vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Giới thiệu khái quát huyện An Dương Từ xa xưa huyện An Dương (An Hải cũ) đã có tên trong cuốn lịch sử địa lý đầu tiên của nước ta. Thời đó huyện có 63 xã, với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt. Ngày 11/9/1887, thực dân Pháp lập ra tỉnh Hải Phòng bao gồm 3 huyện Nghi Dương, An Lão và An Dương. Huyện An Dương bị thu hẹp lại với diện tích 11.245 ha. Năm 1966 thành phố sáp nhập huyện Hải An và huyện An Dương thành huyện An Hải có diện tích 20,842 ha, dân số trên 230.000 người. Tháng 5/2003, do yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố, Chính phủ đã ban hành Nghị định 106 điều chỉnh địa giới hành chính và tách huyện An Hải thành quận Hải An và huyện An Dương. An Dương là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, huyện là một bộ phận không thể tách rời của thành phố. Trải qua hàng ngàn năm các thế hệ người dân nơi đây bằng bàn tay khối óc, bằng xương máu của mình cần cù, dũng cảm trong xây dựng cuộc sống, kiên cường bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân An Dương đã đứng lên đánh địch, toàn huyện một lòng theo Đảng, lập nên những chiến công oanh liệt, tô thắm thêm truyền thống yêu nước, bất khuất của quê hương. Truyền thống thượng võ Bạch Đằng đã luôn luôn cổ vũ ý chí quật cường của các thế hệ người dân nơi đây. Bằng sức mạnh truyền thống đánh giặc cứu nước, ngay từ đầu cuộc kháng chiến, quân dân huyện An Dương đã xây dựng phòng tuyến Cam Lộ – An Dương kiên cường, đại đội du kích Đặng Cương dũng cảm. Chính trên trận địa này, quân và dân huyện đã mở đầu truyền thống đánh giao thông đường 5 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương ”Tháng 6 năm 1947, du kích An Dương đánh trận mìn đầu tiên”, góp phần tô thắm truyền thống ”Trung dũng của quân và dân Hải – Kiến”. Huyện An Dương, Hải Phòng, xứng danh truyền thống lịch sử Sau 10 năm tái lập, thu nhập bình quân của huyện An Dương đã đạt 1.450 USD, đưa huyện An Dương dần trở thành một trong các huyện có tốc độ đô thị, công nghiệp cao của cả nước. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định điều chỉnh lại địa giới hành chính Hải Phòng. Theo đó, một số xã ven các quận nội thành Hải Phòng của huyện An Hải với tốc độ độ thị cao được sát nhập thành quận Hải An; một số được sát nhập về quận Lê Chân; 15 xã, một thị trấn thuần nông còn lại được tái thành lập huyện An Dương. Sau 10 năm tái lập, thu nhập bình quân của huyện An Dương đã đạt 1.450 USD, đưa huyện An Dương dần trở thành một trong các huyện có tốc độ đô thị, công nghiệp cao của cả nước. Từ truyền thống lịch sử Từ đời Lê về trước, huyện An Dương đã có 7 người thi đỗ đại khoa; huyện có nhiều di tích lịch sử văn hoá như, đình Tràng Duệ, đình Dụ Nghĩa, đình Hà Đậu, chùa Vân Tra, đình Tri Yếu, đình Đồng Dụ, đình Nhu Thượng, đình Vĩnh Khê…huyện đã phát huy truyền thống vùng đất giàu lịch sử, thượng võ Bạch Đằng, kiên cường bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Thời gian đầu mới tái lập huyện, mặc dù được xác định là địa phương có nhiều thuận lợi về giao thông đường bộ, đường thủy như cả hai quốc lộ 5, quốc lộ 10; hai con sông chính từ Cảng Hải Phòng tỏa đi các tỉnh phía Bắc, vị trí này được đánh giá là những tuyến giao thông huyết mạch phía Đông Bắc đều chạy qua địa bàn huyện. Tuy nhiên, với diện tích tự nhiên gần 10.000 km2, dân số hơn 134 nghìn người, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên An Dương gặp không ít khó khăn khi thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. GDP bình quân đầu người đạt thời kỳ này mới chỉ đạt hơn 5 triệu đồng/năm. Theo ghi nhận của huyện An Dương, trên từng hoạt động cụ thể, lĩnh vực vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và giá trị gia tăng ngành dịch vụ tuy vẫn duy trì được mức tăng trưởng nhưng vẫn chưa đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết HĐND Huyện đề ra. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp vẫn còn gặp khó khăn khi việc vay vốn đầu tư chiều sâu cải tiến công nghệ vẫn còn chậm. Trong sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhìn chung vẫn còn chậm, lúng túng. Lĩnh vực văn hóa – xã hội tuy đạt được nhiều tiến bộ song vẫn còn những vấn đề bất cập như: đào tạo nghề, giải quyết việc làm, huy động quỹ đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, phòng chống lụt bão…đạt thấp. Một số tệ nạn xã hội có lúc, có nơi vẫn chưa được đẩy lùi; công tác bảo đảm an toàn giao thông tuy đã được quan tâm nhưng chưa đúng mức. Phát huy truyền thống cách mạng Ông Nguyễn Văn Hoàn – Chủ tịch UBND huyện An Dương bày tỏ, sau thời gian vất vả tìm hướng đi cho huyện, Huyện ủy, UBND huyện An Dương đã được Thành ủy, UBND TP Hải Phòng nhất trí chủ trương phát triển kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, kết hợp đầu tư chiều sâu cho sản xuất nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Theo đánh giá của UBND TP Hải Phòng, trong 10 năm tái lập huyện, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của An Dương luôn đạt 12,77%. Trong đó tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt 3,37%, giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha canh tác năm 2012 đạt 72 triệu đồng, tăng 18,5 triệu đồng/ 1ha so với năm đầu tái lập; tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp – xây dựng bình quân 10 năm đạt 18,36%; ngành thương mại-dịch vụ tăng 18,42%; thu nhập bình quân đầu người năm 2012 đạt 1.450 USD. Nhiều công trình đầu tư lớn hoàn thành, đưa vào khai thác; nhiều lĩnh vực xuất hiện những mô hình, nhân tố mới, tạo tiền đề và động lực quan trọng cho sự phát triển những năm tiếp theo của một huyện ven đô. Ông Lương Văn Minh – Bí thư Huyện ủy An Dương chia sẻ, từ năm 1998, huyện An Hải – nay là huyện An Dương được Nhà nước nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phát huy truyền thống cách mạng, từ hàng chục năm nay, huyện An Dương phát động người dân phong trào hiến đất làm đường, tham gia xây dựng nông thôn mới. Đến nay bình quân 15/15 xã trong huyện đã hoàn thành 10/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Huyện An Dương cơ bản hoàn thành 2 tiêu chuẩn phổ cập trung học và học nghề, 24/50 trường học đạt chuẩn quốc gia. 16/16 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia là minh chứng cho thực tiễn về sự quan tâm đặc biệt trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Đã có 78/92 làng, khu phố được công nhận làng văn hóa, 87% số hộ được công nhận gia đình văn hoá; có 61/92 làng, tổ dân phố xây dựng được nhà văn hóa; xây dựng được 158 câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, 241 câu lạc bộ thể dục thể thao; diện tích đất dành cho hoạt động văn hóa thể thao đạt 2,48m2/ đầu người. Theo ông Lương Văn Minh, điều quan trọng hơn cả, do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên những năm gần đây, huyện đã thực hiện tốt công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Trên địa bàn huyện An Dương đã có các Khu CN NOMURA, Khu CN Tràng Duệ và hàng loạt các Cụm công nghiệp vửa và nhỏ. Các Khu công nghiệp không chỉ thu hút các nguồn lực đầu tư từ trong và ngoài nước, các Khu, Cụm CN đã giải quyết công ăn việc làm cho gần 90% lao động trên địa bàn. Các DN trên địa bàn phối hợp cùng chính quyền địa phương tham gia xã hội hóa Phong trào xóa nhà tranh vách đất, chăm lo gia đình chính sách, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, các tuyến đường liên thôn, liên xã trên địa bàn huyện An Dương đã được trải nhựa hoặc bê tông hóa, có điện chiếu sáng. Sự nghiệp giáo dục đào tạo cũng theo đó được quan tâm đầu tư phát triển. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trên các lĩnh vực công tác, năm 2004 nhân dân và cán bộ huyện An Dương được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất, 7 cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ, từ năm 2003 đến năm 2013 huyện có 23 tập thể và 24 cá nhân được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhất, nhiều tập thể và cá nhân được Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và thành phố tặng Bằng khen. Đảng bộ huyện được công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh 5 năm liền (2006-2010).
Giới thiệu khái quát huyện An Dương Từ xa xưa huyện An Dương (An Hải cũ) đã có tên trong cuốn lịch sử địa lý đầu tiên của nước ta. Thời đó huyện có 63 xã, với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt. Ngày 11/9/1887, thực dân Pháp lập ra tỉnh Hải Phòng bao gồm 3 huyện Nghi Dương, An Lão và An Dương. Huyện An Dương bị thu hẹp lại với diện tích 11.245 ha. Năm 1966 thành phố sáp nhập huyện Hải An và huyện An Dương thành huyện An Hải có diện tích 20,842 ha, dân số trên 230.000 người. Tháng 5/2003, do yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố, Chính phủ đã ban hành Nghị định 106 điều chỉnh địa giới hành chính và tách huyện An Hải thành quận Hải An và huyện An Dương. An Dương là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, huyện là một bộ phận không thể tách rời của thành phố. Trải qua hàng ngàn năm các thế hệ người dân nơi đây bằng bàn tay khối óc, bằng xương máu của mình cần cù, dũng cảm trong xây dựng cuộc sống, kiên cường bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân An Dương đã đứng lên đánh địch, toàn huyện một lòng theo Đảng, lập nên những chiến công oanh liệt, tô thắm thêm truyền thống yêu nước, bất khuất của quê hương. Truyền thống thượng võ Bạch Đằng đã luôn luôn cổ vũ ý chí quật cường của các thế hệ người dân nơi đây. Bằng sức mạnh truyền thống đánh giặc cứu nước, ngay từ đầu cuộc kháng chiến, quân dân huyện An Dương đã xây dựng phòng tuyến Cam Lộ – An Dương kiên cường, đại đội du kích Đặng Cương dũng cảm. Chính trên trận địa này, quân và dân huyện đã mở đầu truyền thống đánh giao thông đường 5 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương ”Tháng 6 năm 1947, du kích An Dương đánh trận mìn đầu tiên”, góp phần tô thắm truyền thống ”Trung dũng của quân và dân Hải – Kiến”. Huyện An Dương, Hải Phòng, xứng danh truyền thống lịch sử Sau 10 năm tái lập, thu nhập bình quân của huyện An Dương đã đạt 1.450 USD, đưa huyện An Dương dần trở thành một trong các huyện có tốc độ đô thị, công nghiệp cao của cả nước. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định điều chỉnh lại địa giới hành chính Hải Phòng. Theo đó, một số xã ven các quận nội thành Hải Phòng của huyện An Hải với tốc độ độ thị cao được sát nhập thành quận Hải An; một số được sát nhập về quận Lê Chân; 15 xã, một thị trấn thuần nông còn lại được tái thành lập huyện An Dương. Sau 10 năm tái lập, thu nhập bình quân của huyện An Dương đã đạt 1.450 USD, đưa huyện An Dương dần trở thành một trong các huyện có tốc độ đô thị, công nghiệp cao của cả nước. Từ truyền thống lịch sử Từ đời Lê về trước, huyện An Dương đã có 7 người thi đỗ đại khoa; huyện có nhiều di tích lịch sử văn hoá như, đình Tràng Duệ, đình Dụ Nghĩa, đình Hà Đậu, chùa Vân Tra, đình Tri Yếu, đình Đồng Dụ, đình Nhu Thượng, đình Vĩnh Khê…huyện đã phát huy truyền thống vùng đất giàu lịch sử, thượng võ Bạch Đằng, kiên cường bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Thời gian đầu mới tái lập huyện, mặc dù được xác định là địa phương có nhiều thuận lợi về giao thông đường bộ, đường thủy như cả hai quốc lộ 5, quốc lộ 10; hai con sông chính từ Cảng Hải Phòng tỏa đi các tỉnh phía Bắc, vị trí này được đánh giá là những tuyến giao thông huyết mạch phía Đông Bắc đều chạy qua địa bàn huyện. Tuy nhiên, với diện tích tự nhiên gần 10.000 km2, dân số hơn 134 nghìn người, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên An Dương gặp không ít khó khăn khi thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. GDP bình quân đầu người đạt thời kỳ này mới chỉ đạt hơn 5 triệu đồng/năm. Theo ghi nhận của huyện An Dương, trên từng hoạt động cụ thể, lĩnh vực vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và giá trị gia tăng ngành dịch vụ tuy vẫn duy trì được mức tăng trưởng nhưng vẫn chưa đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết HĐND Huyện đề ra. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp vẫn còn gặp khó khăn khi việc vay vốn đầu tư chiều sâu cải tiến công nghệ vẫn còn chậm. Trong sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhìn chung vẫn còn chậm, lúng túng. Lĩnh vực văn hóa – xã hội tuy đạt được nhiều tiến bộ song vẫn còn những vấn đề bất cập như: đào tạo nghề, giải quyết việc làm, huy động quỹ đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, phòng chống lụt bão…đạt thấp. Một số tệ nạn xã hội có lúc, có nơi vẫn chưa được đẩy lùi; công tác bảo đảm an toàn giao thông tuy đã được quan tâm nhưng chưa đúng mức. Phát huy truyền thống cách mạng Ông Nguyễn Văn Hoàn – Chủ tịch UBND huyện An Dương bày tỏ, sau thời gian vất vả tìm hướng đi cho huyện, Huyện ủy, UBND huyện An Dương đã được Thành ủy, UBND TP Hải Phòng nhất trí chủ trương phát triển kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, kết hợp đầu tư chiều sâu cho sản xuất nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Theo đánh giá của UBND TP Hải Phòng, trong 10 năm tái lập huyện, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của An Dương luôn đạt 12,77%. Trong đó tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt 3,37%, giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha canh tác năm 2012 đạt 72 triệu đồng, tăng 18,5 triệu đồng/ 1ha so với năm đầu tái lập; tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp – xây dựng bình quân 10 năm đạt 18,36%; ngành thương mại-dịch vụ tăng 18,42%; thu nhập bình quân đầu người năm 2012 đạt 1.450 USD. Nhiều công trình đầu tư lớn hoàn thành, đưa vào khai thác; nhiều lĩnh vực xuất hiện những mô hình, nhân tố mới, tạo tiền đề và động lực quan trọng cho sự phát triển những năm tiếp theo của một huyện ven đô. Ông Lương Văn Minh – Bí thư Huyện ủy An Dương chia sẻ, từ năm 1998, huyện An Hải – nay là huyện An Dương được Nhà nước nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phát huy truyền thống cách mạng, từ hàng chục năm nay, huyện An Dương phát động người dân phong trào hiến đất làm đường, tham gia xây dựng nông thôn mới. Đến nay bình quân 15/15 xã trong huyện đã hoàn thành 10/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Huyện An Dương cơ bản hoàn thành 2 tiêu chuẩn phổ cập trung học và học nghề, 24/50 trường học đạt chuẩn quốc gia. 16/16 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia là minh chứng cho thực tiễn về sự quan tâm đặc biệt trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Đã có 78/92 làng, khu phố được công nhận làng văn hóa, 87% số hộ được công nhận gia đình văn hoá; có 61/92 làng, tổ dân phố xây dựng được nhà văn hóa; xây dựng được 158 câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, 241 câu lạc bộ thể dục thể thao; diện tích đất dành cho hoạt động văn hóa thể thao đạt 2,48m2/ đầu người. Theo ông Lương Văn Minh, điều quan trọng hơn cả, do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên những năm gần đây, huyện đã thực hiện tốt công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Trên địa bàn huyện An Dương đã có các Khu CN NOMURA, Khu CN Tràng Duệ và hàng loạt các Cụm công nghiệp vửa và nhỏ. Các Khu công nghiệp không chỉ thu hút các nguồn lực đầu tư từ trong và ngoài nước, các Khu, Cụm CN đã giải quyết công ăn việc làm cho gần 90% lao động trên địa bàn. Các DN trên địa bàn phối hợp cùng chính quyền địa phương tham gia xã hội hóa Phong trào xóa nhà tranh vách đất, chăm lo gia đình chính sách, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, các tuyến đường liên thôn, liên xã trên địa bàn huyện An Dương đã được trải nhựa hoặc bê tông hóa, có điện chiếu sáng. Sự nghiệp giáo dục đào tạo cũng theo đó được quan tâm đầu tư phát triển. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trên các lĩnh vực công tác, năm 2004 nhân dân và cán bộ huyện An Dương được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất, 7 cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ, từ năm 2003 đến năm 2013 huyện có 23 tập thể và 24 cá nhân được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhất, nhiều tập thể và cá nhân được Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và thành phố tặng Bằng khen. Đảng bộ huyện được công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh 5 năm liền (2006-2010).
Những tờ tiền ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 Qua những tờ tiền được in trong sách “Vietnam and French Indo-China banknotes catalogue” của tác giả Nguyễn Huỳnh Thế Vinh, chúng ta biết thêm những chi tiết thú vị. Mặt trước của tờ 100 Cent năm 1907, thường gọi là “Xăng Sài Gòn”. Tiền này được phát hành số lượng 175.000 tờ, thời gian lưu thông 1903-1907. Tiền có màu xanh dương trên nền giấy trắng, thể hiện tượng nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Vasco da Gamma bên trái, thuyền buồm biên bên dưới. Bên phải là người đàn ông Polynesia tay cầm mái chèo trên thuyền rồng. Phía trên là tên thành phố lưu hành và thời gian in. Mặt trước tờ 100 đồng Hải Phòng năm 1914 được in bởi Banque de France với số lượng phát hành 118.000 tờ, lưu hành thời gian 1911-1914. Tiền có màu xanh phối nâu, thể hiện phụ nữ Pháp đội vòng nguyệt quế đứng trên cao, tay quàng vai quan chức triều đình. Mặt sau của tờ 5 đồng Con Công được in trên nền giấy hồng nhạt. Mặt trước tờ tiền là phụ nữ đội vòng hoa. Mặt sau, như ta thấy, con công đậu trên nhành cây, được thiết kế bởi Clement Serveau, do E. Deloche và Roque FEC chạm khắc bản kẽm. Tờ tiền này lưu hành thời gian 1926-1934. Mặt sau tờ 1 đồng Gánh Dừa. Số lượng phát hành tiền này là 13 triệu tờ, lưu hành thời gian 1933-1949. Mặt trước là hình phụ nữ Bắc bộ đầu quấn khăn. Mặt sau thể hiện người đàn ông đội nón lá gánh dừa. Mặt trước tờ 500 đồng Tát gàu vàng lưu hành năm 1944 với số lượng 151.000 tờ. Hình ảnh “Tát nước gàu ba” là của nhiếp ảnh gia Trương Trừng chụp sáng sớm trên đồng ruộng Cẩm Hàm, ngoại ô thành phố Hội An. Tác phẩm này đoạt giải nhất cuộc thi nhiếp ảnh toàn Đông Dương năm 1940. Đến năm 1941, nó được chọn để in lên tờ tiền 500 đồng Mặt trước tờ 5 đồng Cấy lúa. Nhà in Bank of Japan in 10 triệu tờ năm 1944, dùng cho Đông Dương. Tiền có màu xanh lá trên nền vàng cam, thể hiện 4 phụ nữ đội nón lá đang cấy lúa, là hình ảnh quen thuộc ở đồng quê Bắc bộ trước đây. Mặt sau tờ 5 đồng Thủy Đình xanh do I.D.E.O in Hanoi in, lưu hành thời gian 1943. Tờ tiền có màu xanh lá đậm và đỏ (bảo an) ở mặt trước. Mặt sau màu nâu đậm trên nền xanh lá với thủy đình ở giữa. Tờ tiền do nghệ sĩ Phạm Ngọc Khuê thiết kế và chạm khắc. Sách “Vietnam and French Indo-China banknotes catalogue” do NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2018. Tác phẩm này là tâm huyết của tác giả Nguyễn Huỳnh Thế Vinh, nhà sưu tập tiền ở TP.HCM. Viết “Vietnam and French Indo-China banknotes catalogue”, tác giả không chỉ giới thiệu những tờ tiền xưa từng lưu hành ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, mà qua đó còn gửi gắm “cái đẹp của tiền giấy nằm ở hoa văn, họa tiết và màu sắc”. “Tôi thấy các giai đoạn lịch sử, di tích, danh lam thắng cảnh, tôi thấy văn hóa nông nghiệp, thấy các anh hùng dân tộc…”, tác giả viết.
Banknotes in Vietnam in the early 20th century Through the banknotes printed in the book "Vietnam and French Indo-China banknotes catalog" by author Nguyen Huynh The Vinh, we learn more interesting details. The front of the 100 Cent bill in 1907, often called "Saigon Gasoline". This money was issued in quantity of 175,000 pieces, circulation time was 1903-1907. The money is blue on white paper, showing the statue of Portuguese explorer Vasco da Gamma on the left, sailing ship below. On the right is a Polynesian man holding an oar on a dragon boat. Above is the name of the city of circulation and printing time. The front of the 1914 Hai Phong 100 dong note was printed by Banque de France with a circulation of 118,000 pieces, circulated during 1911-1914. The money is green mixed with brown, representing French women wearing laurel wreaths standing high with their arms around the shoulders of court officials. The back of the 5-Peacock note is printed on light pink paper. On the front of the bill is a woman wearing a wreath. On the back, as we see, the peacock perches on a tree branch, designed by Clement Serveau, engraved by E. Deloche and Roque FEC. This banknote circulated from 1926 to 1934. The back of the 1 Ganh Dua Dong note. The number of issued notes is 13 million, circulating from 1933 to 1949. On the front is a picture of a Northern woman with her head wrapped in a scarf. The back shows a man wearing a conical hat carrying coconuts. The front of the 500 VND note has a yellow patina in circulation in 1944 with a quantity of 151,000 notes. The image "Slapping bucket water" was taken by photographer Truong Trung early in the morning in Cam Ham fields, on the outskirts of Hoi An city. This work won first prize in the Indochina-wide photography contest in 1940. In 1941, it was chosen to be printed on the 500 VND bill. The front of the 5-dong bill Planting rice. Bank of Japan printing house printed 10 million sheets in 1944, for use in Indochina. The money is green on a yellow-orange background, representing four women wearing conical hats planting rice, a familiar image in the Northern countryside in the past. The back of the green 5 Dong Thuy Dinh note was printed by I.D.E.O in Hanoi, circulated in 1943. The note is dark green and red (bao an) on the front. The back is dark brown on a green background with a water pavilion in the middle. The banknote was designed and engraved by artist Pham Ngoc Khue. The book "Vietnam and French Indo-China banknotes catalog" was released by Ho Chi Minh City General Publishing House in 2018. This work is the passion of author Nguyen Huynh The Vinh, a coin collector in Ho Chi Minh City. Writing "Vietnam and French Indo-China banknotes catalogue", the author not only introduces old banknotes that circulated in Vietnam from the late 19th century to the early 20th century, but also conveys "the beauty of money". Paper lies in patterns, textures and colors. "I see historical periods, monuments, landscapes, I see agricultural culture, I see national heroes...", the author wrote.
Bức ảnh Mùa hoa súng của tác giả Trần Quang Quý đạt giải nhất và 10 tác phẩm của Việt Nam vào chung kết cuộc thi Mùa Xuân 2020 của Agora. Giải nhất cuộc thi với phần thưởng 1.000 USD thuộc về tác phẩm Mùa hoa súng, của nhiếp ảnh gia Trần Quang Quý. Bức ảnh chụp tại suối Yến, danh thắng Chùa Hương, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nhận được nhiều lượt bình chọn nhất trên ứng dụng Agora. Tác giả chia sẻ: “Với bức ảnh này, tôi muốn thể hiện vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Trong ảnh, những cô gái đều mặc áo dài, trang phục không thể tách rời với hình ảnh người phụ nữ Việt đang sinh sống trong và ngoài nước. Trong khung cảnh thơ mộng này với những bông hoa nở rộ trên sông, cây cầu tre tượng trưng cho sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại”. Áo dài thường được mặc tại các buổi lễ, hội nghị và đám cưới. Đây cũng là một trong những trang phục phổ biến nhất dành cho học sinh trung học và đại học, tác giả mô tả. Cuộc thi Mùa Xuân (Spring2020) nhận được 14.596 tác phẩm dự thi từ khắp nơi trên thế giới. Trong đó 50 bức ảnh đẹp nhất được chọn vào chung kết để tham gia vòng bỏ phiếu cuối cùng. Kết quả cuộc thi công bố trên trang ngày 6/5. Octavi Royo, Giám đốc điều hành và đồng sáng lập ứng dụng chia sẻ, mùa xuân là biểu tượng của sự sống và tái sinh trong tất cả các nền văn minh. Đây là thời điểm những hạt giống đâm chồi và tràn ngập màu sắc trên thế giới. “Qua cuộc thi chúng tôi đã có cơ hội khám phá những khung cảnh đẹp nhất của mùa xuân trong năm”. Trên ảnh là tác phẩm Chăm sóc hoa của nhiếp ảnh gia Thuần Võ chụp tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Anh mô tả “Vào mùa xuân Sa Đéc, bạn có thể nhìn thấy những bông hoa cúc nở rộ khắp nơi. Đến thăm ngôi làng này sẽ giúp tâm hồn bạn thấy yên bình”. Góp mặt trong vòng chung kết còn có bức ảnh Chiếc ô đỏ của tác giả Phạm Ngọc Thạch, chụp tại đồi chè Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Khi đang lái flycam trên đồn điền chè, anh nhận thấy một chấm đỏ giữa những luống chè xanh mơn mởn. Bị thu hút bởi sự tương phản đó, anh đã hạ thấp flycam để đi theo người cầm chiếc ô. “Thật tình cờ, đó là một cô gái Mông đang cầm ô che nắng”, anh cho biết Bức ảnh Tưới hoa của tác giả Bùi Gia Phú, chụp tại thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Tác phẩm Chăm sóc hoa của nhiếp ảnh gia Anh Trung, chụp tại thành phố Se Đéc. Anh mô tả, làng hoa Sa Đéc là nơi cung cấp số lượng lớn cây và hoa cho các tỉnh, thành miền Nam, đặc biệt là dịp Tết Nguyên Đán. Không giống với các trang trại nơi khác, hoa ở đây được trồng trên các giàn cao và tưới nước từ những con kênh gần đó. Bức ảnh Thung lũng hoa chụp tại hồ Tây, Hà Nội của tác giả Nguyễn Tùng Việt. Với tổng diện tích lên tới 7.000 m2, thung lũng hoa hồ Tây giống như vườn địa đàng giữa lòng thành phố. Trước đây, khu vực này phần lớn là đầm sen hoang vắng nhưng với công cuộc cải tạo và hàng nghìn bông hoa, vùng đất trở nên rực rỡ. “Khi tới đây, bạn sẽ bước vào không gian thanh bình, yên tĩnh, cách xa Hà Nội nhộn nhịp và ồn ào. Trong vườn hoa rộng lớn này, hàng nghìn bông hoa đang khoe sắc”, anh mô tả. Bức ảnh Mùa xuân Hà Giang của tác giả Nguyễn Hữu Thông được thực hiện tại công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. “Tôi đã gặp hai cô bé người dân tộc H’Mông bên đường, trong chuyến đi đến khu vực miền núi phía Bắc. Khuôn mặt đáng yêu và nụ cười đẹp thu hút tôi trong khoảnh khắc này”, anh chia sẻ. Đó là một ngày thanh bình, nơi bạn cảm nhận được không khí trong lành từ những ngọn núi. Các cô bé đã dành cả buổi chiều để hái những bông hoa xinh đẹp này, để sử dụng làm thuốc trong bản làng của họ, tác giả viết trong phần mô tả. Tác phẩm Mùa xuân của tác giả Nguyễn Ngọc Sơn. “Tôi thích chụp về mẹ thiên nhiên, đặc biệt các loài chim và bươm bướm. Hoa là ‘đồng minh’ tốt nhất của tôi. Khi tôi nhận thấy những bông hoa đang nở, tôi chỉ cần chuẩn bị máy ảnh của mình và chờ đợi một con bướm đi qua”, anh chia sẻ.
The photo Water Lily Season by author Tran Quang Quy won first prize and 10 Vietnamese works entered the finals of Agora's Spring 2020 contest. The first prize of the contest with a reward of 1,000 USD went to the work Water Lily Season, by photographer Tran Quang Quy. The photo taken at Yen stream, Huong Pagoda scenic spot, My Duc district, Hanoi, received the most votes on the Agora application. The author shared: “With this photo, I want to show the beauty of Vietnamese culture to the world. In the photo, the girls are all wearing ao dai, an outfit that is inseparable from the image of Vietnamese women living at home and abroad. In this poetic scene with flowers blooming on the river, the bamboo bridge symbolizes the connection between past and present." Ao Dai is often worn at ceremonies, conferences and weddings. This is also one of the most popular costumes for high school and college students, the author describes. The Spring contest (Spring2020) received 14,596 entries from all over the world. The 50 best photos were selected as finalists to participate in the final voting round. Contest results announced on the page on May 6. Octavi Royo, CEO and co-founder of the sharing app, spring is a symbol of life and rebirth in all civilizations. This is the time when seeds sprout and fill the world with color. "Through the competition, we had the opportunity to explore the most beautiful spring scenes of the year." Above is the work Taking Care of Flowers by photographer Thuan Vo taken in Sa Dec city, Dong Thap province. He described, “In the spring of Sa Dec, you can see chrysanthemums blooming everywhere. Visiting this village will help your soul feel at peace." Also included in the final round was the photo Red Umbrella by author Pham Ngoc Thach, taken at Moc Chau tea hill, Son La province. While flying a drone on a tea plantation, he noticed a red dot among the lush green tea beds. Attracted by that contrast, he lowered his flycam to follow the person holding the umbrella. "By chance, it was a Hmong girl holding an umbrella," he said Photo Watering flowers by author Bui Gia Phu, taken in My Tho city, Tien Giang province. The work Taking care of flowers by photographer Anh Trung, taken in Se Dec city. He described that Sa Dec flower village is a place that supplies a large number of plants and flowers to southern provinces and cities, especially during the Lunar New Year. Unlike farms elsewhere, flowers here are grown on high trellises and watered from nearby canals. Photo of Valley of Flowers taken at West Lake, Hanoi by author Nguyen Tung Viet. With a total area of ​​up to 7,000 m2, West Lake flower valley is like a garden of Eden in the heart of the city. Previously, this area was largely a desolate lotus pond, but with renovations and thousands of flowers, the land became vibrant. “When you come here, you will enter a peaceful, quiet space, away from bustling and noisy Hanoi. In this large flower garden, thousands of flowers are blooming," he described. The photo Ha Giang Spring by author Nguyen Huu Thong was taken at Dong Van Karst Plateau geopark, Ha Giang province. “I met two little girls of the H'Mong ethnic group on the side of the road, during a trip to the northern mountainous area. His lovely face and beautiful smile attract me in this moment," he shared. It is a peaceful day where you feel the fresh air from the mountains. The girls spent the afternoon picking these beautiful flowers, to use as medicine in their village, the author writes in the description. The work Spring by author Nguyen Ngoc Son. “I love taking pictures of mother nature, especially birds and butterflies. Flowers are my best 'ally'. When I noticed the flowers blooming, I just had to prepare my camera and wait for a butterfly to pass by,” he shared.
Nhiều trải nghiệm mới, giá vé ưu đãi, Bà Nà xứng đáng là điểm đến nhiều lần không chán Chương trình kích cầu du lịch với giá vé cáp treo giảm tới 60% cho du khách 19 tỉnh Miền Trung- Tây Nguyên của Bà Nà Hills vẫn đang tiếp tục tới 31/5. Và đây là cơ hội tuyệt vời để có được những trải nghiệm mà cho dù đã đến Bà Nà cả tỉ lần thì có thể bạn vẫn rất ngỡ ngàng, sao mình chưa biết đến điểm này nhỉ? Check-in quả cầu vàng đẹp như Universal Studio Quả cầu huyền thoại ở Universal chính là biểu tượng của giải trí đỉnh cao. Nhưng ở thời điểm không nên đi đâu ngoài du lịch trong nước, bạn chẳng cần phải lăn tăn đến những chuyến đi sang tận châu Âu châu Mỹ. Bà Nà chẳng phải là châu Âu thu nhỏ hay sao? Và quả cầu biểu tượng của Universal thậm chí chưa chắc đã đẹp bằng quả cầu vàng rực như mặt trời giữa quảng trường Du Dome của khu du lịch hàng đầu Việt Nam này. Quả cầu Sun World được nhuốm màu vàng gold rực sáng, tựa như hình ảnh thu nhỏ của trái đất được đặt giữa đài phun nước với những bồn hoa xinh đẹp bao quanh, bốn mùa khoe sắc. Vì thế dù chụp từ bất kỳ hướng nào, bạn cũng sẽ bắt được những góc hình đẹp. Đây cũng là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động hoạt náo đường phố, những buổi trình diễn carnival sôi động. Nhưng ở thời điểm này, khi lượng khách chưa đông, bạn mới có thể dễ dàng có được một bức hình cho riêng mình ở chốn mà ai cũng sẽ muốn khẳng định mình đã tới Bà Nà này. Mê mải với những con đường đẹp tựa cổ tích Những lối đi lát đá men theo các lâu đài vốn dĩ đã quá quen thuộc. Ở Bà Nà , bạn nên dành cả ngày dài để khám phá cho hết những con đường nhỏ, bởi đó là cả một trời khám phá thú vị, nhất là với những người lãng mạn. Lối cầu thang đá dẫn lên khu tâm linh rợp bóng xanh bởi những vòm cây. Nắng xuyên qua kẽ lá, con đường nhỏ hun hút sâu dẫn đến chốn thiền dễ khiến ta quên đi hết những xô bồ, để quay trở về với an yên, thiền định. Còn đây là “con đường hoa hồng” lãng mạn nhất ở Bà Nà, tại vườn hồng Morin. Hoa hồng trải lối hai bên đường, trên vòm cổng, những cây hồng leo đang leo kín dần. Tương lai, đây sẽ là con đường hoa đồng đẹp nhất miền Trung, với cả ngàn gốc hoa, triệu đóa hồng ngoại bừng nở. Bà Nà còn có con đường bích họa, mỗi lối đi lại mở ra những bức tranh, mỗi bức tranh là một điều mà bạn có thể đã biết, hoặc chưa biết về điểm đến này. Thử đi và khám phá xem bạn đã biết được bao nhiêu điều, check-in bao nhiêu điểm ở Bà Nà nhé. Thú vị lắm đấy. Phiêu du trong thế giới “Hai vạn dặm dưới biển” Đó là Fantasy Park- khu vui chơi giải trí trong nhà duy nhất trên thế giới có vị trí tọa lạc trên đỉnh núi, được thiết kế và xây dựng dựa theo cuốn tiểu thuyết “Hành trình vào trung tâm trái đất” và “Hai vạn dăm dưới biển” của nhà văn người Pháp Jules Verne. Đừng nghĩ chỉ đám con nít với mấy em tuổi teen mới thích nơi này. Người lớn có thể gặp gỡ thần tượng ở “ Bảo tàng tượng sáp đầu tiên ” tại Việt Nam ở đây. Có đủ hết, những diễn viên điện ảnh nổi tiếng, những chính trị gia hàng đầu. Nhiều người đã kinh ngạc đến mức muốn nhổ thử một cọng lông trên cánh tay, chỉ vì tượng thật như người bằng xương thịt. (Tất nhiên là muốn nhưng đừng làm thật). Bố mẹ hay nhóm bạn và cặp đôi có thể thử sức ở những trò chơi thử thách cảm giác mạnh như Tháp rơi tự do cao 29m, Phi công Skiver với những cú văng mình huyền thoại. Các bé sẽ thích mê thế giới của những chú khủng long bạo chúa ở Công viên kỷ Jura, và cũng khó lòng bỏ qua cảm giác vượt qua chính mình với thử thách leo núi trong nhà. Sức hấp dẫn của Fantasy Park là không giới hạn. Đắm chìm trong thế giới nghệ thuật và kiến trúc đỉnh cao Chị Nguyệt Anh, du khách đến từ Quảng Nam đã dành cả ngày dài để chơi Bà Nà và đây không phải lần đầu chị tới khu du lịch. Nhưng khi được hỏi có còn nhiều cảm xúc với một điểm đến đã quen thuộc, chị vẫn hết sức hào hứng: “Tôi chơi từ 9h sáng, là một trong những du khách đầu tiên đến Bà Nà hôm nay, nhưng tôi còn chưa thể đi hết được khu du lịch này. Nhiều thứ mới sau hai năm trở lại, thực sự, mỗi lần đến là một lần thấy cần phải trở lại”. Hôm nay không có carnival như bình thường Bà Nà vẫn có, nhưng những nghệ sỹ quốc tế tạ đây đã khiến du khách hào hứng đến cuồng nhiệt. Dường như sự sôi động nhỏ bé ấy cũng đủ lắm, để bù lại những ngày phải chôn chân ở nhà vì dịch bệnh Covid-19. Những lâu đài cổ kính mơ màng trong sương sớm. Nhà thờ St.Denis uy nghiêm. Hay cả cái thùng bia vàng rực khổng lồ dưới ánh chiều tà ở Beer Plaza thôi cũng đã có thể làm nên nhữn khoảnh khắc để đời cho người đam mê sống ảo. Còn đây là tuyệt phẩm kiến trúc khiến thế giới phải nể phục Việt Nam. Không biết bao nhiêu trang báo, bài viết, bức hình Cầu Vàng đã làm cả thế giới “điên đảo”, vậy mà giữa bão Covid-19, Cầu Vàng vẫn là một điểm sáng, đánh thức đam mê dịch chuyển, khi tờ Insider nổi tiếng của Mỹ đưa cây cầu này vào danh sách những cây cầu đẹp nhất thế giới, sánh ngang với những kiến trúc lịch sử nổi tiếng như Cầu Cổng Vàng (Mỹ), Cầu Tháp London (Anh), Cầu cảng Sydney (Australia)… Thế đó, Bà Nà chưa bao giờ thôi mới, hết lạ. Và chỉ khi nào thật sự đặt chân đến chốn ấy, bạn mới thấy, Việt Nam mình đẹp lắm. Chương trình kích cầu “Miền Trung- Tây Nguyên chờ chi, Bà Nà ngay đi” giảm giá vé cáp treo tới 60% cho du khách thuộc 19 tỉnh Miền Trung Tây Nguyên. Vé cáp treo dành cho người lớn chỉ còn 300.000 đồng, vé cho trẻ em là 200.000 đồng, miễn phí cho trẻ em có chiều cao dưới 1m. Áp dụng đến hết 31/5/2020 cho du khách thuộc 14 tỉnh, thành phố Miền Trung gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và 5 tỉnh Tây Nguyên gồm Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Bên cạnh đó, từ ngày 15/5-15/7, Khu du lịch tiếp tục loạt chương trình kích cầu “Yêu Việt Nam, Du lịch Việt Nam” với combo “mua vé cáp treo tặng vé buffet”. Cụ thể, người lớn mua vé cáp treo trị giá 750.000 đồng sẽ được tặng 1 suất buffet trị giá 225.000 đồng, trẻ em từ 1m-1m4 mua vé cáp treo trị giá 600.000 đồng sẽ được tặng 1 suất buffet trị giá 128.000 đồng; trẻ em dưới 1m được miễn phí toàn bộ.
Many new experiences, preferential ticket prices, Ba Na deserves to be a destination to visit many times without getting bored Tourism stimulus program Cable car ticket prices are reduced by up to 60% for tourists from 19 Central and Central Highlands provinces of Ba Na Hills, continuing until May 31. And this is a great opportunity to have experiences that even if you have been to Ba Na billions of times, you may still be surprised, why haven't I known about this? Check-in to the beautiful golden globe like Universal Studio The legendary ball at Universal is a symbol of ultimate entertainment. But at a time when you shouldn't go anywhere other than traveling domestically, you don't need to worry about trips to Europe and America. Isn't Ba Na a miniature Europe? And Universal's iconic ball may not even be as beautiful as the golden ball shining like the sun in the middle of Du Dome square of this leading tourist area in Vietnam. The Sun World sphere is tinged with bright golden yellow, like a miniature image of the earth placed in the middle of a fountain surrounded by beautiful flower beds, blooming in all four seasons. So no matter which direction you shoot from, you will still capture beautiful angles. This is also where street activities and vibrant carnival performances often take place. But at this time, when the number of visitors is not crowded, you can easily get a photo of yourself in a place where everyone will want to confirm that they have been to Ba Na. Be engrossed in the beautiful, fairy-like roads The stone walkways along the castles are inherently familiar. LIVE Ba Na , you should spend a whole day to explore all the small roads, because it is a whole lot of interesting discoveries, especially for romantic people. The stone stairs leading up to the spiritual area are shaded by green trees. The sunlight filtering through the leaves, the small, deep path leading to the meditation place easily makes us forget all the hustle and bustle and return to peace and meditation. And this is the most romantic "rose road" in Ba Na, at the Morin rose garden. Roses spread out on both sides of the road, and on the arch of the gate, climbing rose plants are gradually covering up. In the future, this will be the most beautiful flower street in the Central region, with thousands of flower trees and millions of inflorescences blooming. Ba Na also has a mural path, each path opens with paintings, each painting is something you may or may not know about this destination. Try going and discover how many things you know and how many places to check-in in Ba Na. It's very interesting. Adventure in the world of "Twenty thousand leagues under the sea" That is Fantasy Park - the only indoor amusement park in the world located on the top of a mountain, designed and built based on the novels "Journey to the Center of the Earth" and "Twenty Thousand Under the Sea" by French writer Jules Verne. Don't think that only kids and teenagers like this place. Adults can meet idols at “ The first wax museum ” here in Vietnam. It's all there, famous movie actors, top politicians. Many people were so surprised that they wanted to try plucking a hair from their arm, just because the statue was as real as a flesh and blood person. (Of course you want to, but don't actually do it). Parents, groups of friends and couples can try thrilling games such as the 29m high Free Fall Tower and Skiver Pilot with legendary splashes. Children will love the world of tyrannosaurs in Jurassic Park, and it will be hard to ignore the feeling of surpassing themselves with the indoor climbing challenge. Fantasy Park's appeal is unlimited. Immerse yourself in the world of cutting-edge art and architecture Ms. Nguyet Anh, a tourist from Quang Nam, spent a long day visiting Ba Na and this was not her first time coming to the tourist area. But when asked if she still had many feelings for a familiar destination, she was still very excited: "I've been playing since 9am, one of the first tourists to Ba Na today, but I haven't been able to do it yet." can go all the way to this tourist area. Many new things after two years, really, every time I come I feel the need to come back." Today there is no carnival like Ba Na usually has, but the international artists here have made tourists excited and crazy. It seems that that small excitement is enough to make up for the days of being stuck at home due to the Covid-19 epidemic. Ancient castles are dreamy in the morning mist. Majestic St.Denis Church. Or even the giant golden beer barrel under the sunset at Beer Plaza can create lifetime moments for virtual life enthusiasts. And this is an architectural masterpiece that makes the world admire Vietnam. Countless newspaper pages, articles, and pictures of the Golden Bridge have made the whole world "crazy", yet in the midst of the Covid-19 storm, the Golden Bridge is still a bright spot, awakening the passion for movement, as the Insider The famous American bridge puts this bridge on the list of the most beautiful bridges in the world, on par with famous historical structures such as the Golden Gate Bridge (USA), London Tower Bridge (UK), Sydney Harbor Bridge (Australia). … That's it, Ba Na has never stopped being new or strange. And only when you actually set foot in that place will you see that Vietnam is very beautiful. The stimulus program "Central - Central Highlands, don't wait, go to Ba Na now" reduces cable car ticket prices by up to 60% for tourists from 19 Central Highlands provinces. Cable car tickets for adults are only 300,000 VND, tickets for children are 200,000 VND, free for children under 1m in height. Applicable until May 31, 2020 for tourists from 14 provinces and cities in the Central region including Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh, Quang Binh, Quang Tri, Thua Thien Hue, Da Nang, Quang Nam, Quang Ngai, Binh Dinh, Phu Yen, Khanh Hoa, Ninh Thuan, Binh Thuan and 5 Central Highlands provinces including Kon Tum, Gia Lai, Dak Lak, Dak Nong and Lam Dong. In addition, from May 15 to July 15, the tourist area continues a series of stimulus programs "Love Vietnam, Travel to Vietnam" with the combo "buy cable car tickets and get free buffet tickets". Specifically, adults who buy a cable car ticket worth 750,000 VND will be given a buffet worth 225,000 VND, children from 1m-1m4 who buy a cable car ticket worth 600,000 VND will be given a buffet worth 128,000 VND; Children under 1 meter are completely free.
Đêm Bà Nà vui chất ngất Ngay sau Tọa đàm Kích cầu du lịch Đà Nẵng: vai trò của sản phẩm, dịch vụ ban đêm diễn ra tại Đà Nẵng hôm 10/7, khu du lịch nổi tiếng của thành phố sông Hàn – Sun World Ba Na Hills – đã tung combo đêm trọn gói vé cáp treo, xe đưa đón từ trung tâm thành phố và buffet tối chỉ 600.000 đồng. Đây có lẽ là combo kích cầu có mức giá hấp dẫn nhất từ trước đến nay mà Công viên chủ đề hàng đầu Việt Nam triển khai. Chính thức áp dụng từ ngày 15/7- 31/12, combo đêm Bà Nà có giá chỉ 600.000 đồng/ người lớn và 425.000 đồng/ trẻ em. Giá vé đã bao gồm xe đưa đón hai chiều từ Công viên châu Á lên Bà Nà và ngược lại, vé cáp treo lên đỉnh Bà Nà tham quan cầu Vàng, vườn hoa, làng Pháp, khu tâm linh, trải nghiệm trò chơi ở Fantasy Park, thưởng thức buffet tối, uống thỏa thích miễn phí 1 lít bia hoặc nước trái cây tại nhà hàng Beer Plaza, chiêm ngưỡng show nghệ thuật của nghệ sĩ nước ngoài bên trong nhà hàng và chương trình lửa trại ở quảng trường Beer Plaza. Đây không phải lần đầu tiên Bà Nà Hills áp dụng combo đêm. Nhưng với combo năm nay, du khách sẽ vô cùng phấn khích khi không chỉ được ngắm một Bà Nà Hills lung linh với hệ thống chiếu sáng được Sun Group đầu tư hàng trăm tỷ đồng lắp đặt tại Làng Pháp, mà còn được làm giàu thêm trải nghiệm đêm kỳ diệu trên đỉnh cao 1487m. Bà Nà về đêm là một bản nhạc có đủ cung bậc cảm xúc, từ lãng mạn với khung cảnh Làng Pháp lung linh đèn đêm hệt như cổ tích, đến sôi động và cuồng nhiệt với những hoạt động lần đầu tiên được triển khai như đốt lửa trại, biểu diễn nghệ thuật ngoài trời giữa không gian đêm huyền ảo se lạnh với lãng đãng hơi sương… Không chỉ đắm mình trong không gian vui tươi, rực rỡ sắc màu, du khách còn thỏa sức khám phá thiên đường ẩm thực với buffet hơn 70 món Á, Âu ngon nức tiếng với đặc sản miền Trung thân thương như Bánh xèo, Bánh hỏi, Món nướng BBQ thơm nồng hay món hải sản tươi ngon đúng điệu. Phạm Hoàng Giang- một du khách đến từ Sài Gòn, may mắn được tham dự một sự kiện đêm Bà Nà sôi động tối 9/7 vừa qua, đã phải thốt lên: “Tôi nghĩ, mọi người còn biết rất ít về Bà Nà. Trong đêm, Bà Nà mới đẹp nhất, vui nhất”. Còn chị Nguyễn Lan Anh đến từ Cần Thơ đã không khỏi ngỡ ngàng: “Tôi đưa gia đình lên nghỉ đêm ở khách sạn Mercure trên đỉnh Bà Nà, thật sự, tôi đã nghĩ mình thật may mắn khi quyết định như thế. Bà Nà về đêm đẹp và vui không ngờ. Du khách như tôi được sống lại quãng thời gian thanh xuân, cùng bè đốt lửa trại, nhảy múa hát hò thâu đêm dưới trời sao…”. “Đặc biệt, buffet đêm tại Beer Plaza cũng khá ngon nhiều lựa chọn phong phú, đa dạng khẩu vị”, chị Lan Anh cho biết thêm. Chia sẻ với chúng tôi về các sự kiện lễ hội và combo đêm độc đáo mà Bà Nà đang triển khai, ông Nguyễn Lâm An, giám đốc khu du lịch Sun World Ba Na Hills nói: “ Có lẽ ít điểm du lịch nào có được khung cảnh đêm đẹp như Bà Nà. Đó là lý do chúng tôi thêm vào không gian đêm se lạnh đặc trưng của nơi này những hoạt động ngoài trời sôi động như đốt lửa trại, biểu diễn nghệ thuật…, để du khách thấy Bà Nà đêm là một trải nghiệm hoàn toàn khác biệt, rất xứng đáng để khám phá, để vui hết mình”. Một Bà Nà lung linh trong đêm với vô vàn trải nghiệm sôi động, mức giá- nói như giới trẻ bây giờ là cực kỳ “ngon- bổ- rẻ”, các gia đình, nhóm bạn đang lên kế hoạch du ngoạn Đà Nẵng hè này rất nên thử combo đêm đặc biệt của khu du lịch hàng đầu Việt Nam.
Ba Na night was extremely fun Immediately after the Da Nang Tourism Stimulation Seminar: the role of products and services at night taking place in Da Nang on July 10, the famous tourist area of ​​the Han River city - Sun World Ba Na Hills - launched Night combo with cable car ticket, shuttle bus from the city center and dinner buffet for only 600,000 VND. This is probably the stimulus combo with the most attractive price ever deployed by Vietnam's leading theme park. Officially applied from July 15 to December 31, Ba Na night combo costs only 600,000 VND/adult and 425,000 VND/child. Ticket price includes two-way shuttle from Asia Park to Ba Na and vice versa, cable car ticket to the top of Ba Na to visit the Golden Bridge, flower garden, French village, spiritual area, experience games at Fantasy Park, enjoy buffet dinner, drink 1 liter of free beer or juice at Beer Plaza restaurant, admire art shows by foreign artists inside the restaurant and campfire program at Beer Plaza square. This is not the first time Ba Na Hills has applied night combos. But with this year's combo, visitors will be extremely excited to not only see a sparkling Ba Na Hills with a lighting system invested by Sun Group with hundreds of billions of dong installed in the French Village, but also to be enriched. Experience the magical night on the 1487m peak. Ba Na at night is a song with a full range of emotions, from romantic with the scene of the French Village sparkling with night lights just like a fairy tale, to vibrant and passionate with activities that are deployed for the first time such as burning. Campfires, outdoor art performances in the middle of a cold, magical night space with a faint mist... Not only do they immerse themselves in the joyful and colorful space, visitors also freely explore culinary paradise with a buffet of more than 70 delicious Asian and European dishes famous for their beloved Central region specialties such as Banh Xeo and Banh Hoi. , Fragrant BBQ dishes or delicious fresh seafood dishes. Pham Hoang Giang - a tourist from Saigon, lucky enough to attend a vibrant Ba Na night event on the evening of July 9, had to exclaim: "I think, people still know very little about Ba Na." . At night, Ba Na is the most beautiful and happiest. And Ms. Nguyen Lan Anh from Can Tho was surprised: "I took my family to spend the night at the Mercure hotel at the top of Ba Na. Actually, I thought I was so lucky to make that decision. Ba Na at night is incredibly beautiful and fun. Tourists like me can relive our youth, build campfires with friends, dance and sing all night under the stars...". "In particular, the night buffet at Beer Plaza is also quite delicious, with rich choices and diverse tastes," Ms. Lan Anh added. Sharing with us about the unique festival events and night combos that Ba Na is implementing, Mr. Nguyen Lam An, director of Sun World Ba Na Hills tourist area said: " Perhaps few tourist destinations have a beautiful night scene like Ba Na. That's why we add to the typical chilly night space of this place exciting outdoor activities such as campfires, art performances..., so that visitors can see Ba ​​Na at night as a completely different experience. special, very worthy to explore and have fun to the fullest. A shimmering Ba Na at night with countless exciting experiences, the price - as young people say today is extremely "delicious - nutritious - cheap", families and groups of friends are planning to travel to Da Nang this summer. You should try the special night combo of Vietnam's leading tourist area.
Phát hiện bản thảo cổ nhất về Nho giáo Các chuyên gia Nhật Bản phát hiện một bản thảo về Nho giáo viết trong khoảng thế kỷ 6 – 7 ở Trung Quốc, có ý nghĩa vô giá. Nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Keio và nhiều viện khác cho biết đây là một trong những bản chép tay cổ nhất từng được tìm thấy tại Nhật Bản ngoài kinh Phật, đồng thời là bản thảo lâu đời nhất nói về Luận ngữ. Luận ngữ được biên soạn bởi các môn sinh sau khi Khổng Tử qua đời. Đây là tập hợp những lời răn dạy và các đối đáp của Khổng Tử về đạo đức, học tập và chính trị. Luận ngữ đóng vai trò như một hệ thống giảng dạy trong nhiều triều đại Trung Quốc, đồng thời ảnh hưởng lớn tới xã hội và văn hóa Nhật Bản, trở thành sách bắt buộc trong các ngôi trường đào tạo võ sĩ thời Edo (năm 1603 – 1867). Nhiều bản thảo có niên đại từ khoảng năm 50 trước Công nguyên được khai quật ở Trung Quốc và Triều Tiên. Bản thảo phát hiện gần đây được một sứ thần Nhật Bản mang về nước. Bản thảo này chứa những chú giải do Hoàng Khản (năm 502 – 557), một học giả về Khổng Tử dưới triều Bắc Tống và Nam Tống, biên soạn. Tài liệu sẽ cung cấp cho các nhà nghiên cứu nhiều gợi ý quan trọng về lịch sử trao đổi văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Bản thảo bao gồm 20 trang giấy dán liền với nhau tạo thành cuộn dài. Bản thảo còn mang con dấu chứng minh quyền sở của gia tộc Fujiwara thân cận với Nhật hoàng dưới thời Nara (năm 714 – 784) và thời Heian (năm 794-1185). Đại học Keio mua bản thảo từ một hiệu sách cổ năm 2017. Năm 2018, trường này thành lập nhóm nghiên cứu bao gồm chuyên gia trong nhiều lĩnh vực như văn học Trung Quốc, văn học Nhật Bản, lịch sử , thư mục học, để xác định nguồn gốc bản thảo. Dựa theo hình dáng ký tự, họ kết luận bản thảo nhiều khả năng được viết giữa thời Bắc Tống – Nam Tống và nhà Tùy (năm 581 – 618). An Khang (Theo Asahi )
Discovery of the oldest manuscript on Confucianism Japanese experts discovered a Confucian manuscript written in the 6th - 7th centuries in China, which is of invaluable significance. The research team from Keio University and many other institutions said this is one of the oldest manuscripts ever found in Japan outside of Buddhist scriptures, and is also the oldest manuscript about the Analects. The Analects were compiled by students after Confucius' death. This is a collection of Confucius's teachings and responses on ethics, learning and politics. Analects acted as a teaching system in many Chinese dynasties, and greatly influenced Japanese society and culture, becoming a mandatory book in martial arts training schools in the Edo period (1603). – 1867). Many manuscripts dating from around 50 BC have been unearthed in China and Korea. The manuscript was recently discovered by a Japanese envoy brought back to the country. This manuscript contains commentaries compiled by Huang Kan (502 – 557), a scholar of Confucius during the Northern and Southern Song dynasties. The document will provide researchers with many important suggestions about the history of cultural exchange between Japan and China. The manuscript consists of 20 pages of paper glued together to form a long roll. The manuscript also bears a seal proving the ownership of the Fujiwara family who was close to the Emperor during the Nara period (714 - 784) and the Heian period (794 - 1185). Keio University purchased the manuscript from an antique bookstore in 2017. In 2018, the school established a research team including experts in many fields such as Chinese literature, Japanese literature, history , bibliography, to determine manuscript origin. Based on the shape of the characters, they concluded that the manuscript was most likely written between the Northern Song - Southern Song and Sui dynasties (581 - 618). An Khang (According to Asahi )
Những kỳ quan đã biến mất trên thế giới Thế giới có nhiều kỳ quan được tôn vinh trong quá khứ, tuy nhiên giờ đây chúng không còn nữa. Nguyên nhân có thể do thiên nhiên, biến đổi khí hậu, hoặc con người gây nên. Cổng vòm đá Azure Window, Malta: Đây là kỳ quan tự nhiên được tín đồ đam mê chụp ảnh yêu thích. Nó được hình thành do sự sụp đổ của một hang động ven biển từ thế kỷ 19. Tuy nhiên tháng 3/2019, một cơn bão lớn đổ bộ vào Malta đã làm cổng vòm đá sụp đổ. Tượng Phật Bamiyan, Afghanistan: Bức tượng Phật cao nhất thế giới từng được dựng trong vách đá sa thạch ở tỉnh Bamiyan, Afghanistan. Công trình được chạm khắc vào thế kỷ thứ 6, với chiều cao 55 m. Năm 2001, kỳ quan Phật giáo này đã bị Taliban phá hủy. Đến năm 2003, UNESCO chính thức công nhận nơi đây là Di sản thế giới, dù bức tượng không còn nữa. Sông băng Chacaltaya, Bolivia: Những người yêu thích trượt tuyết đều mơ ước được trải nghiệm ngọn núi Chacaltaya, Bolivia. Đây là khu nghỉ mát trượt tuyết cao nhất thế giới. Dòng sông băng cổ xưa ở đỉnh núi cũng là điểm trượt tuyết nổi tiếng về độ khó. Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu, dòng chảy đã vĩnh viễn biến mất vào năm 2009. Ngày nay khu vực này khá cằn cỗi, dù vẫn thu hút nhiều người đi bộ đường dài. Vidámpark, Budapest, Hungary: Đây là công viên giải trí mạo hiểm sở hữu nét kiến trúc tuyệt đẹp. Vào đầu thế kỷ 19, những người đam mê cảm giác mạnh thường tới công viên để trải nghiệm nhiều hoạt động hấp dẫn như tàu lượn siêu tốc bằng gỗ, đường băng chuyền. Năm 2013, công viên chính thức đóng cửa do lượng du khách sụt giảm. Chủ sở hữu đã quyết định tháo dỡ một phần công viên để xây dựng sở thú. Tháp Sứ, Nam Kinh, Trung Quốc: Đúng như tên gọi, tòa tháp khổng lồ này được làm hoàn toàn bằng sứ. Tháp cao 79 m và tồn tại trong suốt 400 năm từ thế kỷ 14 đến 19, trước khi bị quân nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc phá hủy. Năm 2015, tòa tháp được tái sinh dưới dạng một công trình hiện đại. Tuy nhiên nguyên liệu không dùng sứ như xưa mà được thay bằng thép và kính. Thác Guaira, biên giới Paraguay-Brazil: Guaira là một trong những dòng thác mạnh nhất trên thế giới. Kỳ quan này bao gồm 18 ngọn thác nhỏ, có cái cao đến 40 m. Tuy nhiên vào tháng 10/1982, thác Guaira bị đóng để tạo ra đập Itaipu, cung cấp 75% điện về Paraguay và 25% cho Brazil. Dù dự án này khả thi nhưng cái giá phải trả là quá lớn khi thế giới vĩnh viễn mất một kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Nhà hát Hippodrome, New York, Mỹ: Hippodrome là nhà hát khổng lồ nằm trên đại lộ New York từ 100 năm trước, với sức chứa 5.697 chỗ ngồi. Nhà hát thời điểm đó thu hút tầng lớp trung lưu và người nghèo, do có giá vé thấp. Chính vì thế chủ sở hữu không đủ chi phí bảo trì và buộc phải đóng cửa năm 1939. Đến năm 1960, nhà hát bị phá bỏ để xây dựng tòa nhà văn phòng vẫn tồn tại đến ngày nay. Cầu khóa tình yêu, Paris, Pháp: Cây cầu này từng rất nổi tiếng ở Paris, khi những cặp tình nhân tới đây móc khóa lên thành để thể hiện tình yêu vĩnh cửu. Tục lệ này phổ biến đến nỗi có thời điểm trên thành cầu móc 1 triệu ổ khóa nặng tới 45 tấn. Năm 2014, một phần thành cầu bị sập do sức nặng ổ khóa, vì thế chính quyền thành phố quyết định thay thế chúng bằng các tấm kính. Ngày nay, nhiều du khách qua đây vẫn mắc khóa vào cột đèn trên cầu. An Ngọc
Wonders have disappeared in the world The world has many wonders that were honored in the past, but now they are no longer there. Causes may be due to nature, climate change, or humans. Azure Window Stone Arch, Malta: This is a natural wonder loved by photography enthusiasts. It was formed by the collapse of a coastal cave in the 19th century. However, in March 2019, a major storm hit Malta and caused the stone archway to collapse. Bamiyan Buddha Statue, Afghanistan: The world's tallest Buddha statue was built in a sandstone cliff in Bamiyan province, Afghanistan. The structure was carved in the 6th century, with a height of 55 m. In 2001, this Buddhist wonder was destroyed by the Taliban. In 2003, UNESCO officially recognized this place as a World Heritage Site, although the statue is no longer there. Chacaltaya Glacier, Bolivia: Ski lovers dream of experiencing Mount Chacaltaya, Bolivia. This is the highest ski resort in the world. The ancient glacier at the top of the mountain is also a famous skiing destination for its difficulty. However, due to climate change, the stream disappeared forever in 2009. Today the area is quite barren, although it still attracts many hikers. Vidámpark, Budapest, Hungary: This is an adventure amusement park with beautiful architecture. In the early 19th century, thrill seekers often went to the park to experience many exciting activities such as wooden roller coasters and carousels. In 2013, the park officially closed due to a decrease in tourist numbers. The owner decided to dismantle part of the park to build a zoo. Porcelain Tower, Nanjing, China: As the name suggests, this giant tower is made entirely of porcelain. The tower is 79 m high and existed for 400 years from the 14th to 19th centuries, before being destroyed by the Taiping Thien Quoc rebels. In 2015, the tower was reborn as a modern building. However, the materials are not porcelain like before but are replaced with steel and glass. Guaira Falls, Paraguay-Brazil border: Guaira is one of the strongest waterfalls in the world. This wonder includes 18 small waterfalls, some up to 40 m high. However, in October 1982, Guaira Falls was closed to create the Itaipu Dam, providing 75% of electricity to Paraguay and 25% to Brazil. Although this project is feasible, the price to pay is too great when the world forever loses a beautiful natural wonder. Hippodrome Theater, New York, USA: Hippodrome is a giant theater located on New York Avenue 100 years ago, with a capacity of 5,697 seats. The theater at that time attracted the middle class and the poor, due to its low ticket prices. Therefore, the owner could not afford maintenance costs and was forced to close it in 1939. In 1960, the theater was demolished to build an office building that still exists today. Love Lock Bridge, Paris, France: This bridge was once very famous in Paris, when couples came here to hang their locks on the bridge to show their eternal love. This custom was so common that at one time, 1 million locks weighing up to 45 tons were placed on the bridge wall. In 2014, part of the bridge wall collapsed due to the weight of the locks, so the city government decided to replace them with glass panels. Today, many tourists passing through here still hang their locks on the light poles on the bridge. An Ngoc
Việt Nam đã xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa – Trường Sa lâu đời, liên tục nhiều thế kỷ Thêm một lần nữa, quan điểm đó tiếp tục được khẳng định bằng các chứng cứ lịch sử, cơ sở pháp luật, tại hội thảo xác lập chủ quyền của Nhà nước Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vừa tổ chức chiều 18-8 tại Huế. Hội thảo khoa học “Quá trình xác lập chủ quyền của Nhà nước Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” do Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế tổ chức, với sự tham gia của nhiều chuyên gia sử học và luật học từ Hà Nội , Huế, Đà Nẵng, TP.HCM và nhiều địa phương khác. Xác lập chủ quyền thì phải nhân danh nhà nước Các chuyên gia đã tiếp tục trình bày một cách đầy đủ và hệ thống về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Nhà nước Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong hai thời kỳ: trước năm 1945, và từ năm 1945 đến nay. Đồng thời, trình bày các cơ sở pháp lý và quá trình đấu tranh pháp lý bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam. Phát biểu đề dẫn hội thảo, PGS.TS Đỗ Bang – phó chủ tịch Hội khoa học lịch sử VN, chủ tịch Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế – cho biết đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về chủ quyền biển đảo của một quốc gia, nhưng ý kiến chung nhất để thừa nhận chủ quyền, chủ nhân là phải nhân danh nhà nước, phải thông qua tư liệu của nhà nước và được nước ngoài hoặc một tổ chức quốc tế thừa nhận ở các mức độ khác nhau. “Chủ quyền biển đảo không thể nhân danh cá nhân của người phát hiện, thám hiểm, vẽ bản đồ, đặt tên hoặc nhân danh của một tổ chức quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa hay nhân danh chính quyền của một địa phương. Với lập luận này cho ta thấy Việt Nam đã xác lập chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa lâu đời, liên tục trong nhiều thế kỷ”, PGS Đỗ Bang nhấn mạnh. Chủ quyền được xác lập bằng châu bản, chính sử, bản đồ quốc gia PGS Đỗ Bang cho biết nhiều nguồn tư liệu chính thống của Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ khác nhau, cùng tài liệu điền dã kết hợp với tư liệu nước ngoài, đã minh chứng tính liên tục về chủ quyền của Nhà nước Việt Nam thời chúa Nguyễn và Tây Sơn, đã được Trung Quốc, Hà Lan và nhiều nước trên thế giới thừa nhận. Châu bản triều Nguyễn về quần đảo Hoàng Sa tại Nhà trưng bày Hoàng Sa – Đà Nẵng – Ảnh:MINH TỰ Nhà nước Việt Nam dưới thời các vua Nguyễn tiếp tục thực thi chủ quyền đó tại Hoàng Sa và Trường Sa, từ đầu thế kỷ 19 đến năm 1945. Theo PGS Đỗ Bang, các nước tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam tại Biển Đông, không có nước nào có bộ châu bản (văn bản của nhà nước), bộ chính sử của nhà nước và bộ bản đồ quốc gia ghi lại. Cưỡng đoạt Hoàng Sa là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiệp định Paris Các tham luận tại hội thảo nhắc lại việc nhà nước triều Nguyễn chấm dứt (8-1945) nhưng chủ quyền biển đảo Việt Nam vẫn tiếp tục được các thể chế chính trị tiếp đó thực thi. Tại hội nghị quốc tế San Francisco (Hoa Kỳ) từ ngày 5 đến 8-9-1951, tuyên bố của thủ tướng kiêm ngoại trưởng chính quyền quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã được các nước tham dự hội nghị thừa nhận. Hội nghị San Francisco là cơ sở pháp lý quốc tế đầu tiên, lớn nhất và thống nhất cao về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Quang cảnh hội nghị San Francisco 1951 – Ảnh tư liệu TS Nguyễn Thanh Minh cho biết những văn kiện pháp lý quốc tế từ Tuyên bố Cairo ngày 27-11-1943, Tuyên ngôn hội nghị Potsdam ngày 26-7-1945, Hội nghị Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) đã không xác nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào khác đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam. Khu nhà đồn trú của lính địa phương quân Việt Nam Cộng hòa trên đảo Hoàng Sa năm 1959 – Ảnh tư liệu trong sách Kỷ yếu Hoàng Sa “Do đó, hành vi nhà cầm quyền Trung Hoa dùng lực lượng quân sự cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng 1-1974 là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiệp định Paris (1-1973) về chủ quyền của Việt Nam mà chính họ đã cam kết tôn trọng”, PGS Đỗ Bang nhấn mạnh trong phát biểu đề dẫn. Kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế là cần thiết PGS.TS Trương Minh Dục cho biết, theo luật pháp quốc tế đương đại về thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia được coi là có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ khi quốc gia đó chứng minh được mình đã chiếm hữu, thực thi, quản lý và khai thác lãnh thổ đó với tư cách nhà nước một cách liên tục, hòa bình. Như vậy, Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. TS Lê Nhị Hòa nhận định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982. Những tuyên bố và hành động của Trung Quốc trên Biển Đông không thể thay đổi sự thật lịch sử về chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nghiên cứu về vấn đề kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài thường trực quốc tế, theo ThS Trần Việt Dũng, đó là giải pháp cần thiết của Nhà nước Việt Nam để bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Với những căn cứ đã có, cùng với nhận định của các chuyên gia pháp luật quốc tế, ThS Việt Dũng có niềm tin rằng: Việt Nam sẽ chiến thắng nếu kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài thường trực quốc tế. Tòa án Trọng tài thường trực quốc tế có trụ sở tại The Hague, Hà Lan – Ảnh tư liệu Hội thảo cho rằng, đến lúc này, giải pháp kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế là cần thiết, tối ưu, đúng đắn và đúng lúc; vì sau các giải pháp chính trị và ngoại giao hết sức kiên trì qua hàng chục năm đều không mang lại hiệu quả. MINH TỰ
Vietnam has established sovereignty over Hoang Sa - Truong Sa for a long time, continuously for many centuries Once again, that viewpoint continues to be affirmed by historical evidence and legal basis, at the workshop to establish the sovereignty of the State of Vietnam in the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos, just held this afternoon. August 18 in Hue. Scientific conference "The process of establishing the sovereignty of the Vietnamese State in the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos" was organized by the Thua Thien Hue Historical Science Association, with the participation of many historical and legal experts. from Hanoi , Hue, Da Nang, Ho Chi Minh City and many other localities. Establishing sovereignty must be in the name of the state Experts continued to present fully and systematically the process of establishing and exercising the sovereignty of the State of Vietnam in the two archipelagos of Hoang Sa and Truong Sa in two periods: before 1945, and since 1945. 1945 to present. At the same time, present the legal basis and the process of legal struggle to protect Vietnam's maritime and island sovereignty. Speaking at the conference, Associate Professor Dr. Do Bang - vice president of the Vietnam Historical Science Association, president of the Thua Thien Hue Historical Science Association - said that up to now there are still many different opinions on sovereignty over seas and islands. of a country, but the most common opinion is that to recognize sovereignty, the owner must act in the name of the state, must go through state documents and be recognized at different levels by foreign countries or an international organization. together. “Sovereignty over seas and islands cannot be in the name of the individual who discovered, explored, mapped, named, or in the name of a military, economic, social, or cultural organization or in the name of the government of a country. local. With this argument, we can see that Vietnam has established sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos for a long time, continuously for many centuries," Associate Professor Do Bang emphasized. Sovereignty is established by national records, official history, and maps Associate Professor Do Bang said that many official sources of the Vietnamese State through different periods, along with fieldwork documents combined with foreign documents, have demonstrated the continuity of the sovereignty of the Vietnamese State. During the reign of Lord Nguyen and Tay Son, it was recognized by China, the Netherlands and many countries around the world. Imperial records of the Nguyen Dynasty about the Hoang Sa archipelago at the Hoang Sa Exhibition House - Da Nang - Photo: MINH TU The Vietnamese state under the Nguyen kings continued to exercise that sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa, from the early 19th century to 1945. According to Associate Professor Do Bang, countries dispute sovereignty over islands and islands with Vietnam in the Sea. In the East, there is no country that has a set of official documents (state documents), a set of official state histories, and a set of recorded national maps. Grabbing Hoang Sa is a violation of the United Nations Charter and the Paris Agreement The presentations at the conference recalled the end of the Nguyen Dynasty (August 1945), but Vietnam's sovereignty over the islands and seas continued to be enforced by subsequent political institutions. At the international conference in San Francisco (USA) from September 5 to 8, 1951, the statement of Prime Minister and Foreign Minister of the Vietnamese national government Tran Van Huu on Vietnam's sovereignty over the Truong Hoang archipelago was announced. Sa and Hoang Sa have been recognized by countries attending the conference. The San Francisco Conference is the first, largest and most unified international legal basis on Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos. Scene of the 1951 San Francisco conference - Documentary photo Dr. Nguyen Thanh Minh said that international legal documents from the Cairo Declaration on November 27, 1943, the Potsdam Conference Declaration on July 26, 1945, the Geneva Conference (1954), and the Paris Agreement (1973) have does not confirm the sovereignty of any other country over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos under the sovereignty of the State of Vietnam. The garrison area of ​​the local soldiers of the Republic of Vietnam on Hoang Sa Island in 1959 - Documentary photo in the Hoang Sa Yearbook book “Therefore, the Chinese government's act of using military force to forcefully occupy the entire Hoang Sa archipelago of Vietnam in January 1974 is a violation of the United Nations Charter and the Paris Agreement (January 1973) on Vietnam's sovereignty, which they have committed to respect," Associate Professor Do Bang emphasized in his introductory speech. Suing China in international court is necessary Associate Professor Dr. Truong Minh Duc said that according to contemporary international law on territorial acquisition, a country is considered to have sovereignty over a territory when that country can prove that it has possessed and exercised sovereignty over a territory. to exercise, manage and exploit that territory as a state in a continuous and peaceful manner. Thus, Vietnam has established and exercised sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos in complete accordance with the provisions of international law. Dr. Le Nhi Hoa commented that Vietnam has sufficient historical evidence and legal basis to assert sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos in accordance with international law, including the United Nations Convention United Nations on the Law of the Sea in 1982. China's statements and actions in the East Sea cannot change the historical truth about Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos. Researching the issue of suing China to the Permanent Court of International Arbitration, according to Master Tran Viet Dung, it is a necessary solution for the Vietnamese State to protect the sovereignty of Vietnam's seas and islands today. With the available grounds, along with the opinions of international legal experts, MSc Viet Dung believes that: Vietnam will win if it sues China to the Permanent Court of International Arbitration. The Permanent Court of International Arbitration is headquartered in The Hague, Netherlands – File photo The conference believes that, at this time, the solution of suing China to international court is necessary, optimal, correct and timely; because after decades of persistent political and diplomatic solutions, they were not effective. MINH TU
‘Cây cầu’ dài 6,5 triệu năm ánh sáng Các nhà thiên văn học phát hiện một “cây cầu” vô tuyến tần số thấp khổng lồ nối liền hai cụm thiên hà trong giai đoạn đầu của quá trình sáp nhập. Hai cụm thiên hà ở đầu cây cầu ở cách Trái Đất khoảng 3 tỷ năm ánh sáng, trong cụm Abell 1758. Tại đây, tổng cộng 4 cụm thiên hà sắp va vào nhau. Năm ngoái, dữ liệu tia X hé lộ hai cụm thiên hà ở phía bắc gọi là Abell 1758N đã di chuyển lại gần nhau và tách ra, lõi của chúng đi qua nhau cách đây 300 – 400 triệu năm. Hai cụm thiên hà còn lại ở phía nam mang tên Abell 1758S vẫn đang tiến tới gần nhau lần đầu tiên. Sử dụng kính viễn vọng vô tuyến tần số thấp LOFAR bao gồm 25.000 ăngten ở 51 địa điểm, các nhà vật lý thiên văn đứng đầu là Andrea Botteon ở Đài quan sát Leiden tại Hà Lan quan sát Abell 1758. Ở tần số 144 megahertz (MHz), họ phát hiện phát xạ vô tuyến kéo dài giữa Abell 1758N và Abell 1758S, tương tự cây cầu dài 3 triệu năm ánh sáng nối hai cụm thiên hà Abell 0399 và Abell 0401 được tìm thấy vào năm ngoái. Nhóm nghiên cứu công bố phát hiện hôm 22/8 trên tạp chí Royal Astronomical Society. “Chúng tôi xác nhận sự tồn tại của một cây cầu phát xạ vô tuyến nối hai hệ thống trong nghiên cứu ban đầu. Đây là cây cầu vô tuyến thứ hai được quan sát từ trước tới nay. Cây cầu này có thể quan sát rõ trong ảnh chụp của LOFAR ở tần số 144 MHz”, nhóm nghiên cứu cho biết. Theo Botteon và cộng sự, sự phát xạ vô tuyến là bằng chứng về từ trường khổng lồ nối hai cụm thiên hà. Nếu từ trường này đóng vai trò như máy gia tốc hạt, các hạt electron sẽ tăng tốc tới vận tốc tương đối, tạo ra bức xạ có thể phát hiện ở tần số vô tuyến thấp. Phát hiện của nhóm nghiên cứu cho thấy nhiễu động và sóng xung kích có thể sinh ra ở giai đoạn đầu của quá trình sáp nhập. Điều này đặc biệt đúng nếu những cụm thiên hà đang bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn. An Khang (Theo Science Alert )
The 'bridge' is 6.5 million light years long Astronomers discovered a giant low-frequency radio "bridge" connecting two galaxy clusters in the early stages of a merger. The two galaxy clusters at the beginning of the bridge are about 3 billion light years from Earth, in the Abell 1758 cluster. Here, a total of four galaxy clusters are about to collide. Last year, X-ray data revealed that two northern galaxy clusters called Abell 1758N moved together and separated, their cores passing each other, 300-400 million years ago. The two remaining galaxy clusters to the south, named Abell 1758S, are still approaching each other for the first time. Using the LOFAR low-frequency radio telescope, which includes 25,000 antennas in 51 locations, astrophysicists led by Andrea Botteon at the Leiden Observatory in the Netherlands observed Abell 1758. At a frequency of 144 megahertz ( MHz), they detected extended radio emissions between Abell 1758N and Abell 1758S, similar to the 3 million light-year long bridge connecting the two galaxy clusters Abell 0399 and Abell 0401 found last year. The research team published their findings on August 22 in the journal Royal Astronomical Society. “We confirmed the existence of a radio emission bridge connecting the two systems in initial research. This is the second radio bridge observed so far. This bridge can be clearly seen in LOFAR's images at 144 MHz," the research team said. According to Botteon and his colleagues, the radio emission is evidence of a giant magnetic field connecting the two galaxy clusters. If this magnetic field acted as a particle accelerator, electrons would accelerate to relativistic velocities, producing radiation that could be detected at low radio frequencies. The team's findings show that turbulence and shock waves can be generated in the early stages of the merger process. This is especially true if galaxy clusters are being affected by gravity. An Khang (According to Science Alert )
Sun Group nhận “mưa giải thưởng” World Travel Awards 2020 khu vực Châu Á Sáng 3/11, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, lễ trao giải thưởng World Travel Awards (WTA) – Oscar của ngành du lịch thế giới – đã công bố các giải thưởng năm 2020 của khu vực châu Á trên trang web của tổ chức này. Trong lễ trao giải đặc biệt năm nay, Tập đoàn Sun Group lập kỳ tích mới với tổng cộng 25 giải thưởng ở các hạng mục khác nhau. Cụ thể, trong lĩnh vực vui chơi giải trí, Sun Group có ba quần thể du lịch được vinh danh. Trong đó, khu du lịch Sun World Ba Na Hills bất ngờ lập “cú đúp” giải thưởng: Công viên chủ đề hàng đầu Việt Nam và Công viên chủ đề hàng đầu châu Á 2020. Đây là niềm vinh dự lớn cho khu du lịch biểu tượng của Đà Nẵng bởi điều này thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những đổi mới, sáng tạo của Sun World Ba Na Hills, đặc biệt trong giai đoạn đầy khó khăn như năm 2020. Trước đó, tại WTA 2019 Châu Á – Châu Đại Dương, khu du lịch trên đỉnh Bà Nà mới đạt 01 giải thưởng “Công viên chủ đề hàng đầu Việt Nam”. Bên cạnh đó, quần thể du lịch Sun World Fansipan Legend (Sa Pa, Lào Cai) lần thứ 2 liên tiếp được vinh danh ở hạng mục giải thưởng “Điểm đến du lịch hấp dẫn hàng đầu Việt Nam”. Tuy nhiên, niềm vui bất ngờ nhất đối với Sun Group trong lễ trao giải lần này có lẽ là chiến thắng của tổ hợp vui chơi giải trí Sun World Hon Thom Nature Park, với giải thưởng “Công viên nước hàng đầu châu Á 2020” dành cho Aquatopia Water Park. Đây là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của Sun Group trong việc kiến tạo một công viên nước quy mô và hiện đại hàng đầu Đông Nam Á, tạo điểm nhấn độc đáo tại Hòn Thơm cho khu vực Nam đảo Phú Quốc. Trong lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng, Sun Group có tổng cộng 9 khách sạn, resort được vinh danh với 18 giải thưởng WTA 2020 khu vực châu Á. Trong đó, không ít công trình khách sạn, resort của Tập đoàn này không chỉ xuất sắc “tái lập” thành tích của năm ngoái mà còn “ẵm” thêm nhiều giải thưởng mới. Ấn tượng nhất là InterContinental Danang Sun Peninsula Resort- kiệt tác nghỉ dưỡng của kiến trúc sư Bill Bensley trên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) với 7 giải thưởng. Ngoài những giải thưởng “quen thuộc” đã từng đạt được trong năm 2019 như: Khu nghỉ dưỡng sang trọng hàng đầu Việt Nam; Nhà hàng Fine Dining hàng đầu thế giới 2019” dành cho La Maison 1888; Khu nghỉ dưỡng thân thiện với môi trường hàng đầu Châu Á; Khu nghỉ dưỡng biển sang trọng hàng đầu châu Á; Khu nghỉ dưỡng sang trọng hàng đầu châu Á, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort còn “ẵm” 2 giải thưởng mới là: Khu nghỉ dưỡng dành cho tuần trăng mật hàng đầu Việt Nam 2020; Khu nghỉ dưỡng lãng mạn nhất châu Á 2020. Trong khi đó, Hotel de la Coupole – Mgallery -một kiệt tác khác của Bill Bensley tại Sa Pa “bảo toàn” thành tích năm 2019 với 2 giải thưởng: Khách sạn sang trọng hàng đầu Việt Nam và Khách sạn có thiết kế hàng đầu Châu Á 2020. Giữ vững thành tích năm ngoái, tác phẩm thứ ba của “ông hoàng resort” – “ngôi trường đại học giả tưởng” nổi tiếng JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay trên đảo Ngọc- tiếp tục đạt “cú đúp” giải thưởng: Khu nghỉ dưỡng hàng đầu Việt Nam 2020 và Khu nghỉ dưỡng và spa hàng đầu Châu Á 2020. Tương tự, Premier Village Phu Quoc Resort vẫn giữ vững ngôi vị tại WTA 2020 khu vực châu Á với hai giải thưởng đã đạt được trong năm 2019, gồm: Khu nghỉ dưỡng biệt thự hàng đầu Việt Nam và Khu nghỉ dưỡng biệt thự hàng đầu châu Á. Khu nghỉ sang trọng trên đỉnh Bà Nà – Mercure Danang French Village Ba Na Hills được vinh danh ở hạng mục “Khu nghỉ dưỡng chủ đề hàng đầu châu Á”. Bên cạnh những tên tuổi đã quen thuộc với giải thưởng WTA, có không ít công trình khách sạn, resort do Tập đoàn Sun Group đầu tư, vận hành lần đầu tiên được vinh danh tại WTA 2020 khu vực châu Á năm nay như: Premier Village Ha Long Bay Resort (Hạ Long, Quảng Ninh) – Khách sạn ven biển hàng đầu Việt Nam; Novotel Danang Han River (Đà Nẵng)–Khách sạn dành cho doanh nhân hàng đầu Việt Nam; Premier Residences Phu Quoc Emerald Bay (Phú Quốc) – Khách sạn căn hộ hàng đầu châu Á. Trong lĩnh vực Hạ tầng, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn (Quảng Ninh) một lần nữa viết tiếp niềm tự hào Việt Nam khi được xướng danh tại WTA 2020 khu vực châu Á với hai giải thưởng: Sân bay có hệ thống phòng chờ thương gia hàng đầu châu Á và Sân bay khu vực hàng đầu châu Á. Năm 2019, khi mới khai trương chưa đầy một năm, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn đã được vinh danh Sân bay mới hàng đầu châu Á. Đáng chú ý, lần đầu tiên tham gia WTA, Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long đã xuất sắc vượt qua 7 “đối thủ nặng ký” trong khu vực để giành chiến thắng tại hạng mục Cảng tàu khách hàng đầu Châu Á 2020. Giải thưởng này là sự ghi nhận xứng đáng đối với những nỗ lực của chủ đầu tư Sun Group trong việc kiến tạo một Cảng tàu khách chuyên biệt đầu tiên tại Việt Nam, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế với hệ thống kỹ thuật hiện đại, có thể phục vụ những du thuyền lớn trên thế giới cùng nhà ga Cảng tàu được thiết kế tinh tế bởi KTS lừng danh Bill Bensley, là sự kết hợp tuyệt vời giữa tinh hoa văn hóa, kiến trúc của Việt Nam và châu Âu. Dù mới chỉ vận hành hơn 1 năm nhưng Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long đã trở thành điểm đến tin cậy của các hãng du thuyền lớn trên thế giới. Trước niềm vui phá vỡ kỳ tích 21 giải thưởng năm 2019 của chính Tập đoàn, ông Đặng Minh Trường – Chủ tịch HĐQT Sun Group chia sẻ: “ Đại dịch Covid-19 đã biến 2020 trở thành một năm vô cùng khó khăn và thách thức đối với Sun Group, ngành du lịch Việt Nam nói riêng và du lịch toàn cầu nói chung. Tuy nhiên, sự kiện các công trình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí và hạ tầng do Sun Group kiến tạo tại Việt Nam tiếp tục được tôn vinh tại 25 hạng mục của World Travel Awards 2020 khu vực châu Á đã đem lại niềm vui và sự khích lệ to lớn cho Sun Group. Có thể coi đây là một điểm sáng của Sun Group nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung trong một năm 2020 với quá nhiều biến động. Và điều này cũng đồng thời là minh chứng cho thấy những công trình, sản phẩm của du lịch Việt Nam đã có thể đường hoàng sánh vai với các cường quốc du lịch trong khu vực và thế giới.”. Một lần nữa, sự công nhận, tôn vinh liên tiếp của cộng đồng quốc tế tiếp tục khẳng định tầm nhìn và hướng đi đúng đắn của Sun Group, trong việc kiến tạo nên những công trình chất lượng, đẳng cấp, khác biệt, những dịch vụ, trải nghiệm du lịch độc đáo, từng bước nâng tầm, đưa tên tuổi Việt Nam ngày càng vươn cao, vươn xa hơn trên bản đồ du lịch quốc tế. Cơn mưa giải thưởng trong một năm đầy khó khăn như 2020 cũng là minh chứng cho thấy cách làm du lịch bài bản, bền vững của những Tập đoàn hàng đầu như Sun Group sẽ là nền tảng vững chắc, để du lịch Việt Nam bứt phá nhanh và mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai.
Sun Group received a "rain of awards" at the World Travel Awards 2020 in Asia On the morning of November 3, due to the impact of the Covid-19 pandemic, the World Travel Awards (WTA) - the Oscars of the world tourism industry - announced the 2020 awards of the Asian region on the website. of this organization. In this year's special awards ceremony, Sun Group set a new feat with a total of 25 awards in different categories. Specifically, in the field of entertainment, Sun Group has three honored tourism complexes. Among them, the tourist area Sun World Ba Na Hills suddenly achieved a "double" award: Vietnam's Leading Theme Park and Asia's Leading Theme Park 2020. This is a great honor for the iconic tourist area of ​​Vietnam. Danang because this shows the recognition and appreciation of the international community for the innovations and creativity of Sun World Ba Na Hills, especially in a difficult period like 2020. Previously, at WTA 2019 In Asia - Oceania, the tourist area on top of Ba Na has just won one award for "Vietnam's Leading Theme Park". Besides, tourist complex Sun World Fansipan Legend (Sa Pa, Lao Cai) was honored for the second time in a row in the award category "Top attractive tourist destination in Vietnam". However, the most unexpected joy for Sun Group at this awards ceremony is probably the victory of the entertainment complex Sun World Hon Thom Nature Park, with the award "Asia's Leading Water Park 2020". for Aquatopia Water Park. This is a worthy reward for Sun Group's efforts in creating a large-scale and modern water park leading in Southeast Asia, creating a unique highlight at Hon Thom for the Southern Phu Quoc Island region. In the field of resort tourism, Sun Group has a total of 9 hotels and resorts honored with 18 WTA 2020 awards in Asia. Among them, many hotel and resort projects of this Group not only excellently "re-established" last year's achievements but also "won" many new awards. The most impressive is InterContinental Danang Sun Peninsula Resort - architect Bill Bensley's resort masterpiece on Son Tra peninsula (Da Nang) with 7 awards. In addition to the "familiar" awards that have been achieved in 2019 such as: Leading luxury resort in Vietnam; “Top Fine Dining Restaurant in the World 2019” for La Maison 1888; Asia's leading environmentally friendly resort; Asia's leading luxury beach resort; Asia's leading luxury resort, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort also "held" two new awards: Top honeymoon resort in Vietnam 2020; The most romantic resort in Asia 2020. Meanwhile, Hotel de la Coupole – Mgallery - another masterpiece of Bill Bensley in Sa Pa "preserved" its 2019 achievements with 2 awards: Leading luxury hotel in Vietnam and Leading design hotel. Asia 2020. Maintaining last year's achievements, the third work of the "resort king" - the famous "fiction university" JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay on Pearl Island - continues to win a "double" award: Vietnam's Leading Resort 2020 and Asia's Leading Resort and Spa 2020. Similarly, Premier Village Phu Quoc Resort still maintains its position at WTA 2020 in Asia with two awards achieved in 2019, including: Leading Villa Resort in Vietnam and Leading Villa Resort. Asia. The luxury resort at the top of Ba Na - Mercure Danang French Village Ba Na Hills was honored in the category "Asia's Leading Theme Resort". Besides the names familiar with the WTA awards, there are many hotel and resort projects invested and operated by Sun Group that were honored for the first time at WTA 2020 in Asia this year such as: Premier Village Ha Long Bay Resort (Ha Long, Quang Ninh) – Vietnam's leading coastal hotel; Novotel Danang Han River (Da Nang)–Vietnam's leading business hotel; Premier Residences Phu Quoc Emerald Bay (Phu Quoc) – Asia's leading apartment hotel. In the field of Infrastructure, Van Don International Airport (Quang Ninh) once again wrote the pride of Vietnam when it was named at WTA 2020 in Asia with two awards: Airport with lounge system Asia's Leading Business and Asia's Leading Regional Airport. In 2019, less than a year after opening, Van Don International Airport was honored as Asia's Leading New Airport. Notably, for the first time participating in WTA, Ha Long International Cruise Port successfully surpassed 7 "strong competitors" in the region to win the category of Asia's Leading Cruise Port 2020. Award This award is worthy recognition for the efforts of investor Sun Group in creating the first specialized passenger ship port in Vietnam, meeting international standards with a modern, capable technical system. can serve large cruise ships in the world with the Port station delicately designed by famous architect Bill Bensley, which is a wonderful combination of cultural and architectural quintessence of Vietnam and Europe. Although it has only been in operation for more than a year, Ha Long International Cruise Port has become a trusted destination for major cruise lines in the world. Facing the joy of breaking the Group's own miracle of 21 awards in 2019, Mr. Dang Minh Truong - Chairman of the Board of Directors of Sun Group shared: " The Covid-19 pandemic has turned 2020 into an extremely difficult and challenging year for Sun Group, the Vietnamese tourism industry in particular and global tourism in general. However, the fact that the resort, entertainment and infrastructure projects created by Sun Group in Vietnam continue to be honored in 25 categories of the World Travel Awards 2020 in Asia has brought joy. great joy and encouragement for Sun Group. This can be considered a bright spot for Sun Group in particular and Vietnamese tourism in general in a year of 2020 with too many changes. And this is also proof that the projects and products of Vietnamese tourism can stand shoulder to shoulder with tourism powers in the region and the world." Once again, the continuous recognition and honor of the international community continues to affirm Sun Group's vision and correct direction, in creating quality, classy, ​​distinctive projects, unique services and travel experiences, gradually raising the level, bringing Vietnam's name higher and farther on the international tourism map. The rain of awards in a difficult year like 2020 is also proof that the methodical and sustainable tourism practices of leading corporations like Sun Group will be a solid foundation for Vietnamese tourism to break through. faster and stronger in the future.
Giới thiệu khái quát huyện Hàm Thuận Bắc Hàm Thuận Bắc là một huyện của tỉnh Bình Thuận . Hàm Thuận Bắc cùng với Hàm Thuận Nam được thành lập năm 1983 từ việc chia cắt huyện Hàm Thuận của tỉnh Thuận Hải (cũ) lấy sông Cà Ty làm ranh giới. Nhìn chung địa hình của huyện khá đa dạng, thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam; bao gồm dạng địa hình vùng đồi núi, bán sơn địa, vùng đồng bằng phù sa ven sông và các vùng cồn cát biển; có thể tạm chia địa hình của huyện thành 3 dạng chính: – Vùng đồi núi bán sơn địa phía Bắc và phía Tây: Phân bố về phía Tây đường sắt Bắc Nam, bao gồm các xã vùng bán sơn địa, chiếm 76,44% diện tích tự nhiên toàn huyện. – Vùng đồng bằng phù sa ven sông: Bao gồm một số xã nằm dọc theo Quốc lộ 1A và Quốc lộ 28, chiếm 12,39% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. – Vùng cồn cát biển phía Nam và phía Đông: Phân bố về phía Đông Quốc lộ 1A kéo dài bao gồm các xã Hàm Đức, xã Hồng Sơn và xã Hồng Liêm, chiếm 10,63% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Đây là vùng có cồn cát trắng vàng và đỏ mang tính chất khô hạn nhất của huyện. Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhưng khí hậu của huyện mang nét đặc trưng của chế độ khí hậu bán khô hạn vùng cực Nam trung bộ, tuy nhiên do phân hoá về địa hình nên khí hậu của huyện được chia thành hai tiểu vùng gồm vùng khí hậu miền núi và vùng khí hậu đồng bằng ven biển. Trong năm khí hậu được chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Chế độ thủy văn của huyện chịu ảnh hưởng của 2 con sông chính là sông Cái Phan Thiết và sông La Ngà. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn một hệ thống gồm nhiều con sông, suối nhỏ khác. Về Kinh tế Hàm Thuận Bắc chủ yếu là huyện thuần nông, trong những năm gần đây nhờ có cây Thanh Long mà đời sống bà con trong Huyện tăng lên rõ rệt, nhiều trang trại Thanh Long đã và đang hình thành và phát triển cùng với những Rừng cây Cao Su và cây ăn trái khác đã làm thay đổi bộ mặt Nông thôn Hàm Thuận Bắc; Do nhu cầu đô thị hóa, cuối năm 2009, Thành Phố Phan Thiết sẽ được nâng lên thành đô thị loại II, một số vùng giáp ranh với Phan Thiết của Hàm Thuận Bắc sẽ được chuyển về Phan Thiết quản lý như Hàm Liêm, Hàm Thắng, Hàm Hiệp, Thị trấn Phú Long. Hàm Thuận Bắc cỏn là nơi có khung cảnh thiên nhiên rất hữu tình có hồ Hàm Thuận, thủy điện Hàm Thuận-Đa Mi rất đẹp và nên thơ, khung cảnh của các xã giáp ranh với Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh thuộc Lâm Đồng không khác gì khung cảnh của Đà Lạt còn ẩn hiện trong sương chưa được khai phá. Tiềm năng thiên nhiên và du lịch của vùng đất này vẫn chưa được đánh thức. Hàm Thuận Bắc được hình thành vào khoảng thế kỷ 19, trong quá trình chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai địch họa để sinh tồn và phát triển, địa giới của huyện đã nhiều lần thay đổi với các tên gọi như huyện Thiên Giáo (trước giải phóng), huyện Hàm Thuận (sau giải phóng) và đến năm 1993 được chia tách thành hai huyện là: Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam. Theo thống kê năm 2007, dân số toàn huyện là 162.586 người. Trên địa bàn huyện hiện có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống như Kinh, Rắclay, Chăm, K’Ho … trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số với trên 95%. Cộng đồng dân cư bản địa chủ yếu là người K’Ho, Chăm, Rắclay sống tập trung ở các xã vùng cao với tập quán sản xuất làm nghề rừng, làm nương rẫy, một bộ phận nhỏ trồng lúa nước và được tổ chức thành những buôn làng, các luật tục, lễ thức gắn chặt với buôn làng. Cộng đồng người Kinh tập trung ở vùng đồng bằng, ven quốc lộ nơi có điều kiện thuận tiện buôn bán, trồng lúa nước. Các cộng đồng dân cư của huyện theo một số tôn giáo chính như: Đạo Bà La Môn, Thiên chúa giáo, Tin lành và Lương giáo.
General introduction of Ham Thuan Bac district Ham Thuan Bac is a district of Binh Thuan Province . Ham Thuan Bac and Ham Thuan Nam were established in 1983 from dividing Ham Thuan district of Thuan Hai province (formerly) with Ca Ty river as the boundary. In general, the district's terrain is quite diverse, gradually lowering in the Northwest - Southeast direction; includes mountainous terrain, semi-mountainous terrain, alluvial river plains and coastal sand dunes; The district's terrain can be temporarily divided into 3 main types: - Northern and Western semi-mountainous mountainous areas: Distributed to the west along the North-South railway, including semi-mountainous communes, accounting for 76.44%. natural area of ​​the entire district. – Riverine alluvial plain: Includes a number of communes located along National Highway 1A and National Highway 28, accounting for 12.39% of the total natural area of ​​the district. – Southern and eastern sand dunes: Distributed east of National Highway 1A, including Ham Duc commune, Hong Son commune and Hong Liem commune, accounting for 10.63% of the total natural area of ​​the district. This is the driest area with white, yellow and red sand dunes in the district. Located in the tropical monsoon region, the district's climate is characterized by the semi-arid climate of the extreme South Central region. However, due to topographic differentiation, the district's climate is divided into two sub-regions. includes mountainous climate zones and coastal plain climate zones. The climate year is divided into two distinct seasons: Rainy season: From May to October. Dry season: From November to April of the following year. The district's hydrological regime is influenced by two main rivers: Cai Phan Thiet River and La Nga River. In addition, the district has a system of many other small rivers and streams. Economically, Ham Thuan Bac is mainly an agricultural district. In recent years, thanks to the Dragon fruit tree, the lives of people in the District have increased significantly, many Dragon farms have been formed and developed along with Forests of Rubber trees and other fruit trees have changed the face of Ham Thuan Bac Rural Area; Due to the need for urbanization, at the end of 2009, Phan Thiet City will be upgraded to a class II urban area, some areas bordering Phan Thiet of Ham Thuan Bac will be transferred to Phan Thiet for management such as Ham Liem, Ham Thuan Bac. Thang, Ham Hiep, Phu Long Town. Ham Thuan Bac is also a place with a very charming natural scenery with Ham Thuan lake, Ham Thuan-Da Mi hydroelectric plant is very beautiful and poetic, the scenery of communes bordering Bao Loc, Bao Lam, Di Linh belongs to Lam Dong. The field is no different from the scenery of Da Lat still hidden in the unexplored mist. The natural and tourism potential of this land has not yet been awakened. Ham Thuan Bac was formed around the 19th century. In the process of conquering nature, fighting against natural disasters and enemies to survive and develop, the district's boundaries have changed many times with names such as Thien Giao district (Thien Giao district). before liberation), Ham Thuan district (after liberation) and in 1993 was divided into two districts: Ham Thuan Bac and Ham Thuan Nam. According to 2007 statistics, the district's population is 162,586 people. In the district, there are currently many different ethnic groups living such as Kinh, Raclay, Cham, K'Ho... of which the Kinh ethnic group accounts for the majority with over 95%. The indigenous community is mainly K'Ho, Cham, Rachlay people living concentrated in highland communes with production practices of forestry and slash-and-burn farming, a small part of which grows wet rice and is organized into The villages, customary laws, and rituals are closely tied to the villages. The Kinh community is concentrated in the delta and along the highway where there are convenient conditions for trading and growing wet rice. The district's residential communities follow several main religions such as Brahmanism, Catholicism, Protestantism and Paganism.
5 sự kiện y tế nổi bật năm 2020 Năm 2020 chứng kiến nỗ lực y tế phi thường trong chống dịch Covid-19 và các thành tựu y khoa như mổ tách song sinh, ghép tạng. Khống chế thành công Covid-19 Ngày 23/1, Việt Nam phát hiện ca nhiễm nCoV đầu tiên trong lúc thông tin về virus và căn bệnh hoàn toàn mới mẻ. Với kinh nghiệm từ thời chống SARS, ngành y tế đưa ra chiến lược ngăn chặn, truy vết, cách ly, khoanh vùng, dập dịch. Tất cả bệnh nhân đợt dịch một và hai được chữa khỏi hoàn toàn kể cả những ca nặng nhất như “bệnh nhân 19”, “bệnh nhân 91”. Việt Nam trở thành điển hình thành công khống chế Covid-19 trên thế giới. Bệnh nhân Covid-19 đầu tiên tại Việt Nam (trái) điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy, khỏi bệnh cuối tháng 2. Ảnh: Hữu Khoa. Đợt dịch thứ ba bùng phát cuối tháng 7, đánh vào các khoa thận, hồi sức… ở ba bệnh viện Đà Nẵng. Thách thức là không xác định được nguồn lây; năng lực xét nghiệm và điều trị ở miền trung không đáp ứng. Các đội y bác sĩ từ Hà Nội, TP HCM và các tỉnh khác được điều động nhanh chóng để dập dịch. Công cụ truy vết cũng giúp khống chế sự lây lan, hạn chế hậu quả chỉ 35 ca tử vong, chủ yếu trên người cao tuổi có bệnh sẵn. Việc nghiên cứu phát triển vaccine được tiến hành ngay từ đầu năm, đưa đến bước thử nghiệm vaccine trên người đầu tiên đang diễn ra, hứa hẹn một vũ khí chống dịch an toàn và hiệu quả. Nguồn lực hạn chế, biên giới dài, độ mở cao, nhưng Việt Nam dập dịch thành công giúp đời sống xã hội và nền kinh tế dễ thở hơn trong khi đối phó với Covid-19. Ca mổ tách trẻ dính nhau Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, TP HCM , thực hiện ca đại phẫu tách hai bé gái dính liền phần bụng chậu ngày 15/7, cách 32 năm kể từ ca mổ cặp Việt – Đức. Gần 100 bác sĩ tham gia ca mổ tách rời cặp song sinh Hoàng Trúc Nhi và Hoàng Diệu Nhi. Lúc này, hai bé tròn 13 tháng tuổi, nặng tổng 15 kg. Mỗi bé có hai tay, hai chân nhưng thông nối nhiều mạch máu và chung nhiều cơ quan nội tạng, sống cộng sinh. Diệu Nhi hôn Trúc Nhi, một tháng sau ca mổ tách dính. Ảnh: Hữu khoa. Bác sĩ Trương Quang Định, Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, chỉ huy cuộc mổ dài hơn 13 giờ, gồm ba giai đoạn gồm tách rời, tái tạo, sắp xếp lại xương và các cơ quan. Trúc Nhi – Diệu Nhi được tách thành hai con người độc lập. Ngày 7/10, hai chị em xuất viện. Bác sĩ Định đánh giá, quá trình hồi phục của bé gần như hoàn hảo. Các bé đạt đúng quỹ đạo phát triển như một trẻ bình thường về thể chất và tinh thần. “Ca phẫu thuật đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của nền y tế Việt Nam về tách dính trẻ song sinh dính liền”, Giáo sư Trần Đông A, người chỉ huy ca mổ tách nổi tiếng thế giới 32 năm trước, cố vấn ca mổ tách hai bé lần này, nhận xét. Kỷ lục 23 ca ghép tạng trong 13 ngày Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thực hiện liên tiếp 23 ca ghép tạng gồm ba ca ghép tim, bốn ca ghép gan, 16 ca ghép thận hồi đầu tháng 9. Các tạng hiến từ cả người chết não và người sống. Sau ghép, sức khỏe các bệnh nhân đều tiến triển tốt, ổn định. Ghép tạng là kỹ thuật khó cần sự phối hợp chính xác giữa các kíp mổ bên cho và bên nhận. Y bác sĩ không chủ động được thời gian vì phụ thuộc nguồn tạng hiến, nhưng chỉ chậm trễ một chút là có thể hỏng tạng. Các ca mổ ghép thường dài cả chục giờ và việc chăm sóc hậu phẫu chống thải ghép phức tạp. Số ca trên phản ánh tốc độ tăng năng lực ghép tạng ở Việt Nam. Trước khi ca ghép gan đầu tiên diễn ra năm 2004, nhiều chuyên gia đã được cử sang nước ngoài học tập, khoảng thời gian chuẩn bị cho ca phẫu thuật dài 5 năm. Bác sĩ Bệnh viện Việt Đức thực hiện ghép tim cho 2 bệnh nhân trong 2 ngày liên tiếp. Ảnh:Bệnh viện cung cấp Để có kỷ lục về ghép tạng này, hơn 400 y bác sĩ làm việc xuyên tuần. Đây cũng là lần đầu tiên Trung tâm Tim mạch và lồng ngực của bệnh viện ghép tim cho hai bệnh nhân trong hai ngày liên tiếp. Khám chữa bệnh từ xa Đề án Khám, chữa bệnh từ xa ban hành ngày 22/6 mở ra một thời mới trong chẩn đoán và điều trị, với hai mục tiêu là tất cả cơ sở y tế, nhất là tuyến huyện, được hỗ trợ chuyên môn liên tục; mọi người dân đều được hỗ trợ y tế thường xuyên và khi cần thiết. Hệ thống Telehealth giúp điều trị hiệu quả bệnh nhân mà vẫn đảm bảo giãn cách xã hội phòng chống dịch Covid-19; giảm chi phí đi lại, giảm quá tải tuyến trên, tăng năng lực tuyến dưới, kết nối các bệnh viện. Khám chữa bệnh từ xa có thể áp dụng cho chẩn đoán, điều trị, dự phòng, phục hồi. Với bệnh nhân, thay vì phải di chuyển hàng trăm cây số tới Hà Nội hoặc TP HCM, họ có thể vẫn nằm tại bệnh viện gần nhà, thậm chí tại nhà, mà vẫn được bác sĩ tuyến trung ương chẩn đoán trên thời gian thực. Khoảng 1.500 cơ sở y tế trên cả nước kết nối trực tuyến qua ứng dụng Telehealth. Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long đánh giá đây là chiến lược quan trọng của ngành y tế, đặc biệt trong thời đại chuyển đổi số. Bệnh truyền nhiễm nguy hiểm tái xuất Sau nhiều năm im ắng, nhiều dịch bệnh truyền nhiễm chết người trỗi dậy trong năm nay như bạch hầu, sốt mò, Whitmore. Bạch hầu âm thầm tấn công nhiều trẻ em ở Tây Nguyên, lan ra Quảng Trị, Quảng Ngãi. Gần 200 ca bạch hầu được ghi nhận, trong đó bốn em bé tử vong. Số bệnh nhân tăng gần 450% so với năm 2019, tăng đến 15 lần so với giai đoạn 2014-2018. Covid-19 đã làm gián đoạn tiêm chủng, góp phần khiến dịch bạch hầu bùng phát. Ngoài ra, nhiều bậc cha mẹ quên đưa con đi tiêm. Ở Tây Nguyên, tỷ lệ tiêm chủng bạch hầu – bệnh có trong chương trình tiêm chủng mở rộng toàn quốc – chỉ đạt 50%. Để dập dịch, các đội y bác sĩ lập tức được điều tới buôn làng để tiêm chủng cộng đồng cho hàng chục nghìn người. Tháng 10, dịch được khống chế. Bác sĩ lấy mẫu xét nghiệm bạch hầu cho người dân ở Đăk Nông hồi tháng 6. Ảnh:Ngô Duyên Bệnh Whitmore bùng phát ở miền trung do mưa lũ kéo dài là môi trường sinh trưởng mạnh mẽ của vi khuẩn gây bệnh. Bệnh viện Trung ương Huế đến tháng 10 tiếp nhận 41 ca, gấp 3 lần số ca trung bình nhiều năm qua. Quảng Trị ghi nhận 30 ca. Sốt mò – bệnh truyền nhiễm đã biến mất nhiều năm – xuất hiện lại ở một số tỉnh miền bắc. Do thông tin về bệnh không phổ biến, hầu hết người bệnh tới viện muộn, tình trạng nặng. Những bệnh truyền nhiễm chết người trên đều là bệnh cũ tái xuất, hoàn toàn có thể phòng ngừa bằng cách tiêm vaccine và giữ vệ sinh. Ban Sức Khỏe
5 outstanding medical events in 2020 The year 2020 witnessed extraordinary medical efforts in fighting the Covid-19 epidemic and medical achievements such as twin separation surgery and organ transplantation. Successfully controlled Covid-19 On January 23, Vietnam discovered its first case of nCoV infection while information about the virus and the disease was completely new. With experience from the fight against SARS, the health sector has come up with a strategy to prevent, trace, isolate, localize and suppress the epidemic. All patients in the first and second epidemics were completely cured, including the most severe cases such as "patient 19" and "patient 91". Vietnam has become a successful example of controlling Covid-19 in the world. The first Covid-19 patient in Vietnam (left) was treated at Cho Ray hospital and recovered at the end of February. Photo: Huu Khoa. The third outbreak broke out at the end of July, hitting the kidney and resuscitation departments... in three Da Nang hospitals. The challenge is not being able to identify the source of infection; Testing and treatment capacity in the central region is not adequate. Medical teams from Hanoi, Ho Chi Minh City and other provinces were quickly mobilized to suppress the epidemic. Tracing tools also helped control the spread, limiting the consequences to only 35 deaths, mainly in elderly people with pre-existing conditions. Vaccine development research has been underway since the beginning of the year, leading to the first human vaccine testing step taking place, promising a safe and effective anti-epidemic weapon. Limited resources, long borders, high openness, but Vietnam successfully suppressed the epidemic, making social life and the economy easier while dealing with Covid-19. Surgery to separate conjoined babies City Children's Hospital, City HCM , performed a major surgery to separate two girls conjoined at the abdomen and pelvis on July 15, 32 years since the surgery on the Vietnamese-German couple. Nearly 100 doctors participated in the separation surgery Twins Hoang Truc Nhi and Hoang Dieu Nhi. At this time, the two babies were 13 months old and weighed a total of 15 kg. Each baby has two arms and two legs but connects many blood vessels and shares many internal organs, living in symbiosis. Dieu Nhi kissed Truc Nhi, one month after the adhesion separation surgery. Photo: Huu Khoa. Doctor Truong Quang Dinh, Director of the City Children's Hospital, led the surgery that lasted more than 13 hours, including three stages including separation, reconstruction, and rearrangement of bones and organs. Truc Nhi – Dieu Nhi are separated into two independent people. On October 7, the two sisters were discharged from the hospital. Doctor Dinh assessed that the baby's recovery process was almost perfect. Children reach the correct developmental trajectory like a normal child physically and mentally. "The surgery marks a remarkable progress in Vietnamese healthcare in separating conjoined twins," said Professor Tran Dong A, who led the world-famous separation surgery 32 years ago and advised the case. This time, separate the two babies and comment. Record of 23 organ transplants in 13 days Viet Duc University Hospital performed 23 consecutive organ transplants, including three heart transplants, four liver transplants, and 16 kidney transplants in early September. The donated organs were from both brain-dead and living people. After transplantation, the patients' health improved well and was stable. Organ transplantation is a difficult technique that requires precise coordination between the donor and recipient surgical teams. Doctors cannot control the time because they depend on the source of donated organs, but even a slight delay can cause organ failure. Transplant surgeries often last ten hours and post-operative care to prevent rejection is complicated. The above number of cases reflects the speed of increasing organ transplant capacity in Vietnam. Before the first liver transplant took place in 2004, many experts were sent abroad to study, leading to a 5-year preparation period for the surgery. Doctors at Viet Duc Hospital performed heart transplants on 2 patients on 2 consecutive days. Photo: Provided by the hospital To have this record of organ transplantation, more than 400 doctors and nurses worked every week. This is also the first time the hospital's Cardiovascular and Thoracic Center has transplanted hearts to two patients on two consecutive days. Remote medical examination and treatment The Remote Medical Examination and Treatment Project issued on June 22 opens a new era in diagnosis and treatment, with two goals: all medical facilities, especially district levels, receive continuous professional support. ; All people receive medical support regularly and when necessary. The Telehealth system helps effectively treat patients while still ensuring social distancing to prevent the Covid-19 epidemic; Reduce travel costs, reduce upstream overload, increase downstream capacity, and connect hospitals. Remote medical examination and treatment can be applied for diagnosis, treatment, prevention, and recovery. For patients, instead of having to travel hundreds of kilometers to Hanoi or Ho Chi Minh City, they can still stay at a hospital near their home, or even at home, and still be diagnosed in real time by central doctors. . About 1,500 medical facilities across the country connect online via Telehealth application. Minister of Health Nguyen Thanh Long assessed this as an important strategy for the health sector, especially in the era of digital transformation. Dangerous infectious diseases reappear After many years of silence, many deadly infectious diseases emerged this year such as diphtheria, typhus, and Whitmore. Diphtheria silently attacks many children in the Central Highlands, spreading to Quang Tri and Quang Ngai. Nearly 200 cases of diphtheria were recorded, of which four babies died. The number of patients increased nearly 450% compared to 2019, up to 15 times compared to the period 2014-2018. Covid-19 has disrupted vaccinations, contributing to diphtheria outbreaks. In addition, many parents forget to take their children for vaccinations. In the Central Highlands, the vaccination rate for diphtheria - a disease included in the nationwide expanded vaccination program - is only 50%. To quell the epidemic, medical teams were immediately dispatched to villages to vaccinate tens of thousands of people. In October, the epidemic was controlled. A doctor took diphtheria samples for people in Dak Nong in June. Photo: Ngo Duyen Whitmore disease broke out in the central region due to prolonged rain and floods, which is a strong growth environment for disease-causing bacteria. Hue Central Hospital received 41 cases in October, three times the average number of cases over the past many years. Quang Tri recorded 30 cases. Typhoid fever - an infectious disease that disappeared for many years - reappeared in some northern provinces. Because information about the disease is not widespread, most patients come to the hospital late and their condition is severe. The above deadly infectious diseases are all old diseases that reappear and can be completely prevented by vaccination and hygiene. Health Department
Hán Nôm với đương đại Ngành Hán Nôm là nhịp cầu trung chuyển giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc Việt Nam, là một phần quan trọng của nền Quốc học Việt Nam. Kỷ niệm 50 năm thành lập (1970-2020), Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) xuất bản bộ đôi ấn phẩm Quốc học vun bồi và Cổ học điểm tô . Bộ đôi ấn phẩm này thể hiện những quan điểm thống nhất trong đa dạng của hai thế hệ các nhà nghiên cứu đang công tác tại VNCHN. Qua bộ đôi ấn phẩm này, người đọc cũng có thể hình dung một cách tương đối toàn diện về những lĩnh vực then chốt trong ngành Hán Nôm trong bối cảnh đương đại. Cuốn Quốc học vun bồi : Hồi cố và triển vọng nghiên cứu Hán Nôm đầu thế kỷ XXI (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội , 2020) là tập hợp có chọn lọc 24 chuyên đề nghiên cứu của 18 tác giả, thực hiện trong các năm 2017, 2018 và 2019. Đây chủ yếu là những chuyên đề được Viện trưởng VNCHN “đặt hàng” các nhà khoa học trong Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu Hán Nôm nhiệm kì 2016 – 2020, bao gồm 15 thành viên, trong đó: PGS.TS. Nguyễn Tuấn Cường (Chủ tịch Hội đồng), PGS.TS. Nguyễn Công Việt (Phó Chủ tịch), TS. Đỗ Thị Bích Tuyển (Thư ký)… Ngoài ra, Viện trưởng còn mời thêm một số nhà nghiên cứu khác mỗi người viết một chuyên đề. Cuốn sách này cũng là một ấn phẩm khoa học kế tục cuốn sách nhan đề Nhìn lại Hán Nôm học thế kỷ XX , do VNCHN biên soạn (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003). Chủ biên cuốn sách – PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường, Viện trưởng VNCHN cho biết ngành Hán Nôm là nhịp cầu trung chuyển giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc Việt Nam, là một bộ phận quan trọng của nền Quốc học Việt Nam. “Có thể xem cuốn sách này như một sự “vun bồi” cho nền Quốc học từ nỗ lực của những người đã được nền Quốc học đó đào tạo thành. Đó là nguyên nhân khiến cuốn sách được đặt tiêu đề là Quốc học vun bồi ”, PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường nói . Cấu trúc của cuốn sách gồm 3 phần. Phần 1 là Tổng luận , gồm 1 bài nghiên cứu tổng luận về lĩnh vực nghiên cứu Hán Nôm nhìn từ bối cảnh đầu thế kỷ XXI. Phần 2 là Tổng thuật nghiên cứu , gồm 8 bài viết tổng thuật nghiên cứu Hán Nôm trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI trên một số lĩnh vực: Văn tự học, công tác sưu tầm và bảo quản, nghiên cứu và phiên dịch văn bản Hán Nôm về sử địa, văn học, luật, tôn giáo, văn bia, diễn xướng. Phần 3 là Nghiên cứu chuyên đề , bao gồm 15 bài viết trải rộng trên các vấn đề nghiên cứu cụ thể, gồm: nguồn tư liệu Hán Nôm, nghiên cứu biển đảo qua tư liệu Hán Nôm, di sản Hán Nôm ở khu vực biên giới phía Bắc, văn bản Hán Nôm Phật giáo Việt Nam, nghiên cứu kinh Phật chữ Nôm, di sản Hán Nôm Công giáo, tài liệu Hán Nôm của các dân tộc thiểu số, văn bia thời Tây Sơn, mộc bản học, văn bản thần tích, gia phả, ấn chương hành chính, địa danh Hán Nôm, và một nghiên cứu nhìn từ kinh nghiệm Nhật Bản. Ở một chiều cạnh khác, song song với cuốn sách này, Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức xuất bản cuốn Cổ học điểm tô : Nghiên cứu Hán Nôm từ góc nhìn của các nhà khoa học trẻ (Nguyễn Tuấn Cường, Đỗ Thị Bích Tuyển đồng chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020). Cuốn sách gồm 19 bài viết được chọn lọc từ 33 bài tham luận của ba hội thảo Hán Nôm trẻ, tổ chức do VNCHN vào các năm 2016, 2017, 2019. Những bài viết này được các tác giả sửa chữa và cập nhật nội dung, sau đó tổ chức biên tập và xuất bản thành ấn phẩm khoa học. Độc giả có thể nhận ra rằng, phần lớn các bài viết này đều gắn với chủ đề nghiên cứu của các học giả trẻ trong quá trình thực hiện khóa luận cử nhân, luận văn thạc sĩ hoặc luận án tiến sĩ của mình. Chất lượng chuyên môn của các bài viết cũng ghi nhận dấu ấn của từng chặng đường nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. Ẩn sau những bài viết ấy là sự chuyên tâm học tập và nghiên cứu, sự nỗ lực tự định vị của các nhà khoa học trẻ trong môi trường khoa học hiện đại vốn đòi hỏi rất nhiều cố gắng để có thể tồn tại và tự khẳng định mình.
Han Nom and contemporary The Han Nom major is a bridge between the past, present and future of the Vietnamese people, and is an important part of Vietnamese National Studies. Celebrating the 50th anniversary of its founding (1970-2020), the Institute of Han Nom Studies (VNCHN) publishes a pair of publications National studies are cultivated and Classical embellishment . This pair of publications represents the unified views in diversity of two generations of researchers working in the Republic of Vietnam. Through this pair of publications, readers can also have a relatively comprehensive picture of the key areas of Han Nom in the contemporary context. Coil National studies are cultivated : Retrospective and prospect of Sino-Nom research in the early 21st century (Social Sciences Publishing House, Hanoi , 2020) is a selective collection of 24 research topics by 18 authors, conducted in 2017, 2018 and 2019. These are mainly topics that the Director of the Republic of Vietnam "ordered" for scientists in the Scientific Council of the Institute of Sino-Nom Studies for the term 2016 - 2020, including 15 members, including: Associate Professor, PhD. Nguyen Tuan Cuong (Chairman of the Council), Associate Professor, PhD. Nguyen Cong Viet (Vice President), PhD. Do Thi Bich Tuyen (Secretary)... In addition, the Director also invited a number of other researchers to each write a topic. This book is also a scientific publication that succeeds the title book Looking back at Han Nom studies in the 20th century , compiled by the Republic of Vietnam (Social Sciences Publishing House, Hanoi, 2003). The book's editor - Associate Professor, Dr. Nguyen Tuan Cuong, Director of the Republic of Vietnam, said that Han Nom major is a bridge between the past, present and future of the Vietnamese people, and is an important part of National Studies. Vietnam. “This book can be seen as a "cultivation" for the National Study from the efforts of those who have been trained by that National Study. That's what gives the book its title National studies are cultivated ”, Associate Professor, Dr. Nguyen Tuan Cuong said . The structure of the book consists of 3 parts. Part 1 is Summary , including a comprehensive research article on the field of Sino-Nom studies from the context of the early 21st century. Part 2 is Summary of research , includes 8 articles summarizing Han Nom research in the first two decades of the 21st century in a number of fields: Literature studies, collection and preservation, research and translation of Han Nom texts on history and geography, literature, law, religion, epitaph, oration. Part 3 is Topical research , includes 15 articles covering specific research issues, including: Han Nom sources, sea and island research through Han Nom documents, Han Nom heritage in the northern border area, Han texts Vietnamese Nom Buddhism, research on Nom Buddhist scriptures, Catholic Sino-Nom heritage, Sino-Nom documents of ethnic minorities, Tay Son period stele, woodblock studies, magical texts, genealogy, seals administrative chapters, Sino-Nom place names, and a study from the Japanese experience. In another aspect, in parallel with this book, the Institute of Sino-Nom Studies organized the publication of the book Classical embellishment : Researching Han Nom from the perspective of young scientists (Co-editors by Nguyen Tuan Cuong and Do Thi Bich Tuyen, Social Sciences Publishing House, Hanoi, 2020). The book includes 19 articles selected from 33 presentations of three young Han Nom conferences, organized by the Republic of Vietnam in 2016, 2017, 2019. These articles have been corrected and updated by the authors. , then organized editing and publishing into a scientific publication. Readers may realize that most of these articles are related to the research topics of young scholars in the process of conducting their bachelor's thesis, master's thesis or doctoral thesis. The professional quality of the articles also records the mark of each research journey of young scientists. Hidden behind those articles is the dedication to study and research, the efforts of young scientists to position themselves in a modern scientific environment that requires a lot of effort to survive and assert themselves. determine yourself.
Hầm Hải Vân 2 trước ngày khánh thành Hầm Hải Vân 2 nối Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng sẽ khánh thành ngày 11/1, sau hơn 4 năm thi công. Hầm Hải Vân số 2 thuộc dự án hầm đường bộ Đèo Cả, đã hoàn thiện và chờ khánh thành. Với chiều dài phần hầm 6,2 km, đường dẫn phía Bắc 1,7 km và đường dẫn phía Nam 4 km, đây là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á . Hai miệng hầm đều có lực lượng bảo vệ ngăn không cho xe máy, ôtô (ngoại trừ xe của chủ đầu tư) ra vào. Sáng 11/1, Bộ Giao thông Vận tải cùng Công ty Cổ phần Tập đoàn Đèo Cả (chủ đầu tư) sẽ khánh thành công trình. Các hạng mục chống thấm, đổ bê tông vỏ hầm và lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc kiểm soát an toàn thông minh và hệ thống phòng cháy, cứu nạn đã xong. Hầm có 2 làn xe rộng 7 m, không giải phân cách Đường dẫn vào hầm Hải Vân 2 phía Đà Nẵng nằm độc lập và thấp hơn đường dẫn vào hầm Hải Vân 1. Các biển cảnh báo ở miệng hầm, hệ thống đèn điện chiếu sáng đã hoàn thành. Hầm có một khúc cua phía gần cửa ra Đà Nẵng. Trong hầm có các cửa thoát hiểm thông sang hầm Hải Vân số 1. Hệ thống thông gió hiện đại trong hầm Hải Vân 2. Hai bên hầm Hải Vân 2 được ốp gạch men. Còn hầm Hải Vân 1 chỉ đơn thuần là áo xi măng, dễ xuất hiện các vết nứt chân chim. Các biển chỉ dẫn thoát hiểm, hệ thống phòng cháy chữa cháy cũng được bố trí dọc hai bên lan can đường hầm. Hệ thống camera quan sát, điện thoại cho các cuộc gọi khẩn cấp trong hầm. Tháng 9/2020, hầm Hải Vân 2 kết thúc thi công, vượt tiến độ 3 tháng và được Bộ Giao thông Vận tải chấp thuận. Kỹ sư kiểm tra hệ thống điện và dữ liệu camera trong buồng kỹ thuật nằm ở giữa hầm. Ngoài cửa hầm, các nhân viên làm việc 24/24h trong nhà điều hành quan sát tất cả góc phía trong hầm để điều tiết, giám sát, kịp thời xử lý các tình huống có thể xảy ra. Việc đưa hầm Hải Vân 2 vào hoạt động sẽ giảm tải rất lớn cho hầm Hải Vân 1.
Hai Van Tunnel 2 before its inauguration Hai Van Tunnel 2 connection Hue and city Danang will be inaugurated on January 11, after more than 4 years of construction. Hai Van Tunnel Không. 2 belongs to the Deo Ca road tunnel project, completed and awaiting inauguration. With a tunnel length of 6.2 km, the northern path is 1.7 km and the southern path is 4 km, this is the longest road tunnel. Southeast Asia . Both tunnel mouths have security forces to prevent motorbikes and cars (except the investor's vehicle) from entering or exiting. On the morning of January 11, the Ministry of Transport and Deo Ca Group Joint Stock Company (investor) will inaugurate the project. Waterproofing items, pouring concrete for the tunnel lining and installing equipment for smart safety control and fire prevention and rescue systems have been completed. The tunnel has 2 lanes 7 m wide, no median The path leading to Hai Van 2 tunnel on the Da Nang side is independent and lower than the path leading to Hai Van 1 tunnel. Warning signs at the mouth of the tunnel and electric lighting system have been completed. The tunnel has a bend near the exit to Da Nang. In the tunnel, there are emergency exits leading to Hai Van tunnel Không. 1. Modern ventilation system in Hai Van 2 tunnel. Both sides of Hai Van 2 tunnel are covered with ceramic tiles. The Hai Van 1 tunnel is simply a cement coat, easily prone to crow's feet cracks. Emergency exit signs and fire protection systems are also arranged along both sides of the tunnel railings. Surveillance camera system, telephone for emergency calls in the cellar. In September 2020, Hai Van 2 tunnel completed construction, 3 months ahead of schedule and approved by the Ministry of Transport. Engineers check the electrical system and camera data in the technical room located in the middle of the tunnel. Outside the tunnel door, staff working 24/7 in the operating house observe all corners of the tunnel to regulate, monitor, and promptly handle situations that may occur. Putting Hai Van 2 tunnel into operation will greatly reduce the load on Hai Van 1 tunnel.
