê liền cho thăng lên chức Án sát Hải Phòng. Lúc đó ông có gặp người quen cũ là tri phủ Phan Đức Trạch, trước kia từng giúp cho hai nén bạc để vào Huế thi hội nhưng chưa có dịp hoàn trả. Với lại, biết ân nhân đang lúc gặp cảnh cùng túng nên ông đã tạm vay trước lương một ngày để trả cho đủ số bạc xưa. Không may có việc, quan Ngự sử xét kho, biết việc cho vay lương trước bèn tâu về triều nên ông bị giáng cách lại nguyên hàm Biên tu (Chánh thất phẩm), và phải đi làm sơn phòng lần nữa. Khi ở sơn phòng, ông có gặp người cũ và làm bài hát tặng người tình cũ tình ý lâm ly, văn cách nhẹ nhàng khiến vua Tự Đức nghe phải ngợi khen và cho ông lĩnh chức Đốc học ở Nam Định, rồi thăng chức lên Bố Chánh và sau đó là xung quyền tổng đốc. Ít lâu sau, ông được sung chức Tham tá nha kinh lược, sau đó lĩnh chức thực thụ tổng đốc Nam Định và Ninh Bình. Cuối cùng thăng lên chức Thượng thư rồi về hưu. Dương Khuê vừa là bạn đồng khoa và cũng đồng thời là bạn thân của Nguyễn Khuyến. Khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến làm bài thơ Khóc Dương Khuê, khóc bạn với một tình cảm thiết tha. Trong suốt khoảng thời gian làm việc trong chốn quan trường, Dương Khuê thường ở nhiều nơi, việc cai trị trung hậu thanh liêm, không bao giờ động đến tiền của nhân dân. Vì vậy, những khi ông bị thuyên chuyển đi nơi khác thì dân chúng địa phương đi đưa tiễn rất đông, còn có người níu xe mà khóc. Cũng giống như văn nho đồng thế hệ, Dương Khuê có một lối sống hào hoa, phong nhã, lấy rượu xướng ca trăng thanh gió mát để khiển hứng. Ông rất sành về đánh trống chầu và ham thích thú hát ả đào. Cả cuộc đời của Dương Khuê làm quan nhưng ông sống thanh liêm, trong sạch, ăn ở với mọi người đầy tình yêu thương và có một tấm lòng yêu nước thầm kín. Với tâm trạng buồn chán của một nghệ sỹ trước cảnh nước mất nhà tan, ông đã chọn cho mình lối thoát ra ngoài cuộc sống ấy bằng thú cầm, kỳ, thi, họa và thú hát ả đào. Tuy số lượng tác phẩm còn lại của Dương Khuê là không nhiều (một phần do thất lạc, một phần không có cơ hội tiếp cận với văn bản gốc) nhưng qua những tác phẩm còn lại của ông thì cũng đã chứng minh được tài năng của Dương Khuê. Dương Khuê vốn nổi tiếng về tài Hán văn và văn Nôm. Tác phẩm của ông chủ yếu trong tập Vân Trì thi tập và một số thơ văn câu đối. Thơ ca Nôm của ông có những nét riêng rất đặc sắc, nhất là trong thể loại Ca trù. Nói chung Dương Khuê khá đa tài và ông là người có tài năng nghệ thuật khá hoàn hảo cả bằng Hán văn lẫn chữ Nôm. Tìm hiểu thơ ông có thể phân làm ba loại chính: Thứ nhất là thơ ca Đường luật với lời lẽ trịnh trọng, ung dung như các bài Ngũ thập tự thọ, Tự vịnh, Đánh cờ, Tiễn đưa sứ thần… Thứ hai là thơ lục bát, thường là những bài thơ nhỏ, ngắn nhưng hé mở cho ta thấy đó là một tâm hồn biết sống say mê, nặng tình cùng non sông đất nước như Hà Nội tức cảnh, Hỏi thăm bạn ở Hưng hóa, Lời hẹn…. Thứ ba là văn Ca trù, đây là thể loại sáng tác sở trường của ông nên ở thể loại này có nhiều bài tuyệt tác và trở thành mẫu mực như bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết (Gặp cô đào cũ), Nhân vong cầm tại, Tiễn đào Cần, Tặng cô đào Cúc… Phần thứ ba có thể xem là phần quan trọng nhất trong thơ văn của Dương Khuê bởi nó thể hiện được cá tính và địa vị văn chương của tác giả, địa vị của nhà văn sành nghe hát ả đào với sở trường sáng tác Hát nói. Ba thể loại sáng tác của ông khá phong phú về nội dung. Dương Khuê tuy lấy cầm kỳ thi tửu, ca xướng, trăng thanh gió mát làm thú tiêu sầu nhưng trong các tác phẩm vẫn đượm mầu sắc đạo đức, tuy đó chỉ là đạo đức vào thời tàn, Vịnh 55 tuổi thọ, không buồn vì tuổi già mà ông lại tưởng nhớ đến ơn vua: Xiêm áo cũng chung nhờ lộc nước. Thậm chí lúc vui thú với người tình cũ Bình Khang ông vẫn nhớ đến nghĩa vua tôi: Thần tuy tội trọng đế do liên. Văn thơ ông cũng thể hiện được cốt cách ung dung, đa tình của một bậc tài hoa, một tấm lòng trắc ẩn và thương xót trước những cô gái Bình Khang. Nội dung này được thể hiện qua những bài Ca trù. Với lối Ca trù, Dương Khuê đã để lại nhiều bài êm ái, hoa lệ, thiết tha: Tiễn ai chi liễu giang đình,
Duong Khue in national literature Duong Khue's name is Van Tri, from Van Dinh village, Tien Minh district, Ha Dong province. He was born in the year of the Pig (1839), died in the year of the Tiger (1902), at the age of 63. Together with Chu Manh Trinh, Vu Pham Ham, Duong Lam... Duong Khue contributed to the development and connection of the literary lineage of amateur Confucian scholars in the second half of the 19th century, enriching the national culture and literature. Vietnam. During his youth, Duong Khue was very smart, famous for his good writing, and everyone loved him. In the year of the Rat, 1864, he passed the bachelor's exam. The following year, he entered the exam but did not pass. At that time, Tung Thien Vuong condescended to invite him to return to the palace to teach his children and grandchildren. He stayed in the capital to wait for the next exam. In the year Mau Thin (1868 - the 21st year of Tu Duc), he passed his doctorate. At the same time, the relationship with France was in a difficult period, King Tu Duc took advantage of that situation to set the exam question "War or draw". In Duong Khue's essay, there is a sentence: "Your majesty's decree does not make you cry fakely, it is inhuman" (If you read your majesty's decree and do not cry in pain, you are not a god), to express the feeling that His grief over the country's situation. Tu Duc was originally a king who was very fond of poetry, so when he passed the exam, when he went to court, the king saw the new doctor and commented: "I saw Dr. Duong Khue with a weak and weak character. The family's mind is taken care of, the country's state is eliminated...". And the king specially gave him a piece of cinnamon to use in medicine. Duong Khue became the first official appointed to the position of governor of Binh Giang, province Hai Duong . On the road, he experienced many ups and downs. When he was a chief, he submitted a petition to King Tu Duc asking to attack the French, but encountered a situation where the court was at peace, so the king criticized the petition saying: "Untimely" and demoted him to the position of mountain chief. room to take care of land reclamation. Not long after that, the king remembered Duong Khue and immediately promoted him to the position of Hai Phong Police Officer. At that time, he met an old acquaintance, governor Phan Duc Trach, who had previously helped him with two pieces of silver to enter Hue to compete in the festival but had never had a chance to repay it. Furthermore, knowing that his benefactor was in dire straits, he temporarily borrowed a day's salary in advance to pay off the old silver. Unfortunately, when something happened, the royal historian examined the warehouse and found out about the salary loan in advance, so he reported it to the court, so he was demoted to the rank of Bien Tu (Chinh That Product), and had to work as a housekeeper again. While in the painting room, he met an old lover and composed a song for his ex-lover who was about to break up. His gentle style made King Tu Duc praise him and give him the position of Doc in Nam Dinh, then promoted him to the next level. Bo Chanh and then became governor general. Not long after, he was promoted to the position of Chief of Staff, then took on the position of actual governor of Nam Dinh and Ninh Binh. Finally promoted to the position of Minister and then retired. Duong Khue is both a classmate and also a close friend of Nguyen Khuyen. When Duong Khue passed away, Nguyen Khuyen wrote the poem Crying Duong Khue, crying for you with passionate affection. During his time working in the officialdom, Duong Khue often stayed in many places, governing with honesty and integrity, never touching the people's money. Therefore, when he was transferred to another place, many local people came to see him off, and some people clung to their cars and cried. Just like his generation of Confucian writers, Duong Khue had a pompous and elegant lifestyle, using wine and singing to the cool moon and wind to inspire him. He is very knowledgeable about playing drums and enjoys singing A Dao. Duong Khue's entire life was a mandarin, but he lived an honest, clean life, lived with everyone with love and had a secret patriotic heart. With the boredom of an artist facing the loss of his country and his home, he chose for himself a way out of that life through hobbies, examinations, exams, painting and singing A Dao. Although the number of Duong Khue's remaining works is not much (partly due to being lost, partly due to lack of opportunity to access the original text), his remaining works have proven his talent. by Duong Khue. Duong Khue is famous for his talent in Chinese and Nom literature. His works are mainly in the Van Tri poetry collection and some couplet poems. His Nom poetry has very unique features, especially in the Ca tru genre. In general, Duong Khue is quite multi-talented and he has quite perfect artistic talent in both Chinese and Nom. Understanding his poetry can be divided into three main categories: The first is Tang Luat poetry with solemn, leisurely words such as the Five Cross Tho, Self-praising, Playing Chess, Sending off the Envoy... The second is Luc Bat poetry, usually small, short poems but Revealing to us that it is a soul that knows how to live passionately, deeply in love with the mountains and rivers of the country like Hanoi, Asking about friends in Hung Hoa, Appointments... Third is Ca tru literature, this is his forte in writing, so in this genre there are many masterpieces that have become exemplary such as Hong Hong Tuyet Tuyet (Meeting an old girl), Nhan Dieu Cam Lo, Saying goodbye to Miss Can, Giving Miss Miss Cuc... The third part can be considered the most important part of Duong Khue's poetry because it shows the author's personality and literary status, the status of a writer who is good at listening to songs. She is a actress with a knack for composing Sing and Talk. His three genres of writing are quite rich in content. Although Duong Khue uses drinking exams, singing songs, the moon and the cool breeze as entertainment to relieve his sadness, his works are still filled with moral color, even though it is only morality in the end of his life. Vinh is 55 years old and is not sad because In his old age, he remembered the king's grace: Siamese clothes are also shared thanks to the fortune of the country. Even when having fun with his old lover Binh Khang, he still remembered my king's duty: Although I have committed a serious crime, I am guilty. His poetry also shows the leisurely and affectionate personality of a talented man, and a heart of compassion and mercy towards Binh Khang girls. This content is expressed through Ca tru songs. With the style of Ca tru, Duong Khue left behind many gentle, magnificent, and passionate songs: Saying goodbye to someone from the willow family,
Xung đột của cái Tôi trong Tự truyện Việt Nam đương đại trong chuyên khảo “Phê bình phân tâm học: Phía của những ám ảnh nghệ thuật” của TS. Vũ Thị Trang – Khoa Văn học, Học viện Khoa học xã hội “Một trong những truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt là sự tôn trọng danh dự (danh dự mà tập thể quy định). Truyền thống tốt đẹp đó gặp phải tâm lý cộng đồng (đặc biệt là cộng đồng kiểu làng xã) sẽ biến tướng thành thói quen “tốt khoe xấu che” – cái tốt đẹp hay được phơi bày trước thiên hạ, cái xấu (hoặc chỉ đơn giản là cái khác) phải che đậy, giấu kĩ. Đầu thế kỷ XX, nhu cầu được bộc lộ cái “Tôi” chủ thể trở thành xu hướng trong văn học Việt Nam nói chung và Tự truyện nói riêng. Do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cái Tôi cá nhân trong văn học Việt Nam đã được khai thác, thể hiện rõ hơn với sự xuất hiện của một loạt tự truyện như: Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Chiếc cáng xanh của Lưu Trọng Lư, Cỏ dại của Tô Hoài, Cai của Vũ Bằng, Mực mài nước mắt của Lan Khai…Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XXI đến nay, cái Tôi trong văn học nói chung và Tự truyện Việt nam nói riêng mới có dịp được bung tỏa. Thường thì người ta không tự nhiên “vạch áo cho người xem lưng”, không tự nhận những khuyết điểm, những “góc khuất” thuộc về mình, gia đình mình. Thói quen đó lâu dần biến mỗi người thành một “ốc đảo” với những tâm tư không biết chia sẻ cùng ai, nhất là những người có câu chuyện “đặc biệt”, không giống với đại đa số người khác. Nghe có vẻ mâu thuẫn khi rõ ràng, văn hóa kiểu làng xã (tồn tại phổ biến ở Việt Nam) sẽ dễ dàng kết nối cộng đồng, khiến con người được sống trong bầu không khí tưởng như là rất thoải mái để chia sẻ. Nhất là trong bối cảnh văn hóa xã hội hiện đại, với sự phát triển của khoa học công nghệ như hiện nay, các kết nối cộng đồng ứng dụng trên điện thoại thông minh rất dễ dàng. Thế nhưng trên thực tế, cơ bản người Việt rất sợ “dư luận”, sợ bị “đánh giá”. Một khi bí mật riêng tư bị phanh phui, người ta luôn cảm thấy xấu hổ, e ngại, thậm chí có người mặc cảm thu mình lại, không dám đối diện với dư luận…”. Đây chính là lý do mà con người Việt Nam hiện đại luôn có những giằng xé, xung đột giữa việc sống cho chính mình và sống “vừa lòng người khác”. Do đó, những phân tích về xung đột của cái Tôi trong Tự truyện Việt Nam đương đại (sách chuyên khảo về Phê bình phân tâm học – phía của những ám ảnh nghệ thuật ) của tác giả Vũ Thị Trang, công tác tại Học viện Khoa học xã hội (thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản tháng 12/2020 cho thấy rõ điều này. Tác giả/nghệ sĩ là những người đặc biệt dễ bị tổn thương, một phần do “tạng” người quá nhạy cảm và ít khi chia sẻ. Họ thường phóng chiếu tâm tư của mình qua những tác phẩm. Với họa sĩ bạn sẽ bắt gặp điều đó qua những bức tranh, với diễn viên qua vai diễn, với ca sĩ qua bản nhạc, với văn sĩ là những tác phẩm văn chương…. Mỗi người đều chìm đắm trong thế giới riêng tư của mình để suy ngẫm, để sáng tạo. Những người nghệ sĩ càng tài năng, họ lại càng có điểm gì đó “khác người”, ví như đọc văn của Nguyễn Tuân sẽ dễ dàng nhận ra sự khinh bạc có phần ngạo nghễ, của Vũ Trọng Phụng là sự cay nghiệt, chua chát, của Thạch Lam là sự tinh tế nhẹ nhàng, của Nam Cao là sự thương cảm, xót xa… Bởi cá tính đặc biệt ấy, họ càng khó hòa vào tính cách chung của cộng đồng và vì vậy mà càng khó chia sẻ tâm tư. Qua Tự truyện, họ được giãi bày, thể hiện, nhằm tìm kiếm sự đồng cảm, sẻ chia của người tiếp nhận. Cũng bởi lẽ đó, Tự truyện là một trong những thể loại văn học thể hiện rõ nét nhất nhu cầu được giãy bày những tâm tư của cá nhân người nghệ sĩ. Trong Tự truyện, cái Tôi cá nhân cũng chính là cái Tôi sáng tạo và cái Tôi sáng tạo cũng chính là cái Tôi xã hội. Những cái Tôi này khi thì giao thoa, khi lại xung đột mạnh mẽ tạo nên những ẩn ức của người nghệ sĩ. Thông qua Tự truyện, tác giả/nhà văn được tự do giãi bày, chia sẻ với người đọc những tâm tư, hồi ức, kỷ niệm của bản thân, thậm trí là những góc khuất mà xưa nay họ vẫn còn giấu kín. Ví như tìm hiểu Xuân Diệu qua lăng kính của Tô Hoài, người đọc có thể hiểu hơn, lý giải rõ hơn hồn thơ yêu sống, luôn rạo rực đắm say, khát khao giao cảm với đời nhưng cũng đầy trống vắng, cô đơn tận cùng của Xuân Diệu. Câu chuyện của Tô Hoài và Xuân Diệu trong Cát bụi chân ai không chỉ là sự bộc lộ, giãi bày, mà nó còn cho thấy sự đáng trân trọng khi một nhà văn gạo cội dám nhìn thẳng vào sự thật, dám viết lên sự thật mà chính bản thân từng trải qua. Đó cũng chính là khao khát được tự do thể hiện cái Tôi bản thể của chính tác giả. Tự do mà người đọc cảm thấy hiện lên như sự phóng chiếu của nhu cầu bản thể (giãi bày) đồng thời cũng chính là ham muốn sáng tạo không giới hạn của cái Tôi sáng tạo (ý thức về nghề nghiệp). Tuy nhiên, ám ảnh tự do (ham muốn cá nhân) lại thường vấp phải những thiết chế xã hội (do đám đông quy định) gây ra những xung đột giữa cái Tôi bản thể với cái Tôi xã hội, giữa vô thức và ý thức trong thế giới sáng tạo của nhà văn. Bằng việc phân tích đặc tính của Tự truyện là tính giãi bày , chuyên khảo này đã chỉ ra những xung đột của cái Tôi sáng tạo, cái Tôi tính dục, cái Tôi xã hội và sự trú ngụ của cái Tôi trong những mặt nạ nhân cách từ góc nhìn Phân tâm học một cách thuyết phục. Thông qua Tự truyện, người đọc hiểu và cảm thông hơn với tác giả/nhà văn, đồng thời cũng nhận thức sâu sắc hơn về những mối quan hệ diễn ra xung quanh mình. Đây chính là những chia sẻ mà TS. Vũ Thị Trang đã phân tích và chỉ ra trong phần III – Ám ảnh tự do – xung đột giữa những cái Tôi trong Tự truyện Việt Nam đương đại của chuyên khảo về Phê bình phân tâm học của mình. Phạm Vĩnh Hà
The conflict of the I in contemporary Vietnamese autobiographies in the monograph "Psychoanalytic criticism: The side of artistic obsessions" by Dr. Vu Thi Trang - Faculty of Literature, Academy of Social Sciences “One of the long-standing cultural traditions of the Vietnamese people is respect for honor (the honor that is determined by the collective). When that good tradition encounters community psychology (especially village-style communities), it will transform into the habit of "showing off the good and hiding the bad" - the good things are often exposed to the world, the bad things (or just simply something else) must be covered up and hidden well. In the early twentieth century, the need to express the subjective "I" became a trend in Vietnamese literature in general and Autobiography in particular. Due to the influence of Western culture, the personal ego in Vietnamese literature has been exploited and shown more clearly with the appearance of a series of autobiographies such as: Nguyen Hong's Childhood Days, Nguyen Hong's Green Stretcher, Luu Trong Lu, To Hoai's Weeds, Vu Bang's Cai, Lan Khai's Tears Grinding Ink... In particular, from the beginning of the 21st century until now, the Self in literature in general and Vietnamese Autobiographies in particular has appeared. opportunity to spread. Often people do not naturally "reveal their clothes for others to see", do not admit the shortcomings and "hidden corners" that belong to themselves and their family. That habit over time turns each person into an "oasis" with thoughts they don't know how to share with anyone, especially those with "special" stories, unlike the majority of other people. It may sound contradictory when clearly, village-style culture (which exists commonly in Vietnam) will easily connect the community, allowing people to live in an atmosphere that seems very comfortable to share. Especially in the context of modern social culture, with the development of science and technology today, connecting to application communities on smartphones is very easy. But in reality, Vietnamese people are basically afraid of "public opinion" and of being "judged". Once a private secret is exposed, people always feel embarrassed, afraid, and some even feel self-conscious and cower, not daring to face public opinion...". This is the reason why modern Vietnamese people always have conflicts between living for themselves and living "to please others". Therefore, the analysis of the conflict of the Self in contemporary Vietnamese Autobiographies (monograph on Psychoanalytic criticism – the side of artistic obsessions ) by author Vu Thi Trang, working at the Academy of Social Sciences (under the Vietnam Academy of Social Sciences) published by Social Sciences Publishing House in December 2020 clearly shows this. Authors/artists are especially vulnerable people, partly because their "organs" are too sensitive and rarely share. They often project their thoughts through their works. With artists you will encounter it through paintings, with actors through roles, with singers through music, with writers through literary works... Each person is immersed in their own private world to reflect and create. The more talented artists are, the more "different" they are, for example, reading Nguyen Tuan's writing will easily recognize the somewhat arrogant contempt, Vu Trong Phung's is the bitterness and bitterness. acrid, of Heather is gentle delicacy, Nam Cao's is sympathy, pity... Because of that special personality, it is more difficult for them to blend into the common personality of the community and therefore more difficult to share their thoughts. Through Autobiography, they are expressed and expressed, in order to seek sympathy and sharing from the recipient. For that reason, Autobiography is one of the literary genres that most clearly demonstrates the need to express the artist's personal thoughts. In Autobiography, the personal I is also the creative I and the creative I is also the social I. These egos sometimes interfere, sometimes strongly conflict, creating the artist's hidden memories. Through Autobiography, the author/writer is free to express and share with readers their thoughts, memories, and memories, even the hidden corners that they have always kept hidden. For example, by learning about Xuan Dieu through the lens of To Hoai, readers can better understand and explain the poetic soul that loves life, is always passionate and passionate, longs for communication with life but is also full of emptiness and endless loneliness. by Xuan Dieu. The story of To Hoai and Xuan Dieu in Whose feet are dusty? It is not only a revelation and confession, but it also shows respect when a veteran writer dares to look straight at the truth, dares to write the truth that he himself has experienced. That is also the author's desire to freely express his own ego. The freedom that the reader feels appears as a projection of the essential need (expression) and is also the unlimited creative desire of the creative I (sense of career). However, the obsession with freedom (individual desire) often encounters social institutions (determined by the crowd), causing conflicts between the physical ego and the social ego, between the unconscious and the conscious mind. consciousness in the creative world of the writer. By analyzing the characteristics of Autobiography are exposition , this monograph has pointed out the conflicts of the creative ego, the sexual ego, the social ego and the residence of the ego in the personality mask convincingly from a Psychoanalytic perspective. Through Autobiography, readers understand and sympathize more with the author/writer, and are also more deeply aware of the relationships taking place around them. These are the shares that Dr. Vu Thi Trang analyzed and pointed out in part III – Obsession with freedom – conflict between egos in contemporary Vietnamese autobiography of his monograph on Psychoanalytic Criticism. Pham Vinh Ha
Những nữ tướng thời Hai Bà Trưng trên quê hương Đất Tổ Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (40 – SCN) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc chống lại thế lực phong kiến phương Bắc. Bát Nàn Công chúa Theo Thần tích xã Phượng Lâu, Bát Nàn có tên khác là Thục Nương (tên đầy đủ là Vũ Thị Thục), người trang Phượng Lâu (nay là xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì ). Sinh thời, bà là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đẹp người, đẹp nết, giàu lòng nhân ái, yêu nước, thương dân. Năm 18 tuổi, bà đính hôn với Phạm Danh Hương, quận trưởng Nam Châu. Thái thú Tô Định háo sắc, bạo tàn đã ép bà làm vợ. Bị bà từ chối, Tô Định bèn trả thù bằng cách giết cha và chồng chưa cưới của bà và cho quân lùng bắt bà. Không để rơi vào tay Tô Định, bà đã phá vòng vây, vượt sông Hồng về Tiên La nương thân, sau dựng cờ khởi nghĩa mang 4 chữ vàng “Bát Nạn tướng quân” (Tướng quân phá nạn). Một góc khuôn viên Đền thờ Bát Nàn Đại tướng quân Vũ Thị Thục Nương. Năm 40, khi vừa phát động khởi nghĩa, nghe tin Bát Nàn cũng là người cùng chí hướng với mình lại đang có sẵn lực lượng trong tay. Hai Bà Trưng liền cho người tới mời hợp sức. Bát Nàn đồng ý và kể từ đó, bà đã từng trải bao phen trực tiếp cầm quân tả xung hữu đột, đánh cho quân đô hộ Hậu Hán thất điên bát đảo. Nhờ có công lớn, bà được Trưng Nữ Vương phong Công chúa, chức Đại tướng và được trao quyền chỉ huy quân tiên phong đóng tại trang Tiên La. Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Bát Nàn đã chiến đấu rất anh dũng, gây cho địch những tổn thất lớn, nhưng rồi vì thua kém cả về thế lẫn lực, Bát Nàn đã buộc phải thua trận và tuẫn tiết ngay tại trang Tiên La. Để tưởng nhớ công ơn bà, nhân dân các làng Phượng Lâu (thành phố Việt Trì) và Tiên La (huyện Hưng Hà , tỉnh Thái Bình ) đã lập đền thờ bà, nguyện đời đời khói hương. Nàng Nội (Bạch Hạc Thủy Công chúa) Theo Thần tích đền Minh Nông (còn gọi là đền Kẻ Lú, thuộc phường Minh Nông, thành phố Việt Trì) thì nàng Nội là cháu gọi Thi Sách (chồng của Trưng Trắc) bằng chú ruột. Vì căm giận ách thống trị tàn bạo của quân đô hộ nhà Hậu Hán, thân sinh của nàng Nội và Thi Sách dự tính sẽ tổ chức nhân dân nổi dậy đấu tranh, nhưng vì kế hoạch bị bại lộ nên cả hai anh em đều bị Tô Định giết hại. Để tránh sự trả thù, hai mẹ con Nàng Nội phải tạm lánh sang phía hữu ngạn sông Hồng. Nhưng, đến đó chưa được bao lâu thì thân mẫu của Nàng cũng vì lo lắng và buồn rầu nên đã qua đời. Khi nghe tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa, Nàng Nội đã hăng hái xin theo. Binh lính dưới quyền chỉ huy của Nàng Nội đã đánh thắng giặc nhiều trận lớn ngay tại quê hương của mình, khiến chúng phải kính nể gọi Nàng Nội là “Nữ thần Bạch Hạc”. Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, nàng Nội là tướng chỉ huy quân đội của Trưng Nữ Vương ở khu vực Bạch Hạc đã chiến đấu rất ngoan cường và gây cho giặc rất nhiều tổn thất nặng nề. Khi bị giặc đàn áp bà đã anh dũng hy sinh tại Bạch Hạc lúc tuổi đời mới vừa đôi mươi. Để mãi mãi tôn vinh và ghi nhớ công đức to lớn của bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ bà tại phường Minh Nông. Nàng Trăng (hay Nguyệt Điện Công chúa) Theo Thần tích đền Tây Cốc (nay thuộc xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng) nàng Trăng là một cô gái vừa đẹp người lại đẹp nết, khoẻ mạnh và linh lợi, võ nghệ cao cường và lắm cơ mưu, thiên hạ khó ai bì kịp. Bấy giờ, quan đô hộ của nhà Hậu Hán là Tô Định khét tiếng tham lam và tàn bạo, dân khắp cõi phải chịu cảnh lầm than, nàng Trăng ngày đêm lo nghĩ tìm cách cứu giúp dân lành. Nàng tự mình chiêu tập được trên hai trăm tráng sĩ, hễ nơi đâu có tiếng kêu oan là lập tức có mặt để trừng trị kẻ ác. Được tin Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, nàng Trăng liền đem tất cả tráng sĩ của mình về với hai Bà. Nàng được hai Bà tin cậy, phong làm Tiền Đạo Tả Tướng Quân và ban cho hiệu là Nguyệt Điện. Nàng Trăng và đội quân do Nàng chỉ huy đã chiến đấu rất dũng cảm, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cuộc khởi nghĩa. Sau ngày đại thắng, nàng Trăng đã lâm bệnh và qua đời. Để bày tỏ lòng đặc biệt kính trọng và thương tiếc khôn nguôi, nhân dân các địa phương thuộc hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ đã xây dựng khá nhiều đền thờ bà. Nàng Xuân Hoa Nương Công chúa Theo Thần tích đình Hương Nha (nay thuộc xã Hương Nha, huyện Tam Nông), đình làng Hương Nha thờ Đông Cung đệ nhất bát vị Xuân Hoa Nương công chúa (còn gọi là Xuân Nương), một nữ tướng kiệt xuất của Hai Bà Trưng. Xuân Nương còn có tên tục gọi là Xuân Hoa, là con thứ 8 của thủ lĩnh Châu Đại Man tên là Hùng Sát, quê ở làng Hương Nha (Hùng Sát là cháu đời thứ 10 cha truyền con nối chủ trưởng Châu Đại Man). Bà là người có khí chất mạnh mẽ, giỏi võ nghệ và cương trực hơn người. Do Tô Định tàn bạo với dân ta, Hùng Sát đã liên minh với Thi Sách ở Chu Diên bàn mưu nổi dậy chống quân xâm lược. Việc đại sự chưa thành thì Hùng Sát bị ốm rồi qua đời. Năm 39 SCN, 5 người anh của Xuân Nương bị Tô Định sát hại. Bà cùng 2 người anh còn lại trốn về thôn Quế Phong (nay thuộc xã Hương Nộn) ở ẩn để chiêu mộ quân sĩ đứng lên báo thù. Năm 40 Xuân Nương cùng các anh đưa quân về Hát Môn tụ nghĩa dưới cờ Trưng Trắc và Trưng Nhị. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lược Hán, bà Trưng Trắc lên ngôi vua phong cho Xuân Nương làm Đông Cung công chúa nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Năm 43, Mã viện cầm binh nhà Hán lại ồ ạt tiến sang xâm lược nước ta. Xuân Nương cùng chồng cầm quân chống giặc ở Bạch Hạc, sau rút về bến Nam Cường. Khi được tin Hai Bà Trưng thất thủ, để giữ trọn khí tiết bà đã gieo mình xuống dòng sông Thao tự vẫn. Tưởng nhớ công ơn của bà, dân làng Hương Nha và các làng lân cận đã lập đền thờ bà làm Thành Hoàng làng để đời đời hương khói. Thiều Hoa Công chúa Theo Thần tích đền Hiền Quan (xã Hiền Quan, huyện Tam Nông ) nữ tướng Thiều Hoa là con của một gia đình nông dân nghèo ở động Lăng Sương bên bờ sông Đà thuộc huyện Thanh Châu (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ). Khi bà 16 tuổi thì cha mẹ mất, bà rời động Lăng Sương đi tìm nơi cảnh phật làm nữ tu hành. Qua nhiều nơi bà đến chùa Phúc Khánh, trang Song Quan (chùa Hiền Quan ngày nay). Thấy Thiều Hoa đã trưởng thành, nhà sư khuyên bà cùng với những đồng môn khác đến ứng nghĩa dưới lá cờ kháng chiến của Hai Bà Trưng. Tại Mê Linh, những tráng sĩ trai gái sông Đà, sông Thao được bà Trưng tiếp đón nồng nhiệt. Hai Bà Trưng cử Thiều Hoa làm Tiên phong Hữu tướng và giao trách nhiệm chỉ huy trận đánh quyết định với giặc ở Luy Lâu. Thiều Hoa lập công lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung, được Trưng Nữ Vương phong làm Đông Cung Công chúa. Sau khi đánh tan giặc Hán, bà xin trở lại Song Quan tiếp tục tu hành cứu nhân độ thế. Sau khi bà mất, Trưng Nữ Vương đã truy phong bà là “Phụ vương công chúa” và truyền cho dân làng lập đền thờ bà. Phạm Bá Khiêm
Female generals of Hai Ba Trung period in the homeland of Dat To The Hai Ba Trung uprising that broke out in the spring of the year Canh Ty (40 - AD) was the first uprising of the people of Au Lac against the feudal forces of the North. Princess Bat Nan According to the legend of Phuong Lau commune, Bat Nan's other name is Thuc Nuong (full name is Vu Thi Thuc), a native of Phuong Lau village (now Phuong Lau commune, city). Viet Tri ). During her lifetime, she was a talented, beautiful, well-mannered woman, rich in compassion, patriotic, and loving to the people. At the age of 18, she became engaged to Pham Danh Huong, chief of Nam Chau district. The lustful and brutal governor To Dinh forced her to be his wife. When she refused, To Dinh took revenge by killing her father and fiancé and sending troops to hunt and arrest her. Not to fall into To Dinh's hands, she broke through the siege, crossed the Red River to take refuge in Tien La, and then erected an uprising flag bearing the four golden words "Bat Nan General" (General who destroys disaster). A corner of the campus of Bat Nan Temple, General Vu Thi Thuc Nuong. In the year 40, when he had just launched the uprising, he heard that Bat Nan was also a person of the same mind as him and had forces at hand. The Trung sisters immediately sent someone to invite them to join forces. Bat Nan agreed and since then, she has experienced many times directly leading the left and right troops to attack, driving the Later Han Dynasty's colonial army crazy. Thanks to her great merits, she was awarded the title of Princess, the title of General and was given the right to command the vanguard troops stationed at Tien La site by Trung Nu Vuong. When Ma Vien sent troops to suppress, Bat Nan fought very heroically, causing great losses to the enemy, but because of his inferiority in both position and strength, Bat Nan was forced to lose the battle and commit suicide right on the site. Tien La. To commemorate her gratitude, the people of Phuong Lau (Viet Tri city) and Tien La (Viet Tri district) villages Hung Ha , conscious peaceful ) built a temple to worship her, praying for eternal smoke. Noi (Princess Bach Hac Thuy) According to the legend of Minh Nong temple (also known as Ke Lu temple, in Minh Nong ward, Viet Tri city), Noi is a niece who calls Thi Sach (Trung Trac's husband) her uncle. Out of anger at the brutal rule of the Later Han Dynasty's colonial army, Noi and Thi Sach's father planned to organize the people to rebel and fight, but because the plan was revealed, both brothers were imprisoned. To Dinh killed. To avoid retaliation, Nang Noi and her mother had to temporarily flee to the right bank of the Red River. But, not long after arriving there, her mother also passed away because of worry and sadness. When I heard the news Hai Ba Trung launched an uprising, Nang Noi enthusiastically asked to follow. Soldiers under Nang Noi's command won many major battles right in their homeland, causing them to respectfully call Nang Noi "The White Crane Goddess". When Ma Vien sent troops to suppress, Noi, who was the commander of Trung Nu Vuong's army in the Bach Hac area, fought very tenaciously and caused the enemy many heavy losses. When the enemy oppressed her, she heroically sacrificed her life at Bach Hac at the age of just twenty. To forever honor and remember her great merits, local people built a temple to worship her in Minh Nong ward. The Moon Princess (or Moon Princess) According to the legend of Tay Coc temple (now in Tay Coc commune, Doan Hung district), Miss Moon is a girl who is both beautiful and well-mannered, healthy and agile, with strong martial arts and many plans, difficult for anyone in the world to match. keep. At that time, the governor of the Later Han Dynasty, To Dinh, was notorious for being greedy and cruel. People all over the world had to suffer hardship, and Lady Moon worried day and night about finding ways to help the good people. She personally recruited over two hundred soldiers, and wherever there was a cry of injustice, they were immediately present to punish the wicked. Hearing that the Trung Sisters had raised a flag of rebellion at Hat Mon, Miss Moon immediately brought all her soldiers back to the two Sisters. She was trusted by the two ladies, appointed the Left Striker General and given the title Nguyet Dien. Lady Moon and the army she commanded fought very bravely, contributing greatly to the overall victory of the uprising. After the great victory, Miss Moon fell ill and passed away. To express their special respect and condolences, the people of localities in the two provinces Vinh Phuc and Phu-Tho built many temples to worship her. Princess Xuan Hoa Nuong According to the legend of Huong Nha communal house (now in Huong Nha commune, Tam Nong district), Huong Nha village communal house worships the first eight-ranked Eastern Palace princess Xuan Hoa Nuong (also known as Xuan Nuong), an outstanding female general of the Hai Ba. Trung. Xuan Nuong, also known as Xuan Hoa, is the 8th child of leader Chau Dai Man named Hung Sat, from Huong Nha village (Hung Sat is the 10th generation descendant of leader Chau Dai Man). She is a person with a strong temperament, good at martial arts and more upright than others. Due to To Dinh's brutality against our people, Hung Sat allied with Thi Sach in Chu Dien to plan an uprising against the invaders. Before the big event was completed, Hung Sat fell ill and passed away. In 39 AD, Xuan Nuong's five brothers were murdered by To Dinh. She and her two remaining brothers fled to Que Phong village (now in Huong Non commune) to hide to recruit soldiers to take revenge. In the year 40, Xuan Nuong and her brothers brought their troops to Hat Mon to rally under the Trung Trac and Trung Nhi flags. After expelling the Han invaders, Mrs. Trung Trac ascended the throne and appointed Xuan Nuong as Princess of the Dong Cung and served as head of the cabinet in charge of military affairs. In the year 43, Ma Yuan led the Han Dynasty's army to invade our country again. Xuan Nuong and her husband led the army against the enemy in Bach Hac, then withdrew to Nam Cuong wharf. When she heard the news of Hai Ba Trung's fall, in order to preserve her dignity, she threw herself into the Thao River and committed suicide. To commemorate her gratitude, the people of Huong Nha village and neighboring villages built a temple to worship her as the village's Thanh Hoang to forever incense. Princess Thieu Hoa According to the legend of Hien Quan temple (Hien Quan commune, district three rural ) female general Thieu Hoa was the child of a poor farmer family in Lang Suong cave on the bank of Da river in Thanh Chau district (now Trung Nghia commune, Thanh Chau district). Thanh Thuy ). When she was 16 years old, her parents died. She left Lang Suong cave to find a place to see Buddha and become a nun. Through many places, she came to Phuc Khanh pagoda, Song Quan site (today's Hien Quan pagoda). Seeing that Thieu Hoa had grown up, the monk advised her, along with other disciples, to volunteer under the resistance flag of Hai Ba Trung. In Me Linh, the brave men and women of the Da and Thao rivers were warmly welcomed by Mrs. Trung. Hai Ba Trung appointed Thieu Hoa as Right Vanguard General and assigned the responsibility of commanding the decisive battle with the enemy at Luy Lau. Thieu Hoa made a great contribution, making an important contribution to the overall victory, and was appointed Princess of the Eastern Palace by Queen Trung. After defeating the Han invaders, she asked to return to Song Quan to continue practicing to save humanity. After her death, Queen Trung posthumously awarded her the title "Princess Father" and ordered the villagers to build a temple to worship her. Pham Ba Khiem
Bài làm Nhà văn An-đec-xen là một nhà văn nổi tiếng gắn liền với thiếu nhi trên toàn thế giới. Ông sáng tác nhiều tác phẩm hay những câu chuyện cổ tích về thế giới thần tiên kỳ ảo lôi cuốn hàng triệu trái tim bé nhỏ vào thế giới thần tiên của mình. Trong những câu chuyện cổ tích của An-đéc-xen những cảnh đời bất hạnh, những người sống lương thiện, thật thà ngay thẳng đều có một kết thúc vô cùng có hậu. Nhưng trong tác phẩm “Cô bé bán diêm” dường như An-đéc-xen đã lựa chọn cho nhân vật của mình một kết thúc bất ngờ, khác biệt, nó trở thành nỗi đau ám ảnh với người đọc. Thông qua câu chuyện của Cô bé bán diêm tác giả muốn tố cáo tội ác vô tâm của những con người trong xã hội, đã thờ ơ với nỗi đau khổ cô đơn của một em bé nghèo khổ, cô đơn. Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” kể về một em bé tầm bảy tám tuổi làm nghề bán diêm, dạo trên đường phố. Em không có ai yêu thương mình cả, dù em đang sống với một người cha ở tầng áp mái, nhưng người cha của em là một ông bố nát rượu thường xuyên đánh đập em mỗi khi em không kiếm được tiền mang về cho ông ta. Mẹ em đã mất từ rất lâu rồi, em không còn nhớ mặt mẹ mình nữa, chỉ có bà ngoại là người thương em nhất thường xuyên che chở bao bọc cho em. Nhưng bà ngoại của em đã mất từ năm ngoái bỏ lại một mình em bơ vơ lạc lõng trên cuộc đời. Cô bé bán diêm tội nghiệp bước đi trong đêm, từng bước đi lầm lũi cô đơn trong đêm giao thừa cuối năm. Em muốn bán được một chút gì đó, để có tiền mang về đưa cho cha của mình, nếu không bán được gì nhất định em sẽ bị đánh. Từ sáng tới giờ, cô bé đi mãi, đi mãi mà chẳng có ai rủ lòng thương mua giúp em một bao diêm nhỏ, cũng không có ai bố thí cho em ít tiền lẻ hay mẩu bánh mì, nên cô bé bán diêm tội nghiệp vô cùng đói bụng. Em đi trong đêm cuối năm với lớp tuyết rơi lạnh cóng, từng cơn gió tuyết tập vào mặt lạnh cóng, hai tay em tê buốt không còn cảm giác gì nữa, bàn chân em đi đất không mang giày, đầu trần không có mũ. Em mong manh trong chiếc áo khoác mỏng đã sờn vải, cô bé cứ đi, nhưng dường như mọi người quá vội vã ai cũng mong về nhà thật sớm để cùng gia đình quây quần bên lò sưởi ăn bữa tối và đón giao thừa, mong ước một năm mới tốt đẹp hơn năm cũ. Cô bé bán diêm nhìn vào những ngôi nhà có ô cửa sổ sáng đèn, bên trong đó những con người thật hạnh phúc. Cả gia đình cùng quây quần bên bàn ăn được trải bằng khăn trải bàn trắng muốt, tất cả bát đĩa đều sáng loáng, có những chiếc dao, nĩa làm bằng bạc..Trên bàn ăn có món súp nóng, có ngỗng quay và chao ôi thật nhiều món ngon hấp dẫn. Họ ngồi bên cạnh lò sưởi vô cùng ấm áp, trong nhà có cây thông nô en với nhiều món quà được treo trên cây, có đèn nhấp nháy vô cùng đẹp mắt. Cô bé bán diêm thì vào trong những ngôi nhà và cảm thấy họ thật hạnh phúc, còn em thì vẫn ở đây lẻ loi, lầm lũi trong bóng đêm. Cũng có lúc em nghĩ sẽ về nhà nhưng về làm gì nếu không có tiền đưa cho cha thì cha em sẽ đánh em chết mất, về nhà cũng chẳng ấm hơn là bao căn nhà áp mái, không có lò sưởi những ô cửa gió vẫn lùa vào rét buốt. Nghĩ như vậy, nên em quyết định ngồi thu mình giữa khe tường của hai ngôi nhà sát nhau để tránh những cơn gió tuyết tấp vào mặt. Đêm tối bao phủ xung quanh em, những góc phố vắng người, em quyết định lôi que diêm ra quẹt thử để sưởi ấm hai bàn tay đang cóng buốt tê dại. Que diêm thứ nhất sáng lên, cô bé bán diêm nhìn thấy một lò sưởi ấm áp, sức nóng của lò sưởi làm cho cô bé cảm thật vô cùng dễ chịu biết bao, nhưng khi ánh sáng từ que diêm vụt tắt đi. Cô bé lại nhìn thấy khoảng trời đen tối những ngã tư vắng người và cơn bão tuyết tấp vào mặt rét buốt. Cô vội vàng quẹt que diêm thứ hai lên, lần này cô bé nhìn thấy một bàn ăn thịnh soạn có rất nhiều thức ăn ngon, có cả ngỗng quay béo ngậy, ngon ơi là ngon, món nào món đó vô cùng hấp dẫn. Có lẽ đó là mong ước của cô bé lúc này, khi thân thể lạnh cóng, bụng thì đang sôi lên cồn cào, việc cô bé mong muốn có lò sưởi cho thức ăn thật là một ước mơ bình thường dễ hiểu. Que diêm thứ ba vụt sáng lên, lần này cô bé nhìn thấy một cây thông nô en với nhiều món quà treo trên đó, một cây thông thật to lớn, thật đẹp mà cô chưa từng thấy bao giờ. Rồi que diêm thứ tư, cô bé nhìn thấy bà ngoại của mình, bà nhìn cô cười trìu mến cô gọi bà thật lớn “Bà ơi cho cháu đi theo với” sau câu nói đó cô bé bán diêm thấy lòng mình nhẹ bẫng, một linh hồn từ từ thoát ra khỏi thể xác, bay vút lên cao hai bà cháu nắm tay nhau đi vào thế giới mênh mông cực lạc. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy một cô bé qua đời giữa hai bức tường của một ngôi nhà, trên khuôn mặt cô bé vẫn hồng hào, môi em vẫn nở một nụ cười.
Assignment Writer Andersen is a famous writer associated with children around the world. He composed many works or fairy tales about a magical fairy world that attracted millions of little hearts into his magical world. In Andersen's fairy tales, unfortunate life scenes and people who live honestly, honestly and uprightly all have extremely happy endings. But in the work "The Little Match Girl" it seems that Andersen has chosen an unexpected and different ending for his character, which becomes a haunting pain for the reader. Through the story of The Little Match Girl, the author wants to denounce the heartless crimes of people in society who are indifferent to the lonely suffering of a poor, lonely child. The short story "The Little Match Girl" tells about a child about seven or eight years old who works as a match seller, walking on the streets. I don't have anyone who loves me, even though I'm living with a father in the attic, but my father is an alcoholic who often beats me every time I don't make money to bring him home. . My mother passed away a long time ago, I don't remember my mother's face anymore, only my grandmother is the person who loves me the most and always protects me. But my grandmother passed away last year, leaving me alone and lost in life. The poor little match seller walked in the night, each lonely step on New Year's Eve at the end of the year. I want to sell a little something, to have money to bring home to my father. If I don't sell anything, I will definitely be beaten. From morning until now, the girl has been walking and walking and no one has taken pity on her to buy her a small box of matches, nor has anyone given her some change or a piece of bread, so the poor match seller extremely hungry. I walked on the last night of the year with a layer of freezing snow, every wind of snow hitting my face was freezing, my hands were so numb I couldn't feel anything anymore, my feet were on the ground without shoes, my head was bare without a hat. She was fragile in a thin, worn-out coat. She kept going, but it seemed like everyone was in a hurry, everyone wanted to go home early to gather with their family around the fireplace to eat dinner and celebrate New Year's Eve, hoping Wishing a new year better than the old one. The little match seller looked at the houses with lighted windows, inside which were very happy people. The whole family gathers around the dining table covered with a white tablecloth, all the dishes are shiny, there are knives and forks made of silver... On the dining table there is hot soup, roast goose and chao. oh so many delicious dishes. They sat next to the extremely warm fireplace, in the house there was a Christmas tree with many gifts hanging on the tree, with extremely beautiful flashing lights. The little match seller went into the houses and felt that they were very happy, while I was still here alone, wandering in the dark. There were times when I thought I would go home, but what would I do if I didn't have money to give to my father? My father would beat me to death. Coming home was no warmer than many attic houses. There was no heater and the windows were still open. drove into the bitter cold. Thinking like that, I decided to sit down between the cracks in the wall of two houses next to each other to avoid the snowy wind hitting my face. The night was dark around me, the street corners were deserted, I decided to take out a match and try to light it to warm my freezing and numb hands. The first match lit up, the little match girl saw a warm fireplace, the heat of the fireplace made her feel extremely comfortable, but when the light from the match went out. She saw the dark sky again, the empty intersections and the cold snowstorm hitting her face. She quickly lit the second match, this time she saw a sumptuous dining table with a lot of delicious food, including greasy roasted goose, oh so delicious, every dish was extremely attractive. Perhaps that was the girl's wish right now, when her body was freezing cold and her stomach was rumbling, her wish for a fireplace for food was a normal, understandable dream. The third match lit up, this time she saw a Christmas tree with many gifts hanging on it, a very large, beautiful tree that she had never seen before. Then on the fourth match, the little girl saw her grandmother. She looked at her and smiled affectionately. She called out to her loudly, "Grandma, let me come with you." After saying that, the little match seller felt her heart lighten up. The soul slowly escaped from the body and soared high. The two of them held hands and entered the vast world of bliss. The next morning, a little girl was found dead between two walls of a house, her face was still rosy, her lips still had a smile.
Bài làm Chuyện người con gái Nam Xương được lấy từ tập truyện “Truyền kỳ mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ. Chuyện xoay quanh nhân vật trung tâm là người con gái tên là Vũ Nương sinh ra trong thời kỳ phong kiến dù nàng là người vô cùng đoan trang đức hạnh nhưng vẫn chịu một cái chết vô cùng oan khuất. Thông qua câu chuyện của mình tác giả Nguyễn Dữ muốn thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo đồng cảm với những số phận người con gái trong chế độ xưa, khi phải sống dưới một chế độ thiếu công bằng “trọng nam khinh nữ” người con trai có toàn quyền quyết định mọi việc trong cuộc sống, còn người con gái thì luôn phải tuân lệnh phục tùng. Trong tập truyện Truyền kỳ mạn lục của mình tác giả Nguyễn Dữ đã dùng những chi tiết hoang đường, để giải quyết những tình huống éo le trong cuộc sống. Thông qua đó thể hiện tâm tư nguyện vọng của tác giả khi muốn cho những nhân vật của mình một kết thúc như ý muốn, giải oan cho họ. Giúp cho người đọc cảm thấy thỏa mãn, hài lòng phần nào, dù trong xã hội phong kiến xưa cũ vẫn còn nhiều số phận éo le, đau khổ, không thể minh oan được. Người con gái Nam Xương được viết lại dựa theo một câu chuyện có thật trong cuộc sống, nhưng tác giả Nguyễn Dữ đã khôn khéo tinh tế khi lồng ghép những chi tiết, yếu tố kỳ ảo làm cho truyện của mình trở nên hấp dẫn hơn. Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một nhân vật có phẩm hạnh có đức tính vô cùng tốt đẹp có dung mạo đoan trang, đức tình hiền lành, nết na chịu thương chịu khó. Một người phụ nữ dung mạo và đức hạnh vẹn cả đôi đường. Vũ Nương được cha mẹ hai bên và bà mai làm mối cho lấy anh chàng Trương Sinh ở làng bên với giá hỏi cưới là một trăm lạng vàng. Từ khi làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của một người vợ hiền, dâu thảo. Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi hai vợ chồng lấy nhau không bao lâu thì Trương Sinh phải lên đường đi lính theo lời kêu gọi của quan lại địa phương. Ngày Trương Sinh tạm biệt mẹ già và người vợ hiền thục của mình để lên đường cũng là lúc mà Vũ Nương mang thai được ít tuần. Trương Sinh lo lắng cho mẹ và vợ lắm nhưng đất nước đang lâm nguy chàng không lên đường cũng không được. Hai người chia tay trong bịn rịn, nước mắt, Trương Sinh dặn dò vợ ở nhà nghe lời mẹ và chờ anh trở về. Còn Vũ Nương thì động viên chồng giữ gìn sức khỏe chăm sóc bản thân chờ ngày gia đình đoàn tụ. Trong những năm tháng xa cách, ly biệt đó, Vũ Nương ở nhà nhất mực hiếu thảo với mẹ chồng, nhưng không may mẹ chồng của cô bị đau ốm phần vì thương nhớ con trai, phần vì tuổi cao sức yếu nên dù Vũ Nương hết sức chạy chữa thuốc thang nhưng mẹ chồng nàng vẫn không qua khỏi. Nàng lo toan ma chay, chôn cất mẹ chồng vô cùng tươm tất chu đáo. Mẹ mất rồi chỉ còn lại Vũ Nương và đứa con trai bé nhỏ ngây thơ không hiểu chuyện đời. Hàng đêm, trong căn nhà hiu quạnh đó, Vũ Nương thường nhìn vào bóng mình chiếu trên tường mà nói với con trai rằng “Cha con đó” để vơi đi nỗi nhớ nhung với chồng mình nơi xa. Rồi ngày giặc tan, quân ta thắng trận Trương Sinh trở về với gia đình, Vũ Nương vui mừng hạnh phúc khôn tả. Nhưng Trương Sinh vừa về tới nhà nghe tin mẹ mình đã mất cách đó vài năm anh vô cùng đau khổ, vội vàng bế đứa con trai đi thắp hương cho mẹ. Nhưng thằng bé không muốn theo anh vừa đi nó vừa khóc nói “Ông không phải là cha tôi, cha tôi đêm nào cũng tới” Nghe đứa con nhỏ của mình nói vậy, máu ghen trong người Trương Sinh bùng lên dữ dội, anh về nhà đuổi đánh Vũ Nương ra khỏi nhà, không nói rõ nguyên nhân vì sao một mực đổ tội cho Vũ Nương mất nết, không giữ trọn đạo vợ hiền, trinh tiết…Vũ Nương bị chồng đuổi ra khỏi nhà không nguyên cớ, bị đổ oan, khiến nàng phẫn uất nhảy xuống sông Nhị Hà tự vẫn. Do chết oan nên linh hồn của Vũ Nương được vợ của vua Thủy Tề cứu vớt, chờ thời cơ đầu thai kiếp khác. Còn Trương Sinh trong một lần không ngủ được ngồi thắp đèn trong đêm bất chợt đứa con trai tỉnh dậy đòi mẹ, nhìn thấy bóng Trương Sinh trên tường nó bảo “Cha tôi đó”. Lúc này thì Trương Sinh đã hiểu lòng vợ, đã biết mình vu oan cho vợ anh vô cùng hối hận nhưng tất cả đã quá muộn rồi. Trong cùng nơi Trương Sinh ở, có anh chàng làm nghề kéo lưới tên là Phan Lang một hôm Phan Lang bị ngã xuống sông nhưng không chết được cứu vớt, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới long cung đã nhờ Phan Lang về gặp Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình, để hồn cô siêu thoát. Trương Sinh nghe Phan Lang kể lại, vô cùng thương vợ nên anh đã mời thầy lập đàn giải oan cho Vũ Nương trên sông Nhị Hà, trong không gian hư hư thực thực đó Trương Sinh nhìn thấy vợ mình ngồi trên kiệu hoa võng lọng bay lên trời. Vũ Nương đã được siêu thoát trở thành công chúa, thoát khỏi chốn hồng trần nhiều oan ức. Thông qua câu chuyện “Người con gái Nam Xương” tác giả Nguyễn Dữ muốn nói lên mong ước của người xưa muốn cho số phận của những người con gái được hạnh phúc, đòi lại công bằng trong cuộc sống.
Assignment The story of Nam Xuong girl is taken from the story collection "The Legend of Man Luc" by author Nguyen Du. The story revolves around the central character, a girl named Vu Nuong, born in the feudal period. Even though she was an extremely virtuous person, she still suffered an extremely unjust death. Through his story, author Nguyen Du wants to express the spirit of humanity and sympathy for the fate of girls in the old regime, when they had to live under an unfair regime of "respecting men over women". A boy has full authority to decide everything in life, while a girl must always obey orders. In his story collection Truyen Ky Man Luc, author Nguyen Du used mythical details to solve difficult situations in life. Through that, it shows the author's thoughts and aspirations when he wants to give his characters a desired ending, exonerating them. Helps readers feel somewhat satisfied, even though in the old feudal society there are still many miserable, miserable fates that cannot be vindicated. The Girl from Nam Xuong was rewritten based on a true story in life, but author Nguyen Du was clever and subtle when incorporating details and fantasy elements to make his story more attractive. . The main character of the work "The Story of a Girl from Nam Xuong" is a virtuous character with extremely good qualities, a dignified appearance, gentleness, and kindness and hard work. A woman's appearance and virtue go both ways. Vu Nuong was allowed to marry Truong Sinh from the neighboring village by her parents and the matchmaker for a marriage price of one hundred taels of gold. Since becoming Truong Sinh's wife, Vu Nuong has always fulfilled her duties as a gentle and dutiful wife. But the happiness was short-lived and the couple got married shortly before Truong Sinh had to leave to join the army at the call of local mandarins. The day Truong Sinh said goodbye to his old mother and gentle wife to leave was also when Vu Nuong was a few weeks pregnant. Truong Sinh was very worried about his mother and wife, but the country was in danger and he couldn't leave. The two broke up in tears. Truong Sinh told his wife to stay home and listen to her mother and wait for him to return. As for Vu Nuong, she encouraged her husband to stay healthy and take care of himself until the day the family reunites. During those years of separation and separation, Vu Nuong stayed at home and was always filial to her mother-in-law, but unfortunately her mother-in-law fell ill, partly because she missed her son, partly because of her old age and weak health, so although Vu Nuong She tried her best to get medical treatment, but her mother-in-law still could not survive. She took care of her mother-in-law's funeral and burial with great care. Her mother passed away, leaving only Vu Nuong and her innocent little son who did not understand life. Every night, in that lonely house, Vu Nuong often looked at her reflection on the wall and told her son, "That's your father" to ease the longing for her husband far away. Then the day the enemy was defeated, our army won the battle, Truong Sinh returned to his family, and Vu Nuong was indescribably happy. But as soon as Truong Sinh returned home and heard that his mother had passed away a few years ago, he was extremely sad and quickly picked up his son to burn incense for his mother. But the boy didn't want to follow him. As he walked, he cried and said, "You are not my father, my father comes every night." Hearing his young child say that, Truong Sinh's jealousy flared up fiercely. He went home and chased Vu Nuong out of the house. Without explaining the reason, he kept blaming Vu Nuong for losing her temper and not being disciplined. a virtuous, chaste wife... Vu Nuong was kicked out of the house by her husband without any reason, and was unfairly blamed, causing her to jump into the Nhi Ha river in anger and commit suicide. Due to her unjust death, Vu Nuong's soul was saved by King Thuy Te's wife, waiting for the opportunity to be reincarnated in another life. As for Truong Sinh, when he couldn't sleep and sat with a lamp on at night, suddenly his son woke up asking for his mother. Seeing Truong Sinh's shadow on the wall, he said, "That's my father." At this time, Truong Sinh understood his wife's feelings, knew that he had slandered his wife and deeply regretted it, but it was all too late. In the same place where Truong Sinh lived, there was a guy who worked as a net puller named Phan Lang. One day Phan Lang fell into the river but did not die and was rescued. Vu Nuong met Phan Lang under the dragon palace and asked Phan Lang to come back and meet Truong Sinh. The piano exonerates herself, allowing her soul to escape. Truong Sinh listened to Phan Lang's story and felt extremely sorry for his wife, so he invited his teacher to set up an altar to exonerate Vu Nuong on Nhi Ha River. In that space of unreality, Truong Sinh saw his wife sitting on a palanquin with a flying parasol. skyward. Vu Nuong was liberated to become a princess, escaping from the world of many injustices. Through the story "The Girl of Nam Xuong", author Nguyen Du wants to express the wishes of the ancients to make the fate of girls happy and reclaim justice in life.
Bài làm Nhà văn Nam Cao là nhà văn gắn liền cuộc sống, cũng như những sáng tác của mình với người nông dân lao động khốn khổ và tầng lớp trí thức nghèo trong xã hội. Ông có rất nhiều tác phẩm kinh điển gây được tiếng vang lớn trong làng văn học hiện thực những năm 1945 như: Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc…là những tác phẩm kinh điển gắn liền với tên tuổi của Nam Cao. Truyện ngắn “Lão Hạc” kể về cuộc sống nghèo khổ của một ông lão cô đơn, sống côi cút, cuộc đời ông trải qua nhiều đau đớn bất hạnh. Nhưng cho tới lúc chết ông vẫn không bán rẻ tâm hồn, tính lương tri, đạo đức của mình. Lão Hạc là người nghèo khổ, ông lão sống cần kiệm, chăm chỉ nhưng do nạn đói, ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến khiến cuộc sống của ông lão ngày càng tăm tối khốn khổ hơn. Ông ăn củ mài, củ chuối, sống qua ngày. Lão Hạc không có người thân bạn bè nào bên cạnh, ông lão sống một mình với con chó, là kỷ vật mà con trai lão trước khi lên đường đi làm ở đồn điền cao su đã dẫn về nhà. Con trai lão đi rồi, vợ lão mất đã lâu cảnh gà trống nuôi con chỉ mong sao cho con trưởng thành hạnh phúc, nhưng giờ nó cũng vì kế sinh nhai mà bỏ ông đi. Ông lão chỉ còn mình con chó là bầu bạn, tri kỷ tâm giao. Vẻ đẹp nội tâm, của lão Hạc được miêu tả kể lại vô cùng khách quan thông qua nhân vật ông giáo hàng xóm của lão Hạc. Một nhân vật chứng kiến từ đầu tới cuối câu chuyện. Lão Hạc là người sống có tình có nghĩa, trọng nhân phẩm đạo đức, danh dự của một con người. Lão vô cùng thương con chó của mình thường gọi nó bằng cái tên thân thương yêu mến đó là Cậu Vàng. Lão coi Cậu Vàng như con trai mình thường tâm sự với nó, lão ăn gì nó ăn đó. Nhưng rồi một lần lão Hạc ốm liệt giường, nghèo đói túng quẫn, lão cảm thấy mình không còn sức để nuôi nổi con chó nữa, bởi nó càng ngày càng lớn ăn mỗi ngày khỏe hơn. Lão thì có thể ăn của chuối sống qua ngày nhưng nó thì không thể. Cuối cùng lão buộc lòng phải đi tới quyết định đau khổ là bán đi người bạn tri kỷ của mình đi, bán Cậu Vàng. Lão khóc rất nhiều khi con chó của mình bị bắt đi, lão cảm thấy một nửa linh hồn của mình đã đi theo nó. Một con người giàu lòng nhân hậu, yêu thương loài vật, nhân ái. Lão cũng là người cha tốt, một người cha giàu đức hy sinh cho con cái. Lão sống cảnh góa vợ gà trống nuôi con nhiều năm, rồi con trai lão vì thất tình mà đi vào Đồng Nai làm đồn điền cao su, một nơi đi dễ khó về. Nhưng lão vẫn ngày đêm mong mỏi chờ con, lão có mảnh vườn, một tài sản duy nhất mà lão có thể để dành cho con trai lấy vợ. Nhưng mảnh vườn ấy lại đang bị bố con nhà Bá Kiến nhăm nhe muốn chiếm lấy làm của riêng. Nhà Bá Kiến nhiều lần sai gia nô sang hỏi mua mảnh vườn của lão Hạc nhưng lão cương quyết không bán, dù đói khổ, tũng quẫn thế nào lão cũng phải giữ cho được mảnh vườn này. Nhưng bố con Bá Kiến không mua được mảnh vườn âm mưu đổ tội, vu oan cho lão Hạc để chiếm mảnh vườn mà chẳng tốn xu nào. Lão Hạc cảm nhận được cuộc sống của mình càng ngày càng khốn khổ, túng quẫn sống tiếp cũng chẳng ích gì nên lão tìm cách tự tử để bảo toàn mảnh vườn cho con trai mình. Lão sang nhà Binh Tư xin bả chó về tự tử, Binh Tư là kẻ chuyên bắt trộm chó của người dân trong làng nên khi thấy lão Hạc bán chó rồi mà xin bả chó, hắn tưởng lão cũng tha hóa biến chất như mình nên hả hê lắm. Hắn còn trêu ông lão khốn khổ rằng “Nếu có đánh quả thì chia cho hắn với”. Lão Hạc đau khổ không nói gì, lão Hạc có lời mời Binh Tư trưa mai sang nhà mình uống rượu. Trước khi đi tới cái chết, lão Hạc đã mang giấy tờ nhà và ba mươi đồng bạc tiền bán chó và tiền lão dành dụm được mang sang gửi ông giáo. Khi nào con trai lão về thì đưa lại cho nó lấy vợ, và phòng khi lão chết hàng xóm đứng ra tổ chức ma chay giúp. Một lão nông dân hiền lành, vô cùng tự trọng ngay cả cái chết của mình cũng tự trọng, lão không muốn làm phiền người xung quanh mình, không muốn làm phiền bà con hàng xóm về tiền bạc, bởi lão biết ai cũng khó khăn cả.
Assignment Writer Nam Cao is a writer who associates his life and his writings with miserable working farmers and the poor intellectual class in society. He had many classic works that made a big splash in the realist literary world in 1945 such as: Chi Pheo, Doi Thua, Lao Hac... which are classic works associated with Nam Cao's name. The short story "Old Hac" tells about the poor life of a lonely old man, living as an orphan, his life experienced many pains and misfortunes. But until his death, he still did not sell his soul, conscience, and morality. Old Hac was a poor man. He lived frugally and diligently, but due to famine and the yoke of feudal colonial rule, his life became increasingly darker and more miserable. He ate tubers and bananas to get by. Old Hac had no relatives or friends nearby. The old man lived alone with his dog, a souvenir that his son had brought home before going to work on the rubber plantation. His son is gone, his wife passed away a long time ago, and the rooster raised the child only hoping that the child would grow up happily, but now the child also left him for the sake of making a living. The old man only had his dog as his companion and confidant. Old Hac's inner beauty is described very objectively through the character of Mr. Hac's neighbor teacher. A character witnesses the story from beginning to end. Old Hac is a person who lives a meaningful life, respects the moral dignity and honor of a human being. He loved his dog very much and often called him by the loving name of Uncle Vang. He considered Uncle Vang as his son and often confided in him that he would eat whatever he ate. But then one day, Mr. Hac was sick and bedridden, poor and destitute. He felt he no longer had the strength to raise the dog, because it grew bigger and stronger every day. I can eat bananas for a day, but I can't. In the end, he was forced to make the painful decision to sell his soulmate, sell Uncle Vang. He cried so much when his dog was taken away, he felt that half of his soul had gone with it. A person rich in kindness, love for animals, and compassion. He is also a good father, a father rich in sacrifice for his children. He lived as a widower and raised his children for many years. Then his son, because of heartbreak, went to Dong Nai to work on a rubber plantation, a place that was easy to get to and difficult to return to. But he still waited day and night for his son. He had a garden, the only property he could save for his son to get married. But that garden is being taken over by Ba Kien's father and son. Ba Kien's family sent servants many times to ask to buy Mr. Hac's garden, but he was determined not to sell it. No matter how hungry or miserable he was, he had to keep this garden. But Ba Kien and his son could not buy the garden and plotted to blame and slander Mr. Hac to take over the garden without spending a penny. Old Hac felt that his life was becoming more and more miserable and that there was no point in continuing to live, so he tried to commit suicide to preserve the garden for his son. He went to Binh Tu's house to ask for dog bait so he could commit suicide. Binh Tu was a person who specialized in stealing dogs from people in the village, so when he saw that Mr. Hac had sold the dog and asked for dog bait, he thought he was as degenerate as him. hehe. He even teased the poor old man, saying, "If you win any fruit, share it with him." Old Hac was miserable and said nothing. Old Hac invited Binh Tu to come to his house for a drink tomorrow afternoon. Before he died, Mr. Hac brought the house papers and thirty silver coins from selling the dog and the money he had saved to send to the teacher. When his son comes back, give him back so he can get married, and in case he dies, the neighbors will organize a funeral for him. A gentle old farmer, extremely proud even of his own death, he did not want to bother the people around him, did not want to bother his neighbors about money, because he knew everyone had difficulties. chief.
Bài làm Tuyệt phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được tác giả sáng tác trong một lần đi sứ ở Trung Quốc. Tác phẩm được sáng tác với hơn ba nghìn câu thơ được viết dưới dạng lục bát, gần gũi với người dân Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng cái tâm và cái tài của tác giả. Thể hiện tấm lòng nhân văn, nhân đạo của tác giả với những số phận người con gái có tài có nhan sắc, nhưng lại gặp bất hạnh trong cuộc sống, chịu nhiều đa truân bất hạnh trong cuộc đời. Truyện Kiều được tác giả viết bằng cả tâm huyết của mình, nó thể hiện cốt cách nhân phẩm của tác giả Nguyễn Du. Thể hiện cái nhìn nhân sinh quan, thế giới quan của một nhà nho yêu nước có học thức, luôn muốn tiến tới những điều văn minh tiến bộ trong xã hội. Trong tác phẩm Truyện Kiều tác giả Nguyễn Du đã thể hiện sự tài hoa của mình, ông đúng là một bậc thầy của ngôn ngữ văn chương. Truyện Kiều với những trích đoạn đặc sắc tả cảnh ngụ tình, rồi cách miêu tả hình dáng bên ngoài của nhân vật thông qua ngôn ngữ thơ được tác giả sử dụng vô cùng xuất sắc. Trong tác phẩm Truyện Kiều nguồn ngôn ngữ của Nguyễn Du thể hiện giống như một cuốn thiên từ điển giúp cho người đọc người nghe có thêm nhiều sáng tạo mới lạ, thú vị. Nhiều ngôn ngữ trong Truyện Kiều đã được người dân ghi nhớ và áp dụng thường xuyên trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Đó chính là thành công không hề nhỏ của tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm Truyện Kiều kể về cuộc đời của một người con gái Vương Thúy Kiều thuộc hàng quốc sắc thiên hương, chim sa cá lặn, cô có tài có sắc, là người hiếu đạo, trọng tình, trọng nghĩa nhưng lại chịu nhiều éo le trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua cách miêu tả về hình dạng bên ngoài và nội tâm của nhân vật Thúy Kiều người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả Nguyễn Du vô cùng yêu quý và trân trọng nhân vật của mình. Ông đồng cảm chia sẻ với nỗi khổ của nhân vật, khi mà gia đình bị tai biến gặp cảnh oan sai, Thúy Kiều một người con gái cả, có hiếu với cha mẹ đã nguyện dâng hiến hạnh phúc tuổi xuân của mình quyết tâm bán mình chuộc cha. Từ hành động này, mà Thúy Kiều đã phải trải qua mười lăm năm lưu lạc, chịu nhiều đắng cay gian khổ trong bể hồng trần, chịu nhiều tai ương, oan khuất, thân gái nhọc nhằn, chịu cảnh mười lăm năm bến nước biết ngày nào ra. Cuộc đời của Thúy Kiều đã hai ba lần rơi vào chốn lầu xanh, phải trở thành vật mua vui cho những kẻ có tiền có quyền, nhiều lần bị mua bán như những món hàng ngoài chợ, được định giá cân lên, hạ xuống, rồi phải chịu cảnh làm vợ lẽ thê thiếp cho người ta, chịu cảnh đánh ghen. Nàng cũng nhiều lần tự tử nhưng không thành công. Những oan khuất, đắng cay mà Thúy Kiều phải trải qua chính là lời tố cáo tội ác mạnh mẽ nhất mà Nguyễn Du muốn lên án xã hội cũ. Nó chính là những lời buộc tội của tác giả với chế độ phong kiến thối nát, coi nhân phẩm đức hạnh của người con gái như trò đùa, những kỹ viện lầu xanh mọc lên mà không ai quản lý giám sát công khai hoạt động. Một chế độ mà thân phận người con gái tựa như cánh lục bình trôi trong nhờ đục chịu. Thật chua xót làm sao. Truyện Kiều là một tác phẩm vô cùng khổng lồ của nền văn học nước ta. Nó còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài tạo nên giá trị tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Du đưa ông lên tầm danh nhân thế giới. Thông qua kiệt tác xuất sắc làm rung động lòng người của mình tác giả muốn nói lên tiếng lòng của mình với những người phụ nữ sống trong chế độ cũ, một chế độ chỉ coi trọng người nam, khinh rẻ người nữ, người phụ nữ dù tài giỏi xinh đẹp cũng không có quyền tự quyết định số phận, hạnh phúc của cuộc đời mình. Giá trị nhân đạo mà nhà thơ Nguyễn Du muốn gửi tới người đọc người nghe chính là tấm lòng, sự chia sẻ, đồng cảm của tác giả với nhân vật của mình nói riêng và với nhiều người phụ nữ xưa nói chung.
Assignment The masterpiece The Tale of Kieu by the great poet Nguyen Du was composed by the author during an embassy in China. The work was composed with more than three thousand verses written in six-eight form, close to the Vietnamese people. The story Kieu by Nguyen Du is written with the author's heart and talent. Expressing the author's humane and humane heart towards the fate of talented and beautiful girls, but facing misfortune in life, suffering many misfortunes in life. The story of Kieu was written by the author with all his heart, it shows the essence of author Nguyen Du's personality. Demonstrates the outlook on life and the worldview of an educated, patriotic Confucian who always wants to progress towards civilized and progressive things in society. In the work The Tale of Kieu, author Nguyen Du showed his talent, he is truly a master of literary language. The story of Kieu with its unique excerpts describing love scenes, and the author's excellent way of describing the character's appearance through poetic language. In the work The Tale of Kieu, Nguyen Du's linguistic source is presented like a dictionary, helping readers and listeners have more new and interesting creations. Many languages ​​in The Tale of Kieu have been remembered and applied regularly by people in today's modern life. That is no small success of The Tale of Kieu. The work The Tale of Kieu tells the story of the life of a girl named Vuong Thuy Kieu, who belongs to the country of heavenly beauty, the birds fall and the fish dive, she is talented and beautiful, is filial, loves love, respects justice but suffers many hardships. in daily life. Through the description of the external and internal appearance of the character Thuy Kieu, readers can feel that author Nguyen Du extremely loves and cherishes his character. He sympathized with the character's suffering. When his family suffered a tragic accident, Thuy Kieu, the eldest daughter, was filial to her parents and vowed to sacrifice the happiness of her youth, determined to sell it. I redeem my father. From this action, Thuy Kieu had to go through fifteen years of wandering, suffering many bitter hardships in the ocean of the world, suffering many calamities, injustices, hardships as a woman, and enduring fifteen years of being on the water. Which day comes out? Thuy Kieu's life has fallen into prostitution two or three times, having to become an object of entertainment for those with money and power, many times being bought and sold like items on the market, having their prices increased and lowered. then had to endure being a concubine and concubine for others, and endure jealousy. She also committed suicide many times but failed. The injustice and bitterness that Thuy Kieu had to go through is the strongest denunciation of the crime that Nguyen Du wants to condemn the old society. It is the author's accusations against the corrupt feudal regime, treating a girl's dignity and virtue as a joke, and the brothels that have sprung up without anyone managing or publicly monitoring their activities. A regime where a girl's fate is like a water hyacinth's petals floating in the clouds. How bitter it is. The Tale of Kieu is an extremely giant work of our country's literature. It was also translated into many foreign languages, creating the value of poet Nguyen Du's name, bringing him to world celebrity status. Through his excellent masterpiece that touches people's hearts, the author wants to express his feelings to the women living in the old regime, a regime that only values ​​men and despises women. Even if you are talented and beautiful, you do not have the right to decide your own fate and happiness in life. The humanitarian value that poet Nguyen Du wants to send to readers and listeners is the author's heart, sharing, and sympathy with his characters in particular and with many ancient women in general.
Bài làm Xã hội con người của chúng ta ngày càng phát triển. Chúng ta đang tăng tốc vô cùng chóng mặt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị văn hóa…Chính sự phát triển như vũ bão ấy làm cho con người ta bị quay cuồng với cuộc sống mưu sinh trong cuộc sống. Bởi trong cuộc sống mưu sinh con người luôn bận rộn với công việc của mình, chính vì vậy họ thường có thái độ sống thờ ơ, vô cảm hình thành nên thái độ sống. Con người ngày càng sống ích kỷ, thiếu quan tâm tới người khác trong cuộc sống. Họ chỉ quan tâm tới lợi ích, sự thăng quan tiến chức, tiền tài địa vị của chính mình mà thôi. Còn sự sống chết đau khổ của những người khác trong cộng đồng họ không có thời gian mà quan tâm tới. Ai cũng chỉ biết lo toan cho cuộc sống của chính mình. Ngày ngày họ vật lộn với công việc mưu sinh, cơm áo gạo tiền, những bon chen trong cuộc sống, khiến cho trái tim họ mất dần cảm xúc chai sạn dần đi những rung cảm, thổn thức rất con người. Những sự đồng cảm, thương yêu với những đồng loại của mình. Bệnh vô cảm là như thế nào? Bệnh vô cảm chính là bệnh của toàn xã hội, là căn bệnh vô cùng nguy hiểm của xã hội hiện đại. Tuy nó không phải là bệnh cần dùng thuốc ảnh hưởng tới sức khỏe con người nhưng nó lại loại bệnh ăn mòn tâm hồn của con người trong cuộc sống. Bệnh vô cảm là sự thờ ơ với những nỗi buồn, sự đau khổ của những người xung quanh mình, chỉ quan tâm tới cảm xúc của bản thân mà không quan tâm tới nỗi đau của người khác. Khi đi đường chúng ta nhìn thấy rất nhiều vụ tai nạn giao thông người bị nạn nằm trên đường người đầy máu, nhưng rất ít người dừng lại, nếu có ai đó dừng lại cũng vì tò mò, còn số người thật sự quan tâm và gọi xe cấp cứu giúp người bị nạn rất ít. Thậm chí có người dừng lại để quay videoclip tung lên trên mạng xã hội để câu lượng truy cập, lượng like và bình luận. Khi đất nước ta ngày càng trở nên giàu có, phát triển thì căn bệnh vô cảm này lại càng trở thành một vấn nạn trong xã hội hiện đại. Đặc biệt là những người dân ở thành phố, khi họ sống gần nhau nhưng nhà nào biết nhà đó, không quan tâm tới hàng xóm xung quanh mình, sống hoàn toàn theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng” Bệnh vô cảm đã và đang tồn tại ăn sâu bán rẽ ăn sâu trong nhận thức của con người trong cuộc sống hiện đại và không chịu buông tha, làm cho con người ngày càng bị tha hóa về bản chất mất tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong cộng đồng. Nếu như căn bệnh này còn tiếp tục phát triển lâu dần con người sẽ bị lãnh cảm, không còn trái tim, sống như một người máy chỉ biết làm việc và hoạt động theo một lập trình cho trước mà thôi. Những con người sống trong xã hội bị xa cách nhau nhiều hơn, cuốn vào guồng quay của công việc mà quên mất đi người thân, bạn bè của mình, ít tới thăm nhau, ít trò chuyện dần dần các mối quan hệ càng trở nên mờ nhạt hơn. Khi họ sống vô cảm là vô trách nhiệm với tất cả mọi thứ xung quanh mình, trách nhiệm với gia đình người thân, cộng đồng. Khi con người vô cảm người ta chỉ quan tâm tới lợi ích của bản thân mình muốn bảo vệ lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích của người khác của cộng đồng. Khi người ta vô cảm nhìn thấy những người gặp khó khăn hơn mình trái tim họ không còn rung động, đi xe buýt gặp tên móc túi của người khác nhưng họ không lên tiếng vì nó chẳng lấy của mình lên tiếng làm gì. Như vậy việc vô cảm này đã tiếp tay cho hành vi phạm tội của tên móc túi kia, thờ ơ với nỗi đau của nạn nhân mất đồ. Nó thật sự là một hành động im lặng đáng lên án. Sự im lặng vô cảm này làm cho xã hội của chúng ta mất an toàn, mất trật tự trị an, làm gia tăng tội phạm trong xã hội mà hậu quả chính là những người dân vô tội như chúng ta phải gánh chịu. Một ngày nào đó, khi chính ta bị tội phạm móc túi mất hết tài sản lúc đó ta sẽ cảm nhận được nỗi đau của người bị mất đồ hôm nay. Con người sống trong xã hội, sống trên đời cần phải có tình yêu thương con người dành cho nhau, nên giúp đỡ những hoàn cảnh gặp khó khăn hơn mình, nhìn thấy nỗi đau khổ của người khác mà mình không mảy may suy nghĩ thì thật là vô cảm. Chính khi con người có thái độ sống thờ ơ nên cuộc sống của họ bị thiếu đi tình cảm chân thành đích thực của một con người. Họ cũng không có những người bạn tri kỷ thật sự.
Assignment Our human society is increasingly developing. We are accelerating at an extremely dizzying speed in all fields of economics, politics, culture... It is this rapid development that makes people reeling from their livelihood in life. Because in making a living, people are always busy with their work, that's why they often have an indifferent, emotionless attitude to life. People are increasingly living selfishly, lacking concern for others in life. They only care about their own benefits, promotion, money and status. As for the life and death suffering of other people in the community, they do not have time to care about it. Everyone only knows how to worry about their own lives. Every day they struggle with work to make a living, food and clothing, and the hustle and bustle of life, causing their hearts to gradually lose their callous emotions and gradually lose their very human emotions and sobs. Sympathy and love for our fellow human beings. What is anorexia? Insensitivity is a disease of the entire society, an extremely dangerous disease of modern society. Although it is not a disease that requires medication that affects human health, it is a disease that corrodes people's souls in life. Insensitivity is indifference to the sadness and suffering of people around you, only caring about your own emotions and not caring about the pain of others. When we go on the road, we see a lot of traffic accidents with victims lying on the road covered in blood, but very few people stop, if someone stops, it's out of curiosity, but there are people who really care and care. Calling an ambulance helps the victim very little. Some people even stopped to record video clips and post them on social networks to attract traffic, likes and comments. As our country becomes increasingly rich and developed, this disease of insensitivity becomes even more of a problem in modern society. Especially people in the city, when they live close to each other but each house knows which house, they don't care about their neighbors, living completely in the style of "everyone's house lights shine". The disease of insensitivity has existed and is deeply rooted in people's awareness in modern life and refuses to let go, causing people to become increasingly corrupt in nature and lose the spirit of solidarity. , healthy leaves cover torn leaves in the community. If this disease continues to develop for a long time, people will gradually become apathetic, have no heart, and live like a robot that only knows how to work and operate according to a given program. People living in society are more separated from each other, caught up in the cycle of work and forget their relatives and friends, visit each other less, talk less, and gradually the relationships become more and more difficult. fainter. When they live indifferently, they are irresponsible to everything around them, responsible to their family, relatives, and community. When people are insensitive, they only care about their own interests and want to protect their own interests, ignoring the interests of others in the community. When people feel indifferent when they see people with more difficulties than themselves, their hearts no longer vibrate. When they ride the bus and meet someone else's pickpocket, they don't speak up because it doesn't take anything from them to speak up. Thus, this insensitivity assisted the pickpocket's criminal behavior, indifferent to the pain of the victim who lost his belongings. It is truly a condemnable act of silence. This insensitive silence makes our society unsafe, disrupts peace and order, and increases crime in society, with innocent people like us having to suffer as a result. One day, when we ourselves are robbed of all our property by criminals, we will feel the pain of those who lost their things today. People living in society and living in the world need to have love for each other. They should help those in situations that are more difficult than themselves. When they see the suffering of others without thinking about it, It's so insensitive. It is when people have an indifferent attitude to life that their lives lack the true, sincere feelings of a human being. They also don't have true soulmates.
Bài làm Trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta nếu tìm được cho mình những người bạn tốt, những người bạn tri kỷ sẽ tựa như tìm được một cuốn sách hay, học hỏi được rất nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống. Câu nói “Người thông minh sẽ còn mãi như một cuốn sách tốt nhất của cuộc đời” nhằm thể hiện việc lựa chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở. Khi chúng ta có những người bạn tốt, thông minh chúng ta học tập được từ bạn mình nhiều điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Những người bạn thông minh tựa như những cuốn sách tốt luôn định hướng cho con người đi theo những điều đúng đắn, đi theo những điều hay lẽ phải trong cuộc đời. Nó như việc bạn đọc một cuốn sách tốt học hỏi được nhiều điều hay ho ở trong đó và vận dụng vào cuộc sống của mình để tạo nên những giá trị riêng của cuộc đời mình. Trong cuộc sống của con người chúng ta ai sống cũng đều phải có bạn, cũng như ít nhiều chúng ta ai cũng từng phải đọc sách. Những lựa chọn bạn như thế nào lại là một vấn đề vô cùng quan trọng, việc lựa chọn bạn là vô cùng khó khăn. Nếu chúng ta có những người bạn thân tri kỷ tâm đầu ý hợp, những người bạn thông minh có thể giúp ta giải quyết nhiều thắc mắc, uẩn khúc trong cuộc sống thì đó là điều vô cùng tuyệt vời trong cuộc sống này. Việc chọn bạn tốt cũng như việc chúng ta tìm trong hàng ngàn hàng triệu quyển sách để tìm được một cuốn sách hay gối đầu giường hàng đêm học cho mình những điều hay ho thông minh ở trong nó. Định hướng tương lai của mình tốt đẹp hơn. Tại sao những người bạn thông minh lại tựa như cuốn sách tốt còn mãi, bởi những người thông minh trong xã hội nào cũng cần, sách hay thì ở đâu cũng có những giá trị riêng của nó. Sống trên đời thì phải có những người bạn tri âm tri kỷ, bạn thân thiết để khi chúng ta khó khăn hoạn nạn, hoặc có việc phân vẫn còn có người sẻ chia giúp đỡ, tìm hướng giải quyết bàn bạc, cố vẫn tham mưu cho chúng ta, gỡ rối tơ lòng cho chúng ta. Trong kho tàng văn học dân gian cũng có câu nói “Học thầy không tày học bạn” nhằm khẳng định vai trò của những người bạn tri kỷ trong cuộc sống, khi chúng ta có những người bạn tốt, thông minh, trí tuệ chúng ta được ở gần một khối kiến thức khổng lồ, có thể học hỏi nhiều điều hay lẽ phải. Chính vì vậy, phải biết chọn bạn mà chơi, chơi với những bạn xấu, những bạn lêu lổng có suy nghĩ nông cạn thì vô cùng nguy hiểm có thể làm cho chúng ta bị cám dỗ sa ngã lúc nào không biết. Những người bạn xấu có khả năng giết chết tương lai của chúng ta, lôi kéo ta vào con đường sai trái, mất hết đi lý trí, sự tỉnh táo để hướng tới con đường trong sáng đúng đắn trong cuộc sống. Có những người bạn xấu là con dao hai lưỡi thường đâm sau lưng mình, làm cho chúng ta gặp khó khăn bất ngờ không thể nào lường trước được. Nhiều bạn xấu còn đưa chúng ta vướng vào vòng lao lý, tù tội mất hết cả thanh danh, danh dự hạnh phúc con người. Khi chúng ta tìm được cho mình một người bạn thông minh chúng ta có thể học hỏi từ bạn những điều hay, những cái tốt đẹp mà ta còn thiếu, khiếm khuyết, có như vậy chúng ta trở nên tiến bộ hơn, trở nên sống tích cực hơn. Những cuốn sách tốt cho chúng ta những nguồn tri thức mới, nâng cao hiểu biết trí tuệ cho con người, dạy cho ta biết những điều hay lẽ phải ở đời, cách thức làm ăn đúng đắn để trở nên giàu có.
Assignment In the life of each of us, if we find good friends and confidants, it will be like finding a good book and we will learn many good things in life. The saying "A smart person will remain forever as the best book in life" is intended to express the choice of friends to hang out with and the choice of place to live. When we have good, intelligent friends, we learn from them many good things in life. Smart friends are like good books that always guide people to follow the right things, to follow the right things in life. It's like reading a good book and learning many interesting things in it and applying it to your life to create your own life's values. In human life, we all have to have friends, just as we all have to read books more or less. How you choose friends is an extremely important issue, choosing friends is extremely difficult. If we have close friends who are like-minded, smart friends who can help us solve many questions and problems in life, that is an extremely wonderful thing in this life. Choosing good friends is like searching through thousands and millions of books to find a good book to put on our bedside table every night to learn the interesting and intelligent things in it. Shape your future better. Why are smart friends like good books that last forever? Because smart people in every society need them. Good books have their own values ​​everywhere. Living in this world, we must have friends who are confidants, close friends, so that when we are in trouble, or have a problem, there will still be someone to share with, help, find a solution, discuss, and try to advise. for us, untangle our hearts. In the treasury of folk literature, there is also the saying "Learning from a teacher is not good at learning from friends" to affirm the role of close friends in life, when we have good, intelligent, and intellectual friends. Being near a huge body of knowledge, you can learn many good things. Therefore, we must know how to choose friends to play with. Playing with bad friends, idle friends with shallow thinking is extremely dangerous and can make us tempted to fall without knowing it. Bad friends have the ability to kill our future, pull us down the wrong path, and lose all reason and sanity to move towards the right, pure path in life. Having bad friends is a double-edged sword that often stabs us in the back, causing us to encounter unexpected difficulties that we cannot predict. Many bad friends also get us entangled in labor, prison, and loss of reputation, honor, and human happiness. When we find ourselves a smart friend, we can learn from him the good things, the good things that we lack and have shortcomings, then we become more progressive, become more alive. more positive. Good books give us new sources of knowledge, improve human intellectual understanding, teach us good things in life, and the right way to do business to become rich.
Bài làm Lòng nhân ái tình thương yêu đồng loại là đạo lý làm người tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta từ xưa tới nay. Nó thể hiện tình cảm cao quý nhất giữa người với người trong cùng một dân tộc, quốc gia. Câu nói “Thương người như thể thương thân” là một bài học quý báu mà ông cha ta muốn nhắn gửi tới con cháu mình hôm nay. Người dân nước ta đã có một câu tục ngữ so sánh vô cùng thấu đáo cụ thể, thương người như thể thương thân, thật đáng quý biết bao. Trong cuộc sống của chúng ta ai cũng biết yêu quý trân trọng bản thân mình, nếu chúng ta biết thương yêu người khác đồng loại của mình như thương bản thân mình thì đó chính là điều tốt đẹp nhất mà chúng ta đã làm được trong cuộc sống này. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta đời người có khi gặp nhiều chông gai hiểm trở, khiến cho xã hội luôn luôn biến động không ngừng, nhưng cũng có khi gặp cảnh an vui yên bình. Trong những lúc gặp hoàn cảnh những người dân khó khăn khốn khổ hơn mình, nếu chúng ta có thể giúp đỡ được thì nên giúp đỡ, không nên toan tính thiệt hơn. Hàng năm nước ta vẫn có những người dân đau khổ với họa lũ lụt thiên tai khiến con người gặp cảnh màn trời chiếu đất trong bối cảnh ấy nếu chúng ta có thể chìa bàn tay mình giúp đỡ những người dân đang gặp hoạn nạn thì tốt biết bao. Khi chúng ta giúp đỡ người khác mang yêu thương trao tới cho con người, thì chính trong trái tim của chúng ta cũng cảm nhận được sự hạnh phúc ấm áp ở đâu đó. Hạnh phúc giống như một loại nước hoa mà khi chúng ta xịt nó cho người khác thì cũng ngửi thấy mùi thơm của nó vương trên áo của mình. Tình cảm thương người như thể thương thân ấy đáng quý vô cùng gắn liền với đức hy sinh của những con người có tấm lòng cao cả trong cuộc sống. Nó là biểu hiện cao quý nhất của tình người, là tấm lòng nhường cơm sẻ áo trong lúc người khác gặp khó khăn hoạn nạn, chúng ta có thể cưu mang giúp đỡ. Tình thương người mênh mông bao la như trời biển, thể hiện cho một tâm hồn vô cùng phong phú, biết trân trọng đồng cảm với nỗi khốn khổ của người khác trong cuộc sống. Thương người như thể thương thân chính là lòng nhân đức tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam chúng ta trong những năm đói lịch sử 1945 làm chết hai triệu người. Hũ gạo cứu đói do chủ tịch Hồ Chí Minh đã được khởi xướng nhằm cứu vớt những người đồng bào khốn khổ của dân tộc ta. Chính nhờ lòng nhân đức, tinh thần đoàn kết thương người như thể thương thân mà toàn quân toàn dân ta đã vượt qua những khó khăn thử thách, đánh thắng nhiều kẻ thù lớn mạnh, không chỉ trên chiến trường mà trên mọi mặt trận, kể cả giặc đói giặc dốt.
Assignment Compassion and love for fellow human beings are the moral principles of being good people of the Vietnamese people from past to present. It represents the noblest feelings between people of the same people and country. The saying "Love others as you love yourself" is a valuable lesson that our ancestors want to convey to our children and grandchildren today. The people of our country have a proverb that compares very thoroughly and specifically, loving others as if loving yourself, how precious it is. In our lives, we all know how to love and cherish ourselves. If we know how to love others and our fellow human beings as we love ourselves, that is the best thing we have ever done in life. this life. In the life of each of us, there are times when we encounter many obstacles and difficulties, causing society to constantly change, but there are also times when we encounter peaceful and happy situations. In times when we encounter people who are more difficult and miserable than us, if we can help, we should help, and not calculate the disadvantage. Every year, our country still has people suffering from floods and natural disasters, causing people to face the fate of heaven and earth. In that context, if we can extend our hands to help people in need, it would be good. Additional info. When we help others bring love to people, we also feel warm happiness somewhere in our hearts. Happiness is like a perfume that when we spray it on others, we can also smell its fragrance on our clothes. This feeling of loving others as if loving yourself is extremely precious and associated with the sacrifice of people with noble hearts in life. It is the noblest expression of human love, the heart to give food and clothing when others are in trouble, so we can help. Love for others is as vast as the sky and sea, showing an extremely rich soul that knows how to appreciate and sympathize with the misery of others in life. Loving others as if loving yourself is the virtue that created the strength of our Vietnamese people during the historic famine years of 1945 that killed two million people. The hunger relief rice jar initiated by President Ho Chi Minh was launched to save our nation's miserable compatriots. It is thanks to the kindness and solidarity of loving others as if loving oneself that our entire army and people have overcome difficulties and challenges, defeating many powerful enemies, not only on the battlefield but on all fronts. including the hungry and the ignorant.
Bài làm Dễ nhận thấy được rằng người Việt Nam nói chung luôn luôn rất coi trọng tình cảm gia đình. Vì thế, trong kho tàng văn học dân gian đã có biết bao tiếng hát, lời ru, câu chuyện. Có lẽ chính vì thế mà các bậc tiền nhân trước như cũng đã khuyên nhủ mọi người hãy nâng niu, cũng như cũng phải biết gìn giữ tình cảm cha con, anh em đầm ấm hạnh phúc. Và có thế thấy được một trong những lời khuyên đó là: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” Dễ nhận thấy được câu ca dao đã so sánh tình anh em với một hình ảnh cụ thể và dễ hiểu để lời khuyên thấm vào lòng người biết bao nhiêu. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài” ý như muốn nói để đối đáp, so bì thiệt hơn. Với vế sau thì cha ông ta lại so sánh hình ảnh con gà thật thú vị nhưng dường như cũng thật là gần gũi biết bao nhiêu. Gà cùng một mẹ cũng như là anh em trong một nhà. “Đá nhau” chính là một từ muốn nói về những sự bất đồng, xích mích giữa các anh em trong một gia đình. Đã là anh em trong già đình thì có chuyện gì có thể bàn bạc với nhau để tìm ra một lối thoát có lý nhất và hợp tình nhất. Tất cả nên nhường nhịn nhau, nghe nhau nói rõ câu chuyện để có thể tìm ra cách giải quyết vấn đề một cách tốt nhất có thể. Lý do chúng ta phải nhường nhịn nhay là bởi chúng ta là nh em, là “gà chung một mẹ”. Sống trên đời không ai là có thể hoàn hảo được cả, nhưng quan trọng hơn là ta có biết được những điểm yếu của mình để có thể tìm hướng giải quyết. Điều này đặc biệt quan trọng đối với anh em trong nhà nữa. Chúng ta cũng cần phải hiểu được rằng một khi đã là anh em thì đói khi no,lúc đủ lúc thiếu …. ở những giai đoạn đó tất cả chúng ta cũng phải quan tâm đến nhau, không nên so đo tính toán thiệt hơn. Ta có thể thấy được mỗi hoàn cảnh sống có thể thay đổi nhưng tình anh em trước sau như một. Anh em cũng được ví von đó chính là giọt máu sẻ đôi. Ta như cũng đã thấy được rằng chính tình cảm anh em là tình cảm ruột rà cho nên sự đùm bọc lẫn nhau cũng là việc làm tự nhiên, tất yếu. Khi đã là “gà cùng một mẹ” thì chúng ta cũng nên đùm bọc có nghĩa là giúp đỡ, che chở, cũng như là biết san sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, mọi điều sướng khổ. Thông qua câu ca dao đã nêu lên một cách cư xử hợp lí, hợp tình trên nền tảng đạo đức là lòng nhân ái của con người chúng ta. Một khi đã là anh em ruột thịt thì cần phải giúp đỡ nhau hết mình, vì sẽ chẳng có ai mà có thể đùm bọc hơn là người thân, anh em ruột thịt. Có thể thấy được khi chúng ta quan tâm săn sóc lẫn nhau còn là trách nhiệm, bổn phận của mỗi người anh, người em trong gia đình. Ta cũng đã biết đến “Sự tích trầu cau” chính là câu chuyện xúc động về tình anh em thắm thiết. Truyện nói về hai anh em họ Cao mồ côi cả cha và mẹ. Hai người này cùng đến học ở nhà thầy đồ họ Lưu. Và hai anh em họ đã nhường nhau bát cháo duy nhất, khiến cô con gái thầy đồ cảm động, và cô cũng đã đem lòng yêu mến và thành vợ người anh. Thế rồi, chỉ vì một sự hiểu lầm mà người em xấu hổ phải ra đi. Người anh lúc này đây thì thương em cũng bỏ nhà đi tìm … Ta như có thể thấy được chính tình nghĩa anh em sâu nặng đã khiến đất trời thương xót, biến anh thành cây cau, em thành hòn đá vôi, mãi mãi bên nhau trong tục ăn trầu – một nét ddejjp văn hóa Việt xa xưa. Còn ta cũng không thể quên được nhân vật người anh tham lam, độc ác trong truyện “Cây khế” cũng đã bị người đời lên án và dành cho hắn một kết cục bi thảm là bỏ xác giữa biển khơi xa.