10 sự kiện khoa học vũ trụ nổi bật năm 2020 Phát hiện siêu tân tinh sáng nhất, xác nhận nước có trên Mặt Trăng và thu thập mẫu vật ngoài hành tinh là những thành tựu ấn tượng năm nay. Sao Betelgeuse giảm sáng bất thường Sao Betelgeuse tối đi và rơi khỏi top 20 ngôi sao sáng nhất trên bầu trời đêm vào tháng 1 năm nay. Ở mức cực tiểu, nó chỉ sáng bằng 37% bình thường. Cuối tháng 2, ngôi sao này bắt đầu dần sáng trở lại. Các nhà khoa học chưa rõ nguyên nhân Betelgeuse giảm sáng, nhưng một số cho rằng có thể một vết đen sao khổng lồ đã gây ra hiện tượng này. Họ hy vọng các quan sát trong tương lai sẽ cung cấp thêm bằng chứng. Sao Betelgeuse tối đi bất thường. Ảnh: ESO/M. Montarges. Phát hiện bụi sao cổ xưa hơn hệ Mặt Trời Nhiều thiên thạch là mảnh vỡ của tiểu hành tinh hình thành gần 5 tỷ năm trước, trong thời sơ khai của hệ Mặt Trời. Phần lớn chúng không thay đổi gì từ đó đến nay, lưu giữ thông tin về giai đoạn Mặt Trời và các hành tinh mới hình thành. Các nhà nghiên cứu phân tích bụi trong thiên thạch rơi xuống bang Victoria, Australia, năm 1969 và xác định một số mẫu bụi có thể có niên đại tới 7 tỷ năm tuổi. Đây là mẫu bụi sao cổ xưa nhất từng phát hiện trên Trái Đất. Phát hiện nước trên Mặt Trăng NASA xác nhận nước tồn tại trên bề mặt Mặt Trăng. Dù đã tìm thấy bằng chứng từ nhiều năm trước, các nhà khoa học chỉ mới khẳng định chắc chắn điều này vào tháng 10 năm nay. Họ phát hiện nước gần hố va chạm Clavius và ở vùng tối Mare Serenitatis. Cụ thể, khoảng 100 – 412 phần triệu trong mỗi mét khối đất đá có chứa nước. Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy “bẫy lạnh”, khu vực luôn chìm trong bóng tối, phân bố rộng rãi. Điều này cho thấy một phần nước trên Mặt Trăng có thể tồn tại dưới dạng băng. Siêu tân tinh sáng nhất Vụ nổ của ngôi sao khổng lồ SN2016aps là siêu tân tinh sáng nhất từ trước đến nay, phát ra bức xạ mạnh gấp 5 lần bình thường. Các nhà khoa học cho rằng đây có thể là siêu tân tinh dạng PPI (pulsational pair-instability), trong đó hai ngôi sao lớn sáp nhập trước khi cả hệ thống phát nổ. Khối lượng của siêu tân tinh cũng rất lớn, gấp khoảng 50-100 lần Mặt Trời. Mô phỏng siêu tân tinh SN2016aps. Ảnh:CNN. Vụ va chạm hố đen lớn nhất Đài quan trắc sóng hấp dẫn bằng giao thoa kế laser LIGO (Mỹ) và Virgo (Italy) thu được tín hiệu sóng hấp dẫn GW190521 từ vụ va chạm hố đen lớn kỷ lục. Hai hố đen này nặng gấp khoảng 85 và 66 lần Mặt Trời. Tín hiệu phát ra từ vụ va chạm của chúng mất khoảng 7 tỷ năm để tới Trái Đất. Vụ nổ lớn nhất vũ trụ kể từ sau Big Bang Tháng 2, các nhà thiên văn phát hiện vụ nổ mạnh xảy ra trong cụm thiên hà Ophiuchus cách Trái Đất khoảng 390 triệu năm ánh sáng. Một hố đen siêu khối lượng giải phóng năng lượng lớn đến mức tạo ra lỗ hổng khổng lồ trong vùng khí nóng xung quanh. Lỗ hổng này có thể chứa vừa 15 dải Ngân Hà. Năng lượng vụ nổ tạo ra nhiều gấp 5 lần so với sự kiện MS 0735+74 giữ kỷ lục trước đó. Lần đầu phát hiện chớp sóng vô tuyến từ dải Ngân Hà Chớp sóng vô tuyến (FRB) là những đợt phát sóng vô tuyến rất ngắn, mạnh và bí ẩn. Các nhà khoa học quan sát FRB bắt nguồn từ một sao từ đang hoạt động mang tên SGR 1935+2154, cách Trái Đất khoảng 30.000 năm ánh sáng. Đây cũng là chớp sóng vô tuyến sáng nhất đo được từ sao từ cho tới nay. Mô phỏng chớp sóng vô tuyến phát ra từ dải Ngân Hà. Ảnh:CNN. Dấu vết 4 hồ nước mặn ẩn dưới bề mặt sao Hỏa Các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu radar từ tàu vũ trụ Mars Express để xác nhận sự tồn tại của một hồ nước mặn dưới lớp băng ở cực nam sao Hỏa. Hồ nước này được phát hiện lần đầu vào năm 2018. Không chỉ vậy, họ còn tìm thấy ba hồ nước khác trong cùng khu vực. Cụm hồ có diện tích hơn 75.000 km2. Hồ lớn nhất ở trung tâm rộng khoảng 30 km và được ba hồ nhỏ bao quanh, mỗi hồ rộng vài km. Tìm thấy phosphine trong khí quyển sao Kim Giữa tháng 9, các nhà khoa học phát hiện bằng chứng cho thấy phosphine có thể tồn tại trong mây sao Kim. Ở Trái Đất, phân tử phosphine chỉ được tạo ra nhờ sản xuất công nghiệp hoặc vi sinh vật. Vì vậy, đây có thể là dấu hiệu sự sống trên hành tinh này. Tuy nhiên, giới chuyên gia cần thêm bằng chứng để khẳng định chắc chắn về sự hiện diện của phosphine. Các tàu vũ trụ thu thập mẫu vật ngoài hành tinh Tàu vũ trụ OSIRIS-Rex của NASA lấy mẫu vật trên tiểu hành tinh Bennu vào tháng 10 và dự kiến trở về Trái Đất trong khoảng 2,5 năm tới. Trong khi đó, tàu Hayabusa2 của Nhật Bản đã đem mẫu đất đá lấy được từ tiểu hành tinh Ryugu trở về Trái Đất vào đầu tháng này. Ngày 17/12, khoang tàu chứa đất đá Mặt Trăng của nhiệm vụ Hằng Nga 5 hạ cánh xuống Nội Mông, đưa Trung Quốc trở thành nước thứ ba mang mẫu vật Mặt Trăng về Trái Đất, sau Mỹ và Liên Xô. Thu Thảo (Theo IFL Science )
10 outstanding space science events in 2020 The brightest supernova was discovered, confirming the presence of water Moon and collecting alien samples are impressive achievements this year. The star Betelgeuse has unusually decreased brightness The star Betelgeuse darkened and fell out of the top 20 brightest stars in the night sky in January this year. At minimum level, it is only 37% as bright as normal. At the end of February, this star gradually began to shine again. Scientists are not sure what causes Betelgeuse's brightness to decrease, but some think that a giant blackspot may have caused this phenomenon. They hope future observations will provide more evidence. The star Betelgeuse darkens unusually. Photo: ESO/M. Montages. Detection of star dust older than the solar system Many meteorites are fragments of asteroids that formed nearly 5 billion years ago, during the early days of the solar system. Most of them have not changed since then, preserving information about the stages of the Sun and the newly formed planets. Researchers analyzed dust in a meteorite that fell in Victoria, Australia, in 1969 and determined that some dust samples could be up to 7 billion years old. This is the oldest stardust sample ever discovered on Earth. Detecting water on the Moon NASA confirms water exists on the surface of the Moon. Although evidence was found many years ago, scientists only confirmed this for certain in October this year. They detected water near the Clavius ​​crater and in the dark Mare Serenitatis region. Specifically, about 100 - 412 parts per million in each cubic meter of soil and rock contains water. The research team also found that "cold traps", areas always in darkness, are widely distributed. This shows that some of the water on the Moon may exist in the form of ice. The brightest supernova The explosion of the giant star SN2016aps was the brightest supernova ever, emitting radiation five times stronger than normal. Scientists think this could be a PPI (pulsational pair-instability) supernova, in which two large stars merge before the whole system explodes. The mass of the supernova is also very large, about 50-100 times that of the Sun. Simulation of supernova SN2016aps. Photo: CNN. The largest black hole collision Gravitational wave observatories using laser interferometers LIGO (USA) and Virgo (Italy) received gravitational wave signals GW190521 from the record-breaking black hole collision. These two black holes are about 85 and 66 times more massive than the Sun. The signal emitted from their collision took about 7 billion years to reach Earth. The biggest explosion in the universe since the Big Bang In February, astronomers discovered a powerful explosion occurring in the Ophiuchus galaxy cluster about 390 million light years from Earth. A supermassive black hole releases so much energy that it creates a giant hole in the surrounding hot gas. This hole can fit 15 Milky Way galaxies. The explosion energy produced was five times more than the previous record-holding MS 0735+74 event. First detection of radio bursts from the Milky Way Radio bursts (FRBs) are very short, strong, and mysterious radio waves. Scientists observed that the FRB originates from an active magnetar called SGR 1935+2154, about 30,000 light years from Earth. This is also the brightest radio burst measured from a magnetar to date. Simulate radio bursts emitted from the Milky Way. Photo: CNN. Traces of 4 salt water lakes hidden under the surface of Mars Researchers used radar data from the Mars Express spacecraft to confirm the existence of a salty lake under the ice at the Martian south pole. This lake was first discovered in 2018. Not only that, they also found three other lakes in the same area. The lake cluster has an area of ​​more than 75,000 km2. The largest lake in the center is about 30 km wide and is surrounded by three small lakes, each several km wide. Phosphine found in the atmosphere of Venus In mid-September, scientists discovered evidence that phosphine may exist in the clouds of Venus. On Earth, phosphine molecules are only created through industrial or microbial production. So this could be a sign of life on this planet. However, experts need more evidence to firmly confirm the presence of phosphine. Spaceships collect alien samples NASA's OSIRIS-Rex spacecraft retrieved samples from asteroid Bennu in October and is expected to return to Earth in about 2.5 years. Meanwhile, Japan's Hayabusa2 spacecraft brought rock and soil samples taken from asteroid Ryugu back to Earth earlier this month. On December 17, the lunar rock capsule of the Chang'e 5 mission landed in Inner Mongolia, making China the third country to bring lunar samples to Earth, after the United States and the Soviet Union. Thu Thao (According to IFL Science )
Giới thiệu khái quát Thành phố Thủ Đức Chiều ngày 9/12/2020, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP. Hồ Chí Minh . Ngày 31/12/2020, Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ công bố Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành phố Thủ Đức được thành lập trên cơ sở sáp nhập Quận 2 , Quận 9 và Quận Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể gồm: toàn bộ 49,79 km2 diện tích tự nhiên, 171.311 người của Quận 2; toàn bộ 113,97 km2 diện tích tự nhiên, 310.107 người của Quận 9 và toàn bộ 47,80 km2 diện tích tự nhiên, 532.377 người của Quận Thủ Đức. Sau khi thành lập, thành phố Thủ Đức có 211,56 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 1.013.795 người. Thành phố Thủ Đức gồm có 34 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình Chiểu, Bình Thọ, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Hiệp Phú, Linh Chiểu, Linh Đông, Linh Tây, Linh Trung, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Phước Long A, Phước Long B, Tam Bình, Tam Phú, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Tân Phú, Thảo Điền, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm, Trường Thạnh, Trường Thọ. Thành phố Thủ Đức có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là đầu mối của các tuyến giao thông huyết mạch giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ như: Cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, xa lộ Hà Nội, quốc lộ 1A, đường Phạm Văn Đồng – quốc lộ 1K, quốc lộ 52… Thành phố Thủ Đức không chỉ là động lực phát triển kinh tế, mà còn là đòn bẩy nâng cao đời sống người dân; dự kiến đóng góp 30% tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của thành phố, tương đương 7% tổng sản phẩm nội địa (GDP) cả nước. Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021. Kể từ ngày này, Thành phố Hồ Chí Minh có 22 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 16 quận, 5 huyện và 1 thành phố (Thủ Đức); 312 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 58 xã, 249 phường và 5 thị trấn.
General introduction of Thu Duc City On the afternoon of December 9, 2020, the Standing Committee of the National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam voted to pass Resolution Không. 1111/NQ-UBTVQH14 on the arrangement of district and commune-level administrative units and the establishment of cities. Thu Duc is in the city. Ho Chi Minh . On December 31, 2020, the City Party Committee, People's Council, People's Committee, and Vietnam Fatherland Front Committee of Ho Chi Minh City held a ceremony to announce Resolution Không. 1111/NQ-UBTVQH14 of the National Assembly Standing Committee on Arrange district and commune-level administrative units and establish Thu Duc city under Ho Chi Minh City. Accordingly, Thu Duc city was established on the basis of merger District 2 , District 9 and Thu-Duc District belongs to Ho Chi Minh City, specifically including: the entire 49.79 km2 natural area, 171,311 people of District 2; the entire 113.97 km2 natural area, 310,107 people of District 9 and the entire 47.80 km2 natural area, 532,377 people of Thu Duc District. After its establishment, Thu Duc city has 211.56 km2 of natural area and a population of 1,013,795 people. Thu Duc city includes 34 wards: An Khanh, An Loi Dong, An Phu, Binh Chieu, Binh Tho, Binh Trung Dong, Binh Trung Tay, Cat Lai, Hiep Binh Chanh, Hiep Binh Phuoc, Hiep Phu, Linh Chieu, Linh Dong, Linh Tay, Linh Trung, Linh Xuan, Long Binh, Long Phuoc, Long Thanh My, Long Truong, Phu Huu, Phuoc Binh, Phuoc Long A, Phuoc Long B, Tam Binh, Tam Phu, Tang Nhon Phu A, Tang Nhon Phu B, Tan Phu, Thao Dien, Thanh My Loi, Thu Thiem, Truong Thanh, Truong Tho. Thu Duc City has an important position in the Southern key economic region, being the focal point of vital traffic routes between Ho Chi Minh City and the Southeast provinces such as: Ho Chi Minh City - Long Thanh Expressway. – Dau Giay, Hanoi Highway, National Highway 1A, Pham Van Dong Street - National Highway 1K, National Highway 52... Thu Duc City is not only a driving force for economic development, but also a lever to improve people's lives people; It is expected to contribute 30% of the city's gross regional product (GRDP), equivalent to 7% of the country's gross domestic product (GDP). Resolution Không. 1111/NQ-UBTVQH14 of the National Assembly Standing Committee takes effect from January 1, 2021. From this date, Ho Chi Minh City has 22 district-level administrative units, including 16 districts, 5 districts and 1 city (Thu Duc); 312 commune-level administrative units, including 58 communes, 249 wards and 5 towns.
Bí quyết sống thọ của những cụ bà trăm tuổi ở Pháp Triết lý sống lạc quan “Tôi sinh năm 1921 tại làng Kerallan thuộc thị xã Roscanvel (tỉnh Finistère). Lúc đó ông Alexandre Millerand làm tổng thống vào thời đệ tam cộng hòa”. Cụ bà Raymonde Balanec đã kể rành mạch như thế tại tiệc mừng sinh nhật 100 tuổi vào đầu tháng 1-2021 với vợ chồng con trai, 2 đứa cháu, 2 đứa chắt 9 tuổi và 5 tuổi. Người nhà giải thích là cụ bà sống cả đời nơi chôn nhau cắt rốn và đã chứng kiến một thế kỷ thay đổi với sự xuất hiện của điện, nước sinh hoạt trong nhà, điện thoại, tivi, ô tô, internet và bây giờ là đại dịch COVID-19. Bí quyết trường thọ của bà có lẽ là triết lý sống lạc quan. Bà luôn nở nụ cười trên môi, tâm trạng lúc nào cũng vui vẻ, biết quan tâm đến người khác và thích đọc sách. Bà bộc bạch với báo Ouest-France thông điệp dành thế hệ trẻ: “Có thời gian để vui chơi hết mình và có thời gian dành cho công việc. Phải tận dụng khoảng thời gian tốt đẹp bởi thời gian sẽ trôi qua. Những thời điểm tồi tệ cũng sẽ qua đi để rồi thời điểm tốt đẹp sẽ đến”. Nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ Cụ bà Georgette Loir, 102 tuổi ở Bellengreville (tỉnh Calvados) là một phụ nữ có đôi mắt biết cười, lanh lợi, vui vẻ và dễ tiếp xúc. Trong cuộc sống, bà chỉ giữ một điều cốt lõi: “Cười mới mang lại hạnh phúc. Nên hài lòng với những điều ít ỏi hiện tại. Bây giờ người ta chạy theo đồng tiền nhiều quá. Họ đã lầm”. Năm bà 20 tuổi, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chồng bà đã từng bị phát xít Đức cầm tù. Còn hiện thời bà may mắn có cô con gái Josiane sống bên cạnh. Thị trưởng Dominique Piat nhận xét: “Chúng tôi tự hào về cụ bà của chúng tôi… Chúng tôi mong bà ấy tận dụng tối đa triết lý sống của mình”. Hai cụ bà sinh đôi Denise và Simone (từ trái sang) tại tiệc mừng thọ 100 tuổi – Ảnh: RADIO FRANCE Ăn uống tốt, bơi nhiều Một ngày sau sinh nhật của cụ bà Marguerite Landuré là sinh nhật 100 tuổi của hai cụ bà sinh đôi Denise Lemercier và Simone Le Cluziat sống trong viện dưỡng lão Korian ở Evrecy (tỉnh Calvados).Tiệc sinh nhật được tổ chức trong nhà ăn với đầy đủ bánh kem và rượu sâm banh.Mặc dù có hơi lãng tai nhưng sức khỏe hai cụ bà đang trong tình trạng tuyệt vời. Họ mới được tiêm vắc xin COVID-19 vài ngày trước.Trả lời đài Radio France, họ cười bảo: “Lúc còn trẻ chúng tôi nghĩ 100 tuổi là sự kiện đặc biệt lắm nhưng bây giờ lại thấy bình thường thôi. Bí quyết sống thọ của chúng tôi à? Chà, cha mẹ chúng tôi khỏe mạnh, chúng tôi luôn ăn uống tốt và bơi nhiều”. Không một giọt rượu, không một điếu thuốc Ngày 9-2 vừa qua là lễ sinh nhật 100 tuổi của cụ bà Marguerite Landuré. Hôm đó thị trưởng và phó thị trưởng cùng đến chung vui với gia đình bà tại Conquet (tỉnh Finistère). Bà Marguerite Landuré lập gia đình sớm (năm 17 tuổi), đã có hai con và hiện có 6 đứa cháu, 12 đứa chắt. Mỗi ngày bà vẫn tự dọn dẹp và nấu nướng. Trả lời câu hỏi “bí quyết trường thọ của bà là gì?”, bà tiết lộ: “Tôi chưa bao giờ uống rượu, chưa bao giờ hút thuốc và nấu ăn rất ngon!”. HOÀNG DUY LONG
The secret to longevity of centenarians in France Optimistic philosophy of life “I was born in 1921 in the village of Kerallan in Roscanvel town (Finistère province). At that time, Mr. Alexandre Millerand was president during the Third Republic." Mrs. Raymonde Balanec told this clearly at her 100th birthday party in early January 2021 with her son and his wife, 2 grandchildren, 2 great-grandchildren aged 9 and 5 years old. Family members explained that the old lady lived all her life in the same place where she was born and had witnessed a century of changes with the appearance of electricity, running water in the house, telephones, television, cars, the internet and now the Internet. COVID-19 pandemic. The secret to her longevity is probably her optimistic philosophy of life. She always has a smile on her face, is always in a happy mood, cares about others and likes to read. She confided to the newspaper Ouest-France message for the young generation: “There is time to have fun and there is time for work. You have to take advantage of the good times because time will pass. The bad times will pass and the good times will come." A smile is equal to 10 doses of tonic Mrs. Georgette Loir, 102 years old in Bellengreville (Calvados province) is a woman with smiling eyes, alert, cheerful and easy to contact. In life, she only keeps one core thing: “Laughter brings happiness. You should be satisfied with the little things you have now. Nowadays people chase money too much. They were wrong.” When she was 20 years old, World War II broke out. Her husband was once imprisoned by the Nazis. Currently, she is lucky to have her daughter Josiane living next to her. “We are proud of our great-grandmother… We hope she makes the most of her philosophy of life,” commented Mayor Dominique Piat. Twins Denise and Simone (from left) at the 100th birthday party - Photo: RADIO FRANCE Eat well, swim a lot The day after Mrs. Marguerite Landuré's birthday was the 100th birthday of twin ladies Denise Lemercier and Simone Le Cluziat living in the Korian nursing home in Evrecy (Calvados province). The birthday party was held in the dining hall with Full of cake and champagne. Although a bit hard of hearing, the two ladies' health is in excellent condition. They just received the COVID-19 vaccine a few days ago. In response to Radio France, they laughed and said: "When we were young, we thought being 100 years old was a very special event, but now we see it as normal. Our secret to longevity? Well, our parents are healthy, we always eat well and swim a lot.” Not a drop of alcohol, not a cigarette Last February 9 was the 100th birthday of Mrs. Marguerite Landuré. That day, the mayor and deputy mayor came to celebrate with her family in Conquet (Finistère province). Mrs. Marguerite Landuré got married early (at the age of 17), has two children and currently has 6 grandchildren and 12 great-grandchildren. Every day she still cleans and cooks herself. Answering the question "What is the secret to her longevity?", she revealed: "I have never drank alcohol, never smoked and cook very well!". HOANG DUY LONG
‘KHÔI PHỤC DIỆN MẠO VĂN HỌC MỘT THỜI’ Nhiều tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX được độc giả trẻ đón nhận. Để có được bản in chất lượng, nhóm biên soạn đã mất nhiều công sức sưu tầm, đối chiếu. Bộ sách “Việt Nam danh tác” tập hợp nhiều tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Với mong muốn giúp độc giả trẻ tiếp cận các tác phẩm bày một cách trọn vẹn nhất, những ấn bản trong bộ sách “Việt Nam danh tác” sẽ được in theo bản in lần đầu. Vậy nên, việc tìm kiếm, sưu tầm và tuyển chọn bản in phù hợp không phải điều đơn giản. Là người tham gia tuyển chọn và thực hiện một số tác phẩm trong bộ sách này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã có cuộc trò chuyện xung quanh những tác phẩm “vang bóng một thời” của nền văn học Việt Nam. Mỗi lần in là một lần tác phẩm nảy sinh dị bản – Theo ông, giá trị lớn nhất của bộ “ Việt Nam danh tác” là gì? – Theo tôi, chỗ được nhất của bộ sách “Việt Nam danh tác” là đem lại cho bạn đọc thế kỷ XXI một loạt tác phẩm được xem là hay nhất, khá nhất trong các thể truyện, ký, tiểu thuyết, thơ, xuất hiện vào những năm nửa đầu thế kỷ XX, một thời kỳ văn học sử mà công chúng quen gọi là “văn học tiền chiến”. Ở đây chỉ những tác phẩm ra đời trước Chiến tranh Thế giới thứ II (1939-1945). – Vì sao các tác phẩm được sáng tác ở giai đoạn 1930-1945 lại xuất hiện nhiều dị bản? – Việc cho rằng xuất hiện nhiều dị bản trong các tác phẩm văn học giai đoạn 1930-1945 còn lại đến nay, là nhận định sai. Các tác phẩm thời trước, như truyện thơ Nôm, Truyện Kiều, Thạch Sanh, Trê cóc, Nhị độ mai , các khúc ngâm như Chinh phụ, Cung oán … còn nhiều dị bản hơn gấp bội. Các tác phẩm đó không chỉ có văn bản trên giấy, mà còn có các bản in khắc gỗ, lẫn chép tay; lưu truyền bằng việc đọc, nghe, học thuộc lòng rồi truyền miệng. Các tác phẩm Nôm thậm chí chỉ có “ngôn bản” chứ không có “văn bản”. Có biết bao nhiêu dị bản, tức là những chỗ sai khác nhau về câu chữ? Phải nói là vô số! Chỉ xem những kê cứu “khảo dị” ở các cuốn biên khảo truyện Nôm, ta đã thấy tình trạng dị bản ở đó ra sao rồi. Đó chỉ là khảo tả trên các bản in, tức là có người ghi lại, chứ trên truyền miệng thì dị bản còn nhiều hơn nữa, không kể xiết! Văn chương thời kỳ 1930-1945 đều là sách chữ quốc ngữ, in trên máy in. Một tác phẩm in một lần dù hàng nghìn bản thì văn bản vẫn chỉ có một, không hề có dị bản. Các tác phẩm, từ lúc xuất hiện, rồi được in đi in lại, qua các cửa kiểm duyệt, cấp phép, qua tay các chủ xuất bản, tất yếu nảy sinh dị bản, do hai loại tác nhân. Một là ngẫu nhiên, những tác động không chủ ý của thợ sắp chữ, thợ sửa in…Hai là có chủ ý của tác giả, hay nhà xuất bản, hoặc kiểm duyệt. Có thể khái quát: Mỗi lần in là một lần ở tác phẩm nảy sinh dị bản! Thế nhưng dù sao, do chỉ gắn với sách báo in, các tác phẩm thời kỳ 1930-1945 cũng ít dị bản hơn so với truyện thơ Nôm. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ảnh: FBNV. – Điều quan trọng nhất trong quá trình khảo cứu và biên soạn những tác phẩm như “Việt Nam danh tác” là gì? – Điểm mấu chốt trong việc thực hiện các cuốn trong bộ “Việt Nam danh tác” là làm sao đưa tới bạn đọc những văn bản đáng tin cậy của mỗi tác phẩm. Ban biên tập tủ sách này và những người cộng tác đều phải có hiểu biết sơ bộ lịch trình in và tái bản mỗi cuốn, phải tìm đến bản in lần đầu (hoặc bản in gần nhất với bản in lần đầu), rồi quyết định chọn sử dụng bản in nào đáng tin cậy nhất. Tôi có cộng tác, đưa vào tủ sách này hai cuốn Giông tố và Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, văn bản do tôi hiệu chỉnh, từ những bản in báo và in sách lần đầu. Ở cả hai cuốn đó đều có những “dị bản” mà nếu không nhận rõ và xử sự hợp lý thì có thể sẽ gây ra những sai chệch đáng kể cả cho người nghiên cứu phê bình lẫn người thưởng thức. Các tác phẩm trong tủ sách “Việt Nam danh tác” nhận được sự quan tâm của nhiều độc giả trẻ. Ảnh: Nhã Nam Khẳng định giá trị lâu bền của danh tác – Ông nghĩ gì về việc thời nay phát hành lại danh tác xưa? – Việc tủ sách “Việt Nam danh tác” ra đời và đến nay đã in và phát hành được trên 40 tác phẩm, đúng là một tín hiệu vui. Hiện nay ở Việt Nam, sách in đang là một thị trường phồn tạp, đa sắc. Riêng ở mảng sách văn học, bên cạnh sáng tác mới của các nhà văn đương đại, sách dịch, những tác giả tác phẩm của quá khứ, xa và gần, đang có cơ bị lép vế, thậm chí bị lãng quên. Thế nên cần có những dạng thức kích hoạt tích cực. “Việt Nam danh tác” là kiểu kích hoạt như thế! Ta hãy thoáng nhìn sang khu vực hội họa để thấy tranh của lớp họa sĩ “trường mỹ thuật Đông Dương” đang lên giá ra sao tại các cuộc đấu giá quốc tế. Nhân thể, hãy nhớ rằng những tác phẩm hội họa kia là cùng thời, cùng khí hậu nghệ thuật với đa phần cuốn sách đã hoặc sẽ xuất hiện trong tủ “Việt Nam danh tác” này. Khi mà những sản phẩm sáng tạo của người Việt thời những năm 1930-1945 đang đến lúc bộc lộ sự kết tinh của mình, những hoạt động của các đơn vị phát hành sách như cho ra đời tủ sách “Việt Nam danh tác”, có thể sẽ tác động vào quá trình tiếp nhận của độc giả. Ngoài ra, nó còn góp phần khẳng định giá trị lâu bền của các tác phẩm này. Một số trong đó sẽ dần dần trở thành kinh điển, cổ điển, thành một phần không thể thiếu trong vốn liếng căn cốt của văn học Việt! – Việc tìm đến các bản in lần đầu, hay chính là giá trị nguyên bản của tác phẩm, là việc làm cần thiết. Phải chăng cần có sự bắt tay giữa đơn vị phát hành và giới sưu tầm, nghiên cứu để làm được điều này? – Có những tác phẩm như đã tìm được thông tin rồi, ví dụ thông tin cho thấy nó nằm ở kho lưu trữ nào đó, chỉ cần một số tấm vé máy bay, một số phòng khách sạn lưu trú cho chuyên gia mình đến sao chụp mang về… thì vẫn còn là chuyện đơn giản. Hóa ra chuyện lại không phải thế! Có những thứ đã hoặc sẽ mất hẳn. Không biết rằng có thì cũng coi như mất hẳn. Đấy là những câu chuyện dài. Tạm nói về một số tác phẩm văn chương Việt 1930-1945 được cho là thất lạc. Vấn đề chính là “phát hiện” ra rằng tác phẩm này khác đã thất lạc. Phải có người phát hiện, kêu lên, thông báo cho đồng nghiệp, cho công chúng, như thế mới kích hoạt việc tìm kiếm. Đôi khi sẽ thấy một vài tiếng reo “Ơ-rê-ca” rồi hóa ra lại cụt hứng, là vì vớ phải một ngụy tác, hoặc một lầm lẫn. Dù vậy, vẫn phải tìm, rồi còn thẩm định cái tìm được. Chuyện giới xuất bản phát hành cần “bắt tay” với giới nghiên cứu sưu tầm thì dễ thôi, vì xuất bản luôn luôn khát nguồn bản thảo. Chủ yếu vẫn phải trông vào nghiên cứu, sưu tầm. Người ta chờ đợi ở các viện nghiên cứu như: Viện Hán Nôm, Viện Văn học, các khoa xã hội nhân văn của các đại học, chờ đợi giới chuyên nghiệp cũng như các tay chơi sách báo cũ. Hiện nay ở nước ta sách in đang là một thị trường phồn tạp, đa sắc. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân Có một thị trường sách báo, thị trường văn vật, cổ vật, sẽ dễ dàng hơn cho sự tái phát hiện. Cái bị thất lạc, có khi vẫn nằm đâu đó trong các tủ sách báo tư nhân. Năm 2006 tìm thấy bản in sách Giông tố. Năm 2012 chỉ tìm thấy tập thơ Gái quê dưới dạng bản đánh máy lại (nghe nói là) theo đúng bản in 1936, chứ không phải đích thị bản in 1936. Năm 2019, giữa mùa đại dịch Covid-19, giới chơi “sách xưa” lại tìm thấy bản in sách Số đỏ lần đầu (1938), nghe nói sách đã nằm đấy, trong tủ sách một tay chơi từ lâu rồi. Có thể nói, hiện người ta cũng chưa biết hết những cuốn nào đang mất, đang cần tìm lại, trong vốn liếng tác phẩm văn học đã in thời kỳ 1930-1945. Chỉ khi biết cái gì đã mất mới có thể có mục tiêu kiếm tìm cụ thể. Chính thế, đi tìm những gì mất mát, cũng là một cách tìm lại diện mạo văn học một thời đã qua.
‘KHÔI PHỤC DIỆN MẠO VĂN HỌC MỘT THỜI’ Nhiều tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX được độc giả trẻ đón nhận. Để có được bản in chất lượng, nhóm biên soạn đã mất nhiều công sức sưu tầm, đối chiếu. Bộ sách “Việt Nam danh tác” tập hợp nhiều tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Với mong muốn giúp độc giả trẻ tiếp cận các tác phẩm bày một cách trọn vẹn nhất, những ấn bản trong bộ sách “Việt Nam danh tác” sẽ được in theo bản in lần đầu. Vậy nên, việc tìm kiếm, sưu tầm và tuyển chọn bản in phù hợp không phải điều đơn giản. Là người tham gia tuyển chọn và thực hiện một số tác phẩm trong bộ sách này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã có cuộc trò chuyện xung quanh những tác phẩm “vang bóng một thời” của nền văn học Việt Nam. Mỗi lần in là một lần tác phẩm nảy sinh dị bản – Theo ông, giá trị lớn nhất của bộ “ Việt Nam danh tác” là gì? – Theo tôi, chỗ được nhất của bộ sách “Việt Nam danh tác” là đem lại cho bạn đọc thế kỷ XXI một loạt tác phẩm được xem là hay nhất, khá nhất trong các thể truyện, ký, tiểu thuyết, thơ, xuất hiện vào những năm nửa đầu thế kỷ XX, một thời kỳ văn học sử mà công chúng quen gọi là “văn học tiền chiến”. Ở đây chỉ những tác phẩm ra đời trước Chiến tranh Thế giới thứ II (1939-1945). – Vì sao các tác phẩm được sáng tác ở giai đoạn 1930-1945 lại xuất hiện nhiều dị bản? – Việc cho rằng xuất hiện nhiều dị bản trong các tác phẩm văn học giai đoạn 1930-1945 còn lại đến nay, là nhận định sai. Các tác phẩm thời trước, như truyện thơ Nôm, Truyện Kiều, Thạch Sanh, Trê cóc, Nhị độ mai , các khúc ngâm như Chinh phụ, Cung oán … còn nhiều dị bản hơn gấp bội. Các tác phẩm đó không chỉ có văn bản trên giấy, mà còn có các bản in khắc gỗ, lẫn chép tay; lưu truyền bằng việc đọc, nghe, học thuộc lòng rồi truyền miệng. Các tác phẩm Nôm thậm chí chỉ có “ngôn bản” chứ không có “văn bản”. Có biết bao nhiêu dị bản, tức là những chỗ sai khác nhau về câu chữ? Phải nói là vô số! Chỉ xem những kê cứu “khảo dị” ở các cuốn biên khảo truyện Nôm, ta đã thấy tình trạng dị bản ở đó ra sao rồi. Đó chỉ là khảo tả trên các bản in, tức là có người ghi lại, chứ trên truyền miệng thì dị bản còn nhiều hơn nữa, không kể xiết! Văn chương thời kỳ 1930-1945 đều là sách chữ quốc ngữ, in trên máy in. Một tác phẩm in một lần dù hàng nghìn bản thì văn bản vẫn chỉ có một, không hề có dị bản. Các tác phẩm, từ lúc xuất hiện, rồi được in đi in lại, qua các cửa kiểm duyệt, cấp phép, qua tay các chủ xuất bản, tất yếu nảy sinh dị bản, do hai loại tác nhân. Một là ngẫu nhiên, những tác động không chủ ý của thợ sắp chữ, thợ sửa in…Hai là có chủ ý của tác giả, hay nhà xuất bản, hoặc kiểm duyệt. Có thể khái quát: Mỗi lần in là một lần ở tác phẩm nảy sinh dị bản! Thế nhưng dù sao, do chỉ gắn với sách báo in, các tác phẩm thời kỳ 1930-1945 cũng ít dị bản hơn so với truyện thơ Nôm. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ảnh: FBNV. – Điều quan trọng nhất trong quá trình khảo cứu và biên soạn những tác phẩm như “Việt Nam danh tác” là gì? – Điểm mấu chốt trong việc thực hiện các cuốn trong bộ “Việt Nam danh tác” là làm sao đưa tới bạn đọc những văn bản đáng tin cậy của mỗi tác phẩm. Ban biên tập tủ sách này và những người cộng tác đều phải có hiểu biết sơ bộ lịch trình in và tái bản mỗi cuốn, phải tìm đến bản in lần đầu (hoặc bản in gần nhất với bản in lần đầu), rồi quyết định chọn sử dụng bản in nào đáng tin cậy nhất. Tôi có cộng tác, đưa vào tủ sách này hai cuốn Giông tố và Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, văn bản do tôi hiệu chỉnh, từ những bản in báo và in sách lần đầu. Ở cả hai cuốn đó đều có những “dị bản” mà nếu không nhận rõ và xử sự hợp lý thì có thể sẽ gây ra những sai chệch đáng kể cả cho người nghiên cứu phê bình lẫn người thưởng thức. Các tác phẩm trong tủ sách “Việt Nam danh tác” nhận được sự quan tâm của nhiều độc giả trẻ. Ảnh: Nhã Nam Khẳng định giá trị lâu bền của danh tác – Ông nghĩ gì về việc thời nay phát hành lại danh tác xưa? – Việc tủ sách “Việt Nam danh tác” ra đời và đến nay đã in và phát hành được trên 40 tác phẩm, đúng là một tín hiệu vui. Hiện nay ở Việt Nam, sách in đang là một thị trường phồn tạp, đa sắc. Riêng ở mảng sách văn học, bên cạnh sáng tác mới của các nhà văn đương đại, sách dịch, những tác giả tác phẩm của quá khứ, xa và gần, đang có cơ bị lép vế, thậm chí bị lãng quên. Thế nên cần có những dạng thức kích hoạt tích cực. “Việt Nam danh tác” là kiểu kích hoạt như thế! Ta hãy thoáng nhìn sang khu vực hội họa để thấy tranh của lớp họa sĩ “trường mỹ thuật Đông Dương” đang lên giá ra sao tại các cuộc đấu giá quốc tế. Nhân thể, hãy nhớ rằng những tác phẩm hội họa kia là cùng thời, cùng khí hậu nghệ thuật với đa phần cuốn sách đã hoặc sẽ xuất hiện trong tủ “Việt Nam danh tác” này. Khi mà những sản phẩm sáng tạo của người Việt thời những năm 1930-1945 đang đến lúc bộc lộ sự kết tinh của mình, những hoạt động của các đơn vị phát hành sách như cho ra đời tủ sách “Việt Nam danh tác”, có thể sẽ tác động vào quá trình tiếp nhận của độc giả. Ngoài ra, nó còn góp phần khẳng định giá trị lâu bền của các tác phẩm này. Một số trong đó sẽ dần dần trở thành kinh điển, cổ điển, thành một phần không thể thiếu trong vốn liếng căn cốt của văn học Việt! – Việc tìm đến các bản in lần đầu, hay chính là giá trị nguyên bản của tác phẩm, là việc làm cần thiết. Phải chăng cần có sự bắt tay giữa đơn vị phát hành và giới sưu tầm, nghiên cứu để làm được điều này? – Có những tác phẩm như đã tìm được thông tin rồi, ví dụ thông tin cho thấy nó nằm ở kho lưu trữ nào đó, chỉ cần một số tấm vé máy bay, một số phòng khách sạn lưu trú cho chuyên gia mình đến sao chụp mang về… thì vẫn còn là chuyện đơn giản. Hóa ra chuyện lại không phải thế! Có những thứ đã hoặc sẽ mất hẳn. Không biết rằng có thì cũng coi như mất hẳn. Đấy là những câu chuyện dài. Tạm nói về một số tác phẩm văn chương Việt 1930-1945 được cho là thất lạc. Vấn đề chính là “phát hiện” ra rằng tác phẩm này khác đã thất lạc. Phải có người phát hiện, kêu lên, thông báo cho đồng nghiệp, cho công chúng, như thế mới kích hoạt việc tìm kiếm. Đôi khi sẽ thấy một vài tiếng reo “Ơ-rê-ca” rồi hóa ra lại cụt hứng, là vì vớ phải một ngụy tác, hoặc một lầm lẫn. Dù vậy, vẫn phải tìm, rồi còn thẩm định cái tìm được. Chuyện giới xuất bản phát hành cần “bắt tay” với giới nghiên cứu sưu tầm thì dễ thôi, vì xuất bản luôn luôn khát nguồn bản thảo. Chủ yếu vẫn phải trông vào nghiên cứu, sưu tầm. Người ta chờ đợi ở các viện nghiên cứu như: Viện Hán Nôm, Viện Văn học, các khoa xã hội nhân văn của các đại học, chờ đợi giới chuyên nghiệp cũng như các tay chơi sách báo cũ. Hiện nay ở nước ta sách in đang là một thị trường phồn tạp, đa sắc. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân Có một thị trường sách báo, thị trường văn vật, cổ vật, sẽ dễ dàng hơn cho sự tái phát hiện. Cái bị thất lạc, có khi vẫn nằm đâu đó trong các tủ sách báo tư nhân. Năm 2006 tìm thấy bản in sách Giông tố. Năm 2012 chỉ tìm thấy tập thơ Gái quê dưới dạng bản đánh máy lại (nghe nói là) theo đúng bản in 1936, chứ không phải đích thị bản in 1936. Năm 2019, giữa mùa đại dịch Covid-19, giới chơi “sách xưa” lại tìm thấy bản in sách Số đỏ lần đầu (1938), nghe nói sách đã nằm đấy, trong tủ sách một tay chơi từ lâu rồi. Có thể nói, hiện người ta cũng chưa biết hết những cuốn nào đang mất, đang cần tìm lại, trong vốn liếng tác phẩm văn học đã in thời kỳ 1930-1945. Chỉ khi biết cái gì đã mất mới có thể có mục tiêu kiếm tìm cụ thể. Chính thế, đi tìm những gì mất mát, cũng là một cách tìm lại diện mạo văn học một thời đã qua.
VIỆT NAM KỲ VĨ · 11 CỘT MỐC TRÊN BIỂN Sau 11 năm, tôi hoàn thành được mục tiêu đặt chân đến 11 điểm cơ sở đánh dấu lãnh hải Việt Nam. Chạm vào biên giới, biên cương, hải đảo lãnh thổ của Tổ quốc luôn luôn là một cảm xúc rất đặc biệt. Tôi nhen nhóm mục tiêu của mình vào một đêm không ngủ dưới bầu trời đầy sao Đại Lãnh và quyết tâm khi được chứng kiến khoảnh khắc một tia sáng chớp lên từ phía chân trời, mặt trời vụt lên trên mặt biển như một đường lửa. Cực đông của Việt Nam trên đất liền – điểm A8 đường định vị lãnh hải – là đây. Từ đó, tôi tìm mọi cơ hội để được đến với những điểm A khác. Hòn Nhạn A1 đi từ Thổ Chu ( Kiên Giang ), xung quanh là đá ngầm khiến việc cập bờ vô cùng khó khăn. Chuyến đi hòn Đá Lẻ – A2 từ Hòn Khoai (Cà Mau) phải sắp xếp, tham khảo kỹ lưỡng thời tiết tới lần thứ hai mới thực hiện được. Ba điểm A3 – hòn Tài Lớn, A4 – hòn Bông Lan, A5 – hòn Bảy Cạnh ở Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu) tưởng gần, ngỡ dễ nhưng lại rất khó khăn vì phải đi xa, chi phí thuê tàu cao, sóng gió khiến thuyền khó cập vào dễ xảy ra tai nạn, phụ thuộc vào thời tiết và thủy triều… Để đến với điểm A6 – hòn Hải (Bình Thuận), tôi phải xin phép và chờ đợi hơn một năm trời mới có được cơ hội lên chuyến tàu tiếp tế của Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Nam Trung Bộ để vượt 150 hải lý từ Nha Trang. Tàu rời bến được hai giờ đồng hồ thì mưa dông trắng xóa, sóng lớn nhồi giật tung tàu lên cao mấy mét rồi rơi tự do xuống mặt biển. Chúng tôi phải neo tạm ở Mũi Dinh tránh bão, rồi hôm sau tiếp tục neo ở đảo Phú Quý để chờ sóng yên biển lặng. Sau hai ngày đêm, trước mắt tôi là một khối đá sừng sững hiện ra trên biển trong ánh bình minh: hòn Hải. Cứ vậy, tôi tiếp tục hành trình của mình để đến với hòn Đôi (Khánh Hòa) – A7, hòn Ông Căn (Khánh Hòa) – A9, đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) – A10, chờ đợi qua những cơn bão số 7, số 8, số 9, số 10 của năm 2020 để được đến với A11 – đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị). Sự kỳ vĩ của thiên nhiên, lời lẽ và kể cả những tấm ảnh cũng khó lòng nói hết được. Ngoài đam mê khám phá, tôi thật sự muốn những hình ảnh, câu chuyện của mình sẽ góp phần lan tỏa đến những người con đất Việt niềm tự hào về biên cương lãnh thổ, biên giới hải đảo của chúng ta. Chương II, điều 8, Luật biển Việt Nam nêu rõ: “Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn”. Theo đó, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải lục địa Việt Nam là đường thẳng gãy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong phụ lục đính kèm Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày 12-11-1982. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam từ điểm tiếp giáp 0 của hai đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Campuchia nằm giữa biển, trên đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Châu và đảo Poulo Wai đến đảo Cồn Cỏ theo các tọa độ ghi trong phụ lục, được vạch trên các bản đồ tỉ lệ 1/100.000 của Hải quân nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1979. Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh Bắc Bộ; đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể sau:
VIETNAM KY VI · 11 MILLIONS AT THE SEA After 11 years, I completed my goal of setting foot on 11 base points marking Vietnam's territorial waters. Touching the borders, frontiers, islands and territories of the Fatherland is always a very special feeling. I rekindled my goal one sleepless night under the starry sky of Dai Lanh and was determined when I witnessed the moment a ray of light flashed from the horizon, the sun flashed above the sea like a line of fire. The easternmost point of Vietnam on the mainland - point A8 of the territorial sea navigation line - is here. From then on, I looked for every opportunity to get to other A points. Hon Nhan A1 from Tho Chu ( Kien Giang ), surrounded by reefs, making landing extremely difficult. The trip to Da Le Island - A2 from Hon Khoai (Ca Mau) must be arranged and carefully consulted with the weather a second time before it can be done. The three points A3 - Tai Lon island, A4 - Bong Lan island, A5 - Bay Canh island in Con Dao (Ba Ria - Vung Tau) seem close, but are very difficult because of the long distance and high cost of renting a boat. Wind and waves make it difficult for boats to access, easily causing accidents, depending on the weather and tides... To get to point A6 - Hon Hai (Binh Thuan), I had to ask permission and wait more than a year to have the opportunity to board the supply ship of the South Central Coast Maritime Safety Company to cross 150 nautical miles. Ly from Nha Trang. Two hours after the ship left the wharf, a white thunderstorm hit, big waves tossed the ship several meters high and then fell freely to the sea surface. We had to temporarily anchor at Dinh Cape to avoid the storm, then the next day continue to anchor at Phu Quy Island to wait for calm waves. After two days and nights, before my eyes was a towering block of rock appearing on the sea in the dawn light: Hon Hai. Just like that, I continued my journey to Doi island (Khanh Hoa) - A7, Ong Can island (Khanh Hoa) - A9, Ly Son island (Quang Ngai) - A10, waiting for storm number 7. , number 8, number 9, number 10 of 2020 to get to A11 - Con Co island (Quang Tri). The magnificence of nature, words and even photos are difficult to describe. In addition to my passion for discovery, I really want my images and stories to contribute to spreading to Vietnamese people pride in our territorial borders and island borders. Chapter II, Article 8, Vietnam's Law of the Sea clearly states: "The baseline used to calculate the width of Vietnam's territorial sea is the straight baseline announced by the Government. The Government determines and announces baselines in areas where there are no baselines when approved by the National Assembly Standing Committee. Accordingly, the baseline used to calculate the width of Vietnam's continental territorial sea is a broken straight line connecting the points with coordinates recorded in the appendix attached to the Declaration of the Government of the Socialist Republic of Vietnam dated November 12. -1982. The baseline used to calculate the width of Vietnam's territorial sea is from the contiguous point 0 of the two baselines used to calculate the width of the territorial sea of ​​the Socialist Republic of Vietnam and the People's Republic of Cambodia located in the middle of the sea, on a straight line connecting connecting Tho Chau and Poulo Wai islands to Con Co island according to the coordinates recorded in the appendix, outlined on 1/100,000 scale maps of the Vietnam People's Navy published in 1979. Baseline from Con Co island to the mouth of the Gulf of Tonkin; The baseline used to calculate the width of the territorial sea of ​​the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos will be specified as follows:
Làng mai rừng màu hồng rực rỡ nơi biên giới Nơi biên viễn của Quảng Nam, có một làng chuyên trồng những gốc mai rừng trước nhà, để thắm thêm sắc xuân. Thôn A Rầng (xã Axan, huyện Tây Giang , tỉnh Quảng Nam ) nằm cách trung tâm tỉnh lỵ Tam Kỳ chừng 220km, là vùng biên giới Việt Nam – Lào, được biết đến như nơi trồng cây mai rừng đẹp nhất. Theo già Pơlong Dinh (68 tuổi), lúc đầu chỉ lác đác vài hộ, khi vào rừng làm rẫy, phát hiện cây mai rừng đang bung hoa rực rỡ nên tìm cách đào gốc đem về làng trồng thử. Qua nhiều năm, thấy cây mai thích ứng tốt với thổ nhưỡng, phát triển tốt, nở hoa đúng dịp tết Nguyên đán nên người làng cùng nhau vào rừng đem những gốc mai về trồng trước nhà. Hiện tại, hầu hết các hộ đều có một cây mai đang bung hoa rực rỡ để đón xuân. Sau thời gian dài chìm trong mưa gió, bão lũ, miền biên giới Quảng Nam nay ngập tràn sắc hồng của hoa mai rừng. Trước khoảnh sân mỗi nhà đều có một gốc mai đang bung hoa rực rỡ Do ở đây có độ cao tương thích (hơn 2.000m so với mặt nước biển) cộng với thời tiết lạnh có khi xuống tới 7-8 độ C, nên loại mai rừng ưa thích không khí lạnh này khoe sắc rất thắm. Mỗi bông hoa mai thường có 5 cánh, màu hồng nhạt. Theo già Pơlong Dinh, hoa nở sớm nhưng lâu tàn, nhờ có không khí lạnh thích hợp hơn so với khi ở rừng. Khi những ánh nắng của mùa xuân bắt đầu xuất hiện, những nụ hoa bung nở Nhiều du khách thích thú khi được tận mắt chứng kiến làng mai rừng đang khoe sắc
Bright pink apricot forest village on the border On the border of Quang Nam, there is a village that specializes in planting wild apricot trees in front of their houses to add spring color. A Rang village (Axan commune, district Tay Giang , conscious Quang Nam ) is located far from the provincial center Tam Ky About 220km, is the Vietnam - Laos border area, known as the place where the most beautiful wild apricot trees grow. According to old Polong Dinh (68 years old), at first there were only a few households. When they went to the forest to farm, they discovered that the wild apricot tree was blooming brightly, so they tried to dig up the roots and bring them back to the village to try planting. Over the years, seeing that the apricot trees adapted well to the soil, grew well, and bloomed just in time for the Lunar New Year, so the villagers went into the forest to bring apricot trees to plant in front of their houses. Currently, most households have an apricot tree blooming brightly to welcome spring. After a long time of being immersed in rain, wind, storms and floods, the border region of Quang Nam is now filled with the pink color of wild apricot flowers. In front of each house's yard there is an apricot tree blooming brilliantly Because there is a suitable altitude here (more than 2,000m above sea level) plus cold weather sometimes down to 7-8 degrees Celsius, this type of wild apricot that loves cold air shows off its colors very well. Each apricot flower usually has 5 petals and is light pink in color. According to old Polong Dinh, the flowers bloom early but wither for a long time, thanks to the cold air, which is more suitable than in the forest. When the sunshine of spring begins to appear, flower buds bloom Many tourists enjoy seeing with their own eyes the wild apricot village in full bloom
Lập hattrick giải thưởng du lịch thế giới Sun World Ba Na Hills đưa du lịch Đà Nẵng vươn tầm Cú hat-trick giải thưởng tại World Travel Award toàn cầu và nhiều giải thưởng tầm cỡ quốc tế dành cho Sun World Ba Na Hills trong một năm khó khăn như 2020 một lần nữa khẳng định tầm vóc và sức hút của khu du lịch mà Tập đoàn Sun Group kiến tạo trên đỉnh núi Chúa Đà Nẵng. Từ biểu tượng của du lịch Đà Nẵng… Hơn 10 năm trước, nhắc tới Đà Nẵng, du khách chỉ biết tới những bãi biển đẹp hoang sơ cùng khung cảnh núi non hùng vĩ của vùng biển miền Trung thơ mộng. Đỉnh Bà Nà khi đó chìm trong quên lãng, mỗi năm chỉ đón chừng 30.000 – 40.000 lượt khách, năm cao nhất cũng chỉ đạt 70.000 lượt. Cũng bởi đến Bà Nà lúc bấy giờ, du khách ngoài ngắm cảnh thiên nhiên, tận hưởng thời tiết mát mẻ, ăn ngô luộc, uống trà đá hoặc sang hơn là nghỉ dưỡng một đêm ở vài khách sạn nhỏ lẻ bên chân núi hay trên đỉnh thì cũng không có gì hấp dẫn để ở lâu, để tiêu tiền. Năm 2007, với sự mời gọi của thành phố Đà Nẵng , Sun Group đã bắt đầu công cuộc đánh thức Bà Nà. Hai năm sau, tuyến cáp treo đầu tiên khánh thành, lần lượt những công trình ra đời sau đó. Giờ đây, có thể nói, Bà Nà Hills là cái tên gắn liền như một biểu tượng của du lịch Đà Nẵng, với câu slogan “Đường lên tiên cảnh” vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của du khách nhiều lứa tuổi. Những vườn hoa rực rỡ bốn mùa, những lâu đài mang phong cách Pháp đẹp như trong cổ tích, những công trình tâm linh ẩn hiện giữa mây ngàn, khu vui chơi sôi động, lễ hội tưng bừng ngày nào cũng có, Bà Nà Hills đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy sự tăng trưởng du khách tới Đà Nẵng. Từ năm 2009 đến 2018, khi Bà Nà đón số lượng khách tăng hơn 160 lần thì Đà Nẵng cũng ghi nhận lượng du khách tăng tới 463%. Tháng 6/2018, Sun World Ba Na Hills khiến cái tên Đà Nẵng được phủ sóng toàn cầu, khi khu du lịch này ra mắt cây Cầu Vàng với thiết kế như một dải lụa được nâng đỡ bởi đôi bàn tay khổng lồ rêu phong giữa lưng chừng núi. Báo chí quốc tế không ngớt lời ngợi ca, giới dịch chuyển khắp thế giới trầm trồ, ngưỡng mộ tìm về. Có những tỷ phú đã đổi lịch trình chuyến đi tới Việt Nam chỉ để được tận mắt ngắm Cầu Vàng, có những du khách đã chờ đợi ở Đà Nẵng tan cơn bão để được chạm tay vào cây cầu đẹp như huyền thoại ấy. Cầu Vàng- từ chỗ chỉ là một cây cầu đi bộ kết nối giữa 2 điểm đến ở Bà Nà – đã nhanh chóng trở thành “biểu tượng mới”- không chỉ của du lịch Đà Nẵng mà còn của du lịch Việt Nam. …tới “biểu tượng du lịch hàng đầu thế giới” Nhiều năm liên tiếp, Sun World Ba Na Hills là “Điểm đến du lịch hấp dẫn hàng đầu Việt Nam” do Tổng cục Du lịch Việt Nam vinh danh. Cái tên Bà Nà Hills thậm chí đã trở thành bảo chứng cho một chuyến đi Đà Nẵng thành công của nhiều du khách. Nói về vai trò của Sun World Ba Na Hills với du lịch Đà Nẵng, ông Phùng Xuân Khánh- Giám đốc Công ty Du lịch Tiên Phong Travel cho rằng, nếu không có Bà Nà Hills, chưa chắc cả du khách trong nước và quốc tế đã biết đến Đà Nẵng, và Đà Nẵng khó có thể đứng trong top 10 thành phố du lịch hàng đầu thế giới như hiện nay. “Cứ hành trình nào ở Đà Nẵng mà không có Bà Nà Hills đều không có khách. Nhờ Bà Nà Hills, năm 2011, lượng khách đi qua công ty Tiên Phong đến Đà Nẵng chỉ mới vài trăm khách nhưng nay đã đạt khoảng 4.000 khách/năm”, Giám đốc Tiên Phong Travel tiết lộ khi trả lời phỏng vấn giới truyền thông hồi tháng 3/2019. Cuối năm 2020, sau một năm đầy bão tố do dịch bệnh, Sun World Ba Na Hills lại trở thành điểm sáng của du lịch Đà Nẵng, du lịch Việt Nam, khi liên tục được các tổ chức giải thưởng thế giới vinh danh. World Travel Awards khu vực châu Á trao tặng khu du lịch trên đỉnh núi Chúa giải thưởng “Hệ thống cáp treo hàng đầu thế giới”. World Travel Awards toàn cầu gọi tên Sun World Ba Na Hills với cú hat trick ngoạn mục gồm 3 giải thưởng: Hệ thống cáp treo hàng đầu thế giới 2020; Điểm du lịch biểu tượng hàng đầu thế giới và Cây cầu du lịch biểu tượng hàng đầu thế giới 2020 dành cho Cầu Vàng . Cũng trong năm 2020, Dot Property Awards– giải thưởng bất động sản đẳng cấp bậc nhất khu vực châu Á cũng đã dành cho Sun World Ba Na Hills giải thưởng “Dự án của năm tại khu vực Đông Nam Á do nhà đầu tư bình chọn”. Đây là một trong những giải thưởng danh giá nhất của Dot Property Awards, bởi các dự án đề cử sau khi vượt qua vòng thẩm định của Ban tổ chức và các chuyên gia sẽ được các nhà đầu tư từ khắp Đông Nam Á bỏ phiếu trực tiếp qua nền tảng online. Sun World Ba Na Hills đã xuất sắc vượt qua dự án đối thủ đến tử Thái Lan để đạt giải thưởng này. Không đơn thuần là những khen tặng, vinh danh, các giải thưởng quốc tế dành cho khu du lịch đầu tiên của Tập đoàn Sun Group tại Đà Nẵng là lời khẳng định chắc nịch cho vị thế của điểm đến này. Từ điểm đến hàng đầu Việt Nam tới Điểm du lịch biểu tượng hàng đầu thế giới, Sun World Ba Na Hills thậm chí đã từng bước biến giấc mơ đưa ngành công nghiệp giải trí của Việt Nam vươn tầm quốc tế thành hiện thực.
Hat trick of world travel awards Sun World Ba Na Hills brings Da Nang tourism to the next level Hat-trick of awards at the global World Travel Award and many international awards for Sun World Ba Na Hills In a difficult year like 2020, it once again affirms the stature and attraction of the tourist area that the Group Sun Group built on the top of Chua Mountain in Da Nang. From the symbol of Da Nang tourism… More than 10 years ago, when mentioning Da Nang, tourists only knew about the beautiful, pristine beaches and majestic mountain scenery of the romantic Central Coast. Ba Na peak then sank into oblivion, each year only welcoming about 30,000 - 40,000 visitors, the highest year only reaching 70,000 visitors. Also because coming to Ba Na at that time, tourists in addition to admiring the natural scenery, enjoying the cool weather, eating boiled corn, drinking iced tea or more luxuriously, stayed one night at a few small hotels at the foot of the mountain or on the mountain. At the top, there is nothing attractive to stay for a long time or to spend money. In 2007, with the invitation of the city Danang , Sun Group has begun the work of awakening Ba Na. Two years later, the first cable car line was inaugurated, and projects were born one after another. Now, it can be said that Ba Na Hills is a name associated as a symbol of Da Nang tourism, with the slogan "Road to paradise" which has been deeply ingrained in the subconscious of tourists of many ages. Brilliant flower gardens in all four seasons, beautiful French-style castles like in a fairy tale, spiritual works hidden among the clouds, vibrant amusement parks, jubilant festivals every day, Ba Na Hills has become one of the driving forces driving tourist growth to Da Nang. From 2009 to 2018, when Ba Na Welcoming the number of visitors increasing more than 160 times, Da Nang also recorded an increase of 463%. In June 2018, Sun World Ba Na Hills made the name Da Nang famous globally, when this resort launched the Golden Bridge with a design like a silk strip supported by giant mossy hands in the middle. halfway up the mountain. The international press constantly praised it, and travelers around the world admired and admired it. There are billionaires who have rescheduled their trip to Vietnam just to see the Golden Bridge with their own eyes, and there are tourists who have waited in Da Nang for the storm to pass so they can touch that legendary, beautiful bridge. The Golden Bridge - from just a pedestrian bridge connecting two destinations in Ba Na - has quickly become a "new symbol" - not only of Da Nang tourism but also of Vietnam tourism. …to “the world's leading tourism icon” For many consecutive years, Sun World Ba Na Hills has been "Vietnam's leading attractive tourist destination" honored by the Vietnam National Administration of Tourism. The name Ba Na Hills has even become a guarantee for a successful trip to Da Nang for many tourists. Talking about the role of Sun World Ba Na Hills in Da Nang tourism, Mr. Phung Xuan Khanh - Director of Tien Phong Travel Company said that without Ba Na Hills, it is unlikely that both domestic and international tourists will have known about Da Nang, and it is difficult for Da Nang to rank in the top 10 tourist cities in the world today. “Any itinerary in Da Nang that does not include Ba Na Hills will have no customers. Thanks to Ba Na Hills, in 2011, the number of tourists passing through Tien Phong company to Da Nang was only a few hundred visitors but now has reached about 4,000 visitors/year," Director of Tien Phong Travel revealed when interviewing the media. in March 2019. At the end of 2020, after a stormy year due to the epidemic, Sun World Ba Na Hills became a highlight of Da Nang tourism and Vietnamese tourism, when continuously honored by world award organizations. World Travel Awards The Asian region awarded the tourist area on top of Mount Chua the "World's Leading Cable Car System" award. The global World Travel Awards named Sun World Ba Na Hills with a spectacular hat trick of 3 awards: World's leading cable car system 2020; The world's leading iconic tourist destination and the world's leading iconic tourist bridge 2020 for Golden Bridge . Also in 2020, Dot Property Awards - the most prestigious real estate award in Asia also awarded Sun World Ba Na Hills the "Project of the Year in Southeast Asia voted by investors" award. ”. This is one of the most prestigious awards of the Dot Property Awards, because the nominated projects, after passing the appraisal round by the Organizing Committee and experts, will be voted online by investors from all over Southeast Asia. continue via online platform. Sun World Ba Na Hills excellently surpassed a rival project from Thailand to win this award. Not simply compliments and honors, the international awards for Sun Group's first tourist resort in Da Nang are a solid affirmation of the position of this destination. From Vietnam's leading destination to the world's leading iconic tourist destination, Sun World Ba Na Hills has even gradually turned the dream of bringing Vietnam's entertainment industry to an international level into reality.
Outsider art Nghệ thuật sáng tạo bên ngoài dòng chính thống Với một xuất phát điểm đặc biệt dấu nối không tưởng giữa tâm lý học và nghệ thuật, Outsider art là một hình thức biểu hiện nghệ thuật mạnh mẽ nhất, ra khỏi những đường lối vạch định của các sử gia nghệ thuật. Câu hỏi : Đâu là nghệ thuật đích thực cũng từ đây mà trở thành đề tài tranh cãi suốt thế kỷ trước. Vậy Outsider art là gì ? Outsider Art là thuật ngữ dùng để chỉ sáng tác nghệ thuật được tạo ra bởi những người bên ngoài dòng chính thống . Thuật ngữ “Outsider Art” được Roger Cardinal, nhà phê bình nghệ thuật người Anh đưa ra năm 1972 như một từ tiếng Anh tương đương với thuật ngữ “Art Brut” trong tiếng Pháp do Jean Dubuffet (1901 – 1985, họa sỹ và nhà điêu khắc người Pháp) đặt ra, dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật không tuân theo khuôn mẫu, qui tắc mỹ thuật hay các trường phái nghệ thuật. Trong tiếng Anh, “Outsider” có nghĩa là người ngoài cuộc, người không thể cho nhập bọn, người không cùng nghề hay không có chuyên môn. Outsider Art bao gồm tác phẩm của người tự học, kể cả sáng tác của người nghiện rượu, người điên hay mắc bệnh tâm thần. Phần lớn nghệ sỹ Outsider là những người chưa từng có mối liên hệ nào với học viện, dòng nghệ thuật chính thống hay các tổ chức nghệ thuật. Tuy nhiên, trong số những nghệ sỹ được xếp vào Outsider Art cũng có người từng theo học ở Học viện nghệ thuật, nhưng sau đó bị phát bệnh tâm thần và họ sáng tác nghệ thuật trong nhà thương điên. Trong nhiều trường hợp, nghệ thuật của họ chỉ được chú ý hay phát hiện sau khi chết. The Fairy Feller’s Master- Stroke, tác phẩm nổi tiếng nhất của Richard Dadd (1817 – 1886), họa sỹ người Anh mắc chứng hoang tưởng. Đây là câu chuyện cổ tích bằng tranh của Dadd lấy cảm hứng từ bài hát cùng tên của ban nhạc Queen (Anh). Đặc điểm nhận dạng của một tác phẩm outsider art là những ý tưởng lạ có phần kỳ quái, đi ngược mọi quan niệm thông thường, những hình ảnh của một thế giới ảo tưởng, và nổi bật trên hết là trạng thái tinh thần mãnh liệt được bộc lộ qua tác phẩm. Outsider art được khơi nguồn từ những sưu tầm các tác phẩm của bệnh nhân tại các bệnh viện tâm thần ở châu Âu vào thế kỷ XIX nhằm phục vụ cho nghiên cứu và phân tích y khoa. Phải đến đầu thế kỷ XX khi các nghệ sỹ tiên phong phương Tây quay lưng lại với giá trị mỹ học truyền thống của nghệ thuật hàn lâm cổ điển, tìm kiếm những phương thức biểu hiện mới những bộ sưu tập này mới được chú ý dưới góc độ nghệ thuật. Tiên phong trong việc nghiên cứu những bộ sưu tập sáng tác của bệnh nhân dưới góc độ nghệ thuật là bác sỹ tâm lý người Thụy Sỹ Walter Morgenthaler, với những phân tích về Adolf Wölfli – một bệnh nhân tâm thần được xem là nghệ sỹ đầu tiên của Outsider Art. Tác phẩm của Adolf Wölfli cuốn hút đến từng chi tiết Từ những năm 1940 Jean Dubuffet (1901 – 1985, họa sỹ, điêu khắc gia người Pháp) đã nỗ lực sưu tầm các tác phẩm của những người tự học, bệnh nhân tâm thần, kẻ nghiện rượu, tù nhân và chỉ ra giá trị thẩm mỹ nội tại của chúng, và cho ra đời thuật ngữ Art Brut . Trong tiếng Pháp “Brut” có nghĩa “sống”, “mộc”, “thô”, “nguyên” . Từ đó Art Brut mang nghĩa “nghệ thuật thô”, “nghệ thuật sống” hay “nghệ thuật nguyên” , chỉ sự sáng tạo theo hình thức trực tiếp, tạo lập hình ảnh từ trí óc lên trang giấy, hay tấm toan và được Dubuffet ví như nguyên liệu chưa qua quá trình chế biến, vẫn giữ được sự tươi nguyên. Những tác phẩm được Dubuffet xếp vào thể loại Art Brut đều là sự sáng tạo vô thức dựa trên cảm hứng từ thế giới tinh thần, không dựa trên truyền thống hoặc kỹ thuật. Nó không theo phong cách hay xu hướng nghệ thuật nào mà là sự tự phát và thậm chí không được thực hiện với mục đích làm “nghệ thuật.” Art Brut là những sáng tạo thuần khiết, ra đời từ sự cô đơn, từ thúc đẩy của thế giới vô thức, nơi không bị can thiệp bởi những lo lắng về sự ca ngợi, hay những tung hô xã giao thường thấy trong các cuộc thi. Theo Dubuffet, sự thật còn quý giá hơn sản phẩm của những chuyên gia còn dòng nghệ thuật chính thống của các bảo tàng, học viện đã mất đi sức mạnh và nguồn nghệ thuật tinh khiết từ sự thật. “Arab Palm trees” – một tác phẩm outsider art của Jean Dubuffet Không chỉ dừng lại ở hội họa, Dubuffet còn phát triển khái niệm của mình trong những tác phẩm điêu khắc không tưởng “Room of my dreams” – công trình đồ sộ đem lại sự tương tác thú vị của Dubuffet Kể từ sau sự khuấy đảo của Dubuffet, Châu Âu và Bắc Mỹ trở thành nơi tập trung nghiên cứu về Outsider Art. Công việc này không chỉ được thúc đẩy bởi những người nghiên cứu nghệ thuật mà còn cả các giám tuyển và nhà buôn tranh. Outsider Art ngày càng được các nhà sưu tập hiện đại đánh giá cao, thậm chí còn được treo trong bảo tàng chính thống. Năm 2008, Đại học Sydney thành lập trung tâm Self-Taught and Outsider Art Research Collection (STOARC). Cho đên nay đây là trung tâm quốc tế duy nhất phục vụ việc nghiên cứu nghệ thuật bên ngoài dòng chính thống. Những nghệ sỹ đầu tiên của Outsider art đều là những người có những trải nghiệm bất thường trong cuộc sống hoặc trạng thái cùng cực về tinh thần như người tâm thần, người khuyết tật, hay tù nhân song có tiềm năng về sáng tạo nghệ thuật. Họ đến với hội họa và điêu khắc vì những thôi thúc mãnh liệt chứ không vì mong muốn được công nhận. Nghệ thuật của họ là sự biểu hiện những ham muốn ẩn và mâu thuẫn bên trong nội tại. Nó không hướng ngoại mà hướng nội. Nó xuất hiện từ trí tưởng tượng và những ẩn ức của bệnh nhân tâm thần hay người điên, phá vỡ những nỗ lực có ý thức và bác bỏ quan niệm bất di bất dịch hay sự chủ định về nghệ thuật. Có thể ví những tác phẩm thuộc thể loại này như một chuyến đi thám hiểm vào thế giới nội tâm. Tính tự phát, những ý tưởng và cách biểu hiện khác thường đến tự sự nhạy cảm đặc biệt với thế giới xung quanh, những thôi thúc được giao tiếp, cảm xúc và phản ứng đã tạo nên vẻ đẹp và sức cuốn hút không thể cưỡng lại của Outsider art. Một minh họa của Henry Darger (1892 – 1973) cho câu chuyện thần thoại về bảy chị em Vivian do chính ông sáng tác. Darger là một trong những nghệ sỹ bên ngoài dòng chính thống quan trọng nhất của thế kỷ XX. Mặc dù là một bệnh nhân tâm thần và chưa một lần bước chân vào bảo tàng những minh họa của Henry Darger lột tả những gì đặc sắc nhất của Outsider art, với mối liên hệ mật thiết với văn hóa đại chúng khi Darger lấy cảm hứng cho câu chuyện từ những sự kiện và hình ảnh của các báo và tạp chí. Công trình vườn đá rộng tới mười tám mẫu ở thành phố Chandigarh, Ấn Độ của nghệ sỹ tự học Nek Chan với những chi tiết điêu khắc từ đá độc đáo Bên cạnh những sáng tạo vượt qua mọi giới hạn nghệ thuật thông thường với đá và xi măng, Nek Chan còn khiến dự án của mình trở thành một trong những chương trình tái chế phế thải lớn nhất thế giới với một lượng lớn động vật và búp bê từ vải và quần áo cũ Không chỉ với các chất liệu từ phế thải đô thị, Nek Chan còn đã tạo ra những tác phẩm điêu khắc từ rễ của cây Các nghệ sỹ tiên phong của chủ nghĩa nghệ thuật hiện đại như Ernst Ludwig Kirchner, Oskar Schlemmer, Alfred Kubin, André Breton, Paul Klee, Max Ernst và Pablo Picasso đều từng tham khảo bộ sưu tập tranh của bệnh viện tâm thần Heidelberg. Các motif từ di sản nghệ thuật nguyên thủy, tính hồn nhiên trong tranh vẽ của trẻ em, cảnh tượng kỳ lạ chỉ gặp trong giấc mơ và thế giới vô thức… những chủ đề chính của nghệ thuật tạo hình đầu thế kỷ XX chịu sự ảnh hưởng nhất định từ những tác phẩm thuở sơ khai của Outsider Art. Cùng với sự tác động mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện đại đến nghệ thuật thế giới, Outsider art không chỉ giới hạn trong những tác phẩm không chuyên của các nghệ sỹ tự học mà đã trở thành nguồn cảm hứng mới về cách biểu đạt cho nhiều nghệ sỹ chuyên nghiệp “Insider”. Nhiều ý kiến bảo thủ lý giải cho hiện tượng này khẳng định rằng, những nghệ sỹ của dòng nghệ thuật chính thống không phải thấy hứng thú với nghệ thuật từ sự điên loạn, hoang tưởng mà chính những trạng thái hoang đường mới là điểm mà họ muốn khai thác. Một tác phẩm Outsider art với nghệ thuật chần vải quilting và vẽ màu acrylic Sự kết hợp của len, cói và màu acrylic trong một tác phẩm trưng bày hiện đại mang đậm dấu ấn Outsider art Outsider art trong nhiếp ảnh Cho đến nay, Outsider art được coi là một trong những yếu tố làm nên chủ nghĩa hậu hiện đại bên cạnh những khái niệm mới như: Anti art (Phản nghệ thuật), trào lưu nghệ thuật Pop art, nghệ thuật hậu tối giản Postminimalism art,….. Sau đây, mời các bạn chiêm ngưỡng một số tác phẩm và ứng dụng của Outsider art hiện đại Một tác phẩm Outsider art sử dụng kỹ thuật tạo hình collage Một số tác phẩm được trưng bày trong triển lãm Outsider art tại New York Họa tiết trang trí mang đậm dấu ấn của Outsider art Outsider art trong kiến trúc và nghệ thuật sắp đặt đầy phá cách Biệt thự Hằng Nga ở Đà Lạt thường được biết đến với biệt danh “Crazy House” – nổi tiếng với kiến trúc độc đáo, với ý tưởng Outsider art được thể hiện đậm nét Bất chấp những ý kiến trái chiều về vị trí của Outsider art trong hệ thống nghệ thuật chính quy, hình thức thể hiện nghệ thuật đầy nội tâm này đã đang góp một phần rất lớn vào dòng chảy của nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại, nơi những ẩn dụ và mực thước hàn lâm nhường chỗ cho một cách biểu hiện “chân thực hơn và nhân bản hơn”, thô sơ và mãnh liệt – vang vọng khẩn thiết trong tâm hồn người nghệ sỹ.
Outsider art Nghệ thuật sáng tạo bên ngoài dòng chính thống Với một xuất phát điểm đặc biệt dấu nối không tưởng giữa tâm lý học và nghệ thuật, Outsider art là một hình thức biểu hiện nghệ thuật mạnh mẽ nhất, ra khỏi những đường lối vạch định của các sử gia nghệ thuật. Câu hỏi : Đâu là nghệ thuật đích thực cũng từ đây mà trở thành đề tài tranh cãi suốt thế kỷ trước. Vậy Outsider art là gì ? Outsider Art là thuật ngữ dùng để chỉ sáng tác nghệ thuật được tạo ra bởi những người bên ngoài dòng chính thống . Thuật ngữ “Outsider Art” được Roger Cardinal, nhà phê bình nghệ thuật người Anh đưa ra năm 1972 như một từ tiếng Anh tương đương với thuật ngữ “Art Brut” trong tiếng Pháp do Jean Dubuffet (1901 – 1985, họa sỹ và nhà điêu khắc người Pháp) đặt ra, dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật không tuân theo khuôn mẫu, qui tắc mỹ thuật hay các trường phái nghệ thuật. Trong tiếng Anh, “Outsider” có nghĩa là người ngoài cuộc, người không thể cho nhập bọn, người không cùng nghề hay không có chuyên môn. Outsider Art bao gồm tác phẩm của người tự học, kể cả sáng tác của người nghiện rượu, người điên hay mắc bệnh tâm thần. Phần lớn nghệ sỹ Outsider là những người chưa từng có mối liên hệ nào với học viện, dòng nghệ thuật chính thống hay các tổ chức nghệ thuật. Tuy nhiên, trong số những nghệ sỹ được xếp vào Outsider Art cũng có người từng theo học ở Học viện nghệ thuật, nhưng sau đó bị phát bệnh tâm thần và họ sáng tác nghệ thuật trong nhà thương điên. Trong nhiều trường hợp, nghệ thuật của họ chỉ được chú ý hay phát hiện sau khi chết. The Fairy Feller’s Master- Stroke, tác phẩm nổi tiếng nhất của Richard Dadd (1817 – 1886), họa sỹ người Anh mắc chứng hoang tưởng. Đây là câu chuyện cổ tích bằng tranh của Dadd lấy cảm hứng từ bài hát cùng tên của ban nhạc Queen (Anh). Đặc điểm nhận dạng của một tác phẩm outsider art là những ý tưởng lạ có phần kỳ quái, đi ngược mọi quan niệm thông thường, những hình ảnh của một thế giới ảo tưởng, và nổi bật trên hết là trạng thái tinh thần mãnh liệt được bộc lộ qua tác phẩm. Outsider art được khơi nguồn từ những sưu tầm các tác phẩm của bệnh nhân tại các bệnh viện tâm thần ở châu Âu vào thế kỷ XIX nhằm phục vụ cho nghiên cứu và phân tích y khoa. Phải đến đầu thế kỷ XX khi các nghệ sỹ tiên phong phương Tây quay lưng lại với giá trị mỹ học truyền thống của nghệ thuật hàn lâm cổ điển, tìm kiếm những phương thức biểu hiện mới những bộ sưu tập này mới được chú ý dưới góc độ nghệ thuật. Tiên phong trong việc nghiên cứu những bộ sưu tập sáng tác của bệnh nhân dưới góc độ nghệ thuật là bác sỹ tâm lý người Thụy Sỹ Walter Morgenthaler, với những phân tích về Adolf Wölfli – một bệnh nhân tâm thần được xem là nghệ sỹ đầu tiên của Outsider Art. Tác phẩm của Adolf Wölfli cuốn hút đến từng chi tiết Từ những năm 1940 Jean Dubuffet (1901 – 1985, họa sỹ, điêu khắc gia người Pháp) đã nỗ lực sưu tầm các tác phẩm của những người tự học, bệnh nhân tâm thần, kẻ nghiện rượu, tù nhân và chỉ ra giá trị thẩm mỹ nội tại của chúng, và cho ra đời thuật ngữ Art Brut . Trong tiếng Pháp “Brut” có nghĩa “sống”, “mộc”, “thô”, “nguyên” . Từ đó Art Brut mang nghĩa “nghệ thuật thô”, “nghệ thuật sống” hay “nghệ thuật nguyên” , chỉ sự sáng tạo theo hình thức trực tiếp, tạo lập hình ảnh từ trí óc lên trang giấy, hay tấm toan và được Dubuffet ví như nguyên liệu chưa qua quá trình chế biến, vẫn giữ được sự tươi nguyên. Những tác phẩm được Dubuffet xếp vào thể loại Art Brut đều là sự sáng tạo vô thức dựa trên cảm hứng từ thế giới tinh thần, không dựa trên truyền thống hoặc kỹ thuật. Nó không theo phong cách hay xu hướng nghệ thuật nào mà là sự tự phát và thậm chí không được thực hiện với mục đích làm “nghệ thuật.” Art Brut là những sáng tạo thuần khiết, ra đời từ sự cô đơn, từ thúc đẩy của thế giới vô thức, nơi không bị can thiệp bởi những lo lắng về sự ca ngợi, hay những tung hô xã giao thường thấy trong các cuộc thi. Theo Dubuffet, sự thật còn quý giá hơn sản phẩm của những chuyên gia còn dòng nghệ thuật chính thống của các bảo tàng, học viện đã mất đi sức mạnh và nguồn nghệ thuật tinh khiết từ sự thật. “Arab Palm trees” – một tác phẩm outsider art của Jean Dubuffet Không chỉ dừng lại ở hội họa, Dubuffet còn phát triển khái niệm của mình trong những tác phẩm điêu khắc không tưởng “Room of my dreams” – công trình đồ sộ đem lại sự tương tác thú vị của Dubuffet Kể từ sau sự khuấy đảo của Dubuffet, Châu Âu và Bắc Mỹ trở thành nơi tập trung nghiên cứu về Outsider Art. Công việc này không chỉ được thúc đẩy bởi những người nghiên cứu nghệ thuật mà còn cả các giám tuyển và nhà buôn tranh. Outsider Art ngày càng được các nhà sưu tập hiện đại đánh giá cao, thậm chí còn được treo trong bảo tàng chính thống. Năm 2008, Đại học Sydney thành lập trung tâm Self-Taught and Outsider Art Research Collection (STOARC). Cho đên nay đây là trung tâm quốc tế duy nhất phục vụ việc nghiên cứu nghệ thuật bên ngoài dòng chính thống. Những nghệ sỹ đầu tiên của Outsider art đều là những người có những trải nghiệm bất thường trong cuộc sống hoặc trạng thái cùng cực về tinh thần như người tâm thần, người khuyết tật, hay tù nhân song có tiềm năng về sáng tạo nghệ thuật. Họ đến với hội họa và điêu khắc vì những thôi thúc mãnh liệt chứ không vì mong muốn được công nhận. Nghệ thuật của họ là sự biểu hiện những ham muốn ẩn và mâu thuẫn bên trong nội tại. Nó không hướng ngoại mà hướng nội. Nó xuất hiện từ trí tưởng tượng và những ẩn ức của bệnh nhân tâm thần hay người điên, phá vỡ những nỗ lực có ý thức và bác bỏ quan niệm bất di bất dịch hay sự chủ định về nghệ thuật. Có thể ví những tác phẩm thuộc thể loại này như một chuyến đi thám hiểm vào thế giới nội tâm. Tính tự phát, những ý tưởng và cách biểu hiện khác thường đến tự sự nhạy cảm đặc biệt với thế giới xung quanh, những thôi thúc được giao tiếp, cảm xúc và phản ứng đã tạo nên vẻ đẹp và sức cuốn hút không thể cưỡng lại của Outsider art. Một minh họa của Henry Darger (1892 – 1973) cho câu chuyện thần thoại về bảy chị em Vivian do chính ông sáng tác. Darger là một trong những nghệ sỹ bên ngoài dòng chính thống quan trọng nhất của thế kỷ XX. Mặc dù là một bệnh nhân tâm thần và chưa một lần bước chân vào bảo tàng những minh họa của Henry Darger lột tả những gì đặc sắc nhất của Outsider art, với mối liên hệ mật thiết với văn hóa đại chúng khi Darger lấy cảm hứng cho câu chuyện từ những sự kiện và hình ảnh của các báo và tạp chí. Công trình vườn đá rộng tới mười tám mẫu ở thành phố Chandigarh, Ấn Độ của nghệ sỹ tự học Nek Chan với những chi tiết điêu khắc từ đá độc đáo Bên cạnh những sáng tạo vượt qua mọi giới hạn nghệ thuật thông thường với đá và xi măng, Nek Chan còn khiến dự án của mình trở thành một trong những chương trình tái chế phế thải lớn nhất thế giới với một lượng lớn động vật và búp bê từ vải và quần áo cũ Không chỉ với các chất liệu từ phế thải đô thị, Nek Chan còn đã tạo ra những tác phẩm điêu khắc từ rễ của cây Các nghệ sỹ tiên phong của chủ nghĩa nghệ thuật hiện đại như Ernst Ludwig Kirchner, Oskar Schlemmer, Alfred Kubin, André Breton, Paul Klee, Max Ernst và Pablo Picasso đều từng tham khảo bộ sưu tập tranh của bệnh viện tâm thần Heidelberg. Các motif từ di sản nghệ thuật nguyên thủy, tính hồn nhiên trong tranh vẽ của trẻ em, cảnh tượng kỳ lạ chỉ gặp trong giấc mơ và thế giới vô thức… những chủ đề chính của nghệ thuật tạo hình đầu thế kỷ XX chịu sự ảnh hưởng nhất định từ những tác phẩm thuở sơ khai của Outsider Art. Cùng với sự tác động mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện đại đến nghệ thuật thế giới, Outsider art không chỉ giới hạn trong những tác phẩm không chuyên của các nghệ sỹ tự học mà đã trở thành nguồn cảm hứng mới về cách biểu đạt cho nhiều nghệ sỹ chuyên nghiệp “Insider”. Nhiều ý kiến bảo thủ lý giải cho hiện tượng này khẳng định rằng, những nghệ sỹ của dòng nghệ thuật chính thống không phải thấy hứng thú với nghệ thuật từ sự điên loạn, hoang tưởng mà chính những trạng thái hoang đường mới là điểm mà họ muốn khai thác. Một tác phẩm Outsider art với nghệ thuật chần vải quilting và vẽ màu acrylic Sự kết hợp của len, cói và màu acrylic trong một tác phẩm trưng bày hiện đại mang đậm dấu ấn Outsider art Outsider art trong nhiếp ảnh Cho đến nay, Outsider art được coi là một trong những yếu tố làm nên chủ nghĩa hậu hiện đại bên cạnh những khái niệm mới như: Anti art (Phản nghệ thuật), trào lưu nghệ thuật Pop art, nghệ thuật hậu tối giản Postminimalism art,….. Sau đây, mời các bạn chiêm ngưỡng một số tác phẩm và ứng dụng của Outsider art hiện đại Một tác phẩm Outsider art sử dụng kỹ thuật tạo hình collage Một số tác phẩm được trưng bày trong triển lãm Outsider art tại New York Họa tiết trang trí mang đậm dấu ấn của Outsider art Outsider art trong kiến trúc và nghệ thuật sắp đặt đầy phá cách Biệt thự Hằng Nga ở Đà Lạt thường được biết đến với biệt danh “Crazy House” – nổi tiếng với kiến trúc độc đáo, với ý tưởng Outsider art được thể hiện đậm nét Bất chấp những ý kiến trái chiều về vị trí của Outsider art trong hệ thống nghệ thuật chính quy, hình thức thể hiện nghệ thuật đầy nội tâm này đã đang góp một phần rất lớn vào dòng chảy của nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại, nơi những ẩn dụ và mực thước hàn lâm nhường chỗ cho một cách biểu hiện “chân thực hơn và nhân bản hơn”, thô sơ và mãnh liệt – vang vọng khẩn thiết trong tâm hồn người nghệ sỹ.
Du khách tấp nập du xuân trên đỉnh Bà Nà Không gian rực rỡ sắc hoa cùng những màn trình diễn độc đáo, mãn nhãn đã thu hút đông đảo du khách đến du xuân Bà Nà Hills ngay từ những ngày đầu tiên của Tết Tân Sửu. Ngay từ khi đặt chân đến Cổng thành, du khách sẽ thấy cả mùa xuân rộn ràng trước mắt. Một sóng hoa vàng rực rỡ trải dài được tạo hình từ hoa Hướng dương, hình ảnh vầng dương bừng sáng được kết từ hoa bất tử cùng tiểu cảnh “Sửu họa” – đôi trâu hẹn hò như lời mời gọi khám phá Bà Nà vô cùng hiếu khách. Tết năm nay thời tiết ấm áp, khô ráo nên rất lý tưởng cho những chuyến du xuân. Từ những ngày mùng 1, mùng 2 Tết Tân Sửu, khu du lịch trên đỉnh Bà Nà đã thu hút đông đảo du khách đến du xuân, vui chơi thưởng ngoạn. Các biện pháp phòng dịch vẫn được triển khai nghiêm ngặt trên toàn khu du lịch. Với chủ đề “Ước hẹn mùa xuân”, hội xuân Bà Nà năm nay ngợp ngời sắc hoa đào chuông , hoa hướng dương, hoa tulip, hoa hồng…. – những loài hoa biểu tượng cho Hy vọng, Gia đình và Tình yêu trong năm mới. Khu vực vườn Nho trở thành background đầy ấn tượng cho du khách check in với đại cảnh những bông hoa tulip khổng lồ cùng thảm hoa tulip rực rỡ sắc màu và căng tràn nhựa sống. Bước tới Vườn Uyên ương, du khách thỏa sức chiêm ngưỡng và “thử dáng” với năm khung váy khổng lồ được kết từ những giỏ hoa tươi đủ loại. Du khách thích thú chụp ảnh cùng các nghệ sĩ với background là là đại cảnh gia đình mặt trời rạng rỡ tại khu vực đài phun nước gợi nhắc về năm mới tươi sáng, đầy ước vọng. Tuy nhiên, hấp dẫn nhất là câu chuyện tình lãng mạn giữa nàng hoa Đào chuông kiêu sa – loài hoa của núi rừng Bà Nà và chàng Hoàng tử của vương quốc Ánh dương, được thể hiện đầy cuốn hút thông qua những show nghệ thuật đặc sắc “Ước hẹn mùa xuân” do các nghệ sỹ châu Âu trình diễn. Hai show diễn mỗi ngày vào lúc 11h và 13h (trừ thứ 3) tại quảng trường Du Dôme, sự kết hợp tài tình giữa các loại hình nghệ thuật đã khiến không khí Tết tại Bà Nà trở nên sôi động lạ thường. Câu chuyện kể bằng hình thể, bằng vũ điệu và âm nhạc độc đáo bậc nhất từ trước đến nay ở Vương quốc Ánh Dương Bà Nà Hills đã khiến du khách mê mẩn. “Khung cảnh Tết tại Bà Nà được bài trí rất công phu và đẹp mắt. Tôi ấn tượng nhất là những show diễn nghệ thuật Ước hẹn mùa xuân ở Bà Nà, rất đáng yêu và hấp dẫn. Đặc biệt là Bà Nà có các biện pháp phòng chống dịch rất quyết liệt nên tôi rất an tâm ”- chị Thanh Nga ( Quảng Nam ) chia sẻ. Ngoài show diễn chính “Ước hẹn mùa xuân”, du khách được hòa mình vào không khí tưng bừng đầy phấn khích với show nghệ thuật trượt patin điêu luyện của các nghệ sỹ, vào lúc 11h30 và 14h hàng ngày, cũng tại Quảng trường Du Dôme cùng những minishow mùa xuân đặc sắc và diễu hành không ngừng diễn ra khắp khu du lịch. Hoa Đào chuông- loài hoa biểu tượng của vùng núi Chúa cũng đem đến cho du khách những trải nghiệm thú vị trong dịp Tết tại Trú vũ trà quán, nơi hội tụ nhiều gốc đào chuông nhất ở Bà Nà. Du khách sẽ được thưởng hoa, nghe kể chuyện đào chuông quý hiếm được Bà Nà nâng niu và bảo tồn ra sao, đồng thời được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc đẹp nhất của hoa đào chuông thông qua một “triển lãm ảnh” mini về hoa đào chuông diễn ra tại đây. Hành trình du xuân trên đỉnh Bà Nà càng hấp dẫn hơn khi khu du lịch đang áp dụng chương trình ưu đãi “Combo Mùa Xuân”, giảm 15% giá khi mua vé cáp treo kèm buffet trưa. Cụ thể, áp dụng mức giá 850.000 đồng/người lớn và 650.000 đồng/trẻ em. Riêng với du khách người Đà Nẵng, mức giá sẽ chỉ còn 550.000 đồng/người lớn và 450.000 đồng/trẻ em. “Bằng niềm tin, tình yêu và tấm lòng biết ơn với du khách đã yêu mến lựa chọn Bà Nà là điểm đến trong nhiều năm qua, chúng tôi quyết tâm vượt khó khăn, tổ chức chương trình Tết Tân Sửu “Ước hẹn mùa xuân” 2021 với rất nhiều hoạt động, mô hình trang trí đặc biệt. Mong rằng, khi được dạo bước giữa Châu Âu thu nhỏ của Đà Nẵng, những lo âu về dịch bệnh, thiên tai thời gian qua sẽ được thay bằng niềm tin, sự hân hoan và hy vọng vào một năm mới bình yên, hạnh phúc, khi du khách tới Lễ hội mùa xuân năm nay tại Bà Nà”, ông Nguyễn Lâm An – Giám đốc Khu du lịch Sun World Ba Na Hills chia sẻ đầy tâm huyết về Lễ hội năm nay. Gom cả vườn hoa xuân về đỉnh cao 1487m, liên tục thắp sáng niềm tin vào tương lai tươi sáng, qua những show nghệ thuật sống động, Sun World Ba Na Hills kỳ vọng chương trình Tết “Ước hẹn mùa xuân” sẽ mang đến cho du khách một hành trình du xuân giàu trải nghiệm và xúc cảm, để khởi đầu một năm mới tràn đầy hứng khởi và hi vọng.
Tourists are busy enjoying spring on Ba Na peak The colorful flower space and unique, eye-catching performances have attracted a large number of tourists to Ba Na Hills spring travel right from the first days of the Tan Suu Tet. From the moment you set foot at the City Gate, visitors will see the bustling spring before their eyes. A wave of bright yellow flowers stretching out is shaped from Sunflowers, the image of a glowing sun is made from immortal flowers and the miniature scene "Suu Hoa" - a pair of buffaloes on a date as an invitation to explore Ba Na infinitely. hospitable. This year's Tet weather is warm and dry, so it is ideal for spring trips. From the 1st and 2nd days of Tan Suu Tet, the tourist area is at the top Ba Na has attracted a large number of tourists to visit, have fun and enjoy. Epidemic prevention measures are still strictly implemented throughout the tourist area. With the theme "Spring Promise", this year's Ba Na Spring Festival is overwhelmingly colorful bell peach blossom , sunflowers, tulips, roses…. – flowers that symbolize Hope, Family and Love in the new year. The vineyard area becomes an impressive background for visitors to check in with a grand view of giant tulips and a carpet of colorful tulips full of life. Stepping into the Wedding Garden, visitors can freely admire and "try on their looks" with five giant dress frames made from baskets of all kinds of fresh flowers. Tourists enjoy taking photos with the artists with the background being a family scene of radiant sun in the fountain area, reminding of a bright, hopeful new year. However, the most attractive is the romantic love story between the beautiful Dao bell flower - the flower of Ba Na mountains and forests and the Prince of the Sunshine Kingdom, shown captivatingly through special art shows. "Spring Promise" performed by European artists. Two shows every day at 11:00 a.m. and 1:00 p.m. (except Tuesday) at Du Dôme square, the ingenious combination of art forms has made the Tet atmosphere in Ba Na become unusually vibrant. The most unique story told through form, dance and music ever in the Sunshine Kingdom of Ba Na Hills has captivated visitors. “The Tet scene in Ba Na is decorated very elaborately and beautifully. What impressed me most were the Spring Promise art shows in Ba Na, very lovely and attractive. Especially Ba Na has very drastic epidemic prevention measures, so I feel very secure" - Ms. Thanh Nga ( Quang Nam ) share. In addition to the main show "Spring Promise", visitors can immerse themselves in a jubilant and exciting atmosphere with skillful roller skating art shows by artists, at 11:30 and 2:00 p.m. every day, also at Du Square. Dôme with special spring minishows and parades constantly takes place throughout the tourist area. Dao bell flower - the symbolic flower of the Chua mountain region also gives visitors interesting experiences during Tet at Tru Vu tea shop, where the most bell peach trees converge in Ba Na. Visitors will be rewarded with flowers, hear stories about how rare bell peaches are cherished and preserved by Ba Na, and admire the most beautiful moments of peach bell flowers through a mini "photo exhibition" about flowers. bell digging takes place here. The spring trip to Ba Na peak is even more attractive when the resort is applying the "Spring Combo" promotion, 15% off when buying cable car tickets with lunch buffet. Specifically, the price is 850,000 VND/adult and 650,000 VND/child. As for Da Nang tourists, the price will be only 550,000 VND/adult and 450,000 VND/child. “With faith, love and gratitude to the tourists who have chosen Ba Na as their destination for many years, we are determined to overcome difficulties and organize the Tan Suu Tet program "Spring Promise". ” 2021 with many activities and special decorative models. Hopefully, when walking in the miniature Europe of Da Nang, worries about epidemics and natural disasters over the past time will be replaced by faith, joy and hope for a peaceful and happy new year. , when tourists come to this year's Spring Festival in Ba Na", Mr. Nguyen Lam An - Director of the tourist area Sun World Ba Na Hills Share enthusiastically about this year's Festival. Gathering the entire spring flower garden to the 1487m peak, continuously lighting up faith in a bright future, through lively art shows, Sun World Ba Na Hills hopes that the Tet program "Spring Promise" will bring Travelers will have a spring trip rich in experiences and emotions, to start a new year full of excitement and hope.
Ngẩn ngơ chiêm ngưỡng loài hoa đào chuông quý hiếm trên đỉnh Bà Nà Chỉ nở vào mùa xuân, cũng chỉ Bà Nà ( Đà Nẵng ) và số rất ít nơi có thổ nhưỡng phù hợp với giống hoa có hình dáng như chiếc chuông nhỏ úp ngược, hoa đào chuông khiến ai từng ngắm một lần là cứ muốn trở lại Bà Nà mỗi độ xuân về Tết đến. Mỗi độ xuân về, giữa thiên đường muôn sắc hoa bung nở diệu kỳ trên đỉnh Bà Nà của Đà Nẵng, lại thấy nhiều du khách mê mải đưa máy ảnh zoom thật gần vào những chùm hoa nhỏ xinh, chúm chím rung rinh trong cái se lạnh đặc trưng của vùng núi Chúa. Hoa đào chuông có sức mê hoặc ghê gớm, bởi người biết đến đào chuông thể nào cũng sẽ trở lại Bà Nà mỗi độ xuân về, để được ngắm cho thật gần, thật kỹ, thật lâu những chùm hoa thắm sắc hồng đào trên thân cành khô khốc. Đào chuông là loài hoa quý hiếm, được xếp vào sách đỏ với số lượng ít và cần được bảo tồn. Trên thế giới, đào chuông xuất hiện từ những năm đầu của thập kỷ 70, chỉ còn mọc rải rác ở nước Úc và Trung Quốc. Tại Việt Nam, đào chuông sinh trưởng ở khu vực miền núi Trung Bộ có độ cao từ 1400m như Bạch Mã và Núi Chúa Bà Nà. Vùng núi phía Bắc cũng chỉ khu vực núi Mẫu Sơn (Lạng Sơn) là có loại hoa này. Theo quan niệm phong thủy, đào chuông có thể trị bách quỷ, là biểu tượng cho sự đổi mới, may mắn và tài lộc. Thế nên, nhiều người muốn nhân trồng giống đào chuông để trưng Tết ở đồng bằng nhưng điều kiện thổ nhưỡng không thuận lợi, đào chuông không dễ sinh trưởng. Riêng ở Bà Nà, những người làm du lịch nơi đây đã kỳ công nghiên cứu và nhân giống thành công 500 gốc đào chuông, đưa loài hoa này trở thành biểu tượng của “Công viên chủ đề hàng đầu Châu Á”. Đây cũng là một thành công hiếm có. “ Hoa đào chuông là món quà đặc biệt mà thiên nhiên đã ban tặng cho Sun World Ba Na Hills. Vì vậy, chúng tôi rất chú trọng đến công tác chăm sóc và nhân giống đào chuông để mỗi dịp xuân về, du khách đến Bà Nà lại có được đặc quyền chiêm ngưỡng loài hoa quý hiếm được xem như biểu tượng của khu du lịch hàng đầu Việt Nam ”, ông Nguyễn Lâm An- Giám đốc khu du lịch Sun World Ba Na Hills chia sẻ. Từ tháng 1 đến tháng 3 là thời điểm đào chuông bung nở sung mãn, rực rỡ nhất trên đỉnh Bà Nà, trong không gian Làng Pháp, khu vườn Le Jardin D’Amour, và đặc biệt hoa tập trung nhiều nhất tại khu vực đền Lĩnh Chúa Linh Từ (hay Bà Chúa Thượng Ngàn), Linh Phong Tự hay Trú Vũ Đài… Hoa quý hiếm, nên du khách cũng vì thế mà coi việc tới Bà Nà để ngắm hoa là một thú chơi tao nhã mỗi độ xuân về. Chị Diệp Anh đến từ Hà Nội cho biết: “ Năm nào tôi cũng đến Bà Nà dịp đầu năm, chỉ để ngắm đào chuông . Có lên đây ngắm hoa mới thấy người “cuồng hoa đào chuông” như mình không hiếm. Cái thú ngắm hoa chúm chím nở lúc ướt sương mai hay khi những con chim hút mật vấn vít quanh chùm hoa nhỏ ấy, hay lắm, khó tả lắm”. Bà Nà năm nay, ngoài mùa hoa đào chuông thanh tao, cũng rộn ràng một lễ hội mùa xuân với muôn sắc tulip, hướng dương rực rỡ cùng những show nghệ thuật độc đáo vốn đã làm nên bản sắc của khu du lịch suốt bao năm qua. Bởi thế nên, với nhiều du khách, Bà Nà Hills đã từ lâu là điểm hẹn du xuân phải đến mỗi dịp Tết về.
Marvel at the rare peach blossoms on the top of Ba Na Only blooms in spring, also only Ba Na ( Danang ) and very few places have soil suitable for flowers shaped like small upside-down bells, peach bell flowers make anyone who has seen them once want to return to Ba Na every spring and Tet. Every spring, in the middle of paradise, colorful flowers bloom magically on the top Ba Na of Da Nang, we see many tourists engrossed in bringing their cameras to zoom in close to the beautiful little flower clusters, fluttering in the typical cold of the Chua mountain region. Peach blossoms are extremely enchanting, because people who know peach blossoms will definitely return to Ba Na every spring to see closely, closely, and for a long time the peach-colored flower clusters on their stems. dry branches. Peach bell is a rare flower, listed in the Red Book with small numbers and needs to be preserved. In the world, bell peaches appeared in the early 70s, only growing sporadically in Australia and China. In Vietnam, peach bell grows in the Central mountainous region with altitudes from 1400m such as Bach Ma and Ba Na Chua Mountain. In the Northern mountains, only the Mau Son mountain area (Lang Son) has this type of flower. According to feng shui concepts, peach bells can cure hundreds of demons and are a symbol of innovation, luck and fortune. Therefore, many people want to propagate peach bell varieties to display for Tet in the plains, but the soil conditions are not favorable, and bell peaches do not grow easily. Particularly in Ba Na, tourism workers here have diligently researched and successfully propagated 500 bell peach trees, making this flower the symbol of "Asia's leading theme park". This is also a rare success. “ Peach blossoms are a special gift that nature has given to Sun World Ba Na Hills. Therefore, we pay great attention to the care and propagation of bell peaches so that every spring, visitors to Ba Na can have the privilege of admiring the rare flower considered a symbol of the top tourist area. early Vietnam ”, Mr. Nguyen Lam An - Director of the tourist area Sun World Ba Na Hills share. From January to March is the time when bell peaches bloom most abundantly and brilliantly on Ba Na peak, in the French Village space, Le Jardin D'Amour garden, and especially the flowers are most concentrated in the temple area. Linh Chua Linh Tu (or Lady Thuong Ngan), Linh Phong Tu or Tru Vu Dai... Flowers are rare, so tourists also consider going to Ba Na to see flowers as an elegant hobby every spring. Ms. Diep Anh from Hanoi said: “ Every year I go to Ba Na at the beginning of the year, just to see the bell peaches . When I come here to look at the flowers, I see that people like me are not rare. The pleasure of watching the plum blossoms bloom when wet with morning dew or when the sunbirds hang around those small bunches of flowers, is so wonderful, it's hard to describe." This year, Ba Na, in addition to the elegant peach blossom season, is also bustling with a spring festival with colorful tulips, sunflowers and unique art shows that have created the identity of the tourist area for many years. via. Therefore, for many tourists, Ba Na Hills has long been a must-visit spring destination every Tet holiday.
V Live – Làm thế nào để sống hứng khởi mỗi ngày? Ngày 6/12/2020 tại Hà Nội , Công ty Wise Corridor Việt Nam đã họp báo giới thiệu phương pháp đơn giản mà hiệu quả giúp cho con người tràn đầy năng lượng, vui vẻ, sống hứng khởi, làm việc mê say. Đó là phương pháp chăm sóc sức khỏe hàng ngày bằng V Live. Lương y Đỗ Tuấn Nam – Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng y học cổ truyền thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam Buổi họp báo có sự có mặt của những chuyên gia dinh dưỡng, sức khỏe uy tín của Việt Nam, cùng những nhân vật trong ngành dược, kinh doanh từng trải nghiệm với phương pháp V Live. Họ là: Phó giáo sư – Tiến sỹ Trần Anh Vũ – giảng viên cao cấp đại học Y Dược Tp.HCM, Lương y Đỗ Tuấn Nam – Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng y học cổ truyền thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Doanh nhân Đỗ Thị Thanh Hương – Nhà đồng sáng lập VLive, Dược sỹ Đoàn Diệp Hà – Giám đốc điều hành Lani Clinic. Dược sỹ Đoàn Diệp Hà – Giám đốc điều hành Lani Clinic Công ty Wise Corridor Việt Nam mang một sứ mệnh ý nghĩa, đó là giúp mang lại sức khỏe vững bền cho người dân Việt Nam, qua những tinh chất thiên nhiên quý giá được chọn lọc bởi đội ngũ nhà nghiên cứu, chuyên gia dinh dưỡng, sức khỏe và được chiết xuất bởi quy trình công nghệ tiên tiến nhất. Qua quá trình tìm hiểu sâu sắc, Wise Corridor Việt Nam đã tìm ra một thức uống bổ sung kỳ diệu, không chỉ giúp con người khỏe mạnh, mà còn có thể đảo ngược quá trình lão hóa, khiến chúng ta trở nên trẻ trung hơn so với tuổi thực, và luôn tràn đầy năng lượng, sống hứng khởi mỗi ngày. Đó là thực phẩm chức năng V Live có nguồn gốc từ nước Đức, được sản xuất tại Malaysia. Sản phẩm V Live ra đời bởi tiêu chí “chặn đầu bệnh tật” – một giải pháp bảo vệ sức khỏe thông thái. V Live là dòng sản phẩm dẫn đầu trong ngành chăm sóc sức khỏe V Live là dòng sản phẩm dẫn đầu trong ngành chăm sóc sức khỏe. Kết quả kỳ diệu đó có được là nhờ đội ngũ nhà nghiên cứu của Đức đã cống hiến nhiều năm tìm tòi, làm việc với lòng đam mê, và với niềm tin mãnh liệt rằng, họ có thể cho ra đời dòng sản phẩm thân thiện với cơ thể và hệ sinh lý nội tại của con người, giúp con người cải thiện sức khỏe toàn diện trong thời gian ngắn nhất, và lan tỏa giải pháp điều chỉnh sức khỏe từ Gốc đến cộng đồng bằng cả trái tim. Sở dĩ sản phẩm V Live có thể nhanh chóng giúp chúng ta cải thiện sức khỏe, là nhờ khả năng khắc phục, chế ngự bệnh tật và sự hư tổn của tế bào. Từ đó, nguồn năng lượng được chuyển hóa thành sinh lực, giúp chúng ta vui vẻ, phấn chấn tham gia các hoạt động đầy hiệu quả. Với nguyên liệu an toàn thuần thiên nhiên được chiết xuất từ công nghệ tiên tiến của Đức, các sản phẩm của V Live cung cấp oxy cho tế bào trong khoảng 7 phút, tạo đường dẫn để đưa 160 dưỡng chất cần thiết cho tế bào giúp đào thải, nuôi dưỡng, cải thiện và tái tạo tế bào mới. Đây là một giải pháp sức khỏe toàn diện giúp người dùng nâng cao thể trạng, đặc biệt với người có bệnh, sản phẩm giúp hỗ trợ điều trị bệnh tận gốc trong dòng sản phẩm sức khỏe cho tế bào. V Live hiện có 3 loại sản phẩm chính, bao gồm: V Oxy + giúp khai thông mạch máu, đào thải tạp chất, độc tố, mở đường đưa các dưỡng chất cần thiết vào nhanh hơn, giúp cơ thể có khả năng hấp thụ tốt nhất. Hơn nữa, V Oxy + cung cấp cho cơ thể lượng ô xi rất lớn làm cho các tế bào ung thư, u nang vốn dĩ chỉ sống được trong môi trường hiếm khí, không thể tồn tại được. V-Neral giàu khoáng chất vi lượng, collagen thủy phân và lutein, có thể bổ sung hiệu quả các khoáng chất trong cơ thể, 17 loại axit amin của collagen bảo vệ một cách hiệu quả mắt và duy trì sức khỏe của não. Theo Hội đồng Tư vấn Nghiên cứu Quốc gia của USDA, khoáng chất có thể được chia thành các vĩ khoáng (macro minerals) hay khoáng chất đa lượng và vi khoáng (microminerals) hay khoáng chất vi lượng. Khoáng chất có liên quan đến hoạt động enzyme của cơ thể, cân bằng dung dịch năng lượng và cung cấp các phản ứng sinh hóa khác, trong đó phục vụ như là một vai trò chất xúc tác quan trọng, khi cơ thể người thiếu khoáng chất sẽ làm chậm phát triển hoặc các chức năng bình thường sẽ bị phá vỡ, cuối cùng sẽ gây đột biến gen, rối loạn chức năng miễn dịch và nội tiết, tổn thương da, tạo ra khối u và tế bào ung thư, gia tăng triệu chứng lão hóa của cơ thể. V-Neral chính là sản phẩm bao gồm đầy đủ nhất những khoáng chất mà cơ thể con người cần. V-Trition: Cơ thể chúng ta là một cỗ máy lớn và phức tạp. Mỗi hệ thống cơ quan trong cơ thể có liên quan đến các hệ thống cơ quan khác. Một người được coi là khỏe mạnh, khi tất cả các cơ quan hệ thống đều ở trạng thái tốt. Dạ dày chịu trách nhiệm tiêu hóa thức ăn đưa vào cơ thể, và hấp thu chất dinh dưỡng; nếu dạ dày không tốt, hấp thu yếu, thậm chí thực phẩm có tốt đến đâu cũng không thể có được kết quả tốt. Vì vậy, khi chúng ta ăn, chúng ta cần phải suy nghĩ về một vấn đề: tôi ăn vào thức ăn có thể tiêu hóa tốt và hấp thu tốt không? Nếu chúng ta không thể tiêu hóa và hấp thu tốt, thì cơ thể chúng ta không thể có được một chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân bằng, và do đó tạo ra rất nhiều vấn đề cho sức khỏe. Sản phẩm V-Trition giúp tăng cường chức năng tiêu hóa và hấp thu của dạ dày chúng ta, và do đó, nó có thể cải thiện trí nhớ và khả năng tư duy, chống lão hóa cơ thể, cũng như làm tăng tổng lượng collagen, làm đẹp da, loại bỏ các đốm trên da. Như chúng ta đều biết, các chức năng sinh lý cơ bản của hệ thống tiêu hóa là sự hấp thu, vận chuyển, tiêu hóa thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng, bài tiết chất thải, việc hoàn thành chức năng sinh lý phụ thuộc vào việc toàn bộ hoạt động sinh lý phối hợp đường tiêu hóa. Việc tiêu hóa và hấp thu thức ăn, những chất và năng lượng cần thiết cho cơ thể, ngoài việc ăn các chất dinh dưỡng như vitamin, muối vô cơ và nước có thể được hấp thu trực tiếp, thì các chất như protein, chất béo và carbohydrate và các chất khác không thể hấp thu trực tiếp vào cơ thể, cần phải được phân giải trong đường tiêu hóa với các phân tử nhỏ có cấu trúc đơn giản, mới có thể hấp thu. Thực phẩm khi vào đường tiêu hóa được chia thành các cấu trúc đơn giản, quá trình các phân tử nhỏ được được hấp thu ở đường tiêu hóa được gọi là quá trình tiêu hóa. Phân tử nhỏ như vậy thông qua chất hồ tiết dịch để phân giải sau đó vào máu và bạch huyết được gọi là hấp thu. Đối với phần dư lượng chưa được hấp thu, sẽ được chuyển thành phân thông qua ruột già bài tiết ra ngoài. Do đó, V-Trition khi bổ sung sẽ giúp cho cơ thể chúng ta hấp thu được đầy đủ những dinh dưỡng mà chúng ta ăn vào hàng ngày, không để cơ thể bị suy dinh dưỡng và phát sinh bệnh tật. Trong Lễ trao Giải thưởng “Sản phẩm vàng vì sức khỏe cộng đồng” năm 2020, thương hiệu V Live International đã vinh dự đạt được Huy chương Vàng do Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam trao tặng. V Live International nhận giải thưởng được bình chọn từ hàng trăm sản phẩm tham gia xét giải từ các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tại Việt Nam. Việc xét giải được dựa trên 4 tiêu chí về an toàn, chất lượng và hiệu quả sản phẩm; tiêu chuẩn cao trong sản xuất kinh doanh và những đóng ý nghĩa cho xã hội và cộng đồng. Ngoài ra, các sản phẩm của công ty đã có chứng nhận GMP, tiêu chuẩn ISO 9001, chứng nhận của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) của Hoa Kỳ hay chứng nhận Halal của Đạo Hồi…
V Live – Làm thế nào để sống hứng khởi mỗi ngày? Ngày 6/12/2020 tại Hà Nội , Công ty Wise Corridor Việt Nam đã họp báo giới thiệu phương pháp đơn giản mà hiệu quả giúp cho con người tràn đầy năng lượng, vui vẻ, sống hứng khởi, làm việc mê say. Đó là phương pháp chăm sóc sức khỏe hàng ngày bằng V Live. Lương y Đỗ Tuấn Nam – Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng y học cổ truyền thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam Buổi họp báo có sự có mặt của những chuyên gia dinh dưỡng, sức khỏe uy tín của Việt Nam, cùng những nhân vật trong ngành dược, kinh doanh từng trải nghiệm với phương pháp V Live. Họ là: Phó giáo sư – Tiến sỹ Trần Anh Vũ – giảng viên cao cấp đại học Y Dược Tp.HCM, Lương y Đỗ Tuấn Nam – Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng y học cổ truyền thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Doanh nhân Đỗ Thị Thanh Hương – Nhà đồng sáng lập VLive, Dược sỹ Đoàn Diệp Hà – Giám đốc điều hành Lani Clinic. Dược sỹ Đoàn Diệp Hà – Giám đốc điều hành Lani Clinic Công ty Wise Corridor Việt Nam mang một sứ mệnh ý nghĩa, đó là giúp mang lại sức khỏe vững bền cho người dân Việt Nam, qua những tinh chất thiên nhiên quý giá được chọn lọc bởi đội ngũ nhà nghiên cứu, chuyên gia dinh dưỡng, sức khỏe và được chiết xuất bởi quy trình công nghệ tiên tiến nhất. Qua quá trình tìm hiểu sâu sắc, Wise Corridor Việt Nam đã tìm ra một thức uống bổ sung kỳ diệu, không chỉ giúp con người khỏe mạnh, mà còn có thể đảo ngược quá trình lão hóa, khiến chúng ta trở nên trẻ trung hơn so với tuổi thực, và luôn tràn đầy năng lượng, sống hứng khởi mỗi ngày. Đó là thực phẩm chức năng V Live có nguồn gốc từ nước Đức, được sản xuất tại Malaysia. Sản phẩm V Live ra đời bởi tiêu chí “chặn đầu bệnh tật” – một giải pháp bảo vệ sức khỏe thông thái. V Live là dòng sản phẩm dẫn đầu trong ngành chăm sóc sức khỏe V Live là dòng sản phẩm dẫn đầu trong ngành chăm sóc sức khỏe. Kết quả kỳ diệu đó có được là nhờ đội ngũ nhà nghiên cứu của Đức đã cống hiến nhiều năm tìm tòi, làm việc với lòng đam mê, và với niềm tin mãnh liệt rằng, họ có thể cho ra đời dòng sản phẩm thân thiện với cơ thể và hệ sinh lý nội tại của con người, giúp con người cải thiện sức khỏe toàn diện trong thời gian ngắn nhất, và lan tỏa giải pháp điều chỉnh sức khỏe từ Gốc đến cộng đồng bằng cả trái tim. Sở dĩ sản phẩm V Live có thể nhanh chóng giúp chúng ta cải thiện sức khỏe, là nhờ khả năng khắc phục, chế ngự bệnh tật và sự hư tổn của tế bào. Từ đó, nguồn năng lượng được chuyển hóa thành sinh lực, giúp chúng ta vui vẻ, phấn chấn tham gia các hoạt động đầy hiệu quả. Với nguyên liệu an toàn thuần thiên nhiên được chiết xuất từ công nghệ tiên tiến của Đức, các sản phẩm của V Live cung cấp oxy cho tế bào trong khoảng 7 phút, tạo đường dẫn để đưa 160 dưỡng chất cần thiết cho tế bào giúp đào thải, nuôi dưỡng, cải thiện và tái tạo tế bào mới. Đây là một giải pháp sức khỏe toàn diện giúp người dùng nâng cao thể trạng, đặc biệt với người có bệnh, sản phẩm giúp hỗ trợ điều trị bệnh tận gốc trong dòng sản phẩm sức khỏe cho tế bào. V Live hiện có 3 loại sản phẩm chính, bao gồm: V Oxy + giúp khai thông mạch máu, đào thải tạp chất, độc tố, mở đường đưa các dưỡng chất cần thiết vào nhanh hơn, giúp cơ thể có khả năng hấp thụ tốt nhất. Hơn nữa, V Oxy + cung cấp cho cơ thể lượng ô xi rất lớn làm cho các tế bào ung thư, u nang vốn dĩ chỉ sống được trong môi trường hiếm khí, không thể tồn tại được. V-Neral giàu khoáng chất vi lượng, collagen thủy phân và lutein, có thể bổ sung hiệu quả các khoáng chất trong cơ thể, 17 loại axit amin của collagen bảo vệ một cách hiệu quả mắt và duy trì sức khỏe của não. Theo Hội đồng Tư vấn Nghiên cứu Quốc gia của USDA, khoáng chất có thể được chia thành các vĩ khoáng (macro minerals) hay khoáng chất đa lượng và vi khoáng (microminerals) hay khoáng chất vi lượng. Khoáng chất có liên quan đến hoạt động enzyme của cơ thể, cân bằng dung dịch năng lượng và cung cấp các phản ứng sinh hóa khác, trong đó phục vụ như là một vai trò chất xúc tác quan trọng, khi cơ thể người thiếu khoáng chất sẽ làm chậm phát triển hoặc các chức năng bình thường sẽ bị phá vỡ, cuối cùng sẽ gây đột biến gen, rối loạn chức năng miễn dịch và nội tiết, tổn thương da, tạo ra khối u và tế bào ung thư, gia tăng triệu chứng lão hóa của cơ thể. V-Neral chính là sản phẩm bao gồm đầy đủ nhất những khoáng chất mà cơ thể con người cần. V-Trition: Cơ thể chúng ta là một cỗ máy lớn và phức tạp. Mỗi hệ thống cơ quan trong cơ thể có liên quan đến các hệ thống cơ quan khác. Một người được coi là khỏe mạnh, khi tất cả các cơ quan hệ thống đều ở trạng thái tốt. Dạ dày chịu trách nhiệm tiêu hóa thức ăn đưa vào cơ thể, và hấp thu chất dinh dưỡng; nếu dạ dày không tốt, hấp thu yếu, thậm chí thực phẩm có tốt đến đâu cũng không thể có được kết quả tốt. Vì vậy, khi chúng ta ăn, chúng ta cần phải suy nghĩ về một vấn đề: tôi ăn vào thức ăn có thể tiêu hóa tốt và hấp thu tốt không? Nếu chúng ta không thể tiêu hóa và hấp thu tốt, thì cơ thể chúng ta không thể có được một chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân bằng, và do đó tạo ra rất nhiều vấn đề cho sức khỏe. Sản phẩm V-Trition giúp tăng cường chức năng tiêu hóa và hấp thu của dạ dày chúng ta, và do đó, nó có thể cải thiện trí nhớ và khả năng tư duy, chống lão hóa cơ thể, cũng như làm tăng tổng lượng collagen, làm đẹp da, loại bỏ các đốm trên da. Như chúng ta đều biết, các chức năng sinh lý cơ bản của hệ thống tiêu hóa là sự hấp thu, vận chuyển, tiêu hóa thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng, bài tiết chất thải, việc hoàn thành chức năng sinh lý phụ thuộc vào việc toàn bộ hoạt động sinh lý phối hợp đường tiêu hóa. Việc tiêu hóa và hấp thu thức ăn, những chất và năng lượng cần thiết cho cơ thể, ngoài việc ăn các chất dinh dưỡng như vitamin, muối vô cơ và nước có thể được hấp thu trực tiếp, thì các chất như protein, chất béo và carbohydrate và các chất khác không thể hấp thu trực tiếp vào cơ thể, cần phải được phân giải trong đường tiêu hóa với các phân tử nhỏ có cấu trúc đơn giản, mới có thể hấp thu. Thực phẩm khi vào đường tiêu hóa được chia thành các cấu trúc đơn giản, quá trình các phân tử nhỏ được được hấp thu ở đường tiêu hóa được gọi là quá trình tiêu hóa. Phân tử nhỏ như vậy thông qua chất hồ tiết dịch để phân giải sau đó vào máu và bạch huyết được gọi là hấp thu. Đối với phần dư lượng chưa được hấp thu, sẽ được chuyển thành phân thông qua ruột già bài tiết ra ngoài. Do đó, V-Trition khi bổ sung sẽ giúp cho cơ thể chúng ta hấp thu được đầy đủ những dinh dưỡng mà chúng ta ăn vào hàng ngày, không để cơ thể bị suy dinh dưỡng và phát sinh bệnh tật. Trong Lễ trao Giải thưởng “Sản phẩm vàng vì sức khỏe cộng đồng” năm 2020, thương hiệu V Live International đã vinh dự đạt được Huy chương Vàng do Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam trao tặng. V Live International nhận giải thưởng được bình chọn từ hàng trăm sản phẩm tham gia xét giải từ các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tại Việt Nam. Việc xét giải được dựa trên 4 tiêu chí về an toàn, chất lượng và hiệu quả sản phẩm; tiêu chuẩn cao trong sản xuất kinh doanh và những đóng ý nghĩa cho xã hội và cộng đồng. Ngoài ra, các sản phẩm của công ty đã có chứng nhận GMP, tiêu chuẩn ISO 9001, chứng nhận của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) của Hoa Kỳ hay chứng nhận Halal của Đạo Hồi…
Thiện nguyện thiết thực: Câu chuyện “Con cá” và “Cần câu” Từ thiện là việc làm nhân đạo, tốt đẹp, điều đó ai cũng biết . Tuy nhiên, thời gian gần đây các công tác từ thiện lại khiến dư luận xôn xao với nhiều tranh cãi , và câu hỏi “Làm từ thiện như thế nào cho thiết thực?” khiến nhiều người suy nghĩ. Những ngày tháng 10/2020, khi Miền Trung chìm trong lũ lụt, công tác cứu trợ và cứu hộ đang được ráo riết thực thi, văn phòng Chính phủ đã có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về việc chấn chỉnh hoạt động tổ chức vận động, quyên góp tự nguyện hỗ trợ người dân vùng bị thiên tai. Để công tác vận động quyên góp và hỗ trợ đúng quy định và thiết thực, Thủ tướng yêu cầu Trung ương Hội Chữ thập đỏ và các bộ, ngành, địa phương tổ chức, giám sát việc vận động quyên góp hỗ trợ, bảo đảm theo đúng quy định tại Nghị định 64/2008/NĐ-CP. Trước văn bản chỉ đạo này, có nhiều người thắc mắc “Tại sao lại cần phải chấn chỉnh, đưa ra quy định cho những hoạt động quyên góp, khi thiện nguyện là một việc tốt, đáng trân trọng. Thực ra đây không phải vấn đề mới. Làm từ thiện là một việc đáng hoan nghênh, nhưng làm từ thiện ngoài cái tâm, cũng cần cả lý trí, bởi nếu giúp đỡ không đúng cách, lòng tốt đôi khi lại để lại… những hậu quả đáng tiếc. “Hậu quả” của lòng tốt Còn nhớ tháng 9/2007, dư luận chấn động bởi vụ sập cầu Cần Thơ khiến 55 người thiệt mạng. Các đoàn thiện nguyện đổ về Cần Thơ với số tiền giúp đỡ các gia đình lên tới hàng chục tỷ đồng. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, nhiều người đã từng nhận cả trăm triệu đồng hỗ trợ đã lại rơi vào cảnh trắng tay, nợ nần chồng chất vì họ đã dùng hết tiền đó để đánh bài, cá độ, đá gà… Tương tự là trường hợp của cậu bé Hào Anh. 5 năm sau, khi được cứu thoát khỏi địa ngục trần gian với một tài khoản hàng trăm triệu đồng từ các nhà hảo tâm, Hào Anh lại trở thành tội phạm đứng trước vành móng ngựa. Toàn bộ số tiền đã bị cậu “đốt” gọn ghẽ trong các đêm ăn chơi để rồi sa đà vào trộm cắp khi không còn một xu dính túi. Gần đây, trên mạng xã hội cũng lan truyền hình ảnh một người phụ nữ bị bắt bởi dùng đá ném vỡ kính xe ô tô của đoàn từ thiện do đoàn không phát đủ quà, hay một trưởng thôn bị đánh đến nỗi nhập viện do bị nghi ngờ chia tiền từ thiện không đều… Những tưởng sự chia sẻ yêu thương sẽ giúp kết nối cộng đồng, món quà được trao sẽ khiến người nhận sống tốt hơn, nhưng ngược lại. Đôi khi, lòng tốt cũng giống như con dao hai lưỡi, nếu được trao không đúng cách sẽ có thể hủy hoại số phận của người nhận. “Con cá” VÀ “cần câu” Liên quan đến việc làm từ thiện sao cho đúng, đã có nhiều thảo luận, tranh cãi về việc đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, ta nên trao “con cá” – những nhu cầu cấp thiết ngay trước mắt, hay “cần câu” – những giải pháp mang tính lâu dài và bền vững? Người dân Miền Trung rất cần những sự giúp đỡ thiết thực để khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống (Ảnh: Ngọc Thành) Thực ra, mọi sự khái quát hóa đều chỉ mang tính tương đối. Ví như, với những người dân đã 3 ngày chưa có gì vào bụng sau trận lũ thì cái họ cần là một bữa no, hay chính là “con cá”. Nhưng để những trận lũ không còn cướp đi sinh mạng người dân hay núi sẽ bớt sạt lở, thì việc xây nhà chống lũ, hay trồng cây gây rừng lại là những chiếc “cần câu” cần thiết. Từ thiện “đúng” không phải là lựa chọn hoặc “con cá” hay “cần câu” mà điều quan trọng là tính “thiết thực” của công tác từ thiện, làm sao để có thể trao được cả “cần câu” VÀ “con cá” đến đúng với người đang cần. Điều này chỉ có thể thực hiện khi công tác từ thiện được tổ chức chuyên nghiệp và bài bản trên cơ sở hợp tác, trách nhiệm, với sự chủ động, có tầm nhìn và đích đến rõ ràng. Có nhiều ví dụ thực tế về sự “thiết thực” trong công tác thiện nguyện từ các cá nhân, doanh nghiệp. Ví dụ như ca sỹ Hà Anh Tuấn và dự án “Rừng Việt Nam” đã trồng mới và nuôi dưỡng 1800 cây tại hai cánh rừng ở Lâm Đồng và Sơn Trà đồng thời hỗ trợ chăm sóc cho 23,000 m2 diện tích rừng đang tái sinh tự nhiên. Tập đoàn Vingroup cũng là doanh nghiệp đã có nhiều hỗ trợ rất thiết thực cho các công tác phòng chống và đẩy lùi dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam, từ tài trợ máy thở cho các bệnh viện, tài trợ hoá chất cho các xét nghiệm nhanh và kinh phí cho các dự án nghiên cứu ứng phó nhanh với COVID-19 với số tiền lên tới hàng trăm tỷ đồng. Hay như Tập đoàn Sun Group – một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực Du lịch nghỉ dưỡng – Vui chơi giải trí và Bất động sản cũng đề cao tính hiệu quả trong công tác thiện nguyện. Không hỗ trợ dàn trải hay chạy theo “xu hướng”, cũng không câu nệ vào các con số khủng, Sun Group thường tập trung vào những hành động cụ thể, cấp thiết, có thấy hiệu quả rõ ràng. Khi Đà Nẵng đang oằn mình chống chọi với làn sóng COVID -19 thứ 2, Sun Group đã thần tốc xây dựng bệnh viện dã chiến Tiên Sơn, dành tặng cho người dân thành phố sông Hàn một “lá chắn” quan trọng, trong trận chiến đầy cam go với dịch bệnh. Đại diện cho tỉnh, ông Thái Thanh Quý, bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An nhận tài trợ từ phía Tập đoàn Sun Group . Hệ thống máy móc sẽ được nhà cung ứng trực tiếp vận chuyển và lắp đặt tại bệnh viện Đa khoa khu vực Tây Nam Nghệ An. Những ngày cuối năm qua, nhờ sự kết nối của Mặt trận Tổ quốc và UBND tỉnh Nghệ An , Sun Group cũng đã hoàn tất việc tài trợ một hệ thống máy lọc thận nhân tạo cho bệnh viện Đa khoa khu vực Tây Nam Nghệ An – bệnh viện vùng cao thuộc khu vực đặc biệt khó khăn của tỉnh. Theo chia sẻ của ông Lê Xuân Hồng, Giám đốc bệnh viện, đây không chỉ là một sự giúp đỡ rất thiết thực cho công tác điều trị, mà còn “góp phần giảm bớt đi phần nào những khó khăn, gánh nặng kinh tế đang oằn trên vai những bệnh nhân vốn đã rất nghèo trong vùng. Họ sẽ không còn phải di chuyển hàng trăm cây số hay tìm thuê nhà trọ sống tạm bợ qua ngày để chờ đợi những đợt chạy thận tại các bệnh viện khác”. Ông Trương Xuân Lâm, một bệnh nhân đang chạy thận phấn khởi: “Hàng trăm bệnh nhân như tôi mong chờ ngày này lâu lắm rồi. Có máy về là chúng tôi sẽ được về nhà, được nghỉ ngơi tốt hơn và ổn định cuộc sống. Cám ơn doanh nghiệp đã rất có tâm, giúp đỡ rất “trúng” và “đúng” những gì chúng tôi hằng mong mỏi”. Làm từ thiện có trách nhiệm, một cách thiết thực và bền vững, có lẽ cũng không cần quá đao to búa lớn.
Practical volunteering: The story "Fish" and "Fishing Rod" Charity is a humane and good deed, everyone knows that . However, recently the Charity work causes a stir in public opinion with many controversies , and The question "How to do charity?" real?" makes many people think. In the days of October 2020, when the Central region was submerged in floods, relief and rescue work was being urgently implemented, the Government office issued a document conveying the Prime Minister's instructions on rectification. Campaign organization and voluntary donation activities to support people in areas affected by natural disasters. In order to mobilize donations and support in accordance with regulations and practically, the Prime Minister requested the Central Red Cross Society and ministries, branches and localities to organize and supervise the mobilization of donations and support, ensuring in accordance with the provisions of Decree 64/2008/ND-CP. Faced with this directive document, many people wonder, "Why is it necessary to regulate and introduce regulations for donation activities, when volunteering is a good and honorable thing? Actually this is not a new problem. Doing charity is a welcome thing, but doing charity beyond the heart also requires reason, because if you don't help properly, kindness can sometimes leave... unfortunate consequences. “Consequences” of kindness Remember in September 2007, public opinion was shocked by the Can Tho bridge collapse that killed 55 people. Volunteer groups flocked to Can Tho with tens of billions of dong to help families. However, after just a short time, many people who had received hundreds of millions of dong in support fell into nothing, with heavy debt because they used all that money to play cards, bet, and cockfights... Similar is the case of the boy Hao Anh. 5 years later, after being saved from hell on earth with an account of hundreds of millions of dong from benefactors, Hao Anh became a criminal again standing in front of the dock. He "burned" all the money neatly during nights of partying and then indulged in theft when he was penniless. Recently, on social networks, images of a woman being arrested for using a rock to break the window of a charity group's car were also spread because the group did not distribute enough gifts, or a village head was beaten so much that he was hospitalized due to the attack. Suspicion of uneven distribution of charity money... Thinking that sharing love will help connect the community, the gift given will make the recipient live better, but it's the opposite. Sometimes, kindness is like a double-edged sword. If given incorrectly, it can ruin the recipient's fate. “Fish” AND “fishing rod” Regarding doing charity properly, there have been many discussions and debates about whether, faced with a difficult situation, we should give "fish" - urgent immediate needs, or "fishing rods". ” – long-term and sustainable solutions? People in the Central region urgently need practical help to overcome the consequences of natural disasters and stabilize their lives (Photo: Ngoc Thanh) In fact, all generalizations are only relative. For example, for people who haven't had anything in their stomachs for 3 days after the flood, what they need is a full meal, or "fish". But in order for floods to no longer take people's lives or mountains to erode less, building flood-resistant houses or planting trees to create forests are necessary "fishing rods". "True" charity is not a choice of either "fish" or "fishing rod", but the important thing is the "practicality" of charity work, how to be able to give both "fishing rod" AND "fishing rod". fish” comes right to the person in need. This can only be done when charity work is organized professionally and methodically on the basis of cooperation, responsibility, with initiative, with a clear vision and destination. There are many practical examples of "practicality" in volunteer work from individuals and businesses. For example, singer Ha Anh Tuan and the "Vietnam Forest" project planted and nurtured 1,800 trees in two forests in Lam Dong and Son Tra while also supporting the care of 23,000 m2 of naturally regenerating forest area. course. Vingroup is also an enterprise that has provided a lot of practical support for the work of preventing and repelling the COVID-19 epidemic in Vietnam, from sponsoring ventilators for hospitals, sponsoring chemicals for medical tests. Quick experience and funding for research projects to quickly respond to COVID-19 with an amount of up to hundreds of billions of VND. Or like Sun Group - a leading enterprise in the field of Tourism, Resort and Entertainment entertainment and Real Estate also promote effectiveness in volunteer work. Not spreading support or following "trends", nor focusing on big numbers, Sun Group often focuses on specific, urgent actions with clear results. When Da Nang was struggling to cope with the second wave of COVID -19, Sun Group quickly built Tien Son field hospital, giving the people of Han River city an important "shield" in the tough battle with the epidemic. Representing the province, Mr. Thai Thanh Quy, Secretary of the Nghe An Provincial Party Committee, received sponsorship from the party Sun Group Corporation . The machinery system will be directly transported and installed by the supplier at the Southwest Nghe An General Hospital. In the last days of the year, thanks to the connection of the Fatherland Front and the Provincial People's Committee Nghe An , Sun Group has also completed sponsoring an artificial kidney dialysis system for Southwest Nghe An General Hospital - a highland hospital in a particularly difficult area of ​​the province. According to Mr. Le Xuan Hong, Director of the hospital, this is not only a very practical help for treatment, but also "contributes to somewhat alleviating the difficulties and economic burdens that are currently occurring." buckled on the shoulders of the already very poor patients in the area. They will no longer have to travel hundreds of kilometers or find temporary accommodation to live day-to-day while waiting for dialysis sessions at other hospitals." Mr. Truong Xuan Lam, a dialysis patient, was excited: "Hundreds of patients like me have been waiting for this day for a long time. Once the phone comes back, we will be able to go home, rest better and stabilize our lives. Thank you to the business for being very thoughtful, helping very "successfully" and "exactly" what we always wanted." Doing charity responsibly, in a practical and sustainable way, probably doesn't need to be too complicated.
NGUYỄN THÁNH NGÃ – Hội viên Hội VHNT Lâm Đồng – Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam – Giải nhất thơ Haiku Việt – Nhật 2009 12 ĐOẢN KHÚC THƠ 1. ta đã nhận được từ chính mình chút ánh sáng le lói của mặt trời lớn lao hơn sự tỏa sáng của những ngọn nến chung quanh 2. từ gốc rễ của khổ đau những chiếc lá vẫy gọi trời xanh cây cành hiến dâng một mùa quả rụng còn làn hương theo gió bay xa 3. màn đêm luôn phủ xuống ánh ngày cuộc chiến tranh không dứt thù hận không do quả đất mà do cách quả đất tự quay 4. người hóa đá rồi sao hỡi bóng tối? chính nhờ người mà ánh sáng sinh ra 5. ta làm thơ với mình tiếng con chữ vọng lại thanh âm mặt giấy góa rơi lệ hiến dâng mùa tiết trinh 6. như con sóc trở về hang tránh bão lụt lội niềm tin quả rụng cong đuôi nhấm nháp hoài nghi 7. vừa chia ly đã thấy em về trong đất đá có mùi hương dã thảo thơm tận đáy ly 8. như một người say rượu sức mạnh của bão là sự dồn dập hồn rỗng không sau khi tàn phá tơi bời 9. như con ruồi cô độc tôi có cơ hội được ở một mình khi bị đuổi ra khỏi đám đông 10. tôi vô cùng mừng rỡ vì phát hiện ra sự tham lam ích kỷ cả si mê ngu dốt của riêng mình tham lam ích kỷ là kim cương si mê ngu dốt là vàng bạc tất cả bị rớt giá tồi tệ trước trí tuệ mặt trời… 11. cơn bão ra đi để lại đau thương con người ra đi để lại nấm mồ con thú ra đi để lại một bàn tiệc buổi chiều ra đi để lại chạng vạng đóa hoa ra đi để lại một làn hương chỉ có ra đi ra đi mà chẳng để lại gì… 12. thơ là dòng sông chảy qua đời người để xóa bớt những biên giới… TIẾNG HÁT CỦA NHỮNG CHIẾC LÁ trong âm vang ngỡ tiếng hát trên cành tiếng hát tỏa hào quang xanh biếc chỉ là gió thôi lá xao động tạo ra âm nhạc không phải lá tạo ra ngọn gió nhưng gió có thể làm ra tiếng chim ríu ran, xung đột cãi cọ than vãn… mùa lá rụng, gió lạnh thổi buốt từng đốt sống thổi khô khốc đồng hoang thổi xô dạt hạnh phúc nhỏ nhoi thổi xiêu gốc, lật đổ bao niềm vui gốc đỏ mặt xù xì trơ rễ mới nhận ra gió thổi chiều nào nghiêng theo chiều đó nếu không có gió lá chẳng biết mình lên tiếng hát trong vòm cây chống chỏi với cơn giông vì thế, sau mỗi mùa bão táp lá lại thắm xanh hơn… THƠ VIẾT LÚC 4h SÁNG ta như tín đồ không dự lễ misa không quỳ gối trước ngôi đền phai nhạt lời Phật dạy ”hãy tự thắp đuốc lên mà đi” không van xin không lạy lục sắc nào ta tự đi trong ngõ hẹp riêng mình… cõi nông sâu không nằm trong lễ hội ta thắp hương bái vọng những tài năng ganh ghét hận thù lâu rồi ta dẹp bỏ ai khiếu nại ai ta may mắn không dự phần bởi biết chắc Phật ma trộn lẫn Satan chỉ thua Chúa nhân từ đó là điều như thật! có lẽ thiện lương phải tiếp tục thiệt thòi ranh ma dễ ngồi danh vọng ta lép vế ta thua không gì cả và xin dâng chiến thắng cho người 4h sáng thời gian mãi trôi về quá khứ khi thơ ta cứ khù khờ cứ hoang dại cứ thiên nhiên ám ảnh cứ thao thức cho đời dầu đời đen bạc không thôi không có nỗi buồn nào không làm nên cái đẹp ta cứ buồn ta không như một tín đồ… LỄ HỘI NGƯỜI Những tà áo Bay qua bay qua Cánh cò no gió Những đám mây Vũ hội vùng trời Tưng bừng nghi lễ Những con người Mang gương mặt thú Đi vào lễ hội Người giả trang tình nhân Người ma-nơ-canh Người biến đổi gien Người tiền mãn kinh Trong giấc mơ tiền thật Tất cả trong lễ hội Ngoài lễ hội Ngoài người Ngoài chiếc áo Ngoài gương mặt Ngoài mù sương Họ múa ca và hôn lễ Họ ái ân và sinh đẻ Họ đầy lên như đám mây Và trôi đi như dòng sông Vun đắp cho mùa người thức dậy Rồi nhìn thấy mình như con thú hoang Trong lễ hội Con thú hoang làm người Cười rơi chiếc mặt nạ Trên bàn tay Trên bàn chân Trên sân khấu trần gian… CUỘC HÓA KIẾP CỦA BẦY MỐI Bất ngờ tôi gặp lại bầy mối trong cuộc gặm nhấm hàng loạt rì rầm Giống như một binh đoàn thiết giáp chúng xông lên và hóa kiếp những trang sách tôi không biết nên vui hay nên buồn khi nghĩ những con chữ hóa mây trời Và thơ, một đời sống mà tôi lưu giữ sẽ biến mất Tội nghiệp đóa linh hồn thơ tôi đã ấp ủ để cho chúng một hình hài một tiêng nói một hơi thở của bông hoa sẽ nở Nhưng tia hy vọng đã tắt mặt trời không còn gieo lên trang sách những ẩn dụ cặp kính tôi không còn phóng đại những thâm sâu ý tưởng tôi không còn viết tiếp những dự ngôn Bầy mối đã trả về đất về đất những gì của đất… Sự rủi ro của sinh diệt sự đau đớn của thống trị đế chế giấy luôn trải một niềm đau để dòng mực viết lên cuộc chuyển động không ngừng Ôi bầy mối, có hủy tứ thơ tôi vun bón những mầm cây… N.T.N
NGUYEN THANH NGO – Member of the Cultural Association Lam Dong – Member of Vietnam Writers Association – First prize in Vietnamese-Japanese Haiku poetry 2009 12 SHORT POEMS first. we received it from ourselves a little glimmer of sunlight greater than the radiance of the surrounding candles 2. from the root of suffering The leaves wave to the blue sky Tree branches offer a season of fallen fruit and the scent of incense flies away with the wind 3. The night always covers the day the war never ends hatred does not come from the earth but because of the way the earth rotates 4. Have you turned to stone? O darkness? It is through him that light is born 5. I write poetry with myself The sound of words echoing The widow's face shed tears consecrate the season of virginity 6. like a squirrel Return to the cave to avoid the storm flood of faith, fruit falls curled his tail and sipped skeptically 7. As soon as we broke up, I saw you coming back There is a scent of herbs in the rocky soil fragrant to the bottom of the glass 8. like a drunk person The power of the storm is the rush Empty soul after utter destruction 9. like a lonely fly I have the opportunity to be alone when kicked out of the crowd ten. I was extremely happy for discovering selfish greed even my own ignorance Greed and selfishness are diamonds ignorance and ignorance are gold and silver all fell badly before the wisdom of the sun... 11. The storm leaves behind pain People leave behind graves The beast left behind a banquet table Afternoon leaves behind twilight The flower leaves behind a scent Just leave and leave without leaving anything behind... twelfth. Poetry is a river that flows through human life to erase borders... THE SINGING OF THE LEAVES in the echo I thought there was singing on the branches The singing radiates a blue aura it's just the wind Vibrating leaves create music It is not the leaves that create the wind But the wind can make bird sounds chirping, conflict quarrel whine… seasonal deciduous, The cold wind blew every spine blow dry the moor blow away small happiness blew down the roots, overthrew all the joys The roots are red and shaggy I just realized which way the wind blows tilt in that direction if there is no wind leaves don't know what to say sing in the canopy resist the storm therefore, after every storm season The leaves are darker and greener... POETRY WRITTEN AT 4AM We are like believers do not attend mass Do not kneel before the fading temple Buddha's teachings "Light your own torch and go" don't beg Do not bow to any six colors We walk in our own narrow lane... The shallow and deep realms are not part of the festival We burn incense and pay homage to the talents Jealousy and hatred have long been put away Who complains to whom? We are lucky not to participate because it is certain that Buddha and ghosts are mixed together Satan is inferior only to the merciful God That's the real thing! Perhaps kindness must continue to suffer It's easy to be cunning and gain fame I am inferior We lose nothing and give him victory 4am Time flows forever into the past when my poetry stay stupid stay wild Just haunted by nature Just stay awake for life Even though life is black and silver, there is no end to it There is no sadness that does not create beauty I'm always sad I'm not like a believer... PEOPLE FESTIVAL Shirts Fly over, fly over The stork's wings are full of wind Clouds Dance in the sky Jubilant ritual People Wear an animal face Go to the festival A person masquerading as a lover Mannequins Genetically modified people Premenopausal people In dreams real money All in festival Outside the festival Besides people Besides the shirt Besides the face Out in the mist They dance and sing and get married They made love and gave birth They filled up like clouds And flow like a river Cultivate the season of awakening Then I saw myself like a wild animal During the festival A wild animal becomes a human Laughing the mask falls off On the hand On the feet On the earthly stage… THE REVOLUTION OF THE TERMINALS Suddenly I met the termites again in mass gnawing murmur Like an armored army They rushed forward and transformed the pages of the book I don't know whether to be happy or sad When thinking, words turn into clouds And poetry, a life that I keep will disappear Poor soul poetry I have cherished to give them a form a voice said One breath of flowers will bloom But the ray of hope has disappeared The sun no longer litters the page with metaphors My glasses no longer magnify the depths The idea is that I no longer continue to write predictions The termites have returned to the land about land what of the land… The risk of birth and death the pain of domination The paper empire always experiences pain Let the ink write on the constant movement Oh swarm of termites, have destroyed my poems fertilize the sprouts... N.T.N
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh qua đời Nguyễn Xuân Sanh – thi sĩ cuối cùng của phong trào Thơ Mới – qua đời sáng 22/11, thọ 100 tuổi. Nhà văn Nguyễn Trí Huân – đồng nghiệp của cố thi sĩ – cho biết ông mất tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô vì tuổi cao, sức yếu. Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói ba ngày trước, ông kịp đến thăm đàn anh lần cuối ở phòng cấp cứu. Ông viết trên trang cá nhân: “Nhà thơ Mới cuối cùng đã vĩnh biệt chúng ta”. Còn Nguyễn Quang Thiều nói: “Xin vĩnh biệt một thi sĩ tiên phong”. Hôm 9/11, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức chúc thọ nhà thơ tròn 100 tuổi. Ông Hữu Thỉnh – Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – nói Nguyễn Xuân Sanh đóng góp lớn trong việc cách tân thơ, đào tạo nhiều nhà văn, dịch giả trẻ, giới thiệu nhiều tác gia văn học lớn của thế giới với bạn đọc trong nước. Dịp này, trong bài báo Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tròn 100 tuổi: Người bắc nhịp cầu từ Thơ mới sang thơ hiện đại, PGS.TS Lê Thị Bích Hồng cho biết Nguyễn Xuân Sanh vốn được các bạn đồng niên như Chế Lan Viên, Huy Cận trân quý bởi bản tính lành hiền, nhỏ nhẹ, chân chất, phong thái sống khoan thai, nhẩn nha, chậm rãi… Ông đôn hậu, hồn nhiên, thành thật với lòng mình không kiêng dè, giấu giữ và cũng không ngại làm mếch lòng ai. Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Đà Lạt , nguyên quán Quảng Bình . Từ nhỏ, ông theo học ở trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội. Ở tuổi 15, ông ra mắt trường ca Lạc loài , được nhà phê bình Lê Tràng Kiều – chủ bút Hà Nội báo giới thiệu, cho đăng liên tiếp 13 số báo. Tác phẩm đầu tay của ông phá vỡ những chuẩn mực thơ truyền thống , với những câu như: “Gió trắng se mùa thơm dáng liễu/ Xa vời nẻo nhạt xanh buồn xanh…”. Một năm sau, ông viết bài Xây mơ tặng Chế Lan Viên – người bạn hàng xóm thuở ấu thơ, được Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc thành ca khúc cùng tên. Năm 1939, khi đã thành danh trên văn đàn, Nguyễn Xuân Sanh cùng năm văn nghệ sĩ (Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát) thành lập nhóm Xuân Thu Nhã tập . Ra đời giai đoạn Thơ Mới đi vào bế tắc. Nhóm chỉ tồn tại đến khoảng 1945 nhưng đầy ắp trăn trở tìm hướng phát triển thi ca. Nhà phê bình Trần Huyền Sâm Xuân Thu nhã tập là một hiện tượng nghệ thuật tiên phong, một trong những đặc trưng của xu hướng chủ nghĩa hiện đại ở Việt Nam. Với đông đảo đồng nghiệp, Nguyễn Xuân Sanh là người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ Mới sang thơ hiện đại. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, cố thi sĩ là người khởi động cuộc chạy tiếp sức của thơ Việt vào hiện đại với tác phẩm Buồn xưa : “Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y Rượu hát bầu vàng cung ướp hương Ngón hường say tóc nhạc trầm mi Lẵng xuân Bờ giũ trái xuân sa Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa Buồn hưởng vườn người vai suối tươi Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu Duyên vàng da lộng trái du ngươi Ngọc quế buồn nào gội tóc xưa Hồn xa chĩu sách nhánh say sưa Hiến dâng Hiến dâng quả bồng hường Hoàng tử nghiêng buồn vây tóc mưa Đường tàn xây trái buổi du dương Thời gian ơi tưới hận chìm tường Nguồn buồn lạnh lẽo thoát cung hơi Ngọt ngào nhớ chảy tự trăm phương”. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh bên vợ – nhà văn Cẩm Thạnh – năm 1961. Ảnh tư liệu. Cách mạng Tháng Tám 1945 tác động đến nhiều thi sĩ Thơ Mới, trong đó có Nguyễn Xuân Sanh, khi họ chuyển hướng với phong cách sáng tác gần hiện thực cuộc sống hơn. Hai bài thơ của ông Nhớ dừa và Cô giáo lớp em , được đưa vào chương trình môn tiếng Việt phổ thông, gắn liền với nhiều thế hệ học sinh hơn 60 năm trước. Sách Chuyện vui các nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Thanh niên, 1990, từng trích mẩu chuyện về ông. Tại lễ tổng kết một khóa học tại Trường Bồi dưỡng những người viết văn trẻ ở Quảng Bá, với cương vị hiệu trưởng, Nguyễn Xuân Sanh phát biểu, nhắc nhở học viên cần trau dồi đạo đức, đừng sa đà vào lối sống tự do, bê tha… như một số nhà văn trước Cách mạng Tháng Tám. Câu nói đó chạm lòng tự ái của một số nhà văn cùng dự như: Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng… Nhà văn Nguyên Hồng nói “mát”: “Như tôi và anh Nguyễn Tuân thì nhiều cái xấu xa lắm, các bạn trẻ đừng nên bắt chước. Có bắt chước thì bắt chước ông Nguyễn Xuân Sanh, cũng là lớp nhà văn cũ đấy nhưng toàn điểm tốt chứ không có điểm gì xấu đâu”. Nghe thế, Nguyễn Xuân Sanh không thanh minh, vẫn bình thản đọc tiếp. Gần 80 năm cầm bút, Nguyễn Xuân Sanh để lại gia tài sáng tác đồ sộ. Xuân Thu nhã tập là cuốn sách xuất bản đầu tiên của của nhóm năm 1942, gồm một số bài thơ, văn xuôi triết lý và tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm. Ngoài tác phẩm văn xuôi Anh hùng Trần Đại Nghĩa (1953), ông là tác giả của nhiều tập thơ: Chiếc bong bóng hồng (1957), Tiếng hát quê ta (1958), Nghe bước xuân về (1961), Quê biển (1966), Đảo dưa đỏ (1974), Đất nước và Lời ca (1978), Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1991), Một vườn thơ năm châu (1997), thơ văn xuôi Đất thơm (viết 1940-1945, in 1995). Ông là dịch giả thơ cho nhiều nhà thơ các nước (Ba Lan, Nga, Luxembourg, Pháp, Canada, Israel, Sénégal, Rumani, Bulgaria, Đức…) qua các tập thơ dịch: Thơ Victor Hugo (1986), Tuyển tập thơ Pháp (ba tập, 1989-1994), Toàn tập 11 tác phẩm của nhà thơ Thụy Điển Tomas Tranströmer (1995)… Năm 1951, ông nhận giải thưởng ngoại hạng Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Anh hùng Trần Đại Nghĩa . Năm 2001, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Ông từng là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I). Nguyễn Xuân Sanh có cuộc hôn nhân hạnh phúc cùng vợ – nhà văn Cẩm Thạnh. Ông từng viết bài thơ Trước xuân, thăm chùa Hương tặng người vợ hiền thục luôn sát cánh bên chồng. Ông bà có hai người con, trong đó, con trai đầu Nguyễn Việt Lưu đã hy sinh tại chiến trường Phú Yên năm 1968. Những năm về già, vợ chồng ông được con gái – PGS -TS Nguyễn Việt Triều – nguyên cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, phụng dưỡng. Tam Kỳ
Poet Nguyen Xuan Sanh passed away Nguyen Xuan Sanh - the last poet of the New Poetry movement - passed away on the morning of November 22, at the age of 100. Writer Nguyen Tri Huan - a colleague of the late poet - said he died at the Vietnam-Soviet Friendship Hospital because of his old age and weak health. Poet Tran Dang Khoa said that three days ago, he was able to visit his senior for the last time in the emergency room. He wrote on his personal page: "New Poet has finally said goodbye to us." And Nguyen Quang Thieu said: "Farewell to a pioneering poet." On November 9, the Vietnam Writers' Association held a celebration of the poet's 100th birthday. Grandfather Huu Thinh – President of the Vietnam Union of Literature and Arts Associations, President of the Vietnam Writers Association – said Nguyen Xuan Sanh made great contributions to innovating poetry, training many young writers and translators, and introducing many authors. Great world literature with domestic readers. On this occasion, in the article Poet Nguyen Xuan Sanh turns 100 years old: The person who built the bridge from New Poetry to modern poetry, Associate Professor Dr. Le Thi Bich Hong said that Nguyen Xuan Sanh was treasured by his peers such as Che Lan Vien and Huy Can because of his gentle, gentle, sincere nature, and leisurely, leisurely, and slow lifestyle. … He was kind, innocent, honest with himself without reserve or concealment, and not afraid to offend anyone. Nguyen Xuan Sanh was born in 1920 in Da Lat , domicile Quang Binh . From a young age, he studied at Quy Nhon National School (old), then moved to Hanoi. At the age of 15, he debuted in the opera Lost species , edited by critic Le Trang Kieu Hanoi newspaper introduced and published 13 consecutive issues. His first work broke traditional poetic standards , with sentences like: "The white wind will fragrant the willow shape / Far away, the pale blue and sad blue...". A year later, he wrote the article Build a dream gifted to Che Lan Vien - a childhood neighbor, who was set to music by Nguyen Xuan Khoat into a song of the same name. In 1939, when he had become famous in literature, Nguyen Xuan Sanh and five writers and artists (Pham Van Hanh, Doan Phu Tu, Nguyen Luong Ngoc, Nguyen Do Cung and Nguyen Xuan Khoat) form a group Xuan Thu Nha vol . The New Poetry period was born and came to a standstill. The group only existed until about 1945 but was full of concerns about finding a direction for poetic development. Critic Tran Huyen Sam Spring and Autumn elegant practice is a pioneering art phenomenon, one of the characteristics of the modernist trend in Vietnam. With many colleagues, Nguyen Xuan Sanh is the person who built the first bridge from New Poetry to modern poetry. According to researcher Do Lai Thuy, the late poet was the one who started the relay race of Vietnamese poetry into modernity with his work Old sadness : “Quynh flowers in the afternoon are filled with deep music The green soul carries traces of clothing Singing wine from yellow gourd and scented with spices The pink finger is drunk with deep music Spring basket The shore shakes spring leaves The bottom of the season's plate moves to the rhythm of the ocean Jasmine fills the fragrant double breast moon The old dew of the pipa contains the distant forest Sad to enjoy human gardens and fresh streams Thousand clouds of eternal sadness Lips suggestive of the old season, chest in mid-autumn Golden charm, skin covered with elm fruit Ngoc cinnamon is sad to wash old hair The distant soul holds books and branches intoxicated Dedication Offering rose fruit The prince tilted his head sadly in the rain The road is ruined and left behind in the melodious day Time, watering hate and sinking the wall The source of cold sadness escapes The sweetness of remembrance flows from a hundred directions." Poet Nguyen Xuan Sanh with his wife - writer Cam Thanh - in 1961. Documentary photo. The August Revolution of 1945 influenced many New Poetry poets, including Nguyen Xuan Sanh, when they changed their writing style to be closer to real life. Two of his poems Remember coconut and My class teacher , was included in the general Vietnamese curriculum, associated with many generations of students more than 60 years ago. Book Funny stories about modern Vietnamese writers, Youth Publishing House, 1990, once quoted a story about him. At the closing ceremony of a course at the School for Training Young Writers in Quang Ba, as principal, Nguyen Xuan Sanh spoke, reminding students to cultivate morality and not fall into a free lifestyle. , indulgent... like some writers before the August Revolution. That statement touched the pride of some participating writers such as: Nguyen Tuan, Nguyen Hong... Writer Nguyen Hong said "coolly": "Like me and Mr. Nguyen Tuan, there are many bad things, young people should not mimic. If you want to imitate, then imitate Mr. Nguyen Xuan Sanh, who is also an old writer class but has all good points and no bad points. Hearing that, Nguyen Xuan Sanh did not explain, but calmly continued reading. After nearly 80 years of writing, Nguyen Xuan Sanh left behind a huge writing legacy. Spring and Autumn elegant practice is the group's first published book in 1942, including a number of poems, philosophical prose and the group's artistic manifesto. In addition to prose works Hero Tran Dai Nghia (1953), he is the author of many poetry collections: Pink balloon (1957), The singing of our homeland (1958), I hear spring coming (1961), Seaside (1966), Stir the cantaloupe (1974), Country and Lyrics (1978), Collection of Nguyen Xuan Sanh (1991), A garden of poetry in five continents (1997), prose poetry Fragrant soil (written 1940-1945, printed 1995). He is a poetry translator for many poets from other countries (Poland, Russia, Luxembourg, France, Canada, Israel, Senegal, Romania, Bulgaria, Germany...) through translated poetry collections: Victor Hugo's poetry (1986), Anthology of French poetry (three volumes, 1989-1994), Complete collection of 11 works by Swedish poet Tomas Tranströmer (1995)… In 1951, he received the Vietnam Writers' Association Premier Award for his work Hero Tran Dai Nghia . In 2001, he received the State Award for Literature and Arts. He used to be Deputy General Secretary of the Vietnam Writers Association (term I). Nguyen Xuan Sanh has a happy marriage with his wife - writer Cam Thanh. He once wrote poems Before spring, visit Perfume Pagoda Gifted to a virtuous wife who always stands by her husband. They had two children, of whom, their first son, Nguyen Viet Luu, died at the Phu Yen battlefield in 1968. In their later years, he and his wife were blessed by their daughter - Associate Professor - Dr. Nguyen Viet Trieu - a former officer of the Department of Defense. Vietnam Academy of Science and Technology, support. Tam Ky
NGÀY XUÂN, NHỚ XUÂN DIỆU TS. HUỲNH VĂN HOA Đến Xuân này, 2021, Xuân Diệu tròn 105 năm sinh. Ông sinh ngày 2-2-1916, mất 18-12-1985, là nhà thơ lớn của dân tộc. Trong bài thơ Nguyên Đán , Xuân Diệu viết : Xuân của đất trời nay mới đến Trong tôi xuân đến đã lâu rồi … Đó là những câu thơ in trong tập Thơ Thơ (Đời nay, 1938). Với Xuân Diệu, cuộc sống bao giờ cũng là xuân đầu, xuân không mùa. Ông là nhà thơ khát thèm sự sống và rất sợ cô đơn. Một đời sáng tạo, thi sĩ đã đem phấn thông vàng của hồn mình rải khắp thế gian. Trong Lời đưa duyên , Xuân Diệu viết: “ Tôi sợ mất sự sống của tôi, tôi không muốn nó rơi rớt, chảy trôi theo tháng ngày, tôi đã ráng bỏ từng mảnh đời tôi trong hàng chữ, để gửi đi, gửi cho người, cho người bốn phương” . Và, cũng chính vì thế mà thế giới sáng tạo của ông ngập tràn cảm xúc thanh tân, mới mẻ. Xuân Diệu sợ sự trôi tuột của thời gian, sợ nắng lỡ chiều hôm, sợ trăng tà chếch bóng. Trước sau, nói như Nguyễn Đăng Mạnh: “ Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người, một phát hiện về niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cuộc sống trần thế này đã ban phát cho nhân loại” . Nhà thơ từng phát biểu : Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn … (Vội vàng ) Ở đời cũng như trong văn chương, chưa khi nào Xuân Diệu thấy đủ cả, lúc nào cũng thấy thiếu, cần thêm nữa. Dường như, đối với thi sĩ, tất cả thanh sắc trần gian phải được ôm, được riết, được uống, được cắn, ông không chịu được sự nguội lạnh, thờ ơ: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm …. (Giục giã) Xuân Diệu tha thiết với cuộc đời, muốn tỏa lòng mình ra, chào mời tất cả “ đây là quán tha hồ muôn khách đến “ (Cảm xúc). Cũng chính từ niềm yêu như thế, Xuân Diệu nhạy cảm với sắc màu, hình thể, âm thanh, đường nét của cuộc sống. Thơ ông luôn ở xu hướng vận động. Tạo vật thường được nhìn dưới khía cạnh đa chiều : Một tối bầu trời đắm sắc mây Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy Những lời huyền bí tỏa lên trăng Những ý bao la rủ xuống trần Những tiếng ân tình hoa bảo gió Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân … (Với bàn tay ấy) Xuân Diệu muốn vĩnh cửu hóa thời gian, sợ cô độc, có lúc quay về mơ xưa, thuở “ hạc theo trăng, tiên còn lẫn với người ”. Những bài thơ viết khoảng 1940, 1942, 1943 ở Gò Công, Mỹ Tho, nhà thơ coi mình như kẻ đi đày, như người lính nơi ải quan xa, bó gối, lạnh lẽo, mong có chút lửa đời để sưởi, lòng mơ đến một nơi chốn nào: Chúng ta nay trong cuộc thế ao tù Đốt điếu thuốc chiêu hồn sương quá khứ Mỗi khi thu đưa gió vàng lưỡng lự Có buồn chăng, lòng bận ở đâu xưa ? (Mơ xưa, Gò Công 1942) Thế là, ông bỏ cuộc sống của một viên chức Sở Đoan Mỹ Tho (1943), ra Hà Nội với Huy Cận, bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh. Hiểu vậy, mới thấy việc Xuân Diệu nhiệt tình đón chào Cách mạng tháng Tám, tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, viết Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông như tất yếu trong sống và sáng tạo. Nhập với đời, vẫn tấm lòng khát khao, giao hòa ấy, Xuân Diệu đi với nhân dân: Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc đời chiến đấu Của triệu người yêu dấu gian lao. (Những đêm hành quân) Ý thức công dân đã hướng ngòi bút của ông phục vụ cho đời, Xuân Diệu viết nhiều thể loại, từ thơ ca, ký sự đến tiểu luận, phê bình hay nói chuyện thơ, cũng vì thế. Ông ca ngợi Tổ quốc bằng những vần thơ chân thành, cảm động. Ông quan niệm cái gì có ích thì nên làm, tự xem mình “ Tay siêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm ”. Cái nhìn tích cực đó một mặt vừa chống chọi lại bi kịch bản thân, một mặt vừa khẳng định sự có mặt của mình trên trần gian này. Chỗ này làm nên chất triết luận trong thơ Xuân Diệu. x x x Nói như Thế Lữ trong Lời giới thiệu tập Thơ thơ : “ Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Lòng yêu đời, trước kia, đôi khi có cái nhìn khinh bạc, kiêu ngạo, muốn đứng trên tất cả : Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta (Hy Mã Lạp Sơn) Từ sau 1945, trái tim nóng bỏng, nhiệt thành đó hòa cùng biển lớn cuộc đời. Xuân Diệu từng mong được cám ơn cuộc đời và tâm niệm đó đã góp phần thúc đẩy sức sáng tạo trong ông. Nửa thế kỷ sáng tác với gần 50 tác phẩm, đủ đề tài, loại thể, Xuân Diệu xứng đáng là cây đại thụ trong nền văn học đương đại Việt Nam. Con người từng van vỉ cuộc đời: Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ Một giây cũng cam, một chút cũng đành ……….. Thơ tôi đó, gió lùa đem tỏa khắp. Và lòng tôi, mời mọc bạn chia nhau … (Lời thơ vào tập Gửi hương ) Thế nhưng, Xuân Diệu đã không được tình yêu, hạnh phúc riêng tư mỉm cười. Sinh thời, ông sống cô đơn. Vào những ngày tết nhất, khi thiên hạ bận bịu lo toan, sắm sanh các thứ, khi gia đình quây quần bên nhau, Xuân Diệu lại một thân một mình với chiếc bàn viết. Trong bài viết Tết với nhà thơ Xuân Diệu , Hoàng Cát kể lại, tại Hà Nội, Xuân Diệu có hai người em ruột cùng cha khác mẹ, bà Ngô Xuân Như và ông Ngô Xuân Huy. Bữa cơm chiều 30 Tết, ông ăn tại nhà người em gái, Ngô Xuân Như. Những bữa sau, vào các ngày mồng 1, mồng 2 Tết, ông ăn cơm tết tại nhà người em trai, ông Ngô Xuân Huy. Dĩ nhiên, trong những ngày Tết, năm nào cũng vậy, gia đình nhà thơ Huy Cận cũng mời Xuân Diệu một bữa. Hai ông là bạn tri âm tri kỉ hồi còn học ở Quốc học-Huế. Thời gian còn lại, Xuân Diệu lặng lẽ và riết róng, miệt mài và cặm cụi với chữ nghĩa, tất cả hiến dâng cho đời những trang viết sâu nặng cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu vẫn biết mùa xuân đang đứng bên ngoài. Tình yêu văn chương và ý thức cống hiến ở Xuân Diệu là vô cùng lớn lao và đẹp đẽ. Bao nhiêu năm, ông hoàng của tình yêu cũng chỉ là một đôi đũa lệch trong mâm cơm hạnh phúc. Song, ông đã chiến đấu với năm đẩy, tháng dồi ấy bằng một nghị lực, ý chí vô song và cao cả. Trong bài thơ Khung cửa sổ , ta nghe một tiếng nói chân tình, cô đơn của Xuân Diệu. Xuân Diệu thèm một mái ấm, một bàn tay, nhưng nào được. Một nỗi sợ lan tỏa, trống vắng, với nhiều cái “không” đè nặng lên tâm hồn, lên cuộc sống: Anh có nhà có cửa Nhưng không vợ không con Sợ cái bếp không lửa Sợ cái cửa không đèn. Những đêm đi xa về Tận xa nhìn cửa đóng Không ánh sáng đón mình Không có ai trông ngóng. .. Thương quá! Những dòng thơ thật cảm động. Xuân Diệu đã đi xa. Giở từng trang viết của ông, ta vẫn thấy bồi hồi sự sống. Nhớ Xuân Diệu, đọc những dòng thơ ông viết năm 1939 trong Tình mai sau , ta càng yêu nhà thơ hơn: Ngày thuở ấy, lâu rồi tôi đã chết Tháng ngày qua chôn lấp mộ hoang tàn Hòa với đất, mình tôi thôi đã hết Nhưng hương hồn còn luyến ở không gian … Đi sao được khi mặt trời vẫn nở Bỏ sao đang những mái ngói yên buồn Đường rất lặng với hàng cây hay nhớ Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn… HUỲNH VĂN HOA
NGÀY XUÂN, NHỚ XUÂN DIỆU TS. HUỲNH VĂN HOA Đến Xuân này, 2021, Xuân Diệu tròn 105 năm sinh. Ông sinh ngày 2-2-1916, mất 18-12-1985, là nhà thơ lớn của dân tộc. Trong bài thơ Nguyên Đán , Xuân Diệu viết : Xuân của đất trời nay mới đến Trong tôi xuân đến đã lâu rồi … Đó là những câu thơ in trong tập Thơ Thơ (Đời nay, 1938). Với Xuân Diệu, cuộc sống bao giờ cũng là xuân đầu, xuân không mùa. Ông là nhà thơ khát thèm sự sống và rất sợ cô đơn. Một đời sáng tạo, thi sĩ đã đem phấn thông vàng của hồn mình rải khắp thế gian. Trong Lời đưa duyên , Xuân Diệu viết: “ Tôi sợ mất sự sống của tôi, tôi không muốn nó rơi rớt, chảy trôi theo tháng ngày, tôi đã ráng bỏ từng mảnh đời tôi trong hàng chữ, để gửi đi, gửi cho người, cho người bốn phương” . Và, cũng chính vì thế mà thế giới sáng tạo của ông ngập tràn cảm xúc thanh tân, mới mẻ. Xuân Diệu sợ sự trôi tuột của thời gian, sợ nắng lỡ chiều hôm, sợ trăng tà chếch bóng. Trước sau, nói như Nguyễn Đăng Mạnh: “ Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người, một phát hiện về niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cuộc sống trần thế này đã ban phát cho nhân loại” . Nhà thơ từng phát biểu : Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn … (Vội vàng ) Ở đời cũng như trong văn chương, chưa khi nào Xuân Diệu thấy đủ cả, lúc nào cũng thấy thiếu, cần thêm nữa. Dường như, đối với thi sĩ, tất cả thanh sắc trần gian phải được ôm, được riết, được uống, được cắn, ông không chịu được sự nguội lạnh, thờ ơ: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm …. (Giục giã) Xuân Diệu tha thiết với cuộc đời, muốn tỏa lòng mình ra, chào mời tất cả “ đây là quán tha hồ muôn khách đến “ (Cảm xúc). Cũng chính từ niềm yêu như thế, Xuân Diệu nhạy cảm với sắc màu, hình thể, âm thanh, đường nét của cuộc sống. Thơ ông luôn ở xu hướng vận động. Tạo vật thường được nhìn dưới khía cạnh đa chiều : Một tối bầu trời đắm sắc mây Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy Những lời huyền bí tỏa lên trăng Những ý bao la rủ xuống trần Những tiếng ân tình hoa bảo gió Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân … (Với bàn tay ấy) Xuân Diệu muốn vĩnh cửu hóa thời gian, sợ cô độc, có lúc quay về mơ xưa, thuở “ hạc theo trăng, tiên còn lẫn với người ”. Những bài thơ viết khoảng 1940, 1942, 1943 ở Gò Công, Mỹ Tho, nhà thơ coi mình như kẻ đi đày, như người lính nơi ải quan xa, bó gối, lạnh lẽo, mong có chút lửa đời để sưởi, lòng mơ đến một nơi chốn nào: Chúng ta nay trong cuộc thế ao tù Đốt điếu thuốc chiêu hồn sương quá khứ Mỗi khi thu đưa gió vàng lưỡng lự Có buồn chăng, lòng bận ở đâu xưa ? (Mơ xưa, Gò Công 1942) Thế là, ông bỏ cuộc sống của một viên chức Sở Đoan Mỹ Tho (1943), ra Hà Nội với Huy Cận, bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh. Hiểu vậy, mới thấy việc Xuân Diệu nhiệt tình đón chào Cách mạng tháng Tám, tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, viết Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông như tất yếu trong sống và sáng tạo. Nhập với đời, vẫn tấm lòng khát khao, giao hòa ấy, Xuân Diệu đi với nhân dân: Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc đời chiến đấu Của triệu người yêu dấu gian lao. (Những đêm hành quân) Ý thức công dân đã hướng ngòi bút của ông phục vụ cho đời, Xuân Diệu viết nhiều thể loại, từ thơ ca, ký sự đến tiểu luận, phê bình hay nói chuyện thơ, cũng vì thế. Ông ca ngợi Tổ quốc bằng những vần thơ chân thành, cảm động. Ông quan niệm cái gì có ích thì nên làm, tự xem mình “ Tay siêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm ”. Cái nhìn tích cực đó một mặt vừa chống chọi lại bi kịch bản thân, một mặt vừa khẳng định sự có mặt của mình trên trần gian này. Chỗ này làm nên chất triết luận trong thơ Xuân Diệu. x x x Nói như Thế Lữ trong Lời giới thiệu tập Thơ thơ : “ Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Lòng yêu đời, trước kia, đôi khi có cái nhìn khinh bạc, kiêu ngạo, muốn đứng trên tất cả : Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta (Hy Mã Lạp Sơn) Từ sau 1945, trái tim nóng bỏng, nhiệt thành đó hòa cùng biển lớn cuộc đời. Xuân Diệu từng mong được cám ơn cuộc đời và tâm niệm đó đã góp phần thúc đẩy sức sáng tạo trong ông. Nửa thế kỷ sáng tác với gần 50 tác phẩm, đủ đề tài, loại thể, Xuân Diệu xứng đáng là cây đại thụ trong nền văn học đương đại Việt Nam. Con người từng van vỉ cuộc đời: Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ Một giây cũng cam, một chút cũng đành ……….. Thơ tôi đó, gió lùa đem tỏa khắp. Và lòng tôi, mời mọc bạn chia nhau … (Lời thơ vào tập Gửi hương ) Thế nhưng, Xuân Diệu đã không được tình yêu, hạnh phúc riêng tư mỉm cười. Sinh thời, ông sống cô đơn. Vào những ngày tết nhất, khi thiên hạ bận bịu lo toan, sắm sanh các thứ, khi gia đình quây quần bên nhau, Xuân Diệu lại một thân một mình với chiếc bàn viết. Trong bài viết Tết với nhà thơ Xuân Diệu , Hoàng Cát kể lại, tại Hà Nội, Xuân Diệu có hai người em ruột cùng cha khác mẹ, bà Ngô Xuân Như và ông Ngô Xuân Huy. Bữa cơm chiều 30 Tết, ông ăn tại nhà người em gái, Ngô Xuân Như. Những bữa sau, vào các ngày mồng 1, mồng 2 Tết, ông ăn cơm tết tại nhà người em trai, ông Ngô Xuân Huy. Dĩ nhiên, trong những ngày Tết, năm nào cũng vậy, gia đình nhà thơ Huy Cận cũng mời Xuân Diệu một bữa. Hai ông là bạn tri âm tri kỉ hồi còn học ở Quốc học-Huế. Thời gian còn lại, Xuân Diệu lặng lẽ và riết róng, miệt mài và cặm cụi với chữ nghĩa, tất cả hiến dâng cho đời những trang viết sâu nặng cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu vẫn biết mùa xuân đang đứng bên ngoài. Tình yêu văn chương và ý thức cống hiến ở Xuân Diệu là vô cùng lớn lao và đẹp đẽ. Bao nhiêu năm, ông hoàng của tình yêu cũng chỉ là một đôi đũa lệch trong mâm cơm hạnh phúc. Song, ông đã chiến đấu với năm đẩy, tháng dồi ấy bằng một nghị lực, ý chí vô song và cao cả. Trong bài thơ Khung cửa sổ , ta nghe một tiếng nói chân tình, cô đơn của Xuân Diệu. Xuân Diệu thèm một mái ấm, một bàn tay, nhưng nào được. Một nỗi sợ lan tỏa, trống vắng, với nhiều cái “không” đè nặng lên tâm hồn, lên cuộc sống: Anh có nhà có cửa Nhưng không vợ không con Sợ cái bếp không lửa Sợ cái cửa không đèn. Những đêm đi xa về Tận xa nhìn cửa đóng Không ánh sáng đón mình Không có ai trông ngóng. .. Thương quá! Những dòng thơ thật cảm động. Xuân Diệu đã đi xa. Giở từng trang viết của ông, ta vẫn thấy bồi hồi sự sống. Nhớ Xuân Diệu, đọc những dòng thơ ông viết năm 1939 trong Tình mai sau , ta càng yêu nhà thơ hơn: Ngày thuở ấy, lâu rồi tôi đã chết Tháng ngày qua chôn lấp mộ hoang tàn Hòa với đất, mình tôi thôi đã hết Nhưng hương hồn còn luyến ở không gian … Đi sao được khi mặt trời vẫn nở Bỏ sao đang những mái ngói yên buồn Đường rất lặng với hàng cây hay nhớ Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn… HUỲNH VĂN HOA
SẮM TẾT CHO NGƯỜI ĐANG XA CÁCH HUỲNH VĂN HOA Tết đến, Xuân về, người ta lo đi sắm sanh quà Tết cho mình và cho người thân. Thường là, cái gì tốt, cái gì đẹp, tươi vui, thì sắm cho người khác. Không nằm trong mạch suy nghĩ đó, Hữu Thỉnh có bài thơ về Tết thật hay và lạ, đẹp nhưng buồn. Sắm Tết viết vào tháng 2-1993, thời điểm kinh tế còn khó khăn, nhiều lo toan, vất vả. Bài thơ có 16 câu, 80 từ, được đưa vào tập Thương lượng với thời gian (NXB Hội Nhà văn, 2005), như sau: SẮM TẾT Biết sắm Tết gì đây Cho người đang xa cách Một trời hoa mở khép Hoa nào cho đôi ta Chợ gần vòng chợ xa Bán mua toàn thiên hạ Chợ mỗi ngày mỗi giá Giá nào cho chia phôi Biết sắm tết gì đây Cho người đang xa cách Mua gì cho đỡ rét Bán gì vơi cô đơn Chim chớp cánh sau vườn Ngày dồn toa trên lịch Biết sắm tết gì đây Cho người đang xa cách Bài thơ có hai nhân vật. Nhà thơ và người đang xa cách. Người đang xa cách là ai ? Quan hệ gì với nhà thơ ? Tại sao nói “Hoa nào cho đôi ta” ? Thì ra, đây là bài thơ tình. Thơ tình mà có yếu tố thế sự. Yếu tố này nằm trong mỗi khổ thơ. Vì thế, bài thơ mang âm hưởng buồn, âm hưởng này làm nên vẻ đẹp của hình tượng thơ. Mở đầu, nhà thơ viết: Biết sắm Tết gì đây Cho người đang xa cách Câu thơ thứ nhất và thứ hai cho thấy nỗi niềm của người đi sắm Tết: Sắm Tết / Cho người đang xa cách. Trong đời sống, việc đi sắm Tết cho mình hay cho người thân của mình là chuyện thường tình. Nhưng ở đây, Hữu Thỉnh lại có tứ thơ lạ: Sắm Tết cho người đang xa cách. Việc sắm tết không hướng đến mình mà ngược lại, hướng đến “người đang xa cách”. Khoảng không giữa nhà thơ và “người đang xa cách” là bao, không rõ. Song, có điều đáng nói là, khoảng không gian đó đã làm nên niềm cảm xúc, sự xao xuyến, nỗi bâng khuâng trong lòng nhà thơ và cũng làm nên tiết tấu, nhịp điệu của các câu thơ. Người đang xa cách có mặt ở các khổ thơ, chi phối tâm trạng sắm tết. Chú ý, sẽ thấy có ba yếu tố của Tết, đó là Hoa – Chợ – Lịch. Tết đồng nghĩa với hoa. Hoa khoe sắc xuân tươi. Hoa làm đẹp cho đời. Osawa (Nhật Bản) trong Minh triết của hoa , cho rằng : Hoa có tiếng nói của hoa ( Văn nghệ , Xuân Nhâm Thân, số 5 và 6, ngày 8/2/1992). Vậy mà, với nhà thơ, Một trời hoa mở khép / Hoa nào cho đôi ta. Một câu hỏi không có câu trả lời. Câu trả lời lặng vào sâu thẳm của tình cảm. Ngày trước, Huy Cận có bài thơ ngũ ngôn, Hoa về, đầy cảm xúc: Mỗi năm hoa về đây Hoa nói gì với người Lòng người chắc nặng lắm Hoa nói hoài không thôi. Hoa trong thơ Hữu Thỉnh không cho “đôi ta”. Một trời hoa không rực thắm, không viên mãn, không tròn đầy, chỉ mở và khép. Chẳng có hoa nào cho đôi ta ? Bắt đầu từ đây, nỗi buồn sắm tết len vào các khổ thơ. Tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa Tết thì không thể không nói đến chợ. Ở đây, chợ Tết hay chợ đời ? Chợ gần vòng chợ xa. Người bán và người mua. Giá cả, mỗi ngày cứ lên xuống. Chỉ có điều, không có giá nào cho sự chia phôi, xa cách, không có giá nào đo lường được nỗi niềm cho người phương xa. “Người đang xa cách” có thấu chăng nỗi niềm này: Chợ gần vòng chợ xa Bán mua toàn thiên hạ Chợ mỗi ngày mỗi giá Giá nào cho chia phôi “Giá” không còn mang ý nghĩa thị trường, chuyển nghĩa thành chia phôi, xa cách. Bốn câu thơ tiếp mới trĩu nặng cảm xúc, đẩy những cung bậc của tình cảm đến đỉnh điểm, rơi vào cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo buồn, sao cho “đỡ”, cho “vơi”: Biết sắm tết gì đây Cho người đang xa cách Mua gì cho đỡ rét Bán gì vơi cô đơn “Đỡ” và “Vơi” hai từ dùng thật đắc, lung linh giữa hai bờ vực: thực và mơ. Giá rét của mùa đông hay giá rét của tâm hồn, cô đơn của trạng thái hay đơn độc giữa chợ đời ? Một cách nói ẩn dụ, giàu sắc thái, mang lại cảm xúc thẩm mỹ cao, khiến trường liên tưởng mở rộng, chạm vào cái mong manh, hồ dễ của nghìn trùng xa cách, nhớ nhung. Bốn câu thơ cuối cùng hé cho ta thấy chút hy vọng. Chim đã chớp cánh ở vườn sau. Ngày đã dần vơi trên tấm lịch, người đang xa cách chắc về. Con – tàu -thời – gian mang lại chút gì hy vọng, dẫu biết mong manh: Chim chớp cánh sau vườn Ngày dồn toa trên lịch Biết sắm tết gì đây Cho người đang xa cách Hữu Thỉnh là nhà thơ khắc khoải về thời gian, nói rất hay về sự chuyển dịch mơ hồ của năm tháng, sự ảo hóa của thiên nhiên, gắn liền với tâm trạng. Sự dịch chuyển hình tượng thơ phản ánh cái nhìn tinh tế của người nghệ sĩ về con người – thời gian – đất trời. Sắm Tết là bài thơ về mỹ học của nỗi buồn. HUỲNH VĂN HOA
PREPARING TET FOR PEOPLE WHO ARE AWAY HUYNH VAN HOA Tet comes and Spring comes, people worry about buying Tet gifts for themselves and their relatives. Usually, what is good, what is beautiful, what is cheerful, is bought for others. Not in that line of thinking, Huu Thinh has a poem about Tet that is beautiful and strange, beautiful but sad. Tet shopping Written in February 1993, when the economy was still difficult, with many worries and hardships. The poem has 16 lines and 80 words, and is included in the volume Negotiate with time (Writers Association Publishing House, 2005), as follows: TET SHOPPING Know what to buy for Tet For those who are far away A sky of flowers opening and closing Any flowers for us? The market is near and the market is far away Sell ​​and buy all over the world Market every day, every price What is the price for splitting embryos? Know what to buy for Tet For those who are far away What to buy to avoid the cold? What to sell to relieve loneliness? Birds flutter their wings in the backyard Prescription date on the calendar Know what to buy for Tet For those who are far away The poem has two characters. The poet and the poet are separated. Who is the person who is far away? What is the relationship with the poet? Why do you say "Which flower is for us"? Turns out, this is a love poem. Love poetry with real world elements. This element is in each stanza. Therefore, the poem has a sad sound, this sound creates the beauty of the poetic image. At the beginning, the poet wrote: Know what to buy for Tet For those who are far away The first and second verses show the feelings of Tet shoppers: Tet shopping / For people who are far away. In life, shopping for Tet for yourself or your loved ones is a normal thing. But here, Huu Thinh has four strange poems: Tet shopping for people who are far away. Tet shopping is not directed towards you, but on the contrary, towards "the person who is far away". The distance between the poet and "the person who is far away" is unclear. However, what is worth mentioning is that that space created emotions, excitement, and sadness in the poet's heart and also created the tempo and rhythm of the verses. People are distant present in the poem's stanzas, influencing the mood of Tet shopping. Pay attention, you will see there are three elements of Tet, namely Flowers – Market – Calendar. Tet is synonymous with flowers. Flowers show off their fresh spring colors. Flowers beautify life. Osaka (Japan) in Wisdom of flowers , suppose, I think : Flowers have the voice of flowers ( Art , Xuan Nham Than, Không. 5 and 6, February 8, 1992). Yet, to the poet, A sky of flowers opening and closing / What flowers for us two. A question without an answer. The answer goes deep into the depths of emotion. In the past, Huy Can wrote a five-word poem, Hoa returns, full of feeling: Every year flowers come here What do flowers say to people? People's hearts must be very heavy Hoa can't stop talking. Flowers in Huu Thinh's poems are not given to "the two of us". A sky of flowers that is not bright, not perfect, not full, just opening and closing. No flowers for us? Starting from here, the sadness of shopping for Tet creeps into the poem's stanzas. Dr. Huynh Van Hoa It's impossible not to mention the market during Tet. Here, Tet market or life market? The market is near and the market is far away. Seller and buyer. Prices go up and down every day. The only thing is, there is no price for separation, separation, no price that can measure the feelings for people far away. "The person who is far away" can understand this feeling: The market is near and the market is far away Sell ​​and buy all over the world Market every day, every price What is the price for splitting embryos? “Price” no longer has a market meaning, it has changed its meaning to division, separation. The next four verses are filled with heavy emotions, pushing the emotional level to the peak, falling into loneliness, isolation, coldness and sadness, to "relieve" and "relieve": Know what to buy for Tet For those who are far away What to buy to avoid the cold? What to sell to relieve loneliness? “Help” and “Voi” are two words that are used very well, shimmering between two edges: reality and dream. The cold of winter or the cold of the soul, the loneliness of a state or alone in the market of life? A metaphor, rich in nuance, bringing high aesthetic emotions, making the field of association expand, touching the fragility and confusion of thousands of separation and longing. The last four verses give us some hope. Birds have fluttered in the backyard. The days are gradually fading on the calendar, and the person who is far away will surely return. The time ship brings some hope, even though it is fragile: Birds flap their wings in the backyard Prescription date on the calendar Know what to buy for Tet For those who are far away Huu Thinh is a poet anxious about time, speaking very well about the vague transition of years, the virtualization of nature, associated with mood. The shifting poetic images reflect the artist's subtle view of people - time - earth and sky. Tet shopping is a poem about the aesthetics of sadness. HUYNH VAN HOA
THƯƠNG NHỚ TƯỜNG LINH, MỘT NGƯỜI THƠ XỨ QUẢNG HUỲNH VĂN HOA Nhà thơ Tường Linh tên thật Nguyễn Linh, sinh năm ngày 12 – 12 – 1931 tại thôn Trung Hà, làng Trung Phước, huyện Quế Sơn, nay là xã Quế Trung, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Ông thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Ông rời xa quê từ 1954, sống ở Huế, Quảng Trị. Từ ngày 1-3- 1956 đến nay, sống tại Gia Định – Sài Gòn. Mất lúc 18 giờ 15 ngày 5-2-2021, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 90 tuổi. Thơ Tường Linh đăng nhiều trên các tạp chí như Bách Khoa, Văn, Văn học. Hơn 70 năm sáng tác, ông là tác giả của hàng chục tập thơ. Trước sau, Tường Linh vẫn thủy chung với dòng thơ về quê hương xứ Quảng. Trong thơ ca Việt Nam, không ít những nhà thơ viết về cảnh và người quê hương, để lại dấu ấn trong văn học dân tộc. Đó là những Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Nguyễn Bính của thời kỳ Thơ mới (1932-1945). Sau này, vẫn có số nhà thơ viết về quê hương, song, lưu cảm xúc nơi người đọc sâu đậm, đầy thương nhớ, lay động những con tim xa xứ thì không ai như Tường Linh. Tường Linh thể hiện một cách chân thật, hồn hậu cái tình quê, cảnh quê, duyên quê, hồn quê của xứ Quảng, qua đó, ghi dấu ấn của mình trong thơ ca hiện đại Việt Nam. Tường Linh là một hiện tượng hiếm hoi của thơ ca miền Nam trước 1975. Sau này cũng vậy. Gần như một đời làm thơ viết văn, Tường Linh chỉ và chỉ viết thành công về cảnh sắc và con người quê hương xứ Quảng. Có thể nói, ít ai nặng nghĩa nặng tình với vùng đất nơi mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành như Tường Linh. Bao tên núi, tên sông, tên làng, tên xóm như Cà Tang, Trung Phước, Đại Bình, Đèo Le, Hòn Kẽm, Đá Dừng, Nam Phước, Duy Xuyên, Vĩnh Điện, Hội An, Cửa Đại, Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn,… đã trở thành những địa danh hằn sâu trong tâm khảm: Quê cha bên này sông / Tiếng đồn cau Trung Phước / Quê mẹ bên kia dòng / Cát vàng ôm bến nước / Tu hú kêu bên ấy / Văng vẳng tới bên này / Gà khuya cao tiếng gáy / Dân hai làng đều hay …… (Quê ngoại) Thấy gì đâu chỉ núi chắn mây mờ / Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước (Vọng tình chim) Trong thơ Tường Linh, con sông Thu Bồn là “ dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn”. Hơi thở của sông nước Thu Bồn phả vào trong thơ Tường Linh, làm nên một mảnh hồn làng riêng biệt. Tác giả gọi đó Nhánh hồn sông Thu. Sông quê vẫn cứ ngày đêm thao thiết không ngừng chảy, chảy qua những phận đời, những vui buồn cuộc sống, những làng mạc bốn mùa mưa nắng, từ đó, có thể nói, đã tạo ra những bài thơ hay nhất của Tường Linh. Tường Linh có nhiều câu thơ da diết về dòng sông này. Con sông là một phần đời của nhà thơ, ký ức về thời gian và cảnh sắc quê hương: tôi nghĩ về một dòng sông / dòng sông quê hương có đôi bờ đất mật / có những tên làng tôi yêu mến nhất / có triền xanh, gành xám, bãi vàng / những hàng cừ xe gió nước reo vang / những thác xiết nhọc nhằn thuyền lên ngược / nguồn hai ngã, lòng sông chung guồng nước / khúc cạn, khúc sâu, phía lở, phía bồi / sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi (Dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn). Những bức tranh quê của Tường Linh không nhiều màu sắc như thơ Đoàn Văn Cừ. Cái đọng lại vẫn là tái hiện được không khí hội làng: Người nhắn tôi về Trung Phước chơi / Mừng đêm khai hạ đuốc hoa bơi / Người nhắn về vui hội tháng Giêng / Trống đình rộn rã hội kỳ yên / Bài chòi, hát bội dua ghe tiếng / Ngày mới đông vui khách mấy miền (Bóng làng). Ở đó còn chăng tháng Giêng mưa bụi / Tiếng trống chầu hát bội lệ kỳ yên / (Vang bóng) Tường Linh xa quê, nên cứ “hẹn với làng xưa”, “gửi về bà con ở Trung Phước”. Ngày trước, Trung Phước là quê, là nơi gặp gỡ của ba nhà thơ xứ Quảng: Bùi Giáng (1926 – 1998), Tạ Ký (1928 -1979, tác giả Sầu ở lại, Cô đơn còn mãi ) và Tường Linh (1931 – 2021). Làng Trung Phước nằm phía hữu ngạn của sông Thu Bồn, nơi phong cảnh vùng hữu tình. Núi đồi quê Tường Linh là nơi Bùi Giáng từng đi chăn dê, nơi có những địa danh đi vào những bài thơ hay trong Mưa nguồn . Các chàng thi sĩ đất Quảng từng sống trong một làng, có khi ở cùng một xóm với nhau. Vì thế, khi cải táng mộ Tạ Ký (5-4-2001), bạn bè và gia đình đưa Tạ Ký về nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, nằm bên cạnh mộ phần của Bùi Giáng. Tường Linh có nhiều bài thơ tặng Bùi Giáng, Tạ Ký là thế. Trong thơ Tường Linh, có một xứ Quảng chìm trong bão giông và lũ lụt. Đấy là những dòng thơ đầy uất nghẹn, thương cảm cho bà con bị trận lụt lịch sử ngày 9-11-1964 (mồng 6 tháng 10 năm Giáp Thìn): Không còn gì nữa cả / Không còn gì nữa cả em ơi ! / Một tháng quê hương không bóng mặt trời / Một tháng quê hương mưa gào gió thét / Đất Quảng thân yêu người người rên xiết / Sáu mươi năm lại đến “họa năm Thìn” / Thảm nạn này biết thuở nào quên / Một tối nước lên / Nước tràn lên khủng khiếp / Cả ngàn người, cả vạn người không chạy kịp / Cà Tang ơi, Trung Phước, Đại Bình ơi! / Đông An, Bình Yên nước xóa cả rồi / Đá núi lấp đồng / Bùn sông lấp xóm / Mưa vẫn còn rây trên quê hương ảm đạm / Đồng hoang vu còn giữ những thây người / Những thây người không đếm hết, em ơi ! (Thảm nạn quê hương, Tạp chí Văn, số 24, ngày 15-12-1964). Hằng năm, ngày 6-11 âm lịch, các làng ở Trung Phước làm lễ giỗ cho những người đã mất năm Giáp Thìn. Bài thơ Tin bão miền Trung là nỗi niềm của đứa con phương xa, thương về miền Trung, nơi có người mẹ nghèo, chống chọi với gió bão: Bão đã lên, ơi xứ ta nghèo Ai ra ngoài nớ gởi sầu theo Có bao nhà đổ, bao người chết Bao lúa, khoai, ngô… hóa bọt bèo ! Nhà tôi ở đó mong manh lắm ! Tay mẹ làm sao chống gió cuồng ? Con ở phương Nam chiều vẫn ấm Mà lòng như có nước sông tuôn… Thơ Tường Linh là nỗi lòng phương nam gửi về quê nhà. Tường Linh hay dùng từ “ngoài ấy”, “ngoài nớ” để chỉ xứ Quảng thân yêu: Ngoài ấy bây giờ chưa nắng lắm / Nhiều hoa gạo đỏ nở ven sông / Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa / Xiêu xiêu quán nhỏ mé đường thưa / “Ngoài ấy” – nghe như xa cách lắm / Mà thành xa cách cố hương ơi ! (Quê nhà). Hình ảnh mến thương của quê hương hiện lên trong thơ: Lối ngõ chiều im mát bóng tre / Đĩa bông bí luộc lẫn vòi măng / Bát canh hoa lý thơm chiều / Mây cuối chiều bay cũng vội vàng ( Mẹ quê xa). Thương nhớ chiếc cổng làng: Người xa xứ bâng khuâng sầu phế tích / Được trở về đứng trước cổng làng xưa / Cổng vẫn mở theo sử làng không khép / Như đời đời còn mãi tiếng gà trưa (Cổng làng). Những con người bình thường của quê hương, như anh thương binh chống Pháp, ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa, nay, trở về nguyên quán với “Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường / Anh trở lại, với bàn tay còn lại / Vẫy vẫy chào Non Nước quê hương / Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết / Mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành / Anh viết thư cho người yêu bằng tay trái / Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh “. Bài thơ viết tại Đà Nẵng, tháng 11-1954, đăng trên Bách Khoa, số 135, ngày 15-8-1962. Tường Linh thường viết về mẹ. Mẹ gắn liền với những gì thân thuộc của quê hương: Mẹ tôi dưới nắng thăm vườn cải / Chen giữa màu vàng một áo nâu / Ôi chiếc áo nâu hàn khổ ấy / Trọn đời con há dễ quên đâu ! (Mùa hoa cải) Thơ Tường Linh, trước sau vẫn là chữ TÌNH. Chữ tình, nơi hội tụ mọi ánh sáng của một tâm hồn đa cảm, trân trọng nghĩa tình với đất và người quê hương, đau đáu trước những mất mát của làng quê khi bão lũ, chiến tranh đi qua. Tâm hồn ấy, mãi về sau, khi tuổi tác đã cao, vẫn ngóng vọng về những khoảng trời trong xanh, có đám mây chiều bay về cuối trời, lòng vẫn: Mai sớm tôi đi, thuyền xuôi dòng Đôi bờ, xin gửi chút thương mong Quê hương chớ gọi tôi là khách Bài độc hành ca viết chửa xong (Đi giữa đôi bờ) Năm Tân Tỵ (2001), cách đây 20 năm, cuối bài Khúc ca quy ẩn , nhà thơ đã thấy “vạn nẻo trầm luân”, nghĩ về kiếp người mong manh: Cuối cuộc viễn trình đơn độc quá Bơ phờ cánh hạc khép đường bay Gẫm bao chí lớn trong thiên hạ Chẳng được còn xanh với cỏ cây Thì ta một chấm nhân sinh nhỏ Mong mỏi gì hơn ở kiếp này ? … Khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp Khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy Vang mãi dư âm triều hệ lụy Thôi chào tuyệt tích gửi ai đây ? Ngày 5-2-2021, cánh hạc Tường Linh đã khép đường bay, chào từ biệt thế gian, về cuối cuộc viễn trình, hết “một chấm nhân sinh nhỏ” trên cõi trần hệ lụy này. Mong ông thanh thản. Đà Nẵng , 6-2-2021 HUỲNH VĂN HOA
THƯƠNG NHỚ TƯỜNG LINH, MỘT NGƯỜI THƠ XỨ QUẢNG HUỲNH VĂN HOA Nhà thơ Tường Linh tên thật Nguyễn Linh, sinh năm ngày 12 – 12 – 1931 tại thôn Trung Hà, làng Trung Phước, huyện Quế Sơn, nay là xã Quế Trung, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Ông thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Ông rời xa quê từ 1954, sống ở Huế, Quảng Trị. Từ ngày 1-3- 1956 đến nay, sống tại Gia Định – Sài Gòn. Mất lúc 18 giờ 15 ngày 5-2-2021, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 90 tuổi. Thơ Tường Linh đăng nhiều trên các tạp chí như Bách Khoa, Văn, Văn học. Hơn 70 năm sáng tác, ông là tác giả của hàng chục tập thơ. Trước sau, Tường Linh vẫn thủy chung với dòng thơ về quê hương xứ Quảng. Trong thơ ca Việt Nam, không ít những nhà thơ viết về cảnh và người quê hương, để lại dấu ấn trong văn học dân tộc. Đó là những Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Nguyễn Bính của thời kỳ Thơ mới (1932-1945). Sau này, vẫn có số nhà thơ viết về quê hương, song, lưu cảm xúc nơi người đọc sâu đậm, đầy thương nhớ, lay động những con tim xa xứ thì không ai như Tường Linh. Tường Linh thể hiện một cách chân thật, hồn hậu cái tình quê, cảnh quê, duyên quê, hồn quê của xứ Quảng, qua đó, ghi dấu ấn của mình trong thơ ca hiện đại Việt Nam. Tường Linh là một hiện tượng hiếm hoi của thơ ca miền Nam trước 1975. Sau này cũng vậy. Gần như một đời làm thơ viết văn, Tường Linh chỉ và chỉ viết thành công về cảnh sắc và con người quê hương xứ Quảng. Có thể nói, ít ai nặng nghĩa nặng tình với vùng đất nơi mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành như Tường Linh. Bao tên núi, tên sông, tên làng, tên xóm như Cà Tang, Trung Phước, Đại Bình, Đèo Le, Hòn Kẽm, Đá Dừng, Nam Phước, Duy Xuyên, Vĩnh Điện, Hội An, Cửa Đại, Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn,… đã trở thành những địa danh hằn sâu trong tâm khảm: Quê cha bên này sông / Tiếng đồn cau Trung Phước / Quê mẹ bên kia dòng / Cát vàng ôm bến nước / Tu hú kêu bên ấy / Văng vẳng tới bên này / Gà khuya cao tiếng gáy / Dân hai làng đều hay …… (Quê ngoại) Thấy gì đâu chỉ núi chắn mây mờ / Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước (Vọng tình chim) Trong thơ Tường Linh, con sông Thu Bồn là “ dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn”. Hơi thở của sông nước Thu Bồn phả vào trong thơ Tường Linh, làm nên một mảnh hồn làng riêng biệt. Tác giả gọi đó Nhánh hồn sông Thu. Sông quê vẫn cứ ngày đêm thao thiết không ngừng chảy, chảy qua những phận đời, những vui buồn cuộc sống, những làng mạc bốn mùa mưa nắng, từ đó, có thể nói, đã tạo ra những bài thơ hay nhất của Tường Linh. Tường Linh có nhiều câu thơ da diết về dòng sông này. Con sông là một phần đời của nhà thơ, ký ức về thời gian và cảnh sắc quê hương: tôi nghĩ về một dòng sông / dòng sông quê hương có đôi bờ đất mật / có những tên làng tôi yêu mến nhất / có triền xanh, gành xám, bãi vàng / những hàng cừ xe gió nước reo vang / những thác xiết nhọc nhằn thuyền lên ngược / nguồn hai ngã, lòng sông chung guồng nước / khúc cạn, khúc sâu, phía lở, phía bồi / sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi (Dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn). Những bức tranh quê của Tường Linh không nhiều màu sắc như thơ Đoàn Văn Cừ. Cái đọng lại vẫn là tái hiện được không khí hội làng: Người nhắn tôi về Trung Phước chơi / Mừng đêm khai hạ đuốc hoa bơi / Người nhắn về vui hội tháng Giêng / Trống đình rộn rã hội kỳ yên / Bài chòi, hát bội dua ghe tiếng / Ngày mới đông vui khách mấy miền (Bóng làng). Ở đó còn chăng tháng Giêng mưa bụi / Tiếng trống chầu hát bội lệ kỳ yên / (Vang bóng) Tường Linh xa quê, nên cứ “hẹn với làng xưa”, “gửi về bà con ở Trung Phước”. Ngày trước, Trung Phước là quê, là nơi gặp gỡ của ba nhà thơ xứ Quảng: Bùi Giáng (1926 – 1998), Tạ Ký (1928 -1979, tác giả Sầu ở lại, Cô đơn còn mãi ) và Tường Linh (1931 – 2021). Làng Trung Phước nằm phía hữu ngạn của sông Thu Bồn, nơi phong cảnh vùng hữu tình. Núi đồi quê Tường Linh là nơi Bùi Giáng từng đi chăn dê, nơi có những địa danh đi vào những bài thơ hay trong Mưa nguồn . Các chàng thi sĩ đất Quảng từng sống trong một làng, có khi ở cùng một xóm với nhau. Vì thế, khi cải táng mộ Tạ Ký (5-4-2001), bạn bè và gia đình đưa Tạ Ký về nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, nằm bên cạnh mộ phần của Bùi Giáng. Tường Linh có nhiều bài thơ tặng Bùi Giáng, Tạ Ký là thế. Trong thơ Tường Linh, có một xứ Quảng chìm trong bão giông và lũ lụt. Đấy là những dòng thơ đầy uất nghẹn, thương cảm cho bà con bị trận lụt lịch sử ngày 9-11-1964 (mồng 6 tháng 10 năm Giáp Thìn): Không còn gì nữa cả / Không còn gì nữa cả em ơi ! / Một tháng quê hương không bóng mặt trời / Một tháng quê hương mưa gào gió thét / Đất Quảng thân yêu người người rên xiết / Sáu mươi năm lại đến “họa năm Thìn” / Thảm nạn này biết thuở nào quên / Một tối nước lên / Nước tràn lên khủng khiếp / Cả ngàn người, cả vạn người không chạy kịp / Cà Tang ơi, Trung Phước, Đại Bình ơi! / Đông An, Bình Yên nước xóa cả rồi / Đá núi lấp đồng / Bùn sông lấp xóm / Mưa vẫn còn rây trên quê hương ảm đạm / Đồng hoang vu còn giữ những thây người / Những thây người không đếm hết, em ơi ! (Thảm nạn quê hương, Tạp chí Văn, số 24, ngày 15-12-1964). Hằng năm, ngày 6-11 âm lịch, các làng ở Trung Phước làm lễ giỗ cho những người đã mất năm Giáp Thìn. Bài thơ Tin bão miền Trung là nỗi niềm của đứa con phương xa, thương về miền Trung, nơi có người mẹ nghèo, chống chọi với gió bão: Bão đã lên, ơi xứ ta nghèo Ai ra ngoài nớ gởi sầu theo Có bao nhà đổ, bao người chết Bao lúa, khoai, ngô… hóa bọt bèo ! Nhà tôi ở đó mong manh lắm ! Tay mẹ làm sao chống gió cuồng ? Con ở phương Nam chiều vẫn ấm Mà lòng như có nước sông tuôn… Thơ Tường Linh là nỗi lòng phương nam gửi về quê nhà. Tường Linh hay dùng từ “ngoài ấy”, “ngoài nớ” để chỉ xứ Quảng thân yêu: Ngoài ấy bây giờ chưa nắng lắm / Nhiều hoa gạo đỏ nở ven sông / Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa / Xiêu xiêu quán nhỏ mé đường thưa / “Ngoài ấy” – nghe như xa cách lắm / Mà thành xa cách cố hương ơi ! (Quê nhà). Hình ảnh mến thương của quê hương hiện lên trong thơ: Lối ngõ chiều im mát bóng tre / Đĩa bông bí luộc lẫn vòi măng / Bát canh hoa lý thơm chiều / Mây cuối chiều bay cũng vội vàng ( Mẹ quê xa). Thương nhớ chiếc cổng làng: Người xa xứ bâng khuâng sầu phế tích / Được trở về đứng trước cổng làng xưa / Cổng vẫn mở theo sử làng không khép / Như đời đời còn mãi tiếng gà trưa (Cổng làng). Những con người bình thường của quê hương, như anh thương binh chống Pháp, ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa, nay, trở về nguyên quán với “Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường / Anh trở lại, với bàn tay còn lại / Vẫy vẫy chào Non Nước quê hương / Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết / Mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành / Anh viết thư cho người yêu bằng tay trái / Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh “. Bài thơ viết tại Đà Nẵng, tháng 11-1954, đăng trên Bách Khoa, số 135, ngày 15-8-1962. Tường Linh thường viết về mẹ. Mẹ gắn liền với những gì thân thuộc của quê hương: Mẹ tôi dưới nắng thăm vườn cải / Chen giữa màu vàng một áo nâu / Ôi chiếc áo nâu hàn khổ ấy / Trọn đời con há dễ quên đâu ! (Mùa hoa cải) Thơ Tường Linh, trước sau vẫn là chữ TÌNH. Chữ tình, nơi hội tụ mọi ánh sáng của một tâm hồn đa cảm, trân trọng nghĩa tình với đất và người quê hương, đau đáu trước những mất mát của làng quê khi bão lũ, chiến tranh đi qua. Tâm hồn ấy, mãi về sau, khi tuổi tác đã cao, vẫn ngóng vọng về những khoảng trời trong xanh, có đám mây chiều bay về cuối trời, lòng vẫn: Mai sớm tôi đi, thuyền xuôi dòng Đôi bờ, xin gửi chút thương mong Quê hương chớ gọi tôi là khách Bài độc hành ca viết chửa xong (Đi giữa đôi bờ) Năm Tân Tỵ (2001), cách đây 20 năm, cuối bài Khúc ca quy ẩn , nhà thơ đã thấy “vạn nẻo trầm luân”, nghĩ về kiếp người mong manh: Cuối cuộc viễn trình đơn độc quá Bơ phờ cánh hạc khép đường bay Gẫm bao chí lớn trong thiên hạ Chẳng được còn xanh với cỏ cây Thì ta một chấm nhân sinh nhỏ Mong mỏi gì hơn ở kiếp này ? … Khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp Khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy Vang mãi dư âm triều hệ lụy Thôi chào tuyệt tích gửi ai đây ? Ngày 5-2-2021, cánh hạc Tường Linh đã khép đường bay, chào từ biệt thế gian, về cuối cuộc viễn trình, hết “một chấm nhân sinh nhỏ” trên cõi trần hệ lụy này. Mong ông thanh thản. Đà Nẵng , 6-2-2021 HUỲNH VĂN HOA
CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TẠO THƠ CA R. TAGORE Tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa Văn hóa Ấn Độ là một phần quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Ấn Độ để lại trong tâm thức của người Việt Nam qua đạo Phật, qua nền văn hóa Champa. Văn hóa Ấn Độ, nhìn chung, không tách rời văn hóa Việt Nam. Riêng R. Tagore, nhà thơ quen thuộc, thân thiết của nhân dân Việt Nam có mặt ở nước ta gần thế kỷ nay. Có lẽ, trong các nhà thơ châu Á, chỉ R. Tagore và R. Tagore là nhà thơ duy nhất có tác phẩm được dịch và in nhiều nhất ở Việt Nam. 1. R. Tagore, thiên tài nhiều mặt R. Tagore đi vào lịch sử văn chương thế giới của thế kỷ XX không chỉ với tư cách một nhà thơ, nhà văn, một họa sĩ có tài, một nhạc sĩ nổi tiếng mà hơn thế nữa là một hiền triết có hiểu biết sâu rộng, nhà hoạt động xã hội, nhà dân tộc chủ nghĩa, người được trao Giải Nobel văn học năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Đại văn hào Rabindranat Ta go cả thế giới đều kính trọng” (Nhân Dân, 19-3-1958). Rabindranath Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861, mất ngày 7 tháng 8 năm 1941. Ông là một thiên tài của Ấn Độ. Cha ông là một nhà hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng, chủ trương cải cách xã hội, do vậy, R.Tagore chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người cha. R.Tagore ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc. Ông thăm nhiều nước ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Ông chống chiến tranh và lên án chiến tranh. Tagore sinh ra trong một gia đình trí thức, có truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm giới trí thức của Ấn Độ. Nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia… thường xuyên đến nhà Tagore để đàm luận nhiều vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch… Cha ông, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu, ông muốn con mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích. 2. R. Tagore, mặt trời của thi ca Ấn Độ, một trái tim vĩ đại Như A. Puskin của Nga, như Nguyễn Du của Việt Nam, R.Tagore là đại biểu xuất sắc và tinh hoa của văn chương Ấn Độ. Ông để lại gia tài đồ sộ về nhiều thể loại, nổi bật là thơ ca, gồm 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng nghìn bức tranh, nhiều bức tranh hiện đang lưu trữ tại nhiều bảo tàng mỹ thuật tại Ấn Độ và các nước. R. Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới, cho nhân loại. Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) của Tagore đã mài dũa sự am hiểu đa dạng của ông về đặc trưng các nền văn minh và các dân tộc. Ông được xem là bằng chứng điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương và triết học. Tình yêu, một chủ đề lớn trong thơ Tagore: Thi ca của ông, xuất phát từ một tình yêu sâu sắc và sự hiến dâng, do đó, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Tình yêu, mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông. Ông yêu nhân vật nữ, trân trọng đối với người phụ nữ. Trong Bầy chim lạc, R. Tagore tự nhận mình là nghệ sĩ bé nhỏ trên cõi đời này, mang nụ cười, giọt nước mắt, ngọn lửa hy vọng, nỗi buồn của trái tim,… đến với mọi người, đến với cuộc đời. Và, cứ thế, như một hành giả, nhà thơ trải lòng mình ra với đời sống mến yêu này: Thế giới mở rộng tấm lòng của ánh sáng ban mai Hãy bước ra, trái tim tôi, đem tình yêu đến gặp gỡ thế giới này. (Bài số 149) Đêm âm thầm mở ra những đóa hoa để cho ngày nhận được lời cảm ơn. (Bài số 157) Điều khiến tôi băn khoăn, có phải hồn tôi muốn ra ngoài trời rộng, hay là hồn đời gõ cửa trái tim tôi đòi mở lối vào ? (Bài số 168) Trái tim tôi trải rộng cánh buồm cho ngọn gió nhàn tản đưa đến hòn đảo râm mát ở bất cứ nơi nào. (Bài số 218) Hãy cho tôi làm chiếc cốc của ngươi và trọn vẹn những gì bên trong đó dành cho ngươi và cho mọi người. (Bài số 220) 3. Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ R. Tagore Tagore từng viết: Trong bóng tối, trong nghèo nàn và đau khổ / Hỡi Thần Thơ ca hãy đem cho chúng tôi / bó đuốc và lòng tin tưởng … Bạn ơi, đến đây đừng nao lòng / Hãy bước xuống trên trái đất cằn khô / Đừng hái mộng trong bóng tối / Hãy bước xuống hòa vào đời bình dị / Hãy náu mình giữa những tường đá xám … Đây là tuyên ngôn thơ của Tagore. R. Tagore, nhà thơ của tình yêu: Sinh thời, cuối tập thơ “Người làm vườn” (đoạn 85), nhà thơ Tagore đã viết: “Hãy mở cửa và hãy nhìn ra ngoài / Bạn đọc /Bạn là ai / Người trăm năm về sau, đang đọc thơ tôi ? Tôi chẳng thể gửi đến bạn bông hoa duy nhất trong sắc xuân tràn đầy, ánh vàng độc nhất từ lớp mây đằng kia. Xin mở toang cửa, nhìn bốn phương trời. Tim dạt dào nguồn vui, có thể bạn sẽ cảm thấy hân hoan sinh thú ca vang một sớm mùa Xuân gửi qua trăm năm tiếng nói yêu đời”. Không chỉ trăm năm mà hàng trăm, thậm chí có thể cả nghìn năm nữa, nhân loại ta sẽ còn đọc thơ R. Tagore. Đọc những dòng trên, nói về người trăm năm về sau, ta như thấy Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh ký: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như Nhà thơ yêu con người, yêu thiên nhiên: Có thể nói, con người trong sáng tác của R.Tagore có đặc điểm: – Không tìm cách chối bỏ cuộc đời, yêu tha thiết cuộc đời: Thượng đế ở cạnh người làm đường / Đang đập đá / Thượng đế với họ cùng vất vả / Giãi nắng dầm mưa / Áo quần lấm bụi, – Không rời khỏi cuộc sống nhân sinh để tìm đến sự giải thoát, cõi thanh tịnh, cõi vô cùng: Thôi đừng trầm tư mặc tưởng / Cất luôn cả hoa hương / Quần áo rách bẩn, mặc / Đến gặp Thượng đế thôi / Cứ đến đứng bên Người / Trong lao động cùng cực / Khi trán đổ mồ hôi… – Không ngừng chủ động tìm đến với cuộc đời, chủ động thâm nhập vào cõi đời, – Không ngừng khao khát, khát khao đến cháy bỏng, đó là được sống mãi trong hiện thực muôn màu muôn vẻ: Hãy lắng nghe, trái tim tôi, những lời thì thầm của thế giới mà lòng mình đã yêu thương. (Bầy chim lạc, Bài số 13), Nơi bờ biển của thế giới, trái tim tôi sóng vỗ và viết trong nước mắt dòng chữ. “Tôi yêu người”. (Bầy chim lạc, Bài số 29) – Không có triết lý nào ngoài triết lý yêu thương con người, gắn con người với thiên nhiên; Thế giới yêu mến con người khi con người mỉm cười thân thiện. Thế giới trở nên sợ hãi con ngwoif khi họ trở nên đắc thắng (Bầy chim lạc, Bài 299) +Thấm đẫm chất nhân văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người. Triết học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người. Ông phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ với niềm cảm thông sâu sắc, gióng lên tiếng nói đấu tranh đòi tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người. 4. Việt Nam, R. Tagore và Ấn Độ Thơ R. Tagore đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Lưu Đức Trung, Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy và một số dịch giả khác. Bản dịch được yêu thích là các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan. in trước và sau 1975. Trong Chương trình Ngữ văn THCS, có đưa vào giảng dạy Mây và Sóng. Bài Mây và Sóng giáo dục học sinh cảm nhận được một cách thấm thía tình mẹ con thiêng liêng qua lời thủ thỉ của em bé với mẹ về những cuộc đối thoại tưởng tượng giữa em với những người sống trên mây và sóng. Tình yêu lứa đôi trong bài thơ số 28 của tập Người làm vườn (Đỗ Khánh Hoan, Tâm tình hiến dâng) nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 THPT. Có thể nói, thơ Tagore là cánh én mùa xuân, mang đến tình hữu nghị tuyệt vời giữa Việt Nam và Ấn Độ. 5. Đóng góp Tagore vào văn hóa Ân Độ và nhân loại – Đóng góp xuất sắc nhất của Tagore vào sự phát triển của văn học Ấn Độ và thế giới, nhất là lĩnh vực thơ ca. – Ông là “một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh túy của văn hóa Á – Âu”. – Ông là “kỳ công thứ hai của tạo hóa sau Kalidasa” – nhà thơ lớn của Ấn Độ thế kỷ thứ V, trong văn học Ấn Độ. – Ông là nhà thơ duy nhất trên thế giới đã sáng tác quốc ca cho cả hai nước: Bangladesh và Ấn Độ. R. Tagore đem đến cho thơ ca Ấn Độ một không khí thiêng liêng mà gần gũi, biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn con người trước vẻ đẹp của đất nước, quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời diễn đạt tình yêu đó bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết, chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, hạnh phúc và tình yêu. Triết lý R. Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người. Rabindranath Tagore là ngôi sao sáng của nền văn học Ấn Độ, nhà khai minh vĩ đại, đỉnh cao của văn hóa nhân loại. Bằng chính cuộc đời và qua sáng tác của mình, R. Tagore đã hướng con người tới triết lý hành động, góp phần thức tỉnh trong nhân dân Ấn Độ về ý thức tự do dân chủ khi màn sương khói thần bí của tôn giáo bao phủ đất nước này trong suốt mấy nghìn năm dần tan, nhường chỗ cho con người. Những vần thơ của R.Tagore đã đưa con người chủ động đi tìm cái đẹp, cái hạnh phúc trong cuộc đời. HUỲNH VĂN HOA
CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TẠO THƠ CA R. TAGORE Tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa Văn hóa Ấn Độ là một phần quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Ấn Độ để lại trong tâm thức của người Việt Nam qua đạo Phật, qua nền văn hóa Champa. Văn hóa Ấn Độ, nhìn chung, không tách rời văn hóa Việt Nam. Riêng R. Tagore, nhà thơ quen thuộc, thân thiết của nhân dân Việt Nam có mặt ở nước ta gần thế kỷ nay. Có lẽ, trong các nhà thơ châu Á, chỉ R. Tagore và R. Tagore là nhà thơ duy nhất có tác phẩm được dịch và in nhiều nhất ở Việt Nam. 1. R. Tagore, thiên tài nhiều mặt R. Tagore đi vào lịch sử văn chương thế giới của thế kỷ XX không chỉ với tư cách một nhà thơ, nhà văn, một họa sĩ có tài, một nhạc sĩ nổi tiếng mà hơn thế nữa là một hiền triết có hiểu biết sâu rộng, nhà hoạt động xã hội, nhà dân tộc chủ nghĩa, người được trao Giải Nobel văn học năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Đại văn hào Rabindranat Ta go cả thế giới đều kính trọng” (Nhân Dân, 19-3-1958). Rabindranath Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861, mất ngày 7 tháng 8 năm 1941. Ông là một thiên tài của Ấn Độ. Cha ông là một nhà hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng, chủ trương cải cách xã hội, do vậy, R.Tagore chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người cha. R.Tagore ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc. Ông thăm nhiều nước ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Ông chống chiến tranh và lên án chiến tranh. Tagore sinh ra trong một gia đình trí thức, có truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm giới trí thức của Ấn Độ. Nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia… thường xuyên đến nhà Tagore để đàm luận nhiều vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch… Cha ông, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu, ông muốn con mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích. 2. R. Tagore, mặt trời của thi ca Ấn Độ, một trái tim vĩ đại Như A. Puskin của Nga, như Nguyễn Du của Việt Nam, R.Tagore là đại biểu xuất sắc và tinh hoa của văn chương Ấn Độ. Ông để lại gia tài đồ sộ về nhiều thể loại, nổi bật là thơ ca, gồm 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng nghìn bức tranh, nhiều bức tranh hiện đang lưu trữ tại nhiều bảo tàng mỹ thuật tại Ấn Độ và các nước. R. Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới, cho nhân loại. Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) của Tagore đã mài dũa sự am hiểu đa dạng của ông về đặc trưng các nền văn minh và các dân tộc. Ông được xem là bằng chứng điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương và triết học. Tình yêu, một chủ đề lớn trong thơ Tagore: Thi ca của ông, xuất phát từ một tình yêu sâu sắc và sự hiến dâng, do đó, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Tình yêu, mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông. Ông yêu nhân vật nữ, trân trọng đối với người phụ nữ. Trong Bầy chim lạc, R. Tagore tự nhận mình là nghệ sĩ bé nhỏ trên cõi đời này, mang nụ cười, giọt nước mắt, ngọn lửa hy vọng, nỗi buồn của trái tim,… đến với mọi người, đến với cuộc đời. Và, cứ thế, như một hành giả, nhà thơ trải lòng mình ra với đời sống mến yêu này: Thế giới mở rộng tấm lòng của ánh sáng ban mai Hãy bước ra, trái tim tôi, đem tình yêu đến gặp gỡ thế giới này. (Bài số 149) Đêm âm thầm mở ra những đóa hoa để cho ngày nhận được lời cảm ơn. (Bài số 157) Điều khiến tôi băn khoăn, có phải hồn tôi muốn ra ngoài trời rộng, hay là hồn đời gõ cửa trái tim tôi đòi mở lối vào ? (Bài số 168) Trái tim tôi trải rộng cánh buồm cho ngọn gió nhàn tản đưa đến hòn đảo râm mát ở bất cứ nơi nào. (Bài số 218) Hãy cho tôi làm chiếc cốc của ngươi và trọn vẹn những gì bên trong đó dành cho ngươi và cho mọi người. (Bài số 220) 3. Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ R. Tagore Tagore từng viết: Trong bóng tối, trong nghèo nàn và đau khổ / Hỡi Thần Thơ ca hãy đem cho chúng tôi / bó đuốc và lòng tin tưởng … Bạn ơi, đến đây đừng nao lòng / Hãy bước xuống trên trái đất cằn khô / Đừng hái mộng trong bóng tối / Hãy bước xuống hòa vào đời bình dị / Hãy náu mình giữa những tường đá xám … Đây là tuyên ngôn thơ của Tagore. R. Tagore, nhà thơ của tình yêu: Sinh thời, cuối tập thơ “Người làm vườn” (đoạn 85), nhà thơ Tagore đã viết: “Hãy mở cửa và hãy nhìn ra ngoài / Bạn đọc /Bạn là ai / Người trăm năm về sau, đang đọc thơ tôi ? Tôi chẳng thể gửi đến bạn bông hoa duy nhất trong sắc xuân tràn đầy, ánh vàng độc nhất từ lớp mây đằng kia. Xin mở toang cửa, nhìn bốn phương trời. Tim dạt dào nguồn vui, có thể bạn sẽ cảm thấy hân hoan sinh thú ca vang một sớm mùa Xuân gửi qua trăm năm tiếng nói yêu đời”. Không chỉ trăm năm mà hàng trăm, thậm chí có thể cả nghìn năm nữa, nhân loại ta sẽ còn đọc thơ R. Tagore. Đọc những dòng trên, nói về người trăm năm về sau, ta như thấy Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh ký: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như Nhà thơ yêu con người, yêu thiên nhiên: Có thể nói, con người trong sáng tác của R.Tagore có đặc điểm: – Không tìm cách chối bỏ cuộc đời, yêu tha thiết cuộc đời: Thượng đế ở cạnh người làm đường / Đang đập đá / Thượng đế với họ cùng vất vả / Giãi nắng dầm mưa / Áo quần lấm bụi, – Không rời khỏi cuộc sống nhân sinh để tìm đến sự giải thoát, cõi thanh tịnh, cõi vô cùng: Thôi đừng trầm tư mặc tưởng / Cất luôn cả hoa hương / Quần áo rách bẩn, mặc / Đến gặp Thượng đế thôi / Cứ đến đứng bên Người / Trong lao động cùng cực / Khi trán đổ mồ hôi… – Không ngừng chủ động tìm đến với cuộc đời, chủ động thâm nhập vào cõi đời, – Không ngừng khao khát, khát khao đến cháy bỏng, đó là được sống mãi trong hiện thực muôn màu muôn vẻ: Hãy lắng nghe, trái tim tôi, những lời thì thầm của thế giới mà lòng mình đã yêu thương. (Bầy chim lạc, Bài số 13), Nơi bờ biển của thế giới, trái tim tôi sóng vỗ và viết trong nước mắt dòng chữ. “Tôi yêu người”. (Bầy chim lạc, Bài số 29) – Không có triết lý nào ngoài triết lý yêu thương con người, gắn con người với thiên nhiên; Thế giới yêu mến con người khi con người mỉm cười thân thiện. Thế giới trở nên sợ hãi con ngwoif khi họ trở nên đắc thắng (Bầy chim lạc, Bài 299) +Thấm đẫm chất nhân văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người. Triết học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người. Ông phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ với niềm cảm thông sâu sắc, gióng lên tiếng nói đấu tranh đòi tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người. 4. Việt Nam, R. Tagore và Ấn Độ Thơ R. Tagore đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Lưu Đức Trung, Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy và một số dịch giả khác. Bản dịch được yêu thích là các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan. in trước và sau 1975. Trong Chương trình Ngữ văn THCS, có đưa vào giảng dạy Mây và Sóng. Bài Mây và Sóng giáo dục học sinh cảm nhận được một cách thấm thía tình mẹ con thiêng liêng qua lời thủ thỉ của em bé với mẹ về những cuộc đối thoại tưởng tượng giữa em với những người sống trên mây và sóng. Tình yêu lứa đôi trong bài thơ số 28 của tập Người làm vườn (Đỗ Khánh Hoan, Tâm tình hiến dâng) nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 THPT. Có thể nói, thơ Tagore là cánh én mùa xuân, mang đến tình hữu nghị tuyệt vời giữa Việt Nam và Ấn Độ. 5. Đóng góp Tagore vào văn hóa Ân Độ và nhân loại – Đóng góp xuất sắc nhất của Tagore vào sự phát triển của văn học Ấn Độ và thế giới, nhất là lĩnh vực thơ ca. – Ông là “một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh túy của văn hóa Á – Âu”. – Ông là “kỳ công thứ hai của tạo hóa sau Kalidasa” – nhà thơ lớn của Ấn Độ thế kỷ thứ V, trong văn học Ấn Độ. – Ông là nhà thơ duy nhất trên thế giới đã sáng tác quốc ca cho cả hai nước: Bangladesh và Ấn Độ. R. Tagore đem đến cho thơ ca Ấn Độ một không khí thiêng liêng mà gần gũi, biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn con người trước vẻ đẹp của đất nước, quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời diễn đạt tình yêu đó bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết, chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, hạnh phúc và tình yêu. Triết lý R. Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người. Rabindranath Tagore là ngôi sao sáng của nền văn học Ấn Độ, nhà khai minh vĩ đại, đỉnh cao của văn hóa nhân loại. Bằng chính cuộc đời và qua sáng tác của mình, R. Tagore đã hướng con người tới triết lý hành động, góp phần thức tỉnh trong nhân dân Ấn Độ về ý thức tự do dân chủ khi màn sương khói thần bí của tôn giáo bao phủ đất nước này trong suốt mấy nghìn năm dần tan, nhường chỗ cho con người. Những vần thơ của R.Tagore đã đưa con người chủ động đi tìm cái đẹp, cái hạnh phúc trong cuộc đời. HUỲNH VĂN HOA
MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ ĐẠI THI HÀO R. TAGORE VÀ VIỆC DỊCH, XUẤT BẢN CÁC TÁC PHẨM TAGORE Nhà thơ Nguyễn Kim Huy 1. Là một dân tộc yêu thơ ca, yêu cái đẹp và sự an lành, yêu hòa bình và luôn tràn đầy khát vọng hướng về cái cao đẹp của tâm hồn con người, người Việt từ lâu đã đọc, đã yêu mến các thiên tài thơ ca của nhân loại, từ Lý Bạch Đỗ Phủ Trung Quốc đến Pushkin, Lermontov của Nga, Lamartine của Pháp, Goethe của Đức, Lord Byron của Anh… Đặc biệt, với sự tương đồng, gần gũi giữa hai nền văn hóa Việt – Ấn, đại thi hào R. Tagore chiếm một sự yêu mến, ngưỡng mộ vô cùng trong lòng người yêu thơ chúng ta, tên tuổi R. Tagore Ấn Độ gần gũi, quen thuộc như tên tuổi đại thi hào Nguyễn Du Việt Nam. Tagore luôn là một trong những thi hào vĩ đại nhất của nhân loại, một nhà nhân đạo cao cả, một triết gia thông thái, một người đấu tranh không mệt mỏi cho tình yêu cuộc sống và hoà bình. R. Tagore như người mang quà tặng của thượng đế, thể hiện bằng tình yêu và lòng nhân ái cao cả của mình, dâng hiến nhân loại thống khổ một trái tim mẫn cảm và chan chứa tình yêu con người. 2. Trong Lời giới thiệu của chính mình cho tập “Những bài thơ”, đại thi hào Tagore có những câu thơ rất thi vị, thú vị và mãi đến bây giờ vẫn còn nóng hổi tính thời sự của việc in – xuất bản – phát hành thơ như mới vừa được viết ra: Than ôi, những bài thơ dành cho đôi tai lắng nghe bị ràng buộc ngày hôm nay như những sợi xích nô lệ trước mắt chủ nhân của chúng và bị đày vào màu xám của những giấy tờ không giai điệu và những người lẽ ra phải được hôn mãi mãi đã lạc lối trong thị trường nhà xuất bản. Bởi đó là một thời đại tuyệt vọng, vội vàng và hối hả và nàng thơ trữ tình phải thực hiện cuộc hành trình đến nơi hò hẹn của trái tim trên xe điện và xe buýt. ……. Tôi tuyệt vọng sinh ra trong thời đại máy in bận rộn – một sự trễ muộn Kalidasa và bạn, tình yêu của tôi, biến điệu hoàn toàn. ( Bùi Xuân dịch) Nhà xuất bản Đà Nẵng tự hào và vinh dự khi được góp phần cùng các dịch giả xuất bản, giới thiệu các tác phẩm vĩ đại của R. Tagore đến với độc giả Việt Nam. Năm 1989, sau 5 năm thành lập, Nhà xuất bản đã tổ chức dịch, in và phát hành tiểu thuyết “ Nàng Binodini” ca ngợi tình yêu say đắm mãnh liệt với những ma lực huyền bí vừa nối kết vừa ràng buộc vừa thăng hoa vừa con người của R. Tagore qua bản dịch của Hồng Tiến. Năm 1996 và đầu những năm 2000, Nhà xuất bản tiếp tục giới thiệu qua nhiều lần xuất bản và tái bản các tập thơ “Lời dâng”, “Tâm tình hiến dâng” mang đậm tinh thần thơ mênh mang từ tâm hồn, trái tim con người thấu đến ngàn cõi thiên hà vũ trụ của Tagore qua các bản dịch xuất thần của Đỗ Khánh Hoan từ trước 1975 với sự cộng tác phát hành của Nhà sách Đinh Phú Hòa – Huế. Nhưng ấn tượng nhất với chúng tôi vẫn là lần đầu tiên cùng làm việc với nhà thơ Bùi Xuân về bản dịch tập thơ Tagore “Bầy chim lạc” năm 2012 của anh. Sau đó là “Mùa hái quả” năm 2013 và năm 2015 là “Người thoáng hiện”… Say đắm thơ Tagore, Bùi Xuân mê mải lội trong thế giới thơ mênh mang, bí ẩn và huyền diệu, ngập tràn tình yêu, ánh sáng và hương hoa của thiên tài thi ca R. Tagore bằng thái độ tin sùng của một tín đồ hơn là một dịch giả chuyển ngữ thơ. Anh mê man, nâng niu mỗi câu, mỗi chữ, trăn trở suy nghĩ, vận dụng đến tất cả mọi nguồn lực ngôn từ, kiến thức, khả năng cảm thụ và cảm xúc để có thể đạt được đến sự hoàn hảo mỹ mãn trong việc thể hiện tinh thần và nội dung thơ Tagore qua âm điệu ngôn từ Việt. Tôi bắt gặp trong tinh thần làm việc của anh ở các bản dịch thơ Tagore là tinh thần của một người sáng tác hơn là một người dịch thuật… Ở mức độ nào đó, Bùi Xuân, với tư cách là người chuyên dịch thơ Tagore, thật sự đã có công rất lớn trong việc thắp lại ngọn lửa tình yêu đối với thơ Tagoere trong người yêu thơ Việt những năm đầu thế kỷ XXI, giữa một thế giới công nghệ thông tin lên ngôi với bao biến động về chiến tranh, dịch bệnh, khủng bố, thiên tai… tưởng như thơ và các nhà thơ đang dần bị khuất lấp lãng quên trong vòng xoáy nhân sinh dữ dội hiện nay. Ba tập thơ “ Bầy chim lạc”, “Mùa hái quả”, “Người thoáng hiện” do Bùi Xuân chuyển ngữ đã được NXB Kim Đồng tái bản năm 2017 với Tủ sách chọn lọc “Văn học Ấn Độ”, chứng tỏ thêm lần nữa sự yêu mến thơ Tagore và các bản dịch thơp Tagor từ nhà thơ Bùi Xuân của người yêu thơ Việt hiện nay vẫn đang lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng. Hiện Bùi Xuân đang tiếp tục cộng tác với NXB Đà Nẵng để hoàn thành công việc dịch và xuất bản hai thi phẩm khác của Tagore: Những khúc hát của Kabir (Song of Kabir, tập thơ của Kabir do R.Tagore dịch ra tiếng Anh), Những bài thơ (Poems, tập thơ của R.Tagore), Đứa trẻ (The Child, tập thơ của Tagore)… Từ thành công của ba tập thơ dịch trước đây, chúng ta có thể tin và hy vọng vào những thi phẩm mới này của đại thi hào Tagore sẽ có điều kiện tiếp tục được bạn đọc nồng nhiệt chào đón. 3. Với số lượng tác phẩm đồ sộ R. Tagore để lại về thi ca, văn xuôi, triết học, âm nhạc mà trong đó thơ chiếm phần lớn (hơn 1.000 bài của 50 tập thơ), 12 bộ tiểu thuyết, luận văn, hàng trăm truyện ngắn, kí, 42 vở kịch, 2000 tranh vẽ…, việc dịch, xuất bản và giới thiệu tác phẩm Tagore ở Việt Nam với chừng trên dưới 10 tác phẩm như vậy là quá ít, quá khiêm tốn. Thiết nghĩ, nên có một chương trình nghiên cứu, đầu tư tổ chức dịch thuật và xuất bản các tác phẩm của đại thi hào ở một quy mô quốc gia, xứng đáng với tầm cỡ của ông. Rất cần sự quan tâm của các tổ chức, các cấp các ngành, đặc biệt là sự hỗ trợ cộng tác của Đại sứ quán Ấn Độ tại Việt Nam để điều đó sớm trở thành hiện thực. NXB Đà Nẵng hy vọng và mong muốn sẽ tiếp tục xuất bản được nhiều tác phẩm của Tagore và các công trình nghiên cứu về R. Tagore trong tương lai từ sự hỗ trợ, cộng tác này. Đà Nẵng ngày 24 tháng 7 năm 2020 NKH
SOME THOUGHTS ON THE GREAT POET R. TAGORE AND THE TRANSLATION AND PUBLISHING OF TAGORE'S WORKS Poet Nguyen Kim Huy first. As a nation that loves poetry, loves beauty and peace, loves peace and is always full of aspirations towards the beauty of the human soul, Vietnamese people have long read and loved poetic geniuses. songs of humanity, from Ly Bach Du Phu of China to Pushkin, Lermontov of Russia, Lamartine of France, Goethe of Germany, Lord Byron of England... Especially, with the similarities and closeness between the two cultures of Vietnam - India , the great poet R. Tagore holds immense love and admiration in the hearts of us poetry lovers. The name R. Tagore in India is as close and familiar as the name of the great poet Nguyen Du in Vietnam. Tagore has always been one of humanity's greatest poets, a noble humanitarian, a wise philosopher, a tireless fighter for love of life and peace. R. Tagore is like the bearer of God's gift, expressed with his great love and compassion, offering suffering humanity a sensitive heart and filled with human love. 2. In his Introduction to the collection "Poems", the great poet Tagore has verses that are very poetic, interesting and up to now still hot in the topicality of printing - publishing - distribution. Poetry as if it had just been written: Alas, poems are for listening ears bound today like the chains of slavery before the eyes of their owners and banished to the gray of toneless papers and those who should have been kissed forever lost its way in the publisher market. Because it was an age of desperation, haste and hustle and the lyrical muse must make the journey to the meeting place of the heart on trams and buses. ……. I was born in an era of busy printing presses – a late one Kalidasa and you, my love, completely modulated. ( Bui Xuan pandemic) Da Nang Publishing House is proud and honored to contribute with translators to publish and introduce R. Tagore's great works to Vietnamese readers. In 1989, after 5 years of establishment, the Publishing House translated, printed and published the novel "Miss Binodini" praising intense passionate love with mysterious magical powers that both connect, bind and sublimate. just the person of R. Tagore through Hong Tien's translation. In 1996 and the early 2000s, the Publishing House continued to introduce through many editions and reprints the poetry collections "Dedications", "Consecration of Heart" imbued with the immense poetic spirit from the soul and heart. People penetrate the thousands of galaxies of Tagore's universe through Do Khanh Hoan's ecstatic translations from before 1975 with the collaboration of Dinh Phu Hoa Bookstore - Hue. But the most impressive thing for us was still the first time we worked together with poet Bui Xuan on the translation of Tagore's poetry collection "Lost Birds" in 2012. Then there was "Fruit Picking Season" in 2013 and in 2015 was "The One Who Appears"... Passionate about Tagore's poetry, Bui Xuan immersed himself in the vast, mysterious and magical world of poetry, filled with love and light. and the fragrance of poetic genius R. Tagore with the devout attitude of a believer rather than a poetic translator. He is fascinated, cherishes every sentence, every word, ponders and uses all the resources of words, knowledge, sensory abilities and emotions to achieve perfection in his work. expressing the spirit and content of Tagore's poetry through the tones of Vietnamese language. I encountered in his working spirit in the translations of Tagore's poems the spirit of a composer rather than a translator... To some extent, Bui Xuan, as a translator of Tagore's poems, has truly made a great contribution in rekindling the fire of love for Tagoere's poetry in Vietnamese poetry lovers in the early years of the 21st century, in the midst of a world of information technology with many upheavals of war and epidemics. Disease, terrorism, natural disasters... it seems that poetry and poets are gradually being obscured and forgotten in today's violent human whirlwind. Three poetry collections "Lost Birds", "Fruit Picking Season", "The Fleeting Person" translated by Bui Xuan were republished by Kim Dong Publishing House in 2017 with the Selected Bookshelf "Indian Literature", proving once again Furthermore, the love for Tagore's poetry and translations of Tagor's poetry from poet Bui Xuan among Vietnamese poetry lovers today is still spreading strongly and widely. Bui Xuan is currently continuing to collaborate with Da Nang Publishing House to complete the work of translating and publishing two other poems by Tagore: Songs of Kabir (Song of Kabir, a book of Kabir's poems translated into English by R. Tagore). ), Poems (Poems, poetry collection by R.Tagore), The Child (The Child, Tagore's poetry collection)... From the success of the previous three translated poetry collections, we can believe and hope in these poems. This new work by the great poet Tagore will continue to be warmly welcomed by readers. 3. With the huge number of works R. Tagore left behind on poetry, prose, philosophy, music, of which poetry accounts for the majority (more than 1,000 poems in 50 poetry collections), 12 sets of novels, theses, and books. Hundreds of short stories, memoirs, 42 plays, 2000 paintings..., translating, publishing and introducing Tagore's works in Vietnam with about 10 such works is too few, too modest. I think there should be a program to research, invest in organizing the translation and publishing of the great poet's works on a national scale, worthy of his stature. It is necessary for the attention of organizations, all levels and sectors, especially the collaborative support of the Indian Embassy in Vietnam, for this to soon become a reality. Da Nang Publishing House hopes and wishes to continue to publish many of Tagore's works and research projects on R. Tagore in the future from this support and collaboration. Da Nang July 24, 2020 NKH
HẢI NGUYÊN Tên thật là Nguyễn Hải, sinh năm 1947 Bút danh: Hải Nguyên, Thanh Quang, Quảng Lượng. Năm 18 tuổi (1965) đã là Hiệu trưởng trường Phổ thông cấp II Nguyễn Văn Trỗi, huyện Bắc Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam . Từ năm 1967 – 1970, công tác tại nội thị Tam Kỳ. Từ năm 1970 – 1975, ra Bắc chữa bệnh và học Đại học Ngoại ngữ tại trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, sau tốt nghiệp ở lại trường làm Giảng viên khoa tiếng Anh. Từ năm 1976 – 1978: Học trên Đại học tại London, Anh quốc Từ năm 1978 – 1982: Giảng viên, Trưởng Ban Anh văn, Phó Chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài, Đại học Tổng hợp Huế; từ năm 1982 – 1984: Chủ nhiệm Khoa Anh ngữ, Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Từ năm 1984 – 1988: Giám đốc Tổng Công ty Cung ứng tàu biển Quảng Nam-Đà Nẵng; từ năm 1988 – 1992: Phó Giám đốc Sở Kinh tế Đối ngoại tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng; từ năm 1992- 1998: Tổng giám đốc phát triển Khu Công nghiệp Đà Nẵng; từ năm 1998 – 2007: Tổng giám đốc Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại 10 nước Đông Nam Á tại Tokyo, Nhật Bản. Từ năm 2007 đến nay: Nghỉ hưu. Đã có thơ đăng trên một số báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Hoàng hôn Mỹ Sơn Tháp cổ đìu hiu Gió chiều ru ngủ. Vương triều xưa nép dưới tầng rêu phủ. Nén tiếng thờ dài sau giấc ngủ nghìn năm!!! Sương khói cung đình vương vấn chiều Mỹ Sơn Tiếng nhạc Nghê Thường âm vang, rền hẻm núi. Ngày sắp tàn – Đêm dài cát bụi. Hết kiếp tràn gian, lớp lớp lại về đây! Thời gian lạnh lùng – gió chải, mưa bay. Những phế tích trơ gan cùng tuế nguyệt. Mảnh trăng treo cuối rừng xa lạnh buốt. Gió chiều hoang tan tác giấc mơ Chiêm! Hỡi những linh hồn trần thế – chớ quên. Ta đã ngủ yên hơn nghìn năm rồi đấy. Các người về đây đừng làm ta thức dậy. Giữa hoang tàn, buồn lắm thế nhân ơi! Thánh địa Mỹ Sơn – MuàThu 2001 Ký ức Con thuyền cũ Bến đò xưa và vầng trăng nguyên thủy, Lặng lẽ đưa tôi về miền ký ức xa xăm… Tôi lần mò lớp rong rêu trong lòng Biển Lóng loáng bóng trăng soi qua lớp bụi mờ… Trăng chợt tỉnh, rùng mình, rồi nghiêng mắt. Biển chao đưa theo nhịp sóng thời gian… Ôi tuyệt diệu, phút giây Trăng với nước hòa tan. Valentine 2001 Chồi non Chồi non nảy tự bao giờ Mà sao vừa sáng tinh mơ đã cười? Em về xanh mát cuộc đời Bên em vẫn thấy bồi hồi nhớ em! Bóng Mẹ Nắng vàng nhuộm úa bờ tre Chiều quê bóng mẹ bên hè liêu xiêu. Đường xưa vắng vẻ đìu hiu Bước chân lặng lẽ lần theo lối về Bao năm biền biệt xa quê Chạnh lòng con lúc trở về chốn xưa Đường quê ướt đẫm trong mưa Lặng tìm lại dấu chân xưa… Mẹ về! Đường đời Nỗi khổ của người mù, Nỗi khổ của người đời Có khác nhau chăng? Người mù bước đi trong bóng tối… có gậy dẫn dường, Người đời bước đi… lần dò từng bước. Cạm bẫy quanh ta nào ai biết được. Hạnh phúc quanh ta, ai cũng giống nhau. Trên đường đời, kẻ trước người sau, Cùng nhau ta bước. Hạnh phúc đang chờ ta phía trước! Hạnh phúc trong lòng ta tỏa sáng dẫn đường. Ánh sáng diệu kỳ tỏa sáng muôn phương. Rọi sáng đường ta đi tới! Hải Nguyên
HAI NGUYEN Real name is Nguyen Hai, born in 1947 Pen names: Hai Nguyen, Thanh Quang, Quang Luong. At the age of 18 (1965), he was the Principal of Nguyen Van Troi Secondary School, Bac Tam Ky district, Quang Nam Province . From 1967 - 1970, worked in Tam Ky city. From 1970 - 1975, he went to the North for medical treatment and studied foreign languages ​​at Hanoi University of Foreign Languages. After graduating, he stayed at the school to work as a lecturer in the English department. From 1976 - 1978: Studied at University in London, England From 1978 - 1982: Lecturer, Head of the English Department, Vice Chairman of the Department of Foreign Languages ​​and Literatures, Hue University; From 1982 - 1984: Head of the English Department, Da Nang University of Education. From 1984 - 1988: Director of Quang Nam-Da Nang Ship Supply Corporation; from 1988 - 1992: Deputy Director of the Department of Foreign Economic Relations of Quang Nam - Da Nang province; from 1992 to 1998: General Director of Da Nang Industrial Park Development; From 1998 - 2007: General Director of the Foreign Economic Development Program for 10 Southeast Asian countries in Tokyo, Japan. From 2007 to present: Retired. Poems have been published in a number of central and local newspapers and magazines. My Son sunset The ancient tower is desolate The afternoon breeze lulls me to sleep. The ancient dynasty was nestled under a layer of moss. Suppressing a long sigh after a thousand years of sleep!!! Royal smog lingers in the afternoon of My Son Nghe Thuong's music resonates and rumbles through the canyon. The day is about to end – The night is long and dusty. After a lifetime of hardship, class and class are back! Time is cold – the wind blows, the rain flies. Ruins of bare bones and years of the moon. The piece of moon hanging at the end of the distant forest is cold. The afternoon wind shattered Champa's dream! Oh earthly souls – don't forget. I have been sleeping peacefully for more than a thousand years. If you come here, don't wake me up. In the midst of desolation, it's so sad! My Son Sanctuary – MuaThu 2001 Memory Old boat Old ferry station and the primordial moon, Quietly taking me back to a distant memory... I groped through the moss layer in the heart of the Sea Gleaming moonlight shines through a layer of dust... The moon suddenly woke up, creepy, then tilted his eyes. The sea moves with the rhythm of the waves of time... Oh wonderful, moment The moon dissolves in water. Valentine 2001 Clove Young buds sprout from time to time But why are you smiling so early in the morning? I come back to green life I still feel nostalgic for you! Mother Shadow The golden sunlight dyed the bamboo banks In the afternoon, my mother's hometown in the summer is dilapidated. The old road was deserted and desolate Footsteps quietly followed the path home Many years away from home I feel sad when I return to my old place The country road is wet in the rain Quietly rediscovering the old footprints... Mom is back! Life The suffering of the blind, The suffering of people Is there any difference? The blind man walks in the dark... guided by a stick, People walk... step by step. Who knows the pitfalls around us? Happiness is all around us, everyone is the same. On the road of life, one comes first, one last, Together we walk. Happiness is waiting for us ahead! Happiness in our hearts shines and guides the way. Magical light shines in all directions. Light up our path! Hai Nguyen
Thương tiếc Vũ Đức Sao Biển Vũ Đức Sao Biển, người con tài hoa, nặng tình nặng nghĩa với quê hương xứ Quảng, nay, cánh hoàng hạc ấy đã bay, bay mãi bỏ trời mơ , bỏ lại những đêm nguyệt cầm , những sáng linh lan, những thu vàng, bên đồi sim trái chín, vĩnh biệt cõi đời vào lúc 23 giờ 25 phút ngày 6-5, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 74 tuổi. Vũ Đức Sao Biển tên thật là Võ Hợi, sinh năm 1947 (có nơi ghi 1948), là người Duy Xuyên nhưng sinh ra tại Tam Kỳ, một làng quê ven biển tỉnh Quảng Nam. Ông vừa là nhạc sĩ, vừa là nhà văn và nhà báo. Ngoài bút danh Vũ Đức Sao Biển, ông còn dùng nhiều bút danh khác như Đồ Bì, Đinh Ba, Thầy Cãi, Đinh Mười Hai… khi viết phiếm luận. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, ông đến Bạc Liêu dạy môn Triết bậc trung học mãi cho đến năm 1975. Mười năm sau, ông trở lại nơi này và cho ra đời các ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam. Sau 1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, làm báo, cộng tác với các báo: Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Niên, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tuổi Trẻ Cười… Ngoài tài năng viết báo, tiểu thuyết, nghiên cứu về tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung, ông còn là dịch giả mảng Trung văn và sáng tác nhạc. Thời đôi mươi, ông đã có hai danh tác âm nhạc Thu, hát cho người và Chiều mơ. Mặc dù là người con xứ Quảng nhưng ông lại cho ra đời nhiều bài hát về Nam Bộ nổi tiếng như Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Điệu buồn phương Nam, Tình ca phương Nam, Về bên cha, Gởi về nơi cuối đất… Vũ Đức Sao Biển đã được tặng danh hiệu Nhạc sĩ có tác phẩm để đời thế kỷ 20 năm 2007 (cùng với Phạm Duy, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Ánh Chín, Châu Kỳ) và Nhạc sĩ Sol Vàng Việt Nam vào tháng 8 năm 2018. Vũ Đức Sao Biển đã được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản 48 đầu sách; có thể kể đến những đầu sách tiêu biểu như: Quảng Nam hay cãi (2010), Hai tuồng hát bội (2010), Kim Dung giữa đời tôi (2010), Dài và to (2011), Án lạ phương Nam (2011), Phía sau mặt báo (2011), Thâm sơn kỳ cục án (2011), Sông lạc đường về (2012), Sim và Âm vang cố quận (2016)… Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển qua đời Căn bệnh hiểm nghèo, chống chọi đã nhiều năm, nay, ông thanh thản về trời. Cõi trần, với ông, là “Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người”. Những ngày nằm bệnh, ít giao tiếp, ông hiểu về “phận người”, hiểu giới hạn của cuộc đời. Tôi chỉ gặp và trò chuyện với ông vài lần. Lần đầu tại một quán cà-phê cóc trước cơ quan Sở Giáo dục – Đào tạo vào sáng Chủ nhật. Lần ấy, sau tháng 5-2005, Phạm Duy mới về nước, định cư lâu dài tại Việt Nam. Với tư cách nhạc sĩ, thế hệ đi sau, ông nói về sáng tác Phạm Duy với lòng ngưỡng mộ, nhất là âm nhạc kháng chiến. Rồi nhiều chuyện vui của đất Quảng mà ông đã viết. Các lần khác, khi ông về Duy Xuyên tổ chức các đêm nhạc hoặc thăm quê hương. Ông gửi tặng tôi vài tập sách, thích nhất Phía sau mặt báo, NXB Trẻ 2011, gồm 19 bài viết ngắn về nghề báo. Đó là những bài học về kinh nhiệm làm báo, sự sai lầm, sự trung thực và thói kiêu binh của nhà báo và nghề báo. Nơi trang kết của tập sách, ông chân thành viết: “Tôi thật sự yêu cuộc đời làm báo. Lời sám nguyện của tôi là khi tôi còn được làm một nhà báo, tôi sẽ mãi mãi là nhà báo ngay thẳng, trung thực và nhân hậu. Nếu tôi có sai lầm trong cách viết, cách nghĩ, xin đời hãy tha thứ cho tôi”. (sdd, trang 136) Lần khác, qua Phan Đình Kỳ, anh gửi tặng tập Truyện ký và tạp văn, NXB Trẻ, 2016. Tôi nhắn tin cảm ơn. Tập này, phần Tạp văn, Vũ Đức Sao Biển có 8 bài nói về Quảng Nam hay cãi, lý thú vô cùng. Cãi Quảng Nam là cãi từ sinh hoạt làng xã (Quảng Nam đám giỗ) , đến giao tiếp xã hội (Nói dốc kiểu Quảng Nam), ẩm thực (Đạo ăn mì Quảng) , qua sinh hoạt văn hóa (Hát bội Quảng Nam) , rồi ngôn ngữ xứ Quảng (Phương ngữ Quảng Nam, Thành ngữ Quảng Nam, Âm vị Quảng Nam…). Nói chung, đặc điểm Quảng Nam là nói gay, hay cãi và nếu không thế thì không phải Quảng Nam. Vũ Đức Sao Biển vận dụng kiếm hiệp Kim Dung để viết về sự cãi: “Cái cãi của người Quảng Nam cũng là một thứ võ công bởi nó cũng có nội hàm và ngoại quan hẳn hoi. Về cơ bản, người Quảng Nam nào cũng đắc thủ được công phu cãi, chỉ khác nhau ở chỗ thâm hậu hay hời hợt, nhiều hay ít, cãi lớn hay … cãi nho nhỏ. Công phu cãi trở thành quán tính của người Quảng Nam đến nỗi trước một đám đông, nghe một ai đó nói một chuyện sai sự thật hoặc lớn tiếng hà hiếp một người khác mà không có ai lên tiếng cãi lại thì ta có thể kết luận trong đám đông ấy không có người Quảng Nam nào!” (Truyện ký và tạp văn, NXB Trẻ, 2016, trang 15). Năm 2018, qua email, khi tôi trao đổi với ông về công việc đã làm lâu nay, đó là sưu tầm, tuyển chọn các khuôn mặt thơ ca xứ Quảng có tác phẩm in trên các báo, tạp chí tại các đô thị miền Nam, giai đoạn 1954-1975, trong đó có thơ Vũ Đức Sao Biển. Ông rất hoan nghênh và sau đó, ông gửi thêm những bài tôi chưa sưu tầm được. Ông còn gửi tặng tôi hai bài thơ chữ Hán, bài Tặng nội và Nam ai, kèm bản dịch nghĩa, dịch thơ, rất cảm động. Có thể nói, trước 1975, bên cạnh âm nhạc, Vũ Đức Sao Biển còn sáng tác thơ ca. Thơ đăng trên số báo và tạp chí. Tuy rằng, âm nhạc vượt trội hơn. Người thưởng thức biết nhiều đến Thu, hát cho người và Chiều mơ hơn là những bài thơ đã công bố. Dầu vậy, đọc kỹ những bài thơ của ông trong thời kỳ này, người ta vẫn nhận ra một tiếng nói riêng, nhiều âm sắc, dẫu tiếng nói đó chưa thành một giọng điệu nghệ thuật, gây chú ý như bao cây bút khác của xứ Quảng, song, vẫn để lại dư vang không lẫn với ai. Thơ Vũ Đức Sao Biển ra đời trong những năm tháng đầy bão lửa của bom đạn. Quảng Đà là chiến trường dữ dội, tác động không ngừng đối với thế hệ trẻ. Người ta gọi thế hệ này là thế hệ mất mát. Chín năm (1945-1954), họ theo gia đình tản cư qua các vùng quê, chứng kiến bao tang thương, dâu bể, đó là một tuổi thơ dữ dội, nói như Phùng Quán. Thế rồi, hòa bình chưa được bao ngày. Chiến tranh tiếp nối chiến tranh. Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển: Những đồi sim và một mối tình Hình ảnh thân thuộc, trở thành nhân vật luôn ẩn hiện trong thơ và đời của Vũ Đức Sao Biển đó là người mẹ. Người mẹ miền Trung, ở đây là người mẹ Quảng Nam, lam lũ làm ăn, chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả cho con cái. Trên các làng quê xứ Quảng, đâu đâu ta cũng gặp hình ảnh: Con từ Hội An về / Nhìn dòng sông quê mẹ / Chiều nắng loang trên đồi / Tiếng người trong bóng xế… Mẹ già ngồi trước cửa / Tóc bạc vì thương con… (Mẹ và con). Hai mươi tuổi, Vũ Đức Sao Biển đã thấy: Tháng hai chim ca hót / Lời chim thì vẫn buồn / Anh nợ nần số phận / Phân vân tóc mưa nguồn / Xin làm loài sao biển / Nghìn năm nhìn về non… (Thơ tháng hai). Thích nhất là bài Chiếc xe đạp cũ qua Sài Gòn, viết theo thể lục bát, chỉ 12 câu, giọng tếu táo, che cái nghèo của anh học trò xứ Quảng, một Từ Hải đưa nàng Kiều rong chơi bằng chiếc xe đạp cũ, “yên mòn, dây thắng tả tơi / xin qua cho hết luân hồi nghe em / từ đây cát bụi ưu phiền/ nhịp đinh sút, những cung huyền thoại vang / Sài Gòn chín phố là bao / Ta hiên ngang hát ca dao giữa đời … Vũ Đức Sao Biển trôi dạt về phương Nam, lòng vẫn nhớ về quê cũ: Tặng nội Ấu thời phụ một, biệt gia hương. Hội thị Thu giang cảm đoạn trường. Khứ sự tư duy đầu sơ bạch. Mộng kiến mai hoa hạng tịch lương. Bản dịch thơ của tác giả: Gửi nội Tuổi thơ cha mất, bỏ quê hương. Phố Hội, sông Thu cũng đoạn trường. Việc cũ suy tư đầu chớm bạc. Mơ thấy mai vàng ngõ tịch lương. Nay thì Vũ Đức Sao Biển đã bỏ quê hương, bỏ phố Hội, bỏ sông Thu, theo nỗi đoạn trường, kỷ độ bất quy lai – biền biệt không trở về – (Nam ai – Điệu buồn phương Nam), chỉ còn tiếng tơ đàn rung lên trong Thu, hát cho người, người…ơi Đà Nẵng, ngày 7-5-2020 HUỲNH VĂN HOA
Thương tiếc Vũ Đức Sao Biển Vũ Đức Sao Biển, người con tài hoa, nặng tình nặng nghĩa với quê hương xứ Quảng, nay, cánh hoàng hạc ấy đã bay, bay mãi bỏ trời mơ , bỏ lại những đêm nguyệt cầm , những sáng linh lan, những thu vàng, bên đồi sim trái chín, vĩnh biệt cõi đời vào lúc 23 giờ 25 phút ngày 6-5, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 74 tuổi. Vũ Đức Sao Biển tên thật là Võ Hợi, sinh năm 1947 (có nơi ghi 1948), là người Duy Xuyên nhưng sinh ra tại Tam Kỳ, một làng quê ven biển tỉnh Quảng Nam. Ông vừa là nhạc sĩ, vừa là nhà văn và nhà báo. Ngoài bút danh Vũ Đức Sao Biển, ông còn dùng nhiều bút danh khác như Đồ Bì, Đinh Ba, Thầy Cãi, Đinh Mười Hai… khi viết phiếm luận. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, ông đến Bạc Liêu dạy môn Triết bậc trung học mãi cho đến năm 1975. Mười năm sau, ông trở lại nơi này và cho ra đời các ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam. Sau 1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, làm báo, cộng tác với các báo: Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Niên, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tuổi Trẻ Cười… Ngoài tài năng viết báo, tiểu thuyết, nghiên cứu về tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung, ông còn là dịch giả mảng Trung văn và sáng tác nhạc. Thời đôi mươi, ông đã có hai danh tác âm nhạc Thu, hát cho người và Chiều mơ. Mặc dù là người con xứ Quảng nhưng ông lại cho ra đời nhiều bài hát về Nam Bộ nổi tiếng như Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Điệu buồn phương Nam, Tình ca phương Nam, Về bên cha, Gởi về nơi cuối đất… Vũ Đức Sao Biển đã được tặng danh hiệu Nhạc sĩ có tác phẩm để đời thế kỷ 20 năm 2007 (cùng với Phạm Duy, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Ánh Chín, Châu Kỳ) và Nhạc sĩ Sol Vàng Việt Nam vào tháng 8 năm 2018. Vũ Đức Sao Biển đã được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản 48 đầu sách; có thể kể đến những đầu sách tiêu biểu như: Quảng Nam hay cãi (2010), Hai tuồng hát bội (2010), Kim Dung giữa đời tôi (2010), Dài và to (2011), Án lạ phương Nam (2011), Phía sau mặt báo (2011), Thâm sơn kỳ cục án (2011), Sông lạc đường về (2012), Sim và Âm vang cố quận (2016)… Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển qua đời Căn bệnh hiểm nghèo, chống chọi đã nhiều năm, nay, ông thanh thản về trời. Cõi trần, với ông, là “Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người”. Những ngày nằm bệnh, ít giao tiếp, ông hiểu về “phận người”, hiểu giới hạn của cuộc đời. Tôi chỉ gặp và trò chuyện với ông vài lần. Lần đầu tại một quán cà-phê cóc trước cơ quan Sở Giáo dục – Đào tạo vào sáng Chủ nhật. Lần ấy, sau tháng 5-2005, Phạm Duy mới về nước, định cư lâu dài tại Việt Nam. Với tư cách nhạc sĩ, thế hệ đi sau, ông nói về sáng tác Phạm Duy với lòng ngưỡng mộ, nhất là âm nhạc kháng chiến. Rồi nhiều chuyện vui của đất Quảng mà ông đã viết. Các lần khác, khi ông về Duy Xuyên tổ chức các đêm nhạc hoặc thăm quê hương. Ông gửi tặng tôi vài tập sách, thích nhất Phía sau mặt báo, NXB Trẻ 2011, gồm 19 bài viết ngắn về nghề báo. Đó là những bài học về kinh nhiệm làm báo, sự sai lầm, sự trung thực và thói kiêu binh của nhà báo và nghề báo. Nơi trang kết của tập sách, ông chân thành viết: “Tôi thật sự yêu cuộc đời làm báo. Lời sám nguyện của tôi là khi tôi còn được làm một nhà báo, tôi sẽ mãi mãi là nhà báo ngay thẳng, trung thực và nhân hậu. Nếu tôi có sai lầm trong cách viết, cách nghĩ, xin đời hãy tha thứ cho tôi”. (sdd, trang 136) Lần khác, qua Phan Đình Kỳ, anh gửi tặng tập Truyện ký và tạp văn, NXB Trẻ, 2016. Tôi nhắn tin cảm ơn. Tập này, phần Tạp văn, Vũ Đức Sao Biển có 8 bài nói về Quảng Nam hay cãi, lý thú vô cùng. Cãi Quảng Nam là cãi từ sinh hoạt làng xã (Quảng Nam đám giỗ) , đến giao tiếp xã hội (Nói dốc kiểu Quảng Nam), ẩm thực (Đạo ăn mì Quảng) , qua sinh hoạt văn hóa (Hát bội Quảng Nam) , rồi ngôn ngữ xứ Quảng (Phương ngữ Quảng Nam, Thành ngữ Quảng Nam, Âm vị Quảng Nam…). Nói chung, đặc điểm Quảng Nam là nói gay, hay cãi và nếu không thế thì không phải Quảng Nam. Vũ Đức Sao Biển vận dụng kiếm hiệp Kim Dung để viết về sự cãi: “Cái cãi của người Quảng Nam cũng là một thứ võ công bởi nó cũng có nội hàm và ngoại quan hẳn hoi. Về cơ bản, người Quảng Nam nào cũng đắc thủ được công phu cãi, chỉ khác nhau ở chỗ thâm hậu hay hời hợt, nhiều hay ít, cãi lớn hay … cãi nho nhỏ. Công phu cãi trở thành quán tính của người Quảng Nam đến nỗi trước một đám đông, nghe một ai đó nói một chuyện sai sự thật hoặc lớn tiếng hà hiếp một người khác mà không có ai lên tiếng cãi lại thì ta có thể kết luận trong đám đông ấy không có người Quảng Nam nào!” (Truyện ký và tạp văn, NXB Trẻ, 2016, trang 15). Năm 2018, qua email, khi tôi trao đổi với ông về công việc đã làm lâu nay, đó là sưu tầm, tuyển chọn các khuôn mặt thơ ca xứ Quảng có tác phẩm in trên các báo, tạp chí tại các đô thị miền Nam, giai đoạn 1954-1975, trong đó có thơ Vũ Đức Sao Biển. Ông rất hoan nghênh và sau đó, ông gửi thêm những bài tôi chưa sưu tầm được. Ông còn gửi tặng tôi hai bài thơ chữ Hán, bài Tặng nội và Nam ai, kèm bản dịch nghĩa, dịch thơ, rất cảm động. Có thể nói, trước 1975, bên cạnh âm nhạc, Vũ Đức Sao Biển còn sáng tác thơ ca. Thơ đăng trên số báo và tạp chí. Tuy rằng, âm nhạc vượt trội hơn. Người thưởng thức biết nhiều đến Thu, hát cho người và Chiều mơ hơn là những bài thơ đã công bố. Dầu vậy, đọc kỹ những bài thơ của ông trong thời kỳ này, người ta vẫn nhận ra một tiếng nói riêng, nhiều âm sắc, dẫu tiếng nói đó chưa thành một giọng điệu nghệ thuật, gây chú ý như bao cây bút khác của xứ Quảng, song, vẫn để lại dư vang không lẫn với ai. Thơ Vũ Đức Sao Biển ra đời trong những năm tháng đầy bão lửa của bom đạn. Quảng Đà là chiến trường dữ dội, tác động không ngừng đối với thế hệ trẻ. Người ta gọi thế hệ này là thế hệ mất mát. Chín năm (1945-1954), họ theo gia đình tản cư qua các vùng quê, chứng kiến bao tang thương, dâu bể, đó là một tuổi thơ dữ dội, nói như Phùng Quán. Thế rồi, hòa bình chưa được bao ngày. Chiến tranh tiếp nối chiến tranh. Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển: Những đồi sim và một mối tình Hình ảnh thân thuộc, trở thành nhân vật luôn ẩn hiện trong thơ và đời của Vũ Đức Sao Biển đó là người mẹ. Người mẹ miền Trung, ở đây là người mẹ Quảng Nam, lam lũ làm ăn, chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả cho con cái. Trên các làng quê xứ Quảng, đâu đâu ta cũng gặp hình ảnh: Con từ Hội An về / Nhìn dòng sông quê mẹ / Chiều nắng loang trên đồi / Tiếng người trong bóng xế… Mẹ già ngồi trước cửa / Tóc bạc vì thương con… (Mẹ và con). Hai mươi tuổi, Vũ Đức Sao Biển đã thấy: Tháng hai chim ca hót / Lời chim thì vẫn buồn / Anh nợ nần số phận / Phân vân tóc mưa nguồn / Xin làm loài sao biển / Nghìn năm nhìn về non… (Thơ tháng hai). Thích nhất là bài Chiếc xe đạp cũ qua Sài Gòn, viết theo thể lục bát, chỉ 12 câu, giọng tếu táo, che cái nghèo của anh học trò xứ Quảng, một Từ Hải đưa nàng Kiều rong chơi bằng chiếc xe đạp cũ, “yên mòn, dây thắng tả tơi / xin qua cho hết luân hồi nghe em / từ đây cát bụi ưu phiền/ nhịp đinh sút, những cung huyền thoại vang / Sài Gòn chín phố là bao / Ta hiên ngang hát ca dao giữa đời … Vũ Đức Sao Biển trôi dạt về phương Nam, lòng vẫn nhớ về quê cũ: Tặng nội Ấu thời phụ một, biệt gia hương. Hội thị Thu giang cảm đoạn trường. Khứ sự tư duy đầu sơ bạch. Mộng kiến mai hoa hạng tịch lương. Bản dịch thơ của tác giả: Gửi nội Tuổi thơ cha mất, bỏ quê hương. Phố Hội, sông Thu cũng đoạn trường. Việc cũ suy tư đầu chớm bạc. Mơ thấy mai vàng ngõ tịch lương. Nay thì Vũ Đức Sao Biển đã bỏ quê hương, bỏ phố Hội, bỏ sông Thu, theo nỗi đoạn trường, kỷ độ bất quy lai – biền biệt không trở về – (Nam ai – Điệu buồn phương Nam), chỉ còn tiếng tơ đàn rung lên trong Thu, hát cho người, người…ơi Đà Nẵng, ngày 7-5-2020 HUỲNH VĂN HOA