Assignment It's easy to see that Vietnamese people in general always value family love very much. Therefore, in the treasure of folk literature there are many songs, lullabies, and stories. Perhaps that is why our ancestors have advised everyone to cherish and preserve the warm and happy relationship between father and son and siblings. And one can see that one of those tips is: “Be wise in responding to outsiders Chickens of the same mother should never fight each other." It is easy to see how much the folk song compares brotherly love with a specific and easy-to-understand image so that the advice penetrates people's hearts. "Be wise in responding to outsiders" means to respond and compare advantages and disadvantages. With the latter, his father compared the image of a chicken, which is interesting but also seems very close. Chickens from the same mother are like brothers in the same family. “Fighting” is a word that refers to disagreements and conflicts between brothers in a family. Since we are brothers in a family, we can discuss anything with each other to find the most reasonable and most reasonable way out. Everyone should yield to each other, listen to each other's story clearly so that we can find the best way possible to solve the problem. The reason we have to yield quickly is because we are brothers, "chickens from the same mother". No one in this world can be perfect, but more importantly, we know our weaknesses so we can find solutions. This is especially important for siblings too. We also need to understand that once we are brothers, we will be hungry and sometimes we will be full, sometimes we will have enough and sometimes we will lack... At those stages, we all have to take care of each other, and not compare and calculate advantages and disadvantages. We can see that each life situation may change, but brotherhood remains the same. Brothers are also compared to a shared drop of blood. We have also seen that brotherly love is a close relationship, so supporting each other is also a natural and inevitable thing. When we are "chickens of the same mother", we should also care for each other, which means helping, protecting, as well as knowing how to share with each other all the joys and sorrows, all the joys and sufferings. Through the folk song, we have raised a reasonable and reasonable way of behaving based on the moral foundation of our humanity. Once we are siblings, we need to help each other as much as we can, because there is no one who can protect us more than relatives and siblings. It can be seen that when we care for each other, it is also the responsibility and duty of each brother and sister in the family. We also know that "The Legend of Betel and Areca" is a touching story about passionate brotherly love. The story is about two Cao brothers who are orphans of both parents. These two people went to study at the house of Master Luu. And the two cousins ​​gave each other their only bowl of porridge, touching the teacher's daughter, and she also fell in love with him and became his wife. Then, because of a misunderstanding, the embarrassed younger brother had to leave. The brother at this moment felt sorry for me and left home to look for me... I can see that it was the deep brotherly love that made heaven and earth pity us, turning me into an areca tree, you into a limestone stone, forever together. in the custom of chewing betel - an ancient feature of Vietnamese culture. And we cannot forget the character of the greedy and cruel brother in the story "The Starfruit Tree" who was also condemned by people and gave him a tragic ending of leaving his body in the ocean far away.
Không thể phủ nhận được rằng những câu ca dao tục ngữ chính là những bài hoạc quý báu của ông cha ta để lại. Đó chính là những bài học làm người, những bài học khuyên chúng ta sống như thế nào cho đúng đọa lý. Trong cùng một nước thì phải biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Ta vẫn nhớ đến câu ca dao đặc sắc đó chính là câu “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng” luôn mang lại một bài học vô cùng sâu sắc và cho đến nay nó vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Đầu tiên, tất cả chúng ta cần hiểu về câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng” là gì? “Nhiễu điều” được biết đến đó là tấm vải được phủ lên giá giương khi không sử dụng. Khi phủ tấm nhiễu điều này lên để có thể nhằm giữ cho giá gương luôn sạch sẽ, không bị bụi bẩn và luôn bền đẹp. “Giá gương” cũng chính là một điều luôn luôn cần tấm nhiễu để che phủ. Ngược lại ta như thấy được đó cũng chính như tấm nhiễu chỉ phát huy được tác dụng của mình khi được phủ lên giá gương. Đó được đánh giá cũng chính là nghĩa đen của câu ca dao. Và ngay ở câu tiếp theo thôi ta như đã thấy được chính cái ý nghĩa của hai hình ảnh tượng trưng nhiễu điều – giá gương đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Qủa thật ta như thấy được rằng đó cũng chính là hình ảnh những người trong một nước. Ông cha ta xưa cũng đã có lời khuyên con cháu rằng phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, mỗi người cũng phải biết đoàn kết để tạo lên sức mạnh tập thể, cũng như nhiễu điều – giá gương. Ta như thấy được rằng lúc nào cũng ở bên cạnh, bổ sung cho nhau, khiến cho vật kia trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết, quan trọng là nó dường như cũng đã làm đẹp hơn. Các bậc tiền nhân trước cũng như đã dạy chúng ta đó chính là câu ca: “Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Như là để nói lên sức mạnh của đoàn kết, sức mạnh của tập thể. Mỗi người dân Việt luôn biết đến truyền thuyết, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Như vậy, mỗi công dân chúng ta đâu phải là người xa lạ. Chúng ta như được biết đến cũng chính như đều có chung tổ tiên, chung nguồn gốc, đều là anh em một nhà trên dải đất hình chữ S. Qủa thật với năm mươi tư dân tộc anh em cùng nhau đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Có thể khẳng định được là từ xưa đến nay, nhân dân ta đã có tinh thần đoàn kết vô cùng to lớn. Và chúng ta cũng có thể thấy được rằng chính trong rất nhiều các cuộc kháng chiến, nhân dân ta phải đối mặt với những kẻ thù mạnh hơn, tàn ác hơn gấp nhiều lần. Nhưng, chính bằng tinh thần đoàn kết, sự mưu trí cũng như sự dũng cảm, mà sau hơn 1000 năm Bắc thuộc dài như vậy rồi cho đến những kẻ thù từ phương Tây với những vũ khí tối tân, trang thiết bị chiến tranh hiện đại, chúng ta vẫn là một nước tự do, độc lập. Có thể thấy được rằng cũng chính với những gậy gốc. Rồi ta như thấy được có những năm kháng chiến gian khổ, mọi hoạt động đều tập trung tại Việt Bắc. Nếu như mà chúng ta không có sự giúp đỡ của đồng bào và người dân nơi mảnh đất ấy, làm sao kháng chiến có thể thành công, làm sao chúng ta có thể giành được độc lập được cơ chứ? Ngày nay, con người chúng ta được sống trong thời đại hòa bình, tinh thần đoàn kết ấy vẫn luôn luôn sáng mãi trong lòng mỗi chúng ta. Chúng ta dường như cũng như vẫn cảm thấy đau khi nhìn thấy những đồng bào miền Trung gặp bão lũ. Mỗi công dân Việt Nam cũng đã chung sức đồng lòng để có thể giúp đỡ đồng bào gặp khó khăn nhanh chóng thoát khỏi cảnh cơ cực đó. Đoàn kết, hay hơn nữa đó chính là sự yêu thương tạo ra sức mạnh tập thể vô cùng to lớn. Chẳng thế mà lịch sử cũng đã chứng minh rằng nhân dân ta dường như cũng chỉ với giáo mác gậy gộc, chúng ta chiến thắng được những đế quốc vô cùng hùng mạnh, tàn ác và hùng mạnh như vậy. Không thể khác, đó cũng chính lòng yêu thương, sự sẻ chia của những người xung quanh chúng ta, để có thể khiến những người có hoàn cảnh khó khăn có một cuộc sống tốt đẹp hơn cũng như thật là ý nghĩa hơn, ấm áp hơn bao giờ hết. Thế rồi ta như thấy được cũng chính là nhờ những tấm lòng, em bé vùng cao có áo ấm, được học cái chữ, được học điều hay. Nhờ những tấm lòng, những cụ già neo đơn không còn phải cô đơn một mình nữa, thế rồi các em nhỏ cũng đã có thêm những tấm áo ấm để mặc qua những mùa đông lạnh giá.
It cannot be denied that folk songs and proverbs are precious songs left by our ancestors. Those are the lessons of being human, the lessons that advise us on how to live in the right way. In the same country, we must love and care for each other. I still remember that unique folk song: "Noise covers the mirror shelf. "People in a country must love each other" always brings a very profound lesson and it still has its value to this day. First, we all need to understand the folk song "Noise covers the mirror shelf. What does "people in a country have to love each other"? “Noise” is known as the cloth that is placed on the rack when not in use. When covering the mirror, this is done to keep the mirror shelf clean, dust-free and always beautiful. “Mirror price” is also something that always needs a noise sheet to cover it. On the contrary, we can see that it is just like a noise sheet that only works when it is covered on a mirror shelf. That is considered to be the literal meaning of the folk song. And right in the next sentence, we can see that the very meaning of the two confusing symbolic images - the mirror price has become clearer than ever. Indeed, we can see that that is also the image of people in a country. Our ancestors also advised their children and grandchildren that they must know how to love and care for each other, and that each person must also know how to unite to create collective strength, as well as to set an example. We can see that being together all the time, complementing each other, makes the other thing more meaningful than ever, and importantly, it also seems to have become more beautiful. Our predecessors also taught us that this is the song: "A tree should not make premature Three trees gathered together form a high mountain." As if to express the power of solidarity, the power of the collective. Every Vietnamese person always knows the legend that Lac Long Quan and Au Co gave birth to our people in egg sacs. Thus, each of us citizens is not a stranger. As we are known, we all have the same ancestors, the same origin, we are all brothers of one family on the S-shaped strip of land. Indeed, with fifty-four ethnic groups, brothers unite together, joining hands to build build and protect the country. It can be affirmed that from ancient times until now, our people have had an extremely great spirit of solidarity. And we can also see that in many resistance wars, our people had to face enemies many times stronger and more cruel. But, it is with the spirit of solidarity, ingenuity and courage that, after more than 1,000 years of Northern domination, the enemies from the West with modern weapons and modern war equipment arrived. Today, we are still a free and independent country. It can be seen that it is also with the original sticks. Then we can see that there were years of arduous resistance, all activities were concentrated in Viet Bac. If we do not have the help of our compatriots and people in that land, how can the resistance succeed, how can we win independence? Today, we humans live in an era of peace, and that spirit of solidarity always shines in the hearts of each of us. We still seem to feel pain when we see our Central region people encounter storms and floods. Every Vietnamese citizen has also joined together to help people in difficulty quickly escape that destitute situation. Solidarity, or better yet, love creates enormous collective strength. That's why history has proven that our people seem to be able to defeat such extremely powerful, cruel and powerful empires with just spears and sticks. It cannot be otherwise, it is the love and sharing of those around us that can help people in difficult circumstances have a better life as well as a more meaningful and warm one. more than ever. Then we can see that thanks to the hearts, children in the highlands have warm clothes, learn letters, and learn good things. Thanks to your kindness, the lonely old people no longer have to be alone, and the children also have warm clothes to wear through the cold winters.
Bài làm Từ xa xưa tới nay con người chúng ta luôn nhận thức rõ ràng được sức mạnh của việc đoàn kết, muốn tồn tại trong cuộc sống thì cần phải biết đoàn kết nhau lại để tạo nên một sức mạnh lớn, chinh phục thiên nhiên, chống lại những con vật hung dữ như hổ, báo, chó sói, chống lại thiên tai, hạn hán, lũ lụt, những hiểm họa to lớn mà nếu chỉ với sức của một người sẽ không thể nào thành công được. Chính vì vậy, cha ông ta thời xưa thường răn dạy cho cháu mình rằng “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Đoàn kết, chính là sức mạnh giúp con người chúng ta tạo nên một sức mạnh, uy lực lớn lao có thể thành công vượt mọi khó khăn thử thách. Trong thực tế quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam chúng ta cũng luôn chứng minh rằng đoàn kết chính là sức mạnh. Đất nước của chúng ta vốn là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược chống lại những kẻ thù lớn mạnh hơn chúng ta rất nhiều lần. Nhưng chúng ta luôn kiên cường chống lại và giành thắng lợi cuối cùng một cách vẻ vang, vinh dự. Để có được điều đó chính là do người dân của chúng ta biết đoàn kết nhau lại, biết góp gió thành bão, tạo nên một khối thống nhất toàn dân từ trên xuống dưới. Non sông Việt Nam chúng ta đẹp đẽ bình yên như ngày hôm nay là nhờ những người dân những cha ông ta từ thế hệ đi trước luôn đoàn kết tương trợ thương yêu đùm bọc lẫn nhau từ Nam ra Bắc đẻ có thể thành công trên mọi trận chiến. Hàng chục triệu người dân của ta đồng lòng nhất trí cùng chung một mục tiêu, chung một kẻ thù sẵn sàng hy sinh tất cả sức lực và của cải để giữ vững nền độc lập tự chủ của mình, giữ được mảnh đất quê hương được bình yêu. Chúng ta đã trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh ác liệt như chống quân Thanh, Nguyên Mông, Minh, Thanh… Những nước láng giềng cậy nước lớn quân mạnh muốn biến nhân dân ta thành nô lệ đất nước ta thành thuộc địa những người dân của chúng ta kiên cường, ý chí trên dưới một lòng đoàn kết nên đã đánh tan quân xâm lược. Trong thời đại gần đây, nhờ quân và dân ta trên dưới một lòng thống nhất, kiên cường dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã đánh tan hai nước đế quốc lớn mạnh sừng sỏ, như Pháp và Mỹ. Hai cuộc chiến tranh đó đã lấy đi của chúng ta rất nhiều hy sinh xương máu, nhưng nó cũng là thành quả vô cùng vẻ vang của dân tộc Việt Nam, nói lên sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân cùng nhau kháng chiến, không có gì quý hơn độc lập tự do. Từ các vị trưởng bối lão làng trong hộ nghị Diên Hồng tới những người nhỏ tuổi yêu nước như Trần Quốc Toản những cậu bé liên lạc viên, tất cả đều có tinh thần yêu nước, cùng nhau đoàn kết, hướng thẳng quân thù mà đánh. Không chỉ trong kháng chiến mà trong thời bình, lao động sản xuất người dân Việt Nam chúng ta cũng đoàn kết, tương thân tương ái tạo nên sức mạnh phi thường trong lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho dân tộc. Chúng ta cùng nhau ngăn để đắp đập be bờ rồi cùng nhau bảo vệ những cánh đồng lúa mênh mông nuôi sống biết bao người dân trong hoàn cảnh khốn khổ. Con người cùng nhau đào sống ngăn núi tạo nên công trình thủy điện Sông Đà đưa ánh sáng thủy điện tới cho mọi người. Chính nhờ sự đoàn kết của những người kỹ sư, công nhân và các chuyên gia nước ngoài đã tạo nên sức mạnh kỳ diệu đó. Chúng ta đã đoàn kết tạo nên giàn khoan dầu khí giữa biển Đông mênh mông rộng lớn đưa đất nước chúng ta tiến lên tầm cao mới về trình độ kinh tế và khoa học kỹ thuật. Có được thành quả đó nhờ tinh thần đoàn kết của cả dân tộc Việt Nam chúng ta từ ban lãnh đạo tới mỗi người dân người công nhân trong xã hội. Câu nó ” Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” thể hiện tinh thần đoàn kết vô cùng sâu sắc, đó chính là lời tâm sự là bài học mà ông cha ta muốn gửi gắm tới con cháu mình, nếu muốn thành công thì cần phải biết phát huy sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân. Bởi chỉ có đoàn kết thì chúng ta mới tạo thành một khối thống nhất trên dưới đồng lòng sợ gì việc khó, đào núi lấp biển có chí sẽ thành công. Đoàn kết chính là nguồn gốc cốt lõi tạo nên sức mạnh, là yếu tố quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế trong thời kỳ hội nhập mở cửa nhiều cạnh tranh này.
Assignment From ancient times until now, we humans have always been clearly aware of the power of solidarity. If we want to survive in life, we need to know how to unite together to create a great power, conquer nature, fight against ferocious animals such as tigers, leopards, and wolves, against natural disasters, droughts, floods, and great dangers that with just one person's strength it would be impossible to succeed. That's why our ancestors in ancient times often taught their grandchildren that "One tree cannot make a mountain, three trees gathered together can make a high mountain." Solidarity is the strength that helps us humans create great strength and power that can successfully overcome all difficulties and challenges. In reality, the process of building and defending the country of the Vietnamese people has always proven that solidarity is strength. Our country is inherently a poor and backward agricultural country, experiencing many wars of invasion against enemies many times stronger than us. But we always resisted and won the final victory gloriously and honorably. To achieve that is because our people know how to unite together, how to contribute to the storm, creating a unified bloc from top to bottom. Our Vietnamese countryside is as beautiful and peaceful as it is today thanks to the people and forefathers from previous generations always uniting, supporting and loving each other from South to North so that we can succeed in every way. war. Tens of millions of our people unanimously agree with the same goal, the same enemy, ready to sacrifice all their strength and wealth to maintain their independence and autonomy, to keep their homeland. average love. We have gone through many fierce struggles against the Qing, Mongol, Ming, and Qing armies... Neighboring countries relied on big countries and strong armies to want to turn our people into slaves, our country into a colony. Our people were resilient, with a united will from above and below, so they defeated the invaders. In recent times, thanks to the unity and resilience of our army and people above and below under the leadership banner of the Party and President Ho Chi Minh, we have defeated two powerful and formidable imperialist countries, such as France and America. Those two wars took away from us a lot of sacrifices and blood, but they were also extremely glorious achievements of the Vietnamese people, demonstrating the strength of the spirit of national solidarity together in resistance. Nothing is more precious than independence and freedom. From the old elders in the Dien Hong conference to the young patriots like Tran Quoc Toan and the liaison boys, all have a patriotic spirit, unite together, and fight the enemy straight. . Not only in the resistance war but in peacetime, our Vietnamese people also unite and support each other in productive labor, creating extraordinary strength in productive labor, creating a lot of material wealth for the nation. Together, we stop building dams and protect the vast rice fields that feed so many people in miserable circumstances. People worked together to dig out the mountain to create the Song Da hydroelectric project, bringing hydroelectric light to everyone. It is thanks to the solidarity of engineers, workers and foreign experts that has created that magical power. We have united to create an oil and gas rig in the middle of the vast East Sea, bringing our country to new heights in terms of economic and scientific and technical level. That achievement was achieved thanks to the spirit of solidarity of our entire Vietnamese people, from the leadership to every worker and citizen in society. The saying "One tree cannot make a mountain, three trees together can make a high mountain" shows a very deep spirit of solidarity, it is a confession and a lesson that our ancestors want to convey to our children and grandchildren. , if you want to succeed, you need to know how to promote the power of the spirit of national solidarity. Because only by solidarity can we form a unified whole without fear of difficult things. If we dig mountains and fill seas, if we have the will, we will succeed. Solidarity is the core source of strength, the most important factor in the struggle for survival and development of the Vietnamese people in the international arena during this period of integration, opening up and competition.
Bài làm Người xưa thường nói rằng “Tấc đất tấc vàng” để nói lên sự quý giá của đất đai, bởi có đất đai thì với bàn tay khối óc của mình con người có thể tạo ra vô cùng nhiều của cải vật chất, quý giá như vàng bạc. Tấc đất là gì? Chính là đơn vị đo lường tính toán của người nông dân nước ta từ thời xưa. Vàng chính là một kim loại vô cùng quý giá, cứ cái gì quý con người ta luôn so sánh với vàng như thời gian là vàng, tấc đất tấc vàng, nhằm khẳng định đất đai là một thứ vô cùng quý giá. Thông qua câu tục ngữ này người dân nước ta muốn nhắn gửi cho con cháu mình phải biết yêu quý đồng ruộng biết yêu quý mảnh đất quê hương, bởi khi chúng ta có đất trong tay chúng ta có thể gây dựng nên sự nghiệp tạo nên cơ đồ cho mình,không lo nghèo khổ, đói kém chỉ cần con người biết cố gắng chăm chỉ mà thôi. Câu tục ngữ “Tấc đất tấc vàng” dù là thời xưa hay thời nay thì vẫn luôn đúng. Thời xưa người nông dân có đất thì có thể tự do cày cấy trồng trọt, chăn nuôi, tạo ra hoa màu, lúa gạo cho bản thân mình, không cần phải đi làm thuê cuốc mướn cho địa chủ sống cuộc sống ở đợ, người hầu kẻ hạ, nô lệ cho người khác một cách khốn khổ. Trên mảnh đất đó, người nông dân có thể gieo cấy quanh năm, thâm canh tăng vụ tạo ra lúa gạo hoa thơm quả ngọt, cuộc sống nhờ đó mà sung túc không lo cái căn cái mặc. Không lo nghèo khó, thiếu tốn, như trong thời phong kiến, người dân không có mảnh đất cắm dùi, nghèo khó, phải đi ở đợ, làm thuê cho những gia đình giàu có là địa chủ, quanh năm thiếu thốn, bán mặt cho trời bán lưng cho đất nhưng vẫn nghèo khổ. Đất là thứ vô cùng cần thiết với mọi người, mọi nhà. Nó còn là tài sản của cả một quốc gia thể hiện sự chủ quyền của cả một dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến bảo vệ quê hương tổ quốc, bảo vệ từng nắm đất của quê hương thoát khỏi kiếp nô lệ, lầm than của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Biết bao người dân của chúng ta, bao nhiêu anh hùng dân tộc đã hy sinh, ngã xuống để bảo vệ mảnh đất quê hương. Biết bao nhiêu gian khổ, khó khăn chông gai thử thách để có được một cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay. Câu nói “Tấc đất tấc vàng” hoàn toàn đúng đắn bởi người dân Việt Nam chúng ta đã phải hy sinh rất nhiều vì mảnh đất quê hương, để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Đất đai, ruộng vườn nhà cửa tất cả đều là những tài sản vô giá của con người. Người nào nắm trong tay nhiều đất đai người đó giàu có. Ở thành phố, những nơi đông đúc những người có nhiều bất động sản chính là những đại gia thật sự bởi đất đai chính là tiền vàng, là quyền lực vạn năng của người dân. Câu tục ngữ “Tấc đất, tấc vàng” đã khẳng định vai trò, giá trị vô cùng quan trọng, lớn lao của đất đai. Nó quý hơn cả vàng chứ không phải chỉ đơn giản là quý như vàng. Nó nhằm nhắc nhở, khuyên nhủ con người phải biết trân trọng, bảo vệ, giữ gìn những mảnh đất quê hương, không được bỏ đất hoang phí, không được phá hoại đất đai, điều đó thật sự có tội với cha ông đi trước đã hy sinh thân mình để bảo vệ từng nắm đất của dân tộc mình. Muốn đất đai quanh năm màu mỡ, xanh tốt thì cần chăm sóc, bón phân vun trồng thường xuyên có như vậy đất mới được nuôi dưỡng không trở thành đất bỏ hoang, bạc màu.
Assignment The ancients often said that "An inch of land equals an inch of gold" to express the preciousness of land, because with land, with their hands and minds, people can create countless material wealth, as precious as gold and silver. What is an inch of land? It is the unit of measurement and calculation of our country's farmers since ancient times. Gold is an extremely precious metal. People always compare anything precious to gold, like time is gold, an inch of land is an inch of gold, to confirm that land is an extremely valuable thing. Through this proverb, the people of our country want to send a message to their children and grandchildren to know how to love the fields and love their homeland, because when we have land in our hands we can build a successful career. fortune for themselves, no need to worry about poverty or famine, as long as people know how to work hard. The proverb "An inch of land equals an inch of gold" whether in ancient times or today is still true. In ancient times, when farmers had land, they could freely cultivate crops, raise livestock, create crops and rice for themselves, without having to work as hired hoes for landlords to live a life of being a servant. Serve others miserably, enslave others. On that land, farmers can cultivate all year round, intensively increase crops to create rice with fragrant flowers and sweet fruits. Thanks to that, they can live a prosperous life without worrying about food and clothing. Don't worry about poverty or lack of money, like in feudal times, people did not have land to settle down and were poor, had to live and work for rich families who were landlords, were in need all year round, and had to sell their goods. Let heaven sell its back to earth but still be poor. Land is an extremely necessary thing for everyone and every home. It is also the property of an entire country, demonstrating the sovereignty of an entire nation. During the resistance war, we defended our homeland, protecting every inch of our homeland from slavery and misery of the French colonialists and American imperialists. So many of our people, so many national heroes have sacrificed and fallen to protect their homeland. There are so many hardships, difficulties and challenges to have a peaceful life like today. The saying "An inch of land equals an inch of gold" is completely correct because we Vietnamese people have had to sacrifice a lot for our homeland, to protect national sovereignty. Land, fields, gardens, and homes are all priceless human assets. Whoever holds a lot of land is rich. In cities, crowded places, people with a lot of real estate are the real tycoons because land is gold, the universal power of the people. The proverb "An inch of land, an inch of gold" has affirmed the extremely important and great role and value of land. It is more precious than gold, not simply as precious as gold. It is intended to remind and advise people to appreciate, protect, and preserve their homeland, not to let the land go to waste, not to destroy the land, that is truly a crime against our ancestors. sacrificed himself to protect every bit of land of his people. If you want the land to be fertile and green all year round, you need to take care of it, fertilize it regularly, and cultivate it regularly so that the new land is nourished and does not become fallow, infertile land.
Bài làm Từ xưa tới nay, ý chí của con người phẩm chất cao quý của con người trong cuộc sống, cần phải có những đức tính tốt như tính kiên cường nhẫn nại. Nó nói lên ý chí nghị lực của người dân ta trong câu tục ngữ “Có chí thì nên”. Muốn thành công thì phải kiên cường vượt khó vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, thì mới mong thành công tới với mình. Có chí thì nên? Thể hiện chính là nghị lực, ý chí của mỗi con người trong cuộc sống thường gặp nhiều khó khăn thử thách. Nó giúp con người chúng ta vượt lên khỏi những trở ngại những khó khăn thử thách để đi tới thành công. Từ thời xa xưa ý chí của con người đã thấy nhiều trong ca dao tục ngữ thể hiện qua những câu nói như ” Có công mài sắt có ngày nên kim”. Trong cuộc sống của dân tộc ta, những người dân đã vượt qua hai cuộc kháng chiến vô cùng anh dũng để chiến thắng hai kẻ thù lớn mạnh. Với những kẻ thù lớn mạnh, vũ khí tối tân, một đất nước nhỏ bé như nước ta. Người dân nước ta đã phải kiên cường đứng lên đấu tranh, chính nhờ người dân Việt Nam có ý chí nên đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến lớn. Để có được những thành quả to lớn như ngày hôm nay người dân nước ta đã phải hy sinh rất nhiều, kiên cường trong khó khăn không lùi bước. Không nên vì khó khăn mà lùi bước, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo, bởi như vậy con người sẽ không bao giờ gặt hái được thành công trong sự nghiệp và cuộc sống của mình. Chính sự kiên cường của chúng ta đã đánh đuổi được thực dân Pháp và nước Mỹ vô cùng lớn, mang lại hòa bình cho đất nước của chúng ta. Nhờ người dân của chúng ta kiên cường, có ý chí, nghị lực đúng như câu có chí thì nên. Như người thầy Nguyễn Ngọc Ký chính là một tấm gương ngàn đời để mọi người noi theo. Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký sinh ra đã bị liệt cả hai tay, nhưng thầy Nguyễn Ngọc Ký đã kiên cường học tập viết chữ bằng chân. Lúc đầu, chỉ là những nét chữ nguệch ngoạc những chữ cái đầu tiên. Để rồi trở thành người thầy giáo ưu tú, thành sinh viên khoa văn trường Đại học Tổng Hợp. Sau khi tốt nghiệp thầy Nguyễn Ngọc Ký trở thành người thầy giáo ưu tú nhiều lần đạt danh hiệu, thầy giáo ưu tú, anh hùng lao động. Trong học tập, lao động hàng ngày cũng có nhiều tấm gương những cậu học trò nghèo vượt khó, sinh ra trong gia đình nghèo khó nhưng lại có thành tích học tập vô cùng xuất sắc, khiến nhiều người phải nể phục ngưỡng mộ. Tất cả những điều đó đều do ý chí của con người tạo nên, mọi thứ đều có thể thành công bằng ý chí nghị lực của bản thân, để có được hạnh phúc trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn có những người không có ý chí thường xuyên sử dụng thời gian công sức của mình vào những trò ăn chơi vô bổ, tha hóa biến chất, để cho những thói hư tật xấu cám dỗ mình, biến thành những thanh niên hư hỏng. Nhiều người đã sa ngã vào những tệ nạn, như ma túy, game, trốn học đua đòi làm bố mẹ, đau lòng cha mẹ thầy cô giáo. Những con người nếu có ý chí nghị lực thì nhất định sẽ đạt được hạnh phúc, thành đạt.
Assignment From ancient times until now, human will is a noble quality in life, requiring good qualities such as resilience and patience. It speaks to the will and energy of our people in the proverb "Where there is a will there is a way". If you want to be successful, you must be resilient and overcome difficulties in life, then you can expect success to come to you. Should there be will? Expressed is the strength and will of each person in life who often faces many difficulties and challenges. It helps us people overcome obstacles and difficulties to achieve success. Since ancient times, human will has been seen in many folk songs and proverbs expressed through sayings such as "If you work hard, you will make money". In the life of our nation, the people overcame two extremely heroic resistance wars to defeat two powerful enemies. With powerful enemies, advanced weapons, a small country like ours. The people of our country had to stand up and fight resiliently. It was thanks to the will of the Vietnamese people that they won the great resistance war. To achieve great achievements like today, the people of our country have had to sacrifice a lot, be resilient in difficulties and not give up. Don't step back because of difficulties, don't give up when you see the waves, because then people will never achieve success in their career and life. It was our resilience that drove out the French and American colonialists in great numbers, bringing peace to our country. Thanks to our people's resilience, will, and strength, as the saying goes, if there is a will, there is a way. Like teacher Nguyen Ngoc Ky, he is a thousand-year-old example for everyone to follow. Teacher Nguyen Ngoc Ky was born paralyzed in both hands, but teacher Nguyen Ngoc Ky resiliently learned to write with his feet. At first, it was just scribbles of the first letters. Then he became an excellent teacher and a student of the literature department at the University. After graduating, Mr. Nguyen Ngoc Ky became an excellent teacher who repeatedly won the title, outstanding teacher, and labor hero. In studying and daily work, there are also many examples of poor students overcoming difficulties, born in poor families but having extremely excellent academic achievements, making many people admire them. All of these things are created by human will, everything can be successful with one's own will and energy, to have happiness in life. However, in life there are still people who do not have the will to regularly use their time and effort in useless, corrupt and degenerate games, allowing bad habits to tempt them, turning them into spoiled youth. Many people have fallen into evils, such as drugs, games, skipping school, racing to become parents, and hurting their parents and teachers. If people have strong will, they will definitely achieve happiness and success.
Bài làm Nền kinh tế khoa học kỹ thuật của nước ta ngày càng phát triển, nếu như ngày xưa trong thời kỳ phong kiến chiến tranh nghèo khó người dân của nước ta chỉ mơ ước “Ăn no mặc ấm” thì giờ đây con người ta lại phải “Ăn ngon mặc đẹp” Bên cạnh những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống thì nhu cầu ăn mặc chính là một nhu cầu chính đáng, cần phải quan tâm khi mà cái nhìn thẩm mỹ của mọi người đặc biệt là của các bạn trẻ ngày càng thay đổi. Chính vì vậy, mới có câu nói “Ăn cho mình mặc cho người”. Ăn cho mình là thế nào? Ăn cho mình có nghĩa là khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì đó dù ngon hay không ngon chua cay mặn ngọt thì mình chúng ta cảm nhận được, do vị giác của chúng ta trực tiếp chi phối cảm xúc. Mặc cho người? Khi chúng ta mặc một bộ quần áo, một trang phục nào đó thì điều quan trong đó chính là nếu chúng ta mặc đẹp hợp thuần phong mỹ tục thì những người đối diện, xung quanh chúng ta sẽ cảm nhận được một vẻ đẹp từ trang phục và con người chúng ta toát ra. Còn ngược lại nếu chúng ta ăn mặc lố lăng, hở hang thiếu văn hóa thì những người xung quanh nhìn vào cũng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mất thuần phong mỹ tục phản cảm, ảnh hưởng tới những người xung quanh mình và môi trường công cộng. Từ thời xưa ông bà ta thường nói rằng “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân” nhằm ám chỉ việc một con người có điều kiện ăn mặc đẹp, biết cách ăn mặc chọn cho mình những trang phục phù hợp thể hiện sự cao sang thì người đó sẽ đẹp lên, và sang trọng hẳn ra. Ngược lại nếu người đó không biết ăn mặc thì chỉ làm xấu hổ những người xung quanh mà thôi. Chính vì vậy, mỗi con người nên chọn cho mình một phong cách thời trang riêng phù hợp cá tính nơi làm việc, và lứa tuổi của mình. Trang phục rất quan trọng vì nó thể hiện trình độ văn hóa, khả năng giao tiếp và phẩm chất của một con người. Một người đi dự tiệc mà lại mặc quần áo jean thì sẽ không phù hợp với hoàn cảnh lắm. Hoặc bạn đi dự tang lễ nhưng lại mặc đồ quá lòe loẹt không phù hợp với không khí tang gia bối rối của gia chủ. Có những công việc cũng đòi hỏi người làm việc trong môi trường đó cần phải ăn mặc sao cho phù hợp với nó như môi trường giáo viên, trường học. Mỗi người thầy người cô cần phải hiểu được vai trò quan trọng của mình trong việc làm gương cho lớp học trò noi theo. Chính vì vậy, trang phục của thầy cô cần phải có độ, chỉn chu, đứng đắn nhất định, có thể không cao sang đài các nhưng nhất định không được lố lăng, hở hang. Chính vì vậy, đa số giáo viên có phong cách ăn mặc thời trang vô cùng nhã nhặn, kín đáo, thể hiện môi trường giáo dục sư phạm, nghiêm túc không kệch cỡm. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại có nhiều bạn nam nữ thanh niên có những phong cách thời trang vô cùng khác người. Các bạn trẻ tuổi muốn thể hiện cá tính muốn khác người, muốn nổi loạn nên thường chọn cho mình phong cách thời trang khá khiêm tốn vải, tiết kiệm vải, và những kiểu trang phục rách rưới, như những người ăn xin ăn mày ngoài đường. Những trang phục thiếu vải rách rưới đó khiến cho các bạn mất đi cái nhìn thiện cảm từ những người xung quanh, mất đi sự trong sáng của tuổi học trò, trở thành những con người nghịch ngợm lố bịch trong mắt người xung quanh. Vào mùa hè, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy những bộ quần áo ngắn tới mức không thể ngắn hơn được nữa, những cặp đùi được khoe ra, rồi những chiếc áo hở rốn, hở ngực, hở lưng được các bạn thi nhau trưng dụng, ưa chuộng, khiến cho những người đi đường nhiều phen đỏ mặt vì xấu hổ bởi các bạn mặc mà như không mặc. Những trang phục thiếu vải, hở hang đó hoàn toàn không phù hợp với cuộc sống của nước ta vốn là nước coi trọng thuần phong mỹ tục, coi trọng sự kín đáo công dung ngôn hạnh của người con gái. Nguyên nhân chính là do sự xâm lược về nền văn hóa của các nước phương Tây vào nước ta khiến cho nền kinh tế của nước ta, cũng như những nét văn hóa vốn được coi là truyền thống trở thành lạc hậu, các bạn trẻ vốn là những tuổi ăn chưa no, lo chưa tới thích thể hiện mình, thích học đòi theo cái mới, mở cửa nên không làm chủ được bản thân chạy đua theo cách ăn mặc của phương Tây. Sự du nhập của nền văn hóa này đã làm cho các bạn lãng quên đi nét đẹp truyền thống của nước nhà, làm cho những chuẩn mực văn hóa, đạo đức của nước ta bị thay đổi, bởi con người ngày càng muốn giải phóng mình, muốn học theo trào lưu mới.
Assignment Our country's science and technology economy is increasingly developing. If in the past, during the feudal period of war and poverty, our country's people only dreamed of "Eating well and wearing warm clothes", now people have to “Eat well and dress well” Besides the essential needs of life, the need to dress is a legitimate need that needs to be taken care of as people's aesthetic views, especially those of young people, are increasingly changing. That's why there is a saying "Eat for yourself and clothe others". How to eat for yourself? Eating for ourselves means that when we eat anything, whether delicious or not, sour, spicy, salty, sweet, we ourselves feel it, because our taste buds directly control our emotions. Wear it for people? When we wear a certain set of clothes or an outfit, the important thing is that if we dress beautifully in accordance with customs and traditions, the people facing and around us will feel the beauty of the outfit. clothes and who we exude. On the contrary, if we dress outrageously, revealingly and uncultured, the people around us will also feel embarrassed, feel that we have lost our customs and traditions, and will affect the people around us and the environment. public. Since ancient times, our grandparents have often said that "People are beautiful because of silk, rice is good because of dung" to imply that a person who has the conditions to dress well and knows how to dress chooses appropriate clothes to show their superiority. become more beautiful, that person will become more beautiful and luxurious. On the contrary, if that person does not know how to dress, it will only embarrass those around him. Therefore, each person should choose their own fashion style that suits their workplace personality and age. Clothing is very important because it shows a person's cultural level, communication ability and qualities. A person going to a party wearing jeans will not be very suitable for the situation. Or you go to a funeral but wear clothes that are too flashy and not suitable for the confused atmosphere of the funeral of the homeowner. There are jobs that also require people working in that environment to dress appropriately, such as teacher and school environments. Every teacher needs to understand their important role in setting an example for their students to follow. Therefore, teachers' costumes need to be classy, ​​neat, and dignified. They may not be luxurious, but they must not be excessive or revealing. Therefore, the majority of teachers have an extremely elegant and discreet fashion style, reflecting a pedagogical and serious educational environment without being rude. However, in modern society, there are many young men and women who have extremely different fashion styles. Young people want to express their personality, want to be different from others, want to rebel, so they often choose for themselves a fashion style that is quite modest, frugal with fabric, and ragged clothes, like beggars who beg outside. road. Those ragged, skimpy outfits make you lose the sympathetic view of those around you, lose the innocence of school age, and become ridiculously naughty people in the eyes of those around you. In the summer, we can easily see clothes that are too short to be any shorter, thighs being shown off, and shirts that reveal navels, chests, and backs are competed with each other. It was commandeered, favored, and made many passersby blush because they were embarrassed because they wore it as if they weren't wearing it. Those skimpy, revealing outfits are completely unsuitable for the life of our country, which values ​​good customs and traditions, and values ​​a girl's discreetness, dignity, and conduct. The main reason is due to the cultural invasion of Western countries into our country, causing our country's economy, as well as cultural features that are considered traditional to become backward, young people These are the ages when you don't have enough to eat, don't worry enough to like to express yourself, like to learn new things, and are open-minded so you can't control yourself and follow the Western way of dressing. The introduction of this culture has made you forget the traditional beauty of your country, causing the cultural and moral standards of our country to change, because people increasingly want to liberate themselves. , want to learn new trends.
Bài làm Trong cuộc sống của chúng ta ai cũng có những ước mơ của mình, chính vì vậy con người thường cố gắng tích lũy kiến thức từ nhà trường, từ sách vở để có những kinh nghiệm quý báu. Nhưng muốn đạt được thành quả thì cần phải có những thành quả thực tiễn thể hiện việc “Học phải đi đôi với hành” Học là gì? Chính là việc tích lũy kinh nghiệm những kiến thức cần có trong sách vở. Còn hành là gì? chính là việc áp dụng kiến thức vào con đường thực tiễn trong cuộc sống. Trong cuộc sống nó chính là những bài học kinh nghiệm tốt đẹp cho mỗi người chúng ta luôn có một ý thức tự trách nhiệm về việc học tập của mình sao cho có hiệu quả tốt nhất, không phải chỉ là học lý thuyết suông không có thực tế, không áp dụng được vào thực tế. Mà học thì cần phải có giá trị thực tế cần phải phát huy vai trò của những lý thuyết minh đã học vào cuộc sống để đạt được hiệu quả cao. Học và hành luôn là quá trình đồng hành đi đôi với nhau, hai quá trình này như hai mảnh ghép hình đôi bạn thân thiết.Nó sẽ giúp cho tạo nên cho con người một nền tảng tương lai vững chắc khi chúng ta có lý thuyết tốt thì việc áp dụng vào thực tế sẽ tốt hơn. Trong cuộc sống học và hành luôn là một quá trình một chu kỳ hoàn thiện tạo dựng làm tiền đề cho nhau tạo ra những tiền đề tốt lành, làm cho quá trình chúng ta học tập làm việc nó bổ sung và bồi đắp cho mỗi người chúng ta phải trải qua quá trình tu dưỡng rèn luyện tốt nhất tạo nên giá trị cuộc sống có ý nghĩa. Trong ý nghĩa của câu nói “học đi đôi với hành” nó thể hiện ý nghĩa vô cùng to lớn cũng như tầm ảnh hưởng sâu sắc của thực tiễn tới cuộc sống của con người. Việc học hành không chỉ là lý thuyết là sách vở mà cần phải đi vào cuộc sống thực tiễn mới có thể mang lại sự thành công cho con người. Học đi đôi với hành có ý nghĩa vô cùng mạnh mẽ, có tác động rất lớn với cuộc sống của mỗi con người. Nếu chúng ta muốn làm những việc lớn thì cần học tập tốt, tích lũy nhiều kinh kiệm của kiến thức trong sách vở, áp dụng nó vào cuộc sống thực tiễn để có thể đạt được thành tựu to lớn. Câu nói “học đi đôi với hành” chính là kim chỉ nam, là phương châm soi đường dẫn lối cho mỗi chúng ta vững vàng tự tin bước đi vào cuộc sống của mình, để cho ta nhiều bài học có những giá trị còn cung cấp nguồn tri thức to lớn, cho mỗi chúng ta, cho chúng ta những bài học hữu ích. Học chính là một quá trình không thể nào có điểm dừng, nó trôi chảy đi mỗi ngày nhưng không bao giờ có điểm kết. Khi con người học sẽ cho chúng ta có những bài học hữu ích, kiến thức, to lớn. Chính sách vở là người bạn cung cấp cho chúng ta những thông tin hữu ích cho tất cả con người, giá trị của nó để lại cho chúng ta là vô cùng to lớn. Việc chúng ta áp dụng kiến thức trong sách vở vào thực tế cuộc sống chính là một việc quan trọng. Nếu như một nhà khoa học tạo ra nhiều công trình nghiên cứu nhưng lại không bao giờ thực hiện những công trình đó trong thực tế, thì tất cả chỉ là viển vông, không mang lại giá trị cho cuộc sống con người. Nếu như chúng ta chỉ biết học mà không có hành thì tất cả chỉ mà đống giấy lộn, là một mớ lý thuyết suông không có gì là giá trị thực tiễn. Câu nói “Học phải đi đôi với hành” luôn là một quá trình tồn tại song hành tạo những viên gạch vững chắc cho tương lai của một con người. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta có rất nhiều tấm gương trong học tập vô cùng quý giá như việc chủ tịch Hồ Chí Minh đã học tập theo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam theo cách mạng tháng mười Nga.
Assignment In our lives, everyone has their own dreams, that's why people often try to accumulate knowledge from school and books to gain valuable experiences. But if you want to achieve results, you need to have practical achievements that demonstrate "Learning must go hand in hand with practice." What is learning? It is about accumulating experience with the knowledge needed in books. And what is onion? is the application of knowledge to practical life. In life, these are good lessons for each of us to always have a sense of self-responsibility for our own learning so that it is most effective, not just learning empty theories. In fact, it cannot be applied in practice. Learning must have practical value and must promote the role of the theories learned in life to achieve high efficiency. Learning and practicing are always processes that go hand in hand, these two processes are like two pieces of a puzzle that are close friends. It will help create a solid future foundation for people when we have theory. If it's good, the practical application will be better. In life, learning and practicing is always a process, a complete cycle of creation, creating good premises for each other, making the process of learning and working complement and enrich each person. We must go through the best training process to create meaningful life values. In the meaning of the saying "learning goes hand in hand with practice" it represents extremely great meaning as well as the profound influence of practice on human life. Learning is not just about theory or books, but needs to go into practical life to bring success to people. Learning coupled with practice has an extremely powerful meaning and has a great impact on every person's life. If we want to do great things, we need to study well, accumulate a lot of knowledge in books, and apply it to practical life to achieve great achievements. The saying "learning goes hand in hand with practice" is a guideline, a motto that guides each of us firmly and confidently into our lives, giving us many valuable lessons that still remain. provides a great source of knowledge for each of us, giving us useful lessons. Learning is a process that cannot stop, it flows every day but never has an end. When humans learn, it will give us great, useful lessons and knowledge. Policy is a friend that provides us with useful information for all humans, the value it leaves us is extremely great. It is important that we apply knowledge in books to real life. If a scientist creates many research projects but never carries out those projects in practice, then it is all just fantasy, not bringing value to human life. If we only know how to study without practicing, then all we will be is a pile of paper, a bunch of empty theories with no practical value. The saying "Learning must go hand in hand with practice" is always a process that exists in parallel to create solid bricks for a person's future. In the lives of each of us, there are many extremely valuable examples of learning, such as President Ho Chi Minh's study of Marxism-Leninism, finding a way to save the country and liberate the Vietnamese people in this way. Russian October network.
Bài làm Trong kho tàng tục ngữ thành ngữ chính là kho tàng kinh nghiệm vô cùng quý giá mà ông cha ta muốn truyền đạt lại cho con cháu mình. Dù đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng những kinh nghiệm này vẫn không phai mờ. Câu tục ngữ “Một điều nhịn là chín điều lành” thể hiện kinh nghiệm ứng xử của con người với con người, trong cuộc sống. Trong cuộc sống có những lúc chúng ta gặp những khó khăn, tranh cãi mâu thuẫn nếu chúng ta không biết cách ứng xử, nhỏ nhẹ, thì sẽ gặp những điều không hay, gây ra mâu thuẫn hậu quả khôn lường. Trong câu tục ngữ cho ta thấy hai khái niệm rõ ràng. Một điều nhịn? chính là chỉ cần khi chúng ta nhún nhường nhẫn nhịn kìm chế tính nóng nảy của mình trong giao tiếp? Chín điều lành? nó chính là thành quả của sự nhẫn nhịn mà chúng ta đạt được, sự so sánh giữa một và chín, hai con số này thể hiện số ít và số nhiều. Chỉ cần con người nhẫn nhịn, biết nhún nhường đúng lúc đúng chỗ, dù chỉ là một phần nhỏ thì lợi ích mang lại là nhiều hơn rất nhiều Trong câu tục ngữ này thể hiện cách so sánh vô cùng cường điệu, nhằm thể hiện câu tục ngữ nhấn mạnh hiệu quả của con người khi biết giữ thái độ ứng xử nhẫn nhịn, ứng xử ôn hòa trong cuộc sống. Một điều nhịn bằng chín điều lành? Trong cuộc sống xưa nay bao giờ cũng có nhiều việc vô cùng đa dạng phức tạp, con người sống không đơn lẻ, mà chỉ là một cá thể sống trong một tập thể bằng nhiều mối quan hệ vô cùng khác nhau. Trong các mối quan hệ đó có những lúc chúng ta bất đồng quan điểm, tranh cãi với nhau nếu chúng ta không biết cách để kìm chế bản thân mình sẽ gây ra những bất đồng, những điều rủi ro không đáng có trong các mối quan hệ. Cuộc sống luôn là một cuộc sống vận động lôi cuốn con người đi lên, chính vì vậy mỗi chúng ta phải cố gắng để vươn lên đấu tranh để sinh tồn, vận động phát triển mình lớn lên trưởng thành hơn. Muốn đạt được những thành tựu lớn lao chúng ta phải biết tập hợp đoàn kết, loại bỏ sự mâu thuẫn trong cuộc sống, nhẫn nhịn chính là yếu tố quyết định để chúng ta có thể có sức mạnh từ tình đoàn kết. Trong cuộc sống gia đình tình cảm vợ chồng là mối quan hệ cần sự gắn kết keo sơn, chính vì vậy nếu chúng ta có tranh chấp mâu thuẫn thì cần phải nín nhịn, “Chồng giận thì vợ bớt lời cơm sôi nhỏ lửa biết ngày nào khê”. Chỉ cần nhẫn nhịn thì mối quan hệ vợ chồng sẽ trở nên êm ấm, hạnh phúc không có những cuộc ly hôn đáng tiếc. Những khi vợ chồng bất hòa quan điểm thì cần phải biết nín nhịn, cần phải ứng xử theo phương châm “Một điều nhịn là chín điều lành” thì sẽ không bao giờ xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi. Khi cuộc sống vợ chồng giận hờn cáu gắt, thì nên động viên, an ủi nhau thì không khí gia đình sẽ trở nên ấm áp. Bên ngoài xã hội, mỗi người ai cũng có mối quan hệ bạn bè đồng nghiệp trong cuộc sống chúng ta cần phải giữ thái độ bình tĩnh nhẫn nhịn, chờ khi cơn nóng giận qua đi thì nhẹ nhàng giải thích để hóa giải hiểu lầm. Chúng ta nên lắng nghe ý kiến của người khác giữ thái độ hòa nhã, không nên căng thẳng cáu gắt, tránh những mâu thuẫn không đáng có. Từ xưa tới nay các thế hệ cha ông đi trước thường có cách ứng xử vô cùng khôn ngoan với kẻ thù ở phương Bắc để giữ tình cảm ngoại giao sâu sắc tránh được binh đao, giữ cho người dân khỏi bị cảnh binh đao.
Assignment In the treasure of proverbs and idioms is a treasure of extremely valuable experiences that our ancestors want to pass on to their children and grandchildren. Even though hundreds of years of history have passed, these experiences have not faded away. The proverb "One abstinence is nine good deeds" represents people's experience of dealing with people, in life. In life, there are times when we encounter difficulties, arguments and conflicts. If we do not know how to behave and be gentle, we will encounter bad things, causing conflicts with unpredictable consequences. The proverb shows us two clear concepts. One thing to endure? Is it just that we need to be humble and patient to control our temper in communication? Nine good things? it is the fruit of patience that we achieve, the comparison between one and nine, these two numbers represent the singular and the plural. As long as people are patient and know how to yield at the right time and place, even if only a small part, the benefits will be much greater. In this proverb, an extremely exaggerated comparison is shown, to show that the proverb emphasizes the effectiveness of people when they know how to maintain a patient and peaceful attitude in life. One abstinence is equal to nine good deeds? In ancient life, there have always been many extremely diverse and complicated things. People do not live alone, but just as an individual living in a group with many extremely different relationships. In those relationships, there are times when we disagree and argue with each other. If we don't know how to control ourselves, it will cause disagreements and unnecessary risks in the relationship. generation. Life is always a life of movement that attracts people to move forward, that's why each of us must try to rise up, fight to survive, move to develop ourselves and become more mature. To achieve great achievements, we must know how to gather solidarity, eliminate conflicts in life, patience is the decisive factor so that we can have strength from solidarity. In family life, the relationship between husband and wife is a relationship that needs a strong bond, so if we have a dispute or conflict, we need to hold back. Hey hey". Just be patient and the relationship between husband and wife will become peaceful and happy without unfortunate divorces. When husband and wife disagree, they need to know how to hold back and behave according to the motto "One abstinence is nine good things" so that there will never be conflicts or arguments. When married life is angry and irritable, we should encourage and comfort each other, then the family atmosphere will become warm. Outside of society, everyone has relationships with friends and colleagues in life. We need to maintain a calm and patient attitude, wait for the anger to pass, then gently explain to resolve the misunderstanding. We should listen to other people's opinions and maintain a gentle attitude, not be stressed or irritated, and avoid unnecessary conflicts. From ancient times until now, previous generations of ancestors have often had extremely wise ways of dealing with enemies in the North to maintain deep diplomatic sentiments, avoid military and sword attacks, and keep people from being attacked by soldiers and swords.
Bài làm Lê nin là một nhà lãnh tụ vĩ đại của nước Nga, ông là người đã làm nên thành công của cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, là thầy dạy của Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Ông cũng là người đã nói lên câu nói “Học, học nữa học mãi” nhằm khẳng định vai trò của việc học với cuộc sống của con người là vô cùng quan trọng. Câu nói này nhằm khuyên thế hệ trẻ chúng ta phải biết cố gắng không ngừng học tập trau dồi thêm kiến thức tri thức sống của con người để có thể hòa nhập vào thế giới xung quanh mình. Học là gì? Chính là việc tích lũy tri thức từ thầy cô, nhà trường và sách vở, bạn bè từ cuộc sống thực tế của chính mình. Việc học tập là một quá trình vô cùng lâu dài, phải tìm tòi mở rộng tri thức để trưởng thành hơn. Tại sao chúng ta cần phải học tập? Bởi việc học là việc vô cùng quan trọng với bất kỳ ai. Làm gì chúng ta cũng cần học, học ăn học nói học gói học mở, nếu không có học thì bản thân chúng ta không thể làm được gì đúng đắn cả, biển học là vô cùng mênh mông, mà sự hiểu biết của con người chỉ là một giọt nước, là muối bỏ biển, nên chúng ta nhất định phải học không ngừng. Nền khoa học kỹ thuật trong cuộc sống của con người ngày càng tiến bộ, những phát minh của con người ngày càng có những điểm đột phá vượt bậc giúp ích cho con người trong cuộc sống, nếu chúng ta không chịu học hỏi không theo kịp thời đại thì chúng ta sẽ bị tụt hậu bị xã hội tẩy chay, đẩy lùi ra khỏi cuộc sống. Trong lĩnh vực ngành nghề nào chúng ta cũng cần phải không ngừng rèn luyện mở mang đầu óc. Người công nhân học tập để nâng cao năng suất tay nghề làm ra nhiều sản phẩm có ích từ đó nâng cao thu nhập của mình. Người nông dân học tập chăn nuôi trồng trọt tạo ra nhiều hoa màu, nông sản nâng cao chất lượng sản phẩm tăng trưởng kinh tế gia đình. Nhà khoa học thì không ngừng nâng cao kiến thức phát huy những trí tuệ nghiên cứu ra nhiều công trình khoa học có ích cho dân cho nước, tạo nên tên tuổi của mình. Người giáo viên tăng cường tích lũy kiến thức truyền đạt cho học sinh những tinh hoa của mình để thế hệ học trò sau giỏi hơn tài năng hơn thế hệ học trò trước thành những công dân có ích cho xã hội. Việc học tập nâng cao kiến thức của chính bản thân là việc làm suốt cuộc đời của một con người nó chính là công việc đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân mỗi chúng ta, nếu chúng ta muốn tồn tại trưởng thành vững mạnh trong cuộc sống mà không bị đào thải. Nhưng trước tiên muốn học tập tốt hiệu quả cao chúng ta cần phải xác định rõ vai trò và mục đích học tập của mình thì việc học tập của chúng ta mới thu lại những thành tựu đúng đắn. Từ đó, chúng ta có thể thử sức của mình vượt qua những khó khăn thử thách, những cám dỗ của thói hư tật xấu để hoàn thành nhiệm vụ học tập tốt nhất. Học tập là nhiệm vụ đòi hỏi một con người phải làm việc suốt đời, nó chính là ý nghĩa trọn vẹn sâu sắc của việc việc chúng ta muốn làm muốn cống hiến cho cuộc sống này. Khi chúng ta học tập tốt chính là chúng ta đang báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chúng ta báo đáp công lao của thế hệ cha anh đi trước. Bởi chỉ có việc học tập tốt chúng ta mới có thể phát huy được giá trị của bản thân tạo ra nhiều thành tựu lớn lao cho bản thân, cho gia đình và xã hội.
Assignment Lenin was a great leader of Russia, he was the one who made the great Russian October Revolution a success, and was the teacher of our beloved Uncle Ho. He is also the one who said the saying "Study, study more, study forever" to affirm that the role of learning in human life is extremely important. This saying is intended to advise our young generation to constantly strive to learn and improve our knowledge of human life so that we can integrate into the world around us. What is learning? It is the accumulation of knowledge from teachers, schools and books, friends from one's own real life. Learning is an extremely long process, one must explore and expand knowledge to become more mature. Why do we need to study? Because learning is extremely important for anyone. Whatever we do, we need to learn, learn to eat, learn to speak, learn to open packages, without learning, we ourselves cannot do anything right. The ocean of learning is extremely vast, but human understanding is It's just a drop of water, it's salt in the ocean, so we must learn constantly. Science and technology in human life is increasingly progressing, human inventions are having more and more breakthroughs that help people in life, if we do not learn and cannot keep up. era, we will fall behind and be ostracized by society and pushed out of life. In any profession, we need to constantly train and expand our minds. Workers study to improve their productivity and skills to make many useful products, thereby increasing their income. Farmers learn to raise livestock and cultivate crops to create more crops and agricultural products to improve the quality of products and increase family economic growth. Scientists constantly improve their knowledge, promote their intelligence, produce many scientific works that are useful to the people and the country, and make a name for themselves. Teachers increase the accumulation of knowledge to convey to students their quintessence so that the next generation of students will be better and more talented than the previous generation of students and become useful citizens for society. Learning to improve one's own knowledge is a person's lifelong job. It is a job that requires each of us's own efforts, if we want to survive and grow strong in life. live without being eliminated. But first, if we want to study well and effectively, we need to clearly define our role and purpose of learning so that our learning will reap the right achievements. From there, we can try our best to overcome difficulties and challenges, and the temptations of bad habits to best complete our learning tasks. Learning is a task that requires a person to work all their lives, it is the full, profound meaning of what we want to do and contribute to this life. When we study well, we are repaying the kindness of our parents for giving birth and nurturing us, we are repaying the efforts of the previous generations of our ancestors. Because only by studying well can we promote our own values ​​and create many great achievements for ourselves, our families and society.
Bài làm Từ xa xưa tới nay trong khi tàng ca dao tục ngữ của nước ta luôn có sức sống vô cùng mạnh mẽ mãnh liệt. Nó thể hiện những quan niệm sống bài học làm người vô cùng sâu sắc mà ông bà ta muốn truyền đạt lại cho con cháu mình mai sau. Trong mỗi câu ca dao tục ngữ, thành ngữ ông cha đều muốn có cháu mình phải biết sống đúng đạo đức hướng tới cái chân thiện mỹ trong cuộc sống, chính vì vậy, mỗi câu ca dao đều thể hiện một bài học nào đó như câu tục ngữ “Cái nết đánh chết cái đẹp” Đây là một câu tục ngữ rất quen thuộc với cuộc sống của người nông dân Việt Nam. Thông qua câu tục ngữ này ông bà ta muốn đề cao phẩm hạnh đạo đức, tính cách của con người, đặc biệt là người con gái, hơn là vẻ bề ngoài đẹp đẽ. Cái nết đánh chết cái đẹp là gì? Cái nết chính là đức tính trong nề nếp, tính cách, trong việc ứng xử đối nhân xử thế của người con gái với những người xung quanh mình. Nó thể hiện việc người con gái ấy có ngoan ngoãn đoan trang đức hạnh hay không, có phải là người biết ứng xử trước sau, bản chất có lương thiện hay không? Cái nết cần phải có thời gian tìm hiểu lâu dài mới có thể nhìn ra được, mới cảm nhận sâu sắc và thấu đáo được. Còn cái đẹp? Chính là hình dáng, khuôn mặt bên ngoài, là những gì mà người ngoài, người đối diện có thể nhìn thấy trực tiếp bằng mắt thường có thể nhận ra được ngay lập tức. Việc cái nết đánh chết cái đẹp muốn thể hiện tầm quan trọng của tính cách con người, hơn hẳn dung mạo đẹp đẽ bên ngoài.Một người con cái có tâm hồn đẹp sẽ tốt hơn nhiều một cô gái có dung mạo đẹp đẽ những tính cách bản chất xấu xa không lương thiện, không ngoan ngoãn nề nếp, gia giáo. Tuy nhiên, trong mỗi con người đều có cái thiện và cái ác, mắt đẹp và mặt xấu của riêng mình. Người xưa thường bảo “Nhân vô thập toàn” đã là người thì không ai hoàn mỹ cả, không ai mười phân vẹn mười. Ai cũng có điểm mạnh điểm yếu riêng của mình. Cho nên, câu nói cái nết đánh chết cái đẹp cũng chỉ mang tính chất tương đối mà thôi, nếu chúng ta biết khai thác và hoàn thiện thì ai cũng có thể trở thành một người tốt và cái cũng có thể đẹp hơn. Một con người có tình nết đoan trang phúc hậu, lương thiện thường giúp đỡ người khác có hành động và nếp sống đạo đức tốt đẹp. Với một người có diện mạo bên ngoài đẹp đẽ nhưng tính cách lại không ngoan hiền ăn chơi đua đòi thường làm cha mẹ buồn lòng, cả hai con người này đều cần phải hoàn thiện bản thân mình để trở thành người hoàn hảo. Người có đức tính tốt đẹp thì hoàn thiện vẻ bề ngoài của mình bằng cách ăn mặc đúng cách phù hợp với cơ thể che đi những điểm khiếm khuyết trên cơ thể. Còn cô gái xinh đẹp thì nên sửa đổi tính cách làm sao để sống có ích hơn, đúng quy chuẩn đạo đức xã hội. Theo như quan niệm về đạo Phật của những nước phương Đông chúng ta thì mỗi con người sinh ra đều có bản tính lương thiện bản năng của mình, sự lương thiện xuất phát từ trái tim, nhưng do môi trường sống hoàn cảnh làm cho chúng ta trở nên mất dần đức tính này, những người sinh ra trong gia đình bố mẹ luôn bạo hành đánh đập cãi vã nhau, từ bé sống thiếu tình thương, sống lang thang cơ nhỡ phải tranh giành cướp đoạt của người khác mới có miếng ăn thì họ sẽ trở nên hung hăng, hiểm ác. Còn những người sinh ra trong gia đình hạnh phúc bố mẹ quan tâm chăm sóc làm gương tốt cho con cái thì tính lương thiện của họ có khả năng được phát huy nhiều hơn. Họ có tầm biết quan tâm yêu thương tới người khác nhiều hơn. Tạo hóa khi sinh ra con người không ai toàn vẹn bởi ông muốn con người phải biết tự hoàn thiện mình, để trở nên tốt đẹp hơn. Những ai tự biết hoàn thiện mình tự biết làm mình trở nên đẹp hơn, tốt hơn trong mắt người khác đó mới là người thành công. Với những con người đã sai đường lạc lối nhưng nếu họ biết quay đầu là bờ để sống tốt đẹp hơn thì chính là sự hoàn thiện tốt nhất mà con người hướng tới. Tuy nhiên, trong cuộc sống của con người hiện đại câu nói cái nết đánh chết cái đẹp vẫn luôn luôn có cái đúng của nó. Nếu con người dù có đẹp đẽ kiêu sa tới đâu nhưng không có trái tim nhân hậu không biết thương yêu con người đặc biệt là người thân của mình thì cũng sẽ không được người đời coi trọng. Có rất nhiều cô ca sĩ người mẫu đẹp đẽ về ngoại hình, nhưng lại không có hiếu với cha mẹ quay lưng lại với chính cha mẹ ruột của mình bởi vì họ nghèo khó, không xứng đáng với địa vị danh giá của cô gái đó. Nhiều năm trước có một cô người mẫu của nước ta là Trang Thu Trâm bị mẹ đẻ của mình tạt dầu sôi vào mặt làm cho cô bị bỏng nặng hủy hoại nhan sắc.
Assignment From ancient times until now, our country's collection of folk songs and proverbs has always had an extremely strong vitality. It represents extremely profound concepts of life and human lessons that our grandparents want to pass on to their future children and grandchildren. In every folk song, proverb, and idiom, fathers want their grandchildren to know how to live ethically towards the truth, goodness, and beauty in life. Therefore, each folk song expresses a certain lesson such as Proverb "Frustration kills beauty" This is a proverb very familiar to the lives of Vietnamese farmers. Through this proverb, our grandparents want to promote morality and character of people, especially girls, rather than beautiful appearance. What is the trait that kills beauty? Character is the virtue in a girl's discipline, personality, and behavior towards people around her. It shows whether the girl is obedient, dignified and virtuous, is a person who knows how to behave before and after, and has an honest nature or not? Traits that require a long period of study to be able to see, to feel deeply and thoroughly. What about beauty? It is the appearance, the external face, that is what outsiders, the opposite person, can see directly with the naked eye and can immediately recognize. The fact that personality kills beauty shows the importance of human personality, more than a beautiful appearance. A girl with a beautiful soul will be much better than a girl with a beautiful appearance and good qualities. evil nature, not honest, not obedient, disciplined, and educated. However, in every person there is good and evil, beautiful eyes and ugly sides. The ancients often said, "Humanity is not perfect." As humans, no one is perfect, no one is perfect. Everyone has their own strengths and weaknesses. Therefore, the saying that beauty kills beauty is only relative. If we know how to exploit and perfect it, everyone can become a good person and everything can be more beautiful. A person who is dignified, kind, and honest often helps others have good moral actions and lifestyles. With a person who has a beautiful appearance but a not-so-gentle and demanding personality that often makes his parents sad, both of these people need to improve themselves to become perfect people. People with good qualities perfect their appearance by dressing properly to suit their body and hide the flaws on their body. As for the beautiful girl, she should change her personality to live a more useful life, following social moral standards. According to the concept of Buddhism in our Eastern countries, every human being is born with his or her instinctive good nature. Honesty comes from the heart, but due to the living environment and circumstances, it makes us We gradually lose this virtue, people who are born into families with parents who are always violent, beat and argue with each other, from childhood live without love, wander around and have to compete to rob others to have a piece of food. If they eat, they will become aggressive and malicious. For those born in happy families where parents care and set a good example for their children, their honesty is more likely to be promoted. They have a greater understanding of caring and loving for others. When the Creator created humans, no one was perfect because he wanted humans to know how to perfect themselves, to become better. Those who know how to improve themselves and know how to make themselves more beautiful and better in the eyes of others are successful people. For people who have gone astray but if they know that turning around is the shore for a better life, that is the best perfection that people aim for. However, in the lives of modern people, the saying that beauty kills beauty always has its truth. If a person, no matter how beautiful and elegant they are, does not have a kind heart and does not know how to love people, especially their loved ones, then they will not be respected by people. There are many singers and models who are beautiful in appearance, but are not filial to their parents and turn their backs on their biological parents because they are poor and do not deserve that girl's prestigious status. . Many years ago, there was a model in our country, Trang Thu Tram, whose mother threw boiling oil on her face, causing severe burns and destroying her beauty.
Bài làm Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương: “Đau đớn thay thân phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận. Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương “Chuyện người con gái Nam Xương”. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy bất công đối với người phụ nữ. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh không bình đẳng, Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ, sự cách biệt giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu” và cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo và gia trưởng. Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Trương Sinh tin nên đã hồ đồ độc đoán mắng nhiếc đánh đuổi vợ đi, không cho nàng thanh minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan khuất để tự minh oan cho mình. Tục ngữ có câu “Gái có công thì chồng chẳng phụ” thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người. Vũ Nương là mẫu phụ nữ đẹp về mọi mặt nhưng đều bất hạnh. Là nạn nhân của xã hội phong kiến với nhiều định kiến hẹp hòi, bất công với người phụ nữ. Những người phụ nữ như Vũ Nương đều phải tìm đến cái chết để giải mọi nỗi oan ức, để giải thoát cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt của mình. Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất và cũng là đầy đủ những gì đau khổ, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. Viết về người phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ đã đứng trên lập trường nhân sinh để bênh vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt với các thể lực đã gây ra nỗi đau khổ cho họ. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao: “Thân em như hạt mưa sa Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài” Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền: “Trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo “tam tòng”, hay các quan niệm lạc hậu như “nữ nhân ngoại tộc”… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng. Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn rơi rớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu. Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói “Hồng nhan thì bạc phận” nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc. Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc. Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.
Assignment It can be said that today, women's position has been promoted and honored. The image of Vietnamese women is present in many positions in life and has left many colorful images in modern poetry. But unfortunately, in the old society, women had to suffer a tragic and pitiful fate: “How painful is the fate of women Word that silver is also a common destiny" The above verse has appeared more than once in the works of great poet Nguyen Du like a creepy refrain. This is not an exaggeration, but this is expressed quite commonly in Vietnamese literature, in "Water Floating Cake" by Ho Xuan Huong, in the works "The Tale of Kieu" by Nguyen Du and "The Story of a Son". Nam Xuong Girl" by Nguyen Du. In a decadent and corrupt feudal society at that time, the fate of women was small and uncertain. Literature at that time also mentioned many things about women's lives, perhaps a typical example of which was the character Vu Nuong in "The Story of a Nam Xuong Girl". The character Vu Nuong in "The Story of a Nam Xuong Girl" by Nguyen Du is a victim of the feudal male regime full of injustice towards women. Vu Nuong's marriage with Truong Sinh was not equal. Truong Sinh asked his mother for a hundred taels of gold to marry Vu Nuong. The gap between rich and poor caused Vu Nuong to always live with the guilt that "it is difficult for a concubine to rely on a family." rich" and also an excuse for Truong Sinh to treat his wife in a brutal, cruel and patriarchal manner. Just because of the innocent words of a child, Truong Sinh believed so he was so arrogant and arbitrary that he scolded and chased his wife away, not allowing her to explain herself, Vu Nuong was forced to seek an unjust death to exonerate herself. There is a proverb that says, "If a woman has merit, her husband will not betray her," but Vu Nuong's merits were not only unknown, but she also had to suffer the cruelties of fate. She had to silently raise her children alone, and the material hardships were heavy on her shoulders and she had to overcome them all. Thinking that when the enemy was over, her husband would return, and the family would be reunited, unexpectedly a storm would come, the shadow of jealousy would make Truong Sinh confused and blind. Just hearing a child say innocent words made him think his wife was spoiled. Truong Sinh not only did not interrogate her, but brutally beat her and then abandoned her and chased her away, not allowing her to explain herself. Being forced into a dead end, Vu Nuong had to seek death to end her human life. Vu Nuong is a beautiful woman in every way but unhappy. A victim of feudal society with many narrow and unfair prejudices against women. Women like Vu Nuong must seek death to relieve all injustice, to escape their lives full of suffering and injustice. Vu Nuong in the work "The Story of a Nam Xuong Girl" brings together the most precious beauty and also the most painful and humiliating things of humanity. They are typical representatives of the image of Vietnamese women in the old society. Writing about women, writers and poets stood on the human stance to defend them, and at the same time spoke out harshly against the forces that caused their suffering. Perhaps the tragedies of Vu Nuong and Thuy Kieu are not isolated cases, but horribly the fate of many women, the result of many causes that the feudal regime has created. Their fate is tragic. From those unfortunate lives, Nguyen Du contributed to generalizing them into common words, into the common suffering of women, and since ancient times that fate has also been expressed in folk songs: “My body is like falling raindrops The seed falls into the well, the seed goes into the field." It is not only a cry of sympathy but also a denunciation, exposing the dark social situation, power and money, and indirectly condemning the feudal forces that have pushed people into painful situations. painful. With the male-dominated regime: "respecting men and looking down on women", women have been deprived of all legitimate rights and their dignity has been degraded. They are bound by harsh feudal rituals such as the "three obediences" religion, or backward concepts such as "foreign women"... The fate of women is completely dependent on, trampled upon, even still considered a commodity. That remnant of the old regime still persists today, with violence against women still quite common. Especially in the countryside. In addition, in some countries there are inhumane organizations that trade in women for profit and enrichment. Is that why the ancients still said, "Red beauty brings bad fate?" but the harsh and outdated rituals have also receded into the past. Women now have equal rights, especially freedom in marriage and the right to decide their own destiny. Actions that offend women's dignity will certainly be severely punished. Although published nearly two centuries ago, the above passionate works still cause deep and aching emotions in the hearts of readers. With the character Vu Nuong, Nguyen Du has built a very beautiful and meaningful image of a woman. Because in the work Vu Nuong is just an ordinary woman like any other woman, moreover, she comes from a difficult background and yet becomes the central character, the aesthetic character, the ideal character.
Bài làm Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là câu chuyện đẹp, nhẹ nhàng và bình dị kể về cuộc sống của những con người trong thời kỳ xây dựng đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong đó tác giả làm toát lên vẻ đẹp hiếm có của anh thanh niên làm nhiệm vụ trên núi cao và khát vọng sống, khát vọng cống hiến bất diệt. Với giọng điệu nhẹ nhàng, trữ tình, sâu lắng; những trang viết mộc mạc, chân thực của Nguyễn Thành Long đã khiến cho trái tim người đọc thổn thức với bao nhiêu cảm xúc đẹp. Hình ảnh anh thanh niên được khắc họa đậm nét trong từng trang viết. Người đọc có một cái nhìn mới mẻ, khách quan hơn đối với những người đang ngày đêm thầm lặng cống hiến cho quê hương, tổ quốc. Anh thanh niên không có tên cụ thể, tác giả chỉ gọi anh là “anh thanh niên”, có lẽ đó là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Anh thanh niên ấy chính là trung tâm của truyện ngắn. Anh không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà chỉ có mặt trong cuộc gặp gỡ chốc lát với người họa sĩ già, cô kĩ sư mới ra trường và bác lái xe. Ngay cả đến tên anh, tác giả cũng không giới thiệu. Song dù chỉ gặp anh trong ba mươi phút ngắn ngủi người “cô độc nhất thế gian” ấy đã khiến người đọc rung cảm và xúc động trước vẻ đẹp tâm hồn lấp lánh, trước chân dung của một người lao động lặng lẽ cống hiến cho đất nước trong cái lặng lẽ của Sa Pa. Đến với những trang viết tinh tế và đầy cảm xúc của Nguyễn Thành Long, người đọc thật sự ấn tượng trước hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên “ một người lao động chân chính, thật ấn tượng trước hình ảnh một người thanh niên tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng ngời. Anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng chỉ có mây núi, cây cỏ Sa Pa làm bạn. Một cuộc sống như vậy chẳng lẽ lại khiến anh cô đơn, buồn tẻ? Công việc của anh cũng hết sức gian khó. Anh là một cán bộ khí tượng kiêm vật lý địa cầu “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây. Công việc ấy không khó nhưng gian lao lắm. Quên sao được những đêm gió tuyết, giá rét khi anh làm việc! Quên sao được cái lặng im đáng sợ của Sa Pa lúc nửa đêm! Quả thật, hoàn cảnh sống gian khó vất vả, cô đơn ấy của anh đã khiến người đọc cảm phục anh biết nhường nào. Anh là một chàng thanh niên, đã hai mươi bảy tuổi nhưng chưa có người yêu. Anh chấp nhận rời xa cuộc sống đô thị ồn ào, rời xa gia đình để gắn bỏ với công việc. Một công việc phức tạp, vất vả: “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Qua những lời tâm sự của anh về công việc ta đã phần nào hình dung được sự khó khăn, nguy hiểm của công việc. Chẳng những phải dậy đúng giờ “ốp” – vốn vẫn rất thất thường – mà phải đối mặt với những khắc nghiệt của thời tiết của thiên nhiên: gió, bão, tuyết, hoang thú,… Và đáng sợ hơn nữa là sự cô độc. Nhưng anh thanh niên đã chiến thắng tất cả để giữ được một trái tim ấm áp, một tinh thần lạc quan, yêu đời. Anh triết lí về công việc của mình: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?”. Được làm việc có ích đối với anh thế là niềm vui. Hơn nữa công việc của anh gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí khác ở những điểm cao hơn hoặc thấp hơn. Ngoài ra, đọng lại trong lòng mỗi người đọc là phong cách sống của anh. Thật ngỡ ngàng khi người thanh niên ấy sống một mình cô đơn trên núi cao mà lại tổ chức; sắp xếp, được một cuộc sống nề nếp, ngăn nắp, khoa học. Cuộc sống xung quanh bỗng trở nên thật đẹp dưới bàn tay của anh, căn nhà nhỏ sạch sẽ, gọn gang, những hàng sách được xếp ngay ngắn trên giá, vườn hoa rực rỡ, mang đậm hơi thở Sa Pa với “hoa đơn, hoa thược dược, vang tím, đỏ, phấn, tổ ong”. Đặc biệt anh rất hồ hởi, cởi mở với mọi người, gặp mỗi người trên chiếc xe từ Hà Nội lên Sa Pa, anh vui mừng khôn xiết như gặp lại bạn cũ vậy. Gặp ông họa sĩ và cô kĩ sư, anh không một chút ngần ngại mời hai người lên nhà chơi. Anh đã tặng cô kĩ sư một bó hoa thật to “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết “nếu cô thích”, và anh kể chuyện say mê, hồ hởi như đang tâm tình với hai người bạn tri kỉ. Sự cởi mở của anh thật đáng trân trọng làm sao.
Assignment The short story "Quiet Sa Pa" by Nguyen Thanh Long is a beautiful, gentle and simple story about the lives of people during the period of building the country to socialism. In it, the author exudes the rare beauty of the young man on duty in the high mountains and his desire to live and his eternal desire to contribute. With a gentle, lyrical, and profound tone; Nguyen Thanh Long's rustic, honest writing pages have made readers' hearts sob with so many beautiful emotions. The image of the young man is boldly portrayed in each page. Readers have a new, more objective view of those who are quietly contributing to their homeland day and night. The young man does not have a specific name, the author just calls him "young man", perhaps that is the author's artistic intention. That young man is the center of the short story. He did not appear at the beginning of the work but was only present during a brief encounter with the old artist, the newly graduated engineer and the driver. Even his name was not introduced by the author. But even though I only met him for thirty short minutes, that "loneliest person in the world" made the reader feel moved and touched by the sparkling beauty of his soul, by the portrait of a quiet worker who devoted himself to helping others. country in the silence of Sa Pa. Coming to Nguyen Thanh Long's delicate and emotional pages, readers are truly impressed by the living and working situation of the young man, "an honest worker, very impressed by the image of a young man." A young man of small stature, with a radiant face. He lives alone on the 2600m high Yen Son peak, all year round with only the mountain clouds and plants of Sa Pa for company. Would such a life make him lonely and bored? His work is also extremely difficult. He is a meteorologist and geophysicist who "measures wind, rain, sunshine, and clouds. The work is not difficult but very arduous. How can I forget those windy, snowy, cold nights when I worked! How can I forget the terrifying silence of Sa Pa at midnight! Indeed, his difficult and lonely life situation made readers admire him so much. He is a young man, twenty-seven years old but has no lover. He agreed to leave the noisy urban life and leave his family to connect with work. A complex and arduous job: "measuring wind, rain, sunshine, calculating clouds, measuring ground vibrations, participating in daily weather forecasting, serving production, serving combat". Through his words about work, we can partly imagine the difficulty and danger of the job. Not only do you have to wake up on time - which is still very erratic - but you also have to face the harshness of natural weather: wind, storms, snow, wild animals,... And even scarier is loneliness. . But the young man overcame everything to maintain a warm heart, an optimistic spirit, and a love of life. He philosophizes about his work: "When we work, we and the work are a couple, how can we call it alone?". Being able to do useful work is such a joy for him. Furthermore, his work is closely linked to the work of many other comrades at higher or lower points. In addition, what remains in the hearts of each reader is his lifestyle. It was surprising that that young man, living alone and lonely on a high mountain, organized; Arrange and live an orderly, orderly and scientific life. The surrounding life suddenly becomes beautiful under his hands, the small house is clean and neat, rows of books are neatly arranged on shelves, the garden is colorful, imbued with the breath of Sa Pa with "single flowers, Dahlia flower, purple wine, red wine, pollen, honeycomb". In particular, he was very excited and open with everyone. Meeting each person on the bus from Hanoi to Sa Pa, he was overjoyed like meeting an old friend. Meeting the artist and the engineer, he did not hesitate to invite them to his house to visit. He gave the engineer a big bouquet of flowers. “I cut a few more branches. Then you can take as much as you want. Just cut a big bunch in. You can cut it all out "if you like", and he tells the story passionately and cheerfully as if he were confiding in two soulmates. Your openness is truly admirable.
Bài làm Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,với nhân vật chính là ông Hai,một lão nông hiền lành,yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu. Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Ông cũng thường xuyên đi đọc báo để nghe tin về làng Chợ Dầu của mình. Những chiến công nho nhỏ của các anh chiến sĩ hay của các em nhỏ cũng đủ làm ông sướng rơn, cứ như thể làng mình vừa lập công vậy. Ông mong đất nước mau đến ngày thống nhất cùng như mong chóng được trở về làng. Mọi việc làm, hành động của ông Hai đều hướng về làng. Tình yêu làng trong ông có lẽ chẳng bao giờ vơi cạn. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, nó càng được bộc lộ rõ hơn. Tin làng Chợ Dầu theo giặc đến với ông Hai quá đột ngột. Đột ngột vì đang lúc tâm trạng ông đang phấn chấn vì những tin kháng chiến thắng lợi ông vừa mới nghe được trong phòng thông tin. Vì vậy, cái tin làng theo giặc làm cho ông sững sờ như không tin nổi: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Tâm trạng ông đang phấn chấn chuyển thành đau xót, tủi hổ càng lúc càng dâng lên và trở thành nỗi ám ảnh ông thường xuyên. Suốt ngày ông chỉ biết ở trong nhà, không dám ra khỏi ngõ, không dám gặp mặt ai, không dám nói to… Nghe những tiếng lao xao ngoài đường, ông cũng chột dạ nghĩ người ta bàn tán đến chuyện làng mình. Tâm trạng của ông Hai lâm vào bế tắc khi hay tin mụ chủ nhà không cho gia đình ông tiếp tục trú ngụ vì không chứa những người làng Chợ Dầu theo giặc. Ở đoạn kết, khi hay tin làng mình không phải là Việt gian thì tâm trạng của ông Hai thay đổi hẳn, ông phấn chấn và vui sướng. Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai lại được thể hiện một cách rõ ràng. Ông đã thay đổi như thể trẻ con: “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”. Ông vui mừng báo tin với bác Thứ và mọi người xung quanh cái tin làng mình không theo giặc. Ông hoàn toàn vui sướng khi hay tin nhà mình bị Tây đốt. Đó có thể là niềm vui khôn tả đối với ông Hai. Ông lật đật đến các nhà hàng xóm để báo cái tin nhà ông bị Tây đốt và cái tin làng Chợ Dầu không theo giặc. Đoạn trích thể hiện sắc nét diễn biến tâm trạng của ông Hai, qua đó nêu cao tinh thần yêu nước, yêu quê hương của ông. Tấm lòng của ông Hai đối với làng quê, đất nước và với kháng chiến là vô bờ bến. Trong lúc tuyệt vọng nhất, niềm an ủi duy nhất đối với ông Hai là thằng con út. Ông ôm nó vào lòng, vỗ về nó, trò chuyện với nó, nghe nó thủ thỉ, tâm sự về quê hương, về cuộc kháng chiến. – Thế nhà con ở đâu? – Nhà ta ở làng Chợ Dầu. – Thế con có thích về làng Chợ Dầu không? – Có. Dù trong hoàn cảnh nào, kể cả trong lúc làng Chợ Dầu đã theo giặc, thằng con út vẫn một mực không quên cuộc kháng chiến, quên Đảng và Bác Hồ, đúng như ông Hai hằng mong muốn. – À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt: – Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nghe đứa con nhỏ nói lên những suy nghĩ của mình, ông Hai xúc động và vui sướng vô cùng, “nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng thuỷ chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng của người nông dân chân chất thật cảm động, trở thành một lời nguyền bất diệt: Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Tình cảm yêu làng và lòng thuỷ chung với kháng chiến của ông Hai lúc này được biểu hiện một cách chân thực và cảm động. Tình yêu làng của ông được đặt trong lòng yêu nước bao la, bởi vậy có lúc ông đã nghĩ: Làng thì yêu thật nhưng nó theo giặc thì phải thù và kiên quyết gạt bỏ ý định quay về làng. Cách mạng đã đổi đời cho người nông dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dân như ông rất chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, từ máu thịt.
Assignment Kim Lan is a writer with an extremely rich and profound background in rural Vietnam. His works revolve around the plight and activities of farmers. The text "Village" was composed in the early period of the resistance war against the French colonialists, with the main character being Mr. Hai, a gentle old farmer who loved the village, patriot and was attached to the resistance. Mr. Hai was A unique character with many common characteristics typical of Vietnamese farmers during the resistance war against the French, but at the same time has very unique and interesting personality traits. He became the soul of the Village and fully expressed the writer's thoughts and works Mr. Hai, like many rural farmers, has always been attached to his village. He loves and is proud of Cho Dau village and often brags about it enthusiastically and excitedly. In the evacuation area, he always remembered the village, followed resistance news and asked about Cho Dau. His love for the village was revealed even more deeply and touchingly in challenging circumstances. Kim Lan placed the character in a harsh situation to reveal the character's emotional depth. He also regularly reads newspapers to hear news about his Cho Dau village. The small victories of the soldiers or the children were enough to make him happy, as if his village had just accomplished something. He wished that the country would soon be unified and that he would soon be able to return to his village. All of Mr. Hai's actions and actions are directed towards the village. His love for the village will probably never run out. In the most difficult circumstances, it is revealed even more clearly. The news that Cho Dau village had joined the enemy came to Mr. Hai very suddenly. Suddenly because he was in an elated mood because of the news of the resistance victory he had just heard in the information room. Therefore, the news that the village had joined the enemy made him stunned as if he couldn't believe it: "The old man's throat was completely choked up, his face was numb, he was speechless, it seemed like he couldn't breathe." His elated mood turned into pain, shame increased more and more and became a constant obsession for him. All day long he just stayed at home, didn't dare leave the alley, didn't dare meet anyone, didn't dare speak loudly... Hearing the commotion on the street, he suddenly thought people were talking about his village. Mr. Hai's mood reached a deadlock when he heard that the landlady would not let his family continue to stay because they could not accommodate Cho Dau villagers who had joined the enemy. At the end, when he heard that his village was not a Vietnamese, Mr. Hai's mood changed completely, he was elated and happy. Once again, Mr. Hai's love for the village and his country were clearly expressed. He changed like a child: "The face that was sad every day suddenly became cheerful and radiant. The chubby mouth chews betel, the eyes are red and red, blinking. He happily informed Uncle Thu and everyone around him that his village had not joined the enemy. He was completely happy when he heard that his house was burned by the West. That could be an indescribable joy for Mr. Hai. He hurried to the neighbors' houses to report the news that his house was burned by the West and that Cho Dau village did not join the enemy. The excerpt clearly shows the evolution of Mr. Hai's mood, thereby highlighting the spirit of patriotism and love for his homeland. Mr. Hai's heart for his village, his country and the resistance war is boundless. In the most desperate moment, the only comfort for Mr. Hai was his youngest son. He held it in his arms, comforted it, talked to it, listened to it whisper, confide about his homeland, about the resistance. – So where is my house? – My house is in Cho Dau village. – So do you like going to Cho Dau village? - Have. No matter the circumstances, even when Cho Dau village had joined the enemy, the youngest son still did not forget the resistance, the Party and Uncle Ho, just as Mr. Hai always wanted. – Well, let me ask you. So who do you support? The boy raised his hand, boldly and clearly: – Long live support for Ho Chi Minh! Hearing his little child speak his thoughts, Mr. Hai was extremely moved and happy, "the old man's tears flowed down his cheeks." The sincere farmer's faithful and loyal heart to the resistance and the revolution is so touching, it becomes an eternal curse: If you die, you will never dare to make a mistake. Mr. Hai's love for the village and loyalty to the resistance were expressed in a realistic and touching way. His love for the village was embedded in his immense patriotism, so at one point he thought: The village is truly loved, but if it follows the enemy, it must be hated and resolutely rejected the idea of ​​returning to the village. The revolution changed the lives of farmers like him. He vowed to follow and be loyal to the revolution. Put aside your own feelings and follow the resistance, refuse to follow the West, live with the West. The emotional attachment to the revolution and Uncle Ho of farmers like him is very simple, rustic, and profound, it comes from the bottom of the heart, from flesh and blood.
Bài làm Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực nhất cảnh đời cơ cực, nhiều cay đắng nhất của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Có thể nói là xã hội này đầy rẫy những bất công, đẩy người nông dân vào bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát. Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh Lão Hạc với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nhưng cuối cùng số phận bi thảm. Cái chết của Lão Hạc cuối truyện luôn ám ảnh người đọc, bởi giá trị mà nó muốn nhắn gửi thực sự có ý nghĩa sâu xa. Không phải bỗng nhiên lão Hạc muốn tìm đến cái chết, bởi chẳng ai muốn chết cả. Chỉ khi túng quá, quẫn quá, và không còn con đường nào khác để đi thì cái chết là sự giải thoát nhẹ nhàng nhất. Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng được 5 đồng, thấy day dứt, thấy mình thật tệ bạc với nó quá. Lão tính đi tính lại, cuối cùng cũng tích được 30 đồng gửi ông Giáo, bao giờ con trai ông về thì nhờ ông Giáo gửi lại con trai. Cuộc sống luôn vận động và con người trong cuộc sống luôn phải nương theo dòng chảy của nó. Sống trong chính cuộc đời, con người luôn phải có nhiều nỗi lo toan trăm bề mà trong truyện “Lão Hạc” của Nam Cao lại là một bực tranh hiện thực, trong bức tranh ấy người nông dân chân chất hiện lên, với những suy nghĩ, lo toan, tính toán cho tương lai và dưới cái nhìn của ông giáo. Và cũng cần xem xét lại tình cảm sâu sắc giữa lão Hạc và con chó vàng, phải chăng vì sự tồn tại hay vì bản thân mà con người chối bỏ đi tình cảm của mình… Nhưng khi câu chuyện kết thúc với cái chết thương tâm của lão Hạc “thì cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì những tình cảm của con người vẫn tồn tại trọn vẹn, vẫn viên mãn, vẫn còn nhiều cái tốt để đáng sống, “nhưng lại đáng buồn theo nghĩa khác” rằng trong cuộc đời tồn tại một con người nhân nghĩa, biết lo xa, bất chấp bản thân mình để hi sinh, để thanh thản thì đó là một điều tốt, nhưng cũng vì hoàn cảnh, cũng vì cuộc sống không như ý muốn nên trên đời mất đi một con người tốt, đẹp đẽ, vậy có công bằng? Triết lý trong truyện đã khiến ta thêm suy nghĩ, phân tích cũng như có khả năng nhìn nhận được nhiều khía cạnh rất khác nhau, dưới những hình ảnh cũng không giống nhau của một sự vật, sự việc mà bản chất là những gì gần gũi với cuộc sống Qua nhiều làn Lão Hạc nói đi nói lai về ý định bán cậu Vàng vì con chó và cũng là người bạn thân của Lão, có thể thấy lão đã suy tính, đắn đo nhiều lắm. Lão coi việc này rất hệ trọng bởi con chó Vàng này là người bạn tri kỉ của lão, cũng là kỉ vật để lão nhớ về người con đang đi đồn cao su vì trước đây nó rất thương yêu con Vàng. Có thể thấy tình cảm của lạo với cậu Vàng là vô cùng to lớn, lão đã vô cùng khó khăn và đắn đo khi có quyết định bán nó. Sau khi bán cậu Vàng, lão cứ day dứt ân hận mãi vì già bằng này tuổi đầu rồi còn đi lừa một con chó. Cả đời ông già nhân hậu này đã nỡ lừa dối một ai bao giờ. Xét về cử chỉ, bộ dạng lão Hạc khi nói với ông giáo chuyện bán chó: “Lão cố vui lên nhưng lại “cười như mếu” và đôi mắt lại ngân ngấn nước. Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn ép lại với nhau xô cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lạo nghẹo về một bên và miệng lão móm mém như con nít, Lão hu hu khóc”. Các chi tiết ngoại hình thể hiện cho ta thấy một cõi lòng đang vô cùng đau đớn, xót xa ân hận… Lão Hạc chết vì muốn giữ mình vẫn là 1 người nông dân lương thiện, chết để bảo toàn mảnh vườn cho đứa con trai mà ông luôn tin rằng nó sẽ trở về, chết để ko làm phiền đến hàng xóm láng giềng, chết vì sợ ông sống sẽ phí phạm đến số tiền mà mình đã giành dụm cực khổ bao năm nay, chết vì để thoát khỏi cái xã hội phong kiến bức bách và đầy rẫy những thứ xấu xa và cũng có thể chết vì ân hận khi đã bán cho Vàng. Nhân cách cao quý của người nông dân Việt Nam chất phác, họ chết nhưng vẫn giữ được cái gọi là tự trọng, lòng thương con và sự lương thiện. Cái chết của Lão Hạc dù kết thảm bi thảm như thế nào, lão vẫn giữ lại cho chúng ta bức thông điệp về nổi trăn trở của một con người trong niềm đau nhân cách. Ta không đưa Lão Hạc đên tận huyệt mồ quên lãng, nhưng vẫn thấy sâu thẳm huyệt lòng một niềm rưng rưng không nguôi. Người cha “Thà chết chứ không chịu bán đi một sào…” cái mãnh vườn thân yêu dành cho đứa con khốn khổ. Nam Cao lạnh lùng đẩy nấc thang đạo đức đến ranh giới của thị phi, khiến chúng ta dầu không bắng lòng vẫn không giám vội vàng phê phán.
Assignment Old Hac is a short story that most realistically reflects the most miserable and bitter life of farmers before the August Revolution. It can be said that this society is full of injustices, pushing farmers into deadlock, despair, with no way out. Nam Cao successfully built the image of Lao Hac with all the good qualities of a farmer but in the end a tragic fate. Old Hac's death at the end of the story always haunts readers, because the value it wants to convey is truly profound. It's not like Mr. Hac suddenly wanted to die, because no one wants to die. Only when you are too poor, too miserable, and have no other way to go, death is the gentlest liberation. After selling Mr. Vang for 5 dong, Old Hac felt tormented and felt that he had been so mean to him. The old man calculated over and over again, and finally saved up 30 dong to send to Mr. Giao. When his son returned, he asked Mr. Giao to send his son back. Life is always moving and people in life always have to follow its flow. Living in life itself, people always have to have many worries, but in the story "Old Hac" by Nam Cao is a realistic picture, in that picture the honest farmer appears, with his thoughts. think, worry, calculate for the future and under the teacher's eyes. And it is also necessary to reconsider the deep feelings between old Hac and the yellow dog, is it because of existence or because of themselves that people deny their feelings... But when the story ends with a tragic death According to old Hac, "life is not necessarily sad" because human emotions still exist completely, are still complete, there are still many good things worth living, "but it is sad in another sense" that in In life, there exists a benevolent person who knows how to look ahead, regardless of himself to sacrifice, to be at peace, that is a good thing, but also because of circumstances, also because life is not as expected, so in this world Losing a good, beautiful person, is that fair? The philosophy in the story has made us think, analyze and be able to see many different aspects, under different images of a thing, an event whose essence is something close to each other. close to life Through many times, Lao Hac talked over and over again about his intention to sell Mr. Vang for his dog and also his close friend. It can be seen that he thought and hesitated a lot. He considered this very important because this Golden dog was his soulmate, and also a souvenir for him to remember his son who was working at a rubber station because he used to love the Golden dog very much. It can be seen that Lao's feelings for Mr. Vang were extremely great. He had a very difficult and hesitant decision to sell it. After selling Mr. Vang, he was tormented with regret because he was already old enough to cheat on a dog. This kind old man had never deceived anyone in his entire life. Judging from Mr. Hac's gestures and appearance when he told the teacher about selling dogs: "He tried to cheer up but instead "laughed like hell" and his eyes were filled with tears. The old face suddenly twitched. The wrinkles pressed together, forcing tears to flow. His head was tilted to one side and his mouth was toothless like a child's. He was crying." The physical details show us a heart that is extremely painful, filled with regret... Old Hac died because he wanted to remain an honest farmer, died to preserve the garden for his son who he always believed would return, died so as not to bother his neighbors, died out of fear. If he lives, he will waste the money he has saved so hard over the years. He will die because he wants to escape the oppressive feudal society full of evil things, and he can also die because he regrets selling to Yellow. The noble personality of simple Vietnamese farmers, they die but still retain their so-called self-respect, love for their children and honesty. No matter how tragic the death of Lao Hac, he still retains for us a message about a person's concerns in the pain of personality. I did not send Old Hac to the grave of oblivion, but I still felt deep in my heart an inconsolable tear. The father "I would rather die than sell a single pole..." of his beloved garden for his miserable son. Nam Cao coldly pushes the moral ladder to the boundary of hypocrisy, making us even though we are not offended, we are not too quick to criticize.