THÚY VÂN , BI KỊCH TÌNH YÊU – BI KỊCH HẠNH PHÚC Xưa nay, khi nói đến Truyện Kiều, thiên hạ chỉ nhắc đến Thúy Kiều, ít nói đến Thúy Vân. Thúy Vân nhòe đi, như cái bóng bên cạnh một nàng Kiều. Không ít những lời lẽ chê bai, nói như Vương Trọng, “nhà có chuyện như người ngoài cuộc/ vẫn ăn no, ngủ kỹ như không/ chẳng hò hẹn, chẳng cần thề thốt/ chẳng yêu đương, em cũng lấy được chồng ” ( Mô-típ Thúy Vân ). Khắc nghiệt quá ! Vì thế, khi bài thơ Tâm sự nàng Thúy Vân của Trương Nam Hương ra đời, một góc khuất của Truyện Kiều được mở ra, một bi kịch cần được soi chiếu, một nỗi đau mong được cảm thông. Giọng thơ bùi ngùi, thương cảm. Sâu xa hơn, ta hiểu được sự giằng xé của Nguyễn Du khi cho Thúy Vân phải mượn chén rượu để giãi bày tâm trạng: Tàng tàng chén cúc dở say/ Đứng lên Vân mới giãi bày một hai . Chắc khi viết đến đoạn này, đoạn Kim-Kiều tái ngộ, sau mười lăm năm ly biệt, giây phút mà Thúy Vân bị rơi vào ngõ cụt, lòng Nguyễn Du tan nát lắm! Trương Nam Hương như nhập vào nỗi đau của nhà thơ lớn dân tộc và nỗi lòng của Thúy Vân để chiêu tuyết cho nàng, giải oan cho cảnh “tình chị duyên em”. Nhiều bạn đọc tán dương và yêu thích bài thơ này. Bài thơ trọn vẹn như sau: Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Ơ kìa ! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Chị nhiều hờn- giận- yêu- thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu! Trương Nam Hương chọn thể thơ lục bát để viết tâm sự của Thúy Vân. Một cuộc tương phùng đầy nước mắt của hai chị em. Một đẩy đưa tâm trạng của Thúy Kiều và Thúy Vân. Một chuyến đò của hai số phận. Một vòng oan khiên giăng xuống hai cuộc đời. Một giằng xé cho người còn và kẻ khuất. Trương Nam Hương chọn một thời khắc điển hình, thời khắc tái hợp, sau mười lăm năm lưu lạc. Đây là p hút giây xao động nhất trong cuộc đời Thúy Vân: Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Các dòng thơ đều dùng phương thức đối lập. Đối lập cái ngày chị trao duyên: Lạy em, em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa với hôm nay, sau mười lăm năm cạn chén đoạn trường. Mười lăm năm, hắt bóng xuống cuộc đời bao trầm luân, bao khổ ải của Kiều. Còn Thúy Vân, thương chị nên con đò hạnh phúc cũng bị đắm giữa dòng đời. Tuổi xuân trôi đi, nhạt nhòa trong nước mắt. Hạnh phúc bị đánh cắp không phải ngày một ngày hai mà đến mười lăm năm. “Con đò xuân xanh” trôi đi trong vô vọng ! Vô vọng vì không có hạnh phúc, “nước mắt đâu dành chàng Kim”! Trương Nam Hương đã hóa thân vào Thúy Vân, hiểu rõ lý lẽ của trái tim, hiểu rõ những mảng tối của tình yêu và hạnh phúc. Bao nhiêu năm, lòng em như muối xát tơ vò. Những câu thơ xé lòng, bày ra trước mắt ta một Thúy Vân nhẫn nhịn: Ơ kìa! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên Trong những giây phút cực kỳ xao xuyến này, Kiều như bất động, không nói được gì, “ngồi im”. Cõi lòng tan nát. Nghe Thúy Vân nói, Kiều lại thấy thương em và thương mình. Một cuộc hôn nhân bẽ bàng ( lấy người yêu chị làm chồng ). Một chương bi thảm của tình yêu ( đời em thể thắt một vòng oan khiên ). Máu có chảy về tim vẫn không làm hồng những tháng ngày “thể thắt”. “Thể thắt” là sáng tạo của Trương Nam Nam Hương, một từ láy chưa có trong từ điển tiếng Việt (Xem Từ điển Tiếng Việt , Hoàng Phê chủ biên, 2005). Nghĩa của từ, có thể hiểu là sự kết hợp giữa danh tử và động từ, mô tả trạng thái, tình thế ngặt nghèo, khó khăn, gấp gãy. Vì thế, đi liền với nó là “oan khiên”. Tình yêu là cái rất thiêng liêng, vô giá. Con người có quyền được hưởng, không thể san sẻ, thế mà em lấy người yêu của chị làm chồng, một việc trái đạo lý, cho nên, em phải gánh chịu nghiệp chướng oan khiên. Yêu và “ đòi yêu “, được yêu là lẽ thường tình của con người, là nhu cầu của tuổi trẻ. Vậy mà, trên chặng đường đầy “mấp mô” và gập ghềnh của số phận, Thúy Vân đã rơi vào trạng huống chân không của tình yêu . Đạm Tiên còn được những giọt nước mắt của Thúy Kiều: Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu Thúy Vân như hờn trách, “đừng quên”, “không thể”, “kẻ khuất”, “người con” khi nói với Kiều. Cả đoạn thơ không nghe Kiều nói gì, chỉ giọng trách móc của Thúy Vân. Và, ta cũng cảm thông, trân trọng khi Thúy Vân, tưởng chừng tự kiềm chế mình, tự “nhốt linh hồn đòi yêu”, chấp nhận “số phận vuông tròn” khi so sánh mình với Đạm Tiên. Tác giả đã mượn từ láy tượng hình “mấp mô” để nói cuộc đời không bằng phẳng của Thúy Vân. Tuy nhiên, cũng giọng điệu đó, sang khổ thơ thứ tư, ta lại thấy một Thúy Vân khác: Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Một Thúy Vân độ lượng, tinh tế, sau lời trách, là nỗi niềm thương cảm sâu sắc về cuộc đời chìm nổi của chị. Cuộc đời đầy giông tố, bão bùng suốt cả chiều dài số phận của Kiều, cuối cùng, chỉ là: con đò đời chị về không. Chỗ này là một phát hiện độc đáo của Trương Nam Hương, hóa ra, cả em và chị đều là những con đò về không trong cuộc chơi của “ con tạo xoay vần “, cũng đều “ chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường”. Nhưng, ở đoạn thơ thứ năm này, cái hay và tài năng của Trương Nam Hương là, cho thấy dường như Thúy Vân không dấu nổi mình, Thúy Vân biết chị mình đã bán mình chuộc cha, rồi mắc lừa Sở Khanh, bị Hoạn Thư đánh ghen nhưng đã được Thúc Sinh, Từ Hải, đặc biệt Kim Trọng yêu thương. Kiều có oan khuất, có đau thương nhưng cũng có những giờ phút vinh hiển, sáng rỡ. Thúy Vân thì không được thế bao giờ: Chị nhiều hờn giận, yêu thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Đọc những dòng trên, có thể phân định nỗi đau. Thúy Vân đã “ chịu lời”, “chắp nối duyên thừa “, dẫu vậy, vẫn không có được các cung bậc của “hờn giận, yêu thương” trong suốt mười lăm năm, khi mà chàng Kim sẵn sàng: “ Rắp mong treo ấn từ quan/ Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha/ Dấn mình trong áng can qua/ Vào sinh ra tử họa là thấy nhau” . Kim Trọng chỉ mong tìm thấy Kiều. Thúy Vân chỉ là người vợ hờ. Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu! Bốn câu thơ cuối là nỗi cô đơn tột cùng. Bi kịch đã đến hồi kết của màn đoàn viên bẽ bàng, ngang trái. Thúy Vân vẫn cháy bỏng về tình yêu và hạnh phúc, “giấu đầy đêm nỗi khát khao”. Câu thơ cuối cùng bật lên như nghẹn ngào, như dồn nén, tích tụ, đớn đau của mười lăm năm: Kiều ơi, em đợi kiếp nào được yêu ! Có nhiều sẻ chia, đồng cảm với tâm hồn khoan dung, cao thượng và vị tha của Thúy Vân. Trương Nam Hương đã đưa lại một cái nhìn nhân văn, nhân đạo về người em của nàng Kiều, góp phần khẳng định kiệt tác Truyện Kiều của dân tộc. Bài thơ Tâm sự nàng Thúy Vân được nhạc sĩ Thạch Cầm phổ nhạc, ca sĩ Vân Khánh trình bày. Đà Nẵng, tháng 11 – 2015 HUỲNH VĂN HOA
THÚY VÂN , BI KỊCH TÌNH YÊU – BI KỊCH HẠNH PHÚC Xưa nay, khi nói đến Truyện Kiều, thiên hạ chỉ nhắc đến Thúy Kiều, ít nói đến Thúy Vân. Thúy Vân nhòe đi, như cái bóng bên cạnh một nàng Kiều. Không ít những lời lẽ chê bai, nói như Vương Trọng, “nhà có chuyện như người ngoài cuộc/ vẫn ăn no, ngủ kỹ như không/ chẳng hò hẹn, chẳng cần thề thốt/ chẳng yêu đương, em cũng lấy được chồng ” ( Mô-típ Thúy Vân ). Khắc nghiệt quá ! Vì thế, khi bài thơ Tâm sự nàng Thúy Vân của Trương Nam Hương ra đời, một góc khuất của Truyện Kiều được mở ra, một bi kịch cần được soi chiếu, một nỗi đau mong được cảm thông. Giọng thơ bùi ngùi, thương cảm. Sâu xa hơn, ta hiểu được sự giằng xé của Nguyễn Du khi cho Thúy Vân phải mượn chén rượu để giãi bày tâm trạng: Tàng tàng chén cúc dở say/ Đứng lên Vân mới giãi bày một hai . Chắc khi viết đến đoạn này, đoạn Kim-Kiều tái ngộ, sau mười lăm năm ly biệt, giây phút mà Thúy Vân bị rơi vào ngõ cụt, lòng Nguyễn Du tan nát lắm! Trương Nam Hương như nhập vào nỗi đau của nhà thơ lớn dân tộc và nỗi lòng của Thúy Vân để chiêu tuyết cho nàng, giải oan cho cảnh “tình chị duyên em”. Nhiều bạn đọc tán dương và yêu thích bài thơ này. Bài thơ trọn vẹn như sau: Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Ơ kìa ! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Chị nhiều hờn- giận- yêu- thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu! Trương Nam Hương chọn thể thơ lục bát để viết tâm sự của Thúy Vân. Một cuộc tương phùng đầy nước mắt của hai chị em. Một đẩy đưa tâm trạng của Thúy Kiều và Thúy Vân. Một chuyến đò của hai số phận. Một vòng oan khiên giăng xuống hai cuộc đời. Một giằng xé cho người còn và kẻ khuất. Trương Nam Hương chọn một thời khắc điển hình, thời khắc tái hợp, sau mười lăm năm lưu lạc. Đây là p hút giây xao động nhất trong cuộc đời Thúy Vân: Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Các dòng thơ đều dùng phương thức đối lập. Đối lập cái ngày chị trao duyên: Lạy em, em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa với hôm nay, sau mười lăm năm cạn chén đoạn trường. Mười lăm năm, hắt bóng xuống cuộc đời bao trầm luân, bao khổ ải của Kiều. Còn Thúy Vân, thương chị nên con đò hạnh phúc cũng bị đắm giữa dòng đời. Tuổi xuân trôi đi, nhạt nhòa trong nước mắt. Hạnh phúc bị đánh cắp không phải ngày một ngày hai mà đến mười lăm năm. “Con đò xuân xanh” trôi đi trong vô vọng ! Vô vọng vì không có hạnh phúc, “nước mắt đâu dành chàng Kim”! Trương Nam Hương đã hóa thân vào Thúy Vân, hiểu rõ lý lẽ của trái tim, hiểu rõ những mảng tối của tình yêu và hạnh phúc. Bao nhiêu năm, lòng em như muối xát tơ vò. Những câu thơ xé lòng, bày ra trước mắt ta một Thúy Vân nhẫn nhịn: Ơ kìa! Sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên Trong những giây phút cực kỳ xao xuyến này, Kiều như bất động, không nói được gì, “ngồi im”. Cõi lòng tan nát. Nghe Thúy Vân nói, Kiều lại thấy thương em và thương mình. Một cuộc hôn nhân bẽ bàng ( lấy người yêu chị làm chồng ). Một chương bi thảm của tình yêu ( đời em thể thắt một vòng oan khiên ). Máu có chảy về tim vẫn không làm hồng những tháng ngày “thể thắt”. “Thể thắt” là sáng tạo của Trương Nam Nam Hương, một từ láy chưa có trong từ điển tiếng Việt (Xem Từ điển Tiếng Việt , Hoàng Phê chủ biên, 2005). Nghĩa của từ, có thể hiểu là sự kết hợp giữa danh tử và động từ, mô tả trạng thái, tình thế ngặt nghèo, khó khăn, gấp gãy. Vì thế, đi liền với nó là “oan khiên”. Tình yêu là cái rất thiêng liêng, vô giá. Con người có quyền được hưởng, không thể san sẻ, thế mà em lấy người yêu của chị làm chồng, một việc trái đạo lý, cho nên, em phải gánh chịu nghiệp chướng oan khiên. Yêu và “ đòi yêu “, được yêu là lẽ thường tình của con người, là nhu cầu của tuổi trẻ. Vậy mà, trên chặng đường đầy “mấp mô” và gập ghềnh của số phận, Thúy Vân đã rơi vào trạng huống chân không của tình yêu . Đạm Tiên còn được những giọt nước mắt của Thúy Kiều: Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu Thúy Vân như hờn trách, “đừng quên”, “không thể”, “kẻ khuất”, “người con” khi nói với Kiều. Cả đoạn thơ không nghe Kiều nói gì, chỉ giọng trách móc của Thúy Vân. Và, ta cũng cảm thông, trân trọng khi Thúy Vân, tưởng chừng tự kiềm chế mình, tự “nhốt linh hồn đòi yêu”, chấp nhận “số phận vuông tròn” khi so sánh mình với Đạm Tiên. Tác giả đã mượn từ láy tượng hình “mấp mô” để nói cuộc đời không bằng phẳng của Thúy Vân. Tuy nhiên, cũng giọng điệu đó, sang khổ thơ thứ tư, ta lại thấy một Thúy Vân khác: Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Một Thúy Vân độ lượng, tinh tế, sau lời trách, là nỗi niềm thương cảm sâu sắc về cuộc đời chìm nổi của chị. Cuộc đời đầy giông tố, bão bùng suốt cả chiều dài số phận của Kiều, cuối cùng, chỉ là: con đò đời chị về không. Chỗ này là một phát hiện độc đáo của Trương Nam Hương, hóa ra, cả em và chị đều là những con đò về không trong cuộc chơi của “ con tạo xoay vần “, cũng đều “ chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường”. Nhưng, ở đoạn thơ thứ năm này, cái hay và tài năng của Trương Nam Hương là, cho thấy dường như Thúy Vân không dấu nổi mình, Thúy Vân biết chị mình đã bán mình chuộc cha, rồi mắc lừa Sở Khanh, bị Hoạn Thư đánh ghen nhưng đã được Thúc Sinh, Từ Hải, đặc biệt Kim Trọng yêu thương. Kiều có oan khuất, có đau thương nhưng cũng có những giờ phút vinh hiển, sáng rỡ. Thúy Vân thì không được thế bao giờ: Chị nhiều hờn giận, yêu thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Đọc những dòng trên, có thể phân định nỗi đau. Thúy Vân đã “ chịu lời”, “chắp nối duyên thừa “, dẫu vậy, vẫn không có được các cung bậc của “hờn giận, yêu thương” trong suốt mười lăm năm, khi mà chàng Kim sẵn sàng: “ Rắp mong treo ấn từ quan/ Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha/ Dấn mình trong áng can qua/ Vào sinh ra tử họa là thấy nhau” . Kim Trọng chỉ mong tìm thấy Kiều. Thúy Vân chỉ là người vợ hờ. Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu! Bốn câu thơ cuối là nỗi cô đơn tột cùng. Bi kịch đã đến hồi kết của màn đoàn viên bẽ bàng, ngang trái. Thúy Vân vẫn cháy bỏng về tình yêu và hạnh phúc, “giấu đầy đêm nỗi khát khao”. Câu thơ cuối cùng bật lên như nghẹn ngào, như dồn nén, tích tụ, đớn đau của mười lăm năm: Kiều ơi, em đợi kiếp nào được yêu ! Có nhiều sẻ chia, đồng cảm với tâm hồn khoan dung, cao thượng và vị tha của Thúy Vân. Trương Nam Hương đã đưa lại một cái nhìn nhân văn, nhân đạo về người em của nàng Kiều, góp phần khẳng định kiệt tác Truyện Kiều của dân tộc. Bài thơ Tâm sự nàng Thúy Vân được nhạc sĩ Thạch Cầm phổ nhạc, ca sĩ Vân Khánh trình bày. Đà Nẵng, tháng 11 – 2015 HUỲNH VĂN HOA
Như muối ướp nỗi đau tươi mãi Bùi Xuân Tôi ngồi yên lặng khá lâu trước chiếc laptop cũ càng của mình khi gõ những dòng này về tập Thơ ngắn của Nguyễn Hoa. Một tập thơ mỏng, lại toàn là những bài thơ ngắn, thế mà tôi đã cất công đọc nó cả tháng trời, và mấy lần định viết nhưng lại hẹn… để đọc thêm một lần nữa hãy viết, không nên vội vàng mà làm gì. Từ khi làm quen với thể thơ Haiku của Nhật Bản, lại được Giáo sư Lưu Đức Trung tặng cho mấy tập thơ Haiku Việt của Giáo sư, lại là người dịch tập thơ ngắn Bầy chim lạc (Stray Birds) của nhà thơ vĩ đại Ấn Độ Rabindranath Tagore, tôi rất “cảnh giác” khi đọc… những bài thơ ngắn. Đừng đọc thơ ngắn như những bài thơ dài hoặc không ngắn; đọc thơ ngắn nên đọc chậm rãi, đọc từng chữ, để cái chữ ngấm vào mình, cũng đừng đọc một lần mà phải đọc nhiều lần, mỗi lần đọc phát hiện một ít, nhiều lần đọc sẽ hiểu đầy đủ hơn cái riêng tư của nó. Ví như trong Thơ ngắn của Nguyễn Hoa, Muối là bài thơ ngắn nhất trong tập: Em là muối/ Ướp nỗi đau/ Tươi mãi! Toàn bài chỉ có 8 chữ và một dấu chấm than (!), được ngắt thành 3 dòng, nhưng đã gây một tiếng vang thâm trầm trong tôi khi đọc nó. Muối thì mặn, nỗi đau là vết thương, thông thường xát muối vào vết thương thì rát lắm; nhưng muối là em; em ướp muối lên nỗi đau của anh, thì nỗi đau hóa thành tình yêu, xanh tươi mãi mãi. Nguyễn Hoa có được những người bạn tri kỹ, rất hiểu anh, chỉ ra được cái sở trường làm thơ ngắn của anh. Nguyễn Trọng Tạo nhận xét, Nguyễn Hoa là “nhà thơ trọng chữ, kiệm lời”. Trịnh Thanh Sơn thì bảo, Nguyễn Hoa có “ý thức dụng công tinh lọc chữ”. Trần Hoài Anh thì cho rằng, chữ trong thơ Nguyễn Hoa là “kiếp chữ”. Còn Nguyễn Hoa thì tự nhận, chữ là “những mảnh vụn của trái tim tôi”. Tất cả những điều vừa kể đều đúng với Nguyễn Hoa, hiểu nhau lắm và tự hiểu mình lắm mới nói ra được những điều như thế. Với tôi, cái làm nên bản sắc những bài thơ ngắn của Nguyễn Hoa chính là sự gắn kết ba trong một: ý, tứ và chữ. Chữ trong thơ Nguyễn Hoa không làm kiếp phu chữ bình thường, không làm Osin của ý và tứ, mà hóa thân vào ý và tứ, đồng hành cùng ý và tứ, làm nên giá trị của câu thơ, bài thơ. Và dù là thơ ngắn, trong một số bài thơ, Nguyễn Hoa đã chạm được đến những suy nghĩ mang tính triết luận về thế giới và cõi người ta, như khi anh viết về những bông hoa Ưu Đàm, một loại hoa mà theo truyền nhà Phật phải 3000 năm mới nở một lần: “trắng tinh khiết/ vía hồn/trổ bông”(Hoa Ưu Điềm); hay khi anh hỏi một người đang nằm trên phao bơi rằng: “Anh có nghe/ biển dưới lưng/ đang sóng/ réo gào nỗi đau chạm bờ!” (Trên biển); hay là khi anh viết về con chim sơn ca đang mải mê hót và người thợ săn giương súng rình mồi “ Mà không hay biết/ Chim sơn ca vẫn hót/ Cả cho số phận mình!” (Chim sơn ca)… Tôi nhớ, khi dịch bài thơ số 219 trong Bầy chim lạc của Tagore, bài thơ chỉ một câu giản dị thế này thôi, mà sau nhiều năm chuyển ngữ từ bản tiếng Anh sang tiếng Việt vẫn còn ám ảnh tôi: “Con người độc ác, nhưng nhân loại tốt bụng” (Men are cruel, but Man is kind ). Cùng niềm tin với nhà thơ được xem là “kỳ công thứ hai” trong lịch sử văn học Ấn Độ ( kỳ công thứ nhất trong văn học Ấn Độ là nhà thơ Kalidasa ), một số bài thơ trong Thơ ngắn của Nguyễn Hoa mang tính nhân loại, và mong ước rằng, thơ như những mảnh vụn trái tim của nhà thơ khi vỡ ra sẽ trở thành những hạt giống nhỏ được đặt vào bàn tay con người và được ngã nhào lên mặt đất…: “Khi những con chữ/ Mảnh vụn trái tim tôi/ Vỡ…/ Được đặt lên bàn tay bạn như hạt giống nhỏ/ Và bạn ơi/ tôi làm sao không sung sướng/ Được ngã nhào thành mặt đất ươm cây!” (Mặt đất ươm cây). Cứ theo ý tại ngôn ngoại mà bàn, đây là nỗi khát khao của bản ngả con người muốn được hòa vào đại ngã vũ trụ, hay dùng từ ngữ của kinh Veda thì Atman muốn hòa vào Brahman làm một. Nguyễn Hoa yêu thương thế giới này và yêu thương đất nước. Hình ảnh đất nước, từ biên cương vào mùa hoa lau chín đến Hà Nội có mưa trong mùa hè, từ “Sấm nở”, “Mùa thu tự trong” đến “Trời xanh mây trắng nắng vàng”… của đất nước đều hiển hiện trong Thơ ngắn , nhưng với một sắc thái khác, ở góc nhìn khác, dịu dàng, thanh bình, khác với đất nước thời chiến tranh và những năm sau ngày hòa bình được phản ánh trong tập thơ Máy bay đang bay và những bài thơ khác của anh mà tôi đã có dịp giới thiệu. Và tất nhiên, Nguyễn Hoa của chúng ta vẫn yêu đấy, vẫn còn muốn hái những đóa hoa hồng để tặng cho tình nhân; và là nhà thơ, anh vẫn tiếp tục trăn trở với thơ: “Không viết được/ “Những câu thơ thật đẹp”/ Tôi bỏ tôi/ Như đêm tối lẩn vào/ Đêm tối/ Để không thấy bóng mình”. Theo chỗ tôi biết, Nguyễn Hoa là nhà thơ có khá nhiều tập thơ đã xuất bản và hiện nay vẫn là nhà thơ viết khỏe, in nhiều. Làm gì có chuyện anh “không viết được” thơ nữa. “Những câu thơ thật đẹp” (câu thơ của Chính Hữu mà anh trích dẫn trong thơ mình) đang chờ anh. Thơ vẫn cứ như người tình, như nuối ướp để nỗi đau của anh tươi mãi… BX
Like salt marinating the pain forever Bui Xuan I sat quietly for a long time in front of my old laptop while typing these lines about the episode Short poetry by Nguyen Hoa. A thin book of poetry, all short poems, but I've been reading it for a month, and have intended to write it several times, but I made an appointment... to read it one more time, write it, don't rush it. . Since becoming acquainted with the Japanese Haiku poetry form, Professor Luu Duc Trung gave him several Vietnamese Haiku poetry collections, and he is the translator of the short poetry collection. Stray Birds by the great Indian poet Rabindranath Tagore, I am very "wary" when reading... short poems. Don't read short poems like long or not so short poems; When reading short poems, you should read them slowly, read each word, let the words absorb into you, don't read it once but read it many times, each time you read a little, you will understand more fully the privacy of the poem. It. For example in Short poetry by Nguyen Hoa, Salt is the shortest poem in the collection: You are the salt/ Soaking the pain/ Forever fresh! The entire article has only 8 words and an exclamation point (!), broken into 3 lines, but it made a deep resonance in me when I read it. Salt is salty, pain is a wound, usually rubbing salt on the wound is very painful; but salt is you; You put salt on my pain, then the pain turns into love, green forever. Nguyen Hoa has close friends who understand him very well and point out his knack for writing short poems. Nguyen Trong Tao commented that Nguyen Hoa is "a poet who values ​​words and saves words". Trinh Thanh Son said that Nguyen Hoa has "a sense of diligently refining words". Tran Hoai Anh believes that the words in Nguyen Hoa's poetry are "word life". As for Nguyen Hoa, she admitted that words are "pieces of my heart". All of the things just mentioned are true for Nguyen Hoa, we understand each other very well and ourselves very well to say such things. To me, what makes Nguyen Hoa's short poems unique is the three-in-one connection: ideas, words, and words. The words in Nguyen Hoa's poetry do not act as ordinary word-givers, do not become osins of ideas and thoughts, but incarnate into ideas and thoughts, accompanying the ideas and thoughts, creating the value of the verse and poem. And even though they are short poems, in some poems, Nguyen Hoa touches on philosophical thoughts about the world and the human world, such as when he writes about Udumbara flowers, a type of flower that according to tradition, According to Buddhism, it takes 3,000 years to bloom once: “pure white/soulful/blossoming”(Hoa U Diem); Or when he asked a person lying on a swimming float: “Do you hear/ the sea below you/ is rolling/ roaring in pain as it hits the shore!” (On the sea); Or when he wrote about the nightingale engrossed in singing and the hunter raising his gun to stalk his prey. Without knowing it/ The nightingale still sings/ Even for my fate!” (Lark)… I remember, when translating poem number 219 in A flock of stray birds by Tagore, the poem is just this simple sentence, but after many years of translation from English to Vietnamese, it still haunts me: "Men are cruel, but Man is kind". Sharing the same belief with the poet is considered the "second feat" in the history of Indian literature ( The first genius in Indian literature is the poet Kalidasa ), some poems in Short poetry Nguyen Hoa's poetry is humanistic, and hopes that poetry, like fragments of the poet's heart, when broken, will become small seeds placed in human hands and tumble to the ground...: “When the words/ Fragments of my heart/ Broken…/ Placed in your hand like small seeds/ And my friend/ How can I not be happy/ To fall into the ground to plant a tree!” (Plant nursery ground). According to the meaning of foreign language, this is the desire of the human ego to merge with the universal ego, or to use the words of the Vedas, Atman wants to merge with Brahman as one. Nguyen Hoa loves this world and loves his country. Images of the country, from the border in the season of ripe reed flowers to rainy Hanoi in the summer, from “Thunder blooms”, “Autumn is clear” arrive “Blue sky, white clouds, golden sunshine”… of the country are all visible in Short poetry , but with a different nuance, from a different perspective, gentle, peaceful, different from the country during the war and the years after the peace day reflected in the poem. The plane is flying and other poems of you that I had the opportunity to introduce. And of course, our Nguyen Hoa is still in love, still wants to pick roses to give to his lover; and as a poet, he continues to concern himself with poetry: "I can't write/ "The verses are so beautiful"/ I leave myself/ Like the dark night sneaks in/ The night is dark/ So I can't see my shadow." As far as I know, Nguyen Hoa is a poet with many published poetry collections and is still a prolific and well-published poet. There's nothing wrong with you “can't write” poetry too. “Beautiful verses” (Chinh Huu's verse that he quoted in his poem) is waiting for him. Poetry is still like a lover, like a mummy to keep your pain fresh forever... BX
NGUYỄN VĂN GIA Nguyễn Văn Gia, sinh năm 1951 (Tân Mão) tại Thanh Khê, Đà Nẵng Cựu học sinh trường Trung học Phan Châu Trinh – Đà Nẵng; Cựu sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế. Có thơ đăng trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước. Tác phẩm đã xuất bản: – Đôi bờ thời gian (thơ, Nxb Hội Nhà văn – 2010) – Lặng lẽ phù sa (thơ, Nxb Hội Nhà văn – 2015) – Nắng gió quê nhà (thơ, Nxb Hội Nhà văn – 2019). LẬP THU Áo tím ai về bên thềm cũ Dễ nắng vàng phai cũng tương tư Chưa xanh thạch thảo vàng hoa cúc Mà sao lòng mình đã lập thu. RỖNG Cứ nhủ lòng mình Buông xả thôi Nhẹ hều như nước chảy mây trôi Làm sao giữ được Điều không thể Chỉ mỗi tay không đã nặng rồi. MƠ… Chẳng còn đâu Bóng tre xanh Quê nhà giờ đã trở thành cố hương Ngậm ngùi ta Giữa phố phường Mơ… Mùa trăng cũ Ruộng Vườn Tiếng chim. HẠT BỤI Trái đất Chứa bảy tỷ con người Với vũ trụ Chỉ là hạt bụi Bụi của bụi Mong gì vĩ đại Giữa thiên hà Vạn triệu năm trôi. BÂNG QUƠ Trang giấy trắng nhớ câu thơ Cánh buồm nâu nhớ bến bờ xa xa Rứa mà người đó đi qua Giả vờ đứng ngó rất là bâng quơ… LÁ TRÚC CHE NGANG Em – Cháu ngoại họ Hoàng Thôn Vỹ Dạ Cũng mơ màng Lá trúc mặt che ngang Đời vắng biệt rồi Những Hàn Mặc Tử Nên sợi buồn thả xuống Bến sông trăng. QUẠNH VẮNG THỀM RÊU Đã trao ấn kiếm buồn chi nữa Buổi xếp hoàng bào biệt cấm cung Hỡi ơi vua chúa còn mơ ngủ Thì huống hồ chi kẻ thứ dân Trời vẫn xanh trên thành quách cũ Sao lòng người quá đỗi rêu phong Ngô đồng kia buồn chi ủ rủ Chẳng vàng rơi cho kịp thu sang Em tôn nữ hay là quận chúa Chờ ai đây cửa phủ cuối chiều Từ dạo mùa vui không về nữa Chỉ nghe lá rụng dưới thềm rêu. Phù sa và Nắng gió trong thơ Nguyễn Văn Gia TS. Huỳnh Văn Hoa Trên Tuyển tập thơ văn Hương Đất – Trung học Phan Châu Trinh, Xuân Tân Hợi, 1971, có giới thiệu tập thơ Về hướng mặt trời của hai tác giả Nguyễn Văn Gia và Cung Định. Từ đó đến nay, Nguyễn Văn Gia vẫn chung thủy với thơ ca. Gắn với thơ nhưng không coi thơ như cứu cánh của đời mình, chỉ viết khi thấy có cảm xúc, có nhu cầu bộc lộ những cảm và nghĩ của bản thân. Đến nay, Nguyễn Văn Gia đã in ba tập thơ: Đôi bờ thời gian (2010), Lặng lẽ phù sa (2015) và Nắng gió quê nhà (2019). Nói như Paul Celan: “ Thơ là sự giãi bày chứ không phải là áp đặt”. Đúng vậy.Thơ Nguyễn Văn Gia là sự giãi bày về những cung bậc của tâm hồn.Ở đó, người đọc nhận ra những tâm tình về một vùng quê hương đã dần dần mất dấu trước cơn lốc của đô thị hóa, nhận ra những trăn trở về những nỗi niềm thế sự, những u uẩn của một trái tim nhạy cảm trước bao vấn đề của thời cuộc, của đất nước,”biết dấu vào đâu”, “nỗi buồn, tôi ơi”. Trong bài Ký ức, nhớ Thanh Khê cũ, tác giả viết: Hôm qua ruộng vườn / Bây giờ là phố / Tên xóm tên làng / Mấy ai còn nhớ / Đã nhạt phai rồi / Chân quê bình dị / Tôi gửi lên trời / Nỗi niềm cố lý . Cố lý không còn, thành quá vãng, đành gửi nỗi niềm cho mây trắng bay qua những khung trời diệu vợi nhớ thương. Những bài Tình cờ đọc thơ Hạ Tri Chương, Dửng dưng, Cố hương, Những câu thơ vụn 1, 2, 3,.. .về một làng quê bùi ngùi, thương nhớ, một tâm trạng không như Hồi hương ngẫu thư, nghĩa là: “ Quê nhà giờ đã trở thành cố hương ” (Những câu thơ vụn 3), “ Quê nhà ơi, sao lòng tôi rối bời / Vẫn hoa cỏ tươi xanh đất trời đẹp quá / Mà tiếng cười nghe quá chừng buồn bã / Nắng gió đất trời và nắng gió lòng tôi” (Nắng gió quê nhà). Suốt một đời ở quê, từ trẻ cho đến tóc điểm sương, chứng kiến bao đổi dời, bao gió sương cát bụi phong trần, giọng quê không đổi, chỉ cảnh quê, người quê, tình quê thay đổi: Cố hương mỗi lúc một xa Người đi, mang cả quê nhà đi theo”(Cố hương). Người của năm tháng cũ như mây cuối trời. Đó là những áng mây lưu lạc, cô đơn và quạnh quẽ: Lối xưa rêu phủ còn đây / Người xưa chừ đã như mây cuối trời . Lạc giữa quê hương là tâm trạng thường trực trong thơ Nguyễn Văn Gia: Tôi quanh quẩn quê mình / Cho đến khi tóc bạc / Nghe giọng lạ thất kinh / Cứ ngỡ mình đi lạc (Tình cờ đọc thơ Hạ Tri Chương). Có nhiều bài, Nguyễn Văn Gia viết thật hay về cái mơ hồ, quạnh vắng của đất trời, của lòng người, có đó rồi nhạt phai, như chạm vào thiền tịnh.Thời gian như Tiếng mùa thầm thĩ giữa hư không (Mùa vàng). Bên thềm cũ, ai về, cả mùa thu xao động: Áo tím ai về bên thềm cũ / Dễ nắng vàng phai cũng tương tư / Chưa xanh thạch thảo, vàng hoa cúc / Mà sao lòng mình đã lập thu (Lập thu). Một ước mơ chân thành, như ngọn lửa ấm, sưởi cuộc đời cô đơn: Ước gì thành mây trắng / Bay vào giữa trang thơ / Chữ reo như lửa ấm / Sưởi phận người bơ vơ (Chữ reo như lửa ấm). Và, hãy: Cứ hồn nhiên cây cỏ / Cứ như sương như gió / Bóng ai đang lặng lẽ / Trên nẻo về hoang sơ (Mơ phai), Cả một tinh cầu hiu quạnh lắm / Mai rồi bóng đổ xuống thời gi an (Những câu thơ vụn 6), Câu thơ buồn lỡ viết / Biết để dành cho ai. ..(Dịu dàng như giọt nắng),… Chiều xuân phai , bài thơ ngắn, chỉ 20 từ, sao ngậm ngùi: Qua bên kia con dốc / Trôi về phía hoàng hôn / Lòng buồn như con nước / Mỗi lúc một xa nguồn. Đành rằng, đời người có giới hạn. Chuyến tàu hoàng hôn của những mùa xuân phai sẽ trôi như con nước xa nguồn. Trên con đò nhân thế đó, phía trước là bở tử sinh, con người thường nghĩ về cái hữu hạn của đời người: lơ ngơ bước giữa đời / biết về đâu, tôi ơi (Tự hỏi), Không ai tắm hai lần / Trên cùng một dòng sông / Ta về thấy mất hút / Dòng sông thời thanh xuân (Nơi đi để nhớ), Thời gian vô tận trôi / Giữa bao la đất trời / Cái thân rồi cũng mất / Dấu chân còn được sao (Dấu chân), …Một trái tim mẫn cảm.Một cảm thức nhân sinh thảng thốt. Một cuộc viễn trình chỉ có ga cuối… là những gì Nguyễn Văn Gia trăn trở, suy tư trong hơn 10 năm qua. Với Nguyễn Văn Gia, trên những nẻo đường sáng tạo, thơ không tách rời với cái đẹp, nhất là cái đẹp của cuộc sống. Dường như với tác giả, thơluôn là cõi gửi gắm những đi về của tình yêu, của khát vọng.Thơ không giữ thái độ mơ hồ với cuộc sống, cam chịu trước cái xấu, cái tiêu cực.Nghệ thuật là Cuộc đời. Cái Cao cảbao giờ cũng là đích đến của Thơ ca: Chắp tay lạy khắp mười phương / Cầu xin Trời Đất xót thương quê nhà… / Cúi đầu lạy tạ cao xanh / Mong sao còn lại chút tình nước non (Khấn), Khi người với người không nhân ái / Thì đất trời kia bỏ ta luôn !(Những dấu chân buồn). Các bài: Bên trời thu phai, Cố hương, Đêm khó ngủ, Quê nhà, Đất nước, Phiêu lãng cùng giấc mơ bay, Hoa cỏ vô tình, Trên đường đi làm sổ đỏ bỗng nhớ Vương Thực Phủ,Nắng gió quê nhà … nằm trong chuỗi suy nghĩ của tác giả về làng xóm, quê hương, đất nướcmình. Yêu những bài lục bát ngắn, nhiều tình ý. Ở đó, các câu được ngắt nhịp 2/2/2 hoặc 2/4 hoặc 3/3 hay 2/2/4 như Bâng quơ, Cố hương, Lan man buổi giao mùa, Màu mây cũ, Về vườn, Quy y, Mơ…, Lên chùa,… Đó là một thứ lục bát mang đậm hơi thở của hôm nay, day dứt về đời, về thế sự của Nguyễn Văn Gia. Xin có vài lời về thơ của một tâm hồn đa mang với cuộc sống, luôn tin vào lẽ phải và sự thành thật với con người, với quê hương. Đó là những phù sa , những nắng gió , qua thời gian , Nguyễn Văn Gia đã gửi gắm nơi bao bài thơ của mình. Đà Nẵng, tháng 9 năm 2019 HVH
NGUYỄN VĂN GIA Nguyễn Văn Gia, sinh năm 1951 (Tân Mão) tại Thanh Khê, Đà Nẵng Cựu học sinh trường Trung học Phan Châu Trinh – Đà Nẵng; Cựu sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế. Có thơ đăng trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước. Tác phẩm đã xuất bản: – Đôi bờ thời gian (thơ, Nxb Hội Nhà văn – 2010) – Lặng lẽ phù sa (thơ, Nxb Hội Nhà văn – 2015) – Nắng gió quê nhà (thơ, Nxb Hội Nhà văn – 2019). LẬP THU Áo tím ai về bên thềm cũ Dễ nắng vàng phai cũng tương tư Chưa xanh thạch thảo vàng hoa cúc Mà sao lòng mình đã lập thu. RỖNG Cứ nhủ lòng mình Buông xả thôi Nhẹ hều như nước chảy mây trôi Làm sao giữ được Điều không thể Chỉ mỗi tay không đã nặng rồi. MƠ… Chẳng còn đâu Bóng tre xanh Quê nhà giờ đã trở thành cố hương Ngậm ngùi ta Giữa phố phường Mơ… Mùa trăng cũ Ruộng Vườn Tiếng chim. HẠT BỤI Trái đất Chứa bảy tỷ con người Với vũ trụ Chỉ là hạt bụi Bụi của bụi Mong gì vĩ đại Giữa thiên hà Vạn triệu năm trôi. BÂNG QUƠ Trang giấy trắng nhớ câu thơ Cánh buồm nâu nhớ bến bờ xa xa Rứa mà người đó đi qua Giả vờ đứng ngó rất là bâng quơ… LÁ TRÚC CHE NGANG Em – Cháu ngoại họ Hoàng Thôn Vỹ Dạ Cũng mơ màng Lá trúc mặt che ngang Đời vắng biệt rồi Những Hàn Mặc Tử Nên sợi buồn thả xuống Bến sông trăng. QUẠNH VẮNG THỀM RÊU Đã trao ấn kiếm buồn chi nữa Buổi xếp hoàng bào biệt cấm cung Hỡi ơi vua chúa còn mơ ngủ Thì huống hồ chi kẻ thứ dân Trời vẫn xanh trên thành quách cũ Sao lòng người quá đỗi rêu phong Ngô đồng kia buồn chi ủ rủ Chẳng vàng rơi cho kịp thu sang Em tôn nữ hay là quận chúa Chờ ai đây cửa phủ cuối chiều Từ dạo mùa vui không về nữa Chỉ nghe lá rụng dưới thềm rêu. Phù sa và Nắng gió trong thơ Nguyễn Văn Gia TS. Huỳnh Văn Hoa Trên Tuyển tập thơ văn Hương Đất – Trung học Phan Châu Trinh, Xuân Tân Hợi, 1971, có giới thiệu tập thơ Về hướng mặt trời của hai tác giả Nguyễn Văn Gia và Cung Định. Từ đó đến nay, Nguyễn Văn Gia vẫn chung thủy với thơ ca. Gắn với thơ nhưng không coi thơ như cứu cánh của đời mình, chỉ viết khi thấy có cảm xúc, có nhu cầu bộc lộ những cảm và nghĩ của bản thân. Đến nay, Nguyễn Văn Gia đã in ba tập thơ: Đôi bờ thời gian (2010), Lặng lẽ phù sa (2015) và Nắng gió quê nhà (2019). Nói như Paul Celan: “ Thơ là sự giãi bày chứ không phải là áp đặt”. Đúng vậy.Thơ Nguyễn Văn Gia là sự giãi bày về những cung bậc của tâm hồn.Ở đó, người đọc nhận ra những tâm tình về một vùng quê hương đã dần dần mất dấu trước cơn lốc của đô thị hóa, nhận ra những trăn trở về những nỗi niềm thế sự, những u uẩn của một trái tim nhạy cảm trước bao vấn đề của thời cuộc, của đất nước,”biết dấu vào đâu”, “nỗi buồn, tôi ơi”. Trong bài Ký ức, nhớ Thanh Khê cũ, tác giả viết: Hôm qua ruộng vườn / Bây giờ là phố / Tên xóm tên làng / Mấy ai còn nhớ / Đã nhạt phai rồi / Chân quê bình dị / Tôi gửi lên trời / Nỗi niềm cố lý . Cố lý không còn, thành quá vãng, đành gửi nỗi niềm cho mây trắng bay qua những khung trời diệu vợi nhớ thương. Những bài Tình cờ đọc thơ Hạ Tri Chương, Dửng dưng, Cố hương, Những câu thơ vụn 1, 2, 3,.. .về một làng quê bùi ngùi, thương nhớ, một tâm trạng không như Hồi hương ngẫu thư, nghĩa là: “ Quê nhà giờ đã trở thành cố hương ” (Những câu thơ vụn 3), “ Quê nhà ơi, sao lòng tôi rối bời / Vẫn hoa cỏ tươi xanh đất trời đẹp quá / Mà tiếng cười nghe quá chừng buồn bã / Nắng gió đất trời và nắng gió lòng tôi” (Nắng gió quê nhà). Suốt một đời ở quê, từ trẻ cho đến tóc điểm sương, chứng kiến bao đổi dời, bao gió sương cát bụi phong trần, giọng quê không đổi, chỉ cảnh quê, người quê, tình quê thay đổi: Cố hương mỗi lúc một xa Người đi, mang cả quê nhà đi theo”(Cố hương). Người của năm tháng cũ như mây cuối trời. Đó là những áng mây lưu lạc, cô đơn và quạnh quẽ: Lối xưa rêu phủ còn đây / Người xưa chừ đã như mây cuối trời . Lạc giữa quê hương là tâm trạng thường trực trong thơ Nguyễn Văn Gia: Tôi quanh quẩn quê mình / Cho đến khi tóc bạc / Nghe giọng lạ thất kinh / Cứ ngỡ mình đi lạc (Tình cờ đọc thơ Hạ Tri Chương). Có nhiều bài, Nguyễn Văn Gia viết thật hay về cái mơ hồ, quạnh vắng của đất trời, của lòng người, có đó rồi nhạt phai, như chạm vào thiền tịnh.Thời gian như Tiếng mùa thầm thĩ giữa hư không (Mùa vàng). Bên thềm cũ, ai về, cả mùa thu xao động: Áo tím ai về bên thềm cũ / Dễ nắng vàng phai cũng tương tư / Chưa xanh thạch thảo, vàng hoa cúc / Mà sao lòng mình đã lập thu (Lập thu). Một ước mơ chân thành, như ngọn lửa ấm, sưởi cuộc đời cô đơn: Ước gì thành mây trắng / Bay vào giữa trang thơ / Chữ reo như lửa ấm / Sưởi phận người bơ vơ (Chữ reo như lửa ấm). Và, hãy: Cứ hồn nhiên cây cỏ / Cứ như sương như gió / Bóng ai đang lặng lẽ / Trên nẻo về hoang sơ (Mơ phai), Cả một tinh cầu hiu quạnh lắm / Mai rồi bóng đổ xuống thời gi an (Những câu thơ vụn 6), Câu thơ buồn lỡ viết / Biết để dành cho ai. ..(Dịu dàng như giọt nắng),… Chiều xuân phai , bài thơ ngắn, chỉ 20 từ, sao ngậm ngùi: Qua bên kia con dốc / Trôi về phía hoàng hôn / Lòng buồn như con nước / Mỗi lúc một xa nguồn. Đành rằng, đời người có giới hạn. Chuyến tàu hoàng hôn của những mùa xuân phai sẽ trôi như con nước xa nguồn. Trên con đò nhân thế đó, phía trước là bở tử sinh, con người thường nghĩ về cái hữu hạn của đời người: lơ ngơ bước giữa đời / biết về đâu, tôi ơi (Tự hỏi), Không ai tắm hai lần / Trên cùng một dòng sông / Ta về thấy mất hút / Dòng sông thời thanh xuân (Nơi đi để nhớ), Thời gian vô tận trôi / Giữa bao la đất trời / Cái thân rồi cũng mất / Dấu chân còn được sao (Dấu chân), …Một trái tim mẫn cảm.Một cảm thức nhân sinh thảng thốt. Một cuộc viễn trình chỉ có ga cuối… là những gì Nguyễn Văn Gia trăn trở, suy tư trong hơn 10 năm qua. Với Nguyễn Văn Gia, trên những nẻo đường sáng tạo, thơ không tách rời với cái đẹp, nhất là cái đẹp của cuộc sống. Dường như với tác giả, thơluôn là cõi gửi gắm những đi về của tình yêu, của khát vọng.Thơ không giữ thái độ mơ hồ với cuộc sống, cam chịu trước cái xấu, cái tiêu cực.Nghệ thuật là Cuộc đời. Cái Cao cảbao giờ cũng là đích đến của Thơ ca: Chắp tay lạy khắp mười phương / Cầu xin Trời Đất xót thương quê nhà… / Cúi đầu lạy tạ cao xanh / Mong sao còn lại chút tình nước non (Khấn), Khi người với người không nhân ái / Thì đất trời kia bỏ ta luôn !(Những dấu chân buồn). Các bài: Bên trời thu phai, Cố hương, Đêm khó ngủ, Quê nhà, Đất nước, Phiêu lãng cùng giấc mơ bay, Hoa cỏ vô tình, Trên đường đi làm sổ đỏ bỗng nhớ Vương Thực Phủ,Nắng gió quê nhà … nằm trong chuỗi suy nghĩ của tác giả về làng xóm, quê hương, đất nướcmình. Yêu những bài lục bát ngắn, nhiều tình ý. Ở đó, các câu được ngắt nhịp 2/2/2 hoặc 2/4 hoặc 3/3 hay 2/2/4 như Bâng quơ, Cố hương, Lan man buổi giao mùa, Màu mây cũ, Về vườn, Quy y, Mơ…, Lên chùa,… Đó là một thứ lục bát mang đậm hơi thở của hôm nay, day dứt về đời, về thế sự của Nguyễn Văn Gia. Xin có vài lời về thơ của một tâm hồn đa mang với cuộc sống, luôn tin vào lẽ phải và sự thành thật với con người, với quê hương. Đó là những phù sa , những nắng gió , qua thời gian , Nguyễn Văn Gia đã gửi gắm nơi bao bài thơ của mình. Đà Nẵng, tháng 9 năm 2019 HVH
MỘT CÂU HỎI LỚN KHÔNG LỜI ĐÁP Xin mượn một câu thơ của Huy Cận trong bài thơ Các vị la hán chùa Tây Phương để làm tiêu đề cho bài viết này. Xưa nay, triết học và nghệ thuật vẫn luôn băn khoăn về con người, về ý nghĩa đích thực của đời người. Con người là sinh vật có tính xã hội. Con người xã hội là kẻ sáng tạo ra lịch sử, kẻ sáng tạo ra thế giới văn hóa vật chất của mình, và, theo nghĩa này, cũng sáng tạo ra bản thân mình. Con người làm ra tất cả và cũng thiêu hủy tất cả. Con người là một hố sâu thăm thẳm, không dễ khám phá. Nói như nhà văn Nguyễn Khải, đó là “một cõi nhân gian bé tí”, nhưng vời vợi, không cùng. Hữu Thỉnh có một bài thơ như thế về con người. Bài thơ có tên : Hỏi , như sau: Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào ? – Chúng tôi tôn cao nhau Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào ? -Chúng tôi làm đầy nhau Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào ? – Chúng tôi đan vào nhau Làm nên những chân trời Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào ? Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào ? Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào ? Bài thơ có 6 câu hỏi. Ba câu đầu được trả lời. Ba câu sau không có lời đáp, sâu hút. Gần như là sự đối lập, đối lập giữa thiên nhiên, người mẹ vĩ đại của con người và con người, chủ thể sống gần gũi, thân thiết với thiên nhiên. Vì sao vậy? Những câu hỏi này không phải đến bây giờ mới xuất hiện ! Đất với đất tôn cao nhau, Nước với nước làm đầy nhau. Cỏ với cỏ đan vào nhau, làm nên những chân trời. Đằng sau các câu trả lời giản dị ấy là những khung trời ấm áp nghĩa tình. Tất cả đều giữ cho nhau, quyện chặt lấy nhau, cùng tồn tại và cùng làm đẹp nhau. Có thể thấy, ở đây, màu xanh của đất, của nước, của cỏ cây như hòa trộn, làm nên một không gian đầy ắp, bát ngát và bao la tình. Ba câu hỏi còn lại là những dấu hỏi lớn, treo lơ lửng giữa vũ trụ mênh mông, rợn ngợp của đời người. Không có câu trả lời nào dành cho con người! Hữu Thỉnh không phải một lần mà nhiều lần đã mong đi tìm lời giải này. Ở một bài thơ lục bát, bài Tìm người , nhà thơ đã viết: Chiều rung chuông, chiều rung chuông Có con chim nhỏ bị thương cuối trời Tôi nhớn nhác đi tìm người Bước chân thì ngắn, đường đời thì xa. Buổi chiều ấy có tiếng chuông rung. Có thể tiếng chuông chùa hoặc tiếng chuông của một nhà thờ. Cuối phương trời xa ngái, một con chim nhỏ bị thương. Và, tôi, trong buổi chiều cô đơn, lạnh lẽo đó, nhớn nhác đi tìm con người. Song, làm sao được, “bước chân thì ngắn, đường đời thì xa”. Con người vẫn là một thực thể sâu thẳm, khó hiểu. Ca dao có câu:”Sông sâu còn có kẻ dò/ Nào ai bẻ thước để đo lòng người”. Con người là gì? Từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Những câu hỏi như thế vẫn vang vọng lên từ bao đời nay. Một chỗ khác, Hữu Thỉnh trăn trở: Mẹ tôi hát nghìn câu có một câu chưa hát Cha tôi gặp trăm điều có một điều chưa gặp Hạnh phúc ! Vậy thì, những câu hỏi của nhà thơ băn khoăn về con người có bi quan không ? Sao phải lặp đến ba lần ? Ba câu hỏi như vết cắt, cứ xoáy sâu vào con người, lạnh lùng: Tôi hỏi người… Tôi hỏi người… Tôi hỏi người …Người sống với người có yêu thương, có chia sẻ, có cảm thông cho nhau không? Nhà thơ bỏ lửng… Diogen (404-323), triết gia cổ đại Hy Lạp, một ngày nọ, giữa ban ngày, ông đốt lên ngọn đèn và cầm nó đi giữa thành Athene. Có người hỏi, ông tìm gì? Ông đã trả lời: Tôi đi tìm con người . Câu chuyện ấy có thể có hoặc có thể không, song, đấy là vấn đề muôn thuở của triết học. Hữu Thỉnh là nhà thơ đi ra từ chiến tranh, trưởng thành từ chiến tranh. Ông hiểu rõ cái giá của cuộc sống, của sự hy sinh, của hòa bình, của hạnh phúc, đồng thời, với độ nhạy của người nghệ sĩ, ông cũng hiểu : Bão trời ta coi khinh Bão người không chịu nổi ( Một thoáng làm người ) Chiến tranh có quy luật của chiến tranh. Hòa bình có quy luật của hòa bình. Cái cao cả của chiến tranh không đồng nghĩa và tương thích với thời kỳ lặng im tiếng súng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chuẩn bị rời căn cứ về thủ đô, Tố Hữu cũng đã từng cảnh tỉnh con người: Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng ( Việt Bắc ) Nhưng, “ Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng” ( Lời mẹ ) . “ Giữa gió bụi cõi người ”, như cách nói của nhà thơ, vượt qua “ cặn lắng của đời mình ”, Hữu Thỉnh, với từng chặng đường thơ, đã và luôn “ lấy tình yêu làm mái nhà che chở ” ( Trái đất chẳng rộng đâu) . Nghệ sĩ không có quyền hoài nghi về con người. Nói như một nhà nghiên cứu, một nghệ sĩ đích thực, về một phương diện nào đó, anh ta là một kiểu Jesus về tinh thần. Có một mệnh đề triết học ngỡ như mâu thuẫn nhau, đó là: không được thương con người nhưng không thể không thương con người . Ở khía cạnh tích cực, bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh là hồi chuông gióng lên để vừa cảnh báo vừa bảo vệ con người, rằng là, trong cuộc đời này, cái đẹp, cái cao cả, nhân hậu bao giờ cũng mong manh như cánh hoa trước gió, còn cái xấu, cái ác thì bạo liệt, trâng tráo. Hữu Thỉnh không trả lời và nhường lời giải đó cho bạn đọc. Bài thơ đậm ý vị triết học là vậy! HUỲNH VĂN HOA
A BIG UNANSWERED QUESTION Please borrow a verse from Huy Can in the poem Arhats of Tay Phuong Pagoda to make the title of this article. Since ancient times, philosophy and art have always wondered about humans, about the true meaning of human life. Humans are social creatures. Social man is the creator of history, the creator of his world of material culture, and, in this sense, also the creator of himself. Humans make everything and destroy everything. Humanity is a deep abyss, not easy to explore. As writer Nguyen Khai puts it, it is "a tiny human realm", but it is immense and limitless. Huu Thinh has such a poem about people. The poem is called: Ask , as follows: I ask the land: How does the land live with the land? – We honor each other I ask water: How does water live with water? -We fill each other I asked the grass: How does the grass live with the grass? – We are intertwined Create horizons I asked people: - People living with people like ? I asked people: - People living with people like ? I asked people: - People living with people like ? The poem has 6 questions. The first three questions are answered. The next three sentences have no answer, they are profound. It is almost an opposition, an opposition between nature, the great mother of man, and man, the subject who lives close and intimate with nature. Why? These questions did not appear until now! Earth and earth exalt each other, water and water fill each other. Grass and grass intertwine, creating horizons. Behind those simple answers are warm scenes of love. They all keep each other, are intertwined, coexist and beautify each other. It can be seen that here, the green colors of the land, water, and trees seem to blend together, creating a space full of space, vast and boundless with love. The remaining three questions are big question marks, hanging in the vast, overwhelming universe of human life. There are no answers for humans! Huu Thinh, not once but many times, looked forward to finding this solution. In a six-eight poem, article I'm looking for one people , the poet wrote: Ring the bell in the afternoon, ring the bell in the afternoon There is an injured little bird at the end of the sky I wandered around looking for someone Steps are short, life's journey is long. That afternoon there was a bell ringing. Maybe the bells of a temple or the bells of a church. At the far end of the sky, a small bird was injured. And, I, in that cold, lonely afternoon, was looking for people. But, how can it be, "steps are short, life's journey is long". Humans are still a profound, incomprehensible entity. There is a folk song that says: "The river is deep and there are still people who can probe / No one can break the ruler to measure people's hearts." What is human? Where does it come from and where will it go? Questions like these have been echoing for generations. Another place, Huu Thinh pondered: My mother sang a thousand lines, but only one line was not sung My father encountered a hundred things, but there was one thing he never encountered Happy ! So, the poet's questions concern whether humans are pessimistic? Why do we have to repeat it three times? Three questions are like cuts, piercing deeply into the person, coldly: I ask you… I ask you… I ask you …Do people living with others love, share, and sympathize with each other? The poet leaves it blank… Diogen (404-323), ancient Greek philosopher, one day, in broad daylight, he lit a lamp and carried it through the city of Athens. Someone asked, what are you looking for? He replied: I'm looking for humans . That story may or may not exist, but it is an eternal problem of philosophy. Huu Thinh is a poet who came out of war and grew up from war. He clearly understood the price of life, of sacrifice, of peace, of happiness, and at the same time, with the artist's sensitivity, he also understood: Storms and heavens we despise The storm is unbearable ( A moment of being human ) War has the rules of war. Peace has the law of peace. The nobility of war is not synonymous or compatible with a period of silence. After the Dien Bien Phu victory, preparing to leave the base for the capital, To Huu also warned people: The eastern city still remembers the village In the morning light, I still remember the moon in the middle of the forest ( north Vietnam ) But, " Love people/Even though there are thousands of bitter things." ( Mother's words ) . “ Amidst the wind and dust of the human world ”, as the poet puts it, overcome “ residue of my life ", Huu Thinh, with each stage of his poetry, has always been " Take love as a roof to protect you ” ( The earth is not large). Artists have no right to be skeptical about people. Speaking like a researcher, a true artist, in some ways he is a kind of spiritual Jesus. There is a seemingly contradictory philosophical proposition: You can't love people, but you can't help but love people . On the positive side, the poem Ask by Huu Thinh is a bell that rings to both warn and protect people, that in this life, the beautiful, the noble, the kind are always as fragile as flower petals in the wind, while the ugly, Evil is violent and brazen. Huu Thinh did not answer and left the solution to the readers. This is a poem full of philosophical flavor! HUYNH VAN HOA
Đến với bài thơ hay : ĐI ĂN CƯỚI VỢ CŨ Vợ cũ đi lấy chồng Mời mình về ăn cưới Mình bàn với vợ mới Có đi không mình ơi ! Vợ mới cười rất tươi “Chị mời thì nên đến Hai đứa mình cùng đi Để tỏ tình thân mến !” Vợ cũ mặc rất đẹp Nhìn thấy chạy ra chào Chồng mới của vợ cũ Ra tận nơi đón vào… Ôi cuộc tình rổ rá Mà cưới vui bất ngờ Mọi người tranh nhau hát Mình cũng lên đọc thơ Trong làn khói lơ mơ Mình ghé tai hỏi vợ: “Nếu cuộc tình này vỡ Mình có mời anh không ?” Tác giả: Bùi Hoàng Tám Lời bình: Bài thơ trên của Bùi Hoàng Tám, quê ở Thái Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Như nhà thơ kể lại, cuộc tình rổ rá là chuyện có thật của chính gia đình ông, do vậy, lời lẽ là của người trong cuộc. Điều dễ thấy là, khó có một cuộc hội ngộ nào mà mọi chuyện buồn được xếp lại, chỉ thấy nụ cười, tiếng hát, vần thơ, quần áo đẹp, thái độ vồn vã, niềm nở, đon đả mời chào,… như đã diễn ra trong các khổ thơ. Các sự việc đều chân thật, không chút gượng ép, màu mè. Bài thơ là một câu chuyện, có tình tiết, sự kiện, nhân vật, đối thoại, với 5 khổ, đúng 100 từ. Lại viết theo thể ngũ ngôn, chữ nghĩa giản dị, giản dị đến mức tự nhiên như lời nói thường ngày, không thể nào khác hơn, chẳng trau chuốt, vòng vèo, cứ thế nhẹ nhàng đi qua trái tim, tình cảm người đọc. Bài thơ có 4 nhân vật, nhân vật nào cũng bộc lộ rõ tính cách, tâm hồn. Chỗ gặp nhau của họ, đó là sự ứng xử tốt đẹp với nhau. Lẽ đời, khi đã không còn sống chung, để tránh phiền toái cho nhau, việc đầu tiên là, cắt đứt mọi quan hệ, tệ hơn là thiếu tôn trọng và bôi xấu lẫn nhau. Vậy mà, toàn bộ bài thơ toát lên sự trong trẻo, đẹp đẽ, không một chút gợn về thái độ ứng xử giữa người với người (phương diện rộng) giữa các cặp rổ rá (phương diện hẹp). Nó đẹp như một bài thơ tình viên mãn. Câu chuyện bắt đầu từ lời mời của người “vợ cũ đi lấy chồng” và thái độ dò xem của người chồng cũ đối với vợ mới: Vợ cũ đi lấy chồng Mời mình về ăn cưới Mình bàn với vợ mới Có đi không mình ơi ! Lời lẽ nhẹ nhàng, thấu tình đạt lý. Chắc chắn là, trong tình thế nửa muốn đi nửa không muốn này, anh chồng cũ đã chủ động “bàn với vợ mới”. Và, tình thế diễn ra thật bất ngờ, người vợ mới “cười rất tươi” và nói: “Chị mời thì nên đến Hai đứa mình cùng đi Để tỏ tình thân mến” Thấy gì qua cách nói của người vợ mới: “nên đến”, “cùng đi”, “tỏ tình”. Thái độ vừa xởi lởi vừa chân tình, đã nhòa đi quá khứ, lộ ra một nhân cách. Các chữ “nên”, “cùng”, “tỏ” gửi đến người đọc những vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ ! Ngày vui thì phải mặc áo mới, áo đẹp. Điều ấy là tất nhiên rồi. Có điều, người nhận ra cái chỗ đặc biệt ấy, không phải mọi người mà là người chồng cũ: ”vợ cũ mặc rất đẹp”. Hạ từ “rất” ở đây không chỉ nhằm tôn vinh vẻ đẹp của vợ cũ trong ngày vui, cao hơn thế, còn là biểu lộ tình cảm trân trọng đối với người của thuở nào. Thêm nữa, cái cách “nhìn thấy” và “chạy ra chào” của người vợ cũ lại cũng chứa chan bao cảm động. Đúng là, gãy mà không đổ, chia mà không lìa. Chí tình hơn, “chồng mới của vợ cũ” còn “ra tận nơi đón vào…”. Vào tiệc cưới, như nhà thơ nói, đây là “cuộc tình rổ rá”, mà sao “cưới vui bất ngờ”. Thật ra, cũng chẳng bất ngờ, đó là kết quả của những tấm lòng đôn hậu bên trên, phía trước đó mà thôi! Mọi người tranh nhau hát Tiếng hát vẫn là thường lệ trong mọi đám cưới. Ở đây, lại tranh nhau hát. “Tranh nhau” nghĩa là ai cũng muốn hát, cũng muốn chúc phúc cho đôi bạn của mình. Trong khung cảnh ấy, món sở trường của nhà thơ là “đọc thơ”. Nội dung thơ nói gì, không rõ. Song, chắc chắn, đấy là những vần thơ chúc vợ cũ tiếp tục “còn có nhau trong đời”, như một lần nhà thơ ước nguyện. Trong bài Thơ cho em trước ngưỡng cửa tòa , Bùi Hoàng Tám từng viết và cầu mong: Cũng đành em ạ, Từ nay… Tình ta đã đến thế này. Thì thôi ! Dẫu không đi hết một đời Đã cho nhau cả một trời đam mê Đã từng quên cả nẻo về Đã từng tan nát tái tê đường chiều… Xin đừng trách trái tim yêu Tâm hồn thi sĩ vốn nhiều nỗi đau Cũng đừng hò hẹn kiếp sau Kìa em…nước dưới chân cầu vẫn trôi ! Mong em về với bên người Trái tim vẫn đập nhịp thời đam mê. Đã không có sự tranh nhau hơn thiệt về của cải, đã không có những lời lẽ lại qua tại tòa, chỉ một mong muốn rằng, “dẫu không đi hết một đời” thì đừng quên những gì của “một trời đam mê”, nên những gì diễn ra trước và trong ngày cưới của vợ cũ, vẫn là niềm tin tưởng gửi gắm cho nhau, vẫn là : vỡ mà không nát. Cái hay của bài thơ Đi ăn cưới vợ cũ là câu chữ hữu hình như lặn vào tâm tình của người đọc. Người đọc như chạm vào mỗi cuộc đời gãy đổ phía trước bằng một chuỗi âm thanh của tiếng lòng. Chữ nghĩa như tan ta, chỉ còn cảm thấy tình người. Ôi, sao đời vẫn đẹp vậy ! Bài thơ tỏa ra một thứ hương: hương tình, hương nghĩa, đầy chất nhân văn. Cuộc sống vốn gập ghềnh, ít bằng phẳng, ước mong của nhà thơ là gửi một thông điệp trước mọi đổ vỡ, rằng là, trong hành trình đi tìm hạnh phúc, con người cần có nhau một tấm lòng, cần những đốm lửa nhân ái trong mọi nẻo đường đời, qua đó, con người bớt đi những giá lạnh và đau khổ ! Đà Nẵng, tháng 2 năm 2012 Huỳnh Văn Hoa
Coming to a good poem : GOING TO A WEDDING FOR YOUR EX-WIFE The ex-wife got married Invite me to the wedding I discussed it with my new wife Will you go? The new wife smiled very brightly “If you invite me, you should come The two of us go together To express my affection! The ex-wife dresses very beautifully When I saw it, I ran out to say hello Ex-wife's new husband Go to the place to pick up… Oh, what a miserable love affair The wedding was surprisingly fun Everyone competes to sing I also read poetry In the drowsy smoke I leaned into my wife's ear and asked: “If this love breaks up Do I invite you? Author: Bui Hoang Tam Comments: The above poem is by Bui Hoang Tam, a native of Thai Binh, a member of the Vietnam Writers Association. As the poet recounts, the basket case is a true story of his own family, so the words are those of insiders. It is easy to see that there is hardly a reunion where all the sad things are put aside, only smiles, singing, poetry, beautiful clothes, cheerful, warm, inviting attitudes are seen... took place in the stanzas of the poem. The events are true, without any forcedness or coloration. The poem is a story, with details, events, characters, and dialogue, with 5 stanzas and exactly 100 words. Also written in five-word form, the words are simple, so simple that they are as natural as everyday speech, nothing could be more different, not elaborate or meandering, just gently passing through the reader's heart and emotions. . The poem has 4 characters, each character clearly reveals their personality and soul. Their meeting place, that is how to behave well with each other. In life, when we no longer live together, to avoid trouble for each other, the first thing is to cut off all relationships, worse than disrespect and defame each other. Yet, the entire poem exudes clarity and beauty, without the slightest ripple in the behavior between people (broad aspect) between pairs of baskets (narrow aspect). It is as beautiful as a perfect love poem. The story begins with the invitation of the "ex-wife to get married" and the ex-husband's probing attitude towards his new wife: The ex-wife got married Invite me to the wedding I discussed it with my new wife Will you go? The words are gentle, understanding and reasonable. Certainly, in this situation of half wanting to go and half not wanting to go, the ex-husband took the initiative to "discuss with his new wife". And, the situation happened unexpectedly, the new wife "smiled very brightly" and said: “If you invite me, you should come The two of us go together To express my affection" What do you see in the new wife's words: "should come", "let's go together", "confess". His cheerful and sincere attitude has blurred the past, revealing a personality. The words "should", "with", "show" send to the reader the beauty of a woman's soul! On happy days, you must wear new, beautiful clothes. That's natural. However, the person who recognizes that special place is not everyone but the ex-husband: "the ex-wife dresses very beautifully". Lowering the word "very" here is not only to honor the beauty of the ex-wife on a happy day, but more than that, it is also to express respectful feelings for the person from the past. In addition, the way his ex-wife "saw" and "ran out to say hello" was also filled with so much emotion. It's true, broken but not broken, divided but not separated. Even more lovingly, "the ex-wife's new husband" even "went to the place to welcome her in...". At the wedding party, as the poet said, this was a "basket case love affair", but why "the wedding was unexpectedly happy". Actually, it's not surprising, it's the result of the kind hearts above and before that! Everyone competes to sing Singing is still customary at every wedding. Here, we compete to sing again. "Competing" means everyone wants to sing and wants to bless their couple. In that context, the poet's forte is "reading poetry". What the poem says is unclear. But, certainly, these are poems wishing his ex-wife to continue to "still have each other in life", as the poet once wished. In the article Poems for you on the threshold of court , Bui Hoang Tam once wrote and prayed: It can't be helped, From now on... Our love has come to this. That's it! Even if it doesn't last a lifetime Gave each other a whole world of passion I've forgotten the way home Used to be broken and numb in the afternoon... Please don't blame your loving heart The poet's soul is inherently full of pain Don't date in the next life either Look, the water under the bridge is still flowing! I hope you come back to me The heart still beats with passion. There was no competition over wealth, no back and forth in court, just a wish that, "even if it doesn't last forever", don't forget the things of "a heavenly passion". So what happened before and on the ex-wife's wedding day was still the trust they entrusted to each other, still the same: broken but not broken. The beauty of the poem Went to my ex-wife's wedding are tangible words that seem to dive into the reader's emotions. The reader seems to touch each broken life ahead with a series of heart sounds. Words and meanings melt away, leaving only the feeling of human love. Oh, how beautiful life is! The poem radiates a kind of fragrance: the fragrance of love, the fragrance of meaning, full of humanity. Life is inherently bumpy and less flat, the poet's wish is to send a message before all disruptions, that, in the journey to find happiness, people need each other's heart, the sparks of humanity. love in all walks of life, through which people are less cold and suffering! Da Nang, February 2012 Huynh Van Hoa
SỢI TÓC – ĐỜI NGƯỜI Phạm Đình Ân, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, có nhiều sáng tác được chọn vào số tuyển tập của thơ ca Việt Nam hiện đại. Một số bài thơ của ông được phổ nhạc, nhiều người yêu thích. Ông thường gắn sáng tác của mình với những chủ đề thường ngày của cuộc sống, ngay cả các bài thơ viết cho thiếu nhi. Phạm Đình Ân trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ bắt đầu xuất hiện những năm 1970 của thế kỷ trước. Đặc điểm đáng ghi nhận của thơ Phạm Đình Ân là ngắn gọn, tinh tế. Ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng. Phạm Đình Ân có một bài thơ được nhiều người yêu thích. Bài thơ là một câu chuyện tình về một đời người, có lớp lang, tình tiết, nhân vật, sự kiện, cảm xúc, dù ngắn, chỉ 9 dòng, 49 âm tiết, song có độ vang lớn. Đó là bài Sợi tóc. Bài thơ như sau: Em tặng tôi sợi tóc của em Rồi ngày tháng vèo trôi, em không nhớ nữa Năm mươi năm sau Khi tìm được về chốn cũ Tôi gặp một bà già tóc bạc Bà chẳng biết tôi Tôi tặng bà sợi tóc Bà khóc Sợi tóc vẫn còn đen. Bài thơ chỉ vỏn vẹn có vậy. Sau khi ra đời, nó đã sống một cuộc đời khác. Có nhiều người yêu thích, chép vào sổ tay, đọc trong các buổi liên hoan, họp hành, sinh hoạt. Lại nhiều dị bản, do là, người yêu thơ thêm vào, cấu trúc lại dòng thơ, nhất là đi tìm tác giả bài thơ. Tạp chí Thế giới trong ta của Hội Khoa học Tâm lý-Giáo dục Việt Nam đã mở chuyên mục “Đi tìm tác giả bài thơ Sợi tóc”. Đây quả là hạnh phúc của người sáng tác. Bài thơ có vẻ đẹp riêng, lấp lánh riêng. Câu chữ bình dị, không một chút cầu kì, nhưng có độ lắng, làm rung động trái tim người đọc. Nhiều năm tháng qua, bạn đọc ở các lứa tuổi đã tìm đến với bài thơ. Có người không chỉ đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật trong bài thơ, mà còn vận vào mình theo một kiểu riêng. Câu chuyện bắt đầu từ việc “ Em tặng tôi sợi tóc của em “. Sợi tóc thanh xuân ấy, đen nhánh, thánh thiện. Nếu đường đời không có những phân li, chia cắt, chắc là đôi trẻ sẽ có cuộc sống hạnh phúc . Song, không vậy ! “ Rồi ngày tháng vèo trôi, em không nhớ nữa “. Chữ “vèo” trong câu thơ làm ta nhớ đến Tản Đà: “ Vèo trông lá rụng đầy sân/ Công danh phù thế có ngần ấy thôi ?” ( Cảm thu,tiễn thu ) . “ Em không nhớ nữa “. Đáng thương hay đáng trách ? Nhưng, sao nở trách người con gái của tuổi đôi mươi, mười tám ấy! Ở đất nước chiến tranh, loạn lạc, “ những cuộc chia ly không đếm hết tựa sao trời ” (Chế Lan Viên), thì, với một người phụ nữ, đâu chỉ gánh trên vai chồng con, mà cả non sông, đất trời, lòng người sao giữ được ? Hiểu vậy, mới thấy sự độ lượng cho nhau trong cuộc tìm về đầy tình thương mến và có cả nước mắt. Người phụ nữ trên mảnh đất khốn khó này gợi cho ta nhiều nghĩ suy lắm ! Khoảng cách của quá khứ và hiện tại là năm mươi năm . Khoảng cách đó không phải là ngắn so với một đời người. Nó đằng đẵng, hút sâu. Nó mài mòn bao ước mơ. Nó đổ bóng xuống nhiều số phận. Nó làm tóc đen thành tóc bạc, làm chàng trai, cô gái của ngày xưa thành ông, thành bà của hôm nay. Tác giả rất kiệm lời, không nói gì của năm mươi năm đó. Cũng không lý giải vì sao em không nhớ nữa . Nhưng, sau câu chữ đó, ta nhận ra những trỉu nặng của năm tháng. Bao lo toan, bao dằng xé của đời một người phụ nữ. Phải chăng vì thế mà nhà thơ chỉ kể chứ không bình luận ! Năm mươi năm , một khoảng trống ghê rợn, khắc nghiệt, có đủ cung bậc của niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau, vinh hoa và mất mát. Giữa hai bờ vực của thời gian đó, bao biến đổi của hai cuộc đời trong bài thơ. Người của ngày xưa, nay tìm được về chốn cũ. Một cuộc trở về nhuốm nhiều cảm xúc. Chốn cũ, người đã đổi thay, gặp lại “ một bà già tóc bạc ”, không nhận ra mình. Chốn cũ của năm mươi năm trước đây à ? . Người tặng ta sợi tóc của thuở hoa niên đây à ? Hình như, trong lúc này, người trở về đầy xao xuyến, cố ghìm nén lại và khoảng lặng này như chực òa vỡ, như chực bùng dâng,… Nhưng, lòng vẫn như xưa. Vật trao tặng vẫn là “ sợi tóc ”. Sợi tóc của hai lần trao tặng, của hai khoảng cách thời gian. Ngày trước, “ em tặng tôi sợi tóc của em”. Bây giờ, năm mươi năm sau, “ tôi tặng bà sợi tóc”. Chỉ khác một điều là, lần này: Bà khóc. Chao ôi thời gian! Thời gian có thể là liều thuốc thần tiên, giúp con người quên đi những nỗi buồn, quên đi những hẹn ước, kể cả những thề bồi. Người phụ nữ trong bài thơ có vậy không ? Không rõ! Song, đằng sau tiếng khóc của nhân vật thì đồng thời cũng là thời khắc dội lên bao nỗi niềm trong lòng người đọc. Câu thơ dồn nén, chỉ hai từ thôi, “bà khóc”, nhưng, như một năng lượng, bùng vỡ, tạo ra nhiều chiều của trường liên tưởng. Giọt nước mắt trong lành như rơi giữa trang thơ ! Sau năm mươi năm, sợi tóc cũ vẫn còn đen. Những sợi tóc bây giờ của hai mái đầu đã bạc. Phía sau sợi tóc là những thăng trầm của cuộc đời hai người . Sau sợi tóc là bao biến cố đời người. Điều làm cho người đọc nhớ nhất, yêu quý nhất đối với bài thơ là sự trong trắng và sâu lắng của tình yêu. Nói một cách khác, Phạm Đình Ân đã vĩnh cửu hóa tình yêu, nêu lên sự bất diệt của tình yêu. Đây chính là nguyên nhân, là yếu tố làm nên sự yêu mến của người đọc đối với bài thơ này. Ta quý yêu giọt nước mắt trong lành ấy biết bao ! HUỲNH VĂN HOA
HAIR FIBER – HUMAN LIFE Pham Dinh An, a member of the Vietnam Writers Association, has many works selected for anthologies of modern Vietnamese poetry. Some of his poems have been set to music and are loved by many people. He often associated his compositions with everyday topics of life, even poems written for children. Pham Dinh An grew up during the resistance war against America. Poetry began to appear in the 1970s of the last century. The remarkable characteristics of Pham Dinh An's poetry are brevity and sophistication. The poetic language is concise and concise. Pham Dinh An has a poem that is loved by many people. The poem is a love story about a person's life, with layers, details, characters, events, emotions. Although short, only 9 lines, 49 syllables, it has great resonance. That's the article Hair. The poem is as follows: You gave me your hair Then the days passed by, I don't remember anymore Fifty years later When I found my old place I met an old woman with gray hair She doesn't know me I gave her a hair She cried The hair is still black. The poem is just that. After its birth, it lived a different life. Many people love it, copy it into notebooks, and read it at parties, meetings, and activities. There are many variations, because poetry lovers add and restructure the lines of the poem, especially to find the author of the poem. Magazine The world within us of the Vietnam Association of Psychological and Educational Sciences has opened a section "Finding the author of the poem Thread of Hair". This is truly the creator's happiness. The poem has its own beauty, its own sparkle. The words are simple, not at all fussy, but have a calmness that touches the reader's heart. Over the years, readers of all ages have come to the poem. Some people not only sympathize and share with the characters in the poem, but also express themselves in their own way. The story begins with “ You gave me your hair “. That youthful hair, jet black, holy. If there are no separations or separations in life's path, the young couple will probably have a happy life. But, no! “ Then the days passed by, I don't remember anymore “. The word "veo" in the poem reminds us of Tan Da: " Suddenly, the leaves fall all over the yard/ Is there so much fame and fortune? ( Feelings of acceptance, farewell to autumn ) . “I don't remember anymore “. Pity or blame ? But, why blame a girl in her twenties or eighteen years! In a country of war and chaos, " The separations are as countless as the stars in the sky ” (Che Lan Vien), then, for a woman, not only does she carry the burden of her husband and children, but also the mountains and rivers, the land and the sky, how can she keep people's hearts? Understanding that, we can see each other's generosity in the journey home filled with love and even tears. The woman in this miserable land gives me a lot to think about! The distance between past and present is fifty years . That distance is not short compared to a human lifetime. It is long and deep. It erodes many dreams. It casts a shadow over many destinies. It turns black hair into silver hair, turns the boys and girls of yesteryear into the men and women of today. The author is very sparing, saying nothing about those fifty years. Nor does it explain why I don't remember anymore . But, after those words, we realize the heaviness of the years. All the worries and hardships of a woman's life. Is that why the poet only tells and does not comment? Fifty years , a terrifying, harsh void, with all levels of joy and sadness, happiness and suffering, glory and loss. Between the two edges of that time, there are many changes in the two lives in the poem. People from the past have now found their way back to their old place. A return filled with many emotions. The old place, the people have changed, we meet again" an old woman with gray hair ”, did not recognize me. The old place from fifty years ago? . You gave me the hair of my youth? It seems that, at this moment, the person returning was filled with excitement, trying to hold it back and this silence seemed like it was about to burst, like it was about to explode... But, the heart was still the same as before. The gift is still " hair ”. The hair of two gifts, of two time gaps. Yesterday, " You gave me your hair." Now, fifty years later, “ I give you hair." The only difference is, this time: She cried. Oh time! Time can be a magic medicine, helping people forget sadness, forget promises, even vows. Is the woman in the poem like that? Unclear! However, behind the character's cry, there is also a moment that resonates with many emotions in the reader's heart. The poem is compressed, with just two words, "she cried", but, like an energy, it explodes, creating many dimensions of the association field. Tears as pure as falling in the middle of a page of poetry! After fifty years, the old hair is still black. The hairs on both heads are now gray. Behind the hair are the ups and downs of two people's lives. Behind a hair are many life events. What makes the reader remember and love the most about the poem is the innocence and depth of love. In other words, Pham Dinh An has eternalized love, highlighting the immortality of love. This is the reason, the factor that makes readers love this poem. How I love those pure tears! HUYNH VAN HOA
VỀ ĐI, PHÍA NGÀO NGẠT TRẦM THƠM Nhà thơ Lê Thái Sơn sinh ngày 10/1/1949 tại xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 1972. Là hội viên các hội: Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam. Mất ngày 24.8.2013, hưởng thọ 65 tuổi. Lê Thái Sơn là nhà thơ có không ít những bài thơ, câu thơ nghiêng xuống những mảnh đời bất hạnh, đi bên lề cuộc đời. Đó là những thân phận làm thuê đội cát, “ tự dầm thân xuống bùn sâu ”. Đó là người anh, giã từ chiến trường, về hưu nhận ruộng khoán , rồi một ngày bỗng nhận ra, đứa con trai độc nhất không phải con mình, thêm bi kịch: Anh tôi, một lần nữa trắng tay”. Đó là người phu đào huyệt: “ Hay chi cái kiếp đi đào huyệt thuê” . Đó là người bạn đạp xích lô, sống với đủ hạng người, cuối cùng vẫn mong: “Cúi xin Đức Phật từ tâm/ Kiếp sau lại bắt con cầm càng xe”. Đó là thân phận cửu vạn vùng biên : “ Sống nhờ, vác mướn, gánh thuê xứ người “. Những thân phận đó, ngày xuân, Tết đến : Giao thừa trời đất thơm hương Nẻo quê thăm thẳm trên đường một tôi… Trong văn mạch ấy, có một bài thơ xúc động lòng người, bài Ga xép chiều cuối năm: Đã cuộc gọi thứ mười, không lời đáp Cuộc gọi thứ mười lăm: lặng im Chiều cuối năm ga xép lạnh và mưa Em run run trên ghế ẩm phòng chờ Có gã xe ôm mặt rượu đỏ lừ Nửa hù dọa nửa bông lơn ve vãn Có ả hàng rong gườm gườm kề sát Mời mọc rồi thề độc quay lưng Đã phảng phất đâu đây mùi trầm Mùi hương của đoàn viên, thánh thiện Mùi hương có từ nơi em chưa từng đến Không, từ nơi em nông nổi chối từ Càng về chiều, mưa càng nặng hạt thêm Em nhắm mắt bấm liều vài số nữa Chuông vẫn đổ mà không lời đáp trả Tiếng còi tàu hú gọi xa xa Một chút nữa thôi đã là giao thừa Một chút nữa thôi đã là năm mới Em trượt tiếp trên đường ray lầm lỗi Hay quay về phía ngào ngạt trầm thơm. LÊ THÁI SƠN Câu chuyện diễn ra tại một nhà ga xép trong buổi chiều cuối năm, lạnh và mưa. Không khí hắt hiu. Chỉ vài ba nhân vật, cũng buồn như ga xép. Cuối năm là thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Thời khắc ấy, đối với mỗi con người, trong tâm thức, thường hướng về cội nguồn, về gia đình, có những chờ mong và đón đợi, những ước mơ và hy vọng, những gửi trao và tin tưởng. Nhân vật chính trong bài thơ là cô gái không rõ nhân thân, không rõ nghề nghiệp. Qua những việc cô làm, chắc đây là một “gái gọi”, nói theo ngôn ngữ hiện đại. Lê Thái Sơn chọn điểm rơi rất điển hình, đó là “chiều cuối năm” tại một “ga xép”, “lạnh và mưa”. Cô gái đó, khi tờ lịch cũ đã rơi xuống, không có một quê hương để trở về, không có một mái ấm gia đình để sum vầy, đoàn viên, không có những người thân đang đón đợi. Phía xa ấy, không có ngọn lửa hồng ! Bài thơ có 5 khổ, mỗi khổ là một nỗi lòng. Chúng ta biết, ga xép vốn dĩ buồn, quạnh quẽ, lại vào cuối năm, càng vắng vẻ hơn, chỉ có những phận người nổi trôi, bèo bọt. Bài thơ bất đầu bằng những “cuộc gọi”: Đã cuộc gọi thứ mười, không lời đáp Cuộc gọi thứ mười lăm: lặng im Chiều cuối năm ga xép lạnh và mưa Em run run trên ghế ẩm phòng chờ. Ở những phút giây của năm cùng tháng tận, công việc bộn bề, không ai còn nghĩ đến cuộc vui, cuộc hẹn, vì thế, đã đến “cuộc gọi thứ mười”, phía bên kia vẫn “không lời đáp”. Niềm hy vọng chưa tắt. “Cuộc gọi thứ mười lăm”, vẫn “lặng im”. Hai mươi lăm cuộc gọi chìm đi trong vô vọng, cô đơn. Giữa những điều không mong đợi đó, Lê Thái Sơn có một câu thơ thật nao lòng: Em run run trên ghế ẩm phòng chờ “. Cứ tưởng tượng cảnh một chiều cuối năm, mưa lạnh, ghế ẩm, phòng chờ, không một người thân thích, đơn côi giữa đất khách quê người, cái lạnh bên ngoài và cái lạnh tâm hồn cũng làm trái tim mỗi chúng ta “run run” theo nỗi niềm cô gái. Những hình ảnh trong các câu thơ như xếp chồng lên nhau, xô lệch những cảm giác đầy xao xuyến, tái tê, đọc lên vô cùng xúc động. Và rồi, trong bối cảnh đó, xét cho cùng, cũng đáng thương cảm, lẽ ra, vào giờ khắc này, mọi người đều trở về với gia đình, tiên tổ, vậy mà, “gã xe ôm” và “ả hàng rong” vẫn còn bươn chải, vật lộn với cuộc sống vất vả. Mỗi cuộc đời là mỗi bức tranh: Có gã xe ôm mặt rượu đỏ lừ Nửa hù dọa nửa bông lơn ve vãn Có ả hàng rong gườm gườm kề sát Mời mọc rồi thề độc quay lưng Ba cuộc đời, ba số phận, chưa có chỗ gặp nhau. Phải chăng, khi mô tả thái độ, lời nói của “gã xe ôm” và của “ả hàng rong”, tác giả như muốn tô đậm, làm rõ thêm nỗi niềm và tâm trạng của em. Từ “gã”, “ả” có hàm ý chê trách nhưng sau câu chữ vẫn là sự đắng lòng của người viết. Giữa khung cảnh nhuốm buồn, nhà thơ phả vào đấy mùi hương trầm, bay phảng phất và lẫn khuất đâu đây. Khổ thơ có đến ba lần nói đến “mùi trầm”, “mùi hương”, rồi nói đến “đoàn viên”, “thánh thiện”, tạo thành thế đối lập với cảnh ngộ trên: Đã phảng phất đâu đây mùi trầm Mùi hương của đoàn viên, thánh thiện Mùi hương có từ nơi em chưa từng đến Không, từ nơi em nông nổi chối từ… Mùi hương trầm đã xua đi cái lạnh lẽo chiều đông, xua đi cái cảm giác cô đơn, khốn khổ của phận người. Chú ý sẽ thấy tấm lòng của nhà thơ kịp ghìm lại khi nói về cô gái. Tác giả đã muốn giữ lại sự thánh thiện và viết: Mùi hương có từ nơi em chưa từng đến/ Không, từ nơi em nông nổi chối từ. Chính chữ “không” đặt ở đầu câu, giọng khẳng định, với suy nghĩ về cái “nông nổi chối từ” của em, một cô gái không phải hư hỏng, đã trở thành ngọn lửa của niềm tin, tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống. Nghệ sĩ có quyền mô tả cái xấu, song, sâu thẳm của lương tri vẫn là ánh đuốc nhân văn, thắp lên để soi đường cho con người đi về nẻo thiện. Lê Thái Sơn đã nghĩ như vậy ! Phía xa xa, tiếng còi tàu hú gọi. Chuyến tàu sang trang, chuẩn bị lên đường, kết thúc một hành trình. Mưa chiều đang đổ nhanh và nặng hạt. Chuông vẫn vang lên nhưng không có lời đáp trả. Những hình ảnh vừa có tính hiện thực vừa có tính ẩn dụ nhằm nói lên ý nghĩa của tình huống. Tác giả đã cho nhân vật đi đến chặng cuối của con đường. Cả khổ thứ tư như một hồi chuông rung lên, báo động sự tột cùng của cô đơn và tột cùng của đớn đau, vò xé. Ngôn ngữ không thể nói gì hơn trong cảnh ngộ này. Khổ thơ cuối cùng, khổ thơ chia thành hai biên giới: “lầm lỗi” và “thánh thiện” diễn ra trong “một chút nữa thôi”: Một chút nữa thôi đã là giao thừa Một chút nữa thôi đã là năm mới Em trượt tiếp trên đường ray lầm lỗi Hay quay về phía ngào ngạt trầm thơm. Với Ga xép chiều cuối năm, Lê Thái Sơn đã gửi một tiếng nói nhân đạo vào thơ ca hiện đại Việt Nam. “ Bài thơ găm vào lòng bạn đọc, những đắng cay xa xót, những vẻ đẹp trần ai… Đấy không chỉ là nỗi đau, là tấm lòng thi sĩ mà còn là chí hướng cải cách của thi nhân trước xã hội ” (Lê Hoài Nguyên). HUỲNH VĂN HOA Tháng 1-2016
VỀ ĐI, PHÍA NGÀO NGẠT TRẦM THƠM Nhà thơ Lê Thái Sơn sinh ngày 10/1/1949 tại xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 1972. Là hội viên các hội: Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam. Mất ngày 24.8.2013, hưởng thọ 65 tuổi. Lê Thái Sơn là nhà thơ có không ít những bài thơ, câu thơ nghiêng xuống những mảnh đời bất hạnh, đi bên lề cuộc đời. Đó là những thân phận làm thuê đội cát, “ tự dầm thân xuống bùn sâu ”. Đó là người anh, giã từ chiến trường, về hưu nhận ruộng khoán , rồi một ngày bỗng nhận ra, đứa con trai độc nhất không phải con mình, thêm bi kịch: Anh tôi, một lần nữa trắng tay”. Đó là người phu đào huyệt: “ Hay chi cái kiếp đi đào huyệt thuê” . Đó là người bạn đạp xích lô, sống với đủ hạng người, cuối cùng vẫn mong: “Cúi xin Đức Phật từ tâm/ Kiếp sau lại bắt con cầm càng xe”. Đó là thân phận cửu vạn vùng biên : “ Sống nhờ, vác mướn, gánh thuê xứ người “. Những thân phận đó, ngày xuân, Tết đến : Giao thừa trời đất thơm hương Nẻo quê thăm thẳm trên đường một tôi… Trong văn mạch ấy, có một bài thơ xúc động lòng người, bài Ga xép chiều cuối năm: Đã cuộc gọi thứ mười, không lời đáp Cuộc gọi thứ mười lăm: lặng im Chiều cuối năm ga xép lạnh và mưa Em run run trên ghế ẩm phòng chờ Có gã xe ôm mặt rượu đỏ lừ Nửa hù dọa nửa bông lơn ve vãn Có ả hàng rong gườm gườm kề sát Mời mọc rồi thề độc quay lưng Đã phảng phất đâu đây mùi trầm Mùi hương của đoàn viên, thánh thiện Mùi hương có từ nơi em chưa từng đến Không, từ nơi em nông nổi chối từ Càng về chiều, mưa càng nặng hạt thêm Em nhắm mắt bấm liều vài số nữa Chuông vẫn đổ mà không lời đáp trả Tiếng còi tàu hú gọi xa xa Một chút nữa thôi đã là giao thừa Một chút nữa thôi đã là năm mới Em trượt tiếp trên đường ray lầm lỗi Hay quay về phía ngào ngạt trầm thơm. LÊ THÁI SƠN Câu chuyện diễn ra tại một nhà ga xép trong buổi chiều cuối năm, lạnh và mưa. Không khí hắt hiu. Chỉ vài ba nhân vật, cũng buồn như ga xép. Cuối năm là thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Thời khắc ấy, đối với mỗi con người, trong tâm thức, thường hướng về cội nguồn, về gia đình, có những chờ mong và đón đợi, những ước mơ và hy vọng, những gửi trao và tin tưởng. Nhân vật chính trong bài thơ là cô gái không rõ nhân thân, không rõ nghề nghiệp. Qua những việc cô làm, chắc đây là một “gái gọi”, nói theo ngôn ngữ hiện đại. Lê Thái Sơn chọn điểm rơi rất điển hình, đó là “chiều cuối năm” tại một “ga xép”, “lạnh và mưa”. Cô gái đó, khi tờ lịch cũ đã rơi xuống, không có một quê hương để trở về, không có một mái ấm gia đình để sum vầy, đoàn viên, không có những người thân đang đón đợi. Phía xa ấy, không có ngọn lửa hồng ! Bài thơ có 5 khổ, mỗi khổ là một nỗi lòng. Chúng ta biết, ga xép vốn dĩ buồn, quạnh quẽ, lại vào cuối năm, càng vắng vẻ hơn, chỉ có những phận người nổi trôi, bèo bọt. Bài thơ bất đầu bằng những “cuộc gọi”: Đã cuộc gọi thứ mười, không lời đáp Cuộc gọi thứ mười lăm: lặng im Chiều cuối năm ga xép lạnh và mưa Em run run trên ghế ẩm phòng chờ. Ở những phút giây của năm cùng tháng tận, công việc bộn bề, không ai còn nghĩ đến cuộc vui, cuộc hẹn, vì thế, đã đến “cuộc gọi thứ mười”, phía bên kia vẫn “không lời đáp”. Niềm hy vọng chưa tắt. “Cuộc gọi thứ mười lăm”, vẫn “lặng im”. Hai mươi lăm cuộc gọi chìm đi trong vô vọng, cô đơn. Giữa những điều không mong đợi đó, Lê Thái Sơn có một câu thơ thật nao lòng: Em run run trên ghế ẩm phòng chờ “. Cứ tưởng tượng cảnh một chiều cuối năm, mưa lạnh, ghế ẩm, phòng chờ, không một người thân thích, đơn côi giữa đất khách quê người, cái lạnh bên ngoài và cái lạnh tâm hồn cũng làm trái tim mỗi chúng ta “run run” theo nỗi niềm cô gái. Những hình ảnh trong các câu thơ như xếp chồng lên nhau, xô lệch những cảm giác đầy xao xuyến, tái tê, đọc lên vô cùng xúc động. Và rồi, trong bối cảnh đó, xét cho cùng, cũng đáng thương cảm, lẽ ra, vào giờ khắc này, mọi người đều trở về với gia đình, tiên tổ, vậy mà, “gã xe ôm” và “ả hàng rong” vẫn còn bươn chải, vật lộn với cuộc sống vất vả. Mỗi cuộc đời là mỗi bức tranh: Có gã xe ôm mặt rượu đỏ lừ Nửa hù dọa nửa bông lơn ve vãn Có ả hàng rong gườm gườm kề sát Mời mọc rồi thề độc quay lưng Ba cuộc đời, ba số phận, chưa có chỗ gặp nhau. Phải chăng, khi mô tả thái độ, lời nói của “gã xe ôm” và của “ả hàng rong”, tác giả như muốn tô đậm, làm rõ thêm nỗi niềm và tâm trạng của em. Từ “gã”, “ả” có hàm ý chê trách nhưng sau câu chữ vẫn là sự đắng lòng của người viết. Giữa khung cảnh nhuốm buồn, nhà thơ phả vào đấy mùi hương trầm, bay phảng phất và lẫn khuất đâu đây. Khổ thơ có đến ba lần nói đến “mùi trầm”, “mùi hương”, rồi nói đến “đoàn viên”, “thánh thiện”, tạo thành thế đối lập với cảnh ngộ trên: Đã phảng phất đâu đây mùi trầm Mùi hương của đoàn viên, thánh thiện Mùi hương có từ nơi em chưa từng đến Không, từ nơi em nông nổi chối từ… Mùi hương trầm đã xua đi cái lạnh lẽo chiều đông, xua đi cái cảm giác cô đơn, khốn khổ của phận người. Chú ý sẽ thấy tấm lòng của nhà thơ kịp ghìm lại khi nói về cô gái. Tác giả đã muốn giữ lại sự thánh thiện và viết: Mùi hương có từ nơi em chưa từng đến/ Không, từ nơi em nông nổi chối từ. Chính chữ “không” đặt ở đầu câu, giọng khẳng định, với suy nghĩ về cái “nông nổi chối từ” của em, một cô gái không phải hư hỏng, đã trở thành ngọn lửa của niềm tin, tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống. Nghệ sĩ có quyền mô tả cái xấu, song, sâu thẳm của lương tri vẫn là ánh đuốc nhân văn, thắp lên để soi đường cho con người đi về nẻo thiện. Lê Thái Sơn đã nghĩ như vậy ! Phía xa xa, tiếng còi tàu hú gọi. Chuyến tàu sang trang, chuẩn bị lên đường, kết thúc một hành trình. Mưa chiều đang đổ nhanh và nặng hạt. Chuông vẫn vang lên nhưng không có lời đáp trả. Những hình ảnh vừa có tính hiện thực vừa có tính ẩn dụ nhằm nói lên ý nghĩa của tình huống. Tác giả đã cho nhân vật đi đến chặng cuối của con đường. Cả khổ thứ tư như một hồi chuông rung lên, báo động sự tột cùng của cô đơn và tột cùng của đớn đau, vò xé. Ngôn ngữ không thể nói gì hơn trong cảnh ngộ này. Khổ thơ cuối cùng, khổ thơ chia thành hai biên giới: “lầm lỗi” và “thánh thiện” diễn ra trong “một chút nữa thôi”: Một chút nữa thôi đã là giao thừa Một chút nữa thôi đã là năm mới Em trượt tiếp trên đường ray lầm lỗi Hay quay về phía ngào ngạt trầm thơm. Với Ga xép chiều cuối năm, Lê Thái Sơn đã gửi một tiếng nói nhân đạo vào thơ ca hiện đại Việt Nam. “ Bài thơ găm vào lòng bạn đọc, những đắng cay xa xót, những vẻ đẹp trần ai… Đấy không chỉ là nỗi đau, là tấm lòng thi sĩ mà còn là chí hướng cải cách của thi nhân trước xã hội ” (Lê Hoài Nguyên). HUỲNH VĂN HOA Tháng 1-2016
GÁI QUÊ Gái quê bưng mủng đựng tuổi thơ lấm bùn trên má đựng nước mắt xa mẹ lấy chồng đựng tiếng khóc con gái đầu lòng đựng trời chiều trở giông … Gái quê về làng tre gai rấp ngõ cây vườn khăn tang mủng rơi chục trứng vỡ, chục mặt trời vỡ nát gái quê bấu đất cào trời : – Mẹ ơi ! …. Hoàng Minh Nhân Ngày trước cũng như bây giờ, người dân quê vẫn dùng thúng, mủng trong các sinh hoạt gia đình hoặc đồng áng. Có điều, hình ảnh những cô gái quê bưng mủng, đội mủng không còn nữa. Thay vào dó là những chiếc làn, chiếc giỏ bằng nhựa tổng hợp, đủ màu. Đọc Gái quê của Hoàng Minh Nhân, điều làm ta dễ nhận ra, đây là một cuộc đời, cuộc đời của một người phụ nữ ở nông thôn vừa chịu thương chịu khó vừa lẳng lặng giam mình trong bổn phận, rộng hơn nữa, đấy là một số phận. Mười hai câu thơ, chẵn 60 từ, không có chữ nào vui cả. Bài thơ vẽ ra niềm thương cảm, xốn xang đến gan ruột. Chiếc mủng – vật thân quen ấy của đời thường – đã trở thành một biểu tượng, giống như lòng chảo thời gian, đựng tất cả năm tháng một đời người. Thuở ấu thơ là chân lấm tay bùn. Thời con gái là nước mắt xa mẹ ngày đi lấy chồng, rồi sinh con cũng trong tiếng khóc. Năm tháng với những trời chiều trở giông, trái nắng. Bốn từ đựng đặt ở đầu câu gợi lên cái buồn thăm thẳm, vời vợi. Không hiểu sao, khi đọc những dòng thơ này, tôi lại liên tưởng đến những gì mà Thanh Tịnh viết về những người con gái của quê hương ông trong Quê mẹ . Cũng hiền lành, chân chất đấy nhưng hạnh phúc không mỉm cười với họ. Thấp thoáng đó đây cái không khí buồn buồn, ngùi ngùi. Phải chăng ngày trước, những cảnh đời như mẹ ta, chị ta là vậy ? Gái quê xa làng, rồi gái quê về làng. Mong một thay đổi? Không. Cảnh tre gai rấp ngõ, cây vườn khăn tang còn ảm đạm hơn. Lối về đã hết. Ước mơ tan biến, còn đâu ? Chao ôi, chiếc mủng cũ lại rơi. Chục trứng vỡ, chục mặt trời vỡ nát . Thế là, không như người nông dân trong Mười trứng , chút hy vọng cuối cùng đã tuột khỏi tầm tay. Bi kịch đến hồi kết thúc, chỉ còn biết bấu đất cào trờ i, gào kêu người thương yêu nhất của mình: mẹ ơi ! Cùi nhìn đất, ngẩng trông trời, thiên địa ấy không sẻ chia nổi những dằn xóc của cuộc đời gái quê . Bài thơ buồn, gợi thương cảm, nỗi niềm người viết như hiện lên từng dòng thơ. Hai từ mẹ ơi ! ở cuối bài sao mênh mang tình đời đến thế ! Huỳnh Văn Hoa
COUNTRY GIRL Country girls carry diapers Carry your childhood with mud on your cheeks holding back tears of separation from mother to get married containing the cry of the first daughter endure the stormy afternoon... Country girl returns to the village bamboo and thorns line the alley Mourning scarf garden plant falling pus Ten broken eggs, ten broken suns country girl clinging to the earth and scratching the sky: - Mommy ! …. Hoang Minh Nhan In the past as well as now, rural people still use baskets and nets in family or farming activities. However, the image of country girls carrying bags and wearing hats is no longer there. Instead, there are baskets and baskets made of synthetic plastic of all colors. Read Country girl by Hoang Minh Nhan, what makes it easy to realize is that this is a life, the life of a woman in the countryside who both endures hardships and quietly confines herself to duty, more broadly, these are some department. Twelve verses, even 60 words, not a single funny word. The poem paints a feeling of sympathy and heart-wrenching excitement. The basket - that familiar object of everyday life - has become a symbol, like the basin of time, containing all the years and months of a person's life. Childhood is full of mud. Girlhood is tears of separation from mother on the day of getting married, then giving birth is also in tears. Years of stormy afternoons and sunny days. Four words contain placed at the beginning of the sentence evokes deep, overwhelming sadness. Somehow, when reading these lines of poetry, I thought of what Thanh Tinh wrote about the daughters of his homeland in Mother's hometown . They are also gentle and sincere, but happiness does not smile at them. Here and there, there is a sad, sad atmosphere. Is it true that in the past, people like my mother and sister were like that? Country girl far from the village, yes Country girl returns to the village. Hoping for a change? Are not. Scene Bamboo and thorns line the alleys, garden trees mourn even more gloomy. The way back is over. The dream disappeared, where is it? Alas, the old mat fell again. Ten broken eggs, ten broken suns . So, unlike the farmer in Ten eggs , the last bit of hope has slipped out of reach. The tragedy comes to an end, all that remains is to know Grabbing the ground and scratching the sky i, screaming for my most beloved person: Mommy ! Cui looked at the earth, looked up at the sky, that heaven and earth could not share the hardships of life country girl . The poem is sad, evokes sympathy, the writer's feelings seem to appear in each line of the poem. Two words Mommy ! At the end of the song, why is there so much love in life! Huynh Van Hoa
TIẾNG HÁT Mấy đời bánh đúc… (Ca dao) Tháng bảy rằm này nhờ hương khói Gửi về dưới chị mấy lời thưa Từ khi vắng chị nhà trống giột Sớm tối em về che nắng mưa Ơn giời các cháu dần khôn lớn Hai chị em ta sắp sửa bà Thương em con nó càng nhớ chị Sáng lại nét cười trong mắt cha Bánh trái ai dè nỡ vướng xương Lời xưa thầm trách kẻ hẹp đường Trẻ thơ lỡ tuột vòng tay mẹ Đã đến tay mình ai nỡ buông Chị cứ bình yên ở dưới này Cuộc đời như chiếc lá thu bay Ru con chị hát ngàn năm trước Nâng cháu giờ em xin đỡ tay. ĐÀM KHÁNH PHƯƠNG Nhà thơ Đàm Khánh Phương sinh năm 1943 tại Vân Đình-Hà Tây (cũ), quê hương của dòng tộc Dương tài hoa (Dương Khuê), Hiện nay, sống và viết tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hơn 50 năm làm thơ, đã xuất bản 3 tập thơ riêng và đoạt nhiều giải thưởng văn chương do các hội văn học nghệ thuật và các ngành, các cấp tổ chức… Đàm Khánh Phương bền bỉ yêu và bền bỉ làm thơ, đôi khi lóe sáng những cách tân mới mẻ, nhưng trước sau ông vẫn là nhà thơ dung dị, chân thành và hoài niệm như một thế hệ làm thơ cùng thời đã trải qua những bão táp của chiến tranh, của biến động xã hội. Tiếng hát của Đàm Khánh Phương bắt đầu từ lời ca dao buồn: Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng . Không phải ngẫu nhiên mà người viết bài thơ này dẫn lại câu ca xưa. Câu ca ấy phản ánh thân phận của những cảnh đời dạt trôi khi phải sống cảnh mẹ ghẻ con chồng. Văn chương từng có những trang đẫm đầy nước mắt về các cuộc đời như thế! Đó là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, nói như Thạch Lam, “đây là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại” đối với người mẹ đi bước nữa. Đó là nỗi lòng và tâm trạng của Nguyễn Thị Mai trong Nói với con chồng , một tâm trạng, một đợi chờ được sẻ chia, được yêu thương đối với người con gái riêng của chồng: Dì không mang nặng đẻ đau Đứt dây mà xót thương bầu, bí ơi! Kệ cho bánh đúc mấy đời Người ăn người lại nói lời nghiệt cay Sang ngang một chuyến đò đầy Sông sâu run cả vòng tay đôi bờ Đêm nay cánh cửa khép hờ Dì không ngủ được nằm chờ bước con. Bài thơ khép lại, như “cánh cửa khép hờ”, vẫn chưa có bước chân bước qua, vẫn còn sự chờ đợi: Sao con chẳng thể xưng con Cho dì cảm thấy ấm hơn căn nhà? Cứ lầm lũi bước vào, ra Cho dù tủi phận mẹ gà con…ngan… Tiêng hát của Đàm Khánh Phương lại khác. Cả bài thơ là những lời thoại, nói với người đã khuất, rằng là, không may cho chồng và con, chị lìa cõi thế. Em là người đến thay chị, “sớm tối em về che nắng mưa”. Bài thơ trong trẻo như tiếng hát. Có lẽ cũng không thể nào khác hơn. Mở đầu bài thơ bằng những câu thơ có nhiều tầng nghĩa: Tháng bảy rằm này nhờ hương khói Gửi về dưới chị mấy lời thưa Từ khi vắng chị nhà trống giột Sớm tối em về che nắng mưa… Tháng bảy, mùa Vu Lan, mỗi người, tùy cảnh ngộ, đều thắp nén hương, nhớ về mẹ. Người phụ nữ đến sau, kể chuyện trần gian, kể chuyện gia đình, kể chuyện con cái. Giọng kể chân thành, cảm động. Sâu xa hơn, đây không chỉ là lời kể mà là “lời thưa”, “gửi về dưới chị”, giãi bày cùng chị, thưa với chị về sự đổi thay của gia cảnh. Từ khi vắng chị, cảnh nhà trống giột, đã có bàn tay em đỡ đần, “che nắng mưa”, khó khăn đã vơi dần. Người phụ nữ đến sau ý thức được, hay đúng hơn, tự đáy lòng, mong muốn cùng chồng, cùng con của chồng làm cho cuộc sống bớt nhọc nhằn. Ở đây có sự cảm thông, chia sẻ cho nhau nỗi yêu thương, lòng trắc ẩn về trách nhiệm tự nguyện của kẻ đến sau. Lời thơ nhã, có trên có dưới, trọng mà lại thật lòng, kính mà không đãi bôi, ngọt nhạt. Cái thật của tấm lòng hiện ra trong cái thật của câu chữ. Phải có một lòng yêu người, yêu đời,…mới có lời thơ ấy. Thật chí nghĩa chí tình ! Ở khổ thơ thứ hai, lời lẽ chân tình, như cuộc đối thoại giữa hai nhân vật, nhắc lại đủ các thành viên một gia đình: em -người thay chị nuôi dạy các cháu, các con -dần khôn lớn, người cha -sáng lại nét cười và chị -người không hiện hữu ở cõi đời. Giữa các dòng thơ là “thương”, là “nhớ”, là ơn trời chở che. Riêng câu thơ: Hai chị em ta sắp sửa bà , một dòng thơ không chỉ mang đậm tính nhân văn mà còn là tiếng lòng của hai tâm hồn, hai nhân cách, hai ứng xử. Nếu người đã khuất không có một cuộc đời đẹp và nếu người tiếp bước không có một trái tim nhân hậu, thì chắc chắn sẽ không có sự hòa điệu tuyệt vời này! Mạch thơ được tiếp nối như lời phân bua về lẽ đời xưa nay, vẫn thường diễn ra trong cuộc sống, nghĩa là không có chuyện mẹ ghẻ yêu con chồng. Nêu lại chuyện đời cũng để nói chuyện nhà, nói chuyện thế gian cũng để bày tỏ chuyện gia đình, từ đó khẳng định sự bao dung, khẳng định tình thương: Bánh trái ai dè nỡ vướng xương Lời xưa thầm trách kẻ hẹp đường Trẻ thơ lỡ tuột vòng tay mẹ Đã đến tay mình ai nỡ buông Có thể nói, lời lẽ nêu ra trong đoạn thơ đã trách những “kẻ hẹp đường”, ích kỷ, không mở lòng mình ra cho con đời trước, không san sẻ tình cảm của mình đối với những đứa con con mất mẹ, mồ côi. Trên đời này, bất hạnh nhất là mất mẹ, lại mất mẹ ở thuở thiếu thời, thuở cần một bàn tay chăm sóc, nâng niu, che chở. Trẻ con có nét chung, đó là, mong được yêu thương, được bảo bọc, được vỗ về, xóa đi buồn tủi, thì ở đây, từ khi vắng chị, những thiếu hụt đó, đã có em thay chị, làm “vòng tay mẹ”, ấm êm. Người phụ nữ đã tự dặn mình: Trẻ thơ lỡ tuột vòng tay mẹ Đã đến tay mình ai nỡ buông. Từ ngữ :”lỡ tuột”, “ai nỡ buông” bộc lộ sự yêu thương và hy sinh vô bờ bến. Ở đây, chữ nghĩa nhòe đi, chỉ thấy một tâm hồn. Bốn câu cuối, kết thúc cuộc chuyện trò, xóa đi cách ngăn, thêm niềm tin, nhân vật trữ tình trong bài thơ, thanh thản trải lòng: Chị cứ bình yên ở dưới này Cuộc đời như chiếc lá thu bay Ru con chị hát ngàn năm trước Nâng cháu giờ em xin đỡ tay. Lời thầm thỉ “chị cứ bình yên ở dưới này”, đừng bận tâm, có em, thay chị, nối lời ru con mà “chị hát ngàn năm trước”, nâng giấc cho cháu. Lời lẽ thật cảm động, thật sâu lắng. Bài thơ Tiếng hát , như tên gọi, là khúc hát của một người gửi một người, của trần gian gửi cho cõi khác. Câu chuyện ngập tràn tình yêu, ngập tràn hạnh phúc, niềm tin vào lẽ đời, lẽ trời, ánh lên sự tin cậy, lạc quan, như một câu thơ của tác giả ” Khát khao còn tiềm ẩn tận bên trong ”. TS. Huỳnh Văn Hoa Đà Nẵng, tháng 9-2013
SINGING Several generations of banh duc… (Folk song) This full moon month of July thanks to the scent of smoke Send me a few words below Since my sister's absence, the house has been empty Early in the evening I come back to protect myself from the sun and rain Thank God the children are gradually growing up My two sisters are about to marry I love you and my children miss you even more The smile brightened again in his father's eyes Who cares about fruit cake and getting entangled in bones? The ancient saying silently blames those whose paths are narrow The child accidentally slipped out of his mother's arms When it comes to my hands, who can let me go? Just rest in peace down here Life is like flying autumn leaves She sang a lullaby to her child thousands of years ago Lift me up now, please help me. DAM KHANH PHUONG Poet Dam Khanh Phuong was born in 1943 in Van Dinh-Ha Tay (old), hometown of the talented Duong family (Duong Khue). Currently, lives and writes in Hanoi. Member of the Vietnam Writers Association. More than 50 years of writing poetry, published 3 private poetry collections and won many literary awards organized by literary and artistic associations, industries and levels... Dam Khanh Phuong persistently loved and persistently wrote poetry, sometimes flashing new innovations, but he was still a simple, sincere and nostalgic poet like a generation of poets at the same time who had experienced hardships. storms of war and social upheaval. Singing by Dam Khanh Phuong begins with a sad folk song: Several generations of bread have bones/ Several generations of stepmothers who love their husband's children . It is no coincidence that the writer of this poem quoted the old song. That song reflects the fate of those drifting in life when having to live as a stepmother and son-in-law. Literature once had pages filled with tears about such lives! That is Childhood days of Nguyen Hong, as Thach Lam said, "this is the ultimate vibration of a young soul" towards a mother who has moved on. That is the heart and mood of Nguyen Thi Mai Talk to your husband , a mood, a waiting to be shared and loved by her husband's stepdaughter: I don't have to bear the burden of giving birth The string is broken and I feel sorry for you, my pumpkin! Shelves for cakes for generations People who eat people say harsh words Crossing a full ferry The river is so deep that the arms of both banks tremble Tonight the door is ajar I couldn't sleep and waited for your step. The poem closes, like a "half-closed door", no steps have yet passed, there is still waiting: Why can't I confess? Make the house feel warmer? Just walk in and out Even though I feel sorry for the mother, the chicks... Singing sound Dam Khanh Phuong's is different. The whole poem is a dialogue, speaking to the deceased, saying that, unfortunately for her husband and children, she left this world. I am the one who comes to replace you, "early in the evening I come back to protect you from the sun and rain". The poem is as clear as singing. Perhaps it couldn't be any different. The poem begins with verses with many layers of meaning: This full moon month of July thanks to the scent of smoke Send me a few words below Since my sister's absence, the house has been empty Early in the evening I come back to protect myself from the sun and rain... In July, Vu Lan season, each person, depending on their situation, lights incense sticks to remember their mother. The woman comes later, telling worldly stories, telling family stories, telling stories about her children. The voice is sincere and touching. More deeply, this is not just a story but a "word", "sent to you", confiding to you, telling you about the change in your family situation. Since my sister's absence, the house has been empty, with your helping hand, "covering the sun and rain", the difficulties have gradually eased. The woman who comes later is aware, or rather, from the bottom of her heart, she wants to work with her husband and her husband's children to make life less difficult. Here there is sympathy, sharing with each other love and compassion for the voluntary responsibility of those who come later. The poetic words are elegant, above and below, important yet sincere, respectful without exaggeration, sweet and bland. The truth of the heart appears in the truth of the words. There must be a love for people, a love for life... to have such poetry. It's so sincere and sincere! In the second stanza, the heartfelt words, like a dialogue between two characters, recall all the members of a family: me - the person who takes care of the children in her place, children - gradually grow up, father -brighten your smile and older sister -people who do not exist in this world. Between the lines of the poem is "love", "remembering", and God's protection. As for the verse: My two sisters are about to marry , a line of poetry that is not only imbued with humanity but also the voice of two souls, two personalities, and two behaviors. If the deceased did not have a beautiful life and if the person who followed did not have a kind heart, then there certainly would not be this wonderful harmony! The poem's flow continues as a comment about the past and present life, which often happens in life, meaning there is no such thing as a stepmother loving her husband's son. Reciting life stories is also to talk about home, talking about the world is also to express family stories, thereby affirming tolerance and love: Who cares about fruit cake and getting entangled in bones? The ancient saying silently blames those whose paths are narrow The child accidentally lost his mother's arms When it comes to my hands, who can let me go? It can be said that the words stated in the poem blame those "narrow-minded" people who are selfish, do not open their hearts to the children of previous lives, do not share their feelings for children who have lost their mothers and fathers. orphan. In this world, the most unfortunate thing is losing a mother, and losing a mother at a young age, when she needed a hand to care for, cherish, and protect. Children have something in common, that is, wanting to be loved, protected, comforted, and saddened, but here, since my sister's absence, those shortcomings, there has been a brother to replace her, to be my "circle". mother's hand", warm and soft. The woman told herself: The child accidentally lost his mother's arms When it comes to my hands, who can let me go? The words: "lost", "who dares to let go" reveal boundless love and sacrifice. Here, words blur, only a soul is seen. The last four sentences, ending the conversation, erasing the barrier, adding faith, the lyrical character in the poem, peacefully expressing their feelings: Just rest in peace down here Life is like flying autumn leaves She sang a lullaby to her child thousands of years ago Lift me up now, please help me. The whisper "You can rest in peace down here", don't worry, I have you, instead of me, continuing the lullaby that "I sang a thousand years ago", to help you sleep. The words are so touching, so profound. Poem Singing , as the name suggests, is a song from one person to another, from the world to another world. The story is filled with love, happiness, faith in life and heaven, reflecting trust and optimism, like a poem by the author. The desire is still hidden deep inside ”. Dr. Huynh Van Hoa Da Nang, September 2013
Đến với bài thơ hay : Bồng mắt thỏ Tặng P.H Một chén bồng mắt thỏ hai chén mắt thỏ bồng non xanh và biển rộng tráng sĩ khà mênh mông Tráng sĩ thích chạy rông hết ngang rồi tới dọc như ngựa thả dây cương lông bông và phiêu bồng Bỗng một chiều lữ thứ non với nước hữu tình mắt ai bồng mắt thỏ tráng sĩ hề đắn đo Tráng sĩ thề vung roi rong chơi miền hoang dã thế mà chiều rớt lặng trong đáy mắt thỏ bồng thế mà đêm hẫng tiếc chén chén tràn hư không Tác giả: Nhà thơ, Nhà báo Lê Anh Dũng Mênh mông, đất nước, quê nhà… Bồng mắt thỏ là chiếc cốc nhỏ như hạt mít và tất nhiên là đẹp. Rượu rót vào đấy phải là rượu ngon. Người uống rượu phải là người hào hoa, biết thưởng thức chất men say nồng nàn chứa đựng trong chiếc bồng nhỏ bé mà kiêu kỳ đến lạ. Không rõ từ đâu, đọc bài thơ Bồng mắt thỏ của Lê Anh Dũng, tôi lại thấy bóng dáng những tráng sĩ – thi tửu của thời xa xưa hiện về. Bàn tay cầm yên cương, roi ngựa của họ cũng là bàn tay dựng ngọn bút đề thơ vào sông núi, vào hư không và vào…đôi mắt của giai nhân. Mà thôi, sao tôi lại vội vàng đến thế. Trước hết, phải trở về với trạng thái ban đầu và từ đó mà dấn bước theo diễn biến tâm trạng của nhân vật tráng sĩ trong bài thơ Bồng mắt thỏ , kẻo Dũng lại bảo là tôi cắt xén cái tiên khởi nhẹ nhàng phơi phới, đầy hứng chí của nhân vật tráng sĩ trong thơ anh. Không, tôi biết, biết lắm chứ. Ngay từ lần đầu đọc bài thơ này, tôi đã nảy sinh cái nhìn nhị phân, đem nhân vật của anh ra mà đối chiếu với các nhân vật trong thơ của một số nhà thơ khác, cả xưa và nay. “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” trong Chinh phụ ngâm ra trận trong một không gian đầy chất lãng mạn, trữ tình mà oai phong lẫm liệt:” Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt/ Khói cam tuyền mờ mịt thức mây/ Chín lần gươm báu trao tay/ Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh” . Trái lại, người “Ly khách” trong Tống biệt hành của Thâm Tâm “gĩa gia đình” đi vào con đường nhỏ với chí lớn trong bóng chiều không thắm không vàng vọt vào cuối mùa hạ với tâm thế buồn: “Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say…”. Nhân vật “Tráng sĩ “ của Lê Anh Dũng không khoát áo nhung dưới trăng, không thề một đi không trở lại, không xác định hướng đến là một chiến trường cụ thể hay một chân trời xa xăm nào đó. Người “tráng sĩ” trong Bồng mắt thỏ của Dũng đang ở trong thời bình; trận mạc của chàng là sự bình yên của Tổ quốc; chàng lãng mạn, hào hoa, ham chơi, nhưng chiều kích của cái nhìn lại vô cùng rộng lớn: “non xanh/và biển rộng/tráng sĩ/khà/ mênh mông”. Chàng ngồi trên lưng ngựa “lông bông và phiêu bồng” hết chốn này đến chốn khác, cả chiều dọc và chiều ngang của mênh mông đất nước quê nhà. Bồng mắt thỏ là chung rượu của chàng – một người còn phảng phất cốt cách của các tráng sĩ ngày xưa, có khí phách, thích ngao du, ưa nhìn hiện thực qua lớp sương mù siêu thực, để thấy hiện thực đẹp hơn trong cái nhìn non nước bao la. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Nếu dừng lại ở đây, Bồng mắt thỏ của Lê Anh Dũng chưa thể làm nên một cơn địa chấn ở người đọc. Bài thơ của Dũng sẽ là bình thường nếu không có một biến cố của một buổi chiều kia – một big bang khai sinh một vũ trụ đầy bất ổn trong lòng trai tráng: “Bỗng một chiều/ lữ thứ/ non với nước hữu tình/ mắt ai bồng mắt thỏ/ tráng sĩ hề/ đắn đo”. Giữa thiên nhiên phóng khoáng và giai nhân dường như xảy ra sự xung đột. Đi tiếp hay dừng lại. Non nước hữu tình hay mỹ nhân. Cuộc đấu tranh nội tại bắt đầu. Con người tráng sĩ có thắng nổi trái tim đang có những rung động mãnh liệt nhất trong cuộc đời. Con người thích rong chơi miền hoang dã ngỡ như mình đã làm được điều đó, chàng vung roi và ngựa chàng lại phi nước đại, nhưng xung đột nội tâm vẫn tiếp tục xảy ra mạnh mẽ ở chàng:” thế mà/ chiều rớt lặng/trong đáy mắt thỏ bồng/ thế mà/ đêm hẫng tiếc/chén/ chén/ tràn hư không”. Giai nhân hiện về trong đáy bồng mắt thỏ, hiện về trong chiều rớt lặng và trong đêm sâu là những khoảng thời gian dễ lay động tình cảm nội tâm của con người. Mô típ hình ảnh giai nhân hiện lên trong cốc rượu không còn là mới. Nhà thơ Quang Dũng đã thành công rồi. Mấy nươi năm nay chưa ai có thể vượt qua những câu thơ tài hoa này của ông:” Thoáng hiện em về trong đáy cốc/ Nói cười như chuyện một đêm mơ”. Thế sao ta vẫn yêu sự lặp lại này ở Lê Anh Dũng?. Tôi nghĩ, có lẽ vì Dũng sử dụng mô típ ấy nhưng không lặp lại nguyên bản của người đi trước và ở anh còn có những nét sáng tạo riêng của mình. Về hình ảnh, cốc rượu của Lê Anh Dũng là chiếc bồng mắt thỏ – mà chỉ với tên gọi của nó đã gợi nên một hình ảnh đẹp và một tiếng ngân vang nhẹ nhàng lạ tai đối với nhiều người. Lại nữa, giai nhân của Lê Anh Dũng không chỉ hiện về trong đáy cốc mà còn hiện về trong hư không của buổi chiều rớt lặng và đêm hẫng tiếc của tráng sĩ. Trong nỗi nhớ của mình, nhân vật tráng sĩ của Lê Anh Dũng không chỉ ngồi lặng yên đối diện với giai nhân trong mắt thỏ bồng, mà ngược lại khi nỗi nhớ dâng lên cao trào, tráng sĩ đã uống cạn chén rượu này đến chén rượu khác. Giai nhân của Bồng mắt thỏ thoát ra ngoài chén rượu hoà nhập vào hư không… Xung đột nội tâm, tình yêu và nỗi nhớ vì thế mà càng lớn, hoà nhập với cả đất trời. Khi đọc bài thơ của Lê Anh Dũng còn ở dạng bản thảo tôi đã nói với anh rằng “Bồng mắt thỏ” sẽ là một bài thơ hay của anh. Cấu tứ là chỗ dụng công nhất và là cái sở đắc nhất của bài thơ. Dũng biết mở, biết thắt gút và biết thả lỏng những diễn biến tâm trạng của nhân vật tráng sĩ – đối tượng trữ tình trong bài thơ và để dành gần như trọn vẹn cho độc giả sự suy ngẫm và lựa chọn các giải pháp: một trong hai hay là cả hai giữa tình yêu non nước và tình yêu lứa đôi… của người “tráng sĩ”. Và Lê Anh Dũng đã thành công với sự nỗ lực đó của anh. Nhà thơ Bùi Xuân
Coming to a good poem : Rabbit eyes Presented to P.H One cup bunny eyes two cups bunny eyes green mountains and the wide sea warrior huh immensity Strongman likes to run free completely horizontal then vertical like a horse releasing its reins fluffy and wander Suddenly one afternoon second travel mountains and charming water Someone's eyes hold a rabbit's eyes warrior clown consider Strongman swear to swing the whip Roaming in the wild so that The afternoon fell silent in the bottom of the rabbit's eyes so that night of regret bowl bowl filled with nothingness Author: Poet, Journalist Le Anh Dung Immense, country, homeland... Rabbit eye cup is a cup as small as a jackfruit seed and of course beautiful. The wine poured into it must be good wine. The person who drinks wine must be a proud person, knowing how to enjoy the passionate alcohol contained in a small but strangely arrogant bottle. Not sure where from, read the poem Rabbit eyes of Le Anh Dung, I see their silhouettes again The brave man - the wine poet of ancient times appears. The hand that holds the saddle and whip is also the hand that holds the pen to write poetry into the mountains and rivers, into the void and into...the eyes of beautiful women. Anyway, why am I in such a hurry? First of all, we must return to the original state and from there follow the evolution of the hero's mood in the poem. Rabbit eyes , lest Dung say that I cut off the gentle, cheerful, enthusiastic beginnings of the heroic character in his poetry. No, I know, I know very well. From the first time I read this poem, I developed a binary view, comparing his character with characters in the poems of a number of other poets, both past and present. "Young man with a proud background" in Chinh Phu soaked going into battle in a space full of romance, lyricism, and majesty:” The city's drums and fields shake the moon's shadow/ The orange smoke obscures the clouds/ Nine times the precious swords are exchanged/ In the middle of the night we wait for the day of battle." . On the contrary, people “Separating guests” in Tong departed by Tham Tam “family” Walk down the small road with great ambition in the dark, neither bright nor yellow afternoon at the end of summer with a sad mind: “Mom would rather think of it as a flying leaf/ I would rather think of it as a speck of dust/ You would rather think of it as a bit of drunkenness…”. Figure “Soldier” of Le Anh Dung does not wear a velvet shirt under the moon, does not swear to go and not return, does not determine whether the direction is a specific battlefield or some distant horizon. The "strong man" in Rabbit eyes Dung's is in peacetime; His battle is the peace of the Fatherland; He is romantic, gallant, and playful, but the dimension of his gaze is extremely vast: "green mountains/and the vast/strong/stunning/vast sea". He sat on horseback “fluffy and frivolous” from place to place, both vertically and horizontally across the vastness of my home country. Rabbit-eyed is his wine - a person who still has the essence of the heroes of the past, has spirit, likes to travel, likes to look at reality through surreal fog, to see reality more beautiful in the dark. Look at the vast mountains and water. But not enough. If we stop here, Rabbit eyes by Le Anh Dung has not been able to create an earthquake in readers. Dung's poem would be normal if it weren't for an incident that afternoon - a big bang that gave birth to a universe full of instability in the young man's heart: "Suddenly one afternoon/ a traveler/ mountains and water are charming/ someone's eyes hold a rabbit's eyes/ a warrior's clown/ hesitates." There seems to be a conflict between liberal nature and beauty. Continue or stop. Charming country or beautiful woman. The internal struggle begins. Can a brave man overcome his heart, which has the most intense vibrations in his life? The man who loved to roam the wilderness thought he had done it. He swung the whip and his horse galloped again, but the inner conflict continued to rage within him:" Yet/ the afternoon falls silently/in the depths of the rabbit's eyes/ yet/ the night is filled with regret/cups/cups/ overflowing into nothingness. The beauty appearing in the bottom of a rabbit's eye, appearing in the quiet afternoon and deep night are times that easily move people's inner emotions. The motif of the image of a beautiful woman appearing in a glass of wine is no longer new. Poet Quang Dung has succeeded. For decades, no one has been able to surpass these talented verses of his:” A glimpse of you back in the bottom of the cup / Talking and laughing like a dream at night. So why do we still love this repetition in Le Anh Dung?. I think, maybe because Dung used that motif Do not repeat the original of his predecessor and he also has his own creative features. Regarding image, Le Anh Dung's wine glass is a rabbit-eye cup - but just its name evokes a beautiful image and a strange, gentle ringing sound for many people. Again, Le Anh Dung's beauty not only appears in the bottom of the cup but also appears in the void of the silent afternoon and regretful night of the heroic man. In his nostalgia, Le Anh Dung's hero character not only sat quietly facing the beautiful woman in the rabbit's eyes, but on the contrary, when his nostalgia reached its climax, the hero drank cup after cup of wine. other alcohol. Lady of Rabbit eyes escape from the cup of wine and merge into the void... The inner conflict, love and nostalgia thus grow stronger, merging with the whole world. When I read Le Anh Dung's poem, still in manuscript form, I told him that “Rabbit eyes” will be a good poem for you. Structure is the most useful and the most beneficial part of the poem. Dung knows how to open, tie knots and relax the mood changes of the heroic character - the lyrical object in the poem and leaves almost entirely for readers to ponder and choose solutions: either or both between the love of a country and the love of a couple... of a "strong man". And Le Anh Dung succeeded with his efforts. Poet Bui Xuan
Đến với bài thơ hay: ĐÀ NẴNG MÌNH TÔI Tưởng nhớ Sách thân yêu Và tôi ở chỗ ngày qua em ở phía Sơn Trà đỉnh núi vẫn mây bay sông Hàn vẫn trôi tôi thì ngồi lại nước xa xăm câu chuyện kể ngàn ngày Đà Nẵng bây giờ em không có mặt biển sóng mồ côi thơ dại lũ còng cát vẫn trắng những chiều đầy môi mắt thiếu một vai gầy phố xá mênh mông Mùa xuân rồi mơ mùa hạ rồi trông… lối Cổ viện đường quen hoa sứ nở tôi đang ở nơi ngày xưa em ở chuyện ngày qua thành cổ tích ven sông một ít công viên một ít hoàng hôn ít ráng đỏ chiều mang về từ núi gom góp đốt cho bài thơ lên khói có em về Đà Nẵng bớt mình tôi. Tác giả: Nguyễn Nhã Tiên Cuộc đối thoại một mình Bài thơ gồm 16 câu, được ngắt ra thành 19 dòng và chia ra làm 4 đoạn. Toàn bài thơ là một cuộc “ đối thoại ” của tác giả với người vợ quá cố của mình – một cuộc đối thoại chỉ một người nói, còn người kia thì chỉ lặng lẽ, lặng lẽ mà thấu tỏ cùng với hương khói. Chừng như họ nói với nhau chủ yếu bằng ngôn ngữ của tâm linh, bằng tiếng nói vô thanh giữa kẻ đang sống và người đã khuất hơn là ngôn ngữ binh thường, ngôn ngữ đời thường. Cũng có thể tiếng nói của nhà thơ là tiếng nói hữu thanh, cho nên được nói ra lời và rồi lại được ghi trên giấy mà thành “Đà Nẵng mình tôi”. Không gian của bài thơ là Đà Nẵng, với núi Sơn Trà mây bay, sông Hàn nước chảy, lối Cổ viện hoa sứ nở, biển, chiều và hoàng hôn ráng đỏ… Có không gian của kỷ niệm, có không gian hoài niệm và có không gian hiện thực của nỗi buồn, đánh thốc vào nỗi cô đơn và niềm đau của nhà thơ. Thời gian là lát cắt sâu hoắm của hiện tại, từ cái bây giờ nhìn về cái xa xưa đã mất, chỉ còn lại trong ký ức mà thôi. Ký ức hiện lên với kỷ niệm . Kỷ niệm được nhắc thoáng qua như chỉ là sự gợi nhớ, thoáng qua thôi là đủ lắm rồi, bởi vì người đối thoại đã từng và hơn thế nữa đã cùng làm nên những kỷ niệm, làm nên “câu chuyện kể ngàn ngày”. Bây giờ “câu chuyện kể ngàn ngày” đã kết cục, em không còn nữa, biển mồ côi – tôi mồ côi và con cái chúng ta như lũ còng thơ dại. Tôi mất em. Các con của chúng ta mất mẹ. Cát vẫn trắng những chiều môi mắt như đã từng trắng cho tôi và em. Chuyện thường ngày giữa tôi và em phải thành cổ tích. Phố xá ngoài kia vì thế mà mênh mông. Và thăm thẳm hơn nữa là sự mênh mông trống trải của đời sống tôi, tâm hồn tôi khi em không còn ở bên đời… Về thi pháp, tôi nghĩ, không nên chẻ dọc bổ ngang “Đà Nẵng mình tôi” của Nguyễn Nhã Tiên như ta vẫn thường làm và cần thiết phải làm với nhiều bài thơ khác; mặc dù ở đây tôi vẫn thấy rất rõ một phương pháp nghệ thuật thường được Nguyễn Nhã Tiên sử dụng già dặn và thành công trong thơ anh, đó là phương pháp tự sự, tự sự bằng con đường “độc thoại” hay nói sát nghĩa hơn là đối – thoại – một – mình. “Biển mồ côi/thơ dại lũ còng” , “Và tôi ở chỗ ngày xưa em ở”, “mùa xuân rồi mơ/mùa hạ rồi trông”,”Một ít công viên một ít hoàng hôn/Ít ráng đỏ chiều mang về từ núi”… Với lối đẫn dắt như vậy anh dưa chúng ta vào chuyện. Quá khứ và hiện tại, thực và hư, bản ngã, thân phận… cũng qua đó mà thể hiện và gắn kết với nhau, tạo thành một xâu chuỗi không gian- thời gian- sự kiện – tâm trạng mà nhân vật trung tâm là em – đã khuất và tôi – thân phận, bối cảnh là Đà Nẵng với “phía Sơn Trà đỉnh núi vẫn mây bay/sông Hàn vẫn trôi”, “lối Cổ viện đường quen hoa sứ nở” . Thật cảm động sau nhiều hướng tìm: “mơ” (mùa xuân rồi mơ ), “trông” (mùa hạ rồi trông )… Nguyễn Nhã Tiên đã chọn ra được cách cuối cùng với hy vọng đầy chất tâm linh hư ảo – vì không thể còn có một giải pháp hiện thực nào thay thế được – đó là giải pháp: ” đốt cho bài thơ lên khói” . Anh tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh của thơ. Qua những câu thơ được đốt lên thành hương khói, Nguyễn Nhã Tiên tin rằng chị Sách – người vợ quá cố của anh sẽ trở về và chia sẻ với anh nỗi cô đơn trống vắng, mà theo cách nói của anh là “có em về Đà Nẵng bớt mình tôi”. Đọc bài thơ “Đà Nẵng mình tôi” của Nguyễn Nhã Tiên tôi lại nhớ đến câu thơ cuối trong bài thơ “Khép mắt” của Bùi Giáng: “Giờ ra đi em cảm thấy có quyền”. Chị Sách ơi, bây giờ thì chị có được cái quyền được thương được nhớ ấy một cách tròn đầy nhất rồi đấy. Và tôi tin cái quyền ấy của chị sẽ còn mãi mãi trong những câu thơ của Nguyễn Nhã Tiên, như trong “Đà Nẵng mình tôi”. Nhà thơ Bùi Xuân
Coming to the beautiful poem: DA NANG IS MYSELF Remembering my beloved Book And I'm where you were yesterday On the Son Tra side, the top of the mountain is still cloudy The Han River is still flowing I sat back Far away water tells a story of a thousand days I'm not present in Da Nang right now orphan waves Foolish childhood The sand is still white in the afternoons full of lips and eyes missing a skinny shoulder and vast streets Spring then dreams It's summer and it looks... The Old Vien Street is familiar with plumeria flowers blooming I'm where you used to be The story of the past became a fairy tale along the river a little park a little sunset A few red flowers brought back from the mountains in the afternoon Gather and burn the poem to make it smoke Having you return to Da Nang reduces me alone. Author: Nguyen Nha Tien A conversation alone The poem consists of 16 lines, broken into 19 lines and divided into 4 paragraphs. The whole poem is a " conversation ” by the author with his late wife – a conversation where only one person speaks, while the other person only quietly, quietly understands with incense and smoke. It seems that they speak to each other mainly in the language of spirituality, in the voiceless voice between the living and the deceased rather than in ordinary language, the language of everyday life. It is also possible that the poet's voice is a voice, so it is spoken out loud and then recorded on paper. “Da Nang alone”. The space of the poem is Da Nang, with Son Tra mountain, flying clouds, flowing Han river, blooming plumeria ancient garden, sea, red afternoon and sunset... There is a space of memories, a space of nostalgia and There is a realistic space of sadness, touching on the loneliness and pain of the poet. Time is a deep slice of the present, from the now looking back to the past that is lost, remaining only in memory. Memories appear with memories. Memories are mentioned fleetingly as if they were just reminders, just a glimpse is enough, because the interlocutor has and moreover made memories together, creating "a story told for a thousand days". Now the "story told for a thousand days" has ended, you are no more, the sea is an orphan - I am an orphan and our children are like young children. I lost you. Our children lost their mother. The sand is still as white for my lips and eyes as it once was for me and you. Everyday things between me and you must become a fairy tale. The streets out there are so vast. And even deeper is the vast emptiness of my life, my soul when you are no longer with me... Regarding poetics, I think, we should not split vertically and horizontally “Da Nang alone” by Nguyen Nha Tien as we often do and need to do with many other poems; Although here I still clearly see an artistic method that Nguyen Nha Tien has often used successfully in his poetry, which is the method of narrative, narrative by way of "monologue" or literal speaking. rather than a one-on-one conversation. "The orphan sea/the foolish childhood of the handcuffs" , "And I'm in the place where you used to live", "Spring then dreaming/Summer then looking", "A little park, a little sunset/A little red afternoon brought back from the mountains"... With that kind of guidance, he got us involved in the story. Past and present, real and unreal, ego, identity... are also expressed and linked together, forming a chain of space-time-events-mood in which the central character is you - deceased and I - identity, background is Da Nang with "On Son Tra's side, the top of the mountain is still covered with clouds/the Han River is still flowing", "The path of Co Vien Duong is familiar with plumeria flowers blooming" . It's so touching after many searches: "dream" (Spring then dreams ), “look” (Summer is here )… Nguyen Nha Tien has chosen the final solution with hope full of illusory spirituality - because there can no longer be any realistic alternative - which is the solution: ” burn the poem to smoke" . He believes strongly in the power of poetry. Through the verses burned into incense and smoke, Nguyen Nha Tien believes that Sach - his late wife will return and share with him the loneliness and emptiness, which in his words is "If you come to Da Nang, I won't be alone." Read the poem “Da Nang alone” by Nguyen Nha Tien, I remember the last verse of the poem “Close your eyes” by Bui Giang: "Now that I'm leaving, I feel empowered." Sister Sach, now you have the right to be loved and remembered to the fullest. And I believe that her right will remain forever in Nguyen Nha Tien's verses, as in “Da Nang alone”. Poet Bui Xuan
NHỚ THẠCH LAM ” Tôi đang đi trên con đường chi chít dấu chân với chút bồi hồi – con đường đến với Thạch Lam. Một kiếp sống mỏng manh ( 1910- 1942 ). Một đời văn ngắn ngủi. Tác phẩm đếm trên đầu ngón tay. Tại sao “dư âm” lại dằng dặc dường ấy “ (Hoàng Thị Thương- Tiếng nói tri âm -NXB Trẻ-1994-Trang 155) Cho đến bây giờ, không chỉ tác giả bình truyện ngắn Hai đứa trẻ , mà hình như là, những ai đến với thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, cũng đều có chung tâm tình và suy nghĩ như thế. Thạch Lam là một hiện tượng văn học lạ của Việt Nam. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày nhà văn đi vào cõi vĩnh hằng, những gì ông để lại cho đời luôn là lực hút đối với bao thế hệ người đọc. Và giờ đây, khi sáng tác của Thạch Lam đã tự khẳng định được tính hiện đại, tính nhân văn và độc đáo của nó, thì người đọc vẫn chưa hết băn khoăn, tự hỏi rằng, cái gì đã gây men, đã thành rượu nơi những sáng tác của ông. Phải chăng đó chính là giọng điệu của nhà văn ? Thạch Lam có giọng trần thuật riêng của mình. Quả vậy, Thạch Lam đã tạo được hơi văn, văn khí, giọng văn riêng, không giống bất kì nhà văn nào trong Tự lực văn đoàn. Giọng văn Thạch Lam là giọng thủ thỉ, tâm tình, trầm tĩnh nhưng lại ý vị, sâu sắc, cảm động. Truyện ngắn Thạch Lam, trước sau, vẫn là giọng nhỏ nhẹ, đằm thắm, không ồn ào, cả khi đề cập đến những vấn đề bức xúc của cuộc sống. Giọng văn ấy thấm vào từng chi tiết nghệ thuật, từng góc khuất của tâm hồn, tạo nên nhịp điệu riêng của Thạch Lam. Nhà văn đã từng quan niệm: “ Tôi không có ý muốn kể những chuyện thần tiên hay lãng mạn, nhưng những cảm tưởng của tôi đối với đời kín đáo và giản dị quanh mình” ( Lời nói đầu Gió đầu mùa ). Ngôn ngữ văn chương Thạch Lam thường có thiên hướng đi về những vẻ đẹp bình dị của đời thường, những cảm thông với số phận con ngưòi. Đằng sau những trang văn của ông, người đọc thấy xao xuyến cả tâm hồn. Hãy nghe ông nói về cành tre quê hương: “ Cành lá tre này cũng như những cành lá tre khác, không có gì đặc biệt. Nhưng tôi không bao giờ nhìn ngắm một cành tre, mà không thấy nổi lên trong lòng những ý nghĩ và cảm giác lúc nào cũng giống nhau. Khi thấy các lá tre gió thổi vút một chiều, tôi cảm thấy một vang động âm thầm và kín đáo trong tâm hồn. Hình như một cảm giác gì thanh thoát và lạnh lẽo, một cái gì vừa cứng cỏi lại vừa chua xót, vừa tha thiết lại vừa lãnh đạm, như tâm hồn một nhà ẩn dật thời xưa, chán những điều thế tục, đem dấu cái tài năng không dược ai biết trong rừng núi… Tre cũng như thông, được người xưa lấy làm biểu hiện của người thanh tao, danh lợi không phàm, và trong ngọn gió đầu sương vẫn giữ được tâm hồn ngay thẳng”. Những mòn mỏi, u tối của kiếp người được Thạch Lam nói đến với bao thiết tha, cảm động. Đó là Tâm trong Cô hàng xén , là Lan trong Tình xưa, là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê , là Sinh trong Đói , là Huệ trong Tối ba mươi ,… Ở nhiều truyện ngắn, Thạch Lam thường đứng dưới điểm nhìn của nhân vật để mô tả, hoá thân vào hình tượng để dẫn dắt câu chuyện. Nhân vật thường xưng “tôi”. Ngay một truyện ngắn như Hai đứa trẻ cũng là sự hồi ức về tuổi thơ của tác giả. Thế Uyên, cháu của Thạch Lam, đã viết: “ Truyện ngắn hai chị em bán hàng xén ở phố huyện kế nhà ga xe lửa cố gắng thức đợi tàu tối đi qua, chỉ là hồi ức. Cô chị là mẹ tôi, đứa em trai là Thạch Lam “, rồi ” đây là nhà bác Lê, đây là bà cụ hay mua rượu của hai chị em Liên trong một truyện ngắn ” ( Những người đã qua , Nguyệt san Văn uyển, số 6, 10-1968). Thế Lữ cũng khẳng định: “ Không có một sáng tác nào của Thạch Lam mà không có rất nhiều Thạch Lam trong đó “. Sự trải nghiệm của bản thân đã góp phần làm nên tình tiết, tâm trạng, kết cấu, nghĩ suy của nhiều nhân vật trong sáng tác của ông. Thạch Lam yêu thiên nhiên, yêu Hà Nội với một tình yêu sâu đậm, thiết tha, đầy cá tính. Người ta nói đến màu sắc dân tộc trong sáng tác của Thach Lam, nói đến tình yêu quê hương của ông trong những áng văn đầy chất trữ tình với giọng văn riêng biệt không lẫn vào đâu của giai đoạn văn học 1930-1945. Ông yêu cây liễu ven Hồ Tây, cây liễu trở thành một phần đời của tác giả, sống với ông cho đến phút lìa đời. Đó là “gốc liễu hay tâm hồn nghệ sĩ” của Thạch Lam. Ông trần thuật về cuộc sống quanh mình bằng một giọng văn dồi dào cảm xúc. Những thiên truyện xuất sắc của ông bao giờ cũng tạo ấn tượng bằng cảm giác, gây hiệu quả thẩm mĩ cao. Cơn gió lạnh đầu mùa làm se lạnh cả không gian và lòng người ( Gió lạnh đầu mùa ). Ánh nắng cuối ngày và tiếng trống thu không, vang ra từng tiếng gọi chiều về, một buổi chiều êm ả như ru, rồi bóng tối ngập dần. Ôi cái buồn của buổi chiều quê và cái khao khát, chờ đợi một thế giới khác đầy thánh thiện và trong sáng của chị em Liên ở Hai đứa trẻ sao gần gũi, thiết tha với chúng ta đến thế! Cũng như “ chất dịu ngọt giăng tơ ở đâu đây ” trong Dưới bóng hoàng lan , làm con người hướng về cái đẹp, giữ lấy cái thiên lương hay cái lạnh lẽo trùm lên tâm hồn hai cô gái giang hồ trong giây phút thiêng liêng tiễn năm cũ, lòng sắt se nghĩ đến một căn nhà ấm cúng, đón năm mới,…không bao giờ có được trong Tối ba mươi … Tất cả, tất cả đã đưa người đọc rung lên những”sợi tơ lòng” của tâm hồn mình khi đến với Thạch Lam. Thạch Lam là nhà văn yêu Hà Nội với tình yêu đặc biệt. Nói như Hồ Dzếnh: “ Trước Thạch Lam, chưa mấy ai phát hiện được đầy đủ cái thi vị, tinh hoa của những món thổ ngơi Hà Nội “. Quả vậy, ông như người chép sử Hà Nội, chép bằng cái nhìn, tấm lòng của một nhà văn nặng lòng với mảnh đất nghìn năm văn vật. Trong Hà Nội 36 phố phường , Thạch Lam nói rõ: “ Người Pháp có Paris, người Anh có London, người Tàu có Thượng Hải…chúng ta cũng có Hà Nội “. Đó là những món quà rong, những tiệm phở, những thứ bánh theo mùa của Hà Nội. Hương vị của đất nước phả vào từng trang văn, giản dị và thanh khiết, tinh tế và trân trọng. Không có lòng yêu thành thực, yêu đến say đắm đất và người Hà Nội thì làm sao có thể viết được một cách lịch lãm như thế về đất lề kẻ chợ Thăng Long. Văn ấy, giọng ấy chỉ có Thạch Lam. Thạch Lam, nhà văn tài hoa ấy đã lặng lẽ ra đi ở tuổi ngoài ba mươi. Con người suốt một đời mải mê đi tìm cái đẹp, tôn thờ cái đẹp, đã gửi lại cho đời những trang viết thấm đẫm chất nhân văn và tình tự dân tộc. Nhớ Thạch Lam là nhớ về một nhà văn đã góp phần đổi mới nghệ thuật văn chương Việt Nam hiện đại, tiếp cận với văn học thế giới. TS. Huỳnh Văn Hoa
REMEMBER BLADE JELLY ” I am walking on a path filled with footprints and a little restless - the road to Thach Lam. A fragile life (1910-1942). A short literary life. Works can be counted on the fingers of one hand. Why is the "afterglow" so persistent? “ (Hoang Thi Thuong- Voice of wisdom -Tre Publishing House-1994-Page 155) Until now, not only authors have commented on short stories Two children , but it seems that those who come to Thach Lam's art world all have the same feelings and thoughts. Thach Lam is a strange literary phenomenon in Vietnam. More than half a century has passed, since the day the writer passed away into eternity, what he left behind has always been an attraction for generations of readers. And now, when Thach Lam's work has affirmed its modernity, humanity and uniqueness, readers are still left wondering, what caused the yeast and turned into wine? where his works are. Is that the writer's tone? Thach Lam has his own narrative voice. Indeed, Thach Lam has created his own style, style, and voice, unlike any other writer in the Tu Luc Van Doan. Thach Lam's writing voice is cooing, emotional, calm but meaningful, profound, and touching. Thach Lam's short stories, before and after, still have a soft, loving, noiseless voice, even when mentioning pressing issues of life. That voice permeates every artistic detail, every hidden corner of the soul, creating Thach Lam's own rhythm. The writer once thought: “ I have no intention of telling fairy tales or romance, but my impressions of the discreet and simple life around me.” ( Preface: The First Wind of the Season). Thach Lam's literary language tends to focus on the simple beauty of everyday life and sympathy for human fate. Behind the pages of his writing, readers feel their hearts flutter. Listen to him talk about his hometown's bamboo branches: " This bamboo branch, like other bamboo branches, has nothing special. But I never look at a bamboo branch without seeing the same thoughts and feelings emerge in my heart. When I see the bamboo leaves blowing in the wind, I feel a silent and secret vibration in my soul. It seemed like a feeling of something serene and cold, something both hard and bitter, both earnest and indifferent, like the soul of an ancient hermit, bored with worldly things, hiding his talent that no one knows in the mountains and forests... Bamboo, like pine, was taken by the ancients as a sign of an elegant person, whose fame and fortune are not ordinary, and in the misty wind still maintains an upright soul. The weariness and darkness of human life are talked about by Thach Lam with so much passion and emotion. That is the inner Mind The shopkeeper , is Lan in old love, is Le's mother Le's mother's house , is Born in Hungry , is Hue in Evening thirty ,... In many short stories, Thach Lam often stands from the character's point of view to describe, transforming into an image to lead the story. Characters often say "I". Even a short story like Two children It is also a recollection of the author's childhood. The Uyen, Thach Lam's nephew, wrote: “ The short story of two sisters selling groceries in a district town next to the train station, trying to stay awake and waiting for the evening train to pass, is just a memory. The older sister is my mother, the younger brother is Thach Lam ", Already " This is Uncle Le's house, this is the old lady who often buys wine from the Lien sisters in a short story ” ( Those who have passed , Monthly Magazine Van Uyen, Không. 6, October 1968). The Lu also affirmed: “ There is not a single composition by Thach Lam that does not have a lot of Thach Lam in it “. His personal experiences have contributed to the details, moods, structures, and thoughts of many characters in his works. Thach Lam loves nature, loves Hanoi with a deep, passionate love, full of personality. People talk about the national color in Thach Lam's works, about his love for his homeland in his lyrical poems with a distinct and unmistakable voice of the literary period 1930-1945. He loved the willow tree along West Lake. The willow tree became a part of the author's life, living with him until the moment he died. That is Thach Lam's "willow root or artist's soul". He narrated about the life around him in a rich, emotional voice. His excellent stories always make an impression with feeling, causing high aesthetic effect. The cold wind at the beginning of the season chills both the space and people's hearts ( Cold wind at the beginning of the season ). The sunlight at the end of the day and the sound of empty drums, echoing each call of the afternoon, a quiet afternoon like a lullaby, then gradually darkness. Oh the sadness of a countryside afternoon and the longing and waiting for another world full of holiness and purity of Lien's sisters in Two children Why are you so close and passionate to us! As well as “ The sweet substance that spins the web is somewhere here " in Under the shade of orchids , makes people oriented towards beauty, holding on to the heavenly or coldness that covers the souls of two wandering girls in the sacred moment of saying goodbye to the old year, their hearts will be filled with thoughts of a cozy house, welcoming the new year. ,…never get in Evening thirty ... All, all have made the reader vibrate the "heart strings" of his soul when coming to Thach Lam. Thach Lam is a writer who loves Hanoi with a special love. As Ho Dzenh said: “ Before Thach Lam, few people had fully discovered the poetry and quintessence of Hanoi's local dishes “. Indeed, he is like someone who writes Hanoi's history, writing with the eyes and heart of a writer with a heavy heart for the land of thousands of years of literature. In 36 streets of Hanoi , Thach Lam clearly stated: “ The French have Paris, the British have London, the Chinese have Shanghai... we also have Hanoi “. Those are street gifts, pho shops, and seasonal cakes of Hanoi. The flavor of the country shines into every page, simple and pure, sophisticated and respectful. Without a sincere love, a passionate love for the land and people of Hanoi, how could one write so elegantly about the land on the outskirts of Thang Long market? That writing, that voice belongs only to Thach Lam. Thach Lam, that talented writer, passed away quietly at the age of thirty. People who have spent a lifetime engrossed in finding beauty and worshiping beauty have sent back to life pages imbued with humanity and national sentiment. Remembering Thach Lam is remembering a writer who contributed to innovating modern Vietnamese literary art and approaching world literature. Dr. Huynh Van Hoa
THƯƠNG HUYỀN Thương Huyền tên thất là Đặng Thương Huyền, sinh ngày 17/7/1972 tại tỉnh Thái Bình hiện ở tại 97 Lê Chân, P. An Hải Bắc, quận Sơn Trà, Đà Nẵng. Hiện công tác tại Lữ đoàn Thông tin 575, Quân Khu V. Tác phẩm thơ đã xuất bản : Tập thơ “Những bước chân đêm” NXB Hội Nhà văn, 2015, ngoài ra có nhiều thơ in báo và tạp chí. NGƯỜI ĐÀN BÀ HÁT TÌNH CA “Tặng Thùy Anh” Người đàn bà hát tình ca Ru tháng chín ngủ ngoan sau làn tóc rối Mắt môi em cười Mùa thu chợt tới Yêu thương không đợi mùa… Ngày rưng rưng chạm đáy cơn mơ Em đốt cháy lời ca cho thảo nguyên ngập tràn nắng mới Cho cơn gió lạc mùa ấp e diệu vợi Ngược dòng khát khao… Bình yên em trong đôi mắt triệu triệu vì sao Lấp lánh tinh cầu giữa khoảng không chật hẹp Ngón tay em mềm Nhón từng nốt nhạc Gói cung trầm Vào tim Người đàn bà hát tình ca trong đêm Phố trở mình hít hương yêu tràn căng lồng ngực Dòng Hàn Giang nõn nà thoát xác Như thuở đầu biết yêu… Người đàn bà hát tình ca trong quán nhỏ cô liêu Đôi môi run run khẽ chạm vào miền nhớ Vẫn mơ một mùa trăng tỏ Tháng chín gọi mưa về… Người đàn bà hát tình ca bằng tất cả đam mê… NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN LY CAFÉ ĐEN Góc quán cafe Người đàn bà kêu ly đen đá Khẽ nhấp môi Nhăn mặt Cafe đắng vậy sao? Người đàn bà thì thầm… Xung quanh mọi người vẫn thản nhiên ngồi uống Với tay lấy gói đường Cafe đã ngọt nơi đầu lưỡi Người đàn bà bắt đầu nhâm nhi… Và ngộ Đắng thì bỏ thêm đường có khó gì đâu??? Cũng như cuộc đời Có thăng trầm mới thêm phần thi vị Người đàn bà nhếch mép Mơ màng dốc cạn… Đầu óc quay cuồng Thấy mình say chếnh choáng Những ảo ảnh nhảy nhót xung quanh Người đàn bà trách bản thân Tự cho mình là sành sỏi lại bị vị ngọt của đường đánh lừa cảm giác Cafe có đổi màu thì nó vẫn giữ nguyên bản chất Người đàn bà bước đi trong mộng du… NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÓC CƯỜI CÙNG MƯA Người đàn bà ngắm mưa bên cửa sổ Đêm chơi vơi Lòng chơi vơi… Một…Hai…Ba người đàn bà bắt đầu ngồi đếm Thời gian hờ hững Chẳng chịu chui qua ô cửa ố vàng Người đàn bà lặng lẽ miên man Thả hồn vào kí ức… Nước mắt rơi tự lúc nào người đàn bà không hề biết Chỉ thấy trước mắt mình xanh, đỏ, tím, vàng những ảo ảnh vây quanh Mưa mỗi lúc một nhanh Tiếng đếm thưa dần… Người đàn bà mệt mỏi… Mưa quá vô tình Chẳng để ý đến người đàn bà đang run lên vì lạnh Mặc đêm tối đen đặc quánh Mặc cái lạnh đang dần thấm vào tim Người đàn bà thách thức màn đêm Thêm một nét quầng thâm trong đôi mắt cũng có sao đâu người đàn bà nghĩ vậy Một chút phấn thoa lên sáng mai sẽ chẳng có ai nhìn thấy Đêm qua người đàn bà cười, khóc …cùng mưa NHỮNG MẢNH GHÉP CUỘC ĐỜI Người đàn bà xếp lại những ngăn cuộc đời dưới ánh đèn dầu kí ức Những ngăn đời ẩm ướt Chửa được hong khô Những khoảng tối mờ mờ Người đàn bà đem phơi dưới ánh đèn vàng vọt Người đàn bà đang chơi trò được mất Đánh cược cuộc đời mình… Cái nửa xuân thì vốn đã cong vênh Giờ chẳng biết xếp vào đâu trong ngăn đời vốn dĩ không tròn trịa Người đàn bà đắn đo suy nghĩ Mất, được ngang nhau… 2. Người đàn bà ngồi gọt giũa những khúc quanh đời bằng lưỡi dao thời gian Những góc khuất hằn lên ánh nhìn đau đáu Vẩn tỉ mẩn gọt, đẽo… Để nửa cong vênh kia giờ lại in khớp 1 vòng tròn Sau những thăng trầm Những lõm lồi trầm tích Dưới tay người đàn bà Ngăn đời trở nên ngăn nắp Dù có thể phút chốc Nó lại bị xáo tung… Nhưng có 1 điều người đàn bà chắc chắn rằng Những cố gắng chẳng bao giờ vô ích Lòng chân thành sẽ lay động trái tim… EM SẼ BẮT TRÁI TIM MÌNH THÔI NHỚ “Chẳng phải em quên mà em bắt trái tim mình thôi nhớ…” Em đã từng thì thầm với anh như thế Khi mình bên nhau góc quán café ngồi ngắm mưa chiều Anh- mối tình đầu Giờ là người đàn ông viên mãn Có thể đôi lúc buồn anh ngược đường tìm dĩ vãng Dăm phút dối lòng đủ để mình cảm nhận hết yêu thương? Phía trước hai ta, hai ngã rẽ con đường Em phải chọn cho mình lối đi không có anh bên cạnh Đừng trách em vô tình Đừng hờn tim em nguội lạnh Em đau… Khi mình không là hai nửa của nhau Có cố ghép thế nào chắc chắn cũng vênh ra một chút Phần thiết hụt anh là người day dứt Phần dư thừa cay đắng tủi phận em Trăng đêm nay dẫu khuyết vẫn bình yên Góc quán ta ngồi đôi bạn trẻ bên nhau ríu rít Đừng chạnh buồn nghe anh Đừng cố hỏi Em yêu anh nhiều ít? Những khoảnh khắc vĩnh hằng luôn khắc ở trong tim Mưa đã tan Và nắng sẽ hừng lên… CHO GIẤC MƠ MÃI BÌNH YÊN Đêm chơi vơi… Giấc mơ theo gió đi hoang Nỗi buồn nằm trơ khấc Tháng năm trở mình Nghe tiếng lòng rót vào đêm thâu Mảnh trăng gầy chở kí ức đi đâu? Trên đôi cánh mỏng manh chỉ chực vỡ òa nức nở Đêm chao nghiêng theo từng nhịp thở Phập phồng… Có những lúc dối lòng Trốn yêu thương trong giấc mơ chơi trò đuổi bắt Con đường xưa giờ xa tít tắp Lạc bước chân về… Ta chở nắng nhuộm đêm Ru nỗi nhớ bộn bề Hong khô giọt buồn đọng trên khóe mắt Chở bình yên về cho giấc mơ thôi mỏi mệt Trái tim không lạnh giữa ngày hè… Ta chở những đam mê Đốt cháy khát khao của thời vụng dại Chở tin yêu về thắp sáng khu vườn tình ái Vườn địa đàng ánh trăng sáng treo nghiêng… Ta chở nụ cười cho giấc mơ mãi mãi bình yên… BIỂN KHÁT Đêm cao nguyên Sương mờ giăng giăng Phố núi ngập chìm trong hơi thở Đêm đặc quánh trong niềm mong nhớ Của hai người xa nhau… Tiếng thở dài xô lệch đêm thâu Trôi tuột như chiếc xe thả dốc Phố biển ngày không anh Những con sóng cồn cào rồ dại Oằn mình… Ngụp lặn giữa thăm thẳm của đêm Biển khát… Ở hai đầu xa cách Là nỗi niềm không gọi được tên Đêm trong đêm… Đà nẵng ngày nhớ anh Thương Huyền VÒNG ĐỜI Hai con thằn lằn Đuổi bắt nhau trên tường Bỗng cái đuôi rớt mạnh xuống đất Ngoe nguẩy Đớn đau Rồi nằm im… Một thoáng buồn trong tim Chúng rủ nhau bỏ đi Để lại cái đuôi nằm bất động Cô đơn Tủi hờn Rồi quên lãng… Theo dòng thời gian Cái đuôi khác mọc lên Chúng lại có đuôi mới đẹp hơn Lại đuổi bắt Nô đùa Và đau đớn… Cứ như vậy vòng đời tiếp diễn Hạnh phúc Đớn đau Và sự hồi sinh… VŨ KHÚC GIAO MÙA Xuân đã về trên sợi nắng non tơ Cô gái Ba Na gùi trên lưng nụ cười của gió Tây Nguyên xanh Ba zan đất đỏ Cà phê loang trắng trời… Em mơ về tiếng kèn Mơ buốt xa xôi Mùa gọi bạn con chim Kơ tia ngẩn ngơ quên hót Đêm cao nguyên Vũ điệu xoang mời gọi Lúng liếng mắt ai nghiêng ché rượu cần… Vũ khúc giao mùa Em đi tìm anh Dòng Đắc Rông lững lờ trôi Cỗ xe thần mặt trời đã xuôi bên kia đỉnh dốc Tiếng đàn Goong bật từ ngực núi Dội vào thung sâu Mùa lưng chừng… Em đi tìm anh Tìm anh… VỀ QUÊ ANH Chuyến đò chòng chành đưa em đến quê anh Dọc hai bờ sông hàng dừa xanh toả mát Cửa Đại chập trùng ngút ngàn trước mặt Nắng gió Thu Bồn sóng vỗ miên man Em theo anh về trên chiếc đò ngang Ngồi tựa vai anh mơ màng theo con nước Văng vẳng đâu đây giọng hò ai da diết Sóng mắt em say như uống rượu Hồng đào Lối nhỏ em về vi vút rặng thông reo Cát trắng lân tinh trong nắng chiều lấp loá Bước chân lâng lâng lòng thấy sao vui lạ Lũ trẻ nô đùa, ôi!xóm nhỏ bình yên Quê anh dù nghèo nhưng tình nghĩa chứa chan Mái lá đơn sơ ấm tình làng nghĩa xóm Khúc ruột miền Trung hứng chịu bao mưa nắng Hạt cát nhọc nhằn thấm đẫm giọt mồ hôi Thương quá quê mình xứ Quảng mến yêu ơi! Từ trong khó khăn vẫn vươn mình đứng dậy Như cây Xương rồng trong cát vùi nắng cháy Hoa vẫn thắm màu cây vẫn đứng hiên ngang Thương quá quê mình… cát trắng Bình Nam. Kỷ niệm ngày về thăm quê anh T.H NỖI NHỚ NGÀY KHÔNG ANH Nỗi nhớ nào em gói trong ngọn gió Thả trôi trên trời mênh mang Nỗi nhớ lang thang Theo mây trời mải miết Em ngụp lặn trong miền ký ức Nước mắt mặn mùa ngâu… Về phía không anh Bằng trái tim đã vỡ nát từ lâu Em vẫn tìm Dù biết tình yêu anh không đủ làm chất keo kết dính Em vẫn đi tìm Dù trái tim em vỡ thành trăm mảnh Nhức nhối tím màu bằng lăng… Em sẽ đi tìm anh… Dù đêm tối không trăng Dù con phố lê thê trong chiều mưa ảm đạm Dù cho em ước một lần can đảm Nói rằng :Em yêu anh… THU CHO ANH Em gởi hồn mình trong chiếc lá mong manh Để sớm nay thu về ngập lối Ngày nín gió cho những điều mong đợi Em nín anh câm lặng một đời…… Anh vẫn nồng nàn như sóng ngoài khơi Chỉ có thuyền em lẻ loi giữa muôn trùng sóng nước Tình anh mênh mông Chẳng thể nào đong đếm được Ru kí ức buồn Khao khát lòng mình Em giả vờ quên… Nếu một ngày anh nhận ra em Không còn em của hai mươi năm trước Không còn em của những ngày chúng mình hẹn ước Không dại khờ nông nổi buổi đầu tiên Chẳng phải em quên Mà em bắt trái tim mình thôi nhớ Chẳng phải em vô tình khi chúng mình không duyên nợ Những kỉ niệm ắp lòng Đủ để em nhấm nháp cả đời đau… Em chẳng quên đâu Mùa thu vàng trong trẻo Dẫu con tim lạnh lẽo Không anh VALENTINE CỦA LÍNH VALENTINE đêm tình yêu của lính Chẳng rộn ràng nhưng ấm áp niềm vui Súng chắc tay thanh thản ngắm sao trời Đêm gác yên bình mơ về người yêu dấu Trang thư tình nép mình trong túi áo Cánh thiệp mừng đong đầy nỗi nhớ thương Cả ước mơ cũng quá đỗi bình thường Cũng giản dị nhưng nồng nàn sâu lắng… VALENTINE đêm tình yêu của lính Chẳng có hoa hồng, chẳng có kẹo thơm ngon Chẳng có bờ môi ngọt ngào những nụ hôn Chỉ có ánh trăng soi dòng thư viết vội… Muốn gửỉ về em cả nỗi lòng mong đợi Cả nỗi nhọc nhằn của đời lính phong sương Anh đứng nơi đây canh giữ đất quê hương Cho đêm yên bình VALENTINE của lính. VALENTINE 2009 CHA ƠI GẮNG ĐỢI CON Mai con sẽ về cha ơi gắng đợi con Chỉ ngày mai thôi hãy đợi con cha nhé! Mai con sẽ về bên cha – đồng chí Để nắm tay cha và được thấy cha cười Con sẽ không buồn, không để nước mắt rơi Dù trái tim con đang đớn đau quá đỗi Con không muốn cha thấy mình có lỗi Muốn lòng cha thanh thản chẳng sầu đau Vòng xoáy cuộc đời nào ai cản được đâu Cái vòng luân hồi ai cũng đều phải trải Con thương cha nên lòng day dứt mãi Vì vòng tròn kia chẳng khép kín với cha Dù thể xác con đang ở một nơi xa Nhưng trái tim con đang hướng về cha đó Những lời thầm thì con gửi theo cơn gió Mai con sẽ về cha ơi gắng đợi con…
THƯƠNG HUYỀN Thương Huyền tên thất là Đặng Thương Huyền, sinh ngày 17/7/1972 tại tỉnh Thái Bình hiện ở tại 97 Lê Chân, P. An Hải Bắc, quận Sơn Trà, Đà Nẵng. Hiện công tác tại Lữ đoàn Thông tin 575, Quân Khu V. Tác phẩm thơ đã xuất bản : Tập thơ “Những bước chân đêm” NXB Hội Nhà văn, 2015, ngoài ra có nhiều thơ in báo và tạp chí. NGƯỜI ĐÀN BÀ HÁT TÌNH CA “Tặng Thùy Anh” Người đàn bà hát tình ca Ru tháng chín ngủ ngoan sau làn tóc rối Mắt môi em cười Mùa thu chợt tới Yêu thương không đợi mùa… Ngày rưng rưng chạm đáy cơn mơ Em đốt cháy lời ca cho thảo nguyên ngập tràn nắng mới Cho cơn gió lạc mùa ấp e diệu vợi Ngược dòng khát khao… Bình yên em trong đôi mắt triệu triệu vì sao Lấp lánh tinh cầu giữa khoảng không chật hẹp Ngón tay em mềm Nhón từng nốt nhạc Gói cung trầm Vào tim Người đàn bà hát tình ca trong đêm Phố trở mình hít hương yêu tràn căng lồng ngực Dòng Hàn Giang nõn nà thoát xác Như thuở đầu biết yêu… Người đàn bà hát tình ca trong quán nhỏ cô liêu Đôi môi run run khẽ chạm vào miền nhớ Vẫn mơ một mùa trăng tỏ Tháng chín gọi mưa về… Người đàn bà hát tình ca bằng tất cả đam mê… NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN LY CAFÉ ĐEN Góc quán cafe Người đàn bà kêu ly đen đá Khẽ nhấp môi Nhăn mặt Cafe đắng vậy sao? Người đàn bà thì thầm… Xung quanh mọi người vẫn thản nhiên ngồi uống Với tay lấy gói đường Cafe đã ngọt nơi đầu lưỡi Người đàn bà bắt đầu nhâm nhi… Và ngộ Đắng thì bỏ thêm đường có khó gì đâu??? Cũng như cuộc đời Có thăng trầm mới thêm phần thi vị Người đàn bà nhếch mép Mơ màng dốc cạn… Đầu óc quay cuồng Thấy mình say chếnh choáng Những ảo ảnh nhảy nhót xung quanh Người đàn bà trách bản thân Tự cho mình là sành sỏi lại bị vị ngọt của đường đánh lừa cảm giác Cafe có đổi màu thì nó vẫn giữ nguyên bản chất Người đàn bà bước đi trong mộng du… NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÓC CƯỜI CÙNG MƯA Người đàn bà ngắm mưa bên cửa sổ Đêm chơi vơi Lòng chơi vơi… Một…Hai…Ba người đàn bà bắt đầu ngồi đếm Thời gian hờ hững Chẳng chịu chui qua ô cửa ố vàng Người đàn bà lặng lẽ miên man Thả hồn vào kí ức… Nước mắt rơi tự lúc nào người đàn bà không hề biết Chỉ thấy trước mắt mình xanh, đỏ, tím, vàng những ảo ảnh vây quanh Mưa mỗi lúc một nhanh Tiếng đếm thưa dần… Người đàn bà mệt mỏi… Mưa quá vô tình Chẳng để ý đến người đàn bà đang run lên vì lạnh Mặc đêm tối đen đặc quánh Mặc cái lạnh đang dần thấm vào tim Người đàn bà thách thức màn đêm Thêm một nét quầng thâm trong đôi mắt cũng có sao đâu người đàn bà nghĩ vậy Một chút phấn thoa lên sáng mai sẽ chẳng có ai nhìn thấy Đêm qua người đàn bà cười, khóc …cùng mưa NHỮNG MẢNH GHÉP CUỘC ĐỜI Người đàn bà xếp lại những ngăn cuộc đời dưới ánh đèn dầu kí ức Những ngăn đời ẩm ướt Chửa được hong khô Những khoảng tối mờ mờ Người đàn bà đem phơi dưới ánh đèn vàng vọt Người đàn bà đang chơi trò được mất Đánh cược cuộc đời mình… Cái nửa xuân thì vốn đã cong vênh Giờ chẳng biết xếp vào đâu trong ngăn đời vốn dĩ không tròn trịa Người đàn bà đắn đo suy nghĩ Mất, được ngang nhau… 2. Người đàn bà ngồi gọt giũa những khúc quanh đời bằng lưỡi dao thời gian Những góc khuất hằn lên ánh nhìn đau đáu Vẩn tỉ mẩn gọt, đẽo… Để nửa cong vênh kia giờ lại in khớp 1 vòng tròn Sau những thăng trầm Những lõm lồi trầm tích Dưới tay người đàn bà Ngăn đời trở nên ngăn nắp Dù có thể phút chốc Nó lại bị xáo tung… Nhưng có 1 điều người đàn bà chắc chắn rằng Những cố gắng chẳng bao giờ vô ích Lòng chân thành sẽ lay động trái tim… EM SẼ BẮT TRÁI TIM MÌNH THÔI NHỚ “Chẳng phải em quên mà em bắt trái tim mình thôi nhớ…” Em đã từng thì thầm với anh như thế Khi mình bên nhau góc quán café ngồi ngắm mưa chiều Anh- mối tình đầu Giờ là người đàn ông viên mãn Có thể đôi lúc buồn anh ngược đường tìm dĩ vãng Dăm phút dối lòng đủ để mình cảm nhận hết yêu thương? Phía trước hai ta, hai ngã rẽ con đường Em phải chọn cho mình lối đi không có anh bên cạnh Đừng trách em vô tình Đừng hờn tim em nguội lạnh Em đau… Khi mình không là hai nửa của nhau Có cố ghép thế nào chắc chắn cũng vênh ra một chút Phần thiết hụt anh là người day dứt Phần dư thừa cay đắng tủi phận em Trăng đêm nay dẫu khuyết vẫn bình yên Góc quán ta ngồi đôi bạn trẻ bên nhau ríu rít Đừng chạnh buồn nghe anh Đừng cố hỏi Em yêu anh nhiều ít? Những khoảnh khắc vĩnh hằng luôn khắc ở trong tim Mưa đã tan Và nắng sẽ hừng lên… CHO GIẤC MƠ MÃI BÌNH YÊN Đêm chơi vơi… Giấc mơ theo gió đi hoang Nỗi buồn nằm trơ khấc Tháng năm trở mình Nghe tiếng lòng rót vào đêm thâu Mảnh trăng gầy chở kí ức đi đâu? Trên đôi cánh mỏng manh chỉ chực vỡ òa nức nở Đêm chao nghiêng theo từng nhịp thở Phập phồng… Có những lúc dối lòng Trốn yêu thương trong giấc mơ chơi trò đuổi bắt Con đường xưa giờ xa tít tắp Lạc bước chân về… Ta chở nắng nhuộm đêm Ru nỗi nhớ bộn bề Hong khô giọt buồn đọng trên khóe mắt Chở bình yên về cho giấc mơ thôi mỏi mệt Trái tim không lạnh giữa ngày hè… Ta chở những đam mê Đốt cháy khát khao của thời vụng dại Chở tin yêu về thắp sáng khu vườn tình ái Vườn địa đàng ánh trăng sáng treo nghiêng… Ta chở nụ cười cho giấc mơ mãi mãi bình yên… BIỂN KHÁT Đêm cao nguyên Sương mờ giăng giăng Phố núi ngập chìm trong hơi thở Đêm đặc quánh trong niềm mong nhớ Của hai người xa nhau… Tiếng thở dài xô lệch đêm thâu Trôi tuột như chiếc xe thả dốc Phố biển ngày không anh Những con sóng cồn cào rồ dại Oằn mình… Ngụp lặn giữa thăm thẳm của đêm Biển khát… Ở hai đầu xa cách Là nỗi niềm không gọi được tên Đêm trong đêm… Đà nẵng ngày nhớ anh Thương Huyền VÒNG ĐỜI Hai con thằn lằn Đuổi bắt nhau trên tường Bỗng cái đuôi rớt mạnh xuống đất Ngoe nguẩy Đớn đau Rồi nằm im… Một thoáng buồn trong tim Chúng rủ nhau bỏ đi Để lại cái đuôi nằm bất động Cô đơn Tủi hờn Rồi quên lãng… Theo dòng thời gian Cái đuôi khác mọc lên Chúng lại có đuôi mới đẹp hơn Lại đuổi bắt Nô đùa Và đau đớn… Cứ như vậy vòng đời tiếp diễn Hạnh phúc Đớn đau Và sự hồi sinh… VŨ KHÚC GIAO MÙA Xuân đã về trên sợi nắng non tơ Cô gái Ba Na gùi trên lưng nụ cười của gió Tây Nguyên xanh Ba zan đất đỏ Cà phê loang trắng trời… Em mơ về tiếng kèn Mơ buốt xa xôi Mùa gọi bạn con chim Kơ tia ngẩn ngơ quên hót Đêm cao nguyên Vũ điệu xoang mời gọi Lúng liếng mắt ai nghiêng ché rượu cần… Vũ khúc giao mùa Em đi tìm anh Dòng Đắc Rông lững lờ trôi Cỗ xe thần mặt trời đã xuôi bên kia đỉnh dốc Tiếng đàn Goong bật từ ngực núi Dội vào thung sâu Mùa lưng chừng… Em đi tìm anh Tìm anh… VỀ QUÊ ANH Chuyến đò chòng chành đưa em đến quê anh Dọc hai bờ sông hàng dừa xanh toả mát Cửa Đại chập trùng ngút ngàn trước mặt Nắng gió Thu Bồn sóng vỗ miên man Em theo anh về trên chiếc đò ngang Ngồi tựa vai anh mơ màng theo con nước Văng vẳng đâu đây giọng hò ai da diết Sóng mắt em say như uống rượu Hồng đào Lối nhỏ em về vi vút rặng thông reo Cát trắng lân tinh trong nắng chiều lấp loá Bước chân lâng lâng lòng thấy sao vui lạ Lũ trẻ nô đùa, ôi!xóm nhỏ bình yên Quê anh dù nghèo nhưng tình nghĩa chứa chan Mái lá đơn sơ ấm tình làng nghĩa xóm Khúc ruột miền Trung hứng chịu bao mưa nắng Hạt cát nhọc nhằn thấm đẫm giọt mồ hôi Thương quá quê mình xứ Quảng mến yêu ơi! Từ trong khó khăn vẫn vươn mình đứng dậy Như cây Xương rồng trong cát vùi nắng cháy Hoa vẫn thắm màu cây vẫn đứng hiên ngang Thương quá quê mình… cát trắng Bình Nam. Kỷ niệm ngày về thăm quê anh T.H NỖI NHỚ NGÀY KHÔNG ANH Nỗi nhớ nào em gói trong ngọn gió Thả trôi trên trời mênh mang Nỗi nhớ lang thang Theo mây trời mải miết Em ngụp lặn trong miền ký ức Nước mắt mặn mùa ngâu… Về phía không anh Bằng trái tim đã vỡ nát từ lâu Em vẫn tìm Dù biết tình yêu anh không đủ làm chất keo kết dính Em vẫn đi tìm Dù trái tim em vỡ thành trăm mảnh Nhức nhối tím màu bằng lăng… Em sẽ đi tìm anh… Dù đêm tối không trăng Dù con phố lê thê trong chiều mưa ảm đạm Dù cho em ước một lần can đảm Nói rằng :Em yêu anh… THU CHO ANH Em gởi hồn mình trong chiếc lá mong manh Để sớm nay thu về ngập lối Ngày nín gió cho những điều mong đợi Em nín anh câm lặng một đời…… Anh vẫn nồng nàn như sóng ngoài khơi Chỉ có thuyền em lẻ loi giữa muôn trùng sóng nước Tình anh mênh mông Chẳng thể nào đong đếm được Ru kí ức buồn Khao khát lòng mình Em giả vờ quên… Nếu một ngày anh nhận ra em Không còn em của hai mươi năm trước Không còn em của những ngày chúng mình hẹn ước Không dại khờ nông nổi buổi đầu tiên Chẳng phải em quên Mà em bắt trái tim mình thôi nhớ Chẳng phải em vô tình khi chúng mình không duyên nợ Những kỉ niệm ắp lòng Đủ để em nhấm nháp cả đời đau… Em chẳng quên đâu Mùa thu vàng trong trẻo Dẫu con tim lạnh lẽo Không anh VALENTINE CỦA LÍNH VALENTINE đêm tình yêu của lính Chẳng rộn ràng nhưng ấm áp niềm vui Súng chắc tay thanh thản ngắm sao trời Đêm gác yên bình mơ về người yêu dấu Trang thư tình nép mình trong túi áo Cánh thiệp mừng đong đầy nỗi nhớ thương Cả ước mơ cũng quá đỗi bình thường Cũng giản dị nhưng nồng nàn sâu lắng… VALENTINE đêm tình yêu của lính Chẳng có hoa hồng, chẳng có kẹo thơm ngon Chẳng có bờ môi ngọt ngào những nụ hôn Chỉ có ánh trăng soi dòng thư viết vội… Muốn gửỉ về em cả nỗi lòng mong đợi Cả nỗi nhọc nhằn của đời lính phong sương Anh đứng nơi đây canh giữ đất quê hương Cho đêm yên bình VALENTINE của lính. VALENTINE 2009 CHA ƠI GẮNG ĐỢI CON Mai con sẽ về cha ơi gắng đợi con Chỉ ngày mai thôi hãy đợi con cha nhé! Mai con sẽ về bên cha – đồng chí Để nắm tay cha và được thấy cha cười Con sẽ không buồn, không để nước mắt rơi Dù trái tim con đang đớn đau quá đỗi Con không muốn cha thấy mình có lỗi Muốn lòng cha thanh thản chẳng sầu đau Vòng xoáy cuộc đời nào ai cản được đâu Cái vòng luân hồi ai cũng đều phải trải Con thương cha nên lòng day dứt mãi Vì vòng tròn kia chẳng khép kín với cha Dù thể xác con đang ở một nơi xa Nhưng trái tim con đang hướng về cha đó Những lời thầm thì con gửi theo cơn gió Mai con sẽ về cha ơi gắng đợi con…
BÙI MỸ HỒNG Bùi Mỹ Hồng tên thật là sinh ngày 30/6/1962, hiện ở tại thành phố Đà Nẵng . Các tập thơ đã xuất bản: – Thủy tinh mù , 2012 NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐỨNG BÊN ĐƯỜNG Rít mạnh gió ôm thật chật như muốn bẻ cong thân thể Em. Và con đường vắng. Sáng sớm mai có những người mắt sẽ quắc hơn mặt sẽ rộng hơn lời nói trần hơn. Rồi ngày sẽ dài hơn và đêm đen hơn… Những gì thuộc về em nằm rũ rượi ngoài con hẻm ướt. Cúi nhặt hết như để tìm một điều gì. Con số không cứ lớn dần lầm lũi. Ngoài kia là mùa đông. VÙNG TỰ DO XÁM Giúi vào tay bà già bán vé số mấy tờ bạc cuối cùng. Hết. Từ trong ra ngoài trống rỗng nhẹ tênh. Những đường dây điện chằng chịt những nhà cao tầng trần trụi những áp phích kiểu mới dọc triền sông những ghế đá những cây, lá, hoa (thật và giả) muốn nhìn hết cảnh vật muốn khoe với tất cả. Tôi đang tự do chao lượn (bằng áo mão, hình hài vay mượn trong giấc mơ di trú mòn đêm) Tự do đưa hai tay chào nắng giữa ban mai mùa đông Tự do đưa hai tay chắp vá nổi buồn (rao bán không ai mua) Tự do đưa hai tay tiễn cuộc đời mình (qua bờ ủ mịch chắc còn dài). Cơn gió lạnh ùa đến làm cái cổ cao như hươu rụt xuống trái tim thắt lại (một chút) vì cất ủ đã lâu trong thế giới không màu. Đêm qua như con thú dữ thèm khát đánh nhau như con trâu bị đâm chảy máu chạy cuồng. Và đêm qua thấy lòng nhẹ hơn vì đã làm anh khóc được. Ngày tiếp theo bước ra khỏi cuộc đời anh. Ngày tiếp, tiếp theo không còn là người phụ nữ của anh Ngày tiếp, tiếp, tiếp theo tự tay chữa lành vết thương cho mình. Phía dưới mặt trời là màn đêm Phía trong con tim không biết rung động là một bảo tàng tím Phía sau cặp kính màu là tượng đài mỏng phô tấm huân chương dành cho người đàn bà xám… LẠC GIỮA THỜI GIAN Người đàn bà ngồi nhìn trời trong phòng kính. Bỏ mặc bước chân bỏ mặc ước mơ bỏ mặc cuộc đời. Người đàn bà giam mình vào sự ngăn cách vô hình trong suốt mỏng mảnh. Trái đất không là hình vuông (để bám víu). Trái đất không là hình thang (để leo lên). Người đàn bà run rẩy bấu lấy đôi vai (cảm giác như đứng ngoài trời không mặc quần áo). Lạnh và sợ. Người đàn bà không còn đủ sức không còn ý chí để rơi mình chảy đổ trên đỉnh của cơn say từ khi hiểu ra trái đất là hình tròn. Ký ức để lại giống như cuộc chơi ngắn đẩy người đàn bà tuột vào năm tháng… VỠ HOA Ngày tháng trong tôi như những nốt nhạc rời đang tìm nơi yên nghỉ. Biển mặn hình như mặn hơn trong màu trăng đục gió lùa về trên hàng thông ngỡ tiếng sáo ngày nào bay qua. Và cổ họng tôi như bị bóp nghẹt. Ý nghĩ muốn dệt thêu tình xanh trên cánh hoa không vỡ. Tôi đi như chạy trong con đường hầm dài tối và lạnh. Cứ nhắm mắt một mình lạc vào khoảng trống giấu mặt. Cánh hoa tưởng không bao giờ vỡ ấy như giấc mơ của tôi dường như đang rời ra trong màu của đêm. TRÔI Khói trắng bay giữa chiều chút nắng bên đường giấu mặt. Thời gian… Không kịp quên đi… Hai con mắt mở to gặm nhấm sự bình yên trên lối cỏ rồn rộn theo tiếng ríu rít của lũ chim về. Tình yêu – Hạnh phúc rơi vào đâu ? Từng con sóng bạc đầu Buồn sáng dần theo chiều tắt Ngày tròn rồi mất còn lại những cơn đau như rễ cây đâm mãi vào đất hồn đã kiệt. Hương sắc đang bỏ xa năm tháng này. Xin dành lại một chút để làm quà cho hơi thở. Đêm. Và mặt trời đen. NGÀY KHÔNG NẮNG Chiếc lá rơi, chạm vai rồi nhẹ nằm trên cỏ tôi thả đôi chân trần lên thảm xanh. Gió. Lá đùa với cỏ. Đôi chân lạ. Sau hàng cúc áo bồn chồn giành giật nhớ. Gió luồn vào, nỗi nhớ căng cứng hãm hiếp hơi thở gầy xanh Đôi chân trần nghiến ngầm thêm những vệt chai mới. Ngọn cỏ chúi đầu sát đất vúng vẩy lá lăn lắc tấp vào bờ. Tôi khỏa lấp cơn loạn theo những bước chân mỏi. Hồn trốn vào đêm trở giấc. Nét má môi gãy trên tường… MƯA BONG BÓNG Mưa nhiều lắm nhàu cả đêm khuya. Giọt, giọt liên hồi chạm mặt đường. Vạn, vạn bong bóng lúng lảy. Rồi lại giọt, giọt làm những bong bóng lủng lày. Bong bóng còn lại theo dòng nước lao xuống họng cống đen ngòm. Còn – mất – về – đâu ? Em thà làm bong bóng bên giọt nước vô tình. Tan tan vào nhau khoảnh khắc. Mà sao vẫn cấu cào cơn mưa bóng… GÓC KHUẤT Tôi men theo sườn đời với chân tay chai nứt. Phía bên kia tiếng gọi hạnh phúc nghe dính kết nghe rã rời nghe chật chội nghe thẳm xa chợt bỡn đùa chợt hoảng hốt… Đứng lại giữa chênh vênh nhìn thấy anh ở một góc khuất bình yên. Thân chưa mỏi Trái tim đã mỏi. Tôi sống bằng hơi thở của xác người. Tôi cười bằng linh hồn treo ngược. Nên chẳng bao giờ anh nhìn thấy… KHOẢNG VỌNG Tôi biết rõ con đường trước mặt. Nhưng đành rẽ theo lối đi dốc từ lâu cố luồn mình chối – chạy. Bao đêm nỗi đau vẫn sục sạo – lèn lủi làm đứt gần hết sợ dây trói ánh sáng đã đánh gục trái tim đang yêu đang mê đang sai lầm bằng nụ cười lên men. Lẽ ra, không phải đến bây giờ trên môi mắt trên da thịt trên hơi thở lời xin lỗi hoài râm rứt trong vòng tay ôm siết đau và thương. Phía ấy mù câm tôi tìm tôi không ngừng không ngoảnh lại. Gió hãy đến với tôi ôm tôi thật chật hãy hôn tôi và đưa tôi đi. Khói – bụi mỏng phủ dày năm tháng… KHÔNG PHẢI LÀ CUỐI CÙNG Nhìn cuốn lịch vừa cũ đôi mắt nhá nhem giễu cợt với hoàng hôn. Thời gian vô tình em biết anh không phải là thời gian sao im lặng – chảy trôi. Cuốn lịch vơi dần những rã rời một thuở vẫn ngạt đầy trong trí nhớ. Không ánh nhìn cuối cùng không giai điệu cuối cùng Đưa bàn tay nắm bàn tay những đường gân xanh hằn lên. Em phải xé bỏ bao nhiêu lần tờ lịch cuối cùng để tìm lại một mùa xuân không cũ… VỀ ĐÂY TRÌNH NĂM THÁNG Nhìn mấy lượt ngược xuôi cũng chỉ có một mình. Tôi chạy thật nhanh xuống quì trước biển. Nghe hơi thở gấp Nghe thật rõ cái lao xao khờ dại Nghe cay đắng bới mồ chôn ngọt mềm một thuở. Tôi đã phí hoài tiếng hét khan vào tiếng sóng. Phết từng mảng cát mịn ướt đầy lên tấm thân. Nằm im ngứa rát ngó trời trình năm tháng… THỦY TINH MÙ Đón giao thừa bên ánh sáng vàng của ngọn nến bên cánh hồng vừa chớm trong lọ thủy tinh cao cổ. Tranh sáng tranh tối như muốn tô đậm thêm dáng nhìn nghiêng. Ngày mai, đầu năm mới. Thêm mấy nếp nhăn mới bên khóe mắt trên vầng trán. Trong quầng sáng viền quanh nét chiều sớm của khuôn mặt không soi gương vẫn biết tóc trên đầu mình mấy đường ngôi. Đêm là dòng thác cho ta xuôi theo những giọt nước những lời không tiếng buồn bã cố rửa cho tan nỗi thiếu – thừa. Sao cái bóng trên tường cứ rộng thêm ra? TRĂNG Qua khe cửa, trăng chìm trên giọt nước mắt tôi vừa thức. Nỗi khát khao lắng xuống trong căn phòng nhỏ đang ấm dần lên theo màu của trăng. Nhắm mắt, để không phải thấy cái bóng cô độc đang rạn trong tim mỗi khi đêm thắp lên những ngọn đèn. * Cái tiếng yên lặng của trăng dẫn tôi về những đêm cuộc người. Tôi như được thở từng nhịp hơi thở hạnh phúc và muốn hát cho anh nghe dù tiếng hát không còn hơi rung. Lời bài biệt ly vừa dứt là lúc trăng bỏ tôi đi. * Gió đang bay và mây vẫn trôi xin theo kịp để nhắn giùm hằng đêm tôi vẫn chờ trăng bên vuông cửa nhỏ này. Tôi giam cầm nỗi đau ở nơi không có người canh gác rồi với tay đóng lại cửa đời. Xin trăng đừng đùa giỡn như những hình bóng một thời đã qua. * Đêm vắng. Mưa lớn ngoài trời. Và những tiếng gì chật cả căn phòng. Trăng ơi ! LỜI TÌNH THIÊN NHIÊN 23h trong trái tim tôi đồng hồ lúc lắc những hồi kiêu hãnh lên vết thương chảy mịn. mơ mơ giọt nóng hổi của cơn cuồng mị vừa rã tan. thơm lựng mùi thịt da vừa đủ đầy trống rỗng. 23h – con nước ngược dòng trôi. 23h – phù sa trở lại nguồn. không là gió mà vẫn phiêu diêu không là cỏ dại vẫn mơn man, đeo đẳng không hẹp hòi vẫn chật chội chiếm hữu bóng đêm làm nô lệ cho cái nhớ xanh xao làm mồi cho giấc mơ hạnh phúc. luồng giá ngắt thổi từ cặp mắt lì lợm ban ân lên nổi oán giận bọc rêu . u mê- trầy trụa cũng chẳng sao què quặt trước cửa thiên đường cũng chẳng sao. … quờ quạng rồi cũng quen … quen rồi sẽ quên … quên rồi sẽ qua. 23h- hai chuyến tàu đêm hướng về nhau giao nhau (chưa rõ mặt) thì khoảng cách càng xa. còn những giọt nước mắt bảo bọc miết trời em… BÓNG NGƯỢC Xuống phố. Những bước đi nhỏ. Còn mấy ngày nữa là đến Tết. Dòng người – xe. Một mình. Con đường dài – dài thêm… Sợ lạc người đằng trước. Sợ mất ai phía sau. Cuối cùng cũng tìm đến chỗ ngồi ngày ấy. Con còng gió giương đôi mắt nhìn. Biển thăm thẳm phải không Trời thăm thẳm phải không. Tội nghiệp đôi bàn chân xanh gầy đổi sắc. Đi tìm giấc ngủ cho mình bằng một ngày nhọc mệt. Đêm cứ thụt lùi Những giấc mơ là những giấc mơ… Đôi khi muốn làm một cọng cỏ chờ sương rửa bớt vết thâm Vậy mà khi ánh ngày vừa hé chỉ còn thấy trên tay mình những câu thơ đang vỡ dần ra… Còn ba – bốn hôm nữa là đến Tết.
BÙI MỸ HỒNG Bùi Mỹ Hồng tên thật là sinh ngày 30/6/1962, hiện ở tại thành phố Đà Nẵng . Các tập thơ đã xuất bản: – Thủy tinh mù , 2012 NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐỨNG BÊN ĐƯỜNG Rít mạnh gió ôm thật chật như muốn bẻ cong thân thể Em. Và con đường vắng. Sáng sớm mai có những người mắt sẽ quắc hơn mặt sẽ rộng hơn lời nói trần hơn. Rồi ngày sẽ dài hơn và đêm đen hơn… Những gì thuộc về em nằm rũ rượi ngoài con hẻm ướt. Cúi nhặt hết như để tìm một điều gì. Con số không cứ lớn dần lầm lũi. Ngoài kia là mùa đông. VÙNG TỰ DO XÁM Giúi vào tay bà già bán vé số mấy tờ bạc cuối cùng. Hết. Từ trong ra ngoài trống rỗng nhẹ tênh. Những đường dây điện chằng chịt những nhà cao tầng trần trụi những áp phích kiểu mới dọc triền sông những ghế đá những cây, lá, hoa (thật và giả) muốn nhìn hết cảnh vật muốn khoe với tất cả. Tôi đang tự do chao lượn (bằng áo mão, hình hài vay mượn trong giấc mơ di trú mòn đêm) Tự do đưa hai tay chào nắng giữa ban mai mùa đông Tự do đưa hai tay chắp vá nổi buồn (rao bán không ai mua) Tự do đưa hai tay tiễn cuộc đời mình (qua bờ ủ mịch chắc còn dài). Cơn gió lạnh ùa đến làm cái cổ cao như hươu rụt xuống trái tim thắt lại (một chút) vì cất ủ đã lâu trong thế giới không màu. Đêm qua như con thú dữ thèm khát đánh nhau như con trâu bị đâm chảy máu chạy cuồng. Và đêm qua thấy lòng nhẹ hơn vì đã làm anh khóc được. Ngày tiếp theo bước ra khỏi cuộc đời anh. Ngày tiếp, tiếp theo không còn là người phụ nữ của anh Ngày tiếp, tiếp, tiếp theo tự tay chữa lành vết thương cho mình. Phía dưới mặt trời là màn đêm Phía trong con tim không biết rung động là một bảo tàng tím Phía sau cặp kính màu là tượng đài mỏng phô tấm huân chương dành cho người đàn bà xám… LẠC GIỮA THỜI GIAN Người đàn bà ngồi nhìn trời trong phòng kính. Bỏ mặc bước chân bỏ mặc ước mơ bỏ mặc cuộc đời. Người đàn bà giam mình vào sự ngăn cách vô hình trong suốt mỏng mảnh. Trái đất không là hình vuông (để bám víu). Trái đất không là hình thang (để leo lên). Người đàn bà run rẩy bấu lấy đôi vai (cảm giác như đứng ngoài trời không mặc quần áo). Lạnh và sợ. Người đàn bà không còn đủ sức không còn ý chí để rơi mình chảy đổ trên đỉnh của cơn say từ khi hiểu ra trái đất là hình tròn. Ký ức để lại giống như cuộc chơi ngắn đẩy người đàn bà tuột vào năm tháng… VỠ HOA Ngày tháng trong tôi như những nốt nhạc rời đang tìm nơi yên nghỉ. Biển mặn hình như mặn hơn trong màu trăng đục gió lùa về trên hàng thông ngỡ tiếng sáo ngày nào bay qua. Và cổ họng tôi như bị bóp nghẹt. Ý nghĩ muốn dệt thêu tình xanh trên cánh hoa không vỡ. Tôi đi như chạy trong con đường hầm dài tối và lạnh. Cứ nhắm mắt một mình lạc vào khoảng trống giấu mặt. Cánh hoa tưởng không bao giờ vỡ ấy như giấc mơ của tôi dường như đang rời ra trong màu của đêm. TRÔI Khói trắng bay giữa chiều chút nắng bên đường giấu mặt. Thời gian… Không kịp quên đi… Hai con mắt mở to gặm nhấm sự bình yên trên lối cỏ rồn rộn theo tiếng ríu rít của lũ chim về. Tình yêu – Hạnh phúc rơi vào đâu ? Từng con sóng bạc đầu Buồn sáng dần theo chiều tắt Ngày tròn rồi mất còn lại những cơn đau như rễ cây đâm mãi vào đất hồn đã kiệt. Hương sắc đang bỏ xa năm tháng này. Xin dành lại một chút để làm quà cho hơi thở. Đêm. Và mặt trời đen. NGÀY KHÔNG NẮNG Chiếc lá rơi, chạm vai rồi nhẹ nằm trên cỏ tôi thả đôi chân trần lên thảm xanh. Gió. Lá đùa với cỏ. Đôi chân lạ. Sau hàng cúc áo bồn chồn giành giật nhớ. Gió luồn vào, nỗi nhớ căng cứng hãm hiếp hơi thở gầy xanh Đôi chân trần nghiến ngầm thêm những vệt chai mới. Ngọn cỏ chúi đầu sát đất vúng vẩy lá lăn lắc tấp vào bờ. Tôi khỏa lấp cơn loạn theo những bước chân mỏi. Hồn trốn vào đêm trở giấc. Nét má môi gãy trên tường… MƯA BONG BÓNG Mưa nhiều lắm nhàu cả đêm khuya. Giọt, giọt liên hồi chạm mặt đường. Vạn, vạn bong bóng lúng lảy. Rồi lại giọt, giọt làm những bong bóng lủng lày. Bong bóng còn lại theo dòng nước lao xuống họng cống đen ngòm. Còn – mất – về – đâu ? Em thà làm bong bóng bên giọt nước vô tình. Tan tan vào nhau khoảnh khắc. Mà sao vẫn cấu cào cơn mưa bóng… GÓC KHUẤT Tôi men theo sườn đời với chân tay chai nứt. Phía bên kia tiếng gọi hạnh phúc nghe dính kết nghe rã rời nghe chật chội nghe thẳm xa chợt bỡn đùa chợt hoảng hốt… Đứng lại giữa chênh vênh nhìn thấy anh ở một góc khuất bình yên. Thân chưa mỏi Trái tim đã mỏi. Tôi sống bằng hơi thở của xác người. Tôi cười bằng linh hồn treo ngược. Nên chẳng bao giờ anh nhìn thấy… KHOẢNG VỌNG Tôi biết rõ con đường trước mặt. Nhưng đành rẽ theo lối đi dốc từ lâu cố luồn mình chối – chạy. Bao đêm nỗi đau vẫn sục sạo – lèn lủi làm đứt gần hết sợ dây trói ánh sáng đã đánh gục trái tim đang yêu đang mê đang sai lầm bằng nụ cười lên men. Lẽ ra, không phải đến bây giờ trên môi mắt trên da thịt trên hơi thở lời xin lỗi hoài râm rứt trong vòng tay ôm siết đau và thương. Phía ấy mù câm tôi tìm tôi không ngừng không ngoảnh lại. Gió hãy đến với tôi ôm tôi thật chật hãy hôn tôi và đưa tôi đi. Khói – bụi mỏng phủ dày năm tháng… KHÔNG PHẢI LÀ CUỐI CÙNG Nhìn cuốn lịch vừa cũ đôi mắt nhá nhem giễu cợt với hoàng hôn. Thời gian vô tình em biết anh không phải là thời gian sao im lặng – chảy trôi. Cuốn lịch vơi dần những rã rời một thuở vẫn ngạt đầy trong trí nhớ. Không ánh nhìn cuối cùng không giai điệu cuối cùng Đưa bàn tay nắm bàn tay những đường gân xanh hằn lên. Em phải xé bỏ bao nhiêu lần tờ lịch cuối cùng để tìm lại một mùa xuân không cũ… VỀ ĐÂY TRÌNH NĂM THÁNG Nhìn mấy lượt ngược xuôi cũng chỉ có một mình. Tôi chạy thật nhanh xuống quì trước biển. Nghe hơi thở gấp Nghe thật rõ cái lao xao khờ dại Nghe cay đắng bới mồ chôn ngọt mềm một thuở. Tôi đã phí hoài tiếng hét khan vào tiếng sóng. Phết từng mảng cát mịn ướt đầy lên tấm thân. Nằm im ngứa rát ngó trời trình năm tháng… THỦY TINH MÙ Đón giao thừa bên ánh sáng vàng của ngọn nến bên cánh hồng vừa chớm trong lọ thủy tinh cao cổ. Tranh sáng tranh tối như muốn tô đậm thêm dáng nhìn nghiêng. Ngày mai, đầu năm mới. Thêm mấy nếp nhăn mới bên khóe mắt trên vầng trán. Trong quầng sáng viền quanh nét chiều sớm của khuôn mặt không soi gương vẫn biết tóc trên đầu mình mấy đường ngôi. Đêm là dòng thác cho ta xuôi theo những giọt nước những lời không tiếng buồn bã cố rửa cho tan nỗi thiếu – thừa. Sao cái bóng trên tường cứ rộng thêm ra? TRĂNG Qua khe cửa, trăng chìm trên giọt nước mắt tôi vừa thức. Nỗi khát khao lắng xuống trong căn phòng nhỏ đang ấm dần lên theo màu của trăng. Nhắm mắt, để không phải thấy cái bóng cô độc đang rạn trong tim mỗi khi đêm thắp lên những ngọn đèn. * Cái tiếng yên lặng của trăng dẫn tôi về những đêm cuộc người. Tôi như được thở từng nhịp hơi thở hạnh phúc và muốn hát cho anh nghe dù tiếng hát không còn hơi rung. Lời bài biệt ly vừa dứt là lúc trăng bỏ tôi đi. * Gió đang bay và mây vẫn trôi xin theo kịp để nhắn giùm hằng đêm tôi vẫn chờ trăng bên vuông cửa nhỏ này. Tôi giam cầm nỗi đau ở nơi không có người canh gác rồi với tay đóng lại cửa đời. Xin trăng đừng đùa giỡn như những hình bóng một thời đã qua. * Đêm vắng. Mưa lớn ngoài trời. Và những tiếng gì chật cả căn phòng. Trăng ơi ! LỜI TÌNH THIÊN NHIÊN 23h trong trái tim tôi đồng hồ lúc lắc những hồi kiêu hãnh lên vết thương chảy mịn. mơ mơ giọt nóng hổi của cơn cuồng mị vừa rã tan. thơm lựng mùi thịt da vừa đủ đầy trống rỗng. 23h – con nước ngược dòng trôi. 23h – phù sa trở lại nguồn. không là gió mà vẫn phiêu diêu không là cỏ dại vẫn mơn man, đeo đẳng không hẹp hòi vẫn chật chội chiếm hữu bóng đêm làm nô lệ cho cái nhớ xanh xao làm mồi cho giấc mơ hạnh phúc. luồng giá ngắt thổi từ cặp mắt lì lợm ban ân lên nổi oán giận bọc rêu . u mê- trầy trụa cũng chẳng sao què quặt trước cửa thiên đường cũng chẳng sao. … quờ quạng rồi cũng quen … quen rồi sẽ quên … quên rồi sẽ qua. 23h- hai chuyến tàu đêm hướng về nhau giao nhau (chưa rõ mặt) thì khoảng cách càng xa. còn những giọt nước mắt bảo bọc miết trời em… BÓNG NGƯỢC Xuống phố. Những bước đi nhỏ. Còn mấy ngày nữa là đến Tết. Dòng người – xe. Một mình. Con đường dài – dài thêm… Sợ lạc người đằng trước. Sợ mất ai phía sau. Cuối cùng cũng tìm đến chỗ ngồi ngày ấy. Con còng gió giương đôi mắt nhìn. Biển thăm thẳm phải không Trời thăm thẳm phải không. Tội nghiệp đôi bàn chân xanh gầy đổi sắc. Đi tìm giấc ngủ cho mình bằng một ngày nhọc mệt. Đêm cứ thụt lùi Những giấc mơ là những giấc mơ… Đôi khi muốn làm một cọng cỏ chờ sương rửa bớt vết thâm Vậy mà khi ánh ngày vừa hé chỉ còn thấy trên tay mình những câu thơ đang vỡ dần ra… Còn ba – bốn hôm nữa là đến Tết.
PHAN HOÀNG PHƯƠNG – Sinh ngày 29-01-1966 tại Tây Hiếu-Nghĩa Đàn- Nghệ An – Quê quán: Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh – Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, Khoa Ngữ văn năm 1988 – Công tác tại Báo Đà Nẵng từ năm 1995-2018; Phụ trách Báo Đà Nẵng Cuối tuần từ năm 2006-2018. – Từ tháng 7-2018 đến nay: Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo thành phố Đà Nẵng. – Tác phẩm : Giữa thời gian, thơ, Nxb Đà Nẵng, 1994. Hoa gạo Không có đôi Đơn chiếc dọc triền sông Hoa gạo cháy rực trời Mà người thương không trở lại Hoa gạo ơi Lớp ngửa mặt lên trời Lớp úp mình trên cỏ Như tình yêu vời vợi của chúng mình Nhẫn nhịn giữa cao xanh. (2004) Rằm tháng Bảy Đêm nay Chuyến tàu chở người từ cõi âm về trĩu nặng Con không dám ra sân ga đón người Không dám nhìn sâu vào di ảnh của người Vì lại sợ người tin cậy Ngày ấy, người đã dặn con điều gì Trước khi nhắm mắt xuôi tay Con đã ghi nhớ trong tim mà không làm được vậy Người ơi Chúng con đã từng ở cạnh nhau Cùng bảo bọc trong từng ý nghĩ Thế mà giờ đây, cách biệt tựa âm dương Giá như ngày đó Người đừng đưa con đến dòng sông U u mang mang như tiền định Đừng để con chạm tay vào mặt nước Lộ dần ham muốn trần gian Đêm nay Trăng trôi về một phía Mây dạt về một phía Lòng con đầy nỗi lo âu Liệu mai kia hương khói có xa dần? Chuyến tàu lại rời ga Con sấp ngửa chạy theo mà không ai hay ai biết Con biết sẽ có ngày được cùng người quay trở lại Kiếm tìm ý nghĩ trần gian. Đi trong mưa gió Những ngày đi trong mưa gió thèm được nghe những câu thơ cũ đau như trời tuôn mưa buốt như cơn gió xé đẹp như vạt lau bừng sáng tận bìa rừng Sao giờ nhiều câu thơ như được ném tung ra tứ phía như nhặt chữ đầu non nối về cuối bể Ừ thôi, không lưỡi lê. Không đạn xé. Không bão mưa Nhưng cả tình yêu sao cũng không còn thắm Sao buồn vui cũng không cả khóc cười? Những ngày đi trong mưa gió Thèm nơi trở về, cả nhà ngồi bệt bên mâm cơm nóng hổi đủ đầy thèm nơi trở về, có những gương mặt ngẩng lên nụ cười chào đón quên người xa để nhớ những người gần Thỉnh thoảng ngước nhìn về rặng núi Mờ xa chắc có tiếng chuông rơi. (2014) P.H.P
PHAN HOANG PHUONG – Born on January 29, 1966 in Tay Hieu - Nghia Dan - Nghe An – Hometown: Tung Anh, Duc Tho, Ha Tinh – Graduated from Hue University of Education, Faculty of Literature in 1988 – Worked at Da Nang Newspaper from 1995-2018; In charge of Da Nang Weekend Newspaper from 2006-2018. – From July 2018 to present: Permanent Vice Chairman of Da Nang City Journalists Association. - Work : Between time, poetry, Da Nang Publishing House, 1994. rice flower No pair Alone along the riverbank Rice flowers burn brightly in the sky But the loved one does not return Oh rice flower The class faced the sky The class crouched face down on the grass Like our great love Patience amidst green heights. (2004) Full moon in July Tonight The train carrying people from the underworld is heavy I don't dare go to the station to pick up people Don't dare look deeply at your photo Because I'm afraid of people I trust That day, what did you tell me? Before closing my eyes and giving up I kept it in my heart but couldn't do that Hey man We used to be together Covering each thought together But now, the difference is like yin and yang If only that day Don't take me to the river U u bring bring like predestination Don't let your child touch the water Gradually revealing worldly desires Tonight The moon drifts to one side Clouds drift to one side My heart is full of anxiety Will the scent of smoke fade away tomorrow? The train left the station again The child ran after it without anyone knowing I know that one day I will be able to return with you again Looking for worldly thoughts. Going in the rain and wind Days spent walking in wind and rain I crave to hear old poems pain like pouring rain as sharp as a gust of wind beautiful like a reed shining at the edge of the forest Why are so many verses thrown out in all directions now? It's like picking up letters from the beginning of a rock to the end of a pool Oh well, no bayonets. No tearing bullets. No rain storms But even love is no longer strong Why don't you laugh and cry when you're sad or happy? Days spent walking in wind and rain Craving a place to return home, the whole family sat down next to a full tray of hot rice Longing for a place to return to, there are faces raised with welcoming smiles Forget those far away to remember those near Occasionally look up at the mountains In the distance, there must have been a bell ringing. (2014) P.H.P
HUỲNH VĂN HOA Huỳnh Văn Hoa làm thơ, viết văn từ hồi còn là học sinh trung học. Lĩnh vực mà anh bền bỉ theo đuổi và thành công nhất là lý luận phê bình văn học. -Học vị: Tiến sĩ ngữ văn. -Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục – Đào tạo Thành phố Đà Nẵng vansudia.net Đá trong thơ TS. Huỳnh Văn Hoa Đá là khoáng sản vô tri vô giác, tồn tại khách quan trong cuộc sống của con người . Dưới góc độ đời sống, đá gắn liền với nhiều sinh hoạt hữu ích của xã hội. Nó có mặt trong xây dựng, trong trang trí nội thất, trong tạo hình sinh vật cảnh,…Từ hàng nghìn năm nay, nhân loại đã sử dụng đá trong kiến trúc và nhìn nó như đối tượng thân thuộc , gần gũi với con người, quen thuộc với con người. Đá đi vào văn chương nghệ thuật, làm nên những hình tượng đẹp, gây nên những ấn tượng khó quên nơi người thưởng thức. Không biết từ bao giờ, nhân loại đã nói đến đá, đã đưa đá vào văn chương và nghệ thuật , cả đông lẫn tây đều vậy. Con người tìm đến đá, trò chuyện với đá, xem đá như người bạn tâm giao . Nếu tập hợp đầy đủ, chắc rằng chúng ta sẽ có nhiều tác phẩm hay về đá. Cuộc đời với bao lo toan, bận rộn, khiến cho con người nhiều lúc không bình tâm để nhìn và suy ngẫm về sự lặng im đầy chất triết học của đá. Đâu phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trãi khi lui về Côn Sơn thì viết Côn Sơn ca với những dòng thơ : Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Côn Sơn có đá rêu phơi Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm Trong ghềnh thông mọc như nêm Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm Trong rừng có trúc bóng râm Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn… (Phan Võ-Lê Thước-Đào Phương Bình dịch, Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi , NXB Văn hóa, HN,1962 ) Sau này, trong dịp kỉ niệm 600 năm Nguyễn Trãi ( 1380-1980 ), nhà thơ Thanh Thảo đã viết : Lui về Côn Sơn tránh chốn bụi lầm Gối đầu lên hòn đá thay vì danh vọng Con thuyền ấy vẫn không nguôi nhớ sóng Lật mỗi trang thơ biển từng lúc hiện về . . . ( Về cái chết của Nguyễn Trãi ) Nguyễn Trãi nhiều lần đưa hình tượng đá vào thơ ca của mình. Bài thơ Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác ( Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác ), Ức Trai viết: Hà thì kết ốc vân phong hạ ? Cấp giản phanh trà chẫm thạch miên . ( Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây, Để múc nước khe pha chè và gối đầu đá ngủ ) Với những bài thơ như thế, phần lớn Nguyễn Trãi bày tỏ tâm trạng, nỗi niềm, suy tư về thế thái nhân tình. Cả đến Nguyễn Công Trứ cũng vậy. Những tấn tuồng ảo hoá của sự thế , ông tìm đến thiên nhiên để bày tỏ, dạng như: Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Giữa trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét, thì trèo với thông . Trong văn học cổ Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, cũng như các nhà thơ phong kiến khác, khi thực tiễn đời sống không phù hợp với lý tưởng, họ đều tìm đến với phong hoa, tuyết nguyệt, vui thú điền viên, kiểu như: thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà . Lẽ xuất xử của đạo Nho dạy họ như vậy, vì thế, trong một bài thơ, Nguyễn Công Trứ viết: Tòa đá Khương công đôi khóm trúc Áo xuân Nghiêm tử một vai cày Thái bình vũ trụ càng thong thả Chẳng lợi danh chi lại hóa hay ! Bà Huyện Thanh Quan với Thăng Long hoài cổ đã suy ngẫm về sự hưng phế của một triều đại, ngẫm về bao sự thế ở đời, nữ sĩ viết : Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường… Trong Truyện Kiều , Nguyễn Du đã 14 lần sử dụng từ “đá”, nào là: lệ rơi thấm đá, cho lăn lóc đá, đá biết tuổi vàng, đá cũng nát gan, đá nát vàng phai, đá vàng thủy chung ,… với nhiều ngữ cảnh và cung bậc khác nhau, có lúc để chỉ cái cứng bền, trung thành trong cuộc sống, có lúc để chỉ cái kiên trinh, bền chặt trong tình yêu. Trong buổi chiều xuân gặp gỡ của Kim-Kiều, Nguyễn Du viết: Đã lòng quân tử đa mang Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung Sau đó, tình yêu của đôi trai tài gái sắc này là : Từ phen đá biết tuổi vàng Tình càng thắm thiết, dạ càng ngẩn ngơ. Sau này, khi rơi vào tay Hoạn Thư, tại Quan âm các, Thúc Sinh đã bẽ bàng nói với Kiều : Thẹn mình đá nát vàng phai Trăm thân dễ chuộc một lời được sao ! Ôi, cái anh chàng Thúc Sinh sợ vợ, người đã “ thề giữ lòng như đá vàng, mà để cho đá thì nát, vàng thì phai, tức là không giữ lời thề” ( Đào Duy Anh, Tự điển Truyện Kiều , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, trang 115 ). Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng nhiều lần đưa hình ảnh đá vào thơ. Không thể khác hơn với các cung đường, với những người nữ thanh niên xung phong của Trường Sơn phá đá mở đường, “ đưa lên rừng mấy chục vạn người con / Không thể nói là không đói không sốt“, không có những hy sinh, những mất mát. Vậy mà : … Dân tộc ấy có gì kỳ lạ Một nước bao nhiêu là đá Vọng phu Những năm tháng đợi chờ, những thập kỷ đợi chờ Chỉ một là người, hai là hóa đá Dân tộc ấy có gì kỳ lạ… Trong văn học Việt Nam, hình tượng “vọng phu” trở thành mô-típ nghệ thuật, với nhiều cách nhìn, cách thể hiện khác nhau. Bài Vọng phu của Chế Lan Viên là một ví dụ. Đây là một bài thơ hay, nhiều tầng nghĩa: Là tượng đá của những thời binh lửa Nàng vọng phu đầu sông hơn gì nàng Tô Thị cuối sông… Người ra đi chắc gì quay lại nữa Trên đầu non lòng đá vẫn kiên trinh Kiên trinh trong chờ đợi, bao cánh chim khuya bay qua vai đá, bao vành trăng tròn rồi lại khuyết, đá đợi chồng “ một mình với mây, một mình với gió”, “ một phút đợi chờ sâu một bể thời gian”. Bài thơ kết thúc bằng một giọng điệu thê thiết, day dứt: Không hóa thạch kẻ ra đi, hóa thạch kẻ đợi chờ Xói mòn những non cao, không xói mòn lòng chung thủy Đá đứng đấy giữa mưa nguồn và chớp bể Đợi một bóng hình trở lại giữa đơn cô. Nhà thơ nữ Thu Nguyệt có bài thơ Từ lúc ấy diễn tả nhiều cung bậc của tình yêu gắn liền với đá. Đá đã trở thành đối tượng nghệ thuật, thành nhân vật trữ tình của bài thơ. Bài thơ như sau: Em ngồi hoá đá thành thơ Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu Em ngồi hoá đá thành chiều Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa Em ngồi hoá đá thành mưa Trả anh cái phút anh đưa qua cầu Xa nào anh có hay đâu Đá từ lúc ấy bây giờ hoá em . Người con gái đã “hoá đá” chờ người yêu, chờ ở nhiều thời khắc, nhiều tâm trạng. Cái hay của bài thơ là từ “hoá đá” giờ thành “ hoá em”. Đá đã hoá thành chiều , thành mưa để trả tháng ngày chờ đợi, trả cái nụ hôn liều, trả cái phút đưa nhau qua cầu. Bài thơ lạ ở cách viết và nhiều người thích. Cũng viết về tình yêu, Thu Bồn trong bài thơ Tạm biệt Huế , nhà thơ viết: Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng Anh trở về hóa đá phía bên kia. Bài thơ viết về Huế ( 1980 ) của Thu Bồn đã nói rất hay về nón Huế, áo dài Huế, đền đài Huế, sông và cầu xứ Huế, một nơi mà : “ một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu ”. Thực và mơ đan cài vào nhau, dùng dằng như sự lững lờ của sông Hương . Cuối cùng, để giữ Huế, nhà thơ đã tự nguyện “hóa đá phía bên kia”, xin Hải Vân giữ ngọn sao khuya và chờ đợi người về ! Em ơi! Hà Nội-Phố , bài thơ của Phan Vũ, nói về tình yêu Hà Nội, về mùi hoàng lan, mùi hoa sữa, về “ mỗi góc phố một trang tình sử “ và về “ những con đường vắng, rì rào cơn mưa nhỏ “của gã tình si: Ta còn em đôi mắt buồn Dõi cánh chim xa Tháng năm dừng lại Một ngôi nhà Gã Trương Chi ôm ghi-ta Từng đêm Hóa đá… Lại là một cách “hóa đá” từ đôi mắt buồn, đọng lại của những tháng năm xa ngái, của tiếng đàn chùng đi từng đêm, từng đêm. Trần Đăng Khoa có bài thơ Trước đá Mỵ Châu được nhiều người đọc yêu thích. Bài thơ viết tại Cổ Loa, ngày 12-3-1974, lúc nhà thơ 16 tuổi. Truyền thuyết An Dương Vương với nhân vật Mỵ Châu đẫm đầy nước mắt, thu hút bao thế hệ người đọc, gợi lên bao thương cảm về cái chết đầy chất bi kịch, gắn liền với vận nước điêu linh, khiến đời sau luôn nghĩ và nhớ đến người phụ nữ này. Trước khi vào bài thơ, Trần Đăng Khoa có lời dẫn giải như sau: “ Ở bãi biển Thanh Hóa nổi lên một phiến đá hình cô gái cụt đầu. Nhân dân cho đó là nàng Mỵ Châu bị cha chém chết, hóa đá, nên đã dùng võng đào đưa “nàng” về Đền Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội “. Bài thơ mở đầu: Người dân nào xưa đưa em về đây Cho em gặp bố Người bố mất nỏ thần, giận em, ruồng bỏ Nhưng nhân dân mình không nỡ bỏ em … Bao đời nay, nhân dân rất độ lượng với Mỵ Châu, hiểu rõ sự trong trắng và tha thứ cho lỗi lầm của nàng: Nhớ vận nước có một thời chìm nổi Bắt đầu từ một tình yêu Em hóa đá ở trong truyền thuyết Cho bao cô gái sau em Không còn phải hóa đá trong đời. Chế Lan Viên có một tâp thơ, mang tên Hoa trên đá ( NXB Văn học, HN, 1984). Mở đầu tập thơ, tác giả lý giải về việc đặt tên bằng một bài Đề từ , dài đến 10 khổ. Bài thơ bắt đầu: Đời ngoài tuổi năm mươi Mong gì hương sắc lạ Mọc chùm hoa trên đá Mùa xuân đâu chịu lùi… Chế Lan Viên biết cái hữu hạn của đời người: Anh như ông vua Thục/ Bị đuổi bởi thời gian/ Trước mắt là bể lớn/ Sau lưng đất không còn. Viết nhanh lên cho kịp/ Lũ sắp ập về kia/ Đạp tháng ngày mà viết/ Còn âm à nỗi chi. Hiểu tâm trạng này của Chế Lan Viên, ta mới hiểu vì sao những năm cuối đời, nhà thơ như bị thời gian xua đuổi: Viết đi! Viết đi ! Viết ! Viết/ Thời gian nước xiết. Cuối cùng, nhà thơ cũng hiểu và tâm sự với đá : … Trong giấc ngủ vô cùng của Đá Cùng vô hạn đêm khuya và vô hạn sao trời… Ta bản lĩnh thì đá kia bản lĩnh, mà ta cô đơn thì đá hóa cô đơn. Ngọn Thi sơn Chế Lan Viên đã trở về Cõi Quên , đã đi hết thời gian ở trên trái đất, đã gửi lại cho đời bao giọt nước mắt thi ca cùng với nhiều hình tượng đá đầy chất triết học, triết luận, vô cùng đa sắc, đa thanh. Đà Nẵng, tháng 9 năm 2009 HVH
HUỲNH VĂN HOA Huỳnh Văn Hoa làm thơ, viết văn từ hồi còn là học sinh trung học. Lĩnh vực mà anh bền bỉ theo đuổi và thành công nhất là lý luận phê bình văn học. -Học vị: Tiến sĩ ngữ văn. -Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục – Đào tạo Thành phố Đà Nẵng vansudia.net Đá trong thơ TS. Huỳnh Văn Hoa Đá là khoáng sản vô tri vô giác, tồn tại khách quan trong cuộc sống của con người . Dưới góc độ đời sống, đá gắn liền với nhiều sinh hoạt hữu ích của xã hội. Nó có mặt trong xây dựng, trong trang trí nội thất, trong tạo hình sinh vật cảnh,…Từ hàng nghìn năm nay, nhân loại đã sử dụng đá trong kiến trúc và nhìn nó như đối tượng thân thuộc , gần gũi với con người, quen thuộc với con người. Đá đi vào văn chương nghệ thuật, làm nên những hình tượng đẹp, gây nên những ấn tượng khó quên nơi người thưởng thức. Không biết từ bao giờ, nhân loại đã nói đến đá, đã đưa đá vào văn chương và nghệ thuật , cả đông lẫn tây đều vậy. Con người tìm đến đá, trò chuyện với đá, xem đá như người bạn tâm giao . Nếu tập hợp đầy đủ, chắc rằng chúng ta sẽ có nhiều tác phẩm hay về đá. Cuộc đời với bao lo toan, bận rộn, khiến cho con người nhiều lúc không bình tâm để nhìn và suy ngẫm về sự lặng im đầy chất triết học của đá. Đâu phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trãi khi lui về Côn Sơn thì viết Côn Sơn ca với những dòng thơ : Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Côn Sơn có đá rêu phơi Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm Trong ghềnh thông mọc như nêm Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm Trong rừng có trúc bóng râm Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn… (Phan Võ-Lê Thước-Đào Phương Bình dịch, Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi , NXB Văn hóa, HN,1962 ) Sau này, trong dịp kỉ niệm 600 năm Nguyễn Trãi ( 1380-1980 ), nhà thơ Thanh Thảo đã viết : Lui về Côn Sơn tránh chốn bụi lầm Gối đầu lên hòn đá thay vì danh vọng Con thuyền ấy vẫn không nguôi nhớ sóng Lật mỗi trang thơ biển từng lúc hiện về . . . ( Về cái chết của Nguyễn Trãi ) Nguyễn Trãi nhiều lần đưa hình tượng đá vào thơ ca của mình. Bài thơ Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác ( Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác ), Ức Trai viết: Hà thì kết ốc vân phong hạ ? Cấp giản phanh trà chẫm thạch miên . ( Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây, Để múc nước khe pha chè và gối đầu đá ngủ ) Với những bài thơ như thế, phần lớn Nguyễn Trãi bày tỏ tâm trạng, nỗi niềm, suy tư về thế thái nhân tình. Cả đến Nguyễn Công Trứ cũng vậy. Những tấn tuồng ảo hoá của sự thế , ông tìm đến thiên nhiên để bày tỏ, dạng như: Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Giữa trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét, thì trèo với thông . Trong văn học cổ Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, cũng như các nhà thơ phong kiến khác, khi thực tiễn đời sống không phù hợp với lý tưởng, họ đều tìm đến với phong hoa, tuyết nguyệt, vui thú điền viên, kiểu như: thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà . Lẽ xuất xử của đạo Nho dạy họ như vậy, vì thế, trong một bài thơ, Nguyễn Công Trứ viết: Tòa đá Khương công đôi khóm trúc Áo xuân Nghiêm tử một vai cày Thái bình vũ trụ càng thong thả Chẳng lợi danh chi lại hóa hay ! Bà Huyện Thanh Quan với Thăng Long hoài cổ đã suy ngẫm về sự hưng phế của một triều đại, ngẫm về bao sự thế ở đời, nữ sĩ viết : Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường… Trong Truyện Kiều , Nguyễn Du đã 14 lần sử dụng từ “đá”, nào là: lệ rơi thấm đá, cho lăn lóc đá, đá biết tuổi vàng, đá cũng nát gan, đá nát vàng phai, đá vàng thủy chung ,… với nhiều ngữ cảnh và cung bậc khác nhau, có lúc để chỉ cái cứng bền, trung thành trong cuộc sống, có lúc để chỉ cái kiên trinh, bền chặt trong tình yêu. Trong buổi chiều xuân gặp gỡ của Kim-Kiều, Nguyễn Du viết: Đã lòng quân tử đa mang Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung Sau đó, tình yêu của đôi trai tài gái sắc này là : Từ phen đá biết tuổi vàng Tình càng thắm thiết, dạ càng ngẩn ngơ. Sau này, khi rơi vào tay Hoạn Thư, tại Quan âm các, Thúc Sinh đã bẽ bàng nói với Kiều : Thẹn mình đá nát vàng phai Trăm thân dễ chuộc một lời được sao ! Ôi, cái anh chàng Thúc Sinh sợ vợ, người đã “ thề giữ lòng như đá vàng, mà để cho đá thì nát, vàng thì phai, tức là không giữ lời thề” ( Đào Duy Anh, Tự điển Truyện Kiều , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, trang 115 ). Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng nhiều lần đưa hình ảnh đá vào thơ. Không thể khác hơn với các cung đường, với những người nữ thanh niên xung phong của Trường Sơn phá đá mở đường, “ đưa lên rừng mấy chục vạn người con / Không thể nói là không đói không sốt“, không có những hy sinh, những mất mát. Vậy mà : … Dân tộc ấy có gì kỳ lạ Một nước bao nhiêu là đá Vọng phu Những năm tháng đợi chờ, những thập kỷ đợi chờ Chỉ một là người, hai là hóa đá Dân tộc ấy có gì kỳ lạ… Trong văn học Việt Nam, hình tượng “vọng phu” trở thành mô-típ nghệ thuật, với nhiều cách nhìn, cách thể hiện khác nhau. Bài Vọng phu của Chế Lan Viên là một ví dụ. Đây là một bài thơ hay, nhiều tầng nghĩa: Là tượng đá của những thời binh lửa Nàng vọng phu đầu sông hơn gì nàng Tô Thị cuối sông… Người ra đi chắc gì quay lại nữa Trên đầu non lòng đá vẫn kiên trinh Kiên trinh trong chờ đợi, bao cánh chim khuya bay qua vai đá, bao vành trăng tròn rồi lại khuyết, đá đợi chồng “ một mình với mây, một mình với gió”, “ một phút đợi chờ sâu một bể thời gian”. Bài thơ kết thúc bằng một giọng điệu thê thiết, day dứt: Không hóa thạch kẻ ra đi, hóa thạch kẻ đợi chờ Xói mòn những non cao, không xói mòn lòng chung thủy Đá đứng đấy giữa mưa nguồn và chớp bể Đợi một bóng hình trở lại giữa đơn cô. Nhà thơ nữ Thu Nguyệt có bài thơ Từ lúc ấy diễn tả nhiều cung bậc của tình yêu gắn liền với đá. Đá đã trở thành đối tượng nghệ thuật, thành nhân vật trữ tình của bài thơ. Bài thơ như sau: Em ngồi hoá đá thành thơ Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu Em ngồi hoá đá thành chiều Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa Em ngồi hoá đá thành mưa Trả anh cái phút anh đưa qua cầu Xa nào anh có hay đâu Đá từ lúc ấy bây giờ hoá em . Người con gái đã “hoá đá” chờ người yêu, chờ ở nhiều thời khắc, nhiều tâm trạng. Cái hay của bài thơ là từ “hoá đá” giờ thành “ hoá em”. Đá đã hoá thành chiều , thành mưa để trả tháng ngày chờ đợi, trả cái nụ hôn liều, trả cái phút đưa nhau qua cầu. Bài thơ lạ ở cách viết và nhiều người thích. Cũng viết về tình yêu, Thu Bồn trong bài thơ Tạm biệt Huế , nhà thơ viết: Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng Anh trở về hóa đá phía bên kia. Bài thơ viết về Huế ( 1980 ) của Thu Bồn đã nói rất hay về nón Huế, áo dài Huế, đền đài Huế, sông và cầu xứ Huế, một nơi mà : “ một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu ”. Thực và mơ đan cài vào nhau, dùng dằng như sự lững lờ của sông Hương . Cuối cùng, để giữ Huế, nhà thơ đã tự nguyện “hóa đá phía bên kia”, xin Hải Vân giữ ngọn sao khuya và chờ đợi người về ! Em ơi! Hà Nội-Phố , bài thơ của Phan Vũ, nói về tình yêu Hà Nội, về mùi hoàng lan, mùi hoa sữa, về “ mỗi góc phố một trang tình sử “ và về “ những con đường vắng, rì rào cơn mưa nhỏ “của gã tình si: Ta còn em đôi mắt buồn Dõi cánh chim xa Tháng năm dừng lại Một ngôi nhà Gã Trương Chi ôm ghi-ta Từng đêm Hóa đá… Lại là một cách “hóa đá” từ đôi mắt buồn, đọng lại của những tháng năm xa ngái, của tiếng đàn chùng đi từng đêm, từng đêm. Trần Đăng Khoa có bài thơ Trước đá Mỵ Châu được nhiều người đọc yêu thích. Bài thơ viết tại Cổ Loa, ngày 12-3-1974, lúc nhà thơ 16 tuổi. Truyền thuyết An Dương Vương với nhân vật Mỵ Châu đẫm đầy nước mắt, thu hút bao thế hệ người đọc, gợi lên bao thương cảm về cái chết đầy chất bi kịch, gắn liền với vận nước điêu linh, khiến đời sau luôn nghĩ và nhớ đến người phụ nữ này. Trước khi vào bài thơ, Trần Đăng Khoa có lời dẫn giải như sau: “ Ở bãi biển Thanh Hóa nổi lên một phiến đá hình cô gái cụt đầu. Nhân dân cho đó là nàng Mỵ Châu bị cha chém chết, hóa đá, nên đã dùng võng đào đưa “nàng” về Đền Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội “. Bài thơ mở đầu: Người dân nào xưa đưa em về đây Cho em gặp bố Người bố mất nỏ thần, giận em, ruồng bỏ Nhưng nhân dân mình không nỡ bỏ em … Bao đời nay, nhân dân rất độ lượng với Mỵ Châu, hiểu rõ sự trong trắng và tha thứ cho lỗi lầm của nàng: Nhớ vận nước có một thời chìm nổi Bắt đầu từ một tình yêu Em hóa đá ở trong truyền thuyết Cho bao cô gái sau em Không còn phải hóa đá trong đời. Chế Lan Viên có một tâp thơ, mang tên Hoa trên đá ( NXB Văn học, HN, 1984). Mở đầu tập thơ, tác giả lý giải về việc đặt tên bằng một bài Đề từ , dài đến 10 khổ. Bài thơ bắt đầu: Đời ngoài tuổi năm mươi Mong gì hương sắc lạ Mọc chùm hoa trên đá Mùa xuân đâu chịu lùi… Chế Lan Viên biết cái hữu hạn của đời người: Anh như ông vua Thục/ Bị đuổi bởi thời gian/ Trước mắt là bể lớn/ Sau lưng đất không còn. Viết nhanh lên cho kịp/ Lũ sắp ập về kia/ Đạp tháng ngày mà viết/ Còn âm à nỗi chi. Hiểu tâm trạng này của Chế Lan Viên, ta mới hiểu vì sao những năm cuối đời, nhà thơ như bị thời gian xua đuổi: Viết đi! Viết đi ! Viết ! Viết/ Thời gian nước xiết. Cuối cùng, nhà thơ cũng hiểu và tâm sự với đá : … Trong giấc ngủ vô cùng của Đá Cùng vô hạn đêm khuya và vô hạn sao trời… Ta bản lĩnh thì đá kia bản lĩnh, mà ta cô đơn thì đá hóa cô đơn. Ngọn Thi sơn Chế Lan Viên đã trở về Cõi Quên , đã đi hết thời gian ở trên trái đất, đã gửi lại cho đời bao giọt nước mắt thi ca cùng với nhiều hình tượng đá đầy chất triết học, triết luận, vô cùng đa sắc, đa thanh. Đà Nẵng, tháng 9 năm 2009 HVH
THU BỒN (1935 – 2003) Tên thật: Hà Đức Trọng Sinh ngày 01 tháng Mười hai 1935 Quê quán: xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Tham gia Thiếu Sinh quân từ năm 12 tuổi, làm liên lạc cho bộ đội và trực tiếp chiến đấu. Trong kháng chiến chống Mỹ, làm phóng viên chiến trường Liên khu 5, sau đó về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 4. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1962). Tác phẩm chính: Bài ca chim Chơ rao (trường ca, 1962); Quê hương mặt trời vàng (trường ca, 1975); Người vắt sữa bầu trời (trường ca 1985); Chớp trắng (tiểu thuyết, 1970); Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết, 1975); Em bé trong rừng thốt nốt (truyện, 1979); Đỉnh núi (tiểu thuyết, 1980); Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (tiểu thuyết, 1986); Vùng pháo sáng (tiểu thuyết, 1986)… Giải thưởng: Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu; Giải thưởng Văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973); Giải thưởng Báo Hà Nội Mới (1969); Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1 năm 2001. CÁI GA NHÂN DÂN CHIẾN ĐẤU VÀ CON TÀU … Tôi đi Bắc Quảng Nam. Đến đỉnh dốc Ô Rây, đồng bằng Quảng Nam hiện ra như một sa bàn. Bán đảo Sơn Trà tím sẫm, cong như yên ngựa. Sông Trường Định xanh lơ, những cánh buồm trắng như thực như mơ. Các nhánh sông lặng lẽ như tráng bạc. Ngay trên đỉnh dốc ấy có nấm mồ của anh hùng Võ Như Hưng – người dũng sĩ Điện Ngọc, người đầu tiên bắt sống 7 tên Mỹ tại Nam Thành (bọn Mỹ bấy giờ mang nhãn hiệu cố vấn). Nấm mộ người anh hùng nằm đây gắn liền với quê hương dưới kia. Hầu hết ấp chiến lược vùng Bắc Quảng Nam đã bị ta phá banh. Tôi tìm đến đơn vị Hưng, gặp Hiền, người đội trưởng bảy dũng sĩ Điện Ngọc. Và trong một đêm tâm sự, Hiền kể cho tôi nghe về Tính, người yêu của anh – cô Xã đội trưởng Điện Hòa, nhà ở bên cạnh chợ Đông Quan gần đường sắt và đồn Bàu Sấu. Câu chuyện tình yêu của Hiền và Tính hay quá. Hiền kể: Tính đào hầm bí mật tóc vướng rễ tre rụng gần hết. Câu chuyện thu hút tôi và kéo chân tôi đến chiếc hầm bí mật có cô Tính người yêu của Hiền. Nửa năm ít thấy mặt trời, đã cho tôi thấy một mặt trời khác: cuộc chiến đấu thầm lặng của những đội công tác và lòng thương yêu đùm bọc của nhân dân đối với “anh lực lượng”. Bài thơ Chiếc hầm bí mật tôi viết ở đây. Còn đương nặng nợ với những chiếc hầm, tôi lại phải ra đi. Xuyên qua những rừng già Kon Tum, Quảng Ngãi, Bình Định tôi về thảo nguyên Gia Lai – quê hương của những bản trường ca nổi tiếng. Tôi đến làng Đepapờlếch. Hàng ngày ở ngoài nhà rẫy với đồng bào, tôi được tiếp xúc với các chiến sĩ vũ trang bí mật. Nhiều mẩu chuyện cảm động và đây là trường hợp thật tốt cho tôi viết bản trường ca Bài ca chim Ch’rao. Đến nay tôi vẫn không thể nào quên được em bé đốt nứa và ngồi giữ lửa cho tôi viết suốt đêm trong chòi rẫy. Củi nứa cháy rất sáng nhưng cũng hay nổ nếu đập chưa dập, thỉnh thoảng tôi lại giật mình vì tiếng nổ. Đặc biệt, than nứa cũng chóng tàn, khi cháy nó biến thành một thứ tơ như lông mèo, làm lụi ngọn lửa, rất khó thổi cho nó cháy bùng trở lại. Trong thời gian ấy tôi cũng cố giữ ngọn lửa cảm hứng của tôi cháy mãi, vì nếu không hoàn thành được bản trường ca vào dịp đó thì suốt đời tôi phải ân hận, vì chẳng còn lúc nào tôi có thể viết lại được. Tháng năm trôi đi, những cái tro lông mèo trong cuộc sống sẽ làm tắt ngọn lửa cảm hứng của tôi. Bản trường ca được hoàn thành, tôi đọc cho bộ đội địa phương Khu 1 nghe, có đồng chí khóc. Còn cô bé có cái tên Hơ Tó ấy chắc đến nay đã thành một thiếu nữ Bana, đôi mắt luôn ngơ ngác và sáng trong nhìn tôi trong cái đêm hôm ấy có bao giờ đọc được bản trường ca tôi viết ra dưới ánh sáng của ngọn lửa trong tay cô không? Tôi cảm thấy bùi ngùi. Cuộc chiến đấu như dòng thác trôi qua, những hình ảnh đó trở lại với tôi như một kỷ niệm ngọt ngào nhưng cũng có khi tôi quên mất. Từ giã Pa Lơn Khơn, một thời gian tôi về lại Quảng Tín. Suốt một đêm lội trong nước lụt, băng qua lộ 1 và ấp chiến lược ngay cổng đồn Bà Dụ, vượt hai con sông, tôi đến xã Kỳ Anh. Nước lụt làm bao nhiêu hầm bí mật và địa đạo bị ngập. Địch lợi dụng trận lụt, càn lớn. Tôi phải nằm trên cạn, quần với chúng suốt ngày, mới thấm thía thế nào là lòng dân, và có lòng dân thì cái công sự ngầm của tôi mới không mất. Anh giao liên dẫn tôi chui qua mấy ấp chiến lược các xã vùng Đông Mỹ để trở về. Người chúng tôi luôn ngập nước tới ngực, thỉnh thoảng anh giao liên quay lại nói thầm với tôi: “Mìn, mìn, vòng chỗ khác”. Sau một đêm mệt nhoài, tôi hỏi: “Anh đi con đường này bao nhiêu lần rồi?” – Chừng hơn trăm lần – Anh đáp. – Trời ơi! Tôi đi mới một đêm mà giờ bị cảm ho và cả người như muốn vắt ra nước, mà sao anh vẫn như không? – Đi hằng trăm lần nên nó không còn gian khổ nữa. – Anh khéo nói – Tôi bảo – Gian khổ là gian khổ chứ có phải quen mà gọi là không gian khổ ác liệt đâu. – Vâng – Anh cười nheo mắt – Đúng là gian khổ là gian khổ, nhưng cái thước đo nó lại là mình. Câu nói của anh làm tôi suy nghĩ mãi về sự tu dưỡng của người viết văn. Anh ở cơ sở, những năm đen tối ngồi hầm bí mật, bọn địch dùng chĩa sắt xăm hầm như săn chuột. Từ khi “đi lực lượng” anh luôn thủ trong người quả lựu đạn và một cây súng tiểu liên K50. Anh trông cho gặp thằng địch là nổ súng như xé vải, tương vào đầu chúng mấy quả lựu đạn cho hả giận. Còn tôi ở Khu với chiếc hầm kèo mang chữ đại thọ trước cửa, đêm yên giấc trên chiếc võng, do đó việc nhìn nhận thằng địch giữa anh và tôi có một khoảng cách. Năm 1965, tôi đi một vòng chín tháng quanh Tây Nguyên. Ngày 5 tháng 6 tôi được dự trận đánh đèo Thanh Bình. Những ngày chuẩn bị tôi được gặp anh hùng Pui Thu và Kơ Pa Kơ Lơng khi ấy còn là cậu thiếu niên. Tôi có ý định viết bản anh hùng ca về người thiếu niên du kích đó nhưng không tài nào viết được. Đến 15 giờ chiều ngày 5 tháng 6 ta nổ súng chặn đánh đoàn xe địch từ Pleiku đi Đức Cơ. Bộ đội xuất kích. Tôi rời chỉ huy sở chạy theo C1 làm nhiệm vụ chặn đầu, tiến ra mặt đường. Những hàng cỏ thẹn cao ngang đầu dính đầy máu. Trời bắt đầu mưa. Một chiếc cầu vồng vắt qua đường 29 kéo dài đến đồn Pi của quân đội vương quốc Campuchia. Khi ấy 29 chiếc trực thăng vũ trang từ Pleiku lên bắn vào trận địa. Các cỡ súng ta từ dưới đất bắn lên, đạn đỏ lừ. Hai chiến sĩ ta cướp được khẩu đại liên địch trên xe, loay hoay mãi không tháo được, vì súng lạ. Tôi nhảy lên xe, và khẩu súng này đối với tôi rất quen thuộc – khẩu Bờrôninh Canada – tôi bắn vào chiếc trực thăng và hăng máu hạ nòng súng xuống bắn luôn bọn bộ binh địch đương cố chạy lên chiếm đồi phía đối diện. Đêm, trận đánh kết thúc, còn đối với tôi bản trường ca Trên đỉnh Chư Pông bắt đầu: Hỡi người lính của miền đau xưa đã đến… Nhưng có một điều tôi day dứt mãi là khung cảnh trời buổi chiều hôm đó, trời bắt đầu mưa và vẫn đầy nắng, ánh cầu vồng ngũ sắc vắt qua ba biên giới và dưới ánh cầu vồng đó những lá cây dọc đường xuất kích đỏ ánh lên – chiếc cầu vồng bằng máu của chiến sĩ ta. Tôi vẫn bất lực chưa phác họa được cái khung cảnh hùng tráng, và từ nay về sau không hiểu tôi có thể làm được gì nữa chăng? Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tôi theo cánh quân đánh vào mặt trận Đà Nẵng. Các cánh quân tiến vào đồng bằng như vũ bão, khí thế hào hùng, tôi lúng túng chưa biết viết gì. Nhưng đến đội đặc công Lê Độ (Đà Nẵng), tôi được biết tin: chị Tính – người yêu của Hiền – dũng sĩ Điện Ngọc, vào hoạt động trong Đà Nẵng bị bọn địch bắn chết. Người tôi nóng ran, và trong một giờ tôi viết xong bài thơ Đà Nẵng gọi ta. Anh Nguyễn Trung Thành( ) lấy bài thơ đến Báo Quảng Đà (bộ phận tiền phương) in thành nhiều bản. Và sau một tiếng đồng hồ bài thơ đã đến tận tay các chiến sĩ đang tiến vào thành phố. … Nhà văn Simonov Liên Xô có lần tâm sự: “Viết về chiến tranh thật khó. Viết về chiến tranh như viết về sự việc hào nhoáng, linh đình và dễ dàng – đó là sự giả dối. Nhưng chỉ viết về những ngày và đêm vất vả, sự bẩn thỉu nhớp nhúa ở chiến hào, về sự lạnh lẽo của những đám tuyết, chỉ viết về cái chết và máu – như vậy cũng là giả dối vì tất cả những cái đó đều có thực, nhưng chỉ viết về những cái đó là quên hết tâm hồn và trái tim dũng cảm của người lính đương chiến đấu trong cuộc chiến tranh đó, quên mất trái tim dũng cảm của người lính trong giờ phút hăng say chiến đấu đã quên hết cảnh đầu rơi máu chảy và chỉ tin vào một cái là thắng lợi chờ đợi ở phía trước”. Đúng như vậy. Người viết phải có tâm hồn vững chắc mới tìm hiểu được thực sự cuộc chiến đấu. Trình độ chính trị là thanh nam châm để hút chất sắt hiện thực ấy. Tôi nghĩ rằng: người viết văn không thể nào như một con tàu mang đủ năng lượng để đi suốt mà không cần tiếp nhiên liệu ở các ga. Những cái ga nhân dân chiến đấu có đầy đủ nhiên liệu cho con tàu đi xa. Nhưng cũng đáng buồn thay cho con tàu nếu chỉ sinh ra để tiếp nhiên liệu ở các ga, vì như vậy không còn là mục đích của con tàu nữa. Người viết văn cũng vậy. Đi, sống, cuối cùng là để có được những sáng tác tốt. Đó là yêu cầu, cũng là nhiệm vụ. Làng Mai, ngày 20/9/1974 T.B
THU BỒN (1935 – 2003) Tên thật: Hà Đức Trọng Sinh ngày 01 tháng Mười hai 1935 Quê quán: xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Tham gia Thiếu Sinh quân từ năm 12 tuổi, làm liên lạc cho bộ đội và trực tiếp chiến đấu. Trong kháng chiến chống Mỹ, làm phóng viên chiến trường Liên khu 5, sau đó về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 4. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1962). Tác phẩm chính: Bài ca chim Chơ rao (trường ca, 1962); Quê hương mặt trời vàng (trường ca, 1975); Người vắt sữa bầu trời (trường ca 1985); Chớp trắng (tiểu thuyết, 1970); Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết, 1975); Em bé trong rừng thốt nốt (truyện, 1979); Đỉnh núi (tiểu thuyết, 1980); Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (tiểu thuyết, 1986); Vùng pháo sáng (tiểu thuyết, 1986)… Giải thưởng: Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu; Giải thưởng Văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973); Giải thưởng Báo Hà Nội Mới (1969); Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1 năm 2001. CÁI GA NHÂN DÂN CHIẾN ĐẤU VÀ CON TÀU … Tôi đi Bắc Quảng Nam. Đến đỉnh dốc Ô Rây, đồng bằng Quảng Nam hiện ra như một sa bàn. Bán đảo Sơn Trà tím sẫm, cong như yên ngựa. Sông Trường Định xanh lơ, những cánh buồm trắng như thực như mơ. Các nhánh sông lặng lẽ như tráng bạc. Ngay trên đỉnh dốc ấy có nấm mồ của anh hùng Võ Như Hưng – người dũng sĩ Điện Ngọc, người đầu tiên bắt sống 7 tên Mỹ tại Nam Thành (bọn Mỹ bấy giờ mang nhãn hiệu cố vấn). Nấm mộ người anh hùng nằm đây gắn liền với quê hương dưới kia. Hầu hết ấp chiến lược vùng Bắc Quảng Nam đã bị ta phá banh. Tôi tìm đến đơn vị Hưng, gặp Hiền, người đội trưởng bảy dũng sĩ Điện Ngọc. Và trong một đêm tâm sự, Hiền kể cho tôi nghe về Tính, người yêu của anh – cô Xã đội trưởng Điện Hòa, nhà ở bên cạnh chợ Đông Quan gần đường sắt và đồn Bàu Sấu. Câu chuyện tình yêu của Hiền và Tính hay quá. Hiền kể: Tính đào hầm bí mật tóc vướng rễ tre rụng gần hết. Câu chuyện thu hút tôi và kéo chân tôi đến chiếc hầm bí mật có cô Tính người yêu của Hiền. Nửa năm ít thấy mặt trời, đã cho tôi thấy một mặt trời khác: cuộc chiến đấu thầm lặng của những đội công tác và lòng thương yêu đùm bọc của nhân dân đối với “anh lực lượng”. Bài thơ Chiếc hầm bí mật tôi viết ở đây. Còn đương nặng nợ với những chiếc hầm, tôi lại phải ra đi. Xuyên qua những rừng già Kon Tum, Quảng Ngãi, Bình Định tôi về thảo nguyên Gia Lai – quê hương của những bản trường ca nổi tiếng. Tôi đến làng Đepapờlếch. Hàng ngày ở ngoài nhà rẫy với đồng bào, tôi được tiếp xúc với các chiến sĩ vũ trang bí mật. Nhiều mẩu chuyện cảm động và đây là trường hợp thật tốt cho tôi viết bản trường ca Bài ca chim Ch’rao. Đến nay tôi vẫn không thể nào quên được em bé đốt nứa và ngồi giữ lửa cho tôi viết suốt đêm trong chòi rẫy. Củi nứa cháy rất sáng nhưng cũng hay nổ nếu đập chưa dập, thỉnh thoảng tôi lại giật mình vì tiếng nổ. Đặc biệt, than nứa cũng chóng tàn, khi cháy nó biến thành một thứ tơ như lông mèo, làm lụi ngọn lửa, rất khó thổi cho nó cháy bùng trở lại. Trong thời gian ấy tôi cũng cố giữ ngọn lửa cảm hứng của tôi cháy mãi, vì nếu không hoàn thành được bản trường ca vào dịp đó thì suốt đời tôi phải ân hận, vì chẳng còn lúc nào tôi có thể viết lại được. Tháng năm trôi đi, những cái tro lông mèo trong cuộc sống sẽ làm tắt ngọn lửa cảm hứng của tôi. Bản trường ca được hoàn thành, tôi đọc cho bộ đội địa phương Khu 1 nghe, có đồng chí khóc. Còn cô bé có cái tên Hơ Tó ấy chắc đến nay đã thành một thiếu nữ Bana, đôi mắt luôn ngơ ngác và sáng trong nhìn tôi trong cái đêm hôm ấy có bao giờ đọc được bản trường ca tôi viết ra dưới ánh sáng của ngọn lửa trong tay cô không? Tôi cảm thấy bùi ngùi. Cuộc chiến đấu như dòng thác trôi qua, những hình ảnh đó trở lại với tôi như một kỷ niệm ngọt ngào nhưng cũng có khi tôi quên mất. Từ giã Pa Lơn Khơn, một thời gian tôi về lại Quảng Tín. Suốt một đêm lội trong nước lụt, băng qua lộ 1 và ấp chiến lược ngay cổng đồn Bà Dụ, vượt hai con sông, tôi đến xã Kỳ Anh. Nước lụt làm bao nhiêu hầm bí mật và địa đạo bị ngập. Địch lợi dụng trận lụt, càn lớn. Tôi phải nằm trên cạn, quần với chúng suốt ngày, mới thấm thía thế nào là lòng dân, và có lòng dân thì cái công sự ngầm của tôi mới không mất. Anh giao liên dẫn tôi chui qua mấy ấp chiến lược các xã vùng Đông Mỹ để trở về. Người chúng tôi luôn ngập nước tới ngực, thỉnh thoảng anh giao liên quay lại nói thầm với tôi: “Mìn, mìn, vòng chỗ khác”. Sau một đêm mệt nhoài, tôi hỏi: “Anh đi con đường này bao nhiêu lần rồi?” – Chừng hơn trăm lần – Anh đáp. – Trời ơi! Tôi đi mới một đêm mà giờ bị cảm ho và cả người như muốn vắt ra nước, mà sao anh vẫn như không? – Đi hằng trăm lần nên nó không còn gian khổ nữa. – Anh khéo nói – Tôi bảo – Gian khổ là gian khổ chứ có phải quen mà gọi là không gian khổ ác liệt đâu. – Vâng – Anh cười nheo mắt – Đúng là gian khổ là gian khổ, nhưng cái thước đo nó lại là mình. Câu nói của anh làm tôi suy nghĩ mãi về sự tu dưỡng của người viết văn. Anh ở cơ sở, những năm đen tối ngồi hầm bí mật, bọn địch dùng chĩa sắt xăm hầm như săn chuột. Từ khi “đi lực lượng” anh luôn thủ trong người quả lựu đạn và một cây súng tiểu liên K50. Anh trông cho gặp thằng địch là nổ súng như xé vải, tương vào đầu chúng mấy quả lựu đạn cho hả giận. Còn tôi ở Khu với chiếc hầm kèo mang chữ đại thọ trước cửa, đêm yên giấc trên chiếc võng, do đó việc nhìn nhận thằng địch giữa anh và tôi có một khoảng cách. Năm 1965, tôi đi một vòng chín tháng quanh Tây Nguyên. Ngày 5 tháng 6 tôi được dự trận đánh đèo Thanh Bình. Những ngày chuẩn bị tôi được gặp anh hùng Pui Thu và Kơ Pa Kơ Lơng khi ấy còn là cậu thiếu niên. Tôi có ý định viết bản anh hùng ca về người thiếu niên du kích đó nhưng không tài nào viết được. Đến 15 giờ chiều ngày 5 tháng 6 ta nổ súng chặn đánh đoàn xe địch từ Pleiku đi Đức Cơ. Bộ đội xuất kích. Tôi rời chỉ huy sở chạy theo C1 làm nhiệm vụ chặn đầu, tiến ra mặt đường. Những hàng cỏ thẹn cao ngang đầu dính đầy máu. Trời bắt đầu mưa. Một chiếc cầu vồng vắt qua đường 29 kéo dài đến đồn Pi của quân đội vương quốc Campuchia. Khi ấy 29 chiếc trực thăng vũ trang từ Pleiku lên bắn vào trận địa. Các cỡ súng ta từ dưới đất bắn lên, đạn đỏ lừ. Hai chiến sĩ ta cướp được khẩu đại liên địch trên xe, loay hoay mãi không tháo được, vì súng lạ. Tôi nhảy lên xe, và khẩu súng này đối với tôi rất quen thuộc – khẩu Bờrôninh Canada – tôi bắn vào chiếc trực thăng và hăng máu hạ nòng súng xuống bắn luôn bọn bộ binh địch đương cố chạy lên chiếm đồi phía đối diện. Đêm, trận đánh kết thúc, còn đối với tôi bản trường ca Trên đỉnh Chư Pông bắt đầu: Hỡi người lính của miền đau xưa đã đến… Nhưng có một điều tôi day dứt mãi là khung cảnh trời buổi chiều hôm đó, trời bắt đầu mưa và vẫn đầy nắng, ánh cầu vồng ngũ sắc vắt qua ba biên giới và dưới ánh cầu vồng đó những lá cây dọc đường xuất kích đỏ ánh lên – chiếc cầu vồng bằng máu của chiến sĩ ta. Tôi vẫn bất lực chưa phác họa được cái khung cảnh hùng tráng, và từ nay về sau không hiểu tôi có thể làm được gì nữa chăng? Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tôi theo cánh quân đánh vào mặt trận Đà Nẵng. Các cánh quân tiến vào đồng bằng như vũ bão, khí thế hào hùng, tôi lúng túng chưa biết viết gì. Nhưng đến đội đặc công Lê Độ (Đà Nẵng), tôi được biết tin: chị Tính – người yêu của Hiền – dũng sĩ Điện Ngọc, vào hoạt động trong Đà Nẵng bị bọn địch bắn chết. Người tôi nóng ran, và trong một giờ tôi viết xong bài thơ Đà Nẵng gọi ta. Anh Nguyễn Trung Thành( ) lấy bài thơ đến Báo Quảng Đà (bộ phận tiền phương) in thành nhiều bản. Và sau một tiếng đồng hồ bài thơ đã đến tận tay các chiến sĩ đang tiến vào thành phố. … Nhà văn Simonov Liên Xô có lần tâm sự: “Viết về chiến tranh thật khó. Viết về chiến tranh như viết về sự việc hào nhoáng, linh đình và dễ dàng – đó là sự giả dối. Nhưng chỉ viết về những ngày và đêm vất vả, sự bẩn thỉu nhớp nhúa ở chiến hào, về sự lạnh lẽo của những đám tuyết, chỉ viết về cái chết và máu – như vậy cũng là giả dối vì tất cả những cái đó đều có thực, nhưng chỉ viết về những cái đó là quên hết tâm hồn và trái tim dũng cảm của người lính đương chiến đấu trong cuộc chiến tranh đó, quên mất trái tim dũng cảm của người lính trong giờ phút hăng say chiến đấu đã quên hết cảnh đầu rơi máu chảy và chỉ tin vào một cái là thắng lợi chờ đợi ở phía trước”. Đúng như vậy. Người viết phải có tâm hồn vững chắc mới tìm hiểu được thực sự cuộc chiến đấu. Trình độ chính trị là thanh nam châm để hút chất sắt hiện thực ấy. Tôi nghĩ rằng: người viết văn không thể nào như một con tàu mang đủ năng lượng để đi suốt mà không cần tiếp nhiên liệu ở các ga. Những cái ga nhân dân chiến đấu có đầy đủ nhiên liệu cho con tàu đi xa. Nhưng cũng đáng buồn thay cho con tàu nếu chỉ sinh ra để tiếp nhiên liệu ở các ga, vì như vậy không còn là mục đích của con tàu nữa. Người viết văn cũng vậy. Đi, sống, cuối cùng là để có được những sáng tác tốt. Đó là yêu cầu, cũng là nhiệm vụ. Làng Mai, ngày 20/9/1974 T.B
Khu nghỉ dưỡng 5 sao JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay chào hè với “ưu đãi kép“ chưa từng có Đón một mùa du lịch sôi động, JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay – top 6 khu nghỉ dưỡng cao cấp tốt nhất thế giới do tạp chí danh tiếng Travel + Leisure bình chọn- làm nức lòng giới xê dịch với ch ương tr ì nh ưu đãi “Phiếu quà tặng” (Gift Certificate) có giá trị ưu đãi lên đến 50%. Theo đó, khi mua phiếu quà tặng của JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay, bạn sẽ nhận được ưu đãi có giá trị lên đến 50%. Phiếu quà tặng được áp dụng cho các dịch vụ phòng ở, nhà hàng, quán bar và dịch vụ spa. Cụ thể, khi mua phiếu quà tặng 2.100.000 VNĐ, khách hàng sẽ được nhận giá trị quy đổi là 2.835.000 VNĐ. Khi mua phiếu quà tặng 7.000.000 VNĐ, khách được nhận giá trị quy đổi là 10.500.000 VNĐ. Thời hạn mua phiếu quà tặng siêu hấp dẫn này là từ nay đến 30/06/2020, cho thời gian lưu trú từ 01/06/2020 đến hết 31/12/2020. Đặc biệt, bạn còn được hưởng ưu đãi kép, khi có thể dùng phiếu quà tặng song song với các chương trình khuyến mại khác của khu nghỉ dưỡng. Đơn cử, phiếu quà tặng có thể dùng để đặt phòng với giá siêu ưu đãi chỉ từ 5,5 triệu đồng ++/ đêm/phòng tiêu chuẩn cho 2 người lớn và 2 trẻ em, bao gồm bữa sáng mỗi ngày cho 2 người lớn và 2 trẻ em dưới 12 tuổi và voucher dịch vụ ăn uống trị giá 1,1 triệu đồng mỗi ngày, được nâng cấp hạng phòng miễn phí và miễn phí đưa đón tại sân bay quốc tế Phú Quốc. Ưu đãi giá phòng này được áp dụng từ nay cho đến 30/11/2020. Là một trong những tác phẩm tâm đắc nhất của Bill Bensley, kiến trúc sư lừng danh thế giới với óc sáng tạo và những công trình độc đáo, thiết kế đặc sắc cùng những gam màu ấn tượng của khu nghỉ dưỡng JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay khiến du khách không khỏi choáng ngợp và say mê. Tại JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay, các phòng nghỉ đều được sắp xếp tinh tế, nằm sát bên bờ cát trắng và nước biển xanh của đảo ngọc, mang đến cho du khách cảm giác thức dậy mỗi sáng đầy sảng khoái và lấp lánh ánh nắng, đặc biệt với nền nhiệt độ rất dễ chịu – khoảng 32 độ C. Sắc xanh đậm sâu thẳm, xanh chàm dịu mắt, xanh dương tươi tắn và cả xanh ngọc lung linh mang đến một khung cảnh biến ảo của muôn vàn những sắc độ màu xanh hòa quyện với những bãi cát trắng xa ngút tầm mắt, tạo nên một bức tranh biển đẹp diệu kỳ. Không những vậy, đại dương cũng là một nguồn sinh khí tiếp sức cho kì nghỉ của bạn thông qua những môn thể thao dưới nước như ván chèo kayak và yoga, hay những môn thể thao bãi biển để bạn vui chơi cùng bạn bè và gia đình như bóng chuyền và bóng đá trên cát. Những du khách tìm kiếm sự yên bình và tĩnh lặng sẽ ngay lập tức phải lòng những thú vui đơn giản truyền thống: những ngày thư thái tắm mình trong nắng vàng và sự thích thú khi cảm nhận làn nước trong ngần như pha lê mơn man trên da thịt. Và khi mặt trời cuối cùng cũng chịu nghỉ ngơi trên hòn đảo Phú Quốc, ôm trọn biển cả trong hoàng hôn đậm chất thơ, đó cũng sẽ là điểm bắt đầu cho những buổi yoga bên thềm biển, những bữa tối tại một trong những nhà hàng tuyệt hảo nhất hành tinh hay sự thư giãn trong dòng chảy của những nốt nhạc êm đềm tại khu vực spa. Với chuỗi các nhà hàng đẳng cấp, phục vụ những món ăn thượng hạng và hết sức phong phú, JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay là điểm đến ẩm thực không thể bỏ qua khi đến với Phú Quốc. Trong đó, không thể không kể đến nhà hàng “ngọc trai hồng” Pink Pearl- điểm check-in nổi tiếng với không gian nghệ thuật sang chảnh bậc nhất cùng những món ăn thượng hạng đến từ các đầu bếp lừng danh. Bên cạnh Pink Pearl, một thế giới ẩm thực phong phú cũng chào đón du khách tại JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay với nhà hàng Red Rum, nhà hàng Tempus Fugis bên bãi biển lộng gió, thế giới bánh ngọt tại French & Co, hay Chemistry Bar với kiến trúc mô phỏng một khoa hóa học và những ly cocktail tuyệt vời… Còn tại Chanterelle – Spa by JW, khu spa với thiết kế đậm cảm hứng từ câu chuyện thần tiên “Alice ở xứ sở diệu kỳ” và từng được World Travel Awards vinh danh là “Spa hàng đầu thế giới 2017”, bạn sẽ được thư giãn mọi giác quan trong khi tận hưởng những liệu trình tinh tế nhất từ thiên nhiên. Nghỉ dưỡng 5 sao và tận hưởng trọn vẹn các dịch vụ ẩm thực, quầy bar và spa với “ưu đãi nhân đôi” từ JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay mùa hè này, đã đủ lý do để bạn lên đường tới thiên đường đảo ngọc rồi đó.
JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay 5-star resort Welcome summer with an unprecedented "double offer". Welcoming an exciting tourist season, JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay - top 6 best luxury resorts in the world voted by the prestigious Travel + Leisure magazine - delights the traveling world with ch tr Eh nh The "Gift Certificate" offer has a discount value of up to 50%. Accordingly, when purchasing a gift certificate from JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay, you will receive a discount of up to 50%. Gift vouchers are applicable for room services, restaurants, bars and spa services. Specifically, when purchasing a gift voucher of 2,100,000 VND, customers will receive a conversion value of 2,835,000 VND. When purchasing a gift voucher of 7,000,000 VND, customers will receive an exchange value of 10,500,000 VND. The deadline to buy this super attractive gift voucher is from now until June 30, 2020, for stays from June 1, 2020 to December 31, 2020. In particular, you will also enjoy a double discount, when you can use the gift voucher in parallel with other promotional programs of the resort. For example, gift vouchers can be used to book rooms at super preferential prices from only 5.5 million VND ++/night/standard room for 2 adults and 2 children, including daily breakfast for 2 people. adult and 2 children under 12 years old and food service voucher worth 1.1 million VND per day, free room upgrade and free pick-up and drop-off at Phu Quoc international airport. This room rate promotion is applicable from now until November 30, 2020. It is one of the most favorite works of Bill Bensley, a world-famous architect with creativity and unique projects, unique designs and impressive colors of JW Marriott Phu Quoc Emerald resort. Flying makes visitors overwhelmed and fascinated. At JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay, the rooms are delicately arranged, located close to the white sand and blue sea of ​​the pearl island, giving visitors the feeling of waking up every morning refreshed and sparkling with light. sunny, especially with very comfortable temperatures - about 32 degrees Celsius. Deep dark blue, soothing indigo blue, bright blue and even shimmering turquoise bring a virtual scene of countless shades of blue blending with white sand beaches as far as the eye can see, creating a magically beautiful sea painting. Not only that, the ocean is also a source of vitality to fuel your vacation through water sports such as kayaking and yoga, or beach sports for you to have fun with friends and family. popular like volleyball and soccer on the sand. Travelers seeking peace and quiet will immediately fall in love with simple, traditional pleasures: relaxing days basking in the golden sun and the pleasure of feeling the caress of crystal clear water. on flesh. And when the sun finally rests on Phu Quoc island, embracing the sea in a poetic sunset, it will also be the starting point for yoga sessions on the beach, dinners at one of the restaurants. the best products on the planet or relax in the flow of peaceful notes in the spa area. With a chain of high-class restaurants, serving premium and extremely diverse dishes, JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay is a culinary destination not to be missed when coming to Phu Quoc. Among them, it is impossible not to mention the "pink pearl" restaurant Pink Pearl - a famous check-in point with the most luxurious art space and premium dishes from famous chefs. Besides Pink Pearl, a rich culinary world also welcomes visitors at JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay with Red Rum restaurant, Tempus Fugis restaurant by the windy beach, the world of pastries at French & Co, or Chemistry Bar with architecture simulating a chemistry department and great cocktails… And at Chanterelle - Spa by JW, a spa with a design inspired by the fairy tale "Alice in Wonderland" and honored by the World Travel Awards as "World's Leading Spa 2017", you will Relax all senses while enjoying the most exquisite treatments from nature. Enjoy a 5-star resort and fully enjoy the culinary, bar and spa services with the "double offer" from JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay this summer, which is enough reason for you to set out to the pearl island paradise. and that.