Bài làm Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Vì nó là cái nôi, cái nguồn cội của sự trưởng thành. Đối với Bằng Việt cũng vậy và tuổi thơ ông là những, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ ra đời năm 1963, khi ấy nhà thơ đang học tập và sinh sống ở nước bạn Liên Xô. Trong nước, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc đang dần đến hồi cam go. Nhớ về Tổ quốc trong những ngày tháng ấy, Bằng Việt gửi trọn niềm thương nỗi nhớ cho người bà tần tảo, vất vả mà giàu tình yêu thương của mình. “Bếp lửa” là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà yêu quý ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa trào dâng vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ, các đoạn thơ dài ngắn không đều. Bài thơ gồm hai giọng tự sự và giọng trữ tình thấm đượm vào mỗi ki niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy giọng cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc. Các sự việc trong bài thơ được kể tiếp nối thành chuỗi, tạo thành mạch chuyện nào đó trong bài thơ. Bằng Việt kể không nhiều, nhưng khá rành rọt. Nhớ từng thời điểm, rành rõ từng quãng thời gian, từng cảnh ngộ gia đình trong những biến động chung của đất nước: lên bốn tuổi, tám năm ròng, năm giặc đốt làng, mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ khi cháu đã đi xa… Lần theo nhừng mốc thời gian ấy, các sự kiện được kể cứ tiếp nối tạo thành một cốt truyện cho cuộc chuyện trò trong tâm tưởng với bà… Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh thơ đầy ám ảnh: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp lửa được nhen lên trong mỗi sớm mai. Còn ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của yêu thương mà bà dành cho cháu. Bởi vậy nên nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà với bao tình thương và nỗi nhớ. Là cuộc đời đầy vất vả nhọc nhằn không chỉ nuôi con mà còn thay con nuôi cháu: “Đó là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” đã là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tò dần, tỏ dần. Bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, năm tháng. Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu nhớ mùi khói từ khi lên bốn. Thì cũng là năm “đói kém” (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” bố bươn trải đưa gia đình qua khỏi thì đói kém mà cứ chìm đi trong kí ức. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: “đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu”… Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ nguyên trong ki ức. Nhà thơ nhắc lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói 1945.Vậy mà bà đã già cả, ốm yếu lại một tay nuôi dạy cháu. Cái đói, cái chết rình mò nhưng bà vẫn dành tất cả yêu thương mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn. Cảm nhận về nỗi vất vả của thời thơ ấu. “Mùi khói” có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói … mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng. Cơ cực lên đến tận cùng khi: “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Làng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Nhưng ngay cả khi ấy, khi mà mọi vật đã trở thành phê tích, hoang tàn, sự sống đã bị triệt tiêu thì ở bà vẫn ánh lên những tia lửa cùa tin yêu: “Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Thời thế có thăng trầm biến chuyển thì lòng bà vẫn như ngọn lửa, trước sau vẫn bùng lên trong bếp nhỏ “chứa niềm tin dai dẳng” vào cuộc đời. Nuôi cháu ăn, bà còn “dạy cháu làm, chăm cháu học” không muôn để cái đói, cái nghèo vùi dập đời sống văn hóa, tinh thần của cháu. Đó là tư tưởng vô cùng tiến bộ hiếm thấy ở những người mà tuổi tác đã như bà. Điều đặc biệt là bà đã âm thầm đón nhận gian khó và lại một mình chịu đựng những nhọc nhằn, không muốn những cực nhọc cùa bản thân làm con cái lo lắng: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo rằng nhà vẫn được bình yên”. Hình ảnh bà hiện lên chẳng những ấm áp yêu thương mà còn đầy cao cả, vị tha và giàu đức hi sinh. Đó phải chăng là tấm lòng muôn thuở của những người bà, người mẹ trên mảnh đất Việt Nam này? Suốt những phần đầu của bài thơ, nhà thơ vừa kể, vừa tỏ lòng thương nhớ, ngợi ca, biết ơn công lao của bà. Và đến đây, ông đúc kết lại về sự kì lạ và linh thiêng của hình ảnh bếp lửa và cũng là của bà: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa chiến tranh dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà. Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia. Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Mấy chục năm đã trôi qua, “niềm tin dai dẳng” trong bà chưa bao giờ lụi tắt, để đến tận bây giờ “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ chia ấm áp, của bầu trời tuổi thơ đẹp đẽ trong cháu. Những ân tình của bà theo cháu suốt cả cuộc đời. Để giờ đây: “Giờ cháu đã đi xa Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Bài làm Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Vì nó là cái nôi, cái nguồn cội của sự trưởng thành. Đối với Bằng Việt cũng vậy và tuổi thơ ông là những, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ ra đời năm 1963, khi ấy nhà thơ đang học tập và sinh sống ở nước bạn Liên Xô. Trong nước, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc đang dần đến hồi cam go. Nhớ về Tổ quốc trong những ngày tháng ấy, Bằng Việt gửi trọn niềm thương nỗi nhớ cho người bà tần tảo, vất vả mà giàu tình yêu thương của mình. “Bếp lửa” là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà yêu quý ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa trào dâng vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ, các đoạn thơ dài ngắn không đều. Bài thơ gồm hai giọng tự sự và giọng trữ tình thấm đượm vào mỗi ki niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy giọng cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc. Các sự việc trong bài thơ được kể tiếp nối thành chuỗi, tạo thành mạch chuyện nào đó trong bài thơ. Bằng Việt kể không nhiều, nhưng khá rành rọt. Nhớ từng thời điểm, rành rõ từng quãng thời gian, từng cảnh ngộ gia đình trong những biến động chung của đất nước: lên bốn tuổi, tám năm ròng, năm giặc đốt làng, mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ khi cháu đã đi xa… Lần theo nhừng mốc thời gian ấy, các sự kiện được kể cứ tiếp nối tạo thành một cốt truyện cho cuộc chuyện trò trong tâm tưởng với bà… Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh thơ đầy ám ảnh: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp lửa được nhen lên trong mỗi sớm mai. Còn ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của yêu thương mà bà dành cho cháu. Bởi vậy nên nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà với bao tình thương và nỗi nhớ. Là cuộc đời đầy vất vả nhọc nhằn không chỉ nuôi con mà còn thay con nuôi cháu: “Đó là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” đã là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tò dần, tỏ dần. Bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, năm tháng. Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu nhớ mùi khói từ khi lên bốn. Thì cũng là năm “đói kém” (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” bố bươn trải đưa gia đình qua khỏi thì đói kém mà cứ chìm đi trong kí ức. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: “đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu”… Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ nguyên trong ki ức. Nhà thơ nhắc lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói 1945.Vậy mà bà đã già cả, ốm yếu lại một tay nuôi dạy cháu. Cái đói, cái chết rình mò nhưng bà vẫn dành tất cả yêu thương mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn. Cảm nhận về nỗi vất vả của thời thơ ấu. “Mùi khói” có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói … mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng. Cơ cực lên đến tận cùng khi: “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Làng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Nhưng ngay cả khi ấy, khi mà mọi vật đã trở thành phê tích, hoang tàn, sự sống đã bị triệt tiêu thì ở bà vẫn ánh lên những tia lửa cùa tin yêu: “Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Thời thế có thăng trầm biến chuyển thì lòng bà vẫn như ngọn lửa, trước sau vẫn bùng lên trong bếp nhỏ “chứa niềm tin dai dẳng” vào cuộc đời. Nuôi cháu ăn, bà còn “dạy cháu làm, chăm cháu học” không muôn để cái đói, cái nghèo vùi dập đời sống văn hóa, tinh thần của cháu. Đó là tư tưởng vô cùng tiến bộ hiếm thấy ở những người mà tuổi tác đã như bà. Điều đặc biệt là bà đã âm thầm đón nhận gian khó và lại một mình chịu đựng những nhọc nhằn, không muốn những cực nhọc cùa bản thân làm con cái lo lắng: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo rằng nhà vẫn được bình yên”. Hình ảnh bà hiện lên chẳng những ấm áp yêu thương mà còn đầy cao cả, vị tha và giàu đức hi sinh. Đó phải chăng là tấm lòng muôn thuở của những người bà, người mẹ trên mảnh đất Việt Nam này? Suốt những phần đầu của bài thơ, nhà thơ vừa kể, vừa tỏ lòng thương nhớ, ngợi ca, biết ơn công lao của bà. Và đến đây, ông đúc kết lại về sự kì lạ và linh thiêng của hình ảnh bếp lửa và cũng là của bà: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa chiến tranh dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà. Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia. Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Mấy chục năm đã trôi qua, “niềm tin dai dẳng” trong bà chưa bao giờ lụi tắt, để đến tận bây giờ “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ chia ấm áp, của bầu trời tuổi thơ đẹp đẽ trong cháu. Những ân tình của bà theo cháu suốt cả cuộc đời. Để giờ đây: “Giờ cháu đã đi xa Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Bài làm Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội. “Sang thu” là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm và ngòi bút tài hoa, Hữu Thỉnh đã có những cảm nhận mới mẻ trước sự biến chuyển của thiên nhiên đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu. Khoảnh khắc giao mùa đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Thật kì lại là chỉ với hương ổi thân quen đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se” “Hương ổi” – mùi hương riêng của dân tộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Cái hương vị ngọt ngào, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ “Bỗng nhận ra” – một trạng thái chưa hề chuẩn bị, như là vô tình, như là sửng sốt. Một sự bất ngờ mà như đã đợi sẵn, đợi từ lâu rồi để giờ đây có dịp là buông ra ngay. Một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Mùa hạ sắp qua, hình như mùa thu đến. Mùi hương ấy không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị. “Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về” Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đủ tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lại càng lung linh huyền ảo, gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì đó. Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như ” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu. Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi: “Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã” Cái nhìn tinh tế của Hữu Thỉnh đã phát hiện ra bao điều mới lạ từ những sự vật đã quá quen thuộc với trời đất với con người. Tất cả đều trong trạng thái ngập ngừng: Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị “Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ nên mới “Vắt nửa mình sang thu”. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng“ vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu êm, những vẫn có chút mơ hồ khi cả đất trời đang chuyển mình thay áo mới … Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời: “Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi” Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa.
Assignment Huu Thinh is a poet who grew up in the army. “Autumn Festival” is one of his outstanding works. With an artist's eye, a sensitive soul and a talented pen, Huu Thinh has new feelings about the changes in nature from late summer to early autumn. The most beautiful moment of nature's changing seasons, it instills gentle vibrations in people's hearts that make us feel in harmony and in harmony. It's strange that just the familiar scent of guava awakened the poet's most delicate senses: “Suddenly I noticed the scent of guava Blown into the wind" "Guava scent" - the unique scent of the nation, the unique scent of autumn in the countryside in the Northern Delta of Vietnam. The sweet, loving taste of autumn makes the poet "Suddenly realize" - a state of being unprepared, as if unintentionally, as if shocked. A surprise that seemed to have been waiting for a long time and now had the opportunity to let go. A cry of delight, a moment that quickly passed but left behind so many emotions. Summer is almost over, it seems like autumn is coming. That scent does not blend in but "blows" into the wind. “Pha” means to rise strongly and radiate in streams. Huu Thinh did not describe but just suggested, giving readers an interesting association. “The fog drifted across the alley Thu seemed to have about" If the first two sentences describe a feeling that is not quite believable, the image of "Fog drifting through the alley" is even more shimmering and magical, evoking thin, soft mist, spreading curtains across the country roads and villages. . It makes the autumn air cool and the autumn scene poetic, magical, leisurely and peaceful. The poet personified the mist through the word "sagging", making the autumn mist full of mood. It's like waiting for someone or lingering about something. The poetic verse creates a vague feeling mixed with many emotions. With all the senses: smell, touch and sight, the poet feels the characteristics of autumn are present. There is “guava scent”, “astringent wind” and “dew”. Autumn has arrived in the homeland. Yet the poet is still cautious: "It seems like autumn has come." Why "apparently" and not "definitely"? A little bit of doubt, a little bit of uncertainty. What an emotional state of transition. Autumn comes so gently, so vaguely. Autumn dew has been personified, the two words "sagging" very poetically describe the slow walk of autumn. If in the first verse the poet "suddenly realized" that autumn had come quite unexpectedly and suddenly, then after feeling the autumn dew and autumn wind, the poet was still surprised and whispered as if wondering: It seems like autumn has arrived. about? The poet's soul captures the gentle, fragile changes of creation in the changing seasons as gently and carelessly as the small steps of autumn. The artistic space of the autumn painting is expanded, the initial surprise suddenly disappears, giving way to intense emotions in front of the wonderful autumn space: “The river is easy at times Birds begin to rush” Huu Thinh's subtle vision has discovered many new things from things that are so familiar to heaven, earth and humans. Everything is in a state of hesitation: The river is full, so it "easily" flows gently, as if deliberately slowing down, flocks of birds rush to fly south... The autumn space is relaxing, charming and filled with poetry. “There are summer clouds Squeeze half of yourself into autumn" It seems that that cloud still has a few warm rays of summer sunshine left, so it "squeezes half of itself into autumn". The clouds straddle the thin boundary and become smaller and smaller, smaller and smaller, then at some point they no longer exist, leaving all life behind, leaving the entire summer cloud completely tinged with autumn colors. The river, bird wings, and clouds are all anthropomorphized, making the autumn painting become charming and filled with poetry. All three images above are signs of the coming of autumn, with a little bit of late summer remaining The poem helps us visualize the thin, white, spongy clouds, stretching like the graceful veil of a young woman, gently "draping half her body into autumn". The poem has the function of shaping space but also has the meaning of describing the movement of time: autumn has begun to come, summer has not ended yet, autumn has just begun, very light, very gentle, but still a bit vague. When the whole world is changing into new clothes... The third stanza clearly describes the transformation of space and is also a glimpse of the poet's reflection on the landscape, earth and sky: “There's still a lot of sunshine left The rain has gradually subsided Thunder is also less surprising On older trees" Still the sun, rain, thunder, and lightning of summer linger somewhere. The poem's meaning also reminds us that when people are old and experienced, the storms and ups and downs of life are less surprising and passive. Those thoughts of the author may have contributed to making "Sang Thu" rich in meaning.
Bài làm Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, những tác phẩm của ông gần gũi với người đọc bởi sự nhẹ nhàng, gần gũi mà chân thành. Và bài thơ “Ánh trăng” cũng vậy – bài thơ khiến cho tâm hồn con người ta phải trăn trở rất nhiều và có cách nhìn nhận chân thực, sâu sắc hơn với cuộc sống. Không biết tự bao giờ trăng đã trở thành nàng thơ, thành người bạn tri âm tri kỉ của biết bao tâm hồn thi sĩ. Ánh trăng trong thơ Nguyễn Duy cũng vậy, cũng là cảm hứng để ông trút bầy tâm sự, biểu lộ nỗi lòng của mình. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có tâm trạng riêng, suy ngẫm riêng, nó như một lời tự sự chân thành. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ về những hồi ức của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ: “Hồi nhỏ sống với đồng Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ” Trước hết là hình ảnh vầng trăng thiên nhiên gắn bó với tuổi thơ, Nguyễn Duy nhớ về tuổi thơ êm đềm hạnh phúc nơi ruộng đồng, nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ nơi núi rừng, những thăng trầm, những niềm vui, nỗi buồn của cuộc sống, sự trưởng thành lớn lên của một con người trải qua bao thăng trầm của cuộc đời phiêu bạc sương gió vì đất nước, nhưng ông không cảm thấy sầu não, mà cảm xúc trong ông hiện hữu là sự cảm động vì ở mọi nơi, mọi lúc đều có sự chia sẻ của Trăng – người bạn tri kỉ. Bằng cách gieo vần lưng và điệp từ “với” được nhắc đi nhắc lại gợi ra trước mắt người đọc một tuổi thơ đầy ắp những kỷ niệm thân thương. Trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên tươi mát, là trò chơi tuổi thơ, là ước mơ trong sáng, là ánh sáng, là niềm vui bầu bạn của người lính Con người khi xưa ấy sống giản dị và hoà hợp với thiên nhiên trong lành và ngỡ rằng sẽ không bao giờ quên được cái vầng trăng tình nghĩa. Vậy mà, hoàn cảnh sống thay đổi, hết chiến tranh, con người trở về thành phố, quen với cửa gương và ánh điện của cuộc sống hiện đại lúc nào cũng rực rỡ tươi sáng, vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa của ngày xưa đã mau chóng trở thành quá khứ, dễ bị cho vào vùng lãng quên. Con người trước dòng đời đua chen xô đẩy, cái hào nhoáng trước mắt ánh điện cứa gương đã khiến họ quên đi những hạnh phúc bình dị thuở nào, quên đi những kỉ niệm một thời vất vả khó khăn và cũng vô tình lãng quên đi một người bạn tri kỉ ân tình: “Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường”. Vòng xoáy của cuộc sống và dòng đời đã khiến con người cứ luôn tất bật, hối hả. Nhưng cuộc đời mà, có rất nhiều chuyện không thể cứ quên mà chìm vào hồi ức vĩnh viễn được. “Thình lình đèn điện tắt Phòng buyn đinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn Người lính đã quên những tình cảm chân thành, những tháng năm gian khổ nhưng chan chứa ân tình thuở trước. Mặc dù vậy trăng vẫn không quên, vẫn đến với bạn xưa bằng tình cảm tràn đầy không hề thay đổi. Việc mất điện như một tình huống không ngờ đến, điện mất, phòng tối om, con người cần ánh sáng mà mở tung cửa sổ, và khi đó lại nhìn thấy hình ảnh vầng trăng vẫn hiện diện trên bầu trời và toả sáng khắp căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã thổi bùng nỗi nhớ về một thời quá khứ chưa xa.Trong cuộc gặp mặt không lời, người lính xưa xúc động, cảm xúc nghẹn ngào muốn trào nước mắt. Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm xưa: những kỷ niệm thiếu thời, những tháng năm chinh chiến giữa thiên nhiên, đất nước bình dị, gần gũi. Tất cả hiện hình trong nỗi nhớ, trong cảm xúc thiết tha và cả trong tư thế lặng im thành kính của tác giả… Vào lúc đó ông đã nhận ra, trăng vẫn tròn đầy, tình nghĩa và vị tha, Hình ảnh“ vầng trăng tròn vành vạnh” không chỉ thể hiện vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của cuộc sống mà còn có ý nghĩa biểu tượng cho nghiã tình quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên, chẳng thể phai mờ. Trăng xuất hiện không một lời oán hờn trách cứ, nhưng đôi khi, im lặng lại là sự trừng phạt nghiêm khắc nhất. Không gian như chững lại,lặng yên trong cuộc gặp mặt không lời của hai người tri kỉ. Trăng ở đây đã được nhân cách hóa với những suy nghĩ, tâm tư rất con người, rất đời thường vậy mà: “Trăng vẫn tròn vành vạnh Kể chi người vô tình”. Con người bây giờ đối diện với ánh trăng, nhưng trăng vẫn tròn đầy vệ sự tình nghĩa, và điều đó khiến con người thấy hổ thẹn “ Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng Như là đồng là bể Như là sông là rừng” Một khoảng khắc im lặng trong hiện thực nhưng trong nội tâm con người nỗi xúc động trào dâng đến đỉnh điểm. Mọi ký ức của một thời xa xăm, một thời gian khó, gắn bó thuở nào bỗng dội về trước mặt:
Assignment Nguyen Duy is a poet who grew up during the anti-American resistance war. His works are close to readers because of their gentleness, closeness, and sincerity. And the same goes for the poem "Moonlight" - a poem that makes people's souls worry a lot and have a truer, deeper perspective on life. I don't know when the moon became the muse, the soulmate of so many poets' souls. Moonlight in Nguyen Duy's poetry is also the inspiration for him to pour out his thoughts and express his feelings. "Moonlight" by Nguyen Duy has its own mood, its own thoughts, it is like a sincere narrative. The poem has the appearance of a small story told in chronological order. The author's feelings about the memories follow this narrative line to reveal: “When I was a child, I lived with the fields With the river and then with the tank During the war in the forest The moon becomes a soulmate" First of all, the image of the natural moon is associated with childhood. Nguyen Duy remembers a peaceful and happy childhood in the fields, remembers the arduous years of war in the mountains and forests, the ups and downs, the joys, the sadness of life, the growth and maturity of a person who has gone through many ups and downs of a life of adventure and hardship for his country, but he does not feel sadness, but the emotion that exists in him is emotion. Because everywhere, every time, there is the sharing of the Moon - a soulmate. By rhyming and repeating the word "with", it evokes before the reader a childhood full of fond memories. The moon is the image of fresh and innocent nature, a childhood game, a pure dream, light, and the joy of a soldier's companionship. People back then lived simply and in harmony with pure nature and thought they would never forget the moon of gratitude. Yet, life circumstances changed, the war ended, people returned to the city, accustomed to the mirrored doors and electric lights of modern life that are always bright and brilliant, the moon of soulmates, the moon of love. The past has quickly become a thing of the past, easily forgotten. People, faced with the hustle and bustle of life, the glamor in front of their eyes, the mirror-like electric light, makes them forget the simple happiness of the past, forget the memories of a time of hardship and difficulty, and also unintentionally forget. a grateful friend: “Since returning to the city Get used to the electric light of mirror doors The moon passes through the alley Like a stranger passing by." The whirlwind of life and the flow of life has made people always busy and in a hurry. But in life, there are many things that cannot be forgotten and sunk into memories forever. “Suddenly the electric light went off The dining room is dark Quickly opened the window Suddenly the moon is full The soldier has forgotten the sincere feelings and the years of hardship but full of love in the past. Even so, the moon still does not forget, still comes to her old friend with full and unchanged affection. The power outage was like an unexpected situation, the electricity went out, the room was dark, people needed light so they opened the window, and then saw the image of the moon still present in the sky and shining throughout the room. room. It was the moon that suddenly appeared in that scene that sparked nostalgia for a not-so-distant past. During the wordless meeting, the old soldier was moved, choked with emotions and wanted to shed tears. The sudden appearance of the moon brought back many old memories in the poet's mind: childhood memories, years of fighting in nature, a simple, close country. Everything appears in the author's nostalgia, passionate emotions and even in the author's respectful silence... At that moment, he realized that the moon was still full, full of love and forgiveness. The image of the "full moon" not only represents the simple and eternal beauty of life but also has a symbolic meaning for the beautiful, intact, and indelible love of the past. The moon appears without a word of resentment or blame, but sometimes, silence is the harshest punishment. The space seemed to stand still and quiet in the wordless meeting of two soulmates. The moon here has been personified with very human and everyday thoughts and feelings: “The moon is still full Not to mention those who are heartless." People now face the moonlight, but the moon is still full of love, and that makes people feel ashamed. “Turn your face up and look at the face Something is tearing up Like copper and water Like a river and a forest" A moment of silence in reality, but inside people's hearts, emotions rise to the peak. All the memories of a distant time, a difficult, close-knit time suddenly flashed before me:
Bài làm Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết tương thân tương ái vô cùng sâu sắc và tốt đẹp, biết yêu thương đồng bào, giúp đỡ nhau khi cần thiết, con người sống vì nhau. Các hoạt động từ thiện, công ích trở nên phổ biến đã giúp cho cuộc sống này có thêm nhiều ý nghĩa thiết thực hơn. Từ thiện là một việc làm thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nó là sự chia sẻ, cảm thông, muốn giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Trong thời đại ngày nay, hoạt động từ thiện ngày càng được nhiều người chung tay góp sức về của cải vật chất hay bằng những giá tri về tinh thần một cách tự nguyện khiến cho hoạt động tình nguyện trở nên tuyệt vời hơn cả. Làm từ thiện mang lại niềm vui cho cuộc sống của người khác đồng thời cũng giúp cho cho cuộc sống của bạn có thêm nhiều ý nghĩa, phong phú hơn. Làm từ thiện bạn sẽ biết được nhiều hoàn cảnh trong cuộc sống để biết rằng cuộc đời này có rất nhiều những hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, để rồi biết yêu thương, trân trọng cuộc sống mình đang có. Với những hành động từ thiện của mình, bạn đã giúp những hoàn cảnh khó khăn, đáng thương vơi bớt phần nào sự khổ cực, mang đến niềm vui và cũng là niềm hy vọng cho họ vì cuộc đời con rất nhiều điều đáng quý vô cùng. Làm việc thiện cũng chính là tích đức cho bản thân, giúp cho bản thân có thêm nhiều niềm vui, ý nghĩa trong cuộc sống. Tham gia vào những công việc thiện nguyện, đặc biệt là khi bạn còn đến tận những nơi cần sự giúp đỡ, đó sẽ là hành trình với những trải nghiệm quý báu. Từ thiện với những vệc làm vì cộng đồng, gieo những mẫm xanh của sự đồng cảm, thương cảm với những số phận kém may mắn sẽ giúp cuộc đời này tươi đẹp hơn và cũng giúp cho nhận cách, đạo đức của con người hoàn thiện hơn. Bạn cũng sẽ được mọi người yêu quý hơn, được đánh giá là một con người có nhân cách tốt.
Assignment Our nation has an extremely deep and good tradition of solidarity and mutual love, knowing how to love fellow citizens, helping each other when needed, and living for each other. Charity and public benefit activities have become popular, helping to make this life more meaningful and practical. Charity is an act that demonstrates a profound humanitarian spirit. It is sharing, sympathy, wanting to help those in more difficult circumstances than ourselves. In today's era, more and more people join hands to contribute material wealth or spiritual values ​​to charity activities, making volunteer activities even more wonderful. Doing charity brings joy to the lives of others while also making your life more meaningful and richer. By doing charity, you will learn about many situations in life, know that this life has many situations that are less fortunate than you, and then learn to love and appreciate the life you have. With your charitable actions, you have helped difficult and pitiful situations alleviate some of their suffering, bringing joy and hope to them because there are many precious things in your life. together. Doing good deeds is also accumulating virtue for yourself, helping you have more joy and meaning in life. Participating in volunteer work, especially when you go to places that need help, will be a journey with valuable experiences. Being charitable with work for the community, sowing green seeds of empathy and sympathy for the less fortunate will help make this life more beautiful and also help perfect human behavior and morality. than. You will also be loved more by people and considered a person with good personality.
Bài làm “Công cha nghĩa mẹ sinh thành “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Hẳn ai trong cuộc đời cũng dành tình cảm trọn vẹn sự thủy chung, yêu thương cho hai đấng sinh thành của mình là cha và mẹ. Tình mẫu từ từ trước đến nay dường như đã được nói đến, nhắc đến rất nhiều, cả trong văn chương cũng như trong đời sống. Nói như vậy cũng không có nghĩa là tình phụ tử không bao la, cao cả như tình mẫu tử. Không, tình cảm ấy cũng thiêng liêng, đáng trân quý, chỉ là sự thể hiện tình cảm đối với con cái của một người đàn ông và một người đàn bà là thường có sự khác nhau. Tình phụ tử là tình cảm giữa cha và con, tình cảm ấy bền chặt và bao dung, theo mỗi con người đến hết cuộc đời. Nếu mẹ là người mà mỗi khi nhắc đến đều gợi cho ta cảm giác sự thân thương dịu dàng, bao dung thì tình cha lại nồng ấm một cách khác biệt. Mẹ là người chăm sóc ta nhiều hơn cha, sớm khuya lo lắng cho ta từ bữa ăn giấc ngủ thì cha với tầm nhìn cao và mạnh mẽ hơn, là trụ cột gia đình, bảo vệ mẹ, bảo vệ con, vất vả mưu sinh vì miếng cơm manh áo cho gia đình. Cha là một người sẽ nghiêm khắc hơn mẹ nhưng cũng chính là người dạy dỗ, làm nền tảng vững chắc về sự hình thành nhân cách của người con. Tình cảm của cha thường không bao giờ được nhẹ nhàng, âu yếm như của mẹ, nhưng nó cũng mãnh liệt, trọn vẹn và cũng vô cùng vững bền. Cha cũng như mẹ luôn luôn lo lắng cho con, khi có con, khi là người sinh con ra trên đời, cha mẹ hiểu rõ trách nhiệm cũng như tình cảm của mình. Con chính là nguồn sống của cha mẹ. Tuy nhiên khác với mẹ, tình cảm mẹ dành cho con được biểu lộ rất rõ ràng, nhưng còn với cha, nó rất thầm kín, ít khi được biểu lộ ra bên ngoài. Tôi vừa xem được một clip rất cảm động trên mạng nói về tình cảm của cha dành cho con. Rất cảm động, rất đời thường nhưng không phai đứa con nào cũng nhận ra những tình cảm cao thượng nơi cha: Bình thường cha là người rất ồn ào, nhưng lại là người rất lặng lẽ đúng thời điểm, đó là khi cha nhẹ nhàng mang nước cho con khi con học bài. Bình thường ba là người khá luộng thuộm và không chịu để ý ngoại hình nhưng ba lại chỉnh chu đến mức thái quá trong ngày trọng đại của con. Bình thường ba là người rất tính toán chi tiêu, ba cân nhắc suy nghĩ trước khi quyết định mua bán đồ vật gì trong nhà, nhưng với con, bà hào phóng, không tiếc con điều gì….Những khuyết điểm đáng yêu cùng với đó là những ưu điểm tuyệt vời của cha có thể có những đứa con dễ dàng cảm nhận được, nhưng cũng có thể là không. Hay trong các tác phẩm văn chương, cũng có nhiều tình cảm cha con vô cùng cảm động. Đó là câu chuyện cha con của ông Sáu trong tác phầm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Vì chiến tranh, ông Sáu phải xa nhà đi đánh trận từ khi con gái đầu lòng mới tròn một tuổi, tại nơi chiến khu ông chưa bao giờ ngơi nhớ thương về con gái và luôn mong mỏi có một ngày được trở về gặp con gái mình. Hay cũng trân quý và đáng thương cho tình cảm mà người cha như Lão Hạc dành cho con trai mình, ông đã bất chấp cả mạng sống của mình vì muốn giữ lại mảnh đất cho con trai… Những tình cảm đó đáng trân trọng vô cùng.
Assignment “The merit of the father and the honor of the mother was born "The father as a mountain Motherhood is like water flowing from a source." Surely everyone in life has complete loyalty and love for their two birth parents, father and mother. Motherhood seems to have been talked about and mentioned a lot, both in literature and in life. Saying so does not mean that fatherly love is not as vast and noble as motherly love. No, that feeling is also sacred and precious, it's just that the expression of affection for children between a man and a woman is often different. Fatherly love is the feeling between father and child, that feeling is strong and tolerant, following each person for the rest of their lives. If mother is the person who, every time she mentions it, evokes a feeling of love, gentleness, and tolerance, then father's love is warm in a different way. Mother is the one who takes care of us more than father, morning and night worrying about us from meals to sleep, while father has a higher and stronger vision, is the breadwinner of the family, protects mother, protects children, works hard to make a living. for food and clothing for the family. A father is a stricter person than a mother, but he is also the one who teaches and lays a solid foundation for the formation of the child's personality. A father's love is usually never as gentle and affectionate as a mother's, but it is also intense, complete and extremely stable. Fathers and mothers always worry about their children. When they have children, when they are the ones giving birth to them, parents clearly understand their responsibilities and feelings. Children are the source of life for parents. However, unlike the mother, the mother's love for her child is expressed very clearly, but with the father, it is very secret, rarely expressed externally. I just saw a very touching clip online about a father's love for his child. Very touching, very ordinary, but every child recognizes the noble feelings in his father: Normally, he is a very loud person, but he is a very quiet person at the right time, that is when he is gentle. Bring water for your child while he studies. Normally, Dad is quite a sloppy person and doesn't pay attention to his appearance, but he was overly meticulous on my big day. Normally, my dad is a very calculating person, he thinks carefully before deciding to buy or sell anything in the house, but with me, she is generous, not sparing me anything... Lovely flaws along with Those are the great advantages of a father that children can easily perceive, but maybe not. Or in literary works, there are also many extremely touching father-son relationships. That is the story of Mr. Sau's father and son in the work The Ivory Comb by Nguyen Quang Sang. Because of the war, Mr. Sau had to leave home to fight since his first daughter was just one year old. In the war zone, he never stopped missing his daughter and always longed for the day he could return to see her. me. Or also cherish and pity the feelings that a father like Lao Hac had for his son, he risked his life because he wanted to keep the land for his son... Those feelings are extremely respectful. .
Bài làm Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn có tấm lòng nhân hậu, lương thiện ông thường gắn bó đời mình với những người dân Nam Bộ, yêu nước, anh hùng, kiên cường, bất khuất. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được tác giả Nguyễn Quang Sáng sáng tác vào những năm mà cuộc chiến giữa nhân dân Miền Nam với đế quốc Mỹ đã lên cao mạnh mẽ. Miền Bắc nước ta lúc này đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa làm hậu phương vững chắc cho tuyền tuyến Miền Nam. Trong bối cảnh chiến tranh đó, tình cảm cha con được tác giả Nguyễn Quang Sáng phác họa lên vô cùng xúc động mãnh liệt, mạnh mẽ. Nhân vật ông Sáu sau tám năm chiến đấu xa nhà, khi được nghỉ phép về thăm lại gia đình, được gặp đứa con gái bé bỏng lòng ông vô cùng nao nao xúc động. Bởi khi ông ra đi nó vẫn còn hơn một tuổi, vì thế lần trở về lần này không tránh được những phút giây ngượng ngùng hồi hộp. Tình cảm cha thiêng liêng nên ngay từ khi nhìn thấy con ông Sáu đã gọi lớn rồi ôm chầm lấy con, nhưng đáp lại sự vồn vã của ông Sáu, bé Thu vô cùng lạnh lùng, nó tìm cách tránh cái ôm của ông Sáu và vào nhà gọi mẹ. Niềm vui của ông Sáu không kéo dài được bao lâu bởi những ngày sau đó bé Thu vẫn xa lánh ông không chịu nhận ông bằng ba, không gần gũi, bởi những vết sẹo trên gương mặt ông hoàn toàn khác với người ba mà nó thường nhìn thấy trong bức ảnh cưới của ba và mẹ. Ba ngày ở nhà ông Sau chẳng đi đâu xa chỉ muốn quanh quẩn gần gũi với đứa con nhỏ bé của mình, mong mỏi đón nhận tình cảm của con bé Thu. Những biểu hiện của nó thì lại vô cùng lạnh lùng, làm ông đau đớn xé lòng. Nó vừa ương ngạnh, vừa ngang bướng gai gốc, một chút lễ phép với ông cũng không có luôn. Khi má Thu bảo kêu ba vào ăn cơm thì nó chỉ chạy ra ngoài và nói cộc lốc, không có chủ ngữ kính ngữ cần có của một người nhỏ tuổi “Vô ăn cơm” “Cơm chín rồi”. Những lúc như vậy không Sáu bằng lòng bao dung của một người cha chỉ cười cười và khẽ gật đầu, nhưng ông rất buồn và khổ tâm khi con gái không nhìn nhận mình là ba. Ông Sáu tuy buồn vì sự ương ngạnh của bé Thu nhưng chưa lúc nào ông thôi chăm sóc cho con, thôi vun vén tình cảm cha con với con bé, vì thương con nên trong bữa ăn ông mới gắp cho con bé miếng trứng cá to nhất, thơm ngon nhưng đáp lại hành động yêu thương của ba, con bé Thu hất tay làm cho miếng trứng cá rơi xuống đất. Vì giận dữ trước thái độ ngang ngạnh của con ông Sáu có đánh con vài cái, nhưng trong trái tim ông cũng đau rất nhiều. Con bé không khóc mà bơi thuyền sang nhà bà ngoại chơi và tối đó nó không về nhà mà ngủ với ngoại. Đêm đó, nghe bà ngoại nói về những chiến công của ba nó, nguyên nhân của những vết sẹo trên mặt ba nó bé Thu đã khóc. Rồi ba ngày nghỉ phép của ông Sáu cũng hết, giây phút ông Sáu phải lên đường cũng tới. Trong giây phút thiêng liêng ấy tiếng gọi Ba vỡ òa. Bé Thu nức nở ôm lấy ba mình nói ” Không cho Ba đi, ba phải ở nhà với con” Con bé đã trút bỏ sự gai góc nganh ngạnh của mình để làm một đứa trẻ đúng nghĩa một đứa trẻ cần tình yêu thương của một người cha. Vào trong chiến trường, ông Sáu không có lúc nào thôi thương nhớ con mình, vì lời hứa trước lúc lên đường còn gái có dặn “ba nhớ mua cho con chiếc lược nghe ba”. Nên sau những giờ phút đánh trận căng thẳng ông Sáu đều ngồi làm chiếc lược ngà cho con. Ông tỉ mỉ khắc từng chiếc răng lược, rồi khắc lên đó dòng chữ yêu thương. Một lần ông Sáu bị thương rất nặng biết mình không thể qua khỏi ông Sáu đã lấy chiếc lược ngà trao cho ông Quang người đồng đội của mình nhờ đồng đội trao tận tay con gái.
Assignment Writer Nguyen Quang Sang is a writer with a kind and honest heart. He often associates his life with the people of the South, who are patriotic, heroic, resilient, and indomitable. The short story "The Ivory Comb" was composed by author Nguyen Quang Sang in the years when the war between the people of the South and the American empire was at a strong height. The North of our country is currently in the period of socialist construction as a solid rear for the Southern line. In that war context, the father-son relationship outlined by author Nguyen Quang Sang was extremely emotional and strong. The character Mr. Sau, after eight years of fighting away from home, when he was on leave to visit his family, met his little daughter and was deeply moved. Because when he left, it was still more than a year old, so this return could not avoid awkward and nervous moments. A father's love is sacred, so as soon as he saw his son, Mr. Sau called out and hugged him, but in response to Mr. Sau's rush, little Thu was extremely cold, she tried to avoid Mr. Sau's hug and Go into the house and call your mother. Mr. Sau's joy did not last long because in the following days little Thu still shunned him, refusing to recognize him as her father, not close to him, because the scars on his face were completely different from the father she used to be. seen in mom and dad's wedding photo. Three days at Mr. Sau's house, he didn't go anywhere far, just wanted to stay close to his little child, hoping to receive Thu's love. Its expressions were extremely cold, causing him pain and tearing his heart. It was both stubborn and stubborn, and there was not even a bit of politeness towards him. When Thu's mother told her father to come in to eat, she just ran out and said curtly, without the honorific subject needed by a young person: "Come in to eat" "The rice is cooked". At times like these, Sau is not satisfied with the tolerance of a father who just smiles and nods slightly, but he is very sad and heartbroken when his daughter does not recognize him as her father. Although Mr. Sau was sad because of Thu's stubbornness, he never stopped taking care of her, nurturing the father-daughter relationship with her. Because he loved her, he gave her a big piece of fish roe during meals. Most delicious, but in response to her father's loving action, little Thu waved her hand, causing the fish roe to fall to the ground. Out of anger at his son's stubborn attitude, Mr. Sau hit him a few times, but his heart also hurt a lot. The girl didn't cry but sailed to her grandmother's house to play, and that night she didn't come home but slept with her grandmother. That night, listening to her grandmother talk about her father's victories and the cause of the scars on her father's face, little Thu cried. Then Mr. Sau's three days of leave ended, and the moment for Mr. Sau to leave came. In that sacred moment, Dad's call broke out. Baby Thu sobbed and hugged her father and said, "Don't let me go, you have to stay home with me." She let go of her stubbornness to become a true child, a child in need of a father's love. On the battlefield, Mr. Sau never stopped missing his son, because of the promise he made before leaving, his daughter told her, "Dad, remember to buy me a comb." So after hours of intense fighting, Mr. Sau would sit and make an ivory comb for his son. He meticulously carved each tooth of the comb, then engraved on it the words of love. One time, Mr. Sau was seriously injured and knew he could not survive. Mr. Sau took the ivory comb and gave it to his teammate Mr. Quang, who asked his teammate to hand it to his daughter.
Bài làm Tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” là một truyện ngắn vô cùng cảm động của một nhà văn nổi tiếng nước Mỹ, ông O hen ri. Truyện ngắn đề cao lòng nhân ái, tấm lòng cao cả của những người họa sĩ nghèo cô đơn, nhưng có tình yêu con người vô cùng bao la, có thể mang lại niềm tin cho con người vào cuộc sống. Chính cụ già Bơ men là một nhân vật như vậy, ông có khả năng truyền thụ niềm tin tình yêu cuộc sống cho cô gái nhỏ Giôn-xi khốn khổ, bệnh tật và nghèo khó. Truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” viết về hai người họa sĩ trẻ Giôn xi và Xiu họ cùng có chung một ước mơ chính là tình yêu với nghệ thuật. Họ thuê chung một căn hộ ở tầng thượng của một ngôi nhà cũ kỹ làm xưởng vẽ. Trong cùng ngôi nhà có một ông họa sĩ già, đó chính là cụ Bơ men ông cụ luôn mơ ước mình sẽ sáng tác được một bức tranh để đời. Một tác phẩm nghệ thuật thật sự, nhưng năm nay ông cụ hơn sáu mươi tuổi đó vẫn chưa làm được điều đó. Cuộc sống mưu sinh khiến ông phải làm thêm rất nhiều nghề kiếm sống trong đó có việc ngồi làm mẫu vẽ cho những sinh viên trường mỹ thuật khiến mấy đô la mỗi giờ. Mùa đông năm đó, mưa lạnh tuyết rơi suốt, Giôn- xi mắc bệnh viêm phổi, nhưng không có tiền để chữa trị triệt để nên bệnh tình cứ tái phát mãi. Thời đó, căn bệnh này khiến nhiều người thiệt mạng, cho nên Giôn-xi đã buông bỏ hy vọng sống của mình. Cô thường nghĩ tới cái chết, mỗi ngày Giôn- xi ngồi trên giường bệnh và ngồi đếm những chiếc lá thường xuyên qua cửa sổ. Cô thường nói với Xiu người bạn cùng phòng của mình rằng, khi nào chiếc lá thường xuân cuối cùng trên cây rơi xuống thì cũng là lúc mà cô sẽ chết. Dường như Giôn- xi đã quá tuyệt vọng cô không có niềm tin nào để có thể dựa vào bám víu, lúc nào cô gái trẻ ấy cũng có cảm giác cái chết đang đến rất gần mình. Các bác sĩ cũng nói rằng bệnh của Giôn-xi hết thuốc chữa, nếu như người bệnh không muốn điều trị, không thiết tha cuộc sống. Nhân vật Xiu là người khá tốt bụng cô rất thương Giôn xi và thường xuyên khuyên nhủ bạn mình, nhưng mọi lời nói của Xiu đều không hiệu quả, Giôn- xi vẫn sống trong tuyệt vọng và chờ đợi cái chết sẽ tới với mình. Xiu khá giận Giôn- xi về việc cô thường xuyên đếm những chiếc lá và chờ đợi ngày ra đi của mình. Có lần Xiu đã tâm sự chuyện này với ông cụ Bơ men người đàn ông cùng đam mê hội họa sống chung một nhà với mình. Ông lão nghèo, sống cô độc một mình trong một phòng gần phòng của Giôn-xi và Xiu ở. Ông cụ luôn muốn sáng tác một tác phẩm tuyệt vời nhưng suốt hơn bốn mươi năm cầm cọ vẽ ông vẫn chưa sáng tác được một tác phẩm nghệ thuật nào đúng nghĩa. Người nghệ sĩ khốn khổ ấy chưa bao giờ hết mơ ước về một bức tranh tuyệt tác, một bức tranh để đời mang lại tên tuổi cho ông ngay cả khi ông đã ra đi từ bỏ cuộc sống này. Bình thường ông Bơ men ít khi tươi tỉnh, với người khác cuộc sống có quá nhiều điều cần phải suy nghĩ, khiến cho ông thường xuyên cau có, ít tươi cười niềm nở. Nhưng khi nghe Xiu tâm sự về sự việc của Giôn-xi lòng ông lão lại trỗi dậy một tình yêu thương vô hạn. Những chiếc lá thường xuân chính là niềm tin về sự sống cho cô gái nhỏ Giôn- xi khốn khổ, Chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân bám trên bức tường gạch không bao giờ rụng sẽ làm niềm tin của Giôn-xi sống lại. Sau một đêm mưa gió, bão tuyết tơi tả vùi dập phũ phàng những chiếc lá trên cây. Giôn-xi nghĩ chắc chắn chiếc lá cuối cùng cũng đã rơi xuống. Nhưng khi thức dậy Giôn-xi vô cùng ngạc nhiên chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó. Cô cảm thấy niềm vui trở lại, cô bắt đầu hy vọng nhiều hơn, hy vọng mình sẽ không chết. Mình sẽ như chiếc lá kia kiên cường sống tiếp với cuộc đời nhiều sóng gió. Niềm tin đã được nhen nhóm thắp lên trong tâm hồn cô gái trẻ tội nghiệp của chúng ta. Chính kiệt tác Chiếc lá cuối cùng của cụ Bơ men đã cứu sống Giôn- xi tội nghiệp. Cuối cùng thì Giôn-xi cũng khỏi bệnh mùa đông, rồi tới mùa xuân căn bệnh viêm phổi của Giôn-xi càng ngày càng thuyên giảm. Cho tới một ngày cô tới gần cửa sổ nhìn thật kỹ chiếc lá thường xuân kiêu hãnh, kiên cường kia thì cô mới phát hiện ra nó chỉ là một bức tranh mà thôi. Bức tranh ấy đó chính là kiệt tác của cụ Bơ men đã vẽ tặng cho Giôn- xi khi chiếc lá cuối cùng trên cây rơi xuống. Sáng hôm sau, cụ Bơ men đã ra đi mãi mãi bởi bị nhiễm lạnh sau một đêm đứng ngoài mưa tuyết, gió bão.
Assignment The work "The Last Leaf" is an extremely touching short story by a famous American writer, Mr. O henri. The short story highlights the kindness and noble heart of poor, lonely artists who have an immense love for humanity that can bring people faith in life. Old man Bo Men himself is such a character, he has the ability to impart faith and love of life to the miserable, sick and poor little girl Jonah. The short story "The Last Leaf" is written about two young artists, Jon Xi and Xiu, who share the same dream, a love for art. They rented an apartment together on the top floor of an old house as a studio. In the same house there was an old artist, Mr. Bo Men, who always dreamed of creating a painting that would last a lifetime. A true work of art, but this year the over sixty year old man still hasn't been able to do it. His livelihood forced him to do many other jobs to make a living, including working as a model for art school students, earning a few dollars per hour. That winter, with cold rain and snow falling all the time, Jonah contracted pneumonia, but there was no money to thoroughly treat it, so his illness kept recurring. At that time, this disease killed many people, so Jonah gave up hope of living. She often thought about death, every day Jonah sat on the hospital bed and counted the leaves often through the window. She often told her roommate Xiu that when the last ivy leaf falls from the tree, she will die. It seemed that Jonah was so desperate that she had no faith to rely on. All the time the young girl felt like death was coming very close to her. Doctors also said that Jonah's disease had no cure, if the patient did not want treatment and did not desire life. The character Xiu is quite a kind person. She loves Joni very much and often advises her friend, but all Xiu's words are ineffective, Joni still lives in despair and waits for death to come to her. Xiu is quite angry with Jonah because she often counts leaves and waits for her departure. Xiu once confided this story to Mr. Bo Men, a man with the same passion for painting who lived in the same house as him. The old man was poor, living alone in a room near the room where Jonah and Xiu lived. The old man always wanted to create a great work, but in more than forty years of holding a paintbrush, he still could not create a true work of art. That miserable artist never stopped dreaming of a masterpiece painting, a lifelong painting that would bring him fame even after he passed away from this life. Normally, Mr. Bo Men is rarely cheerful. For others, life has too many things to think about, causing him to often frown and rarely smile warmly. But when he heard Xiu confide about Jonah's incident, the old man's heart awoke with infinite love. The ivy leaves are the belief in life for the poor little girl Jonah. The last leaf of the ivy tree clinging to the brick wall that will never fall will revive Jonah's faith. After a rainy and windy night, a raging snowstorm severely battered the leaves on the trees. Jonah thought for sure the last leaf had fallen. But when Jonah woke up, he was extremely surprised that the last leaf was still there. She felt joy return, she began to hope more, hoping she wouldn't die. I will be like that leaf, resiliently living through a turbulent life. Faith has been rekindled in the soul of our poor young girl. It was Bo Men's masterpiece The Last Leaf that saved poor Jonah's life. Finally, Jonah recovered from the winter illness, and then in the spring, Jonah's pneumonia gradually improved. It wasn't until one day when she approached the window and looked closely at that proud, resilient ivy leaf that she discovered it was just a painting. That picture is the masterpiece that Mr. Bemen drew as a gift to Jonah when the last leaf on the tree fell. The next morning, Mr. Bo Men passed away forever because he was cold after a night of standing outside in the rain, snow, and wind.
Bài làm Nhà vă O-hen-ri là một nhà văn nổi tiếng của đất nước Mỹ, ông có nhiều sáng tác thu hút và gây được tiếng vang lớn với người đọc. Tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” là một tác phẩm có sức hút vô cùng lớn với người đọc thể hiện khát vọng hướng tới những điều tốt đẹp, hoàn mỹ trong cuộc sống của tác giả một cách vô cùng mãnh liệt cháy bỏng. Hình ảnh “Chiếc lá cuối cùng” trong kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già Bơ Men đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc động. Nó là một kiệt tác giàu tính nhân văn, cao cả, tính nghệ thuật sâu sắc. Hình ảnh “Chiếc lá cuối cùng” xoay quanh những số phận họa sĩ nghèo cùng sống chung trong một ngôi nhà trọ. Hai cô họa sĩ trẻ mới vào trường mỹ thuật tên là Giôn xi và Xiu, cùng ông họa sĩ già tên Bơ men. Không may, Giôn xi mắc bệnh viêm phổi cô luôn có cảm giác rằng mình sắp chết. Năm đó mùa đông vô cùng lạnh lẽo, tuyết rơi phủ trắng đường, những trận bão tuyết làm cho căn bệnh của Giôn xi càng nên nặng hơn. Cuộc sống của ba người họ vô cùng buồn bã, nó diễn ra lặp đi lặp lại mỗi ngày tẻ nhạt, xung quanh ngôi nhà họ ở có một cái cây, và những bụi dây leo quanh. Chiếc lá trên những cánh thường xuyên kia được tượng trưng cho số phận của cô gái xấu số Giôn xi, bởi cô cho rằng khi nào chiếc lá cuối cùng rơi xuống thì lúc đó cô cũng sẽ chết. Giôn xi hoàn toàn tuyệt vọng vào cuộc sống, và cô giá Giôn xi này phó mặc đời mình vào những chiếc lá. Cả ba người họ đều là nghệ sĩ, chính là những người đi tìm niềm vui trong cái đẹp, luôn hướng tới cái đẹp và vì cái đẹp mà hoàn thiện bản thân mình tới sự chân-thiện-mỹ. Ông cụ Bơ men là người sống vì nghệ thuật, ông luôn mơ ước mình có thể vẽ được một tác phẩm để đời, một kiệt tác mà người đời sau phải trầm trồ ngưỡng mộ. Nhưng vì cuộc sống mưu sinh để kiếm vào đô la một giờ ông cụ buộc lòng phải ngồi làm mẫu vẽ cho những sinh viên trường mỹ thuật. Chính vì vậy, ước mơ về một tác phẩm để đời của ông vẫn chưa thực hiện được. Ông cụ Bơ men thường thương cho Giôn xi khi cô tuyệt vọng ngồi đếm những chiếc lá rơi rồi lo lắng khi những chiếc lá còn lại trên cây ngày càng ít đi. Chính nhờ tình thương với cô gái trẻ này mà ông cụ Bơ men đã sáng tác ra một bức tranh kiệt xuất đó chính là bức tranh chiếc lá cuối cùng, bởi ông biết nó có ý nghĩa vô cùng to lớn với cô gái Giôn xi tội nghiệp của chúng ta. Có thể nói rằng bức tranh Chiếc lá cuối cùng vừa bắt đầu cho một cuộc sống mới vừa kết thúc một đời người. Bức tranh chiếc lá cuối cùng của ông lão Bơ men chính là điểm nhấn là tia sáng của toàn bộ tác phẩm này. Nó là cho câu chuyện rẽ sang một hướng khác, thể hiện sự đồng cảm nhân văn của tác giả. Bức tranh chiếc lá cuối cùng là biểu tượng giàu tính giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng giàu giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc. Khi chúng ta xét về phương diện nghệ thuật có thể thấy rằng đây chính là một bức tranh vô cùng xuất sắc của ngành mỹ thuật, khi ông Bơ men vẽ thành công bức tranh mà Giôn xi một sinh viên trường mỹ thuật nhìn chiếc lá trên cái cây ấy hoàn toàn không phát hiện ra nó chỉ là một bức tranh được vẽ nên. Vậy thì bức tranh đó phải vô cùng xuất sắc giống y như thật. Chính bức tranh kiệt tác này tạo nên điểm nhấn cho toàn bộ tác phẩm, nó thể hiện sự tài hoa, sâu sắc tinh tế của nhà văn O hen ru, dẫn dắt người đọc sang một lối rẽ khác của câu chuyện. Kiệt tác bức tranh chiếc lá cuối cùng của ông lão Bơ men đã giúp cho nhân vật Giôn xi có hy vọng vào cuộc sống, có ý chí chiến đấu với bệnh tật mà không buông bỏ mạng sống của mình. Bức tranh Chiếc lá cuối cùng được ông lão Bơ men vẽ trong một đêm mưa gió, một đêm mà những chiếc lá thường xuân đã rụng hết rồi. Và bức tranh của ông kịp thời cứu sống một linh hồn. Nhưng vì muốn kéo dài sự sống cho cô gái Giôn xi mà ông cụ Bơ men đã sinh bệnh rồi qua đời vào sáng hôm sau vì lạnh cóng. Một sự hy sinh vô cùng cao đẹp của một con người có trái tim nhân hậu ấm áp.
Assignment Writer Ohenri is a famous American writer, he has many works that attract and resonate with readers. The work "The Last Leaf" is a work that has great appeal to readers, expressing the author's desire for good and perfect things in life in an extremely intense and passionate way. The image "The Last Leaf" in the last masterpiece of the old artist Bo Men has left readers with many emotions. It is a masterpiece rich in humanity, nobility, and profound artistry. The image "The Last Leaf" revolves around the fate of poor artists living together in a boarding house. Two young artists just entering the art school named Jon Xi and Xiu, and an old artist named Bo Men. Unfortunately, Jonah contracted pneumonia and she always felt like she was about to die. That year the winter was extremely cold, snow covered the roads, and blizzards made Jonah's illness even worse. The lives of the three of them were extremely sad, it happened over and over again every boring day, around the house they lived in there was a tree, and vines all around. The leaves on the regular petals symbolize the fate of the unfortunate girl Jonah, because she believes that when the last leaf falls, she will die. Jonah completely despaired of life, and this young Jonah left his life to the leaves. All three of them are artists, people who seek joy in beauty, always aim for beauty and for beauty to perfect themselves to truth, goodness and beauty. Mr. Bo Men was a man who lived for art. He always dreamed of being able to paint a work of a lifetime, a masterpiece that future generations would admire. But because of his livelihood, he was forced to work as a model for art school students. Therefore, his dream of a lifetime work has not yet been realized. Mr. Bo Men often felt sorry for Jonah when she desperately counted the fallen leaves and then worried when there were fewer and fewer leaves left on the tree. It was thanks to his love for this young girl that Mr. Bo Men created an outstanding painting, the last leaf, because he knew it had great meaning to the girl Jonah. our karma. It can be said that the painting The Last Leaf both begins a new life and ends a human life. The painting of the last leaf by old man Bo Men is the highlight and ray of light of this entire work. It is for the story to turn in a different direction, showing the author's humanistic sympathy. The last leaf painting is a symbol rich in artistic value, and at the same time rich in profound humanistic values. When we consider the artistic aspect, we can see that this is an extremely excellent painting of the fine arts industry, when Mr. Bo Men successfully painted the picture of Jonah, an art student, looking at the leaf above. That tree was completely unaware that it was just a painted picture. Then that painting must be extremely excellent and look exactly like the real thing. It is this masterpiece painting that creates the highlight of the entire work, it shows the talent, profound sophistication of the writer O hen ru, leading the reader to another turn of the story. The masterpiece of the last leaf painting by old man Bo Men helped the character Jonah have hope in life and the will to fight his illness without giving up his life. The painting The Last Leaf was painted by old man Bo Men on a rainy and windy night, a night when all the ivy leaves had fallen. And his painting promptly saved a soul. But because he wanted to prolong the life of the girl Jonah, Mr. Bo Men fell ill and died the next morning from freezing. An extremely beautiful sacrifice of a person with a warm, kind heart.
Bài làm Việc học luôn luôn được đánh giá là một trong những điều quan trọng cho nên trong kho tàng văn học dân gian ta có rất nhiều câu tục ngữ mang tính giáo dục sâu sắc. Một trong những câu tục ngữ đó là câu rất ý nghĩa đó chính là “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Đầu tiên ta cũng phải hiểu được rằng câu nói của ông cha ta như muốn nhắn nhủ điều gì? Qủa thật “Một ngày” so với một năm là ngắn ngủi biết bao nhiêu. Ta như thấy được “một ngày” trong một đời người trăm năm là vô cùng cực ngắn. Khi mà con người “đi một ngày đàng” đối với khách bộ hành thì quãng đường đi được có đáng là bao? Thế nhưng các bậc tiền nhân xưa lại như cũng đã khẳng định là “học một sàng khôn”. Và từ “khôn” là điều hay, điều tốt, và đó cũng chính là cái mới mẻ rất bổ ích đối với mọi người để mở mang trí tuệ, để có thể mà trau dồi nhân cách. Còn với từ “Sàng” là công cụ lao động đã được khéo léo đan bằng tre, nứa của nhà nông dùng để sàng gạo. Còn khi nói “Sàng khôn” là biểu tượng chỉ khối lượng kiến thức rất lớn được thu lại chho mỗi người. Tóm lại ta như thấy được câu tục ngữ có ý muốn nói và khuyên nhủ mọi người đó chính là hãy đi những nơi khác, hãy mở rộng tầm mắt để có thể học được nhiều điều hơn trong chính cuộc sống của mỗi chúng ta. Lý thuyết trong sách vở không bao giờ đa dạng bằng thực tiễn cuộc sóng. Có lẽ cũng chính vì thế nên chúng ta hãy học mọi lúc mọi nơi, nhất là đến những vùng đất mới nào đó, bởi ở đó có rất nhiều điều lý thú mà ta có thể học hỏi được. Và chúng ta sao lại có thể nói được rằng “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”? Qủa thật ta như tháy được chính câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là hoàn toàn đúng! Khi con người chúng ta khi được học ở trường lớp, học trong sách vở, học thầy học bạn. Chúng ta dường như cũng đã còn cần phải biết học hỏi trong thực tế cuộc sống rộng lớn của xã hội Nhân dân là ông thầy vĩ đại của mỗi chúng ta. Ta cũng nên biết được rằng chính trong học tập trong thực tế cuộc sống là phương thức học tập khoa học nhất: học đi đôi với hành. Thực sự rằng học tập gắn liền với lao động sản xuất, hoạt động xã hội. Nếu như mỗi người học sinh lại như chỉ biết quanh quẩn trong bốn bức tường lớp học, cách học tập như thế đã xa rời cuộc sống. Thực sự rằng mỗi học sinh bước vào đời sẽ lúng túng, thiếu năng động. Ta như biết được các không thể xa rời nước, chim không thể thoát ly bầu trời, người đi học cũng vậy, học tập cũng không thể tách rời thực tế cuộc sống muôn màu muôn vẻ của xã hội này được. Khi mỗi chúng ta mà biết để mà mở rộng biết nhiều, “đi một ngày đàng” tầm mắt được mở rộng, thấy được bao cảnh lạ,được chứng kiến tận mắt và được tiếp xúc được nhiều người, nghe được bao điều hay lẽ phải của thiên hạ. Và cũng chính từ đó mà biết suy xét và biết được nên xa lánh điều xấu kẻ xấu, học tập cái hay, noi gương người tốt việc tốt; “học một sàng khôn” là như vậy. “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” quả thật là lời dạy đúng đắn, hay nói cách khác đó chính là cách học tập và giáo dục kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình – nhà trường – xã hội. Ta như nhận thấy được rằng chính những kiến thức sách vở được củng cố khắc sâu. Thông qua đó ta như thấy được chính những sự hiểu biết được mở rộng và nâng cao. Có thể thấy được cùng với trang sách họ đường, ta có thêm pho sách cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Thế rồi không thể không kể đến được những hoạt động của thầy và trò như ngoại khóa, cắm trại, đi tham quan là rất bổ ích. Nó dường như cũng đã đem lại nhiều sinh khí cho trường học. Học sinh thành phố dường như đã được đến với đồng quê, nhà máy, danh lam thắng cảnh… mà yêu thêm nhân dân lao động. Và thấu hiểu được những cơ cực của người nông dân là các em nghe được những ngôn từ hoa mỹ trên lớp mà không gắn vào thực tế. Khi đi nhiều được hiểu nhiều hơn ta như thấy được sự tự hào với nhân dân đất nước.
Assignment Learning is always considered one of the important things, so in our folk literature treasury there are many proverbs with profound educational properties. One of those proverbs is a very meaningful one: "Travel a day's journey, learn a sieve of wisdom". First, we must understand what our ancestors' words seem to convey? Truly, “One day” is so short compared to one year. We can see that "one day" in a human life of a hundred years is extremely short. When people "walk a day's journey" compared to pedestrians, what is the distance traveled? However, the ancient ancestors also affirmed that "learning is wise". And the word "wise" is a good thing, a good thing, and it is also a very useful new thing for everyone to expand their intelligence, to be able to cultivate their personality. As for the word "Sifter", it means a labor tool skillfully woven from bamboo used by farmers to sift rice. When saying "Sift of wisdom" it is a symbol of the huge amount of knowledge that is collected for each person. In short, we can see what the proverb wants to say and advise people: go to other places, open your eyes to be able to learn more things in each of our lives. Theory in books is never as diverse as real life. Maybe that's why we should study anytime, anywhere, especially when we go to new lands, because there are many interesting things that we can learn. And how can we say, "Traveling a day's journey, learning a sieve of wisdom"? Indeed, we can see that the proverb "One day's journey leads to one sieve of wisdom" is completely true! As humans, we learn in school, learn from books, learn from teachers and friends. We still need to know how to learn from the vast reality of society. People are the great teachers of each of us. We should also know that learning in real life is the most scientific way of learning: learning with practice. It is true that learning is closely linked to productive labor and social activities. If every student seems to only know how to hang around within the four classroom walls, that way of learning is far removed from life. In fact, every student entering life will be confused and lacking in dynamism. We know that animals cannot be separated from water, birds cannot be separated from the sky, neither can people who go to school, nor can learning be separated from the reality of the colorful life of this society. When each of us knows to expand our knowledge, "travel a day" our eyes are wide open, we see many strange scenes, witness with our own eyes and come into contact with many people, hear many interesting things. right of the world. And from there, we know how to consider and know that we should stay away from bad things and bad things, learn from good things, and follow the example of good people and good deeds; "Learning wisely" is like that. "Walk a long way, learn a sieve" is truly a correct teaching, or in other words, it is a way of learning and education that closely combines three environments: family - school - society. We can see that it is the book knowledge that is deeply reinforced. Through that, we can see that our understanding is expanded and enhanced. It can be seen that along with the Tang family books, we have more colorful books of life. Then it is impossible not to mention that the activities of teachers and students such as extracurriculars, camping, and sightseeing are very useful. It also seems to have brought a lot of vitality to the school. City students seem to have been able to visit the countryside, factories, scenic spots... and love the working people more. And understanding the hardships of farmers means they hear flowery words in class that are not connected to reality. When we travel more, we understand more and feel pride in the people of our country.
Bài làm Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có triết lý sống vô cùng sâu sắc, mỗi tác phẩm của nhà văn đều có một triết lý nhân văn sâu sắc. Truyện ngắn “Bến quê” là một truyện ngắn thể hiện triết lý sống sâu sắc, suy ngẫm của nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh. Tác phẩm ghi lại những gì mắt thấy tai nghe những suy nghĩ của Nhĩ chính là những suy nghĩ của tác giả Nguyễn Minh Châu. Những ngày còn trẻ Nhĩ đi nhiều nơi, không nơi nào hắn chưa đặt chân tới. Nhĩ thường làm khổ vợ con, nhưng những ngày cuối đời Nhĩ được vợ chăm sóc rất chu đáo, thể hiện tình nghĩa vợ chồng. Nhĩ đã nhận ra mình đã bỏ qua chân lý sâu sắc của cuộc đời. Qua những tình huống của truyện ngắn tác giả Nguyễn Minh Châu nói lên những triết lý sống về cuộc đời về cách sống trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người, phải nâng niu vẻ đẹp của quê hương. Nhân vật Nhĩ là người từng đi nhiều nơi trên thế giới nhưng chính bến quê ở gần nhà Nhĩ lại chưa từng đặt chân tới. Trong những ngày cuối đời mắc bệnh nằm liệt giường Nhĩ nhìn thấy bến quê của mình một bức tranh xanh tốt, Nhĩ thấy vô cùng tươi đẹp chưa từng đặt chân tới bao giờ. Qua những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ tác giả Nguyễn Minh Châu còn mang tới cho người đọc một triết lý sống vô cùng sâu sắc “Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình” Trong những ngày cuối đời khi sắp từ giã cuộc đời, Nhĩ nhận ra những vẻ đẹp mà trước đây dù có đi nhiều nơi trên thế giới anh chưa từng đặt chân tới bãi bồi cạnh nhà, Nhĩ muốn tới đó nhưng không được bởi anh giờ đang sống cảnh tàn phế. Người vợ trước khi anh bỏ bên ít quan tâm chăm sóc đã tận tình chu đáo lo cho Nhĩ những ngày cuối đời.Nhĩ nhận ra tình cảm ấm áp vợ chồng mà bấy lâu nay không nhận ra. Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của quê hương vô cùng gần gũi, bằng những cảm xúc sâu sắc tinh tế, những chùm hoa thưa thớt nhưng lại đậm sắc, mặt sông Hồng mênh mông rộng lớn, một khung cảnh quê hương yên bình một bức tranh xanh tươi đẹp chưa từng có. Nhĩ muốn được tới đó một lần được ngắm nhìn tận mắt hình ảnh bãi bồi xanh tươi đó. Những cảnh sắc quê hương vốn gần gũi giản dị nay trở nên mới mẻ sinh động chưa từng có. Nhân vật Nhĩ khát khao được đặt chân lên bãi bồi đó một lần trong đời nhưng mơ ước giản dị đó Nhĩ không thực hiện được. Không còn cách nào khác Nhĩ phải nhờ người con trai mới hơn chục tuổi của mình đi giúp rồi về miêu tả lại chi tiết cảnh vật bãi bồi cho Nhĩ nghe. Nhưng thằng bé trên đường thực hiện lời cha dặn đã mải chơi, mê chơi cờ đá gà để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày để sang bên kia sông, khi trở về nhà nó đã kể lại cho cha nghe những gì đã xảy ra khiến nó không hoàn thành nhiệm vụ cha giao cho mình. Chính trong lúc đó Nhĩ đã nói ra câu nói thể hiện triết lý sống, cái nhìn nhân sinh của tác giả trong truyện ngắn “Bến quê” vô cùng sâu sắc. Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ về triết lý sống của cuộc đời thể hiện hết sức cụ thể, sâu sắc thể hiện qua tình cảm vợ chồng, qua sự việc con trai bị những cám dỗ mua chuộc, mà quên đi lời cha dặn dò, qua chính cuộc đời của nhân vật. Trong cái nhìn của người bệnh sống những ngày cuối đời mình cảnh vật xung quanh hiện ra vô cùng tươi đẹp. Nó đáng yêu một cách kỳ lạ bởi tâm hồn ham sống, muốn hướng tới cái đẹp của con người là không bao giờ tàn lụi. Những ngày cuối đời giúp nhân vật Nhĩ nhìn ra người vợ gầy guộc đầy tình nghĩa của mình chính là nơi yêu thương chăm sóc cho mình những ngày cuối đời là người chia sẻ những đau khổ với anh. Trong phần kết thúc của truyện ngắn tác giả Nguyễn Minh Châu đã tập trung miêu tả chân dung và của Nhĩ với những hình ảnh vô cùng khác thường, anh cố gắng lấy hết sức lực cuối cùng của mình nhò người ra ngoài cửa sổ tay vẫy vẫy chỉ người con trai hãy đi đi.
Assignment Writer Nguyen Minh Chau is a writer with an extremely profound philosophy of life, each of his works has a profound humanistic philosophy. The short story "Countryside Harbor" is a short story expressing the profound life philosophy and contemplation of the character Nhi in the last days of his life lying on his hospital bed. The work records what Nhi saw and heard, and Nhi's thoughts are the thoughts of author Nguyen Minh Chau. When he was young, Nhi went to many places, there was no place he had not been to. Nhi often made his wife and children suffer, but in the last days of his life, Nhi was very well taken care of by his wife, showing love between husband and wife. Nhi realized that he had overlooked the profound truth of life. Through the situations of the short story, author Nguyen Minh Chau speaks out his philosophies about life, about how to live appreciating the beauty of the human soul, and cherishing the beauty of the homeland. The character Nhi is someone who has traveled to many places around the world, but the hometown near Nhi's house has never been to. During the last days of his life, when he was bedridden, Nhi saw his hometown as a lush green picture. Nhi felt extremely beautiful like he had never been to before. Through the thoughts of the character Nhi, author Nguyen Minh Chau also brings readers an extremely profound philosophy of life: "It is difficult for people to avoid winding or winding things on their life path." In the last days of his life, when he was about to leave his life, Nhi realized the beauty that even though he had traveled to many places in the world before, he had never set foot on the mudflat next to his house. Nhi wanted to go there but could not because he was now are living with disability. The wife who paid little attention to him before he left her was attentive and thoughtful in taking care of Nhi in the last days of her life. Nhi realized the warm love between husband and wife that he had not realized for a long time. Nhi realized that the beauty of his homeland was extremely close, with deep and delicate emotions, the sparse but bold flower clusters, the vast expanse of the Red River, a peaceful hometown scene like a painting. Green and beautiful like never before. Nhi wants to go there once to see with her own eyes the image of that green mudflat. The hometown landscapes, which were once close and simple, have now become new and vivid like never before. The character Nhi longs to set foot on that mudflat once in his life, but that simple dream Nhi cannot fulfill. Nhi had no other choice but to ask her son, who was just over ten years old, to help her and then return to describe the mudflat scene in detail to Nhi. But on the way to carry out his father's instructions, he was so busy playing cockfighting that he missed the only ferry of the day to the other side of the river. When he returned home, he told his father what had happened. causing him to not complete the task his father assigned him. It was at that moment that Nhi said a sentence that expressed the author's philosophy of life and outlook on life in the extremely profound short story "Countryside Harbor". The character Nhi's thoughts about life's philosophy are expressed very specifically and deeply through the love between husband and wife, through the fact that his son was bribed by temptations, and forgot his father's instructions. , through the character's own life. In the eyes of a patient living the last days of his life, the surrounding landscape appears extremely beautiful. It is strangely lovely because the human soul that wants to live and strive for beauty will never die. The last days of his life help the character Nhi see that his skinny and devoted wife is the one who loves and cares for him in his last days, the one who shares his sufferings. In the ending part of the short story, author Nguyen Minh Chau focused on describing Nhi's portrait with extremely unusual images. He tried to use all his last strength to lean out the window and wave his hand. waving to the boy to go.
Bài làm Nhà văn Kim Lân là người gắn liền với đời sống của người nông dân Việt Nam. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân xưa trong gian lao khó khăn. Truyện ngắn “Làng” thể hiện nỗi niềm của một người nông dân chất phác, yêu nước. Ông Hai cũng như bao người nông dân xưa cũ gắn bó với làng quê, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Làng của ông Hai là một làng nổi tiếng là yêu nước, giàu có trù phú. Làn Chợ Dầu Tình yêu làng của ông Hai được bộc lộ vô cùng tha thiết, sâu sắc, khiến người đọc cảm động. Tác giả Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống vô cùng éo le, bộc lộ tình cảm sâu sắc của nhà văn với nhân vật của mình. Đó là khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, làm tay sai cho Tây. Ông Hai là người rất yêu làng, dù phải đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn thường xuyên tìm hiểu thông tin về làng của mình. Ông thường hay khoe, làng ông có loa thông tin cao nhất vùng, trong làng lát gạch đá hoa xanh…Ông Hai rất tự hào về làng của mình. Nhưng khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây cổ họng ông như nghẹn ứ lại, không thể nào tin được, toàn thân bủn rủn chân tay, hai tai ù đặc, ông Hai như người thất thần, không biết mơ hay thực. Thông tin bất ngờ đó đã khiến cho ông Hai vô cùng bàng hoàng đau đớn, không thở được, mãi một lúc sau ông mới dám nuốt nước bọt, với hy vọng những điều mình nghe không phải là sự thật. Giọng ông lạc hẳn đi, dù chỉ là hy vọng mong manh thôi, trước những thông tin vừa nghe cũng khiến ông ôm ấp hy vọng rằng nó chỉ là nói láo, bịa đặt. Nhưng trước lời khẳng định của những người mới lên tản cư, khiến ông không dám tin vào tai mình nữa. Ông Hai trở về nhà nằm vật lên giường như xác chết. Ông vẫn nghe đâu đây tiếng người đàn bà chửi khiến ông vô cùng đau đớn” Cha tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, chứ cái giống Việt gian bán nước thì cứ mỗi đứa một nhát”. Những tiếng chửi của người đàn bà ấy nhưng xát muối vào trái tim ông, khiến cho hai hàng nước mắt của ông tràn ra. Trong tư tưởng của ông Hai trong đầu óc ông, hình ảnh làng luôn là cái gì đó vô cùng thiêng liêng, là nơi gắn bó với những kỷ niệm tuổi thơ, một thời tuổi trẻ, với những kỷ niệm ấm áp không thể nào quên, nhưng giờ đây làng lại làm ông cảm thấy vô cùng nhục nhã, xấu hổ như thế này. Tình hình của ông Hai càng lúc càng trở nên cùng quẫn tuyệt vọng, khi mà gia đình chủ nhà nơi mà ông tản cư có ý định đuổi ông đi, không cho ông ở nữa. Trong lòng ông Hai day dứt bởi hai luồng suy nghĩ, giờ mà không ở đây thì sẽ đi đâu, về lại làng thì phải làm Việt gian, phải theo Tây, còn nếu không về làng thì biết đi đâu. Có nơi nào cho gia đình ông tá túc bây giờ. Trong bước đường cùng ông có nghĩ tới về làng, nhưng nghĩ lại những người trong làng giờ theo Tây cả rồi thì lòng ông lại quặn thắt. Ông không thể nào làm hán gian, làm tay sai cho giặc được. Chính vì vậy, không sẽ không về làng. Trong bước đường cùng nhưng ông Hai vẫn thể hiện tình cảm của mình dành cho cách mạng lớn hơn tình yêu quê hương, yêu làng của mình. “Làng thì yêu thật, nhưng làng mà theo Tây thì phải thù”. Đó là những lời nói từ gan ruột của một người nông dân chất phác, thật thà ngay thẳng. Nhưng may thay, tin đồn về làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính, khiến cho ông Hai vô cùng hạnh phúc, ông như được hồi sinh, được sống lại. Ông mặc một bộ quần áo chỉnh tề đi khắp mọi nhà trong vùng ông tản cư để đính chính lại bản tin làng của ông theo Tây, làm Việt gian. Ông cao giọng, hóa ra là láo toét hết, là lừa đảo hết. Ông Hai con vui mừng khoe nhà mình ở Chợ Dầu giờ đã bị giặc đốt sạch sẽ, đốt cháy thành tro bụi như mình chứng việc không theo Tây, làng ông làm Việt gian là không có thật. Ông không hề tiếc ngôi nhà sản nghiệp xây dựng bao năm, mà việc nó bị đốt cháy còn khiến ông vô cùng hạnh phúc. Bởi ngôi nhà cháy đi nhưng tâm hồn và cuộc sống của ông sẽ được hồi sinh, thì có đáng tiếc gì đâu. Ông Hai tự hào khoe về làng của mình vừa lập chiến công đánh thắng giặc, tự hào lắm chứ, làng ông là một làng anh hùng. Trong chiến công của làng Chợ Dầu mang lại cho ông niềm vui vô cùng thần kỳ, thể hiện sự tự hào của ông về làng của mình, thể hiện tình yêu nước, sự trung thành tuyệt đối của người nông dân với con đường cách mạng của bác Hồ.
Assignment Writer Kim Lan is a person closely associated with the lives of Vietnamese farmers. His works are associated with ancient farmers in difficult times. The short story "The Village" expresses the feelings of a simple, patriotic farmer. Mr. Hai, like many old farmers, is attached to the village, where his roots were born. Mr. Hai's village is a village famous for its patriotism and wealth. Oil Market Lane Mr. Hai's love for the village is expressed extremely passionately and deeply, touching the reader. Author Kim Lan placed the character in an extremely difficult situation, revealing the writer's deep feelings for his character. That was when Mr. Hai heard that Cho Dau village had joined the enemy and became a lackey for the West. Mr. Hai is a person who loves his village very much. Even though he had to evacuate, he still regularly finds out information about his village. He often brags that his village has the highest information speakers in the region, and the village is paved with green marble tiles... Mr. Hai is very proud of his village. But when he heard the news that Cho Dau village was going to the West, his throat felt tight, he couldn't believe it, his whole body felt weak, his ears were ringing, Mr. Hai was like a lost person, not knowing whether it was a dream or reality. That unexpected information made Mr. Hai extremely shocked and painful, unable to breathe. After a while, he dared to swallow his saliva, hoping that what he heard was not true. His voice was completely lost. Even if it was only a faint hope, the information he had just heard made him hold on to the hope that it was just a lie and fabrication. But with the affirmation of the newly evacuated people, he did not dare to believe his ears anymore. Mr. Hai returned home and lay down on the bed like a corpse. I still hear the sound of a woman cursing here and there, which makes me extremely painful. "Our ancestors and ancestors, when they are hungry and miserable, if they catch them, people still love them, but the Vietnamese traitors who sell their country each one of them gets a shot. ”. The woman's curses rubbed salt into his heart, causing tears to overflow from his eyes. In Mr. Hai's mind, the image of the village is always something extremely sacred, a place associated with childhood memories, a time of youth, with warm and unforgettable memories. , but now the village makes him feel extremely humiliated and ashamed like this. Mr. Hai's situation became more and more desperate, when the host family where he evacuated intended to evict him and not let him live anymore. Mr. Hai's heart was tormented by two thoughts: If he wasn't here now, where would he go? If he returned to the village, he would have to become a Vietnamese traitor and follow the West. If he didn't return to the village, then where would he go? Is there a place for your family to stay now? At the end of his life, he thought about returning to the village, but when he thought about the people in the village now following the West, his heart ached again. He cannot be a traitor or a lackey for the enemy. That's why I won't go back to the village. In the final step, Mr. Hai still showed that his love for the revolution was greater than his love for his homeland and his village. "The village really loves it, but the village that follows the West must hate." Those are the words from the heart of a simple, honest and upright farmer. But fortunately, the rumors about Cho Dau village following the West were corrected, making Mr. Hai extremely happy, he seemed to be revived, brought back to life. He wore neat clothes and went around every house in the area where he was evacuated to correct the news of his village according to the West, making it a Vietnamese traitor. He raised his voice, it turned out to be all lies, all fraud. Mr. Hai happily showed off that his house in Cho Dau was now completely burned by the enemy, burned to ashes as if he had witnessed that not following the West, his village being a Vietnamese traitor was not true. He did not regret the house that had been built for many years, but the fact that it burned down made him extremely happy. Because the house burns down but his soul and life will be revived, there is no pity. Mr. Hai proudly showed off his village, which had just achieved victory in defeating the enemy. He was very proud, his village was a heroic village. The victory of Cho Dau village brought him extremely miraculous joy, showing his pride in his village, demonstrating the patriotism and absolute loyalty of farmers to the revolutionary path. Uncle Ho's.
Bài làm Tinh thần nhân đạo đã trở thành điểm chính, linh hồn của nhiều tác phẩm trong thời kỳ xưa. Với mỗi tác phẩm văn học tác giả thường thể hiện cái nhìn nhân sinh quan của mình trong đó, thể hiện tinh thần nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc. Chuyện người con gái Nam Xương của tác giả Nguyễn Dữ, muốn tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, với những số phận người phụ nữ thủy chung, đức hạnh nhưng lại chịu nhiều cay đắng thiệt thòi, thể hiện sự đồng cảm của tác giả với những bất hạnh mà người phụ nữ xưa phải gánh chịu. Truyện xoay quanh nhân vật người con gái tên là Vũ Nương, nàng là người con gái đoan trang nết na, đức hạnh và nổi tiếng xinh đẹp, khi tới tuổi trưởng thành nàng được Trương Sinh một chàng trai làng bên hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng. Từ ngày làm dâu, làm vợ chàng trai Trương Sinh, Vũ Nương vô cùng hiền thục, làm tròn bổn phận làm vợ, làm dâu hiền trong nhà vun vén sau trước, không có điều gì đáng chê trách. Nàng luôn làm tròn khuôn phép của một người vợ trong gia đình chồng. Hiếu thuận, kính trọng mẹ chồng, vâng lời và chăm sóc chồng chu đáo, không để cho hàng xóm láng giềng lời ong tiếng ve một điều gì. Nhưng niềm hạnh phúc của Vũ Nương chẳng được bao lâu, thì Trương Sinh phải tòng quân ra trận theo lời kêu gọi của quan viên. Lúc chàng Trương Sinh đi xa thì Vũ Nương đang mang thai đứa con của hai người được ít tuần. Trong giây phút chia ly Vũ Nương đã dặn dò chồng mình nhiều điều cần thiết, thể hiện bổn phận của một người vợ lo cho chồng. Thời gian sau, do mong nhớ và lo lắng cho an nguy sinh tử của con trai mình là Trương Sinh nơi chiến trường, mà mẹ chàng lâm bệnh nặng. Mặc dù, Vũ Nương hết lòng chạy chữa thuốc thang. Nhưng mẹ chồng của nàng vẫn không qua khỏi, bà qua đời để lại hai mẹ con Vũ Nương côi cút nuôi nhau. Vũ Nương đã lo ma chay cho mẹ chồng một cách chu toàn. Ngày tháng cứ thế trôi đi, nàng chăm sóc con nhỏ chờ chồng trở về. Hàng đêm, vì quá nhớ nhung chồng mình nơi biên ải Vũ Nương thường chỉ lên chiếc bóng của mình ở trên tường nhà nói với con trai rằng “Cha con đó”. Rồi ngày vui cũng tới, tin thắng trận đến, Trương Sinh được trở về quê hương đoàn tụ với gia đình. Vũ Nương vui mừng khôn xiết. Nhưng vừa về tới nhà nghe tin mẹ mất Trương Sinh vô cùng đau khổ. Chàng vội vàng bế theo cậu con trai nhỏ đi ra viếng mộ mẹ, thông báo tin trở về để mẹ chàng ở dưới suối vàng yên lòng vì con. Nhưng con trai không chịu nhận Trương Sinh là cha, trên đường đi nó cứ khóc mãi. Nó bảo với Trương Sinh ông không phải cha tôi, cha tôi đêm nào cũng tới. Trương Sinh nổi giận đùng đùng, anh cho rằng Vũ Nương ăn ở hai lòng, không giữ trọn tiết hạnh của một người vợ, nên khi viếng mộ mẹ trở về Trương Sinh đã chửi bới, sỉ nhục Vũ Nương, rồi đuổi nàng ra khỏi nhà mình, không cho Vũ Nương cơ hội để thanh minh. Trước nỗi oan tình quá lớn lại không được lên tiếng thanh minh, giãi bày vì Trương Sinh không hề nói vì sao mình nổi giận, vì sao chàng nghĩ Vũ Nương có người khác. Nếu Trương Sinh nói rõ rằng con trai bảo đêm nào cha nó cũng tới thì có lẽ Vũ Nương đã thanh minh được cho mình. Nhưng anh ta ghen tuông mù quáng, một mực đổ oan cho vợ thất tiết, không biết liêm sỉ, và đuổi nàng ra khỏi nhà. Với một cô gái chung thủy, coi tiết hạnh, danh dự quan trọng hơn mạng sống của mình. Trong bối cảnh xã hội phong kiến lắm điều thị phi thì tội loạn luân, không thủ tiết chờ chồng quả là một án tình quá lớn. Chính vì vậy, Vũ Nương không còn cách nàng khác, nàng quá tuyệt vọng trước cuộc sống nên quyết định nhảy xuống sông Nhị Hà tự vẫn để minh oan sự trong sạch của mình. Qua cái chết của Vũ Nương ta thấy thân phận bèo bọt, nhỏ bé của những người phụ nữ dưới thời chế độ phong kiến. Họ không hề được làm chủ cuộc sống của mình là luôn phải nghe theo sự sắp xếp của người khác. Số phận nghiệt ngã cay đắng biết bao. Hành động nhảy xuống sông tự vẫn cho thấy lòng tự trọng của Vũ Nương khi danh dự, và phẩm hạnh bị bôi nhọ thì nàng cũng không thiết sống nữa. Nàng thà chết chứ không chịu nhục. Chuyện người con gái Nam Xương ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ đồng thời đã thể hiện tinh thần nhân đạo của tác giả với những số phận phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong cái xã hội thối nát đó những người con gái luôn phải gánh chịu nhiều nỗi đau, sự oan khuất bất hạnh, những tai họa có thể rơi xuống đầu bất cứ lúc nào. Một xã hội đầy rẫy sự bất công với phái nữ, họ không có quyền hạnh phúc quyền bình đẳng của riêng mình, mà chỉ như phận bèo trôi luôn phải nghe theo sự chỉ bảo, của người khác, không bao giờ được làm chủ số phận của chính mình.
Assignment The humanitarian spirit became the main point and soul of many works in ancient times. With each literary work, the author often shows his view of life in it, expressing the spirit of humanity and profound humanity. The story of Nam Xuong's daughter by author Nguyen Du wants to denounce the crimes of the feudal regime, with the fate of faithful and virtuous women who suffer many bitter losses, expressing the sympathy of author with the misfortunes that ancient women had to endure. The story revolves around the character of a girl named Vu Nuong. She is a dignified, virtuous and famous beautiful girl. When she reached adulthood, she was asked to marry him by Truong Sinh, a boy from a neighboring village. hundred ounces of gold. From the day she became a bride and the wife of the young man Truong Sinh, Vu Nuong has been extremely gentle, fulfilling her duties as a wife, being a gentle daughter-in-law in the house, taking care of things first and foremost, with nothing to blame. She always fulfills the rules of a wife in her husband's family. Be filial, respect your mother-in-law, obey and take good care of your husband, and don't let your neighbors gossip about anything. But Vu Nuong's happiness did not last long, Truong Sinh had to join the army to go to war at the call of the officials. When Truong Sinh was away, Vu Nuong was a few weeks pregnant with their child. During the moment of separation, Vu Nuong told her husband many necessary things, demonstrating her duty as a wife to take care of her husband. Some time later, due to longing for and worrying about the life and death safety of her son Truong Sinh on the battlefield, his mother fell seriously ill. Although, Vu Nuong devoted herself to medical treatment. But her mother-in-law still could not survive. She passed away, leaving Vu Nuong and her daughter alone to raise each other. Vu Nuong carefully took care of her mother-in-law's funeral. Days passed like that, she took care of her children and waited for her husband to return. Every night, because she misses her husband so much on the border, Vu Nuong often points to her shadow on the wall of the house and tells her son, "That's your father." Then the happy day came, the news of victory came, Truong Sinh was able to return to his hometown to reunite with his family. Vu Nuong was overjoyed. But as soon as he returned home and heard the news that his mother had passed away, Truong Sinh was extremely sad. He quickly took his little son with him and went to visit his mother's grave, announcing his return so that his mother at the golden stream could feel reassured for her son. But the son refused to accept Truong Sinh as his father. On the way he kept crying. He told Truong Sinh that he was not my father, that my father came every night. Truong Sinh was furious. He thought that Vu Nuong was being duplicitous and did not maintain the integrity of a wife, so when he returned from visiting his mother's grave, Truong Sinh cursed and insulted Vu Nuong, then chased her out. family, not giving Vu Nuong a chance to explain herself. Faced with such great injustice, he could not speak up to clarify or confide because Truong Sinh did not say why he was angry, why he thought Vu Nuong had someone else. If Truong Sinh had clearly stated that his son said his father would come every night, perhaps Vu Nuong could have cleared his name. But he was blindly jealous, insisted on blaming his wife for being dishonest and shameless, and kicked her out of the house. For a faithful girl, virtue and honor are more important than her life. In the context of a feudal society full of scandals, the crime of incest and not keeping secret while waiting for a husband is a huge crime. That's why Vu Nuong had no other choice. She was so desperate for life that she decided to jump into the Nhi Ha River and commit suicide to prove her innocence. Through Vu Nuong's death, we see the humble and small status of women under feudalism. They have no control over their lives and always have to listen to other people's arrangements. What a cruel and bitter fate. The act of jumping into the river to commit suicide shows that Vu Nuong's self-esteem, when her honor and virtue are defamed, she no longer wants to live. She would rather die than be humiliated. The story of a girl from Nam Xuong praises the spiritual beauty of women and at the same time demonstrates the author's humanitarian spirit towards the fate of women in feudal society. In that corrupt society, girls always have to suffer a lot of pain, injustice and misfortune, disasters that can fall on them at any time. A society full of injustice towards women, they do not have the right to happiness or equality of their own, but are just like the poor, always having to listen to the advice of others, never being the master of their destiny. own destiny.
Bài làm Mông-pa-xăng là một nhà văn nổi tiếng của nước Pháp. Ông để lại số lượng tác phẩm khá đồ sộ khoảng hơn 300 truyện ngắn. Trong đó, mỗi tác phẩm của ông đều chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện sự đồng cảm của tác giả với những con người bất hạnh, thiếu hụt tình cảm vật chất trong cuộc sống. Tác phẩm “Bố của Xi- mông” kể về câu chuyện bất hạnh, tủi nhục của một em bé thiếu thốn tình cảm của một người cha, sinh ra không có bố, bị bạn bè trêu chọc, mọi người xa lánh mẹ con em. Mẹ của bé Xi- mông chính là nhân vật Blang là một người phụ nữ đáng thương. Chị có một tình yêu với một người đàn ông đã có vợ, nhưng khi chị mang thai và sinh Xi-mông thì người đàn ông đó hoàn toàn bỏ mặc hai mẹ con, khiến cho chị phải mang sự nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ mà sống. Chị phải làm rất nhiều việc nặng nhọc, làm nhiều nghề khác nhau để nuôi Xi-mông khôn lớn, lo cho con tới trường, khiến cho người đọc vô cùng thương cảm. Tuổi thơ của cậu bé Xi-mông là chuỗi những ngày tháng vô cùng đơn độc, cô đơn lạnh lẽo trong ngôi nhà nhỏ thiếu tình thương của người đời, chỉ có hai mẹ con em nương tựa vào nhau mà sống. Đáng ra trường học chính là nơi Xi-mông được hưởng trọn niềm vui của tuổi thơ, bởi nơi đó có bạn bè thầy cô yêu thương em. Nhưng chính trường học của Xi- mông lại chính là địa ngục của câu bé, là nơi mà Xi-mông chịu sự xỉ nhục, trêu chọc đánh đập của bạn bè. Là nơi độc ác nhất bởi em thường xuyên phải nghe những lời chửi bới, những lời chế giễu của những cậu bé ngỗ ngược, về việc Xi-mông không có bố. Bọn trẻ độc ác đó, cũng như xã hội lúc đó đã thể hiện một cái nhìn thiếu đồng cảm, thiếu nhân văn với những thân phận như Xi-mông và mẹ của em. Chúng thường hành hạ em, xé áo em, rồi hất nước bẩn vào người em. Một lần Xi-mông tới trường, em lại bị bọn trẻ độc ác đó trêu chọc, xé rách áo của em, rồi xỉ nhục em bằng những lời nói vô cùng tàn nhẫn độc ác, khiến Xi- mông cảm thấy cuộc đời của mình thật bế tắc. Em tìm ra bờ cỏ ven sông, một nơi ít người qua lại định tìm tới cái chết, để thoát khỏi cuộc sống này. Cậu bé Xi-mông đã khóc rất nhiều, một chú bé chỉ mới tám tuổi nhưng em đã phải chịu đựng nhiều sự đau khổ, tủi nhục trong cuộc sống này, khiến cho em không còn lối thoát em muốn tìm tới cái chết đã giải thoát chính mình. Suy nghĩ của cậu bé Xi-mông khiến người đọc vô cùng lo lắng, và cảm thương cho số phận của em. Cậu bé Xi-mông đến với bãi cỏ xanh mượt bên cạnh một bờ sông, một bãi cỏ lãng mạn, thơ mộng, nhưng với cậu bé Xi-mông lúc này chẳng có gì làm em thấy tươi đẹp. Trong tâm trạng u ám đen tối của em thì chỉ có cái chết mới giúp em thoát khỏi sự cô đơn đang đeo bám mình. Trong lúc cậu bé Xi-mông khốn khổ đang khóc định tìm tới cái chết, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra, đó chính là sự xuất hiện của một vị thần. Dù đó không phải là vị thần, mà chỉ là một người thợ rèn tên là Phi-lip nhưng với cậu bé Xi-mông thì chú Phi-líp chính là vị thần cứu vớt đời em ra khỏi sự cô đơn đen tối. Chú Phi-líp nhìn thấy em khóc đã lại gần lau nước mắt cho em, rồi lắng nghe tâm sự của em. Cậu bé Xi-mông đã kể hết cho Phi- lip nghe về việc ở trường, về mẹ của em cô Blang khốn khổ đang bị ốm, về việc em không có bố nên mọi người không yêu thương em. Chú Phi-lip đã nói rằng anh muốn làm bố của chú bé. Chú bé Xi- mông ngây thơ vô cùng mừng rỡ. Đoạn đối thoại giữa Xi-mông và chú thợ rèn Phi-lip khiến người đọc vô cùng xúc động. Rồi sau đó, Xi-mông hãnh diện dắt tay chú Phi-lip về nhà với mẹ. Rồi hôm sau, Xi-mông cùng người bố của mình cùng nhau tới trường học. Em hãnh diện nói với bạn bè, những kẻ hay trêu chọc bắt nạt em rằng “Đây là bố của tao, tao có bố rồi nhé Cuối cùng tác giả Mô-pa-xăng đã vô cùng nhân đạo khi cho cậu bé Xi-mông một người bé giúp em cảm thấy mình trưởng thành hơn, em hạnh phúc với tuổi thơ của mình. Việc Xi-mông có một người bố khiến cuộc sống của em sang một trang mới, em có thể được sống đúng như một con người không bị bạn bè dè bỉu, chọc ghẹo, em có thể hòa nhập với cuộc sống bình thường, không còn sự cô đơn, ghẻ lạnh.
Assignment Mong-pa-san is a famous French writer. He left behind a rather large number of works, about more than 300 short stories. Each of his works contains a noble humanistic spirit, expressing the author's sympathy for unfortunate people who lack material affection in life. The work "Si-mong's Dad" tells the story of misfortune and humiliation of a child who lacks a father's affection, was born without a father, was teased by his friends, and everyone shunned his mother and child. . Xi-mong's mother, the character Blang, is a pitiful woman. She had a love affair with a married man, but when she became pregnant and gave birth to Simon, that man completely abandoned mother and child, causing her to bear the humiliation and ridicule of God. lower and live. She had to do a lot of hard work and many different jobs to raise Xi Mong and send her children to school, making the reader extremely sympathetic. Little boy Xi-mong's childhood was a series of extremely lonely, cold days in a small house lacking human love, with only his mother and son relying on each other to survive. School should have been the place where Xi-mong enjoyed all the joy of childhood, because there were friends and teachers who loved him. But Xi-mong's school was his own hell, a place where Xi-mong was humiliated, teased and beaten by his friends. It's the cruelest place because I often have to hear curses and taunts from unruly boys about Xi-mon not having a father. Those cruel children, as well as society at that time, showed a lack of empathy and lack of humanity towards people like Xi-mon and her mother. They often tortured me, tore my clothes, and then threw dirty water on me. One time when Xi-mong went to school, he was teased by cruel children who tore his shirt, then insulted him with extremely cruel and cruel words, making Xi-mong feel like his life was over. It's deadlocked. I found a grassy bank along the river, a place with few people passing by, intending to die, to escape this life. The boy Xi-mon cried a lot. He was only eight years old, but he had to endure a lot of pain and humiliation in this life, leaving him with no way out. He wanted to find death. escape yourself. The thoughts of little boy Xi-mon make the reader extremely worried, and feel compassion for his fate. Little boy Xi-mong came to a lush green lawn next to a riverbank, a romantic, poetic lawn, but for little boy Xi-mong right now, nothing makes him feel beautiful. In my dark and gloomy mood, only death can help me escape the loneliness that haunts me. While the poor boy Xiong was crying and planning to die, an unexpected situation happened, which was the appearance of a god. Even though he was not a god, but just a blacksmith named Philip, for little Simon, Uncle Philip was the god who saved his life from dark loneliness. Uncle Philip saw her crying and came close to wipe her tears, then listened to her confession. Little Simon told Philip everything about what happened at school, about his mother, poor Miss Blang, who was sick, and about how he didn't have a father so people didn't love him. Uncle Philip said he wanted to be the boy's father. The innocent little Xi Mong was extremely happy. The dialogue between Simon and the blacksmith Philip makes the reader extremely emotional. Then, Simon proudly led Uncle Philip's hand back home to his mother. Then the next day, Simon and his father went to school together. I proudly told my friends, the people who teased and bullied me, "This is my dad, I have a dad." In the end, author Mopasan was extremely humane when he gave the boy Ximon a person to help him feel more mature and happy with his childhood. The fact that Xi-mong has a father turns his life into a new chapter, he can live as a human being without being ridiculed or teased by his friends, he can integrate into normal life, no matter what. and loneliness and estrangement.