Phát triển du lịch bền vững: Không nên đại trà hoá các điểm đến Trước thực trạng tài nguyên du lịch hoặc là bị bỏ phí ở nhiều nơi hoặc là bị tàn phá không thương tiếc, các dự án du lịch được triển khai không theo quy hoạch, thậm chí trái phép, ông Hoàng Nhân Chính, Trưởng ban thư ký Hội đồng tư vấn du lịch TAB đã chia sẻ về vấn đề phát triển du lịch bền vững (PTDLBV), có trách nhiệm với môi trường và xã hội. Ông Hoàng Nhân Chính, Trưởng ban thư ký Hội đồng tư vấn du lịch TAB Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã nhấn mạnh quan điểm PTDLBV. Theo ông, quan điểm này cần được cụ thể hóa bằng hành động như thế nào? Vì du lịch là con dao 2 lưỡi nên luôn luôn có 2 mặt tích cực và tiêu cực đi cùng nhau. Vì thế, khi phát triển du lịch cần đặc biệt chú ý tới du lịch có trách nhiệm, PTDLBV. Trong đó, sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên môi trường và hỗ trợ bảo tồn di sản thiên nhiên, tính đa dạng sinh học. Tôn trọng và bảo vệ tính xác thực của văn hóa xã hội và di sản, tôn trọng các giá trị truyền thống, góp phần tăng thêm sự hiểu biết và tôn trọng với các nền văn hóa khác. Đảm bảo lợi ích kinh tế thiết thực và lâu dài cho tất cả các bên; đảm bảo phân bổ lợi ích kinh tế một cách đồng đều bao gồm cả các dịch vụ xã hội; góp phần xóa đói giảm nghèo. Đồng thời phải dung hòa được lợi ích của cả 4 bên: nhà nước, doanh nghiệp, người dân địa phương và khách du lịch. Cầu Vàng Sun World Ba Na Hills – Tập đoàn Sun Group Việt Nam được đánh giá là giàu tài nguyên để phát triển du lịch nhưng có một nghịch lý là ngồi trên kho vàng đó mà người dân ở nhiều điểm đến vẫn nghèo. Theo ông, nguyên nhân vì sao? Có thể thấy, ở nhiều nơi, chúng ta chưa khai thác được tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa, hoặc là bỏ phí, hoặc là tận thu từ thiên nhiên, khai thác kiểu tàn phá nên ngồi trên mỏ vàng mà vẫn nghèo. Trong khi đó, theo bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh du lịch của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2019, tài nguyên văn hóa và kinh doanh du lịch của Việt Nam được xếp thứ 29, tài nguyên thiên nhiên xếp thứ 35/ 140 quốc gia được xếp hạng. Điều này cho thấy, tài nguyên của chúng ta rất lớn, cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, chỉ có điều chúng ta phải khai thác thế nào thôi. Hiện nay có rất nhiều điểm đến khai thác tài nguyên còn chưa ổn. Phú Quốc ( Kiên Giang ) là một ví dụ điển hình. Phú Quốc có mọi thứ, tài nguyên dồi dào, thu hút nhiều nhà đầu tư, khách du lịch cũng rất muốn đến… Tuy nhiên, điều mà Phú Quốc và nhiều điểm đến hiện nay chưa làm được là xây dựng chiến lược phát triển du lịch. Chiến lược này phải định hướng cả về không gian, thời gian, quy mô… để định hình một “bức tranh” đầy đủ, với sự tham gia của các ngành khác vào phát triển du lịch. Cáp Treo Sunworld Fansipan Legend Trong đó, đặt ra những mục tiêu cụ thể như đón được bao nhiêu khách mỗi năm, bao nhiêu khách quốc tế, bao nhiêu khách nội địa, cần chuẩn bị những gì để phục vụ được từng đó khách, sức chứa của các điểm đến thế nào, marketing ra sao? Sau khi có chiến lược, các ngành phải dựa vào đây để phát triển. Vì nếu cứ làm được chăng hay chớ, phát triển không có định hướng, quy hoạch, có thể có tác động ngược, khách đến sẽ thất vọng, sau đó truyền miệng nhau. Có thể khách đó sẽ không trở lại và tác động cho các khách khác cũng không đến. Có thể thấy rõ, sự phát triển của Du lịch Việt Nam gần đây, từ khi có sự tham gia của các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, đã có nhiều phát triển bứt phá, với tốc độ tăng trưởng thuộc top đầu thế giới. Ông đánh giá như thế nào về vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong sự PTDLBV theo định hướng của NQ 08? Đây là câu hỏi khó, nếu muốn trả lời chính xác phải đến từng điểm đến để nghiên cứu và lắng nghe người dân xem thực sự các dự án du lịch tác động như thế nào đến kinh tế của địa phương và người dân. Nhưng phải nhìn nhận thẳng thắn rằng sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào hoạt động du lịch là rất quan trọng và là điều không thể bỏ qua. Toàn cảnh Sa Pa Nếu không có các nhà đầu tư chiến lược này thì không biết đến bao giờ mới có thể phát triển được. Tuy nhiên, để các nhà đầu tư hiểu cách làm như thế nào để bền vững và có lợi ích thì cần có Bộ tài liệu hướng dẫn để PTDLBV . Các doanh nghiệp khi phát triển đều phải nhìn vào những Bộ tài liệu hướng dẫn đó để thực hiện hoặc các địa phương khi cấp phép cho các dự án cũng phải đối chiếu vào đó để triển khai cho phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương. Các tỉnh cũng cần phải có quy hoạch du lịch đồng thời sáng suốt sự lựa chọn các nhà đầu tư có tâm, có tầm để thực hiện các dự án du lịch, thay vì phát triển du lịch một cách tự phát, manh mún, nhỏ lẻ, có thể làm hại đến tài nguyên mà lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội thu về không được bao nhiêu. Thậm chí, nếu chính quyền và nhà đầu tư không thống nhất được quan điểm PTDLBV, địa phương cần dũng cảm từ chối cấp phép đầu tư. InterContinental Danang Sun Peninsula Resort Hiện nay chúng tôi đang xây dựng Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh Du lịch VN (Vietnam Tourism Competitiveness Index – VTCI), trong đó có những chỉ số nói về sự hài lòng của các doanh nghiệp với sự quản lý của địa phương, sự hài lòng của khách du lịch với điểm đến hoặc sự hài lòng của người dân đối với những dự án du lịch trên địa bàn… Từ đó, giúp địa phương có những đánh giá tổng quát để quản lý và phát triển đúng hướng. Theo ông, trong thời gian tới, Nhà nước và cộng đồng cần có sự nhìn nhận và khuyến khích ra sao để thêm nhiều đơn vị du lịch tâm huyết tham gia phát triển du lịch xanh, bền vững? Như tôi đã phân tích ở trên, vai trò dẫn dắt của cơ quan quản lý nhà nước là rất quan trọng. Do đó, cần xây dựng Bộ công cụ hướng dẫn PTDLBV , nêu rõ thế nào là phát triển bền vững, những gì là bắt buộc thực hiện và những gì khuyến khích thực hiện. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương như thế nào, nhà đầu tư ra sao, người dân và khách du lịch phải làm gì… Khách du lịch cũng phải có trách nhiệm chứ không phải cứ đi phượt xong vứt rác lại điểm đến, không chi tiêu gì… Thế là sai lầm. Ở nước ngoài, các Bộ quy tắc ứng xử thường được xây dựng trên 3 mức độ. Mức độ 1 là bắt buộc thực hiện (ví dụ như ở trong vườn quốc gia cấm được đốt lửa trại); mức độ 2 là cần thiết thực hiện (ví dụ như ở trong vườn quốc gia không được xả rác bừa bãi); mức độ 3 là khuyến khích thực hiện (ví dụ như ở trong vườn quốc gia nên tổ chức du lịch xanh gắn với bảo vệ môi trường). Ở Việt Nam, Bộ Quy tắc ứng xử văn minh du lịch đã được Bộ trưởng Bộ VHTTDL ký ban hành nhưng chỉ là vận động, khuyến khích thực hiện chứ không có bắt buộc. Phố cổ Hội An Hiện nay, có quan điểm cho rằng cần giữ nguyên trạng tài nguyên thiên nhiên và văn hóa để PTDLBV thay vì đầu tư đồng bộ để phát triển. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào? Cần phải nhìn nhận rõ ràng là việc phát triển du lịch mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước, cộng đồng và dân cư. Ngoài việc đem lại giá trị kinh tế, việc phát triển du lịch còn làm cho cộng đồng có ý thức tốt hơn về bảo tồn, nhìn thấy lợi ích từ bảo tồn và có nguồn thu để tái đầu tư cho bảo tồn. Việc phát triển du lịch cũng thu hút các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản và cảnh quan thiên nhiên. Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh Tuy nhiên, nếu phát triển quá tải hoặc phát triển không đúng hướng, thương mại hoá cũng là vấn đề đáng lo ngại. Tôi cho rằng, cần phải hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, bảo tồn để phát triển, phát triển để bảo tồn nhưng không nên đại trà hoá các điểm đến mà cần lựa chọn đối tượng khách, phân khúc thị trường. Sơn Đoòng là một ví dụ cho việc vẫn bảo tồn được điểm đến một cách khá nguyên vẹn, vẫn thu được rất nhiều tiền từ những tour du lịch mạo hiểm cao cấp, đặc sắc và vẫn xây dựng được thương hiệu là một điểm đến đẳng cấp thế giới. Xin cảm ơn ông! BBT
Phát triển du lịch bền vững: Không nên đại trà hoá các điểm đến Trước thực trạng tài nguyên du lịch hoặc là bị bỏ phí ở nhiều nơi hoặc là bị tàn phá không thương tiếc, các dự án du lịch được triển khai không theo quy hoạch, thậm chí trái phép, ông Hoàng Nhân Chính, Trưởng ban thư ký Hội đồng tư vấn du lịch TAB đã chia sẻ về vấn đề phát triển du lịch bền vững (PTDLBV), có trách nhiệm với môi trường và xã hội. Ông Hoàng Nhân Chính, Trưởng ban thư ký Hội đồng tư vấn du lịch TAB Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã nhấn mạnh quan điểm PTDLBV. Theo ông, quan điểm này cần được cụ thể hóa bằng hành động như thế nào? Vì du lịch là con dao 2 lưỡi nên luôn luôn có 2 mặt tích cực và tiêu cực đi cùng nhau. Vì thế, khi phát triển du lịch cần đặc biệt chú ý tới du lịch có trách nhiệm, PTDLBV. Trong đó, sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên môi trường và hỗ trợ bảo tồn di sản thiên nhiên, tính đa dạng sinh học. Tôn trọng và bảo vệ tính xác thực của văn hóa xã hội và di sản, tôn trọng các giá trị truyền thống, góp phần tăng thêm sự hiểu biết và tôn trọng với các nền văn hóa khác. Đảm bảo lợi ích kinh tế thiết thực và lâu dài cho tất cả các bên; đảm bảo phân bổ lợi ích kinh tế một cách đồng đều bao gồm cả các dịch vụ xã hội; góp phần xóa đói giảm nghèo. Đồng thời phải dung hòa được lợi ích của cả 4 bên: nhà nước, doanh nghiệp, người dân địa phương và khách du lịch. Cầu Vàng Sun World Ba Na Hills – Tập đoàn Sun Group Việt Nam được đánh giá là giàu tài nguyên để phát triển du lịch nhưng có một nghịch lý là ngồi trên kho vàng đó mà người dân ở nhiều điểm đến vẫn nghèo. Theo ông, nguyên nhân vì sao? Có thể thấy, ở nhiều nơi, chúng ta chưa khai thác được tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa, hoặc là bỏ phí, hoặc là tận thu từ thiên nhiên, khai thác kiểu tàn phá nên ngồi trên mỏ vàng mà vẫn nghèo. Trong khi đó, theo bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh du lịch của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2019, tài nguyên văn hóa và kinh doanh du lịch của Việt Nam được xếp thứ 29, tài nguyên thiên nhiên xếp thứ 35/ 140 quốc gia được xếp hạng. Điều này cho thấy, tài nguyên của chúng ta rất lớn, cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, chỉ có điều chúng ta phải khai thác thế nào thôi. Hiện nay có rất nhiều điểm đến khai thác tài nguyên còn chưa ổn. Phú Quốc ( Kiên Giang ) là một ví dụ điển hình. Phú Quốc có mọi thứ, tài nguyên dồi dào, thu hút nhiều nhà đầu tư, khách du lịch cũng rất muốn đến… Tuy nhiên, điều mà Phú Quốc và nhiều điểm đến hiện nay chưa làm được là xây dựng chiến lược phát triển du lịch. Chiến lược này phải định hướng cả về không gian, thời gian, quy mô… để định hình một “bức tranh” đầy đủ, với sự tham gia của các ngành khác vào phát triển du lịch. Cáp Treo Sunworld Fansipan Legend Trong đó, đặt ra những mục tiêu cụ thể như đón được bao nhiêu khách mỗi năm, bao nhiêu khách quốc tế, bao nhiêu khách nội địa, cần chuẩn bị những gì để phục vụ được từng đó khách, sức chứa của các điểm đến thế nào, marketing ra sao? Sau khi có chiến lược, các ngành phải dựa vào đây để phát triển. Vì nếu cứ làm được chăng hay chớ, phát triển không có định hướng, quy hoạch, có thể có tác động ngược, khách đến sẽ thất vọng, sau đó truyền miệng nhau. Có thể khách đó sẽ không trở lại và tác động cho các khách khác cũng không đến. Có thể thấy rõ, sự phát triển của Du lịch Việt Nam gần đây, từ khi có sự tham gia của các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, đã có nhiều phát triển bứt phá, với tốc độ tăng trưởng thuộc top đầu thế giới. Ông đánh giá như thế nào về vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong sự PTDLBV theo định hướng của NQ 08? Đây là câu hỏi khó, nếu muốn trả lời chính xác phải đến từng điểm đến để nghiên cứu và lắng nghe người dân xem thực sự các dự án du lịch tác động như thế nào đến kinh tế của địa phương và người dân. Nhưng phải nhìn nhận thẳng thắn rằng sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào hoạt động du lịch là rất quan trọng và là điều không thể bỏ qua. Toàn cảnh Sa Pa Nếu không có các nhà đầu tư chiến lược này thì không biết đến bao giờ mới có thể phát triển được. Tuy nhiên, để các nhà đầu tư hiểu cách làm như thế nào để bền vững và có lợi ích thì cần có Bộ tài liệu hướng dẫn để PTDLBV . Các doanh nghiệp khi phát triển đều phải nhìn vào những Bộ tài liệu hướng dẫn đó để thực hiện hoặc các địa phương khi cấp phép cho các dự án cũng phải đối chiếu vào đó để triển khai cho phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương. Các tỉnh cũng cần phải có quy hoạch du lịch đồng thời sáng suốt sự lựa chọn các nhà đầu tư có tâm, có tầm để thực hiện các dự án du lịch, thay vì phát triển du lịch một cách tự phát, manh mún, nhỏ lẻ, có thể làm hại đến tài nguyên mà lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội thu về không được bao nhiêu. Thậm chí, nếu chính quyền và nhà đầu tư không thống nhất được quan điểm PTDLBV, địa phương cần dũng cảm từ chối cấp phép đầu tư. InterContinental Danang Sun Peninsula Resort Hiện nay chúng tôi đang xây dựng Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh Du lịch VN (Vietnam Tourism Competitiveness Index – VTCI), trong đó có những chỉ số nói về sự hài lòng của các doanh nghiệp với sự quản lý của địa phương, sự hài lòng của khách du lịch với điểm đến hoặc sự hài lòng của người dân đối với những dự án du lịch trên địa bàn… Từ đó, giúp địa phương có những đánh giá tổng quát để quản lý và phát triển đúng hướng. Theo ông, trong thời gian tới, Nhà nước và cộng đồng cần có sự nhìn nhận và khuyến khích ra sao để thêm nhiều đơn vị du lịch tâm huyết tham gia phát triển du lịch xanh, bền vững? Như tôi đã phân tích ở trên, vai trò dẫn dắt của cơ quan quản lý nhà nước là rất quan trọng. Do đó, cần xây dựng Bộ công cụ hướng dẫn PTDLBV , nêu rõ thế nào là phát triển bền vững, những gì là bắt buộc thực hiện và những gì khuyến khích thực hiện. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương như thế nào, nhà đầu tư ra sao, người dân và khách du lịch phải làm gì… Khách du lịch cũng phải có trách nhiệm chứ không phải cứ đi phượt xong vứt rác lại điểm đến, không chi tiêu gì… Thế là sai lầm. Ở nước ngoài, các Bộ quy tắc ứng xử thường được xây dựng trên 3 mức độ. Mức độ 1 là bắt buộc thực hiện (ví dụ như ở trong vườn quốc gia cấm được đốt lửa trại); mức độ 2 là cần thiết thực hiện (ví dụ như ở trong vườn quốc gia không được xả rác bừa bãi); mức độ 3 là khuyến khích thực hiện (ví dụ như ở trong vườn quốc gia nên tổ chức du lịch xanh gắn với bảo vệ môi trường). Ở Việt Nam, Bộ Quy tắc ứng xử văn minh du lịch đã được Bộ trưởng Bộ VHTTDL ký ban hành nhưng chỉ là vận động, khuyến khích thực hiện chứ không có bắt buộc. Phố cổ Hội An Hiện nay, có quan điểm cho rằng cần giữ nguyên trạng tài nguyên thiên nhiên và văn hóa để PTDLBV thay vì đầu tư đồng bộ để phát triển. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào? Cần phải nhìn nhận rõ ràng là việc phát triển du lịch mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước, cộng đồng và dân cư. Ngoài việc đem lại giá trị kinh tế, việc phát triển du lịch còn làm cho cộng đồng có ý thức tốt hơn về bảo tồn, nhìn thấy lợi ích từ bảo tồn và có nguồn thu để tái đầu tư cho bảo tồn. Việc phát triển du lịch cũng thu hút các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản và cảnh quan thiên nhiên. Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh Tuy nhiên, nếu phát triển quá tải hoặc phát triển không đúng hướng, thương mại hoá cũng là vấn đề đáng lo ngại. Tôi cho rằng, cần phải hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, bảo tồn để phát triển, phát triển để bảo tồn nhưng không nên đại trà hoá các điểm đến mà cần lựa chọn đối tượng khách, phân khúc thị trường. Sơn Đoòng là một ví dụ cho việc vẫn bảo tồn được điểm đến một cách khá nguyên vẹn, vẫn thu được rất nhiều tiền từ những tour du lịch mạo hiểm cao cấp, đặc sắc và vẫn xây dựng được thương hiệu là một điểm đến đẳng cấp thế giới. Xin cảm ơn ông! BBT
Khu nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất thế giới tại Đà Nẵng tri ân các chiến sĩ ngành y tế bằng gói ưu đãi đặc biệt Để tri ân đội ngũ y bác sĩ và các nhân viên y tế, những người đã dốc sức, nỗ lực hết mình để bảo vệ sức khỏe cho người dân trước dịch Covid-19, khu nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất thế giới tại Đà Nẵng – InterContinental Danang Sun Peninsula Resort dành tặng “những người hùng trong thời hiện đại” một gói ưu đãi đặc biệt mang tên “Dũng sỹ y tế”. Theo đó, các bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên, điều dưỡng, dược sĩ và nhân viên y tế các bệnh viện trên cả nước sẽ nhận được ưu đãi trải nghiệm nghỉ dưỡng tại InterContinental Danang Sun Peninsula Resort với mức giá chỉ 300 USD++ (tương đương 7.050.000 VNĐ)/ đêm, đã bao gồm bữa sáng và bữa trưa theo kiểu gia đình tại nhà hàng Citron hoặc Barefoot hàng ngày. Ưu đãi này được áp dụng từ giờ cho đến 31/12/2020, và các y bác sĩ, nhân viên y tế chỉ cần xuất trình thẻ nhân viên tại bệnh viện/cơ sở y tế của mình khi đặt phòng/check-in để được hưởng ưu đãi. Chương trình tri ân đặc biệt này chính là lời cảm ơn chân thành từ khu nghỉ dưỡng đẳng cấp InterContinental Danang Sun Peninsula Resort tới các “chiến sĩ” trên mặt trận y tế, những người đã dũng cảm đối mặt với dịch bệnh để bảo vệ sức khỏe của toàn dân, đóng góp hết mình vào thành tựu phòng chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam – một thành tựu khiến thế giới phải nể phục. Với chương trình ưu đãi đặc biệt từ “Khu nghỉ dưỡng sang trọng hàng đầu thế giới” tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng , các y bác sĩ và nhân viên y tế sẽ có một cơ hội tuyệt vời để nghỉ ngơi, thư giãn và tái tạo năng lượng sau một khoảng thời gian dài vất vả dốc hết tâm sức chống dịch. Là một trong những tác phẩm tâm đắc của “ông hoàng resort” Bill Bensley và Tập đoàn Sun Group, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort đem đến vẻ đẹp xa hoa và đẳng cấp trong từng chi tiết. Từng biệt thự, phòng nghỉ tại đây đều mang ấn tượng độc đáo riêng với kiến trúc và nội thất đầy tinh tế, cùng không gian mở ngắm trọn ra bãi biển Sơn Trà Được giải thưởng uy tín World Travel Awards vinh danh là “khu nghỉ dưỡng thân thiện với môi trường nhất thế giới 2018”, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort cũng là nơi du khách có thể hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp, ngắm những chú voọc chà vá chân nâu chuyền cành, tận hưởng bầu không khí trong lành của nơi giao thoa giữa núi và biển. InterContinental Danang Sun Peninsula cũng là khu nghỉ dưỡng của những dịch vụ đẳng cấp và xa xỉ bậc nhất thế giới. Đến đây không thể bỏ qua trải nghiệm ẩm thực đỉnh cao với tay nghề của bếp trưởng ba sao Michelin tại La Maison 1888 – “Nhà hàng Fine Dining sang trọng nhất thế giới”, hay thư giãn và tái tạo năng lượng với những gói liệu pháp từ thiên nhiên và y học cổ truyền châu Á tại Harnn Heritage Spa – “Spa tốt nhất thế giới năm 2017” do World Spa Awards trao tặng. Để đăng ký gói ưu đãi tri ân đặc biệt của InterContinental Danang Sun Peninsula Resort, các y bác sĩ, nhân viên y tế của các bệnh viện và cơ sở y tế vui lòng liên hệ trực tiếp với bộ phận chăm sóc khách hàng của khu nghỉ dưỡng qua số điện thoại +84 236 393 8888 hoặc email và hỏi về chương trình “Dũng sĩ y tế”.
The world's most luxurious resort in Da Nang show gratitude to medical soldiers with a special incentive package To express gratitude to the team of doctors and medical staff who have devoted their best efforts to protect people's health against the Covid-19 epidemic, the world's most luxurious resort in Da Nang Danang – InterContinental Danang Sun Peninsula Resort offers "heroes in modern times" a special package called "Medical Heroes". Accordingly, doctors, nurses, technicians, nurses, pharmacists and medical staff of hospitals across the country will receive preferential resort experiences at InterContinental Danang Sun Peninsula Resort for only 300 VND. USD++ (equivalent to 7,050,000 VND)/night, including family-style breakfast and lunch at Citron or Barefoot restaurant daily. This offer is applicable from now until December 31, 2020, and doctors and medical staff only need to present their employee card at the hospital/medical facility when booking/check-in. to enjoy incentives. This special gratitude program is a sincere thank you from the classy resort InterContinental Danang Sun Peninsula Resort to the "soldiers" on the medical front, who have bravely faced the epidemic to protect health of the entire population, contributing wholeheartedly to Vietnam's achievements in COVID-19 epidemic prevention - an achievement that makes the world admire. With a special promotion program from "The world's leading luxury resort" at Son Tra peninsula, Danang , doctors and medical staff will have a great opportunity to rest, relax and regenerate energy after a long period of hard work and dedication to fighting the epidemic. As one of the favorite works of "resort king" Bill Bensley and Sun Group, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort brings luxurious beauty and class in every detail. Each villa and room here has its own unique impression with sophisticated architecture and interior, and open space with a full view of Son Tra beach. Honored as "the most environmentally friendly resort in the world 2018" by the prestigious World Travel Awards, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort is also a place where visitors can immerse themselves in beautiful nature and watch langurs. The brown-shanked Douc swings through the branches, enjoying the fresh air of the intersection between mountains and sea. InterContinental Danang Sun Peninsula is also a resort with the most classy and luxurious services in the world. Coming here, you cannot miss the ultimate culinary experience with the skills of the Michelin three-star chef at La Maison 1888 - "The most luxurious Fine Dining restaurant in the world", or relax and regenerate energy with herbal packages. Natural remedies and traditional Asian medicine at Harnn Heritage Spa - "Best Spa in the world 2017" awarded by World Spa Awards. To register for InterContinental Danang Sun Peninsula Resort's special gratitude package, doctors and medical staff of hospitals and medical facilities please contact the area's customer care department directly. resort via phone number +84 236 393 8888 or email and asked about the "Medical Heroes" program.
Vô vàn ưu đãi, cảnh sắc đẹp thần sầu, không đi Sa Pa bây giờ thì tiếc lắm Cảnh sắc đẹp thần sầu, khí hậu luôn mát lịm giữa mùa hè đổ lửa, Sa Pa tiếp tục đứng top những điểm nghỉ dưỡng hot hit hè năm nay với một loạt chương trình ưu đãi cực kỳ hấp dẫn dành cho du khách. Thậm chí, nếu từ Sa Pa đi cáp treo lên đỉnh Fansipan lúc này, nhiều du khách còn đem theo áo khoác mỏng cho khỏi lạnh. Cảnh tượng áo len chen áo khoác ngay giữa mùa hè đã trở thành hình ảnh vừa kỳ lạ, vừa thân quen của vùng đất này. Không chỉ có khí hậu mát mẻ, cảnh sắc mùa hè của Sa Pa cũng khó nơi nào sánh được. Cứ mỗi dịp tháng 5 về là Sa Pa lại chào hè bằng một mùa hoa rực rỡ. Nào là hồng cổ, hồng leo tưng bừng đua nở tạo nên những suối hoa, thác hoa đỏ thắm phủ kín những cánh cổng, đổ tràn trên những bờ rào, những phiến đá dọc theo đường tàu hoả leo núi Mường Hoa, đẹp đến ngây ngất. Nào là triền hoa tím ngọt ngào, bồng bềnh như một dải mây tím lãng mạn ôm lấy núi rừng tại khu du lịch Sun World Fansipan Legend. Sa Pa từ lâu đã trở thành thánh địa sống ảo của những tín đồ xê dịch mỗi khi hè về, một điểm đến bảo chứng cho những bức ảnh như hack like trên Facebook. Đây cũng là thời điểm duy nhất trong năm du khách có cơ hội được ngắm ruộng bậc thang mùa nước đổ tại thành phố ngàn mây. Từ trên cáp treo Fansipan nhìn xuống, thung lũng Mường Hoa lúc này giống như được ghép bởi hàng nghìn mảnh gương nhỏ lấp lánh, phản chiếu những mảnh trời xanh ngắt, một trải nghiệm khó quên dành cho mọi du khách. Chính vì thế mỗi mùa hè, du khách từ khắp nơi lại đổ về Sa Pa trốn nóng và tận hưởng vẻ đẹp vi diệu của thiên nhiên. Tuy nhiên, mùa hè năm nay còn đặc biệt hơn nữa khi Sa Pa đang ‘chiêu đãi” du khách một chiến dịch kích cầu giảm giá “khủng” lên tới 60% từ gần 70 doanh nghiệp du lịch, trong đó phải kể đến combo cực hời của khách sạn 5 sao xịn xò nhất Sa Pa – Hotel De la Coupole, MGallery. Với mức giá chỉ từ 2.950k/đêm, tặng miễn phí vé tàu hỏa leo núi Mường Hoa (100k) và cáp treo Fansipan (trị giá 750k), du khách sẽ được trải nghiệm đẳng cấp và dịch vụ của khách sạn 5 sao chuẩn quốc tế duy nhất tại Sa Pa hiện nay – một điểm check-in yêu thích của các ngôi sao và hội rich kids. Được thiết kế bởi top 5 kiến trúc sư lừng danh thế giới Bill Bensley và vận hành bởi tập đoàn Accor danh tiếng, Hotel De la Coupole, MGallery là sự hòa quyện của sắc màu dân tộc vùng cao Tây Bắc với phong cách Pháp thượng lưu và sở hữu những dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế. Khách sạn được biết đến như một điểm check in siêu sang chảnh với hồ bơi nước nóng đẹp như những cung điện cổ của Pháp, quầy bar ngoài trời sành điệu với những ly cocktail hảo hạng, hay quán café phục vụ món bánh ngọt Pháp đẹp mắt và chuẩn vị. Từ ô cửa phòng khách sạn, du khách cũng sẽ thu trọn trong tầm mắt vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Sa Pa với thung lũng Mường Hoa hùng vĩ, quảng trường trung tâm thị trấn hay những cánh đồng ruộng bậc thang trải dài miên man theo triền núi. Có thể nói, trải nghiệm nghỉ dưỡng 5 sao tại Sa Pa chưa bao giờ dễ dàng đến thế. Bên cạnh đó, khi đi cáp treo lên đỉnh Fansipan để bái Phật cầu an hay chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vỹ của núi rừng Hoàng Liên, du khách cũng sẽ được khu du lịch Sun World Fansipan Legend giảm ngay 250k cho mỗi vé cáp treo, chỉ còn 500k/vé. Nếu là người dân từ các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc, giá cáp treo còn giảm sâu tới 60%, chỉ còn 350k cho người lớn và trẻ em trên 1.4m và 200k cho trẻ nhỏ dưới 1.4m, miễn phí cho trẻ em dưới 1m. Đi rẻ, ở rẻ, ăn chơi cũng rẻ nốt, chiến dịch kích cầu du lịch chưa từng có đã mang tới cơ hội trải nghiệm Sa Pa với mức giá hấp dẫn nhất từ trước tới giờ. Vậy còn chần chừ gì nữa mà không xách balo lên để được trải nghiệm một mùa hè tuyệt nhất?
Countless incentives, beautiful scenery, it would be a pity not to go to Sa Pa now With breathtakingly beautiful scenery and a cool climate in the midst of a fiery summer, Sa Pa continues to rank among the top hot summer resort destinations this year with a series of extremely attractive incentive programs for tourists. Even if from Sa Pa take the cable car to Fansipan peak at this time, many tourists still bring thin coats to avoid the cold. The sight of sweaters tucked into coats in the middle of summer has become both a strange and familiar image of this land. Not only has the cool climate, Sa Pa's summer scenery is also difficult to compare anywhere else. Every May, Sa Pa welcomes summer with a brilliant flower season. There are ancient roses and climbing roses blooming jubilantly, creating streams of flowers, waterfalls of crimson flowers covering the gates, spilling over the fences and rocks along the Muong Hoa mountain railway, breathtakingly beautiful. faint. This is the sweet purple flower slope, floating like a strip of romantic purple clouds embracing the mountains and forests at Sun World Fansipan Legend tourist area. Sa Pa has long become a virtual living mecca for travelers every summer, a destination that guarantees photos like hacked likes on Facebook. This is also the only time of year when visitors have the opportunity to see terraced fields in the rainy season in the city of clouds. Looking down from the Fansipan cable car, Muong Hoa valley now seems to be composed of thousands of small sparkling mirrors, reflecting pieces of blue sky, an unforgettable experience for all visitors. That's why every summer, tourists from all over flock to Sa Pa to escape the heat and enjoy the magical beauty of nature. However, this summer is even more special when Sa Pa is "treating" tourists with a "huge" stimulus campaign with discounts of up to 60% from nearly 70 tourism businesses, including combos. Super bargain of the best 5-star hotel in Sa Pa - Hotel De la Coupole, MGallery. With prices from only 2,950k/night, free tickets for the Muong Hoa mountain train (100k) and Fansipan cable car (worth 750k), visitors will experience the class and service of a standard 5-star hotel. The only international destination in Sa Pa today - a favorite check-in point for stars and rich kids. Designed by top 5 world-famous architects Bill Bensley and operated by the famous Accor group, Hotel De la Coupole, MGallery is a blend of ethnic colors of the Northwest highlands with upscale French style. and owns international standard services. The hotel is known as a super luxurious check-in point with a heated swimming pool as beautiful as ancient French palaces, a stylish outdoor bar with premium cocktails, or a cafe serving beautiful French pastries. eyes and taste. From the hotel room doorway, visitors will also be able to take in the stunning beauty of Sa Pa's nature with the majestic Muong Hoa valley, the town center square or the endless terraced fields. along the mountain slope. It can be said that experiencing a 5-star resort in Sa Pa has never been easier. Besides, when taking the cable car to the top of Fansipan to worship Buddha and pray for peace or admire the majestic beauty of Hoang Lien mountains and forests, visitors will also receive an immediate discount of 250k from Sun World Fansipan Legend tourist area for each cable car ticket. Only 500k/ticket left. If you are a resident from the Northwest provinces, the cable car price is reduced by up to 60%, only 350k for adults and children over 1.4m and 200k for children under 1.4m, free for children under 1m . Cheap travel, cheap accommodation, cheap entertainment, the unprecedented tourism stimulus campaign has brought the opportunity to experience Sa Pa at the most attractive prices ever. So why hesitate any longer, pack your backpack and experience the best summer?
Giảm giá vé cáp treo Bà Đen, thỏa sức chinh phục nóc nhà Nam Bộ Sở hữu quần thể điện, miếu, chùa tháp linh thiêng giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Núi Bà trở thành điểm đến ấn tượng bậc nhất trên hành trình khám phá miền đất Tây Ninh tươi đẹp, trù phú. Với mỗi người dân Nam Bộ, Tây Ninh là miền đất của linh thiêng, của niềm tin tín ngưỡng. Miền đất ấy gắn liền với đỉnh Núi Bà Đen, với Chùa Bà- ngôi chùa cổ xưa nhất ở Tây Ninh nằm bên triền núi với 300 năm tuổi đời và nhiều huyền tích kỳ lạ. Tại chùa còn lưu giữ hai cột đá xanh được tạc từ đầu thế kỷ 20 ở tiền đường, mỗi cột cao 4,5m, đường kính 0,45m, chạm hình rồng uốn lượn độc đáo. Chính điện rộng hơn 200 m2 với nhiều cột kèo, gian thờ sơn son thếp vàng, tượng Phật Thích Ca cao 2,5m, hai bên là các tượng Bồ Tát, Thập Bát La Hán uy nghiêm. Nơi thờ tự chính của chùa là hang đá nhỏ có bức tượng Ngọc Linh Sơn Thánh Mẫu nặng 240 kg được điêu khắc tinh xảo. Chùa Bà Đen nổi tiếng là ngôi chùa linh thiêng và huyền bí trong quần thể chùa chiền, miếu mạo tại Núi Bà từ rất lâu đời, được người dân Tây Ninh coi như một điểm tựa vững chãi về tâm linh. Tương truyền, khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, đã chạy đến núi Bà Đen lẩn tránh. Quân lính đói lả, chúa Nguyễn Ánh đã cầu khẩn xin giúp đỡ. Đêm đó, Bà Đen xuất hiện trong mộng chỉ cho Chúa loại trái cây trên núi có thể cứu đói binh sĩ. Năm 1790, Nguyễn Ánh đưa binh lính quay lại núi đúc tượng, cất điện thờ Bà Đen và phong thánh là Linh Sơn Thánh Mẫu. Cứ vào rằm tháng Giêng âm lịch hay lễ Vía Bà diễn ra vào mùng 4,5,6 tháng 5 âm lịch, hàng trăm ngàn du khách lại tìm đến núi Bà Đen để chiêm bái, cầu an, mong muốn được phát tài, phát duyên. Từ đầu năm 2020, hành trình khám phá Núi Bà Đen trở nên thuận lợi và hấp dẫn hơn với hệ thống cáp treo hiện đại của KDL Sun World BaDen Mountain do tập đoàn Sun Group đầu tư với 2 tuyến cáp lên Chùa Bà và lên đỉnh núi. Tuyến cáp treo dẫn lên Chùa Bà Đen có thời gian di chuyển khoảng 6 phút và công suất vận chuyển tăng gấp 2 lần so với tuyến cáp cũ, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu lên tham quan, lễ Bà của du khách. Cáp hoạt động từ 7h-19h15 từ thứ Hai đến thứ Bảy và Chủ nhật từ 6h-19h15, giá vé với người lớn và trẻ cao trên 1,4m là 200k/vé khứ hồi, 110k/vé 1 chiều, giá vé cho trẻ em từ 1-1,4m là 100k/vé khứ hồi và 60k/vé 1 chiều, miễn phí trẻ dưới 1m. Cùng đó là tuyến cáp Vân Sơn dẫn thẳng lên đỉnh núi Bà Đen, với thời gian di chuyển chỉ 8 phút, công suất lên tới 4.400 người/giờ, thay cho việc phải leo bộ khoảng 2-4 giờ theo đường núi hiểm trở để chinh phục “nóc nhà Nam Bộ” như trước đây. Với sự thay đổi lớn này, du khách có thể dễ dàng chạm tay đỉnh núi cao nhất miền Nam, chiêm ngưỡng biển mây bồng bềnh, hồ Dầu Tiếng thơ mộng và cả vùng đồng bằng trù phú mở ra ngút tầm mắt. Đặc biệt trong thời gian này, Sun World BaDen Mountain áp dụng chương trình giảm giá chỉ còn 150k/vé khứ hồi cho người lớn và trẻ em cao trên 1.4m, 80k/vé khứ hồi cho trẻ em từ 1m-1.4m (thay cho mức giá cũ 200k và 100k), miễn phí cho trẻ em dưới 1m. Chương trình áp dụng đến 23/6/2020. Tuyến cáp Vân Sơn hoạt động từ 7h-17h15 hàng ngày.
Discount Ba Den cable car tickets, freely conquer the roof of the Southern region Possessing a complex of sacred temples, shrines, pagodas and towers amidst beautiful nature, Nui Ba has become the most impressive destination on the journey to explore the beautiful and rich land of Tay Ninh. For every Southerner, Tay Ninh is a land of sacredness and belief. That land is attached to the top of Ba Den Mountain, with Ba Pagoda - the oldest pagoda in the area Tay Ninh Located on the mountainside with 300 years of age and many strange legends. At the pagoda, there are still two green stone columns carved in the early 20th century in the front hall, each 4.5m high, 0.45m in diameter, carved with a unique curving dragon shape. The main hall is more than 200 square meters wide with many pillars, a gilded altar room, a 2.5m high Shakyamuni Buddha statue, on both sides are majestic statues of Bodhisattvas and Eighteen Arhats. The main place of worship of the pagoda is a small cave with a delicately sculpted statue of Ngoc Linh Son Thanh Mau weighing 240 kg. Ba Den Pagoda is famous for being a sacred and mysterious temple in the complex of temples and shrines at Nui Ba for a long time, considered by Tay Ninh people as a strong spiritual fulcrum. Legend has it that when Lord Nguyen Anh was chased by the Tay Son army, he ran to Ba Den Mountain to hide. The soldiers were starving, Lord Nguyen Anh pleaded for help. That night, the Black Lady appeared in a dream and showed God the fruit on the mountain that could save the hungry soldiers. In 1790, Nguyen Anh brought soldiers back to the mountain to cast statues, build a shrine to worship Ba Den and canonize her as Linh Son Thanh Mau. Every full moon day of the first lunar month or the Via Ba festival, which takes place on the 4th, 5th, and 6th day of the 5th lunar month, hundreds of thousands of tourists come to Ba Den Mountain to worship, pray for peace, and wish for prosperity and prosperity. fate. From the beginning of 2020, the journey to explore Ba Den Mountain becomes more convenient and attractive with the modern cable car system of Sun World BaDen Mountain Resort invested by Sun Group with 2 cable lines to Ba Pagoda and to the top. mountain. The cable car route leading to Ba Den Pagoda has a travel time of about 6 minutes and the transportation capacity is doubled compared to the old cable line, quickly meeting the needs of tourists to visit and worship Ba Den. The cable operates from 7:00 a.m. to 7:15 p.m. from Monday to Saturday and Sunday from 6:00 a.m. to 7:15 p.m., ticket price for adults and children over 1.4m tall is 200k/round-trip ticket, 110k/one-way ticket, ticket price for children Children from 1-1.4m are 100k/round-trip ticket and 60k/one-way ticket, free for children under 1m. Along with that is the Van Son cable line leading straight to the top of Ba Den mountain, with a travel time of only 8 minutes, a capacity of up to 4,400 people/hour, instead of having to climb about 2-4 hours along the dangerous mountain road to get there. conquer the "roof of the South" like before. With this big change, visitors can easily touch the highest mountain peak in the South, admire the sea of ​​floating clouds, the poetic Dau Tieng Lake and the rich plains that open up as far as the eye can see. Especially during this time, Sun World BaDen Mountain applies a discount program of only 150k/round-trip ticket for adults and children over 1.4m tall, 80k/round-trip ticket for children from 1m-1.4m (instead of for old prices 200k and 100k), free for children under 1m. The program applies until June 23, 2020. Van Son cable route operates from 7:00 a.m. to 5:15 p.m. daily.
Giá vé cáp treo đang giảm tới 60% cho du khách miền Trung Tây Nguyên tới tận 31/5 này, dại gì mà không đi Bà Nà Hills. Có cả ngàn trải nghiệm đang mời gọi ở chốn ấy, nhưng nhớ ghi vào checklist của bạn những điểm check-in dưới đây, để tuyệt đối không nên vì mải mê chơi mà bỏ lỡ đấy nhé. Bay cùng cáp treo, ngắm rừng già nguyên sơ đẹp lịm tim Sở hữu hệ thống cáp treo được World Travel Awards bình chọn là hệ thống cáp treo hàng đầu thế giới, Sun World Ba Na Hills đưa bạn vào hành trình khám phá núi rừng nguyên sinh Bà Nà theo một cách thực sự khác biệt. Từ trong cabin với lớp kính trong suốt, bạn sẽ bất ngờ trước những cụm thác nhỏ, những gốc cây cổ thụ đẹp kì lạ, từng chùm hoa rừng bừng nở tinh khôi, hay bầy chim ùa vào mây từ trong tán lá. Biển mây bềnh bồng, hoàng hôn đỏ tràn lên khắp không gian hay toàn cảnh Núi Chúa đẹp kì vĩ là những “thước phim” độc đáo, chân thật mỗi lần mỗi khác mà cáp treo Bà Nà mang đến cho bạn, hơn cả một phương tiện di chuyển. Cáp treo mở cửa từ 7h đến 20h hàng ngày, hiện đang áp dụng giảm giá 60% cho người dân 19 tỉnh miền Trung Tây Nguyên đến hết 31/5/2020. Bạn có thể mua vé trực tiếp tại quầy, hoặc mua vé trực tuyến tại Để địa chỉ mua vé online là ticket.sunworld.vn . Dạo chơi Cầu Vàng trứ danh Tiếp tục lọt vào danh sách những cây cầu ngoạn mục nhất thế giới theo bình chọn của trang tin Insider (Mỹ), Cầu Vàng như dải lụa óng ả được nâng niu bởi đôi bàn tay rêu phong, vắt ngang qua núi mây hùng vĩ của núi Chúa. Những ngày nhiều mây hoặc khi hoàng hôn xuống, đứng trên cây cầu ánh vàng giữa không trung bồng bềnh mây trắng, bạn sẽ được thưởng ngoạn một khung cảnh thiên nhiên vô cùng vi diệu. Thời gian này, khi lượng khách thưa hơn sau dịch cũng là thời điểm lý tưởng để tận hưởng Cầu Vàng không quá đông đúc như những khi cao điểm trong năm. Lạc bước giữa “Châu Âu thu nhỏ” Chưa bao giờ ngừng quyến rũ, Làng Pháp tại Sun World Ba Na Hills với lối kiến trúc Pháp đặc trưng sẽ mang tới cho bạn cảm giác như đang được dạo chơi trong lòng Châu Âu cổ kính, xinh đẹp. Hãy nhẹ bước giữa quảng trường Du Dôme tràn nắng, uống một ly cafe ngắm những ban công rộ nở hoa kiểu châu Âu, chiêm ngưỡng những khung cửa lấp lánh đủ sắc màu trong thánh đường St. Denis… Hoặc đơn giản chỉ là tản bộ trên những “con phố” vắng lát đá đặc trưng châu Âu thế này, cảm nhận sự yên bình của một xứ sở xa xôi đang thật gần, xâm chiếm tâm hồn, phủ lên cơ thể một niềm hân hoan kì lạ. Khám phá xứ sở muôn hoa Hội tụ 9 khu vườn nhỏ với 9 phong cách kiến trúc độc đáo khác nhau, Vườn Hoa Le Jardin D’Amour là một thế giới nên thơ và ngập tràn hương sắc. Nơi đây còn có những tiểu cảnh độc đáo khiến bạn thích thú và là địa điểm chụp ảnh cực kỳ lý tưởng. Không chỉ có Le Jardin D’Amour, vườn hồng cực kỳ đặc biệt tại khu vườn Morin với vô vàn khóm hồng đủ loại, gồm cả những giống hồng nhập ngoại quý và đẹp lạ sẽ khiến bạn “ngây ngất” trong sắc hương. Con đường hoa hồng này cũng đang là điểm check-in rất “hot” của giới trẻ Đà thành. An nhiên giữa miền tâm linh Với không gian thiền tịnh xanh mướt, cụm công trình tâm linh linh thiêng tĩnh lặng nằm nép giữa rừng già là nơi mang tới cho du khách niềm an lạc trong tâm hồn. Đây cũng là nơi đầu tiên ta có thể nhìn thấy bình minh, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi biển mây bồng. Quần thể gồm nhiều công trình tâm linh như Chùa Linh Ứng – một trong ba ngôi chùa thiêng của Đà Nẵng, Đền Lĩnh Chúa Linh Từ, Linh Phong Bảo Tháp, Linh Phong Thiền Tự, Miếu Bà,… được đông đảo người dân và du khách thập phương tìm về cầu bình an khi tới Bà Nà. Sau những ngày dài chôn chân vì dịch bệnh, khi chương trình kích cầu du lịch dành cho 19 tỉnh thành miền Trung Tây Nguyên được áp dụng, du khách đã háo hức trở lại với điểm đến nổi tiếng bậc nhất cả nước này. Và với hết thảy những du khách tới đây, Bà Nà là điểm đến khiến người ta càng đi càng đam mê. Chương trình kích cầu “Miền Trung- Tây Nguyên chờ chi, Bà Nà ngay đi” giảm giá vé cáp treo tới 60% cho du khách thuộc 19 tỉnh Miền Trung Tây Nguyên. Vé cáp treo dành cho người lớn chỉ còn 300.000 đồng, vé cho trẻ em là 200.000 đồng, miễn phí cho trẻ em có chiều cao dưới 1m. Áp dụng đến hết 31/5/2020 cho du khách thuộc 14 tỉnh, thành phố Miền Trung gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và 5 tỉnh Tây Nguyên gồm Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Bên cạnh đó, từ ngày 15/5-15/7, Bà Nà Hills tiếp tục chương trình kích cầu thứ hai mang tên “Yêu Việt Nam, Du lịch Việt Nam” với ưu đãi đặc biệt “mua vé cáp treo tặng vé buffet”. Cụ thể, người lớn mua vé cáp treo trị giá 750.000 đồng sẽ được tặng 1 suất buffet trưa trị giá 255.000 đồng, trẻ em từ 1m-1m4 mua vé cáp treo trị giá 600.000 đồng sẽ được tặng 1 suất buffet trưa trị giá 128.000 đồng; trẻ em dưới 1m được miễn phí toàn bộ.
Cable car ticket prices are reduced by up to 60% for tourists in the Central Highlands until May 31, so why not go to Ba Na Hills. There are thousands of experiences inviting in that place, but remember to write down the check-in points below on your checklist, so you absolutely don't miss them because you're engrossed in playing. Fly on the cable car and see the breathtakingly beautiful pristine jungle Possessing a cable car system voted by World Travel Awards as the world's leading cable car system, Sun World Ba Na Hills takes you on a journey to explore Ba Na's primeval mountains and forests in a truly different way. From inside the cabin with transparent glass, you will be surprised by clusters of small waterfalls, strangely beautiful old trees, bunches of pristine wild flowers blooming, or flocks of birds rushing into the clouds from within the foliage. The sea of ​​floating clouds, the red sunset filling the space, or the panoramic view of the majestic Nui Chua Mountain are unique and truthful "movies" that Ba Na cable car brings to you each time, more than just a way to convenient to move. The cable car is open from 7:00 a.m. to 8:00 p.m. daily, currently applying a 60% discount for people in 19 provinces in the Central Highlands until May 31, 2020. You can buy tickets directly at the counter, or buy tickets online at the address to buy tickets online: ticket.sunworld.vn. Stroll around the famous Golden Bridge Continuing to be on the list of the most spectacular bridges in the world as voted by the news site Insider (USA), the Golden Bridge is like a shiny silk strip cherished by mossy hands, crossing the majestic cloud mountains of Vietnam. God Mountain. On cloudy days or at sunset, standing on the golden bridge in the middle of white clouds floating in the air, you will enjoy an extremely magical natural scene. This time, when the number of visitors is less after the epidemic, is also the ideal time to enjoy the Golden Bridge, which is not as crowded as during peak times of the year. Lost in "Miniature Europe" Never ending its charm, the French Village at Sun World Ba Na Hills with its typical French architecture will make you feel like you are walking in the heart of ancient, beautiful Europe. Take a light step in the sunny Du Dôme square, drink a cup of coffee and admire the blooming European-style balconies, admire the colorful sparkling windows in St. Denis… Or simply stroll on these typical European stone-paved "streets", feeling the peace of a far away country coming so close, invading the soul, covering the body with joy. strange joy. Explore the land of flowers Converging 9 small gardens with 9 different unique architectural styles, Le Jardin D'Amour Flower Garden is a poetic world filled with fragrance. This place also has unique landscapes that will make you excited and is an extremely ideal location for taking photos. Not only Le Jardin D'Amour, the extremely special rose garden at Morin garden with countless rose bushes of all kinds, including rare and beautiful imported rose varieties that will make you "ecstatic" with their fragrance. This rose road is also a very "hot" check-in point for Da Thanh youth. Peaceful in the spiritual realm With a lush green meditation space, the cluster of quiet sacred spiritual works nestled in the middle of the jungle is a place that brings visitors peace of mind. This is also the first place where we can see the dawn, when the sun just rises from the sea of ​​clouds. The complex includes many spiritual works such as Linh Ung Pagoda - one of the three sacred pagodas of Da Nang, Linh Chua Linh Tu Temple, Linh Phong Bao Thap, Linh Phong Thien Tu, Ba Temple,... are popular with many people and tourists. Visitors from all over come to pray for peace when coming to Ba Na. After long days of being stuck due to the epidemic, when the tourism stimulus program for 19 provinces and cities in the Central Highlands was applied, tourists were eager to return to this most famous destination in the country. And for all the tourists who come here, Ba Na is a destination that makes people more passionate the more they go. The stimulus program "Central - Central Highlands, don't wait, go to Ba Na now" reduces cable car ticket prices by up to 60% for tourists from 19 Central Highlands provinces. Cable car tickets for adults are only 300,000 VND, tickets for children are 200,000 VND, free for children under 1m in height. Applicable until May 31, 2020 for tourists from 14 provinces and cities in the Central region including Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh, Quang Binh, Quang Tri, Thua Thien Hue, Da Nang, Quang Nam, Quang Ngai, Binh Dinh, Phu Yen, Khanh Hoa, Ninh Thuan, Binh Thuan and 5 Central Highlands provinces including Kon Tum, Gia Lai, Dak Lak, Dak Nong and Lam Dong. In addition, from May 15 to July 15, Ba Na Hills continues the second stimulus program called "Love Vietnam, Travel Vietnam" with a special offer "buy cable car tickets and get free buffet tickets." ”. Specifically, adults who buy a cable car ticket worth 750,000 VND will be given a buffet lunch worth 255,000 VND, children from 1m-1m4 who buy a cable car ticket worth 600,000 VND will be given a buffet lunch worth 128,000 VND ; Children under 1 meter are completely free.
Liên tiếp tung hai chương trình kích cầu quy mô, Bà Nà Hills khơi gợi tình yêu đất nước trong du khách Nhằm tăng cường kích cầu du lịch nội địa trên quy mô toàn quốc, khu du lịch đẳng cấp nhất miền Trung Sun World Ba Na Hills vừa tiếp tục tung chương trình kích cầu khuyến mãi thứ 2 kể từ khi chính thức đón khách trở lại sau thời gian giãn cách xã hội vì đại dịch Covid-19. Theo đó, Công viên chủ đề hàng đầu Việt Nam Sun World Ba Na Hills sẽ triển khai chương trình kích cầu “Yêu Việt Nam, Du lịch Việt Nam” trên quy mô toàn quốc từ ngày 15/5 – 15/7 với ưu đãi hấp dẫn: tặng vé buffet trưa dành cho du khách mua vé cáp treo du ngoạn Bà Nà. Sun World Ba Na Hills ngày đầu mở cửa Cụ thể, khi mua vé cáp treo dành cho người lớn với mức giá 750.000 VNĐ, du khách sẽ được tặng ngay vé buffet trưa trị giá 255.000 VNĐ, mua vé cho trẻ em từ 1-1,4m với giá 600.000 VND sẽ được tặng vé buffet trưa trị giá 128.000 VNĐ. Trẻ dưới 1m sẽ được miễn phí toàn bộ. Trước đó, ngay sau khi hoạt động trở lại từ ngày 30/4, Sun World Ba Na Hills đã triển khai chương trình kích cầu quy mô lớn mang tên “Miền Trung- Tây Nguyên chờ chi, Bà Nà ngay đi”, giảm giá vé cáp treo tới 60% cho du khách thuộc 19 tỉnh Miền Trung Tây Nguyên từ 30/4-31/5. Chương trình khuyến mãi hấp dẫn này đã góp phần tạo nên không khí hào hứng, phấn khích cho du khách đến vui chơi tại Bà Nà thời gian qua. Chia sẻ về quyết định tung ra hai chương trình khuyến mãi liên tiếp, ông Nguyễn Lâm An – Giám đốc Sun World Ba Na Hills cho biết: “ Đại dịch Covid-19 đã gây thiệt hại nặng nề không chỉ cho ngành du lịch, mà còn gây tổn thương cho nền kinh tế nói chung và “hầu bao” của chính du khách nói riêng. Do vậy, để có thể kích hoạt thị trường du lịch, trước mắt là thị trường khách nội địa, chúng ta cần đưa ra những sản phẩm du lịch hội tụ 3 yếu tố: Hình thức đẹp nhất; Chất lượng, dịch vụ tốt nhất; Giá cả phải chăng nhất để thu hút du khách “mở hầu bao” đi vui chơi, nghỉ dưỡng. Đó chính là lý do Sun World Ba Na Hills tung ra hai chương trình khuyến mãi liên tiếp với những ưu đãi hấp dẫn nhằm nỗ lực hâm nóng thị trường nội địa, tạo công ăn việc làm cho người lao động, từng bước khôi phục ngành du lịch”. Với chương trình khuyến mại “Yêu Việt Nam- Du lịch Việt Nam” vừa được triển khai tại Bà Nà Hills, du khách là người dân thuộc 19 tỉnh, thành miền Trung- Tây Nguyên có thể lựa chọn một trong hai hình thức khuyến mại để tận hưởng chuyến du ngoạn Bà Nà với đủ trải nghiệm nhất. Vốn đã nổi tiếng toàn cầu với cây Cầu Vàng huyền thoại, và được xem là khu du lịch đẳng cấp nhất miền Trung, Sun World Ba Na Hills chưa bao giờ khiến du khách thôi phấn khích với những sản phẩm và dịch vụ mà khu du lịch này có thể đem lại cho du khách như: cây Cầu Vàng được xem như biểu tượng du lịch của Đà Nẵng, những lâu đài mang phong cách Pháp cổ, những vườn hoa đẹp tựa trong cổ tích, khu vui chơi trong nhà lớn nhất Đông Nam Á Fantasy Park và những show carnival đình đám Bà Nà …. Trong thời gian ngưng hoạt động để phòng tránh dịch Covid-19, khu du lịch đẳng cấp này đã tận dụng cơ hội để cải tạo cảnh quan, bảo dưỡng cáp treo, làm mới khuôn viên bằng cách trồng thêm nhiều loại hoa quý, đồng thời đầu tư cho các sản phẩm mới, hứa hẹn đem đến nhiều trải nghiệm mới mẻ, hấp dẫn cho du khách khi quay trở lại. Bà Nà Hills cũng đã đầu tư trồng nhiều giống hoa hồng ngoại quý hiếm tại vườn hồng Morin, tạo nên con đường hoa hồng ấn tượng bậc nhất miền Trung… Đặc biệt, thưởng thức buffet trưa có thể coi được là một trải nghiệm thú vị không thể bỏ qua tại Bà Nà Hills. Không chỉ những món ăn mang đặc trưng của ba miền Việt Nam như: bún chả Hà Nội, bánh xèo miền Nam, nem lụi miền Trung…, mà những đặc sản ẩm thực hấp dẫn Á – Âu đều có ở Bà Nà. Chính sự thú vị của ẩm thực tại Bà Nà là lý do khu du lịch này dành tặng du khách combo mua vé cáp treo tặng vé buffet trưa . Triển khai đồng thời hai chương trình ưu đãi hấp dẫn chưa từng có cho du khách, Bà Nà Hills mong muốn tạo nên một cú hích khơi dậy tinh thần dân tộc “Du lịch là yêu nước” trong mỗi người dân Việt Nam lúc này thay cho tinh thần “Ở nhà là yêu nước” trong thời kỳ cách ly xã hội vì dịch bệnh.
Continuously launching two large-scale stimulus programs, Ba Na Hills evokes love for the country in tourists In order to increase domestic tourism stimulation on a national scale, the most classy tourist resort in the Central region, Sun World Ba Na Hills, has just continued to launch the second stimulus promotion program since officially welcoming guests back. social distancing period due to the Covid-19 pandemic. Accordingly, Vietnam's leading theme park Sun World Ba Na Hills will launch the stimulus program "Love Vietnam, Travel Vietnam" on a nationwide scale from May 15 to July 15 with incentives. Attractive: free buffet lunch tickets for tourists who buy cable car tickets to visit Ba Na. Sun World Ba Na Hills first day of opening Specifically, when buying a cable car ticket for adults for 750,000 VND, visitors will immediately receive a buffet lunch ticket worth 255,000 VND. When buying a ticket for children from 1-1.4m for 600,000 VND, they will receive a free ticket. Lunch buffet ticket worth 128,000 VND. Children under 1m will be completely free. Previously, immediately after resuming operations from April 30, Sun World Ba Na Hills launched a large-scale stimulus program called "Central region - Central Highlands, what are you waiting for, let's go Ba Na now", reducing prices. Cable car tickets up to 60% for tourists from 19 provinces in the Central Highlands from April 30 to May 31. This attractive promotion program has contributed to creating an exciting atmosphere for tourists coming to Ba Na recently. Sharing about the decision to launch two consecutive promotions, Mr. Nguyen Lam An - Director of Sun World Ba Na Hills said: " The Covid-19 pandemic has caused heavy damage not only to the tourism industry, but also to the economy in general and the "wallets" of tourists in particular. Therefore, to be able to activate the tourism market, first of all the domestic tourist market, we need to offer tourism products that converge 3 elements: The most beautiful form; Best quality and service; The most affordable prices to attract tourists to "open their wallets" to have fun and relax. That is the reason why Sun World Ba Na Hills launched two consecutive promotional programs with attractive incentives in an effort to warm up the domestic market, create jobs for workers, and gradually restore the industry. tourism". With the promotion program "Love Vietnam - Travel to Vietnam" recently launched at Ba Na Hills, tourists who are residents of 19 provinces and cities in the Central region - Central Highlands can choose one of two forms of promotion. to enjoy your trip to Ba Na with the fullest experience. Already famous globally for the legendary Golden Bridge, and considered the most classy tourist area in the Central region, Sun World Ba Na Hills has never stopped visitors from being excited with the products and services that the resort offers. This tour can bring tourists such as: the Golden Bridge considered a tourist symbol of Da Nang, ancient French-style castles, beautiful flower gardens like in a fairy tale, the largest indoor amusement park. Southeast Asia Fantasy Park and famous Ba Na carnival shows... During the shutdown to prevent the Covid-19 epidemic, this high-class tourist area took advantage of the opportunity to renovate the landscape, maintain the cable car, and renew the campus by planting more types of precious flowers and copper. time to invest in new products, promising to bring many new and attractive experiences to visitors when they return. Ba Na Hills has also invested in planting many rare varieties of foreign roses at the Morin rose garden, creating the most impressive rose road in the Central region... In particular, enjoying buffet lunch can be considered an interesting experience not to be missed at Ba Na Hills. Not only are the dishes typical of the three regions of Vietnam such as Hanoi bun cha, southern pancakes, central spring rolls..., but also attractive Asian and European culinary specialties all available in Ba Na. The excitement of the cuisine at Ba Na is the reason this resort offers visitors a combo of buying cable car tickets and getting free lunch buffet tickets. Simultaneously implementing two unprecedented attractive incentive programs for tourists, Ba Na Hills hopes to create a push to awaken the national spirit of "Travel is patriotism" in every Vietnamese person at this time. for the spirit of "Staying at home is patriotic" during the period of social isolation due to epidemics.
Ngắm Sài Gòn Thành phố hoa lệ bên những dòng sông TPHCM từng một thời tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền vì có nhiều con sông, lắm kinh rạch như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Soài Rạp, sông Lòng Tàu, kinh Tàu Hủ, Kinh Tẻ, rạch Bến Nghé, Thị Nghè… TP.HCM có mạng lưới đường thủy nội đô phong phú khi các kênh rạch nội đô đi qua hầu hết các khu trung tâm đô thị và dân cư, không chỉ mang ý nghĩa thoát nước, điều hòa môi trường mà còn đóng một vai trò đáng kể trong vận tải. Nhiều dự án về giao thông đường thủy sẽ được TP.HCM triển khai nhằm giảm áp lực cho đường bộ và kết hợp phát triển du lịch Đầu tư các tuyến liên kết khu Đông thành phố kết nối với khu bến trên sông Đồng Nai; đầu tư các tuyến kết nối đến khu cảng biển Hiệp Phước, Nhà Bè có tổng chiều dài khoảng 35,6km với kinh phí khoảng 400 tỉ đồng. Trong ảnh: vị trí ngã ba tiếp giáp giữa sông Sài Gòn – Nhà Bè tại quận 2, quận 7 (TP.HCM) và tỉnh Đồng Nai – Ảnh: QUANG ĐỊNH TP.HCM cần hơn 21.000 tỉ để khai thác tối đa tiềm năng giao thông thủy. Đó là thông tin được nêu trong báo cáo quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa tại TP.HCM giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 được Sở Giao thông vận tải TP.HCM gửi Cục Đường thủy nội địa Việt Nam. Trong ảnh: sông Sài Gòn đoạn chảy quanh trung tâm thành phố – Ảnh: QUANG ĐỊNH Theo Sở Giao thông vận tải, hiện nay tại khu cảng Cát Lái, Tân Cảng Cát Lái đã khai thác sản lượng trong năm 2019 đạt 64,5 triệu tấn, vượt công suất quy hoạch 77,6 % dẫn đến tình trạng quá tải cho giao thông đường bộ kết nối khu vực cảng. Do đó đã gây nên tình trạng ùn tắc cửa ngõ phía Đông ở nút giao thông Mỹ Thủy, quận 2. Trong ảnh: cảng Cát Lái, quận 2, TP.HCM – Ảnh: QUANG ĐỊNH Thành phố cũng tập trung phát triển cảng, bến thủy nội địa phục vụ vận tải hàng hóa, hành khách và du lịch. Hệ thống cảng, bến sẽ xây dựng theo quy hoạch, đồng thời hoàn chỉnh các cảng cạn ICD để tăng khả năng trung chuyển hàng hóa từ các khu công nghiệp, chế xuất… đến cảng biển. Trong ảnh: du khách nước ngoài đến TP.HCM bằng du thuyền trước dịch COVID-19 – Ảnh: QUANG ĐỊNH Định hướng phát triển mạng lưới đường thủy nội địa giai đoạn 2030 – 2050, tập trung đầu tư ba tuyến kết nối khu Đông thành phố tới cảng Cát Lái (quận 2), bốn tuyến từ nội thành kết nối đến cảng Hiệp Phước (huyện Nhà Bè) và hai tuyến vành đai. Trong ảnh: cầu Thủ Thiêm 2 được xây dựng ngang sông Sài Gòn nối quận 1 và quận 2 (TP.HCM) – Ảnh: QUANG ĐỊNH Đồng thời TP sẽ phát triển hệ thống ICD (cảng cạn) mới theo quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển vận tải đa phương thức logistics, xây dựng cảng cạn – ICD Long Bình tại phường Long Bình, quận 9 nhằm phục vụ di dời cụm ICD Trường Thọ, phát triển các trung tâm logistics hạng 1 cấp quốc gia và quốc tế có vị trí vai trò là trung tâm gốc… Trong ảnh: cảng Phước Long, quận 9, TP.HCM nằm cạnh sông Sài Gòn – Ảnh: QUANG ĐỊNH TP.HCM có lợi thế và tiềm năng lớn về phát triển giao thông, kinh tế đường thủy nhưng chưa khai thác được tối đa hiệu quả do chưa được đầu tư đúng mức, các công trình nạo vét, cải tạo luồng lạch… còn hạn chế. Trong ảnh: sông Sài Gòn đoạn qua cầu Bình Lợi – Ảnh: QUANG ĐỊNH Về nguồn vốn đầu tư, Sở GTVT TP đề xuất đa dạng các nguồn đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách. Trong đó sẽ xây dựng cơ chế cho thuê quỹ đất hành lang bờ sông, kênh, rạch và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, khai thác hạ tầng đường thủy… Sản lượng vận chuyển hàng hóa, hành khách qua các năm có tăng nhưng cần phát triển hơn nữa. Trong ảnh: tàu chở hàng và tàu chở khách du lich trên sông Sài Gòn – Ảnh: QUANG ĐỊNH Việc phát triển giao thông đường thủy là một giải pháp nhằm ‘chia lửa” với đường bộ đã quá tải đang được đề xuất sẽ đưa vào thực hiện trong thời gian tới. Trong ảnh: kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đoạn qua quận 3 và Phú Nhuận – Ảnh: QUANG ĐỊNH Theo đề án ‘Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông TP.HCM’, Sở Giao thông vận tải TP.HCM cho biết sẽ phát huy thế mạnh đặc thù sông nước, đồng thời tạo sức hấp dẫn đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Trong ảnh: điểm tiếp giáp Kênh Đôi – Kênh Tẻ và rạch Bến Nghé – Ảnh: QUANG ĐỊNH Với những tính toán đó, giai đoạn 2020 – 2050 TP cần hơn 21.000 tỉ đồng cho giao thông thủy. TP sẽ sử dụng khoảng 4.100 tỉ đồng đầu tư cho các dự án cảng, luồng tuyến. Trong ảnh: tàu container bốc xếp hàng hóa tại cảng Cát Lái, quận 2, TP.HCM – Ảnh: QUANG ĐỊNH Đặc biệt, vốn cho duy tu, bảo trì các tuyến đường thủy được tính khoảng 570 tỉ đồng mỗi năm, tức trong 30 năm cần 17.100 tỉ đồng. Trong ảnh: dòng sông Sài Gòn vào ban đêm uốn quanh trung tâm thành phố – Ảnh: QUANG ĐỊNH Giữa TP.HCM với các tỉnh Đông Nam Bộ sẽ thông qua 5 tuyến chính gồm Sài Gòn – Thị Vải, Sài Gòn – Bến Súc, Sài Gòn – Bến Kéo (sông Vàm Cỏ Đông), Sài Gòn – Mộc Hóa (sông Vàm Cỏ Tây) và Sài Gòn – Hiếu Liêm (sông Đồng Nai). Hướng về các tỉnh Tây Nam Bộ, từ TP.HCM sẽ thông qua các tuyến chính gồm Sài Gòn – Hà Tiên, Sài Gòn – Kiên Lương, Sài Gòn – Cà Mau, duyên hải Sài Gòn – Cà Mau và tuyến ven biển từ TP.HCM đến Kiên Giang – Ảnh: QUANG ĐỊNH Riêng phát triển logistics, Sở GTVT TP đề xuất cần đồng bộ hạ tầng, tăng khả năng kết nối vận tải đa phương thức và thúc đẩy vận tải hàng hóa đường thủy, đường sắt – vốn đang quá hạn chế so với đường bộ. Hệ thống giao thông thủy kết nối vùng cũng được định hướng nâng cấp và hoàn thiện. Trong ảnh: song Sài Gòn đoạn qua khu chế xuất Tân Thuận, cảng Bến Nghé – Ảnh: QUANG ĐỊNH Về đầu tư phát triển hạ tầng đường thủy nội địa, Sở Giao thông vận tải đề xuất ưu tiên 1 là thực hiện các dự án nạo vét, nâng cấp các cầu trên tuyến nối tắt và liên kết nội thành với khu vực cảng biển mới đảm bảo theo quy mô quy hoạch được duyệt. Trong ảnh: sông Soài Rạp đoạn qua quận 7 (TP.HCM) và tỉnh Đồng Nai – Ảnh: QUANG ĐỊNH Đầu tư các tuyến liên kết khu Đông thành phố kết nối với khu bến trên sông Đồng Nai; đầu tư các tuyến kết nối đến khu cảng biển Hiệp Phước, Nhà Bè có tổng chiều dài khoảng 35,6km với kinh phí khoảng 400 tỉ đồng. Trong ảnh: sông Sài Gòn đoạn qua quận 12 (TP.HCM) và tỉnh Bình Dương – Ảnh: QUANG ĐỊNH Ưu tiên đầu tư xây dựng tuyến đường thủy nội địa Vành đai trong: từ sông Sài Gòn – sông Vàm Thuật – rạch Bến Cát – sông Trường Đai – kênh Tham Lương – rạch Nước Lên – kênh Đôi – kênh Tẻ – sông Sài Gòn có tổng chiều dài khoảng 30km với tổng kinh phí khoảng 1.200 tỉ đồng. Trong ảnh: dòng sông Sài Gòn bao quanh khu Thảo Điền, quận 2 hướng về trung tâm thành phố – Ảnh: QUANG ĐỊNH Ưu tiên đầu tư xây dựng tuyến đường thủy Vành đai ngoài: từ sông Sài Gòn – rạch Tra – kênh xáng An Hạ – kênh Lý Văn Mạnh – sông Chợ Đệm – Bến Lức – sông Cần Giuộc – rạch Bà Lào – rạch sông Tắc – rạch Trau Trảo – rạch Chiếc – sông Sài Gòn với tổng chiều dài khoảng 108km với tổng kinh phí khoảng 4.794 tỉ đồng. Trong ảnh: dòng sông Sài Gòn uốn lượn qua Thanh Đa, quận Bình Thạnh – Ảnh: QUANG ĐỊNH QUANG ĐỊNH
Ngắm Sài Gòn Thành phố hoa lệ bên những dòng sông TPHCM từng một thời tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền vì có nhiều con sông, lắm kinh rạch như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Soài Rạp, sông Lòng Tàu, kinh Tàu Hủ, Kinh Tẻ, rạch Bến Nghé, Thị Nghè… TP.HCM có mạng lưới đường thủy nội đô phong phú khi các kênh rạch nội đô đi qua hầu hết các khu trung tâm đô thị và dân cư, không chỉ mang ý nghĩa thoát nước, điều hòa môi trường mà còn đóng một vai trò đáng kể trong vận tải. Nhiều dự án về giao thông đường thủy sẽ được TP.HCM triển khai nhằm giảm áp lực cho đường bộ và kết hợp phát triển du lịch Đầu tư các tuyến liên kết khu Đông thành phố kết nối với khu bến trên sông Đồng Nai; đầu tư các tuyến kết nối đến khu cảng biển Hiệp Phước, Nhà Bè có tổng chiều dài khoảng 35,6km với kinh phí khoảng 400 tỉ đồng. Trong ảnh: vị trí ngã ba tiếp giáp giữa sông Sài Gòn – Nhà Bè tại quận 2, quận 7 (TP.HCM) và tỉnh Đồng Nai – Ảnh: QUANG ĐỊNH TP.HCM cần hơn 21.000 tỉ để khai thác tối đa tiềm năng giao thông thủy. Đó là thông tin được nêu trong báo cáo quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa tại TP.HCM giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 được Sở Giao thông vận tải TP.HCM gửi Cục Đường thủy nội địa Việt Nam. Trong ảnh: sông Sài Gòn đoạn chảy quanh trung tâm thành phố – Ảnh: QUANG ĐỊNH Theo Sở Giao thông vận tải, hiện nay tại khu cảng Cát Lái, Tân Cảng Cát Lái đã khai thác sản lượng trong năm 2019 đạt 64,5 triệu tấn, vượt công suất quy hoạch 77,6 % dẫn đến tình trạng quá tải cho giao thông đường bộ kết nối khu vực cảng. Do đó đã gây nên tình trạng ùn tắc cửa ngõ phía Đông ở nút giao thông Mỹ Thủy, quận 2. Trong ảnh: cảng Cát Lái, quận 2, TP.HCM – Ảnh: QUANG ĐỊNH Thành phố cũng tập trung phát triển cảng, bến thủy nội địa phục vụ vận tải hàng hóa, hành khách và du lịch. Hệ thống cảng, bến sẽ xây dựng theo quy hoạch, đồng thời hoàn chỉnh các cảng cạn ICD để tăng khả năng trung chuyển hàng hóa từ các khu công nghiệp, chế xuất… đến cảng biển. Trong ảnh: du khách nước ngoài đến TP.HCM bằng du thuyền trước dịch COVID-19 – Ảnh: QUANG ĐỊNH Định hướng phát triển mạng lưới đường thủy nội địa giai đoạn 2030 – 2050, tập trung đầu tư ba tuyến kết nối khu Đông thành phố tới cảng Cát Lái (quận 2), bốn tuyến từ nội thành kết nối đến cảng Hiệp Phước (huyện Nhà Bè) và hai tuyến vành đai. Trong ảnh: cầu Thủ Thiêm 2 được xây dựng ngang sông Sài Gòn nối quận 1 và quận 2 (TP.HCM) – Ảnh: QUANG ĐỊNH Đồng thời TP sẽ phát triển hệ thống ICD (cảng cạn) mới theo quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển vận tải đa phương thức logistics, xây dựng cảng cạn – ICD Long Bình tại phường Long Bình, quận 9 nhằm phục vụ di dời cụm ICD Trường Thọ, phát triển các trung tâm logistics hạng 1 cấp quốc gia và quốc tế có vị trí vai trò là trung tâm gốc… Trong ảnh: cảng Phước Long, quận 9, TP.HCM nằm cạnh sông Sài Gòn – Ảnh: QUANG ĐỊNH TP.HCM có lợi thế và tiềm năng lớn về phát triển giao thông, kinh tế đường thủy nhưng chưa khai thác được tối đa hiệu quả do chưa được đầu tư đúng mức, các công trình nạo vét, cải tạo luồng lạch… còn hạn chế. Trong ảnh: sông Sài Gòn đoạn qua cầu Bình Lợi – Ảnh: QUANG ĐỊNH Về nguồn vốn đầu tư, Sở GTVT TP đề xuất đa dạng các nguồn đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách. Trong đó sẽ xây dựng cơ chế cho thuê quỹ đất hành lang bờ sông, kênh, rạch và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, khai thác hạ tầng đường thủy… Sản lượng vận chuyển hàng hóa, hành khách qua các năm có tăng nhưng cần phát triển hơn nữa. Trong ảnh: tàu chở hàng và tàu chở khách du lich trên sông Sài Gòn – Ảnh: QUANG ĐỊNH Việc phát triển giao thông đường thủy là một giải pháp nhằm ‘chia lửa” với đường bộ đã quá tải đang được đề xuất sẽ đưa vào thực hiện trong thời gian tới. Trong ảnh: kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đoạn qua quận 3 và Phú Nhuận – Ảnh: QUANG ĐỊNH Theo đề án ‘Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông TP.HCM’, Sở Giao thông vận tải TP.HCM cho biết sẽ phát huy thế mạnh đặc thù sông nước, đồng thời tạo sức hấp dẫn đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Trong ảnh: điểm tiếp giáp Kênh Đôi – Kênh Tẻ và rạch Bến Nghé – Ảnh: QUANG ĐỊNH Với những tính toán đó, giai đoạn 2020 – 2050 TP cần hơn 21.000 tỉ đồng cho giao thông thủy. TP sẽ sử dụng khoảng 4.100 tỉ đồng đầu tư cho các dự án cảng, luồng tuyến. Trong ảnh: tàu container bốc xếp hàng hóa tại cảng Cát Lái, quận 2, TP.HCM – Ảnh: QUANG ĐỊNH Đặc biệt, vốn cho duy tu, bảo trì các tuyến đường thủy được tính khoảng 570 tỉ đồng mỗi năm, tức trong 30 năm cần 17.100 tỉ đồng. Trong ảnh: dòng sông Sài Gòn vào ban đêm uốn quanh trung tâm thành phố – Ảnh: QUANG ĐỊNH Giữa TP.HCM với các tỉnh Đông Nam Bộ sẽ thông qua 5 tuyến chính gồm Sài Gòn – Thị Vải, Sài Gòn – Bến Súc, Sài Gòn – Bến Kéo (sông Vàm Cỏ Đông), Sài Gòn – Mộc Hóa (sông Vàm Cỏ Tây) và Sài Gòn – Hiếu Liêm (sông Đồng Nai). Hướng về các tỉnh Tây Nam Bộ, từ TP.HCM sẽ thông qua các tuyến chính gồm Sài Gòn – Hà Tiên, Sài Gòn – Kiên Lương, Sài Gòn – Cà Mau, duyên hải Sài Gòn – Cà Mau và tuyến ven biển từ TP.HCM đến Kiên Giang – Ảnh: QUANG ĐỊNH Riêng phát triển logistics, Sở GTVT TP đề xuất cần đồng bộ hạ tầng, tăng khả năng kết nối vận tải đa phương thức và thúc đẩy vận tải hàng hóa đường thủy, đường sắt – vốn đang quá hạn chế so với đường bộ. Hệ thống giao thông thủy kết nối vùng cũng được định hướng nâng cấp và hoàn thiện. Trong ảnh: song Sài Gòn đoạn qua khu chế xuất Tân Thuận, cảng Bến Nghé – Ảnh: QUANG ĐỊNH Về đầu tư phát triển hạ tầng đường thủy nội địa, Sở Giao thông vận tải đề xuất ưu tiên 1 là thực hiện các dự án nạo vét, nâng cấp các cầu trên tuyến nối tắt và liên kết nội thành với khu vực cảng biển mới đảm bảo theo quy mô quy hoạch được duyệt. Trong ảnh: sông Soài Rạp đoạn qua quận 7 (TP.HCM) và tỉnh Đồng Nai – Ảnh: QUANG ĐỊNH Đầu tư các tuyến liên kết khu Đông thành phố kết nối với khu bến trên sông Đồng Nai; đầu tư các tuyến kết nối đến khu cảng biển Hiệp Phước, Nhà Bè có tổng chiều dài khoảng 35,6km với kinh phí khoảng 400 tỉ đồng. Trong ảnh: sông Sài Gòn đoạn qua quận 12 (TP.HCM) và tỉnh Bình Dương – Ảnh: QUANG ĐỊNH Ưu tiên đầu tư xây dựng tuyến đường thủy nội địa Vành đai trong: từ sông Sài Gòn – sông Vàm Thuật – rạch Bến Cát – sông Trường Đai – kênh Tham Lương – rạch Nước Lên – kênh Đôi – kênh Tẻ – sông Sài Gòn có tổng chiều dài khoảng 30km với tổng kinh phí khoảng 1.200 tỉ đồng. Trong ảnh: dòng sông Sài Gòn bao quanh khu Thảo Điền, quận 2 hướng về trung tâm thành phố – Ảnh: QUANG ĐỊNH Ưu tiên đầu tư xây dựng tuyến đường thủy Vành đai ngoài: từ sông Sài Gòn – rạch Tra – kênh xáng An Hạ – kênh Lý Văn Mạnh – sông Chợ Đệm – Bến Lức – sông Cần Giuộc – rạch Bà Lào – rạch sông Tắc – rạch Trau Trảo – rạch Chiếc – sông Sài Gòn với tổng chiều dài khoảng 108km với tổng kinh phí khoảng 4.794 tỉ đồng. Trong ảnh: dòng sông Sài Gòn uốn lượn qua Thanh Đa, quận Bình Thạnh – Ảnh: QUANG ĐỊNH QUANG ĐỊNH
Chúng tôi tìm thấy cơ hội trong thách thức Không nằm ngoài vòng ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 đối với ngành du lịch, Sun Group cũng phải đối mặt vô vàn khó khăn. Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc (TGĐ) Bùi Thị Thanh Hương chia sẻ với chúng tôi những bí kíp để Tập đoàn du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí hàng đầu Việt Nam “vượt bão”. Covid-19 đã tác động đến hoạt động kinh doanh của Tập đoàn Sun Group như thế nào, thưa bà? Theo thống kê, trong lĩnh vực vui chơi giải trí, tính đến ngày 15/4, các khu vui chơi do Sun Group đầu tư đã sụt giảm khoảng 2 triệu lượt khách. Trong lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng, tính đến ngày 15/4, tỷ lệ lấp đầy giảm 70-80%; dẫn đến sụt giảm nghiêm trọng về doanh thu. Dự báo tình hình kinh doanh đến hết năm 2020 doanh thu sụt giảm 70% so với kế hoạch năm 2020 và 80% so với thực hiện năm 2019. Điều này khiến cho dòng tiền của Tập đoàn bị ảnh hưởng nặng nề. Du khách xếp hàng giãn cách 1 mét tại Sun World Fansipan Legend Diễn biến phức tạp về dịch bệnh không chỉ ảnh hưởng về lượng khách, doanh thu, mà còn gây khó khăn cho chúng tôi trong việc chăm lo, bố trí, sắp xếp công việc cho 11.000 người lao động (NLĐ) đang làm việc cho Sun Group trên cả nước. Do các khách sạn, resort và khu du lịch tạm ngừng hoạt động để phòng chống dịch theo chỉ đạo của Chính phủ, chúng tôi đã phải sắp xếp cho NLĐ nghỉ bù, nghỉ phép đối với NLĐ còn phép, sắp xếp lại thời gian làm việc, bố trí làm việc luân phiên… để đảm bảo cuộc sống, giảm thiểu ảnh hưởng đến cuộc sống của người lao động. Để không chết chìm trong khủng hoảng, nhiều DN đã tìm kiếm cho mình giải pháp tối ưu và phù hợp nhất để có thể tồn tại qua “bão Covid-19”. Một trong những giải pháp được nhiều DN vận dụng trong thời gian qua là trạng thái “ngủ đông”. Sun Group thì sao, thưa bà? Ngay từ khi đại dịch diễn ra và gây thiệt hại lớn cho công việc kinh doanh, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các kế hoạch ứng phó và phục hồi sau đại dịch. Song song với việc triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn trong mùa dịch mà Chính phủ quy định, chúng tôi tranh thủ thời gian cách ly xã hội để rà soát lại hệ thống, đào tạo nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ tại tất cả các resort, khách sạn, khu du lịch (KDL) do Sun Group đầu tư trên toàn quốc. Ngoài ra, Sun Group cũng tranh thủ quãng thời gian này để “thay đổi diện mạo” cho các khu du lịch Sun World, các khách sạn và khu nghỉ dưỡng của Tập đoàn trên toàn quốc. Ngưng đón khách nhưng các Sun World và các khách sạn, resort vẫn duy trì các hoạt động quan trọng hàng ngày như chăm sóc cây xanh, chỉnh trang, làm mới nhiều hạng mục cảnh quan, trồng thêm các loài hoa mới, bảo trì hệ thống cáp treo và các trò chơi…, chuẩn bị các chiến dịch kích cầu ngay để sẵn sàng đón khách trở lại, đem tới cho du khách những bất ngờ, mới mẻ. Du khách đến Bà Nà dịp lễ 30.4 Bên cạnh đó, mặc dù gặp nhiều khó khăn và bị thiệt hại lớn, song Tập đoàn Sun Group vẫn nỗ lực hết sức để chung tay với Chính phủ triển khai đón các chuyến bay đưa đồng bào từ vùng dịch trên thế giới về Việt Nam hạ cánh tại Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn. Dù vất vả và đối mặt với nhiều nguy cơ, song chúng tôi xác định đây là nhiệm vụ và trách nhiệm mà những người con đất Việt cần phải gánh vác khi Tổ quốc cần. Tổng cộng, đến nay, sân bay Vân Đồn đã đón 40 chuyến bay với gần 6.500 hành khách từ các vùng dịch khác nhau theo một quy trình khép kín bên ngoài nhà ga, đảm bảo tuyệt đối an toàn. Đến thời điểm này, nhiều DN đã bắt tay vào thực thi kế hoạch “tái khởi động” lại hoạt động kinh doanh của mình. Với Sun Group, kế hoạch đang được thực thi như thế nào, thưa bà? Trong dịp nghỉ lễ 30/4, 1/5 vừa qua, các khu Sun World của chúng tôi đã lần lượt khởi động đón khách trở lại. Mặc dù lượng khách dịp lễ vừa qua chưa đông, giảm đến 70-90% so với cùng kỳ năm ngoái, song bước đầu, sự trở lại này đã tạo tâm lý hào hứng cho du khách, góp phần hâm nóng thị trường du lịch vốn bị tê liệt trong suốt thời gian qua. Chúng tôi mong rằng, những nỗ lực mở cửa lại các khu du lịch của chúng tôi sẽ góp phần thúc đẩy, phá băng thị trường du lịch trong nước, từng bước khởi động lại thị trường du lịch Việt Nam vốn gần như đóng băng vì Covid-19, từ đó cũng góp phần tạo công ăn việc làm cho nhân sự ngành du lịch, đồng thời khởi động lại và tiếp tục phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh và ổn định xã hội theo như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 19. Đặc biệt, Sun Group cũng đã lên kế hoạch để khôi phục kinh doanh sau dịch, trong đó ưu tiên các chiến dịch kích cầu khuyến mãi tại các khu du lịch, khách sạn để đón đầu giai đoạn bùng nổ hậu Covid-19. Sau những thiệt hại nặng nề do dịch bệnh, ngành du lịch Việt Nam được dự báo sẽ cần một thời gian khá dài nữa mới có thể hồi phục. Thị trường nội địa đang được coi là thị trường quan trọng nhất đối với ngành lúc này. Do đó, chúng tôi tập trung khai thác và dành nhiều ưu đãi cho du khách nội địa, trong thời gian này. Du khách đến Sun World Hòn Thơm Nature Park “Chung sống an toàn với virus corona” là chỉ đạo của Chính phủ với mọi cá thể, doanh nghiệp trong giai đoạn tái khởi động này. Tại Sun Group, “kinh doanh an toàn” được triển khai như thế nào? “An toàn” là tiêu chí được đặt lên cao nhất ngay khi Sun Group lên kế hoạch đón khách trở lại các Sun World và khách sạn, resort của Tập đoàn. Tuân thủ nghiêm ngặt Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ, công tác vệ sinh, khử khuẩn toàn bộ các khu du lịch, khách sạn, resort được triển khai rốt ráo và nghiêm túc từ trước khi đón khách và duy trì định kỳ hàng ngày để đảm bảo an toàn cho du khách. Ngoài ra, nước rửa tay và các ấn phẩm khuyến cáo, hướng dẫn phòng chống dịch Covid-19 được trang bị đầy đủ tại các khu du lịch, khách sạn, resort do Sun Group đầu tư. Đặc biệt, tại các khu du lịch, việc giãn cách, khống chế lượng khách tại từng khu vực và trên cabin cáp treo, du khách trước khi vào cổng khu du lịch cũng được đo thân nhiệt, yêu cầu đeo khẩu trang, rửa tay diệt khuẩn… được quán triệt thực hiện chặt chẽ. Trong “nguy có cơ”, thách thức và khó khăn đi qua cũng mang tới cho các cá thể, DN nhiều bài học đắt giá. Với Sun Group, bài học đó là gì? Khó khăn trong đại dịch chẳng chừa ai. Đối với Sun Group, những gian khó thời gian qua đã giúp chúng tôi nhìn ra những bài học quý giá. Thứ nhất, đó là bài học “Đoàn kết là sức mạnh”. Dù kế hoạch kinh doanh bị đình trệ, gặp khó khăn lớn về dòng tiền, về việc sắp xếp, đảm bảo cuộc sống cho nhân viên…, song nhờ tinh thần đoàn kết, lòng quyết tâm, các thành viên Sun Group đã cùng nhau sẻ chia, lạc quan hướng tới tương lai và cùng cộng đồng “đối diện” với dịch bệnh. Ngay từ giai đoạn Việt Nam áp dụng “cách ly xã hội”, Sun Group đã tận dụng thời gian để thắt chặt tinh thần đoàn kết, thúc đẩy sự thay đổi từ chính nội tại mỗi CBNV trong Tập đoàn. Ngoài ứng dụng làm việc, họp hành online, chúng tôi triển khai một chiến dịch nội bộ trực tuyến mang tên “Change for future”, kêu gọi tất cả CBNV thi đua thay đổi bản thân theo hướng tích cực trong mọi lĩnh vực: sức khỏe, ẩm thực, kiến thức… Chương trình thu hút sự tham gia của hàng nghìn CBNV trên toàn tập đoàn, góp phần kết nối, thắt chặt tình cảm và nâng cao tinh thần “chiến đấu” vì mục tiêu chung của Tập đoàn, của đất nước trong thời gian giãn cách xã hội do dịch Covid-19. Đến thời điểm này, có thể nói Sun Group đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất và đang tăng tốc để bứt phá trong thời gian tới. Bài học thứ hai là “luôn tìm thấy cơ hội trong thách thức”. Chúng tôi đã tận dụng quãng thời gian chững lại do dịch bệnh để hoàn thiện chất lượng nhân sự cũng như chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sẵn sàng cho sự trở lại tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới đây. Giai đoạn “ngủ đông” của Sun Group vẫn diễn ra như một quy luật tất yếu khó tránh khỏi trong bối cảnh dịch bệnh, nhưng nó đã trở thành giai đoạn đầy ý nghĩa đối với từng cá nhân và với cả Tập đoàn. Đây cũng là quãng thời gian Sun Group tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, chuẩn bị ra mắt hàng loạt dự án, sản phẩm du lịch mới, đón đầu giai đoạn du lịch bùng nổ sau dịch Covid-19 như: khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng cao cấp Yoko Onsen ở Quang Hanh, Cẩm Phả (Quảng Ninh); khu nghỉ dưỡng Premier Village Halong Bay; tuyến cáp treo 3 dây vượt biển Cát Hải – Phù Long tại Cát Bà; tuyến cáp mới cùng với lâu đài Ravenstone – nơi tái hiện “hội chợ phù hoa” châu Âu cổ điển… tại Sun World Ba Na Hills. Với các kế hoạch chủ động và luôn sẵn sàng của doanh nghiệp, cùng với những chính sách hỗ trợ thiết thực và kịp thời của Chính phủ và các Bộ ngành, chúng tôi tin rằng Sun Group sẽ phục hồi đà tăng trưởng, góp phần thúc đẩy du lịch Việt Nam “hồi sinh” và bùng nổ với nhiều kết quả đáng khích lệ thời kỳ hậu Covid-19. Xin chân thành cám ơn bà!
Chúng tôi tìm thấy cơ hội trong thách thức Không nằm ngoài vòng ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 đối với ngành du lịch, Sun Group cũng phải đối mặt vô vàn khó khăn. Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc (TGĐ) Bùi Thị Thanh Hương chia sẻ với chúng tôi những bí kíp để Tập đoàn du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí hàng đầu Việt Nam “vượt bão”. Covid-19 đã tác động đến hoạt động kinh doanh của Tập đoàn Sun Group như thế nào, thưa bà? Theo thống kê, trong lĩnh vực vui chơi giải trí, tính đến ngày 15/4, các khu vui chơi do Sun Group đầu tư đã sụt giảm khoảng 2 triệu lượt khách. Trong lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng, tính đến ngày 15/4, tỷ lệ lấp đầy giảm 70-80%; dẫn đến sụt giảm nghiêm trọng về doanh thu. Dự báo tình hình kinh doanh đến hết năm 2020 doanh thu sụt giảm 70% so với kế hoạch năm 2020 và 80% so với thực hiện năm 2019. Điều này khiến cho dòng tiền của Tập đoàn bị ảnh hưởng nặng nề. Du khách xếp hàng giãn cách 1 mét tại Sun World Fansipan Legend Diễn biến phức tạp về dịch bệnh không chỉ ảnh hưởng về lượng khách, doanh thu, mà còn gây khó khăn cho chúng tôi trong việc chăm lo, bố trí, sắp xếp công việc cho 11.000 người lao động (NLĐ) đang làm việc cho Sun Group trên cả nước. Do các khách sạn, resort và khu du lịch tạm ngừng hoạt động để phòng chống dịch theo chỉ đạo của Chính phủ, chúng tôi đã phải sắp xếp cho NLĐ nghỉ bù, nghỉ phép đối với NLĐ còn phép, sắp xếp lại thời gian làm việc, bố trí làm việc luân phiên… để đảm bảo cuộc sống, giảm thiểu ảnh hưởng đến cuộc sống của người lao động. Để không chết chìm trong khủng hoảng, nhiều DN đã tìm kiếm cho mình giải pháp tối ưu và phù hợp nhất để có thể tồn tại qua “bão Covid-19”. Một trong những giải pháp được nhiều DN vận dụng trong thời gian qua là trạng thái “ngủ đông”. Sun Group thì sao, thưa bà? Ngay từ khi đại dịch diễn ra và gây thiệt hại lớn cho công việc kinh doanh, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các kế hoạch ứng phó và phục hồi sau đại dịch. Song song với việc triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn trong mùa dịch mà Chính phủ quy định, chúng tôi tranh thủ thời gian cách ly xã hội để rà soát lại hệ thống, đào tạo nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ tại tất cả các resort, khách sạn, khu du lịch (KDL) do Sun Group đầu tư trên toàn quốc. Ngoài ra, Sun Group cũng tranh thủ quãng thời gian này để “thay đổi diện mạo” cho các khu du lịch Sun World, các khách sạn và khu nghỉ dưỡng của Tập đoàn trên toàn quốc. Ngưng đón khách nhưng các Sun World và các khách sạn, resort vẫn duy trì các hoạt động quan trọng hàng ngày như chăm sóc cây xanh, chỉnh trang, làm mới nhiều hạng mục cảnh quan, trồng thêm các loài hoa mới, bảo trì hệ thống cáp treo và các trò chơi…, chuẩn bị các chiến dịch kích cầu ngay để sẵn sàng đón khách trở lại, đem tới cho du khách những bất ngờ, mới mẻ. Du khách đến Bà Nà dịp lễ 30.4 Bên cạnh đó, mặc dù gặp nhiều khó khăn và bị thiệt hại lớn, song Tập đoàn Sun Group vẫn nỗ lực hết sức để chung tay với Chính phủ triển khai đón các chuyến bay đưa đồng bào từ vùng dịch trên thế giới về Việt Nam hạ cánh tại Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn. Dù vất vả và đối mặt với nhiều nguy cơ, song chúng tôi xác định đây là nhiệm vụ và trách nhiệm mà những người con đất Việt cần phải gánh vác khi Tổ quốc cần. Tổng cộng, đến nay, sân bay Vân Đồn đã đón 40 chuyến bay với gần 6.500 hành khách từ các vùng dịch khác nhau theo một quy trình khép kín bên ngoài nhà ga, đảm bảo tuyệt đối an toàn. Đến thời điểm này, nhiều DN đã bắt tay vào thực thi kế hoạch “tái khởi động” lại hoạt động kinh doanh của mình. Với Sun Group, kế hoạch đang được thực thi như thế nào, thưa bà? Trong dịp nghỉ lễ 30/4, 1/5 vừa qua, các khu Sun World của chúng tôi đã lần lượt khởi động đón khách trở lại. Mặc dù lượng khách dịp lễ vừa qua chưa đông, giảm đến 70-90% so với cùng kỳ năm ngoái, song bước đầu, sự trở lại này đã tạo tâm lý hào hứng cho du khách, góp phần hâm nóng thị trường du lịch vốn bị tê liệt trong suốt thời gian qua. Chúng tôi mong rằng, những nỗ lực mở cửa lại các khu du lịch của chúng tôi sẽ góp phần thúc đẩy, phá băng thị trường du lịch trong nước, từng bước khởi động lại thị trường du lịch Việt Nam vốn gần như đóng băng vì Covid-19, từ đó cũng góp phần tạo công ăn việc làm cho nhân sự ngành du lịch, đồng thời khởi động lại và tiếp tục phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh và ổn định xã hội theo như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 19. Đặc biệt, Sun Group cũng đã lên kế hoạch để khôi phục kinh doanh sau dịch, trong đó ưu tiên các chiến dịch kích cầu khuyến mãi tại các khu du lịch, khách sạn để đón đầu giai đoạn bùng nổ hậu Covid-19. Sau những thiệt hại nặng nề do dịch bệnh, ngành du lịch Việt Nam được dự báo sẽ cần một thời gian khá dài nữa mới có thể hồi phục. Thị trường nội địa đang được coi là thị trường quan trọng nhất đối với ngành lúc này. Do đó, chúng tôi tập trung khai thác và dành nhiều ưu đãi cho du khách nội địa, trong thời gian này. Du khách đến Sun World Hòn Thơm Nature Park “Chung sống an toàn với virus corona” là chỉ đạo của Chính phủ với mọi cá thể, doanh nghiệp trong giai đoạn tái khởi động này. Tại Sun Group, “kinh doanh an toàn” được triển khai như thế nào? “An toàn” là tiêu chí được đặt lên cao nhất ngay khi Sun Group lên kế hoạch đón khách trở lại các Sun World và khách sạn, resort của Tập đoàn. Tuân thủ nghiêm ngặt Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ, công tác vệ sinh, khử khuẩn toàn bộ các khu du lịch, khách sạn, resort được triển khai rốt ráo và nghiêm túc từ trước khi đón khách và duy trì định kỳ hàng ngày để đảm bảo an toàn cho du khách. Ngoài ra, nước rửa tay và các ấn phẩm khuyến cáo, hướng dẫn phòng chống dịch Covid-19 được trang bị đầy đủ tại các khu du lịch, khách sạn, resort do Sun Group đầu tư. Đặc biệt, tại các khu du lịch, việc giãn cách, khống chế lượng khách tại từng khu vực và trên cabin cáp treo, du khách trước khi vào cổng khu du lịch cũng được đo thân nhiệt, yêu cầu đeo khẩu trang, rửa tay diệt khuẩn… được quán triệt thực hiện chặt chẽ. Trong “nguy có cơ”, thách thức và khó khăn đi qua cũng mang tới cho các cá thể, DN nhiều bài học đắt giá. Với Sun Group, bài học đó là gì? Khó khăn trong đại dịch chẳng chừa ai. Đối với Sun Group, những gian khó thời gian qua đã giúp chúng tôi nhìn ra những bài học quý giá. Thứ nhất, đó là bài học “Đoàn kết là sức mạnh”. Dù kế hoạch kinh doanh bị đình trệ, gặp khó khăn lớn về dòng tiền, về việc sắp xếp, đảm bảo cuộc sống cho nhân viên…, song nhờ tinh thần đoàn kết, lòng quyết tâm, các thành viên Sun Group đã cùng nhau sẻ chia, lạc quan hướng tới tương lai và cùng cộng đồng “đối diện” với dịch bệnh. Ngay từ giai đoạn Việt Nam áp dụng “cách ly xã hội”, Sun Group đã tận dụng thời gian để thắt chặt tinh thần đoàn kết, thúc đẩy sự thay đổi từ chính nội tại mỗi CBNV trong Tập đoàn. Ngoài ứng dụng làm việc, họp hành online, chúng tôi triển khai một chiến dịch nội bộ trực tuyến mang tên “Change for future”, kêu gọi tất cả CBNV thi đua thay đổi bản thân theo hướng tích cực trong mọi lĩnh vực: sức khỏe, ẩm thực, kiến thức… Chương trình thu hút sự tham gia của hàng nghìn CBNV trên toàn tập đoàn, góp phần kết nối, thắt chặt tình cảm và nâng cao tinh thần “chiến đấu” vì mục tiêu chung của Tập đoàn, của đất nước trong thời gian giãn cách xã hội do dịch Covid-19. Đến thời điểm này, có thể nói Sun Group đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất và đang tăng tốc để bứt phá trong thời gian tới. Bài học thứ hai là “luôn tìm thấy cơ hội trong thách thức”. Chúng tôi đã tận dụng quãng thời gian chững lại do dịch bệnh để hoàn thiện chất lượng nhân sự cũng như chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sẵn sàng cho sự trở lại tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới đây. Giai đoạn “ngủ đông” của Sun Group vẫn diễn ra như một quy luật tất yếu khó tránh khỏi trong bối cảnh dịch bệnh, nhưng nó đã trở thành giai đoạn đầy ý nghĩa đối với từng cá nhân và với cả Tập đoàn. Đây cũng là quãng thời gian Sun Group tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, chuẩn bị ra mắt hàng loạt dự án, sản phẩm du lịch mới, đón đầu giai đoạn du lịch bùng nổ sau dịch Covid-19 như: khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng cao cấp Yoko Onsen ở Quang Hanh, Cẩm Phả (Quảng Ninh); khu nghỉ dưỡng Premier Village Halong Bay; tuyến cáp treo 3 dây vượt biển Cát Hải – Phù Long tại Cát Bà; tuyến cáp mới cùng với lâu đài Ravenstone – nơi tái hiện “hội chợ phù hoa” châu Âu cổ điển… tại Sun World Ba Na Hills. Với các kế hoạch chủ động và luôn sẵn sàng của doanh nghiệp, cùng với những chính sách hỗ trợ thiết thực và kịp thời của Chính phủ và các Bộ ngành, chúng tôi tin rằng Sun Group sẽ phục hồi đà tăng trưởng, góp phần thúc đẩy du lịch Việt Nam “hồi sinh” và bùng nổ với nhiều kết quả đáng khích lệ thời kỳ hậu Covid-19. Xin chân thành cám ơn bà!
Ngoài thánh địa Mỹ Sơn, Quảng Nam còn những tháp Chăm tuyệt đẹp nào? Nói đến di tích Chăm ở Quảng Nam, hầu hết mọi người sẽ nghĩ đến thánh địa Mỹ Sơn. Nhưng không phải ai cũng biết rằng ngoài di sản thế giới này, vùng đất Quảng Nam còn nhiều tòa tháp Chăm khác không kém phần đặc sắc. 1. Nằm trên địa phận xã Điện An, huyện Điện Bàn , tỉnh Quảng Nam, cách đô thị cổ Hội An khoảng 14 km, tháp Bằng An là một trong những tháp Chăm cổ còn sót lại ở tỉnh Quảng Nam . Có từ thế kỷ 12, tháp được xây dựng theo hình bát giác, mỗi cạnh rộng 4 mét, cao 21,5 mét. Về tổng thể, tháp mang hình một linga (sinh thực khí nam) thẳng đứng. Đây cũng là ngôi tháp Chăm duy nhất có hình bát giác được ghi nhận. Vào đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu người Pháp H. Parmentier đã có nhận xét rằng tháp Bằng An là một trong những tòa tháp có dáng vẻ kỳ lạ nhất trong lịch sử kiến trúc cổ Chăm Pa. Vào đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu người Pháp H. Parmentier đã có nhận xét rằng tháp Bằng An là một trong những tòa tháp có dáng vẻ kỳ lạ nhất trong lịch sử kiến trúc cổ Chăm Pa. 2. Tháp Chiên Đàn là một cụm tháp Chăm cổ nằm ở xã Tam An, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 11. Nơi đây có ba ngôi tháp khá lớn, đều thuộc loại tháp Chăm truyền thống: Tháp vuông có các tầng mái, rất giống nhau về hình dáng, cấu trúc, trang trí. Tuy nhiên chỉ còn tháp trung tâm là nguyên vẹn với phần thân và chóp mái, hai ngôi tháp còn lại đã mất hoàn toàn các tầng phía trên. Tuy kiến trúc không còn nguyên vẹn, nhưng tháp Chiên Đàn là một trong số ít tháp Chăm còn lưu giữ lại được những tác phẩm điêu khắc bằng đá rất sinh động. Dựa vào các yếu tố kiến trúc và điêu khắc trên, các nhà nghiên cứu đã xếp tháp Chiên Đàn vào nhóm tháp thuộc phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định. 3. Tháp Khương Mỹ là một cụm đền tháp Champa nằm ở địa phận xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Tháp có niên đại vào cuối thế kỷ thứ 9, đầu thế kỷ thứ 10, gồm ba tòa tháp xếp thành hàng ngang theo trục Bắc – Nam. Đây là kiểu tháp Champa truyền thống với mặt bằng gần vuông, cửa ra vào ở hướng đông, mái tháp gồm 3 tầng, tầng trên là hình ảnh thu nhỏ của tầng dưới, trên cùng có chóp tháp bằng sa thạch. Mỗi tháp có một cửa ra vào và 5 cửa giả. Nét đặc sắc nhất của tháp Khương Mỹ là những họa tiết trang trí rất phong phú và cầu kỳ trên thân tháp. Ngoài ra tại tòa tháp này, các nhà khai quật cũng tìm thấy nhiều tác phẩm điêu khắc đặc sắc.
Besides My Son Sanctuary, what other beautiful Cham towers are there in Quang Nam? When talking about Cham relics in Quang Nam, most people will think of My Son Sanctuary. But not everyone knows that in addition to this world heritage, the land of Quang Nam has many other Cham towers that are no less unique. first. Located in Dien An commune, Dien Ban district , Quang Nam province, about 14 km from the ancient town of Hoi An, Bang An tower is one of the remaining ancient Cham towers in Hoi An. Quang Nam Province . Dating back to the 12th century, the tower was built in an octagonal shape, each side is 4 meters wide and 21.5 meters high. Overall, the tower is shaped like a vertical linga. This is also the only Cham tower with an octagonal shape recorded. At the beginning of the 20th century, French researcher H. Parmentier commented that Bang An tower was one of the towers with the strangest appearance in the history of ancient Champa architecture. At the beginning of the 20th century, French researcher H. Parmentier commented that Bang An tower was one of the towers with the strangest appearance in the history of ancient Champa architecture. 2. Chien Dan Tower is a cluster of ancient Cham towers located in Tam An commune, Tam Ky city, Quang Nam province. The tower was built in the late 10th to early 11th century. There are three quite large towers here, all of which are traditional Cham towers: Square towers with roof floors, very similar in shape, structure, and decoration. However, only the central tower is intact with its body and roof top, the remaining two towers have completely lost their upper floors. Although the architecture is no longer intact, Chien Dan tower is one of the few Cham towers that still retains very vivid stone sculptures. Based on the above architectural and sculptural elements, researchers have classified Chien Dan tower in the group of towers belonging to the transitional style between My Son A1 style and Binh Dinh style. 3. Khuong My Tower is a cluster of Champa temples and towers located in Tam Xuan 1 commune, Nui Thanh district, Quang Nam province. The tower dates back to the late 9th and early 10th centuries, consisting of three towers arranged in horizontal rows along the North - South axis. This is a traditional Champa tower with a nearly square floor plan, the entrance is in the east direction, the tower roof consists of 3 floors, the upper floor is a miniature image of the lower floor, the top of the tower is made of sandstone. Each tower has one entrance door and 5 fake doors. The most unique feature of Khuong My tower is the rich and sophisticated decorative motifs on the tower's body. In addition, in this tower, excavators also found many unique sculptures.
‘Phát hiện’ thêm một cổ trấn đẹp bình dị cách Hà Nội 30 km Làng Nôm (huyện Văn Lâm , Hưng Yên ) được ví như một ốc đảo của kiến trúc truyền thống giữa cơn lốc phát triển không gian đô thị. Không gian kiến trúc của Làng Nôm là đại diện rất đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ, với đầy đủ các công trình đình, chùa, cây đa, bến nước, chợ… và cả nếp sinh hoạt xưa. Kiến trúc đặc sắc chính là những ngôi nhà cổ có tuổi lên đến 200 năm và rất nhiều các nhà thờ của dòng họ được gìn giữ. Nền văn hóa lâu đời in đậm dấu ấn trong từng nếp nhà, lối ngõ, phong tục tập quán văn hóa. Cổng làng Nôm là một kiểu kiến trúc đặc biệt, được xây theo kiểu bát trụ. Kiểu cổng mà chỉ hoàng thân quốc thích xưa kia mới có. Cổng làng bao gồm bốn trụ vuông chạm khắc nhiều họa tiết, phía trước có ba chữ trên vòm cổng: Đồng Cầu Nôm. Đường làng lát gạch đỏ, bờ ao kết hợp rất nhiều “bến nước”. Xưa những cầu ao này thường được người dân sử dụng để rửa chân tay hay xuống lấy nước. Làng Nôm có một ao nước lớn, các quần thể kiến trúc cổ đều tập trung xung quanh tạo thành một không gian rất tiêu biểu cho vùng làng quê của miền Bắc xưa. Làng có rất nhiều các nhà thờ họ và hiện vẫn đang tiếp tục được xây mới. Nhìn trung lối kiến trúc cơ bản khá giống nhau với các chi tiết cổ điển truyền thống tiêu biểu. Vào những ngày hè nóng nực, ao làng luôn là nơi vui chơi tắm mát của người dân làng Nôm. Nơi đây cũng là chỗ sinh hoạt cộng đồng của người dân. Làng Nôm nổi lên như một kiến trúc làng Việt truyền thống tiêu biểu, song hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị mai một, lùi dần vào quên lãng. Ở phía Đông của làng là cây cầu đá tuyệt đẹp bắc ngang qua dòng sông Nguyệt Đức, nối đường làng với chợ Nôm và chùa Nôm. Cầu đá được ghép bằng những phiến đá lớn, hai bên thành cầu chạm khắc hình đầu rồng, cầu có các trụ đá chống đỡ. Không chỉ mang giá trị lịch sử, văn hóa, chiếc cầu đá này còn được các nhà nghiên cứu di sản đánh giá là một công trình độc đáo chưa từng thấy ở bất cứ làng cổ nào của đồng bằng sông Hồng. Qua cánh cổng làng rêu phong, khung cảnh bên trong mang đặc trưng của làng quê cổ Việt Nam. Các khu nhà nhỏ nhắn đều nhuốm màu thời gian, nếp sinh hoạt thường nhật của người dân diễn ra bình lặng, yên ả trong nhịp sống chậm rãi. Đình làng Nôm. Không gian bên trong đình. Chùa làng Nôm được xây dựng bề thế, theo nhiều tài liệu xưa, chùa được xây dựng trên một đồi thông lớn vào thời Hậu Lê. Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dấu tích chùa cho thấy lịch sử tồn tại cả nghìn năm.
'Discovered' another beautiful, idyllic ancient town 30 km from Hanoi Nom village (district Van Lam , hung Yen ) is considered an oasis of traditional architecture amid the whirlwind of urban space development. The architectural space of Nom Village is a very typical representative of the Northern countryside, with a full range of communal houses, pagodas, banyan trees, water wharves, markets... and even ancient lifestyles. The unique architecture is ancient houses up to 200 years old and many preserved family churches. The long-standing culture leaves its mark in every house, alley, and cultural customs. Nom village gate is a special architectural style, built in the style of eight pillars. The type of gate that only princes of ancient times had. The village gate consists of four square pillars carved with many motifs, in front there are three words on the gate arch: Dong Cau Nom. The village roads are paved with red bricks, and the pond's banks incorporate many "water stations". In the past, these ponds were often used by people to wash their hands and feet or go down to get water. Nom village has a large pond, ancient architectural complexes are concentrated around it, creating a space very typical of the countryside of the ancient North. The village has many churches and is still being built. In general, the basic architecture is quite similar with typical traditional classical details. On hot summer days, the village pond is always a place for people in Nom village to enjoy and cool off. This is also a place for community activities for people. Nom Village has emerged as a typical traditional Vietnamese village architecture, but is currently facing the risk of being lost and gradually receding into oblivion. In the east of the village is a beautiful stone bridge across the Nguyet Duc river, connecting the village road with Nom market and Nom pagoda. The stone bridge is made of large stone slabs, the two sides of the bridge are carved with dragon heads, and the bridge is supported by stone pillars. Not only does it have historical and cultural value, this stone bridge is also considered by heritage researchers to be a unique work never seen in any ancient village of the Red River Delta. Through the mossy village gate, the scene inside is typical of an ancient Vietnamese village. The small houses are tinged with the color of time, the daily activities of the people take place calmly and peacefully in a slow pace of life. Nom village communal house. Space inside the communal house. Nom village pagoda was built on a grand scale. According to many ancient documents, the pagoda was built on a large pine hill in the Later Le Dynasty. However, many researchers believe that the temple's vestiges show a history that spans thousands of years.
Ba Na Hills Golf Club 4 năm liên tiếp là “Sân Golf tốt nhất châu Á” Ngày 29/10/2020, Ba Na Hills Golf Club – sân golf do Tập đoàn Sun Group kiến tạo và Tập đoàn IMG quản lý – tiếp tục làm nên niềm tự hào cho ngành công nghiệp golf của Việt Nam, với việc giành cú đúp danh hiệu “Sân golf tốt nhất Châu Á” và “Sân golf tốt nhất Việt Nam” tại Lễ trao giải World Golf Awards 2020. Lễ trao giải thưởng golf thế giới lần thứ bảy đã đánh dấu lần thứ tư liên tiếp Ba Na Hills Golf Club đạt được cú đúp giải thưởng danh giá từ World Golf Awards. Đây cũng là năm thứ năm liên tiếp sân golf do Tập đoàn Sun Group đầu tư và Tập đoàn IMG quản lý xuất sắc vượt qua nhiều đối thủ trong khu vực, để được vinh danh tại giải thưởng golf uy tín bậc nhất thế giới này, kể từ khi được bầu chọn là “Sân golf mới tốt nhất thế giới” vào năm 2016 – năm khai sinh sân golf. “Đây thật sự là thành tích tuyệt vời của Ba Na Hills Golf Club khi họ đạt được giải thưởng này trong suốt 4 năm liên tiếp mặc cho sự cạnh tranh rất quyết liệt” – Ông Christ Frost, Giám đốc điều hành của World Golf Awards cho biết – “Tuy nhiên, chiến thắng với số lượng phiếu bình chọn nhiều nhất chính là minh chứng rõ ràng cho chất lượng dịch vụ tuyệt vời của Ba Na Hills Golf Club, đặc biệt hơn là số phiếu này đều đến từ các chuyên gia của ngành golf và các khách hàng đã trải nghiệm sản phẩm golf nơi đây.” Mới đây vào tháng 9, Ba Na Hills Golf Club cũng xuất sắc được giải thưởng Travellers’ Choice Awards của Tripadvisor xướng danh trong top 10% các địa điểm tham quan du lịch ngoài trời thu hút khách và đạt được đánh giá về dịch vụ tốt nhất trên thế giới. Đón nhận chuỗi giải thưởng quốc tế danh giá, ông Tim Haddon, Tổng quản lý Ba Na Hills Golf Club tâm huyết chia sẻ: “Chúng tôi vô cùng vui mừng khi liên tiếp được vinh danh tại các giải thưởng uy tín nhất thế giới, đặc biệt đây là lần thứ tư liên tiếp Ba Na Hills Golf Club nhận được giải thưởng danh giá từ World Golf Awards. Với sự phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất lượng của các sân golf trong khu vực châu Á trong những năm gần đây, giải thưởng này thật sự là một sự ghi nhận, và là một thành tích đáng kinh ngạc, tự hào. Có thể nói, trong bối cảnh dịch bệnh như hiện nay, Việt Nam đang là một trong những quốc gia, điểm đến du lịch an toàn nhất, và chúng tôi rất mong được chào đón khách chơi golf đến với Ba Na Hills Golf Club để có thể trải nghiệm vẻ đẹp và chất lượng dịch vụ nơi đây.” Được thiết kế bởi cựu golf thủ số 1 thế giới – Luke Donald và quản lý bởi IMG, Ba Na Hills Golf Club là sân golf tuyệt đẹp nằm giữa khu rừng nguyên sinh xanh mướt dưới chân núi Bà Nà hùng vĩ, chỉ cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 25 phút lái xe. Từ khi thành lập, với cảnh sắc nên thơ có một không hai cùng tiện nghi hiện đại bậc nhất, Ba Na Hills Golf Club đã trở thành điểm đến lý tưởng và đầy sức hút với giới doanh nhân, golf thủ khi đến với Đà Nẵng. Không chỉ là sân golf duy nhất tại Đà Nẵng được trang bị hệ thống đèn chiếu sáng toàn diện cho 18 hố golf, Ba Na Hills Golf Club còn sở hữu sân tập đẳng cấp gồm 18 thảm tập cùng các khu vực dành cho short-game, học viện golf, nhà hàng, bar, phòng ăn VIP… cực kỳ sang trọng. Sân golf cũng được xếp hạng tại vị trí thứ 89 trong Bảng xếp hạng 100 sân golf tuyệt vời nhất trên thế giới được bình chọn bởi các chuyên gia của Golf Digest. Luke Donald – cựu golf thủ số 1 thế giới cũng chia sẻ niềm tự hào khi “đứa con tinh thần” của mình được đón nhận nồng nhiệt và nhận đánh giá cao từ giới phê bình cũng như các bảng xếp hạng sân golf uy tín. Golf thủ nổi tiếng nhấn mạnh: “ Nằm giữa những khu rừng nguyên sinh và núi non hùng vĩ, đây không chỉ là một sân golf đẹp mà nó còn có địa hình hoàn hảo để các golf thủ tự thử thách chính bản thân mình.” Từ khi thành lập vào năm 2014, Giải thưởng golf thế giới – World Golf Awards được đánh giá là một trong những giải thưởng uy tín nhất nhằm tôn vinh những đại diện xuất sắc trong lĩnh vực golf trên toàn thế giới, với hội đồng bình chọn gồm các chuyên gia uy tín và chính các khách chơi golf đã trải nghiệm dịch vụ. Năm năm liên tiếp giữ vững danh hiệu của World Golf Awards, sân golf dưới chân núi Bà Nà đã một lần nữa khẳng định chỗ đứng của mình trong lòng những người đam mê bộ môn thể thao quý tộc, đồng thời củng cố vị thế Ba Na Hills Golf Club trên bản đồ du lịch golf Việt Nam và khu vực. Những danh hiệu này cũng chứng tỏ yếu tố “chất lượng – đẳng cấp – khác biệt” của các công trình do Tập đoàn Sun Group kiến tạo, với mục tiêu và nỗ lực không ngừng nghỉ để góp phần đưa ngành du lịch golf Việt Nam nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung vươn tầm thế giới.
Ba Na Hills Golf Club 4 consecutive years is “Best Golf Course in Asia” On October 29, 2020, Ba Na Hills Golf Club - a golf course created by Sun Group and managed by IMG Group - continued to make Vietnam's golf industry proud, by winning a double. the title "Best golf course in Asia" and "Best golf course in Vietnam" at the World Golf Awards 2020. The seventh World Golf Awards ceremony marked the fourth consecutive time Ba Na Hills Golf Club has achieved a double prestigious award from the World Golf Awards. This is also the fifth consecutive year that the golf course invested by Sun Group and managed by IMG Group has excelled, surpassing many competitors in the region, to be honored at this most prestigious golf award in the world. since being voted "Best New Golf Course in the World" in 2016 - the year the golf course was born. “This is truly a great achievement for Ba Na Hills Golf Club as they have achieved this award for 4 consecutive years despite very fierce competition.” – Mr. Christ Frost, CEO of World Golf Awards said – “However, winning with the most votes is a clear testament to the excellent service quality of Ba Na Hills Golf Club, more specifically, these votes all come from golf industry experts. and customers have experienced golf products here.” Recently in September, Ba Na Hills Golf Club was also honored by Tripadvisor's Travelers' Choice Awards in the top 10% of outdoor tourist attractions that attract visitors and achieve good service ratings. most in the world. Receiving a series of prestigious international awards, Mr. Tim Haddon, General Manager of Ba Na Hills Golf Club enthusiastically shared: “We are extremely happy to be continuously honored at the most prestigious awards in the world, especially this is the fourth consecutive time Ba Na Hills Golf Club has received a prestigious award from the World Golf Awards. With the strong growth in both quantity and quality of golf courses in Asia in recent years, this award is truly a recognition, and an incredible achievement to be proud of. . It can be said that, in the current epidemic context, Vietnam is one of the safest countries and tourist destinations, and we look forward to welcoming golfers to Ba Na Hills Golf Club to play. can experience the beauty and quality of service here.” Designed by former world Không. 1 golfer - Luke Donald and managed by IMG, Ba Na Hills Golf Club is a beautiful golf course located in the middle of the lush primeval forest at the foot of the majestic Ba Na mountain, just far from the center. Da Nang city about 25 minutes drive. Since its establishment, with unique poetic scenery and the most modern amenities, Ba Na Hills Golf Club has become an ideal and attractive destination for businessmen and golfers when coming to Da Nang. . Not only is it the only golf course in Da Nang equipped with a comprehensive lighting system for 18 golf holes, Ba Na Hills Golf Club also owns a classy practice field with 18 practice mats and areas for short-games. , golf academy, restaurant, bar, VIP dining room... extremely luxurious. The golf course is also ranked at number 89 in the ranking of the 100 best golf courses in the world voted by Golf Digest experts. Luke Donald - former Không. 1 golfer in the world also shared his pride when his "brainchild" was warmly received and received high ratings from critics as well as prestigious golf course rankings. The famous golfer emphasized: “ Located between primeval forests and majestic mountains, this is not only a beautiful golf course but it also has the perfect terrain for golfers to challenge themselves.” Since its establishment in 2014, the World Golf Awards has been considered one of the most prestigious awards to honor outstanding representatives in the field of golf around the world, with a panel of judges. The selection includes reputable experts and golfers who have experienced the service. Maintaining the title of the World Golf Awards for five consecutive years, the golf course at the foot of Ba Na mountain has once again affirmed its position in the hearts of enthusiasts of the aristocratic sport, while consolidating its position as a top three. Na Hills Golf Club on the golf tourism map of Vietnam and the region. These titles also demonstrate the "quality - class - difference" factor of projects created by Sun Group, with the goal and tireless efforts to contribute to Vietnam's golf tourism industry. in particular and Vietnamese tourism in general reaches the world.
Cầu Vàng –“Đại sứ” đưa du lịch Việt Nam ra thế giới Không chỉ là biểu tượng của sự sáng tạo, Cầu Vàng ngay từ khi ra đời cho đến nay vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật thăng hoa. Thông qua các chương trình nghệ thuật đa dạng, Cầu Vàng đã trở thành “đại sứ” tuyệt vời kết nối Việt Nam với thế giới. Nơi nghệ thuật thăng hoa Tháng 10/2020, trong khi làng âm nhạc thế giới và trong nước đang hết sức trầm lắng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 thì Việt Nam bất ngờ trở thành tâm điểm chú ý bởi Lễ hội âm nhạc trực tuyến quốc tế United We Stream Asia (UWSA) diễn ra tại Cầu Vàng (Khu du lịch Sun World Ba Na Hills , Đà Nẵng ). Dự án âm nhạc phi lợi nhuận nhằm gây quỹ đóng góp cho cộng đồng nghệ sỹ châu Á trong dịch Covid-19 đã tạo nên hiệu ứng ấn tượng trong làng âm nhạc thế giới, thu hút lượng người xem lớn và lan tỏa thông điệp tích cực tới khán giả toàn cầu. Lễ hội âm nhạc trực tuyến quốc tế United We Stream Asia Bên cạnh những thể nghiệm âm nhạc độc đáo, mới lạ mang màu sắc dân gian đương đại của các nghệ sĩ, điều khiến cho khán giả trên toàn thế giới choáng ngợp là sân khấu độc nhất vô nhị của UWSA. Không gian ảo diệu, huyền bí của Cầu Vàng biến đổi kỳ ảo từ hoàng hôn cho tới đêm muộn hòa quyện tinh tế với các thể nghiệm âm nhạc dân gian nhiều màu sắc đã đưa khán giả khắp thế giới phiêu bồng qua những cung bậc cảm xúc bất tận. Lễ hội âm nhạc trực tuyến quốc tế United We Stream Asia Thực tế, chẳng phải đến sự kiện UWSA Cầu Vàng mới được thế giới biết đến như là biểu tượng cho sự sáng tạo và là sân khấu độc nhất vô nhị cho nghệ thuật, nơi thời trang, nhiếp ảnh, âm nhạc… thăng hoa. Năm 2018, khi ra đời chỉ chưa đầy 1 tháng, trang web về kiến trúc uy tín bậc nhất thế giới đã tán dương Cầu Vàng là “cây cầu có thiết kế táo bạo của Việt Nam”. Cũng trong cùng năm đó, đạo diễn nổi tiếng Long Kan và ekip gồm hàng loạt các nhà thiết kế nổi tiếng đã gây tiếng vang lớn khi thực hiện thành công show diễn thời trang “Dạo bước trên mây” (show diễn đầu tiên thuộc Fashion Voyage) trên Cầu Vàng. L ần đầu tiên, Cầu Vàng ở độ cao 1.400 m so với mực nước biển được biến thành sàn diễn kỳ công, nơi các bộ sưu tập đẳng cấp của các nhà thiết kế nổi tiếng như: Chung Thanh Phong, Lê Ngọc Lâm và Lê Thanh Hòa thăng hoa. Show diễn Dạo bước trên mây tại Cầu Vàng Cây cầu nổi tiếng này cũng trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho giới nhiếp ảnh gia và những người đam mê chụp ảnh. Nhờ các những bức ảnh để đời chụp Cầu Vàng, Jason Goh-một chàng trai người Malaysia bỗng dưng nổi tiếng toàn thế giới và có tới 25.000 tài khoản follow chỉ sau 2 ngày. Mới đây nhất, bức ảnh Cầu Vàng của nhiếp ảnh gia Trần Tuấn Việt giành giải cao nhất tại Cuộc thi Architecture 2020 do Agora tổ chức. Kết nối Việt Nam với thế giới Không quá khi nói rằng Cầu Vàng đã làm xuất sắc nhiệm vụ của một “đại sứ du lịch”. Từ sân khấu tuyệt vời cho nghệ thuật thăng hoa, Cầu Vàng đã lan tỏa hình ảnh một Việt Nam mới đầy hấp dẫn tới toàn thế giới. “Cơn bão” mang tên Cầu Vàng đã khiến cái tên Đà Nẵng, Việt Nam được thế giới biết đến nhanh đến không ngờ. Lượng khách quốc tế đến Đà Nẵng tăng ấn tượng. Trong đó, giai đoạn cuối tháng 7/2018, cứ 3 khách quốc tế liên hệ đặt tour thì 2 khách yêu cầu check-in Cầu Vàng ở Bà Nà Hills. Cầu Vàng tại Sun World Ba Na Hills Và sự kiện gần đây nhất – UWSA lại tiếp tục thể hiện tinh thần kết nối của cây cầu kỳ lạ nhất Đà Nẵng này. Tinh thần đó đến từ cái “duyên” đại sứ của Cầu Vàng, từ cả tâm huyết của người làm nên sự kiện, như chia sẻ về lý do chọn Cầu Vàng làm sâu khấu để tổ chức chương trình biểu diễn ngoài trời đầu tiên của UWSA của Tổng đạo diễn Cao Trung Hiếu: “Mỗi lần tới đây, tôi đều ấp ủ một ước mơ, đó là đưa một buổi diễn âm nhạc lên Cầu Vàng, tôi tin rằng đây sẽ là một sân khấu cực kỳ ấn tượng và “không đụng hàng”. Bởi vậy, khi bắt tay vào thực hiện sự kiện âm nhạc của UWSA tại Đà Nẵng và đưa ra ý tưởng thực hiện buổi diễn ở ngoài trời, nhất định tôi phải thực hiện ở Cầu Vàng. Ngoài việc tạo ra một sân chơi cho nghệ sĩ thì sự kiện này cũng là cơ hội tuyệt vời để quảng bá văn hóa, du lịch, nghệ thuật của Đà Nẵng nói riêng và Việt Nam nói chung tới bạn bè quốc tế.”. Quả thực, sự kiện UWSA cùng hình ảnh Cầu Vàng đã được lan tỏa mạnh mẽ sau buổi livestream ngày 8/10, thu hút một lượng tương tác lớn với khoảng 10.000 lượt view. Rất nhiều khán giả khắp nơi trên thế giới đã dành những lời thán phục và tán dương không ngớt trước vẻ đẹp của cây Cầu Vàng với những mỹ từ như “tuyệt vời”, choáng ngợp”… Đã hơn 2 năm trôi qua kể từ khi “làm mưa làm gió” truyền thông và giới xê dịch quốc tế, nhưng sức nóng của Cầu Vàng vẫn chưa khi nào hạ nhiệt. Đây vẫn là điểm khát khao phải đến của đông đảo du khách trong và ngoài nước. Sự xuất hiện liên tiếp của cây cầu nổi tiếng trong các sự kiện nghệ thuật đình đám trong và ngoài nước càng là minh chứng cho sự độc đáo, sáng tạo và sức cuốn hút khó cưỡng của công trình này.
Golden Bridge – "Ambassador" bringing Vietnamese tourism to the world Not only a symbol of creativity, the Golden Bridge, from its inception until now, has always been an endless source of inspiration for sublimated art. Through diverse art programs, Golden Bridge has become a great "ambassador" connecting Vietnam with the world. Where art flourishes In October 2020, while the world and domestic music industry was extremely quiet due to the impact of the Covid-19 pandemic, Vietnam suddenly became the focus of attention with the International Online Music Festival. United We Stream Asia (UWSA) takes place at Cau Vang (Tourism Area Sun World Ba Na Hills , Danang ). The non-profit music project to raise funds to contribute to the Asian artist community during the Covid-19 epidemic has created an impressive effect in the world music industry, attracting a large number of viewers and spreading a positive message. to a global audience. United We Stream Asia international online music festival Besides the artists' unique and new musical experiences with contemporary folk colors, what makes audiences around the world overwhelmed is UWSA's unique stage. The magical, mysterious space of the Golden Bridge magically transforms from sunset to late night, subtly blending with colorful folk music experiences that have taken audiences around the world to wander through a range of emotions. endless contact. International online music festival United We Stream Asia In fact, it wasn't until the UWSA Golden Bridge event that the world became known as a symbol of creativity and a unique stage for art, where fashion, photography, music... flourish. In 2018, less than a month after its launch, the world's most prestigious architectural website praised the Golden Bridge as "a bridge with bold Vietnamese design". Also in the same year, famous director Long Kan and his crew including a series of famous designers made a big splash when successfully carrying out the fashion show "Walking on the Clouds" (the first show of Fashion Voyage) on the Golden Bridge. L For the first time, the Golden Bridge at an altitude of 1,400 m above sea level is transformed into a marvelous catwalk, where high-class collections of famous designers such as Chung Thanh Phong, Le Ngoc Lam and Le Thanh will be presented. Sublime harmony. Show Walking on the Clouds at Golden Bridge This famous bridge has also become an endless source of inspiration for photographers and photography enthusiasts. Thanks to his lifetime photos taken at the Golden Bridge, Jason Goh - a Malaysian guy - suddenly became famous worldwide and had up to 25,000 accounts following him in just 2 days. Most recently, photographer Tran Tuan Viet's photo of the Golden Bridge won the top prize at the 2020 Architecture Competition organized by Agora. Connecting Vietnam to the world It is not an exaggeration to say that Golden Bridge has excelled in its duties as a "tourism ambassador". From a wonderful stage for sublimating art, Golden Bridge has spread the image of an attractive new Vietnam to the whole world. The "storm" named Golden Bridge made the name Da Nang, Vietnam known to the world incredibly quickly. The number of international visitors to Da Nang increased impressively. In particular, at the end of July 2018, for every 3 international visitors who contacted to book a tour, 2 requested to check-in to the Golden Bridge in Ba Na Hills. Golden Bridge at Sun World Ba Na Hills And the most recent event - UWSA continues to demonstrate the connecting spirit of this strangest bridge in Da Nang. That spirit comes from the "charm" of being an ambassador of the Golden Bridge, from the enthusiasm of the person who created the event, such as sharing the reason for choosing the Golden Bridge as the stage to organize the first outdoor performance of the event. UWSA General Director Cao Trung Hieu: "Every time I come here, I cherish a dream, which is to bring a music show to the Golden Bridge. I believe this will be an extremely impressive stage and " not in touch". Therefore, when I started working on the UWSA music event in Da Nang and came up with the idea of ​​doing an outdoor show, I definitely had to do it at the Golden Bridge. In addition to creating a playground for artists, this event is also a great opportunity to promote culture, tourism, and art of Da Nang in particular and Vietnam in general to international friends.". Indeed, the UWSA event and the image of the Golden Bridge were widely spread after the livestream on October 8, attracting a large amount of interaction with about 10,000 views. Many audiences around the world have endlessly admired and praised the beauty of the Golden Bridge with beautiful words like "wonderful", "overwhelming"... More than 2 years have passed since it "made waves" in the media and international travel circles, but the heat of the Golden Bridge has never cooled down. This is still a must-visit destination for many domestic and foreign tourists. The famous bridge's continuous appearance in famous art events at home and abroad is further proof of the uniqueness, creativity and irresistible attraction of this project.
Những điều cần lưu ý khi tắm onsen kiểu Nhật để đạt hiệu quả tốt nhất cho cơ thể Để cảm nhận văn hóa onsen độc đáo của người Nhật và tận hưởng tối đa lợi ích của tắm onsen với sức khỏe, thì quy trình tắm onsen thế nào cho chuẩn là điều bạn cần lưu ý kỹ trước khi quyết định trải nghiệm. Là bởi mỗi công đoạn tắm onsen đều có lý do và công dụng riêng của nó. Tắm khoáng nóng – Phép màu cho sức khỏe Theo nghiên cứu của các chuyên gia người Pháp từ thời Pháp thuộc, suối khoáng Quang Hanh vốn đã được ghi nhận là một trong những nguồn khoáng giá trị cao tại Việt Nam. Ông Wataru Shintaku, chuyên gia lâu năm trong lĩnh vực suối khoáng nóng tại Nhật Bản, Giám đốc Yoko Onsen Quang Hanh nhận định: “Những kết quả phân tích mẫu nước khoáng Quang Hanh tại Tokyo, Nhật Bản cho thấy nguồn khoáng ở đây chứa lượng khoáng chất rất quý giá, trong đó có chứa axit metasilic, axit boric, hàm lượng Ion Na+ và Cl- chiếm tới hơn 20g/l, và đặc biệt tỷ lệ Brom lớn tới 40mg/l. Là một trong ba mỏ nước khoáng có hàm lượng Brom nóng khoáng hóa cao nhất thế giới, suối khoáng Quang Hanh thật sự là món quà vô giá thiên nhiên ban tặng cho vùng đất Quang Hanh, mang lại hiệu quả thư giãn, chăm sóc sức khỏe tuyệt vời, đặc biệt là cho người có tuổi và người làm việc căng thẳng”. Với hàm lượng khoáng chất quý giá và đặc biệt là nồng độ Brom cao như vậy, nước khoáng tại Quang Hanh giúp đào thải độc tố, thúc đẩy tuần hoàn máu, tăng cường miễn dịch, hỗ trợ điều trị các bệnh về da, trẻ hóa da, giúp giãn thần kinh, dễ ngủ và sảng khoái sau mỗi ngày làm việc; giảm mỏi mệt, đau nhức, phục hồi nhanh các chức năng cơ, khớp; thích hợp cho phụ nữ, người già, trẻ em, đặc biệt rất tốt cho người lao động nặng và hoạt động thể thao. Natri Clorua khi đọng trên da làm hạn chế tiết mồ hôi, làm ấm cơ thể từ bên trong, kích thích tuần hoàn máu dưới da, từ đó giảm căng cơ, điều trị một số bệnh về khớp và tiêu hóa. Trong khi đó, Axit Metasilic và Boric có tác dụng điều trị các bệnh viêm loét dạ dày, sỏi tiết niệu và các bệnh về da. Một điểm đặc biệt nữa, đó là nước khoáng tại Yoko Onsen rất giàu khoáng chất giúp giữ ẩm cho da và có độ PH trung tính, nên hầu hết tất cả mọi người đều có thể trải nghiệm, kể cả những người có làn da nhạy cảm nhất. Tắm onsen đúng chuẩn Nhật Bản – những điều bạn cần biết Để tối ưu hóa những lợi ích về sức khỏe mà nguồn khoáng nóng tại Quang Hanh mang tới và đặc biệt là đảm bảo an toàn, tránh được những rủi ro như sốc nhiệt, tăng áp khi tắm onsen, bạn cần tuân thủ đúng quy trình tắm onsen chuẩn Nhật, với các bước tắm lần lượt gồm: Tắm tráng, tắm khoáng nóng, xông hơi nóng, xông hơi lạnh hoặc ngâm mình bồn nước lạnh. Tắm tráng: Trước khi tắm khoáng, bạn cần tắm rửa sạch sẽ tại khu vực tắm tráng hoặc khu vực tắm ngồi để đảm bảo nguồn nước chung luôn sạch. Tại khu vực tắm tráng, xà phòng, dầu gội đã được chuẩn bị sẵn cho bạn. Tắm khoáng nóng: Bạn có thể lựa chọn khu tắm tiên (tắm nude) hoặc khu tắm khoáng ngoài trời. Khu tắm tiên chia thành 2 khu vực riêng biệt cho nam và nữ, gồm các loại hình bể tắm đá, bể chum, bể nằm, bể hang với nền nhiệt khác nhau, khoảng trên dưới 40 độ C. Thời gian tắm tùy theo nhiệt độ các bể và sức khỏe mỗi người. Còn tại khu bể tắm khoáng công cộng ngoài trời, bạn có thể mặc đồ bơi, nam nữ có thể cùng thư thái ngâm mình trong các bể tắm và ngắm phong cảnh đẹp yên bình xung quanh, hít thở bầu không khí trong lành của vùng núi Quang Hanh. Ngâm mình trong làn nước khoáng nóng giàu dưỡng chất quý giá, cảm nhận cơ thể hoàn toàn thư giãn và tĩnh tâm, mọi mệt mỏi và căng thẳng dường như tan biến. Lưu ý rằng bạn không nên để nước ngập quá vai, vì khi đó áp lực nước sẽ đè nặng lên phổi và tim, đặc biệt người có bệnh tim mạch và cao huyết áp thì càng cần chú ý. Bạn có thể dùng một chiếc khăn nhỏ được phát khi check-in để quấn trên đầu, với mục đích là để giữ nhiệt cho cơ thể, ổn định huyết áp và dùng thấm mồ hôi bất cứ lúc nào cần. Xông hơi nóng: Để chu trình tắm đạt hiệu quả cao nhất, sau khi tắm khoáng, bạn nên xông hơi để giúp da sạch, thông thoáng và các tinh chất khoáng sẽ thẩm thấu vào lỗ chân lông tốt hơn. Bạn có thể lựa chọn xông hơi thường hoặc xông đá muối Himalaya. Phòng xông hơi thông thường có nhiệt độ lên đến 80-85 độ C, ở đây bạn nên xông tối đa khoảng 15 phút. Còn với liệu pháp xông đá muối có nhiệt độ 45 đến 50 độ C, đây là liệu pháp thải độc cơ thể bằng cách nằm trên các mặt đá tự nhiên được làm nóng. Những tấm đá muối Himalaya có tác dụng như cỗ máy lọc không khí tự nhiên, giúp hỗ trợ điều trị các bệnh về đường hô hấp, chứng đau đầu và bệnh về xương khớp. Xông hơi lạnh/Ngâm bồn lạnh Sau khi xông nóng, xông hơi lạnh sẽ giúp cơ thể sảng khoái, đồng thời se khít lỗ chân lông, rất tốt cho da. Với nhiệt độ khoảng 6 đến 10 độ C, bạn không nên bước vào phòng lạnh quá đột ngột và chỉ nên xông không quá 5 phút. Ngoài ra, bạn cũng có thể trải nghiệm bồn tắm lạnh ở nhiệt độ 14- 18 độ C, với tác dụng làm mát cơ thể, se khít lỗ chân lông và giúp sảng khoái tức thì. Nếu có thể, bạn nên lặp đi lặp lại chu trình tắm khoáng nóng/xông hơi nóng/lạnh khoảng 2-3 lần, tùy theo sức khỏe. Phương pháp tắm xen kẽ này giúp kích thích các dây thần kinh giao cảm, giải tỏa mọi mệt mỏi, giúp cơ thể khỏe khoắn và được nạp đầy năng lượng sau một buổi tắm onsen. Một điều cần lưu ý, đó là trước khi tắm khoáng, bạn nên ăn nhẹ, không nên ăn quá no và uống đầy đủ nước để tránh tình trạng mất nước trong quá trình tắm. Hãy luôn bước vào bể tắm một cách chậm rãi, dùng nước nóng trong hồ xối nhẹ lên vùng bụng và ngực. Động tác này giúp cơ thể làm quen với nhiệt độ nước và rất tốt về phương diện y học. Sau khi kết thúc quy trình tắm, bạn chỉ cần thấm khô, ngồi nghỉ ngơi và uống bù nước cho cơ thể, không cần phải tắm tráng lại, để các khoáng chất quý giá tiếp tục thẩm thấu vào làn da và đạt hiệu quả chăm sóc cơ thể tốt nhất. Tắm khoáng đúng quy trình sẽ tối đa lợi ích cho sức khỏe. Bạn cũng nên nhớ, tắm khoáng là quá trình tận hưởng đúng nghĩa, chứ không như đi tắm bể bơi, do đó, mỗi người nên có ý thức giữ cho không gian tắm khoáng không chỉ sạch sẽ, vệ sinh mà còn thật tĩnh lặng, thư thái cho tâm hồn.
Things to keep in mind when bathing in a Japanese-style onsen to achieve the best results for your body To feel the unique Japanese onsen culture and enjoy the maximum health benefits of onsen bathing, the correct onsen bathing procedure is something you need to pay close attention to before deciding to experience it. That's because each stage of onsen bathing has its own reason and use. Hot mineral bath - Miracle for health According to research by French experts from the French colonial period, Quang Hanh mineral spring has been recognized as one of the high-value mineral sources in Vietnam. Mr. Wataru Shintaku, a longtime expert in the field of hot mineral springs in Japan, Director of Yoko Onsen Quang Hanh commented: "Analysis results of Quang Hanh mineral water samples in Tokyo, Japan show that the mineral source here contains very valuable minerals, including metasilicic acid, boric acid, and Na+ and Cl- ion content of more than 20g/l, and especially the Bromine ratio is up to 40mg/l. As one of three mineral water mines with the highest mineralized hot bromine content in the world, Quang Hanh mineral spring is truly a priceless gift from nature to Quang Hanh land, bringing relaxation and health care effects. Excellent health, especially for the elderly and people with stressful jobs. With valuable mineral content and especially high Bromine concentration, mineral water at Quang Hanh helps eliminate toxins, promote blood circulation, enhance immunity, and support the treatment of skin and children's diseases. Skin brightening, helps relax nerves, help you sleep easily and feel refreshed after each working day; Reduce fatigue, pain, quickly restore muscle and joint functions; Suitable for women, the elderly, and children, especially good for people doing heavy labor and sports activities. Sodium Chloride, when deposited on the skin, limits sweating, warms the body from the inside, stimulates blood circulation under the skin, thereby reducing muscle tension and treating some joint and digestive diseases. Meanwhile, Metasilic and Boric Acid are effective in treating stomach ulcers, urinary stones and skin diseases. Another special point is that the mineral water at Yoko Onsen is rich in minerals that help moisturize the skin and has a neutral PH, so almost everyone can experience it, including those with sensitive skin. most emotional. Japanese standard onsen bathing - what you need to know To optimize the health benefits that hot mineral resources at Quang Hanh bring and especially to ensure safety and avoid risks such as heat shock and pressure surges when bathing onsen, you need to follow the correct procedures. Japanese standard onsen bath, with bathing steps including: Rinsing bath, hot mineral bath, hot sauna, cold sauna or soaking in a cold water bath. Bathing: Before taking a mineral bath, you need to clean yourself in the bathing area or sit-down bathing area to ensure the common water source is always clean. In the bathing area, soap and shampoo are prepared for you. Hot mineral bath: You can choose the private bathing area (nude bathing) or the outdoor mineral bathing area. The fairy bathing area is divided into two separate areas for men and women, including different types of stone baths, jar pools, lying pools, and cave pools with different temperatures, around 40 degrees Celsius. Bathing time depends on the temperature. tank level and each person's health. At the outdoor public mineral bath area, you can wear swimsuits, men and women can relax together in the baths and admire the beautiful peaceful scenery around, breathing in the fresh air of the region. Quang Hanh mountain. Soak in the hot mineral water rich in precious nutrients, feel your body completely relax and calm, all fatigue and stress seem to disappear. Note that you should not let the water exceed your shoulders, because then the water pressure will put pressure on the lungs and heart. People with cardiovascular disease and high blood pressure especially need to be more careful. You can use a small towel given when you check-in to wrap your head, with the purpose of keeping body heat, stabilizing blood pressure and using it to absorb sweat anytime needed. Hot sauna: In order for the bathing cycle to be most effective, after a mineral bath, you should steam to help your skin be clean, clear and the mineral essences will penetrate the pores better. You can choose from a regular sauna or a Himalayan salt rock sauna. Normal saunas have temperatures up to 80-85 degrees Celsius, here you should steam for a maximum of about 15 minutes. As for salt rock therapy with a temperature of 45 to 50 degrees Celsius, this is a therapy to detoxify the body by lying on heated natural stone surfaces. Himalayan salt stones act as natural air purifiers, helping to treat respiratory diseases, headaches and bone and joint diseases. Cold sauna/Cold bath After a hot sauna, a cold sauna will help refresh the body and tighten pores, which is very good for the skin. With a temperature of about 6 to 10 degrees Celsius, you should not enter the cold room too suddenly and should only steam for no more than 5 minutes. In addition, you can also experience a cold bath at a temperature of 14-18 degrees Celsius, with the effect of cooling the body, tightening pores and instantly refreshing. If possible, you should repeat the hot mineral bath/hot/cold sauna cycle about 2-3 times, depending on your health. This alternating bathing method helps stimulate sympathetic nerves, relieve all fatigue, and help the body stay healthy and fully energized after an onsen bath. One thing to note is that before bathing in minerals, you should eat lightly, not eat too much and drink enough water to avoid dehydration during the bathing process. Always step into the bath slowly, using hot water in the pool to gently splash your abdomen and chest. This movement helps the body get used to the water temperature and is very good from a medical standpoint. After finishing the bathing process, you just need to pat dry, sit down to rest and drink water to rehydrate your body, no need to rinse again, so that the valuable minerals continue to penetrate the skin and achieve effective skin care. best body care. Bathing in minerals properly will maximize health benefits. You should also remember that mineral bathing is a process of true enjoyment, not like swimming in a swimming pool, so each person should be conscious of keeping the mineral bathing space not only clean and hygienic but also quiet. , relaxing for the soul.
Sun World Ba Na Hills bật mí về một đêm tiệc Halloween đặc biệt nhất từ trước đến nay 31/10 này, khu du lịch Sun World Ba Na Hills sẽ mang đến cho du khách lễ hội Halloween đặc biệt mang chủ đề “ Phép thuật để hồi sinh ” với các show trình diễn công phu, ẩm thực hấp dẫn và không gian huyền bí đặc trưng của đêm hội . Được mệnh danh là “Châu Âu thu nhỏ trong lòng Đà Nẵng” với cây Cầu Vàng nổi danh thế giới, không gian hoa ngợp ngời tựa trời Âu bốn mùa khoe sắc, Sun World Ba Na Hills còn được biết đến là xứ sở hội hè với những lễ hội quy mô, đẳng cấp, tưng bừng quanh năm. Mùa đông năm nay, xứ sở Cầu Vàng sẽ đưa du khách du hành tới Châu Âu phóng khoáng và cuốn hút, khởi đầu là lễ hội Halloween kỳ thú diễn ra từ sáng sớm đến đêm khuya 31/10. Du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước một Bà Nà được khéo léo “biến hình” trong ngày lễ đặc biệt này. Quảng trường Du Dôme, Làng Pháp, Nhà thờ St Dennis, Beer Plaza,… trong phút chốc như trúng “lời nguyền phép thuật”, được bao phủ bởi một màu tím và cam huyền bí, ma mị, bởi sự xuất hiện của hàng ngàn trái bí ngô được tạo hình ngộ nghĩnh vào ban ngày, phát sáng lập lòe khi bóng tối buông xuống, những tấm vải đen kết hợp mặt nạ quỷ kì quái, hình ảnh zombie, phù thủy, xác ướp… Tất cả được đặt khéo léo giữa hệ thống đèn chiếu sáng hiện đại của Sun World Ba Na Hills, hô biến thành phố cổ tích thường thấy trở thành một vương quốc phép thuật vừa kỳ quái, vừa cuốn hút khó cưỡng. Du khách sẽ bị cuốn vào ngày hội Halloween với những khung cảnh huyền ảo, kỳ bí nối dài mãi bởi hai show nghệ thuật độc đáo diễn ra vào lúc 11h00 và13h00. Trong trang phục rực rỡ sắc màu và những chiếc mặt nạ ấn tượng, các nghệ sĩ làm sống động thêm ngày lễ truyền thống của châu Âu bằng những vũ điệu sôi nổi những cũng đầy ma mị, khiến du khách phấn khích tận hưởng trọn vẹn không khí Halloween đúng chất giữa không gian se lạnh nơi miền núi Chúa. Đặc biệt, chương trình dạ tiệc “Đêm hồi sinh” diễn ra từ 18h00 tại nhà hàng Beer Plaza sẽ là món quà vô cùng độc đáo mà Sun World Ba Na Hills dành tặng cho các khách quý đến với “xứ sở phép thuật” mùa Halloween năm nay. Chương trình nghệ thuật hoành tráng với các show diễn được đầu tư công phu như minishow “Điệu nhảy đầu”, màn biểu diễn “Lời tỏ tình của hoàng tử bí ngô”, những giai điệu rộn ràng của ban nhạc “Tình yêu hồi sinh” và show chính hấp dẫn “Phép thuật để hồi sinh” sẽ cuốn du khách vào câu chuyện ly kỳ của Lâu đài bí ngô, chuyện tình trong sáng, nhiệm màu của hoàng tử Bí Ngô và nàng công chúa diễm lệ với đủ các cung bậc cảm xúc và thông điệp về sự hồi sinh mãnh liệt bất chấp sự đầu độc của virus tới thế giới xinh đẹp của chúng ta. Không chỉ được thưởng thức show diễn nghệ thuật ấn tượng, du khách còn được tặng các trang phục Halloween như mặt nạ, áo choàng… để hóa thân thành những nhân vật ma ngộ nghĩnh, thỏa sức nhảy múa, vui đùa trong Đêm dạ tiệc hồi sinh. Sau khi thỏa sức vui hội, Đêm dạ tiệc hồi sinh lại tiếp tục nối dài trải nghiệm bất tận của du khách bằng bữa tiệc thịnh soạn với những món ăn có tên gọi mang đậm sắc màu Halloween như Súp bí đỏ cồi sò điệp, than bò Úc nướng đút lò, cá hồi bí đỏ nghiền, gà tây xông khói tùng xẻo … mang đến cho du khách cảm nhận trọn vẹn một đêm lễ hội ma hệt như ở trời Âu. Ông Nguyễn Lâm An, Giám đốc khu du lịch Sun World Ba Na Hills chia sẻ : “ Đến hẹn lại lên, trong 4 năm trở lại đây chúng tôi đều tổ chức lễ hội Halloween theo những phong cách mới lạ, khác biệt . Năm nay, ảnh hưởng của Covid 19 lượng khách đến Bà Nà chưa đông nhưng chúng tôi vẫn đầu tư một lễ hội Halloween độc đáo, ấn tượng, nguyên bản Châu Âu, nhằm mang đến món ăn tinh thần đặc sắc cho người dân Đà Nẵng cùng du khách. Qua lễ hội này, Bà Nà Hills cũng muốn truyền đi thông điệp tích cực về sự hồi sinh sau những mất mát, khó khăn, về niềm tin vào tình yêu và tương lai tươi sáng phía trước ”. Nhân dịp Halloween, Sun World Ba Na Hills cũng triển khai chương trình ưu đãi đặc biệt. Khách hàng tham gia trải nghiệm chương trình Halloween Đêm dạ tiệc hồi sinh tối 31/10 sẽ được mua combo với mức giá ưu đãi 650.000 đồng/ người, gồm xe bus đưa đón, vé cáp treo 2 chiều (áp dụng cho trường hợp lên từ 14h chiều), buffet tối tại nhà hàng Beer Plaza. Khách lưu trú tại khách sạn Mercure Ba Na Hills French Village sẽ được ưu đãi giá buffet tối 300.000 đồng/người lớn, 150.000 đồng/trẻ em (áp dụng đối với khách sử dụng phòng khách sạn mức 1.790.000 đồng/đêm). Hotline tư vấn dịch vụ: 0905 766 777
Sun World Ba Na Hills reveals the most special Halloween party ever This October 31, tourist area Sun World Ba Na Hills will bring visitors the Halloween festival special with the theme " Magic to revival ” with elaborate shows, attractive cuisine and the mysterious atmosphere typical of the festival night . Dubbed "Miniature Europe in the heart of Da Nang" with the world-famous Golden Bridge, the flower space is as dazzling as the European sky blooming in all four seasons. Sun World Ba Na Hills It is also known as the land of festivals with large-scale, classy and jubilant festivals all year round. This winter, the land of the Golden Bridge will take tourists on a liberal and attractive trip to Europe, starting with the exciting Halloween festival taking place from early morning to late at night on October 31. Visitors will not be surprised by the cleverly "transformed" Ba Na on this special holiday. Du Dôme Square, French Village, St Dennis Church, Beer Plaza,... in an instant seemed to be hit by a "magic curse", covered in a mysterious and magical purple and orange color, due to the appearance of thousands of shops. Thousands of pumpkins are shaped into funny shapes during the day, glowing when darkness falls, black cloths combine strange demon masks, images of zombies, witches, mummies... All cleverly placed. The modern lighting system of Sun World Ba Na Hills cleverly transforms the usual fairy tale city into a magical kingdom that is both bizarre and irresistibly attractive. Visitors will be drawn into the Halloween festival with magical, mysterious scenes that last forever by two unique art shows taking place at 11:00 and 13:00. In colorful costumes and impressive masks, the artists enliven the traditional European holiday with exciting yet magical dances, making visitors excited and fully enjoy. True Halloween atmosphere amidst the chilly atmosphere of the mountainous region. In particular, the gala program "Revival Night" taking place from 6:00 p.m. at Beer Plaza restaurant will be an extremely unique gift that Sun World Ba Na Hills offers to distinguished guests coming to the "magic land" this season. Halloween this year. Spectacular art program with elaborately invested shows such as the minishow "First Dance", the performance "The Pumpkin Prince's Confession", the bustling melodies of the band "Revived Love". ” and the attractive main show “Magic to revive” will immerse visitors in the thrilling story of the Pumpkin Castle, the pure and magical love story of Prince Pumpkin and the beautiful princess with all the palaces. emotions and a message of strong revival despite the virus poisoning our beautiful world. Not only can they enjoy impressive art shows, visitors will also be given Halloween costumes such as masks, cloaks... to transform into funny ghost characters, freely dancing and having fun at the Gala Night. revival. After enjoying the fun, the revival gala night continues to extend the endless experience of visitors with a sumptuous party with dishes with Halloween-colored names such as Pumpkin Soup with Scallops and Charcoal. Grilled Australian beef, mashed pumpkin salmon, sliced ​​smoked turkey... give visitors the full experience of a night of ghost festivals just like in Europe. Mr. Nguyen Lam An, Director of Sun World Ba Na Hills tourist area shared: “ See you again, in the past 4 years we have been celebrating Halloween in new and different styles. special . This year, the impact of Covid 19 The number of visitors to Ba Na is not yet large, but we still invest in a unique, impressive, original European Halloween festival, aiming to brings unique spiritual dishes to Da Nang people and tourists. Through this festival, Ba Na Hills also wants to convey a positive message about revival after loss and difficulties, about belief in love and a bright future ahead. ”. On the occasion of Halloween, Sun World Ba Na Hills also launched a special promotion program. Customers participating in the Halloween Revival Party experience on the evening of October 31 will be able to purchase a combo at a preferential price of 650,000 VND/person, including shuttle bus, 2-way cable car ticket (applicable to boarding). from 2pm), dinner buffet at Beer Plaza restaurant. Guests staying at Mercure Ba Na Hills French Village hotel will receive a preferential buffet dinner price of 300,000 VND/adult, 150,000 VND/child (applicable to guests using hotel rooms at 1,790,000 VND/night). Service consulting hotline: 0905 766 777
Cầu Vàng Sứ giả đưa Việt Nam đến với thế giới giữa thời Covid-19 Đã một tuần trôi qua kể từ khi lên sóng, nhưng những dư âm đầy liêu trai của đêm nhạc quốc tế trực tuyến United We Stream Asia trên Cầu Vàng Đà Nẵng dường như chưa ngừng làm khán giả thổn thức. Cùng trò chuyện với Tổng đạo diễn Cao Trung Hiếu để khám phá thêm về sự kiện có một không hai này. Đạo diễn Cao Trung Hiếu Xin chào anh! Đêm nhạc quốc tế trực tuyến United We Stream Asia trên Cầu Vàng Đà Nẵng đã gây ấn tượng đặc biệt với khán giả yêu nhạc. Anh có thể chia sẻ thêm một số điều đặc biệt của buổi biểu diễn này? Đây là buổi diễn đầu tiên của United We Stream Asia (UWSA) ở ngoài trời, trong một khung cảnh vô cùng đáng nhớ là Cầu Vàng, cây cầu đã làm nên một biểu tượng mới cho du lịch Đà Nẵng. Với chất lượng hình ảnh và âm nhạc cao hơn hẳn các video trước của UWSA và mang một màu sắc khác biệt. Buổi livestream đã thu hút được khoảng 10.000 view và được livestream cả trên UWSA và United We Stream (UWS) quy mô thế giới. Đêm diễn đã được Mixmag Asia -tạp chí lớn của giới DJ đưa tin, VTV News và Viện Goethe hợp tác bảo trợ truyền thông cho chương trình. Đây là điều hiếm có với các chương trình chơi DJ thông thường. Tại sao lại là Cầu Vàng chứ không phải là một quán bar hay không gian trong nhà như thường thấy, thưa anh? Cộng đồng âm nhạc UWS và UWSA thường chơi ở trong nhà, ở các quán bar và đã diễn ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Lúc đầu nhóm nghệ sĩ UWS đề xuất chơi ở hai quán bar lớn tại Đà Nẵng và Hội An. Tuy nhiên khi tổ chức ở Đà Nẵng, tôi chợt nghĩ tại sao mình không diễn ở ngoài trời, giống như những buổi livetream music đình đám thế giới từng diễn ra ở tháp London hay Hồ muối Salar de Uyuni ở Bolivia. Cầu Vàng tại Sun World Ba Na Hills Cầu Vàng như một “đài vọng cảnh” của Đà Nẵng, từ trên Cầu Vàng có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố. Vì vậy, khi thực hiện buổi diễn ở Đà Nẵng nhất định tôi phải thực hiện ở Cầu Vàng. Đó luôn là ước mơ của tôi, được nung nấu trong mỗi lần tôi dẫn bạn bè, khách lên Bà Nà. Trên góc độ nghệ thuật, tôi muốn tạo ra một sân chơi cho nghệ sĩ. Và hơn thế nữa, chúng ta có thể thông qua sự kiện để quảng bá yếu tố văn hóa, du lịch, nghệ thuật của Đà Nẵng tới bạn bè quốc tế. Tôi đã liên hệ phía Sun World Ba Na Hills và nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình. Ngay lập tức ý tưởng đã được hiện thực hóa. Vậy còn các nghệ sĩ, làm thế nào để có được sự thống nhất của họ? Nghệ sĩ luôn muốn biểu diễn ở một khung cảnh không thể nào quên được và Cầu Vàng chính là khung cảnh như thế. Bởi vậy, chúng tôi không khó khăn khi thuyết phục các nghệ sĩ tham gia, đây là một cơ hội rất lớn dành cho họ. Điều quan trọng cuối cùng là lựa chọn âm nhạc để phù hợp với bối cảnh, sao cho âm nhạc và không gian có thể hòa quyện, tôn nhau lên. Lễ hội âm nhạc trực tuyến UWSA tại Cầu Vàng Chúng tôi đã cùng thống nhất chủ đề của buổi diễn và các nghệ sĩ phù hợp. Ngoài dòng nhạc Tech-house do DJ Pinki biểu diễn, còn thêm vào âm nhạc dân gian đương đại và âm hưởng truyền thống với màu sắc điện tử, có sự góp mặt của nhóm Tiny Giant và nghệ sĩ Lý Trang để phù hợp với khung cảnh Cầu Vàng. Lễ hội âm nhạc trực tuyến UWSA tại Cầu Vàng Thực tế, đây là lần đầu tiên các nghệ sĩ được diễn trong một sân khấu đẹp như vậy và họ đã rất phấn khích. Tại sao anh lại nghĩ rằng âm hưởng dân gian đương đại sẽ phù hợp với không gian Cầu Vàng? Chúng tôi muốn mang đến cho khán giả buổi diễn chưa từng thấy bao giờ. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên có một buổi diễn như thế này. Ngay cả người nước ngoài cũng chưa bao giờ làm được buổi diễn livetream âm nhạc ngoài trời trong khung cảnh ngoạn mục như thế này ở Việt Nam. Khi nắng chiều xuống, ánh lên, toàn bộ cầu Vàng phát sáng, hay lúc hoàng hôn xuống, sương tràn vào, toàn bộ cầu Vàng có một màu tím dịu. Những màu sắc ảo diệu như chốn thần tiên đó rất phù hợp với phong cách âm nhạc dân gian đương đại. Rất may mắn là ngay trước màn diễn buổi chiều thì trời đầy sương mù, nhưng vừa bắt đầu thì nắng lên, hình flycam đã bắt được khoảnh khắc cầu Vàng tỏa sáng khi Tiny Giant trình diễn. Khi Trang Lý trình diễn, mặt trời bắt đầu lặn, bầu trời như nhuộm tím, sương mù tràn vào làm cho Trang Lý trông như một nàng tiên với mái tóc bay bay. Cảnh Trang Lý đánh violin ở giữa cầu rất thơ mộng. Buổi tối xuống thì không gian cực kỳ sôi động, bàn tay cầu Vàng sáng lên, background là toàn bộ thành phố đã lên đèn, khi đó DJ Tuệ Anh chơi dòng Tech-House sôi động, mang đến cảm giác về một thành phố không ngủ. Nhóm Tiny Giant dùng nhạc cụ truyền thống dân tộc như đàn đáy, khèn lá, xúc sắc, chũm chọe. Trang Lý lại sử dụng đàn violin đặc biệt chỉ có 3 dây. Điều đó mang đến âm hưởng dân gian đương đại rất đặc biệt. Chúng tôi đã tính toán trước những màn biểu diễn này, làm sao để tận dụng được khung cảnh tuyệt đẹp của Cầu Vàng, từng góc đã được chúng tôi khảo sát kỹ và tính toán cả về thời tiết để lên được từng cảm xúc khác nhau cho từng phần biểu diễn. Khi chương trình phát sóng, khán giả cực kỳ ngạc nhiên với sân khấu này, kể cả về âm nhạc và khung cảnh Cầu Vàng. Lượng tương tác rất cao trên facebook và lượng người hỏi về địa điểm, tên nghệ sĩ, âm nhạc… rất lớn. Khán giả cũng khen cầu Vàng có vẻ đẹp tuyệt vời, choáng ngợp. Chương trình này được khán giả so sánh với những chương trình biểu diễn nhạc điện tử trực tuyến được tổ chức bởi Cercle (tổ chức giới thiệu các nghệ sỹ nhạc điện tử và điểm đến hàng đầu thế giới) hay những buổi biểu diễn của Sub Focus (DJ nhạc điện tử nổi tiếng thế giới, thường phát trực tuyến các buổi diễn của mình trên nền tảng số). Qua đêm nhạc trực tuyến này, anh và các nghệ sỹ muốn gửi gắm điều gì tới khán giả? Buổi livestream được thực hiện vào tháng 7 trước khi Covid-2 ập đến, nhưng tháng 10 chúng tôi mới phát sóng. Chúng tôi nghĩ rằng thời điểm này du khách đã bớt đi lo lắng về Covid-2 và đây là thời điểm thuận lợi để lôi kéo du khách trở lại Đà Nẵng. Chúng tôi muốn mang đến thông điệp về một Việt Nam an toàn và mến khách tới thế giới, và lan tỏa tinh thần lạc quan trước dịch bệnh Covid-19. Chúng tôi dự định sẽ tiếp tục làm những chương trình như thế này ở khu vực miền Trung như Hội An, Huế…, hoặc Hà Nội và các địa phương khác, ở những địa điểm độc đáo chưa từng thấy, nơi có những cảnh đẹp đại diện cho đất nước và con người Việt Nam, mang màu sắc âm nhạc Việt Nam cùng những nghệ sỹ Việt tài năng để làm những buổi biểu diễn có hàm lượng nghệ thuật cao và lan toả nó tới cộng đồng nghệ thuật và bạn bè thế giới. Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện!
Golden Bridge The messenger brings Vietnam to the world amid Covid-19 It's been a week since it aired, but the haunting echoes of the international online music night United We Stream Asia on the Golden Bridge in Da Nang don't seem to stop making the audience sob. Let's chat with General Director Cao Trung Hieu to discover more about this unique event. Directed by Cao Trung Hieu Hello! The United We Stream Asia online international music night on the Golden Bridge in Da Nang made a special impression on music lovers. Can you share some more special things about this show? This is my first performance United We Stream Asia (UWSA) outdoors, in an extremely memorable scene of the Golden Bridge, the bridge has created a new symbol for Da Nang tourism. With image and music quality that is much higher than UWSA's previous videos and has a different color. The livestream attracted about 10,000 views and was livestreamed both on UWSA and the world-wide United We Stream (UWS). The show was reported by Mixmag Asia - a major magazine for DJs. VTV News and the Goethe Institute cooperated in media sponsorship of the program. This is a rare thing with regular DJ programs. Why Golden Bridge and not a bar or indoor space as usual, sir? The UWS and UWSA music community often plays indoors, in bars and has performed in Hanoi and Ho Chi Minh City. Ho Chi Minh. At first, the UWS artist group proposed to play at two large bars in Da Nang and Hoi An. However, when it was held in Da Nang, I suddenly thought why I didn't perform outdoors, like the world-famous music livestreams that took place at the Tower of London or Salar de Uyuni Salt Lake in Bolivia. Golden Bridge at Sun World Ba Na Hills The Golden Bridge is like a "lookout" of Da Nang, from the Golden Bridge you can see the entire city. Therefore, when I do a show in Da Nang, I definitely have to do it at the Golden Bridge. That has always been my dream, cherished every time I bring friends and guests to Ba Na. From an artistic perspective, I want to create a playground for artists. And more than that, we can through the event promote the cultural, tourism, and artistic elements of Da Nang to international friends. I contacted Sun World Ba Na Hills and received enthusiastic support. Immediately the idea was realized. So what about artists, how to get their unity? Artists always want to perform in an unforgettable setting and the Golden Bridge is just such a scene. Therefore, it is not difficult for us to convince artists to participate, this is a huge opportunity for them. The last important thing is to choose music to suit the context, so that the music and space can blend and enhance each other. UWSA online music festival at Golden Bridge We agreed on the theme of the show and suitable artists. In addition to the Tech-house music performed by DJ Pinki, contemporary folk music and traditional sounds with electronic colors are also added, with the participation of Tiny Giant group and artist Ly Trang to fit the frame. Golden Bridge scene. UWSA online music festival at Golden Bridge In fact, this was the first time the artists performed on such a beautiful stage and they were very excited. Why do you think contemporary folk sounds are suitable for the Golden Bridge space? We want to give the audience a performance they have never seen before. In Vietnam, this is the first time there is a show like this. Even foreigners have never been able to do an outdoor livestream music performance in a spectacular setting like this in Vietnam. When the afternoon sun sets and shines, the entire Golden Bridge glows, or at sunset, mist floods in, the entire Golden Bridge has a soft purple color. Those magical, fairyland-like colors are very suitable for the style of contemporary folk music. Luckily, right before the afternoon performance, it was foggy, but as soon as it started, the sun came up. The flycam captured the moment the Golden Bridge shined when Tiny Giant performed. When Trang Ly performed, the sun began to set, the sky seemed to be dyed purple, and fog poured in, making Trang Ly look like a fairy with flying hair. The scene of Trang Ly playing the violin in the middle of the bridge is very poetic. At night, the space is extremely vibrant, the hand of the Golden Bridge lights up, the background is the entire city with lights up, then DJ Tue Anh plays the vibrant Tech-House line, bringing the feeling of a city without Sleep. The Tiny Giant group uses traditional musical instruments such as the bottom instrument, leaf flute, dice, and cymbals. Trang Ly uses a special violin with only 3 strings. That brings a very special contemporary folk sound. We have planned these performances in advance, how to take advantage of the beautiful scenery of the Golden Bridge. We have carefully surveyed each corner and calculated the weather to create different emotions. for each performance. When the program aired, the audience was extremely surprised with this stage, including the music and the scenery of the Golden Bridge. The amount of interaction is very high on Facebook and the number of people asking about locations, artist names, music... is huge. The audience also praised the Golden Bridge for its wonderful and overwhelming beauty. This program is compared by the audience to online electronic music performances organized by Cercle (an organization that introduces leading electronic music artists and destinations in the world) or performances by Sub. Focus (world-famous electronic music DJ, often streaming his shows on digital platforms). Through this online music night, what do you and the artists want to convey to the audience? The livestream was done in July before Covid-2 hit, but we only aired it in October. We think that at this time, tourists are less worried about Covid-2 and this is a favorable time to attract tourists back to Da Nang. We want to bring the message of a safe and hospitable Vietnam to the world, and spread optimism in the face of the Covid-19 epidemic. We plan to continue doing programs like this in the Central region such as Hoi An, Hue..., or Hanoi and other localities, in unique, never-before-seen locations, with beautiful scenery. Representing the country and people of Vietnam, bringing the color of Vietnamese music with talented Vietnamese artists to create performances with high artistic content and spreading it to the art community and friends around the world. gender. Thank you for the conversation!
Chương trình kích cầu du lịch lần hai giúp cho doanh nghiệp sống lại Hà Văn Siêu, Phó TCT Tổng cục Du lịch: “ Chương trình k ích cầu du lịch lần hai giúp cho doanh nghiệp sống lại” “Chương trình kích cầu du lịch lần hai không chú trọng vào số lượng mà đi sâu vào chất lượng. Chúng tôi kỳ vọng chương trình này sẽ giúp các doanh nghiệp du lịch sống lại; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đón khách quốc tế ngay khi có thể…”. Đó là những chia sẻ của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam (TCDLVN) Hà Văn Siêu ngay sau khi chương trình Kích cầu du lịch lần thứ 2 vừa được khởi động, nhằm nỗ lực hâm nóng thị trường du lịch sau đợt tấn công thứ hai của dịch Covid-19. Sun World BaDen Mountain Vì sao TCDLVN, Bộ VHTTDL lựa chọn thời điểm này để khởi động chương trình kích cầu du lịch đợt hai, thưa ông? Thứ nhất, chương trình kích cầu du lịch nội địa “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam” do Bộ VHTTDL phát động ngày 8/5/2020 đã đạt được sự hưởng ứng rất tích cực, mãnh liệt và đồng loạt của các địa phương, doan nghiệp, người dân. Chương trình thành công ngoài mong đợi vì sau giai đoạn dài giãn cách xã hội, nhu cầu đi du lịch rất lớn. Chương trình đã đón đúng thời điểm, kích hoạt lại các hoạt động du lịch để nhu cầu đó được thực hiện. Hiện nay, dịch Covid-19 lần hai xuất hiện tại Đà Nẵng và một số địa phương đã cơ bản được kiểm soát tốt, chặn đứng sự lây lan, chuyển sang giai đoạn bình thường mới nên TCDL lập tức tham mưu cho Bộ VHTTDL khởi động chương trình kích cầu du lịch nội địa với chủ đề “Du lịch Việt Nam an toàn, hấp dẫn” sau thời gian du lịch bị ngưng trệ. Mặt khác, giai đoạn này đã tích lũy được những bài học từ giai đoạn trước nên chúng ta tự tin hơn để làm du lịch an toàn, trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới vẫn còn dịch Covid-19. Chương trình kích cầu du lịch đợt này có những điểm gì khác so với đợt trước, thưa ông? Về hình thức, chúng ta vẫn dựa trên sự hưởng ứng, đồng lòng của các doanh nghiệp du lịch. Họ cùng nhau liên kết, tạo nên những liên minh kích cầu theo chuỗi cung ứng dịch vụ để xây dựng những sản phẩm chất lượng, giá hấp dẫn, đúng với nhu cầu của du khách. Du khách sẽ được hưởng những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất, với giá hấp dẫn nhất, còn doanh nghiệp sẽ có cơ hội thu hút đông đảo du khách quay trở lại. Sun World BaDen Mountain Đợt này, chúng ta tập trung đẩy mạnh về xúc tiến điểm đến, đặc biệt là những điểm đến mới và kết nối các điểm đến mới tạo ra những yếu tố mới. Thông điệp chính của đợt kích cầu này là “Du lịch Việt Nam an toàn, hấp dẫn”. An toàn là người kinh doanh, người đón tiếp, người phục vụ phải đảm bảo điều kiện về phương tiện, quy trình, được trang bị đồ bảo hộ cũng như kiến thức để đảm bảo an toàn cho chính mình và du khách. Khách du lịch qua giai đoạn phòng, chống dịch vừa rồi cũng đã ý thức hơn về việc đảm bảo an toàn như không tập trung quá đông người, phạm vi hẹp, khoảng cách, đeo khẩu trang, sát khuẩn… Cả người làm du lịch và người đi du lịch đều ý thức và thực hiện các biện pháp an toàn thì chúng ta có thể tự tin rằng, du lịch Việt Nam sẽ nhanh chóng hồi sinh trong bối cảnh hiện nay. Về thông điệp hấp dẫn, ở đây là sức hấp dẫn từ giá và chất lượng dịch vụ. Khi các liên minh kích cầu hình thành trong chương trình kích cầu đầu tiên có sự kết nối, hợp tác ngày càng chặt chẽ, thì sản phẩm dịch vụ sẽ có mức giá ngày càng hấp dẫn và chất lượng dịch vụ cũng được nâng cao hơn. Lần này, các doanh nghiệp cũng đưa ra chính sách hoãn, hủy, đổi rất linh hoạt, để khách yên tâm là nếu có xảy ra vấn đề gì thì vẫn được bảo đảm dịch vụ và không mất tiền, không bị thiệt gì. Từ đó, tạo ra tâm lý an tâm cho du khách. Điểm khác biệt nữa là trong chương trình kích cầu lần này, Chính phủ đã có những kinh nghiệm, Bộ Y tế cũng cùng vào cuộc với ngành du lịch để điều phối các luồng khách nhằm đảm bảo an toàn cũng như gợi mở những điểm đến mới. Ngành du lịch cũng đang tìm những giải pháp, kiến nghị bằng các chính sách hỗ trợ, điều tiết để các dòng khách hài hòa theo xu hướng du lịch bền vững hơn, không nặng về số lượng mà đi sâu vào chất lượng. Do đó, lượng khách có thể không tăng nhiều nhưng tổng thu du lịch có thể tăng. Yoko Onsen Quang Hanh Một điểm nữa là trong những chương trình kích cầu du lịch, các Tập đoàn lớn có vai trò vô cùng quan trọng, phối hợp với địa phương chủ động tạo nên những điểm đến mới, sản phẩm du lịch mới, tạo nên sức hút đối với du khách. Chúng ta không còn quá bị lệ thuộc vào những điểm đến quen thuộc nữa. Ví dụ, vừa qua Tập đoàn Sun Group đầu tư điểm đến mới –Khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng Yoko Onsen ở Quang Hanh (Quảng Ninh) rất hấp dẫn. Cùng với đó là các khu vui chơi giải trí Sun World liên tục được làm mới, điển hình như Khu du lịch núi Bà Đen (Tây Ninh) là những điểm đến trước đây chưa được du khách biết đến nhiều. Bên cạnh đó là mùa lúa chín Tây Bắc, mùa hoa dã quỳ ở Tây Nguyên, mùa nước nổi ở miền Tây, đây là lúc kích hoạt những yếu tố mới đó. Yoko Onsen Quang Hanh Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp du lịch đều đang gặp khó khăn, hầu hết đã kiệt quệ và mong muốn được hỗ trợ về mặt chính sách. TCDL có giải pháp hoặc đề xuất gì để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua cơn khủng hoảng này? Hiện những khó khăn của các doanh nghiệp du lịch chưa thực sự được tháo gỡ. Rất nhiều doanh nghiệp du lịch đã phải dừng hoạt động. Mặc dù Chính phủ có gói hỗ trợ về tài chính, thuế, an sinh xã hội, nhưng doanh nghiệp du lịch chưa chạm tới được. Vì thế, chương trình kích cầu du lịch lần này chính là một trong những giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp sống lại trước khi quá muộn. Đây cũng là sự hỗ trợ thiết thực nhất về mặt chủ trương, chính sách. Chúng tôi tin rằng, sau khoảng một đến hai tuần, các điểm đến thu hút du khách trở lại, tất cả các dịch vụ sẽ được mở lại. Du lịch phục hồi sẽ góp phần giúp bức tranh kinh tế – xã hội bừng sáng. Bài học kinh nghiệm từ chương trình kích cầu du lịch nội địa cũng sẽ là bước chuẩn bị để chúng ta có thể đón du khách quốc tế, ở đây chính là những chuyên gia, nhà ngoại giao, nhà đầu tư, doanh nhân đến tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam… có điều kiện khám phá vẻ đẹp Việt Nam. Chương trình kích cầu du lịch lần này nhận được sự ủng hộ của tất cả các bên. Các bên liên kết, liên minh tạo thành sức mạnh, được kỳ vọng sẽ tạo nên một chu kỳ mới cho tăng trưởng du lịch và tất cả các bên đều được hưởng lợi. Ngoài ra, vừa qua, TCDL cũng đã tham mưu cho Bộ VHTTDL có văn bản số 3406/BVHTTDL-TCDL trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất các giải pháp cấp bách hỗ trợ doanh nghiệp du lịch trước bối cảnh tác động của đại dịch Covid-19. Trân trọng cảm ơn ông!
The second tourism stimulus program helps businesses revive Ha Van Sieu, Deputy General Director of Vietnam National Administration of Tourism: “ Program k Second tourism demand helps businesses revive." “The second tourism stimulus program does not focus on quantity but focuses on quality. We expect this program to help tourism businesses come back to life; Prepare the necessary conditions to welcome international visitors as soon as possible...". Those are the shares of Deputy Director General of Vietnam National Administration of Tourism (TCDLVN) Ha Van Sieu right after the second tourism stimulus program was launched, in an effort to warm up the tourism market after the The second attack of the Covid-19 epidemic. Sun World BaDen Mountain Why did VNDL and the Ministry of Culture, Sports and Tourism choose this time to launch the second round of tourism stimulus programs, sir? Firstly, the domestic tourism stimulus program "Vietnamese people travel to Vietnam" launched by the Ministry of Culture, Sports and Tourism on May 8, 2020 has achieved a very positive, intense and simultaneous response from localities. localities, businesses, and people. The program was successful beyond expectations because after a long period of social distancing, the demand for travel was huge. The program picked up at the right time, reactivating tourism activities so that that need could be fulfilled. Currently, the second Covid-19 epidemic appears here Danang and some localities have basically been well controlled, stopped the spread, and moved to a new normal period, so TCDL immediately advised the Ministry of Culture, Sports and Tourism to launch a program to stimulate domestic tourism with the theme "Tourism". "Vietnam tourism is safe and attractive" after a period of stagnation in tourism. On the other hand, this period has accumulated lessons from the previous period, so we are more confident to travel safely, in the context of many countries around the world still having the Covid-19 epidemic. What is different about this tourism stimulus program compared to the previous one, sir? In terms of form, we still rely on the response and consensus of tourism businesses. They join together and create alliances to stimulate demand along the service supply chain to build quality products at attractive prices, meeting the needs of tourists. Tourists will enjoy the best products and services at the most attractive prices, and businesses will have the opportunity to attract a large number of returning visitors. Sun World BaDen Mountain This time, we focus on promoting destinations, especially new destinations and connecting new destinations to create new elements. The main message of this stimulus is "Vietnam tourism is safe and attractive". Safety means that business people, receptionists, and service people must ensure the conditions of vehicles and processes, be equipped with protective gear as well as knowledge to ensure safety for themselves and visitors. Tourists who have gone through the recent period of epidemic prevention and control have also become more aware of ensuring safety such as not gathering too many people, narrow areas, distance, wearing masks, disinfecting... Even people working in tourism If tourists are aware and take safety measures, we can be confident that Vietnamese tourism will quickly revive in the current context. Regarding the attractive message, here is the appeal from price and service quality. When the stimulus alliances formed in the first stimulus program have increasingly close connection and cooperation, products and services will have increasingly attractive prices and service quality will also be improved. . This time, businesses also offer very flexible postponement, cancellation, and exchange policies, so that customers can rest assured that if any problem occurs, they will still be guaranteed service and will not lose money or suffer any loss. From there, creating peace of mind for visitors. Another difference is that in this stimulus program, the Government has experience, the Ministry of Health also participates with the tourism industry to coordinate tourist flows to ensure safety as well as suggest destinations. new. The tourism industry is also looking for solutions and recommendations with support and regulatory policies to harmonize tourist flows according to the trend of more sustainable tourism, not focusing on quantity but focusing on quality. Therefore, the number of visitors may not increase much but total tourism revenue may increase. Yoko Onsen Quang Hanh Another point is that in tourism stimulus programs, large corporations play an extremely important role, coordinating with localities to proactively create new destinations and new tourism products, creating attraction for tourists. with visitors. We are no longer too dependent on familiar destinations. For example, recently Sun Group invested in a new destination - Yoko Onsen hot spring resort in Quang Hanh (Quang Ninh) which is very attractive. Along with that, Sun World entertainment areas are constantly being renewed, typically Ba Den Mountain Tourist Area (Tay Ninh) are destinations that were previously not well known to tourists. Besides the ripe rice season in the Northwest, wild sunflower season in the Central Highlands, floating water season in the West, this is the time to activate those new factors. Yoko Onsen Quang Hanh Currently, all tourism businesses are facing difficulties, most are exhausted and want policy support. Does TCDL have any solutions or suggestions to support businesses to overcome this crisis? Currently, the difficulties of tourism businesses have not really been resolved. Many tourism businesses have had to stop operating. Although the Government has a support package for finance, taxes, and social security, tourism businesses have not been able to reach it. Therefore, this tourism stimulus program is one of the solutions to help businesses revive before it is too late. This is also the most practical support in terms of guidelines and policies. We believe that, after about one to two weeks, destinations attract tourists again, all services will be reopened. Tourism recovery will contribute to brightening the socio-economic picture. Lessons learned from the domestic tourism stimulus program will also be a preparation step for us to be able to welcome international tourists, here are experts, diplomats, investors, and businessmen who come to visit. Find investment opportunities in Vietnam... have the opportunity to explore the beauty of Vietnam. This tourism stimulus program receives support from all parties. The associated parties and alliances create strength, which is expected to create a new cycle of tourism growth and all parties will benefit. In addition, recently, TCDL also advised the Ministry of Culture, Sports and Tourism to issue document Không. 3406/BVHTTDL-TCDL to the Prime Minister proposing urgent solutions to support tourism businesses amid the impact of the Covid pandemic. -19. Sincerely thank you!
Quy trình đón khách an toàn tại Bà Nà Hills được triển khai như thế nào? Những biện pháp phòng dịch được triển khai ở một cấp độ cao hơn và nghiêm ngặt hơn, thời điểm này, du khách đến Bà Nà Hills khi Đà Nẵng đã sạch bóng Covid-19 cảm thấy một sự an tâm từ khi đặt chân đến cho tới suốt hành trình thú vị khám phá miền tiên cảnh. An toàn trên mỗi bước chân Trở lại Bà Nà sau gần hai tháng phải hoãn chuyến đi đến Đà Nẵng , gia đình anh Bùi Tuấn Anh ở Hà Nội vô cùng phấn khởi. Anh cho biết: “Cả nhà đã có một chuyến du ngoạn Bà Nà khá thú vị. Khách vắng, mình thoải mái, thư thả tham quan vui chơi, không phải lo chen chúc, xếp hàng. Hơn thế nữa, công tác an toàn được thực hiện rất nghiêm ngặt, đây là một yếu tố mà chúng tôi đánh giá cao ở khu du lịch này, bởi lẽ, chọn đi du lịch ngay sau dịch, điều mà chúng tôi quan tâm hơn hết là công tác an toàn ở các điểm đến”. Mục sở thị quy trình đón khách tại Bà Nà Hills thời điểm này, mới thấy “an toàn” là tiêu chí quan trọng nhất mà khu du lịch này đặt ra trong giai đoạn Đà Nẵng đã bắt đầu đón những dòng khách trở lại. Ngay trước khi vào khu du lịch, từ cổng vào, du khách đã được đo thân nhiệt và hướng dẫn cách xếp hàng giãn cách. Khu du lịch cũng tiến hành chia vạch rõ ràng trước quầy bán vé, đảm bảo giãn cách giữa các du khách. Lượng khách trên các cabin cũng được khống chế để duy trì khoảng cách an toàn. Nước sát khuẩn được bố trí ở nhiều vị trí trong khu du lịch để du khách có thể chủ động sát khuẩn khi cần thiết. Công tác xịt khử khuẩn được triển khai thường xuyên trên toàn khu du lịch từ hệ thống xe bus, cabin cáp treo đến các điểm tham quan vui chơi, khu nhà điều hành, khu vực nhà hàng, bếp ăn để đảm bảo an toàn ở mức cao nhất cho du khách tham quan. Khách hàng khi đến Bà Nà sẽ được hướng dẫn cài đặt phần mềm Ncovi, Bluezone và truy cập các phần mềm để kịp thời phát hiện việc tiếp xúc gần với người nhiễm Covid 19, giảm thiểu tối đa nguy cơ lây lan trong cộng đồng. Các bảng biểu, tờ rơi hướng dẫn khách hàng nâng cao ý thức phòng ngừa dịch bệnh Covid cũng được đặt tại nhiều điểm của khu du lịch hay trên cabin cáp treo. Du khách đến Bà Nà cũng được đón chào theo phong cách mới lạ và ấn tượng mang đặc trưng của thời Covid. Các nghệ sĩ Châu Âu dành tặng du khách những tiết mục biểu diễn sôi động với trang phục rực rỡ sắc màu cùng “đạo cụ” là những chiếc kính chống giọt bắn, lan tỏa thông điệp về điểm đến an toàn. Khu vực các nhà hàng cũng được kiểm soát nghiêm ngặt. Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được ưu tiên chú trọng. Nhân viên nhà hàng trong quá trình chế biến và phục vụ đều phải sử dụng khẩu trang; găng tay; luôn giữ khoảng cách nhất định trong quá trình tiếp xúc với du khách. Chị Hoàng Lan du khách đến từ Nam Định cho biết : “Mặc dù dịch bệnh Covid đã được kiểm soát tốt tại Đà Nẵng nhưng lựa chọn đi du lịch vào thời điểm này vẫn là quyết định táo bạo. Trước khi đến Bà Nà tôi khá lo lắng nhưng khi chứng kiến khu du lịch triển khai các biện pháp phòng dịch Covid chặt chẽ, nghiêm ngặt, tôi thấy rất an tâm và thoải mái.” “Thành phố diệu kỳ” và những góc nhỏ thi vị Bà Nà mới đón khách trở lại, nên điều mà những du khách đầu tiên đến đây sau những ngày dài chống dịch cảm nhận được là một sự tươi mới, thật thư thái, trong từng ngõ ngách, từng cảnh vật nơi đây. Cầu Vàng vốn là điểm check-in không khi nào vắng khách lúc bình thường thì ở thời điểm này, có những lúc chỉ có mình ta giữa tuyệt phẩm kiến trúc khiến cả thế giới ngưỡng mộ Việt Nam. Và cũng chỉ lúc này, du khách mới thấy những rêu phong cổ kính trên đôi bàn tay khổng lồ nâng đỡ cây cầu được tạo hình kỳ công và tinh tế đến mức nào. Cảnh sắc thiên nhiên nhìn từ đường cong uốn mềm của cây cầu, cũng nhờ thời điểm vắng khách này, mà như mênh mông vô tận hơn. Minh Ánh, một du khách từ Hội An nói: “Đây không phải lần đầu tôi đến Bà Nà, nhưng rõ ràng, có những góc ngách rất lạ, rất khác, mà tôi, và tôi nghĩ rằng rất nhiều du khách có thể chưa hề biết đến. Ví dụ như những bức tượng khá “dị” ở Vườn Giác Quan này”. Sự cổ kính của Bà Nà toát lên qua những lâu đài mang phong cách Pháp cổ. Nhưng có một nơi rất cổ, rất xưa ở Bà Nà mà người ta có thể “sống cùng lịch sử” là Hầm rượu Debay, thì có lẽ không nhiều người để ý nếu tới đây mùa cao điểm. Hầm rượu là dấu tích còn sót lại của một thời Bà Nà từng là chốn ăn chơi nghỉ dưỡng và tiệc tùng của quan chức thời Pháp thuộc. Xuyên sâu vào trong lòng núi, hầm rượu không chỉ là nơi cất trữ những loại vang đẳng cấp từ nước Pháp mà còn là nơi từng chứng kiến những bữa tiệc xa xỉ của quan chức Pháp khi lên Bà Nà nghỉ dưỡng. Những hốc trữ rượu phủ màu thời gian, nước vẫn róc rách chảy mòn khe đá, mát lạnh. Những thùng vang gỗ sồi còn thảng hương thơm. Mỗi bước chân sâu vào lòng núi, qua những ngóc ngách bí ẩn của hầm vang, thấy thêm phần bí ẩn, tò mò…, thấy Bà Nà cả trăm năm về trước như đang hiển hiện. Những bất ngờ mà Bà Nà đem đến cho du khách khi trở lại “thành phố diệu kỳ” này còn nhiều lắm. Nói như cô gái Minh Ánh thì “đến Bà Nà thời điểm này mới thấy hết được vì sao người ta gọi nơi này là đường lên tiên cảnh”. Và điều bất ngờ thú vị nhất có lẽ là chương trình ưu đãi “Mua vé cáp treo tặng vé buffet trưa”. Theo đó, mua vé cáp treo với mức giá 750.000đ/ người lớn và 600.000đ/ trẻ em (1m – 1m4), du khách sẽ được tặng buffet trưa miễn phí. Riêng đối với du khách người Đà Nẵng và Quảng Nam, giá vé combo cáp treo và buffet trưa sẽ chỉ còn 550.000 đồng/người lớn và 450.000 đồng/ trẻ em (1m – 1m4). Còn thú vị nhất vì sao thì có lẽ, chỉ khi được khám phá những món ngon giữa ngồn ngộn những quầy buffet tại Bà Nà, bạn sẽ hiểu vì sao. Hẹn gặp nhé, ở Bà Nà, với chuyến du ngoạn an toàn trong từng bước chân.
How is the safe welcome process at Ba Na Hills implemented? Epidemic prevention measures are implemented at a higher and more stringent level. At this time, visitors to Ba Na Hills when Da Nang is clean of Covid-19 feel secure from the moment they arrive until they arrive. throughout the exciting journey to explore the fairyland. Safety in every step Returning to Ba Na after nearly two months of having to postpone the trip Danang , Mr. Bui Tuan Anh's family in Hanoi was extremely excited. He said: "The whole family had a quite interesting trip to Ba Na. With no customers, I feel comfortable and leisurely sightseeing and having fun, without having to worry about crowding or queuing. Furthermore, safety work is carried out very strictly, this is a factor that we appreciate in this tourist area, because choosing to travel right after the epidemic is something we are more concerned about. Above all is safety work at destinations." Looking at the process of welcoming guests at Ba Na Hills at this time, we can see that "safety" is the most important criterion that this tourist area sets when Da Nang has begun to welcome the influx of visitors again. Right before entering the tourist area, from the entrance gate, visitors had their body temperature measured and instructions were given on how to line up and space out. The tourist area also has clear lines in front of the ticket counter, ensuring distance between visitors. The number of passengers in the cabins is also controlled to maintain a safe distance. Antiseptic water is arranged in many locations in the tourist area so that visitors can proactively disinfect when necessary. Disinfectant spraying is deployed regularly throughout the tourist area from the bus system, cable car cabins to entertainment attractions, operating areas, restaurant areas, and kitchens to ensure safety. highest level for tourists. Customers arriving in Ba Na will be instructed to install Ncovi and Bluezone software and access the software to promptly detect close contact with people infected with Covid 19, minimizing the risk of spread in the community. Signs and leaflets guiding customers to raise awareness of Covid epidemic prevention are also placed at many points of the tourist area or on cable car cabins. Visitors to Ba Na are also welcomed in a new and impressive style typical of the Covid era. European artists give visitors vibrant performances with colorful costumes and "props" which are anti-droplet glasses, spreading the message of safe destinations. Restaurant areas are also strictly controlled. Ensuring food hygiene and safety is given priority. Restaurant staff must use masks during processing and serving; glove; Always keep a certain distance when interacting with visitors. Ms. Hoang Lan, a tourist from Nam Dinh, said: "Even though the Covid epidemic has been well controlled in Da Nang, choosing to travel at this time is still a bold decision. Before coming to Ba Na, I was quite worried, but when I saw the resort implementing strict and strict Covid epidemic prevention measures, I felt very secure and comfortable." “Magical city” and poetic little corners Ba Na has just welcomed guests back, so what the first tourists coming here after long days of fighting the epidemic feel is a freshness, a sense of relaxation, in every corner and every scene here. The Golden Bridge is a check-in point that is never empty of customers, but at this time, there are times when we are alone amidst the architectural masterpiece that makes the whole world admire Vietnam. And only now can visitors see how wonderfully and delicately the ancient mosses on the giant hands supporting the bridge are shaped. The natural scenery seen from the soft curve of the bridge, thanks to this time of absence of visitors, seems more endless. Minh Anh, a tourist from Hoi An said: "This is not my first time coming to Ba Na, but clearly, there are very strange, very different corners, that I, and I think a lot of tourists, may not have seen." never knew. For example, there are quite "weird" statues in this Garden of the Senses. The antiquity of Ba Na exudes through ancient French-style castles. But there is a very ancient place in Ba Na where people can "live with history" which is Debay Wine Cellars. Perhaps not many people pay attention if they come here during the peak season. The wine cellar is a remnant of a time when Ba Na was a place for entertainment and parties for officials during the French colonial period. Penetrating deep into the heart of the mountain, the wine cellar is not only a place to store high-class wines from France but also a place to witness luxurious parties of French officials when they go to Ba Na to rest. The wine storage holes are covered with the color of time, the water still gurgling and flowing through the rocks, cool. The oak wine barrels still smell fragrant. Every step deep into the mountain, through the mysterious nooks and crannies of the wine cellar, makes one feel more mysterious, curious..., seeing Ba Na hundreds of years ago as if appearing. There are many surprises that Ba Na brings to visitors when returning to this "magic city". As the girl Minh Anh said, "coming to Ba Na at this time can fully see why people call this place the road to paradise". And the most interesting surprise is probably the promotion program "Buy cable car tickets and get free lunch buffet tickets". Accordingly, when purchasing a cable car ticket at a price of 750,000 VND/adult and 600,000 VND/child (1m - 1m4), visitors will receive a free lunch buffet. Particularly for tourists from Da Nang and Quang Nam, the cable car combo ticket price and lunch buffet will be only 550,000 VND/adult and 450,000 VND/child (1m - 1m4). As for the most interesting reason, perhaps, only when you discover delicious dishes among the crowded buffet counters in Ba Na, you will understand why. See you soon, in Ba Na, with a safe trip in every step.
Tuyệt tác của thiên nhiên Ghềnh Đá Đĩa Cách thành phố Tuy Hòa (Phú Yên) khoảng 40 km, vẻ đẹp của Ghềnh Đá Đĩa được xem như là một tuyệt tác của thiên nhiên ban tặng cho Phú Yên. Ghềnh Đá Đĩa – hình ảnh của các khối đá vuông, tròn hay lục giác xếp chồng lên nhau tựa như những chồng bát đĩa chất đầy cao thấp xen kẽ vô cùng nề nếp. Theo nghiên cứu, loại đá ở đây chính là đá bazan đã hình thành cách đây khoảng 200 triệu năm, được tạo ra trong quá trình hoạt động của núi lửa ở vùng cao nguyên Vân Hòa, nham thạch phun trào từ núi chảy ra biển. Trong con đường luân chảy, nham thạch gặp nước lạnh và bị đông cứng lại, cộng thêm hiện tượng di ứng lực khiến các khối nham thạch này bị nứt theo nhiều chiều tạo nên những khối đá với hình thù thú vị như chúng ta nhìn thấy hiện nay. Ghềnh Đá Đĩa có diện tích khoảng 2 km 2 , nơi hẹp nhất khoảng 50 m và nơi dài nhất 200 m. Ngoài hình ảnh như những chồng đĩa thì khi nhìn từ xa Ghềnh Đá Đĩa tựa như một tổ ong khổng lồ, đen ngời trước làn nước biển xanh ngần. Đến với Ghềnh Đá Đĩa vào các thời điểm trong năm đều mang đến những vẻ đẹp say đắm lòng người. Nếu bình minh là vẻ đẹp tinh khôi của sự bình yên nơi xứ biển thì lúc chiều tà, Ghềnh Đá Đĩa lại hiện ra với vẻ đẹp ma mị đầy mê hoặc. Nếu mùa nắng hanh khô là cảnh “hoa vàng trên cỏ xanh”, đá xám – hoa tươi – trời xanh – biển biếc, thì mùa mưa, gành đá âm u, lạnh lẽo, buồn tê tái lòng người nhưng vẫn biết bao người tìm đến, chỉ đứng dựa trên lan can mà ngắm, trải những tâm tư sâu kín trước làn sương nước mênh mông. Vẻ đẹp thiên nhiên của Ghềnh Đá Đĩa chẳng thua kém gì các nước trên thế giới, được xếp cùng hàng với núi đá Giant’s Causeway ở bờ biển Đông Bắc Ireland, ghềnh đá Órganos ở đảo La Gomera của Tây Ban Nha, hang động Fingal ở đảo Staffa, Scotland hay Gành Đá Đĩa Jusangjeolli của Hàn Quốc. Ghềnh Đá Đĩa Phú Yên là một địa điểm du lịch trên cung đường Di sản miền Trung đầy ấn tượng khi có sự kết hợp hoàn hảo giữa địa chất và không gian biển lý tưởng. Một nét chấm phá tuyệt vời góp phần tăng thêm vẻ đẹp cho xứ sở “hoa vàng trên cỏ xanh” và là điểm đến không thể bỏ qua cho bất kỳ du khách nào khi đặt chân đến đây.
Natural masterpiece Ghenh Da Dia About 40 km from Tuy Hoa city (Phu Yen), the beauty of Ghenh Da Dia is considered a masterpiece of nature bestowed on Phu Yen. Ghenh Da Dia - image of square, round or hexagonal stone blocks stacked on top of each other like piles of dishes stacked high and low alternating extremely orderly. According to research, the type of rock here is basalt formed about 200 million years ago, created during volcanic activity in the Van Hoa plateau, lava erupting from the mountain flowing into the sea. In the flowing path, the lava meets cold water and freezes, combined with the phenomenon of stress movement, causing these lava blocks to crack in many directions, creating rocks with interesting shapes as we see. Currently. Ghenh Da Dia has an area of ​​about 2 km 2 , the narrowest place is about 50 m and the longest place is 200 m. Besides the image like stacks of plates, when viewed from a distance, Ghenh Da Dia resembles a giant honeycomb, shining black against the blue sea water. Coming to Ghenh Da Dia at any time of the year brings captivating beauty. If dawn is the pure beauty of peace in the sea, then at dusk, Ghenh Da Dia appears with its magical and enchanting beauty. If the dry sunny season is the scene of "yellow flowers on green grass", gray rocks - fresh flowers - blue sky - blue sea, then in the rainy season, the cliffs are gloomy, cold, and numbingly sad, but many people still look for them. Come, just stand on the railing and watch, spreading your deep thoughts before the vast mist of water. The natural beauty of Ghenh Da Dia is not inferior to other countries in the world, ranked with the Giant's Causeway rock mountain on the Northeast coast of Ireland, Órganos rapids on La Gomera island of Spain, Fingal cave in Staffa Island, Scotland or Jusangjeolli Reef of Korea. Ghenh Da Dia Phu Yen is an impressive tourist destination on the Central Heritage Road with a perfect combination of geology and ideal marine space. A wonderful touch that contributes to the beauty of the land of "yellow flowers on green grass" and is a must-see destination for any tourist when coming here.
Kinh tế đêm là giải pháp “chớp” thời cơ hậu Covid-19 – PGS. TS Trần Đình Thiên cho rằng, với Đà Nẵng, kinh tế ban đêm là giải pháp “chớp” thời cơ hậu Covid – 19 để phát triển du lịch. PGS. TS Trần Đình Thiên chỉ ra nguyên nhân khiến doanh thu du lịch Việt Nam thấp “Ở Việt Nam, du lịch đẳng cấp chưa phát triển, chưa có kinh tế đêm, thiếu doanh nghiệp đủ năng lực phát triển kinh tế đêm, nhà nước chưa ban hành kế hoạch phát triển kinh tế đêm là những nguyên nhân khiến doanh thu du lịch Việt Nam thấp” – PGS. TS Trần Đình Thiên bày tỏ. Ông từng cho rằng, kinh tế ban đêm như một chiến lược cạnh tranh và phát triển của các đô thị thời đại “hậu công nghiệp”. Đây được xem như giải pháp đột phá cho các đô thị Việt Nam, tận dụng “lợi thế đi sau”. Xin ông chia sẻ rõ hơn về nhận định này? Kinh tế ban đêm là sự tiếp nối các hoạt động kinh tế ban ngày, kéo dài từ 18 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau, tạo thành cuộc sống kinh tế ban đêm. Đó là một nền kinh tế đích thực, có cơ cấu, cơ chế, động lực và nguồn lực đặc thù: dịch vụ, tiêu dùng (ẩm thực, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, mua sắm, các loại hình vui chơi giải trí…) đóng vai trò chính. Đây là lợi thế cạnh tranh mới của phát triển đô thị hiện đại. Xu hướng phát triển hiện nay, tại các đô thị (du lịch), kinh tế đêm đóng góp rất lớn. Hơn 80% dân số thế giới sống tại thành phố, tạo áp lực và cơ hội lớn. Để nuôi sống và đảm bảo chỗ sống cho cư dân đô thị, nâng cao hay đào sâu hơn thành phố không đủ, còn phải biết sử dụng thời gian thông minh hơn. Kinh tế đêm tạo việc làm, thu nhập quan trọng cho cá nhân, nguồn thu ngân sách địa phương. Điều đó đòi hỏi các địa phương cần nhanh chóng thúc đẩy du lịch, đa dạng hóa hoạt động giải trí và thương mại, hồi sinh các khu vực đô thị vắng vẻ vào đêm. Trên thế giới, kinh tế ban đêm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế. Kinh tế ban đêm đã tạo 66 tỷ bảng (khoảng 80 tỷ USD) doanh thu hàng năm, là ngành kinh tế đứng thứ 5 của Vương quốc Anh. New York là thành phố không ngủ, kinh tế ban đêm đóng góp hơn 10 tỷ USD vào nền kinh tế của toàn thành phố. Úc, kinh tế đêm trị giá 102 tỷ AUS (khoảng 70 tỷ USD), tăng khoảng 5%/năm. Riêng Sydney, ước 27,2 tỷ USD/năm. Nhật Bản, quy mô thị trường kinh tế đêm 400 tỷ yên (khoảng 3,7 tỷ USD) vào 2020. 20% du khách tới Anh năm 2014 có hoạt động giải trí về đêm. 35% dân du lịch tới Berlin để tìm kiếm các hoạt động giải trí về đêm. New York, hơn 26.000 cửa hàng ăn uống phục vụ kinh tế đêm. Manchester, hơn 150.000 người tham gia hoạt động giải trí đêm cuối tuần. Các thành phố du lịch nổi tiếng nhất thế giới đều phát triển mạnh kinh tế đêm như Pattaya, New York, Macau, London…, nằm trong top 10 thành phố thu hút nhiều du khách nhất, đặc biệt nổi tiếng với phố ẩm thực, shopping, giải trí hoạt động thâu đêm. Việt Nam, Đà Nẵng vẫn chưa có nền kinh tế đêm. Nghĩa là còn dư địa rất lớn để phát triển. Tại Việt Nam, doanh thu du lịch và mức chi tiêu của du khách thấp, liệu có phải nguyên nhân chính là từ khoảng trống khai thác các dịch vụ sau 12 giờ đêm, thưa ông? Năm 2017, Việt Nam thu 8,3 tỷ USD từ khách quốc tế, nhưng số này ở Indonesia là 12,6 tỷ; Singapore 18,4 tỷ, Thái Lan 52,5 tỷ. So sánh khách quốc tế lưu lại Việt Nam và Thái Lan cùng khoảng thời gian hơn 9 ngày nhưng chỉ tiêu 96 USD/ngày ở Việt Nam, còn ở Thái Lan là 163 USD. Một trong những nguyên nhân quan trọng là kinh tế đêm của Thái Lan đang bỏ xa Việt Nam. Bangkok được ví là thành phố không bao giờ ngơi nghỉ vì các hoạt động vui chơi giải trí diễn ra suốt ngày đêm. Theo Master Card (2018), Bangkok tiếp tục dẫn đầu danh sách những thành phố có lượng khách du lịch hằng năm lớn nhất thế giới. Trung bình, du khách đến Bangkok có thời gian lưu trú là 4,7 đêm và chi tiêu mỗi ngày khoảng 173USD. Ở Việt Nam, du lịch đẳng cấp chưa phát triển, chưa có kinh tế đêm, thiếu doanh nghiệp đủ năng lực phát triển kinh tế đêm, nhà nước chưa ban hành kế hoạch phát triển kinh tế đêm là những nguyên nhân khiến doanh thu du lịch Việt Nam thấp. Vậy chúng ta cần làm gì để phát triển kinh tế đêm bài bản, hiệu quả? Để tận dụng thời cơ “thoát nguy” và “bứt phá”, cần khẩn trương xây dựng một chương trình (chiến lược) phát triển kinh tế đêm tổng thể, trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn tới của thành phố như một nội dung ưu tiên. Cần chuẩn bị các điều kiện hiện thực như: có không gian để tổ chức kinh tế đêm; phát triển các ngành, các sản phẩm phục vụ kinh tế đêm và các khuyến khích chính sách. Cùng với đó, phải thiết lập các điều kiện bảo đảm như: hạ tầng, khung khổ pháp lý, hệ thống bảo đảm an toàn an ninh. Đặc biệt là phải lựa chọn lực lượng chủ công, định hướng và định hình để thực thi chiến lược phát triển kinh tế đêm. Ví dụ tại Đà Nẵng có thể chọn Sun Group với Bà Nà Hills và Khu vực Công viên Châu Á (Asia Park); Phát triển các khu phố đêm dọc biển, dọc sông Hàn với chợ đêm, nhà hàng ẩm thực. Phát triển kinh tế đêm ở Đà Nẵng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với các thành phố khác, nói như vậy có đúng không, thưa ông? Đà Nẵng phải quy hoạch phát triển kinh tế ban đêm như một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế đêm. Nó không phải là phương tiện, không phải cái kéo dài của kinh tế ban ngày. Nó là bộ phận, một nền kinh tế có quy hoạch, đặc trưng, có mục tiêu cũng khác. Quan trọng hơn, cần có chiến lược tốt thì mới hút được những nhà đầu tư tốt, mới có thể giữ nhà đầu tư tốt phát triển kinh tế ban đêm, giống như Sun Group và rất ít các nhà đầu tư đã tạo nền tảng cho kinh tế ban ngày tại Đà thành. Chỉ khi có chiến lược rõ ràng, các nhà đầu tư mới thấy Đà Nẵng đã sẵn sàng cho một cuộc chơi mới đầy hấp dẫn. Khuôn khổ ấy có mục tiêu đảm bảo cho nhà đầu tư ít rủi ro và có cơ hội thành công. Tôi cho rằng, kinh tế ban đêm là giải pháp “chớp” thời cơ hậu Covid-19 để Đà thành phát triển du lịch và bứt phá trong tương lai. Nhiều người cho rằng cần có sự “cởi trói tư duy” về chính sách để tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển kinh tế đêm, ông nghĩ sao về vấn đề này? Liên quan đến vấn đề chính sách, cũng giống như phát triển kinh tế ban ngày, cần có nhu cầu về đất đai, nhu cầu nhân lực, công nghệ, nhiều yếu tố đặc thù như ánh sáng, tiếng ồn, bảo đảm an toàn cho du khách, nhà đầu tư phải được phép kinh doanh thâu đêm… Phải có chính sách khác biệt, phù hợp với kinh tế ban đêm chứ không phải chỉ là những luật lệ sẵn có. Những người tiên phong kinh tế ban đêm chắc chắn sẽ gặp rủi ro. Rủi ro của người đi tiên phong theo ý nghĩa là đầu tư vào đây khách ít, dần dần mới tạo ra thói quen thức đêm, thói quen giải trí đêm thì mới có doanh thu… Do đó, giai đoạn đầu cũng cần có chính sách để doanh nghiệp bớt thiệt hại. Phải có cam kết rất rõ giữa chính quyền và doanh nghiệp để thấy được trách nhiệm của chính quyền cũng như để doanh nghiệp thấy được sự hỗ trợ, nhưng doanh nghiệp không có tâm lý ỷ lại khi chấm dứt hỗ trợ. Thưa ông, tại Đà Nẵng, hiện Sun Group được xem là một trong những doanh nghiệp tiên phong khai thác một số sản phẩm du lịch đêm như Bà Nà Hills, Công viên Châu Á, Bar Sky 36,… . Những sản phẩm như thế này liệu có đủ sức hút du khách lưu trú lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn ở Đà Nẵng? Các sản phẩm của Sun Group như Bà Nà Hills, Công viên Châu Á, cả không gian vừa phải như SKY 36 đều là cơ sở ban đầu cho phát triển những giá trị du lịch Đà Nẵng, trong đó đặc biệt là cơ sở cho kinh tế ban đêm. Đó là cơ sở rất quan trọng, bởi định hướng có không gian trên nền tảng dịch vụ, bổ sung thêm trong không gian ấy có thêm sản phẩm mới, cấu trúc mới ngành nghề mới. Riêng Bà Nà Hills đã hút khách về ban đêm, nhưng mới chủ yếu là hưởng không khí ban đêm ở đó chứ chưa phải là tận hưởng nền không khí kinh tế ban đêm ở Bà Nà. Về không gian, ban đêm ở Bà Nà đêm nó huyền diệu, mê hoặc người ta. Ban ngày đã sôi động như vậy rồi nếu ban đêm làm được như vậy nữa thì đó sẽ là một không gian kinh tế đêm ở Đà Nẵng. Hiệu ứng từ đây sẽ lan ra được các sản phẩm khác, kinh tế ban đêm ở chỗ khác của Đà Nẵng. Tôi cho rằng, “tọa độ” ban đầu là đặc biệt quan trọng.
Kinh tế đêm là giải pháp “chớp” thời cơ hậu Covid-19 – PGS. TS Trần Đình Thiên cho rằng, với Đà Nẵng, kinh tế ban đêm là giải pháp “chớp” thời cơ hậu Covid – 19 để phát triển du lịch. PGS. TS Trần Đình Thiên chỉ ra nguyên nhân khiến doanh thu du lịch Việt Nam thấp “Ở Việt Nam, du lịch đẳng cấp chưa phát triển, chưa có kinh tế đêm, thiếu doanh nghiệp đủ năng lực phát triển kinh tế đêm, nhà nước chưa ban hành kế hoạch phát triển kinh tế đêm là những nguyên nhân khiến doanh thu du lịch Việt Nam thấp” – PGS. TS Trần Đình Thiên bày tỏ. Ông từng cho rằng, kinh tế ban đêm như một chiến lược cạnh tranh và phát triển của các đô thị thời đại “hậu công nghiệp”. Đây được xem như giải pháp đột phá cho các đô thị Việt Nam, tận dụng “lợi thế đi sau”. Xin ông chia sẻ rõ hơn về nhận định này? Kinh tế ban đêm là sự tiếp nối các hoạt động kinh tế ban ngày, kéo dài từ 18 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau, tạo thành cuộc sống kinh tế ban đêm. Đó là một nền kinh tế đích thực, có cơ cấu, cơ chế, động lực và nguồn lực đặc thù: dịch vụ, tiêu dùng (ẩm thực, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, mua sắm, các loại hình vui chơi giải trí…) đóng vai trò chính. Đây là lợi thế cạnh tranh mới của phát triển đô thị hiện đại. Xu hướng phát triển hiện nay, tại các đô thị (du lịch), kinh tế đêm đóng góp rất lớn. Hơn 80% dân số thế giới sống tại thành phố, tạo áp lực và cơ hội lớn. Để nuôi sống và đảm bảo chỗ sống cho cư dân đô thị, nâng cao hay đào sâu hơn thành phố không đủ, còn phải biết sử dụng thời gian thông minh hơn. Kinh tế đêm tạo việc làm, thu nhập quan trọng cho cá nhân, nguồn thu ngân sách địa phương. Điều đó đòi hỏi các địa phương cần nhanh chóng thúc đẩy du lịch, đa dạng hóa hoạt động giải trí và thương mại, hồi sinh các khu vực đô thị vắng vẻ vào đêm. Trên thế giới, kinh tế ban đêm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế. Kinh tế ban đêm đã tạo 66 tỷ bảng (khoảng 80 tỷ USD) doanh thu hàng năm, là ngành kinh tế đứng thứ 5 của Vương quốc Anh. New York là thành phố không ngủ, kinh tế ban đêm đóng góp hơn 10 tỷ USD vào nền kinh tế của toàn thành phố. Úc, kinh tế đêm trị giá 102 tỷ AUS (khoảng 70 tỷ USD), tăng khoảng 5%/năm. Riêng Sydney, ước 27,2 tỷ USD/năm. Nhật Bản, quy mô thị trường kinh tế đêm 400 tỷ yên (khoảng 3,7 tỷ USD) vào 2020. 20% du khách tới Anh năm 2014 có hoạt động giải trí về đêm. 35% dân du lịch tới Berlin để tìm kiếm các hoạt động giải trí về đêm. New York, hơn 26.000 cửa hàng ăn uống phục vụ kinh tế đêm. Manchester, hơn 150.000 người tham gia hoạt động giải trí đêm cuối tuần. Các thành phố du lịch nổi tiếng nhất thế giới đều phát triển mạnh kinh tế đêm như Pattaya, New York, Macau, London…, nằm trong top 10 thành phố thu hút nhiều du khách nhất, đặc biệt nổi tiếng với phố ẩm thực, shopping, giải trí hoạt động thâu đêm. Việt Nam, Đà Nẵng vẫn chưa có nền kinh tế đêm. Nghĩa là còn dư địa rất lớn để phát triển. Tại Việt Nam, doanh thu du lịch và mức chi tiêu của du khách thấp, liệu có phải nguyên nhân chính là từ khoảng trống khai thác các dịch vụ sau 12 giờ đêm, thưa ông? Năm 2017, Việt Nam thu 8,3 tỷ USD từ khách quốc tế, nhưng số này ở Indonesia là 12,6 tỷ; Singapore 18,4 tỷ, Thái Lan 52,5 tỷ. So sánh khách quốc tế lưu lại Việt Nam và Thái Lan cùng khoảng thời gian hơn 9 ngày nhưng chỉ tiêu 96 USD/ngày ở Việt Nam, còn ở Thái Lan là 163 USD. Một trong những nguyên nhân quan trọng là kinh tế đêm của Thái Lan đang bỏ xa Việt Nam. Bangkok được ví là thành phố không bao giờ ngơi nghỉ vì các hoạt động vui chơi giải trí diễn ra suốt ngày đêm. Theo Master Card (2018), Bangkok tiếp tục dẫn đầu danh sách những thành phố có lượng khách du lịch hằng năm lớn nhất thế giới. Trung bình, du khách đến Bangkok có thời gian lưu trú là 4,7 đêm và chi tiêu mỗi ngày khoảng 173USD. Ở Việt Nam, du lịch đẳng cấp chưa phát triển, chưa có kinh tế đêm, thiếu doanh nghiệp đủ năng lực phát triển kinh tế đêm, nhà nước chưa ban hành kế hoạch phát triển kinh tế đêm là những nguyên nhân khiến doanh thu du lịch Việt Nam thấp. Vậy chúng ta cần làm gì để phát triển kinh tế đêm bài bản, hiệu quả? Để tận dụng thời cơ “thoát nguy” và “bứt phá”, cần khẩn trương xây dựng một chương trình (chiến lược) phát triển kinh tế đêm tổng thể, trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn tới của thành phố như một nội dung ưu tiên. Cần chuẩn bị các điều kiện hiện thực như: có không gian để tổ chức kinh tế đêm; phát triển các ngành, các sản phẩm phục vụ kinh tế đêm và các khuyến khích chính sách. Cùng với đó, phải thiết lập các điều kiện bảo đảm như: hạ tầng, khung khổ pháp lý, hệ thống bảo đảm an toàn an ninh. Đặc biệt là phải lựa chọn lực lượng chủ công, định hướng và định hình để thực thi chiến lược phát triển kinh tế đêm. Ví dụ tại Đà Nẵng có thể chọn Sun Group với Bà Nà Hills và Khu vực Công viên Châu Á (Asia Park); Phát triển các khu phố đêm dọc biển, dọc sông Hàn với chợ đêm, nhà hàng ẩm thực. Phát triển kinh tế đêm ở Đà Nẵng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với các thành phố khác, nói như vậy có đúng không, thưa ông? Đà Nẵng phải quy hoạch phát triển kinh tế ban đêm như một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế đêm. Nó không phải là phương tiện, không phải cái kéo dài của kinh tế ban ngày. Nó là bộ phận, một nền kinh tế có quy hoạch, đặc trưng, có mục tiêu cũng khác. Quan trọng hơn, cần có chiến lược tốt thì mới hút được những nhà đầu tư tốt, mới có thể giữ nhà đầu tư tốt phát triển kinh tế ban đêm, giống như Sun Group và rất ít các nhà đầu tư đã tạo nền tảng cho kinh tế ban ngày tại Đà thành. Chỉ khi có chiến lược rõ ràng, các nhà đầu tư mới thấy Đà Nẵng đã sẵn sàng cho một cuộc chơi mới đầy hấp dẫn. Khuôn khổ ấy có mục tiêu đảm bảo cho nhà đầu tư ít rủi ro và có cơ hội thành công. Tôi cho rằng, kinh tế ban đêm là giải pháp “chớp” thời cơ hậu Covid-19 để Đà thành phát triển du lịch và bứt phá trong tương lai. Nhiều người cho rằng cần có sự “cởi trói tư duy” về chính sách để tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển kinh tế đêm, ông nghĩ sao về vấn đề này? Liên quan đến vấn đề chính sách, cũng giống như phát triển kinh tế ban ngày, cần có nhu cầu về đất đai, nhu cầu nhân lực, công nghệ, nhiều yếu tố đặc thù như ánh sáng, tiếng ồn, bảo đảm an toàn cho du khách, nhà đầu tư phải được phép kinh doanh thâu đêm… Phải có chính sách khác biệt, phù hợp với kinh tế ban đêm chứ không phải chỉ là những luật lệ sẵn có. Những người tiên phong kinh tế ban đêm chắc chắn sẽ gặp rủi ro. Rủi ro của người đi tiên phong theo ý nghĩa là đầu tư vào đây khách ít, dần dần mới tạo ra thói quen thức đêm, thói quen giải trí đêm thì mới có doanh thu… Do đó, giai đoạn đầu cũng cần có chính sách để doanh nghiệp bớt thiệt hại. Phải có cam kết rất rõ giữa chính quyền và doanh nghiệp để thấy được trách nhiệm của chính quyền cũng như để doanh nghiệp thấy được sự hỗ trợ, nhưng doanh nghiệp không có tâm lý ỷ lại khi chấm dứt hỗ trợ. Thưa ông, tại Đà Nẵng, hiện Sun Group được xem là một trong những doanh nghiệp tiên phong khai thác một số sản phẩm du lịch đêm như Bà Nà Hills, Công viên Châu Á, Bar Sky 36,… . Những sản phẩm như thế này liệu có đủ sức hút du khách lưu trú lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn ở Đà Nẵng? Các sản phẩm của Sun Group như Bà Nà Hills, Công viên Châu Á, cả không gian vừa phải như SKY 36 đều là cơ sở ban đầu cho phát triển những giá trị du lịch Đà Nẵng, trong đó đặc biệt là cơ sở cho kinh tế ban đêm. Đó là cơ sở rất quan trọng, bởi định hướng có không gian trên nền tảng dịch vụ, bổ sung thêm trong không gian ấy có thêm sản phẩm mới, cấu trúc mới ngành nghề mới. Riêng Bà Nà Hills đã hút khách về ban đêm, nhưng mới chủ yếu là hưởng không khí ban đêm ở đó chứ chưa phải là tận hưởng nền không khí kinh tế ban đêm ở Bà Nà. Về không gian, ban đêm ở Bà Nà đêm nó huyền diệu, mê hoặc người ta. Ban ngày đã sôi động như vậy rồi nếu ban đêm làm được như vậy nữa thì đó sẽ là một không gian kinh tế đêm ở Đà Nẵng. Hiệu ứng từ đây sẽ lan ra được các sản phẩm khác, kinh tế ban đêm ở chỗ khác của Đà Nẵng. Tôi cho rằng, “tọa độ” ban đầu là đặc biệt quan trọng.
Chợ nổi Cái Răng Nét độc đáo nơi sông nước Miền Tây Chợ nổi là loại hình chợ đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long mà không nơi nào có được. Trong đó, chợ nổi Cái Răng Cần Thơ là khu chợ sầm uất, tiêu biểu nhất cho nét văn hóa sông nước miền Tây. Chợ nổi Cái Răng thuộc quận Cái Răng, TP.Cần Thơ , cách bến Ninh Kiều 30 phút đi thuyền, được hình thành từ những năm đầu của thế kỷ XX. Khu chợ này chủ yếu buôn bán các loại trái cây, nông sản, đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thủa xưa, khu chợ này được hình để đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa của người dân vì hệ thống đường bộ chưa phát triển. Ngày nay, dù đường sá giao thương thuận lợi, nhưng người ta vẫn duy trì khu chợ nổi này như một nét đẹp văn hóa lâu đời. Từ sáng sớm hàng trăm chiếc ghe, thuyền từ khắp nơi đã kéo về chợ nổi. Vì vậy, thời gian tham quan chợ nổi Cái Răng lý tưởng nhất là 5h đến 8h sáng. Hình thức chào hàng của những chợ nổi ở miền Tây là sử dụng cây bẹo. Ghe bán gì thì treo thứ đó lên cây sào cao từ 3 – 5 m để người mua có thể nhận biết từ xa. Việc treo đồ trên cây sào còn có nhiều thông điệp mà người dân ngầm hiểu với nhau, như “không treo mà bán” là những ghe phục vụ đồ ăn, uống như hủ tiếu, bánh canh, cà phê… Người dân buôn bán với nhau từ ghe này qua ghe khác bằng cách tung hứng hoặc chuyền tay các món đồ. Các mặt hàng chủ yếu tại chợ là nông sản, đồ thủ công và nhu yếu phẩm. Hòa mình vào không khí của buổi chợ, du khách có thể tìm hiểu cuộc sống sông nước của người dân, trên những “căn hộ di động” với đầy đủ tivi, bếp nấu, cây cảnh… Những chiếc xuồng nhỏ chở đủ loại hành hóa sẽ ghé sát vào thuyền của du khách để thuận tiện cho việc mua bán. Các mặt hàng phong phú từ hoa quả, trái cây cho đến cà phê, nước ngọt… đều được phục vụ trên sông. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa và kinh tế, Tạp chí Rough Guide (Anh) đã bình chọn chợ nổi Cái Răng là một trong 10 khu chợ ấn tượng nhất thế giới, mô tả điểm đặc biệt lạ mắt là các thuyền bán hàng “rực rỡ sắc màu nhiệt đới”. Các mặt hàng trái cây vô cùng phong phú, giá cả phải chăng. Du khách thường thưởng thức trái cây tươi ngon ngay trên thuyền. Đến chợ nổi du khách không chỉ tham quan các xuồng trái cây, nông sản mà còn được trải nghiệm các món phở, món nhậu, hủ tiếu, cà phê ngay trên thuyền. Năm 2013, Đầu bếp nổi tiếng thế giới Gordon Ramsay có dịp ghé thăm và khám phá ẩm thực miền Tây Nam Bộ. Tình cờ lênh đênh trên chợ nổi Cái Răng, món hủ tiếu đã để lại cho ông một ấn tượng khó quên. Ông chia sẻ, hủ tiếu ở đây có mùi thơm của hẹ, các loại rau mùi, mọi thứ hòa quyện hoàn hảo để tạo nên một tổng thể vừa thanh nhẹ, vừa đậm đà mà chưa chắc gì những nhà hàng Việt Nam tại London nước Anh có thể sánh bằng. Năm 2016, chợ nổi Cái Răng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nơi đây là điểm đến thú vị cho những ai yêu thích khám phá, muốn tìm hiểu về văn hóa miền sông nước Nam Bộ./ CTV Giang Ngọc
Cai Rang floating market Unique features of the Western rivers Floating market is a typical type of market of the Mekong Delta that cannot be found anywhere else. Among them, Cai Rang floating market in Can Tho is the busiest market, most representative of the river culture of the West. Cai Rang floating market is located in Cai Rang district, Can Tho City , 30 minutes by boat from Ninh Kieu wharf, was formed in the early years of the twentieth century. This market mainly sells fruits, agricultural products, and specialties of the Mekong Delta. In the past, this market was formed to meet the needs of people to exchange and buy and sell goods because the road system was not yet developed. Today, although trade roads are convenient, people still maintain this floating market as a long-standing cultural beauty. From early morning, hundreds of boats from all over came to the floating market. Therefore, the ideal time to visit Cai Rang floating market is from 5am to 8am. The form of offering in floating markets in the West is using the bamboo tree. Whatever boat is for sale, hang it on a pole 3 - 5 m high so that buyers can recognize it from afar. Hanging things on poles also has many messages that people implicitly understand with each other, such as "don't hang but sell" are boats that serve food and drinks such as noodles, noodle soup, coffee... People trade with each other from boat to boat by juggling or passing items from hand to hand. The main items at the market are agricultural products, handicrafts and necessities. Immersing yourself in the atmosphere of the market, visitors can learn about the river life of the people, in "mobile apartments" with full televisions, stoves, ornamental plants... Small boats carrying all kinds of goods will come close to tourists' boats to facilitate buying and selling. A variety of products from fruits, vegetables to coffee, soft drinks... are served on the river. With unique cultural and economic values, Rough Guide Magazine (UK) voted Cai Rang floating market as one of the 10 most impressive markets in the world, describing a particularly strange feature as the boats selling "Brilliant tropical colors". Fruit products are extremely diverse and reasonably priced. Tourists often enjoy fresh fruit right on the boat. Coming to the floating market, visitors not only visit the fruit and agricultural product boats but also experience pho dishes, drinks, noodles, and coffee right on the boat. In 2013, world-famous chef Gordon Ramsay had the opportunity to visit and explore the cuisine of the Southwest. Accidentally floating on the Cai Rang floating market, the noodle soup left an unforgettable impression on him. He shared that the noodles here have the aroma of chives and coriander, everything blends perfectly to create an overall that is both light and rich, which is not at all similar to Vietnamese restaurants in London. You can compare. In 2016, Cai Rang floating market was recognized by the Ministry of Culture, Sports and Tourism as a national intangible cultural heritage. This place is an interesting destination for those who love to explore and want to learn about the culture of the Southern river region./ Collaborator Giang Ngoc
Cầu đá 3 tầng 2.000 năm còn đứng vững Dù nước ngừng chảy, dòng xe cộ qua cầu Pont du Gard vẫn tiếp tục lưu thông qua hàng trăm năm. Không ít công trình từ thời La Mã cổ đại còn tồn tại qua hàng trăm năm, cho thấy kỹ thuật xây dựng đỉnh cao và óc thẩm mỹ kiệt xuất của những kiến trúc sư đời trước. Những cây cầu máng dẫn nước của người La Mã chính là minh chứng điển hình cho điều này, và không có ví dụ nào rõ hơn cây cầu Pont du Gard. Được xây dựng từ thế kỷ thứ nhất, cây cầu mái vòm tuyệt đẹp này vừa là lối cho xe cộ lưu thông, vừa là đường dẫn nước sông Gard từ thị trấn nhỏ Uzès ở miền nam đến thành phố cổ Nîmes phía đông nam. Ước tính khoảng 40.000 mét khối nước chảy qua cầu hàng ngày, đổ về những đài phun nước, hồ bơi, và khu dân cư Nîmes. Cầu dài 275 m và cao 49 m được xây dựng hoàn toàn bằng đá. Ba tầng của cây cầu tháp này đều có hàng cột mái vòm. Người xưa dùng khoảng 50.400 tấn đá vôi để làm cầu, với những khối đá lớn nhất nặng đến 6 tấn. Phần lớn đá được khai thác từ mỏ địa phương Estel cách hạ lưu sông Gard khoảng 700 m. Những nhịp cầu dựng từ các khối đá khổng lồ xếp chồng lên nhau bằng đòn bẩy và ròng rọc, vững chãi đến mức đáng kinh ngạc dù hầu như không dùng đến vữa. Chi phí để dựng lên cây cầu này không hề nhỏ. Nhà khảo cổ Pháp Émile Espérandieu ước tính người xưa tốn đến 30 triệu đồng sesterce (tiền cổ La Mã), tương đương với tiền trả cho 500 tân binh trong quân đoàn La Mã trong 50 năm. Khoản tiền này quy đổi theo tỷ giá ngày ngay có thể tương đương hàng chục triệu USD. Những khối đá khớp nhau đến hoàn hảo nhờ ma sát và trọng lực. Trên từng khối đá đều khắc số, chỉ dẫn về vị trí… Ảnh: Horizon Provence Cây cầu được sử dụng để dẫn nước ít nhất đến thế kỷ thứ 6, bởi những vấn đề như thấm, nứt… bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ thứ 4 nhưng không ai tu sửa. Đất cát dẫn đến tắc nghẽn, những mảnh vụn tích tụ dần khiến dòng chảy ngưng trệ. Từ khi Đế chế La Mã sụp đổ, Pont du Gard hầu như còn nguyên vẹn do nó vẫn là cây cầu thu phí. Suốt hàng thế kỷ, những vị lãnh chúa và giám mục trong vùng chịu trách nhiệm duy tu Pont du Gard, để đổi lấy quyền thu phí của khách qua sông trên cây cầu này. Đến thế kỷ 17, vài khối đá dựng cầu bị đánh cắp và phá hoại, Pont du Gard chỉ dần nổi tiếng và trở thành điểm du lịch quan trọng trong vùng từ thế kỷ 18. Nó đã trải qua hàng loạt đợt tu bổ từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 21. Chính quyền đầu tư mạnh tay nhất vào năm 2000 khi khai trương một trung tâm du khách mới cho di tích này, đồng thời loại bỏ những tuyến đường và các tòa nhà xây dựng gần cây cầu để phát triển du lịch. Tầng 1 của cây cầu có 6 nhịp vòm, dài tổng cộng 142 m. Tầng 2 có 11 nhịp vòm, dài 242 m. Tầng 3 ban đầu có 47 nhịp, hiện còn 35 nhịp, dài tổng cộng 275 m. Ảnh: Pont du Gard Năm 1985, Pont du Gard được UNESCO công nhận Di sản thế giới. Ngày nay, cây cầu là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Pháp, đón khoảng 1,4 triệu lượt khách mỗi năm. Địa điểm này mở cửa quanh năm. Vé vào cửa là 9,5 euro/ người lớn, thêm 6 euro/ người nếu du khách đi tour có hướng dẫn, và miễn phí hoàn toàn với người dưới 18 tuổi. Khách du lịch có thể đi dạo khoảng 3,5 km trên cây cầu và ngắm nhìn toàn cảnh sông Gard từ trên tầng cao nhất, hoặc đạp xe qua cầu. Vào mùa hè, người Pháp cũng kéo tới đây để cắm trại, tắm sông hay chèo kayak. Bên trong khu du lịch Pont du Gard còn có một bảo tàng về lịch sử của những cây cầu dẫn nước thời La Mã và Ludo, một bảo tàng giáo dục tương tác dành cho trẻ từ 5 – 12 tuổi vui chơi và khám phá khoa học.
The 3-story stone bridge is still standing for 2,000 years Even though the water stopped flowing, traffic across the Pont du Gard bridge continued to circulate for hundreds of years. Many works from ancient Rome have survived hundreds of years, showing the top construction techniques and outstanding aesthetics of previous architects. The Roman aqueduct bridges are a prime example of this, and there is no clearer example than the Pont du Gard. Built in the first century, this beautiful arched bridge serves as both a way for vehicles and a waterway for the Gard River from the small town of Uzès in the south to the ancient city of Nîmes in the southeast. An estimated 40,000 cubic meters of water flows over the bridge daily, pouring into fountains, swimming pools, and the Nîmes residential area. The bridge is 275 m long and 49 m high and is built entirely of stone. The three floors of this tower bridge all have arched columns. Ancient people used about 50,400 tons of limestone to make bridges, with the largest stone blocks weighing up to 6 tons. Most of the stone was mined from the local Estel mine about 700 meters downstream of the Gard River. The bridges are built from giant stone blocks stacked on top of each other using levers and pulleys, and are surprisingly sturdy even though almost no mortar is used. The cost to build this bridge is not small. French archaeologist Émile Espérandieu estimates that the ancients spent up to 30 million sesterces (ancient Roman coins), equivalent to paying 500 recruits in the Roman legion for 50 years. This amount of money converted at the daily exchange rate can be equivalent to tens of millions of USD. The stone blocks fit together perfectly thanks to friction and gravity. On each stone block are engraved numbers and instructions about the location... Photo: Horizon Provence The bridge was used to carry water at least until the 6th century, because problems such as seepage, cracks... began to appear in the 4th century but no one repaired it. Sandy soil leads to blockages, and debris gradually accumulates, causing the flow to stop. Since the fall of the Roman Empire, the Pont du Gard has remained largely intact because it is still a toll bridge. For centuries, the lords and bishops of the region were responsible for maintaining the Pont du Gard, in exchange for the right to collect tolls from visitors crossing the river on this bridge. In the 17th century, some of the bridge's stone blocks were stolen and vandalized. Pont du Gard gradually became famous and became an important tourist destination in the region from the 18th century. It has undergone a series of renovations since the 18th century. 18th to 21st century. The government invested most heavily in 2000 when it opened a new visitor center for this monument, and removed roads and buildings built near the bridge to develop tourism. The first floor of the bridge has 6 arches, a total length of 142 m. The second floor has 11 arches, 242 m long. The 3rd floor originally had 47 spans, currently there are 35 spans, a total length of 275 m. Photo: Pont du Gard In 1985, Pont du Gard was recognized by UNESCO as a World Heritage Site. Today, the bridge is one of France's most popular tourist attractions, welcoming about 1.4 million visitors each year. This location is open year-round. Entrance ticket is 9.5 euros/adult, an additional 6 euros/person if you go on a guided tour, and completely free for people under 18 years old. Tourists can walk about 3.5 km on the bridge and enjoy panoramic views of the Gard River from the top floor, or cycle across the bridge. In the summer, the French also come here to camp, swim in the river or kayak. Inside the Pont du Gard tourist area there is also a museum about the history of Roman aqueducts and Ludo, an interactive educational museum for children from 5 to 12 years old to play and explore science. .
Voọc chà vá chân nâu ‘áp đảo’ cuộc thi ảnh môi trường Đà Nẵng Ban tổ chức cuộc thi ‘Sáng tác ảnh về môi trường và đa dạng sinh học thành phố Đà Nẵng’ năm 2020 vừa công bố 50 bộ ảnh được chọn vào vòng triển lãm sau hơn 3 tháng phát động cuộc thi. Cuộc thi do Sở Tài nguyên và môi trường TP Đà Nẵng, báo Tài nguyên và Môi trường , Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh nghệ thuật thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức, nhằm góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng, kêu gọi và quảng bá đến người dân và du khách về một thành phố thân thiện với môi trường. Ông Võ Nguyên Chương – phó giám đốc Sở Tài nguyên và môi trường TP Đà Nẵng , chủ tịch hội đồng chấm giải – cho biết cuộc thi tiếp nhận 65 ảnh bộ và 385 ảnh đơn đến từ 90 tác giả cả nước. Các tác phẩm phản ánh sự đa dạng, phong phú của thiên nhiên trong mối quan hệ hài hòa với con người, thể hiện sự tích cực trong quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên, những đóng góp và nỗ lực bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học của chính quyền và cộng đồng. Ban giám khảo đã chọn được 50/450 bộ ảnh cho vòng triển lãm sắp tới. Trong đó, số ảnh đẹp về voọc chà vá chân nâu (loài linh trưởng được xếp nguy cấp) chiếm tỉ lệ áp đảo so với các chủ đề khác. Nơi voọc chà vá chân nâu dễ được tìm thấy nhất trong tự nhiên chính là tại bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng. Dự kiến vào giữa tháng 12 ban tổ chức sẽ công bố các tác giả thắng cuộc. Tác phẩm “Đường về” – Ảnh: BTC cuộc thi cung cấp Khoảnh khắc mẹ con voọc tung người giữa không trung – Ảnh: BTC cung cấp Một tác phẩm ghi lại đời sống voọc chà vá chân nâu – Ảnh: BTC cung cấp Tác phẩm “Mùa tím Sơn Trà” với tâm điểm là nữ hoàng linh trưởng – Ảnh: BTC cuộc thi cung cấp Bán đảo Sơn Trà hiện là ngôi nhà lớn cho nhiều loài động vật nhưng nơi đây cũng đang gặp thách thức do sự can thiệp quá nhiều của con người vào môi trường tự nhiên – Ảnh: BTC cung cấp Bộ ảnh về một loài chim quý ở Đà Nẵng – Ảnh: BTC cuộc thi cung cấp Tác phẩm “Không rác thải nhựa” – Ảnh: BTC cung cấp Ghềnh đá Nam Ô – Ảnh: BTC cuộc thi cung cấp Một bức hình ghi lại cảnh tổ của loài chim quý ở Sơn Trà – Ảnh: BTC cung cấp Tác phẩm “Thu lưới biển” – Ảnh: BTC cung cấp TRƯỜNG TRUNG
The red-shanked douc langur 'overwhelmed' the Da Nang environmental photo contest The organizing committee of the 2020 contest 'Creating photos about the environment and biodiversity of Da Nang city' has just announced 50 sets of photos selected for the exhibition round after more than 3 months of launching the contest. The contest is reported by the Department of Natural Resources and Environment of Da Nang City Natural Resources and Environment , jointly organized by the Da Nang Art Photography Artists Association, to contribute to raising community awareness, calling and promoting to residents and tourists about an environmentally friendly city. Mr. Vo Nguyen Chuong - Deputy Director of the Department of Natural Resources and Environment Da Nang City , chairman of the judging panel - said the contest received 65 series photos and 385 single photos from 90 authors nationwide. The works reflect the diversity and richness of nature in a harmonious relationship with humans, demonstrating positivity in sustainable management and use of resources, contributions and efforts to protect the environment. schools, biodiversity conservation by the government and the community. The jury has selected 50/450 sets of photos for the upcoming exhibition round. Among them, the number of beautiful photos of red-shanked douc langurs (an endangered primate) dominates compared to other topics. The place where red-shanked douc langurs are most easily found in the wild is at Son Tra Peninsula, Da Nang City. It is expected that in mid-December, the organizing committee will announce the winning authors. The work "Road home" - Photo: provided by the contest organizers The moment a mother and her baby langur bounced in mid-air – Photo: Provided by BTC A work documenting the life of the red-shanked douc langur - Photo: Provided by BTC The work "Son Tra Purple Season" with the focus on the primate queen - Photo: Provided by the contest organizers Son Tra Peninsula is currently a big home for many animal species, but this place is also facing challenges due to too much human intervention in the natural environment - Photo: Provided by BTC A set of photos of a precious bird species in Da Nang - Photo: Provided by the contest organizers The work "No plastic waste" - Photo: provided by BTC Nam O rapids – Photo: provided by the contest organizers A photo capturing the nest of a rare bird species in Son Tra - Photo: Provided by BTC The work "Collecting sea nets" - Photo: provided by BTC TRUNG TRUONG
Đi 30 nước khi mới 25 tuổi Lý Thành Cơ vẫn không khỏi ngỡ ngàng khi tới Bà Nà Blogger du lịch nổi tiếng Lý Thành Cơ vừa có chuyến du ngoạn Sun World Ba Na Hills sau một thời gian dài “cuồng chân” vì giãn cách xã hội. Từng đặt chân đến hơn 30 quốc gia khi chỉ mới 25 tuổi, Lý Thành Cơ vẫn không khỏi choáng ngợp trước vẻ đẹp của khu du lịch nổi tiếng của miền Trung. Lý Thành Cơ là một trong những cái tên nổi bật trong cộng đồng travel blogger tại Việt Nam với thành tích” từng đặt chân đến hơn 30 quốc gia khi mới 25 tuổi, cùng những bài viết về du lịch đong đầy cảm xúc trên trang web cá nhân. Nói về lý do lựa chọn Bà Nà là một trong những điểm đến đầu tiên của anh ngay sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát tại Việt Nam, blogger nổi tiếng chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên mình đến Bà Nà Hills sau nhiều lẫn lỗi hẹn, dù đi Đà Nẵng hơn chục lần. Vì sao à? Vì sau giãn cách, ngành du lịch chịu một cú hích rất mạnh, nên mình càng muốn đi khắp Việt Nam để trải nghiệm những nơi mình chưa từng đến. Chỉ cần xách balô lên mà đi đã phần nào giúp phục hồi ngành du lịch nước mình. Vì vừa hết giãn cách nên mình biết chắc Bà Nà sẽ bớt đông một chút để có dạo chơi, chụp ảnh thoải mái nhất có thể. Và mình đã không sai”. Blogger nổi tiếng này đã gợi ý 5 điểm đến tuyệt vời, không thể bỏ qua ở Bà Nà để có những trải nghiệm độc đáo và những bộ ảnh “chất như nước cất”. 1. Cầu Vàng Cây cầu Vàng từng làm rúng động giới truyền thông quốc tế ngay từ khi đi vào hoạt động chính là điểm đến đem lại cho blogger Lý Thành Cơ sự tò mò và phấn khích nhất tại Bà Nà Hills. Dù đã nghe danh từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên blogger nổi tiếng được đặt chân đến Cầu Vàng. Khung cảnh hùng vĩ giữa núi rừng và đất trời Bà Nà cùng quang cảnh không một bóng người lúc sáng sớm đã giúp chàng blogger nổi tiếng có được những shoot hình chất lừ tại Cầu Vàng. “Do mình ở lại một đêm nên sáng sớm và chiều tối cứ ghé là có thể chụp với cây cầu thoải mái không một bóng người” – Lý Thành Cơ chỉ dẫn trong clip review của mình. Làng Pháp với vẻ đẹp của “nước Pháp thu nhỏ” đã hoàn toàn chinh phục chàng blogger nổi tiếng Lý Thành Cơ. “Thú thật, mình từng tới châu Âu những 8 lần và có lời khen Bà Nà Hills phục dựng làng Pháp rất tốt với các chi tiết kiến trúc, tượng đá và tường nhà xây chi tiết cứ như lạc vào châu Âu thật vậy” – blogger nhận xét. Lý Thành Cơ cho biết, khi ở đêm lại Bà Nà Hills, du khách chỉ có một lựa chọn duy nhất là ở khách sạn Mercure Danang French Village Bana Hills. Tại đây có tới 7 toà nhà, mỗi toà nhà sở hữu kiến trúc khác nhau và tên gọi khác nhau luôn. “Cơ được ở Hotel de Lyon khá xinh xẻo. Lên tầng 2 bước ra ban công là nhìn thấy toàn cảnh ngôi làng kiến trúc Châu Âu từ trên cao. Thề luôn là rất tuyệt vời nhé!”- hot blogger kể. 3. Vườn hoa Le Jardin d’Amour Theo blogger Lý Thành Cơ, vườn hoa Le Jardin d’Amour nằm cùng khu vực ga của Cầu Vàng cũng là một trong những điểm đến không nên bỏ qua ở Bà Nà. Với diện tích gần 21.000 m2 trải rộng từ sườn đông sang sườn tây của núi Bà Nà, Le Jardin d’Amour là thiên đường của các loài hoa, có thể làm xiêu lòng bất cứ du khách nào ghé chân đến. 4. Tượng Phật khổng lồ Bức tượng Phật Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni khổng lồ nổi bật với màu trắng tuyệt đẹp giữa núi rừng Bà Nà đã gây ấn tượng đặc biệt với blogger Lý Thành Cơ. Tượng Phật cao 27 m, ngang gối 14 m và tọa trên đài sen cao 6 m, tọa lạc trong khuôn viên chùa Linh Ứng trên đỉnh Bà Nà. “Chỉ cần đi từ cáp treo, bạn cũng đã có thể thấy bức tượng hiện lên sừng sừng giữa núi rừng Bà Nà rồi. Cơ lại thích chụp ảnh tượng từ phía đài quan sát trong vườn hoa vì nhìn tượng rất hùng vĩ giữa núi rừng” – blogger Lý Thành Cơ chia sẻ. 5. Fantasy Park & đường xe trượt ống 3 vòng xoáy Sau 2 ngày 1 đêm tại Bà Nà, blogger du lịch nổi tiếng Lý Thành Cơ đã phải thốt lên rằng, Bà Nà biết cách chiều khách lắm. Dù thích ngắm cảnh, hay muốn tìm cảm giác thanh tịnh trong tâm hồn, mê thưởng thức ẩm thực hay vui chơi giải trí thì Bà Nà cũng có đủ cả. Sau những shoot hình đầy ấn tượng, blogger nổi tiếng đã có những giây phút vui chơi đã đời, sảng khoái tại Fantasy Park và đường xe trượt ống 3 vòng xoáy (máng trượt). “Nhớ ghé Fantasy Park & Máng trượt nhé để chơi cho đã luôn! Đặc biệt là không phải mua thêm vé. Máng trượt bình thường rất hot phải xếp hàng, nhưng mùa này đi không bị đông và vào là chơi được ngay” – Lý Thành Cơ chia sẻ trên Facebook cá nhân. Ngoài ra, theo chàng blogger điển trai, ẩm thực ở Bà Nà khá phong phú nên du khách có thể thưởng thức tại nhiều nhà hàng khác nhau. Tuy các nhà hàng chưa mở cửa hết, song vẫn có đủ hàng quán mở cửa phục vụ nhu cầu ăn uống đa dạng của du khách. Đặc biệt, nhà hàng Arapang có món phở bò ngon đến mức nghệ nhân ẩm thực Giang Thị Ngọc Tú cũng phải công nhận: “Ngon không kém những quán phở nức tiếng Hà Nội”. Tất nhiên là bún hải sản, cừu nướng nguyên con, hải sản nướng… và rất nhiều món ngon ba miền, Âu, Á khác ở nhà hàng này cũng ngon nuốt lưỡi. Bà Nà Hills đang áp dụng một chương trình kích cầu đặc biệt hấp dẫn “Yêu Việt Nam, Du lịch Việt Nam” kéo dài đến hết ngày 15-7, để du khách có thể thưởng thức ẩm thực miễn phí. Cụ thể, khi mua vé cáp treo dành cho người lớn với mức giá 750.000 đồng, du khách sẽ được tặng ngay vé buffet trưa trị giá 255.000 đồng, mua vé cho trẻ em từ 1-1,4 m với giá 600.000 đồng sẽ được tặng vé buffet trưa trị giá 128.000 đồng. Trẻ dưới 1 m sẽ được miễn phí toàn bộ. Hot blogger cũng phải trầm trồ thì bạn có lý do nào mà không book vé bay tới Bà Nà Hills, nhất là khi vé máy bay, giá phòng khách sạn cũng đang “siêu rẻ”.
Traveled to 30 countries at the age of 25 Ly Thanh Co was still surprised when he arrived at Ba Na Famous travel blogger Ly Thanh Co just had a trip to Sun World Ba Na Hills after a long period of "crazy" due to social distancing. Having visited more than 30 countries when he was only 25 years old, Ly Thanh Co is still overwhelmed by the beauty of the famous tourist area of ​​the Central region. Ly Thanh Co is one of the prominent names in the travel blogger community in Vietnam with the achievement of "having visited more than 30 countries at the age of 25, along with emotional travel articles on the website." individual. Talking about the reason for choosing Ba Na as one of his first destinations right after the Covid-19 epidemic was controlled in Vietnam, the famous blogger shared: "This is the first time I went to Ba Na Hills after Many mistakes, no matter what Danang more than a dozen times. Why? Because after the lockdown, the tourism industry received a very strong hit, so I want to travel all over Vietnam to experience places I have never been to. Just picking up your backpack and going has partly helped restore our country's tourism industry. Because the quarantine has just ended, I know for sure that Ba Na will be a little less crowded so I can walk around and take photos as comfortably as possible. And I was not wrong." This famous blogger has suggested 5 great, not-to-be-missed destinations in Ba Na to have unique experiences and photos "as good as distilled water". 1. Golden Bridge The Golden Bridge, which has shaken the international media since it came into operation, is the destination that brings blogger Ly Thanh Co the most curiosity and excitement at Ba Na Hills. Although I have heard about it for a long time, this is the first time the famous blogger has set foot on Golden Bridge. The majestic scenery between the mountains and forests of Ba Na and the empty landscape in the early morning helped the famous blogger take great photo shoots at the Golden Bridge. "Because I stayed one night, I could stop by early in the morning and late in the evening to take photos with the bridge comfortably without a shadow of anyone" - Ly Thanh Co instructed in his review clip. French Village with the beauty of "miniature France" has completely conquered the famous blogger Ly Thanh Co. "To be honest, I have been to Europe 8 times and have complimented Ba Na Hills for its very good reconstruction of the French village with architectural details, stone statues and detailed walls as if lost in Europe" - blogger commented. Ly Thanh Co said that when staying overnight in Ba Na Hills, tourists have only one choice: staying at the Mercure Danang French Village Bana Hills hotel. There are up to 7 buildings here, each building has a different architecture and different names. “It was quite nice staying at Hotel de Lyon. Go up to the 2nd floor and step out onto the balcony to see the panorama of the European architectural village from above. I swear it's always great!" - hot blogger said. 3. Le Jardin d'Amour flower garden According to blogger Ly Thanh Co, Le Jardin d'Amour flower garden located in the same station area of ​​Cau Vang is also one of the destinations not to be missed in Ba Na. With an area of ​​nearly 21,000 m2 spreading from the east to the west slope of Ba Na Mountain, Le Jardin d'Amour is a paradise of flowers, able to captivate any tourist who visits. 4. Giant Buddha statue The giant statue of Buddha Shakyamuni standing out with its beautiful white color in the middle of the Ba Na mountains made a special impression on blogger Ly Thanh Co. The Buddha statue is 27 m high, 14 m high at the knee and sits on a 6 m high lotus platform, located in the grounds of Linh Ung Pagoda on top of Ba Na. "Just from the cable car, you can see the statue appearing in the middle of the Ba Na mountains and forests. Co likes to take photos of the statue from the observatory in the flower garden because the statue looks very majestic in the middle of the mountains and forests" - blogger Ly Thanh Co shared. 5. Fantasy Park & ​​3-loop tube slide After 2 days and 1 night in Ba Na, famous travel blogger Ly Thanh Co had to exclaim that Ba Na knows how to treat guests very well. Whether you like sightseeing, or want to find a feeling of peace in your soul, enjoy food or entertainment, Ba Na has it all. After impressive photo shoots, the famous blogger had fun and refreshing moments at Fantasy Park and the 3-turn tube slide (slide). “Remember to stop by Fantasy Park & ​​Slide to play! Especially without having to buy additional tickets. Normally, the slide is very hot and you have to queue, but this season it's not crowded and you can go right away to play" - Ly Thanh Co shared on his personal Facebook. In addition, according to the handsome blogger, the cuisine in Ba Na is quite rich so visitors can enjoy it at many different restaurants. Although all the restaurants are not yet open, there are still enough shops open to serve the diverse dining needs of tourists. In particular, Arapang restaurant has beef pho that is so delicious that culinary artist Giang Thi Ngoc Tu has to admit: "It's as good as the famous pho restaurants in Hanoi." Of course, seafood vermicelli, whole grilled lamb, grilled seafood... and many other delicious dishes from three regions, Europe, and Asia at this restaurant are also delicious. Ba Na Hills is applying a particularly attractive stimulus program "Love Vietnam, Travel to Vietnam" lasting until July 15, so visitors can enjoy free cuisine. Specifically, when buying a cable car ticket for adults for 750,000 VND, visitors will immediately receive a buffet lunch ticket worth 255,000 VND. When buying a ticket for children from 1-1.4 m for 600,000 VND, they will receive Free lunch buffet ticket worth 128,000 VND. Children under 1 meter will be completely free. Hot bloggers also have to wonder if you have any reason not to book a flight to Ba Na Hills, especially when air tickets and hotel room prices are also "super cheap".
Biển người đổ về Nhà thờ Lớn đêm Noel Tối 24/12, người dân ở TP.HCM , Hà Nội … tập trung đến các khu vực trung tâm để hòa chung không khí đêm Noel. Biển người đổ về Nhà thờ Lớn đón Giáng sinh Tối 24/12, khu vực trung tâm Hà Nội chật cứng người vui chơi đêm Giáng sinh. Lực lượng an ninh túc trực nhắc nhở người dân đeo khẩu trang phòng tránh Covid-19. Ùn tắc giao thông ở nhiều tuyến đường Hà Nội Ngay từ 17h30, cảnh ùn tắc giao thông bắt đầu xảy ra trên nhiều tuyến đường phố ở Hà Nội. Tại các phố Tương Mai, đường Nguyễn Trãi, người và xe di chuyển chậm. Hướng đường Trường Chinh tới đường Láng dù đã được điều chỉnh nhịp đèn tín hiệu hợp lý nhưng cảnh ùn tắc vẫn kéo dài. Ôtô phải xếp hàng đi xuống đường trên cao ở hai đầu Ngã Tư Sở và Ngã Tư Vọng. Ảnh: Việt Hùng. Người dân bắt đầu đổ về trung tâm thủ đô Tại trung tâm thủ đô, thời tiết đã ấm lên. Nhiệt độ vào lúc 18h là 20 độ C. Các bạn trẻ sớm diện trang phục Giáng sinh đổ về khu vực hồ Gươm, Tràng Tiền Plaza vui chơi. Nhiều người dừng đỗ xe ngay dưới lề đường khiến tuyến phố Hàng Bài bị ùn ứ. Ảnh: Tùng Đoàn. Xung quanh nhà thờ Lớn Hà Nội đông đúc ngay từ chập tối Bé Anh Tuấn chuẩn bị đi diễn trên sân khấu ở nhà thờ Lớn lúc 21h. Trước khi vào bên trong bé ăn lót dạ chiếc bánh mì. Từ 17h lực lượng an ninh đã có mặt ở nhiều chốt thuộc trung tâm thành phố để điều tiết giao thông. Các phương tiện cơ giới đều bị cấm. Trước cửa khu vực nhà thờ Lớn (Hà Nội), hàng trăm bạn trẻ đổ về chiếm chỗ đẹp chờ xem các tiết mục văn nghệ, Thánh ca. Ảnh: Tùng Đoàn. TP.HCM mát mẻ đêm Giáng sinh Tại TP.HCM, không khí mát mẻ, nhiệt độ từ 28 đến 29 độ C, thuận lợi cho đêm Giáng sinh. Trong khi nhiều người được vui chơi, ăn uống, ngay từ 17h, bạn Luân tranh thủ thời gian nghỉ làm việc đi bán thêm phụ kiện Noel. Luân chia sẻ đã làm công việc này mấy ngày nay, lượng khách mua ít hơn các năm trước. Chàng trai trong lúc mưu sinh bị lực lượng trật tự đô thị thường xuyên nhắc nhở lỗi buôn bán ngoài vỉa hè. Ảnh: Y Kiện. Hơn 2.000 CSGT TP.HCM ứng trực đêm Giáng sinh Công an TP.HCM huy động tối đa 100% lực lượng phân luồng vào tối 24/12. Hơn 2.000 cảnh sát sẽ có mặt tại các điểm nóng giao thông nhằm tạo điều kiện người dân vui chơi Giáng sinh. Cảnh sát cũng được bố trí tăng cường xung quanh nhà thờ, hội thánh, giáo xứ… nơi có lượng người đến làm lễ, vui chơi tăng đột biến. Tại các quận trung tâm, CSGT tập trung phân luồng trên 6 tuyến đường như Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Cách Mạng Tháng Tám, Điện Biên Phủ, Nguyễn Tất Thành, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Văn Trỗi… Ngoài ra, CSGT cũng kết hợp xử lý người đi ngược chiều, chạy quá tốc độ, vi phạm nồng độ cồn và chống đua xe, tụ tập. Ảnh: Phạm Ngôn. Không khí tại nhà thờ Con Gà Vào lúc 19h tại nhà thờ Con Gà, Đà Lạt (Lâm Đồng), hàng trăm du khách và giáo dân đổ về vui chơi, đón Giáng sinh. Lễ Thánh bên trong nhà thờ Lớn, Hà Nội Lễ Thánh vọng bằng tiếng Pháp bên trong nhà thờ Lớn (Hà Nội) diễn ra với sự tham dự của hàng trăm giáo dân, dưới sự chủ trì của Cha tổng Thắng. Bên trong, học sinh lớp Giáo lý đang chuẩn bị các tiết mục văn nghệ cho đêm Giáng sinh phía sau cánh gà. Ảnh: Thạch Thảo. Xóm đạo nổi tiếng TP.HCM 19h30, hàng nghìn người dân đã đổ về kín tuyến đường Phạm Thế Hiển, phường 7, quận 8, nơi có khu xóm đạo lớn và nổi tiếng ở TPHCM. Ảnh: Chí Hùng. Mãng xã hội ngập tràn không khí Noel Nhiều người tranh thủ ghi lại không khí Giáng sinh ở ngoài đường phố rồi chia sẻ lên mạng xã hội Facebook. Một số người nổi tiếng cũng gửi những lời chúc Noel đến mọi người. Nhà thờ Đức Bà, TP.HCM Các gia đình và giới trẻ đổ về khu vực nhà thờ Đức Bà, TP.HCM. Nhiều cặp đôi thể hiện cảnh tình tứ để chụp ảnh. Ảnh: Y Kiện. Phố Tạ Hiện vắng vẻ Khác hẳn với đêm Giáng sinh hàng năm, do đại dịch Covid-19 vẫn đang lan rộng ở nhiều nước trên thế giới, đêm Noel hôm nay du khách nước ngoài vắng bóng hẳn ở phố Tây – Tạ Hiện. Nhiều hàng quán ở đây lúc 20h vẫn còn nhiều ghế trống. Nhóm đại gia đình tập trung về một quán tại đây tổ chức ăn uống, mở nhạc và nhẩy. Không khí tương đối tưng bừng, náo nhiệt. Ảnh: Duy Anh – Tùng Đoàn. Trẻ em đón Noel tại Bệnh viện Ung bướu, TP.HCM Chị Nguyễn Thị Mỹ Hoa (quê Bình Định) cho biết hơn nửa năm nay, con gái chị – bé Bảo Ngọc phát bệnh ung thư thận và phải cắt bỏ một quả thận. Ngọc đang được truyền hóa chất nên người luôn mệt mỏi. “Tối nay, bé vui vẻ đòi mặc áo công chúa xuống chơi Noel cùng các bạn. Dù là năm đầu tiên cùng con đón Giáng sinh ở Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, chúng tôi vẫn thấy ấm áp”, chị Hoa chia sẻ. Tại bệnh viện này, một số người trong trang phục ông già Noel xuất hiện trao quà từ thiện cho nhiều bệnh nhân. Ảnh: Chí Hùng. Nhà thờ Giáo xứ Trại Đáy, Nam Định Hàng nghìn người dân tập trung tại nhà thờ Giáo xứ Trại Đáy (Hải Hậu, Nam Định) chờ đón thời khắc Chúa ra đời. Ảnh: Phạm Thắng. Nhà thờ Lớn lúc 21h45 Càng về khuya, lượng người đổ về trước cửa nhà thờ Lớn (Hà Nội) càng đông. Ảnh: Ngọc Hiền Người dân tự bắn pháo hoa Tại xóm đạo, quận 8 (TP.HCM), nhiều hộ gia đình mua pháo hoa tự bắn trước cửa nhà khiến nhiều người qua lại chú ý. Ảnh: Chí Hùng. Không tổ chức phố đi bộ xung quanh hồ Gươm Xung quanh hồ Gươm (Hà Nội), do không phải ngày cuối tuần để tổ chức phố đi bộ, nhiều ôtô, xe máy vẫn lưu thông cùng dòng người đang vui chơi. Ảnh: Tùng Đoàn. Nhà thờ Lớn dần dần chật cứng người 22h dòng người đổ về ngày một đông trước cửa nhà thờ Lớn để xem chương trình văn nghệ và cầu nguyện khiến khu vực này chật cứng. Ảnh: Ngọc Hiền.