Bài làm Tình cảm gia đình là thứ tình cảm thiêng liêng cao quý, không gì có thể sánh được. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã viết lên một tác phẩm vô cùng đặc sắc, thể hiện sự giằng xé trong lòng mỗi nhân vật trong “Chiếc lược ngà”, khiến người đọc vô cùng thấm thía xúc động. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta một sự ám ảnh, về sự mất mát trong cuộc sống là điều vô cùng đau đớn, chua xót. Thông qua tác phẩm Nguyễn Quang Sáng cũng muốn tố cáo tội ác của giặc khi đã gây ra chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam là cho nhiều gia đình nước ta phải ly tan, cha phải xa con, vợ xa chồng. Họ không được hưởng những hạnh phúc vô cùng giản dị của cuộc sống gia đình bình thường. Nhân vật bé Thu trong tác phẩm “Chiếc lược ng” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng làm một em bé khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc xúc động, bởi cô bé Thu có cá tính vô cùng kiên cường gai góc, nhưng chứa đựng bên trong là nội tâm phong phú, mà những em bé bình thường không thể có được. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được tác giả Nguyễn Quang Sáng viết trong lúc đất nước chúng ta đang bị chia hai. Miền Bắc bước vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa sau khi chiến thắng thực dân Pháp. Còn miền Nam đang trong thời kỳ cam go chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Trong bối cảnh chiến tranh xảy ra, ông Sáu cũng như bao người đàn ông yêu nước khác lên đường tham gia chiến đấu khi bé Thu vẫn còn trong bung mẹ. Bé Thu ra đời đã 7-8 tuổi rồi nhưng chưa lần nào được gặp ba của mình. Cô bé chỉ gặp ba qua bức hình chụp ngày cưới của ba mẹ mà thôi. Nhưng rồi một lần ông Sáu được nghỉ Phép ba ngày, ông vui vẻ về nhà thăm gia đình gặp con gái của mình. Lần đầu nhìn thấy con ông vui lắm, chạy lại ôm nó nói những lời nghẹn ngào nhiều cảm xúc. Thu ơi ba đây con. Nhưng đáp lại tình cảm của ông Sáu con bé Thu khẽ đẩy vòng tay ba ra rồi chạy vào nhà gọi mẹ. Những ngày ông Sáu ở nhà bé Thu cương quyết không chịu nhận ba. Nó thường lảng tránh ông Sáu. Mẹ bảo kêu ba vào ăn cơm. Nó chỉ ra ngoài và nói trống không “Vô ăn cơm” Rồi trong bữa ăn ông Sáu muốn thể hiện tình cảm với con nên gắp cho bé Thu một miếng trứng cá thơm ngon. Nhưng bé Thu lại hất tay ông ra làm miếng trứng cá rơi xuống đất, quá giận con gái vì sự ngang bướng nên ông Sáu phát cho nó vài cái roi vào đít. Nó ngang ngạnh không khóc mà buông bát cơm chèo thuyền qua nhà bà ngoại. Ở nhà bà ngoại bé Thu được bà kể cho nghe những gian khổ, những chiến công hiển hách mà ông Sáu phải trải qua nơi chiến trường. Nguyên nhân những vết sẹo gớm ghiếc trên mặt của ông Sáu khiến cho bé Thu không nhận ra ba mình. Nghe những lời bà kể bé Thu đã khóc rất nhiều bởi thương ba, cảm nhận được những khó khăn gian khổ, những hy sinh mà ba phải trải qua. Nó cảm thấy ân hận vô cùng. Bé Thu chỉ là một cô bé có 8 tuổi nhưng được tác giả Nguyễn Quang Sáng xây dựng vô cùng cá tính, sắc nét, với những tính bướng bỉnh ngang ngạnh và gai góc. Cô bé Thu như một chú Nhím lông đầy gai nhọn, sẵn sàng làm tổn thương ông Sáu nhưng ẩn chứa bên trong chú nhím là một lớp thịt ấm áp mềm mại. Cái tính của cô bé Thu được tác giả thể hiện qua những câu văn miêu tả đặc sắc, táo bạo, chính nhờ đó mà giúp người đọc hình dung được tính cách vững vàng kiên định của những con người Miền Nam. Những ngày nghỉ phép qua nhanh, giây phút ông Sáu phải lên đường đi tác chiến đã đến. Trong giây phút thiêng liêng anh tiếng ba mà bé Thu kìm nén đã lâu, tiếng ba mà ông Sáu chờ đợi được bé Thu thốt lên vô cùng thổn thức “Con không cho ba đi. Ba phải ở nhà với con”. Câu nói và những giọt nước mắt trẻ thơ của con bé đã làm trái tim người đọc thật sự tan chảy. Nó là một cảm xúc vỡ òa bởi được dồn nén quá lâu giờ mới bộc lộ ra. Giây phút thiêng liêng là cho cả tác phẩm trở nên bất hủ. Trong giây phút ấy sự gai góc ngang tàng của con bé Thu đã hoàn toàn biến mất mà thay vào đó là một đứa trẻ đúng nghĩa. Một đứa trẻ thèm khát được hưởng tình yêu của ba mình, được nương tựa vào vòng tay vững chãi của ba. Một đứa trẻ thiếu thốn tình cảm từ rất lâu. Nó như nắng hạn gặp mưa rào vậy. Trước khi ông Sáu lên đường bé Thu dặn ông “Ba nhớ mua cho con chiếc lược nghe ba”. Trong những ngày tháng chiến đấu gian khổ, nhưng ông Sáu không khi nào quên lời con dặn, khi có thời gian ông liền khắc tặng con một chiếc lược ngà, thể hiện tình cảm ông dành cho con.
Assignment Family love is a noble, sacred feeling that nothing can compare to. Author Nguyen Quang Sang has written an extremely unique work, expressing the struggle in the heart of each character in "The Ivory Comb", making readers extremely deeply moved. It evokes in each of us a haunting feeling about loss in life, which is extremely painful and bitter. Through his work, Nguyen Quang Sang also wants to denounce the crimes of the enemy in causing an unjust war in Vietnam, causing many families in our country to be separated, fathers to be separated from their children, wives to be separated from their husbands. They do not enjoy the extremely simple happiness of normal family life. The character of little Thu in the work "The Comb" by writer Nguyen Quang Sang is a child that makes the reader have a deep emotional impression, because little Thu has an extremely resilient and thorny personality, but contains Inside is a rich interiority that normal babies cannot have. The work "The Ivory Comb" was written by author Nguyen Quang Sang while our country was being divided in two. The North entered the socialist stage after defeating the French colonialists. The South is in a difficult period of war against American imperialism. In the context of war, Mr. Sau, like many other patriotic men, went to fight while baby Thu was still in her mother's womb. Baby Thu was 7-8 years old when she was born but had never met her father. The girl only met her father through a photo taken on her parents' wedding day. But then one time, Mr. Sau had three days off, and he happily went home to visit his family and meet his daughter. The first time he saw his son, he was so happy. He ran to hug him and said many emotional words. Thu, it's dad. But in response to Mr. Sau's feelings, little Thu gently pushed away her father's arms and ran into the house to call her mother. During the days when Mr. Sau stayed at Thu's house, he firmly refused to accept his father. It often eludes Mr. Sau. Mom told dad to come in for dinner. It pointed outside and said blankly, "Come in and eat." Then during the meal, Mr. Sau wanted to show his affection for his child, so he gave Thu a delicious piece of fish roe. But little Thu pushed his hand away, causing the fish roe to fall to the ground. He was so angry with his daughter for her stubbornness that Mr. Sau gave her a few spanks on the ass. He stubbornly refused to cry but put down his bowl of rice and rowed the boat to his grandmother's house. At her grandmother's house, little Thu told her about the hardships and glorious victories that Mr. Sau had to go through on the battlefield. The reason for the hideous scars on Mr. Sau's face is that little Thu cannot recognize her father. Hearing her words, little Thu cried a lot because she loved her father, feeling the hardships and sacrifices that her father had to go through. It feels extremely regretful. Little Thu is only an 8-year-old girl, but author Nguyen Quang Sang built her with a very sharp and sharp personality, with stubborn and thorny qualities. Little girl Thu is like a spiky hedgehog, ready to hurt Mr. Sau, but hidden inside the hedgehog is a layer of warm, soft flesh. The author shows the personality of little girl Thu through unique and bold descriptive sentences, thereby helping readers visualize the steadfast and steadfast character of Southern people. The days of vacation passed quickly, and the moment Mr. Sau had to leave for combat had arrived. In that sacred moment, the third voice that little Thu had suppressed for a long time, the third voice that Mr. Sau had been waiting for, little Thu exclaimed sobbingly, "I won't let you go. Dad must stay home with the children." Her words and her childish tears truly melted the reader's heart. It was a burst of emotion that had been pent up for so long and was only now coming out. The sacred moment is for the entire work to become immortal. In that moment, little Thu's stubbornness completely disappeared and was replaced by a true child. A child longs to enjoy his father's love, to rely on his father's strong arms. A child lacking affection for a long time. It's like a drought meeting a shower. Before Mr. Sau left, little Thu told him, "Dad, remember to buy me a comb." During the difficult days of fighting, Mr. Sau never forgot his son's advice. When he had time, he immediately engraved an ivory comb as a gift to show his love for his son.
Bài làm Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong cuộc sống đầy tin yêu. Dù được miêu tả ít hay nhiều, nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét đẹp và để lại trong lòng người đọc những tình cảm quý mến. Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều tình cảm khó phai mờ. Anh thanh niên với vóc người nhỏ nhắn, mang biệt hiệu “người cô độc nhất thế gian” vì anh phải làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm mây mù lạnh lẽo. Suốt ngày anh chỉ cô độc, làm bạn với công việc “đo gió, đo mưa, đo nắng”, với mỗi ngày báo cáo về “nhà” bốn lần một cách chính xác. Những khắc nghiệt, băng giá của núi rừng Sa Pa dù mưa tuyết hay gió chực ào ào xô tới cũng chẳng khiến anh chùn bước. Tuy là công viêc nhàm chán, buồn tẻ nhưng anh vẫn luôn yêu, trân trọng nó. Anh đã dũng cảm vượt qua nỗi cô độc và hiểm nguy mà chính anh phải đối diện. Qua đó chúng ta thấy sáng lên lý tưởng sống cao đẹp nơi anh. Giá trị đích thực nơi anh chính là lẽ sống – sống vì mọi người, sống vì cộng đồng Anh luôn tìm được niềm vui giữa những khó khăn, gian khổ trong công việc, tư tưởng của tác phẩm lắng đọng nhiều trong lòng người đọc hẳn là lời tâm sự của anh thanh niên với ông họa sĩ già: “Mình sinh ra là gì, đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc”. Đó là những lời tâm sự xuất phát từ tận đấy lòng. Và đấy cũng chính là những suy nghĩ lạc quan giúp anh vững vàng trước những khó khăn, thử thách và thử thách lướn nhất là sự cô độc. Hơn nữa nha còn ý thức được công việc của mình giúp đỡ, giúp ích được cho biết bao người. Khi anh biết nhờ anh phát hiện một đám mây khô, không quân ta đã hạ được biết bao tên địch trên cầu Hàm Rồng, anh đã cảm thấy rất hạnh phúc. Âm vang của cuộc sống Sa Pa lặng lẽ và khúc nhạc cuộc sống đến từ tâm hồn anh, nụ cười của anh trong mọi khó khăn, thử thách. Bên cạnh việc hết mình với công việc, anh thanh niên còn biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Anh rất cởi mở, chân thành với mọi người, khao khát được gặp người để được trò chuyện, cái đáng yêu của anh chính là sự “thèm người” của anh, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ ngay từ những phút đầu gặp gỡ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh, toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất, mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ, hồ hởi đón mọi người lên thăm, hồn nhiên kể về công việc, đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa Pa lặng lẽ. Khó người đọc nào có thể quên, việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết. Bó hoa cho cô gái, nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai hai người…Tất cả không chỉ chứng tỏ anh là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng tận tình đáng quí vô cùng.
Assignment Closing the short story "Quietly in Sa Pa" by Nguyen Thanh Long, our hearts keep fluttering at the beauty of people, at the sincere and warm feelings in a life full of trust and love. Whether described more or less, every character in "Quiet Sa Pa" appears with beauty and leaves the reader with affectionate feelings. Among them, the young man who works in hydrometeorology and geophysics has left us with many unforgettable emotions. The young man with a small stature is nicknamed "the loneliest person in the world" because he has to do meteorological and geophysics work alone on the top of Yen Son mountain, 2,600m high, where it is cold and cloudy all year round. All day long he was alone, doing the job of "measuring the wind, measuring the rain, measuring the sun", and accurately reporting back "home" four times a day. The harshness and ice of Sa Pa's mountains and forests, whether raining snow or rushing winds, did not make him falter. Even though it's a boring and boring job, he still loves and appreciates it. He bravely overcame the loneliness and danger he had to face. Through that, we see the noble ideal of life shining in him. His true value is his reason for living - living for everyone, living for the community He always finds joy amid the difficulties and hardships in his work. The thoughts of the work that settle heavily in the reader's heart must be the young man's confession to the old artist: "What was I born into?" , where was I born, who do I work for? Those are the words that come from the bottom of my heart. And those are also the optimistic thoughts that help him stay steadfast in the face of difficulties, challenges, and the biggest challenge is loneliness. Moreover, I am also aware that my work helps and helps many people. When he learned that thanks to his discovery of a dry cloud, our air force had defeated many enemies on Ham Rong bridge, he felt very happy. The echoes of the quiet life of Sa Pa and the music of life come from his soul, his smile in all difficulties and challenges. Besides being devoted to his work, the young man also knows how to arrange his personal life in a neat and stable manner. He raises chickens, grows flowers, reads books, and sometimes he goes down the street to meet his uncle and passengers. to chat to relieve homesickness. He is very open and sincere with everyone, longing to meet people to talk to, what is adorable about him is his "craving for people", his warm hospitality and concern for others. thoughtful way. His hospitality and enthusiasm created a natural sympathy for the old artist and the young engineer right from the first minutes of their meeting. The joy of welcoming guests was abundant within him, exuding through his facial expressions and gestures: he gave the driver a bamboo tube, happily received the book he bought for him, excitedly welcomed everyone to visit, innocently told about his work. My work, colleagues and life in quiet Sa Pa. Hardly any reader can forget, the first thing he did when a guest came to visit his residence was to pick a bouquet of colorful flowers to give to the girl he first met. A bouquet of flowers for the girl, tea for the old painter, eggs and sugar for two people... All of this not only proves that he is a thoughtful son but is also a memory of a precious and devoted heart. together.
Bài làm Bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu là một bài thơ hay về hình ảnh người chiến sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Nó là bài thơ tiêu biểu cho hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, kiên cường anh dũng, của nền thi ca hiện đại. Bài thơ đã thể hiện rõ khí phách anh hùng, ý chí kiên cường trong khó khăn gian khổ của người lính trong những đêm trong rừng sâu, cùng chờ đợi giặc tới. Thể hiện tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng hơn cả người thân ruột thịt. Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu phác họa lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, giản dị mộc mạc nhưng không kém lãng mạn, thi vị Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Trong những câu thơ gợi lên chất hiện thực gian khổ, rừng hoang, sương muối, trong cảnh giữa rừng Trường Sơn hoang sơ, lạnh giá, những trận sốt rét rừng làm cho người nhiều lần lao đao. Nhưng bên cạnh đó những người lính của chúng ta vẫn thể hiện sự kiên cường, chủ động của mình, họ đứng cạnh bên nhau thể hiện tinh thần đoàn kết sát cánh cùng nhau trong khó khăn, gian khổ, hiểm nguy. Hành động chờ giặc tới thể hiện sự chủ động. Họ không hề lo sợ phải giáp mặt với giặc mà ung dung hiên ngang chờ đợi diện kiến với bọn giặc, chờ chúng tới để tiêu diệt, dập tắt ý chí xâm lược của bọn chúng. Trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ đó chính tình đồng đội, đồng chí là tình cảm thiêng liêng gắn kết sưởi ấm trái tim của những người lính. Họ cảm thấy trái tim mình có cùng chung nhịp đập cùng chung chí hướng với những người bạn đồng đội, đồng chí của mình. Những người lính cầm khẩu súng trường trong tay cùng nhau canh gác trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đầu ngọn súng chĩa lên trời cao, có cảm tưởng như có thể chạm tới ánh trăng trong đêm rừng Trường Sơn hoang vu, âm u. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh vô cùng tươi đẹp, thể hiện sự tinh tế của tác giả Chính Hữu trong quan sát, miêu tả. Câu thơ thể hiện sự bay bổng lãng mạn của người lính đồng thời chứa đựng ý nghĩa reo vui, lạc quan yêu đời của người lính trong gian khổ, hiểm nguy. Hình ảnh đầu súng trăng treo tạo nên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp độc đáo. Anh bộ đội chĩa ngọn súng của mình chờ đợi giặc tới, đêm khuya ánh trăng ngày càng gần hơn với con người có cảm tưởng như mũi súng treo bóng trăng. Hai hình ảnh vô cùng tương phản nhau nhưng khi đứng cạnh nhau lại làm cho câu thơ vô cùng hoàn mỹ. Hình ảnh ngọn súng là hình ảnh của chiến tranh, của sức mạnh và chết chóc. Hình ảnh ánh trăng thể hiện cho sự đẹp đẽ, thơ mộng, cho sự trong sáng tinh khiết. Hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhưng đặt bên nhau lại làm cho hình ảnh bài thơ trở nên thi vị, độc đáo, trở thành biểu tượng, linh hồn của cả bài thơ. Những người lính trong chiến tranh, hiểm nguy, họ không hề run sợ, lo lắng mà vẫn thể hiện một trái tim yêu nước nồng nàn, cùng nhau hướng tới kẻ thù cùng một mục tiêu chiến đấu, cùng một chí hướng giữ vững nền độc lập dân tộc bảo vệ lãnh thổ quê hương.
Assignment The poem Comrade by poet Chinh Huu is a beautiful poem about the image of soldiers during the resistance war against the French and the Americans. It is a poem that represents the image of Uncle Ho's brave, resilient and heroic soldier of modern poetry. The poem clearly shows the heroic spirit and resilient will in the hardships of the soldiers during the nights in the deep forest, waiting for the enemy to come. Showing the love of comrades and comrades is more sacred than that of blood relatives. The poem Comrades was sketched by poet Chinh Huu into an extremely beautiful picture of nature, simple and rustic but no less romantic and poetic. Tonight the wild forest is foggy Standing side by side waiting for the enemy to come Hanging moon gun head. In the verses that evoke the reality of hardship, wild forests, hoarfrost, in the scene in the wild, cold Truong Son forest, bouts of forest malaria make people suffer many times. But besides that, our soldiers still show their resilience and initiative, they stand side by side showing the spirit of solidarity and standing side by side in difficulties, hardships, and dangers. The act of waiting for the enemy to arrive shows initiative. They were not afraid of facing the enemy, but calmly and courageously waited for an audience with the enemy, waiting for them to come to destroy and extinguish their will to invade. In such difficult and arduous circumstances, it is the love of comrades and comrades that is the sacred bond that warms the hearts of the soldiers. They feel their hearts beat in the same rhythm and have the same direction with their teammates and comrades. Soldiers holding rifles in hand guarded together in a ready-to-fight position. The tip of the gun pointed high into the sky, it felt like it could touch the moonlight in the dark, desolate Truong Son forest night. The image of "Hanging Moon Gunhead" is an extremely beautiful image, demonstrating author Chinh Huu's sophistication in observation and description. The poem shows the soldier's romantic flight and at the same time contains the meaning of joy and optimism in the love of life of a soldier in hardship and danger. The image of the hanging moon gun head creates an extremely beautiful and unique natural picture. The soldier pointed his gun and waited for the enemy to come. Late at night, the moonlight became closer and closer to the people, feeling like the tip of the gun hung in the moonlight. The two images are extremely contrasting, but when standing next to each other, they make the poem extremely perfect. The image of a gun is an image of war, power and death. The image of moonlight represents beauty, poetry, and purity. The two images are completely opposite, but placed together, they make the poem's image become poetic and unique, becoming the symbol and soul of the entire poem. Soldiers in war and danger, they do not tremble or worry, but still show a passionate patriotic heart, working together towards the enemy with the same fighting goal, the same direction to maintain the foundation. national independence and protection of homeland territory.
Bài làm Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với bộ mặt giai cấp tàn bạo của những kẻ thống trị mất tính người, Sức mạnh của đồng tiền của danh lợi khiến cho những người phụ nữ khốn khổ trở thành món hàng cho bọn buôn phấn bán hương trong xã hội. Gia đình nhà họ Vương đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc bình yên nhưng lại bị một người bán thơ vu oan giá họa tai ương ập xuống đầu, khiến cho một gia đình đang hạnh phúc vướng vòng lao lý. Sau khi gia đình xảy ra biến cố bọn quan chức nha sai triều đình đã tranh thủ cướp của nhà Thúy Kiều, chúng đã được một lũ quan lại tham ô dung túng thừa nước đục thả câu vơ vét tiền của của người dân vào túi mình. Tên quan xử kiện cho cha Thúy Kiều cũng là người ăn tiền, lợi dụng chức quyền để kiếm chác. Sức mạnh của đồng tiền nặng tựa ngàn cân nằm trong tay kẻ tàn bạo, đồng tiền thành một thế lực vô cùng mạnh nó có thể chi phối mọi giá trị đạo đức của con người, làm mất lương tri của một con người. Những người mang chức trách giúp người dân lấy lại đạo lý nhưng lại vì tiền mà bẻ cong công lý. Cuộc sống vốn nhiều nước mắt của con gái tài sắc, mười phân vẹn mười Thúy Kiều bắt đầu dùng sức mạnh,quyền lực để tạo nên thế lực kiếm những đồng tiền dơ bẩn. Giá trị nhân đạo của của Truyện Kiều thể hiện việc tác giả Nguyễn Du đề cao con người từ phẩm chất, tài năng, ngoại hình cho tới những ước mơ chân thành. Người đọc có thể cảm nhận được là Thúy Vân có vẻ đẹp vô cùng nền nã, đoan trang, hiền thục, thể hiện một con người hiền lành, có cuộc sống vô cùng bình yên hạnh phúc. Còn Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo thể hiện một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Thúy Kiều cũng là một người có tài năng xuất chúng. Xưa nay phụ nữ đẹp thường ít thông minh và tài năng. Nhưng Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm xưa nay hiếm thấy ở một người phụ nữ. Vương Thúy Kiều có tài năng cầm kỳ thi họa, tài sắc đều mười phân vẹn mười. Với vẻ đẹp một hai nghiêng nước nghiêng thành. Qua nhân vật Thúy Kiều tác giả Nguyễn Du đã lên án tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo chà đạp lên con người, lên quyền hưởng thụ hạnh phúc của những người con gái tài sắc. Vương Thúy Kiều đã vướng phải mười lăm năm lưu lạc phải rơi vào chốn lầu xanh hết lần này tới lần khác khiến cho cuộc sống của cô sống không bằng chết. Qua mười lăm năm lưu lạc không có gì mà Thúy Kiều chưa trải qua nàng cũng đã tìm cách tự vẫn nhiều lần nhưng đều được cứu giúp. Từ một cô gái con nhà tiểu thư khuê các Thúy Kiều trở thành hàng hóa để người ta mua bán, trao đổi bị lừa gạt hết lần này tới lần khác, đem thân đi làm vợ lẽ người ta, làm gia nô, rồi bị hành hạ tra tấn đánh đòn. Thúy Kiều bị lăng nhục trở thành tội phạm ở chốn quan trường bị sỉ nhục rơi vào cảnh giết chồng, nỗi oan chồng chất. Cuộc đời Thúy Kiều là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của chế độ xã hội xưa. Chính xã hội bất lương đó đã xô đẩy người con gái tài sắc, có đức hạnh, hiếu nghĩa rơi vào hoàn cảnh khó khăn, mất đi hạnh phúc của đời mình chịu cảnh bể dâu phong trần. Qua Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Du trước những đau khổ của con người nhất là số phận người phụ nữ như Thúy Kiều. Bên cạnh đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể người đọc khắc sâu trong lòng người đọc, bởi giá trị nghệ thuật và giá trị nhân đạo. Trong tác phẩm của ông thể hiện sự tài hoa vô cùng sắc sắc, tinh tế, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật vô cùng sâu sắc. Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác lừng lẫy, với bút pháp của một nhà thơ thiên tài, nghệ thuật tự sự, thể hiện sự thành công trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả.
Assignment In Nguyen Du's work The Tale of Kieu, it reflects the reality of contemporary feudal society with the brutal class face of dehumanizing rulers. The power of money and fame makes women miserable. suffering becomes a commodity for the incense merchants in society. The Vuong family is living a very happy and peaceful life, but a calamity from a slanderous poetry seller befalls them, causing a happy family to become entangled in legal trouble. After an incident occurred in the family, the court officials took advantage of the opportunity to rob Thuy Kieu's family. They were given a lot of leniency by a group of corrupt officials to plunder people's money into their own pockets. . The mandarin who handled the case for Thuy Kieu's father is also a money-seeker, taking advantage of his position to make money. The power of money weighs thousands of pounds in the hands of a brutal person, money becomes an extremely strong force that can dominate all human moral values, losing a person's conscience. Those in charge help people regain morality, but for money they bend justice. Life was full of tears for a talented and talented girl, Thuy Kieu began to use her strength and power to create an influence to earn dirty money. The humanitarian value of The Tale of Kieu shows that author Nguyen Du promotes people from their qualities, talents, appearance to sincere dreams. Readers can feel that Thuy Van has an extremely elegant, dignified, and gentle beauty, representing a gentle person with an extremely peaceful and happy life. As for Thuy Kieu, she has a sharp beauty, showing off the beauty of a flower that gives way to a shy moon. Thuy Kieu is also a person with outstanding talent. In the past, beautiful women were often less intelligent and talented. But Nguyen Du gave Thuy Kieu many advantages that have never been seen in a woman. Vuong Thuy Kieu has a talent for chess and painting, and her talent is perfect. With the beauty of one or two tilts, the water tilts into the city. Through the character Thuy Kieu, author Nguyen Du denounced the brutal feudal regime that tramples on people and the right to enjoy happiness of talented girls. Vuong Thuy Kieu was trapped in fifteen years of wandering and had to fall into prostitution over and over again, making her life worse than death. After fifteen years of wandering with nothing that Thuy Kieu had not experienced, she also tried to commit suicide many times but was always saved. From a girl from the family of a noble lady, Thuy Kieu became a commodity for people to buy, sell, and exchange, was deceived again and again, used herself to be someone's concubine, a servant, and then was executed. subjected to torture and beatings. Thuy Kieu was humiliated and became a criminal in the official court. Thuy Kieu's life is an indictment denouncing the crimes of the ancient social regime. It is that dishonest society that pushes a talented, virtuous, and filial girl into a difficult situation, losing the happiness of her life and suffering a miserable life. Through The Tale of Kieu, it also shows author Nguyen Du's sympathy for human suffering, especially the fate of women like Thuy Kieu. Besides, Nguyen Du's The Tale of Kieu can be deeply engraved in readers' hearts, because of its artistic value and humanitarian value. In his works, his talent is shown to be extremely sharp and sophisticated, and his art depicts the character's innermost feelings extremely deeply. Nguyen Du's The Tale of Kieu is a famous masterpiece, with the penmanship of a genius poet and narrative art, demonstrating the author's success in using language.
Bài làm Tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử vô cùng sâu sắc, của cha con nhà bé Thu trong chiến tranh kháng chiến chống Mỹ. Đây là một câu chuyện có cốt truyện giản dị nhưng chứa đựng nhiều bất ngờ, thể hiện cái nhìn nhân sinh quan sâu sắc của tác giả Nguyễn Quang Sáng. Thông qua câu chuyện tác giả muốn tố cáo tội ác của chiến tranh, đã chia cắt tình cảm cha con, gia đình mang nhiều thương đau tới người dân đau khổ. Truyện ngắn xoay quanh hai cha con ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu tham gia lực lượng vũ trang khi bé Thu chỉ là một phôi thai nằm trong bụng mẹ. Bé Thu ra đời, đã bảy tám năm nhưng chưa gặp cha mình lần nào. Nó chỉ được nghe mẹ kể về bà và xem hình ba qua bức ảnh cưới đen trắng mà thôi. Ngày ông Sáu được nghỉ phép ít ngày về thăm gia đình, lần đầu tiên nhìn thấy con gái mình ông vô cùng nghẹn ngào xúc động. Ông Sáu chạy tới ôm con gọi lớn “Thu ơi! Ba đây con” Nhưng đáp lại tình cảm sâu sắc mãnh liệt của ông Sáu là thái độ hờ hững, tìm cách thoát khỏi vòng tay của người cha. Bé Thu chạy vào nhà gọi mẹ. Những ngày tháng hai cha con sống chung cũng có nhiều tình tiết khiến nhiều người phải suy nghĩ. Trong khi ông Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con, để được chăm sóc cho con gái những ngày được ở nhà, thì bé Thu lại vô cùng ngang ngạnh gai góc cương quyết không chịu nhận Ba. Trong bữa cơm, khi mẹ bảo Thu ra kêu bà vào ăn cơm. Nó chỉ ra ngoài và gọi trống không “vô ăn cơm!”. Sự gai góc, ngang ngạnh của con bé Thu khiến anh Sáu nhiều khi vừa tức giận, vừa cảm thấy thương nó. Có lần mẹ đi chợ xa, nó ở nhà nấu cơm, muốn đổ bớt nước trong nồi cơm cho cơm khỏi nhão. Nhưng sức nó yếu cái bếp lại cao nó không làm được điều đó. Ông Sáu quan sát bé Thu loay hoay bên nồi cơm xem thử con bé có chịu kêu mình bằng ba để nhờ sự giúp đỡ hay không. Nhưng không nó không bắt được nồi cơm khỏi bếp nhưng nó rất thông minh khi lấy cái muôi cơm xúc từng ít nước đổ đi. Trong bữa cơm gia đình quây quần bên nhau, ông Sáu muốn tăng cường tình cảm cha con muốn gần gũi chăm sóc con nhiều hơn nên gắp cho con một miếng trứng cá thơm ngon nhất. Nhưng còn bé hất mạnh tay làm cho miếng trứng cá rơi văng ra nền đất. Bực quá, ông Sáu phát cho con mấy cái vào đít. Con bé không khóc lóc mà nó chạy ra ngoài sông lấy chèo thuyền qua nhà bà ngoại, tối đó nó ngủ ở bên đó. Nhờ bà ngoại giảng giải, và nói lên nguyên nhân của những vết sẹo trên khuôn mặt của ông Sáu mà bé Thu đã hiểu ra tất cả. Hóa ra bấy lâu nay bé Thu không chịu nhận ông Sáu làm cha bởi nó thấy ông Sáu không giống với người cha trong ảnh mà nó thường nhìn thấy. Những vết sẹo gớm ghiếc trên mặt ông làm cho con bé Thu không thể nào nhận ra ông được. Nhưng khi bé Thu biết được đó chính là cha mình, những vết sẹo trên mặt ông Sáu là vì dân vì nước, vì bảo vệ mẹ con Thu mà có thì bé Thu đã khóc. Nó âm thầm lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt mình khi nghe bà ngoại kể về những chiến công của cha, những khó khăn vất vả mà cha nói phải đối diện ngoài chiến trường. Rồi ba ngày nghỉ phép cũng hết, ngày ông Sáu phải lên đường đi chiến đấu cũng đã tới, giây phút chia ly, tiễn biệt, nghẹn ngào. Ông Sáu nói với bé Thu “Ba đi nghe con” trong giây phút ấy bé Thu đã thực sự trở thành một cô bé đúng tuổi của mình. Nó gọi lớn “Không cho ba đi, ba phải ở nhà với con” rồi ôm chầm lấy ông Sáu mà khóc. Tình cảm cha con trào dâng mãnh liệt, tiếng ba được dồn nén, kìm kẹp quá lâu nay được phát ra vô cùng nghẹn ngào. Rồi ông Sau đi, bé Thu dặn dò “Ba mua cho một cây lược nghe”. Trong những ngày ông Sáu ở chiến trường ngoài những giờ phút đánh trận hiểm nguy, thì cứ lúc nào rảnh không lại ngồi để khắc cho con một chiếc lược ngà. Ông Sáu tỉ mỉ, mài từng cái răng của chiếc lược. Ông là nó bằng cả trái tim yêu thương của một người cha dành cho đứa con gái bé bỏng của mình. Rồi trong một lần tác chiến ông Sáu đã anh dũng hy sinh, máu nhuộm đỏ chiếc lược ngà ông để trong túi áo. Trong giây phút sinh tử hấp hối đó, ông Sáu đã lấy chiếc lược ngà ra trao cho người đồng đội thân thiết nhất của mình ông Quang và dặn dò ông Quang hãy trao tận tay cho con gái mình bé Thu chiếc lược ngà đó và nói với nó rằng “Ba rất yêu con”
Assignment The work "The Ivory Comb" by writer Nguyen Quang Sang is a short story about the extremely profound father-son love of little Thu's father and son during the resistance war against America. This is a story with a simple plot but contains many surprises, expressing author Nguyen Quang Sang's profound outlook on life. Through the story, the author wants to denounce the crimes of war, which separated father-child relationships and families, bringing much pain to the suffering people. The short story revolves around father and son, Mr. Sau and baby Thu. Mr. Sau joined the armed forces when baby Thu was just an embryo in her mother's womb. It's been seven or eight years since Baby Thu was born but she has never met her father. He only heard his mother talk about his grandmother and saw his father through black and white wedding photos. On the day Mr. Sau took a few days off to visit his family, the first time he saw his daughter he was extremely emotional. Mr. Sau ran to hug his child and called out, "Thu! Here's my dad." But the response to Mr. Sau's deep and intense feelings was an indifferent attitude, trying to escape his father's arms. Baby Thu ran into the house calling her mother. The days when father and son lived together also had many details that made many people think. While Mr. Sau tried every way to be close to his daughter, to take care of his daughter during the days at home, little Thu was extremely stubborn and determined to refuse to accept her father. During the meal, when mother asked Thu to come out, she asked her to come in and eat. It pointed outside and called the emptiness "come in and eat!". Thu's thorny and stubborn nature makes Mr. Sau sometimes both angry and feel sorry for her. One time, his mother went far away from the market and he was at home cooking rice, wanting to pour out some water in the rice cooker to stop the rice from becoming mushy. But his strength is weak and the stove is high so he can't do that. Mr. Sau observed little Thu struggling around the rice cooker to see if she would call him dad to ask for help. But no, it couldn't take the rice pot off the stove, but it was very smart to use the rice ladle to scoop out a little bit of water. During a family meal together, Mr. Sau wanted to strengthen the father-son relationship and wanted to be closer and take care of his child more, so he gave the child a piece of the most delicious fish roe. But the child shook his hand hard, causing the fish roe to fall onto the ground. So upset, Mr. Sau gave him several spankings. The girl didn't cry, but ran to the river to row a boat to her grandmother's house, where she slept that night. Thanks to her grandmother explaining and explaining the cause of the scars on Mr. Sau's face, little Thu understood everything. It turns out that for a long time little Thu refused to accept Mr. Sau as her father because she saw that Mr. Sau was not like the father in the pictures she often saw. The hideous scars on his face made it impossible for Thu to recognize him. But when little Thu learned that it was her father, and that the scars on Mr. Sau's face were due to the people and country, and to protect Thu and her mother, little Thu cried. He silently wiped the tears from his face as he listened to his grandmother tell about his father's victories and the hardships he said he had to face on the battlefield. Then the three days of leave ended, the day Mr. Sau had to leave to fight came, the moment of separation, farewell, choking. Mr. Sau said to little Thu, "Dad, go listen to me." At that moment, little Thu truly became a girl of her own age. He called out, "Dad, don't let me go, you have to stay home with me" then hugged Mr. Sau and cried. The feelings between father and son surged intensely, and the father's voice, which had been pent up and held back for so long, was now released extremely choked up. Then Mr. Sau left, little Thu told him, "Dad, buy me a comb." During the days when Mr. Sau was on the battlefield, in addition to the hours of dangerous battles, whenever he had free time, he sat down to carve an ivory comb for his son. Mr. Sau meticulously sharpened each tooth of the comb. He loved it with all the love of a father for his little daughter. Then, during a battle, Mr. Sau heroically sacrificed his life, his blood stained the ivory comb he kept in his pocket. In that moment of life and death, Mr. Sau took out the ivory comb and gave it to his closest comrade, Mr. Quang, and instructed Mr. Quang to give that ivory comb to his daughter, Thu, and said. telling him "Dad loves you very much"
Bài làm Nhà văn Nguyễn Minh Châu được xem là một nhà văn vô cùng sâu sắc, bởi mỗi tác phẩm, mỗi nhân vật của ông đều chứa đựng một triết lý sống vô cùng sâu sắc, một ý nghĩa nhân sinh quan, thể hiện thái độ quan điểm sống vô cùng tích cực nào đó khiến người đọc phải đọc bằng tâm hồn thì mới cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm Tác phẩm “Bến quê” là một câu chuyện hấp dẫn vô cùng ám ảnh với tất cả người đọc khi xem xong tác phẩm này. Trong tác phẩm của mình nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện triết lý sống vô cùng nhân văn sâu sắc, thể hiện quan niệm sống của ông “Con người ta trên con đường đời thật khó tránh khỏi những vòng vèo hay trùng trình” Câu nói này chính là triết lý sống vô cùng tinh tế sâu sắc nhưng mãi tới khi gần đất xa trời, nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” mới nhận ra được triết lý sống này. Phải chăng đây là triết lý mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã trải nghiệm và đúc kết từ cuộc đời mình để đưa vào trong trang viết. Tác giả phải có sự tinh tế, sâu sắc thấu hiểu cuộc đời và từng trải thì mới có thể ngộ ra chân lý đó. Một chân lý hiển nhiên nhưng nhiều chua chát và có sự tiếc nuối ở trong đó. Có hối hận ăn năn nhưng cũng đã muộn màng. Tác phẩm “Bến quê” là câu chuyện được kể lại thông qua cái nhìn, của nhân vật chính trong tác phẩm có tên là Nhĩ. Anh ta là nhân vật trung tâm, chính truyện. Một nhân vật mà tác giả Nguyễn Minh Châu đã phải lựa chọn kỹ càng, gửi gắm rất nhiều tâm tư tình cảm của mình trong đó. Nó thể hiện sự trăn trở, suy tư sâu sắc về cuộc sống của tác giả. Nguyễn Minh Châu cũng đã đặt ra tình huống truyện độc đáo với sự nghịch lý vô cùng trớ trêu, có thể coi như đó là tình huống tạo nên kịch tính cho câu chuyện vào làm nên triết lý sống sâu sắc cho nhân vật chính là anh chàng Nhĩ trong truyện hiểu được vấn đề. Nhân vật Nhĩ là một người mà khi còn trẻ khỏe, anh ta đã đi nhiều nơi trên đất nước, có thể nói không một xó xỉnh nào trên trái đất này mà Nhĩ chưa từng đi qua. Nhĩ đã nhìn thấy nhiều cảnh đẹp. Nhưng cuối đời anh lại bị căn bệnh quái ác hành hạ, Nhân vật Nhĩ được đặt vào một hoàn cảnh rất trớ trêu “suốt đời Nhĩ từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” nhưng đến cuối đời căn bệnh quái ác hành hạ, Nhĩ lại chưa từng đặt chân sang bãi bồi bên kia sông Hồng, nơi gần gũi và thân quen nhất. Đây chính là một nghịch lí cuộc sống đáng suy ngẫm. Khi mà cuộc đời Nhĩ đã bôn ba khắp nơi nhưng chính nơi gần gũi quen thuộc nhất, ngay tại quê hương của mình anh lại chưa bao giờ đặt chân tới. Sự trớ trêu này đã tạo nên trong lòng Nhĩ một nỗi day dứt khó phai. Vào một ngày đẹp trời, Nhĩ nhận ra mọi thứ tưởng như quá đỗi quen thuộc qua những ô cửa sổ nhà mình, qua đó Nhĩ nhìn thấy một bãi bồi vô cùng quen thuộc, đẹp lạ kỳ Nhĩ muốn được đặt chân qua đó một lần để ngắm nhìn bức tranh tuyệt đẹp đó. Nhưng anh không thể bởi Nhĩ bị bệnh và bị liệt nửa người, việc đi lại trở nên vô cùng khó khăn. Trong những ngày cuối đời, có hai chân lý mà Nhĩ đã nhận ra nhưng quá muộn màng, đó chính là người vợ của anh, khi còn trẻ Nhĩ thường bỏ đi suốt ít quan tâm tới vợ, và nhiều lần làm cho vợ mình phải buồn lòng nhưng những ngày cuối đời nằm liệt giường thì anh lại được vợ quan tâm chăm sóc vô cùng chu đáo. Anh vô cùng hối hận vì những ngày tháng đã bỏ bê vợ con, không quan tâm chăm sóc người vợ đầu ấp má kề của mình. Và điều thứ hai khiến Nhĩ hối hận đó, chính là việc muốn qua bãi bồi bên sông một lần cho biết nhưng không thể nào được nữa. Nhĩ không còn cách nào nên đã nhờ con trai của mình qua đó rồi về nhà kể cho mình nghe Tuy nhiên, trên chặng đường đi đứa con trai không thể nào vượt qua sự cám dỗ của những trò chơi vô cùng hấp dẫn mê hoặc nó. Nó mải chơi nên đã quên mất lời của Nhĩ dặn dò bỏ qua chuyến đò ngang duy nhất trong ngày để sang được bãi bồi bên kia sông. Về nhà nó ân hận kể lại cho Nhĩ nghe tất cả mọi sự việc. Lúc này, Nhĩ mới đau đớn nhận ra rằng “Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những cái vòng vèo hay chùng chình” Nhĩ đã bất lực khi nhìn con trai, anh ta cố vươn tới cửa sổ, anh muốn lấy chút sức lực cuối cùng của đời mình để bảo đứa con trai hay đi đi đừng để cho những thứ tầm thường cám dỗ mình là cho mình quên đi nhiệm vụ quan trọng. Nó thể hiện triết lý sống sâu sắc mà phải hết cả cuộc đời mình nhân vật Nhĩ mới nhận ra, mới cảm nhận và thấu hiểu được. Nhưng mọi thứ đều đã quá muộn, Nhĩ không thể nào chờ được nữa.
Assignment Writer Nguyen Minh Chau is considered an extremely profound writer, because each of his works, each character contains an extremely profound philosophy of life, a meaning of life, expressing an important attitude. Some extremely positive life points that make the reader have to read with their soul to feel the profound meaning of the work. The work "Countryside Harbor" is a fascinating story that is extremely haunting to all readers after watching this work. In his work, writer Nguyen Minh Chau expressed his extremely humane philosophy of life, expressing his concept of life: "On the path of life, it is difficult to avoid twists and turns." This saying is an extremely subtle and profound philosophy of life, but it was not until he was near the earth and far from heaven that the character Nhi in the short story "Countryside Harbor" realized this philosophy of life. Is this the philosophy that writer Nguyen Minh Chau has experienced and summarized from his life to put into his writing? The author must have sophistication and profound understanding of life and experience to be able to realize that truth. An obvious truth but with a lot of bitterness and regret in it. There is regret, but it's too late. The work "Countryside Harbor" is a story told through the eyes of the main character in the work named Nhi. He is the central character, the main story. A character that author Nguyen Minh Chau had to choose carefully, putting a lot of his feelings and emotions into it. It shows the author's deep concern and reflection on life. Nguyen Minh Chau also created a unique story situation with extremely ironic paradox, which can be considered as a situation that creates drama for the story and creates a profound life philosophy for the main character, himself. Nhi in the story understands the problem. The character Nhi is a person who, when he was young and healthy, traveled to many places in the country. It can be said that there is no corner of this earth that Nhi has never been to. Nhi has seen many beautiful scenes. But at the end of his life, he was tormented by a terrible disease. The character Nhi is placed in a very ironic situation: "throughout his life, Nhi has visited every corner of the earth" but at the end of his life, due to a terrible disease, Nhi has never set foot on the mudflats next door. Over there, the Red River, the closest and most familiar place. This is a life paradox worth pondering. While Nhi's life has traveled everywhere, he has never set foot in the most familiar place, right in his hometown. This irony created an unforgettable torment in Nhi's heart. On a beautiful day, Nhi realized that everything seemed so familiar through the windows of his house, through which Nhi saw an extremely familiar mudflat, strangely beautiful and wanted to set foot there once. to see that beautiful picture. But he couldn't because Nhi was sick and had half his body paralyzed, making walking extremely difficult. In the last days of his life, there were two truths that Nhi realized but it was too late. That was his wife. When he was young, Nhi often left without paying much attention to his wife, and many times made his wife have to do it. He was sad, but in the last days of his life, bedridden, he received extremely thoughtful care from his wife. He deeply regrets the days he neglected his wife and children, and did not care for his first wife. And the second thing that makes Nhi regret is that he wanted to cross the mudflats by the river once but couldn't do it anymore. Nhi had no other choice, so he asked his son to go there and come home to tell him about it However, along the way the son could not overcome the temptation of extremely attractive games that fascinated him. He was so busy playing that he forgot Nhi's instructions to skip the only ferry of the day to get to the mudflats on the other side of the river. When he got home, he regretfully told Nhi everything that happened. At this time, Nhi painfully realized that "It is difficult for people to avoid twists and turns on the road of life." Nhi was helpless as he looked at his son. He tried to reach out to the window. He wanted to use the last bit of strength in his life to tell his wandering son not to let trivial things tempt him and make him forget. Go on an important mission. It represents a profound philosophy of life that takes Nhi's entire life to realize, feel and understand. But everything was too late, Nhi couldn't wait anymore.
Bài làm Tác giả Lỗ Tấn là một nhà văn cách mạng nổi tiếng của nền văn học Trung Quốc. Tác phẩm “Cố hương” là một truyện ngắn vô cùng hay và xúc động. Nó đã gợi lên một hình ảnh quê hương với tình cảm chân thực, cảm động, thể hiện những kỷ niệm về ký ức tuổi thơ trong trẻo với thực tại phũ phàng. Sau hơn hai mươi năm xa cách quê hương, tác giả trong nhân vật tôi đã trở về thăm lại quê hương của mình. Chuyến thăm quê hương rất đặc biệt, nhân vật tôi về gặp lại người thân để bán nhà, giao lại ngôi nhà của mình cho chủ mới. Ở cố hương tác giả đã gặp rất nhiều người thân cũ, từ Nhuận Thổ anh bạn thủa thiếu thời. Tác giả cảm thấy rất buồn vì sau hai mươi năm nhưng quê hương của tác giả vẫn không thấy quê hương của mình có gì thay đổi, mọi thứ vẫn cũ kỹ, con người ở đây cũng vô cùng lạc hậu. Tác giả nhớ lại tình bạn đẹp với người mang tên Nhuận Thổ. Trong ký ức của tác giả Nhuận Thổ hồi còn nhỏ có khuôn mặt vô cùng mũm mĩm tròn trịa, là một cậu bé vô cùng tinh danh, có nhiều trò chơi vô cùng độc đáo. Nhuận Thổ khiến cho tác giả vô cùng ngưỡng mộ. Nhưng sau hai mươi năm gặp lại tác giả vô cùng thất vọng khi thấy Nhuận Thổ bây giờ già nua, lạc hậu, anh ta bị cái nghèo đói lạc hậu làm cho trở nên mê muội. Quê hương trong ký ức của tác giả vô cùng cảm động, là những kỷ niệm tuổi thơ vô cùng ấn tượng, nỗi buồn trong hiện tại và quá khứ khiến tác giả cảm thấy vô cùng buồn lúc gặp lại bạn cũ. Nhuận Thổ trước hết là tình bạn thân thiết của tuổi thơ, sống với nhau trong một khu làng, chơi thân với nhau trong suốt một tháng giêng mà suốt đời tác giả không thể nào quên nhau được bởi ký ức vô cùng sâu sắc. Hình ảnh nhân vật Nhuận Thổ ở thời điểm hiện tại lại là nỗi đau khổ buồn khổ về quê hương của mình. Bởi hình ảnh Nhuận Thổ đã thay đổi qua nhiều. Hình ảnh bề ngoài với nước da vàng xạm, những nếp nhăn sâu hoắm trên mặt, hai con mắt lúc nào cũng húp đỏ quần áo mỏng manh rách rưới. Cảnh nhà nghèo khó cơ cực quanh năm ăn bữa nay lo bữa mai bởi đông con, nghèo đói. Người anh ta lúc nào cũng co ro cúm rúm, đôi bàn tay nhanh nhẹn thoăn thoắt ngày xưa giờ thô kệch, nứt vẻ như vỏ quả thông. Chính thời gian đã tàn phá cuộc sống dung mạo của một con người. Sự nghèo khổ đã làm cho con người trở nên tàn tạ đã làm cho một chàng trai khỏe mạnh dẻo dai trở nên già nua thê lương. Hình ảnh người bạn thủa thiếu thời của tác giả hiện lên xơ xác, tiêu điều người nông dân khốn khó bị cái nghèo nàn lạc hậu bị áp bức bóc lột làm cho bần cùng hóa. Chính cảnh mất mùa sưu thuế trộm cướp làm cho người dân trở nên nghèo khổ, túng quẫn, mụ mị hết cả người. Không chỉ có nhân vật Nhuận Thổ đã thay đổi mà kể cả người phụ nữ là Tây Thi đậu phụ, trước kia chị là người xinh đẹp, nhanh thoăn thoắt, thì giờ trở thành người có tính táy máy, hay cầm nhầm đồ của người khác thành đồ của mình. Phần cuối cùng của câu chuyện tác giả đã mơ ước tới hình ảnh con đường. Một con đường của sự văn minh lý tưởng, thể hiện cho một chế độ mới mẻ, thể hiện sự thay đổi số phận cho những con người nơi đây.
Assignment Author Lu Xun is a famous revolutionary writer of Chinese literature. The work "The Old Country" is an extremely beautiful and touching short story. It evokes an image of the homeland with genuine, touching feelings, expressing memories of pure childhood memories with harsh reality. After more than twenty years away from his homeland, the author in my character returned to visit his homeland. The visit to his hometown was very special, my character returned to meet his relatives to sell his house and hand over his house to the new owner. In his hometown, the author met many old relatives, from his childhood friend Nhuan Tho. The author feels very sad because after twenty years, the author's hometown still does not see anything changing in his hometown, everything is still old, and the people here are also extremely backward. The author recalls the beautiful friendship with a person named Nhuan Tho. In the memory of author Nhuan Tho, when he was young, he had an extremely chubby and round face, was an extremely famous boy, and had many extremely unique games. Nhuan Tho made the author extremely admired. But after twenty years of meeting again, the author was extremely disappointed to see that Nhuan Tho was now old and backward, he was blinded by poverty and backwardness. The author's hometown in his memory is extremely touching, with extremely impressive childhood memories. The sadness in the present and the past makes the author feel extremely sad when meeting old friends. Nhuan Tho is first of all the close friendship of childhood, living together in a village, playing close to each other for a whole month in January, but the author cannot forget each other for the rest of his life because of extremely deep memories. The image of the character Nhuan Tho at the present time is that of suffering and sadness about his homeland. Because the image of Nhuan Tho has changed a lot. The appearance is with dark yellow skin, deep wrinkles on the face, two red eyes and thin, ragged clothes. The family is poor and destitute all year round, having to worry about tomorrow's meal because of the large number of children and poverty. His body was always shivering, his once nimble hands were now rough and cracked like pine cone shells. It is time that destroys a person's life. Poverty makes people crippled and makes a healthy and supple young man become sad and old. The image of the author's childhood friend appears shabby and desolate, a poor farmer impoverished by backward poverty and exploitation. It is the situation of poor harvests, tax collection and theft that makes people poor, destitute, and completely dazed. Not only the character Nhuan Tho has changed, but also the woman Tay Thi Tofu. Previously she was beautiful and quick-witted, but now she has become a fiddling person, often taking other people's things by mistake. another into your own. In the last part of the story, the author dreamed up the image of a road. A path of ideal civilization, representing a new regime, representing a change in fate for the people here.
Bài làm Truyện ngắn “Người con gái Nam Xương” là câu chuyện kể về thân phận oan khuất của người phụ nữ chính chuyên, chung thủy có nhan sắc nhưng bị xô đẩy tới đường cùng phải tìm đến cái chết để chứng minh mình trong sạch. Cái chết oan nghiệt của Vũ Nương chính là lời tố cáo tội ác của chế độ cũ ” trọng nam khinh nữ” thể hiện sự nhân văn, đồng cảm với số phận người phụ nữ của tác giả Nguyễn Dữ. Tác giả Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng được nhân vật người phụ nữ thủy chung, sâu sắc Vũ Nương nhưng ông đặt Vũ Nương vào tình huống vô cùng éo le, tình huống truyện đã khiến người con gái này bộc lộ được phẩm chất của mình. Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung son sắc trước sau như một. Nhưng hoàn cảnh trớ trêu nên Vũ Nương chịu sự hiểu lầm của người chồng, bị đánh đuổi ra khỏi nhà, nên Vũ Nương phải tìm cái chết. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn phẩm hạnh làm tròn đạo hiếu của người con dâu người vợ trong những ngày chồng nàng là Trương Sinh đi xa, đi ra chiến trường đánh giặc. Khi xa chồng Vũ Nương là người vợ rất thủy chung tha thiết yêu chồng, nỗi buồn cứ xâm chiếm trong lòng người phụ nữ, luôn chỉ có hình ảnh của người chồng của mình. Trong thời gian Trương Sinh đi chiến trường nàng Vũ Nương là con dâu hiếu thảo, người mẹ chăm sóc con chu đáo tận tụy với công việc nhà chồng. Khi mẹ chồng đau ốm vì nhớ con trai nàng đã tận tình chạy chữa thuốc men chăm sóc mẹ chồng. Nhưng bà không qua khỏi. Nàng đã đứng ra lo ma chay chu đáo cho mẹ chồng rồi một mình nuôi con chờ Trương Sinh trở về. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, hiếu nghĩa trước khi qua đời mẹ chồng còn nói với Vũ Nương rằng “Vũ Nương là người con dâu tốt khi Trương Sinh về sẽ không phụ lòng con” Tình cảm của Vũ Nương dành cho mẹ chồng không khác gì mẹ ruột của mình, khi bà ra đi Vũ Nương vô cùng đau xót, những ngày tháng chỉ còn hai mẹ con nàng vô cùng buồn khổ nhớ thương Trương Sinh chính vì thế mà hàng đêm nàng thường chỉ vào bóng mình và nói với con trai rằng “Ba con đó” Khi Trương Sinh quay về nhà tưởng rằng Vũ Nương được sống trong ngập tràn hạnh phúc, niềm vui tương phùng trọn vẹn, vợ chồng, con cái hạnh phúc bên nhau. Nhưng không ai ngờ chỉ vì một sự hiểu lầm nhỏ mà Trương Sinh nổi nóng với Vũ Nương, cho rằng nàng không đoan chính, không giữ tròn đức hạnh làm vợ. Rồi Trương Sinh không cho nàng có cơ hội giải thích vội vàng đuổi nàng ra khỏi nhà. Mặc dù Vũ Nương hết sức giải thích thanh minh nhưng Trương Sinh không nghe, một mực nghi oan cho nàng, khiến cho Vũ Nương vô cùng đau khổ. Nàng vô cùng đau khổ khi bị nghi oan, đối xử bất công không có quyền được giải thích một lời nên Vũ Nương vô cùng thất vọng nàng đã tự kết liễu đời mình để chứng minh sự trong sáng. Trong đoạn truyện này thể hiện tình tiết kịch tính, Vũ Nương bị đẩy tới bước đường cùng làm cho nàng phải tự tìm tới cái chết, chính là sự bất công của số phận, của xã hội. Bi kịch của Vũ Nương chính là bi kịch của những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến. Một người con gái có tấm lòng thủy chung, đức hạnh đáng lý ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, nhưng lại phải chết oan uổng, đau đớn, phải tự kết liễu đời mình khi còn rất trẻ, bỏ lại con thơ bơ vơ. Phải chăng chính vì cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh là sự bất bình đẳng, Trương Sinh hỏi cưới Vũ Nương với một trăm lạng vàng, như vậy giá trị của Vũ Nương được mua về với giá một trăm lạng. Trương Sinh có quyền đối xử với vợ mình như một nô lệ người hầu kẻ hạ trong gia đình chứ không phải người vợ. Trương Sinh thể hiện thói vũ phu gia trưởng khi không cho Vũ Nương quyền tự giải thích cho mình, mà khăng khăng đánh đuổi nàng ra khỏi nhà, bi kịch của Vũ Nương chính là bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Kẻ giàu có ức hiếp người nghèo khó, người đàn ông có quyền quyết định mọi việc còn người phụ nữ thì phải cam chịu mọi sự bất công vô lý nhất. Đông Thảo
Assignment The short story "Nam Xuong Girl" is a story about the unjust fate of a righteous, loyal woman with beauty but pushed to the edge and having to seek death to prove her innocence. Vu Nuong's cruel death is a denunciation of the crimes of the old regime of "respecting men and looking down on women" showing author Nguyen Du's humanity and sympathy for the fate of women. Author Nguyen Du was very talented in creating the character of a faithful and profound woman Vu Nuong, but he placed Vu Nuong in an extremely difficult situation. The story situation made this girl reveal her qualities. its substance. Vu Nuong is a filial daughter-in-law and a faithful wife. But due to ironic circumstances, Vu Nuong was misunderstood by her husband and was kicked out of the house, so Vu Nuong had to seek death. In her normal married life, she maintained the filial piety of a daughter-in-law during the days when her husband Truong Sinh was away, going to the battlefield to fight the enemy. When leaving her husband, Vu Nuong is a very loyal wife who loves her husband dearly. Sadness invades her heart, always filled with only the image of her husband. While Truong Sinh was on the battlefield, Vu Nuong was a filial daughter-in-law, a mother who took good care of her children and devoted herself to her husband's housework. When her mother-in-law was sick because she missed her son, she devoted herself to taking care of her mother-in-law's medicine. But she did not survive. She took charge of taking care of her mother-in-law's funeral and then raising her children alone, waiting for Truong Sinh to return. Vu Nuong was a faithful and filial woman. Before she passed away, her mother-in-law even told Vu Nuong that "Vu Nuong is a good daughter-in-law and when Truong Sinh returns, she will not disappoint you." Vu Nuong's feelings for her mother-in-law were no different from her own mother's. When she left, Vu Nuong was extremely sad. During the days when she and her child were alone, she was extremely sad and missed Truong Sinh. At night, she often pointed at her shadow and said to her son, "That's your father." When Truong Sinh returned home, he thought that Vu Nuong was living in happiness, full joy, husband and wife, and children happy together. But no one expected that because of a small misunderstanding, Truong Sinh became angry with Vu Nuong, thinking that she was not virtuous and did not maintain her virtue as a wife. Then Truong Sinh did not give her a chance to explain and quickly kicked her out of the house. Although Vu Nuong tried her best to explain, Truong Sinh did not listen and always blamed her, making Vu Nuong extremely miserable. She was extremely miserable when she was wrongly suspected and treated unfairly and had no right to explain, so Vu Nuong was extremely disappointed and took her own life to prove her innocence. In this story, Vu Nuong is pushed to a dead end, forcing her to seek her own death, which is the injustice of fate and society. Vu Nuong's tragedy is the tragedy of women living in feudal society. A girl with a loyal and virtuous heart should have enjoyed perfect happiness, but she had to die unjustly and painfully, ending her own life at a very young age, leaving behind her helpless children. . Is it because the marriage between Vu Nuong and Truong Sinh was unequal? ​​Truong Sinh asked Vu Nuong to marry him for one hundred taels of gold, so Vu Nuong's value was bought for one hundred taels. Truong Sinh has the right to treat his wife like a slave and servant in the family, not a wife. Truong Sinh showed his patriarchal brute force when he did not give Vu Nuong the right to explain himself, but insisted on kicking her out of the house. Vu Nuong's tragedy is the tragedy of women in feudal society. The rich oppress the poor, men have the right to decide everything and women have to endure the most absurd injustices. Dong Thao
Bài làm Tác giả Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới của dân tộc ta. Trước cách mạng tháng Tám thơ của Huy Cận thường mang nỗi buồn man mác khi chưa tìm ra chân lí của cuộc đời mình. Nhưng sau cách mạng tháng Tám thì thơ của Huy Cận đã thay đổi hẳn khi nó chuyển đổi sang phong trào tươi vui sôi nổi, hào hứng yêu đời thể hiện niềm tin của ông trước thời cuộc. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được tác giả Huy Cận sáng tác trong một chiến đi thực thế ở vùng Quảng Ninh. Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ và cảnh con người lao động hăng say nhiệt huyết tác giả đã viết bài thơ vô cùng độc đáo. Bằng sự cảm nhận quan sát tinh tế, thể hiện sự tỉ mỉ của mình Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh hoàng hôn với cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và trở về vô cùng dũng mãnh. Những người ngư dân tựa những thủy thủ, những chiến sĩ trong trận chiến với sông nước, với biển cả mênh mông. Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Tác giả Huy Cận dùng biện pháp nghệ thuật so sánh làm cho câu thơ sáng bừng lên, đối lập với những cảnh màn đêm buông xuống mặt trời dần khuất dạng. Cảnh hoàng hôn trên biển thật tuyệt vời, mặt trời lặn mà cứ ngỡ nó đang từ từ đi xuống biển, sáng rực rỡ cả một vùng trời tựa như hòn lửa. Cảnh màn đêm buông xuống qua cái nhìn của Huy Cận thật tinh tế, thể hiện sự sâu sắc khéo léo của tác giả, những đợt sóng biển như những chiếc then cửa đan cài lên nhau. Sau khung cảnh thiên nhiên cảnh hoàng hôn vô cùng hùng vĩ tuyệt vời thì bức tranh lao động của con người càng trở nên hăng say, tràn đầy nhiệt huyết: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đàn cá ơi! Lời hát của những người ngư dân trên biển ngợi ca sự giàu có hùng vĩ của biển cả với nhiều loại hải sản khác nhau. Nó mang lại nguồn thu nhập, sự sống, sự phấn khích cho những người ngư dân sống gần biển. Những lời ca tiếng hát của con người khi ra khơi, mong cho khoang thuyền đầy ắp cá, với tinh thần tươi vui phấn khởi tạo nên sự hăng say tin tưởng cho con người. Tác giả Huy Cận đã tái hiện lại khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vô cùng sinh động. Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Trong những câu thơ này tác giả Huy Cận đã hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ, cùng với những người ngư dân tham gia vào trận chiến với thiên nhiên biển cả mênh mông. Hình ảnh ” Buồm trăng” “lái gió” phảng phất những nét người đọc thường gặp trong thơ cổ điển nhưng lại mang hơi thở cuộc sống hiện đại thường ngày, gần gũi thân thuộc với những người dân lao động trên biển. Biển khơi luôn là nơi cho chúng ta vô cùng nhiều nguồn lợi nhuận, thức ăn. Nó là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú mang lại sự ấm no cho những người ngư dân Cá nhụ cá chim cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng. Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe, Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Trong khổ thơ này tác giả Huy Cận đã gọi tên từng loại cá một cách thân mật, như những người bạn thân thiết gọi tên nhau, sau bao ngày xa cách. Hình ảnh màn đêm thở, khiến cho chúng ta liên tưởng suy nghĩ tới một bức tranh thiên nhiên vô cùng lãng mạn xen lẫn những giọt mồ hôi gian nan vất vả của người ngư dân đánh cá. Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Trong những câu thơ này tác giả đã diễn tả lại khung cảnh đánh cá với những hành động vô cùng thành thục, điêu luyện tựa như những vị anh hùng đang múa võ trên biển cả mênh mông. Nhịp bài thơ nhanh hơn, gấp gáp hơn. Đây cũng chính là khoảng khắc khi mặt trời chuẩn bị lên khiến cho người dân phải nhanh chóng thu lưới về để mang cá ra chợ bán. Những hình ảnh giản dị, mộc mạc ấy được tác giả Huy Cận miêu tả bằng những lời lẽ vô cùng tinh tế thể hiện sự vĩ đại của những người ngư dân. Họ tựa như những anh hùng trên mặt trận biển cả Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi Trong khổ thơ cuối cùng này tác giả Huy Cận đã tái hiện lại khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về, những khúc hát vang xa trên đại dương gợi lên một sức sống mãnh liệt, hào hùng. Những khúc ca thể hiện niềm tin không khí sôi nổi của những người ngư dân sau một đêm làm việc cật lực trên biển họ trở về với cá đầy khoang. Một thành quả xứng đáng với những nỗ lực vất vả mà những người ngư dân đã bỏ ra. Hình ảnh “Đoàn thuyền đánh cá” chạy đua với mặt trời trong cảnh bình minh là một hình ảnh vô cùng tươi đẹp. Nó là bức tranh lao động hăng say thể hiện tinh thần, nhiệt huyết sống, khát khao chiến thắng thiên nhiên, làm chủ biển cả của những con người lao động. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” tác giả Huy Cận đã mang một cái nhìn mới mẻ về khung cảnh làm việc của những người dân nơi làng chàng. Bài thơ ca ngợi tinh thần hăng say lao động yêu đời của những con người bình dị. Thảo Nguyên
Assignment Author Huy Can is a poet who represents the new poetry movement of our nation. Before the August Revolution, Huy Can's poems often carried the sadness of not having found the truth of his life. But after the August Revolution, Huy Can's poetry changed completely when it transformed into a cheerful, vibrant and enthusiastic movement that expressed his faith in the times. The poem "Fishing Boat" was composed by author Huy Can during a field trip in the Quang Ninh region. In front of the majestic natural scenery and the scene of people working enthusiastically, the author wrote an extremely unique poem. With his delicate observation and meticulousness, Huy Can painted a picture of a sunset with a scene of fishing boats going out to sea and returning extremely bravely. Fishermen are like sailors and soldiers in the battle with the river and the vast sea. The sun falls into the sea like a ball of fire Waves were installed then, night slammed the door The fishing boats went out to sea again Wind singing sails along the coast. Author Huy Can uses the artistic method of comparison to make the verses brighter, in contrast to the scenes of night falling and the sun gradually disappearing. The sunset on the sea is wonderful, the sun sets and it seems like it is slowly going down to the sea, shining brightly on the whole sky like a ball of fire. The scene of nightfall through Huy Can's eyes is very delicate, showing the author's profound ingenuity, the ocean waves are like interlocking door latches. After the extremely majestic natural scenery of the sunset, the picture of human labor becomes even more enthusiastic and full of enthusiasm: Sing: The silver fish of the East Sea is quiet East Sea mackerel is like a group of shuttles Day and night, the sea weaves thousands of rays of light Come and weave your net, my fish! The songs of the fishermen at sea praise the majestic wealth of the sea with many different types of seafood. It brings income, life, and excitement to fishermen living near the sea. The songs and songs of people when going out to sea, hoping for the boat to be full of fish, with a cheerful and excited spirit create enthusiasm and trust for people. Author Huy Can has recreated the scene of the fishing boats sailing out to sea extremely vividly. Our boat rides the wind with moon sails Surfing between high clouds and flat sea Go out and park miles away to explore the ocean's belly Arrange a siege net. In these verses, author Huy Can immerses himself in the majestic nature, along with the fishermen participating in the battle with the vast ocean nature. The image of "Moon Sail" "driving the wind" reflects features readers often encounter in classical poetry but carries the breath of modern daily life, close and familiar to people working at sea. The sea is always a place that gives us countless sources of profit and food. It is an extremely rich resource that brings prosperity to fishermen Pomfret fish and small fish, Grouper fish sparkles with black and pink torches. Your tail swings bright yellow, At night, the stars breathe through the water of Ha Long. In this stanza, author Huy Can intimately names each type of fish, like close friends calling each other's names after many days of separation. The image of the breathing night makes us think of an extremely romantic picture of nature mixed with the sweat and hardships of fishermen. The dim star pulled the net in time for dawn I curled my hand around the heavy bunch of fish Silver scales and golden tail flash at dawn The net to fold the sail up to catch the pink sunlight. In these verses, the author describes the fishing scene with extremely mature and skillful actions like heroes dancing on the vast sea. The rhythm of the poem is faster and more urgent. This is also the moment when the sun is about to rise, causing people to quickly collect their nets to bring fish to the market to sell. These simple, rustic images are described by author Huy Can with extremely delicate words that show the greatness of the fishermen. They are like heroes on the sea front The song sails with the sea breeze The fleet of boats raced against the sun The sun rises above the sea in a new color The fish's eyes are full of breath In this last stanza, author Huy Can recreates the scene of the fishing boats returning, the songs echoing across the ocean, evoking a strong and heroic vitality. The songs express the exciting atmosphere of fishermen who, after a night of hard work at sea, return with a full tank of fish. An achievement worthy of the hard efforts the fishermen have put in. The image of the "Fishing fleet" racing against the sun at dawn is an extremely beautiful image. It is a picture of enthusiastic labor expressing the spirit, enthusiasm for life, and desire to conquer nature and master the sea of ​​working people. With the poem "The Fishing Boat", author Huy Can brought a new perspective on the working scene of the people in his village. The poem praises the spirit of hard work and love of life of ordinary people. Meadow
Bài làm Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật được viết vào năm 1969 khi nước ta đang trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước giải phóng Miền Nam ruột thịt thống nhất nước nhà. Bài thơ thể hiện được sự anh dũng, quả cảm của những chiến sĩ bộ đội cụ Hồ khi lái những chiếc xe thiếu những trang thiết bị tối thiểu nhưng vẫn băng băng tiến lên phía trước, quyết tâm giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Hai câu đầu của bài thơ “Tiểu đội xe không kính” tác giả Phạm Tiến Duật đã giải thích rõ ràng về việc vì sao những chiếc xe ô tô chở lương thực, thuốc men, đạn dược của bộ đội ta lại mất đi những tấm kính Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi. Nhưng chiếc xe khi mới mua về đều có kính đầy đủ nhưng theo thời gian trải qua nhiều bon rơi, đạn nổ nên những tấm kính bị vỡ, biến thành những chiếc xe không có kính. Đầu tiên chỉ là một hai chiếc nhưng dân dần trở thành một tiểu đội xe không kính. Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Trong hai câu thơ này tác giả Phạm Tiến Duật đã sử dụng từ láy “ung dung” thể hiện cho sự đường hoàng, đĩnh đạc,thể hiện cho tâm thế hiên ngang của người lính trong trận chiến. Điệp từ “nhìn” thể hiện cái nhìn yêu đời, không sợ hãi, không lo lắng của người lính, luôn luôn hướng thẳng tiến lên phía trước tất cả vì Miền Nam ruột thịt, vì ước mơ giải phóng nước nhà thống nhất tổ quốc. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng, Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái. Những chiếc xe không có kính chạy trong cát bụi, mưa sa, chạy trong bom đạn tất nhiên sẽ có những nỗi vất vả mà chỉ có người lái những chiếc xe này mới hiểu được. Thấy gió vào xoa mắt đắng, thể hiện sự gian khổ nhọc trong quá trình kháng chiến của những chiến sĩ dân tộc ta. Nhưng trong trái tim của người lính con đường trước mặt đã ăn sâu vào trái tim, chạy thẳng vào tim, nên họ cứ thế mà tiến lên phía trước không hề nao núng, sợ hãi. Trong quá trình lái xe không kính đó có những lúc người lính nhìn thấy những cánh chim trời bay sà vào buồng lái, rồi những giọt mưa táp thẳng vào mặt buốt lạnh. Có những niềm vui và có những khó khăn nhưng tất cả đều tiến lên phía trước. Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già. Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha! Trong những câu thơ này chi tiết đầy tính trữ tình lãng mạn, đầy những chất thơ bi tráng, những người lính ra đi khi tuổi đời còn đang xuân xanh phơi phới, tóc còn một màu đen tuyền óng ả, nhưng do bụi, gió cát làm cho những mái đầu đen tuyền đó biến thành màu trắng như người già. Nhưng tất cả đều cảm thấy vô cùng bình thường, như một chuyện hiển nhiên, không có gì đáng ngại. Nó còn trở thành những mẩu chuyện vui nhưng trận cười vui vẻ để người lính của chúng ta trêu đùa có những giây phút xả hơi, vui vẻ Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi! Những câu thơ này thể hiện lòng nhiệt tình cách mạng của những người lính bộ đội cụ Hồ nó không phải những hình ảnh trừu tượng khó hiểu mà được cụ thể hóa bằng con số ” lái hàng trăm cậy số”. Thông qua những cung đường gió biết bao mồ hôi, xương máu của những chiến sĩ cách mạng chúng ta rơi xuống. Nhưng bất chấp mọi khó khăn gian khổ, những người lính lái xe của chúng ta vẫn ung dung, lạc quan yêu đời. Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Trong những con đường hành quân, những lúc nhìn thấy đồng đội, người quen việc xe không có kính lại trở thành những ưu điểm. Những người bạn người đồng đội bát tay nhau một cách dễ dàng thuận lợi, qua những ô cửa kính đã vỡ khiến cho mọi sự tiếp xúc, trở nên dễ dàng thuận lợi hơn, gần gũi nhau hơn. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước; Chỉ cần trong xe có một trái tim Trong những câu thơ này hình ảnh “Trái tim” thể hiện sự ấm áp của tình yêu thương con người, một trái tim đang căng tràn sức sống, lòng thù hận dành cho kẻ thù. Một trái tim ấm nóng điều khiển mọi hành động của những người lính anh hùng, dũng cảm kia. Hình ảnh trái tim ở trong xe, thể hiện cho tình yêu của người lính, sự sống một trái tim biết rung động, biết yêu ghét rõ ràng, biết làm những việc có lý chí, thể hiện tinh thần quả cảm của những người lính. Hình tượng những chiếc xe của tiểu đội xe không kính thật là tinh tế, độc đáo. Những chiếc xe không có kính làm nổi bật hình ảnh anh dũng, quả cảm của những người lính lái xe dọc đường Trường Sơn. Họ là những người chiến sĩ hiện ngang, gan dạ bất chấp mọi nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Assignment Poet Pham Tien Duat's poem about the Glassless Car Platoon was written in 1969 when our country was in the stage of the resistance war against America to liberate the South and unify the country. The poem shows the heroism and courage of Uncle Ho's soldiers when driving cars lacking minimal equipment but still moving forward, determined to liberate the South and unify the country. . The first two lines of the poem "The squad of cars without glass" author Pham Tien Duat clearly explains why the cars carrying food, medicine, and ammunition of our soldiers lose their plates. glasses Not having glasses doesn't mean the car doesn't have glasses Shock bombs, shaking bombs, broken glass. But when the car was first purchased, it had full glass, but over time, many falling bombs and bullets exploded, so the glass panels were broken, turning into cars without glass. At first it was just one or two cars, but gradually it became a squad of cars without windows. I sit leisurely in the cockpit Looking at the ground, looking at the sky, look directly In these two verses, author Pham Tien Duat used the word "cavalier" to represent dignity, poise, and the courageous attitude of a soldier in battle. The word "look" represents the soldier's loving, fearless, and worry-free outlook, always moving straight forward, all for the sake of the South, for the dream of liberating the country and reunifying the fatherland. . Seeing the wind come in and rub my bitter eyes, See the road running straight to the heart Seeing stars and suddenly bird wings Like falling, like rushing into the cockpit. Cars without windows running in sand, dust, rain, and bombs will of course have hardships that only the drivers of these cars can understand. Seeing the wind coming in to rub your eyes is bitter, representing the hardships and hardships of our nation's soldiers during the resistance war. But in the hearts of soldiers, the road ahead is deeply ingrained, running straight to the heart, so they just keep moving forward without hesitation or fear. During the process of driving without glasses, there were times when the soldier saw birds flying into the cockpit, then raindrops hitting his cold face. There are joys and there are difficulties but all move forward. No glasses, yes there is dust, The dust sprayed my hair as white as an old person. No need to wash, light a cigarette Looking at each other with smiling faces ha ha! In these verses, the details are full of romantic lyricism, full of tragic poetry, the soldiers passed away when their lives were still in their prime, their hair was still a shiny jet black color, but due to dust and wind. The sand turns those black heads white like an old person's. But it all feels extremely normal, like an obvious thing, nothing to worry about. It also becomes funny stories and laughter so that our soldiers can joke and have moments of relaxation and fun. Without glasses, yes, my shirt is wet It's raining, it's pouring like it's outside No need to change the drive for hundreds of kilometers anymore The rain stops, the wind blows dry quickly! These verses express the revolutionary enthusiasm of Uncle Ho's soldiers. They are not difficult to understand abstract images but are concretized in numbers "driving hundreds of numbers". Through the windy roads, so much sweat and blood of our revolutionary soldiers fell. But despite all the hardships, our soldiers are still leisurely, optimistic and loving life. Met friends along the way Shaking hand through the broken glass window. On the marching routes, seeing teammates and people familiar with the fact that the car doesn't have windows becomes an advantage. Friends and teammates shook hands with each other easily and smoothly, through broken glass windows, making all contact become easier and closer. Our Hoang Cam kitchen is set up in the sky Sharing bowls and chopsticks means family The hammock is stuck on the road Go again, go again, the sky is bluer. The car is still running because the South is ahead; As long as there is a heart in the car In these verses, the image of "Heart" represents the warmth of human love, a heart filled with vitality and hatred for enemies. A warm heart controls every action of those heroic, brave soldiers. The image of a heart in the car represents the soldier's love, the life of a heart that can vibrate, know love and hate clearly, know how to do things with reason, demonstrating the brave spirit of the soldiers. . The image of the cars of the glassless vehicle squad is truly exquisite and unique. Vehicles without windows highlight the heroic and courageous image of soldiers driving along Truong Son road. They are courageous soldiers who defy all dangers to complete their missions.
Bài làm Nhà thơ Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc một cách vô cùng gần gũi, mộc mạc, thể hiện qua từ ngữ nhẹ nhàng tình cảm. Bài thơ “Ánh trăng” được rút ra từ tập thơ cùng tên được tác giả viết trong những năm 1978 khi đang sống tại Hồ Chí Minh. Bài thơ “Ánh Trăng” chính là tựa đề của bài thơ cũng là hình ảnh xuyên suốt bài thơ, thể hiện tình cảm gắn bó trước sau như một thủy chung, của con người và ánh trăng. Ánh trăng chính là người bạn thân thiết của con người xuyên suốt trong những câu thơ, thể hiện tình cảm gần gũi gắn bó. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng ánh trăng nhưng có sức mạnh làm lay động tới trái tim người đọc. Bài thơ được tác giả Nguyễn Duy bằng những hình ảnh ánh trăng vô cùng thân thuộc, tình cảm gắn bó thật đẹp Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ. Hình ảnh ánh trăng chính là biểu tượng thành công mà tác giả đã xây dựng thành công thể hiện những kỷ niệm gắn bó giữa con người và ánh trăng. Ánh trăng vô cùng tinh khiết, nhẹ nhàng lan tỏa từng cánh đồng mênh mông nuôi dưỡng những kỷ niệm đẹp tâm hồn của mỗi chúng ta. Đến những năm tháng hồi chiến tranh ở rừng vô cùng gian khổ, vất vả, ánh trăng thể hiện ký ức tuổi thơ thân thiết gần gũi như hai người bạn tâm giao tri kỷ, tình cảm gắn bó xuyên thời gian và không gian. Có thể nói Nguyễn Duy đã khéo léo tinh tế nên nhân hóa ánh trăng thành người bạn thân thiết, gắn bó tri kỷ của mình. Trong khổ thơ thứ hai của bài thơ, hình ảnh ánh trăng và con người lại được tái hiện thông qua những năm tháng chiến tranh, sự gắn kết của con người và ánh trăng thể hiện tình cảm gắn bó. Trần trụi giữa thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa Dù ở đâu thì ánh trăng vẫn thể hiện sự tròn vẹn của mình, thể hiện tình cảm ấm áp dành cho con người soi sáng những con người trong màn đêm hành quân tăm tối. Ánh trăng tình nghĩa, thủy chung luôn nhắc nhở con người tới những kỷ niệm thân thiết, không bao giờ có thể quên đi. Trong khổ thơ từ “ngỡ” chính là dấu hiệu cho sự ly tan, rạn nứt lãng quên ở khổ thơ tiếp theo giữa con người và ánh trăng: Từ hồi về thành phố Quen đèn điện của gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường Cuộc sống đô thi phồn hoa có nhiều ánh diện, nhà cao tầng, đầy đủ tiện nghi khiến cho con người quên dần đi người bạn thân thiết giản dị gắn bó với mình từ khi bé tới những ngày chiến tranh gian nan thử thách. Nhưng ánh trăng thì trước sau vẫn thủy chung son sắc, vẹn nguyên tròn đấy. Những câu thơ thể hiện cảm xúc nghẹn ngào Thình lình đèn điện tắt Phòng buyn-đinh tối om, Vội bật tung cửa sổ, Đột ngột vầng trăng tròn. Đến những khổ thơ này thì giọng thơ, tứ thơ đột ngột thay đổi, có lẽ chính bản thân tác giả đã thay đổi nên mới dẫn tới sự thay đổi trong cuộc sống của con người. Sau chiến tranh hòa bình lập lại con người trở về thành phố xây dựng cuộc sống mới thì họ dần dần quên mất quá khứ khó khăn, những người bạn đã chung sức trong khó khăn gian khổ. Chính cuộc sống đầy đủ, với ánh sáng của đèn điện sáng trưng, thì ánh trăng mờ nhạt chẳng là gì cả. Hai từ “thình lình” được tác giả dùng một cách độc đáo, có thể thấy sự không vững vàng trong thâm tâm của con người. Trong tâm hồn có một sự chuyển biến sâu sắc nên mọi thứ trở nên không rõ ràng vững vàng. Nhưng rồi một ngày đèn điện biến mất, những thứ tiện nghi khiến cho con người lại tìm tới những thứ xưa cũ, khi cửa sổ được bật tung ra thì vầng trăng tròn vành vạnh đã làm cho tác giả cảm thấy ngỡ ngàng, cảm thấy hổ thẹn ánh trăng tình nghĩa tròn đầy kia. Thực ra đến khổ thơ này tác giả đã nhận ra sự vô tâm, hững hờ của mình đối với quá khứ, những kỷ niệm thiêng liêng gắn bó qua những ngày khó khăn, gian khổ. Khi tác giả đối diện với ánh trăng có điều gì đó rưng rưng xúc động khiến cho lòng người chợt chùng xuống, ngỡ ngàng xúc động. Một cuộc gặp gỡ hội ngộ vô cùng bất ngờ giữa tác giả và ánh trăng. Vầng trăng tròn vành vạnh Kể chi người vô tình Ánh trăng im phăng phắc Đủ cho ta giật mình Trong những câu thơ thể hiện phép đối lập song song thể hiện lương tâm của con người đã được giác ngộ và thức tỉnh đúng lúc trước ánh trăng tròn đều, vẹn nguyên sau bao nhiêu thăng trầm của thời gian.
Assignment Poet Nguyen Duy is a poet who grew up during the anti-American resistance war. His compositions enter the hearts of readers in an extremely close and simple way, expressed through gentle and emotional words. The poem "Moonlight" is taken from a collection of poems of the same name written by the author in 1978 while living in Ho Chi Minh. The poem "Moonlight" is the title of the poem as well as the image throughout the poem, expressing the everlasting and faithful bond between people and moonlight. Moonlight is man's close friend throughout the verses, expressing close feelings and attachment. It can be said that Nguyen Duy was very delicate to successfully create the image of moonlight but has the power to move the reader's heart. The poem was written by author Nguyen Duy with extremely familiar images of moonlight and beautiful emotional attachment When I was young, I lived with the fields with the river and then with the tank During the war in the forest The moon becomes a soulmate. The image of moonlight is a symbol of success that the author has successfully built, expressing the memories of the bond between people and moonlight. The moonlight is extremely pure, gently spreading across the vast fields, nurturing beautiful memories in each of our souls. During the war years in the forest, which were extremely arduous and difficult, the moonlight expressed childhood memories as close and intimate as two soul mates, an emotional attachment across time and space. It can be said that Nguyen Duy cleverly transformed the moonlight into his close friend and soulmate. In the second stanza of the poem, the image of moonlight and people is recreated through the years of war, the bond of people and moonlight expressing emotional attachment. Naked in the middle of nature Innocent like plants Never forget The moon of love No matter where you are, the moonlight still shows its fullness, expressing its warm affection for humans, illuminating people in the dark marching night. The moonlight of love and fidelity always reminds people of intimate memories that can never be forgotten. In the poem, the word "thought" is a sign of the separation and rift of oblivion in the next stanza between humans and the moonlight: Since returning to the city Get used to the electric light of the mirror The moon passes through the alley Like a stranger passing by The prosperous urban life with many faces, high-rise buildings, and full amenities makes people gradually forget the simple, close friend who has been with them since childhood until the difficult and challenging days of war. But the moonlight is always the same color and fullness. The verses express choking emotions Suddenly the electric light went off Buyn-ding room is dark, Hastily opened the window, Suddenly the moon is full. In these stanzas, the poetic tone and quatrains suddenly change. Perhaps the author himself has changed, leading to changes in people's lives. After the war and peace was restored, people returned to the city to build a new life. They gradually forgot the difficult past and the friends who had worked together in difficulties and hardships. Life itself is full, with the light of bright electric lights, the faint moonlight is nothing. The author uses the two words "suddenly" in a unique way, showing the instability in the hearts of people. There is a profound transformation in the soul so everything becomes unclear and stable. But then one day the electric lights disappeared, the conveniences made people look for old things again, when the window was opened, the full moon made the author feel surprised and feel Ashamed of that full, loving moonlight. In fact, in this stanza, the author realizes his indifference and indifference towards the past, the sacred memories that have stuck with him through difficult and arduous days. When the author faces the moonlight, there is something touching that makes people's hearts suddenly sink, surprised and touched. An extremely unexpected reunion between the author and the moonlight. The moon is round and round Not to mention unintentional people The moonlight was silent Enough to startle me In the verses, the parallel contrast shows that the human conscience has been enlightened and awakened at the right time before the full moonlight, intact after many ups and downs of time.
Bài làm Bài thơ “Viếng lăng Bác” của tác giả Viễn Phương thể hiện sự thành kính nỗi tiếc thương của tác giả với vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh. Bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại những tình cảm sâu sắc của tác giả giả khi lần đầu được vào lăng viếng Bác. Mở đầu của tác phẩm là dòng cảm xúc nghẹn ngào của tác giả khi bước chân vào lăng, tác giả xưng con với Bác, một lời xưng hô giản dị nhưng thể hiện sự gần gũi thành kính. “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” Hình ảnh cây tre Việt Nam được tác giả sử dụng là một hình ảnh ẩn dụ thể hiện cho những người dân nước ta, những con người cần cù lao động, những người dân cày, vô cùng kiên cường. Họ như những lũy tre kia, bình thường thì mong manh yếu ớt, nhưng khi họ đoàn kết nhau lại thì tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn, bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương Hình ảnh cây tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh giữ đồng lúa chín đã trở thành hình ảnh quen thuộc thân thương với tất cả chúng ta. Tre cũng là loài cây có rất nhiều tác dụng dùng làm lạt, làm nhà, đóng thuyền, ngăn gió bão, chắn lụt… “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Trong hai câu thơ này hình ảnh “mặt trời” được tác giả Viễn Phương nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Có hai mặt trời trong câu thơ này, nếu như mặt trời ở câu thơ trên là hình ảnh mặt trời của vạn vật của tạo hóa thiên nhiên, luôn tỏa ánh sáng xuống trái đất theo một quy luật nhất định, thì trong câu thơ thứ hai hình ảnh mặt trời là chính là một hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo. Hình ảnh mặt trời trong câu thơ “mặt trời trong lăng” chính là vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta. Bác như một mặt trời của toàn dân tộc Việt Nam, người đã tìm được cứu nước thành công đưa đất nước ta thoát khỏi cuộc sống nô lệ lầm than. Bác Hồ chính là mặt trời hồng tỏa những tia nắng soi đường chỉ lối cho toàn thể dân tộc ta thoát được đêm dài đen tối. Người chèo lái đưa con thuyền cách mạng của dân tộc ta cập bến của chiến thắng, vinh quang. “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” Điệp từ ngày ngày được tác giả sử dụng thể hiện cho dòng thời gian trôi đi lặp đi lặp lại, dòng người vào lăng viếng Bác vẫn ngày càng nhiều hơn. Tình yêu của toàn dân dành cho Bác không bao giờ phai nhạt, mà vẫn vẹn nguyên theo thời gian. Hình ảnh 79 mùa xuân thể hiện cho số tuổi thọ của Bác khi còn sống. Mỗi chúng ta ai cũng đều phải trải qua những quy luật của cuộc đời của chính mình khi chúng ta phải tuân theo: sinh, lão, bệnh, tử. “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vãn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Hình ảnh Bác nằm trong lăng thật hiền lành nhân từ, như một vầng trăng tỏa ánh sáng dịu hiền, mát mẻ, trên khuôn mặt người dường như vẫn còn đang mỉm cười như chỉ ngủ say một giấc ngàn thu. Khiến cho tác giả cảm thấy dường như Bác vẫn ở đây chưa bao giờ rời xa. Bởi Bác sống mãi trong trái tim chúng ta, trong trái tim những người dân, trong sự nghiệp phát triển của dân tộc. Mỗi câu thơ đều thể hiện tình cảm sâu lắng của tác giả dành cho người cha già của dân tộc một cách vô cùng sâu sắc, chân thành, thể hiện những cảm xúc nghẹn ngào trong tim. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” Tình yêu thương của tác giả Viễn Phương dành cho Bác kính yêu được dồn nén nay bỗng nhiên tan chảy, bao ước muốn, cảm xúc đều được tác giả vỡ òa ra theo từng nhịp bài thơ, theo cách ngắt nhịp ngày càng dồn dập thể hiện tình cảm mãnh liệt nghẹn ngào cảm xúc của tác giả. Điệp từ “muốn làm” thể hiện mong ước nguyện vọng của tác giả khi phải rời xa, tác giả không hề muốn đi chút nào. Ước muốn được là bông hoa, hương tỏa cho bên Bác, làm con chim ca hót quanh lăng, rồi muốn làm cây tre được “Trung hiếu” vĩnh viễn nơi này. Những ước mong đó thể hiện những tình cảm vô cùng mãnh liệt của tác giả. Những lời thơ được viết ra vô cùng nghẹn ngào xúc động là những cảm xúc vô cùng chân thực của tác giả dành cho Bác một vị cha già của cả dân tộc Việt Nam. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là một bài thơ hay vô cùng xúc động dù đã trải qua rất nhiều thập kỷ nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc khó phai. Đông Thảo
Assignment The poem "Visiting Uncle Ho's Mausoleum" by author Vien Phuong shows the author's respect and grief for the father of the nation Ho Chi Minh. This lyrical poem captures the author's deep feelings when he first visited Uncle Ho's mausoleum. The opening of the work is the author's choking emotions when entering the mausoleum, the author addresses Uncle Ho, a simple address but showing respectful closeness. “I was in the South to visit Uncle Ho's mausoleum I saw vast rows of bamboo trees in the mist Oh, the green bamboo of Vietnam Storm rain fell upright rows" The image of Vietnamese bamboo used by the author is a metaphorical image representing the people of our country, the hard-working people, the plowing people, who are extremely resilient. They are like those bamboo poles, normally they are fragile and weak, but when they unite together they create immense strength, storms and rain fall in a straight line. Analysis of the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum by Vien Phuong The image of bamboo protecting the village, protecting water, protecting thatched roofs and protecting ripe rice fields has become a familiar and dear image to all of us. Bamboo is also a plant that has many uses for making bamboo, making houses, building boats, preventing wind and storms, preventing floods... “Every day the sun passes over the mausoleum Seeing a red sun in the steering so" In these two verses, the image of "sun" is repeated many times by author Vien Phuong. There are two suns in this verse. If the sun in the above verse is the image of the sun of all things of natural creation, always radiating light to the earth according to a certain rule, then in the second verse The two images of the sun are an extremely unique metaphor. The image of the sun in the poem "the sun in the mausoleum" is our beloved leader. He is like the sun of the entire Vietnamese people, who successfully found and saved our country from a life of slavery and misery. Uncle Ho is the pink sun shining with rays of sunlight to show the way for our entire nation to escape the long dark night. The helmsman brought our nation's revolutionary boat to the harbor of victory and glory. “Every day a stream of people walks in longing The flower garland offers seventy-nine springs. The author uses the word "day by day" to represent the passage of time over and over again, the flow of people coming to visit Uncle Ho's mausoleum is still increasing. The love of the entire people for Uncle Ho never fades, but remains intact over time. The image of 79 springs represents Uncle Ho's lifespan when he was alive. Each of us has to go through the rules of our own lives that we must follow: birth, aging, illness, death. “Uncle lies in a peaceful sleep In the middle of a gentle bright moon I know the sky is blue forever But why listen to the throbbing in my heart" The image of Uncle Ho lying in the mausoleum is so gentle and benevolent, like a moon radiating gentle, cool light, his face still seems to be smiling as if he was just sleeping in a deep sleep. Makes the author feel like Uncle Ho is still here and has never left. Because Uncle Ho lives forever in our hearts, in the hearts of the people, in the development of the nation. Each verse expresses the author's deep feelings for the old father of the nation in an extremely profound and sincere way, expressing choking emotions in his heart. “Tomorrow when I return to the South I feel tears in my eyes I want to be a bird that sings around Uncle Ho's mausoleum I want to be a fragrant flower somewhere Want to make this place bamboo tastes" Author Vien Phuong's pent-up love for his beloved Uncle suddenly melted away. All wishes and emotions were burst out by the author with each beat of the poem, in an increasingly intense rhythm. Expresses the author's intense and suffocating emotions. The refrain "want to do" shows the author's wishes and aspirations when he has to leave, the author does not want to go at all. I want to be a flower and a scent that spreads to Uncle Ho's side, a bird that sings around the mausoleum, and then a bamboo tree that is forever "loyal" to this place. Those wishes express the author's extremely strong feelings. The words of the poem written are extremely choking and emotional, and are the author's extremely true feelings for Uncle Ho, an old father of the entire Vietnamese nation. The poem "Visiting Uncle Ho's Mausoleum" is a beautiful and extremely moving poem. Even though many decades have passed, the poem still leaves deep and unforgettable impressions in the reader's heart. Dong Thao
Bài làm Qủa thật trong tình dân tộc thì có thế thấy được rằng nghĩa đồng bào là vô cùng thiêng liêng. Từ ngàn xưa cho đến nay ta như biết được rằng chính tình nghĩa nồng thắm ấy dường như cũng đã in sâu vào trái tim khối óc của con người Việt Nam, và chính điều đó cũng đã như tạo nên bản sắc dân tộc. Dễ dàng có thể nhận thấy được rằng chính trên chặng đường mấy nghìn năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu, nhân dân ta dường như cũng đã phát huy cao độ lòng yêu nước thương nòi thành truyền thống quý báu. Qủa thật ta như biết được rằng chính truyền thống ấy đã trở thành tiếng hát, lời ca như thật vang vọng nó mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Tiêu biểu và điển hình hơn cả chính là câu ca dao sau: “Nhiễu điểu phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đầu tiên ta phải hiểu được “Giá gương” là gì? Gía gương được nhắc đến trong câu ca dao chính là một vật dụng đặt trên bàn thờ gia tiên. Nó dường như cũng chính là một biểu tượng thiêng liêng và thật thành kính đến những người đã khuất. Ở phía trên giá gương có thể là một tấm ảnh theo đó là một tờ giấy đã như bị phai màu ghi một vài nét tiểu sử cũng như công đức của người đang được thờ cúng có được. Giá gương thông thường đã được người thợ tài hoa sơn son thếp vàng rất đẹp, nó dường như mang một vẻ đẹp cổ kính trang nghiêm vậy. Còn “Nhiễu điều” trong câu ca dao chính là một thứ hàng dệt cao cấp (vóc, nhiều, the, lụa…) màu đỏ thắm thường thường có màu đỏ thắm. Người ta đem nhiễu điều phủ lấy giá gương lại để có thể làm cho giá gương thêm được một vẻ đẹp mang chút thiêng liêng, thêm trang trọng. Có lẽ đặc biệt hơn cả là chữ “phủ” trong câu ca dao nó như gợi nhắc và có ý nghĩa chở che, bao bọc đồng thời nó như đã biểu thị một thái độ, và cả một tấm lòng tôn kính, biết ơn công lao của con cháu đối với ông bà, tổ tiên. Ta như thấy được hình ảnh gắn bó vừa thiêng liêng, vừa nghĩa tình biết bao nhiêu. Các bậc tiền nhân đi trước thật tinh tế khi đã lựa chọn hướng tiếp cận độc đáo trong câu ca dao. Câu ca dao như một lời bài hát đã đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ so sánh đến khái quát, nhân dân ta cũng như đã lấy hình ảnh ”Nhiễu điều phủ lấy giá gương” để có thể thông qua đó đã nhắc nhớ và gợi nhắc lên một bài học về đạp lý vô cùng sâu sắc. Và đạo lý đó cũng đã nêu cao tinh thần của tình yêu thương sự đùm bọc lẫn nhau nó không phải nói về cá nhân mà nói về cả một xã hội. Và vì thế mới có câu “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Khi mà người trong một nước cùng chung cội nguồn, cũng có chung nòi giống đều là con Rồng cháu tiên. Ở họ dường như cũng có chung một nền văn hoá lâu đời, và người một nước thì họ lại còn có chung lịch sử, chung một mẹ Việt Nam yêu quý. Và cho dù là Kinh hay Mường, Thái hay Tày, Ba-na hay Ê-đê, v.v… thì họ cứ vẫn là anh em xa gần, anh em trong đại gia đình Việt Nam. Và họ lại có mối quan hệ vật chất và tinh thần gắn bó, khi mà họ. Ta không thể quên được huyền thoại trăm trứng nở trăm co của mẹ Âu Cơ. Ta như đã biết thêm được rằng chính họ là những người có chung nguồn góc, chung một tổ tiên. Ta có thể thấy được chính tình yêu thương đoàn kết dân tộc ấp ủ trong tim ta tình làng nghĩa xóm đậm đà thân thương. Và chính vì sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau nên trong lịch sử vàng son của dân tộc ta còn ghi dấu mãi những chiến côn và tinh thần đoàn kết. Một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng lại có được sức mạnh to lớn nhấn chìm mọi kẻ thù hung bạo nhất. Qủa thật rằng chính tình yêu thương đoàn kết dân tộc phải được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể đó chính là hành động như nhường cơm sẻ áo, giúp thuốc men, lương thực… và hơn nữa là để cho nhau khi gặp thiên tai địch họa thì cả cộng đồng lại chung tay góp sức cứu giúp người dân. Bởi: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Assignment Indeed, in national love, one can see that compatriotism is extremely sacred. From ancient times until now, we know that it is that passionate love that seems to have been deeply imprinted in the hearts and minds of the Vietnamese people, and that is what has created the national identity. It is easy to see that on the journey of thousands of years of building and protecting our beloved Fatherland, our people seem to have highly promoted patriotism into a precious tradition. Indeed, it is as if we know that the tradition itself has become a song, the lyrics resonate so real that it carries a profound educational meaning. The most typical and typical is the following folk song: “Noises cover the mirror stand, People in a country to trade together". First we must understand what "Mirror Price" is? The mirror stand mentioned in the folk song is an item placed on the ancestral altar. It also seems to be a sacred and respectful symbol to the deceased. Above the mirror shelf may be a photo followed by a faded piece of paper recording some of the biography and merits of the person being worshiped. The ordinary mirror shelf has been beautifully painted and gilded by a talented craftsman, it seems to have a solemn, ancient beauty. As for "Nhieu Dieu" in the folk song, it is a type of high-class textile (thread, lot, lace, silk...) that is usually crimson in color. People cover the mirror shelf with cashew leaves to make the mirror shelf have a more sacred and solemn beauty. Perhaps the most special thing is the word "phu" in the folk song, it seems to remind and has the meaning of protecting and enveloping, and at the same time it seems to express an attitude, and also a heart of respect and gratitude for the work. descendants' labor towards grandparents and ancestors. We can see how sacred and meaningful the image is. The predecessors were very clever in choosing a unique approach in folk songs. The folk song, like a song lyric, has gone from the concrete to the abstract, from comparison to generalization. Our people have also taken the image of "Noise covering the mirror shelf" to be able to remind them through it. and evokes an extremely profound lesson in logic. And that morality also upholds the spirit of love and mutual support. It is not about individuals but about the whole society. And that is why there is a saying "People in a country must love each other". When people in a country share the same origin and are of the same race, they are all Dragons and Fairies. They also seem to have the same long-standing culture, and being from the same country, they also have the same history, the same beloved Vietnamese mother. And whether Kinh or Muong, Thai or Tay, Ba Na or Ede, etc., they are still brothers near and far, brothers in the great Vietnamese family. And they have a close physical and spiritual relationship, when they. We cannot forget Au Co's mother's legend of a hundred eggs hatching. We have learned that they are people from the same origin, a common ancestor. We can see the love of national solidarity cherished in our hearts, the rich and loving love of the village. And because of our mutual love and support, our nation's golden history is forever marked by battles and the spirit of solidarity. Although a small nation, it has great power to submerge even the most ferocious enemies. It is true that the love of national unity must be expressed through specific actions, such as giving food, sharing clothes, helping with medicine, food... and more importantly, helping each other when faced with natural disasters. When the enemy strikes, the whole community joins hands to help save the people. By: "Government interference that takes the mirror,
Bài làm Có thể thấy được rằng công việc học tập luôn được đánh giá là quan trọng đối với con người, đặc biệt là càng trong xã hội hiện đại thì lại càng thấy được sự quan trọng của việc học tập. Học tập giúp cho con người ta lĩnh hội được nhưng tri thức hay mới và bổ sung cho kiến thức cũ. Có lẽ chính vì thế mà Lê – nin đã từng nói rằng “Học, học nữa, học mãi” để khuyên nhủ con người chúng ta cần phải coi trọng việc học, và học không ngừng nghỉ. Thật dễ có thể nhận thấy được câu nói của Lê-nin có tới ba ý, và ba ý này lại như đã có thể được tách riêng bởi ba dấu phẩy. Câu nói như thật ý nghĩa đó là “Học, học nữa, học mãi”, chính với cách nói ngắn gọn, nó dường như như một khẩu hiệu hành động hô to và thật dõng dạc. Việc “Học” còn được coi chính là một lời thúc giục con người học tập và cũng như thôi thúc mỗi chúng ta cứ tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức. Còn ý câu “Học nữa” nó như là một lời gợi nhắc nhớ chúng ta nên tiếp tục học tập, học tập thêm nữa, mỗi con người phải con học tập là kim chỉ Nam mới có thể duy trì thêm nữa việc học tập. Ý cuối cùng đó là “học mãi”, việc học mãi này như một ý rất hay và bao hàm nó dường như cũng đã nâng cao hơn nữa. “học mãi” như là để có thể tiếp tục phát triển ý đã nói trước đó đó chính là con người chúng ta cần mãi học tập, học tập suốt cả cuộc đời. Tựu chung lại ta có thể nhận thấy được ba ý trong một câu nói mang tính chất tăng tiến. Sự tăng tiến chẳng những thúc giục cho mỗi người chúng ta học tập mà còn còn như đã khẳng định tính chất của công việc học tập. Qủa thật học tập chính là công việc lâu dài, mà đã là công việc lâu dài thì chúng ta cần học tập mãi mãi. Câu hỏi tại sao phải học tập? Và câu hỏi tại sao phải “học nữa, học mãi”? Luôn luôn thường trực cho những ai khi đọc lời dạy này của Lê – nin. Câu trả lời có lẽ là do chính bởi chỉ có con đường học tập mới giúp chúng ta có được tri thức về tự nhiên và xã hội. Nhờ có học tập mà đã giúp cho tất cả chúng ta tồn tại được trong thế giới nói chung và xã hội loài người nói riêng. Khi chúng ta mà có tri thức, chắc chắn rằng cúng ta sẽ nhận thức đúng về những hiện tượng và quy luật tự nhiên, xã hội này. Ví dụ là những điều đơn giản như thấy nắng thì biết đem những vật ướt ra phơi. Còn khi mà chúng ta thấy người khác tức giận thì biết bình tĩnh, kiềm chế cơn nóng giận. Thực sự con người mà có được những tri thức, chúng ta có việc làm ổn định, đồng thời chính bản thân người có hộc sẽ có thu nhập để nuôi sống bản thân họ. Không dừng lại ở đó ta như thấy được gia đình và trở nên có ích đối với xã hội hơn rất nhiều. Nhưng ta có thể thấy được việc học dường như không dừng lại ở đó, mà để cuộc sống tốt đẹp theo dòng chảy hiện đại thì lại cần phải có được cho mình những kiến thức tươi mới của thời đại. Chính vì thế mà mỗi người chúng ta lại cần phải coi việc học tập là công việc suốt đời. Con người chúng ta không nên bằng lòng với những gì mình đã có, bởi một thực tế cho thấy được rằng núi này cao đã có núi khác cao hơn, người này giỏi lại có người khác giỏi hơn. Cho nên chúng ta cũng như cần phải thường xuyên học tập thêm nữa để chuyên sâu lĩnh vực mình học hỏi. Khi đã hiểu được những kiến thức cơ bản rồi thì cũng từ đó nâng cao trình độ, tay nghề hơn để hoàn thành công việc một cách có hiệu quả, đạt năng suất cao hơn trong công việc. Bên cạnh đó ta còn phải biết được rằng trong xã hội luôn luôn biến đổi cũng như phát triển. Thế giới xung quang chúng ta như đang thay đổi từng ngày, từng giờ. Và nếu ta không có tri thức để có thể chung sống để có thể vươn lên trong cuộc sống thì ta sẽ bị tụt hậu nhanh chóng. Bởi lý do đó mà con người cũng phải thường xuyên học tập không ngừng đúng như câu nói của Lê – nin “Học, học nữa, học mãi”. Học không phải chỉ là ở trong sách giáo khoa trong những lời dạy của thầy cô trong trường. Mà sự học hỏi này còn được mở rộng hơn rất nhiều. Đó chính là học cả trong cuộc sống, học từ những người xung quanh mình, luôn luôn biết tiếp thu chính là điều quan trọng nhất để cho con người có thể hoàn thiện bản thân mình hơn. Không ai có thể làm việc nhất là những công việc có tính khoa học mà lại không có kiến thức nền tảng và kiến thức chuyên sâu cả. Hãy tự mình học tập để chạm được tới những mơ ước mà mình mong muốn. Hãy cứ cố gắng vì biết đâu đó bạn sẽ không chỉ thành công ở điều bạn mơ ước mà trên con đường bạn thực hiện mơ ước đó có nhiều điều thú vị hơn.
Assignment It can be seen that studying is always considered important for people, especially in modern society, the more important it is seen. Learning helps people acquire new knowledge and supplement old knowledge. Perhaps that is why Lenin once said, "Study, study more, study forever" to advise us humans to value learning, and study non-stop. It is easy to see that Lenin's sentence has three ideas, and these three ideas can be separated by three commas. The truly meaningful saying is "Study, study more, study forever", with its short way of saying it, it seems like an action slogan shouted loudly and clearly. "Learning" is also considered an urge for people to study and also an urge for each of us to continue to learn and acquire knowledge. The meaning of the sentence "Study more" is like a reminder that we should continue to study, study more, each person must study as a guideline to be able to continue learning. The last idea is "learning forever", this learning forever seems to be a very good idea and its inclusion seems to have improved even more. "learning forever" as in order to continue to develop the idea mentioned before is that we as humans need to keep learning, learning throughout our lives. In general, we can see three ideas in a progressive statement. Progress not only motivates each of us to study but also confirms the nature of learning. Indeed, learning is a long-term job, and since it is a long-term job, we need to study forever. Question: Why study? And the question is why "study more, study forever"? Always present to those who read this teaching of Lenin. The answer is probably because only the path of learning can help us gain knowledge about nature and society. Thanks to learning, it has helped all of us survive in the world in general and human society in particular. When we have knowledge, we will certainly have a correct understanding of these natural and social phenomena and laws. For example, simple things like seeing the sun and knowing how to put wet things out to dry. When we see others angry, we know to calm down and control our anger. In fact, if people have knowledge, we will have stable jobs, and at the same time, those who have money will have income to support themselves. Not stopping there, we can see our family and become much more useful to society. But we can see that learning doesn't seem to stop there, but to live a good life in the modern flow, we need to have the fresh knowledge of the times. That's why each of us needs to consider learning as a lifelong job. We humans should not be satisfied with what we have, because the reality shows that this high mountain has another higher mountain, this person is good, there is another person who is better. Therefore, we also need to regularly study more to specialize in the field we study. Once you understand the basic knowledge, you can then improve your qualifications and skills to complete the job effectively and achieve higher productivity at work. Besides, we also have to know that society is always changing and developing. The world around us seems to be changing every day, every hour. And if we do not have the knowledge to be able to live together and to be able to rise up in life, we will quickly fall behind. For that reason, people must constantly study continuously, just like Lenin's saying "Study, study more, study forever". Learning is not just about learning from textbooks or what teachers teach at school. But this learning is much more extensive. That is learning in life, learning from people around you, always knowing that learning is the most important thing so that people can improve themselves. No one can work, especially scientific jobs, without background and in-depth knowledge. Study for yourself to reach your dreams. Just keep trying because maybe you will not only succeed in what you dream of, but on the way to realizing that dream there will be many more interesting things.
Bài làm Những bài học của người trước thường gửi gắm những đạo lý sâu sắc mà thật thâm thúy trong kho tàng văn học dân gian. Đặc biệt là trong những câu tụ ngữ, mỗi câu tục ngữ là một bài răn dạy khuyên nhủ con con người hướng thiện, cách đối nhân xử thế ra sao để cho vẹn đôi bên. Qủa thật những bài học đó cho đến nya vẫn còn vẹn nguyên những giá trị. Nói về phép tắc lịch sự thì tục ngữ cũng có vô vàn câu nói về điều này. Câu tục ngữ “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” chính là một trong những câu tục ngữ ấn tượng và chứa đựng được bài học sâu sắc. Đầu tiên ta phải hiểu được rằng “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” là gì? Đây là lời khuyên con người cần phải ý tứ trong việc nhỏ nhất như đang ngồi ăn cơm cùng với gia đình, hay tập thể. Khi chúng ta ngồi ăn cơm ở những chỗ đông người thì khi ăn phải biết ý tứ nhìn mọi người xung quanh như thế nào? Xem mọi người đã ngồi đầy đủ chưa? Trong khi ăn trong mâm cỗ có ai là người lớn tuổi nhất thì phải biết hành xử đúng mực, phải biết “kính trên nhường dưới”. Không được “ăn như rồng cuốn” mà không quan tâm đến mọi người xung quanh. Thậm chí người xưa có người phép tắc đến mức khi người già, những người lớn tuổi đã hạ đũa không ăn nữa thì bản thân mình cũng nên thôi. Không ngồi đó ăn mà không có ai được. Thực sự đây là một trong những lời khuyên không hề thừa thãi chút nào cho chúng ta ngay trong thời đại ngày nay. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng Chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện về hai vợ chồng nọ, chồng ham ăn khi đi ăn cỗ là ăn không biết đến mọi người xung quanh. Ăn hết phần của người khác khiến cho mọi người thấy khó chịu và không muốn ngồi ăn cùng anh này cứ mỗi lần có đám. Biết vậy chị nhà nghĩ ra một kế sách đó chính là buộc một sợi dây vào tay anh nào sau đó căn dặn “cứ giật dây thì mới được gắp một miếng”. Anh chồng nghe theo mới đầu ăn còn từ tốn nhưng đám đông người qua lại vấp vào dây khiến anh tưởng vợ giục ăn nhanh nên quen thói anh ta lại ăn hết phần của mọi người. Câu chuyện cho thấy được rằng chúng ta cũng phải có ý thức khi đi đến những chỗ đông người. Các bậc tiền nhân trước răn dạy rất đúng, đó là lời khuyên có khởi đầu từ những việc rất cụ thể đó chính là những việc ăn thế nào? ngồi thế nào? Có lẽ rằng đây là một lời răn chí phải nhất là trong xã hội xưa kia. Xã hội mà miếng ăn được coi trọng, cái đói cái nghèo cứ mãi đeo bám và gia đình chẳng ai dư giả gì cả. Trong bữa cơm mọi người toàn nhường nhịn nhau khi ăn. Lẽ ra là vậy nhưng thực tế có rất nhiều người ăn uống không hề biết ý chỉ biết ăn no cái bụng rồi về. “Ăn trông nồi” tức là khi ăn phải xem cơm còn hay hết để còn biết mà dừng lại. Khi nhà đông người thì phải ăn ít đi chứ không được chỉ chăm chăm biết đến bản thân. Trước khi làm một việc gì đó cũng phải suy nghĩ trước sau, mình là khách, mình là người trẻ trong mâm cơm cần phải kính người già và trẻ nhỏ. Chỉ cần ý tứ một chút trong bữa ăn thôi là người ta cũng đã có thể đánh giá được phần nào con người của bạn rồi đó. Trong bữa cơm con người có thể bày tỏ được những tình cảm, những lời hỏi thăm nhau và đây cũng chính là sự khác biệt trong văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây.
Assignment The lessons of the past often convey profound morals in the treasure of folk literature. Especially in proverbs, each proverb is a lesson advising people to be good, how to treat others so that both parties can be whole. Indeed, those lessons still retain their values. Talking about politeness, proverbs also have countless sayings about this. The proverb "Eating looks at the pot, sitting looks at the direction" is one of the most impressive proverbs and contains a profound lesson. First we must understand what "Eating looks after the pot, sitting looks after the direction"? This is advice that people need to be careful in the smallest things like sitting down to eat with family or in a group. When we sit and eat in crowded places, how should we considerately look at the people around us while eating? See if everyone is fully seated? While eating at the feast, whoever is the oldest person must know how to behave properly, must know "respect from above and respect from below". Don't "eat like a dragon roll" without paying attention to the people around you. Even in the past, there were people who were so polite that when the elderly, the elders put down their chopsticks and stopped eating, they themselves should stop eating. Don't sit there eating without anyone else. Actually, this is one of the pieces of advice that is not redundant at all for us in this day and age. Eating and looking at the pot, sitting and looking at the direction We still remember the story of a couple, the husband was a glutton and when he went out to dinner, he ate without noticing the people around him. Eating everyone else's food makes everyone feel uncomfortable and not want to eat with him every time there is a group. Knowing that, the sister came up with a plan which was to tie a string to a guy's hand and then tell her to "just pull the string to get a piece". The husband listened and ate slowly at first, but the crowd of passersby tripped on the rope, making him think his wife was urging him to eat quickly, so out of habit he ate everyone's portion. The story shows that we must also be conscious when going to crowded places. The advice given by our predecessors is very correct, that advice starts from very specific things, that is, how to eat? how to sit? Perhaps this is a wise commandment, especially in ancient societies. In a society where food is valued, hunger and poverty are always present and no one's family has anything to spare. During meals, everyone gives in to each other when eating. That should be the case, but in reality there are many people who eat and drink without knowing what they mean, they just eat until their stomach is full and then go home. "Watching the pot when eating" means that when eating, you have to see if the rice is still gone so you know when to stop. When the house is full of people, you have to eat less and not just focus on yourself. Before doing something, we must think before and after. We are the guests, we are the young people at the dinner table, we need to respect the elderly and children. Just being a little thoughtful during meals can help people judge a part of your personality. During meals, people can express their feelings and greetings to each other, and this is also the difference in Eastern culture and Western culture.
Bài làm Kho tàng ca dao tục ngữ của nhân dân ta ngày xưa để lại một khối lượng những câu tục ngữ thật đặc sắc. Tục ngữ thường là những sự đúc kết kinh nghiệm, bài học của các bậc tiền nhân muốn nhắc nhở con cháu đời sau. Và một trong những câu tục ngữ độc đáo nói về con người cần phải nhắc đến câu tục ngữ ngắn gọn nhưng lại chứa được những nét độc đáo “ Ăn vóc học hay”. Ta như thấy được chính trong câu tục ngữ này các từ vóc và hay là những từ khó hiểu, cần được làm sáng rõ nhất. Trước hết ta phải chiết tự cũng như phải hiểu được rằng từ “hay” trong “học hay” ở đây có nghĩa người xưa đã gửi gắm vào đó chính là giỏi. Con người mỗi chúng ta cũng đã từng gặp hay theo nghĩa này qua các từ ngữ hay giỏi hay rõ nét nhất và sử dụng thường xuyên nhất đó chính là “hay chữ”. Vẫn còn đó những câu ca như cứ vang vọng nhắc nhớ mỗi chúng ta đó chính là câu “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Và quả thât thì ta cũng biết được rằng “hay” còn được là một tính từ nên vóc – từ đối ứng với nó cũng phải là một tính từ. Tuy vậy, có thể nhận thấy được chính trong văn học dân gian và các truyện Nôm, thì từ “vóc” dường như lại thường xuất hiện với nghĩa danh từ để chỉ thân thể, cũng như là để chỉ dáng hình của con người, chẳng hạn: vóc ngọc mình vàng, hay đó là những câu “lớn người to vóc”, vóc sương, vóc bồ liễu… Có thể thấy được rằng chính với ý nghĩa này, vóc không tương ứng với hay trong học hay. Nhưng, ta cũng cần so sánh và đối chiếu bởi trong tiếng Việt, từ “vóc’ lại như đã được khéo léo chuyển nghĩa từ chỗ chỉ thân thể sang chỉ đặc tính khoẻ mạnh của con người. Ta lấy ví dụ như có vóc được dùng để chỉ “sự cao lớn chắc chắn”, có “vóc’ lại để chỉ những thành tích thật cao lớn. Do đó, câu tục ngữ hấp dẫn và để lại cho chúng ta những bài học sâu sắc, “Ăn vóc học hay” tựu chung lại đã được hiểu là ăn khoẻ, học hành giỏi giang. Giải thích câu tục ngữ “Ăn vóc học hay” Cố nhiên, chúng ta có thể thấy được rằng “Ăn vóc học hay” thông thường thể hiện quan niệm và đó cũng chính là lòng mong muốn của các bậc cha mẹ đối với con cái. Họ dường như cũng đã thật sự hiểu rằng công sức, cũng như có cả tiền của dùng để nuôi dưỡng và cho con cái ăn học. Và sự hi sinh của họ để mong được cốt để cuối cùng làm cho con cái mình khoẻ mạnh, khôn lớn, tuyệt nhiên là không lãng phí, vô ích. “Ăn vóc học hay” có lẽ cũng vì vậy trở thành niềm vui, sự động viên, lòng tin tưởng của các bậc cha mẹ đối với nhiệm vụ nuôi dạy con cái. Khi ta mở rộng ra, thì câu tục ngữ “Ăn vóc học hay” dường như cũng đã trở thành niềm tin của mọi người đối với công sức của mình trong việc rèn luyện và học tập. Chúng ta cũng cần phải biết được rằng chỉ có thể là phải khổ luyệ chịu khó học hành đến nơi đến chón thì chắc chắn rằng con người sẽ thành tài và được mọi người công nhận. Câu nói như khuyên chúng ta rằng con người phải có sức khỏe sau đó là phải có được những kiến thức cần thiết, thậm chí là phải thật giỏi thì mới được coi là người toàn tài. Mỗi chúng ta hãy cố gắng để hoàn thiện bản thân mình hơn nữa. Qua cấu nói ta như thấy được rằng chính sức khỏe cũng như trí tuệ là hai điều cốt lõi để giúp cho mỗi chúng ta thành công được trong cuộc sống.
Assignment The treasure trove of folk songs and proverbs of our people in the past left behind a volume of truly unique proverbs. Proverbs are often summaries of experiences and lessons of ancestors who want to remind future generations. And one of the unique proverbs talking about people needs to mention the short proverb but containing unique features "Eat well, learn well". We can see that in this proverb, the words "boi" and "hay" are difficult to understand words that need to be clarified the most. First of all, we have to extract the words as well as understand that the word "good" in "learning well" here means that the ancients put into it the word good. Each of us, as humans, have also encountered good in this sense through the words that are best, clearest, and most frequently used, which is "good word". There are still songs that echo and remind each of us: "If you want to be rich, build a bridge, if you want a good child, you must love the teacher." And indeed, we also know that "good" can also be an adjective, so its corresponding word must also be an adjective. However, it can be seen that in folk literature and Nom stories, the word "physique" seems to often appear as a noun to refer to the body, as well as to refer to the human shape. For example: jade body with golden body, or those are the sentences "big people with big stature", dew stature, willow stature... It can be seen that with this meaning, stature does not correspond to or in learning hay. But, we also need to compare and contrast because in Vietnamese, the word "physique" seems to have cleverly changed its meaning from referring to the body to referring to healthy human characteristics. For example, having stature is used to refer to "surely tallness", having "stature" is used to refer to very tall achievements. Therefore, the proverb is attractive and leaves us with profound lessons, "Eating well and studying well" is generally understood as eating well and studying well. Explaining the proverb "If you eat well, you will study well" Of course, we can see that "Eating well and studying well" often represents the concept and that is also the desire of parents for their children. They also seem to truly understand that effort, as well as money, is used to raise and educate their children. And their sacrifices to ultimately make their children healthy and grow up are absolutely not wasteful or in vain. "Eating and studying well" perhaps also becomes the joy, encouragement, and confidence of parents in the task of raising children. When we expand, the proverb "Eat and learn well" seems to have become everyone's belief in their efforts in training and studying. We also need to know that it is only by working hard and studying until the end that a person will surely become talented and be recognized by everyone. The saying advises us that people must have good health, then they must have the necessary knowledge, and even be very good, to be considered a talented person. Let's each try to improve ourselves further. Through talking, we can see that health and intelligence are two core things to help each of us succeed in life.
Bài làm Nói về công dưỡng dục của một con người ta không thể nhắc đến công sinh thành của cha mẹ. Có lẽ chính vì vậy khi nói về cảnh con, cháu không ngoan ngoãn thì các bậc tiền nhân xưa lại có câu “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Và câu tục ngữ này cho đến thời đại hiện nay cũng nhận được những ý kiến trái chiều. Vậy, chúng ta hiểu được rằng “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” là thế nào?Ta như thấy được chính điều này nói lên sự thương yêu con cháu của đại đa số những bà mẹ hay đó là bà nội hoặc bà ngoại mà lại có tình yêu thương cháu bằng cảm xúc chứ không phải bằng lý trí. Có việc gì mà cháu hay làm sai thì người mẹ cũng như bà sẽ đứng ra bênh vực. Thậm chí những chuyện bênh vực này có sai đi chăng nữa. Cách nói này không chỉ ám chỉ người mẹ hay bà nội, ngoại mà hiểu rộng ra nó còn chỉ cả những người thân cận đối với đứa trẻ đó. Câu tục ngữ này dường như cũng đã nói lên được những ảnh hưởng về sự giáo dục của tất cả người thân cận có ảnh hưởng nhất định đến với nhân cách của những đứa trẻ vậy. Giải thích câu tục ngữ “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” Và ta có thấy được những nhận định này là đúng đắn hay không? Qủa thật sự nuông chiều của mẹ hay cảu các bà mỗi khi đứa trẻ làm sai trái một điều gì đó đã làm cho chúng cảm thấy mình được bao bọc. Sự bao bọc chở che không cần biết đến đúng sai này cũng như đã làm cho đứa trẻ không bao giờ có thể nhận ra được việc sai trái mình đã làm. Cho nên chúng cứ việc mắc sai và lại được chở che như thế. Điều này làm cho chúng như trượt dài trên những sai làm mà không biết. Những người mẹ và bà luôn là người phụ nữ bao dung dễ dàng tha thứ cho đứa con của mình. Qủa thật ta như thấy được quan niệm trên cũng xuất phát từ một thực tế đó là từ chính sự yêu thương con cái một cách thái quá của người phụ nữ. Đồng ý là tình mẫu tử bao giờ cũng thiêng liêng. Nhưng đứng trước những lỗi lầm của đứa con cần phải đứng trên lập trường ý chí kiên định và thật vững vàng. Có thể ta như thấy được chính vì tình thương yêu quá lớn mà quên đi rằng: cần phải giáo dục con cái bằng sự nghiêm khắc và chắc chắc là phải có quy tắc gia đình rõ ràng. Sự yêu thương con cháu của những bà mẹ thông thường bằng con tim và cảm xúc, chứ không phải bằng lý trí. Dễ dàng có thể nhận thấy được rằng người mẹ không dám phạt con cái, vì tâm lý chung của những bà mẹ luôn sợ chúng sẽ oán giận và không còn yêu thương mình nữa. Bên cạnh đó ta như thấy được rằng cũng có những bà mẹ lại quá khắt khe với những đứa con. Chính những cách dạy con như “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” hiện nay đang ngày càng phổ biến. Nhưng nó lại gây ra những hậu quả quả thực khó lường chính vì vậy hãy răn dạy con cháu chúng ta theo những chiều hướng tích cực và bằng lý trí chứ đừng vì tình cảm lấn át làm cho người con không nhận ra được khuyết điểm của mình. Từ trước cho đến nay các cụ vẫn cho rằng ý kiến “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Quan niệm ấy dường như vẫn được sử dụng và cho nó là đúng hoàn toàn đối với nhiều người trong xã hội hiện nay là do một phần xuất hiện do hoàn cảnh xã hội từ rất lâu trong xã hội. Đặc biệt từ trước thì các bà, các mẹ chủ yếu ở nhà và dành toàn tâm toàn ý chăm lo cho đời sống của gia đình, và đứa con chính là tâm điểm chăm bẵm từ nhỏ cho đến lớn. Có lẽ chính vì thế mà người bà, người mẹ luôn thương yêu con nên sự nuông chiều là không thể tránh nổi. Sự nuông chiều này đã làm cho người cháu bị hư đi là đúng.
Assignment When talking about the upbringing of a person, we cannot mention the merits of the parents' birth. Perhaps that is why, when talking about children and grandchildren not being obedient, the ancient ancestors had the saying "It is the mother who is spoiled, the grandchild is spoiled by the grandmother". And this proverb to this day also receives mixed opinions. So, how do we understand that "Children are spoiled by their mothers, grandchildren are spoiled by their grandmothers"? We can see that this speaks to the love for children and grandchildren of the vast majority of mothers, whether grandmothers or grandmothers. But my grandmother loves her grandchild with emotions, not with reason. If there is something the child does wrong, the mother and grandmother will stand up and defend it. Even if these defense stories are wrong. This expression does not only refer to the mother or grandmother, but in a broader sense it also refers to people close to that child. This proverb also seems to say that the influence of the education of close people has a certain influence on the child's personality. Explaining the proverb "Children are spoiled by their mothers, grandchildren are spoiled by their grandmothers" And can we see that these judgments are correct? It is true that the pampering of mothers or grandmothers every time a child does something wrong makes them feel protected. This protection and protection without knowing right or wrong also makes the child never be able to realize the wrong thing he has done. So they can just make mistakes and be protected like that. This makes them slide into mistakes without knowing it. Mothers and grandmothers are always tolerant women who easily forgive their children. Indeed, we can see that the above concept also comes from the fact that women love their children excessively. Agree that motherly love is always sacred. But in the face of your child's mistakes, you need to stand on a steadfast and strong will. Maybe we see that because of too much love, we forget that we need to educate our children with strictness and make sure to have clear family rules. Mothers usually love their children and grandchildren with their hearts and emotions, not with their minds. It is easy to see that mothers do not dare to punish their children, because the common mentality of mothers is always afraid that they will resent them and no longer love them. Besides, we can see that there are also mothers who are too strict with their children. Teaching methods such as "love until you're beaten, hate until you're sweet" are becoming more and more popular these days. But it causes truly unpredictable consequences, so let's teach our children in positive ways and with reason, not because emotions overwhelm them and make them unable to recognize their own shortcomings. me. Until now, the elderly have still believed that "The child is spoiled because of the mother, the grandchild is spoiled because of the grandmother". That concept still seems to be used and considered to be completely correct for many people in today's society because it partly appeared due to long-standing social circumstances in society. Especially in the past, mothers and grandmothers mainly stayed at home and devoted all their attention to taking care of the family's life, and the child was the focus of care from childhood to adulthood. Perhaps that is why grandmothers and mothers always love their children, so pampering is inevitable. It is true that this indulgence has damaged the nephew.
Bài làm Những câu tục ngữ của người xưa luôn là những lời răn dạy hữu ích đã được đúc kết lại cho con cháu đời sau. Cuộc sống của người dân Việt Nam xưa kia thì người dân thường sống gắn bó với nhau trong một làng xã. Họ thân quen nhau và trở thành người thân thiết như ruột thịt. Cho nên có câu tục ngữ cũng nói về vấn đề tình làng nghĩa xóm “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Đầu tiên ta phải hiểu được ý nghĩa của câu nói là gì? Thực ra chúng ta cũng phải biết được rằng trong câu nói như nhắc đến chuyện mua bán nhưng không phải vậy. Câu này như đã có ý khuyên răn mỗi người chúng ta nên ăn ở cũng như phải sống thật vui vẻ hòa đồng với hàng xóm láng giềng kề bên. Lý do ở đây đó chính là bởi anh em họ hàng dù là thân tình, dù là máu mủ nhưng ở xa thì khi mà có những việc hệ trọng và khẩn cấp thì không thể nào mà có thể tới ngay đây được. Điều này lại như gợi nhắc chúng ta đến với câu tục ngữ “Nước xa không cứu được lửa gần”. Khi có việc quan trọng mà người thân ruột thịt không có ở đây thì những người hàng xóm lại sang giúp đỡ và như là những người thân vậy. Khi con người ở bất cứ đâu cũng cần phải có được một sự gắn kết cộng đồng để có thể chia sẻ cũng như giúp đỡ cùng nhau sống vui vẻ lạc quan. Câu tục ngữ thật đặc sắc “Bán anh em xa mua láng giềng gần” đã như lấy chuyện mua bán ra để nói, nhưng ấn tượng hơn là lại “bán” anh em ở xa để đổi lấy việc “mua” láng giềng ở gần. Như trên đã nói thì không có một cuộc mua bán nào ở đây, mà câu tục ngữ như chỉ muốn nhấn mạnh rằng khi đến một nơi xa mà không có người thân rượt thịt thì phải biết yêu những người xung quanh, yêu những người hàng xóm. Ta cũng cần phải hiểu câu tục ngữ một cách linh hoạt hơn, chứ không phải cố thân quen với hàng xóm để nhận được sự giúp đỡ. Có ai đó đã từng nói rằng “Còn gì đẹp trên đời hơn thế! Người với người sống để yêu nhau”. Khi chúng ta đi xa, đến một nơi không có người thân quen chắc chắn rằng sẽ thấy rất vất vả, lạ lẫm và cả sự cô đơn. Chắc chắn ai ai cũng sẽ có tâm lý như vậy. Cho nên việc “mua láng giềng gần” như một cách giúp cho chính bạn thích nghi được với cuộc sống nơi phương xa đó. Giải thích câu tục ngữ “Bán anh em xa mua láng giềng gần” Nói đến hàng xóm người dân Việt Nam ta rất hay coi trọng, bởi họ là những người ở gần với nhau. Họ có thể chia sẻ, giúp đỡ chính mình, và không dừng lại ở đó mình cũng đi giúp đỡ chính họ. Để rồi những ngày khó khăn lại cưu mang đùm bọc nhau giúp nhau có thể vượt qua được khó khăn. Thực tế cho thấy có rất nhiều khu, làng có những người hàng xóm thân thiện. Họ dường như chỉ sống trong những ngày hạnh phúc, họ cũng đã thấy được rằng “có tiền cũng không mua nổi” tình làng nghĩa xóm. Khi một nhà có chuyện, cả xóm cũng lo lắng và đồng cảm cho nhà người đó. Chính những cái nắm tay, những ánh mắt trìu mến của những người hàng xóm như chính là động lực để giúp cho gia đình gặp chuyện thêm ấm lòng hơn. Ta như vẫn thấy được những người hàng xóm thường sang nhà nhau chơi để nói chuyện. Các chuyện từ trên trời xuống dưới biển, miễn sao họ cảm thấy vui vẻ. Người nông dân xưa kia thì lại cần được tình làng nghĩa xóm hơn bao giờ hết. Với cảnh nhà nông quanh năm suốt tháng phải ‘bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” như cứ mãi đeo bám họ. Những người hàng xóm chung cản nghèo khó họ như càng thương nhau hơn, đùm bọc nhau như người thân. Họ cùng nhau lao động, cùng nhau sẻ chia mọi thứ trong cuộc sống để rồi để khi mỗi người trong số họ khi đi xa lại khôn nguôi nhớ nhà, nhớ quê và nhớ cả những tình làng nghĩ xóm.
Assignment The proverbs of the ancients are always useful teachings that have been summarized for future generations. In the life of Vietnamese people in the past, people often lived closely together in a village. They got to know each other and became as close as blood. Therefore, there is a proverb that also talks about the issue of neighborly love: "Sell distant brothers to buy near neighbors". First we must understand what the meaning of the statement is? In fact, we must also know that the sentence seems to refer to buying and selling, but it is not so. This sentence seems to advise each of us to live happily and in harmony with our neighbors. The reason here is because relatives, even though they are close, even if they are blood relatives, live far away, so when there are important and urgent matters, it is impossible to come here right away. This reminds us of the proverb "Distant water cannot put out a nearby fire". When there is an important matter and immediate relatives are not here, the neighbors come to help and act like relatives. People everywhere need to have a community connection to be able to share and help each other live happily and optimistically. The unique proverb "Sell far away brothers to buy near neighbors" is like talking about buying and selling, but more impressive is "selling" far away brothers in exchange for "buying" near neighbors. . As mentioned above, there is no trading here, but the proverb just wants to emphasize that when you go to a far away place without relatives to hunt for meat, you must know how to love the people around you, love your neighbors. neighborhood. We also need to understand proverbs more flexibly, rather than trying to get acquainted with neighbors to receive help. Someone once said, "There is nothing more beautiful in life than that! Humans live to love each other". When we go far away, to a place without familiar people, we will definitely find it very difficult, strange and lonely. Surely everyone will have such a mentality. So "buying near neighbors" is a way to help yourself adapt to life in that far away place. Explanation of the proverb "Sell distant brothers to buy near neighbors" When it comes to neighbors, Vietnamese people take it very seriously, because they are people who live close to each other. They can share, help themselves, and not stop there, we can also help them. Then on difficult days, we support each other and help each other overcome difficulties. Reality shows that there are many areas and villages with friendly neighbors. They seem to only live in happy days, they also see that "money cannot buy" neighborly love. When something happens to one family, the whole neighborhood worries and sympathizes with that person's family. It is the hand holding and affectionate eyes of neighbors that are the driving force to help make the family experience a more heart-warming experience. We can still see neighbors often visiting each other's houses to talk. Things from heaven to sea, as long as they feel happy. Ancient farmers needed neighborly love more than ever. The situation of farmers having to "sell their faces to the land and their backs to the sky" all year round seems to haunt them forever. Neighbors who share poverty seem to love each other more and support each other like relatives. They work together, share everything in life together, and then when each of them goes away, they endlessly miss home, miss their hometown, and miss the village love.
Bài làm Chắc hẳn rằng trong những câu tục ngữ của cha ông ta ngày trước để lại mà nó lại không mang được những nét ý nghĩa nhất định. Và câu tục ngữ đặc “ăn có chừng, chơi có độ” cũng đã gửi gắm một trong những bài học đáng để đời và đáng lưu tâm cho chính chúng ta hiện nay. Câu tục ngữ “Ăn có chừng, chơi có mực” như đã nhằm dạy dỗ con cháu bao đời nay. Đó được xem chính là một nét tinh hoa văn hóa dường như cũng đã ăn sâu vào nếp sống của các bậc tiền bối ngày trước và câu tục ngữ thật rất đáng cho chúng ta học hỏi. Ta như thấy được tuy câu tục ngữ này không phải là bài học đầy đủ nhất về sự tiết độ và có sự phân chia rõ ràng hay là được phân tiết rạch ròi, Nhưng ta lại có thể khẳng định chắc nịch rằng chúng ta sẽ tìm được ý nghĩa sâu xa của bài học về sự tiết độ ở trong câu tục ngữ này. Qủa thật rằng cũng chỉ với một câu tục ngữ ngắn gọn gồm sáu chữ “ăn có chừng, chơi có độ”. Thông qua đó nó như lại đã hàm chứa hai hoạt động sống của con người. Với hai từ “ăn – chơi” nếu như chúng ta mà hiểu cách sâu rộng hơn đó chính là từ “ăn” đã được biểu thị nhu cầu “thể xác”. Còn đối với từ “chơi” biểu thị nhu cầu về “tinh thần” của con người. Tựu chung lại ta như thấy được hai từ “ăn – chơi” nếu như mỗi chúng ta mà hiểu về mối tương quan trong hoạt động sống, thì ta như thấy được chính từ “ăn” biểu thị mối “tương quan mình với chính mình”. Quan trọng hơn nữa ta như thấy được chính từ “chơi” biểu thị “tương quan mình và người khác”. Chỉ với hai cụm từ “có chừng” và “có độ” nó chính là toàn bộ ý nghĩa của từ “tiết độ” dường như cũng đã được gói ghém, được biểu thị qua câu tục ngữ. Nếu như theo từ điển tiesng Việt thì ta như hiểu được “Tiết” được có ý nghĩa là dè dặt, kiềm chế, chừng mực, không cho quá đà lên. Còn đối với từ “Độ’ thì nó lại có ý nghĩa là điều độ, cân bằng. Thông qua đây ta như hiểu được “Tiết độ” chính là một việc làm có ý thức kiềm chế, cũng như là nói về những sự dung hòa cho có chừng mực, đó cũng chính là những sự cân bằng các hoạt động sống, tránh thái quá hoặc bất cập. Giải thích câu tục ngữ “Ăn có chừng, chơi có độ” Như vậy, con người chúng ta như thấy được chính câu tục ngữ đặc sắc trên, nếu như chúng ta mà lại hiểu cách nôm na ra đó chính là bài học của ông cha ta gửi gắm về cả tiết độ. Nói một cách rõ hơn ta như thấy được ông bà ta dạy cho con cháu mình đó là một bài học về sự tiết độ trong cuộc sống. Con người như phải tiết độ trong các hoạt động về thể xác cũng như tinh thần. Hơn thế nữa cũng như là phải tiết độ trong hoạt động từ nơi chính bản thân mình cũng như trong tương giao xã hội. Chính với việc mượn câu tục ngữ trên chúng ta tìm hiểu thêm bài học về sự tiết độ được các bậc tiền nhân ngày trước dường như cũng đã diễn tả qua tục ngữ, ca dao, dân ca. Qua câu tục ngữ ta như thấy được khi chúng ta cũng cần phải có sựu điều tiết và tiết chế bản thân. Cái gì thái quá thì cũng không tốt. Ăn phải có chừng nếu như ăn quá no hay quá đói cũng không được, nhất là đến những chỗ đông người thì vấn đề này lại càng được lưu tâm hơn bao giờ hết. Chắc hẳn chúng ta cũng đã thấy các bậc tiền nhân trước đây cũng có căn dặn chúng ta đó chính là “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Cho nên việc ăn uống ý tứ cũng cần thiết đối với chúng ta. Hãy ăn vừa đủ thấy người khác ăn như thế nào thì cũng phải có thái độ ăn cho đúng mực. Khi ngồi ăn với các bận già cả, người có tuổi thì phải kính trên nhường dưới. Không được ăn một cách thiếu đi ý tứ. Bởi chỉ cần nhìn thấy cách chúng ta ăn người ta cũng có thể đánh giá bạn là một người như thế nào.
Assignment Surely, in the proverbs left by our ancestors in the past, they do not carry certain meanings. And the special proverb "eat in moderation, play in moderation" also conveys one of the most valuable lessons in life and worth paying attention to for us today. The proverb "Eat sparingly, play sparingly" has been taught to children for generations. It is considered a cultural quintessence that seems to have been deeply ingrained in the lifestyle of our ancestors in the past and the proverb is truly worth learning. We can see that although this proverb is not the most complete lesson about temperance and has a clear division or is clearly divided, But we can firmly affirm that we will find understand the profound meaning of the lesson about moderation in this proverb. Indeed, with just a short proverb consisting of six words "eat moderately, play moderately". Through that, it seems to contain two human life activities. With the two words "eat - play", if we understand more deeply, it is the word "eat" that represents "physical" needs. As for the word "play", it represents a human need for "spirituality". In general, we can see that the two words "eat - play" if each of us understands the correlation in life activities, then we can see that the word "eat" represents the "correlation between ourselves and ourselves". ”. More importantly, we can see that the very word "play" represents "the relationship between ourselves and others". With just the two phrases "moderately" and "moderately" the entire meaning of the word "temperance" seems to be encapsulated, expressed through the proverb. If we follow the Vietnamese dictionary, we understand that "Tiet" means to be cautious, restrained, moderate, not to go too far. As for the word "Degree", it means moderation and balance. Through this, we understand that "Moderation" is a conscious act of restraint, as well as talking about moderate compromises, which are also the balance of life activities, avoiding excessive or inadequate. Explaining the proverb "Eat moderately, play moderately" Thus, we humans seem to see the above unique proverb, if we understand it roughly, it is the lesson our ancestors sent us about temperance. To put it more clearly, we see our grandparents teaching their children and grandchildren a lesson about moderation in life. People must be moderate in physical and mental activities. Furthermore, we must be moderate in our own activities as well as in our social interactions. It is by borrowing the above proverb that we learn more about the lesson of moderation that our ancestors in the past seem to have expressed through proverbs, folk songs, and folk songs. Through the proverb, we can see that we also need to regulate and moderate ourselves. Anything in excess is not good. You have to eat in moderation, if you're too full or too hungry, especially when going to crowded places, this issue is more important than ever. Surely we have also seen that our ancestors in the past also told us to "eat and watch the pot, sit and watch the direction". So eating thoughtfully is also necessary for us. Eat just enough to see how other people eat and have the right eating attitude. When eating with the elderly, the elderly must respect their superiors and their subordinates. Do not eat carelessly. Because just by seeing how we eat, people can judge what kind of person you are.
Bài làm Truyện Kiều là một tuyệt phẩm nổi tiếng. Nó đã tạo nên tên tuổi của Nguyễn Du trong làng thi ca Việt Nam. Trong đó, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một bức tranh tuyệt đẹp miêu tả lên vẻ đẹp của của hai cô gái họ Vương, Thúy Kiều và Thúy Vân. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ vô cùng tinh tế, sâu sắc để lột tả được vẻ đẹp của hai cô gái. Trong đó ông đã miêu tả Thúy Kiều với những ngôn ngữ vô cùng tinh tế, bút pháp điêu luyện. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du hai cô gái hiện lên chân thực, sắc nước hương trời, long lanh tựa tiên sa, ngọt ngào như trăng rằm, xứng đáng là tuyệt thế giai nhân xưa nay hiếm có. Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. Mai cốt cách tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Hai cô gái được tác giả sử dụng biện pháp ước lệ, cùng phép ẩn dụ để miêu tả nên vẻ đẹp hoàn hảo, hài hòa cả về nội dung tâm hồn bên trong và hình thức bên ngoài. Hai vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân vô cùng hoàn mĩ, mười phân vẹn mười, nhưng hai cô mỗi người lại mang một phong cách vẻ đẹp hoàn toàn khác nhau, không hề trộn lẫn hay na ná giống nhau chút nào. Nguyễn Du đã vô cùng ưu ái với hai chị em khi ông dùng những gì đẹp nhất để miêu tả lên vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, không theo một khuôn mẫu chuẩn mực nào mà là mỗi người một vẻ. Trong đó, nàng Thúy Vân được tác giả ưu tiên miêu tả, nhắc tới trước với những từ ngữ nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của nàng: Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Trong những câu thơ này tác giả Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ trang trọng khác vời, để thể hiện nét đài các quyền quý của nàng Thúy Vân. Cho thấy nàng là con người có học thức, có nét kiêu sa cao sáng, cho thấy cuộc sống của nàng an nhàn, và được hưởng vinh hoa phú quý. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều Chân dung của nàng Thúy Vẫn được tác giả Nguyễn Du miêu tả khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, rồi tóc và làn da tiếng nói…cho người đọc thấy Thúy Vân có một nét đẹp tròn đầy, phúc hậu tựa như ánh trăng rằm, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, và chiếc miệng tươi tắn như hoa hàm tiếu, giọng nói của nàng trong trẻo thanh cao với những chiếc răng trắng ngà, mái tóc đen bồng bềnh tựa như làn mây, và màu da trắng như nàng bạch tuyết. Thúy Vân vô cùng xinh đẹp và kiều diễm thể hiện nàng là một báu vật thuộc diện quốc sắc thiên hương. Trong vẻ đẹp của Thúy Vân người ta cảm nhận thấy nét đẹp dịu dàng đằm thắm, của một người phụ nữ đoan trang có học thức, quý phái. Từ vẻ đẹp tròn đầy, bằng phẳng của Thúy Vân người ta có thể thấy được rằng Thúy Vẫn có một vẻ đẹp sẽ mang lại hạnh phúc cho nàng. Nó sẽ cho nàng một cuộc sống bình yên sung túc. Nguyễn Du đã vô cùng tinh tế sâu sắc khi miêu tả Thúy Vân, mượn Thúy Vân để làm đòn bẩy nâng Thúy Kiều lên. Kiều càng sác sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh. Nguyễn Du sử dụng từ hơn trong câu miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều với Thúy Vân, chỉ một chữ hơn này nhưng người đọc có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nếu như Thúy Vân lung linh, mặn mà kiều diễm bao nhiêu thì Thúy Kiều lại nổi bật và sắc sảo hơn rất nhiều. Thúy Kiều mang một vẻ đẹp tới hoa nhường, nguyệt thẹn, một vẻ đẹp làm cho mọi người xung quanh ganh ghét vì đẹp quá. Câu thơ của Nguyễn Du miêu tả về Thúy Kiều giống như một bức tranh thủy mạc, thể hiện một mặt hồ hơn sóng có mây núi, nước mùa thu…Cũng nhưng trong khuôn mặt của Thúy Kiều có đôi mắt long lanh như mặt nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như những ngọn núi… Vẻ đẹp của Thúy Kiều không chỉ tựa như thiên nhiên hữu tình mà còn vượt trội hơn rất nhiều khiến cho hoa nhìn thấy nàng phải cảm thấy xấu hổ vì em xuân sắc, trăng nhìn thấy nàng phải giận dữ vì nàng quá đẹp. Vẻ đẹp của Thúy Kiều mang tới cho con người ta sự ngỡ ngàng choáng váng bởi trên đời lại có người đẹp như thế. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp cả về nội dung bên trong tâm hồn con người. Tài năng của nàng cũng thuộc diện xuất chúng khi nàng giỏi cả cầm, kỳ, thi, họa.. Tài năng của Thúy Kiều vượt trội lên tất cả và là biểu tượng của phẩm chất vô cùng cao quý, khi nàng có một trái tim vô cùng nhân nghĩa trung hậu, có hiếu, vị tha…dường như trong con người Thúy Kiều chính là điều vô cùng hoàn mỹ. Nhưng cũng bởi vì nàng Thúy Kiều quá hoàn mỹ nên trong xã hội xưa, một xã hội đầy rẫy những bất công sự trọng nam khinh nữ, nên cuộc đời của Thúy Kiều đã bị vùi dập, nàng chịu kiếp “hồng nhan bạc mệnh” cuộc sống phải chao đảo, lênh đênh, chìm nổi suốt mười mấy năm hồng trần. Trong cách miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du cũng cho chúng ta thấy số phận của nàng Thúy Kiều sẽ gặp nhiều sóng gió, chịu kiếp hồng nhan, gian nan… Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Trong những câu thơ cuối cùng của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” tác giả Nguyễn Du cho chúng ta thấy được rằng hai chị em Thúy Kiều là những người vô cùng đoan trang, dù tới tuổi cập kê, cần tìm hiểu để có thể mai mối nhân duyên nhưng hai cô vẫn chưa hề có bạn trai, vẫn sống cảnh trướng rủ, màn che, đoan trang, đức hạnh. Với cảm hứng nhân đạo tình cảm và nghệ thuật miêu tả tài tình của mình tác giả Nguyễn Du đã vẽ lên chân dung của hai chị em Thúy Kiều vô cùng xinh đẹp, tài sắc, khiến cho nhiều người phải trầm trồ thán phục về tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Hai mỹ nhân được ông miêu tả vô cùng tinh tế, xinh đẹp và có tâm hồn thanh cao thánh thiện, mười phân vẹn mười. Thảo Nguyên
Assignment The Tale of Kieu is a famous masterpiece. It made Nguyen Du's name in the Vietnamese poetry scene. In it, the excerpt "Thuy Kieu Sisters" is a beautiful picture depicting the beauty of two girls named Vuong, Thuy Kieu and Thuy Van. Nguyen Du used extremely delicate and profound words to describe the beauty of the two girls. In it, he described Thuy Kieu with extremely delicate language and skillful penmanship. Under Nguyen Du's pen, two girls appear realistically, with the color of heaven and earth, sparkling like a fairy, sweet as the full moon, worthy of being rare, peerless beauties. At first, the two girls denounced each other, Thuy Kieu is Thuy Van's sister. The bones are separated from the spirit snow, Each person looks perfect. The author uses conventional methods and metaphors to describe the two girls, creating perfect beauty, harmonious in both inner soul content and outer appearance. The two beauties of Thuy Kieu and Thuy Van are extremely perfect, ten and ten, but each of them has a completely different style of beauty, not mixed or similar at all. Nguyen Du was extremely fond of the two sisters when he used the most beautiful things to describe the beauty of the two sisters Thuy Kieu and Thuy Van, not according to any standard model but each person with their own look. In it, Thuy Van is given priority by the author to describe and mention first with words that express her elegant and noble beauty: Van looks so solemn, Mold plump moon bouncing his strokes. Flowers smile and pearls are dignified, Cloudy lose hair color snow ceded skin color. In these verses, author Nguyen Du used unusually formal words to express the noble character of Thuy Van. Shows that she is an educated person, has noble and noble features, shows that her life is comfortable, and she enjoys prosperity and wealth. Analysis of the excerpt of Sisters Thuy Kieu The portrait of Thuy Van is described by author Nguyen Du quite completely from her face, eyebrows, hair and skin, voice... showing the reader that Thuy Van has a full and kind beauty like moonlight. Full moon, with sharp eyebrows like a moth, and a bright mouth like a smiling flower, her voice is clear and noble with ivory white teeth, black hair floating like clouds, and skin color white as snow white. Thuy Van is extremely beautiful and charming, showing that she is a national treasure of heavenly beauty. In the beauty of Thuy Van, people feel the gentle and loving beauty of a dignified, educated and noble woman. From Thuy Van's full, flat beauty, one can see that Thuy Still has a beauty that will bring her happiness. It will give her a peaceful and prosperous life. Nguyen Du was extremely subtle and profound when describing Thuy Van, using Thuy Van as a lever to lift Thuy Kieu up. Kieu is more sharp and salty, Compared surface is the more talented back. Autumn water and spring paint, The flowers of jealousy compete with the green willow. Nguyen Du uses the word than in the sentence describing the beauty of Thuy Kieu and Thuy Van. With just this one word, the reader can feel all of Thuy Kieu's beauty. If Thuy Van is sparkling, salty and charming, Thuy Kieu is much more outstanding and sharp. Thuy Kieu has a beauty that makes everyone around her jealous because she is so beautiful. Nguyen Du's poem describes Thuy Kieu like a water painting, showing a lake surface with clouds, mountains, and autumn water... But in Thuy Kieu's face, there are sparkling eyes like the surface of spring water. autumn, eyebrows as delicate as mountains... Thuy Kieu's beauty is not only similar to charming nature but also much superior, making the flower see her feel ashamed because of her beauty, the moon see her angry because she is so beautiful. Thuy Kieu's beauty brings people surprise and shock because there is such a beautiful person in the world. One or two tilts the water tilts into the city, Mixing the craft of painting is full of the scent of singing. The bow and arrow of the five-syllable level, Your own job will cost you a whole lot of money. Nguyen Du described Thuy Kieu as not only beautiful in form but also beautiful in content within the human soul. Her talent is also outstanding as she is good at piano, chess, exams, drawing... Thuy Kieu's talent surpasses all and is a symbol of extremely noble qualities, as she has an extremely kind, loyal, filial, and altruistic heart... it seems that in her person, Thuy Kieu is absolutely perfect thing. But also because Thuy Kieu was so perfect, in the ancient society, a society full of injustices that favored men over women, Thuy Kieu's life was ruined, she suffered the fate of "beautiful fate". Life must stagger, float, and sink for more than ten years on earth. In describing the beauty of Thuy Kieu, author Nguyen Du also shows us that Thuy Kieu's fate will face many ups and downs, endure a life of beauty and hardship... The style is very rosy, Green spring is approximately the week of millet harvest. Softly, draped with curtains, The wall is crowded with butterflies and bees, no one cares. In the last verses of the excerpt "Thuy Kieu Sisters", author Nguyen Du shows us that the two sisters Thuy Kieu are extremely dignified people, even at the age of marriage, they need to learn to be able to But the two girls still don't have a boyfriend and still live in a state of drudgery, veils, decorum, and virtue. With his emotional humanitarian inspiration and skillful descriptive art, author Nguyen Du has painted portraits of two extremely beautiful and talented sisters, Thuy Kieu, making many people admire their talent. use his language. The two beauties he described were extremely delicate, beautiful and had noble and holy souls, perfect in ten. Meadow
Bài thơ “Sang thu” là một bài thơ hay về đề tài mùa thu của nhà thơ Hữu Thỉnh. Bài thơ chính là những cảm nhận, rung động man mác buồn của tác giả trước cảnh giao mùa, trước những chuyển biến của đất trời khi thời tiết chuyển vào thu. Tuy không phải là những hình ảnh lãng mạn như con nai vàng hay sắc mơ phai người ta thường nhớ tới, mà lại là hình ảnh hương ổi. Một món quà quê vô cùng quen thuộc, gợi lên trong lòng người đọc những kỷ niệm ngọt ngào của một thời tuổi thơ êm ả. Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Trong hai câu thơ này người nghe cảm nhận được hương vị nồng nàn, ấm áp của mùi hương ổi chín, trên những miền quê nhỏ của Việt Nam hình ảnh trái ổi, trái thị, chính là món quà quê đặc sắc, gắn liền với nhiều bạn trẻ được sinh ra và lớn lên từ làng. Tác giả chợt nhận ra mùa thu đang tới rất gần thông qua mùi hương thơm của trái ổi trong vườn nhà. Mùi thơm mộc mạc, giản dị đó phảng phất trong không gian, theo những làn gió se se của mùa thu mang đi xa. Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh Tác giả chợt giật mình nhận ra sự thay đổi bất ngờ này, như một sự việc mà mình chờ đợi lâu lắm nhưng rồi lại quên mất do bận rộn công việc, nên hôm nay khi cảm nhận được mùi thơm quen thuộc, thì chợt giật mình hoảng hốt thì ra điều mình mong chờ rất lâu đã tới rồi. Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Trong hai câu thơ tiếp theo này đám sương được nhân hóa giống như một cô gái lần đầu bước chân vào cửa nhà chồng, có chút ngập ngừng e thẹn có chút hồi hộp mong chờ, có chút vấn vương vương với những năm tháng đã qua nên cô gái đó “chùng chình” nấn ná không vội vàng bước vào nhà ngay. Trong câu thơ trên tác giả thể hiện tâm trạng giật mình “bỗng nhận ra” một cách bất ngờ, thể hiện sự đột ngột thì trong câu thơ này nhà thơ thể hiện sự ngỡ ngàng thốt lên như tự hỏi với lòng mình “Dường như thu đã về?” Không gian nghệ thuật của bức tranh mùa thu được nới lỏng và mở rộng hơn rất nhiều, từ sự bỡ ngỡ, mới lạ ban đầu tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm, cảm xúc vô cùng mãnh liệt, mạnh mẽ trong tâm hồn tác giả trong không gian mùa thu xanh cao vời vợi. Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Hình ảnh những dòng chảy trên sông chậm chạp “dềnh dàng” lững thững trôi như cố tình kéo dài thời gian. Những đám chim thì vội vã bay về nơi ấm áp, những chú chim không thể nào nấn ná thêm một thời khắc nào. Hai hình ảnh trái ngược nhau nhưng lại khiến cho mùa thu lại gần hơn. Bức tranh mùa thu hiện lên vô cùng sinh động, tươi đẹp có mùi thơm của hương ổi nồng nàn, có dòng sông lững lờ trôi, trên bầu trời có những chú chim bay vội vã, tất cả đều rất nên thơ, hữu tình Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Hai câu thơ này giúp cho người đọc cảm nhận về đám mây vô cùng nhẹ nhàng, tinh tế tựa như chiếc khăn thuê của người thiếu nữ toát lên vẻ thảnh thơi, thanh tao, nhẹ nhàng. Hình ảnh đầy tính nghệ thuật khi những đám mây “vắt nửa mình sang thu” tạo nên một bức tranh hữu tình, sinh động làm say đắm lòng người Trong những câu thơ này thể hiện sự chuyển biến của không gian và những suy nghĩ trong lòng tác giả trước cảnh giao mùa, trước thiên nhiên đất trời bao la. Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Những tia nắng vẫn còn nhưng những cơn mưa bất chợt của mùa hạ đã dần biến mất, nhường chỗ cho sự bình yên, thanh tịnh. Thời gian trôi đi những con người ngày càng trưởng thành hơn, những tiếng sấm vang dội, những tia chớp bất ngờ không còn làm cho con người cảm thấy sợ hãi nữa. Nhà thơ Hữu Thỉnh đang nghĩ tới sự trưởng thành của con người khi người ta đủ trưởng thành, trải qua những sóng gió của cuộc đời thì những biến động kia không còn làm cho người ta bị bất ngờ lo lắng nữa. Chính sự liên tưởng tinh tế này của tác giả làm cho bài thơ trở nên giàu cảm xúc và có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Bài thơ “Sang thu” là bài thơ hay tinh tế, giọng thơ êm đềm và khiến cho người đọc cảm thấy xúc động, những buồn vu man mác của cuộc đời. Khi đọc Sang thu người đọc cảm thấy yêu đời hơn, thêm yêu những cảnh đẹp quê hương đất nước. Đông Thảo
The poem "Autumn Festival" is a beautiful poem on the theme of autumn by poet Huu Thinh. The poem is the author's sad feelings and vibrations before the change of seasons, before the changes in heaven and earth as the weather turns to autumn. Although it is not the romantic images like golden deer or fading apricot colors that people often remember, it is the image of guava scent. An extremely familiar hometown gift, evoking in readers sweet memories of a peaceful childhood. Suddenly I noticed the scent of guava Blown into the wind In these two verses, the listener feels the passionate, warm scent of ripe guava. In the small countryside of Vietnam, the image of guava and fruit is a unique hometown gift, associated with Many young people were born and raised in the village. The author suddenly realized that autumn was approaching through the fragrant scent of guava in his garden. That simple, rustic scent wafts in the air, carried far away by the crisp breezes of autumn. Analysis of the poem Sang Thu by Huu Thinh The author was suddenly startled to realize this unexpected change, like an event that he had been waiting for for a long time but then forgot due to being busy with work, so today when he felt a familiar scent, he was suddenly startled. I panicked and realized what I had been waiting for for so long had finally arrived. The fog drifted through the alley Thu seemed to have about. In the next two verses, the mist is personified like a girl entering her husband's house for the first time, a little hesitant and shy, a little nervous with anticipation, a little troubled by the years that have passed. So the girl "slowly" lingered and did not rush into the house right away. In the above verse, the author expresses a startled mood of "suddenly realizing" in an unexpected way, expressing suddenness, while in this verse the poet expresses surprise, exclaiming as if wondering to himself, "It seems Autumn has arrived? The artistic space of the autumn painting is much more relaxed and expanded, from the initial surprise and novelty disappearing to make way for extremely intense and powerful emotions and feelings in the soul. The author in the lofty green autumn space. The river is gentle at times Birds began to rush The image of the river flows slowly and "easily" drifting as if deliberately prolonging time. The birds hurriedly flew back to a warm place, the birds could not linger another moment. The two images contradict each other but make autumn closer. The picture of autumn appears extremely vivid and beautiful, with the strong scent of guava, a river flowing lazily, and birds flying in the sky, all very poetic and charming. There are summer clouds Squeeze half of yourself into autumn These two verses help readers feel the clouds are extremely gentle and delicate, like a rented scarf from a young woman, exuding a carefree, elegant, and gentle look. The artistic image when the clouds "cover half of their body to fall" creates a charming, vivid picture that captivates people's hearts. These verses express the transformation of space and the author's thoughts before the change of seasons and the vast nature of heaven and earth. How much sunshine is still left? The rain has gradually subsided Thunder is also less surprising On older trees The rays of sunlight are still there, but the sudden rains of summer have gradually disappeared, giving way to peace and tranquility. As time passes, people become more and more mature, the loud sounds of thunder and the sudden flashes of lightning no longer make people feel scared. Poet Huu Thinh is thinking about human maturity when people are mature enough and have gone through life's ups and downs, and those fluctuations no longer make them surprised and worried. It is this subtle association of the author that makes the poem more emotional and meaningful than ever. The poem "Autumn Festival" is a beautiful, delicate poem, with a gentle poetic voice and makes the reader feel touched by the sadness and sadness of life. When reading Sang Thu, the reader feels more in love with life and loves the beautiful landscapes of his homeland and country. Dong Thao
Trong cuộc đời mỗi con người, nếu như người cha dạy cho ta sự kiên cường, bản lĩnh, dũng cảm, thì mẹ là người truyền cho ta hơi ấm tình thương, những điều nhỏ nhẹ ngọt ngào làm tâm hồn ta luôn trong trẻo. Trong vòng tay của mẹ, được sống trong tình mẫu tử thiêng liêng, ta thực cảm thấy may mắn thiêng liêng biết chừng nào! Tình mẫu tử, đó chính là tình cảm của một người mẹ dành cho con mình. Tình cảm ấy được biểu hiện qua rất nhiều hành động từ nhỏ nhặt đến lớn lao, là sự hy sinh thầm lặng. Từ khi mang thai, mẹ đã phải hy sinh rất nhiều. Hy sinh sức khỏe, hy sinh sắc đẹp, hy sinh tuổi tác và thậm trí là đặt cược cả tính mạng để mang thai con chín tháng mười ngày, để sinh con ra đời. Khi con mới chào đời, hiện lên trên đôi mắt trong veo của con chính là khuôn mặt mẹ đang khóc trong hạnh phúc. Mẹ ôm con vào lòng, vỗ về con, để con thấy rằng, thế giới này thật tốt đẹp nhường nào! Là những đêm con quấy khóc, mẹ thức trắng đêm trông con. Con ốm sốt lại lo lắng, chườm khăn, bón nước, thao thức suốt đêm. Mặc dù khi ấy con còn chưa thể hiểu được gì, mẹ vẫn trao cho con rất nhiều tình cảm. Chỉ cần con cười vui vẻ, mẹ cũng sẽ cười. Theo thời gian con lớn dần. Con biết lẫy, biết bò, biết nói. Câu nói đầu tiên, ngập ngừng Mẹ ơi! Mẹ lại khóc đến nghẹn ngào. Và theo từng bước con đi, mẹ vẫn luôn bên cạnh, cổ vũ động viên. Theo từng giấc ngủ của con, có lời ru của mẹ. Con cò con vạc, gió mùa thu đưa hương vào giấc ngủ con, con ngủ thật ngon lành. Theo từng hành động ngây ngô của con, có những lời nhắc nhở của mẹ. Là hành động tốt sẽ khuyến khích, khen ngợi. Nếu là hành vi sai, mẹ liền nghiêm khắc phê bình để con không tái phạm. Những ngày tháng con đến lớp, đến trường, sẽ luôn có mẹ chia sẻ, hỏi han việc học hành, giảng lại những bài con chưa hiểu. Những ngày tháng được lớn lên bên mẹ, đều trở thành những kỉ niệm vô giá không gì có thể đánh đổi được. Tình mẫu tử, có lẽ là bản năng của người phụ nữ, của mỗi người làm mẹ. Sẵn sàng trao cho con bất cứ điều gì mình có, sẵn sàng che chở con hết cuộc đời. Tình mẹ, vĩ đại bao la biết bao. Đến ngay cả thượng đế cũng không thể thấu hiểu, trái tim người mẹ được làm từ vật liệu gì. Trái tim ấy, vô cùng nhão mềm, nhưng chỉ cần nghĩ đến con liền có thể cứng rắn như sắt đá. Người mẹ có thể vô cùng nhỏ bé, nhưng khi che chở cho con lại trở nên to lớn đến lạ kì. Mẹ dù không thể sống mãi, nhưng dù không còn hơi thở, linh hồn vẫn luôn dõi theo từng bước con đi. Mẹ nhỏ bé mà vĩ đại như thế đấy! Và để đáp lại tình cảm trời bể của mẹ, mỗi đứa con chúng ta đều phải biết hiếu kính, đền đáp công ơn cha mẹ. Đối với mẹ, con luôn là những hòn ngọc vô giá. Mẹ hết lòng che chở con. Mặc cho bản thân có thể vất vả, cũng không muốn con chịu khổ. Dành cho cho con tất cả những điều tốt đẹp nhất trên đời. Chỉ cần con cười vui, chỉ cần con mạnh khỏe, mẹ dù khó nhọc vẫn âm thầm chịu đựng. Chưa một lần oán trách, cũng chưa một lần kể công. Dù cho nhiều lúc đứa con thơ dại có làm mẹ buồn, mẹ vẫn luôn bao dung, vị tha, dễ dàng tha thứ. Mẹ luôn là người tốt với ta nhất, giống như câu hát: Riêng mặt trời chỉ có một mà thôi Và mẹ em chỉ có một trên đời Mẹ luôn hết lòng lo lắng cho ta mà chẳng hề toan tính. Muốn tìm trên thế gian một người tốt với ta như mẹ, chỉ e chẳng thể tìm ra người thứ hai. Tựa như mặt trời, chỉ có một, rực rỡ mà tỏa sáng, mẹ tựa như mặt trời nhỏ, mặt trời ấm áp của riêng con. Người xưa có câu ca dao: Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Công lao to lớn của mẹ tựa như nước đầu nguồn, không bao giờ vơi cạn. Thứ nước mát ngọt lành ngày ngày nuôi lớn con, tưới mát tâm hồn con để con có thể lớn khôn mạnh khỏe. Có biết bao tác phẩm văn học viết về mẹ như Trong lòng mẹ – Nguyên Hồng, Hãy chăm sóc mẹ của nhà văn Hàn Quốc Kyung-sook Shin, Mẹ ơi con sẽ về… Tất cả đều là những món quà xuất phát từ sự biết ơn của những người con dành cho mẹ mình, mong muốn xoa dịu những mất mát hy sinh mà mẹ đã phải chịu. Thế nhưng, tiếc thay, trong thế giới xô bồ hiện nay, có những người trẻ quá mải mê theo đuổi sự nghiệp mà không quan tâm đến bố mẹ mình. Họ nghĩ rằng chỉ cần đi làm, kiếm tiền phụng dưỡng ba mẹ thế là đủ. Không! Chưa bao giờ là đủ cả! Hãy sống chậm lại! Hãy yêu thương mẹ nhiều hơn khi còn có thể. Bởi ngoài kia còn có rất nhiều người kém may mắn, còn không được sống cùng mẹ, mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng. Hãy quan tâm mẹ bằng hành động, không phải bằng vật chất. Một bữa ăn đầy đủ người trong gia đình, một cuộc gọi khi con đang ở xa. Hãy hiếu thảo, yêu thương mẹ bằng cả trái tim, bằng cả tấm lòng giống như mẹ từng dành cho ta. Suy nghĩ về tình mẫu tử
In every person's life, if the father teaches us resilience, bravery, and courage, then the mother is the one who gives us the warmth of love and the sweet little things that keep our soul pure. In my mother's arms, living in sacred motherly love, I truly feel how spiritually fortunate! Maternal love is the love a mother has for her child. That love is expressed through many actions, from small to big, and is a silent sacrifice. Since becoming pregnant, my mother has had to sacrifice a lot. Sacrifice your health, sacrifice your beauty, sacrifice your age and even bet your life to be pregnant for nine months and ten days, to give birth to your child. When you were first born, what appeared in your clear eyes was your mother's face crying with happiness. Mom hugged me, comforted me, let me see how beautiful this world is! Those are the nights when the baby cries and the mother stays up all night to look after the baby. The child was sick with a fever and worried, applying towels, drinking water, and staying awake all night. Even though I couldn't understand anything at that time, you still gave me a lot of love. As long as you smile happily, mom will smile too. Over time the child grows older. I know how to roll over, crawl, and talk. The first sentence, hesitantly, Mom! Mother cried again until she choked. And with every step I take, my mother is always by my side, cheering and encouraging. With each child's sleep, there is a mother's lullaby. The stork and the cauldron, the autumn wind brings fragrance to my sleep, I sleep soundly. Following each child's innocent actions, there are reminders from the mother. Good actions will encourage and praise. If the behavior is wrong, the mother will severely criticize it so that the child does not repeat it. During the days when I go to class or school, my mother will always share with me, ask questions about my studies, and explain the lessons I don't understand. The days spent growing up with my mother have become priceless memories that nothing can exchange. Motherly love is perhaps the instinct of every woman and every mother. Ready to give my children whatever I have, ready to protect them for the rest of my life. Mother's love, how great and immense it is. Even God cannot understand what a mother's heart is made of. That heart is extremely soft, but just thinking about you can make it as hard as iron. A mother can be extremely small, but when she protects her child, she becomes strangely large. Even though I can't live forever, even though I no longer breathe, my soul still follows every step I take. Mom is so small but so great! And to respond to our mother's endless love, each of us children must know how to respect and repay our parents' gratitude. For mothers, children are always priceless pearls. Mom wholeheartedly protects me. Even though I may be struggling, I don't want my child to suffer. Give your children all the best things in life. As long as the child is happy and smiling, as long as the child is healthy, even though it's difficult, the mother still endures silently. Never once complained, never once counted any merits. Even though there were times when her child made her sad, she was always tolerant, forgiving, and easily forgiving. Mother is always the best person for us, like the song says: There is only one sun And my mother only has one in this world My mother always wholeheartedly worried about me without any calculation. I want to find someone in the world who is as good to me as my mother, but I'm afraid I can't find a second person. Like the sun, there is only one, brilliant and shining, mother is like a small sun, my own warm sun. The ancients had a folk song: Motherhood is like water flowing from a source A mother's great contributions are like water at the source, never running dry. The cool, sweet water nourishes your child every day, watering your soul so that you can grow up strong and healthy. There are so many literary works written about mothers such as In my mother's womb - Nguyen Hong, Please take care of my mother by Korean writer Kyung-sook Shin, Mom, I will return... All are gifts that come from knowing The gratitude of children for their mother, the desire to ease the losses and sacrifices that their mother has suffered. However, unfortunately, in today's hustle and bustle world, there are young people who are too engrossed in pursuing their careers and do not care about their parents. They think that just going to work and making money to take care of their parents is enough. Are not! It's never enough! Slow down! Love your mother more while you still can. Because there are many unlucky people out there who can't even live with their mothers and have been orphaned since birth. Take care of your mother with actions, not with material things. A full family meal, a phone call when the child is far away. Be filial, love your mother with all your heart, with all your heart like she once gave to you. Thinking about motherhood
Trong tất cả những bài thơ viết về Bác Hồ, chắc hẳn mỗi chúng ta đều không thể không nhớ tới bài thơ Viếng lăng Bác – Viễn Phương. Một bài thơ đầy cảm động, lưu vào trong lòng người nhiều cảm xúc sâu lắng. Bài thơ được sáng tác năm 1976, một năm sau khi đất nước hoàn toàn được thống nhất, Lăng Bác được khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn cán bộ miền Nam ra thăm Bác. Xúc động trào dâng nghẹn ngào đã thôi thúc ông viết bài thơ này. Mở đầu bài thơ, tác giả viết: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Qua cách xưng hô con – Bác gợi lên một sự gần gũi, ấm áp thân thương, và cách dùng từ thăm thay cho từ viếng, cả câu thơ giống như một lời chào của một đứa con phương xa trở về thăm cha, thăm người cha già yêu dấu. Hơn nữa, cách nói giảm nói tránh còn làm giảm bớt sự đau thương mất mát, để thấy rằng Bác như vẫn đang còn sống, vẫn hằng ngày ngắm nhìn đất nước đổi thay, con người trưởng thành. Sau lời chào hỏi khi nhà thơ đến trước lăng, thì cảnh vật ông trông thấy đầu tiên là: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Tre được trồng ở trong lăng Bác vô cùng nhiều, từng hàng từng hàng tre thẳng tắp, nối tiếp nhau mà dài ra bất tận, thoắt ẩn thoắt hiện trong sương mờ buổi sớm mà trở nên bát ngát. Không chỉ là những cây tre với vẻ đẹp bình thường, tre còn mang nhiều ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng Tre không những là biểu tượng của Việt Nam, biểu tượng của người dân Việt Nam. Trải qua bao khó khăn gian khổ, con người Việt Nam vẫn luôn kiên cường, dũng cảm. Vẫn luôn vươn lên mạnh mẽ, tựa như tre, dù đá sỏi đá vôi bạc màu vẫn luôn xanh tươi. Cụm từ Bão táp mưa sa như nhấn mạnh những khắc nghiệt mà tre phải chịu, đồng thời cũng chính là ẩn dụ cho những gian khổ trong lịch sử ta, những trang sử vàng lưu danh thiên cổ, những con người dù đối mặt với cái chết vẫn bất khuất ngửng cao đầu. Chỉ cần nhớ đến thôi, cũng không thể ngăn xúc động nghẹn ngào. Và theo mạch cảm xúc của Viễn Phương khi đứng ngoài lăng, ông còn thấy: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ví Bác như mặt trời để ca ngợi công lao to lớn của Bác. Nếu như mặt trời thiên nhiên tỏa sáng, sưởi ấm cho vạn vật thì mặt trời nơi Bác xua tan đi u tối quân thù, soi đường chỉ lối, để người dân Việt Nam được sống trong ánh sáng Cách Mạng, ánh sáng của độc lập tự do. Đặt Bác sánh ngang với vũ trụ thiên nhiên còn để khẳng định sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác sống mãi cùng non sông đất nước, Bác sống mãi trong lòng mỗi người con Việt Nam. Để rồi: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân Mỗi người dân là một bông hoa quý, cả dân tộc Việt Nam góp thành một vườn hoa tràn ngập hương sắc dâng tặng Người. Nhịp thơ như chậm lại, kéo dài ra, gợi hình ảnh dòng người bất tận, như những tràng hoa dài không có điểm dừng, ngày ngày vẫn đến viếng thăm lăng, dâng lên Bác những điều tốt đẹp nhất. Bảy mươi chín mùa xuân chính là bảy mươi chín tuổi đời của Bác, bảy mươi chín năm cuộc đời Bác dành hết cho đất nước, cho muôn dân. Công lao tựa trời bể, sao khắc ghi hết được. Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác Theo dòng người vào trong lăng, giờ đây đứng trước di hài Bác, Viễn Phương chợt nghẹn ngào không nên lời: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Bác chỉ là ngủ một giấc thôi, một giấc ngủ ban đêm rất bình thường, có vầng trăng soi sáng. Nhưng: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim! Ví Bác tựa trời xanh, để một lần nữa khẳng định sự bất tử của Bác. Nhưng bên cạnh đó còn là nỗi đau khi sự thực là Bác đã mất đi. Cụm từ tương phản vẫn biết…mà sao gợi sự giằng xé mãnh liệt giữa hy vọng và sự thực, giữa con tim và lý trí. Trong tim vẫn nghĩ Bác đây thôi, nhưng sự thật là Bác đã đi rồi. Ôi một sự mất mát không gì có thể bù đắp được. Khiến người phải nhói ở trong tim! Kết thúc khổ thơ cuối chính là ước nguyện chân thành của nhà thơ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm cành hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Of all the poems written about Uncle Ho, surely each of us cannot help but remember the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum - Vien Phuong. A touching poem, leaving many deep emotions in people's hearts. The poem was composed in 1976, one year after the country was completely unified, Uncle Ho's Mausoleum was inaugurated, Vien Phuong and a delegation of Southern officials visited Uncle Ho. The overflowing emotion inspired him to write this poem. At the beginning of the poem, the author writes: I live in the South and visit Uncle Ho's mausoleum Through the way of addressing son - uncle, it evokes a closeness, warmth and affection, and the use of the word visit instead of visit, the whole verse is like a greeting from a faraway child returning to visit his father or relatives. dear old father. Furthermore, understatement also reduces the pain of loss, to show that Uncle Ho is still alive, still watching the country change and people grow every day. After greeting when the poet arrived in front of the mausoleum, the first thing he saw was: I saw vast rows of bamboo trees in the mist Bamboo is planted in Uncle Ho's mausoleum in great abundance, row after row of straight bamboo, one after another, endlessly long, suddenly appearing in the morning mist and becoming immense. Not only are bamboo trees with ordinary beauty, bamboo also has many extremely profound meanings: Oh! Vietnamese green bamboo products Storm rain fell upright rows Bamboo is not only a symbol of Vietnam, but also a symbol of the Vietnamese people. Through many difficulties and hardships, Vietnamese people are always resilient and brave. Always growing strong, like bamboo, even though the gravel and limestone are discolored, it is always green. The phrase Storm and Rain seems to emphasize the harshness that bamboo must endure, and is also a metaphor for the hardships in our history, the golden pages of history that have preserved the reputation of ancient times, and the people who, despite facing hardships, death still indomitable, head held high. Just remembering it, I can't stop my emotions from getting choked up. And according to Vien Phuong's emotions when standing outside the mausoleum, he also saw: Every day the sun passes over the mausoleum Seeing a red sun in the steering so Likening Uncle Ho to the sun to praise his great merits. If the natural sun shines and warms all things, Uncle Ho's sun dispels the darkness of the enemy, illuminates the way, so that the Vietnamese people can live in the light of the Revolution, the light of independence. free. Placing Uncle Ho on par with the natural universe also affirms his eternal and immortality. He lives forever in the country, he lives forever in the hearts of every Vietnamese child. Then: Every day the stream of people walks in longing The flower garland offers seventy-nine springs Each person is a precious flower, the entire Vietnamese people contribute to create a flower garden filled with fragrance to offer Him. The rhythm of the poem seems to slow down and lengthen, evoking the image of an endless stream of people, like long garlands with no end, still coming to visit the mausoleum every day, offering the best things to Uncle Ho. Seventy-nine springs are the seventy-nine years of Uncle Ho's life, seventy-nine years of his life dedicated to the country and all people. Merit is like the sky, how can we engrave it all? My thoughts on the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum Following the flow of people into the mausoleum, now standing in front of Uncle Ho's remains, Vien Phuong suddenly became speechless: Uncle lies in peaceful sleep In the middle of a gentle bright moon I was just sleeping, a very normal night's sleep, with the moon shining. But: I still know that the sky is blue forever But why listen to the throbbing in my heart! Uncle Ho is like the blue sky, to once again affirm his immortality. But besides that, there is also pain when the truth is that Uncle Ho has passed away. The contrasting phrase is still known... but somehow it evokes a strong tension between hope and reality, between heart and reason. In my heart I still think Uncle is here, but the truth is that Uncle is gone. Oh, what a loss that nothing can compensate for. Makes people's hearts ache! The last stanza ends with the poet's sincere wish: Mai returned to the South with tears in her eyes I want to be a bird that sings around Uncle Ho's mausoleum I want to make a fragrant flower branch somewhere Want to make this place bamboo tastes
Hướng dẫn 1. Văn bản này được bốcục làm ba phần, nội dung của mỗi phần là: – Phần sự thách thức: Nêu lên những thực tế về những con số của cuộc sống khổ cực, nghèo nàn trên mọi mặt. Năm mục trong phần này như một lời kêu gọi khẩn thiết về nhiều trẻ em trên thế giới đang rơi vào hiểm hoạ trên đây. – Phần cơ hội: Phần này có hai mục, khẳng định những điều kiện thuận lợi cơ bản để cộng đồng quốc tê’ cần làm vì sự sống còn, phát triển của trẻ em. Lí lẽ của văn bản tuyên bố rất chặt chẽ, hợp lí. Hai mục đầu khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của mọi trẻ em trên thế giới, kêu gọi khẩn thiết toàn nhân loại hãy quan tâm đến vân đề này. 2. ở phần sự thử thách: tuy ngắn gọn nhưng nêu khá đầy đủ, cụ thể tình trạng rơi vào hiểm hoạ cuộc sống khổ cực của trẻ em trên thế giới: – Bị trở thành nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, của nạn phân biệt chủng tộc, sự xâm lược và thôn tính của người nước ngoài. – Chịu những thảm hoạ của đói nghèo, của tình trạng vô gia cư, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp. – Trẻ em chết mỗi ngày càng nhiều do suy dinh dưỡng và bệnh tật. – Nhận thức, tình cảm của em, phần này là thấm thìa nỗi đau của các bạn trẻ trên thế giới, sẩn sàng làm các việc để đóng góp phần nhỏ bécủa mình vào việc chông lại những thảm hoạ trên đây. 3. Qua phần cơ hội: em thây việc bảo vệ chăm sóc trẻ em trong bối cảnh thế giới hiện nay có nhiều thuận lợi: – Sự liên kết lại của các quốc gia ngày càng cao và cộng đồng quốc tê’ đã có công ước về quyền làm chủ của trẻ em. Sự đoàn kết quốc tế ngày càng hiệu quả trên nhiều lĩnh vực như phong trào giải trừ quân bị, tạo cơ hội cho một số lớn tài nguyên chuyển sang phục vụ mục tiêu kinh tế, cải thiện phúc lợi xã hội. Hoàn cảnh của nước ta đang được Đảng và nhà nước quan tâm đến việc xoá đói giảm nghèo, đời sống của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa tạo điều kiện cho việc chăm sóc, nâng cao và giảm bệnh tật di truyền của nạn suy dinh dưỡng ở trẻ em. 4. Phần nhiệm vụ được xác định trên cơ sở tình trạng thực tê’ cuộc sông của trẻ em trên thế giới hiện nay. Vì vậy bản Tuyên bố đã xác định nhiều nhiệm vụ cấp bách của cộng đồng quốc tê’ và từng quốc gia trong việc tăng cường sức khoẻ, chế độ dinh dưỡng và phát triển giáo dục trẻ em. Sự quan tâm hàng đầu đối với trẻ em bị tàn tật, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… Từ việc củng cố gia đình đến việc xây dựng môi trường xã hội. Từ việc đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ đến khuyến khích trẻ em tham gia vào sinh hoạt văn hoá, xã hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần. Trong phần này lời văn thật dứt khoát, mạch lạc và rõ ràng. 5. Qua bản Tuyên bố,em đã nhận thức được tầm quan trọng về việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em và sự quan tâm của cộng đồng quốctế đốiVÓI vấnđề này. – Bảo vệ quyền lợi, chăm lo đến sự phát triển của trẻ em là nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia, vừa có ý nghĩa cap bách vừa có ý nghĩa quan trọng. – Em hiểu được những chủ trương, chính sách qua những hành động cụ thể đôi với việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Từ đó em nhận ra trình độ văn minh, nhiệm vụ đề ra rất cụ thể và toàn diện. a. Sự quan tâm, chăm sóc của chính quyền địa phương và các tổ chức nơi em ở hiện nay đã được nâng cao nhận thức một bước. Trước hết là thực hiện nghiêm chỉnh sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo, quan tâm đến thiếu nhi ở các vùng sâu, vùng xa. b. Để xứng đáng với sự quan tâm ấy, em tự thây mình có trách nhiệm giúp đỡ các em nhỏ, khi được tham gia vào các tổ chức giúp đỡ, chăm sóc thiếu nhi thì sẽ làm hết sức mình. Tóm lại, bản Tuyên bổ của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em ngày 30-09 – 1990 đã khẳng định những vân đề quan trọng, cấp bách có ý nghĩa toàn cầu là việc bảo vệ quyền lợi, chăm lo đến sự phát triển của trẻ em. Các nước đã cam kết thực hiện những nhiệm vụ có tính chất toàn diện vì sự sống còn, vì tương lai của toàn nhân loại. o Nhậnxét
Instruct 1. This document is divided into three parts, the content of each part is: – Challenge part: Highlighting the realities of miserable and poor life in all aspects. The five sections in this section serve as an urgent call for the many children in the world who are falling into the above danger. – Opportunity section: This section has two sections, affirming the basic favorable conditions that the international community needs to do for the survival and development of children. The argument of the written statement is very strict and reasonable. The first two sections affirm the right to life and the right to develop of every child in the world, urgently calling on all humanity to pay attention to this issue. 2. in the challenge part: although brief, it states quite fully and specifically the situation of falling into the danger of a miserable life for children in the world: – Being victims of war and violence, of racism, invasion and annexation by foreigners. – Suffer the disasters of poverty, homelessness, epidemics, illiteracy, and environmental degradation. – More and more children die every day due to malnutrition and disease. – My awareness and feelings, this part is to absorb the pain of young people around the world, and be ready to do things to contribute my small part to fighting the above disasters. 3. Through the opportunities section: I see that protecting and caring for children in the current world context has many advantages: – The interconnectedness of countries is increasing and the international community has a convention on children's ownership rights. International solidarity is increasingly effective in many fields such as the disarmament movement, creating opportunities for a large number of resources to be transferred to serve economic goals and improve social welfare. The situation of our country is being paid attention to by the Party and State in eliminating hunger and reducing poverty. The lives of people in remote areas create conditions for the care, improvement and reduction of genetic diseases of depression. nutrition in children. 4. The tasks are determined on the basis of the real life situation of children in the world today. Therefore, the Declaration has identified many urgent tasks of the international community and each country in promoting health, nutrition and developing children's education. Top concern for children with disabilities and particularly difficult circumstances... From strengthening the family to building a social environment. From ensuring equal rights for men and women to encouraging children to participate in cultural and social activities to improve their spiritual life. In this section, the writing is decisive, coherent and clear. 5. Through the Declaration, I realized the importance of protecting and caring for children and the international community's concern for this issue. – Protecting the rights and taking care of children's development is the nation's top task, both urgent and important. – I understand guidelines and policies through specific actions regarding the protection and care of children. From then on, I realized the level of civilization and the tasks set out were very specific and comprehensive. a. The attention and care of the local government and organizations where I live has now raised awareness one step further. First of all, strictly implement the Party and State's direction on hunger eradication, poverty reduction, and care for children in remote areas. b. To be worthy of that concern, I consider myself responsible for helping children. When participating in organizations that help and care for children, I will do my best. In summary, the Declaration of the World Summit on Children dated September 30, 1990 affirmed important and urgent issues of global significance, including protecting rights and taking care of development. children's development. Countries have committed to carrying out comprehensive tasks for the survival and future of all humanity. o Receive comments
Hướng dẫn Trong kho tàng văn học cổ Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất nhất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhằn đạo cao cả, mà còn vì các nhân vật trong truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẽ, sinh động. Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như: Thuý Vân, Thuý Kiều, Kim Trọng. Ngay phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ bức chân dung xinh đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân rất thành công. Đầu tiên tác giả giới thiệu chung về cả hai chị em: Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Nói đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh cao, nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng, trinh bạch. Cả mai và tuyết đều rất đẹp, tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng của hai chị em như là mai, là tuyết. Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Nhà thơ đã sử dụng phương pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân. Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm có phụ nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, lông mày cong hình cánh cung như ngài. Miệng cười như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc. Lại nữa, mái tóc của nàng đen dài đến nỗi mây cũng phải chịu thua, làn da trắng mịn đến tuyết cũng phải nhường. Thật là một vẻ đẹp đoan trang phúc hậu ít ai có được. Nguyễn Du đã miêu tả bức chân dung nàng Thuý Vân có thể nói là tuyệt đẹp. Đọc đoạn này ta thấy dung nhan nàng Thuý Vân có thể nói là tuyệt đẹp. Đọc đoạn này ta thấy rung động trước vẻ đẹp tuyệt vời của Thuý Vân mà thêm thán phục thiên tài của Nguyễn Du. Ông đã vận dụng phương pháp tu từ ước lệ của văn thơ cổ vừa đúng đắn, vừa sáng tạo. Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến cho ta rung động đến vậy, ông miêu tả Thuý Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa. Bất ngờ đến kinh ngạc. Bắt đầu từ câu: Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Đến đây chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục. Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều không dài, chỉ vài câu thôi, vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu nữ “tuyệt thế giai nhân”. Mắt nàng thăm thẳm như làn nước thu. Lông mày uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân: dung nhan đằm thắm đến hoa cũng phải ghen, dáng người xinh mơn mởn đến mức khiến liễu cũng phải hờn. Khi đọc đoạn thơ này ta không chỉ thây rung động, thán phục, mà cồn có một cảm giác xốn xang, khó tả bởi nàng Kiều xinh đẹp quá. Phương pháp ước lệ, nhân hoá là biện pháp tu từ phổ biến trong văn học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc, kết hợp với phương pháp dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”, tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận, mà như thấy tận mắt nàng Kiều. Nàng quả có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà ” ta có thể nói là “có một không hai” làm mê đắm lòng người. Đọc hết những câu trên ta mới hiểu được dụng ý của Nguyễn Du khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thuý Vân và vẻ đẹp sắc xảo mặn mà” của Thuý Kiều. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy, dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều, quyến rũ của Thuý Kiều rất hiệu quả. Sắc đã như vậy, còn tài của nàng Kiều thì sao? Ta sẽ không cảm nhận được hết vẻ đẹp hình thể cũng như vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài năng của nàng, mặc dù Nguyễn Du đã nói “sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”, về sắc thì chắc chắn chỉ có mình nàng là đẹp như vậy, về tài thì hoạ chăng có người thứ hai sánh kịp. Thông minh vốn sẩn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. Nàng có cả tài thơ, tài họa, tài đàn. Tài nào cũng xuâ’t sắc, cũng thành “nghề” cả. Riêng tài đàn, nàng còn sáng tác cả một bản nhạc mang tiêu đề “bạc mệnh” rất cuốn hút lòng người. Với nhân vật Thuý Kiều và Thuý Vân, Nguyễn Du đã sử dụng các phương pháp tu từ phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ, ẩn dụ, nhân hoá, dùng điển cố. Qua đó ta thây được vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều. Hai bức chân dung của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan đi tảo mộ nhân ngày tết Thanh Minh. Phong cảnh bên mộ Đạm Tiên quả là tuyệt đẹp: Nao nao dòng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Lúc đó, chàng Kim xuất hiện bất ngờ: Dùng dằng nửa ở nửa về Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần Tiếng nhạc vàng lanh lảnh như xua đi âm khí nặng nề bên nấm mồ vô chủ làm không khí như bừng sáng hẳn lên. Chàng Kim Trọng hiện ra trong dáng hình một anh thư sinh phong kiến: Trông chừng thấy một văn nhân Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng Đề huề lưng túi gió trăng Sau chân theo một vài thằng con con. Nói bức chân dung Kim Trọng có vẻ quen chính là ở chỗ này. Dưới thời phong kiến mà nói tới “thư sinh” thì phải có “tuấn mã”, “tiểu đồng”, phải “lưng túi gió trăng”. Những nét quen đó không làm ta nhàm chán mà khiến ta thấy phong thái hào hoa, trang nhã của Kim Trọng. Điều đó càng thể hiện rõ thêm ở câu tiếp: Tuyết in sắc ngựa câu giòn cỏ pha màu áo nhuộm non da trời Với phương pháp hoán dụ, câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được vẻ khôi ngô, tuấn tú của chàng Kim Trọng qua vẻ đẹp của con ngựa trắng và áo màu xanh. Không những thế, chàng Kim còn là chàng trai rất lịch sự: Nẻo xa mới tỏ mặt người Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình Hành động của chàng khác thói thường của các bậc nam nhi phong kiến như đồng điệu với các cô gái họ Vương đa tình đa cảm. vẻ đẹp của chàng làm bừng sáng cả một vùng. Hài văn lần bước dặm xanh Một vùng như thể cây quỳnh cành dao Thật lạ, quả thật ta chưa thấy một trang nam nhi nào lạ đến như thế. Lạ từ vẻ đẹp trang nhã, hào hoa đến thái độ hào hiệp, lịch sự. Đã như vậy, chàng Kim lại có gia cảnh thật cao quý: Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh Nền phú hậu, bậc tài danh Văn chương nết đất thông minh tính trời Đã đẹp đẽ, chàng Kim Trọng lại là con của một gia đình thế phiệt trong vùng, bản thân chàng cũng theo đòi nghiệp văn chương, bản tính chàng thông minh vein sẩn. Đó chắc chắn là một mẫu người lí tưởng của các trang nam nhi phong kiến, chàng lọt vào mắt xanh và chiếm vị trí mối tình đầu của Thuý Kiều là điều hợp lí. Tác giả Nguyễn Du đã dành cho Kim Trọng những tình cảm tru ái nhất cũng như ông đã dành cho Thuý Kiều. Họ là cặp nhân vật “xứng đôi vừa lứa” mà ông gửi gắm nhiều tình cảm. Khác với Thuý Kiều và Thuý Vân, Nguyễn Du đã dành hẳn một phần để giới thiệu thì đối với Kim Trọng, ông lại giới thiệu chàng trong cảnh gặp gỡ với chị em Thuý Kiều. Đó là hoàn cảnh hợp lí khiến ta thấy chân dung Kim Trọng không chỉ khôi ngô tuấn tú là người phát ngôn tình yêu muôn thuở. Đến với nhân vật Kim Trọng, cảm nhận được vẻ đẹp của chàng, ta thêm khâm phục tài năng của Nguyễn Du với bút pháp tả người rất sắc sảo tài tình. Như đã nói: Truyện Kiều thu hút người đọc một phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Quả vậy, nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bậc thầy trong văn học cổ Việt Nam, tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm toát lên cái tính cách, tâm hồn bên trong của nhân vật đó. Với Thuý Vân, ông thực hiện biện pháp ước lệ miêu tả vẻ đẹp: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da Tất cả các từngữ, các hình tượng được ông sử dụng trong các câu thơ đều tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “đoan trang thuỳ mị” của Thuý Vân. Ông cũng như dự báo số phận bình lặng, êm ả của nàng qua từ “thua”, từ “nhường” một cách êm ả. Với Thuý Kiều, tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà ” của nàng. Những câu thơ miêu tả nàng có thể nói là tuyệt bút: Làn thu thuỷ nét xuân S(ĩn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Nhưng Nguyễn Du đã dự báo số phận bấp bênh chìm nổi của Kiều qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không chịu mà còn “ghen” với “hờn” và khúc nhạc “bạc mệnh” nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó. Với Kim Trọng, Nguyễn Du miêu tả chàng có một phong thái thanh cao, trang nhã, tuân tú, lịch sự, hào hoa. Ông cũng đành cho chàng những câu thơ tuyệt vời: Tuyết in sắc ngựa câu giòn Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời Hài vãn lần bước dặm xanh Một vùng như thể cây quỳnh cây dao Khác Kim Trọng, Từ Hải lại được Nguyễn Du miêu tả như một anh hùng cái thế. Từ vẻ mặt, dáng người hùng dũng cao lớn: Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao Đến tài trí và chí hướng: Đường đường một đấng anh hào Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài Đội trời đạp đất ở đời. Còn với Mã Giám Sinh, tác giả miêu tả bản chất bẩn thỉu của hắn qua các từ ngữ tả thực rất đắt như “ngồi tót”, “cò kè ” với các câu: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng Cồ kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã vàng ngoài bốn trăm. Nhân vật Tú Bà cũng “đồng môn” với Mã Giám Sinh thì lộ vẻ mánh lới xảo quyệt, độc ác và tham lam qua nhiều câu thơ điển hình như:
Hướng dẫn Trong kho tàng văn học cổ Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất nhất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhằn đạo cao cả, mà còn vì các nhân vật trong truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẽ, sinh động. Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như: Thuý Vân, Thuý Kiều, Kim Trọng. Ngay phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ bức chân dung xinh đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân rất thành công. Đầu tiên tác giả giới thiệu chung về cả hai chị em: Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Nói đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh cao, nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng, trinh bạch. Cả mai và tuyết đều rất đẹp, tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng của hai chị em như là mai, là tuyết. Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Nhà thơ đã sử dụng phương pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân. Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm có phụ nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, lông mày cong hình cánh cung như ngài. Miệng cười như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc. Lại nữa, mái tóc của nàng đen dài đến nỗi mây cũng phải chịu thua, làn da trắng mịn đến tuyết cũng phải nhường. Thật là một vẻ đẹp đoan trang phúc hậu ít ai có được. Nguyễn Du đã miêu tả bức chân dung nàng Thuý Vân có thể nói là tuyệt đẹp. Đọc đoạn này ta thấy dung nhan nàng Thuý Vân có thể nói là tuyệt đẹp. Đọc đoạn này ta thấy rung động trước vẻ đẹp tuyệt vời của Thuý Vân mà thêm thán phục thiên tài của Nguyễn Du. Ông đã vận dụng phương pháp tu từ ước lệ của văn thơ cổ vừa đúng đắn, vừa sáng tạo. Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến cho ta rung động đến vậy, ông miêu tả Thuý Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa. Bất ngờ đến kinh ngạc. Bắt đầu từ câu: Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Đến đây chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục. Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều không dài, chỉ vài câu thôi, vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu nữ “tuyệt thế giai nhân”. Mắt nàng thăm thẳm như làn nước thu. Lông mày uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân: dung nhan đằm thắm đến hoa cũng phải ghen, dáng người xinh mơn mởn đến mức khiến liễu cũng phải hờn. Khi đọc đoạn thơ này ta không chỉ thây rung động, thán phục, mà cồn có một cảm giác xốn xang, khó tả bởi nàng Kiều xinh đẹp quá. Phương pháp ước lệ, nhân hoá là biện pháp tu từ phổ biến trong văn học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc, kết hợp với phương pháp dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”, tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận, mà như thấy tận mắt nàng Kiều. Nàng quả có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà ” ta có thể nói là “có một không hai” làm mê đắm lòng người. Đọc hết những câu trên ta mới hiểu được dụng ý của Nguyễn Du khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thuý Vân và vẻ đẹp sắc xảo mặn mà” của Thuý Kiều. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy, dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều, quyến rũ của Thuý Kiều rất hiệu quả. Sắc đã như vậy, còn tài của nàng Kiều thì sao? Ta sẽ không cảm nhận được hết vẻ đẹp hình thể cũng như vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài năng của nàng, mặc dù Nguyễn Du đã nói “sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”, về sắc thì chắc chắn chỉ có mình nàng là đẹp như vậy, về tài thì hoạ chăng có người thứ hai sánh kịp. Thông minh vốn sẩn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. Nàng có cả tài thơ, tài họa, tài đàn. Tài nào cũng xuâ’t sắc, cũng thành “nghề” cả. Riêng tài đàn, nàng còn sáng tác cả một bản nhạc mang tiêu đề “bạc mệnh” rất cuốn hút lòng người. Với nhân vật Thuý Kiều và Thuý Vân, Nguyễn Du đã sử dụng các phương pháp tu từ phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ, ẩn dụ, nhân hoá, dùng điển cố. Qua đó ta thây được vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều. Hai bức chân dung của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan đi tảo mộ nhân ngày tết Thanh Minh. Phong cảnh bên mộ Đạm Tiên quả là tuyệt đẹp: Nao nao dòng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Lúc đó, chàng Kim xuất hiện bất ngờ: Dùng dằng nửa ở nửa về Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần Tiếng nhạc vàng lanh lảnh như xua đi âm khí nặng nề bên nấm mồ vô chủ làm không khí như bừng sáng hẳn lên. Chàng Kim Trọng hiện ra trong dáng hình một anh thư sinh phong kiến: Trông chừng thấy một văn nhân Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng Đề huề lưng túi gió trăng Sau chân theo một vài thằng con con. Nói bức chân dung Kim Trọng có vẻ quen chính là ở chỗ này. Dưới thời phong kiến mà nói tới “thư sinh” thì phải có “tuấn mã”, “tiểu đồng”, phải “lưng túi gió trăng”. Những nét quen đó không làm ta nhàm chán mà khiến ta thấy phong thái hào hoa, trang nhã của Kim Trọng. Điều đó càng thể hiện rõ thêm ở câu tiếp: Tuyết in sắc ngựa câu giòn cỏ pha màu áo nhuộm non da trời Với phương pháp hoán dụ, câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được vẻ khôi ngô, tuấn tú của chàng Kim Trọng qua vẻ đẹp của con ngựa trắng và áo màu xanh. Không những thế, chàng Kim còn là chàng trai rất lịch sự: Nẻo xa mới tỏ mặt người Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình Hành động của chàng khác thói thường của các bậc nam nhi phong kiến như đồng điệu với các cô gái họ Vương đa tình đa cảm. vẻ đẹp của chàng làm bừng sáng cả một vùng. Hài văn lần bước dặm xanh Một vùng như thể cây quỳnh cành dao Thật lạ, quả thật ta chưa thấy một trang nam nhi nào lạ đến như thế. Lạ từ vẻ đẹp trang nhã, hào hoa đến thái độ hào hiệp, lịch sự. Đã như vậy, chàng Kim lại có gia cảnh thật cao quý: Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh Nền phú hậu, bậc tài danh Văn chương nết đất thông minh tính trời Đã đẹp đẽ, chàng Kim Trọng lại là con của một gia đình thế phiệt trong vùng, bản thân chàng cũng theo đòi nghiệp văn chương, bản tính chàng thông minh vein sẩn. Đó chắc chắn là một mẫu người lí tưởng của các trang nam nhi phong kiến, chàng lọt vào mắt xanh và chiếm vị trí mối tình đầu của Thuý Kiều là điều hợp lí. Tác giả Nguyễn Du đã dành cho Kim Trọng những tình cảm tru ái nhất cũng như ông đã dành cho Thuý Kiều. Họ là cặp nhân vật “xứng đôi vừa lứa” mà ông gửi gắm nhiều tình cảm. Khác với Thuý Kiều và Thuý Vân, Nguyễn Du đã dành hẳn một phần để giới thiệu thì đối với Kim Trọng, ông lại giới thiệu chàng trong cảnh gặp gỡ với chị em Thuý Kiều. Đó là hoàn cảnh hợp lí khiến ta thấy chân dung Kim Trọng không chỉ khôi ngô tuấn tú là người phát ngôn tình yêu muôn thuở. Đến với nhân vật Kim Trọng, cảm nhận được vẻ đẹp của chàng, ta thêm khâm phục tài năng của Nguyễn Du với bút pháp tả người rất sắc sảo tài tình. Như đã nói: Truyện Kiều thu hút người đọc một phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Quả vậy, nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bậc thầy trong văn học cổ Việt Nam, tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm toát lên cái tính cách, tâm hồn bên trong của nhân vật đó. Với Thuý Vân, ông thực hiện biện pháp ước lệ miêu tả vẻ đẹp: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da Tất cả các từngữ, các hình tượng được ông sử dụng trong các câu thơ đều tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “đoan trang thuỳ mị” của Thuý Vân. Ông cũng như dự báo số phận bình lặng, êm ả của nàng qua từ “thua”, từ “nhường” một cách êm ả. Với Thuý Kiều, tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà ” của nàng. Những câu thơ miêu tả nàng có thể nói là tuyệt bút: Làn thu thuỷ nét xuân S(ĩn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Nhưng Nguyễn Du đã dự báo số phận bấp bênh chìm nổi của Kiều qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không chịu mà còn “ghen” với “hờn” và khúc nhạc “bạc mệnh” nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó. Với Kim Trọng, Nguyễn Du miêu tả chàng có một phong thái thanh cao, trang nhã, tuân tú, lịch sự, hào hoa. Ông cũng đành cho chàng những câu thơ tuyệt vời: Tuyết in sắc ngựa câu giòn Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời Hài vãn lần bước dặm xanh Một vùng như thể cây quỳnh cây dao Khác Kim Trọng, Từ Hải lại được Nguyễn Du miêu tả như một anh hùng cái thế. Từ vẻ mặt, dáng người hùng dũng cao lớn: Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao Đến tài trí và chí hướng: Đường đường một đấng anh hào Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài Đội trời đạp đất ở đời. Còn với Mã Giám Sinh, tác giả miêu tả bản chất bẩn thỉu của hắn qua các từ ngữ tả thực rất đắt như “ngồi tót”, “cò kè ” với các câu: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng Cồ kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã vàng ngoài bốn trăm. Nhân vật Tú Bà cũng “đồng môn” với Mã Giám Sinh thì lộ vẻ mánh lới xảo quyệt, độc ác và tham lam qua nhiều câu thơ điển hình như:
Hướng dẫn Trên màu cỏ non ấy tác giả điểm xuyến vào vào bông hoa lê trắng. Màu sắc của trời đất đều gợi lên một vẻ đẹp hài hoà, tuyệt diệu. Đoạn thơ gợi tả vẻ đẹp của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống và khoáng đạt trong trẻo. Trong lúc xuân ấy có chị em Thuý Kiều đi dạo xuân. 1. Bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa xuân: – Hai câu đầu vừa tả không gian vừa nói đến thời gian mùa xuân. – Đây là bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân có màu “xanh” của cỏ non, màu “trắng” của hoa lê trên thảm cỏ trải rộng đến chân trời, nhẹ nhàng thanh khiết.. cảnh vật sinh động có hồn chứ không tĩnh tại. (Các em có thể diễn xuôi bốn câu thơ ở mục đại ý như một sự gợi ý). 2. Tám câu thơ tiếp theo gợi nên khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh: – Trong ngày Thanh Minh, có hai hoạt động cùng diễn ra một lúc: đó là lễ tảo mộ (viếng mộ và sửa sang phần mộ): hội đạp thanh đi chơi ở chốn đồng quê. – Tác giả đã sử dụng một loại từ ghép: tính từ, danh từ, động từ để đặc tả cái không khí nhộn nhịp, rộn ràng. + Yên anh, chị em, tài tử, giai nhân: danh từ gợi tả cảnh đông vui. + Sắm sửa, dập dìu: động từ gợi tả sự rộn ràng náo nhiệt. + Gần xa, nô nức: tính từ nói lên tâm trạng người đi dự hội. „ – Qua cuộc du xuân của chị em Thuý Kiều, tác giả đưa đến người đọc một lễ hội văn hoá xa xưa. Một lễ hội tưởng nhớ cội nguồn. 3. Sáu câu gợi nên cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về: – Cảnh mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân, nhưng chuyển động nhẹ nhàng của dòng nước ở khe nhỏ. Mặt trời từ từ ngả về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Những từ tà tà, thanh thanh, nao nao vừa biểu đạt sắc thái của cảnh vệt, vừa bộc lộ tâm trạng của con người đang bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân. 4. Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du trong đoạn thơ Cảnh ngày xuân. Đó là sự kết hợp tả cảnh, giàu chất tạo hình, kết câu rất hợp lí ở sự kết hợp giữa bút pháp tả và bút pháp gợi, có tính chất điểm xuyến, châm phá nhưng vẫn làm cho đôi tượng miêu tả hiện hình nổi bật lên. Đoạn trích đi vào nội dung phần I: “Gặp gỡ và đính ước”. Ở đây ta được đọc những vần thơ trác tuyệt về đặc tả sắc đẹp của chị em Thuý Kiều và miêu tả thiên nhiên của mùa xuân. Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng vẫn thể hiện nét đẹp tinh khôi của con người và cảnh vật. Đặc biệt khi tả con người, tác giả không chỉ vẽ nên những nét đẹp về diện mạo, phong thái mà còn cho ta liên tưởng đến sô” phận của con người.
Instruct On that young grass color, the author added a white pear flower. The colors of heaven and earth evoke a harmonious and wonderful beauty. The poem describes the beauty of a new, pristine spring, rich in vitality and clarity. During that spring, Thuy Kieu and her sister went for a spring walk. 1. The first four lines of the poem describe the spring scene: – The first two sentences both describe space and refer to spring time. – This is a beautiful painting of spring with the "green" color of young grass, the "white" color of pear flowers on the grass spreading to the horizon, gentle and pure.. the scene is lively and soulful, not static. in. (You can paraphrase the four verses in the main idea section as a suggestion). 2. The next eight verses evoke the festive scene during Thanh Minh period: – On Qingming Day, there are two activities taking place at the same time: the tomb sweeping ceremony (visiting the grave and repairing the grave): the festival of pedaling and going out in the countryside. – The author used a type of compound words: adjective, noun, verb to describe the bustling, bustling atmosphere. + Yen brother, sister, actor, beauty: nouns suggestive of a crowded scene. + Shop, prepare: verbs that describe bustle and bustle. + Near and far, excited: adjectives express the mood of the person attending the festival. „ – Through the spring trip of Thuy Kieu sisters, the author brings readers an ancient cultural festival. A festival commemorating our roots. 3. Six sentences evoking the scene of Thuy Kieu's sisters returning from their spring trip: – The scene has the sound and gentleness of spring, but the gentle movement of the water flow in the small stream. The sun slowly tilts to the west, people's footsteps wander, the water curves around. The words wicked, clear, and agitated both express the nuances of the scene and reveal the mood of a person who is uncertain and excited about a happy spring day. 4. Nguyen Du's descriptive art in the poem Scene of a Spring Day. It is a combination of scene description, rich in visual qualities, and a very reasonable sentence ending in the combination of descriptive and evocative writing style, which is embellished and ironic but still makes the depicted objects stand out. turn on. The excerpt goes into the content of part I: "Meeting and engagement". Here we can read beautiful poems describing the beauty of Thuy Kieu sisters and describing the nature of spring. The author used a conventional and symbolic style of writing but still expressed the pristine beauty of people and landscapes. Especially when describing people, the author not only draws beautiful features of appearance and demeanor but also reminds us of human destiny.
Hướng dẫn Lúc này, Kiều một mình một bóng trong căn buồng lạnh lẽo. Nỗi cô đơn như một tấm màn che hết tâm trí Kiều. Nàng thấy ngọn núi cùng mảnh trăng như cùng một bức tranh lạnh lẽo: Trước lầu Ngưng Bích khoáxuân Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung Xung quanh nàng, phong cảnh đẹp, nhưng đượm vẻ buồn buồn. Xa xa, dải cát vàng, những đám bụi hồng, tất cả đều trùm trong màn sương trắng: Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Nàng nhìn đám mây trôi, ngọn đèn leo lét, và nàng cảm thấy bẽ bàng, tủi nhục: Bẽ bùng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Trong lúc bơ vơ, nàng càng nhớ Kim Trọng chắc là cũng đang rày công mong ngóng nàng. Nhớ hôm nào, chàng và nàng còn ngồi dưới ánh trăng dìu dịu mà thề thốt nguyện giữ mối tình chung thuỷ: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày mong mai chờ Nhưng giờ đây, chàng và nàng đã xa cách, dường như không bao giờ có thể gặp lại nữa: Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.. Tấm lòng hiếu hạnh trong nàng bỗng trào lên mạnh mẽ. Nàng nhớ tới bố mẹ này đang trông ngóng nàng, mong nàng từng đêm đến quạt mát những đêm hè oi bức cũng như ấp ủ mỗi đêm đông giá rét. Bây giờ chắc cha mẹ đã già lắm rồi: Xót xa người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm! Nàng lại nhìn ra ngoài xa, cánh buồm cô đơn thấp thoáng trong làn sương thoang thoảng. Nhìn cánh hoa trôi, nàng chợt nhớ tới thân phận mình không biết sẽ trôi dạt phương nào. Nàng cảm thấy như không có lối thoát trong cuộc đời tủi nhục: Buồn trông cửa bể chiều hôm thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trong ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Phong cảnh lúc này thật đẹp, nhưng cũng thật buồn, chúng chỉ nhàn nhạt một màu xanh xa xăm. Buồn trong nội cỏ dầu dầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Tiếng thác nước rào rào ở đâu xa mà nàng cảm thấy như ngay dưới chân mình. Nàng đang cô đơn, hãi hùng, lênh đênh như con thuyền mỏng manh trước biển thác gập ghềnh sóng vỗ. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ấm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi Lúc này, tâm trạng nàng pha trộn niêm thương nhớ, nỗi cô đơn, hãi hùng. Trên đất khách quê người này, nàng như một con vật yếu đuối, lẻ loi đang chông chọi với mọi gian truân trong cuộc đời đầy oan nghiệt, khắt khe. Chung quanh những nước non người Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu Một người con gái có tài có sắc như vậy mà dưới chế độ phong kiến đã bị đày đoạ, bị đẩy xuống tầng lớp tột cùng của xã hội, bị đày đoạ cả về thể xác lẫn nhân phẩm như thế đấy… (Bài của Từ Phương Thảo lớp 8A, năm học 1987 – 1988)
Instruct At this time, Kieu was alone in the cold room. Loneliness was like a curtain covering Kieu's mind. She saw the mountain and the moon as the same cold picture: In front of Ngung Bich building, spring class The mountains are far away, the moon is near, living together Around her, the landscape is beautiful, but filled with sadness. In the distance, golden sand, clouds of pink dust, all covered in white mist: All four sides are vast and far away, Golden sand dunes there, pink bushes there. She looked at the drifting clouds and the flickering light, and she felt humiliated and humiliated: Bursting clouds in the morning and lights at night, Half love, half scene, like dividing hearts. While feeling helpless, she remembered even more that Kim Trong was probably also waiting for her. Remember one day, he and she sat under the gentle moonlight and swore to keep their love faithful: Imagine the person under the bronze cup. The news is filled with hope and hope But now, he and she are far apart, it seems they can never meet again: In a lonely corner of the sky, The son wash never fade.. The filial piety in her suddenly surged strongly. She remembered her parents who were waiting for her, hoping for her to come and cool them every night on the hot summer nights as well as cherish every cold winter night. My parents must be very old now: Feeling sorry for the person leaning on tomorrow's door, Fan cold incubation concentrations of someone now? San Lai is far from sunshine and rain, Sometimes the tree can fit a person's arms! She looked out into the distance again, the lonely sail looming in the faint mist. Looking at the floating flower petals, she suddenly remembered her identity and did not know which direction she would drift to. She felt like there was no way out of her life of humiliation: Sad to look at the broken door that afternoon One boat sails looming in the distance? Sad in the newly fallen water, Where is the flowers drifted? The scenery at this time is so beautiful, but also so sad, they are only a faint blue color in the distance. Sad inside the oily grass Foot blue clouds green earth. The sound of the waterfall was somewhere far away, but she felt like it was right under her feet. She is lonely, frightened, floating like a fragile boat in the sea of ​​rough waterfalls and waves. Sad to see the wind blowing away my face, The sound of waves roaring around the seat At this time, her mood was mixed with nostalgia, loneliness, and fear. In this foreign land, she is like a weak, lonely animal struggling with all the hardships in a life full of injustice and harshness. Surrounded by uninhabited countries Heartbroken and lost, so a few sentences A girl with such talent and beauty was exiled under the feudal regime, pushed down to the lowest levels of society, both physically and in dignity like that... (Article by Tu Phuong Thao, class 8A, school year 1987 - 1988)
Hướng dẫn Trong Truyền Kiều của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ‘ỉ Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mảy mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tám câu thơ trên là tả cảnh nhưng thật sự là tình, Nguyễn Du tả cảnh nhưng thật sự là tả tình. Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lý, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quả thật, trong suốt phần đầu của “Truyện Kiều” chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kỹ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, ‘ nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em nhưng điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững tạm quên mình đi để giải quyết việc 26 nhà cho trọn đạo một người con, một người chị. Phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khập khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hồn vì quang cảnh nhà mụ, Kiều đã gặp ngay một trận “tam bành” của con mụ buôn thịt người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn. Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú) bốn bề là mênh mông vắng lạnh, cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thìa. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bội tha thiết như thế mà nay thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày một già yếu mà lại không có nàng để hôm sớm đỡ đần, chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khôi trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn có từ cảnh mà dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ trong lòng nàng mà đi ra. Nàng “buồn” mà “trông” cho nên trông gì cũng buồn. Với hai tiếng “buồn trông”, Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc qua vậy? Kiều trông gì? Đây là bức tranh thứ nhất: Buồn trông cửa bể chiều hâm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Trông về cửa bể mà lại “cửa bể chiều hôm”. Lúc ấy mặt trời đã tắt, chỉ còn lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một dải bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tôi. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai” tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc trở về để gợi lên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chần trời, vì Kiều chỉ nhìn thây cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ “thấp thoáng”. “Thấp thoáng”, hai tiếng vần “th” gợi một cảm giác lặp lại, với hai ầm “ấp” và “oáng”, một âm đóng lại, một âm mở ra, diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ, tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hồ như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. “Thuyền ai…” thuyền ai đó, thuyền ai nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy sao có thể không thấm thìa nỗi buồn hơn. Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây: Buồn trâng ngọn nước mới sa. Hoa trôi man mác biết là về đâu? Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi qua khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuộn xoáy, sôi trào, xô đập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao vừa xa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: Hoa trôi man mác… Giá nhà thơ viết “tan tác” thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh kia! Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa đẩy qua lại, rồi lại trôi đi, lẳng lặng, buồn bã, để đến một nơi nào không thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy, có khác chi cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suôi êm đềm và mới vừa sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đoá hoa đang man mác trôi đi, đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe doạ chưa thể nào hình dung ra hết. Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi hãy đưa mắt trông đi nơi khác. Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không một mái nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì cũng có tươi tốt gì đâu! Từ “rầu rầu” không chỉ gợi lên ý “rầu rầu”, buồn bã, mà còn cho ta hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa, ủ ê như đang dần héo hắt đi. Đây không phải đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi hội Thanh Minh. Cỏ non xanh rợn chân trời. Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh. Thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài vô tận, tiệp với cả nền trời, thành một màu duy nhất: “xanh xanh” nếu Nguyễn Du viết: Chân mây mặt đất một màu xanh “tươi” thì hẳn Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng “xanh xanh” thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, là gợi lên một niềm ngao ngán. Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng? Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ẵm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Hoá ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cảnh trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chỉ là những bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xoá một màu. Sóng vỗ “ầm ầm: chứ không chỉ “ì ầm” như những ngày ít gió, sóng gào thét cuồng nộ, đập vào bờ, xô đập vào nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bôn bề. Kiều tưởng như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đâu chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bôn bên nàng là sóng vỗ. Mấy từ “ầm ầm tiếng sóng” nghe như dữ dội mà mấy từ “Kêu quanh ghế ngồi” nghe càng dữ dội hơn. Tiếng sóng không chỉ kêu trên biển mà đã ầm vang dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.
Hướng dẫn Trong Truyền Kiều của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ‘ỉ Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mảy mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tám câu thơ trên là tả cảnh nhưng thật sự là tình, Nguyễn Du tả cảnh nhưng thật sự là tả tình. Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lý, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quả thật, trong suốt phần đầu của “Truyện Kiều” chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kỹ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, ‘ nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em nhưng điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững tạm quên mình đi để giải quyết việc 26 nhà cho trọn đạo một người con, một người chị. Phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khập khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hồn vì quang cảnh nhà mụ, Kiều đã gặp ngay một trận “tam bành” của con mụ buôn thịt người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn. Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú) bốn bề là mênh mông vắng lạnh, cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thìa. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bội tha thiết như thế mà nay thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày một già yếu mà lại không có nàng để hôm sớm đỡ đần, chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khôi trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn có từ cảnh mà dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ trong lòng nàng mà đi ra. Nàng “buồn” mà “trông” cho nên trông gì cũng buồn. Với hai tiếng “buồn trông”, Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc qua vậy? Kiều trông gì? Đây là bức tranh thứ nhất: Buồn trông cửa bể chiều hâm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Trông về cửa bể mà lại “cửa bể chiều hôm”. Lúc ấy mặt trời đã tắt, chỉ còn lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một dải bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tôi. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai” tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc trở về để gợi lên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chần trời, vì Kiều chỉ nhìn thây cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ “thấp thoáng”. “Thấp thoáng”, hai tiếng vần “th” gợi một cảm giác lặp lại, với hai ầm “ấp” và “oáng”, một âm đóng lại, một âm mở ra, diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ, tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hồ như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. “Thuyền ai…” thuyền ai đó, thuyền ai nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy sao có thể không thấm thìa nỗi buồn hơn. Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây: Buồn trâng ngọn nước mới sa. Hoa trôi man mác biết là về đâu? Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi qua khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuộn xoáy, sôi trào, xô đập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao vừa xa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: Hoa trôi man mác… Giá nhà thơ viết “tan tác” thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh kia! Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa đẩy qua lại, rồi lại trôi đi, lẳng lặng, buồn bã, để đến một nơi nào không thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy, có khác chi cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suôi êm đềm và mới vừa sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đoá hoa đang man mác trôi đi, đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe doạ chưa thể nào hình dung ra hết. Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi hãy đưa mắt trông đi nơi khác. Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không một mái nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì cũng có tươi tốt gì đâu! Từ “rầu rầu” không chỉ gợi lên ý “rầu rầu”, buồn bã, mà còn cho ta hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa, ủ ê như đang dần héo hắt đi. Đây không phải đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi hội Thanh Minh. Cỏ non xanh rợn chân trời. Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh. Thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài vô tận, tiệp với cả nền trời, thành một màu duy nhất: “xanh xanh” nếu Nguyễn Du viết: Chân mây mặt đất một màu xanh “tươi” thì hẳn Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng “xanh xanh” thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, là gợi lên một niềm ngao ngán. Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng? Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ẵm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Hoá ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cảnh trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chỉ là những bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xoá một màu. Sóng vỗ “ầm ầm: chứ không chỉ “ì ầm” như những ngày ít gió, sóng gào thét cuồng nộ, đập vào bờ, xô đập vào nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bôn bề. Kiều tưởng như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đâu chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bôn bên nàng là sóng vỗ. Mấy từ “ầm ầm tiếng sóng” nghe như dữ dội mà mấy từ “Kêu quanh ghế ngồi” nghe càng dữ dội hơn. Tiếng sóng không chỉ kêu trên biển mà đã ầm vang dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.
Hướng dẫn Đúng cái kiểu ăn nói của con buôn, dấm dẳng, cộc lốc: Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh” Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”. “Mã” là họ của hắn, còn “Giám Sinh” là đóng vai sinh viên Quốc tử giám. Tiếp đó là nhà thơ miêu tả chân dung của hắn: Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẩn nhụi, áo quần bảnh bao… Những từ “nhẩn nhụi”, “bảnh bao” không mang hàm ý đẹp hoặc đứng đắn với một kẻ ngoại tứ tuần. Sau đó nhà thơ lột tả cái “thần” của hắn qua thái độ ngạo mạn, vô lễ bằng từ “tót”: Ghế trên ngồi tót sỗ sùng. Cũng như từ “lẻn” khi tả Sở Khanh (Rẽ song đã thây Sở Khanh lẻn vào) hoặc từ “ngây” khi tả Hồ Tôn Hiến (Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình). Như thế là ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã ngay từ lúc chưa bước vào cuộc mua bán đã miêu tả khách quan và chính xác. Đó là hạng người vô giáo dục, không thể tin cậy, không có khả năng sống lương thiện. Bản chất con buôn – mà lại buôn người – một lần nữa được nhà thơ khắc hoạ sâu sắc qua hành động có tính nghề nghiệp của hắn: Đó là chuyện xem hàng, mặc cả, trả giá mà hắn đã quen đến mức điêu luyện, cho nên tuy hắn nói ít, nhưng lại tỏ ra rất sành sỏi trong việc “Đắn đo cân sắc, cân tài – Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ” rồi nâng lên, tuột xuống, cân nhắc như món hàng ngoài chợ. Và khi đã bằng lòng, vừa ý, hắn mới làm bộ lịch sự hỏi giá: “Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” Nhưng cuối cùng với chuyện tiền nong, hắn buộc phải bật ra cái bản chất con buôn: “Cò kè bớt một thêm hai”, trắng trỢn, bỉ ổi, ti tiện, bẩn thỉu, đã khép lại màn “vấn danh”, một người con gái tài sắc là “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”. Quả tình dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Mã Giám Sinh là tay buôn người lọc lõi, sành sỏi, với những thủ đoạn hết sức trắng trỢn, bỉ ổi, đã tiên đoán thân phận nàng Kiều sẽ như thế nào khi lên xe hoa với con người ấy. Là người con gái lần đầu đi hội Thanh Minh, lần đầu gặp gỡ một chàng thư sinh, nay phải bước ra khỏi nơi “trướng rủ màn che”, phải từ giã mối tình đầu đang đằm thắm để ra mắt bọn người sỗ sàng, trâng tráo… Từ trong buồng bước ra, nàng đau xót thấm thìa với cảnh ngộ của gia đình và của bản thân, cho nên mỗi bước đi là mỗi “lệ sa mấy hàng”.
Instruct Exactly the way a merchant speaks, blunt and curt: Asked name, said: "Ma Giam Sinh" When asked about his hometown, he said: "Lam Thanh district is also close." “Ma” is his last name, and “Giam Sinh” plays the role of student Quoc Tu Giam. Next, the poet describes his portrait: Too old to be in his forties Shabby beard, neat clothes... The words "sloppy" and "dandy" do not carry the connotation of beauty or decency to a person in their forties. The poet then describes his "god" through his arrogant and disrespectful attitude with the word "tót": The upper chair sits sloppily. Just like the word "sneaking" when describing So Khanh (Turning the river and seeing So Khanh sneak in) or the word "sneaky" when describing Ho Ton Hien (Strange even with an iron face but also stunned by love). Thus, Ma's appearance, gestures, and actions were described objectively and accurately even before entering the transaction. Those are the kind of people who are uneducated, cannot be trusted, and are incapable of living honestly. The nature of a merchant - and a human trafficker - is once again deeply portrayed by the poet through his professional actions: It is the matter of viewing goods, bargaining, and paying prices that he is so familiar with that he is skilled. Therefore, although he spoke little, he proved to be very skilled in "Weighing beauty and talent - Forcing the palace to hold the moon to try fanning poetry" and then lifting it up, sliding it down, weighing it like a commodity in the market. And when he was satisfied, he pretended to be polite and asked the price: "How much do you want me to pay you?" But in the end, when it came to money, he was forced to reveal his merchant nature: "One less, add two", brazen, despicable, despicable, dirty, closing the curtain of "asking for names", once and for all. The talented and beautiful girl is "It's been a long time since the gold price fell to over four hundred". Indeed, under the pen of Nguyen Du, Ma Giam Sinh is a sophisticated and sophisticated human trafficker who, with extremely blatant and despicable tricks, predicted what Kieu's fate would be like when she married her husband. that person. As a girl who went to the Thanh Minh festival for the first time, met a scholar for the first time, and now has to step out of the "hidden curtain" place, has to say goodbye to her first loving love to appear before rude people, brazen… Coming out of the room, she was deeply saddened by the plight of her family and herself, so every step was filled with tears.
Hướng dẫn Đó là Đạm Tiên – xưa là ca nhi: “Sống làm vợ khắp người ta” nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm cho sô” phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về sô” kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thê” nào. Nhưng tiếp đó Thuý Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn với Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi ban đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình: “Tinh trong như đã, mặt ngoài còn e”. Ra về mỗi người đều nảy sinh tình cảm vâ”n vương, lưu luyến. Kim Trọng nặng lòng tương tư nên đã tìm nơi trọ ở ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi hẹn non thề biển. Dưới ánh trăng sáng, hai người quỳ xuống thề thốt với nhau, nhờ ánh trăng đóng vai người làm chứng cho lời giao ước: vầng trăng vằng vạc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song… Nhưng ngay sau đó, Kim Trọng phải về thọ tang chú ba năm, và gia đình Thuý Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt trói, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ còn có Thuý Kiều là “món hàng” đắt giá nhất có thể bán lấy sô” bạc chuộc cha và em trai ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ. Thời cơ đã đến với kẻ buôn người: Mã Giám Sinh… Nếu so với đoạn Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đôi với “Mã” cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của sô” mệnh, của cái thế lực đen tôi đến gieo tai hoạ. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mụ chủ chứa lầu xanh Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng. Ta thây nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói tác động vào thái độ của mụ mốì và hắn với những câu dâm dẳng nghe trào tiếu đến mức phải bật cười: Hỏi tên – rằng Mã Giám Sinh Hỏi quê – rằng – huyện Lăm Thanh cũng gần Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuâ”t hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình. Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhãn nhụi, áo quần bảnh bao. Thật ra thì cũng chẳng nên khó tính khi Mã là đỏm “Mày râu nhẩn nhụi áo quần bảnh bao” để đóng vai trò hỏi vỢ. Nhưng ta muôn nói đến cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hoá giả, nói trắng lại hoá ta đen. Bởi vậy nghe những từ â”y ta lại thây không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản châ”t bên trong của hắn. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét Nguyễn Du có tài lột tả cái “thần” của nhân vật chỉ bằng một từ, từ “tót” trong “ngồi tót” của họ Mã, cũng như từ “lẻn” tả Sở Khanh, từ “ngây” tả Hồ Tôn Hiến, đã trở thành những “nhãn từ” trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngay từ khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả râ”t khách quan nhưng râ”t chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện” (BLVH 9) Nguyễn Du đã tiếp tục khắc hoạ nhân vật họ “Mã” bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động “buôn người” của hắn: Đắn đo cân sắc cân tài Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ. Như vậy dưới con mắt của hắn, Thuý Kiều là một món hàng phải “ép” cái này, “thử” cái kia, phải nhắc lên, đặt xuống, xoay sở đủ cách như “cân, đong, đo, đếm” hàng hoá vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua hán là giá cả hắn phải hỏi dù với giọng ngọt xớt giả nhân, giả nghĩa nhưng kệch cỡm, vụng về: Hắn khai: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều Hắn hỏi: Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường Sau khi mụ môi định giá, hắn “Cò kè, bớt một thêm hai”, từ một ngàn lạng hắn chỉ “ngã giá” có ngoài bốn trăm. Thế là cuộc mua bán bẩn thỉu được nguy trang là lễ vấn danh và hàng loạt từ mĩ miều như: “canh thiếp”, “nạp thái”, “vu quy” đều là sự bôi đen lên tấm thân “nghiêng nước, nghiêng thành”. Kết thúc tấn “bi hài kịch” này, Nguyễn Du hạ hai câu thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau, và có kẻ khách quan nhưng thực ra là đáng sỢ như hàm răng của con cá sấu, là cái nanh vuốt của xã hội bắt đầu thồ ra lấy con mồi của nó: Định ngày nạp thái vu quy Tiền lưng đã cỏ, việc gì chẳng xong… Nghĩa là đến đây sô” phận nàng Kiều đã được định đoạt bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu li… Nàng đã rút ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình để vất vào những hang ổ “miệng hùm, nọc rắn”. Ai có thể lường trước được về thân phận của người con gái tài sắc của họ Vương. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh Bốn phương phang lặng, hai kinh vững vàng Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội yên ấm, thế mà giữa “thanh thiên bạch nhật” gia đình họ Vương mắc oan, phải gỡ cái oan nghiệt này bằng việc bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái “lá ngọc cành vàng”, “tiết sạch gái trong”, bước chân vừa mới chạm vào ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách sỗ sàng, thậm chí còn “ép nọ thử kia” để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp. o Nhậnxét
Instruct That is Dam Tien - in the past she was a singer: "Lived as a wife to everyone" but now no one cares to light a stick of incense for her. With her sentimental nature, Kieu felt sorry and sympathized with Dam Tien's fate, and from then on, Dam Tien acted as an invisible confidant to inform her about the fate of the long life that would take place and end. “like that”. But then Thuy Kieu met Kim Trong, a fellow student with Vuong Quan. Just through the initial communication, feelings blossomed like love at first sight: "It's as pure as it is, but on the outside it's still shy." When leaving, each person has feelings of love and attachment. Kim Trong was so deeply in love that he found a place to stay right behind Kieu's house. Thanks to that, the two met and promised to swear by the sea. Under the bright moonlight, the two people knelt down and swore to each other, thanks to the moonlight acting as witnesses to the contract: The moon shines in the sky Dinh believes two mouths say the same thing... But soon after, Kim Trong had to return to pay his uncle's funeral for three years, and Thuy Kieu's family fell into the situation of being unfairly slandered by silk sellers, so their house was destroyed, Vuong Ong and Vuong Quan were arrested, tied up, and beaten. At this time, the only thing left in the house was Thuy Kieu, the most valuable "goods" that could be sold to get some money to ransom her father and younger brother out of captivity. She decided to sell herself. While we need to save my father and brother, one day late is another day of suffering. The time has come for human trafficker: Ma Giam Sinh... Compared to the passages where Kieu meets Kim Trong and Kieu meets Tu Hai, Nguyen Du has verses that introduce character portraits. As for "Ma", he was also the one who came to marry her, but he was just a tool of fate, of the dark forces that came to bring disaster. This merchant is probably searching around the market in his hometown to buy beautiful women for the owner of the Tu Ba brothel that he also contributes to. We see that the poet describes a series of words that affect the attitudes of the mother and him with such lewd sentences that are so funny that it makes you laugh: Ask for the name – that is Ma Giam Sinh Asked about his hometown - Lam Thanh district was also close In the end, the poet let him truly appear with quite typical physical features. Too old to be in his forties Eyebrows and handsome clothes. In fact, it shouldn't be difficult when Ma pretends to "put on his beard and wear smart clothes" to play the role of asking his wife. But we want to talk about the poet's talent of telling the truth but turning it into falsehood, saying white but turning it black. Therefore, when we hear these words, we see that they have no formal meaning and reflect his true inner nature. Many researchers have commented that Nguyen Du has the talent to describe the character's "god" with just one word, the word "tôt" in "sit too" of the Ma family, as well as the word "sneaking" to describe So Khanh, the word "sneaky". naive" describing Ho Ton Hien, have become "word labels" in the language of the Tale of Kieu. Ma Giam Sinh's appearance, gestures, and actions, even before entering the transaction, were described very objectively but accurately, as an uneducated person, an unworthy person. trustworthy, not honest” (BLVH 9) Nguyen Du continued to portray the character "Ma" with an even more vivid descriptive style through his "human trafficking" gestures and actions: Consider weighing beauty and wealth Force the bow to hold the moon, try fanning poetry. So in his eyes, Thuy Kieu is a commodity that must be "pressed" this, "tested" that, must be raised, put down, managed in all sorts of ways such as "weighing, measuring, measuring, counting" the goods. So. In the end, the goal of the sale is the price, he has to ask even in a sweet, hypocritical, but ridiculous and clumsy tone: He declared: That buys jade to Lam Kieu He asked: I wonder how much I would like to teach you After the woman set the price, he said, "One less, add two". From a thousand taels, he only "lowered the price" by a little over four hundred. So the dirty transaction was disguised as a name-calling ceremony and a series of beautiful words such as: "canh concubine", "receive thai", "vu quai" are all blackened on the body "tilting water, leaning into city". ”. At the end of this "tragic comedy", Nguyen Du wrote two lines of poetry that seem to have nothing to do with each other, and there are people who are objective but are actually as scary as the teeth of a crocodile, the claws of society. begins to pounce on its prey: Set a date for charging Thai Vu Quy The money is gone, nothing is done... It means that at this point, Kieu's fate has been decided to embark on a journey full of thorns, hardships, and regrets... She pulled out of her family's gentle embrace and threw herself into the lairs of "a tiger's mouth and snake venom". Who could have predicted the fate of the talented daughter of the Vuong family. At the beginning of The Tale of Kieu, Nguyen Du wrote: That was in the year of Gia Tinh during the Ming Dynasty The four directions are quiet, the two sutras are steady We have the feeling that it is a peaceful society, yet in "broad daylight" the Vuong family is wronged and must overcome this injustice by selling their talented first-born child. As a girl with "jade leaves and golden branches", "a pure virgin", her steps just touched the threshold of happiness and she became a commodity in the market. Feeling bitter and indignant for the girl who had never been in this world but had to appear in front of strangers for them to look at rudely, and even "force this and that" to avoid being careless or careless when buying. Expensive even though it's a beauty. o Receive comments
Hướng dẫn Đến với Truyện Kiều, đến với kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du ây, chúng ta không chỉ cảm nhận những vẻ đẹp tuyệt vời của con người ngoi lên từ trong cuộc sông tối tăm đau khổ, từ những bi kịch oan trái của cuộc đời và những ước mơ, những khát vọng, những tình cảm đăm thắm thiết tha đầy ân tình của họ mà còn được chiêm ngưỡng những bức tranh tươi đẹp sống động của thiên nhiên, của tạo vật và “có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường vẫn kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm được tình người.” Thiên nhiên, đó là một thế giới tuyệt đẹp – một thế giới sinh động với đủ màu sắc, đường nét và những âm thanh. Và cái đẹp của thiên nhiên là cái đẹp được tạo hoá ban phát, dinh dưỡng trong nguồn sữa ngọt ngào của trời đất. Thiên nhiên mở ra trước mắt ta một thế giới vô cùng phong phú và thi vị, gợi lên trong tâm hồn mỗi con người những tình cảm đắm say và tha thiết. Và với một tâm hồn nghệ sĩ giàu sức rung động trước tạo vật quyện hoà dưới ngòi bút trữ tình đằm thắm thiên tài Nguyễn Du đã để lại cho muôn đời những bóng dáng nên thơ của thiên nhiên trên những trang Kiều. Thi sĩ đã cảm nhận một cách sâu sắc và tinh thế những nét đẹp riêng biệt của từng cảnh vật, từng cảnh hoa, từng đám cỏ, từng tiếng chim hay một dòng sông nhỏ êm đềm. Mỗi chúng ta đều tìm thấy ở Truyện Kiều những nét đặc sắc mang cái “thần” của thiên nhiên. Đọc Truyện Kiều ta như được thả mình vào một thế giới tuyệt diệu, thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng tất cả những vẻ đẹp tinh tuý của tạo vật. Nhưng thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp tuyệt vời đó mà nó còn hàm ẩn một tầng ý nghĩa sâu sắc. Thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một nhân vật bên cạnh con người và hài hoà với nội tâm con người. Những lúc buồn, hay những khi vui, những nhớ thương hay những khi sầu muộn, bóng hình của thiên nhiên xuất hiện giao hoà với tâm trạng của con người và thiên nhiên trở thành những bức tâm cảnh chan chứa tình cảm, trở thành những người bạn “lặng lẽ” và “kín đáo” sẻ chia những nỗi niềm, những suy tư trăn trở của mỗi con người. Bằng ngòi bút đầy tài hoa của mình, bằng sự tiếp thu một cách sáng tạo bút pháp tả cảnh ngụ tình của người xưa, Nguyễn Du đã để lại tên những trang Kiều những bức tranh sống động chan chứa tình người. Cảnh nào cảnh chằng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ… Và mỗi lần vật đổi sao dời, mỗi lần cảnh vật có một sự biến đổi là con người lại bước vào một chặng đường số phận khác, cảnh như báo trước cho con người những dự cảm về tương lai. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một bút pháp của Nguyễn Du – góp phần miêu tả và khắc hoạ tính cách nhân vật làm cho thế giới nội tâm của nhân vật càng thêm phong phú và sâu sắc. Và mỗi chúng ta hãy gác lại những suy tư trăn trở để thả mình vào thế giới thiên nhiên tuyệt vời trong Truyện Kiều, thả mình vào những cảm xúc đằm thắm những tình cảm thiết tha của thiên tài Nguyễn Du. cỏ non xanh rợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bỏng hoa Một bức tranh mùa xuân thật là tuyệt vời mà chỉ những tâm hồn nghệ sĩ mới có cảm nhận tinh tế và độc đáo như vậy. Không một ước lệ, không một điển cố mà chỉ là một cảnh vật rất chân thực của quê hương xứ sở. Một vạt cỏ xanh non mơn mởn trải dài đến tận chân trời với một mà xanh mơn mởn căng đầy sức sông, một cành lê điểm vài bông hoa trắng muốt. Hai màu sắc tưởng chừng như đối lập ấy lại quyện hoà vào nhau thêu dệt nên một bức tranh tươi đẹp mang đầy đủ hương sắc của mùa xuân. Cỏ non xanh rợn chân trời… Và trong cái tươi đẹp của thiên nhiên ta vẫn thây một dự cảm về số phận của con người. Cái từ “rỢn” ấy gợi lên trong cảm giác chúng ta một nỗi sợ, “xanh rỢn” – đúng là một màu xanh quá kỳ lạ. Thiên nhiên cũng trong cảnh chiều xuân ấy, thiên nhiên bỗng nhuộm một nỗi buồn khi chị em Thuý Kiều gặp mộ Đạm Tiên: Nao nao dồng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang Một dòng nước trong xanh, một chiếc cầu nho nhỏ, cảnh vật thật nên thơ và mơ mộng nhưng lại thắm đượm một nỗi buồn. Cái nao nao của dòng nước ấy chính là cái “nao nao”, là nỗi buồn của chị em Thuý Kiều. Đứng trước nấm mồ của người con gái tài hoa bạc mệnh Đạm Tiên trong lòng họ dâng lên một nỗi buồn, một niềm thương cảm và cảnh vật cũng bỗng nhiên trở nên buồn lặng. Và cũng chính trong cảnh chiều xuân ấy khi tà tà bóng ngả về tây, khi Thuý Kiều – người con gái thông minh tài sắc đối diện với ý trung nhân của đời nàng, chàng Kim Trọng, và trong giây phút “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” tình yêu vừa chớm hé, thiên nhiên bỗng trở nên tha thiết quyến luyến. Chia tay với người yêu, cảnh vật như thấu hiểu tâm trạng của hai người: Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bỏng chiều thướt tha Nhịp cầu và dòng nước trong sáng như mối tình tuyệt đẹp của Thuý Kiều và Kim Trọng hàng liễu với bóng chiều thướt tha như tâm trạng quyến luyến bịn rịn của Thuý Kiều – một mối tình tha thiết đắm say nẩy nở trong tâm hồn nồng nhiệt của nàng. Lúc nào cũng vậy, thiên nhiên cũng trở thành một nhân vật kín đáo lặng lẽ và hài hoà với nội tâm con người. Trong đêm buồn, thương nhớ Kim Trọng, tất cả cảnh vật đều nghiêng nghiêng như tình cảm Thuý Kiều cũng nghiêng nghiêng. Gương Nga chênh chếch dòm song Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân… Ánh sáng của mặt trăng loang loáng trải dài xuống mặt nước len lỏi vào các cành cây tạo nên một sắc màu lung linh lấp lánh và ánh trăng diệu kỳ ấy, ta đọc thấy tình cảm, nỗi tương tư của Thúy Kiều và hình như cảnh ấy, vật ấy cũng thấu hiểu nỗi lòng của nàng. Cũng là ánh trăng nhưng mỗi một khi tâm trạng của con người biến đổi thì nó cũng trở nên khác lạ. Khi Thuý Kiều từ biệt Thúc Sinh, vầng trăng cũng vì thế mà. vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường Vầng trăng xẻ làm đôi ấy hay chính là sự chia lìa giữa Thuý Kiều, Thúc Sinh và hình như đó sẽ là sự chia lìa mãi mãi. Nàng Kiều và chàng Kỳ Tâm họ Thúc – mỗi người sẽ đi vào một cuộc đời khác nhau, một chặng đường khác nhau và cũng như vầng trăng lẻ kia, “nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. ” Trước lầu Ngưng Bích, tất cả cảnh vật như nhoà đi trong nỗi đau của nàng – dần xa và xa mãi. Buồn trông cửa bể chiều hôm thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trâng ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trâng nội cỏ dầu dầu Chăn mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ẵm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi… Thiên nhiên hiện hữu trước mắt ta, có chân mây mặt biển, có cánh buồm ngoài khơi xa, có tiếng sóng, có nội cỏ dầu dầu nhưng hình như tất cả đều là những ẩn dụ, phúng dụ cho số phận nàng Kiều. Chiếc buồm ngoài khơi xa và cánh hoa trôi nổi lênh đênh giữa dòng nước như số phận vô định của nàng Kiều, nội cỏ dầu dầu ấy hay chính là nỗi đau, nỗi tủi nhục đang đè nặng trái tim nàng và tiếng sóng ầm ầm quanh ghế ấy phải chăng là nỗi sợ hãi trước một tương lai mù mịt đen tối? Và tất cả tạo dựng nên một bức tâm cảnh có ý nghĩa về cuộc đời và số phận bi kịch của nàng Kiều. Cuộc đời nàng từ đây sẽ trôi vào bể trầm luân khổ ải, vào những “bi kịch chua xót đớn đau”. Và khi gặp Sở Khanh – nỗi lo sợ tràn ngập người nàng. Chim hôm thoi thót về rừng Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành Chiều đã buông xuống, bóng tối đã bao trùm lên cảnh vật và cánh chim hốt hoảng thoi thót về rừng ấy phải chăng là tâm trạng và nỗi sỢ hãi của nàng, phó mặc số phận cho anh chàng Sở Khanh. “Chim hôm thoi thóp về rừng” hay chính là bóng hình của Thuý Kiều cũng thoi thóp sợ hãi và khoảnh khắc thời gian của một ngày tàn kia khép lại trong bóng tối như cuộc đời Thuý Kiều cũng sẽ bị khép mình sau cánh cửa ác độc của xã hội phong kiến. Thời gian cứ trôi, cánh chim cứ bay mãi và số phận của Thuý Kiều cũng lêng đênh chìm nổi. Nguyễn Du đã hoà mình vào cõi lòng sâu kín của Thuý Kiều, thấu hiểu nỗi lòng lo lắng của người con gái ấy. Và khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý, Nguyễn Du đã biểu hiện chiều sâu tâm trạng của chàng sau 2 năm xa cách bằng một bức ảnh cũng tan, hoang xơ xác, chỉ có: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày… Tất cả những vẻ đẹp ngày xưa giờ đây bỗng trở nên hoang tàn xơ xác và còn đâu vườn Thuý đẹp đẽ của thuở ấy, còn đâu? Tất cả giờ đây bỗng thành “rêu phong dấu giày” nhưng chàng còn tìm thấy trong sự tan hoang đó một niềm hy vọng. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông… Bông hoa đào năm xưa vẫn còn đó như mối tình của Kim Trọng mãi mãi dành cho Kiều vẫn tha thiết đắm say như ngày nào. Và cứ thế, thiên nhiên cứ xuất hiện trong Truyện Kiều như một nhân vật lặng lẽ kín đáo, và “luôn luôn thấm đượm tình người”. Thiên nhiên trở thành một nhân vật văn học vô cùng phong phú và sinh động mà ở đó mỗi tâm hồn của con người sẽ tìm thấy những niềm rung cảm sâu sắc.
Hướng dẫn Đến với Truyện Kiều, đến với kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du ây, chúng ta không chỉ cảm nhận những vẻ đẹp tuyệt vời của con người ngoi lên từ trong cuộc sông tối tăm đau khổ, từ những bi kịch oan trái của cuộc đời và những ước mơ, những khát vọng, những tình cảm đăm thắm thiết tha đầy ân tình của họ mà còn được chiêm ngưỡng những bức tranh tươi đẹp sống động của thiên nhiên, của tạo vật và “có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường vẫn kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm được tình người.” Thiên nhiên, đó là một thế giới tuyệt đẹp – một thế giới sinh động với đủ màu sắc, đường nét và những âm thanh. Và cái đẹp của thiên nhiên là cái đẹp được tạo hoá ban phát, dinh dưỡng trong nguồn sữa ngọt ngào của trời đất. Thiên nhiên mở ra trước mắt ta một thế giới vô cùng phong phú và thi vị, gợi lên trong tâm hồn mỗi con người những tình cảm đắm say và tha thiết. Và với một tâm hồn nghệ sĩ giàu sức rung động trước tạo vật quyện hoà dưới ngòi bút trữ tình đằm thắm thiên tài Nguyễn Du đã để lại cho muôn đời những bóng dáng nên thơ của thiên nhiên trên những trang Kiều. Thi sĩ đã cảm nhận một cách sâu sắc và tinh thế những nét đẹp riêng biệt của từng cảnh vật, từng cảnh hoa, từng đám cỏ, từng tiếng chim hay một dòng sông nhỏ êm đềm. Mỗi chúng ta đều tìm thấy ở Truyện Kiều những nét đặc sắc mang cái “thần” của thiên nhiên. Đọc Truyện Kiều ta như được thả mình vào một thế giới tuyệt diệu, thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng tất cả những vẻ đẹp tinh tuý của tạo vật. Nhưng thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp tuyệt vời đó mà nó còn hàm ẩn một tầng ý nghĩa sâu sắc. Thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một nhân vật bên cạnh con người và hài hoà với nội tâm con người. Những lúc buồn, hay những khi vui, những nhớ thương hay những khi sầu muộn, bóng hình của thiên nhiên xuất hiện giao hoà với tâm trạng của con người và thiên nhiên trở thành những bức tâm cảnh chan chứa tình cảm, trở thành những người bạn “lặng lẽ” và “kín đáo” sẻ chia những nỗi niềm, những suy tư trăn trở của mỗi con người. Bằng ngòi bút đầy tài hoa của mình, bằng sự tiếp thu một cách sáng tạo bút pháp tả cảnh ngụ tình của người xưa, Nguyễn Du đã để lại tên những trang Kiều những bức tranh sống động chan chứa tình người. Cảnh nào cảnh chằng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ… Và mỗi lần vật đổi sao dời, mỗi lần cảnh vật có một sự biến đổi là con người lại bước vào một chặng đường số phận khác, cảnh như báo trước cho con người những dự cảm về tương lai. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một bút pháp của Nguyễn Du – góp phần miêu tả và khắc hoạ tính cách nhân vật làm cho thế giới nội tâm của nhân vật càng thêm phong phú và sâu sắc. Và mỗi chúng ta hãy gác lại những suy tư trăn trở để thả mình vào thế giới thiên nhiên tuyệt vời trong Truyện Kiều, thả mình vào những cảm xúc đằm thắm những tình cảm thiết tha của thiên tài Nguyễn Du. cỏ non xanh rợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bỏng hoa Một bức tranh mùa xuân thật là tuyệt vời mà chỉ những tâm hồn nghệ sĩ mới có cảm nhận tinh tế và độc đáo như vậy. Không một ước lệ, không một điển cố mà chỉ là một cảnh vật rất chân thực của quê hương xứ sở. Một vạt cỏ xanh non mơn mởn trải dài đến tận chân trời với một mà xanh mơn mởn căng đầy sức sông, một cành lê điểm vài bông hoa trắng muốt. Hai màu sắc tưởng chừng như đối lập ấy lại quyện hoà vào nhau thêu dệt nên một bức tranh tươi đẹp mang đầy đủ hương sắc của mùa xuân. Cỏ non xanh rợn chân trời… Và trong cái tươi đẹp của thiên nhiên ta vẫn thây một dự cảm về số phận của con người. Cái từ “rỢn” ấy gợi lên trong cảm giác chúng ta một nỗi sợ, “xanh rỢn” – đúng là một màu xanh quá kỳ lạ. Thiên nhiên cũng trong cảnh chiều xuân ấy, thiên nhiên bỗng nhuộm một nỗi buồn khi chị em Thuý Kiều gặp mộ Đạm Tiên: Nao nao dồng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang Một dòng nước trong xanh, một chiếc cầu nho nhỏ, cảnh vật thật nên thơ và mơ mộng nhưng lại thắm đượm một nỗi buồn. Cái nao nao của dòng nước ấy chính là cái “nao nao”, là nỗi buồn của chị em Thuý Kiều. Đứng trước nấm mồ của người con gái tài hoa bạc mệnh Đạm Tiên trong lòng họ dâng lên một nỗi buồn, một niềm thương cảm và cảnh vật cũng bỗng nhiên trở nên buồn lặng. Và cũng chính trong cảnh chiều xuân ấy khi tà tà bóng ngả về tây, khi Thuý Kiều – người con gái thông minh tài sắc đối diện với ý trung nhân của đời nàng, chàng Kim Trọng, và trong giây phút “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” tình yêu vừa chớm hé, thiên nhiên bỗng trở nên tha thiết quyến luyến. Chia tay với người yêu, cảnh vật như thấu hiểu tâm trạng của hai người: Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bỏng chiều thướt tha Nhịp cầu và dòng nước trong sáng như mối tình tuyệt đẹp của Thuý Kiều và Kim Trọng hàng liễu với bóng chiều thướt tha như tâm trạng quyến luyến bịn rịn của Thuý Kiều – một mối tình tha thiết đắm say nẩy nở trong tâm hồn nồng nhiệt của nàng. Lúc nào cũng vậy, thiên nhiên cũng trở thành một nhân vật kín đáo lặng lẽ và hài hoà với nội tâm con người. Trong đêm buồn, thương nhớ Kim Trọng, tất cả cảnh vật đều nghiêng nghiêng như tình cảm Thuý Kiều cũng nghiêng nghiêng. Gương Nga chênh chếch dòm song Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân… Ánh sáng của mặt trăng loang loáng trải dài xuống mặt nước len lỏi vào các cành cây tạo nên một sắc màu lung linh lấp lánh và ánh trăng diệu kỳ ấy, ta đọc thấy tình cảm, nỗi tương tư của Thúy Kiều và hình như cảnh ấy, vật ấy cũng thấu hiểu nỗi lòng của nàng. Cũng là ánh trăng nhưng mỗi một khi tâm trạng của con người biến đổi thì nó cũng trở nên khác lạ. Khi Thuý Kiều từ biệt Thúc Sinh, vầng trăng cũng vì thế mà. vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường Vầng trăng xẻ làm đôi ấy hay chính là sự chia lìa giữa Thuý Kiều, Thúc Sinh và hình như đó sẽ là sự chia lìa mãi mãi. Nàng Kiều và chàng Kỳ Tâm họ Thúc – mỗi người sẽ đi vào một cuộc đời khác nhau, một chặng đường khác nhau và cũng như vầng trăng lẻ kia, “nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. ” Trước lầu Ngưng Bích, tất cả cảnh vật như nhoà đi trong nỗi đau của nàng – dần xa và xa mãi. Buồn trông cửa bể chiều hôm thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trâng ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trâng nội cỏ dầu dầu Chăn mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ẵm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi… Thiên nhiên hiện hữu trước mắt ta, có chân mây mặt biển, có cánh buồm ngoài khơi xa, có tiếng sóng, có nội cỏ dầu dầu nhưng hình như tất cả đều là những ẩn dụ, phúng dụ cho số phận nàng Kiều. Chiếc buồm ngoài khơi xa và cánh hoa trôi nổi lênh đênh giữa dòng nước như số phận vô định của nàng Kiều, nội cỏ dầu dầu ấy hay chính là nỗi đau, nỗi tủi nhục đang đè nặng trái tim nàng và tiếng sóng ầm ầm quanh ghế ấy phải chăng là nỗi sợ hãi trước một tương lai mù mịt đen tối? Và tất cả tạo dựng nên một bức tâm cảnh có ý nghĩa về cuộc đời và số phận bi kịch của nàng Kiều. Cuộc đời nàng từ đây sẽ trôi vào bể trầm luân khổ ải, vào những “bi kịch chua xót đớn đau”. Và khi gặp Sở Khanh – nỗi lo sợ tràn ngập người nàng. Chim hôm thoi thót về rừng Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành Chiều đã buông xuống, bóng tối đã bao trùm lên cảnh vật và cánh chim hốt hoảng thoi thót về rừng ấy phải chăng là tâm trạng và nỗi sỢ hãi của nàng, phó mặc số phận cho anh chàng Sở Khanh. “Chim hôm thoi thóp về rừng” hay chính là bóng hình của Thuý Kiều cũng thoi thóp sợ hãi và khoảnh khắc thời gian của một ngày tàn kia khép lại trong bóng tối như cuộc đời Thuý Kiều cũng sẽ bị khép mình sau cánh cửa ác độc của xã hội phong kiến. Thời gian cứ trôi, cánh chim cứ bay mãi và số phận của Thuý Kiều cũng lêng đênh chìm nổi. Nguyễn Du đã hoà mình vào cõi lòng sâu kín của Thuý Kiều, thấu hiểu nỗi lòng lo lắng của người con gái ấy. Và khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý, Nguyễn Du đã biểu hiện chiều sâu tâm trạng của chàng sau 2 năm xa cách bằng một bức ảnh cũng tan, hoang xơ xác, chỉ có: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày… Tất cả những vẻ đẹp ngày xưa giờ đây bỗng trở nên hoang tàn xơ xác và còn đâu vườn Thuý đẹp đẽ của thuở ấy, còn đâu? Tất cả giờ đây bỗng thành “rêu phong dấu giày” nhưng chàng còn tìm thấy trong sự tan hoang đó một niềm hy vọng. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông… Bông hoa đào năm xưa vẫn còn đó như mối tình của Kim Trọng mãi mãi dành cho Kiều vẫn tha thiết đắm say như ngày nào. Và cứ thế, thiên nhiên cứ xuất hiện trong Truyện Kiều như một nhân vật lặng lẽ kín đáo, và “luôn luôn thấm đượm tình người”. Thiên nhiên trở thành một nhân vật văn học vô cùng phong phú và sinh động mà ở đó mỗi tâm hồn của con người sẽ tìm thấy những niềm rung cảm sâu sắc.
Hướng dẫn Đại diện cho cái ác là nhân vật Trịnh Hâm, hành động của hắn rất bất nhân, nỡ tâm hãm hại Lục Vân Tiên là một con người vô tội đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, đặc biệt là khi con người không còn khả năng chống đỡ nữa. Hắn là tên phản bội bạn bè, phản lại chính lời hứa của mình là sẽ giúp đỡ đưa bạn về quê, thật là một tên bội nghĩa ít thấy trong đời. Hành động của hắn có chủ mưu, có tính toán trước, trói tiểu đồng ở trong rừng cho cọp ăn hoặc chết đói, sau đó về, mới đưa Vân Tiên xuống thuyền chờ đêm khuya vắng vẻ xô bạn xuống vời, giả bộ kêu cứu: Đêm khuya lặng lẽ như tờ Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay… … Trịnh Hâm khi ấy ra tay Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời… Hắn giết người hiền lành, không có chút khả năng chống đỡ mà không mảy may cắn rứt lương tâm. Cái ác đã ngấm sâu trong tâm địa hắn, len lỏi vào mối quan hệ đáng ra là cao quý, “tình bạn” một trong tình cảm cao đẹp trong “ngũ luân” của đạo Nho vậy. Tuy xã hội đầy rẫy những kẻ ác nhưng Nguyễn Đình Chiểu không mất lòng tin ở con người. Hình ảnh ông ngư là hình ảnh đối lập với Trinh Hâm, như cái thiện đối lập với cái ác, cái cao cả đối lập với cái ti tiện thấp hèn, ánh sáng đối với bóng tối… Hình ảnh ông Ngư trong sáng và cao đẹp qua những việc làm và lời nói rất chân thật. … “Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ Hối con vầy lửa một giờ Ong hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày… Trước đó Vân Tiên được con “giao long” cứu, tiếp đến là được lòng từ thiện của cả nhà ông ngư cứu giúp. Bằng những câu thơ mộc mạc, tác giả lột tả lòng chân thực đối với việc cứu giúp Vân Tiên mà còn có ý định nuôi nấng khi không còn có sức lao động để sống: … Ngư rằng: Người ở cùng ta Hôm mai hẩm hút một nhà cho vui… Tuy không biết Vân Tiên là ai, tốt hay xấu, nhưng thấy chàng mù loà, dáng vẻ thư sinh là ông ngư thể hiện tâm lòng bao dung đầy ân tình và rất mực khẳng khái: Dốc lòng nhăn nghĩa, hú chờ trả ơn… Đặc biệt là ở ông ngư có hẳn một đạo lí sông. Trên chiếc thuyền nan ấy, ngư ông đã sống một cuộc đời giữa thiên cao rộng, hoà nhập với thiên nhiên, bàn bạc với thiên nhiên. Phải chăng do ít va chạm với cuộc sống nên dù cái ác thời đó mọc lên như nấm nhưng không len lỏi được vào suy nghĩ và hành động của ông… Ông ung dung thanh thản làm chủ cuộc đời mình, tìm thấy niềm tin vui trong lao động tự do. Hình ảnh ông ngư là tượng trưng niềm vui và ước mơ của tác giả về cuộc đời, về con người. Vì vậy khi tâm sự với Vân Tiên, tiếng nói của ông như đang ngân nga cất giọng hát. Trong âm thanh nhịp điệu của lời ca, nghe như có tiếng đàn réo rắt đệm theo: … Nước trong rửa ruột sạch tr<tn Một câu danh lợi chi sờn lòng đây Rày doi mai vịnh vui vầy Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng… Như vậy lão nga đã rũ bỏ danh lợi, tìm về với sông nước “rửa ruột sạch trơn” nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió, đêm bè bạn với trăng thanh, lão ngư đã chọn một cái thiện như hai câu trong “Tam tự kinh”: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”… cái thiện thể hiện trên cả hình hài thể xác lẫn tâm hồn. Cuộc sống của ông nói đến chữ “vui”: “vui vầy”, “vui thầm”, “vui say”. Càng về cuối khúc hát càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ cất cánh, ông như một “Tiên ông” đã cao đạo hơn đời: Kinh luân đã sẩn trong tay Thung dung dưới thế, vui say trong đời Thuyền nan một chiếc ở đời Tắm mưa chải giỏ trong vời Hàn Giang… Kết cấu của đoạn này, giống kết cấu của nhiều truyện Nôm khác. Người bị* hãm hại bao giờ cũng được cứu giúp, làm việc cứu giúp có thể do bàn tay con người cũng có thể do lực lượng siêu nhiên (như Lục Vân Tiên được con giao long đưa vào bờ, rồi mới đến bàn tay giúp của ông Ngư). Đến như chú Tiểu đồng bị Trịnh Hâm trói trong rừng được sơn quân cởi trói. Sau này Vân Tiên bị bỏ vào hang sâu cũng được thần núi và ông tiên cứu ra, Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự tử được Phật bà quan âm đưa về vườn hoa họ Bùi. Vân Tiên – nhân vật chính – trong tác phẩm cũng được tiên ông chữa khỏi mù mắt.. Dùng hình thức kết cấu này, tác giả muốn minh chứng cho một quan niệm sống được lưu hành phổ biến trong nhân dân ta: “Ở hiền gặp lành” “ác giả thì ác báo” và người đọc không thể không thấy ông ngư, ông tiều cũng chính là sự phản thân của Lục Vân Tiên và cũng chính là quan điểm sống của tác giả: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà…
Instruct Representing evil is the character Trinh Ham, his actions are very inhumane, he has the heart to harm Luc Van Tien, an innocent human being in trouble, without support, especially when humans are no longer alive. more resistance. He is the guy who betrayed his friends, betrayed his own promise to help bring his friends back home, truly a traitor rarely seen in life. His actions were deliberate, premeditated, tying up the boy in the forest to feed the tigers or starve to death, then returning, he took Van Tien to the boat and waited late at night in the deserted place to push his friend down, pretending to call for help. : The night was as quiet as paper Standing tall, the stars rise and fog flies... … Trinh Ham then took action Van Tien fell down immediately... He kills gentle people who have no ability to fight back without the slightest pang of conscience. The evil has seeped deep into his heart, crept into what should have been a noble relationship, "friendship" is one of the noble feelings in the "five moral principles" of Confucianism. Although society is full of evil people, Nguyen Dinh Chieu does not lose faith in people. The image of the fisherman is the opposite of Trinh Ham, like good versus evil, noble versus vile, light versus darkness... The image of Mr. Ngu is pure and beautiful through his very honest actions and words. … “The fisherman saw it and immediately brought it to shore Burn this fire for an hour The bee warms his stomach, the mother warms his face... Before that, Van Tien was saved by the "Giao Long" fish, then he was saved by the charity of the whole fisherman's family. With simple verses, the author describes his sincere desire to help Van Tien, but also his intention to take care of him when he no longer has the strength to work to live: … The fisherman said: He is with me Tomorrow we'll smoke a house for fun... Even though I don't know who Van Tien is, whether he's good or bad, seeing that he's blind and looks like a fisherman, shows his tolerance, kindness, and very assertiveness: Devoting gratitude, howling in anticipation of gratitude... Especially in the fisherman, there is a moral principle. On that bamboo boat, the fisherman lived a life amidst the vast sky, integrating with nature and discussing with nature. Is it because he rarely collided with life, so even though the evil of that time grew like mushrooms, it did not penetrate his thoughts and actions... He leisurely and peacefully controlled his life, finding joy in his thoughts and actions. free labor. The image of a fisherman symbolizes the author's joy and dreams about life and people. So when he confided in Van Tien, his voice sounded like he was singing. In the rhythmic sound of the lyrics, it sounds like there is a rumbling sound of a guitar accompanying: … Clear water washes the intestines clean This is a heart-wrenching sentence about fame and fortune Have a nice time in the bay The other day catching the wind, this night playing with the moon... So the old fisherman abandoned fame and fortune, returned to the river to "wash his intestines clean", now goes to the bay, tomorrow goes to sea, catches the wind during the day, and at night is friends with the clear moon, the old fisherman has chosen a good thing like two sentences. in the "Three Character Sutra": "The beginning of humanity, the nature of goodness"... goodness is shown in both physical form and soul. His life speaks of the word "joy": "happy", "secretly happy", "drunk happy". Towards the end of the song, the song becomes more uplifting. The wine has soaked in, the poetic soul has taken off, he is like a "Fairy" who has become more virtuous than life: The prayer wheel is already in my hand Peace on earth, joy in life A bamboo boat is one in a lifetime Bathing in the rain and combing baskets in Han Giang... The structure of this passage is similar to the structure of many other Nom stories. People who are being harmed are always saved. The rescue work can be done by human hands or by supernatural forces (like Luc Van Tien being brought to shore by the dragon, then helping hands come to the shore). by Mr. Ngu). Like Uncle Tieu Dong who was tied up in the forest by Trinh Ham and was untied by the mountain army. Later, Van Tien was put into a deep cave and was rescued by the mountain god and the fairy. Nguyet Nga jumped into the river to commit suicide and was brought to the Bui family's flower garden by Guan Yin. Van Tien - the main character - in the work was also cured of blindness by the fairy. Using this structural form, the author wants to demonstrate a concept of life that is widely circulated among our people: "Good is met with good" "evil is rewarded with evil" and the reader cannot help but see the fisherman, Mr Tieu is also the reflection of Luc Van Tien and also the author's life perspective: Carrying so many boats is too much These guys crashed pen space such evil…
Hướng dẫn Phải đến thời đại chúng ta, giai cấp vô sản lãnh đạo và lập nhà nước kiểu mới, hình ảnh người dân thường mới được thể hiện phong phú trong văn chương nghệ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến chông Pháp, chống Mĩ, nhiều nhà thơ đã được những đài kỉ niệm kì vĩ ghi lại chiến công và lòng yêu nước của những con người gợi là vô danh ấy. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm cũng là một trong những đài kỉ niệm đó. Bài thơ có thể chia làm ba đoạn. Các đoạn có số câu giống nhau, ý tình có biến đổi để mở rộng nội dung, nhưng vẫn giữ dáng vẻ và giọng điệu như nhau. Bôn câu diễn đạt lời ru của bà mẹ như một điệp khúc ở cả ba đoạn thơ. Có thể coi bài thơ là một kỉ niệm có kết cấu ba tầng. Hai câu mở đầu được lại nguyên vẹn ở cả ba đoạn. Từ câu thứ ba của mỗi đoạn nói công việc của bà mẹ: Ở đoạn 1: Mẹ giã gạo nuôi bộ đội. ở đoạn 2: Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka – Lưi. ở đoạn 3: Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng. Từ những công việc cụ thể này tác giả phát triển tình ý, mở rộng sức khái quát của các chi tiết thơ. Đây là bà mẹ Tây Nguyên luôn luôn dịu con trên lưng khi làm việc. Chọn bà mẹ đang nuôi con và đứa nhỏ còn ấp vú mẹ làm hai nhân vật tham gia đánh giặc, tác giả muốn nhấn mạnh tính chất toàn thắng của cuộc kháng chiến. Bài thơ là sự phát triển song song mối tình cảm lớn: tình mẹ và tình dân nước. Trong tình mẹ con đứa bé sớm biết chia sẻ với mẹ mọi gian lao của cuộc sống đánh giặc. Khi mẹ giã gạo thì: Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Khi mẹ tỉa bắp thì: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Và: Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng. Tới lúc mẹ vào chiến khu, sự chia sẻ của em đã thành một biểu tượng có sức đại diện cho cả một thế hệ đánh giặc trước tuổi: – Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường -Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn Mặt khác mong ước của bà mẹ cũng được nâng dần lên, từ mong ước cho con khôn lớn, sức dài vai rộng: – Mai sau con lớn vung chày lún sân – Mai sau con lớn phát mười Ka – Lưi Đến mong ước: – Mai sau con lớn lùm người Tự do Một bước tiến dài trong tình cảm, trong nhận thức của người dân lao động đã được ghi bằng các lớp hình tượng hợp lí. Hành động đầu tiên: bà mẹ giã gạo nuôi bộ đội (Mẹ thương akay, mẹ thương bộ đội). Hành động tiếp theo là trồng ngô nuôi làng (Mẹ thương a kay, mẹ thương làng đói). Hành động sau cùng là địu em đi giành trận cuối (Mẹ thương a kay, mẹ thương đất nước). Mong ước của mẹ ở hai công việc đầu là sự no đủ vật chất. Mong ước cao nhất của mẹ là độc lập tự do. Cái đặc sắc của bài thơ là tác giả chỉ tập trung vào một hình tượng. Tinh, ý, cảnh đều hội tụ vào hình tượng đó, từ thấp lên cao. Ý thơ song song nhau ở cả ba đoạn thơ nhưng có sự phát triển rộng xa dần. Các câu thơ gối nhau thành từng cặp ý quân quýt nhau, liên hệ đối chiếu nhau, khi thì ở ngay trong một câu, khi thì ở câu trên câu dưới. Đối chiếu trong một câu như: – Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng – Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Khi đối chiếu trong hai câu, thường tạo nên cách lập ý bất ngờ, hàm súc. Ý thơ từ cụ thể chuyển sang khái quát rất nhanh, đầy biến hoá mà dễ tiếp thu. Tôi nghĩ đây chính là nét thú vị nhất của bài thơ này: – Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Lưng đưa nôi và tim hát thành lời – Mặt trời của bắp thì nằm trên đổi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng – Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn Tinh mẫu tử thì có thể nói mãi không hết. Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng nói ít nhưng lại để ta thấy hết được cái chất của tình mẹ ấy: tha thiết đằm thắm như mọi tình mẹ con truyền thống Việt Nam, nhưng lại có cái cao cả rộng lớn của thời đại cách mạng. Cách diễn đạt có nhiều mới mẻ: anh ví con là mặt trời của mẹ, nhưng là mặt trời thân gầy, nằm ngay trên lưng mẹ. Cây bắp sống được là nhờ có mặt trời, mẹ sống được qua mọi cực nhọc của cuộc đời này cũng là nhờ có con. Mà con đối với mẹ còn hơn cả mặt trời đối với cây cối, vì mặt trời còn cao chứ con thì ở ngay trên lưng mẹ, mẹ luôn dịu con, nghe cái â’m nóng của con toả trực tiếp trên da thịt mẹ. Mẹ cảm được con lớn từng ngày trên lưng mẹ. Ý thơ sâu sắc như vậy nhưng vẫn bám rất chắc vào các chi tiết thực. Nó gây được ấn tượng mạnh vì được chuẩn bị từ câu thơ trên: Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi. Tác giả tung hứng chi tiết, hình ảnh râ’t tài: ý trên gợi ý dưới, câu dưới dọi lên câu trên, đoạn sau đoạn trước đan cài chặt chẽ. Đây là bài thơ mà sự kết cấu của nó đã trở thành nội dung. Nếu vẫn ý thơ này nhưng thiếu những thủ pháp ấy, hương sắc sẽ nhạt đi nhiều.Ví dụ hai câu:Từ trên lưng mẹ con đến chiến trường Từ trong đói khổ con vào Trường Sơn
Instruct It was not until our time that the proletariat led and established a new type of state that the image of ordinary people was richly expressed in literature and art. During the two resistance wars against the French and the Americans, many poets had magnificent monuments recording the victories and patriotism of these seemingly anonymous people. The poem Khuc sings a lullaby to the big babies on their mother's back by Nguyen Khoa Diem is also one of those memorials. The poem can be divided into three sections. The paragraphs have the same number of sentences, the ideas are changed to expand the content, but still maintain the same appearance and tone. The four verses express the mother's lullaby as a refrain in all three verses. The poem can be considered a memory with a three-layer structure. The opening two sentences remain intact in all three paragraphs. From the third sentence of each paragraph about the mother's work: In paragraph 1: Mother pounded rice to feed the soldiers. In paragraph 2: Mother is trimming corn on Ka - Lui mountain. in paragraph 3: Mom is moving the shack, she goes cycling in the forest. From these specific tasks, the author develops ideas and expands the general power of poetic details. This is a Central Highlands mother who always puts her baby on her back while working. Choosing the mother who is raising her child and the child still nursing at her mother's breast as two characters participating in the fight, the author wants to emphasize the victorious nature of the resistance war. The poem is a parallel development of great feelings: mother's love and country's love. In the mother-child relationship, the child soon learns to share with his mother all the hardships of life fighting the enemy. When mother pounded rice: The rhythm of the pestle tilts, my sleep tilts. Mom's sweat falls on my hot cheeks. Mom's thin shoulders undulate as pillows. When she trims the corn: The back of the mountain is big but the back of the mother is small. And: Corn's sun is on the hill. Mother's sun is on my back. By the time her mother went to the war zone, her sharing had become a symbol that had the power to represent an entire generation of soldiers fighting before their time: – From my mother's back to the battlefield - From hunger and poverty I entered Truong Son On the other hand, the mother's wishes are also gradually raised, from the wish for her child to grow up strong and strong: – Tomorrow, the big boy will swing the pestle and sink the yard – Tomorrow when my eldest child will be given ten Ka – Lui To wishes: – In the future, I will grow up in the Liberty grove A great step forward in the emotions and awareness of working people has been recorded in layers of reasonable images. First action: the mother pounded rice to feed the soldiers (Mother loves akay, mother loves the soldiers). The next action is to plant corn to feed the village (I love kay, I love the hungry village). The last action was to carry the baby to win the final match (Mom loves kay, mom loves the country). My mother's wish in her first two jobs is material well-being. Mother's highest wish is independence and freedom. The unique thing about the poem is that the author only focuses on one image. Essence, mind, and scenery all converge into that image, from low to high. The poetic ideas are parallel in all three verses but develop gradually. The verses overlap each other into pairs of ideas, related to each other, sometimes in the same sentence, sometimes in the sentence above and below. Contrast in a sentence like: – The rhythm of the baseball is tilted, my sleep is tilted – The back of the mountain is big but the back of the mother is small When contrasted in two sentences, it often creates an unexpected and concise idea. The poetic ideas move from specific to general very quickly, full of changes and easy to absorb. I think this is the most interesting feature of this poem: – Mom's skinny shoulders undulate as a pillow The back rocks the cradle and the heart sings into words – The sun of corn is on the sky The sun of my mother lying on her back – From my mother's back to the battlefield From hunger and poverty, I entered Truong Son A mother's spirit can be talked about forever. Nguyen Khoa Diem tried to say little but let us fully see the quality of that mother's love: as passionate and loving as all traditional Vietnamese mother-child love, but with the greatness and grandeur of the revolutionary era. The expression is very new: he compares the child to the mother's sun, but it is a skinny sun, lying right on the mother's back. The corn plant can live thanks to the sun, and the mother can survive all the hardships of this life thanks to her children. But you are more important to me than the sun is to the trees, because the sun is still high and you are right on my mother's back. Mom always soothes me, listening to my hot sound radiating directly on my skin. I can feel my baby growing day by day on my back. The poetic meaning is so profound but still firmly attached to real details. It made a strong impression because it was prepared from the above verse: The sun of the corn is on the hill. The author juggles details and images very skillfully: the upper idea suggests the lower one, the lower sentence overlaps the upper sentence, the next paragraph and the previous paragraph are tightly interwoven. This is a poem whose structure has become its content. If you still have this poetic idea but lack those techniques, the flavor will be much weaker. For example, two sentences: From my mother's back to the battlefield From hunger and suffering I entered Truong Son
Hướng dẫn Ở nhà, em thường bị bố mẹ chê là hấp tấp, vội vàng, thiếu chu đáo, cẩn thận, ở lớp, ngay từ thời học lớp Một, lớp Hai, cô giáo đã nhiều lần chê em là cẩu thả, nhất là trong bài Tập viết, Tập chép, Học tính,… Vậy, thế nào là tính cẩn thận? Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt’’ – Hoàng Phê chủ biên đã giải nghĩa như sau: cẩn thận nghĩa là có ý thức tránh sơ suất, đề phòng những diều không hay có thể xảy ra. Trái với cẩn thận là cẩu thả. Không cẩn thận, chỉ cốt làm cho xong là cẩu thả. Cẩu thả là tính xấu. cẩn thận là tính tốt mà ai cũng cần có, cũng cần phải rèn luyện, thường xuyên tu dưỡng, cẩn thận được thể hiện qua cử chỉ, hành động và việc làm cụ thể trong sinh hoạt, học tập, lao động,… hằng ngày. Viết nắn nót, không dập xóa là cẩn thận. Học xong bài, viết xong bài,… bút, tẩy, chì,… xếp gọn vào hộp bút, sách vở được xếp lại ngay ngắn đặt lên bàn học, để vào cặp sách là cẩn thận. Ngủ dậy, chăn màn, gối được xếp gọn lên giường. Mọi thứ trong gia đình được đặt đúng chỗ, đúng vị trí, trông gọn gàng, đẹp mắt là cẩn thận… Ăn nói từ tốn, không bỗ bã, hấp tấp vội vàng, phải suy nghĩ, biết lựa lời lễ phép, ý tứ, lịch sự. Cẩn thận trong giao tiếp, ứng xử để thể hiện nhân cách văn hóa. Cẩn thận trong ăn nói, trong hành động, việc làm thì sẽ tránh được mọi sơ suất, tránh được mọi điều không hay. không tốt có thể xảy ra. Như nhiều người đã biết: trái với cẩn thận, chu đáo là cẩu thả, bừa bãi. cẩu thả, bừa bãi sẽ làm hỏng việc. Học hành mà cẩu thả thì khó mà tiến bộ, khó mà trở thành học sinh khá, học sinh giỏi. Những công việc đòi hỏi tính chính xác, chất lượng kĩ thuật, mĩ thuật cao không bao giờ đến tay người cẩu thả. Khắc phục tính cẩu thả không thể một sớm một chiều. Có người lúc trẻ cẩu thả nhưng khi đã trưởng thành vẫn cẩu thả. Muốn sửa chữa được tính cẩu thả phải có ý thức tự giác rèn luyện đức tính cẩn thận, rèn luyện bền bỉ, rèn luyện từ việc nhỏ đến việc lớn. Phải rèn luyện thành nếp, thành thói quen tốt đẹp. Ví dụ, đọc sách xong, học bài xong, ta phải sắp xếp sách vở, dụng cụ học tập vào đúng nơi quy định, không để bừa bộn, lung tung, cổ nhân từng nói: “Tập dĩ tính thành ” là vậy. Cô giáo em luôn luôn nhắc nhở: “Phong cách học tập tiên tiến, phong cách khoa học là cẩn thận, chu dáo, chính xác”.
Instruct At home, my parents often criticized me for being hasty, hasty, and lacking in thoughtfulness and care. In class, right from the first and second grade, my teachers repeatedly criticized me for being careless, especially in class. Writing exercises, Copying exercises, Math lessons,... So, what is carefulness? In the book "Vietnamese Dictionary" - editor Hoang Phe explained as follows: to be careful means to consciously avoid negligence, to prevent bad things that may happen. The opposite of careful is careless. Not being careful, just trying to get it done is sloppy. Carelessness is a bad trait. Carefulness is a good quality that everyone needs to have, it also needs to be practiced and regularly cultivated. Carefulness is shown through gestures, actions and specific jobs in daily living, studying, working, etc. day. Be careful when writing neatly and without erasing. After finishing studying, finishing writing,... pens, erasers, pencils, etc. are neatly folded into the pencil box, books are folded neatly and placed on the desk, carefully placed in the school bag. When I woke up, blankets and pillows were neatly folded on the bed. Everything in the family is in the right place, in the right position, looking neat and beautiful is careful... Speak slowly, do not be careless or hasty, think carefully, and know how to choose polite, considerate, and polite words. Be careful in communication and behavior to show cultural personality. Being careful in speaking, acting, and doing will avoid any mistakes and avoid any bad things. Bad things can happen. As many people know: the opposite of being careful and thoughtful is being careless and indiscriminate. Carelessness and indiscretion will ruin the job. If you study carelessly, it will be difficult to make progress, and it will be difficult to become a good or good student. Jobs that require precision, high technical and artistic quality never go to careless people. Overcoming negligence cannot happen overnight. Some people are careless when they are young but are still careless when they are adults. If you want to correct carelessness, you must consciously practice carefulness, practice perseverance, practice from small things to big things. Must be trained into a routine, into a good habit. For example, after reading a book or studying, we must arrange books and learning tools in the right place, not leaving them messy or haphazard. The ancients once said: "Practice makes you successful". My teacher always reminds me: "Advanced learning style, scientific style is careful, thoughtful, and accurate."
Hướng dẫn Lạc quan trước hết là yêu đời, xem đời là đáng sống, cho dù trên đường đời gặp phải lắm cảnh éo le, phiền muộn và gian truân, hoặc phải đụng lắm điều hèn nhát, ti tiện, phản trắc. Những cái tiêu cực ấy, đối với người lạc quan, chỉ là những chướng ngại cần bước qua để xây dựng một cuộc đời tốt đẹp hơn, xứng đáng với tình người. Lạc quan cũng là tin tưởng vào sức bản thân mình có thể đạt được những mục tiêu chính đáng mình đặt ra, mặc dầu có thể thất bại nhiều phen; là tin vào sức người, có thể nắm dược vận mạng của người, chứ không phải cúi đầu cam chịu số kiếp bị quvết định sẵn từ đâu đâu; là tin vào hướng tiến lên của lịch sử nhân loại, tới độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc, chớ không phải luẩn quẩn trong cái vòng cứ thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột này thì lại lọt vào chế độ áp bức bóc lột khác mãi mãi không thôi. Lạc quan không phải là mang mắt kiếng hồng để trông vào mọi vật, mọi người, thấv cái gì cũng tươi đẹp. Mang mắt kiếng hồng là chủ quan, là tự dối mình, cũng là dối người. Nguồn gốc của lạc quan không thể ở chỗ dối mình, dối người mà phải ở chỗ thấy rõ, thấy đúng sự thật khách quan, cho dầu sự thật đó đen tối như thế nào di nữa. Trong sự thật đó, nếu quả chỉ có đcn tối, không có cách nào cho nổ lực chủ quan làm sáng tỏ lên được, thì tất nhiên ta cũng phải thừa nhận như vậy, và tìm cách bày keo khác, sau khi rút kinh nghiệm. Lạc quan không có nghĩa là nơi nào, lúc nào cũng thấy hay. Nhưng, nếu trong chỗ đen tối thật mà thấy được một ánh sáng đằng xa thì vẫn còn có cơ sở cho tư tưởng lạc quan. Chính là trong những tình thế khó khăn thì chủ nghĩa lạc quan mới phát huy tác dụng to lớn nhất; nó đỡ dậy những té ngã; nó khích lệ những ai nản lòng; nó củng cố lòng tin ở nơi nào lòng tin dao động; nó tìm thấy và chỉ ra cái ánh sáng của hi vọng trong bóng đêm của đau khổ.
Instruct Optimism is first of all loving life, seeing life as worth living, even though on the path of life we ​​encounter many hardships, sorrows and hardships, or encounter many cowardly, despicable, and treacherous things. Those negative things, for optimists, are just obstacles that need to be overcome to build a better life, worthy of human love. Optimism is also believing in your own strength to achieve the legitimate goals you set, even though you may fail many times; is to believe in human strength, to be able to control one's destiny, not to bow one's head and accept a predetermined fate from somewhere; is to believe in the forward direction of human history, towards independence, freedom, and happiness of all nations, rather than remaining in a vicious cycle of escaping from this oppressive and exploitative regime and then falling back into this regime. Other oppression and exploitation will never stop. Optimism is not wearing rose-colored glasses to look at everything, everyone, and see everything as beautiful. Wearing rose-colored glasses is subjective, is self-deception, and is also deception. The source of optimism cannot lie in lying to oneself or others, but must lie in seeing clearly and accurately seeing the objective truth, no matter how dark that truth is. In that truth, if there really is only darkness, and there is no way for subjective efforts to clarify it, then of course we have to admit that, and find another way to express it, after learning from experience. . Optimism does not mean that everywhere and always feels good. But, if in a truly dark place you can see a light in the distance, there is still a basis for optimism. It is in difficult situations that optimism has its greatest effect; it picks up falls; it encourages those who are discouraged; it strengthens confidence where confidence wavers; it finds and shows the light of hope in the darkness of suffering.
Hướng dẫn Vậy, nghĩa của tự lực. tự cường là gì? Tự lựcnghĩa là tự sức mình, với sức lực của bản thân mình, không nhờ cậy ai, khi làm mọi công việc. Tự cườngnghĩa là tự làm cho mình ngày một mạnh lên, không chịu thua kém người. Tự lực. tự cườnglà những phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Tại sao, trong cuộc sống, phải tự lực, tự cường? Muốn ấm no, hạnh phúc, muốn sống thảnh thơi, yên vui, ai cũng phải tự lo liệu xây dựng lấy. Không khoanh tay ngồi chờ, không thể ngồi, nằm “há miệng chờ sung”, hoặc cúi đầu, ngửa tay xin thiên hạ bố thí cho! Chỉ có loại người ngu đần dốt nát, phường giá áo túi cơm mới sống và hành xử như thế. Muốn được sống trong độc lập, tự do, hoà bình, muốn xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, dân tộc ta, nhân dân ta phải đổ bao xương máu, đánh đuổi giặc, giành lại độc lập tự do phải điện khí hoá công nghiệp hoá, ra sức sản xuất làm được nhiều lúa gạo, nhiều hàng hoá để chi tiêu, để xuất khẩu. Có tự lực, tự cường thì dân mới giàu, nước mới mạnh, mới có thể “sánh vai các cường quốc năm châu ”. Chỉ có nhân dân ta, tuổi trẻ của chúng ta mới giữ vững được an ninh, lãnh thổ, biên giới, hải đảo, chủ quyền của đất nước ta, dân tộc ta. Không thể trông chờ ngoại bang, cầu xin ngoại bang được! Có tự lực, tự cường mới có thể phát huy và nâng cao lòng tự hào dân tộc, mới tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp, cao cả của cuộc sống. Mỗi một cá nhân, mỗi một thành viên của gia đình phải phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường. Cả dân tộc ta, 85 triệu con người Việt Nam chúng ta phải nâng cao ý chí tự lực, tự cường. Có thế, mới tạo nên sức mạnh để vượt qua mọi thử thách, khó khăn, mới chiến thắng được thù trong giặc ngoài, mới làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Không thể sống trong nô lệ, không thể sống trong sự “hảo hộ ”, “khai hoá ” của thực dàn, đế quốc! Không thể nhờ ngoại bang “hao cấp” tư tưởng, đường lối! Trong lúc ruộng đồng thì bỏ hoang mà cứ vác rá đi “ăn mày ” viện trợ, đi xin bo-bo về thì có gì tốt đẹp? Có làm thân trâu ngựa suốt 80 năm trời cho thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, có nếm “quả đắng” thời bao cấp, nhân dân ta mới thấy ý nghĩa sâu sắc, tốt đẹp của bài học về tinh thần tự lực, về ý chí tự cường thời đổi mới và phát triển của đất nước hiện nay. Muốn tốt đẹp hơn nữa, muốn giàu có, hạnh phúc hơn nữa, muốn tiến bộ, văn minh hơn nữa thì phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường. Mọi thành viên của gia đình, mọi thế hệ của dân tộc phải biến tinh thần tự lực, tự cường thành nguồn sống và sức sống mãnh liệt, bất diệt. Nói đến bài học tự lực, tự cường, chúng ta cùng nhau nhắc lại “Bình Ngô đại cáo ” của Nguyễn Trãi: “Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưn g nền văn hiến đã lâu. Núi sông hờ cõi đã chia Phony tục Bắc, Nam cũng khác TừTriệu, Đinh, Lý, Trần, hao dời gây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi hên xưng đế một phương’’… Nói đến tư tưởng, tinh thần, ý chí tự lực, tự cường, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại “Di chúc” của Bác Hồ kính yêu: “Còn non, còn nước, còn người,
Instruct So, the meaning of self-reliance. What is self-reliance? Self-reliance means being on your own, with your own strength, not relying on anyone, when doing all the work. Self-strength means making yourself stronger and stronger, not being inferior to others. Self-reliance. Self-reliance is the good qualities of every person, every community, and every nation. Why, in life, must we be self-reliant and self-reliant? If you want to be prosperous, happy, want to live comfortably and peacefully, everyone must take care of their own construction. Do not sit around waiting, do not sit, lie down "open mouth waiting for blessings", or bow your head or open your hands to ask people for alms! Only stupid, ignorant people living and behaving like that. If we want to live in independence, freedom, and peace, if we want to eliminate hunger and reduce poverty, develop the economy, our nation and our people must shed a lot of blood, expel the enemy, and regain independence and freedom, we must electrify ourselves. industrialization, trying to produce more rice and more goods for consumption and export. Only with self-reliance and self-reliance will the people be rich, the country will be strong, and it will be able to "rival the great powers of the five continents". Only our people and our youth can maintain the security, territory, borders, islands, and sovereignty of our country and our people. We cannot wait for foreigners or beg for them! Only with self-reliance and self-reliance can one develop and enhance national pride and find the good and noble meaning of life. Each individual, each member of the family must highly promote the spirit of self-reliance and self-reliance. Our entire nation, 85 million Vietnamese people, must enhance the will to be self-reliant and self-reliant. Only then can we create strength to overcome all challenges and difficulties, defeat internal and external enemies, and make the country increasingly rich and strong. Can't live in slavery, can't live under the "protection" and "civilization" of the real system and empire! We cannot rely on foreign countries to "supply" our ideas and policies! While the fields are deserted, what's good about carrying baskets to "beg" for aid, asking for bo-bo? Having worked as buffaloes and horses for 80 years for the French colonialists and American imperialists to invade, and having tasted the "bitter fruit" of the subsidy period, our people can see the profound and good meaning of the lesson of self-reliance. , about the will to be self-reliant in the era of innovation and development of the country today. If we want to be better, to be richer, to be happier, to be more progressive and civilized, we must uphold the spirit of self-reliance and self-reliance. Every member of the family, every generation of the nation must turn the spirit of self-reliance and resilience into a strong and eternal source of life and vitality. Speaking of the lesson of self-reliance and self-reliance, let's recall Nguyen Trai's "Binh Ngo Dai Cao": “Like our Dai Viet country from before, The capital has been claiming civilization for a long time. The mountains and rivers are divided Phony customs in the North and the South are also different Tu Trieu, Dinh, Ly, Tran, lost their way to independence, Together with Han, Tang, Song, Yuan, each side is lucky to be called emperor. Speaking of ideology, spirit, will and self-reliance, let's review together the "Testament" of our beloved Uncle Ho: “There's still water, there's still people,
Hướng dẫn 1. Vậy, thế nào là tự tin? — Tự tin là tin vào hán thân mình (Từ điển tiếng Việt). Tin vào đạo đức, tư cách, phẩm hạnh của mình, tin vào sức lực, tài năng của mình, tin vào khả năng của mình, con đường đi tới ngày mai của mình, tin vào công việc mà mình đang làm nhất định thành công tốt đẹp. Có thể nói, tất cả những điều đó là biểu hiện của tính tự tin, tinh thần tự tin. Trái với tính tự tin là tính tự ti. Tự ti là tự đánh giá bản thân mình thấp kém, yếu hèn, nhỏ bé; lúc nào cũng rụt rè, do dự, thiếu tin tưởng vào bản thân mình. Không dám nói to trước đám đông. Không dám bày tỏ ý nghĩ riêng của mình. Người “tự ti” là tự khép tâm hồn mình trước cánh cửa cuộc đời. Có nâng cao tính tự tin mới có thê’ xóa bỏ dần tính tự ti, mới có thể đem ánh sáng cho cuộc đời mình. 2. Tại sao tuổi trẻ phải tự tin? Các bậc cao niên, do tuổi già, sức yếu nên sống theo phương châm: “sống khỏe, sống vui, sống có ích”. “Lão giả an chi” là tâm lí của người già. Trái lại, tuổi trẻ phải nêu cao tính tự tin. Con đường đời đang mở rộng ở phía trước, nghĩa vụ của tuổi trẻ, của thanh niên vô cùng lớn lao, nặng nề. Trong học tập, trong lao động, trong chiến đấu, tuổi trẻ phải tự tin, sống cần cù và dũng cảm. Không thể lười biếng. Không thể trốn tránh nghĩa vụ công dân. Hồ Chủ tịch dạy: “Thanh niên phải luôn luôn tự hỏi mình đã làm gì cho Tổ quốc, chứ khôn <Ị phải đòi hỏi TỔ quốc đã cho mình những ỳ!” Có tự tin vào vai trò và nghĩa vụ của thế hệ trẻ thì “Thanh niên phải luôn luôn tự hỏi mình đã làm gì cho Tổ quốc”, đã làm được những gì cống hiến cho dân tộc. 3. Cuộc sống là một bài toán khó, có nhiều ẩn số. Đường đời đâu có bằng phảng. Tuổi trẻ luôn luôn đối mặt với bao thách thức khó khăn. Hoặc tự ti, cúi đầu gục ngã! Hoặc dũng cảm nêu cao sĩ khí, nêu cao tinh thần tự tin. Tự tin mình sẽ vượt qua thách thức, minh sẽ giành được thắng lợi, sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp. Tự tin sẽ nâng cao dũng khí cho ta, làm cho ta them lạc quan yêu đời. Nếu có tạm thời thất bại thì tính tự tin giúp ta đứng vững trước thách thức, nâng cao ý chí tự lực tự cường cho ta. Có tự tin thì ta mới thấy hết niềm tự hào về chí khí của tuổi trẻ Việt Nam qua câu hát, qua câu khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên cố, việc gì khó có thanh niên”. Nếu là một “Tư cách mõ” như nhà văn Nam Cao đã nói tới trong một truyện ngắn, thì nhân vật ấy chỉ cần “Một mình, một chiếu, thảnh thơi ngồi” là đủ tự đắc vênh vang giữa “cái làng xôi thịt” Số đông tuổi trẻ chúng ta ngày nay, ngày mai không thể sống như thế! Nghĩa là sống đẹp, sống có ích, sống có tài năng và đạo đức; sống có bản lĩnh. Dám đem tài năng thi thố với đời. Dám ước mơ và hành động. Dám ngẩng đầu, ngẩng mặt trước thiên hạ. Không thể làm cây tầm gửi. Không cúi mình, khom lưng “núp dưới tịiậu người” (câu chữ của Viên Mai (1716-1798), Trung Quốc). Không “vác rá di xin gao người” Phải là người Việt Nam mới, có nhàn cách văn hóa, có tài năng và phẩm hạnh. Bất kì ở đâu, làm gì cũng nêu cao tính tự tin. Tự tin là một phẩm chất tốt đẹp. Có tự trọng mới tự tin. Sống có bản lĩnh mới tự tin. Thế hệ thanh niên ngày nay, hầu như người nào cũng trưởng thành qua học hành (học văn hóa, học nghề) và thi cử. Tính tự tin nàng cao sĩ khí cho chúng ta như nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã nói: “Di thi há lẽ trỏ về không? Cái nợ cầm thư phải trá xong!” (Đi thi tự vịnh) Có tự tin bước vào đời, ta mới cảm thấy phải sống đẹp như ông cha ngày xưa: “Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, ĐồngNai cũng từng!” (Ca dao) Ngay trong lĩnh vực tình yêu, lứa đôi cũng phải tự tin; có tự tin mới xây đắp nôn gia đình hạnh phúc; “Dù ai nối ngả nói nghiêng, Lòng ta vẫn vững như kiềng ha chân.” (Ca dao) Có tự tin thì trong vất vả lao động mới có thể tự hào hát ca: “Bàn tay ta làm nên tất cả, Cố sức người sỏi đá cũng thành cơm.” Tóm lại, tính tự tin là một trong những phẩm chất đẹp. Tự tin tạo nên bản lĩnh sống của tuổi trẻ chúng ta.
Instruct 1. So, what is confidence? — Confidence is believing in oneself (Vietnamese dictionary). Believe in your ethics, character, virtue, believe in your strength, talent, believe in your abilities, your path to tomorrow, believe in the work you are doing that will definitely succeed. good work. It can be said that all of these are manifestations of self-confidence and self-confidence. The opposite of self-confidence is low self-esteem. Inferiority is self-assessment as inferior, weak, and small; always timid, hesitant, lacking confidence in myself. Don't dare speak loudly in front of a crowd. Don't dare express your own thoughts. People with "low self-esteem" close their souls to the door of life. Only by improving self-confidence can we gradually eliminate low self-esteem and bring light to our lives. 2. Why must youth be confident? Seniors, due to old age and weak health, should live by the motto: "live healthy, live happily, live usefully". “An chi old man” is the psychology of the elderly. On the contrary, youth must enhance their self-confidence. The path of life is expanding ahead, the obligations of youth and young people are extremely great and heavy. In studying, in working, in fighting, youth must be confident, diligent and courageous. Can't be lazy. It is impossible to avoid civic duty. President Ho Chi Minh taught: "Young people must always ask themselves what they have done for the Fatherland, not demand that the Fatherland has given them shortcomings!" Having confidence in the role and obligations of the young generation, "Young people must always ask themselves what they have done for the Fatherland" and what they have done to contribute to the nation. 3. Life is a difficult problem, with many unknowns. Life's path is not smooth. Youth always face many difficult challenges. Or have low self-esteem, bow your head and collapse! Or be brave and raise morale and self-confidence. Be confident that you will overcome challenges, you will win, and you will reap good results. Confidence will enhance our courage and make us more optimistic and love life. If we temporarily fail, self-confidence helps us stand firm in the face of challenges, enhancing our will to be self-reliant. With confidence, we can see all the pride in the spirit of Vietnamese youth through the song and slogan: "There is no need for young people to try, there is no need for young people to do anything." If he is a "Mõ personality" as writer Nam Cao mentioned in a short story, then that character only needs to be "Alone, on a mat, sitting leisurely" to be proud and proud in the "village of sticky rice and meat". ” The majority of our youth today and tomorrow cannot live like that! It means living beautifully, living usefully, living with talent and morality; Live with courage. Dare to bring your talent to compete with the world. Dare to dream and act. Dare to raise your head and face the world. Can't make mistletoe. Do not crouch or stoop to "hide under people's tents" (words of Vien Mai (1716-1798), China). Do not "carry trash and ask for help from people" Must be a new Vietnamese person, have cultural leisure, talent and virtue. Wherever you are, whatever you do, enhance your confidence. Confidence is a beautiful quality. Having self-respect leads to confidence. Living with courage leads to confidence. In today's generation of young people, almost everyone grows up through education (cultural education, vocational training) and exams. Self-confidence gives us morale, as poet Nguyen Cong Tru said: “Is it possible for the deceased to return? The mortgage debt must be covered up!” (Take the self-admiration exam) Only when we confidently step into life, we feel that we must live beautifully like our ancestors in the past: "Younger son should do for good, Phu Xuan experienced it, Dong Nai also experienced it!” (Folk) Even in the field of love, couples must also be confident; Only with confidence can we build a happy family; “No matter who speaks sideways, My heart is still as steady as a stool." (Folk) If you have confidence, you can proudly sing in the face of hard work: "Our hands make it all, Even the efforts of people and stones become rice." In short, self-confidence is one of the beautiful qualities. Confidence creates the courage to live in our youth.
Hướng dẫn Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ nổi tiếng của đất nước ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Ông để lại nhiều bài thơ Nôm, trong đó có nhiều bài hát nói tuyệt bút, với giọng điệu thơ hào hùng. Trong nền thơ ca trung đại, chưa có nhà thơ nào viết hay và độc đáo về đề tài “chí nam nhi ”, “chí làm trai ”, “chí anh hùng ” như Nguyễn Công Trứ. Bài thơ Đi thi tự vịnh được Nguyễn Công Trứ viết từ thuở hàn vi, đầy chí khí hám hở của kẻ sĩ. Trong bài có câu thơ từng được nhiều người yêu thích và truyền tụng: Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông Câu thơ “Đã mang tiếng ở trong trời đất ”, chủ thế trữ tình là ai? Đó là kẻ nam nhi, kẻ làm trai trong xã hội phong kiến. Câu thơ nêu bật vai trò và vị thế của kẻ làm trai, của đấng nam nhi trong cuộc đời, trong vũ trụ. Câu thơ thứ hai “Phải có danh gì với núi sông ” là một lời tuyên ngôn tự tin, tự hào. Hai tiếng “phải có ” là sự khảng định trách nhiệm, nghĩa vụ của kẻ làm trai. “Danh ” ở trong câu thơ là danh tiếng, là công danh, sự nghiệp ở đời; “với núi sông” là với đất nước; “núi sông ” trường tổn, vĩnh hằng thì “danh ” cũng lưu truyền mãi mãi. Có thể nói, hai câu thơ trên của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện một quan niệm sống đẹp và tích cực của kẻ sĩ. Là chí nam nhi, là kẻ sĩ trong cõi đời phải làm nên sự nghiệp to lớn, dể lại công đức, danh tiếng cho đất nước, quê hương. Tại sao “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông ”? Theo quan niệm của các nhà nho xưa kia, kẻ sĩ là phải lập thân bằng con đường khoa cử. Triều đình phong kiến chọn nhân tài bằng con đường khoa cử. Sĩ tử phải dấn thân vào con đường thi cử, thi thố tài năng với thiên hạ, mong ghi tên vào bảng vàng bia đá đổ làm quan. Làm quan là để thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc. Gặp thời loạn thì giúp vua dẹp giặc đem lại thái bình cho quê hương. Trong thời bình thì đem tài kinh bang tế thế, trị nước cứu đời, làm cho đất nước cường thịnh. Là đấng trượng phu, là kc nam nhi không thể sống tầm thường, không thể ru rú nơi xó nhà, mang thân phận phường giá áo túi com. Kẻ sĩ chân chính phải bằng tài đức, qua rèn luyện “thập niên đăng hỏa” ở cửa Khổng sân Trình, dùi mài kinh sử và bằng con đường thi cử, đỗ đạt, làm nên những công việc phi thường như dời non lấp bể, đội đá vá trời, ghi danh vào sử sách, làm rạng rỡ gia đình, dòng họ, làm vẻ vang cho đất nước, quê hương. Quan niệm trên đây của Nguyễn Công Trứ rất đúng đắn và tích cực đối với một nhà nho, một kẻ sĩ hăm hở lập thân trong xã hội cũ. Cái “danh ” mà nhà thơ nói đến không phải là danh hão, hư danh – thứ danh lợi vị kỉ tầm thường. Công danh sự nghiệp phải là tiếng thơm, là những công cuộc ích quốc lợi dân, là công danh sự nghiệp được đo bằng tầm vóc phi thường, là tài năng, đạo đức xuất chúng. Kẻ dốt nát, tham lam, loại hạ lưu… không thổ nào có cái danh ấy. Câu thơ trên đày thể hiện một tâm thế tuyệt đẹp của kẻ tài trai, của đấng nam nhi mang khát vọng công danh, mang hoài bão tung hoành “Phải cố danh gì với núi sông”. Hai câu thơ “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông” rút trong bài thơ Đi thi tự vịnh, Vì thế “danh” phải gắn liền với bảng vàng bia đá. Nguyễn Công Trứ có lúc lại viết: “Có trung hiếu nên dứng trong trời đất, Không công danh thời nát với có cây ” (Phận sự làm trai) Như vậy có nghĩa là: muốn làm nên công danh thì phải có trung hiếu; kẻ sĩ không có công danh thì cuộc đời cũng mất hết ý nghĩa, trở nên vô nghĩa “nát với cỏ cây”. Có danh là được ghi tôn vào sử sách, để lại tiếng thơm cho đời: “Nhân sinh thể thượng thùy vô nghệ Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh ” Có tài mới có danh. Có đức mới có danh. Có chí nam nhi, có nợ tang bổng mới mong làm nên công danh sự nghiệp: Lập thân, lập công danh là khát vọng ở đời: “Vòng trời dất dọc ngang ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả trả vay. Chí làm trai nam, bắc, dông, tây, Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể… ” (Nợ tang bồng) Theo Nguyền Cổng Trứ thì công danh luôn luôn gắn liền với chí anh hùng. Có chí anh hùng mới lập nên công danh, để lại tiếng thơm cho muôn đời: “Túi kinh luân tử trước đến ngàn sau / Hơn nhau một tiếng công hầu” (Trên vì nước, dưới vì nhà). Nguyễn Công Trứ là một tài năng đích thực, đi thi: “đỗ giải nguyên”. Cầm quàn “Cố lúc bình tây cờ đại tướng”. Làm quan, lúc thì “Tổng đốc Đông”, khi thì giữ chức “Phủ doãn Thừa Thiên “. Ông đã di dân lập ấp, lấn biển, sáng lập ra hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn ở miền bắc nước ta. Đến nay vẫn được nhân dân ca ngợi. Quan niệm về công danh, về chí nam nhi. nhân dân ta từng ca ngợi những con người mang khát vọng bay xa, bay cao, đi tới mọi chân trời mà làm nên sự nghiệp: “Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng” (Ca dao) Quan niệm công danh sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ rất gần gũi với quan niệm của nhân dân ta. Tuy tiến bộ và tích cực, tuy hăm hở và giàu bản lĩnh, nhưng quan niệm về công danh sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ vẩn là ìí tưởng anh hùn (Ị của ke’ sĩ thời phong kiến, bị hạn chế bởi tư tưởng “trung quân”. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ thăng trầm dữ dội, có lúc làm đại tướng, có lúc bị giáng chức làm lính thú,… Cuối đời ông ngao ngán thốt lcn: “Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo ”… (Cây thông)
Instruct Nguyen Cong Tru (1778 - 1858) was a famous poet of our country in the first half of the 19th century. He left behind many Nom poems, including many excellent spoken songs, with a heroic poetic tone. In medieval poetry, there is no poet who has written as well and uniquely on the topics of "willingness to be a man", "willingness to be a man", "willingness to be a hero" like Nguyen Cong Tru. The poem "Going for a Poetry Poem" was written by Nguyen Cong Tru from a young age, full of the eager spirit of a scholar. In the article there is a poem that has been loved and recited by many people: Already famous in heaven and earth What must have a list with the mountains and rivers In the poem "Having earned a reputation in heaven and earth", who is the lyrical subject? That is a man, a man in a feudal society. The poem highlights the role and position of boys and men in life and in the universe. The second verse "What name must one have with mountains and rivers" is a declaration of confidence and pride. The two words "must have" are an affirmation of the responsibilities and obligations of men. "Name" in the poem is reputation, fame, and career in life; “with mountains and rivers” means with the country; "Mountains and rivers" are long lasting and eternal, so "name" is also passed down forever. It can be said that the above two verses by Nguyen Cong Tru express a beautiful and positive concept of life of a scholar. As a man, as a scholar in this world, you must create a great career, leaving behind merit and reputation for your country and homeland. Why "If you have a reputation in heaven and earth / What name should you have with the mountains and rivers"? According to the concept of ancient Confucian scholars, scholars must establish themselves through the path of scholarship. The feudal court selected talented people through academic examination. Scholars must embark on the path of examinations, showing off their talents to the world, hoping to have their names written on the golden plaque and stone stele to become mandarins. Being an official is to carry out the ideal of patriotism and loyalty. During times of chaos, he helped the king defeat the enemy and bring peace to his homeland. In times of peace, we use our economic resources to govern the country, save lives, and make the country prosperous. As a man, as a man, you cannot live a mediocre life, you cannot lurk in the corner of the house, carrying the status of a streetwalker. A true scholar must rely on talent and virtue, through the "decade of fire" training at the Confucius gate, the Trinh court, grind historical scriptures, and through the path of exams and pass, to accomplish extraordinary tasks such as moving mountains and filling seas. , wear stones to patch the sky, write your name in history books, make your family and clan shine, and bring glory to your country and homeland. The above concept of Nguyen Cong Tru is very correct and positive for a Confucian scholar, a scholar eager to establish himself in the old society. The "name" that the poet talks about is not a vain, vain name - the ordinary, selfish fame and profit. The reputation of a career must be a good one, a cause that benefits the nation and the people, a career that is measured by extraordinary stature, outstanding talent and morality. Ignorant, greedy, low-class people... no country has that name. The above verse shows a beautiful mindset of a talented man, of a man with a desire for fame and fortune, with the ambition to excel: "What should we try to win over the mountains and rivers?" The two lines of the poem "Having earned a reputation in heaven and earth / Must have a reputation with mountains and rivers" taken from the poem "Going to Poetry" for the poem, Therefore "name" must be attached to the golden plaque and stone stele. Nguyen Cong Tru sometimes wrote: “With filial piety, one should stand in heaven and earth, Without fame and fortune, there will be trees." (Duty of being a man) That means: if you want to make a name for yourself, you must be loyal and filial; A scholar's life without merit and fame will lose all meaning and become meaningless, "ruined with grass and trees". Having a reputation means being enshrined in history books, leaving a good reputation for the world: “Human beings have no skills in the upper lobe of life "Luu Dac Dan Tam shines loudly" If you have talent, you will have fame. Only with virtue can there be fame. If you have the will to be a man and have debts, you can hope to make a name for yourself and your career: Establishing a family and making a name for yourself is the aspiration in life: “The circle of heaven and earth is vertical, horizontal, and vertical, Borrowing debt, loan repayment, loan repayment. Willing to make boys south, north, storm, west, Waste your energy struggling in four pools..." (Debt of mourning) According to Nguyen Cong Tru, fame is always associated with heroic spirit. Only with heroic will can one establish a reputation and leave a good reputation for all generations: "A bag of prayer wheels first and a thousand later / More than one another, a meritorious service" (Above for the country, below for the house). Nguyen Cong Tru is a true talent, taking the exam: "passed the prize". Carrying the coffin "The great general's chess at Binh Tay". As an official, sometimes he held the position of "Eastern Governor", other times he held the position of "Thua Thien Phu Doan". He migrated to establish hamlets, reclaimed the sea, and founded two districts: Tien Hai and Kim Son in the north of our country. To this day, it is still praised by the people. The concept of fame and reputation as a man. Our people once praised those who had the desire to fly far, fly high, reach every horizon and make a career: "Younger son should do for good, Phu Xuan experienced it, Dong Nai also experienced it" (Folk) Nguyen Cong Tru's concept of career and fame is very close to the concept of our people. Although progressive and positive, although eager and brave, Nguyen Cong Tru's concept of career and fame is still that of a hero (the idea of ​​a feudal architect, limited by the "idea" Nguyen Cong Tru's life had ups and downs, sometimes he became a general, sometimes he was demoted to become a soldier, etc. At the end of his life, he exclaimed in frustration: “In your next life, please don't be human. Be a pine tree standing in the sky and ringing "... (Pine tree)
Hướng dẫn Có người tự coi mình cái gì cũng đã biết, sống vênh vang trong xã hội nên thật đáng chê! Có người lại cảm thấy nhân cách mình chưa hoàn thiện, sự hiểu biết của mình còn nhiều hạn chế, nên tìm mọi cách để học tập cái hay cái tốt đẹp của thiên hạ. Có thể nói, những con người như thế rất đáng yêu vì họ đã nêu cao đức tính khiêm tốn trước cộng đồng. Biết làm người, biết tự trọng mới biết khiêm tốn. Không tự mãn, không tự phụ, không kiêu căng tự cho mình là hơn người; có ý thức và thái độ đúng mức trong công việc tự đánh giá bản thân mình là khiêm tốn. Cách sống, cách ứng xử của người khiêm tốn rất đúng mực và rất đẹp. Ăn nói lễ độ, áo quần nghiêm trang; cử chỉ từ tốn. Không bao giờ khoe tài, khoe giỏi, khoe giàu, khoe đẹp… trước mọi người. Điều gì chưa biết, chưa hiểu thì chân thành học hỏi, không giấu dốt. Nhờ biết sống khiêm tốn mà biết mở rộng tâm hồn đón nhận mọi cái tốt đẹp của mọi người như đón làn gió mát. Khiêm tốn cho ta sức mạnh, là động lực nhân văn giúp ta tu dưỡng nhân cách, đạo đức ngày một thêm tốt đẹp. Nhờ biết khiêm tốn mà ta không chỉ biết học thầy, còn biết học bạn, coi bạn là thầy, biết “học thầy không tày học hạn”. Nhân dân ta có bao câu tục ngữ, bài ca dao nêu lên bài học về đạo đức tính khiêm tốn: – “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe!” – Ở nhà nhất mẹ nhì con, Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta. – Mẹ hát, con khen hay! Sự hiểu biết của mỗi người rất hạn chế mà điều chưa biết thì mênh mông vô tận. Ai cũng phải khiêm tốn học tập, coi việc học tập là chuyện rèn luyện suốt đòi. Kẻ kiêu ngạo khác nào sống trong ao tù: “Kiêu ngạo là biểu lìiện cái ngu dốt của mình” (Ngạn ngữ phương Đông). Nhà bác học vĩ đại Einstein tâm sự với tuổi trẻ gần xa là phải biết khiêm tốn và nỗ lực học tập không ngừng, bởi lẽ “Điều mà chúng ta biết chỉ là một giọt nước, điểu chúng ta không biết mênh mông như đại dương”.
Instruct There are people who consider themselves to know everything and live arrogantly in society, so it's deplorable! Some people feel that their personality is not perfect, their understanding is still limited, so they find every way to learn the good things of the world. It can be said that such people are very lovable because they uphold the virtue of humility before the community. Knowing how to be human, knowing self-respect, knowing how to be humble. Don't be complacent, don't be arrogant, don't be arrogant and consider yourself superior to others; Having the right awareness and attitude at work and self-assessment is modest. The way of life and behavior of a humble person is very correct and very beautiful. Speak politely and dress respectfully; gentle gesture. Never show off your talent, show off your skills, show off your wealth, show off your beauty... in front of everyone. If you don't know or understand something, then sincerely learn and don't hide your ignorance. By knowing how to live humbly, you know how to open your soul to receive all the good things from everyone like welcoming a cool breeze. Humility gives us strength and is a humanistic motivation that helps us cultivate better personality and morality. Thanks to being humble, we not only know how to learn from the teacher, but also know how to learn from friends, consider friends as teachers, and know "learning from teachers is not a bad thing." Our people have many proverbs and folk songs that teach lessons about moral humility: – “If you know, say it out loud, if you don't know, then lean on the pillar and listen!” – At home, mother second, child second, On the street, there are many people who are tougher than me. – Mom sings, I praise her well! Each person's understanding is very limited, but the unknown is endless. Everyone must humbly study and consider studying as continuous practice. An arrogant person is like living in a stagnant pond: "Arrogance is an expression of one's ignorance" (Eastern proverb). The great scientist Einstein confided to young people near and far that they must be humble and strive to learn constantly, because "What we know is just a drop of water, what we don't know is as vast as the ocean." ”.
Hướng dẫn THAM KHẢO NỘI DUNG BÌNH GIẢNG BÀI VĂN ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HÒA BÌNH CỦA G.G.MÁC-KÉT Chiến tranh và hòa bình luôn là những vấn đề được quan tâm hàng đầu của nhân loại, vì nó liên quan trực tiếp đến cuộc sống và sinh mệnh của hàng triệu người và nhiều dân tộc. Trong thế kỉ XX, nhân loại đã phải trải qua cuộc chiến tranh thế giới vô cùng khốc liệt và nhiều cuộc chiến tranh khác. Và cũng trong những năm gần đây, vấn đề xung đột khủng bố và chiến tranh vẫn đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, nhận thức đúng về nguy cơ chiến tranh và tham gia vào cuộc đấu tranh cho hòa bình là yêu cầu đặt ra vô cùng cấp thiết, Đó là lí do vì sao ta hiểu Mác-két, nhà văn Cô-lôm-bia muốn gửi tới toàn thể nhân loại bức thông điệp: “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” bằng một tấm lòng nhiệt huyết. Đấu tranh cho một thế giới hòa bình là đoạn trích từ tham luận của Mác-két đọc tại cuộc họp mặt của sáu nguyên thủ quốc gia họp lần thứ hai tại Mê-hi-cô để bàn về việc chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa bình thế giới. Để làm sáng tỏ luận đề: “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”, Mác-két đưa ra một luận điểm có tính chất bao trùm; chiến tranh hạt nhân là một hiểm họa khủng khiếp đang đe dọa toàn thể nhân loại và mọi sự sống trên trái đất, vì vậy đấu tranh đế loại bỏ nguy cơ ấy cho một thế giới hòa bình là nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại. Luận điếm cơ bản trên đây được Mác-két triển khai bằng một hệ thống luận cứ khá toàn diện. “Nhân loại đang đứng trước nguy cơ của chiến tranh hạt nhân”, Tính chất hiện thực và khủng khiếp của nguy cơ này được nhà văn Mác-két xác định thời gian và số liệu cụ thể: “Hôm nay ngày 8-8-1986, hơn 50000 đầu đạn hạt nhân đã được bô trí trên khắp hành tinh”. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi con người đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ. Với số vũ khí hạt nhân đó có thế hủy diệt 12 lần mọi dấu vết của sự sống trên trái đất. Tác giả còn đưa ra những tính toán về lí thuvết: kho vũ khí ấy “có thể tiêu diệt tất cả hành tinh đang xoay quanh mặt trời, cộng thêm bốn hành tinh nữa, và phá hủy thế thăng bằng của hệ Mặt Trời”. Nguy cơ ghê gớm đó, thực sự “đang đè nặng chúng ta như thanh gươm Đa-mô-clét”. Bằng những chứng cứ xác thực và cách lập luận cua tác giả đã thu hút người đọc và gây ấn tượng mạnh về nguy cơ chiến tranh hạt nhân, và sự hủy diệt khủng khiếp của vũ khí hạt nhân. Tiếp theo tác gia chỉ ra “cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị cho chiến tranh hạt nhân đã làm mất đi khả năng để con người được sống tốt đẹp hơn”. Để làm sáng tỏ luận cứ này, tác giả đưa ra những số liệu cụ thể: để cứu trợ về y tế, giáo dục sơ cấp, cải thiện điều kiện vệ sinh, và tiếp tế thực phẩm, nước uống cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế giới chỉ có thê bỏ ra chi phí là 100 tỉ đô la. Nhưng chương trình này không thực hiện được, vì lí do tốn kém. Tuy nhiên số tiền này chỉ gần bằng những chi phí bỏ ra cho 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B của Mĩ và cho dưới 700 tên lửa vượt đại châu. Ở lĩnh vực y tế: giá 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ dê thực hiện chương trình phòng bệnh trong 14 năm cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét và cứu hơn 14 triệu trẻ em ở châu Phi. Ở lĩnh vực tiếp tế thực phẩm: có gần 575 triệu người thiếu dinh dưỡng. Số lượng ca-lo trung bình cần thiết cho số lượng người này chỉ tốn kém không bằng 149 tên lửa MX., chỉ cần 27 tên lữa là đủ trả tiền nông cụ cần thiết cho các nước nghèo để họ có được thực phẩm trong bốn năm tới. Ở lĩnh vực giáo dục: chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xóa nạn mù chữ cho toàn thế giới. Mác-két nhà văn lớn của thế giới, một nhà hoạt động xã hội khả kính đã kịch liệt lên tiếng phản đối “chiến tranh hạt nhân chẳng những đi ngược lại lí trí của con người mà còn phản lại sự tiến hóa của tự nhiên”. Tác giả đưa ra những luận chứng khoa học về nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống trên trái đất, trái đất có sự sống như ngày nay là kết quả của một quá trình tiến hóa hết sức lâu dài của tự nhiên: “từ khi mới nhen nhúm sự sống trên trái đất, đã trải qua 380 triệu năm con bướm mới bay được, rồi 180 triệu năm nữa bông hồng mới nở, chỉ để làm đẹp mà thôi. Cũng đã trải qua bốn kỉ địa chất con người mới hát được hay hơn chim và mới chết vì yêu”. Đó là cơ sở để Mác-két khẳng định và hướng tới nhân loại về mức độ khủng khiếp của chiến tranh hạt nhân và “chẳng có gì để tự hào vì đã phát minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm nút một cái là đưa cả quá trình vĩ đại và tốn kém đó của hàng bao nhiêu triệu năm trở lại điểm xuất phát của nó. Sau khi chỉ ra một cách rõ ràng về hiểm họa của chiến tranh hạt nhân, Mác-két đã gửi tới nhân loại một thông điệp là tích cực đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, cho một thế giới hòa bình: “chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem tiếng nói của chúng ta tham gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình, công bằng”. Cuối cùng Mác-két đưa ra một đề nghị, mở ra một nhà băng lưu trữ trí nhớ có thể tồn tại được sau thảm họa hạt nhân, để cho nhân loại tương lai biết rằng sự sống đã từng tồn tại ở đây và không quên những thủ phạm đã gây ra những lo sợ, đau khố cho chúng ta, đã giả thiết làm ngơ trước những lời khẩn cầu hòa bình, những lời kêu gọi làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Lời đề nghị của Mác-két cũng chính là lời tố cáo những thê lực hiếu chiến. Vì lợi ích ti tiện cá nhân mà đẩy nhấn loại vào họa diệt vong và qua đó, nhà văn cùng muốn rằng nhân loại cần giữ kín kí ức của mình. Đấu tranh cho một thế giới hòa bình là tiếng nói đầy nhiệt huyết, cháy bỏng những khát khao cùa nhà văn về một thế giới hòa bình, không có chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Và khi nào nguy cơ chiến tranh hạt nhân còn đe dọa toàn thể loài người và sự sống trên trái đất thì tiếng nói của nhà văn vẫn còn là chuyện thời sự nhân văn sâu sắc.
Instruct REFER TO THE CONTENT OF THE COMMENTARY ON THE TEXT STRUGGLING FOR A PEACEFUL WORLD BY G.G. MAC-KE War and peace are always issues of top concern to humanity, because they are directly related to the lives and livelihoods of millions of people and many nations. In the twentieth century, humanity had to go through an extremely fierce world war and many other wars. And also in recent years, the problem of terrorist conflicts and wars is still taking place in many parts of the world. Therefore, correctly understanding the risk of war and participating in the struggle for peace is an extremely urgent requirement. That is why we understand Marx, the Colombian writer. wants to send to all humanity the message: "Fight for a peaceful world" with a passionate heart. Fighting for a peaceful world is an excerpt from a speech by Marquez read at the meeting of six heads of state for the second time in Mexico to discuss preventing nuclear war, protecting protect world peace. To clarify the thesis: "Fighting for a peaceful world", Mark made a comprehensive argument; Nuclear war is a terrible danger that threatens all humanity and all life on earth, so fighting to eliminate that risk for a peaceful world is an urgent task for all humanity. type. The above basic argument is deployed by Marx using a fairly comprehensive system of arguments. "Humanity is facing the risk of nuclear war", The reality and terrible nature of this risk is determined by writer Markett with specific time and data: "Today is August 8- By 1986, more than 50,000 nuclear warheads were deployed across the planet. That also means that each person is sitting on a barrel of 4 tons of explosives. With that number of nuclear weapons, it could destroy 12 times all traces of life on earth. The author also made theoretical calculations: that arsenal "could destroy all the planets revolving around the sun, plus four more planets, and destroy the balance of the solar system." That terrible risk is truly "weighing down on us like the sword of Damascus". With authentic evidence and the author's argument, he attracted readers and made a strong impression about the risk of nuclear war and the terrible destruction of nuclear weapons. Next, the author points out that "the arms race preparing for nuclear war has lost the ability for people to live better lives." To clarify this argument, the author gives specific figures: to provide medical relief, primary education, improve sanitary conditions, and provide food and water for 500 million children. The poorest people in the world can only spend 100 billion dollars. But this program cannot be implemented, due to expensive reasons. However, this amount of money is only nearly equal to the costs spent on 100 US B.1B strategic bombers and less than 700 missiles to cross continents. In the health sector: the price of 10 aircraft carriers carrying nuclear weapons is enough to carry out a 14-year disease prevention program to cure more than 1 billion people from malaria and save more than 14 million children in Africa. In the field of food supply: there are nearly 575 million people lacking nutrition. The average number of calories needed for this number of people costs less than 149 MX missiles. Just 27 missiles are enough to pay for the agricultural equipment needed by poor countries so that they can have food for four months. next year. In the field of education: just two submarines carrying nuclear weapons are enough money to eliminate illiteracy for the whole world. Marquez, a great writer in the world, a respected social activist, vehemently spoke out against "nuclear war, which not only goes against human reason but also goes against natural evolution." ”. The author provides scientific arguments about the origin and evolution of life on earth. The earth has life today as a result of an extremely long process of natural evolution: "from When life first appeared on earth, it took 380 million years for a butterfly to fly, and then another 180 million years for a rose to bloom, just for beauty. It took four geological eras for humans to sing better than birds and for them to die of love. That is the basis for Marx to affirm and direct to humanity about the terrible level of nuclear war and "there is nothing to be proud of for inventing a measure that just needs to be pressed with a button." That whole great and costly process of so many millions of years returns to its starting point. After clearly pointing out the dangers of nuclear war, Marx sent humanity a message to actively fight to prevent nuclear war, for a peaceful world: "we come here to try to counter that, to join our voices in the chorus of those demanding a world without weapons and a life of peace and justice.” Finally, Marquez made a proposal to open a memory bank that could survive a nuclear disaster, to let future humanity know that life once existed here and not to forget. The perpetrators who have caused us fear and suffering have pretended to ignore the pleas for peace and the calls to make life better. Market's proposal is also a denunciation of belligerent forces. Because of personal selfish interests, humanity is pushed into destruction and through that, the writer also wants humanity to keep its memories secret. Fighting for a peaceful world is a passionate voice, burning with the writer's desire for a world of peace, without destructive nuclear war. And as long as the risk of nuclear war threatens all humanity and life on earth, the writer's voice remains a deeply humane news story.
Hướng dẫn THAM KHẢO NỘI DUNG BÌNH GIẢNG BÀI VĂN PHONG CÁCH CỦA HỒ CHÍ MINH CỦA LÊ ANH TRÀ Hồ Chí Minh không những là nhà thơ yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại mà còn là danh nhân văn hóa thế giới. Những biểu hiện trong vế đẹp văn hóa của Người đã được Lê Anh Trà khái quát khá đầy đủ trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, đó là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại, vĩ đại và bình dị. Bài viết góp phần khẳng định tầm vóc văn hóa lớn lao của Người và càng làm cho ta tự hào, kính yêu, tự nguyện học tập theo gương của Người. Bài Phong cách Hồ Chí Minh có khuôn khổ ngắn, gọn, nhưng Lê Anh Trà đã giới thiệu đầy đủ những nét tiêu biểu của một nhà văn hóa lớn. Trước hết, Lê Anh Trà khẳng định Hồ Chí Minh có vốn tri thức văn hóa sâu rộng. Người đã đi qua nhiều hơi, tiếp xúc với văn hóa nhiều nước phương Đông và phương Tây. Trên nhừng con tàu vượt trùng dương, Người đã “ghé lại nhiễu hải cảng” đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người đã sống dài ngày ở Anh, ở Pháp. Đến đâu, Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm. Người cũng chịu ảnh hưởng của tất cả các nền văn hóa, đã tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay, đồng thời việc phê phán những tiêu cực. Người có vốn tri thức sâu rộng đó là vì Người nói thông viết thạo nhiều thứ tiếng; Pháp, Anh, Hoa, Nga., và Người đã làm nhiều nghề khác nhau. Đây cũng là dịp Người có điều kiện học hỏi và biết được thực tế về nền văn hóa các nước. “Tất cả những ảnh hướng quốc tế đó đã nhào nặn với các gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được ở Người”. Chính điều này đã làm nên “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoạn văn tạo nên sức thuyết phục lớn là nhờ ở chỗ, tác giả đan xen giữa những lời kế là lời bình luận trong một phong cách lập luận chặt chẽ và cách nêu luận cứ xác thực, tiêu biểu, Cũng với biện pháp nghệ thuật đó, ở đoạn văn tiếp theo, Lê Anh Trà nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nho bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình; quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con ngưò’i siêu phàm nào đó trong cổ tích. Để giải thích, chứng minh cho lối sống giản dị đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lê Anh Trà sử dụng một hệ thống luận cứ tiêu biểu xác thực. Đó là nơi ở, nơi làm việc đơn sơ với chiếc nhà sàn cũng chi vẻn vẹn có “vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ”. Trang phục của Người hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp “thô sơ như các chiến sĩ Trường Sơn đã dược một tác giả phương Tây ca ngợi như vật thần kì”. Việc ăn uống của Người cũng “rất đạm bạc” như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa. Đó là những món ăn dân tộc không chút cầu kì. Cách sống giản dị, đạm bạc của Chu tịch Hồ Chí Minh lại vô cùng thanh cao, sang trọng. Đây không phải là lối sống khắc khô của những con người tự vui trong cảnh nghèo khó, lại càng không phải là “cách tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời, hơn đời”, mà là một cách sống có văn hóa đã trở thành một quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. Chính vì lẽ này mà Lê Anh Trà đã có nhận định: “Tôi dám chắc không có một vị lanh tụ nào, một vị tổng thống hay một vị vua nào ngày trước lại sống đến mức giản dị và tiết chê như vậy”. Lê Anh Trà rất có lí khi nghĩ về quan niệm sống của Chu tịch Hồ Chí Minh. Đến đây, Lê Anh Trà chợt liên tưởng đến các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nguyễn Trãi giản dị mà thanh cao trong cuộc sống: Ao cạn, vớt bèo cấy muống Đìa thanh, phát cỏ ươm sen. (Thuật hứng) hoặc: Cơm ăn dầu có dưa muối Áo mặc nài chi gấm thêu. (Ngôn chí – Bài thứ 3) và trong hình ảnh: Hài cỏ, đạp chân đi đủng đỉnh, Áo bô, quen cật vận xênh xang. (Tức sự – Bài thứ 4) Tuyết Giăng Phu tử – Nguyễn Bỉnh Khiêm, bất mãn với thời cuộc, lui về ở ẩn với những thú quê thuần đức: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Là một bậc danh nho, là hiền nhân quân tử, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi có một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống có khác gì Chu tịch Hồ Chí Minh. Dù là sống ở mỗi thời đại khác nhau, nhưng vẻ đẹp tâm hồn trong phong cách lớn có sự cộng hưởng sâu xa. Điều đó đã làm cho Lê Anh Trà bất giác phát hiện, liên tưởng từ những cuộc sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần. Và chỉ có quan niệm về cuộc sống như vậy mới có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thế xác.
Instruct REFER TO THE CONTENT OF THE COMMENTARY ON HO CHI MINH'S STYLISH ESSAY BY LE ANH TRA Ho Chi Minh is not only a great patriotic poet and revolutionary but also a world cultural celebrity. The manifestations of his cultural beauty have been fully summarized by Le Anh Tra in the article Ho Chi Minh's Style, which is a harmonious combination of tradition and modernity, between nation and humanity, greatness and greatness. grand and simple. The article contributes to affirming his great cultural stature and makes us even more proud, respectful, and willing to study and follow his example. The article Ho Chi Minh's Style has a short and concise framework, but Le Anh Tra fully introduced the typical features of a great cultural figure. First of all, Le Anh Tra affirmed that Ho Chi Minh had extensive cultural knowledge. He has traveled through many times and come into contact with the cultures of many Eastern and Western countries. On ships crossing the ocean, he "stopped at ports" and visited countries in Africa, Asia, and America. He lived for a long time in England and France. Wherever he went, he studied and studied culture and art to a quite profound level. He was also influenced by all cultures, absorbed all the beauty and goodness, and criticized the negative. People have extensive knowledge because they can speak and write many languages ​​fluently; French, English, Chinese, Russian., and He has worked in many different professions. This is also an opportunity for people to learn and know the reality of other countries' cultures. "All those international influences have molded the unshakable roots of national culture in him." This is what has created "a very Vietnamese personality, a very simple, very Vietnamese, very Eastern, but at the same time very new, very modern" lifestyle in President Ho Chi Minh. The passage creates great persuasion thanks to the fact that the author intertwines the following words with comments in a strict argumentative style and the way of stating authentic, typical arguments. With the same artistic method, in the next paragraph, Le Anh Tra talks about the simple but noble lifestyle of President Ho Chi Minh: For the first time in the history of Vietnam and perhaps the whole world, there is a The President took the wooden stilt house next to the pond as his "palace"; It's like a myth, like the story of a fairy or some supernatural person in a fairy tale. To explain and prove the simple lifestyle of President Ho Chi Minh, Le Anh Tra uses a system of typical and authentic arguments. It is a simple place to live and work with a stilt house that only has "a few rooms for receiving guests, meeting the Politburo, working and sleeping". His outfit was very simple, with a brown suit, a guard shirt, and tire sandals "as rudimentary as Truong Son soldiers, which was praised by a Western author as a miraculous object." His diet was also "very frugal" such as braised fish, boiled vegetables, pickled vegetables, pickled eggplant, and flower porridge. These are ethnic dishes without any fuss. President Ho Chi Minh's simple and frugal way of life is extremely noble and luxurious. This is not a harsh lifestyle of people who are happy in poverty, and even more so is not a "way to deify oneself, to make oneself different from the world, better than the world", but a cultural way of life that has becomes an aesthetic concept: beauty is simplicity and nature. It is for this reason that Le Anh Tra commented: "I am sure that no leader, president or king in the past lived to such a simple and frugal level." Le Anh Tra is very reasonable when thinking about President Ho Chi Minh's concept of life. Coming here, Le Anh Tra suddenly thought of ancient sages such as Nguyen Trai and Nguyen Binh Khiem: Nguyen Trai is simple but noble in life: The pond is dry, remove water hyacinth and plant water spinach At the bar, grass is planted to grow lotus. (Inspiration) or: Rice eaten with oil and pickles The shirt is embroidered with brocade. (Vocal press – Part 3) and in the image: Walking on grass, stepping on your feet, T-shirt, used to wearing clothes. (Indeed – Lesson 4) Tuyet Giang's husband - Nguyen Binh Khiem, dissatisfied with the times, retreated to live with the virtuous country animals: In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts In spring, you bathe in lotus ponds, in summer you bathe in ponds. As a famous scholar and gentleman, Nguyen Binh Khiem and Nguyen Trai have an aesthetic concept of life that is no different from President Ho Chi Minh. Even though we live in different eras, the spiritual beauty in great style has profound resonance. That made Le Anh Tra suddenly discover and associate noble lives with a way of spiritual nourishment. And only such a concept of life is capable of bringing noble happiness to the soul and body.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Bối canh thế giới vào những năm 80 của thế kỷ XX đã có những điều kiện thuận lợi có bán đối với nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em, vì đây là giai đoạn trên the giới có nền khoa học, kỉ thuật phát triển, kinh tế tăng trưởng, tính cộng đồng, hợp tác giữa các quốc gia được củng cố, mở rộng. Song bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn, nhiều vấn đề cấp bách đặt ra đó là sự phân hóa rõ rệt về mức sống, giữa các nước, giữa người giàu và người nghèo trong một nước; tình trạng chiến tranh và bạo lực vẫn còn đang tiếp diễn ở nhiều nơi trên thế giới, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị tàn tật, bị bóc lột và thất học có nguy cơ ngày càng nhiều, chính vì lẽ đó Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại trụ sở Liên hiệp quốc ở Niuoóc ngày 30-9- 1990 để cùng nhau cam kết và ra lời Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. Văn bản được trích trong Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em. Văn bản trích gồm có 17 điều, được sắp xếp theo một trình tự hợp lí, chặt chẽ. Mở đầu văn bản là lời khẩn cầu với toàn thể nhân loại “hãy bảo đảm cho tất cả trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn”. Các em được sống trong vui tươi, được chơi, được học và được phát triển. Tương lai của chúng phải được hình thành trong sự học tập và tương trợ” (điều 1 và 2). Phần còn lại của văn bản có bố cục ba phần (Sự thách thức, Cơ hội, Nhiệm vụ). Ở phần Sự thách thức nêu lên thực tế của trẻ em trên thế giới hiện nay, vô số các em bị phó mặc cho những hiểm họa kìm hảm sự tăng trưởng và phát triển của các cháu. Chúng phải chịu bao “nỗi bất hạnh” là “nạn nhân” của chiến tranh và bạo lực, của nạn phân biệt chủng tộc, chế độ a-pac-thai, sự xâm lược, chiếm đóng và thôn tính của nước ngoài. Có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm họa của đói nghèo, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp. Nguyên nhân chính là do tác động nặng nề của nợ nước ngoài, của tình hình kinh tế không có khả năng phát triển hoặc không giữ được mức tăng trưởng đều đặn. Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật, kể cả hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), hoặc do thiếu nước sạch, thiếu vệ sinh và do tác động của vấn đề ma túy. Nội dung vấn đề nêu ra ở phần này tuy ngắn gọn nhưng khá đầy đủ, giúp ta hình dung được thực trạng của trẻ em trên thế giới lúc bấy giờ đang đứng trước thảm họa rất đáng sợ. Đây cũng là vấn đề cần thiết đang đặt ra – một thách thức rất lớn đối với những nhà lãnh đạo cấp cao phải đáp ứng. – Phần Cơ hội: Bản tuyên bố khẳng định những điều kiện thuận lợi cơ bản của bối cảnh thế giới mấy chục năm của thế kỉ XX, đó là: Sự liên kết lại của các quốc gia cùng ý thức cao của cộng đồng quốc tế hiện nay. Đã có công ước về quyền của trẻ em làm cơ sở, tạo ra một cơ hội mới. Sự hợp tác và đoàn kết quốc tế ngày càng có hiệu quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực, phong trào giải trừ quân bị được đẩy mạnh tạo điều kiện cho một số tài nguyên to lớn có thể được chuyển sang phục vụ các mục tiêu kinh tế, tăng cường phúc lợi xã hội. Những cơ hội ấy đã được vận dụng trong 15 năm qua và đã mang lại nhiều thành tựu tốt đẹp về quyền được sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em trên nhiều lĩnh vực, và ở nước ta, ngay sau khi Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em ra công bố một kế hoạch hành động, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định chương trình hành động vì sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em Việt Nam từ năm 1991, đến năm 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Và trong những năm gần đây ở nước ta, nhờ sự quan tâm cụ thể của Đảng và Nhà nước, sự nhận thức và tham gia tích cực của nhiều tổ chức xã hội và phong trào chăm sóc, bảo vệ trẻ em, ý thức cao của toàn dân, nên vấn đề này đã đạt được những hiệu quả vô cùng tốt đẹp. – Phần Nhiệm vụ: Bản tuyên bố xác định nhiều nhiệm vụ cấp thiết của cộng đồng quốc tế và từng quốc gia, từ tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng nhằm cứu vãn hàng vạn sinh mạng trẻ em mỗi ngày (ngăn ngừa những nguyên nhân dẫn đến tử vong) đến phát triển giáo dục cho trẻ em, từ các đối tượng quan tâm hàng đầu như “trẻ em bị tàn tật và trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn, các bà mẹ” đến việc củng cố gia đình, xây dựng môi trường xã hội, từ bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ đến khuyến khích trẻ em tham gia vào sinh hoạt văn hóa xã hội, từ tăng cường vai trò của người phụ nữ đến việc bảo đảm an toàn khi mang thai và sinh đẻ, kế hoạch hóa gia đình. Bản tuyên bố còn nhấn mạnh: tạo cơ hội cho trẻ em biết được nguồn gốc lai lịch của mình và nhận thức được giá trị của bản thân để các em có một cuộc sống có trách nhiệm trong một xã hội tự do, và đặc biệt ở các nước đang phát triển cần cấp bách bảo đảm hoặc khôi phục lại sự tăng trưởng và phát triển đều đặn nền kinh tế, đồng thời tiếp tục khẩn trương tìm ra một giải pháp nhanh chóng, mở rộng và lâu bền cho vấn đề nợ nước ngoài của các nước đang phát triển đang có nợ. Đoạn văn tạo được hiệu quả thuyết phục cao bởi những nhiệm vụ có tính cấp bách này được nêu lên một cách hợp lí dựa trên cơ sở tình trạng, điều kiện thực tế và cách lập luận thật dứt khoát, mạch lạc, rõ ràng, đầy quyết tâm.
Instruct CONTENT OF THE REFERENCE COMMENTARY TEXT The world context in the 80s of the twentieth century had favorable conditions for the task of protecting and caring for children, because this was a period in the world with developed science and technology. , economic growth, community and cooperation between countries are strengthened and expanded. But besides that, there are also many difficulties and many urgent issues that arise, including the clear difference in living standards, between countries, between rich and poor within a country; War and violence are still going on in many parts of the world, children in particularly difficult circumstances, disabled, exploited and illiterate are at increasing risk, for that reason. The World Summit on Children met at the United Nations headquarters in New York on September 30, 1990 to jointly commit and issue a World Declaration on the survival, rights to protection and development of children. me. The text is excerpted from the Declaration of the World Summit on Children. The excerpted text includes 17 articles, arranged in a logical and strict order. The text opens with a plea to all humanity to "guarantee all children a better future". Children can live happily, play, learn and develop. Their future must be formed in learning and mutual support” (articles 1 and 2). The remainder of the text has a three-part layout (Challenge, Opportunity, Task). The Challenge section highlights the reality of children in the world today, countless of whom are at the mercy of dangers that hinder their growth and development. They have to endure many "misfortunes" as "victims" of war and violence, of racism, the apartheid regime, foreign invasion, occupation and annexation. There are millions of children suffering from the tragedies of poverty, homelessness, disease, illiteracy, and environmental degradation. The main reason is due to the heavy impact of foreign debt and the inability of the economy to develop or maintain steady growth. Every day, up to 40,000 children die from malnutrition and disease, including acquired immunodeficiency syndrome (AIDS), or from lack of clean water, lack of sanitation and the impact of drugs. The content of the issue raised in this section is brief but quite complete, helping us imagine the current situation of children in the world at that time who were facing a very scary disaster. This is also a necessary issue that is being raised - a huge challenge for senior leaders to meet. – Opportunity part: The declaration affirms the basic favorable conditions of the world context in the decades of the twentieth century, which are: The interconnectedness of countries and the high awareness of the international community today. There is a convention on the rights of children as a basis, creating a new opportunity. International cooperation and solidarity are increasingly effective in many fields, the disarmament movement is being promoted, creating conditions for a huge number of resources to be transferred to serve economic goals. economy and enhance social welfare. Those opportunities have been applied over the past 15 years and have brought many good achievements in terms of children's right to survival, protection and development in many fields, and in our country, right after the Conference. The world summit on children announced an action plan, the Council of Ministers of the Socialist Republic of Vietnam decided on an action program for the survival, rights to protection and development of children. Vietnamese children from 1991 to 2000, making it a part of the country's socio-economic development strategy and plan. And in recent years in our country, thanks to the specific attention of the Party and State, the awareness and active participation of many social organizations and child care and protection movements, high awareness of the entire population, so this issue has achieved extremely good results. – Mission section: The declaration identifies many urgent tasks of the international community and each country, from promoting health and nutrition to saving tens of thousands of children's lives every day (preventing cause of death) to developing education for children, from the primary concerns such as "disabled children and children in particularly difficult living situations, mothers" to strengthening strengthening the family, building a social environment, from ensuring equal rights between men and women to encouraging children to participate in social and cultural activities, from strengthening the role of women to ensuring safety. during pregnancy and childbirth, family planning. The declaration also emphasizes: creating opportunities for children to know their origins and realize their own value so that they can have a responsible life in a free society, and especially There is an urgent need in developing countries to ensure or restore steady economic growth and development, while continuing to urgently find a rapid, scalable and durable solution to the debt problem. foreign countries of developing countries are in debt. The paragraph creates a highly convincing effect because these urgent tasks are stated in a reasonable way based on the actual situation and conditions and the argument is decisive, coherent, and clear. full of determination.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Phạm Đình Hổ (1763 – 1839) là một nho sĩ đa tài sống trong thời chế độ phong kiến đã khủng hoảng trầm trọng nên có tư tưởng muốn ẩn cư, ông đã từng giữ chức Tề tửu Quốc tử giám, rồi Thị giảng học sĩ, nhưng chỉ mấy năm sau đó, ông cáo bệnh từ quan. Phạm Đình Hổ sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là những năm đầu thời Nguyễn với nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực. Về sáng tác văn chương, ông có nhiều tác phẩm giá trị, đặc biệt là Vũ trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (Viết chung với Nguyễn Án). Đây là những kí sự bằng văn xuôi. Vũ trung tùy bút thể hiện một bút pháp nghệ thuật tinh tế, sinh động, hấp dẫn, là một tác phẩm chẳng những có giá trị văn chương đặc sắc, mà còn cung cấp những tư liệu quí về lịch sử, địa lí, xã hội học. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong tùy bút trích từ Vũ trung tùy bút ghi lại cuộc sống ở phủ chúa thời Thịnh Vương Trịnh Sâm. Với cảm hứng dạt dào, tùy hứng, Phạm Đình Hổ đã tái hiện lại cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hậu cận trong phủ chúa. Sau khi chúa Trịnh Sâm đã dẹp yên được các phe phái, chống đối, lập lại kỉ cương, thì dần dần sinh ra kiêu căng xa xỉ, phi tần mĩ nữ kéo vào rất nhiều, chúa say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc thỏa thích. Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775) trong nước “vô sư” Thịnh Vương Trịnh Sâm thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Đế phục vụ cho những cuộc ăn chơi thỏa thích này, chúa cho xây dựng nhiều cung diện, đình đài ở các nơi, hao người tốn của. Nhưng- cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tì nữ mỗi tháng ba bốn lần, Thịnh Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng khác biệt, có binh lính đàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, mà Hồ Tây thì rất rộng, có tổ chức hội chợ chung quanh bờ hồ mà các nội thần hóa trang “đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà” bày bán hàng bách hóa. Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Để tạo không khí vui vẻ, trên gác chuông chùa Trấn Quốc và khắp nơi quanh hồ bọn nhạc công hòa vào khúc nhạc. Thật là một cảnh tượng lố lăng, nhảm nhí. Để thỏa mãn cho những cuộc ăn chơi, hưởng lạc, bọn chúng đâu có chút lòng thương cảm đến những người dân lương thiện đang rên xiết, ai oán bởi những dám người được mệnh danh là cha mẹ của dân đã ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân đủ thứ để cho đầy túi tham. Phạm Đình Hổ đã tận mắt chứng kiến và biết được những cảnh tượng trong phủ chúa nên cách kể và cách tả của ông thật sinh động. Để phục vụ cho những cuộc an chơi, hưởng lạc, nhà chúa đã càn quét bao nhiêu những loài “trân cầm dị thú, cỏ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian” có khi tranh thủ “lấy cả cây da to, cành lá rườm rà, từ bên bờ bắc chở qua sông đem về”. Cây đa to như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hóc đá, rễ dài dần vài trượng, phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi. Cánh tượng trong phủ chúa thật khác thường “tùy cho…ra hình núi non bộ trông như bốn bể núi non”. Đoạn văn được Phạm Đình Hổ miêu tả rất thực, từ cảnh vật đến âm thanh. Điều này cũng được Lê Hửu Trác, một danh y nổi tiếng thời đó cũng vô cùng ngạc nhiên mà viết trong lần ông bị mời lên kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán: “Mấy nghìn cửa gác đông nghiêm ngạt Cá trời núi sông chắc là đây! Lâu từng gác vì tung mây Rèm châu, rèm ngọc, bóng mai cánh vào Hoa cũng thoáng, ngạt ngào đưa tới Vườn ngự nghe vẹt nói đôi phen Quê mùa; cung cấm chưa quen Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”. (Thượng kinh kí sự) Cảnh trong phủ chúa được Lê Hữu Trác miêu tả gợi lên sự uy nghiêm và giàu sang vào thời điểm buổi sáng. Còn đối với Phạm Đình Hổ, cảnh trong phủ chúa được gợi lên trong thời điểm một đêm thanh vắng “tiếng chim kêu vượn hót” ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như “trận mưa sa gió táp, vờ tô tan đàn”. Âm thanh gợi lên cảm giác ghê sợ trước một cái gì đang tan tác, đau thương chứ không phải trước cảnh yên bình, phồn thịnh. Sự thực đó đà gợi cho tác giả có cảm nhận riêng, vì biết đó là “triệu bất thường”, tức là điềm gở, chẳng lành. Nó là dấu hiệu của sự suy vong tất yếu của một triều đại mục ruỗng hết chỗ nói, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt, xương máu của người dân khốn khổ. Và điều ấy đã thực sự xảy ra không bao lâu sau khi Trịnh Sâm mất năm 1782 – một cuộc tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau diễn ra khốc liệt. Và đến năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc Hà, tiêu diệt họ Trịnh giao lại quyền bính cho nhà Lê. Bọn hoạn quan hậu cận trong phủ chúa lợi dụng sự sủng ái của chúa Trịnh Sâm mà ra sức hoành hành, tác oai, tác quái trong nhân dân. Bộ mặt của bọn chúng được tác giá miêu tả là lũ người luồn gió bẻ măng, vừa ăn cướp vừa la làng. Chúng ra ngoài dọa dẳm, dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh. Chim tốt khứu hay, thì biên hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, chúng trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đến lấy phăn đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật “cung phụng” để dọa lấy tiền. Người dân đã bị chúng cướp hai lần, thật là những điều vô lí hết chỗ nói. Thậm chí nếu cần, chúng cho phá nhà, húy tường để khiêng ra những hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá. Các nhà giàu bị họ vu là giấu vật “cung phụng”, thường phải bỏ của ra kêu van “chí chết” có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá hủy cây cảnh đế tránh tai vạ. Cuối cùng tác giả kể lại một sự việc xảy ra ngay tại gia đình minh ở phường Hà Khâu, huyện Thọ Xương (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ngày nay). Ba mẹ của tác gia đã phải sai người chặt đi một cây lê, cao vài trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng và hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra hoa quả trông rất đẹp để tránh tai vạ. Sự việc này cũng đã cho ta thấy mức độ nhũng nhiễu của bọn quan lại hậu cận, chúng không chừa một ai, mặc dù gia đình tác giả cũng thuộc hàng quan lại, quí tộc thời Lê Trịnh. Câu chuyện vừa làm gia tăng độ tin cậy cho những chi tiết chân thực mà tác giả ghi chép ở trên, vừa phê phán bộ mặt ghê tởm của bọn quan lại hậu cận trong phủ chúa. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút có giá trị lún về mặt lịch sử, giúp ta hiểu được hiện thực nơi phủ chúa vào những năm nửa sau thế kỉ XVIII. Đó là sự suy vong không thể tránh khỏi của một triều đại chỉ biết chạy theo cuộc sống xa hoa của vua chúa và sự kết bè nhũng nhiễu dân của bọn quan lại thời đó.
Instruct CONTENT OF REFERENCE COMMENTARY Pham Dinh Ho (1763 - 1839) was a multi-talented Confucian scholar who lived in a time when the feudal regime was in serious crisis, so he had the idea of ​​​​retreating. He once held the position of Te Tuu Quoc Tu Giam, then served as a scholar. , but just a few years later, he resigned from office. Pham Dinh Ho composed during the Tay Son period, but mainly in the early years of the Nguyen dynasty with many valuable compilations and research works in all fields. Regarding literary composition, he has many valuable works, especially Vu Trung Essay and Tang Thuong Do Luc (Written with Nguyen An). These are memoirs in prose. Vu Trung Essay demonstrates a sophisticated, lively, and attractive artistic style, and is a work that not only has unique literary value, but also provides valuable documents on history, geography, and society. sociology. Old stories in Lord Trinh's palace is one of the essays excerpted from Vu Trung Essay recording life in Lord Trinh's palace during the reign of Thinh Vuong Trinh Sam. With abundant inspiration and improvisation, Pham Dinh Ho recreated the lavish entertainment scene of Lord Trinh Sam and his subordinate mandarins in the lord's palace. After Lord Trinh Sam had quelled the factions, opposition, and restored discipline, he gradually gave birth to arrogance and luxury, with many beautiful concubines and concubines. The Lord was infatuated with Dang Thi Hue, immersed in Luxurious life, entertainment and pleasure. Around the year of Giap Ngo and At Mui (1774 - 1775), in the country of "no master", Thinh Vuong Trinh Sam liked to play with torches and lights, often residing in li palaces on Tay Ho, Tu Tram mountain, Dung Thuy mountain. To serve these entertaining parties, the Lord built many palaces and pavilions in many places, wasting people and money. But - the Lord's walks in Tay Ho were described as maidservants three or four times a month. Thinh Vuong went to Thuy Lien palace on the banks of Tay Ho, the reception scene with different jubilant ceremonies, with soldiers in attendance. around the four sides of the lake", and West Lake is very large, there is a fair organized around the lake shore where the courtiers disguise themselves as "turbans and women's clothes" to sell groceries. Wherever the royal boat went, the mandarins and ministers arbitrarily stopped by the shore to buy and sell things like at a store in the market. To create a happy atmosphere, on the bell tower of Tran Quoc Pagoda and everywhere around the lake, musicians join in the music. What a ridiculous, ridiculous scene. In order to satisfy their entertainment and pleasure, they do not have any sympathy for the honest people who are groaning and complaining because the people who are called the parents of the people have tried to plunder, exploiting the people in all sorts of ways to fill their greedy pockets. Pham Dinh Ho witnessed and knew the scenes in the lord's palace with his own eyes, so his narration and description were very vivid. To serve the entertainment and pleasure, the lord's house has swept away many species of "exotic animals, grass, flower pots and ornamental plants in folk areas" and sometimes even took advantage of "taking the leather tree". Big, with cumbersome branches and leaves, transported across the river from the north bank. The banyan tree is as big as an old tree growing on top of a rock, its roots are several meters long, and it takes a soldier to carry it. The wings of the statue in the lord's palace are very unusual, "depending on...the shape of a rockery that looks like four mountain pools". The passage described by Pham Dinh Ho is very realistic, from the sights to the sounds. This was also written by Le Huu Trac, a famous physician at that time, when he was invited to the capital to treat Crown Prince Trinh Can: “Thousands of guard gates are crowded and stuffy The fish of the mountains and rivers must be here! For a long time, I used to guard against the clouds Pearl curtains, jade curtains, apricot shadows flutter in Flowers are also airy and fragrant The garden heard the parrot talk a few times Rustic; The forbidden palace is not familiar It's no different than the fishermen of old. (The Sutra Sutra) The scene in the royal palace described by Le Huu Trac evokes majesty and wealth in the morning. As for Pham Dinh Ho, the scene in the lord's palace is evoked during a quiet night when "the sound of birds chirping and gibbons singing" spreads all around, or in the middle of the night it is noisy like "a storm of rain and wind, pretending to scatter the flock." ”. The sound evokes a feeling of horror at something that is being destroyed and painful, not at a peaceful, prosperous scene. That fact evoked the author's own feeling, because he knew it was an "unusual symptom", that is, a bad omen. It is a sign of the inevitable decline of an utterly corrupt dynasty that only knows how to feast and enjoy itself on the sweat, tears, and blood of miserable people. And that really happened not long after Trinh Sam died in 1782 - a fierce struggle for power and mutual killing took place. And in 1786, Nguyen Hue brought troops to Bac Ha, destroyed the Trinh family, and returned power to the Le dynasty. The subordinate eunuchs in the lord's palace took advantage of the favor of lord Trinh Sam and tried their best to rampage, create power, and create mischief among the people. Their appearance is described by the author as a group of people who use the wind to break bamboo shoots, robbing and shouting at the same time. They went out to threaten and find out which houses had pots of flowers and ornamental plants. If the bird smells good, add the word "serve" to it. At night, they climbed over the city wall and sneaked out, sent their henchmen to take away the food, and then accused them of hiding "offerings" to threaten them with money. People were robbed twice by them, it was truly absurd things to say the least. Even if necessary, they destroy houses and walls to carry out large rocks or trees. Rich people are accused of hiding "offerings" and often have to give up their wealth and cry "death", sometimes having to tear down rockeries or destroy ornamental plants to avoid disaster. Finally, the author recounts an incident that happened right at his family in Ha Khau ward, Tho Xuong district (Hoan Kiem district, Hanoi today). The author's parents had to have someone cut down a pear tree, several meters high, when in bloom, white and fragrant, and two white pomegranate and red pomegranate trees, which looked very beautiful when in fruit to avoid disaster. This incident also showed us the level of harassment of the mandarins behind them, they did not spare anyone, even though the author's family also belonged to the ranks of mandarins and aristocrats during the Le Trinh era. The story not only increases the reliability of the truthful details recorded above by the author, but also criticizes the disgusting face of the mandarins behind the royal palace. Old stories in Lord Trinh's palace is an essay page with historical value, helping us understand the reality of Lord Trinh's palace in the second half of the 18th century. It was the inevitable decline of a dynasty that only knew how to pursue the luxurious life of kings and the collusion and harassment of the people by mandarins at that time.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống ở thế kỉ 16. Ông là một trong những nhà văn quan tâm đến số phận người phụ nữ sớm nhất. Trong Truyền kì mạn lục ta thấy nhà văn đã dành tới một phần ba số truyện để nói về số phận bi thảm của người phụ nữ và những vấn đề hạnh phúc gia đình. Một trong số những người có số phận bi thảm đó là Vũ Thị Thiết ở Chuyện người con gái Nam Xương. Truyện là một áng văn xuôi tự sự tập trung miêu tả cuộc đời bất hạnh của Vũ Nương và nguyên nhân xã hội tạo nên nỗi bất hạnh đó. Nàng là một phụ nữ xinh đẹp, thùỵ mị, nết na. Nàng có ý thức đúng mực trong việc cư xử, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép trong cuộc sống gia đình chồng vợ để tránh sự bất hòa. Ngay từ cuộc sống ngày đầu của tình chồng vợ, đã thấy hé lộ sự mâu thuẫn giữa tính cách của hai người. Những nhược điểm của chàng Trương Sinh là tính hay ghen, độc đoán và kém học, là mầm mống của bi kịch có thể xảy ra khi có biến cố. Và điều đó thực sự đã đến với gia đình nàng: Trương Sinh là người ít học nên đã bị triều đình gọi lính ngay trong đợt đầu, thế là mối tình của họ đã “nhuộm màu quan san” (cách trở – li biệt). Trong giờ phút chia tay tiễn chồng lên đường, nàng đã nói với chàng Trương những lời lẽ hết sức chân tình âu yếm “chàng đi chuyến này chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Nàng là người thông minh, có trái tim nhạy cảm đã thấy được những khó khăn nơi chiến trận thế giặc, quân Triều, lo lắng hẹn kì khó giữ, mà “mùa dưa chín quá kì”. Trong những ngày xa chồng, nàng đã bày tỏ sự khắc khoải nhớ nhung của mình: mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì “nỗi buồn góc bê chân trời” làm ngập chìm lòng nàng. Nàng quả là người rất nhạy cảm trước những cảnh sắc của thiên nhiên: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Cảnh sắc thiên nhiên có tác động mạnh đến nỗi mong nhớ, cô đơn của nàng. Nàng một mực thủy chung, thiết tha chờ chồng. Đêm đêm nàng chỉ bóng mình trên vách đùa với con thơ “cha Đán về kia kìa”. Đây là cách để an ủi con và cùng tự xoa dịu bớt nỗi nhớ của chính mình. Nàng không chỉ là người vợ thủy chung với chồng mà còn là con dâu hiếu thảo và hết mực đảm đang, tháo vát mọi việc của gia đình. Nàng vừa phải làm lụng nuôi con, vừa chăm sóc mẹ chồng ốm. Tất cả những sự vất vả đó không làm giảm chút nào tính thùy mị, nết na của nàng, nàng tận tụy săn sóc mẹ: hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật; nàng cùng nặng lòng yêu thương mẹ; lấy lời lẽ ngọt ngào khuyên lơn, lới trán trối cuối cùng của mẹ chồng. “Ngắn dài có sò, tươi héo bơi trời, xanh kia quyết chắng phụ con, cũng như con dã chẳng phụ mẹ”. Và lời nhận xét của tác giả “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Tất cả đều thê’ hiện sự đánh giá cao nhân cách Vũ Nương. Nhưng trong xã hội cũ, những người có tính cách như Vũ Nương thì làm gì có được một cuộc đời hạnh phúc. Nàng phải gánh chịu một số phận bi kịch. Cuộc chiến tranh phong kiến đã không cướp đi cuộc sống bình yên của gia đình nhưng phải chịu cái cảnh li biệt. Nàng mong mỏi chờ chồng, hi vọng có ngày đoàn tụ. Nhưng ngờ đâu, ngày chồng về ngay sau khi cuộc chiến tranh kết thúc. Nàng những tưởng hạnh phúc đã đến trong tầm tay. Nào ngờ anh chàng vốn đa nghi, kém cỏi đã mù quáng mà nghe lời con trẻ từ một câu nói đùa của nàng trong lúc xa nhớ chồng để nàng bị chồng nghi oan là hư hỏng. Bi kịch gia đình xảy ra. Nàng tìm mọi cách để thanh minh: “thiếp vốn còn kẻ khó, được nương tựa nhà giàu, sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc binh, cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng, ngỏ liều tưởng hoa chưa hề bén gót. Đâu có mất nết hư thân như chàng nói. Đám tóc này để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nhưng chàng Trương đâu có tin nên nàng vẫn bị “mắng nhiếc và đánh đuổi đi”. Nàng đã hoàn toàn thất vọng, hạnh phúc đơn sơ, niềm vui “nghi gia nghi thất” không sao còn nữa đến cả nỗi đau trong tình yêu “hóa đá mong chồng” nàng cũng không có nữa, danh dự bị bôi nhọ. Bao nhiêu công sức chắt chiu để gìn giữ gia đình trở nên hoàn toàn vô nghĩa, nàng tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong trắng của mình, nàng “tắm gội chay sạch”, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rầy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng dám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin khắp mọi người phỉ nhổ”. Đây là đoạn truyện, trình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của Vũ Nương là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự sáng suốt của lí trí. Thật cảm động cho cách lựa chọn của nàng! Phải chăng đây là cách lựa chọn duy nhất mà số phận đã định cho con người có duyên phận hẩm hiu. Cũng thật tiếc cho nàng, khi nỗi oan của vợ được chồng hiểu rõ thì mọi việc đã qua rồi, mặc dù nàng đã được các nàng tiên cứu thoát, nhưng đành phải sống ở chốn “làn mây cung nước” và được chồng lập đàn giải oan. Hình ảnh Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa đứng ở giữa dòng lúc ẩn lại hiện mà nói vọng vào với Trương Sinh. “Thiếp cảm ơn đức Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng về nhân gian được nữa”. Cùng với hình ảnh “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến mất” là tất cả những nỗi xót xa cho số phận bi thảm của Vũ Nương mà tác giả cũng muốn đặt vào đó niềm hi vọng chân thành về khát vọng hạnh phúc và mong mỏi sự chiến thắng của cái thiện, của niềm tin.
Instruct CONTENT OF REFERENCE COMMENTARY Nguyen Du was an excellent student of Tuyet Giang's husband Nguyen Binh Khiem, who lived in the 16th century. He was one of the earliest writers interested in women's fate. In Legend of Man Luc, we see that the writer spent up to a third of the stories talking about the tragic fate of women and issues of family happiness. One of those people with a tragic fate is Vu Thi Thiet in The Story of a Nam Xuong Girl. The story is a prose narrative focusing on describing Vu Nuong's unhappy life and the social causes that created that unhappiness. She is a beautiful, charming, and modest woman. She has a sense of propriety in behaving, yielding, and maintaining discipline in her husband and wife's family life to avoid discord. Right from the first days of their love life, the contradiction between the two people's personalities was revealed. Truong Sinh's weaknesses are his jealousy, domineering and poor education, which are the seeds of tragedy that can occur when things go wrong. And that really happened to her family: Truong Sinh was uneducated, so he was called into the army by the royal court in the first wave, so their love affair was "stained with the color of quan san" (way of separation - separation). . In the moment of saying goodbye to her husband and sending him on his way, she told Mr. Truong very sincere and affectionate words: "On this trip, I don't dare to hope to wear the seal of a servant, wear a brocade shirt and return to my hometown. I only ask for a day." Bringing back two words of peace is enough." She is a smart person with a sensitive heart and has seen the difficulties in battle with the enemy and the Dynasty, worrying that appointments will be difficult to keep, and that "the melon season is too ripe." During the days away from her husband, she expressed her longing and longing: every time she saw butterflies flying around the garden, clouds covering the mountains, "sadness at the corners of the horizon" flooded her heart. She is indeed a very sensitive person to the beautiful scenes of nature: "Every scene brings sadness. People who are sad are never happy" (The Story of Kieu - Nguyen Du). The natural scenery has a strong impact on her longing and loneliness. She was always faithful and eagerly waited for her husband. At night, she pointed at her shadow on the wall and joked with her child, "Dad Dan is home." This is a way to comfort your child and ease your own nostalgia. She is not only a faithful wife to her husband, but also a filial daughter-in-law and extremely responsible and resourceful in all family matters. She had to work hard to raise her children and take care of her sick mother-in-law. All those hardships did not reduce her modesty and modesty at all. She devotedly took care of her mother: taking the best of medicine and worshiping the gods and Buddha; She also loves her mother deeply; taking sweet words of advice, the last words of her mother-in-law. "Short and long, there are oysters, fresh and withered in the sky, that green will definitely betray the child, just like the child has not failed the mother." And the author's comment: "She was full of compassion, took care of all the funerals and ceremonies as if she were her own parents." All of them showed appreciation for Vu Nuong's personality. But in the old society, people with personalities like Vu Nuong could not have a happy life. She suffered a tragic fate. The feudal war did not take away the family's peaceful life, but they had to endure separation. She longed for her husband, hoping to one day reunite. But unexpectedly, the day her husband returned was right after the war ended. She thought happiness was within her reach. Who would have thought that the suspicious and incompetent guy would blindly listen to the child's words from a joke she made while missing her husband so that she would be falsely accused by her husband of being spoiled. Family tragedy occurs. She tried every way to explain: "I am still a poor person, I am dependent on a rich family, we are not yet sexually satisfied with each other, we are separated because of military affairs, we are separated for three years and only keep one period. Wearing lipstick and makeup has once calmed my heart, but I'm afraid that flowers have never bloomed. It's not like he's lost his character like he said. This hair is to remove doubts. I hope you don't always doubt me." But Mr. Truong did not believe her, so she was still "scolded and chased away". She was completely disappointed, the simple happiness, the joy of "getting married to the family" was no longer possible, even the pain of love "turning to stone and hoping for a husband" she no longer had, her honor was defamed. All her hard work to preserve her family became completely meaningless, she sought death on the Hoang Giang wharf to confess her pure heart, she "bathed clean", went to the Hoang Giang wharf with her head turned upside down. He raised his face to the sky and lamented: "This unfortunate person has a miserable fate, his husband and children have abandoned him, everything is forced, his name is tainted, the river god has a spirit, please testify. If you are decent and keep your chastity, be chaste and keep your heart, if you enter the country, please become Ngoc Mi Nuong, if you enter the land, please become Ngu My. I am willing to be a bird and a fish, deceiving my husband and cheating on my children. Below I ask to be bait for fish and shrimp, above I ask to be food for kites and crows, and I ask everyone to spit on me." This is the story, the plot is arranged in a dramatic way, Vu Nuong is pushed to the end, she has lost everything, and has to accept her fate after all unsuccessful efforts. Vu Nuong's act of self-immolation was a final, drastic act to preserve her honor. There was bitter despair, but also the clarity of reason. So touched by her choice! Is this the only choice that fate has decided for people with unfortunate fates? It's a pity for her, when her husband understood her wife's injustice, everything was over. Even though she was saved by the fairies, she had to live in the "water palace" and was established by her husband. exculpate. The image of Vu Nuong sitting on a flower palanquin standing in the middle of the stream suddenly appeared and spoke to Truong Sinh. “I thank Linh Phi, I have sworn that I will not give up. Thank you for your love, I can't return to this human world anymore." Along with the image of "her shining shadow gradually fading and disappearing" is all the sadness for Vu Nuong's tragic fate, in which the author also wants to place sincere hope for happiness and desire. yearning for the victory of goodness and faith.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi chữ Hán viết theo thể chương hồi như Tam quốc chí diễn nghĩa của Trung Quốc. Tác phẩm tái hiện chân thực bối cảnh lịch sử đầy biến động ở nước ta trong khoảng hơn ba thập kỉ cuối của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Hồi thứ mười bốn của tác phẩm ghi lại sự kiện Tôn Sĩ Nghị vào nước ta để thực hiện ý đồ xâm lược và sự thất bại thảm hại của chúng cùng bè lũ bán nước, hại dân Lê Chiêu Thống, đồng thời ca ngợi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã làm nên chiến thắng lẫy lừng Đống Đa lịch sử. Để khắc họa hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ, các tác giả Ngô gia văn phái khi thì dùng bút pháp trực tiếp, khi thì dùng bút pháp gián tiếp để góp phần vào việc phản ánh nhân vật mang tính trung thực và có giá trị thuyết phục cao. Tác giả đã mượn lời người cung nhân nói với thái hậu về Nguyễn Huệ: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện hùng mạnh và có tài dùng quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thế lường biết, hắn bắt Lưu Chinh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét… thì địch làm sao nổi”. Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, quyết đoán; là một nhà mưu lược, một nhà quân sự thiên tài. Ông đã quyết đoán trước những biến cố lớn mà không tỏ ra một chút nao núng. Khi nghe Vân Tuyết cấp báo về sự kiện Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm “liền họp các tướng sĩ, đích thân chinh cầm quân đi ngay”. Trước khi tiến quân ra Bắc rộng! Khi tiến quân đánh đuổi quân Thanh ông đã nghĩ đến kế sách lâu dài là dùng người “khéo lời lẽ” để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng. Người đó chính là Ngô Thì Nhậm. Và cũng ngay lúc này, ông đã có kế hoạch cho mười năm trong hòa bình. Ông quả là một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao đại tài – một con người có tầm nhìn xa trông rộng. Đoạn trích không chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, mà còn kết hợp việc kể với việc miêu tả cái không khí đẫ xảy ra sự việc ấy một cách cụ thể, sinh động bảo đảm tính khách quan, bởi lẽ các tác giả đã tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc đã khiến ngòi bút cũa họ không bị bóp méo và đã vượt lên trên thành kiến chính trị của mình (họ là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng nhà Lê) để thể hiện một cách khách quan về hình ảnh Quang Trung là một vị anh hùng dân tộc tuyệt đẹp. Hơn nữa, họ cũng không thể nào đứng về phía ông vua hèn yếu đã cõng rắn cắn gà nhà một cách nhục nhã như Lê Chiêu Thống. Đối lập với hình ảnh người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ là sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi thảm của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu Thống. Núp dưới danh nghĩa giúp Lê Chiêu Thống để khôi phục Triều Lê, Tôn Sĩ Nghị đem đại binh vượt qua cửa ải, xuyên rừng tiến thẳng vào Thăng Long mà không gặp một sự kháng cự nào. Trong hồi này, tác giả Ngô gia văn phái cho ta thấy hai tính cách đối lập của đạo quân xâm lược nhà Thanh. Ở giai đoạn dầu, khi Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long một cách dễ dàng, khiến chúng càng kiêu căng, buông tuồng, tự hào, chủ quan. Tướng tá thì “ngày càng chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân”, quân lính thì vô kỉ luật tự do hành động, đi lại tùy hứng. Chúng còn huênh hoang khoác lác tuyên bố sẽ kéo quân vào tận sào huyệt của Tây Sơn bắt sống quân tướng Nguyễn Huệ. Điều mà làm cho chúng có thái độ chủ quan như vậy còn là ở chỗ chúng vẫn tin vào lời bịa đặt của Lê Quýnh ở bên ấy mà không hiểu rõ được tình hình ở nước ta như lời người cung nhân đã trình bày với Thái hậu. Chính vì vậy, khi quân Tây Sơn tiến đánh quân tướng nhà Thanh không kịp trở tay nên thất bại thảm hại. Ngay cuộc chạm trán đầu tiên với quân Tây Sơn ở sông Gián, sông Thanh Quyết, bọn chúng bị mất vía bỏ chạy, nhưng cuối cùng chúng vẫn bị quân Tây Sơn đuổi theo, bắt sống hết. Ở trận Hạ Hồi quân ta bao vây thắt chặt dần, khiến quân Thanh “rụng rời sợ hãi, liền xin hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”. Ở trận Ngọc Hồi quân Thanh thất trận tan hoang trước khí thế tấn công như vũ bão của quân ta, chúng “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết” còn “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu chạy, lấn nhảy qua cầu rơi xuống nước chết đuối. Sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được”. Cùng với sự thất bại thảm hại của bọn xâm lược nhà Thanh là số phận bi thảm của bọn vua quan phản nước hại dân Lê Chiêu Thống. Bọn chúng đã cố tình “rước voi về giày mã tổ”. Họ quá tin vào lời hứa tốt đẹp của Nghị, thậm chí chúng không có được cái nhìn nhận tình hình toàn cục, sâu sắc như người “cung nhân cũ” từ phủ Trường Yên ra. Đoạn trích đã ghi lại thái độ thụ động, hèn mạt của vua Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh chỉ là một kẻ đê hèn, ngày ngày sang chầu chực ở dinh quân giặc Nghị mắng nhiếc hết sức thậm tệ. Đến khi quân tướng nhà Thanh tháo chạy trước những đòn tấn công của quân Tây Sơn, Lê Chiêu Thống cùng bè lũ bán nước chống chạy lên phía Bắc nhằm theo gót bọn giặc để hòng xin sự che chở. Trong cuộc “hội ngộ” của Lê Chiêu Thống và Tôn Sĩ Nghị ở ải phía Bắc càng thể hiện rõ sự thảm hại của thầy lẫn tớ. Trong lời từ biệt giữa chủ và tớ đặc biệt sĩ diện hão. Đối với Thống “…Kính chúc tướng quân về triều được hai chữ “vạn phúc”, còn riêng mình thì “ở lại đất nước, thu nhặt dân binh, để tính việc nối lên chuyến khác”. Nếu sự thế không xong, lại xin sang hầu tướng quân, như thế cho tiện”. Còn Nghị thì “Nguyễn Huệ Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi”. Hành động của Lê Chiêu Thống và những người trung với ông ta là hành động của những con người đã khước từ nguyện vọng độc lập của dân tộc đế gắn vận mệnh của mình với kẻ xâm lược, và đả phải chịu số phận bi thảm của chúng. Và cũng thật đau buồn, nhục nhã hơn, khi Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống như Mãn Thanh và cuối cùng gữi nắm xương tàn nơi đất khách quê người. Bằng lối kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động, cụ thể, đoạn văn không chỉ thể hiện một cách khách quan về sự việc đã xảy ra mà còn bộc lộ thái độ khinh bỉ sâu sắc đối với bọn xâm lược và bè lũ bán nước hại dân,
Instruct CONTENT OF THE REFERENCE COMMENTARY TEXT Hoang Le Nhat Thong Chi is a Chinese prose work written in chapter form like the Romance of the Three Kingdoms of China. The work realistically recreates the turbulent historical context in our country during the last three decades of the 18th century and the first few years of the 19th century. The fourteenth chapter of the work records the event of Ton Si Nghi entering our country to carry out the invasion plan and the tragic failure of them and their gang of betraying the country and harming the people of Le Chieu Thong, at the same time praising his brother. National hero Nguyen Hue achieved the famous historical victory of Dong Da. To portray the image of national hero Quang Trung - Nguyen Hue, Ngo Gia Van sect authors sometimes use direct writing style, sometimes use indirect writing style to contribute to reflecting the neutral character. real and has high persuasive value. The author borrowed the palace man's words to tell the queen mother about Nguyen Hue: "Nguyen Hue is a strong, experienced hero and talented in using troops. Watching him go from North to South, he appeared like a ghost, no one could predict, he captured Luu Chinh like a child, killed Van Nham like a pig, no one dared to look him in the face. Seeing him point his hand and look at him, everyone was lost and confused, more afraid than afraid of thunder... how could the enemy compete? From beginning to end of the excerpt, Nguyen Hue is always a person who acts aggressively, quickly, and decisively; is a strategist and a military genius. He was decisive in the face of major events without showing any signs of wavering. When hearing Van Tuyet's emergency report about the event of Ton Si Nghi pulling a large army into Thang Long, Nguyen Hue was very angry, "he immediately gathered the generals and soldiers and personally led the army immediately". Before marching to the North! When marching to expel the Qing army, he thought of a long-term strategy of using people who were "smart with words" to be able to put an end to "military affairs" and "give us peace to nurture our forces." That person is Ngo Thi Nham. And right now, he had a plan for ten years of peace. He is truly a politician, a military man, a talented diplomat - a man with far-sighted vision. The excerpt not only records what happened, but also combines the telling with a description of the atmosphere in which the event occurred in a specific, vivid way to ensure objectivity, because the authors have Respecting historical truth and national consciousness has kept their writing from being distorted and overcoming their political prejudices (they are former gods, deeply indebted to the Le Dynasty) to express objectively about the image of Quang Trung as a beautiful national hero. Furthermore, they could not stand on the side of the weak king who shamelessly carried a snake and bit a chicken like Le Chieu Thong. Contrasting with the image of the hero Quang Trung - Nguyen Hue is the tragic defeat of the Qing dynasty's generals and the tragic fate of the kings and servants who betrayed the country and harmed the people of Le Chieu Thong. Under the guise of helping Le Chieu Thong to restore the Le Dynasty, Ton Si Nghi brought a large army across the gate, through the forest and straight into Thang Long without encountering any resistance. In this episode, author Ngo Gia Van Phai shows us the two opposing personalities of the invading Qing army. In the early stages, when Ton Si Nghi easily occupied Thang Long, it made them even more arrogant, indulgent, proud, and subjective. Generals and colonels were "increasingly playing around, partying, not paying any attention to military affairs", and soldiers were undisciplined and free to act and move around at will. They also boasted and announced that they would drag troops into Tay Son's lair to capture General Nguyen Hue alive. What makes them have such a subjective attitude is that they still believe in Le Quynh's fabrications over there without clearly understanding the situation in our country as the palace servant presented to the Queen Mother. . That's why, when the Tay Son army attacked the Qing generals, they couldn't react in time and failed miserably. At the first encounter with the Tay Son army at Gian River and Thanh Quyet River, they lost their nerve and ran away, but in the end they were still chased by the Tay Son army and captured alive. In the battle of Ha Hoi, our army gradually tightened the siege, causing the Qing army to "become scared, immediately asked for surrender, food and weapons were all taken by the Southern army". At the Ngoc Hoi battle, the Qing army lost and was devastated by our army's stormy attack. They "ran away in disarray, trampled on each other and died. The name of Dien Chau's governor, Sam Nghi Dong, hanged himself to death" and "Sun Si Nghi was afraid of losing his nerve, his horse did not have time to saddle up, he did not have time to put on armor, so he led his cavalry soldiers to flee first across the bridge, encroaching Jumped over the bridge and fell into the water and drowned. The Nhi Ha River is therefore blocked and cannot flow." Along with the tragic defeat of the Qing invaders was the tragic fate of the treasonous kings and officials who harmed the people of Le Chieu Thong. They deliberately "brought the elephant back to the horse's shoes". They believed so much in Nghi's good promises that they did not even have the insight and insight into the overall situation like the "old palace man" from Truong Yen palace. The excerpt records the passive and despicable attitude of King Le Chieu Thong. Le Quynh was just a despicable person who stayed at the Nghi enemy's palace every day to scold him very harshly. When the Qing Dynasty generals fled before the attacks of the Tay Son army, Le Chieu Thong and his traitorous gang fled to the North to follow the enemy to seek protection. In the "reunion" of Le Chieu Thong and Ton Si Nghi in the Northern Pass, the patheticness of teacher and servant was even more evident. In the farewell between master and servant, pride is especially evident. For Thong, "...I wish the general to return to the court with two words of happiness", but for me, I "stay in the country, gather militia, to consider connecting to another trip". If things don't work out, please come and see the general, it's convenient." As for Nghi, "Nguyen Hue Quang Trung has not been eliminated, this matter is not over yet." The actions of Le Chieu Thong and those loyal to him were the actions of people who rejected the nation's aspirations for independence to tie their destiny to that of the invaders, and suffered the tragic fate of the invaders. they. And even more sad and humiliating, when Le Chieu Thong fled to China, he had to shave his head, braid his hair, dress like a Manchu Qing and finally leave his bones in a foreign land. By alternating storytelling with vivid, specific descriptions, the passage not only objectively shows what happened but also reveals a deep disdain for the invaders and their gang. selling the country to harm the people,
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Trong khoảng đời lưu lạc của Kiều, Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng thông cảm, chia sẻ với nàng. Ngay từ đoạn đầu đời của bước đường lưu lạc “trước lầu Ngưng Bích”, nàng phải đối diện với chính mình trong nỗi đau bi kịch. Bi kịch nội tâm của phép tả cảnh ngụ tình. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một thành tựu đặc sắc của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Thúy Kiều thông minh, nhạy cảm, tài sắc, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rũ màn che”. Nhưng bất ngờ tai vạ lại ập đến với gia đình nàng. Nàng buộc phải bán mình chuộc cha, trao cả cuộc đời cho Mã Giám Sinh lưu manh, và rồi lại rơi vào chốn lầu xanh của Mụ Tú, cái lầu Ngưng Bích mà mụ dành cho Kiều ở thật ra là cái cạm bẫy để rồi đưa nàng vào cuộc đời của một cô gái lầu xanh. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích là dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp sửa phải gánh chịu. Đoạn thơ trích là một bức tranh buồn, một nỗi buồn xót xa của thân gái dặm trường phải đối với bao nghiệt ngã ở chính mình – một nỗi buồn xa xót, thê lương, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người; một nồi buồn của con người hoàn toàn cô đơn giữa khung cảnh thiên nhiên vắng lặng. Mở đầu đoạn thơ là khung cảnh bi kịch nội tâm Thúy Kiều: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Chỉ vài nét chấm phá của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã gợi lên một tâm trạng cô đơn, trơ trọi của Thúy Kiều trước không gian mênh mông vắng lặng. Từ lầu cao ngước mắt xa trông, nàng chỉ thấy trong tầm mắt dáng núi mờ xa và một mảnh trăng gần. Bức tranh thiên nhiên thì đẹp, nhưng lòng người thì buồn, nên cảnh cùng đeo sầu. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhìn xuống mặt đất thì cảnh vật bốn về xa trông bát ngát, bên thì “cát vàng cồn nọ” nhấp nhô, lượn sóng, bên thì “bụi hồng dặm kia” thưa thớt thoáng hiện dưới ánh trăng vàng. Bức tranh thiên nhiên dù nên thơ, thoáng đãng, nhưng lại rất tĩnh – cái tình lặng gần như tuyệt đối ấy, cái mênh mông vắng lặng ấy lại càng khắc sâu thêm nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của nàng. Để rồi nỗi cô đơn ấy lại càng đấy lên đến mức tuyệt đối: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Hình ánh “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian và không gian hãm con người nơi đất lạ, miền xa. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya” để mà tự thổn thức, tự hoài niệm. Thật oái oăm cho cảnh, “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Một nửa là tâm sự của Thúy Kiều và nửa kia là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích. Hai nỗi ấy đan xen vào nhau, làm choáng ngợp lòng Kiều, khiến Kiều đau đớn bơn, tan tác hơn. Nàng đắm chìm trong nỗi buồn cô đơn, tuyệt vọng. Trong nỗi buồn cô quạnh đó, hình ảnh người thân lại hiện về. Nàng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được Nguyễn Du miêu tá thật xúc động và sâu sắc trong lời độc thoại nội tâm. Nàng tưởng nhớ đến Kim Trọng, nhớ về mối tình trong sáng, đẹp đẽ. Hình ảnh ánh trăng gợi nhớ lại một đêm trăng mới ngày nào họ cùng nhau thề nguyền kết tóc xe tơ, nàng thương Kim Trọng vẫn tháng ngày mong chờ, không biết nàng ở tận góc bể chân trời nào: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương xuống những rày trông mai chờ. Hai câu thơ là lời độc thoại, nội tâm của trái tim yêu thương. Và giờ đây, nàng càng đau đớn xót xa hơn: Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Trong tình yêu, không biết bao giờ nàng mới thôi nhớ Kim Trọng. Chắc mải mãi là không bao giờ phai nhạt được. Lòng Kiều là một “tấm son” một tấm lòng son sắt thủy chung với Kim Trọng. Về sau, trong suốt mười lăm năm lưu lạc, hình bóng Kim Trọng lúc nào cũng khắc sâu trong tâm trí của Kiều. Câu thơ “tấm son gột rửa bao giờ cho phai” cũng có thể hiếu theo cách khác. Tấm lòng son của Kiều bị vùi dập hoen ố, biết bao giờ gột rửa được. Dù là hiểu câu thơ theo cách nào đi nữa, thì ta vẫn thấy nỗi trăn trở của Kiều là nỗi đau về mối tình tan vỡ, một nỗi đau về thân phận, về cuộc đời mà nàng đã phải chấp nhận. Cánh ngộ của Kiều lại càng éo le hơn, khi nghi về cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm nay, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc từ đã vừa người ôm. Kiêu “xót” vì hình dung cha mẹ vẫn sớm hôm tựa cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi về nổi không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng cha mẹ đang ngày một già nua đau yếu. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau, còn là sự thế hiện một cách tinh tế của Nguyễn Du trong việc khắc họa một cách khách quan tâm trạng của Thúy Kiều. Là người đặc biệt biêu thảo như Kiều, Nguyễn Du đã thấy và thông cảm với những đổ vở, tan nát của một mối tình mà trái tim Kiều lúc nào cũng như chảy máu vì đau thương và hối hận. Chính vì vậy mà khi viết về tâm trạng của Thúy Kiều, ông đã đặt tình trước hiếu, đảo ngược trật tự đạo lí phong kiến, để Kiều nhớ đến người yêu trước. Mặt khác, đối với cha mẹ, Kiều đã bán mình chuộc cha, ơn sinh thành đã có phần đền đáp. Còn đối với người yêu, Kiều vẫn coi mình là người có tội bạc tình. Trong tâm trạng như vậy, khi một mình một bóng, Nguyễn Du đã để Kiều trước hết nghĩ tới người yêu thì thật là một nhà thơ tâm lí bậc thầy khó lần với bất cứ ai. Trong tâm trạng ngổn ngang những nỗi đau dằn xé của nàng, nàng ngoảnh mặt trông bốn phương trời, đâu đâu cũng thấy buồn. Bốn cặp câu cuối đoạn là bốn bức tranh mà Kiều nhìn đến được Nguyễn Du miêu tả bằng điệp khúc “buồn trông”. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, trong đó khung cảnh thiên nhiên luôn là khung cảnh tâm trạng, biểu đạt hoạt động nội tâm của Thúy Kiều. Cảnh thứ nhất là cảnh chiều hôm trên cửa biển với cánh buồm thấp thoáng khi tỏ khi mờ: Buồn trông cửa hể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồm xa xa. Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa trong buổi chiều tà gợi lên ở nàng một nỗi buồn day dứt về quê nhà xa cách, về thân phận lẻ loi, cô đơn, hiu hắt đến khốn cùng! Bức tranh thứ hai hiện ra trước mắt là hình ảnh: Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu. Một cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông đủ để chiếm thực tại ở nàng. Hình ảnh “hoa trôi” gợi lên nỗi buồn về thân phận lênh đênh, vô định của nàng. Nàng thực sự cảm nhận được số phận trôi nổi về sau của mình. Càng buồn, cảnh vật càng thấm nỗi đau và gần như càng xa lạ đối với nàng: Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Hình ảnh “nội cỏ dầu dầu” giữa “chân mây mặt đất” trong cái màu xanh xanh, mùa xa tít tắp ấy, là một nỗi bi thương vô vọng, kéo dài không biết đến tự bao giờ! Lòng Kiều buồn, nỗi buồn tràn ngập cả bốn phương trời như bao phủ lấy nàng, ôm chặt nàng, lòng nàng cảm thấy cô đơn hơn, hãi hùng hơn. Nhưng có lẽ điều đã làm nàng khiếp sợ nhất là tiếng sóng: Buồn trông gió cuốn mặt dềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tiếng sóng âm vang vây chặt lấy Kiều, ầm vang trong lòng Kiều. Tiếng sóng gào thét giận dữ như báo hiệu bão tố đang rình rập như chụp xuống đời nàng. Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Với những nét phác họa có chọn lọc về cảnh vật thiên nhiên, về ngôn ngữ độc thoại và hề thống ngôn ngữ dân tộc là chủ yếu, Nguyễn Du đã miêu tả những diễn biến tâm trạng nhân vật một cách sinh động, tạo được ấn tượng mạnh mẻ đối với người đọc.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Trong khoảng đời lưu lạc của Kiều, Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng thông cảm, chia sẻ với nàng. Ngay từ đoạn đầu đời của bước đường lưu lạc “trước lầu Ngưng Bích”, nàng phải đối diện với chính mình trong nỗi đau bi kịch. Bi kịch nội tâm của phép tả cảnh ngụ tình. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một thành tựu đặc sắc của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Thúy Kiều thông minh, nhạy cảm, tài sắc, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rũ màn che”. Nhưng bất ngờ tai vạ lại ập đến với gia đình nàng. Nàng buộc phải bán mình chuộc cha, trao cả cuộc đời cho Mã Giám Sinh lưu manh, và rồi lại rơi vào chốn lầu xanh của Mụ Tú, cái lầu Ngưng Bích mà mụ dành cho Kiều ở thật ra là cái cạm bẫy để rồi đưa nàng vào cuộc đời của một cô gái lầu xanh. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích là dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp sửa phải gánh chịu. Đoạn thơ trích là một bức tranh buồn, một nỗi buồn xót xa của thân gái dặm trường phải đối với bao nghiệt ngã ở chính mình – một nỗi buồn xa xót, thê lương, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người; một nồi buồn của con người hoàn toàn cô đơn giữa khung cảnh thiên nhiên vắng lặng. Mở đầu đoạn thơ là khung cảnh bi kịch nội tâm Thúy Kiều: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Chỉ vài nét chấm phá của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã gợi lên một tâm trạng cô đơn, trơ trọi của Thúy Kiều trước không gian mênh mông vắng lặng. Từ lầu cao ngước mắt xa trông, nàng chỉ thấy trong tầm mắt dáng núi mờ xa và một mảnh trăng gần. Bức tranh thiên nhiên thì đẹp, nhưng lòng người thì buồn, nên cảnh cùng đeo sầu. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhìn xuống mặt đất thì cảnh vật bốn về xa trông bát ngát, bên thì “cát vàng cồn nọ” nhấp nhô, lượn sóng, bên thì “bụi hồng dặm kia” thưa thớt thoáng hiện dưới ánh trăng vàng. Bức tranh thiên nhiên dù nên thơ, thoáng đãng, nhưng lại rất tĩnh – cái tình lặng gần như tuyệt đối ấy, cái mênh mông vắng lặng ấy lại càng khắc sâu thêm nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của nàng. Để rồi nỗi cô đơn ấy lại càng đấy lên đến mức tuyệt đối: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Hình ánh “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian và không gian hãm con người nơi đất lạ, miền xa. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya” để mà tự thổn thức, tự hoài niệm. Thật oái oăm cho cảnh, “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Một nửa là tâm sự của Thúy Kiều và nửa kia là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích. Hai nỗi ấy đan xen vào nhau, làm choáng ngợp lòng Kiều, khiến Kiều đau đớn bơn, tan tác hơn. Nàng đắm chìm trong nỗi buồn cô đơn, tuyệt vọng. Trong nỗi buồn cô quạnh đó, hình ảnh người thân lại hiện về. Nàng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được Nguyễn Du miêu tá thật xúc động và sâu sắc trong lời độc thoại nội tâm. Nàng tưởng nhớ đến Kim Trọng, nhớ về mối tình trong sáng, đẹp đẽ. Hình ảnh ánh trăng gợi nhớ lại một đêm trăng mới ngày nào họ cùng nhau thề nguyền kết tóc xe tơ, nàng thương Kim Trọng vẫn tháng ngày mong chờ, không biết nàng ở tận góc bể chân trời nào: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương xuống những rày trông mai chờ. Hai câu thơ là lời độc thoại, nội tâm của trái tim yêu thương. Và giờ đây, nàng càng đau đớn xót xa hơn: Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Trong tình yêu, không biết bao giờ nàng mới thôi nhớ Kim Trọng. Chắc mải mãi là không bao giờ phai nhạt được. Lòng Kiều là một “tấm son” một tấm lòng son sắt thủy chung với Kim Trọng. Về sau, trong suốt mười lăm năm lưu lạc, hình bóng Kim Trọng lúc nào cũng khắc sâu trong tâm trí của Kiều. Câu thơ “tấm son gột rửa bao giờ cho phai” cũng có thể hiếu theo cách khác. Tấm lòng son của Kiều bị vùi dập hoen ố, biết bao giờ gột rửa được. Dù là hiểu câu thơ theo cách nào đi nữa, thì ta vẫn thấy nỗi trăn trở của Kiều là nỗi đau về mối tình tan vỡ, một nỗi đau về thân phận, về cuộc đời mà nàng đã phải chấp nhận. Cánh ngộ của Kiều lại càng éo le hơn, khi nghi về cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm nay, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc từ đã vừa người ôm. Kiêu “xót” vì hình dung cha mẹ vẫn sớm hôm tựa cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi về nổi không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng cha mẹ đang ngày một già nua đau yếu. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau, còn là sự thế hiện một cách tinh tế của Nguyễn Du trong việc khắc họa một cách khách quan tâm trạng của Thúy Kiều. Là người đặc biệt biêu thảo như Kiều, Nguyễn Du đã thấy và thông cảm với những đổ vở, tan nát của một mối tình mà trái tim Kiều lúc nào cũng như chảy máu vì đau thương và hối hận. Chính vì vậy mà khi viết về tâm trạng của Thúy Kiều, ông đã đặt tình trước hiếu, đảo ngược trật tự đạo lí phong kiến, để Kiều nhớ đến người yêu trước. Mặt khác, đối với cha mẹ, Kiều đã bán mình chuộc cha, ơn sinh thành đã có phần đền đáp. Còn đối với người yêu, Kiều vẫn coi mình là người có tội bạc tình. Trong tâm trạng như vậy, khi một mình một bóng, Nguyễn Du đã để Kiều trước hết nghĩ tới người yêu thì thật là một nhà thơ tâm lí bậc thầy khó lần với bất cứ ai. Trong tâm trạng ngổn ngang những nỗi đau dằn xé của nàng, nàng ngoảnh mặt trông bốn phương trời, đâu đâu cũng thấy buồn. Bốn cặp câu cuối đoạn là bốn bức tranh mà Kiều nhìn đến được Nguyễn Du miêu tả bằng điệp khúc “buồn trông”. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, trong đó khung cảnh thiên nhiên luôn là khung cảnh tâm trạng, biểu đạt hoạt động nội tâm của Thúy Kiều. Cảnh thứ nhất là cảnh chiều hôm trên cửa biển với cánh buồm thấp thoáng khi tỏ khi mờ: Buồn trông cửa hể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồm xa xa. Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa trong buổi chiều tà gợi lên ở nàng một nỗi buồn day dứt về quê nhà xa cách, về thân phận lẻ loi, cô đơn, hiu hắt đến khốn cùng! Bức tranh thứ hai hiện ra trước mắt là hình ảnh: Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu. Một cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông đủ để chiếm thực tại ở nàng. Hình ảnh “hoa trôi” gợi lên nỗi buồn về thân phận lênh đênh, vô định của nàng. Nàng thực sự cảm nhận được số phận trôi nổi về sau của mình. Càng buồn, cảnh vật càng thấm nỗi đau và gần như càng xa lạ đối với nàng: Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Hình ảnh “nội cỏ dầu dầu” giữa “chân mây mặt đất” trong cái màu xanh xanh, mùa xa tít tắp ấy, là một nỗi bi thương vô vọng, kéo dài không biết đến tự bao giờ! Lòng Kiều buồn, nỗi buồn tràn ngập cả bốn phương trời như bao phủ lấy nàng, ôm chặt nàng, lòng nàng cảm thấy cô đơn hơn, hãi hùng hơn. Nhưng có lẽ điều đã làm nàng khiếp sợ nhất là tiếng sóng: Buồn trông gió cuốn mặt dềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tiếng sóng âm vang vây chặt lấy Kiều, ầm vang trong lòng Kiều. Tiếng sóng gào thét giận dữ như báo hiệu bão tố đang rình rập như chụp xuống đời nàng. Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Với những nét phác họa có chọn lọc về cảnh vật thiên nhiên, về ngôn ngữ độc thoại và hề thống ngôn ngữ dân tộc là chủ yếu, Nguyễn Du đã miêu tả những diễn biến tâm trạng nhân vật một cách sinh động, tạo được ấn tượng mạnh mẻ đối với người đọc.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Mã Giám Sinh mua Kiều là một trong những đoạn truyện có giá trị hiện thực tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiêu. Qua đó, Nguyễn Du đã dựng lên một cảnh mua bán như một màn kịch sống động nhằm lột trần bản chất con buôn ghê tởm họ Mã. Đồng thời thể hiện nỗi đau đớn, tủi nhục, ê chề mở đầu cho đoạn đầu mười lăm năm đầy cay đắng của nàng Kiều. Đoạn trích kể chuyện Thúy Kiều gặp cơn gia biến, cha và em bị bắt bớ, hành hạ. Muốn giải thoát cho cha và em, cần phải có tiền, Thúy Kiều đã tự nguyện bán mình chuộc cha. Không may người đến mua nàng là một kẻ “buôn thịt bán người” Mà Giám Sinh. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Mã Giám Sinh trong màn kịch này đã đóng vai là học trò ở trường Quốc Tử Giám họ Mã đến nhà Thúy Kiều để làm lễ “vấn danh”. Gã học trò giả danh này được một “mụ nào” dẫn tới và giới thiệu là “vẫn khách”. Hắn ăn mạc thật sang trọng có cả đoàn tùy tùng “trước thầy sau tớ xôn xao” và được “rước vào lầu trang” một cách trịnh trọng. Nhưng thực ra hắn chí là một gã lưu manh không rõ quê quán mà tên họ thì rất vu vơ: Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh, Hỏi quê rằng: huyện Lâm Thanh cũng gần Anh chàng họ Mã này không có cái tên cụ thể, đích thực. Hắn chi xưng là “Giám Sinh” và cố giấu tông tích của mình. Trước thì giới thiệu là “vãn khách”, nhưng khi đi vào lễ “vấn danh” thì hắn nói là ở “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Thực ra hắn ở huyện Lâm Tri chứ đâu ở Lâm Thanh. Hắn là bát nháo hết chỗ nói. Cái cốt cách hợm hĩnh, vô học của hắn còn thể hiện trong cách trả lời cộc lốc, nhát gừng, câu không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi gì cả. Với cách giới thiệu nhân vật họ Mã, Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ khinh bi, căm ghét cái bản chất ghê tởm của gã đàn ông quá lứa mà còn làm dáng điệu trai tơ này. Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Hình anh “mày râu nhắn nhụi” gợi lên sự thiếu tự nhiên, trơ lì, bất cần nhân tính. “Áo quần bảnh bao” là áo quần trưng diện theo kiểu trẻ em. Ngòi bút của Nguyễn Du đã khắc họa một cách sinh động chân dung của bọn người xấu xí, đáng ghê tởm này. Bản chất của hắn tiếp tục lộ rõ qua cử chỉ dáng điệu: Trước thầy sau tớ xôn xao Nhà bồng đưa mối rước vào lầu trang Ghế trên ngồi tót sỗ sàng Thật là một cảnh nhốn nháo hết chỗ nói, đặc biệt là hành động ngồi “tót” cứa hắn. Dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du đã phơi bày chân tướng họ Mã, đích thực là kẻ vô học, thiếu văn hóa. Có thể nói rằng, Nguyễn Du là bậc thầy trong bút pháp tả thực bằng các phương tiện ngôn ngữ dân gian mang ý nghĩa châm biếm sắc lạnh như “xôn xao”, “sỗ sàng”, “ngồi tót”. Nguyễn Du đã lột tẩy bản chất lưu manh của tay họ Mã bằng từ “tót” như ông đã lật tẩy tên sở Khanh bằng từ “len” và Hồ Tôn Hiến bằng từ “ngây” trong kiệt tác Truyện Kiều. Để thấy rõ nguyên hình ảnh con buôn người họ Mã, Nguyễn Du tiếp tục khắc họa sâu thêm khi hắn tận mắt quan sát và tiếp cận với Kiều: Đắn đo cùn sắc, cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Đôi với hắn dường như không có khoảng trống của tình cảm con người, không có trái tim yêu thương. Trong con mắt hắn, Thúy Kiều vốn “cân sắc cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng hệt như người ta mua bán một món hàng ngoài chợ. Và khi đã hoàn toàn vừa ý rồi thì hắn vẫn giữ thái độ “tùy cơ dặt dìu” khi mặc cả thật là một tên cáo già hết chỗ nói. Để che đậy bản chất con buôn ghê tởm, hắn đã buông ra những lời lẽ mĩ miều, sang trọng: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường! Lời lẽ càng hay càng chứa đựng nhiều điều giả dối, bỉ ổi. Và cuối cùng chân tướng của hắn vẫn cứ lộ ra một cách trắng trợn. Cò kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Hai chữ “cò kè” đã bóc trần bản chất nhỏ nhen, bủn xỉn của kẻ từng trái trong việc mua bán, mà ở đây là chuyện buôn bán người thì thật là ghê tởm, đáng sợ. Hắn là tiêu biểu cho thế lực tàn ác, nhơ bẩn nhất trong thời đại của Nguyễn Du. Thời đại mà thế lực đồng tiền chi phối số phận “con người như một quy luật nghiệt ngã của định mệnh”. Chỉ cần có tiền là có tất cả: “tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Nguyễn Du đã đưa lên sân khấu một bộ mặt giả đời, lọc lõi, vô học, hợm hĩnh, lạnh lùng, vô cảm và xấu xa đê tiện. Nhưng chỉ với túi tiền, nhân vật đáng ghê tởm ấy đã mua ngay được Kiều xinh đẹp, tài hoa, trong trắng, đẩy nàng vào thanh lâu” (theo giáo sư Đặng Thanh Lê – Giảng văn Truyện Kiều). Hình ảnh nhân vật phản diện Mã Giám Sinh được miêu ta bằng nét bút hiện thực, hoàn chỉnh cả về diện mạo và tính cách. Bức chân dung nhân vật có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án thực trạng xấu xa của xã hội đương thời, con người bị biến thành hàng hóa, đồng tiền và những thế lực tàn bạo chà dạp lên tất cả. Đối lập với bộ mặt và đê tiện của Mã Giám Sinh là hình ảnh đau thương, tủi hổ của nàng Kiều. Nàng đau xót, tủi nhục, vì nàng đang là một tiểu thư khuê các, sống trong cảnh “êm đềm trướng rũ màn che” và đang hạnh phúc trong mối tình đầu với Kim Trọng. Nhưng rồi tai vạ ập đến bất ngờ, nàng trở thành món hàng đem ra mặc cả, hết “vén tóc, bắt tay”, lại “cân sắc cân tài”, có khi bị “ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”. Là người thông minh, nhạy cảm, Kiều cảm nhận được cảnh ngộ éo le, tủi nhục và đau đớn ê chề của mình: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng Ngại ngùng dợn gió e sương, Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày. Thật bất hạnh cho con người tài sắc và lương thiện như Kiều. Giờ đây, nàng chỉ còn im lặng để chịu đựng tất cả, bởi nàng không có một con đường nào khác hơn là phải là bán mình để cứu cha già. Sự chủ động lựa chọn này là chấp nhận cảnh đời ngang trái, đau khổ trước “nỗi mình” tình duyên dang dỡ, uất bởi “nỗi nhà” bị vu oan giá họa. Bao trùm tâm trạng Kiều là sự đau đớn, tái tê: ‘Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”. Là một người ý thức được nhân phẩm, nên nàng đau khố hơn khi đi đến quyết định lựa chọn này. Thật đáng buồn cho một xã hội mà thế lực đồng tiền, cùng với thế lực lưu manh, thế lực quan lại đã hùa với nhau tàn phá gia đình Kiều, tàn phá cuộc đời Kiều. Tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du đã tỏ rõ thái độ của mình trước một hiện thực xã hội đen tối đó và luôn luôn theo dõi để được cùng chia sẻ những nỗi tủi nhục, bất hạnh của đời Kiều.
Instruct CONTENT OF REFERENCE COMMENTARY Ma Giam Sinh bought Kieu is one of the stories with the most realistic and profound denunciation value in the Tale of Kieu. Thereby, Nguyen Du created a trading scene like a vivid drama to expose the nature of the disgusting merchant of the Ma family. At the same time, it shows the pain, humiliation, and shame that opened the first fifteen years of bitterness for Kieu. The excerpt tells the story of Thuy Kieu having a stroke, her father and younger brother being arrested and tortured. To free her father and younger brother, needing money, Thuy Kieu voluntarily sold herself to ransom her father. Unfortunately, the person who came to buy her was a "meat trafficker" named Giam Sinh. Under the pen of Nguyen Du, Ma Giam Sinh in this play played the role of a student at Quoc Tu Giam school with the Ma family coming to Thuy Kieu's house to perform the "name asking" ceremony. This fake student was brought there by a "woman" and introduced as a "guest". He had a luxurious dinner with a whole entourage, "a stir before me, after me" and was solemnly "welcomed into the manor house". But in reality, he is just a hooligan whose hometown is unknown and whose last name is very vague: Ask for name: Ma Giam Sinh, Ask your hometown: Lam Thanh district is also close This guy named Ma does not have a specific, authentic name. He only called himself "Giam Sinh" and tried to hide his identity. Before, he introduced himself as "visiting guests", but when he went to the "name interview" ceremony, he said he lived in "Lam Thanh district, which is also near". Actually, he is in Lam Tri district, not in Lam Thanh. He is a total mess. His snobbish, uneducated personality is also shown in his curt, blunt answers, sentences without subjects, and not bothering to say anything. By introducing the character surnamed Ma, Nguyen Du expressed his disdain and hatred for the disgusting nature of this man who is so old that he still acts like a young man. Too old to be in his forties His beard is clean and his clothes are smart. The image of him with "slim beard" evokes a lack of naturalness, indifference, and disregard for humanity. “Fashionable clothes” are clothes worn in a child's fashion. Nguyen Du's pen has vividly portrayed the portrait of these ugly, disgusting people. His nature continues to be revealed through his gestures: Before the teacher, after I was confused The house carries the termites in procession to the manor house The upper chair sits sloppily It was an incredibly disturbing scene, especially the act of sitting down and cutting him off. Under Nguyen Du's sharp pen, the truth of the Ma family is revealed, they are truly uneducated and uncultured people. It can be said that Nguyen Du is a master in realistic depiction using folk language means with cold sarcastic meanings such as "stirring", "sloppy", "sitting". Nguyen Du exposed the rogue nature of the Ma family with the word "tot" just like he exposed So Khanh's name with the word "len" and Ho Ton Hien with the word "nganh" in the masterpiece The Tale of Kieu. To clearly see the original image of the human trafficker named Ma, Nguyen Du continued to portray it more deeply when he observed and approached Kieu with his own eyes: Be thoughtful, sharp, and careful, Forced to hold the moon and try the fan poem. To him, it seemed like there was no space for human emotions, no loving heart. In his eyes, Thuy Kieu is inherently "balanced", he "forces", he "tests" her talent just like people buying and selling an item at the market. And when he was completely satisfied, he still maintained the "depending on the situation" attitude when bargaining, truly an old fox. To cover up his disgusting merchant nature, he let out beautiful, luxurious words: That buys jade to Lam Kieu Student wants to teach how much for the wall! The better the words, the more false and despicable things they contain. And in the end, his true colors were still blatantly revealed. The stork adds one less and two more It's been a while since the gold price has fallen to over four hundred. The two words "gossip" expose the petty and stingy nature of those who are involved in buying and selling, and in this case, human trafficking is truly disgusting and scary. He represents the most cruel and dirty force in Nguyen Du's era. An era where the power of money governs the fate of "people like a cruel law of destiny". As long as you have money, you have everything: "With money, nothing can be done". Nguyen Du brought to the stage a face that was fake, refined, uneducated, snobbish, cold, emotionless and evil and despicable. But with just a pocket of money, that disgusting character immediately bought the beautiful, talented, pure Kieu, pushing her into the bar" (according to professor Dang Thanh Le - Lecturer on the Tale of Kieu). The image of the villain Ma Giam Sinh is portrayed with realistic brush strokes, complete in both appearance and personality. The character portrait has the value of denouncing profound reality, condemning the evil situation of contemporary society, people being turned into commodities, money and brutal forces trampling on everything. In contrast to Ma Giam Sinh's face and despicableness is the painful and humiliating image of Kieu. She was hurt and humiliated, because she was a noble lady, living in a "peaceful, veiled" situation and was happy in her first love with Kim Trong. But then disaster suddenly struck, she became a bargaining chip, "pulling her hair, shaking hands", "weighing beauty and talent", sometimes being "forced to bow and hold the moon, to try fanning poetry". . As an intelligent and sensitive person, Kieu feels her miserable situation, her humiliation and pain: My feelings add to my family's feelings, Flower shelf Flower charter a few steps up Shy with wind and dew, Stop feeling embarrassed looking at your thick face. It's unfortunate for a talented and honest person like Kieu. Now, she only has to endure everything silently, because she has no other way than to sell herself to save her old father. This proactive choice means accepting the unfairness of life, suffering from the "frustration" of unfinished love, and being frustrated by the "fear of home" being falsely accused of disaster. Covering Kieu's mood is pain and numbness: 'One step on the flower shelf, several rows of tears'. As a person who is aware of her dignity, she suffered more when making this choice. It's sad for a society where the power of money, along with the power of thugs and mandarins, have come together to destroy Kieu's family and Kieu's life. Nguyen Du's noble humanitarian heart clearly showed his attitude towards that dark social reality and always watched to share the humiliation and misfortune of Kieu's life.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Truyện Lục Vân Tiên ra đời vào giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Nội dung truyện đề cao đạo lí nhân nghĩa, trung hiếu, thủy chung, ngợi ca những con người có lẽ sống cao cả, đạo đức trong sáng, nghị lực kiên cường, lòng tin và sự hướng thiện. Đồng thời truyện cũng lên án bọn bất nhân bất nghĩa. Ngay từ phần đầu truyện, qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã hiện lên hình tượng cao đẹp, hào hiệp giàu nghĩa khí. Đó là việc Lục Vân Tiên đánh cướp, giúp dân, cứu Kiều Nguyệt Nga – Một cô gái hiền hậu, nết na, ân tình, có học thức. Lục Vân Tiên là hình ảnh đẹp, lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình. Vân Tiên là một chàng trai vừa rời trường học bước vào đời, khi “tuổi vừa hai tám”, lòng đầy hăm hở giúp đời. Trên con đường lên kinh đô ứng thí, Lục Vân Tiên bất ngờ chứng kiến cảnh nhân dân dắt dìu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng ân cần hỏi thăm và được biết ở đó bọn cướp Phong Lai đang tung hoành. Thế là Vân Tiên quyết định ra tay cứu giúp. Tôi xin ra sức anh hào, Cứu người ra khỏi lao đao buổi này. Hình ảnh Lục Vân Tiên xuất hiện ngay từ đầu đoạn trích là hình ảnh của một người anh hùng có đầy đủ tài năng và tấm lòng vị nghĩa, chàng chỉ có một mình, trong tay không có vũ khí mà phải đối đầu với bọn cướp Phong Lai đông người, có đầy đủ vũ khí, vậy mà Vân Tiên không một chút do dự, liều “Bẻ cây làm gậy” xông vào bọn cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp. Giữa vòng “bốn phía phủ vây bịt bùng”, Vân Tiên “tả đột hữu xung” đánh trả anh dũng ngoan cường không khác gì Triệu Tử Long một mình phá vòng vây của Tào Tháo ở trận Đương Dang (Đương Dương), bảo vệ A Đẩu, con nhỏ của Lưu Bị trong truyện Tam quốc. Sự so sánh liên tưởng này càng làm nổi bật tính cách nghĩa hiệp và cái đức độ của con người “vị nghĩa vong thân” (vì việc nghĩa quên thân mình). Con người ấy không do dự, tính toán thiệt hơn mà đứng ra bảo vệ kẻ yếu trước thế lực bạo tàn và cuối cùng đã chiến thắng: Vân Tiên tả đột hữu xung, Khác nào Triệu Tử phá vòng Dương Dang Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay Phong Lai trở chẳng kịp tay, Bị Tiên một gậy thác này thân vong. Hành động của Vân Tiên không chỉ là hành động của người anh hùng vị nghĩa mà còn là một con người có tấm lòng từ tâm, nhân hậu, trọng nghĩa khinh tài. Thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng, Vân Tiên động lòng tìm cách an ủi họ “Ta đã trừ dòng lâu la” và ân cần hỏi han cũng như có thái độ đáng mực của con người luôn giữ nề nếp của lễ giáo phong kiến “khoan khoan ngồi dó chớ ra”. Đến khi Nguyệt Nga chân thành cảm tạ: “Trước xe quân tử tạm ngồi – Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”, nàng tha thiết mời chàng về nhà để đền ơn đáp nghĩa, nhưng chàng đã từ chối: “làm ơn há để trông người trả ơn”. Vân Tiên cứu người vì việc nghĩa, một hành động vô tư không tính thiệt hơn, không mang sự đền ơn trả nghĩa. Vân Tiên sống vì lí tướng cao đẹp và hành động theo đúng lí tưởng đó: Nhớ câu kiến ngãi bất vi Làm người thể ấy củng phi anh hùng. Đã là người anh hùng thà phải làm việc nghĩa. Đó là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu. Trong dòng văn học Việt Nam, cũng xuất hiện không ít người suốt đời hành động vì lí tưởng nhân nghĩa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Nôm cùng tên là một hình ảnh đẹp, hình ảnh lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và ước mong của mình. Đó là tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu: thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng. Vì nghĩa sẵn sàng xông vào hiểm nguy mà không ngần ngại đến tính mạng và lẽ sống riêng tư của mình. Xuất phát từ quan niệm và lí tưởng sống tích cực, Nguyễn Đình Chiểu đã để cho nhân vật của mình hành động theo nghĩa cử của người anh hùng. Nguyễn Đình Chiểu kế thừa và phát huy tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo… Hình ảnh Lục Vân Tiên thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Đình Chiểu về con người trong cuộc sống đương thời, khi mà chế độ phong kiến khủng hoảng nghiêm trọng, kỉ cương trật tự xã hội lỏng lẻo, đạo đức suy vi, thì hình ảnh Lục Vân Tiên là một vẻ đẹp lí tưởng thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng vả những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Cùng trong đoạn trích này, đã hiện lên một Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình, có học thức. Lời lẽ của nàng tỏ bày với Vân Tiên rất mực dịu dàng, mực thước. Nàng là người chịu ơn Vân Tiên, không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng: “Lâm nguy chẳng gặp giải nguy – Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”. Đối với cuộc đời người con gái, cái “tiết trăm năm” mới là cái quí. Chính vì vậy mà nàng băn khoăn tìm cách trả ơn chàng, dù hiểu rằng có đền đáp đến mấy cũng là chưa đủ: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Và cuối cùng, nàng tự nguyện lựa chọn con đường là gắn bó cuộc đời của mình với người con trai khảng khái, hào hiệp đó. Và đã dám liều mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng. Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga là một hình ảnh đẹp, trọng ơn nghĩa, là tiêu biểu cho tính cách của nhân dân ta. Chính vì vậy mà nàng đã chiếm lĩnh được tình cảm của người đọc, người nghe. Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên hai hình tượng tuyệt đẹp trong buổi đầu gặp gở, đó là hình ảnh của tráng sĩ hảo hán Lục Vân Tiên và một tiểu thư ân tình, thủy chung Kiều Nguyệt Nga – hai nhân vật trung tâm của tác phẩm. Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình.
Instruct CONTENT OF THE REFERENCE COMMENTARY TEXT The story Luc Van Tien was born in the period before the French colonialists invaded our country. The story's content promotes morality, filial piety, and loyalty, praising people who lead noble lives, have pure morality, resilient energy, faith, and goodness. At the same time, the story also condemns unjust people. Right from the beginning of the story, through the excerpt of Luc Van Tien rescuing Kieu Nguyet Nga, the image of noble, chivalrous and full of kindness appears. That's Luc Van Tien fighting robbers, helping people, and saving Kieu Nguyet Nga - a gentle, modest, kind, and educated girl. Luc Van Tien is the beautiful, ideal image that Nguyen Dinh Chieu entrusts his beliefs and desires to. Van Tien is a young man who just left school and entered the world, at the age of "twenty-eight years old", full of enthusiasm to help people. On the way to the capital to apply for the test, Luc Van Tien suddenly witnessed the scene of people leading each other to flee, and their cries rang out in agony. He kindly inquired and learned that Phong Lai robbers were rampaging there. So Van Tien decided to help. I would like to be proud, Save people from this hardship. The image of Luc Van Tien that appears at the beginning of the excerpt is the image of a hero with full talent and a good heart. He was alone, had no weapons in his hands, and had to confront the robbers. Phong Lai was crowded with people and had all the weapons, yet Van Tien, without hesitation, risked "breaking a tree to make a stick" and rushed at the robbers. The image of Van Tien in battle is beautifully described. In the midst of the "surrounding the palace on all four sides", Van Tien "attacked from left to right" and fought back heroically and tenaciously, no different from Trieu Tu Long single-handedly breaking through Cao Cao's siege at the Battle of Duong Dang (Dang Duong), protecting A Dau, Liu Bei's younger son in the story of the Three Kingdoms. This associative comparison further highlights the chivalrous character and virtue of the "selfless" person (forgetting his own self because of his good deeds). That person did not hesitate, calculated the pros and cons, stood up to protect the weak against brutal forces and eventually won: Van Tien's left and right suddenly clashed, It's like Trieu Tu breaking the Yang Dang circle The mansion was broken on all sides They all threw down their swords and spears to find a way to run away Phong Lai couldn't keep up, At the hands of a fairy, this person is dead. Van Tien's actions are not only the actions of a righteous hero but also a person with a kind heart, kindness, and respect for justice and contempt for wealth. Seeing that the two girls were still scared, Van Tien was moved to try to comfort them, "I have eliminated the old lineage" and kindly asked questions as well as had the respectful attitude of a person who always keeps the order of the ordination ceremony. "Wait, wait, sit there, don't come out". When Nguyet Nga sincerely thanked her: "Please sit in front of the carriage for now - Please allow me to bow before I speak", she earnestly invited him to come home to repay her kindness, but he refused: "Please to see people return the favor." Van Tien saves people for a good deed, a selfless act that does not count any loss or gain, and does not bring any return for gratitude. Van Tien lives for noble ideals and acts according to that ideal: Remember the saying that views are unchangeable Being that kind of person is also unheroic. Being a hero would rather do good deeds. That is Nguyen Dinh Chieu's concept. In Vietnamese literature, there also appear many people who have worked for the ideal of humanity all their lives such as Nguyen Trai, Nguyen Binh Khiem... The character Luc Van Tien in the Nom story of the same name is a beautiful image, the ideal image that Nguyen Dinh Chieu entrusted his beliefs and wishes to. That is the idea of ​​humanity According to Nguyen Dinh Chieu's concept: seeing a righteous deed but not doing it is not a hero. Because he is ready to rush into danger without hesitating to risk his own life and privacy. Starting from the concept and ideal of a positive life, Nguyen Dinh Chieu let his character act according to the heroic gesture. Nguyen Dinh Chieu inherited and promoted Nguyen Trai's ideology of humanity in Binh Ngo Dai Cao: Use righteousness to overcome brutality. Use kindness to replace tyranny... The image of Luc Van Tien represents Nguyen Dinh Chieu's aesthetic ideal of people in contemporary life, when the feudal regime is in serious crisis, social order and discipline are loose, and morality is in decline. Luc Van Tien's image is an ideal beauty that represents the people's aspirations towards justice and good things in life. In this same excerpt, a kind, gentle, kind, and educated Kieu Nguyet Nga appears. Her words to Van Tien were very gentle and measured. She is the one who owes Van Tien's gratitude, not only for saving her life but also for saving her entire innocent life: "If you are in danger, you will not find a solution - A hundred years will pass away in a while." For a girl's life, the "hundred-year period" is precious. That's why she wondered how to repay him, even though she understood that no matter how much she could repay him, it wasn't enough: "What can I do to satisfy my heart and you?" And in the end, she voluntarily chose the path to spend her life with that brave and generous boy. And dared to risk his life to keep his love and loyalty to him. The image of Kieu Nguyet Nga is a beautiful, grateful image, typical of the character of our people. That's why she captured the hearts of readers and listeners. Nguyen Dinh Chieu created two beautiful images in the first meeting, which are the image of the great warrior Luc Van Tien and the kind and loyal lady Kieu Nguyet Nga - the two central characters of the work. . The excerpt Luc Van Tien saves Kieu Nguyet Nga shows the author's desire to practice religion to help people and portrays the beautiful qualities of two characters: Luc Van Tien is talented, brave, respectful and disdainful of talent, Kieu Nguyet Nga gentle, gentle, kind.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Với quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã trở thành chức năng phản ánh của văn học. Điều này đã hiện thực hóa trong quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Trong hệ thống thi phàm của mình mà cụ thể là Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hai tuyến nhân vật: Thiện và ác, đạo đức và gian tà. Ông Quán, Ông Ngư, chú tiểu đồng, Hớn Minh… đều được Nguyễn Đình Chiểu trân trọng đề cao. Họ là những con người lương thiện, giàu lòng thương người, trọng nghĩa khinh tài. Mặt khác, ông cùng kịch liệt lên án vạch mặt bọn người có tâm địa don tôi, xáo quyệt như cha con Võ Thế Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn nổi bật lên hai hình tượng đối lập giữa cái thiện và cái ác: ông Ngư – Trịnh Hâm. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa chân dung Trịnh Hâm là điển hình của cái xấu, cái ác: Đêm khuya lặng lẽ như tờ, Nghênh ngang sao mọc núi mờ sương bay Trịnh Hâm khi ấy ra tay Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời Cho người thức dậy lấy lời phui pha. Ghen ghét, đố kị là thói xấu của con người. Nhưng sự ghen ghét, đố kị, độc ác như Trịnh Hâm thì cũng thật là hiếm. Hắn đan tâm hãm hại một con người đang lúc mù lòa, ốm đau, không nơi nương tựa, không có gì để chống đỡ. Hành động tàn ác của hắn cốt do trả thù cho nỗi hận rất nhỏ nhen, thỏa mãn lòng ghen ghét, đố kị cái tài của Lục Vân Tiên trong một cuộc hội ngộ uống rượu giữa bốn người gồm có: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Một con người củng mang danh sĩ tử, theo nghiệp bút nghiêng củng đọc sách thánh hiền như Trịnh Hâm mà lại có mưu đồ đen tối ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thể đe dọa đến bước đường công danh của hắn thì ắt sẽ nguy hiểm hơn rất nhiều. Để thê hiện hành động đen tối của mình, hắn đã nghi “Hại Tiên phải dạng mưu này mới xong”. Trước đoạn truyện này, hắn đã lập mưu trói tiểu đồng vào gốc cây cho hổ ăn thịt. Rồi sau đó giả bộ thương xót đưa Vân Tiên xuống thuyền, khi ra đến giữa “vời”, trong đêm tối mịt mùng “nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay”, hắn mới “ra tay” hành động. Hai chữ “ra tay” ở câu trên ứng với hai chữ “xô ngay” ở câu dưới đã thực sự tô cáo hành động gian ác, trắng trợn của hắn. Hành động kiên quyết đó lại được che đậy trong một cái ác xảo quyệt của loại người “ném đá giấu tay” bằng cách “giả tiếng kêu trời”. Cái hành động “giả tiếng kêu trời” đã khái quát được cái chân tướng của kẻ giả nhân giả nghĩa. Hắn là hiện thân của cái ác, cái lưu manh trong xã hội thời ấy. Một con người được coi là kẻ có học như hắn mà có cái ác trú ngụ thì thật là nguy hiểm và ghê tởm. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cùng có nhận xét: “Mỗi oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ”. Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là nhân vật ông Ngư, một con người giàu lòng nhân đức và cao thượng. Sau khi được Giao Long dìu Vân Tiên vào bờ, ông Ngư ra tay cứu vớt kịp thời và hết lòng tận tình cứu chữa. Hôi con vầy lửa một giờ Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày. Câu thơ mộc mạc, chân thành, không chút đèo gọt, chỉ thuần túy là kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, trong việc cứu chữa bằng phương thức dân dã “vầy lửa”, “hơ bụng”, “hơ mặt mày” tất cả gợi lên sự chân thành, tự nguyện, thương yêu của cả gia đình đói với người bị nạn. Họ là hình ảnh đẹp đẽ của quần chúng nhân dân lao động, những người luôn đứng về phía chính nghĩa. Trong bức tranh thư đậm màu sắc dân gian này, ta thấy ở họ không chỉ có tấm lòng và niềm vui trong lúc cứu người bị nạn mà còn là hành động vô tư không còn tính toán, không cần trả ơn. Hiểu được hoàn cảnh của chàng, ông Ngư có lời đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng giúp đỡ chàng. Ngư rằng: người ở cùng ta Hôm mai, hâm hút một nhà cho vui. Cuộc sống “hâm hút” của ông Ngư thì có gì là thoải mái về vật chất, ông phải vật lộn với biển cả để giành lấy cuộc sống, giành lấy phần đời trước những bão dông của cuộc đời khốn khó. Ông giúp người không đòi sự trả ơn, bởi ông lấy việc nhân nghĩa làm lẽ sống: Dốc lòng nhân nghĩa chẳng nhờ trả ơn. Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ có một lần Nguyễn Đình Chiểu, đề cập ở đoạn truyện này mà nó bao trùm lên toàn bộ tác phâm ở một đoạn truyện khác, Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi anh hùng hảo hán Lục Vân Tiên đã ra tay cứu giúp Kiều Nguyệt Nga ra khỏi cơn hoạn nạn mà không hề chút tính toán. Làm ơn há dễ trông người trả ơn Hoặc ông Tiều sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang cũng đáp lời tạ ơn chàng: “Làm ơn mà lại trông người hay sao”. Đối với ông Ngư, quan niệm về nhân nghĩa căn bản giống với quan niệm của Lục Vân Tiên, nhưng có điều hơi khác là ở chỗ là, khi quan niệm ấy gắn với người dân lao động như ông Ngư thì ý nghĩa của quan niệm này lại càng mang tính nhân dân sâu sắc. Thấy việc nghĩa là làm, là nét đẹp nhân cách của ông Ngư. Nhân cách ấy còn được biểu hiện trong cuộc đời lao động của ông mà Nguyền Đình Chiểu đã cảm nhận bằng cả trái tim và khối óc của mình. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi. Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi cho sờn lòng đây. Ông Ngư là người không một chút bận tâm đến cái vòng danh lợi giữa cuộc đời đầy ô trọc, ông dành phần đời của mình để vui với cái nghề chài lưới, tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hòa nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên, cho nên đối với ông không gì hơn là: Rày doi mai vịnh vui vầy, Ngày kia h ứng gió đêm này chơi trăng Một mình thong thả làm ăn, Khỏe quơ chài kéo; mệt quăng câu dầm, Nghêu ngao nay chích mai đầm, Một bầu trời đất vui thầm ai hay Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời Thuyền nan một chiếc ở đời, Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang Phải nói rằng, thi nhân có những trăn trở, gắn bó với cuộc đời nay lắm mới có cái cảm hứng ngợi ca dạt dào những hình ảnh con người có cái “thung dung dưới thế” lại có cái “vui say trong đời” như ông Ngư, với ông Ngư có cuộc sống thoải mái “ngày hứng gió, đêm chơi trăng” nghêu ngao nay chích mai dầm”… và cuối cùng là một hình ảnh rất đẹp: “Thyền nan một chiếc ở đời – Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”. Những hình ảnh được nói đến trong thơ đều nhằm tôn lên vẻ đẹp nhân cách và quan niệm sống của ông Ngư. Đây là đoạn thơ hay của tác phẩm, bởi Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm một quan niệm sống, một niềm mơ ước thiết tha của mình qua nhân vật ông Ngư và qua đó, Nguyễn Đình Chiểu cùng muốn nói lên một sự thực của xã hội thời ông đang sống – bên cạnh những cái xấu cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang như thái sư đương triều, Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Cũng còn rất nhiều cái tót, dáng kính trọng, đáng khao khát, tồn tại bền vừng nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài như ông Ngư, ông Tiều, tiểu đồng, bà lão dệt vải trong rừng,., Nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất đúng: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Hô Chiêu” (dẫn theo SGV, tập 1 – Nhà xuất bản Giáo dục).
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Với quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã trở thành chức năng phản ánh của văn học. Điều này đã hiện thực hóa trong quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Trong hệ thống thi phàm của mình mà cụ thể là Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hai tuyến nhân vật: Thiện và ác, đạo đức và gian tà. Ông Quán, Ông Ngư, chú tiểu đồng, Hớn Minh… đều được Nguyễn Đình Chiểu trân trọng đề cao. Họ là những con người lương thiện, giàu lòng thương người, trọng nghĩa khinh tài. Mặt khác, ông cùng kịch liệt lên án vạch mặt bọn người có tâm địa don tôi, xáo quyệt như cha con Võ Thế Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn nổi bật lên hai hình tượng đối lập giữa cái thiện và cái ác: ông Ngư – Trịnh Hâm. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa chân dung Trịnh Hâm là điển hình của cái xấu, cái ác: Đêm khuya lặng lẽ như tờ, Nghênh ngang sao mọc núi mờ sương bay Trịnh Hâm khi ấy ra tay Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời Cho người thức dậy lấy lời phui pha. Ghen ghét, đố kị là thói xấu của con người. Nhưng sự ghen ghét, đố kị, độc ác như Trịnh Hâm thì cũng thật là hiếm. Hắn đan tâm hãm hại một con người đang lúc mù lòa, ốm đau, không nơi nương tựa, không có gì để chống đỡ. Hành động tàn ác của hắn cốt do trả thù cho nỗi hận rất nhỏ nhen, thỏa mãn lòng ghen ghét, đố kị cái tài của Lục Vân Tiên trong một cuộc hội ngộ uống rượu giữa bốn người gồm có: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Một con người củng mang danh sĩ tử, theo nghiệp bút nghiêng củng đọc sách thánh hiền như Trịnh Hâm mà lại có mưu đồ đen tối ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thể đe dọa đến bước đường công danh của hắn thì ắt sẽ nguy hiểm hơn rất nhiều. Để thê hiện hành động đen tối của mình, hắn đã nghi “Hại Tiên phải dạng mưu này mới xong”. Trước đoạn truyện này, hắn đã lập mưu trói tiểu đồng vào gốc cây cho hổ ăn thịt. Rồi sau đó giả bộ thương xót đưa Vân Tiên xuống thuyền, khi ra đến giữa “vời”, trong đêm tối mịt mùng “nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay”, hắn mới “ra tay” hành động. Hai chữ “ra tay” ở câu trên ứng với hai chữ “xô ngay” ở câu dưới đã thực sự tô cáo hành động gian ác, trắng trợn của hắn. Hành động kiên quyết đó lại được che đậy trong một cái ác xảo quyệt của loại người “ném đá giấu tay” bằng cách “giả tiếng kêu trời”. Cái hành động “giả tiếng kêu trời” đã khái quát được cái chân tướng của kẻ giả nhân giả nghĩa. Hắn là hiện thân của cái ác, cái lưu manh trong xã hội thời ấy. Một con người được coi là kẻ có học như hắn mà có cái ác trú ngụ thì thật là nguy hiểm và ghê tởm. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cùng có nhận xét: “Mỗi oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ”. Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là nhân vật ông Ngư, một con người giàu lòng nhân đức và cao thượng. Sau khi được Giao Long dìu Vân Tiên vào bờ, ông Ngư ra tay cứu vớt kịp thời và hết lòng tận tình cứu chữa. Hôi con vầy lửa một giờ Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày. Câu thơ mộc mạc, chân thành, không chút đèo gọt, chỉ thuần túy là kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, trong việc cứu chữa bằng phương thức dân dã “vầy lửa”, “hơ bụng”, “hơ mặt mày” tất cả gợi lên sự chân thành, tự nguyện, thương yêu của cả gia đình đói với người bị nạn. Họ là hình ảnh đẹp đẽ của quần chúng nhân dân lao động, những người luôn đứng về phía chính nghĩa. Trong bức tranh thư đậm màu sắc dân gian này, ta thấy ở họ không chỉ có tấm lòng và niềm vui trong lúc cứu người bị nạn mà còn là hành động vô tư không còn tính toán, không cần trả ơn. Hiểu được hoàn cảnh của chàng, ông Ngư có lời đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng giúp đỡ chàng. Ngư rằng: người ở cùng ta Hôm mai, hâm hút một nhà cho vui. Cuộc sống “hâm hút” của ông Ngư thì có gì là thoải mái về vật chất, ông phải vật lộn với biển cả để giành lấy cuộc sống, giành lấy phần đời trước những bão dông của cuộc đời khốn khó. Ông giúp người không đòi sự trả ơn, bởi ông lấy việc nhân nghĩa làm lẽ sống: Dốc lòng nhân nghĩa chẳng nhờ trả ơn. Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ có một lần Nguyễn Đình Chiểu, đề cập ở đoạn truyện này mà nó bao trùm lên toàn bộ tác phâm ở một đoạn truyện khác, Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi anh hùng hảo hán Lục Vân Tiên đã ra tay cứu giúp Kiều Nguyệt Nga ra khỏi cơn hoạn nạn mà không hề chút tính toán. Làm ơn há dễ trông người trả ơn Hoặc ông Tiều sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang cũng đáp lời tạ ơn chàng: “Làm ơn mà lại trông người hay sao”. Đối với ông Ngư, quan niệm về nhân nghĩa căn bản giống với quan niệm của Lục Vân Tiên, nhưng có điều hơi khác là ở chỗ là, khi quan niệm ấy gắn với người dân lao động như ông Ngư thì ý nghĩa của quan niệm này lại càng mang tính nhân dân sâu sắc. Thấy việc nghĩa là làm, là nét đẹp nhân cách của ông Ngư. Nhân cách ấy còn được biểu hiện trong cuộc đời lao động của ông mà Nguyền Đình Chiểu đã cảm nhận bằng cả trái tim và khối óc của mình. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi. Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi cho sờn lòng đây. Ông Ngư là người không một chút bận tâm đến cái vòng danh lợi giữa cuộc đời đầy ô trọc, ông dành phần đời của mình để vui với cái nghề chài lưới, tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hòa nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên, cho nên đối với ông không gì hơn là: Rày doi mai vịnh vui vầy, Ngày kia h ứng gió đêm này chơi trăng Một mình thong thả làm ăn, Khỏe quơ chài kéo; mệt quăng câu dầm, Nghêu ngao nay chích mai đầm, Một bầu trời đất vui thầm ai hay Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời Thuyền nan một chiếc ở đời, Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang Phải nói rằng, thi nhân có những trăn trở, gắn bó với cuộc đời nay lắm mới có cái cảm hứng ngợi ca dạt dào những hình ảnh con người có cái “thung dung dưới thế” lại có cái “vui say trong đời” như ông Ngư, với ông Ngư có cuộc sống thoải mái “ngày hứng gió, đêm chơi trăng” nghêu ngao nay chích mai dầm”… và cuối cùng là một hình ảnh rất đẹp: “Thyền nan một chiếc ở đời – Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”. Những hình ảnh được nói đến trong thơ đều nhằm tôn lên vẻ đẹp nhân cách và quan niệm sống của ông Ngư. Đây là đoạn thơ hay của tác phẩm, bởi Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm một quan niệm sống, một niềm mơ ước thiết tha của mình qua nhân vật ông Ngư và qua đó, Nguyễn Đình Chiểu cùng muốn nói lên một sự thực của xã hội thời ông đang sống – bên cạnh những cái xấu cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang như thái sư đương triều, Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Cũng còn rất nhiều cái tót, dáng kính trọng, đáng khao khát, tồn tại bền vừng nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài như ông Ngư, ông Tiều, tiểu đồng, bà lão dệt vải trong rừng,., Nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất đúng: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Hô Chiêu” (dẫn theo SGV, tập 1 – Nhà xuất bản Giáo dục).
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Có thể nói chưa bao giờ hình ảnh người lính được đưa vào thơ ca một cách sinh động và tuyệt đẹp như trong giai đoạn văn học 1945 – 1975. Có lẽ cái ấn tượng ban đầu sâu sắc nhất trong lòng người đọc là hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp được thể hiện trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ ra đời vào khoảng đầu năm 1948, là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc (Thu Đông năm 1947). Khác với một số tác phẩm đương thời là khi viết về người lính cách mạng thường chủ yếu khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng với những hình ảnh có tính ước lệ mang dáng dấp tráng sĩ như bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Áo bào thay chiếu anh về đất – Sông Mã gầm lên khúc độc hành” hoặc như trong bài Ngày về của Chính Hữu: “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm – Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” thì ở bài Đồng chí, ông đã mở ra một khuynh hướng mới khi viết về người lính cách mạng: cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống người lính, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường. “Đồng chí” được coi như là tiếng nói trung thực về tình cảm đồng đội, đồng chí cao cả thiêng liêng của những người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những con người ra đi từ những làng quê nghèo khó. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Trong cảnh ngộ chung ấy, khiến họ dễ dàng đồng cảm với nhau, hòa điệu với nhau để trở thành những người bạn thân thiết tha có thể nhận ngay ra rằng: cơ sở của tình bạn được bắt đầu từ tình yêu giai cấp. Bởi ở họ, dù là người xuất thân từ quê hương “nước mặn đồng chua” hoặc ở làng quê “đất cày lên sỏi đá”, nhưng ngay từ những phút đầu gặp nhau họ đã tỏ ra thân thiện, không chỉ là hiểu nhau mà còn thân mật với nhau qua cách xưng hô “quê hương anh”, “làng tôi”. Tất cả đều được nhà thơ cảm nhận và thể hiện hết sức cô đúc về tình đồng đội vừa gắn bó, vừa cao cả thiêng liêng ở họ, không chỉ có tình đồng đội mà còn có chung một lí tưởng và mục đích chiến đấu. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đèm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Thật cao cả và ấm áp tình người! Đứng trước tiếng gọi của lịch sử, họ từ mọi phương trời về đây để họp thành đồng đội và trở thành tri kĩ. Ở câu thơ thứ bảy, chỉ có một từ với hai tiếng và dấu chấm than: “Đồng chí!” vang lên như một lời khẳng định, khái quát sự kết tinh tình cảm, cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội đầy xúc động và thiêng liêng đã được thể hiện ở sáu dòng thơ đầu, đồng thời tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó trong những dòng thơ tiếp theo. Với cách sử dụng một cấu trúc đặc biệt ở câu thơ thứ 7, chứng tỏ bản lĩnh nghệ thuật của Chính Hữu khi viết về tình cảm đồng đội, đồng chí. Từ tình cảm đồng đội, đồng chí keo sơn gắn bó đó mà họ rất hiểu và thông cảm cho nhau trong mọi hoàn cảnh: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động. Khi đất nước có giặc, họ quyết ra đi và để lại phía sau lưng mình mảnh ruộng chưa cày, “mặc kệ” những ngôi nhà bị gió tốc lung lay. Nghĩa cử của họ sao mà đẹp quá! Dẫu biết rằng họ ra đi kháng chiến là tạm thời đoạn tuyệt với gia đình, bè bạn, nhưng trong lòng họ sao quên được hình bóng quê hương, vì ở đó, các anh em còn có mẹ già, vợ con, người thân đang trông ngóng các anh trở về: Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Tình cảm đồng đội, đồng chí còn được biểu hiện ở nhiều lĩnh vực khác. Đó là sự san sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run ngươi vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Từ trải nghiệm thực của đời lính mà nhất là sự kết hợp giữa cái chất thi sĩ và chiến sĩ, Chính Hữu đã khắc họa một hiện thực khó khăn đến mức tối đa của người lính cách mạng. Đó là cái cách trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh nơi chiến trường Việt Bắc: “Áo anh rách vai – Quần tôi có vài mảnh vá… Chân không giày”. Vậy mà phải trải qua những “cơn ớn lạnh” những “cơn sốt run người”. Thực ra cái khó khăn không phải là điều chủ yếu Chính Hữu muốn nói ra ở đây. Cái ta cần hiểu là phải nhận ra từ trong hiện thực khắc nghiệt để toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Đó là tình đồng đội, đồng chí mà họ sẵn sàng chia sẻ, động viên nhau vượt qua những khắc nghiệt của thực tại để hoàn thành mục đích cao cả là chiến đấu cho độc lập dân tộc tự do của dân tộc. Từ trong cái rét run người ấy, họ chuyền tay nhau cùng nắm chặt để truyền hơi ấm cho nhau. Có thể nói, đây là một phát hiện và thể hiện một cách tinh tế và tình cảm đồng đội, đồng chí mà bản thân nhà thơ – người lính cách mạng ấy đã nhận ra từ đời sống thực của cuộc chiến đấu gian khổ nhưng đầy tinh thần lạc quan yêu đời, và luôn chia sẻ cảm thông cho nhau. Đặc biệt với hình ảnh “miệng cười buốt giá” làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính. Họ yêu đời lạc quan và sẵn sàng động viên nhau lúc gian khổ để xua đi cái lạnh lẽo giá buốt nơi rừng hoang sương muối. Từ những câu thơ quá ư mộc mạc, giản dị này, Chính Hữu đã vẽ nên chân dung người lính cách mạng, mà ở họ có một tình cảm chân thật và tuyệt đẹp đã làm xúc động đến mọi thế hệ bạn đọc. Tình cảm đẹp đẽ ấy cũng được Chính Hữu thể hiện một cách cụ thể, sinh động ở đoạn cuối bài thơ: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo! Từ hiện thực khắc nghiệt của cảnh “rừng hoang sương muối” những người đồng chí, đồng đội cùng nhau vững tay súng để chờ giặc tới như một hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho dân tộc. Trong cái cảnh vắng lặng bát ngát nơi rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi, lơ lửng nơi đầu súng – Hình ảnh người lính “áo vải chân không” hiện lên trong vẻ đẹp bình dị nhưng lại đầy chất thơ. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của Chính Hữu. Trăng và súng được đặt trong mối quan hệ với nhau để làm tôi vẻ đẹp hoàn mĩ nhất: VẺ ĐẸP NGƯỜI LÍNH – một vẻ đẹp không mang dáng ấp tráng sĩ như Chính Hữu có lần nhắc đến trong Ngày về hoặc trong Tây Tiến của Quang Dũng, mà cái đẹp ở đây là hình ảnh người lính nông dân ra trận vì lí tưởng độc lập tự do cho dân tộc. Để thực hiện lí tưởng cao đẹp đó, họ phải trải qua những cơn ớn lạnh nơi rừng hoang sương muối, mà đứng sát bên nhau trong những đêm hành quân phục kích và tìm trong nhau hơi ấm của tình người.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Có thể nói chưa bao giờ hình ảnh người lính được đưa vào thơ ca một cách sinh động và tuyệt đẹp như trong giai đoạn văn học 1945 – 1975. Có lẽ cái ấn tượng ban đầu sâu sắc nhất trong lòng người đọc là hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp được thể hiện trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ ra đời vào khoảng đầu năm 1948, là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc (Thu Đông năm 1947). Khác với một số tác phẩm đương thời là khi viết về người lính cách mạng thường chủ yếu khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng với những hình ảnh có tính ước lệ mang dáng dấp tráng sĩ như bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Áo bào thay chiếu anh về đất – Sông Mã gầm lên khúc độc hành” hoặc như trong bài Ngày về của Chính Hữu: “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm – Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” thì ở bài Đồng chí, ông đã mở ra một khuynh hướng mới khi viết về người lính cách mạng: cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống người lính, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường. “Đồng chí” được coi như là tiếng nói trung thực về tình cảm đồng đội, đồng chí cao cả thiêng liêng của những người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những con người ra đi từ những làng quê nghèo khó. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Trong cảnh ngộ chung ấy, khiến họ dễ dàng đồng cảm với nhau, hòa điệu với nhau để trở thành những người bạn thân thiết tha có thể nhận ngay ra rằng: cơ sở của tình bạn được bắt đầu từ tình yêu giai cấp. Bởi ở họ, dù là người xuất thân từ quê hương “nước mặn đồng chua” hoặc ở làng quê “đất cày lên sỏi đá”, nhưng ngay từ những phút đầu gặp nhau họ đã tỏ ra thân thiện, không chỉ là hiểu nhau mà còn thân mật với nhau qua cách xưng hô “quê hương anh”, “làng tôi”. Tất cả đều được nhà thơ cảm nhận và thể hiện hết sức cô đúc về tình đồng đội vừa gắn bó, vừa cao cả thiêng liêng ở họ, không chỉ có tình đồng đội mà còn có chung một lí tưởng và mục đích chiến đấu. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đèm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Thật cao cả và ấm áp tình người! Đứng trước tiếng gọi của lịch sử, họ từ mọi phương trời về đây để họp thành đồng đội và trở thành tri kĩ. Ở câu thơ thứ bảy, chỉ có một từ với hai tiếng và dấu chấm than: “Đồng chí!” vang lên như một lời khẳng định, khái quát sự kết tinh tình cảm, cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội đầy xúc động và thiêng liêng đã được thể hiện ở sáu dòng thơ đầu, đồng thời tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó trong những dòng thơ tiếp theo. Với cách sử dụng một cấu trúc đặc biệt ở câu thơ thứ 7, chứng tỏ bản lĩnh nghệ thuật của Chính Hữu khi viết về tình cảm đồng đội, đồng chí. Từ tình cảm đồng đội, đồng chí keo sơn gắn bó đó mà họ rất hiểu và thông cảm cho nhau trong mọi hoàn cảnh: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động. Khi đất nước có giặc, họ quyết ra đi và để lại phía sau lưng mình mảnh ruộng chưa cày, “mặc kệ” những ngôi nhà bị gió tốc lung lay. Nghĩa cử của họ sao mà đẹp quá! Dẫu biết rằng họ ra đi kháng chiến là tạm thời đoạn tuyệt với gia đình, bè bạn, nhưng trong lòng họ sao quên được hình bóng quê hương, vì ở đó, các anh em còn có mẹ già, vợ con, người thân đang trông ngóng các anh trở về: Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Tình cảm đồng đội, đồng chí còn được biểu hiện ở nhiều lĩnh vực khác. Đó là sự san sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run ngươi vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Từ trải nghiệm thực của đời lính mà nhất là sự kết hợp giữa cái chất thi sĩ và chiến sĩ, Chính Hữu đã khắc họa một hiện thực khó khăn đến mức tối đa của người lính cách mạng. Đó là cái cách trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh nơi chiến trường Việt Bắc: “Áo anh rách vai – Quần tôi có vài mảnh vá… Chân không giày”. Vậy mà phải trải qua những “cơn ớn lạnh” những “cơn sốt run người”. Thực ra cái khó khăn không phải là điều chủ yếu Chính Hữu muốn nói ra ở đây. Cái ta cần hiểu là phải nhận ra từ trong hiện thực khắc nghiệt để toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Đó là tình đồng đội, đồng chí mà họ sẵn sàng chia sẻ, động viên nhau vượt qua những khắc nghiệt của thực tại để hoàn thành mục đích cao cả là chiến đấu cho độc lập dân tộc tự do của dân tộc. Từ trong cái rét run người ấy, họ chuyền tay nhau cùng nắm chặt để truyền hơi ấm cho nhau. Có thể nói, đây là một phát hiện và thể hiện một cách tinh tế và tình cảm đồng đội, đồng chí mà bản thân nhà thơ – người lính cách mạng ấy đã nhận ra từ đời sống thực của cuộc chiến đấu gian khổ nhưng đầy tinh thần lạc quan yêu đời, và luôn chia sẻ cảm thông cho nhau. Đặc biệt với hình ảnh “miệng cười buốt giá” làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính. Họ yêu đời lạc quan và sẵn sàng động viên nhau lúc gian khổ để xua đi cái lạnh lẽo giá buốt nơi rừng hoang sương muối. Từ những câu thơ quá ư mộc mạc, giản dị này, Chính Hữu đã vẽ nên chân dung người lính cách mạng, mà ở họ có một tình cảm chân thật và tuyệt đẹp đã làm xúc động đến mọi thế hệ bạn đọc. Tình cảm đẹp đẽ ấy cũng được Chính Hữu thể hiện một cách cụ thể, sinh động ở đoạn cuối bài thơ: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo! Từ hiện thực khắc nghiệt của cảnh “rừng hoang sương muối” những người đồng chí, đồng đội cùng nhau vững tay súng để chờ giặc tới như một hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho dân tộc. Trong cái cảnh vắng lặng bát ngát nơi rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi, lơ lửng nơi đầu súng – Hình ảnh người lính “áo vải chân không” hiện lên trong vẻ đẹp bình dị nhưng lại đầy chất thơ. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của Chính Hữu. Trăng và súng được đặt trong mối quan hệ với nhau để làm tôi vẻ đẹp hoàn mĩ nhất: VẺ ĐẸP NGƯỜI LÍNH – một vẻ đẹp không mang dáng ấp tráng sĩ như Chính Hữu có lần nhắc đến trong Ngày về hoặc trong Tây Tiến của Quang Dũng, mà cái đẹp ở đây là hình ảnh người lính nông dân ra trận vì lí tưởng độc lập tự do cho dân tộc. Để thực hiện lí tưởng cao đẹp đó, họ phải trải qua những cơn ớn lạnh nơi rừng hoang sương muối, mà đứng sát bên nhau trong những đêm hành quân phục kích và tìm trong nhau hơi ấm của tình người.
Hướng dẫn BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Chính Hữu từ người lính của Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. Bằng những trai nghiệm thực tê của mình, Chính Hữu đã khắc họa một cách sinh động và tuyệt đẹp về hình ảnh người lính cách mạng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng chí được xem như một giá trị mẫu mực của đề tài này. Mặc dù mới được ra đời vào khoảng đầu năm 1948 và đã nhanh chóng gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Riêng một số tác phẩm khác khi viết về người lính như trong bài Cú nước của Tố Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên. Đồng chí của Chính Hữu cũng đã mở ra một khuynh hướng mới trong thơ ca kháng chiến. Đó là cảm hứng hiện thực đã tái hiện bức tranh lịch sử và hình tượng người lính nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Họ là những con người bình dị, bình thường, hiền lành như cây cỏ, như những gì vốn có của quê hương làng mạc. Họ vốn xuất thân từ “Giếng nước gốc da”, từ những làng quê sau lũy tre nghèo khổ. Theo tiếng gọi của lịch sử, các anh từ già quê hương lên đường chiến đấu. Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi, đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Câu thơ là lời tâm sự của những con người từ mọi miền của đất nước. Những con người xa lạ ấy bỗng trở nên thân quen, bởi họ đã cảm nhận ở nhau ngay từ những ngày đầu đến với mặt trận. Họ là những con người có cùng chung cảnh ngộ, là cơ sở đầu tiên đã thắt chặt tình cảm giữa họ với nhau. Nơi đỉnh cao của sự gặp gờ này chính là lòng yêu nước đã thúc giục họ lên đường và giờ đây kề vai sát cánh bên nhau trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước. Hơn bao giờ hết, họ cảm nhận được sự hòa quyện, gắn bó keo sơn với nhau. Và hẳn nhiên họ trở thành tri kỉ với nhau. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Những người lính nông dân hiền lành như đất ấy đã thắp trong trái tim mình một lí tưởng, một lẽ sống cao đẹp: “chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh” [Tây Tiến – Quang Dũng), nghĩa là họ sẵn sàng xả thân hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện lẽ sống cao cả ấy, họ lại càng gắn kết với nhau, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ, họ đã trở thành tri kỉ, thành đồng chí. Hai tiếng “đồng chí” ở dòng thơ thứ bảy như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai của bài thơ. Sáu câu thơ trước hai tiếng ấy là cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí. Mười câu thơ tiếp sau là những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng chí những người lính. Với câu trúc đặc biệt ấy của câu thơ khơi gợi nhiều vang âm về tình đồng đội, đồng chí, là kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Chính vì vậy mà họ có sự hiểu biết và đồng cảm nhau hơn về những gì thuộc đời sống riêng tư còn ở phía sau lưng của họ. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Thật là cảm động! Đối với họ tình yêu đất nước là cao cả thiêng liêng. Ý thức trách nhiệm của một công dân, họ không ngần ngại, đã nhất quyết lên đường chiến đấu, để lại phía sau lưng mình mảnh ruộng chưa cày cùng nhờ người thân giúp hộ, mặc kệ những ngôi nhà bị gió tốc lung lay. Họ ra đi là đã quyết đấu biết rằng trong lòng họ vẫn còn bao điều vướng víu về quê hương, làng mạc. Ở đó, các anh cũng còn cha mẹ già, vợ con, bè bạn đang trông ngóng các anh trở về. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh quen thuộc thường được sử dụng trong ca dao dân ca để nói về quê hương, làng cảnh Việt Nam. Và qua đó, Chính Hữu đã thổi vào hình ảnh này một linh hồn như con người – Giếng nước gốc đa cũng biết nhớ người ra lính như tình cảm của một con người. Với tài năng sáng tạo của mình, Chính Hữu đã dựng nên một mối giao cảm vô cùng sâu sắc giữa người lính với quê hương – quê hương nhớ các anh hay là các anh luôn hướng về quê hương bằng một tình cảm chân thành tha thiết khôn nguôi! Có thể nói rằng: Tâm tư người lính đã được Chính Hữu thế hiện bằng tất cả tấm lòng của người chiến sĩ và bằng cả trái tim đầy nhạy cảm của một nghệ sĩ, tấm lòng ấy luôn hướng về những người đồng đội, đồng chí của mình. Tấm lòng ấy đã từng san sẻ những gian lao, thiếu thốn, bệnh tật mà người lính đã trải qua. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Dưới ngòi bút hiện thực, những khó khăn của người lính hiện lên một cách cụ thể và sinh động. Đó là cách trang phục phong phanh giữa mùa đông giá buốt: “Áo anh rách vai – Quần tôi có vài mảnh vá”, vậy mà các anh đã trải qua những “cơn ớn lạnh”, những cơn “sốt run người”. Đoạn thơ không thuần túy là lời kể khổ mà đằng sau lời kể là một vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Đó là tình cảm đồng đội, đồng chí mà họ sẵn sàng chia sẻ, động viên nhau vượt qua những khắc nghiệt của thực tại để hoàn thành mục đích cao cả là chiến đấu cho nền độc lập dân tộc. Trong cái rét run người ấy, đã hiện lên vẻ đẹp cao cả của tình đồng đội, họ động viên nhau, truyền cho nhau sức mạnh bằng những nụ cười buốt giá”, bằng hơi ấm từ những bàn tay nắm lây bàn tay: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là cách thể hiện một cách tinh tế của Chính Hữu về tình cảm đồng đội, đồng chí mà bản thân nhà thơ – người chiến sĩ ấy đã nhận ra từ đời sống thực của họ nơi chiến trường. Cũng từ trong hiện thực đời sống người lính đã ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, của niềm tin về sự chiến thắng. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Tình cảm đồng đội, đồng chí đã giúp họ vượt qua một hiện thực khắc nghiệt của cảnh “rừng hoang sương muối” để đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới. Người lính trong cánh phục kích giữa rừng khuya có một hình ảnh thật gần gũi, quen thuộc xuất hiện, đó là vầng trăng. “Đầu súng trăng treo” – hình ảnh nghệ thuật độc đáo này thể hiện tài năng tư duy sáng tạo của Chính Hữu. Chi vẻn vẹn có bốn tiếng làm nhiệm vụ kết thúc bài thơ và để lại một hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra bởi những liên tưởng phong phú: súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ… Đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. “Đầu súng trăng treo” cùng có thể xem là biêu tượng cho thơ ca kháng chiến – nền thơ kết hợp chất hiện thực vả cảm hứng lãng mạn. Chất hiện thực của câu thơ thể hiện ở chỗ, tác giả miêu tả một cách cụ thể về hình ảnh người lính giương súng chờ giặc trong đêm nơi “rừng hoang sương muối” là lúc mà có sự xuât hiện của vầng trăng. Yếu tố lãng mạn ở chỗ là hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng rất nên thơ. Mặt khác, trăng và súng là hai hình ảnh đối lập nhau nhưng lai đặt trong mối quan hệ với nhau! Trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, cho hòa bình, hạnh phúc và ước mơ vươn tới của con người. Súng là biểu tượng cho chiến tranh nhưng cũng trơ thảnh lí tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của người lính. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đôi lập nhưng hai hình ảnh này làm tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ của người lính. Không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu đã đưa ra ba hình ảnh (người lính, khẩu súng, vầng trăng) gắn kết đã đưa ra trong không gian hiện thực của cảnh “Rừng hoang sương muối” mà qua đó nhà thơ muốn khẳng định khát vọng về cuộc sống yên bình. Để thực hiện điều đó, người lính bấy giờ phải cầm súng đánh giặc.
Hướng dẫn BÀI VĂN BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Chính Hữu từ người lính của Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. Bằng những trai nghiệm thực tê của mình, Chính Hữu đã khắc họa một cách sinh động và tuyệt đẹp về hình ảnh người lính cách mạng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng chí được xem như một giá trị mẫu mực của đề tài này. Mặc dù mới được ra đời vào khoảng đầu năm 1948 và đã nhanh chóng gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Riêng một số tác phẩm khác khi viết về người lính như trong bài Cú nước của Tố Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên. Đồng chí của Chính Hữu cũng đã mở ra một khuynh hướng mới trong thơ ca kháng chiến. Đó là cảm hứng hiện thực đã tái hiện bức tranh lịch sử và hình tượng người lính nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Họ là những con người bình dị, bình thường, hiền lành như cây cỏ, như những gì vốn có của quê hương làng mạc. Họ vốn xuất thân từ “Giếng nước gốc da”, từ những làng quê sau lũy tre nghèo khổ. Theo tiếng gọi của lịch sử, các anh từ già quê hương lên đường chiến đấu. Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi, đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Câu thơ là lời tâm sự của những con người từ mọi miền của đất nước. Những con người xa lạ ấy bỗng trở nên thân quen, bởi họ đã cảm nhận ở nhau ngay từ những ngày đầu đến với mặt trận. Họ là những con người có cùng chung cảnh ngộ, là cơ sở đầu tiên đã thắt chặt tình cảm giữa họ với nhau. Nơi đỉnh cao của sự gặp gờ này chính là lòng yêu nước đã thúc giục họ lên đường và giờ đây kề vai sát cánh bên nhau trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước. Hơn bao giờ hết, họ cảm nhận được sự hòa quyện, gắn bó keo sơn với nhau. Và hẳn nhiên họ trở thành tri kỉ với nhau. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Những người lính nông dân hiền lành như đất ấy đã thắp trong trái tim mình một lí tưởng, một lẽ sống cao đẹp: “chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh” [Tây Tiến – Quang Dũng), nghĩa là họ sẵn sàng xả thân hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện lẽ sống cao cả ấy, họ lại càng gắn kết với nhau, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ, họ đã trở thành tri kỉ, thành đồng chí. Hai tiếng “đồng chí” ở dòng thơ thứ bảy như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai của bài thơ. Sáu câu thơ trước hai tiếng ấy là cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí. Mười câu thơ tiếp sau là những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng chí những người lính. Với câu trúc đặc biệt ấy của câu thơ khơi gợi nhiều vang âm về tình đồng đội, đồng chí, là kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Chính vì vậy mà họ có sự hiểu biết và đồng cảm nhau hơn về những gì thuộc đời sống riêng tư còn ở phía sau lưng của họ. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Thật là cảm động! Đối với họ tình yêu đất nước là cao cả thiêng liêng. Ý thức trách nhiệm của một công dân, họ không ngần ngại, đã nhất quyết lên đường chiến đấu, để lại phía sau lưng mình mảnh ruộng chưa cày cùng nhờ người thân giúp hộ, mặc kệ những ngôi nhà bị gió tốc lung lay. Họ ra đi là đã quyết đấu biết rằng trong lòng họ vẫn còn bao điều vướng víu về quê hương, làng mạc. Ở đó, các anh cũng còn cha mẹ già, vợ con, bè bạn đang trông ngóng các anh trở về. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh quen thuộc thường được sử dụng trong ca dao dân ca để nói về quê hương, làng cảnh Việt Nam. Và qua đó, Chính Hữu đã thổi vào hình ảnh này một linh hồn như con người – Giếng nước gốc đa cũng biết nhớ người ra lính như tình cảm của một con người. Với tài năng sáng tạo của mình, Chính Hữu đã dựng nên một mối giao cảm vô cùng sâu sắc giữa người lính với quê hương – quê hương nhớ các anh hay là các anh luôn hướng về quê hương bằng một tình cảm chân thành tha thiết khôn nguôi! Có thể nói rằng: Tâm tư người lính đã được Chính Hữu thế hiện bằng tất cả tấm lòng của người chiến sĩ và bằng cả trái tim đầy nhạy cảm của một nghệ sĩ, tấm lòng ấy luôn hướng về những người đồng đội, đồng chí của mình. Tấm lòng ấy đã từng san sẻ những gian lao, thiếu thốn, bệnh tật mà người lính đã trải qua. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Dưới ngòi bút hiện thực, những khó khăn của người lính hiện lên một cách cụ thể và sinh động. Đó là cách trang phục phong phanh giữa mùa đông giá buốt: “Áo anh rách vai – Quần tôi có vài mảnh vá”, vậy mà các anh đã trải qua những “cơn ớn lạnh”, những cơn “sốt run người”. Đoạn thơ không thuần túy là lời kể khổ mà đằng sau lời kể là một vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Đó là tình cảm đồng đội, đồng chí mà họ sẵn sàng chia sẻ, động viên nhau vượt qua những khắc nghiệt của thực tại để hoàn thành mục đích cao cả là chiến đấu cho nền độc lập dân tộc. Trong cái rét run người ấy, đã hiện lên vẻ đẹp cao cả của tình đồng đội, họ động viên nhau, truyền cho nhau sức mạnh bằng những nụ cười buốt giá”, bằng hơi ấm từ những bàn tay nắm lây bàn tay: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là cách thể hiện một cách tinh tế của Chính Hữu về tình cảm đồng đội, đồng chí mà bản thân nhà thơ – người chiến sĩ ấy đã nhận ra từ đời sống thực của họ nơi chiến trường. Cũng từ trong hiện thực đời sống người lính đã ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, của niềm tin về sự chiến thắng. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Tình cảm đồng đội, đồng chí đã giúp họ vượt qua một hiện thực khắc nghiệt của cảnh “rừng hoang sương muối” để đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới. Người lính trong cánh phục kích giữa rừng khuya có một hình ảnh thật gần gũi, quen thuộc xuất hiện, đó là vầng trăng. “Đầu súng trăng treo” – hình ảnh nghệ thuật độc đáo này thể hiện tài năng tư duy sáng tạo của Chính Hữu. Chi vẻn vẹn có bốn tiếng làm nhiệm vụ kết thúc bài thơ và để lại một hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra bởi những liên tưởng phong phú: súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ… Đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. “Đầu súng trăng treo” cùng có thể xem là biêu tượng cho thơ ca kháng chiến – nền thơ kết hợp chất hiện thực vả cảm hứng lãng mạn. Chất hiện thực của câu thơ thể hiện ở chỗ, tác giả miêu tả một cách cụ thể về hình ảnh người lính giương súng chờ giặc trong đêm nơi “rừng hoang sương muối” là lúc mà có sự xuât hiện của vầng trăng. Yếu tố lãng mạn ở chỗ là hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng rất nên thơ. Mặt khác, trăng và súng là hai hình ảnh đối lập nhau nhưng lai đặt trong mối quan hệ với nhau! Trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, cho hòa bình, hạnh phúc và ước mơ vươn tới của con người. Súng là biểu tượng cho chiến tranh nhưng cũng trơ thảnh lí tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của người lính. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đôi lập nhưng hai hình ảnh này làm tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ của người lính. Không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu đã đưa ra ba hình ảnh (người lính, khẩu súng, vầng trăng) gắn kết đã đưa ra trong không gian hiện thực của cảnh “Rừng hoang sương muối” mà qua đó nhà thơ muốn khẳng định khát vọng về cuộc sống yên bình. Để thực hiện điều đó, người lính bấy giờ phải cầm súng đánh giặc.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÌNH GIẢNG BÀI THƠ THAM KHẢO Nguyễn Khoa Điềm là người con của đất Thừa Thiên Huế được sinh ra trong một gia đình trí thức cách mạng. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông về quê hương miền Nam tham gia chiến đấu. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được sáng tác năm 1971, khi ông đang công tác ở chiến khu miền Tây Thừa Thiên. Hình ảnh người mẹ được nói đến trong bài thơ là người mẹ Tà-ôi có tình thương yêu con, thương làng bản, thương bộ đội, thương đất nước, với khát vọng tự do trong cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dùng của dân tộc. Bài thơ ra đời giữa những tháng nãm quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trên cả hai miền Nam Bắc, và đã nhanh chóng làm xúc động đến hàng triệu trái tim người đọc, bởi những gì bài thơ thể hiện là sự phản ánh từ hiện thực qua cái nhìn, cái cảm và sự thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ có ba khúc được sáng tạo theo âm điệu dân ca. Mở đầu mỗi khúc ca là một điệp khúc ngọt ngào tha thiết: Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ Và kết thúc từng khúc ca là lời ru trực tiếp của người mẹ vang lên: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội Con mơ cho mẹ… Ớ mỗi khúc ca là sự gắn kết giữa công việc người mẹ đang làm với tình cảm ước mong của người mẹ. Khúc ca thứ nhất là tiếng ru của người mẹ khi điệu con giã gạo. Diễn tả công việc vất vả này, Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ giàu sức gợi cảm: Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối! Lưng đưa nôi và tim hát thành lời. Hình ánh “nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng” rất thực và cũng rất gợi. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ miêu tả sự vất vả của người mẹ và còn cảm thông sẻ chia và sự đặc biệt là sự gắn bó giữa người mẹ và đứa con trong mọi hoàn cảnh. Đứa con được sinh ra và lớn lên trên lưng mẹ, hạnh phúc bên người mẹ và lớn lên từng ngày. Một chuỗi hình ảnh được sử dụng có sức diễn đạt rất “đắc” – má em nóng hổi vì mồ hôi mẹ tuôn rơi, vai mẹ gầy làm gối, lưng mẹ làm chiếc nôi để con lớn lên, tỉm mẹ dạt dào tình yêu thương và đã “hát thành lời”. Tất cả đã gợi lỏn tình cảm yêu thương con tha thiết. Người mẹ thật vất vả và có những ước mơ rất thực. Vì đang giã gạo nuôi bộ đội nên mẹ ước: “Con mo’ cho mẹ hạt gạo trắng ngần – Mai sau con lớn vung chày lún sâu”. Đoạn thơ thứ hai là khúc ca của người mẹ khi tỉa bắp trên núi Ka-lưi: Mẹ đang tía bắp trên núi Ka-lưi Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Em ngủ ngon em đừng làm mẹ mỏi Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng “Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi” nghĩa là đang làm công việc lao động sản xuất của người dân chiến khu. Hình ảnh vất vả của người mẹ được Nguyễn Khoa Điềm miêu tả thật sinh động và tuyệt đẹp trong hình ảnh “lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”. Hiện diện trong bức tranh rộng lớn, hùng vĩ của miền núi Tây Thừa Thiên là hình ảnh người mẹ Tà-ôi, gian khổ, kiên nhẫn, chịu đựng. Với cách so sánh “lưng núi” với “lưng mẹ” là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm tạo được ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người mẹ. Hình ảnh “mặt trời” được nói đến nhiều trong ca dao, dân ca và trong thi ca dân tộc, và ở trong bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm cũng có cách thể hiện độc đáo, sáng tạo trong ngòi bút so sánh, ẩn dụ gợi sự liên tưởng đẹp, giàu ý nghĩa thẩm mĩ: Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng “Mặt trời của bắp” là mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ, là nguồn sáng vĩnh cứu đem lại sự sống trên trái đất này. Từ mặt trời vũ trụ, Nguyễn Khoa Điềm liên tưởng đến “mặt trời của mẹ”: Mặt trời cùa mẹ, em nằm trên lưng Câu thơ giản dị nhưng giàu ý nghĩa. “Mặt trời của mẹ” là hình ánh án dụ gợi cho người đọc cảm nhận được đó là hình ảnh em cu Tai là niềm tin, niềm hạnh phúc, niềm tự hào của người mẹ. Câu thơ chân thành và thấm thía, thể hiện tình cảm thiết tha của người mẹ Tà-ôi và cùng chia sẻ niềm tự hào của người mẹ với nhửng ước mong tốt đẹp của mình. Vì mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi, nên mẹ ước: “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”. Ước mơ của mẹ thật chân thành, tha thiết, có cả niềm hy vọng tự hào. Ở đoạn một và hai của bài thơ, ta thấy tình thương con người của người mẹ gắn với tình thương bộ đội, tình thương buôn làng, quê hương gian khổ. Bởi vậy, mẹ luôn mong ước “hạt gạo trắng ngần”, “hạt bắp lên đều”, ước mong con được chóng khôn để trở thanh chàng trai cường tráng, mạnh mẽ trong lao động sản xuất. Ở khúc ca thứ ba nhịp thơ dồn dập, vang ngân gợi dậy không khí sôi nổi lên dường đánh giặc Mĩ của mọi tầng lớp. Mẹ đang chuyển láng, mẹ cố đạp rừng Thằng Mĩ đuổi là phải rời con suối Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông Mẹ diệu con đi để giành trận cuối Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường Từ trong đói khổ em cáo Trường Sơn Người mẹ Tà-ôi không chỉ bền bĩ trong lao động sản xuất mà còn mạnh mẽ, kiên cường trong chiến đấu. Mẹ ý thức rõ rệt về lẽ sống và mục đích của cuộc chiến đấu mà cả dân tộc ta đang tiến hành, đó là công cuộc đấu tranh chống Mĩ, giải phóng miền Nam Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã tạo dựng một hình ảnh thơ giàu chất hiện thực, khiến người đọc cảm nhận được những vang âm của một thời oanh liệt, khi mà quân dân cả nước dồn dập lên đường “để giành trận cuối”. Cũng chính vì điệu con đi “để giành trận cuối” nên mẹ mới: “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ – Mai sau con lớn làm người tự do.. ”. Mơ được thấy Bác Hồ là mơ ước nước nhà được thống nhất, Bắc – Nam sum họp, mong ước con được làm người dân của một nước hòa bình, tự do. Khúc ca thể hiện tình thương con của người mẹ gắn với tình yêu đất nước đang anh dũng kháng chiến. Trong bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm không để cho người mẹ trực tiếp nói lên những ước mơ của mình mà gửi trọn niềm mơ ước đó và đứa con: “Con mơ cho mẹ”, nghĩa là người mẹ đã gửi trọn niềm mong mỏi vào giấc mơ của đứa con. Mẹ mong con mình ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp – giấc mơ ấy được thăng tiến qua ba đoạn thơ. Điều đó thể hiện tình cảm khát vọng của người mẹ ngày càng rộng lớn, ngày càng hòa cùng công việc kháng chiến gian khổ, anh dũng của quê hương, đất nước.
Instruct CONTENT OF COMMENTARY REFERENCE POEM Nguyen Khoa Diem is a son of Thua Thien Hue, born into a family of revolutionary intellectuals. After graduating from Hanoi University of Education in 1964, he returned to his hometown in the South to join the fighting. The poem Khuc sings a lullaby to the big babies on their mother's back was composed in 1971, while he was working in the western war zone of Thua Thien. The image of the mother mentioned in the poem is the Ta-oi mother who has love for her children, for the village, for the soldiers, for the country, with a desire for freedom in the persistent resistance war, which she uses for the people. clan. The poem was born in the midst of the most fierce years of the resistance war against America to save the country in both the North and South, and quickly touched the hearts of millions of readers, because what the poem expressed was the Reflecting reality through the views, feelings and expressions of Nguyen Khoa Diem. The poem has three parts created according to folk music. Each song begins with a sweet, earnest chorus: Tai's little brother sleeps on mom's back Sleep well and don't leave mom's back And at the end of each song, the mother's direct lullaby resounds: Sleep well a-kay, sleep well a-kay Mom loves a-kay, mom loves the soldiers I dream for you mom… In each song is the connection between the work the mother is doing and the mother's wishes. The first song is the mother's lullaby as she dances to her child pounding rice. Describing this hard work, Nguyen Khoa Diem wrote evocative verses: Mother pounded rice to feed the soldiers The rhythm of the baseball tilts, my sleep tilts Mom's sweat fell on my hot cheeks Mom's skinny shoulders undulate as pillows! The back rocks the cradle and the heart sings into words. The image of "the rhythm of the baseball bat tilting as you sleep" is very realistic and also very evocative. Nguyen Khoa Diem not only describes the hardships of a mother but also sympathizes and shares, and especially the bond between mother and child in all circumstances. The child is born and grows up on the mother's back, is happy with the mother and grows every day. A series of images are used that are very expressive - the baby's cheeks are hot from the mother's sweat, the mother's thin shoulders are used as pillows, the mother's back is a cradle for the child to grow up, the mother's heart is full of love. and "sang it out loud". All of this evoked my sincere love for my child. The mother worked hard and had very real dreams. Because she was pounding rice to feed the soldiers, her mother wished: "Please give me white rice grains - Tomorrow when you grow up, you will swing the pestle and sink deeply." The second stanza is the mother's song while trimming corn on Ka-lui mountain: Mother is harvesting corn on Ka-li mountain The back of the mountain is big but the back of the mother is small Sleep well, don't make mom tired The corn sun is on the hill The sun of my mother lying on her back "Mom is trimming corn on Mount Ka-li" means she is doing productive labor for people in the war zone. The image of a mother's hardships is described vividly and beautifully by Nguyen Khoa Diem in the image "the mountain's back is big but the mother's back is small". Present in the vast, majestic picture of the mountainous region of Western Thua Thien is the image of mother Ta-oi, arduous, patient, and enduring. The comparison of "mountain back" with "mother's back" is a unique creation of Nguyen Khoa Diem, creating a deep impression on the image of a mother. The image of "sun" is mentioned a lot in folk songs, folk songs and national poetry, and in this poem, Nguyen Khoa Diem also has a unique and creative way of expressing himself in the pen of comparison and concealment. Example that evokes beautiful associations, rich in aesthetic meaning: The corn sun is on the hill The sun of my mother lying on her back "The sun of corn" is the sun of nature and the universe, the eternal source of light that brings life on this earth. From the cosmic sun, Nguyen Khoa Diem thinks of "mother's sun": Mother's sun, I lie on her back The poem is simple but rich in meaning. "Mother's sun" is a metaphor that makes the reader feel that the image of Tai is the mother's faith, happiness, and pride. The poem is sincere and poignant, expressing the passionate feelings of Ta-oi's mother and sharing the mother's pride with her good wishes. Because my mother was trimming corn on Ka-li mountain, she made a wish: "I dream that the corn seeds will grow evenly for me - Tomorrow when I grow up I will give ten ka-li." Mother's dream was sincere, earnest, and had proud hope. In paragraphs one and two of the poem, we see that the mother's love for people is associated with the love for the soldiers, the love for the village and the arduous homeland. Therefore, my mother always wished for "white rice grains", "even corn kernels", and wished for her child to be smart enough to become a strong and strong young man in productive labor. In the third song, the rhythm of the poem is rapid and resonant, evoking the exciting atmosphere of fighting the American enemy from all walks of life. Mom is moving, trying to push through the forest The American chased him and had to leave the stream The brother holds a gun, the sister holds a spear Mom told me to go to win the final match From my mother's back to the battlefield Out of hunger and suffering, I reported to Truong Son The Ta-oi mother is not only persistent in productive labor but also strong and resilient in combat. Mother was clearly aware of the reason for life and the purpose of the fight that our whole nation was waging, which was the fight against America and the liberation of South Vietnam. Nguyen Khoa Diem has created a poetic image rich in realism, making readers feel the echoes of a glorious time, when soldiers and people across the country rushed out "to win the final battle". It was also because I took my child "to win the last battle" that my mother said: "I dream for you to see Uncle Ho - Someday you will grow up and be a free person...". Dreaming of seeing Uncle Ho is the dream of the country being unified, the North and South reuniting, the dream of being a citizen of a peaceful and free country. The song shows a mother's love for her child combined with her love for the country that is heroically resisting. In the poem, Nguyen Khoa Diem does not let the mother directly state her dreams but sends her whole dream to her child: "I dream for you", meaning the mother has sent all her wishes to her. child's dream. The mother hopes her child sleeps well and has beautiful dreams - that dream is promoted through three verses. This shows that the mother's feelings and aspirations are becoming broader and more integrated with the arduous and heroic resistance work of the homeland and the country.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Kim Lân là nhà văn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Truyện của ông hầu như chỉ tập trung viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là ông Hai, người làng Chợ Dầu. Dưới ngòi bút tâm lí sắc sảo về người nông dân của Kim Lân, hình ảnh ông Hai hiện lên một cách sinh động và tuyệt đẹp về tình yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Ông Hai là hiện thân của cách suy nghĩ và hành động cao đẹp như những gì vốn có của con người Việt Nam, mà trước hết là tầng lớp bình dân. Ông Hai rất yêu và tự hào cái làng của mình. Tình cảm ấy được thế hiện trước hết ở cái tính hay “khoe” làng, tự hào cái lảng Chợ Dầu của mình về nhiều mặt: Ông khoe làng ông giàu đẹp “Nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng, cuối xóm, bùn không dính đến gót chân”. Trước Cách mạng, mỗi bận đi đâu xa, ông thường khoe cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên ngoại 0′ dưới tỉnh nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem làng cụ Thượng cho kì được. Ông rất hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ây lắm. Nhưng về sau, cách mạng đã giúp ông thay đôi nhận thức, ông Hai không lấy làm tự hào về cái sinh phần của viên tống đốc, ông Hai tự hào về những cái khác, đó là phong trào cách mạng của làng sôi nổi, rất có khí thế, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân vào cuộc phóng chiến toàn dân. Ông còn khoe về “cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhât vùng, cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi ca làng đều nghe”. Mỗi lần kể chuyện về làng của mình, ông nói một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẵn lên, cái mặt ông biến chuyển, hoạt động”. Vì yêu làng cho nên ông tình nguyện và hăng hái ở lại làng cùng đội du kích chiến đấu. Do hoàn cảnh gia đình mà phải đi tản cư. Đó là con đường bất đắc dĩ mà ông phải lựa chọn. Trong cách lựa chọn này đả nảy ra ý nghĩ trong ông: “thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là khổng chiến”. Những ngày xa làng ông rất khổ tâm, day dứt nhớ làng, nhớ các anh em đồng chí ở lại làng. Ông tiếc là không được ở lại làng để cùng góp phần vào công việc chung của người ở lại. Tình yêu làng của ông Hai là như thế. Ông khoe làng cốt là để làm vơi đi nỗi nhớ làng của mình. Tình yêu làng của ông Hai là thống nhất với tình yêu nước, với tinh thần kháng chiến. Dưới ngòi bút tâm lí sắc sảo của mình, Kim Lân đã lột tả được diễn biến tâm lí của ông Hai khi nghe tin đồn về làng ông theo giặc. Trước cái tin đột ngột ấy, ông Hai sừng sở: “Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được…”. Khi tĩnh lại được phần nào, ông hai cố không tin cái tin ấy. Nhưng không tin làm sao được bởi lời nói của những người tản cư còn khẳng định kia mà! Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành cái ám ảnh day dứt khiến ông phải “cúi gầm mặt xuống mà đi”, về đến nhà ông “nằm vật ra giường”. Rồi tủi thân khi nhìn thây lũ con “nước mắt ông lão cứ trào ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hất hủi đấy ư?…” Thế là một cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra quyết liệt trong ông – Một tiếng thét căm hờn cất lên từ trong sâu thẳm của làng ông, nhưng bỗng dưng ngừng lại, bởi có lúc ông không tin cả làng theo ông, nhưng bỗng dưng ngừng lại, bởi có lúc ông không tin cả làng theo Tây là sự thật. Ông lần lượt kiểm điểm từng người một trong óc: “không mà, họ toàn là những con người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!…”. Bây giờ trong ông còn là một nỗi đau dằn xé. Trong niềm tin và nôi ngô ấy đang chiếm sâu và nỗi dằn vặt trong ông. Đến đây, ông Hai trằn trọc không ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Có lúc ông “lãng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tướng chừng như không cất lên được”. Thế là suốt mấy ngày sau, ông Hai chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng binh tình bên ngoài. Khi thấy một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lui ra một góc nhà, nín thít. Còn một điều nữa, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là việc mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Tâm trạng ông Hai bị đấy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng. Đi đâu bây giờ. Câu hỏi ấy là nỗi ám ảnh dằn xé trong ông. Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”, cũng không thể quay về làng “về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ”, Ngần ấy chi tiết, Kim Lân đã miêu tả một cách cụ thể nỗi ám ánh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông khi nghe tin làng mình theo giặc. Qua đó bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông. Trong cái tình yêu làng, yêu nước ấy của ông Hai cũng diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Có lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là cách lựa chọn dứt khoát của ông Hai. Ông đã đặt tình yêu nước lên trên hết. Tình yêu nước bao trùm lên tình cảm với làng quê. Dù xác định như thế, ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng của ông. vì thế ông cũng đau xót, tủi hổ. Giữa lúc tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chĩ còn cách ôm con vào lòng mà than thở cùng con như để ngỏ lòng mình, như để nhìn lại mà minh oan cho mình nữa: “Anh em đồng chí có biết cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Tình yêu làng, lòng chung thủy với kháng chiến, với cách mạng mà biếu tượng là Cụ Hồ của ông Hai là như thế ấy, một tình yêu làng sâu nặng thiêng liêng. Và cũng chính thế mà ông đã rất mừng rỡ khi biết đích xác những lời đồn đại kia là láo toét. Ông di mua quà chia cho các con, vui vẻ chạy sang nhà bác Thứ báo tin mà lòng phấn khởi, đầy tự hào: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả”. Cũng chỉ bằng ấy câu, ông Hai lật đật bỏ đi nơi khác để loan báo tin vui. Và cũng từ ngay tối hôm đó ông trở lại nhà bác Thứ để mà nói chuyện về cái làng của ông. Ở ông không gì hơn là tình yêu làng. Tình yêu làng gắn với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến là nét mới mẻ của nhân vật ông Hai.
Hướng dẫn NỘI DUNG BÀI BÌNH GIẢNG THAM KHẢO Kim Lân là nhà văn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Truyện của ông hầu như chỉ tập trung viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là ông Hai, người làng Chợ Dầu. Dưới ngòi bút tâm lí sắc sảo về người nông dân của Kim Lân, hình ảnh ông Hai hiện lên một cách sinh động và tuyệt đẹp về tình yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Ông Hai là hiện thân của cách suy nghĩ và hành động cao đẹp như những gì vốn có của con người Việt Nam, mà trước hết là tầng lớp bình dân. Ông Hai rất yêu và tự hào cái làng của mình. Tình cảm ấy được thế hiện trước hết ở cái tính hay “khoe” làng, tự hào cái lảng Chợ Dầu của mình về nhiều mặt: Ông khoe làng ông giàu đẹp “Nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng, cuối xóm, bùn không dính đến gót chân”. Trước Cách mạng, mỗi bận đi đâu xa, ông thường khoe cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên ngoại 0′ dưới tỉnh nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem làng cụ Thượng cho kì được. Ông rất hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ây lắm. Nhưng về sau, cách mạng đã giúp ông thay đôi nhận thức, ông Hai không lấy làm tự hào về cái sinh phần của viên tống đốc, ông Hai tự hào về những cái khác, đó là phong trào cách mạng của làng sôi nổi, rất có khí thế, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân vào cuộc phóng chiến toàn dân. Ông còn khoe về “cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhât vùng, cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi ca làng đều nghe”. Mỗi lần kể chuyện về làng của mình, ông nói một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẵn lên, cái mặt ông biến chuyển, hoạt động”. Vì yêu làng cho nên ông tình nguyện và hăng hái ở lại làng cùng đội du kích chiến đấu. Do hoàn cảnh gia đình mà phải đi tản cư. Đó là con đường bất đắc dĩ mà ông phải lựa chọn. Trong cách lựa chọn này đả nảy ra ý nghĩ trong ông: “thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là khổng chiến”. Những ngày xa làng ông rất khổ tâm, day dứt nhớ làng, nhớ các anh em đồng chí ở lại làng. Ông tiếc là không được ở lại làng để cùng góp phần vào công việc chung của người ở lại. Tình yêu làng của ông Hai là như thế. Ông khoe làng cốt là để làm vơi đi nỗi nhớ làng của mình. Tình yêu làng của ông Hai là thống nhất với tình yêu nước, với tinh thần kháng chiến. Dưới ngòi bút tâm lí sắc sảo của mình, Kim Lân đã lột tả được diễn biến tâm lí của ông Hai khi nghe tin đồn về làng ông theo giặc. Trước cái tin đột ngột ấy, ông Hai sừng sở: “Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được…”. Khi tĩnh lại được phần nào, ông hai cố không tin cái tin ấy. Nhưng không tin làm sao được bởi lời nói của những người tản cư còn khẳng định kia mà! Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành cái ám ảnh day dứt khiến ông phải “cúi gầm mặt xuống mà đi”, về đến nhà ông “nằm vật ra giường”. Rồi tủi thân khi nhìn thây lũ con “nước mắt ông lão cứ trào ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hất hủi đấy ư?…” Thế là một cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra quyết liệt trong ông – Một tiếng thét căm hờn cất lên từ trong sâu thẳm của làng ông, nhưng bỗng dưng ngừng lại, bởi có lúc ông không tin cả làng theo ông, nhưng bỗng dưng ngừng lại, bởi có lúc ông không tin cả làng theo Tây là sự thật. Ông lần lượt kiểm điểm từng người một trong óc: “không mà, họ toàn là những con người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!…”. Bây giờ trong ông còn là một nỗi đau dằn xé. Trong niềm tin và nôi ngô ấy đang chiếm sâu và nỗi dằn vặt trong ông. Đến đây, ông Hai trằn trọc không ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Có lúc ông “lãng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tướng chừng như không cất lên được”. Thế là suốt mấy ngày sau, ông Hai chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng binh tình bên ngoài. Khi thấy một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lui ra một góc nhà, nín thít. Còn một điều nữa, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là việc mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Tâm trạng ông Hai bị đấy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng. Đi đâu bây giờ. Câu hỏi ấy là nỗi ám ảnh dằn xé trong ông. Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”, cũng không thể quay về làng “về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ”, Ngần ấy chi tiết, Kim Lân đã miêu tả một cách cụ thể nỗi ám ánh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông khi nghe tin làng mình theo giặc. Qua đó bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông. Trong cái tình yêu làng, yêu nước ấy của ông Hai cũng diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Có lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là cách lựa chọn dứt khoát của ông Hai. Ông đã đặt tình yêu nước lên trên hết. Tình yêu nước bao trùm lên tình cảm với làng quê. Dù xác định như thế, ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng của ông. vì thế ông cũng đau xót, tủi hổ. Giữa lúc tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chĩ còn cách ôm con vào lòng mà than thở cùng con như để ngỏ lòng mình, như để nhìn lại mà minh oan cho mình nữa: “Anh em đồng chí có biết cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Tình yêu làng, lòng chung thủy với kháng chiến, với cách mạng mà biếu tượng là Cụ Hồ của ông Hai là như thế ấy, một tình yêu làng sâu nặng thiêng liêng. Và cũng chính thế mà ông đã rất mừng rỡ khi biết đích xác những lời đồn đại kia là láo toét. Ông di mua quà chia cho các con, vui vẻ chạy sang nhà bác Thứ báo tin mà lòng phấn khởi, đầy tự hào: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả”. Cũng chỉ bằng ấy câu, ông Hai lật đật bỏ đi nơi khác để loan báo tin vui. Và cũng từ ngay tối hôm đó ông trở lại nhà bác Thứ để mà nói chuyện về cái làng của ông. Ở ông không gì hơn là tình yêu làng. Tình yêu làng gắn với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến là nét mới mẻ của nhân vật ông Hai.