A sea of ​​people flocked to the Cathedral on Christmas Eve On the evening of December 24, people stayed Ho Chi Minh City , Hanoi ... focus on central areas to join in the Christmas Eve atmosphere. A sea of ​​people flocked to the Cathedral to celebrate Christmas On the evening of December 24, the central area of ​​Hanoi was packed with people enjoying Christmas Eve. Security forces are on duty to remind people to wear masks to prevent Covid-19. Traffic jams on many Hanoi roads As early as 5:30 p.m., traffic jams began to occur on many streets in Hanoi. At Tuong Mai and Nguyen Trai streets, people and cars move slowly. Although the direction of Truong Chinh street to Lang street has been adjusted to a reasonable signal rhythm, the congestion still persists. Cars must line up to go down the elevated road at both ends of Nga Tu So and Nga Tu Vong intersection. Image: Viet Hung. People began to flock to the center of the capital In the center of the capital, the weather has warmed up. The temperature at 6:00 p.m. was 20 degrees Celsius. Young people soon dressed in Christmas costumes and flocked to the area of ​​Hoan Kiem Lake and Trang Tien Plaza to have fun. Many people stop parking right under the sidewalk, causing congestion on Hang Bai street. Image: Tung Doan. Around Hanoi Cathedral, it is crowded right from early evening Little Anh Tuan is preparing to perform on stage at the Cathedral at 9 p.m. Before going inside, the baby ate a piece of bread. From 5:00 p.m., security forces were present at many checkpoints in the city center to regulate traffic. Motor vehicles are prohibited. In front of the Cathedral area (Hanoi), hundreds of young people flocked to take beautiful seats and wait to watch musical performances and hymns. Image: Tung Doan. Ho Chi Minh City is cool on Christmas night In Ho Chi Minh City, the air is cool, the temperature is from 28 to 29 degrees Celsius, favorable for Christmas Eve. While many people were having fun, eating and drinking, from 5:00 p.m., Luan took advantage of her time off from work to sell more Christmas accessories. Luan shared that she has been doing this job for a few days now, and the number of customers is less than in previous years. While trying to make a living, the urban order force was often reminded of his mistake in selling on the sidewalk. Image: Y Kien. More than 2,000 Ho Chi Minh City Traffic Police are on duty on Christmas Eve Ho Chi Minh City Police mobilized up to 100% of traffic flow force on the evening of December 24. More than 2,000 police will be present at traffic hot spots to create conditions for people to enjoy Christmas. Police were also deployed around churches, congregations, parishes... where the number of people coming to celebrate and have fun increased dramatically. In central districts, traffic police focus on dividing traffic on 6 routes such as Nam Ky Khoi Nghia, Cach Mang Thang Tam, Dien Bien Phu, Nguyen Tat Thanh, Tran Hung Dao, Nguyen Van Troi... In addition, traffic police also combine handling people going in the opposite direction, speeding, alcohol violations and preventing racing and gathering. Image: Pham Ngon. The atmosphere at Con Ga church At 7:00 p.m. at Con Ga Church, Da Lat (Lam Dong), hundreds of tourists and parishioners flocked to have fun and celebrate Christmas. Holy Mass inside the Cathedral, Hanoi The Holy Mass in French inside the Cathedral (Hanoi) took place with the participation of hundreds of parishioners, presided over by Father Tong Thang. Inside, Catechism class students are preparing musical performances for Christmas Eve behind the scenes. Image: Thach Thao. Famous religious village in Ho Chi Minh City At 7:30 p.m., thousands of people flocked to Pham The Hien Street, Ward 7, District 8, where there is a large and famous religious neighborhood in Ho Chi Minh City. Image: Chi Hung. The social network is filled with Christmas atmosphere Many people took advantage of the opportunity to record the Christmas atmosphere on the streets and then share it on the social network Facebook. Some famous people also sent Christmas wishes to everyone. Notre Dame Cathedral, Ho Chi Minh City Families and young people flock to the Notre Dame Cathedral area, Ho Chi Minh City. Many couples show love scenes to take photos. Image: Y Kien. Ta Hien Street is deserted Different from the annual Christmas Eve, due to the Covid-19 pandemic still spreading in many countries around the world, this Christmas night foreign tourists were completely absent from Tay Street - Ta Hien. Many restaurants here at 8pm still have empty seats. The large family group gathered at a restaurant here to eat, play music and dance. The atmosphere is relatively jubilant and bustling. Image: Duy Anh – Tung Doan. Children celebrate Christmas at the Oncology Hospital, Ho Chi Minh City Ms. Nguyen Thi My Hoa (from Binh Dinh) said that more than half a year ago, her daughter Bao Ngoc developed kidney cancer and had to have one kidney removed. Ngoc is receiving chemotherapy so she is always tired. “Tonight, the baby happily asked to wear a princess dress to play Christmas with his friends. Even though it was our first year celebrating Christmas with our children at Ho Chi Minh City Oncology Hospital, we still felt warm," Ms. Hoa shared. At this hospital, some people dressed as Santa Claus appeared to give charity gifts to many patients. Image: Chi Hung. Trai Day Parish Church, Nam Dinh Thousands of people gathered at Trai Day Parish Church (Hai Hau, Nam Dinh) waiting for the moment of Jesus' birth. Image: Win Pham. Cathedral at 9:45 p.m The later it gets late, the more people flock to the front door of the Cathedral (Hanoi). Image: Ngoc Hien People set off fireworks themselves In the parish, District 8 (Ho Chi Minh City), many households bought fireworks to shoot in front of their houses, attracting the attention of many passersby. Image: Chi Hung. No walking street is organized around Hoan Kiem Lake Around Hoan Kiem Lake (Hanoi), because it is not a weekend to organize walking streets, many cars and motorbikes still circulate with the stream of people having fun. Image: Tung Doan. The Cathedral gradually filled with people At 10 p.m., more and more people flocked to the front door of the Cathedral to watch the performance and pray, making this area crowded. Image: Ngoc Hien.
Bảo vật Quốc gia – Tượng nữ thánh Tara Trong các di sản được Nhà nước ta chính thức “vinh phong” Bảo vật Việt Nam năm 2012 tôi thích nhất bức tượng thánh Tara hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Theo hồ sơ Di sản, bức tượng được đúc bằng đồng, cao 129,3cm, khảm thêm đá quý ở mắt, trán. Khi mới khai quật từ lòng đất, màu xanh gỉ đồng khiến bức tượng như được làm bằng một loại đá ngọc xanh lá cây nào đó. Nhưng điều đáng hấp dẫn nhất đối với mọi người người chiêm ngưỡng là ở phong cách tạo hình vô cùng xuất sắc, với nét mặt vừa nghiêm trang, thánh thiện vừa hoang sơ, trần tục, đôi vai bằng ngang khỏe khắn đỡ hai cánh tay trần không nhiều cơ bắp, nhưng tràn đày sức lực đang đưa nâng hai tay bàn tay xòe ra đỡ hai vật đã bị bẻ gãy1, toàn thân toát lên một phong cách mỹ thuật rất hiện đại. Lần lại hồ sơ, nơi phát hiện bức tượng là một phế tích lớn của vương triều Chăm Pa, nay thuộc làng Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phế tích này đã từng được chuyên gia khảo cổ học Mỹ thuật người Pháp là Parmentier khai quật từ đầu thế kỷ XX và nhận ra đây là một Phật Viện lớn được xây dựng vào khoảng thế kỷ IX bởi một phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Ông đã đặt tên phong cách đó là Đồng Dương (Dong Duong style). Nội dung một tấm bia phát hiện được ở đây đã thông báo rằng Phật Viện được nhà vua Indravaman II cho xây dựng vào năm 875 nhằm tôn vinh Phật giáo Đại thừa, một tôn giáo Ấn Độ được ngưỡng mộ hơn trong thời vương quốc Indrapura. Tại đây, Phật Viện và Vương triều tôn thờ và cầu mong được bảo trợ bởi một nữ thánh bồ tát (Buhdasattiva) có tên là Laksmindra-Lokesvara – một biến thân của Quan thế âm bồ tát. Tương truyền trong Phật giáo, đó là nữ thánh Tara tiêu biểu với tấm lòng cứu độ đại từ bi đày quyền lực. Truyện kể rằng, xúc động trước nỗi khổ cực của trần thế, có một lần vị Phật quyền uy Quan thế âm Bồ tát rỏ những giọt lệ nóng hổi. Những giọt lệ đó đã quện luyện hóa thành một biến thân mới của Quan Âm có tên là Tara. Tuy nhiên, trong cuộc khai quật của Parmentier hồi đầu thế kỷ XX tại Phật viện Đồng Dương, ông đã không phát hiện được bức tượng đồng báu vật quốc gia mà chúng ta nói ở bài viết này. Phải đến năm 1978, do một phát hiện ngẫu nhiên, bức tượng đồng thần bí, vô giá mới xuất lộ từ độ sâu hơn 3 mét dưới các phế tích mà vẫn còn nguyên vẹn không hề hư hỏng sau hàng ngàn năm yên vị trong lòng đất. Người dân làng Đồng Dương đã bảo vệ và chăm nom bức tượng như một vị thần của quê hương mình cho đến khi bức tượng được đưa về đúng nơi cần có, đó là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Pa ở Đà Nẵng vào năm 1981. Bức tượng thoạt đầu còn mang lớp áo patin màu xanh gỉ đồng như ngọc, hiện đã được tảy rỉ làm lộ ra lớp da đồng màu nâu ánh kim chắc nịch. Cả ba phần chính của bức tượng (đầu – mặt – cổ / thân – vai – ngực / hông – thắt lưng – chân ) đều được thể hiên bằng những thủ pháp nghệ thuật điêu khắc riêng biệt nhưng rất điêu luyện. Tượng Tara: Phần đầu – mặt – cổ Tượng Tara: Phần vai – ngực và eo Tượng Tara: Đôi bàn chân trần Nhìn vào bức tượng, cái đập ngay vào mắt người xem là đôi ngực trần với cặp vú tròn căng đày sức sống phồn thực. Hình khối của cặp vú gắn bó hài hòa với đôi vai trần bằng ngang, khỏe khoắn mà vẫn đày nữ tính, đặt trên phần thân eo thu nhỏ, tạo ngấn cho ta thấy phảng phất một phong cách tạo hình rất hiện đại. Đôi cánh tay thả tự nhiên với phần cẳng tay dưới nâng nhẹ nhằm phô diễn hai vật gì đó được cầm một cách khéo léo, tinh tế bởi hai ngón cái và trỏ. Phần cánh tay phía trên hơi kéo về phía sau như có ý đảy dướn phô bày cặp vú nở. Dưới cách nhìn bị nhuốm màu Nho giáo, bộ ngực trần có gì đó dung tục, nhưng nếu đặt trong khung cảnh tư duy Chăm Pa cách nay hàng ngàn năm, tương tự tư duy của đồng bào Tây Nguyên hiện nay, thì cặp vú cân xứng, căng phồng đó hứa hẹn một sự bình yên, no đủ và tràn đày hạnh phúc. Đó là điều được hoàng tộc và thần dân Indrapura thờ phụng, mong chờ từ thánh mẹ Bồ tát Quan âm Tara. Sự nghiêm trang, quyền uy của thánh mẹ Tara toát ra đày đủ từ khuôn mặt đặt trên ba tầng ngấn cổ cao, to với chiếc mũi nở to nhô cao cân đối, với cặp mắt cũng mở to đang nhìn xuống chúng dân, tròng mắt, con ngươi được chạm cẩn đá quý rất sống động và cặp môi dày khép lại một cách nghiêm nghị. Hai bên là đôi tai phật có phần “dái tai” đục lỗ khá dài. Trán của nữ thánh được tạo hình vuông vức, bất thường với hàng lông mày dày kết liền tạo ranh giới dưới và hai bờ tóc tạo khung thẳng hai bên để hình thành một không gian khá vuông vức cho vị trí của chiếc mắt thần thứ ba hình quả trám dọc đặt chính giữa. Kiểu tạo hình trán vuông vức và bất thường như vậy đã có tác dụng đưa những nét “người” trần tục của bức tượng vào một thế giới của thánh thần. Sự khẳng định uy quyền của bức tượng thánh nữ chính là bộ tóc dày với những đụn xoắn tròn vấn thành hai tầng vương miện có hàng chục đầu rắn vươn lên phía trước và búi bện tôn cao tạo thành một đỉnh kén có hốc hướng tiền như một ngôi đền – nơi ngự trị vĩnh hằng của đức Phật Thích ca mầu ni. Đây chính là phần đặc trưng rõ nhất để gắn bức tượng với Quan âm Bồ tát. Tương phản với phần thân trên để trần, phần dưới bức tượng được che vấn rất kín đáo bằng hai lớp váy quấn kiểu saron ôm sát hông đùi đến tận mắt cá. Ở phần thân dưới này có một chi tiết rất đáng lưu ý trong nghệ thuật tạo hình. Nhìn toàn cảnh bức tượng thánh được đặt trong quy chuẩn nghiêm trang, cân đối. Tuy nhiên rõ ràng nghệ nhân đã cố ý đánh vỡ thế cân xứng mà vì nó có thể sẽ tạo ra vẻ cứng nhắc cho bức tượng, bằng cách để các vạt saron hơi bay lệch nhẹ về phía tay trái nữ thánh, nơi đầu bên trên của cạp saron nhô ra một góc nhọn. Chi tiết “lệch” này phối hợp với sự “kéo lại” của các đường vạch viền vải saron ở phía đối trọng đã gây cảm giác “cân” lại cho bức tượng. Đôi bàn chân trần của bức tượng được thể hiện như các kiểu “bàn chân Siva” truyền thống, nhưng ở đây nó chân thực xiết bao, như thể nghệ nhân mượn từ hình ảnh của bàn chân các bà mẹ Tây Nguyên vậy. Các ngón chân thon dài và phần móng được cắt gọt gọn gang, nhưng đơn sơ, chân thực và toát lên phong cách tạo tượng phóng khoáng, hiện đại. Xưa nay, khi nghiên cứu về nghệ thuật Chăm Pa, đa số các học giả chỉ chú tâm đến hệ thống di tích, di vật bằng gạch, đất nung và đá. Di vật bằng kim loại, trong đó di vật vàng đã bắt đầu được thu thập và nghiên cứu2, nhưng di vật bằng đồng vẫn còn chưa được chú ý đúng mức, nhất là tượng thần bằng đồng. Những bức tượng đồng Chăm Pa nổi tiếng khai quật từ thời Pháp, như tượng Phật đứng cũng ở Bình Dương và tượng Tara cho thấy một mảng sáng lớn trong nghệ thuật Chăm Pa, đó là nghệ thuật tượng đúc bằng kim loại. Khuôn đúc đầu tượng thần Siva làm bằng đất nung có niên đại dự đoán khoảng thế kỷ 13 vừa phát hiện ở Bình Định3 khẳng định nhu cầu tập trung nghiên cứu các tác phẩm nghệ thuật Chăm Pa bằng đồng. Nữ thánh Tara – một dạng Bồ tát Quan âm đặc biệt phát triển trong giáo phái Phật vùng nam Hymalaya, nơi các bộ tộc nguyên thủy bản địa tôn sùng các lễ nghi phồn thực và đa phần sống theo chế độ mẫu hệ. Việt Nam cũng nằm trong vùng văn hóa nguyên thủy này cho đến trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa, tôn giáo Ấn Độ – Trung Hoa. Phật Giáo đã du nhập từ khá sớm vào Việt Nam. Trong đó, từ những thế kỷ trước sau Công nguyên đã có bằng chứng về một trung tâm Phật giáo ở Giao Châu mà tâm điểm là vùng Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Điều hấp dẫn nhất của Phật Giáo khi du nhập vào các bộ tộc Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung chính là ở tính cứu khổ, cứu nạn, ở một niềm tin được che trở, cứu dỗi và một tương lai yên bình, trong sạch. Sự tiếp nhận đức Phật cứu khổ cứu nạn đó gần gũi và có phần trùng lặp với truyền thống tôn thờ nữ thần, đức thánh Mẹ bản địa. Đây được coi như nguyên nhân căn bản cho xu hướng tiếp nhận những biến thái nữ tính của vị chân Nam thần Quan thế âm Bồ tát (Avalokitesvara)4 vào hệ tôn giáo tín ngưỡng truyền thống ở khu vực miền núi đông bắc và đông nam khối Hymalaya5. Tượng thờ Tara xuất hiện khá nhiều trong phật giáo Tây Tạng, Nam Chiếu, Đại Lý với nhiều biến thái khác nhau, tùy vai trò và lĩnh vực trong cứu khổ cứu nạn, phù hộ độ trì, ví dụ Tara xanh lá cây, xanh da trời, đỏ, đen, vàng, trắng… trong đó Tara xanh lá cây được coi như Bồ tát có nhiều quyền năng và hiệu ứng nhất. Con đường Phật giáo Đại thừa du nhập vào vương triều Chăm Pa Indrapura thế nào còn đang tiếp tục được các nhà khoa học nghiên cứu và thảo luận, nhưng dựa vào phân bố của tượng Bồ tát Tara có thể dự đoán đó là con đường đi qua Miến Điện thẩm thấu và vùng văn hóa bắc Chân Lạp – Nam Chiếu, từ đó ảnh hưởng từ phía tây tới triều đình Indrapura6. N.V
Bảo vật Quốc gia – Tượng nữ thánh Tara Trong các di sản được Nhà nước ta chính thức “vinh phong” Bảo vật Việt Nam năm 2012 tôi thích nhất bức tượng thánh Tara hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Theo hồ sơ Di sản, bức tượng được đúc bằng đồng, cao 129,3cm, khảm thêm đá quý ở mắt, trán. Khi mới khai quật từ lòng đất, màu xanh gỉ đồng khiến bức tượng như được làm bằng một loại đá ngọc xanh lá cây nào đó. Nhưng điều đáng hấp dẫn nhất đối với mọi người người chiêm ngưỡng là ở phong cách tạo hình vô cùng xuất sắc, với nét mặt vừa nghiêm trang, thánh thiện vừa hoang sơ, trần tục, đôi vai bằng ngang khỏe khắn đỡ hai cánh tay trần không nhiều cơ bắp, nhưng tràn đày sức lực đang đưa nâng hai tay bàn tay xòe ra đỡ hai vật đã bị bẻ gãy1, toàn thân toát lên một phong cách mỹ thuật rất hiện đại. Lần lại hồ sơ, nơi phát hiện bức tượng là một phế tích lớn của vương triều Chăm Pa, nay thuộc làng Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phế tích này đã từng được chuyên gia khảo cổ học Mỹ thuật người Pháp là Parmentier khai quật từ đầu thế kỷ XX và nhận ra đây là một Phật Viện lớn được xây dựng vào khoảng thế kỷ IX bởi một phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Ông đã đặt tên phong cách đó là Đồng Dương (Dong Duong style). Nội dung một tấm bia phát hiện được ở đây đã thông báo rằng Phật Viện được nhà vua Indravaman II cho xây dựng vào năm 875 nhằm tôn vinh Phật giáo Đại thừa, một tôn giáo Ấn Độ được ngưỡng mộ hơn trong thời vương quốc Indrapura. Tại đây, Phật Viện và Vương triều tôn thờ và cầu mong được bảo trợ bởi một nữ thánh bồ tát (Buhdasattiva) có tên là Laksmindra-Lokesvara – một biến thân của Quan thế âm bồ tát. Tương truyền trong Phật giáo, đó là nữ thánh Tara tiêu biểu với tấm lòng cứu độ đại từ bi đày quyền lực. Truyện kể rằng, xúc động trước nỗi khổ cực của trần thế, có một lần vị Phật quyền uy Quan thế âm Bồ tát rỏ những giọt lệ nóng hổi. Những giọt lệ đó đã quện luyện hóa thành một biến thân mới của Quan Âm có tên là Tara. Tuy nhiên, trong cuộc khai quật của Parmentier hồi đầu thế kỷ XX tại Phật viện Đồng Dương, ông đã không phát hiện được bức tượng đồng báu vật quốc gia mà chúng ta nói ở bài viết này. Phải đến năm 1978, do một phát hiện ngẫu nhiên, bức tượng đồng thần bí, vô giá mới xuất lộ từ độ sâu hơn 3 mét dưới các phế tích mà vẫn còn nguyên vẹn không hề hư hỏng sau hàng ngàn năm yên vị trong lòng đất. Người dân làng Đồng Dương đã bảo vệ và chăm nom bức tượng như một vị thần của quê hương mình cho đến khi bức tượng được đưa về đúng nơi cần có, đó là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Pa ở Đà Nẵng vào năm 1981. Bức tượng thoạt đầu còn mang lớp áo patin màu xanh gỉ đồng như ngọc, hiện đã được tảy rỉ làm lộ ra lớp da đồng màu nâu ánh kim chắc nịch. Cả ba phần chính của bức tượng (đầu – mặt – cổ / thân – vai – ngực / hông – thắt lưng – chân ) đều được thể hiên bằng những thủ pháp nghệ thuật điêu khắc riêng biệt nhưng rất điêu luyện. Tượng Tara: Phần đầu – mặt – cổ Tượng Tara: Phần vai – ngực và eo Tượng Tara: Đôi bàn chân trần Nhìn vào bức tượng, cái đập ngay vào mắt người xem là đôi ngực trần với cặp vú tròn căng đày sức sống phồn thực. Hình khối của cặp vú gắn bó hài hòa với đôi vai trần bằng ngang, khỏe khoắn mà vẫn đày nữ tính, đặt trên phần thân eo thu nhỏ, tạo ngấn cho ta thấy phảng phất một phong cách tạo hình rất hiện đại. Đôi cánh tay thả tự nhiên với phần cẳng tay dưới nâng nhẹ nhằm phô diễn hai vật gì đó được cầm một cách khéo léo, tinh tế bởi hai ngón cái và trỏ. Phần cánh tay phía trên hơi kéo về phía sau như có ý đảy dướn phô bày cặp vú nở. Dưới cách nhìn bị nhuốm màu Nho giáo, bộ ngực trần có gì đó dung tục, nhưng nếu đặt trong khung cảnh tư duy Chăm Pa cách nay hàng ngàn năm, tương tự tư duy của đồng bào Tây Nguyên hiện nay, thì cặp vú cân xứng, căng phồng đó hứa hẹn một sự bình yên, no đủ và tràn đày hạnh phúc. Đó là điều được hoàng tộc và thần dân Indrapura thờ phụng, mong chờ từ thánh mẹ Bồ tát Quan âm Tara. Sự nghiêm trang, quyền uy của thánh mẹ Tara toát ra đày đủ từ khuôn mặt đặt trên ba tầng ngấn cổ cao, to với chiếc mũi nở to nhô cao cân đối, với cặp mắt cũng mở to đang nhìn xuống chúng dân, tròng mắt, con ngươi được chạm cẩn đá quý rất sống động và cặp môi dày khép lại một cách nghiêm nghị. Hai bên là đôi tai phật có phần “dái tai” đục lỗ khá dài. Trán của nữ thánh được tạo hình vuông vức, bất thường với hàng lông mày dày kết liền tạo ranh giới dưới và hai bờ tóc tạo khung thẳng hai bên để hình thành một không gian khá vuông vức cho vị trí của chiếc mắt thần thứ ba hình quả trám dọc đặt chính giữa. Kiểu tạo hình trán vuông vức và bất thường như vậy đã có tác dụng đưa những nét “người” trần tục của bức tượng vào một thế giới của thánh thần. Sự khẳng định uy quyền của bức tượng thánh nữ chính là bộ tóc dày với những đụn xoắn tròn vấn thành hai tầng vương miện có hàng chục đầu rắn vươn lên phía trước và búi bện tôn cao tạo thành một đỉnh kén có hốc hướng tiền như một ngôi đền – nơi ngự trị vĩnh hằng của đức Phật Thích ca mầu ni. Đây chính là phần đặc trưng rõ nhất để gắn bức tượng với Quan âm Bồ tát. Tương phản với phần thân trên để trần, phần dưới bức tượng được che vấn rất kín đáo bằng hai lớp váy quấn kiểu saron ôm sát hông đùi đến tận mắt cá. Ở phần thân dưới này có một chi tiết rất đáng lưu ý trong nghệ thuật tạo hình. Nhìn toàn cảnh bức tượng thánh được đặt trong quy chuẩn nghiêm trang, cân đối. Tuy nhiên rõ ràng nghệ nhân đã cố ý đánh vỡ thế cân xứng mà vì nó có thể sẽ tạo ra vẻ cứng nhắc cho bức tượng, bằng cách để các vạt saron hơi bay lệch nhẹ về phía tay trái nữ thánh, nơi đầu bên trên của cạp saron nhô ra một góc nhọn. Chi tiết “lệch” này phối hợp với sự “kéo lại” của các đường vạch viền vải saron ở phía đối trọng đã gây cảm giác “cân” lại cho bức tượng. Đôi bàn chân trần của bức tượng được thể hiện như các kiểu “bàn chân Siva” truyền thống, nhưng ở đây nó chân thực xiết bao, như thể nghệ nhân mượn từ hình ảnh của bàn chân các bà mẹ Tây Nguyên vậy. Các ngón chân thon dài và phần móng được cắt gọt gọn gang, nhưng đơn sơ, chân thực và toát lên phong cách tạo tượng phóng khoáng, hiện đại. Xưa nay, khi nghiên cứu về nghệ thuật Chăm Pa, đa số các học giả chỉ chú tâm đến hệ thống di tích, di vật bằng gạch, đất nung và đá. Di vật bằng kim loại, trong đó di vật vàng đã bắt đầu được thu thập và nghiên cứu2, nhưng di vật bằng đồng vẫn còn chưa được chú ý đúng mức, nhất là tượng thần bằng đồng. Những bức tượng đồng Chăm Pa nổi tiếng khai quật từ thời Pháp, như tượng Phật đứng cũng ở Bình Dương và tượng Tara cho thấy một mảng sáng lớn trong nghệ thuật Chăm Pa, đó là nghệ thuật tượng đúc bằng kim loại. Khuôn đúc đầu tượng thần Siva làm bằng đất nung có niên đại dự đoán khoảng thế kỷ 13 vừa phát hiện ở Bình Định3 khẳng định nhu cầu tập trung nghiên cứu các tác phẩm nghệ thuật Chăm Pa bằng đồng. Nữ thánh Tara – một dạng Bồ tát Quan âm đặc biệt phát triển trong giáo phái Phật vùng nam Hymalaya, nơi các bộ tộc nguyên thủy bản địa tôn sùng các lễ nghi phồn thực và đa phần sống theo chế độ mẫu hệ. Việt Nam cũng nằm trong vùng văn hóa nguyên thủy này cho đến trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa, tôn giáo Ấn Độ – Trung Hoa. Phật Giáo đã du nhập từ khá sớm vào Việt Nam. Trong đó, từ những thế kỷ trước sau Công nguyên đã có bằng chứng về một trung tâm Phật giáo ở Giao Châu mà tâm điểm là vùng Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Điều hấp dẫn nhất của Phật Giáo khi du nhập vào các bộ tộc Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung chính là ở tính cứu khổ, cứu nạn, ở một niềm tin được che trở, cứu dỗi và một tương lai yên bình, trong sạch. Sự tiếp nhận đức Phật cứu khổ cứu nạn đó gần gũi và có phần trùng lặp với truyền thống tôn thờ nữ thần, đức thánh Mẹ bản địa. Đây được coi như nguyên nhân căn bản cho xu hướng tiếp nhận những biến thái nữ tính của vị chân Nam thần Quan thế âm Bồ tát (Avalokitesvara)4 vào hệ tôn giáo tín ngưỡng truyền thống ở khu vực miền núi đông bắc và đông nam khối Hymalaya5. Tượng thờ Tara xuất hiện khá nhiều trong phật giáo Tây Tạng, Nam Chiếu, Đại Lý với nhiều biến thái khác nhau, tùy vai trò và lĩnh vực trong cứu khổ cứu nạn, phù hộ độ trì, ví dụ Tara xanh lá cây, xanh da trời, đỏ, đen, vàng, trắng… trong đó Tara xanh lá cây được coi như Bồ tát có nhiều quyền năng và hiệu ứng nhất. Con đường Phật giáo Đại thừa du nhập vào vương triều Chăm Pa Indrapura thế nào còn đang tiếp tục được các nhà khoa học nghiên cứu và thảo luận, nhưng dựa vào phân bố của tượng Bồ tát Tara có thể dự đoán đó là con đường đi qua Miến Điện thẩm thấu và vùng văn hóa bắc Chân Lạp – Nam Chiếu, từ đó ảnh hưởng từ phía tây tới triều đình Indrapura6. N.V
Lịch sử Bảo tàng Toà nhà đầu tiên của Bảo tàng được xây dựng vào năm 1915. Thật ra, hơn 20 năm trước đó, nhiều hiện vật điêu khắc Chăm tìm thấy trong vùng Đà Nẵng, Quảng Nam và các tỉnh lân cận đã được tập trung về địa điểm này, với tên gọi là “công viên Tourane”. Việc thu thập những tác phẩm điêu khắc Chăm bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX là công lao của những người Pháp yêu ngành khảo cổ học, đặc biệt là của những người làm việc cho Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp (L’ École Française d’ Extrême – Orient, viết tắt là EFEO). Một số hiện vật điêu khắc Chăm đã được chuyển về Pháp, một số khác được chuyển ra Bảo tàng tại Hà Nội và Bảo tàng tại Sài Gòn(nay là thành phố Hồ Chí Minh) nhưng phần nhiều những tác phẩm tiêu biểu vẫn còn để lại tại Đà Nẵng. Ý tưởng về xây dựng ở Đà Nẵng một nhà bảo tàng cho các tác phẩm điêu khắc Chăm đã manh nha từ năm 1902 với một đề án của của EFEO, trong đó có sự đóng góp lớn của Henri Parmentier, chủ nhiệm Khoa Khảo cổ của EFEO. Toà nhà đầu tiên được xây dựng theo thiết kế của hai kiến trúc sư người Pháp là Delaval và Auclair, trên cơ sở gợi ý của Parmentier về việc sử dụng một số đường nét của kiến trúc Chăm; và mặc dù đã trải qua nhiều lần mở rộng nhưng toàn bộ toà nhà và phong cách kiến trúc ban đầu của bảo tàng vẫn còn giữ lại cho đến ngày nay Lần mở rộng thứ nhất được tiến hành vào những năm giữa thập kỷ 1930 nhằm đủ chỗ để trưng bày thêm những hiện vật mới được thu thập trong những năm 1920, 1930. Không gian của toà nhà bảo tàng gần 1000 m 2 đã được bố trí thành những khu vực trưng bày, gồm các Phòng Trà Kiệu, Phòng Mỹ Sơn , Phòng Đồng Dương, Phòng Tháp Mẫm và các hành lang Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum. Năm 2002, một tòa nhà 2 tầng được xây nối thêm vào phía sau, tăng thêm hơn 1000 m 2 để trưng bày các hiện vật sưu tầm sau năm 1975. Từ năm 2005, một kế hoạch nâng cấp bảo tàng đã được khởi động. Với sự trợ giúp của các chuyên gia Pháp thuộc dự án FSP, hai phòng Mỹ Sơn và Đồng Dương được cải tạo và khánh thành năm 2009. Đến năm 2016, một dự án tổng thể do thành phố Đà Nẵng đầu tư đã trùng tu toàn diện các tòa nhà và chỉnh lý, nâng cấp các phòng trưng bày với nỗ lực nhằm tạo sự liên kết các tòa nhà của bảo tàng trong một lộ trình tham quan tổng thể, gồm phần trưng bày chính là các bộ sưu tập điêu khắc Chăm và các phòng chuyên đề về văn khắc, gốm và âm nhạc, lễ hội, nghề truyền thống của đồng bào Chăm hiện nay. Không gian dành cho biểu diễn và hoạt động giáo dục được đặt ở tầng 2 và khu dịch vụ được cải tạo bố trí ở sân vườn. Năm 2011, Bảo tàng đã được xếp vào danh sách các bảo tàng hạng 1 tại Việt Nam, khẳng định vai trò và những đóng góp của Bảo tàng Điêu khắc Chăm trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
History Museum The first building of the Museum was built in 1915. In fact, more than 20 years before that, many Cham sculpture artifacts found in Da Nang, Quang Nam and neighboring provinces were gathered at this location. This place is called "Tourane Park". The collection of Cham sculptures starting from the late 19th century was the work of French people who loved archeology, especially those working for the French School of the Far East (L' École Française d'Extrême – Orient, abbreviated as EFEO). Some Cham sculptures were transferred to France, others were transferred to the Museum in Hanoi and the Museum in Saigon (now Ho Chi Minh City), but most of the typical works still remain. back in Da Nang. The idea of ​​building in Da Nang a museum for Cham sculptures was born in 1902 with a project of the EFEO, in which there was a major contribution from Henri Parmentier, head of the Department of Archeology of the EFEO. The first building was built according to the design of two French architects, Delaval and Auclair, based on Parmentier's suggestion of using some lines of Cham architecture; and despite many expansions, the entire building and the museum's original architectural style still remains today. The first expansion was carried out in the mid-1930s to have enough room to display new artifacts collected in the 1920s and 1930s. The space of the museum building is nearly 1000 m 2 have been arranged into display areas, including the Tra Kieu Room, My Son Room, Dong Duong Room, Thap Mam Room and corridors of Quang Nam, Quang Ngai, Binh Dinh, Kon Tum. In 2002, a 2-storey building was added to the back, increasing more than 1000 m 2 to display artifacts collected after 1975. Since 2005, a plan to upgrade the museum has been launched. With the help of French experts from the FSP project, the two rooms My Son and Dong Duong were renovated and inaugurated in 2009. By 2016, a comprehensive project invested by Da Nang city had completely restored Renovating the buildings and renovating and upgrading the galleries in an effort to create a connection between the museum's buildings in an overall tour itinerary, including the main display of Cham sculpture collections. and specialized rooms on inscriptions, ceramics and music, festivals, and traditional crafts of the Cham people today. The space for performances and educational activities is located on the second floor and the renovated service area is located in the garden. In 2011, the Museum was ranked among the first-class museums in Vietnam, affirming the role and contributions of the Museum of Cham Sculpture in preserving and promoting cultural heritage values.
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG Tác giả Vũ Hùng Ngữ nghĩa địa danh Đà Nẵng Nhà nghiên cứu Vũ Hùng Nguồn gốc và ngữ nghĩa của địa danh Đà Nẵng là câu chuyện dài thú vị, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu nhưng lời kết còn để ngỏ. Đà Nẵng là “Địa danh có nguồn gốc Chàm (Đà có nghĩa là sông, nước, còn Nẵng có nghĩa là lớn)(1). Danh xưng Hàn, Đà Nẵng đã có từ thời Chămpa. Hàn có nghĩa là bến, Đà Nẵng nghĩa là sông già, sông lớn (Đà là sông, nước; Nẵng là già, lớn)(2). Người Chàm gọi tên vùng này là Hang Đanak, bờ biển buôn bán. Đanak hay Đarak có nghĩa là sông lớn, tức sông Hàn(3). Đà Nẵng là địa danh phiên âm từ tiếng Chàm Hang Đanak, Đanak hay Đarak nghĩa là con sông. Nhưng giải thích nghĩa theo Hán tự: đà là con sông, nẵng là xưa kia. Đà Nẵng là “vùng sông nước xưa kia” (4). Theo cụ Bố Thuận, con của quan Pháp Aymonier lấy vợ người Chàm, làm ở Viện Viễn Đông Bác cổ và sống ở Phan Rí vào đầu thế kỷ XX, Đà Nẵng là biến dạng của từ Chàm cổ Đaknan. Đak có nghĩa là nước, nan hay nưn là rộng, chỉ vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn bây giờ. Người Việt phiên âm Đaknan thành Đà Nẵng. Cũng theo cụ Bố Thuận, chữ Đaknan được người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là Tounan, sau này biến đổi thành Tourane(5). Nhà nghiên cứu Sakaya cho rằng, tiếng Chàm và Raglai cùng ngôn ngữ Malayo – Polynesia, nhưng hiện nay ngôn ngữ cổ của người Chàm đã rơi rụng nhiều, nhưng người Raglai vẫn còn lưu giữ nhiều yếu tố cổ. Trong ngôn ngữ người Raglai, đanang nghĩa là nguồn, sông nguồn. Đanang khá trùng âm với địa danh Đà Nẵng. Địa danh Đà Nẵng hình thành không ngoài quy luật giao thoa các ngôn ngữ Ấn, Hoa. Người Ấn Độ đã đi lại và lưu trú trên dải đất này từ thế kỷ thứ III-II trước công nguyên, nền văn minh Ấn với Phạn ngữ du nhập trước tiên, bản địa hóa thành Chàm ngữ. Người Trung Hoa diễn dịch ngôn ngữ Sanskrit bằng âm Hán, sau khi ảnh hưởng của Ấn suy yếu, người Hán đã thay thế bằng cách Trung Hoa hóa. Dải đất bên tả ngạn sông Hàn đối diện với bán đảo Sơn Trà ngày nay, trong thịnh thời của người Chàm tại châu Amaravati, có tên là Hang Đanak. Hang là dải đất do biển rút cạn để lộ ra, Hang biến âm thành từ Hán – Việt là Hàn. Đanak là cửa sông tiếp giáp biển, biến âm thành Đà Nẵng. Người Việt đã diễn dịch âm Chăm Nak thành Hán tự Nãng, nghĩa là xưa, trước kia, nhưng vẫn đọc là Nẵng. Người Nam Trung Hoa phát âm Đà Nẵng là Tu-rang, người Bồ Đào Nha khi đến Quảng Nam trong thế kỷ XVI, XVII đã ký âm thành Turan, Turam, Turao, Turơn, Turone.v.v…(6) Như vậy, các nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi địa danh Đà Nẵng có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chàm Đanak, Đarak, Đaknan/Đaknưn hoặc Đanang của người Raglay. Nhưng lý giải về nghĩa còn khác nhau: Sông già, sông lớn, sông, vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn, cửa sông tiếp giáp biển, nguồn, sông nguồn. Chữ Chàm “Hang Danak”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy có dẫn chứng tự dạng chữ Chàm “Hang Đanak”(7), nhưng không chú thích xuất xứ từ bia ký hay sử liệu nào. Chữ này không phải Phạn ngữ hoặc chữ Chàm cổ, mà là chữ akhar thrah, một loại chữ tìm thấy trên văn bản hoàng gia Chàm vùng Nam Trung Bộ, Ninh Thuận và Bình Thuận, và hiện nay cũng là chữ mà người Chàm vùng này đang sử dụng. Chữ akhar tharah có từ thế kỷ XVII đến nay, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ IV là thời kỳ chữ Chàm cổ và từ thế kỷ thứ IV trở lên là chữ Phạn(8). Trong Ô Châu cận lục, biên soạn vào giữa thế kỷ XVI, lần đầu tiên ghi nhận về địa danh Đà Nẵng: “Đền thờ Tùng Giang: Đền thờ tại cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh và tại cửa biển Đà Nẵng xứ Quảng Nam”(2). Như vậy, trước đó rất lâu, có thể khi chưa thuộc Đại Việt, người Chàm ở đây, vùng Amaravati, đã gọi vùng đất này là Hang Đanak/ Hang Đarak. Có thể sau này người Chàm đã phiên âm theo chữ Akhat thrah, dẫn đến thay đổi nghĩa so với bản ngữ. Theo chữ akhar thrah, từ Hang là bờ, bực, bờ dốc đứng, khá trùng với một số lý giải là bến, bờ. Nhưng Đanak – một từ biến âm thành Đà Nẵng, lại khác xa về nghĩa, không phải là sông già, sông lớn, sông, vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn, cửa sông tiếp giáp biển, nguồn, sông nguồn. Đanak là một từ hai âm tiết có khá nhiều nghĩa: Biển, đại dương, liễng (liễng trầu, xấp trầu), thứ tự, ngăn nắp, loại, dòng (tôn giáo), lệnh, đẳng cấp, khuynh hướng v.v… Đarak nghĩa là chợ búa, vịnh, biển khơi(10). Hang Đanak, Hang Đarak có nghĩa là bờ biển, bờ vịnh, bến chợ. Người viết bài này không có ý định viết lời kết cho câu chuyện dài lý thú về địa danh Đà Nẵng, nhưng đồng tình và dự cảm rằng ngữ nghĩa của địa danh này xuất phát từ tên gọi theo âm Chàm Hang Đanak hoặc tương tự như vậy. Có thể quá trình tiếp biến, đơn âm hóa của người Kinh, Hang và Đanak tách ra. Hang biến âm thành Hàn và Đanak biến âm thành Đà Nẵng. Vì vậy, Đà Nẵng cũng được gọi là Hàn, xứ Hàn (Ra Hàn xuống Phố: Ra Đà Nẵng xuống Hội An), và con sông chảy qua đây cũng gọi là sông Hàn. Ngày trước, dân gian gọi khu vực thuộc các phường Nam Dương, Hải Châu (gồm Hải Châu I và Hải Châu II) và Bình Hiên ngày nay là xứ Đà Nẵng(11), bao gồm vùng bờ sông từ phường Bình Hiên đến phường Hải Châu, có chợ Hàn sát bờ sông. Có thể đây chính là vùng đất khởi thủy có tên gọi theo âm Chàm Hang Đanak. Người Hoa ở Hải Nam phát âm Đà Nẵng là Tounan, Tu-rang, các thương nhân, giáo sĩ phương Tây đã phiên âm thành Turan, Turam, Turao, Turơn, Turone. Người Pháp cũng đặt tên với âm tương tự là Tourant khi thành lập thành phố nhượng địa này vào cuối thế kỷ 19. Vì vậy, Tourant cũng có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chàm./. Nhà nghiên cứu Vũ Hùng (1) Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội , 2010, trang 1653. (2) Nguyễn Phước Tương, “Đất Hàn xưa”, báo Đà Nẵng cuối tuần, ngày 17.10.2004. (3) Võ Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng,(1306-1975), Nam Việt, 2007, trang 17, 18. (4) Lê Văn Hảo, “Về các địa danh Bà Thân, Hà Thân, Hà Thị Thân ở Đà Nẵng”, Tạp chí Phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng, số 16+17, 2011. (5) Vũ Hùng, “Năm mới nói chuyện tên quê”, báo Đà Nẵng Xuân Tân Mão 2011. (6) Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề sử học, NXB. Văn hóa Thông tin, 2005, trang 13-23. (7) Xem minh họa. (8) Theo nhà nghiên cứu Sakaya, chữ Chăm cổ vùng Amaravati có khoảng 70-80% là Phạn ngữ, chữ Chăm akhar thrah chủ yếu là tiếng Malayo-Polynesien, Phạn ngữ chỉ khoảng 20%. (9) Dương Văn An, Ô Châu cận lục, NXB. Thuận Hóa, Huế – 2001, trang 97. (10) Gerard Moussay, Từ điển Chàm -Việt – Pháp, Trung tâm Văn hóa Chàm, Phan Rang, 1971.Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam Đông Nam Á, Từ điển Việt – Chăm, NXB.Khoa học xã hội, 1996. Aymonier – Cabaton, Dictionnaire Cam-Francais, Paris, 1906. (11) Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh, Lược sử Đà Nẵng 700 năm, NXB. Đà Nẵng, 2006, trang 39. Nhà xuất bản Đà Nẵng Lô 103 – Đường 30 tháng 4 – Thành phố Đà Nẵng ĐT: 02363 797814 – 3797823 – Fax 0236 3797875 Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc: Trương Công Báo Chịu trách nhiệm nội dung: Tổng biên tập : Nguyễn Kim Huy Biên tập : Trần Văn Ban Bìa : Họa sĩ Phan Ngọc Minh Trình bày : Lê Hoàng Quý Sửa bản in : Thành Nam In XXX cuốn, khổ 13,5 x 20,5 cm tại Công ty Cp In…… ĐC: ….. Số ĐKXB: 4761 2018/CXBIPH/01-212/ĐaN. QĐXB số xxx/QĐ-NXBĐaN, cấp ngày xx/xx/2019. Số ISBN: 978-604-84-xxx-x. In xong và nộp lưu chiểu Quý III/2019.
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG Tác giả Vũ Hùng Ngữ nghĩa địa danh Đà Nẵng Nhà nghiên cứu Vũ Hùng Nguồn gốc và ngữ nghĩa của địa danh Đà Nẵng là câu chuyện dài thú vị, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu nhưng lời kết còn để ngỏ. Đà Nẵng là “Địa danh có nguồn gốc Chàm (Đà có nghĩa là sông, nước, còn Nẵng có nghĩa là lớn)(1). Danh xưng Hàn, Đà Nẵng đã có từ thời Chămpa. Hàn có nghĩa là bến, Đà Nẵng nghĩa là sông già, sông lớn (Đà là sông, nước; Nẵng là già, lớn)(2). Người Chàm gọi tên vùng này là Hang Đanak, bờ biển buôn bán. Đanak hay Đarak có nghĩa là sông lớn, tức sông Hàn(3). Đà Nẵng là địa danh phiên âm từ tiếng Chàm Hang Đanak, Đanak hay Đarak nghĩa là con sông. Nhưng giải thích nghĩa theo Hán tự: đà là con sông, nẵng là xưa kia. Đà Nẵng là “vùng sông nước xưa kia” (4). Theo cụ Bố Thuận, con của quan Pháp Aymonier lấy vợ người Chàm, làm ở Viện Viễn Đông Bác cổ và sống ở Phan Rí vào đầu thế kỷ XX, Đà Nẵng là biến dạng của từ Chàm cổ Đaknan. Đak có nghĩa là nước, nan hay nưn là rộng, chỉ vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn bây giờ. Người Việt phiên âm Đaknan thành Đà Nẵng. Cũng theo cụ Bố Thuận, chữ Đaknan được người Trung Hoa gốc Hải Nam đọc là Tounan, sau này biến đổi thành Tourane(5). Nhà nghiên cứu Sakaya cho rằng, tiếng Chàm và Raglai cùng ngôn ngữ Malayo – Polynesia, nhưng hiện nay ngôn ngữ cổ của người Chàm đã rơi rụng nhiều, nhưng người Raglai vẫn còn lưu giữ nhiều yếu tố cổ. Trong ngôn ngữ người Raglai, đanang nghĩa là nguồn, sông nguồn. Đanang khá trùng âm với địa danh Đà Nẵng. Địa danh Đà Nẵng hình thành không ngoài quy luật giao thoa các ngôn ngữ Ấn, Hoa. Người Ấn Độ đã đi lại và lưu trú trên dải đất này từ thế kỷ thứ III-II trước công nguyên, nền văn minh Ấn với Phạn ngữ du nhập trước tiên, bản địa hóa thành Chàm ngữ. Người Trung Hoa diễn dịch ngôn ngữ Sanskrit bằng âm Hán, sau khi ảnh hưởng của Ấn suy yếu, người Hán đã thay thế bằng cách Trung Hoa hóa. Dải đất bên tả ngạn sông Hàn đối diện với bán đảo Sơn Trà ngày nay, trong thịnh thời của người Chàm tại châu Amaravati, có tên là Hang Đanak. Hang là dải đất do biển rút cạn để lộ ra, Hang biến âm thành từ Hán – Việt là Hàn. Đanak là cửa sông tiếp giáp biển, biến âm thành Đà Nẵng. Người Việt đã diễn dịch âm Chăm Nak thành Hán tự Nãng, nghĩa là xưa, trước kia, nhưng vẫn đọc là Nẵng. Người Nam Trung Hoa phát âm Đà Nẵng là Tu-rang, người Bồ Đào Nha khi đến Quảng Nam trong thế kỷ XVI, XVII đã ký âm thành Turan, Turam, Turao, Turơn, Turone.v.v…(6) Như vậy, các nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi địa danh Đà Nẵng có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chàm Đanak, Đarak, Đaknan/Đaknưn hoặc Đanang của người Raglay. Nhưng lý giải về nghĩa còn khác nhau: Sông già, sông lớn, sông, vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn, cửa sông tiếp giáp biển, nguồn, sông nguồn. Chữ Chàm “Hang Danak”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy có dẫn chứng tự dạng chữ Chàm “Hang Đanak”(7), nhưng không chú thích xuất xứ từ bia ký hay sử liệu nào. Chữ này không phải Phạn ngữ hoặc chữ Chàm cổ, mà là chữ akhar thrah, một loại chữ tìm thấy trên văn bản hoàng gia Chàm vùng Nam Trung Bộ, Ninh Thuận và Bình Thuận, và hiện nay cũng là chữ mà người Chàm vùng này đang sử dụng. Chữ akhar tharah có từ thế kỷ XVII đến nay, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ IV là thời kỳ chữ Chàm cổ và từ thế kỷ thứ IV trở lên là chữ Phạn(8). Trong Ô Châu cận lục, biên soạn vào giữa thế kỷ XVI, lần đầu tiên ghi nhận về địa danh Đà Nẵng: “Đền thờ Tùng Giang: Đền thờ tại cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh và tại cửa biển Đà Nẵng xứ Quảng Nam”(2). Như vậy, trước đó rất lâu, có thể khi chưa thuộc Đại Việt, người Chàm ở đây, vùng Amaravati, đã gọi vùng đất này là Hang Đanak/ Hang Đarak. Có thể sau này người Chàm đã phiên âm theo chữ Akhat thrah, dẫn đến thay đổi nghĩa so với bản ngữ. Theo chữ akhar thrah, từ Hang là bờ, bực, bờ dốc đứng, khá trùng với một số lý giải là bến, bờ. Nhưng Đanak – một từ biến âm thành Đà Nẵng, lại khác xa về nghĩa, không phải là sông già, sông lớn, sông, vùng sông nước rộng mênh mông cửa sông Hàn, cửa sông tiếp giáp biển, nguồn, sông nguồn. Đanak là một từ hai âm tiết có khá nhiều nghĩa: Biển, đại dương, liễng (liễng trầu, xấp trầu), thứ tự, ngăn nắp, loại, dòng (tôn giáo), lệnh, đẳng cấp, khuynh hướng v.v… Đarak nghĩa là chợ búa, vịnh, biển khơi(10). Hang Đanak, Hang Đarak có nghĩa là bờ biển, bờ vịnh, bến chợ. Người viết bài này không có ý định viết lời kết cho câu chuyện dài lý thú về địa danh Đà Nẵng, nhưng đồng tình và dự cảm rằng ngữ nghĩa của địa danh này xuất phát từ tên gọi theo âm Chàm Hang Đanak hoặc tương tự như vậy. Có thể quá trình tiếp biến, đơn âm hóa của người Kinh, Hang và Đanak tách ra. Hang biến âm thành Hàn và Đanak biến âm thành Đà Nẵng. Vì vậy, Đà Nẵng cũng được gọi là Hàn, xứ Hàn (Ra Hàn xuống Phố: Ra Đà Nẵng xuống Hội An), và con sông chảy qua đây cũng gọi là sông Hàn. Ngày trước, dân gian gọi khu vực thuộc các phường Nam Dương, Hải Châu (gồm Hải Châu I và Hải Châu II) và Bình Hiên ngày nay là xứ Đà Nẵng(11), bao gồm vùng bờ sông từ phường Bình Hiên đến phường Hải Châu, có chợ Hàn sát bờ sông. Có thể đây chính là vùng đất khởi thủy có tên gọi theo âm Chàm Hang Đanak. Người Hoa ở Hải Nam phát âm Đà Nẵng là Tounan, Tu-rang, các thương nhân, giáo sĩ phương Tây đã phiên âm thành Turan, Turam, Turao, Turơn, Turone. Người Pháp cũng đặt tên với âm tương tự là Tourant khi thành lập thành phố nhượng địa này vào cuối thế kỷ 19. Vì vậy, Tourant cũng có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chàm./. Nhà nghiên cứu Vũ Hùng (1) Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội , 2010, trang 1653. (2) Nguyễn Phước Tương, “Đất Hàn xưa”, báo Đà Nẵng cuối tuần, ngày 17.10.2004. (3) Võ Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng,(1306-1975), Nam Việt, 2007, trang 17, 18. (4) Lê Văn Hảo, “Về các địa danh Bà Thân, Hà Thân, Hà Thị Thân ở Đà Nẵng”, Tạp chí Phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng, số 16+17, 2011. (5) Vũ Hùng, “Năm mới nói chuyện tên quê”, báo Đà Nẵng Xuân Tân Mão 2011. (6) Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề sử học, NXB. Văn hóa Thông tin, 2005, trang 13-23. (7) Xem minh họa. (8) Theo nhà nghiên cứu Sakaya, chữ Chăm cổ vùng Amaravati có khoảng 70-80% là Phạn ngữ, chữ Chăm akhar thrah chủ yếu là tiếng Malayo-Polynesien, Phạn ngữ chỉ khoảng 20%. (9) Dương Văn An, Ô Châu cận lục, NXB. Thuận Hóa, Huế – 2001, trang 97. (10) Gerard Moussay, Từ điển Chàm -Việt – Pháp, Trung tâm Văn hóa Chàm, Phan Rang, 1971.Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam Đông Nam Á, Từ điển Việt – Chăm, NXB.Khoa học xã hội, 1996. Aymonier – Cabaton, Dictionnaire Cam-Francais, Paris, 1906. (11) Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh, Lược sử Đà Nẵng 700 năm, NXB. Đà Nẵng, 2006, trang 39. Nhà xuất bản Đà Nẵng Lô 103 – Đường 30 tháng 4 – Thành phố Đà Nẵng ĐT: 02363 797814 – 3797823 – Fax 0236 3797875 Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc: Trương Công Báo Chịu trách nhiệm nội dung: Tổng biên tập : Nguyễn Kim Huy Biên tập : Trần Văn Ban Bìa : Họa sĩ Phan Ngọc Minh Trình bày : Lê Hoàng Quý Sửa bản in : Thành Nam In XXX cuốn, khổ 13,5 x 20,5 cm tại Công ty Cp In…… ĐC: ….. Số ĐKXB: 4761 2018/CXBIPH/01-212/ĐaN. QĐXB số xxx/QĐ-NXBĐaN, cấp ngày xx/xx/2019. Số ISBN: 978-604-84-xxx-x. In xong và nộp lưu chiểu Quý III/2019.
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG Tác giả Vũ Hùng Trầm tích Cu Đê Nhà nghiên cứu Vũ Hùng Từ đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, nhánh núi Hải Vân đâm ngang giáp biển Đông như bức tường thiên nhiên sừng sững hiểm trở ngăn chia nam bắc một dải đất hẹp miền Trung. Bên kia Hải Vân vài cây số về phía nam là một dòng sông lặng lẽ đổ ra cửa biển Nam Ô, để lại đôi bờ lắng đọng một lớp trầm tích phù sa lịch sử – văn hóa gắn liền với hai sự kiện ghi trong chính sử có địa danh Câu Chiêm và Cụ Đê. Năm 1311, “mùa đông, tháng 12, vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc”(1). Năm sau, “mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về; phong em hắn là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu trấn giữ đất ấy. Trước đó, Chế Chí sai người sang cống. Người ấy là trại chủ Câu Chiêm. Vua sai Đoàn Nhữ Hài bí mật ước hẹn với hắn. Đến khi vua đích thân đi đánh, đến phủ Lâm Bình, chia quân làm ba đường: Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn theo đường núi, Nhân Huệ Vương Khánh Dư theo đường biển, vua tự dẫn quân theo đường bộ; thủy bộ, cùng tiến. Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước. Vua đến Câu Chiêm dừng lại. Nhữ Hài sai người tới chỗ trại chủ, nói rõ ý yêu cầu quốc chủ ra hàng. Trại chủ báo cáo với Chế Chí. Chế Chí nghe theo, đem gia thuộc đi đường biển tới hàng.”(2) Năm 1470, tháng 11, “ngày mồng 6, vua xuống chiếu thân hành đi đánh Chiêm Thành”(3). Năm 1471, “mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 2, vua cho là khi đại quân sắp vào đất giặc, quân lính càng cần phải luyện tập. Do đó, xuống chiếu cho quân Thuận Hóa ra biển tập thủy chiến. Vua nghĩ núi sông nước Chiêm có chỗ chưa biết rõ ràng, liền sai thổ tù ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ hình thế hiểm dị của nước Chiêm để dâng lên. Ngày mồng 6, viên Chỉ huy Cang Viễn bắt sống Bồng Nga Sa là viên lại giữ cửa quan Cụ Đê nước Chiêm đem nộp.”(4) Sự kiện năm 1312 hai lần nhắc đến Câu Chiêm: vị sứ thần đồng thời là trại chủ Câu Chiêm và địa danh Câu Chiêm, nơi hội quân và ngự dinh của vua Trần Anh Tông. Sự kiện năm 1471: 25 vạn quân của Lê Thánh Tông ngay khi “vào đất giặc” liền bắt vị quan trấn giữ “cửa quan Cụ Đê nước Chiêm”. (1) Đại Việt sử ký toàn thư , bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), NXB. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, tái bản năm 2017, trang 266. (2) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 266. (3) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 466. (4) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 469. Hai sự kiện trên cách nhau 160 năm có liên quan đến địa danh Câu Chiêm và Cụ Đê. Theo Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong , cho rằng “Cu Chiêm” trong sự kiện năm 1312 “có lẽ ở biên giới núi Hải Vân”(1), nhưng ông không chỉ rõ ở phía bắc hay nam Hải Vân . Bờ bắc Hải Vân không có địa danh nào như thế. Vua Trần Anh Tông chia làm ba đường tiến quân là thủy, bộ và đường núi, vua đi đường bộ, nên khả năng trại Câu Chiêm là điểm hội quân sau khi vượt qua núi Hải Vân, song không xác định được đã dừng lại ở đâu trong trại này và quy mô của trại Câu Chiêm. Nhưng “viên lại giữ cửa quan Cụ Đê nước Chiêm” bị bắt vào năm 1471 chắc hẳn phải là vị quan trấn giữ ở ngay cửa ngõ phía nam núi Hải Vân, tức vùng cửa sông Cu Đê ngày nay . Thời đó, đi đường bộ vượt qua núi Hải Vân cao ngất tầng mây có hai đường, hạ đạo ở phía đông, thượng đạo ở phía tây, nhưng cả hai đều phải tiếp tục vượt qua sự ngăn cách của sông Cu Đê, nên khu vực này chính là yết hầu trên đường vào đất Chiêm Thành. Lợi thế “hiểm ải” tự nhiên này đã được Nguyễn Phúc Anh lập lũy trấn thủ chống người anh Nguyễn Phúc Lan năm 1635; chúa Nguyễn cũng lập vành đai phòng thủ chống quân Trịnh năm 1775(2). Về sau, triều Nguyễn cũng lấy Cu Đê làm tấn hải, nơi tuần phòng vùng biển, kiểm tra người qua lại nơi đây. (1) Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong , NXB. Văn học, Hà Nội, 2000, trang 59. (2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục , Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch, tập 1, NXB. Giáo dục, 2002, trang 52, 53, 182, 183 Cửa quan Cụ Đê xưa, nay là nơi có dòng sông mang tên Cu Đê, dòng sông từng in bóng những đoàn quân trong sự kiện năm 1311 và năm 1471. Những ngư dân lớn tuổi của hai làng chài Nam Ô và Xuân Dương bên cửa sông này không gọi Cụ Đê, mà vẫn thường gọi là Câu Đê. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi là “Câu Đê giang”(1). Năm 1311: Câu Chiêm Năm 1471: Cụ Đê. Tra cứu hai địa danh Câu Chiêm ( 俱 占 ) và Cụ Đê (俱低)(2) ghi bằng chữ Nho trong chính sử tuy chữ có khác mà nghĩa trùng nhau. Chữ Câu và Cụ đều giống nhau về chữ (俱) và nghĩa (đều, cùng, tất cả, họ Câu), âm đọc có thể là Câu, Cu, Cụ. Chữ Chiêm và Đê không trùng nhau về tự dạng, nhưng khá giống nhau về nghĩa: Chiêm (占) còn gọi là Chàm; chữ Đê (低 , có bộ nhân) nghĩa là thấp, cúi xuống, hạ, hèn kém; chữ Đê ( 氐 ,không có bộ nhân) nghĩa là nền, gốc, sao Đê trong nhị thập bát tú, tên một bộ lạc, rợ, ở miền tây Trung Quốc thời cổ. (1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí , tỉnh Quảng Nam , Nha Văn hóa Bộ Quốc gia-Giáo dục, 1964, trang 41. (2) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 146 và 280, bản chữ Hán, (xem hình minh họa). Lê Quý Đôn, khi viết về các sách (làng) người Man và người Đê nước Nam Bàn, ở phía tây Phú Yên, giải thích rằng: “Tục gọi Đê là người Chàm, Man là người Mọi”(1). Trong địa bạ tỉnh Khánh Hòa có địa danh “Cây Sung Hạ Đê Man sách”, thuộc Hà Bạc, huyện Quảng Phước, phủ Bình Hòa(2). Hạ Đê có tự dạng 下 氐 , hạ 下 (trái với thượng 上) nghĩa là dưới, cấp dưới, thấp kém, hèn mọn…, chữ Đê ( 氐 ) để chỉ người Chàm (đê đập ngăn nước là 堤 ). Như vậy, Cây Sung Hạ Đê Man sách là một làng (sách) Chàm gắn với địa danh Cây Sung. Chữ Đê ( 氐 ) và chữ Đê ( 低 ) đều để chỉ người Chàm. Vì vậy, Cụ Đê hay Cu Đê, Câu Đê là biến thể của Câu Chiêm và đã khoác lên một nghĩa khác có chủ ý so với nghĩa ban đầu của Câu Chiêm. Việc đổi Câu Chiêm thành Cụ Đê sớm nhất có thể là vào cuối năm 1470, dưới triều vua Lê Thánh Tông. (1) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục , NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, (Viện Sử học dịch), 1977, trang 122.. (2) Xem “Những Man sách trong thế kỷ 19”, trang 88 của sách này. Theo Đại Việt sử ký toàn thư , sau khi ban chiếu khởi binh đánh Chiêm Thành, “Vua xem địa đồ nước Chiêm, đổi lại tên sông tên núi”(1). Thời nhà Nguyễn, địa danh Thanh Chiêm ở Điện Bàn cũng đổi thành Thanh Triêm. Chiêm ( 占 ) thêm bộ thủy ( 氵 ) thành triêm ( 沾 ), nghĩa là nhuần thắm, nhờ sự tốt đẹp. Thanh Triêm được sử dụng chính thức trong các văn bản của chính quyền thời đó, nhưng trong dân gian vẫn gọi theo tên cũ là Thanh Chiêm cho đến tận ngày nay. Vì thế, sự thay đổi này là từ giới tinh hoa chữ nghĩa Khổng Nho trong chính quyền phong kiến. Như vậy, địa danh Câu Chiêm lần đầu tiên ghi trong chính sử là cổ nhất. Từ Hải Vân đến sông Thu Bồn có nhiều địa danh có âm câu . Trong tộc phả họ Phan Đà Sơn – Đà Ly, một dòng tộc lâu đời ở gần sông Cu Đê, có ghi các địa danh Đà Câu, Lầu Câu, Lạc Câu, Câu Nhí. Ở Điện Bàn, có các địa danh Tứ Câu, Câu Hà, Ngân Câu, Câu Lâu, Câu Nhí(2), tháp Chàm Bàng An còn có tên cũ là Câu An. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, “Câu Nhí vốn là một từ gốc Chàm”(3). Trong cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621, Cristoforo Borri ghi rằng xứ này có 5 tỉnh, trong đó Quảng Nam, nơi hoàng tử làm trấn thủ, là Cacciam(4) . Một số tài liệu khác của người phương Tây cũng phiên âm là Cacham, Kaciam(5) . Phải chăng Cacciam, Cacham, Kaciam là biến âm của Câu Chiêm? Có thể âm câu trong các địa danh Chàm đã được sử quan thời phong kiến phiên âm bằng chữ Nho. Do nghĩa của âm câu gốc Chàm vẫn còn là ẩn số, nên rất khiên cưỡng nếu căn cứ vào tự dạng chữ Nho trong câu của Câu Chiêm để truy nghĩa của địa danh này(6). Câu trong Câu Chiêm có thể là trường hợp mượn âm, nhại âm, đồng âm mà khác nghĩa. Tại Quảng Nam, địa danh Cần Húc ( 勤 旭 ) cũng tương tự. Nhiều giả thuyết cho rằng đó là địa danh gốc Chàm Kan Hu, Kan Uk hoặc Kan U(7). Hơn bảy thế kỷ đã qua, biết bao vật đổi sao dời, nhưng hai bên bờ sông Cu Đê, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, văn hóa của cư dân trại Câu Chiêm xưa vẫn bàng bạc ẩn hiện, góp phần tạo nên hương sắc riêng một vùng cửa ải cửa sông non xanh nước biếc thiêng liêng. Đó là hương vị biển mặn mà thơm nức mắm Nam Ô – một “balaciam” hảo hạng(8); những giếng vuông của người Chàm vẫn còn cho nước từ mạch ngầm trong vắt; các địa danh Động Trà Ngâm, Động Trà Na, Trà Nô, Trà Nệp, Trà Nưng, Câu Đê; là phế tích tháp Trà Bì còn gọi tháp Trà Vương bên cửa sông giáp biển mà đầu thế kỷ 20 dù đã đổ nát vẫn còn bóng dáng đôi tháp khá lớn; những di duệ của người Câu Chiêm đã hòa huyết qua nhiều thế hệ đang sinh cư và gắn bó thủy chung với quê cha đất tổ, với quê hương đất nước./. Nhà nghiên cứu Vũ Hùng (1) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 469 .. (2) Ngay nơi hình thành “Thủy Thiên Tự” của dòng họ Bùi vào khoảng nửa đầu thế kỷ 15, nay là huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cũng có tên Câu Lãm, còn gọi là Câu Nhi. Quảng Ngãi có sông Trà Câu. (3) Trần Quốc Vượng, “Đà Nẵng qua cái nhìn địa lý, văn hóa, lịch sử”, tạp chí Xưa và Nay số 54B, tháng 8 năm 1998. (4) Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621 , NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, trang 15. (5) Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề sử học , NXB. Văn hóa – Thông tin, 2005, trang 52. (6) Câu (俱): đều, cùng, tất cả, họ Câu. (7) Nguyễn Dị Cổ, “Trở lại danh xưng Cần Húc”, báo Quảng Nam, 19.12.2015. (8) Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621 , sđd, trang 29.
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG Tác giả Vũ Hùng Trầm tích Cu Đê Nhà nghiên cứu Vũ Hùng Từ đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, nhánh núi Hải Vân đâm ngang giáp biển Đông như bức tường thiên nhiên sừng sững hiểm trở ngăn chia nam bắc một dải đất hẹp miền Trung. Bên kia Hải Vân vài cây số về phía nam là một dòng sông lặng lẽ đổ ra cửa biển Nam Ô, để lại đôi bờ lắng đọng một lớp trầm tích phù sa lịch sử – văn hóa gắn liền với hai sự kiện ghi trong chính sử có địa danh Câu Chiêm và Cụ Đê. Năm 1311, “mùa đông, tháng 12, vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc”(1). Năm sau, “mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về; phong em hắn là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu trấn giữ đất ấy. Trước đó, Chế Chí sai người sang cống. Người ấy là trại chủ Câu Chiêm. Vua sai Đoàn Nhữ Hài bí mật ước hẹn với hắn. Đến khi vua đích thân đi đánh, đến phủ Lâm Bình, chia quân làm ba đường: Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn theo đường núi, Nhân Huệ Vương Khánh Dư theo đường biển, vua tự dẫn quân theo đường bộ; thủy bộ, cùng tiến. Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước. Vua đến Câu Chiêm dừng lại. Nhữ Hài sai người tới chỗ trại chủ, nói rõ ý yêu cầu quốc chủ ra hàng. Trại chủ báo cáo với Chế Chí. Chế Chí nghe theo, đem gia thuộc đi đường biển tới hàng.”(2) Năm 1470, tháng 11, “ngày mồng 6, vua xuống chiếu thân hành đi đánh Chiêm Thành”(3). Năm 1471, “mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 2, vua cho là khi đại quân sắp vào đất giặc, quân lính càng cần phải luyện tập. Do đó, xuống chiếu cho quân Thuận Hóa ra biển tập thủy chiến. Vua nghĩ núi sông nước Chiêm có chỗ chưa biết rõ ràng, liền sai thổ tù ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ hình thế hiểm dị của nước Chiêm để dâng lên. Ngày mồng 6, viên Chỉ huy Cang Viễn bắt sống Bồng Nga Sa là viên lại giữ cửa quan Cụ Đê nước Chiêm đem nộp.”(4) Sự kiện năm 1312 hai lần nhắc đến Câu Chiêm: vị sứ thần đồng thời là trại chủ Câu Chiêm và địa danh Câu Chiêm, nơi hội quân và ngự dinh của vua Trần Anh Tông. Sự kiện năm 1471: 25 vạn quân của Lê Thánh Tông ngay khi “vào đất giặc” liền bắt vị quan trấn giữ “cửa quan Cụ Đê nước Chiêm”. (1) Đại Việt sử ký toàn thư , bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), NXB. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, tái bản năm 2017, trang 266. (2) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 266. (3) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 466. (4) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 469. Hai sự kiện trên cách nhau 160 năm có liên quan đến địa danh Câu Chiêm và Cụ Đê. Theo Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong , cho rằng “Cu Chiêm” trong sự kiện năm 1312 “có lẽ ở biên giới núi Hải Vân”(1), nhưng ông không chỉ rõ ở phía bắc hay nam Hải Vân . Bờ bắc Hải Vân không có địa danh nào như thế. Vua Trần Anh Tông chia làm ba đường tiến quân là thủy, bộ và đường núi, vua đi đường bộ, nên khả năng trại Câu Chiêm là điểm hội quân sau khi vượt qua núi Hải Vân, song không xác định được đã dừng lại ở đâu trong trại này và quy mô của trại Câu Chiêm. Nhưng “viên lại giữ cửa quan Cụ Đê nước Chiêm” bị bắt vào năm 1471 chắc hẳn phải là vị quan trấn giữ ở ngay cửa ngõ phía nam núi Hải Vân, tức vùng cửa sông Cu Đê ngày nay . Thời đó, đi đường bộ vượt qua núi Hải Vân cao ngất tầng mây có hai đường, hạ đạo ở phía đông, thượng đạo ở phía tây, nhưng cả hai đều phải tiếp tục vượt qua sự ngăn cách của sông Cu Đê, nên khu vực này chính là yết hầu trên đường vào đất Chiêm Thành. Lợi thế “hiểm ải” tự nhiên này đã được Nguyễn Phúc Anh lập lũy trấn thủ chống người anh Nguyễn Phúc Lan năm 1635; chúa Nguyễn cũng lập vành đai phòng thủ chống quân Trịnh năm 1775(2). Về sau, triều Nguyễn cũng lấy Cu Đê làm tấn hải, nơi tuần phòng vùng biển, kiểm tra người qua lại nơi đây. (1) Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong , NXB. Văn học, Hà Nội, 2000, trang 59. (2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục , Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch, tập 1, NXB. Giáo dục, 2002, trang 52, 53, 182, 183 Cửa quan Cụ Đê xưa, nay là nơi có dòng sông mang tên Cu Đê, dòng sông từng in bóng những đoàn quân trong sự kiện năm 1311 và năm 1471. Những ngư dân lớn tuổi của hai làng chài Nam Ô và Xuân Dương bên cửa sông này không gọi Cụ Đê, mà vẫn thường gọi là Câu Đê. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi là “Câu Đê giang”(1). Năm 1311: Câu Chiêm Năm 1471: Cụ Đê. Tra cứu hai địa danh Câu Chiêm ( 俱 占 ) và Cụ Đê (俱低)(2) ghi bằng chữ Nho trong chính sử tuy chữ có khác mà nghĩa trùng nhau. Chữ Câu và Cụ đều giống nhau về chữ (俱) và nghĩa (đều, cùng, tất cả, họ Câu), âm đọc có thể là Câu, Cu, Cụ. Chữ Chiêm và Đê không trùng nhau về tự dạng, nhưng khá giống nhau về nghĩa: Chiêm (占) còn gọi là Chàm; chữ Đê (低 , có bộ nhân) nghĩa là thấp, cúi xuống, hạ, hèn kém; chữ Đê ( 氐 ,không có bộ nhân) nghĩa là nền, gốc, sao Đê trong nhị thập bát tú, tên một bộ lạc, rợ, ở miền tây Trung Quốc thời cổ. (1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí , tỉnh Quảng Nam , Nha Văn hóa Bộ Quốc gia-Giáo dục, 1964, trang 41. (2) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 146 và 280, bản chữ Hán, (xem hình minh họa). Lê Quý Đôn, khi viết về các sách (làng) người Man và người Đê nước Nam Bàn, ở phía tây Phú Yên, giải thích rằng: “Tục gọi Đê là người Chàm, Man là người Mọi”(1). Trong địa bạ tỉnh Khánh Hòa có địa danh “Cây Sung Hạ Đê Man sách”, thuộc Hà Bạc, huyện Quảng Phước, phủ Bình Hòa(2). Hạ Đê có tự dạng 下 氐 , hạ 下 (trái với thượng 上) nghĩa là dưới, cấp dưới, thấp kém, hèn mọn…, chữ Đê ( 氐 ) để chỉ người Chàm (đê đập ngăn nước là 堤 ). Như vậy, Cây Sung Hạ Đê Man sách là một làng (sách) Chàm gắn với địa danh Cây Sung. Chữ Đê ( 氐 ) và chữ Đê ( 低 ) đều để chỉ người Chàm. Vì vậy, Cụ Đê hay Cu Đê, Câu Đê là biến thể của Câu Chiêm và đã khoác lên một nghĩa khác có chủ ý so với nghĩa ban đầu của Câu Chiêm. Việc đổi Câu Chiêm thành Cụ Đê sớm nhất có thể là vào cuối năm 1470, dưới triều vua Lê Thánh Tông. (1) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục , NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, (Viện Sử học dịch), 1977, trang 122.. (2) Xem “Những Man sách trong thế kỷ 19”, trang 88 của sách này. Theo Đại Việt sử ký toàn thư , sau khi ban chiếu khởi binh đánh Chiêm Thành, “Vua xem địa đồ nước Chiêm, đổi lại tên sông tên núi”(1). Thời nhà Nguyễn, địa danh Thanh Chiêm ở Điện Bàn cũng đổi thành Thanh Triêm. Chiêm ( 占 ) thêm bộ thủy ( 氵 ) thành triêm ( 沾 ), nghĩa là nhuần thắm, nhờ sự tốt đẹp. Thanh Triêm được sử dụng chính thức trong các văn bản của chính quyền thời đó, nhưng trong dân gian vẫn gọi theo tên cũ là Thanh Chiêm cho đến tận ngày nay. Vì thế, sự thay đổi này là từ giới tinh hoa chữ nghĩa Khổng Nho trong chính quyền phong kiến. Như vậy, địa danh Câu Chiêm lần đầu tiên ghi trong chính sử là cổ nhất. Từ Hải Vân đến sông Thu Bồn có nhiều địa danh có âm câu . Trong tộc phả họ Phan Đà Sơn – Đà Ly, một dòng tộc lâu đời ở gần sông Cu Đê, có ghi các địa danh Đà Câu, Lầu Câu, Lạc Câu, Câu Nhí. Ở Điện Bàn, có các địa danh Tứ Câu, Câu Hà, Ngân Câu, Câu Lâu, Câu Nhí(2), tháp Chàm Bàng An còn có tên cũ là Câu An. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, “Câu Nhí vốn là một từ gốc Chàm”(3). Trong cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621, Cristoforo Borri ghi rằng xứ này có 5 tỉnh, trong đó Quảng Nam, nơi hoàng tử làm trấn thủ, là Cacciam(4) . Một số tài liệu khác của người phương Tây cũng phiên âm là Cacham, Kaciam(5) . Phải chăng Cacciam, Cacham, Kaciam là biến âm của Câu Chiêm? Có thể âm câu trong các địa danh Chàm đã được sử quan thời phong kiến phiên âm bằng chữ Nho. Do nghĩa của âm câu gốc Chàm vẫn còn là ẩn số, nên rất khiên cưỡng nếu căn cứ vào tự dạng chữ Nho trong câu của Câu Chiêm để truy nghĩa của địa danh này(6). Câu trong Câu Chiêm có thể là trường hợp mượn âm, nhại âm, đồng âm mà khác nghĩa. Tại Quảng Nam, địa danh Cần Húc ( 勤 旭 ) cũng tương tự. Nhiều giả thuyết cho rằng đó là địa danh gốc Chàm Kan Hu, Kan Uk hoặc Kan U(7). Hơn bảy thế kỷ đã qua, biết bao vật đổi sao dời, nhưng hai bên bờ sông Cu Đê, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, văn hóa của cư dân trại Câu Chiêm xưa vẫn bàng bạc ẩn hiện, góp phần tạo nên hương sắc riêng một vùng cửa ải cửa sông non xanh nước biếc thiêng liêng. Đó là hương vị biển mặn mà thơm nức mắm Nam Ô – một “balaciam” hảo hạng(8); những giếng vuông của người Chàm vẫn còn cho nước từ mạch ngầm trong vắt; các địa danh Động Trà Ngâm, Động Trà Na, Trà Nô, Trà Nệp, Trà Nưng, Câu Đê; là phế tích tháp Trà Bì còn gọi tháp Trà Vương bên cửa sông giáp biển mà đầu thế kỷ 20 dù đã đổ nát vẫn còn bóng dáng đôi tháp khá lớn; những di duệ của người Câu Chiêm đã hòa huyết qua nhiều thế hệ đang sinh cư và gắn bó thủy chung với quê cha đất tổ, với quê hương đất nước./. Nhà nghiên cứu Vũ Hùng (1) Đại Việt sử ký toàn thư , sđd, trang 469 .. (2) Ngay nơi hình thành “Thủy Thiên Tự” của dòng họ Bùi vào khoảng nửa đầu thế kỷ 15, nay là huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cũng có tên Câu Lãm, còn gọi là Câu Nhi. Quảng Ngãi có sông Trà Câu. (3) Trần Quốc Vượng, “Đà Nẵng qua cái nhìn địa lý, văn hóa, lịch sử”, tạp chí Xưa và Nay số 54B, tháng 8 năm 1998. (4) Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621 , NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, trang 15. (5) Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề sử học , NXB. Văn hóa – Thông tin, 2005, trang 52. (6) Câu (俱): đều, cùng, tất cả, họ Câu. (7) Nguyễn Dị Cổ, “Trở lại danh xưng Cần Húc”, báo Quảng Nam, 19.12.2015. (8) Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621 , sđd, trang 29.
Bắt đầu từ năm học 2021 – 2022, học sinh THCS sẽ thay thế ba môn Lý Hóa Sinh bằng một môn duy nhất, thay đổi cụ thể như sau Chương trình giáo dục phổ thông mới quy định cụ thể về các môn học tích hợp mới là môn Khoa học tự nhiên (gộp 3 môn Lý, Hóa, Sinh) và môn Sử và Địa (gộp môn Sử, Địa) ở bậc THCS. Chương trình sẽ được áp dụng bắt đầu ở lớp 6 từ năm học 2021 – 2022. Trong đó, Khoa học tự nhiên là môn học phát triển từ môn Khoa học ở lớp 4, 5 (cấp tiểu học), được dạy ở các lớp 6, 7, 8 và 9, tổng số 140 tiết/ năm học. Đây là môn tự chọn 2 ở các lớp 10 và lớp 11 của THPT. PGS.TS Mai Sỹ Tuấn – Chủ biên chương trình môn KHTN – cho biết: KHTN là môn học được xây dựng và phát triển trên nền tảng các khoa học Vật lí, Hóa học, Sinh học và Khoa học Trái đất… Đồng thời, sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học khác liên quan như Toán học, Tin học… cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển không ngừng của KHTN. Trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Khoa học tự nhiên là môn học bắt buộc, được dạy ở trung học cơ sở, giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp tiểu học; hoàn thiện tri thức, kĩ năng nền tảng và phương pháp học tập để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động. Chương trình môn KHTN được tổ chức theo 4 chủ đề khoa học chính, gồm: (i) Chất và sự biến đổi của chất: Chất có ở xung quanh ta, cấu trúc của chất, chuyển hoá hoá học các chất; (ii) Vật sống: Sự đa dạng trong tổ chức và cấu trúc của vật sống; các hoạt động sống; con người và sức khoẻ; sinh vật và môi trường; di truyền, biến dị và tiến hoá; (iii) Năng lượng và sự biến đổi: Năng lượng, các quá trình vật lí, lực và sự chuyển động; (iv) Trái Đất và bầu trời: Chuyển động nhìn thấy của Mặt Trời, chuyển động nhìn thấy của Mặt Trăng, hệ Mặt Trời, Ngân Hà, chu trình các chất trong hệ sinh thái, Sinh quyển. Chương trình môn Khoa học tự nhiên chú trọng thực hành thí nghiệm. (Ảnh minh họa) Do chương trình được thiết kế thành bốn chủ đề khoa học, mỗi chủ đề thiên về kiến thức một ngành khoa học nên khi triển khai chương trình, mỗi giáo viên có thể dạy chủ đề phù hợp với ngành đào tạo của mình trên cơ sở phân công, phối hợp chặt chẽ với nhau. Việc sắp xếp các chủ đề khoa học chủ yếu theo logic tuyến tính không gây khó khăn cho việc tổ chức kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học, trên cơ sở phân công giữa các giáo viên. Đây là giải pháp mà các nước phát triển như Anh, Mỹ… vẫn đang thực hiện. Xây dựng môn KHTN cũng tránh được tình trạng trùng lặp kiến thức ở các môn học, đồng thời tạo thuận lợi cho thiết kế một số chủ đề tích hợp như về biến đổi khí hậu, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên… Theo PGS Mai Sỹ Tuấn, để đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước trong giai đoạn của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tránh quá tải cho học sinh, chương trình môn KHTN đã được xây dựng theo hướng không tăng thời lượng dạy học. Số lượng tiết cả cấp học là 560 tiết, chiếm 12% tổng số tiết học tập của tất cả các môn học (ở mức trung bình khi so sánh với tỷ lệ từ 11 – 14% ở các nước). Số tiết môn KHTN cả cấp ít hơn đôi chút so với chương trình trước đây (với tổng số 3 môn Vật lý, Hóa học và Sinh học là 595 tiết). Chương trình môn KHTN đã được xây dựng theo hướng không tăng thời lượng dạy học. (Ảnh minh họa) Về nội dung, môn KHTN không đi sâu mô tả các đối tượng mà đi thẳng vào chức năng và ý nghĩa ứng dụng thực tiễn của chúng, làm cho nội dung có ý nghĩa thực tiễn, nhẹ nhàng và gần gũi với cuộc sống hơn. Chương trình môn Khoa học tự nhiên của các lớp 6, 7, 8, 9 đều có 3 phần tương ứng với kiến thức thuộc lĩnh vực Vật lý, Sinh học, Hóa học được sắp xếp theo trình tự thời gian như sau: Lớp 6: Hóa học (20%) – Sinh học (38%) – Vật lý (32%). Lớp 7: Hóa học (24%) – Vật lý (28%) – Sinh học (38%). Lớp 8: Hóa học (31%) – Vật lý (28%) – Sinh học (31%). Lớp 9: Vật lý (30%) – Hóa học (31%) – Sinh học (29%).
Starting from the 2021 - 2022 school year, middle school students will replace three Physics, Chemistry, and Biology subjects with a single subject, with specific changes as follows. The new general education program specifically stipulates new integrated subjects: Natural Sciences (a combination of three subjects: Physics, Chemistry, Biology) and History and Land (including History and Geography subjects) at secondary level. The program will be applied starting in grade 6 from the 2021 - 2022 school year. In particular, Natural Science is a subject developed from Science in grades 4 and 5 (elementary school), taught in grades 6, 7, 8 and 9, with a total of 140 periods/school year. This is a second elective subject in grades 10 and 11 of high school. Associate Professor, Dr. Mai Sy Tuan - Editor of the Natural Sciences program - said: Natural Sciences is a subject built and developed on the foundation of the sciences of Physics, Chemistry, Biology and Earth Sciences... At the same time, the progress of many other related sciences such as Mathematics, Informatics ... also contributes to promoting the continuous development of natural science. In the general education program, Natural Science is a mandatory subject, taught in middle school, helping students develop the qualities and abilities that have been formed and developed at the elementary level; Complete knowledge, foundation skills and learning methods to continue studying at high school, vocational training or participate in working life. The Natural Science program is organized according to 4 main scientific topics, including: (i) Substance and changes of substances: Substances are around us, structure of substances, chemical transformation of substances; (ii) Living things: Diversity in organization and structure of living things; living activities; people and health; organisms and environment; heredity, variation and evolution; (iii) Energy and change: Energy, physical processes, force and motion; (iv) Earth and sky: Visible motion of the Sun, visible motion of the Moon, Solar system, Milky Way, cycle of substances in the ecosystem, Biosphere. The Natural Science program focuses on experimental practice. (Illustration) Because the program is designed into four scientific topics, each topic focuses on knowledge of a scientific branch, so when implementing the program, each teacher can teach topics appropriate to his or her field of training on the basis of assign tasks and coordinate closely with each other. The arrangement of major scientific topics according to linear logic does not cause difficulties in organizing tests and assessments during the teaching process, based on assignment among teachers. This is a solution that developed countries such as the UK, US... are still implementing. Building a natural science subject also avoids the duplication of knowledge in subjects, and at the same time facilitates the design of a number of integrated topics such as climate change, sustainable use of natural resources... According to Associate Professor Mai Sy Tuan, to meet the requirements of national development in the period of the 4.0 industrial revolution and avoid overloading students, the Natural Science curriculum has been built in a way that does not increase teaching time. . The number of lessons for the entire school level is 560, accounting for 12% of the total number of lessons for all subjects (at an average level when compared to the rate of 11 - 14% in other countries). The number of Natural Science subjects at the whole level is slightly less than the previous program (with a total of 595 subjects: Physics, Chemistry and Biology). The Natural Science curriculum has been built in a way that does not increase teaching time. (Illustration) In terms of content, Natural Science does not go into deep descriptions of objects but goes straight to their functions and practical application meaning, making the content more practical, lighter and closer to life. The Natural Science curriculum for grades 6, 7, 8, and 9 has 3 parts corresponding to knowledge in the fields of Physics, Biology, and Chemistry, arranged in chronological order as follows: Grade 6: Chemistry (20%) – Biology (38%) – Physics (32%). Grade 7: Chemistry (24%) – Physics (28%) – Biology (38%). Grade 8: Chemistry (31%) – Physics (28%) – Biology (31%). Grade 9: Physics (30%) – Chemistry (31%) – Biology (29%).
Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 4: Bám biển – Sea adherence Bám biển Nếu như ở các phần khác, ống kính Mỹ Dũng có lúc hướng ra biển, thì ở phần này anh tập trung hẳn vào các làng xóm ven bờ. Sự quan tâm của người cầm máy dành hẳn cho sự sống vừa mong manh vừa bền bỉ của tất cả những gì thuộc về đời sống con người trong hành trình bám biển. Đấy là những dãy nhà chồ cắm sâu vào cửa sông, nơi đó tự ngàn đời là cuộc sống bấp bênh, chìm nổi của những phận người. Thấp thoáng sau những dãy nhà là những gương mặt người với đủ các tâm trạng, là những con thuyền đi về mỗi sáng mỗi chiều cũng bấp bênh như những phận người. Ở đấy, những dãy nhà choài mình bám biển như một nỗ lực sống bền bỉ của nhiều thế hệ ngư dân làm nên những làng mạc dấu yêu trên khắp đất nước này. Bên trong nó, là con người, là nhà cửa, mồ mả ông cha… những chiếc cầu tre nối những bãi bờ, những chiếc lu đựng mắm phơi mình bạc phếch trong mưa nắng… Bám biển để tồn tại, bám biển để phát triển. Đằng sau các bức ảnh, tuy không thấy nhiều hình ảnh con người nhưng người xem vẫn rất ấn tượng với một hành trình đầy nỗ lực của các thế hệ người Việt trong lịch sử thăm thẳm làm nên đất nước… Thế mạnh của ảnh đen trắng dường như phát huy tác dụng ở chủ đề này. Nó bảo đảm một cái nhìn nội dung chiều sâu mang tính ước lệ, nhiều bao quát và chiêm nghiệm. Sự tương phản đen trắng giúp ngôn ngữ từng bức ảnh mạnh hơn, vì thế sự diễn đạt ở đây, trong chừng mực, là rõ ràng và quyết liệt… Sea adherence In previous sections, My Dung’s lenses point to the sea. Here he squarely focuses on coastal villages. The attention of the photographer shifts to both the fragile and persistent human experience lived and negotiated with the sea. Those are huts deeply anchored to the estuary, where the tottering will of human fate across generations plays out. Appearing behind the hut row, there are faces of all moods, boats shuttling every morning and afternoon which also float delicately in the way of human fate. This is a place where hut rows stretch to the sea as the persistent living efforts of generations of fisherman to create beloved villages all over the country. There are humans, houses, grandparents’ graves, bamboo bridges connecting floodplains, fish sauce clay jars faded under the rain and shine. Sea adherence for existing and for developing. Behind those pictures, though not many human images have been seen, but viewers are still impressed by a journey full of effort of Vietnamese generations in long-standing history of the national founding. The advantage of black and white photos seems effective for this theme. It assures a deep view of content with symbolic, extensive and contemplative features. The contrast of black and white strengthens the language of each image, hence the representation is explicit and drastic. Ấp Kinh Đào , xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau Kinh Dao hamlet , Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau province Cái Bèo , đảo Cát Bà, Hải Phòng Cai Beo , Cat Ba island, Hai Phong city Phan Thiết, Bình Thuận Phan Thiet, Binh Thuan province Lạch Bạng , huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa Lach Bang , Tinh Gia district, Thanh Hoa province Ấp Kinh Đào , xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau Kinh Dao hamlet , Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau province Cửa Bé , TP. Nha Trang, Khánh Hoà Cua Be estuary , Nha Trang city, Khanh Hoa province Xã đảo Nhơn Hải , TP. Quy Nhơn, Bình Định Nhon Hai island commune , Quy Nhon city, Binh Dinh province Sông Hàn , Đà Nẵng – 1990 Han River , Da Nang city – 1990 Lăng Cô , Thừa Thiên Huế Lang Co , Thua Thien Hue province
The Ocean within us – The Ocean within us Part 4: Sea adherence - Sea adherence Clinging to the sea If in other parts, My Dung's lens sometimes faces the sea, then in this part he focuses entirely on the coastal villages. The photographer's attention is devoted to both the fragility and the durability of everything that belongs to human life on the journey to the sea. These are rows of houses planted deep into the river mouth, where for thousands of years there has been an unstable and up-and-down life of human beings. Looming behind the rows of houses are human faces with all sorts of moods, and boats that go back and forth every morning and afternoon, just as precarious as the fates of people. There, rows of houses cling to the sea like a persistent living effort of many generations of fishermen who have created beloved villages across this country. Inside it, are people, houses, ancestors' graves... bamboo bridges connecting the beaches, jars containing fish sauce drying out in the rain and sun... Clinging to the sea to survive, clinging to the sea to develop. Behind the photos, although we do not see many images of people, viewers are still very impressed with a journey full of efforts of generations of Vietnamese people in the deep history of creating the country... The strength of black and white photos seems to come into play in this topic. It ensures a conventional, comprehensive and contemplative view of the content. The black and white contrast makes the language of each photo stronger, so the expression here, to a certain extent, is clear and decisive... Sea adherence In previous sections, My Dung’s lenses point to the sea. Here he squarely focuses on coastal villages. The attention of the photographer shifts to both the fragile and persistent human experience lived and negotiated with the sea. Those are huts deeply anchored to the estuary, where the tottering will of human fate across generations plays out. Appearing behind the hut row, there are faces of all moods, boats shuttling every morning and afternoon which also float delicately in the way of human fate. This is a place where hut rows stretch to the sea as the persistent living efforts of generations of fisherman to create beloved villages all over the country. There are humans, houses, grandparents' graves, bamboo bridges connecting floodplains, fish sauce clay jars faded under the rain and shine. Sea adherences for existing and for developing. Behind those pictures, although not many human images have been seen, but viewers are still impressed by a journey full of effort of Vietnamese generations in the long-standing history of the national founding. The advantage of black and white photos seems effective for this theme. It ensures a deep view of content with symbolic, extensive and contemplative features. The contrast of black and white strengthens the language of each image, therefore the representation is explicit and drastic. Kinh Dao Hamlet , Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau Kinh Dao hamlet , Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau province Cai Beo , Cat Ba Island, Hai Phong Cai Beo , Cat Ba island, Hai Phong city Phan Thiet, Binh Thuan Phan Thiet, Binh Thuan province Lach Bang , Tinh Gia district, Thanh Hoa Lach Bang , Tinh Gia district, Thanh Hoa province Kinh Dao Hamlet , Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau Kinh Dao hamlet , Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau province Baby Gate , City. Nha Trang, Khanh Hoa Cua Be estuary , Nha Trang city, Khanh Hoa province Nhon Hai island commune , City. Quy Nhon, Binh Dinh Nhon Hai island commune , Quy Nhon city, Binh Dinh province Han River , Da Nang – 1990 Han River , Da Nang city – 1990 Lang Co , Hue Lang Co , Thua Thien Hue province
Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 3: Thờ biển – Giữ biển Sea worship and preservation Thờ biển – Giữ biển Dọc theo các làng biển Việt Nam, nơi nào cũng đậm đặc các dấu tích liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng cư dân liên quan nghề biển. Do đặc thù nghề nghiệp, ngư dân là một trong những bộ phận có đời sống tín ngưỡng phong phú và đa dạng nhất trong các cộng đồng người Việt… Cả đời gắn bó với biển, biển vừa là nơi cho họ cuộc sống áo cơm nhưng cũng là môi trường tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hành trình sống. Vì thế, ứng xử với biển cả trong đời sống vật chất và tinh thần là ứng xử gần như là đồng nhất và xuyên suốt của người Việt biển… Trước thiên nhiên, con người rất nhỏ bé. Trước biển, cảm giác ấy càng rõ rệt và tuyệt đối. Mẹ biển, đấy là từ thường hay gặp trong đời sống tinh thần của hầu hết các ngư dân. Trong thế giới tâm linh, ngoài chuyện thờ tự ông bà cha mẹ, những người thuộc thế hệ trước mình như người Việt nói chung, cư dân biển còn để cả niềm thành kính lớn lao của mình dành cho biển cả và những gì thuộc về biển cả. Tục thờ cúng cá Ông, lễ hội cầu ngư, lễ hạ thuyền, rước thuyền… và nhiều sinh hoạt tín ngưỡng đa dạng khác bắt nguồn từ tâm thức đó… Ảnh Mỹ Dũng ở phần này đưa người xem một mặt nghiêm cẩn, thành kính hướng về chân trời xa thẳm của biển nặng tính thần bí; một mặt khác, quay về các làng biển với nỗi mong đợi, ước vọng trần thế về cuộc sống cơm áo của các vạn chài… Ở đây, ta bắt gặp hình ảnh những lăng mộ cá Ông, những ngôi từ đường, tiền hiền, mộ tẩm của những con người bao đời nằm lại cùng biển… Tục thờ cúng cá Ông, nhiều phong tục cúng tế nghiêm trang cầu an, cầu lợi, những sinh hoạt lễ hội mang tính cộng đồng cao, những buổi biểu diễn hát bả trạo, cầu ngư mà cả chủ lễ lẫn dân làng đều là những người cả đời lao lực gắn liền với biển… Đằng sau những bức ảnh là một thế giới phong phú và huyền ảo của những giấc mơ về cuộc sống ấm no, về những mong đợi an bình và cả những khát vọng lẽ phải, công bằng bao đời… của người làng biển… Các góc máy khoảnh khắc thực ấn tượng, việc lựa chọn chi tiết cho các bức ảnh, và tình cảm trân trọng của người cầm máy là những điểm đáng lưu ý của phần này… Sea worship and preservation We can see vestiges related to the belief of the inhabitants in any Vietnamese coastal villages. Due to the nature of their professions, fishermen have the most abundant and diversified religious life of all Vietnamese communities. Their entire life is closely intertwined with the sea which not only provides them with living but with the risk of a sudden demise also. Therefore, the behavior of the coastal Vietnamese towards the sea, both materially and spiritually, is almost consistent. Standing before nature, humans seem minuscule, and standing before the sea, that feeling is more obvious and absolute. The “mother sea” is a term which frequently appears in the spiritual life of most fishermen. Beside the widespread worship of previous generations common to all Vietnamese, coastal habitants also give a great reverence to the sea and anything related to it. The customs of whale worship and whale worship festival, boat lowering and boat processing ritual, and various religious activities originate from that consciousness. In this section, My Dung’s photographs bring, on one hand, the viewer solemnly and respectfully towards the far – away skyline of mystical seas; on the other hand, take viewers back to coastal villages with long waits and living aspirations for the daily lives of fisherman. Here, we encounter images of whale tombs, ancestral and land establisher temples, and the graves of many generations gone with the sea. The custom of whale worship, rituals for peacefulness and benefit, community festivals and activities, Hat ba trao (traditional opera) performances, whale worship festivals in which both the ritual master and villagers work are related to the sea. Behind the pictures, there is a diversified and fanciful world of dreams about a comfortable living, a hope for peace and aspiration for rightuousness as well as the equality of coastal inhabitants. The moment of shots is impressive, the selection of subjects and the respectful sentiment of the photographer are noted point in this part. Cải táng cá Ông Vạn Tân Thái, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, Đà Nẵng Whale Exhumation Tan Thai fishing village, Man Thai ward, Son Tra district, Da Nang city Mộ cá Ông Xã Diễn Hải, huyện Diễn Châu, Nghệ An A Whale Tomb Dien Hai commune, Dien Chau district, Nghe An province Đình và lăng Ông , Mân Quang, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, Đà Nẵng A Commune House and Whale Tomb , Man Quang, Tho Quang ward, Son Tra district, Da Nang city Lễ Cầu ngư Vạn Tân Thái, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, Đà Nẵng Cầu ngư (Whale worship) festival Tan Thai fishing village, Man Thai ward, Son Tra district, Da Nang city Lễ Cầu an Phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, Đà Nẵng Ritual for peacefulness An Hai Bac ward, Son Tra district, Da Nang city Lễ Nghinh Ông Cửa biển Sông Đốc, Cà Mau Nghinh Ông (Whale worship) festival Song Doc estuary, Ca Mau province Lễ Tạ biển cuối năm Xã Bình Minh, huyện Thăng Bình, Quảng Nam Sea offering ritual at the end of the year Binh Minh commune, Thang Binh District, Quang Nam province Xã Đảo Nhơn Hải, TP. Quy Nhơn, Bình Định Nhon Hai island commune, Quy Nhon city, Binh Dinh province Xã Hải Lý, huyện Hải Hậu, Nam Định Hai Ly commune, Hai Hau district, Nam Dinh province Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 2: Hạnh phúc – Happiness
The Ocean within us – The Ocean within us Part 3: Worshiping the sea - Keeping the sea Sea worship and preservation Worship the sea – Keep the sea Along Vietnam's coastal villages, everywhere there are dense traces related to religion and beliefs of communities related to the marine industry. Due to their profession, fishermen are one of the groups with the richest and most diverse religious life in Vietnamese communities... Their whole lives are attached to the sea, the sea is not only a place that gives them food and shelter, but It is also an environment with many potential risks in life's journey. Therefore, dealing with the sea in both material and spiritual life is an almost uniform and consistent behavior of Vietnamese coastal people... Before nature, humans are very small. In front of the sea, that feeling is even more clear and absolute. Mother of the sea, that is a word often encountered in the spiritual life of most fishermen. In the spiritual world, in addition to worshiping their grandparents, parents, and people of previous generations like Vietnamese people in general, marine residents also have great respect for the sea and everything that belongs to them. Ocean. The custom of worshiping Ong fish, fishing festival, boat launching ceremony, boat procession... and many other diverse religious activities originate from that mind... My Dung's photo in this part gives the viewer a serious, respectful face towards the distant horizon of the mystical sea; On the other hand, returning to the coastal villages with earthly expectations and desires for the food and clothing life of the fishermen... Here, we see images of Ong fish tombs, temples, graves of people who have lived in the sea for many generations... The custom of worshiping Ong fish, many customs of solemn offerings to pray for peace. , praying for benefits, festive activities with a high community nature, performances of singing and dancing, praying for fish in which both the ceremony masters and villagers are people who have worked hard all their lives associated with the sea... Behind the photos is a rich and magical world of dreams of a prosperous life, of peaceful expectations and the lifelong aspirations of righteousness and justice... of the coastal villagers... The impressive camera angles, the selection of details for the photos, and the respectful feelings of the person holding the camera are notable points of this section... Sea worship and preservation We can see vestiges related to the belief of the inhabitants in any Vietnamese coastal villages. Due to the nature of their professions, fishermen have the most abundant and diversified religious life of all Vietnamese communities. Their entire life is closely intertwined with the sea which not only provides them with living but with the risk of a sudden demise also. Therefore, the behavior of the coastal Vietnamese towards the sea, both materially and spiritually, is almost consistent. Standing before nature, humans seem minuscule, and standing before the sea, that feeling is more obvious and absolute. The “mother sea” is a term that frequently appears in the spiritual life of most fishermen. Besides the widespread worship of previous generations common to all Vietnamese, coastal habitants also give a great revival to the sea and everything related to it. The customs of whale worship and whale worship festival, boat lowering and boat processing ritual, and various religious activities originate from that consciousness. In this section, My Dung’s photographs bring, on one hand, the viewer solemnly and respectfully towards the far – away skyline of mystical seas; on the other hand, take viewers back to coastal villages with long waits and living aspirations for the daily lives of fisherman. Here, we encounter images of whale tombs, ancestral and land establisher temples, and the graves of many generations gone with the sea. The custom of whale worship, rituals for peacefulness and benefit, community festivals and activities, Hat ba chua (traditional opera) performances, whale worship festivals in which both the ritual master and villager work are related to the sea. Behind the pictures, there is a diverse and fanciful world of dreams about a comfortable living, a hope for peace and aspiration for rightuousness as well as the equality of coastal inhabitants. The moment of shots is impressive, the selection of subjects and the respectful sentiment of the photographer are noted points in this part. Reburial of Ong fish Van Tan Thai, Man Thai ward, Son Tra district, Da Nang Whale Exhumation Tan Thai fishing village, Man Thai ward, Son Tra district, Da Nang city Mr. Fish's Tomb Dien Hai commune, Dien Chau district, Nghe An A Whale Tomb Dien Hai commune, Dien Chau district, Nghe An province Ong's communal house and mausoleum , Man Quang, Tho Quang ward, Son Tra district, Da Nang A Commune House and Whale Tomb , Man Quang, Tho Quang ward, Son Tra district, Da Nang city Fishing Ceremony Van Tan Thai, Man Thai ward, Son Tra district, Da Nang Whale worship festival Tan Thai fishing village, Man Thai ward, Son Tra district, Da Nang city Peace Prayer Ceremony An Hai Bac Ward, Son Tra District, Da Nang Ritual for peacefulness An Hai Bac ward, Son Tra district, Da Nang city Nghinh Ong Ceremony Song Doc estuary, Ca Mau Nghinh Ong (Whale worship) festival Song Doc estuary, Ca Mau province Year-end beach celebration Binh Minh commune, Thang Binh district, Quang Nam Sea offering ritual at the end of the year Binh Minh commune, Thang Binh District, Quang Nam province Nhon Hai Island Commune, City. Quy Nhon, Binh Dinh Nhon Hai island commune, Quy Nhon city, Binh Dinh province Hai Ly commune, Hai Hau district, Nam Dinh Hai Ly commune, Hai Hau district, Nam Dinh province The Ocean within us – The Ocean within us Part 2: Happiness – Happiness
7 lần tách nhập địa giới ở TP HCM Từ năm 1975 đến nay TP HCM trải qua 7 lần tách, nhập các đơn vị hành chính, mới nhất là lần sáp nhập quận 2 , 9 , Thủ Đức và 19 phường cuối năm 2020. Ngày 2/7/1975, sau khi đất nước thống nhất, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đổi tên TP Sài Gòn – Gia Định thành TP HCM. Thời điểm này thành phố có 12 quận: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình và 5 huyện Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè và Thủ Đức. Ngày 18/9/1976, Hội đồng Chính phủ có Nghị định số 164/CP thành lập huyện Côn Sơn thuộc TP HCM. Tuy nhiên do xa cách địa lý và để tạo điều kiện quản lý công việc trong tình hình mới, thành phố đề nghị giao huyện Côn Sơn cho tỉnh Hậu Giang. Huyện Côn Sơn sau đó đổi tên thành Côn Đảo và trực thuộc tỉnh Hậu Giang từ ngày 15/1/1977. Tháng 12/1978, Hội đồng Chính phủ có tờ trình về việc phân chia địa giới một số tỉnh, thành trong đó gồm việc sáp nhập huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai vào TP HCM (ngày 18/12/1991 huyện Duyên Hải đổi tên thành Cần Giờ). Việc này nhằm xây dựng, củng cố vành đai bảo vệ an ninh, trật tự của thành phố. Chủ trương được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1978. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, đến năm 1986 TP HCM có 12 quận, 6 huyện; 232 phường, 85 xã và 4 thị trấn. Tấm bản đồ Sài Gòn và các vùng phụ cận năm 1973. Khi ấy, vùng Thủ Thiêm là quận 9, còn quận 7 ở khu vực Bình Tân, quận 6 ngày nay. Cả thành phố có 11 quận, các vùng Thủ Đức, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình… thuộc tỉnh Gia Định. Ảnh: Quỳnh Trần. Theo Nghị định 03 ngày 6/1/1997 của Chính phủ, TP HCM lập thêm 5 quận mới , gồm: quận 2 trên cơ sở tách các xã An Khánh, An Phú, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm và một phần xã Bình Trưng của huyện Thủ Đức; Quận 9 trên cơ sở tách các xã Long Bình, Long Trường, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Phước Bình, Tăng Nhơn Phú, Phú Hữu và một phần 4 xã: Bình Trưng, Phước Long, Tân Phú và hiệp Phú của huyện Thủ Đức; Quận Thủ Đức là phần còn lại của huyện Thủ Đức gồm: thị trấn Thủ Đức, các xã Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Tam Bình, Tam Phú và một phần 3 xã: Phước Long, Tân Phú và Hiệp Phú. Quận 7 trên cơ sở tách các xã: Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Phú Mỹ và một phần thị trấn Nhà Bè của huyện Nhà Bè; Quận 12 trên cơ sở tách các xã: Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, An Phú Đông và một phần của hai xã: Trung Mỹ Tây và Tân Chánh Hiệp thuộc huyện Hóc Môn. Thời điểm này, TP HCM có 17 quận: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức và 5 huyện Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè và Cần Giờ. Thực hiện Nghị định 130 ngày 5/11/2003 của Chính phủ, TP HCM lập thêm quận Tân Phú (trên cơ sở tách các phường từ 16 đến 20 và một phần của hai phường 14, 15 của quận Tân Bình); Bình Tân (trên cơ sở tách các xã: Bình Hưng Hoà, Bình Trị Đông, Tân Tạo và thị trấn An Lạc của huyện Bình Chánh). Ngày 23/11/2006, theo Nghị định của Chính phủ, TP HCM lập phường Tân Hưng Thuận thuộc quận 12 từ phần đất cắt ra của phường Đông Hưng Thuận; lập 4 phường 6, 8, 9 và 14 thuộc quận Gò Vấp . Từ tháng 11/2006 đến 31/12/2020, TP HCM có 19 quận và 5 huyện; 259 phường, 58 xã và 5 thị trấn. Ngày 9/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết 1111 lập TP Thủ Đức , trực thuộc TP HCM trên cơ sở sáp nhập quận 2, 9 và Thủ Đức với diện tích hơn 211 km và một triệu người. Thành phố mới được kỳ vọng góp 30% tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) TP HCM và 7% tổng sản phẩm nội địa (GDP) cả nước. Nghị quyết 1111 cũng cho phép nhập 19 phường thuộc quận 2, 3, 4, 5, 10, Phú Nhuận. Như vậy, từ ngày 1/1/2021, TP HCM có một thành phố, 16 quận và 5 huyện; 249 phường, 58 xã và 5 thị trấn. Hữu Công
7 times of boundary separation in Ho Chi Minh City From 1975 to present Ho Chi Minh City went through 7 times of splitting and merging administrative units, the latest being the merger of districts 2 , 9 , Thu Duc and 19 wards by the end of 2020. On July 2, 1975, after the country was unified, the National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam changed the name of Saigon - Gia Dinh City to Ho Chi Minh City. At this time, the city has 12 districts: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Binh Thanh, Phu Nhuan, Go Vap, Tan Binh and 5 districts of Cu Chi, Binh Chanh, Hoc Mon, Nha Be and Thu Duc. On September 18, 1976, the Government Council issued Decree Không. 164/CP Established Con Son district in Ho Chi Minh City. However, due to geographical distance and to facilitate work management in the new situation, the city proposed to hand over Con Son district to Hau Giang province. Con Son district later changed its name to Con Dao and belonged to Hau Giang province from January 15, 1977. In December 1978, the Government Council submitted a report on the division of the boundaries of a number of provinces and cities, including merged Duyen Hai district of Dong Nai province into Ho Chi Minh City (On December 18, 1991, Duyen Hai district changed its name to Can Gio). This is to build and strengthen the security and order protection belt of the city. The policy was approved by the National Assembly on December 29, 1978. After many administrative boundary adjustments, by 1986 Ho Chi Minh City had 12 districts and 6 districts; 232 wards, 85 communes and 4 towns. Map of Saigon and surrounding areas in 1973. At that time, Thu Thiem area was district 9, while district 7 was in the Binh Tan area, district 6 today. The whole city has 11 districts, the areas of Thu Duc, Phu Nhuan, Go Vap, Tan Binh... in Gia Dinh province. Photo: Quynh Tran. According to Decree 03 dated January 6, 1997 of the Government, Ho Chi Minh City established 5 new districts , including: District 2 on the basis of separating An Khanh, An Phu, Thanh My Loi, Thu Thiem communes and part of Binh Trung commune of Thu Duc district; District 9 is based on separating the communes of Long Binh, Long Truong, Long Phuoc, Long Thanh My, Phuoc Binh, Tang Nhon Phu, Phu Huu and part of 4 communes: Binh Trung, Phuoc Long, Tan Phu and Hiep Phu of Thu district. Virtue; Thu Duc district is the remaining part of Thu Duc district including: Thu Duc town, communes Hiep Binh Chanh, Hiep Binh Phuoc, Linh Dong, Linh Trung, Linh Xuan, Tam Binh, Tam Phu and part of 3 communes: Phuoc Long , Tan Phu and Hiep Phu. District 7 on the basis of separating communes: Tan Thuan Dong, Tan Thuan Tay, Tan Quy Dong, Tan Quy Tay, Phu My and part of Nha Be town of Nha Be district; District 12 is based on separating communes: Dong Hung Thuan, Tan Thoi Hiep, Tan Thoi Nhat, Thanh Loc, An Phu Dong and part of two communes: Trung My Tay and Tan Chanh Hiep in Hoc Mon district. At this time, Ho Chi Minh City has 17 districts: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Binh Thanh, Phu Nhuan, Go Vap, Tan Binh, Thu Duc and 5 Cu Chi, Binh Chanh, Hoc Mon, Nha Be and Can Gio districts. Implementing Decree 130 dated November 5, 2003 of the Government, Ho Chi Minh City established Tan Phu district (on the basis of separating wards 16 to 20 and part of wards 14 and 15 of Tan Binh district); Average front (on the basis of separating communes: Binh Hung Hoa, Binh Tri Dong, Tan Tao and An Lac town of Binh Chanh district). On November 23, 2006, according to the Government's Decree, Ho Chi Minh City established Tan Hung Thuan ward in District 12 from the land cut out of Dong Hung Thuan ward; Establish 4 wards 6, 8, 9 and 14 in Go Vap district . From November 2006 to December 31, 2020, Ho Chi Minh City has 19 districts and 5 districts; 259 wards, 58 communes and 5 towns. On December 9, 2020, the National Assembly Standing Committee passed Resolution 1111 establishing Thu Duc City , directly under Ho Chi Minh City on the basis of merging districts 2, 9 and Thu Duc with an area of ​​more than 211 km2 and one million people. The new city is expected to contribute 30% of the gross regional product (GRDP) of Ho Chi Minh City and 7% of the country's gross domestic product (GDP). Resolution 1111 also allows this Enter 19 wards located in districts 2, 3, 4, 5, 10, Phu Nhuan. Thus, from January 1, 2021, Ho Chi Minh City has one city, 16 districts and 5 districts; 249 wards, 58 communes and 5 towns. Huu Cong
Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 2: Hạnh phúc – Happiness Hạnh phúc Người làng biển ăn gió nói sóng. Khác với nhiều nghề, có thể do môi trường làm việc, do nghề nghiệp đặc thù, người dân làng biển cả đời chỉ quen đối thoại với biển cả. Khi giong lưới ra khơi, một con thuyền là một xã hội thu nhỏ, trong đó, các thành viên xem nhau như trong một gia đình, gọi là bạn thuyền. Quan hệ giữa các thành viên trên con tàu giữa biển khơi, nhỏ bé như hạt cát trong sa mạc bao la, thường dựa vào nhau với tất cả sự tin tưởng, chân thành. Người làng biển ít khép kín, họ trọng sự cởi mở, mọi thứ với họ thường hồn nhiên, đơn giản, chất phác. Hạnh phúc của người dân biển cũng thế, đơn giản và hồn nhiên… Ở phần này, ảnh Mỹ Dũng tràn ngập những nụ cười. Nụ cười cởi mở khi vá lưới, nụ cười mãn nguyện lúc được mùa, nụ cười hồn hậu khi chia tay vợ con trước mỗi chuyến xa bờ, nụ cười thân thiện khi chia sẻ việc nghề, … Những niềm vui thật đẹp và tươi tắn trên những gương mặt đàn ông và đàn bà. Hướng ra phía biển, nụ cười đàn ông át đi những mưa rền sấm động, làm dịu những tố giông gian khó của những lúc khơi xa. Hướng vào làng mạc, nụ cười của những đá vọng phu làm vợi đi những âu lo, chờ đợi, chia sẻ nhau những vất vả đời thường… Và, trên background của biển xanh, những đường nét nâu đằm của làn da rám nắng, màu thô mộc của những chiếc nón lá đi qua nắng mưa, vết khô trắng của mồ hôi muối còn đọng trên những chiếc áo bạc màu… Đó là vẻ đẹp rạng ngời của những nụ cười bất tận đi qua năm tháng… Phải yêu các làng biển căng mình trong gió cát đầy ký ức tuổi thơ, đầy tự hào người con của biển, phải quý trọng những con người của biển tâm hồn mộc mạc, cởi mở, Mỹ Dũng mới có những tấm ảnh đẹp và ấn tượng như thế về đề tài rất cũ và cũng rất mới này…. Happiness People of coastal villages live with wind and waves. Unlike other occupations, they live their whole life conversing intimately with the sea due to their working environment and professional skills. When going fishing off sea, the crew in a boat treat each other as the members of a family, call each other “boat-mate”. The crew of the boat at open sea are small as a sand grain in an enormous desert, so they rely on each other with all faith and sincerity. Seldom are they reserved, valuing openness and consider everything natural, simple and rustic. Their happiness is the same: simple and natural. In this section, My Dung’s pictures fill with smiles; a wide smile while mending fishing nets, a satisfying smile during a bumper harvest, a righteous smile when departing for offshore fishing, a friendly smile when sharing the work. The joyfulness expressed on the faces of men and women is beautiful and fresh. Heading to the sea, the smile of men overwhelms the heavy rain, the thunder, and eases rough storms. Turning to the villages, the smiles of awaiting wives abate worry, waiting and are ready to share everyday trials. In the background of blue sea, dark brown features of sunburnt skin, rustic colours of palm-leaf conical hats through rain and shine, white traces of salty sweat stagnated on faded clothes – is the shining beauty of endless smiles through time. It must be a great love for coastal villages standing against the wind and sand full of childhood memories, great pride as a child of the sea, and esteem for coastal people with simple and open souls that helped My Dung take such impressive photographs on the theme. Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn Xã Vinh Thanh, Thừa Thiên Huế Behind every great man, there is a great woman Vinh Thanh commune, Thua Thien Hue province Biển thì nghề, quê thì ruộng Xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Going fishing in the seaside, farming in the countryside Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Mũi dại lái mang Xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam It is the helmsman who is to blame when the ship goes in the wrong direction. Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Không có gì bằng cơm với cá, Không có gì bằng má với con. Xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau Nothing is better than cook rice with fish, Nothing is better than mother with children. Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau province Ăn sóng nói gió Xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Speaking loud and openly Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Anh đi câu cá quét mành Cá lang tiêu bạc má anh để dành cho em Xưởng đóng tàu Lý Cư, Vũng Thùng, Đà Nẵng Anytime going fishing I always keep good fish for you Ly Cu Shipyard, Vung Thung, Da Nang city Lấy chồng nghề ruộng em theo Lấy chồng nghề biển, hồn treo cột buồm. Xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa If marrying a farmer, I will happily accept. But marrying a fisherman, my soul will be hung high on the mast. Hoang Truong commune, Hoang Hoa district, Thanh Hoa province Trăng rằm mười sáu trăng lu Trông anh như thể vọng phu trông chồng Gành Son, huyện Tuy Phong, Bình Thuận The full moon turns dim on the sixteenth lunar day, You look like Vong Phu Lady waiting for her husband. Ganh Son beach, Tuy Phong district, Binh Thuan province Trời sinh có biển có nguồn Có ta có bạn, còn buồn nỗi chi Hòn Rớ, TP. Nha Trang, Khánh Hòa The sea has its source, Which is like you and me. Hon Ro, Nha Trang city, Khanh Hoa province Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo Chợ cá xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Never say die Fish market in Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Cơm với cá như mạ với con Chợ cá xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Cooked rice with fish is like the mother and her children Fish market in Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Khó mà xứ biển em theo Giàu mà xứ ruộng, vằng treo nợ đòi. Nam Thọ, phường Thọ Quang, Đà Nẵng Poor as you are, I will still marry you if you live in the coastal area. Rich as you are, but living in the agricultural area, the sickles will be left idle and we’ll be deep in debt. Nam Tho, Tho Quang commune, Da Nang city Thuyền nan đã trải thuyền mành thử chơi Đi cho khắp bốn phương trời Cho trần biết mặt cho đời biết tên Xã Tam Thanh, TP. Tam Kỳ, Quảng Nam I’ve wandered up hill and down dale, Used to sail on the bamboo boats, and now I try the junks, So as to travel around the world, To make my name known to all. Tam Thanh commune, Tam Ky city, Quang Nam province Gió lên bớ bà Vọng phu Chồng bà nhờ gió thuyền mau trở về Xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Hey, Vong Phu Lady, raise the wind please! Your husband’s boat will return soon thanks to the wind. Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Anh đây lên thác xuống ghềnh Có nước có cá. Vạn Vũng Tàu, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi Where there is water, there is fish Vung Tau fishing village, Binh Chau commune, Binh Son district, Quang Ngai province Ngó hoài ra tận biển Đông Thấy mây, thấy nước sao không thấy nàng Xã Tam Thanh,TP. Tam Kỳ, Quảng Nam Looking out to the sea I only see the immense water instead of you Tam Thanh commune, Tam Ky city, Quang Nam province Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền Xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Although you miss me or not I heartily wait for you for ever and ever Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 1: Ngàn đời sóng vỗ – A thousand years of waving seas
The Ocean within us – The Ocean within us Term 2: Happiness – Happiness Happy The people of the coastal village eat the wind and talk about the waves. Unlike many professions, perhaps due to the working environment or specific occupation, people in coastal villages spend their entire lives only accustomed to dialogue with the sea. When setting out to sea, a boat is a miniature society, in which members consider each other as a family, called boat mates. The relationship between members on a ship in the middle of the ocean, as small as a grain of sand in a vast desert, often relies on each other with all trust and sincerity. People in coastal villages are less closed, they value openness, everything with them is often innocent, simple, and naive. The happiness of the sea people is the same, simple and innocent... In this part, My Dung's photo is filled with smiles. The open smile when mending nets, the satisfied smile when having a good harvest, the kind smile when saying goodbye to his wife and children before each offshore trip, the friendly smile when sharing work,... The joys are so beautiful and bright. on the faces of men and women. Facing the sea, the man's smile drowns out the thunderous rain, calming the storms and hardships of times at sea. Looking towards the village, the smiles of the stone workers ease worries and waits, sharing with each other the hardships of everyday life... And, on the background of the blue sea, the dark brown lines of tanned skin, the rough color of conical hats passing through the sun and rain, the dry white stains of salt sweat remaining on faded shirts... That is The radiant beauty of endless smiles through the years... Must love the coastal villages stretching themselves in the sandy wind full of childhood memories, full of pride as a child of the sea, must appreciate the people of the sea with rustic, open souls, My Dung has beautiful and impressive photos. Such an image on this very old and yet very new topic... Happiness People of coastal villages live with wind and waves. Unlike other occupations, they live their whole life conversing intimately with the sea due to their working environment and professional skills. When going fishing off sea, the crew in a boat treat each other as members of a family, calling each other “boat-mate”. The crew of the boat at open sea are small as a sand grain in an enormous desert, so they rely on each other with all faith and sincerity. Seldom are they reserved, valuing openness and considering everything natural, simple and rustic. Their happiness is the same: simple and natural. In this section, My Dung’s pictures fill with smiles; a wide smile while mending fishing nets, a satisfying smile during a bumper harvest, a bright smile when departing for offshore fishing, a friendly smile when sharing the work. The joyfulness expressed on the faces of men and women is beautiful and fresh. Heading to the sea, the smile of men overwhelms the heavy rain, the thunder, and eases rough storms. Turning to the villages, the smiles of awaiting wives abate worry, waiting and are ready to share everyday trials. In the background of blue sea, dark brown features of sunburnt skin, rustic colors of palm-leaf conical hats through rain and shine, white traces of salty sweat stagnated on faded clothes – is the shining beauty of endless smiles through time. It must be a great love for coastal villages standing against the wind and sand full of childhood memories, great pride as a child of the sea, and esteem for coastal people with simple and open souls that helped My Dung take such impressive photographs on the theme . If the wife agrees with the husband, the East Sea will dry up Vinh Thanh Commune, Thua Thien Hue Behind every great man, there is a great woman Vinh Thanh commune, Thua Thien Hue province The sea is a profession, the countryside is a field Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam Going fishing in the seaside, farming in the countryside Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Wild nose drives gills Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam It is the helmsman who is to blame when the ship goes in the wrong direction. Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province There's nothing like rice and fish, There is nothing like mother and child. Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau Nothing is better than cook rice with fish, Nothing is better than mother with children. Dat Mui commune, Ngoc Hien district, Ca Mau province Eat the waves and talk about the wind Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam Speak loudly and openly Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province He goes fishing and sweeps blinds Silver pepper lang fish I saved for you Ly Cu Shipyard, Vung Thung, Da Nang Anytime going fishing I always keep good fish for you Ly Cu Shipyard, Vung Thung, Da Nang city I married a husband who worked as a farmer Marrying a man with a career in the sea, his soul hangs on the mast. Hoang Truong commune, Hoang Hoa district, Thanh Hoa If marrying a farmer, I will happily accept. But marrying a fisherman, my soul will be hung high on the mast. Hoang Truong commune, Hoang Hoa district, Thanh Hoa province The full moon is sixteen moons lu He looked like he was looking after his husband Ganh Son, Tuy Phong district, Binh Thuan The full moon turns dim on the sixteenth lunar day, You look like Vong Phu Lady waiting for her husband. Ganh Son beach, Tuy Phong district, Binh Thuan province God was born with a sea and a source We have friends, so why be sad? Hon Ro, City. Nha Trang, Khanh Hoa The sea has its source, Which is like you and me. Hon Ro, Nha Trang city, Khanh Hoa province Don't look at the waves and stop rowing Fish market in Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam Never say die Fish market in Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Rice with fish is like rice with children Fish market in Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam Cooked rice with fish is like the mother and her children Fish market in Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province It's difficult for me to follow the sea country If you are rich but own land, you will have to pay debts. Nam Tho, Tho Quang ward, Da Nang Poor as you are, I will still marry you if you live in the coastal area. Rich as you are, but living in the agricultural area, the sickles will be left idle and we'll be deep in debt. Nam Tho, Tho Quang commune, Da Nang city The bamboo boat has spread out the blind boat to try it out Go to all four corners of the world Let the world know your face and let the world know your name Tam Thanh Commune, City. Tam Ky, Quang Nam I've wandered up hill and down dale, Used to sail on the bamboo boats, and now I try the junks, So as to travel around the world, To make my name known to all. Tam Thanh commune, Tam Ky city, Quang Nam province The wind rose up to persecute Mrs. Vong Phu Her husband asked the boat to return quickly Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam Hey, Vong Phu Lady, raise the wind please! Your husband's boat will return soon thanks to the wind. Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Here I go up the falls and down the rapids Where there is water there are fish. Van Vung Tau, Binh Chau commune, Binh Son district, Quang Ngai Where there is water, there is fish Vung Tau fishing village, Binh Chau commune, Binh Son district, Quang Ngai province Looking out to the East Sea Seeing the clouds, seeing the water, why can't I see her? Tam Thanh Commune, City. Tam Ky, Quang Nam Looking out to the sea I only see the immense water instead of you Tam Thanh commune, Tam Ky city, Quang Nam province Oh boat, do you miss the dock? Ben is an insistence stomach waiting boat Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam Although you miss me or not I heartily wait for you for ever and ever Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province The Ocean within us – The Ocean within us Part 1: A thousand years of waving seas
Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 1: Ngàn đời sóng vỗ – A thousand years of waving seas Nhiếp ảnh gia Mỹ Dũng Sinh ra và lớn lên từ một làng chài ven biển Đà Nẵng, biển với những chiếc thuyền thúng, ghe nan đan bằng tre, be thuyền được bện bằng những sợi mây rắn chắc và trét dầu rái có màu đen nâu thật bình dị…. đã đi vào tác phẩm của Mỹ Dũng một cách tự nhiên và giàu cảm xúc. Tất cả những tấm ảnh trong tập sách ảnh này lại đều là ảnh trắng đen càng làm tăng thêm tính thi vị và ý vị của con người và các làng chài truyền thống. Như là sự đồng điệu, vansudia.net xin trân trọng giới thiệu Biển trong chúng ta (The Ocean Within us) của Nhiếp ảnh gia Mỹ Dũng. Chúng ta hy vọng và chờ đợi ở anh những tác phẩm ảnh mới: đa dạng, bùng nổ hơn, với những màu sắc và hình ảnh sống động hơn nữa về nghề biển và làng biển, về những cảng cá, những con tàu đánh bắt xa bờ và những ngư dân thời đại 4.0 đang làm chủ những ngư trường lớn của đất nước… vansudia.net MỤC LỤC / CONTENT Lời nói đầu 4 Introduction 5 Ngàn đời sóng vỗ 6 A thousand years of waving seas 6 Hạnh phúc 20 Happiness 20 Thờ biển – Giữ biển 38 Sea worship and preservation 38 Bám biển 46 Sea adherence 46 Thiên tai biển động 54 Disasters and rough sea 54 Cả đời với biển 77 The whole life with the sea 77 Lời/ Introduction: Trương Vũ Quỳnh, Huỳnh Yên Trầm My Biên dịch và hiệu đính/ Translation and Revision: Lance Gould, Mzung Nguyễn, Nguyễn Thanh Xuân Chú thích ảnh: Ca dao, tục ngữ vùng biển sử dụng trong tập sách được tác giả sưu tầm và chọn lọc Caption: The folk-songs and proverbs related to sea are collected and selected by the author. Xin cảm ơn quý anh/ chị đã giúp đỡ tác giả hoàn thành cuốn sách này: Acknowledgments I was able to complete this book with the help and co-operation of the following persons: Ông Trương Công Báo – GĐ NXB. Đà Nẵng, Ông Nguyễn Kim Huy – Tổng Biên Tập NXB. Đà Nẵng, Bà Huỳnh Yên Trầm My – Trưởng Ban Biên Tập NXB. Đà Nẵng Mr. Trương Công Báo, Manager; Mr. Nguyễn Kim Huy, Editor-in-Chief and Ms. Huỳnh Yên Trầm My, Chief of Editorial Section of Danang Publishing House. Đạo diễn/ Film director: Trương Vũ Quỳnh (Đà Nẵng) Nhiếp ảnh gia/Photographer: Hồ Xuân Bổn (Đà Nẵng), Phạm Văn Hạ (Quảng Nam), Quốc Hiếu (Hà Tĩnh), Vũ Thanh Hải (Nghệ An), Lưu Trọng Thắng, Lê Bá Dũng (Thanh Hóa), Thành Vương (Quảng Bình), Nguyễn Sỹ Quân, Lê Văn Thọ (Đà Nẵng), Nguyễn Đạo Hoàng (Úc Châu), Tô Hoàng Vũ (Cần Thơ), Lê Nguyễn, Tấn Điệp (Cà Mau), Thế Duy (Kiên Giang). Cùng các anh/And Mr: Lê Chúc (USA), Trần Ngọc Tuấn (Phan Thiết), Trần Ngọc Nhiều (Cà Mau), Nguyễn Văn Khán (Canada). Nhà làm phim độc lập/ Freelance filmmaker: Nguyễn MZung, Lance Gould (USA); Họa sĩ / Artist: Trung Nghĩa PHOTOGRAPHER NGUYỄN VĂN MỸ (MỸ DŨNG) Sinh năm: 1959 Địa chỉ: 331 Trần Nhân Tông, Đà Nẵng, Việt Nam Hoạt động nhiếp ảnh nghệ thuật từ năm 1984 Hội viên Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đà Nẵng Triển lãm cá nhân – Chủ đề ABC nhìn – 2010 tại Hà Nội và Đà Nẵng – Chủ đề Tự do – 2013 tại Đà Nẵng – Chủ đề Biển báo (giao thông) – 2014 tại Đà Nẵng – Chủ đề Biển trong chúng ta – 2018 tại Đà Nẵng Triển lãm chung – Chủ đề Phụ Nữ Việt Nam – 2005 tại Hoa Kỳ PHOTOGRAPHER NGUYEN VAN MY (MY DUNG) Born in 1959 Address: 331 Tran Nhan Tong, Da Nang city, Viet Nam Starting photography career in 1984. Member of Vietnam Photography Association Member of the Da Nang Union of Literature and Arts Associations Solo exhibition Theme: ABC WATCH – 2010 in Ha Noi and Da Nang Theme: Free – 2013 in Da Nang Theme: Traffic Sign – 2014 in Da Nang Theme: The Sea within us – 2018 in Da Nang Co-exhibition Theme: Vietnamese Women – 2005 in the U.S.A Biển trong chúng ta Lời nói đầu Người Ba Na phía đông nam cao nguyên Gia Lai có tục chạm một chiếc thuyền trên ngạch cửa ra vào trong ngôi nhà sàn của họ. Ở đó, sau mùa rẫy, người phụ nữ thường ngồi dệt các món thổ cẩm quen thuộc cho gia đình mình. Ngực để trần, đôi tay uyển chuyển đưa thoi như thể chị đang chèo thuyền ra khơi. Giải mã hiện tượng này, Giáo sư Từ Chi cho rằng con thuyền đó chính là dấu vết xa xăm trong ký ức đời biển của người ở rừng. Biển trong mỗi chúng ta là một khái niệm rộng và đa chiều, ăn sâu vào tâm thức cộng đồng quốc gia biển Việt. Vì thế, ĐỌC ảnh đời biển của Mỹ Dũng, ta như gặp đâu đó những mảnh ghép đã thấm mặn trong trí tưởng của mình. Những ghi chú địa danh dọc dài đất nước cho mỗi bức ảnh trong tập sách này đã hiện lên một hành trình vừa nhọc nhằn vừa hứng khởi, giàu cảm xúc của tay máy vốn là người con của một làng chài ở Đà Nẵng. Ta không chỉ đọc nó bằng thị giác trong khuôn hình có hạn trong mỗi tác phẩm, mà ta còn có thể đọc nó bằng trải nghiệm đã biết từ bên ngoài khuôn hình gợi mở, những sự cố thiên tai và những sự cố nhân tai dập dồn thách thức trong cuộc đời người làm biển. “ Ồ sóng trắng, ngất thiên hà sóng trắng ” Và, lẽ tất nhiên, cả những niềm hoan trong đôi mắt được mùa mà trời biển đã hào phóng ban cho người làng biển. Hay nói như một nhà thơ Pháp: “ Biển trong chúng ta đến tận thấm vào hơi thở và kết thúc hơi thở ”. Đoàn Huy Giao The ocean within us Introduction The Ba Na people in the southeastern highlands of Gia Lai have a tradition of carving a boat right on the threshold of their stilt houses. After harvesting season, Bahnar women often sit there to weave brocade fabric for their families. With bare chests and flexible hands, they needle or weave as if they were rowing out to the sea.Deciphering this tradition, Professor Từ Chi thought that the boat is a faraway trace to the sea-life memories of the mountainous people. The sea in each of us is a broad and multi-dimensional concept, deeply ingrained in the mind of the Vietnamese marine national community. Therefore, the “reading” of My Dung’s photos on the sea gives us the feeling that we have met the pieces of memories enrooted in our minds. The notes for the landscapes of his picture book display a tough, but exciting and emotional journey of a photographer who comes from a fishing village in Da Nang. We not only “read” his photos visually, but also through our known experiences of the continuous natural and human disasters challenging those who live on the sea. “Oh! the white waves A touching galaxy of white waves” And of course, there is also the joyfulness in the eyes of the coastal people with the offerings that the sea gives them. As a French poet once said, “ the ocean within us deeply penetrates our breath and end itself in our breath ”. Doan Huy Giao Việt Nam là một đất nước nằm ven theo chân sóng. Dọc theo hơn 3000 km bờ biển là những cộng đồng cư dân có lịch sử, văn hóa, truyền thống, nghề nghiệp…gắn liền với biển. Ngàn đời sóng vỗ đã dặt dìu qua bao thế hệ người dân Việt từ thăm thẳm những ngày mở nước thuở Âu Cơ và Lạc Long Quân chia nhau lên rừng xuống biển đến tự bây giờ… Cũng từ xưa, nghệ thuật Việt sinh ra, ngoài những cánh đồng lúa nước bát ngát cánh cò, ngoài những sông suối giăng mắc khắp các cánh rừng đại ngàn, còn được nuôi dưỡng từ tiếng sóng vỗ ngàn khơi, bảng lảng trong khói bếp từ những nóc nhà của những vạn chài và thấm đậm vị mặn mòi của biển… Trong 4 chủ đề lớn của nghệ thuật Việt là “Ngư tiều canh mục”, “Ngư “ là yếu tố được nhắc đến trước tiên. Hội họa, nhiếp ảnh vì thế, cũng không là ngoại lệ… Những lát cắt đời sống của phần này trong tư duy Mỹ Dũng thiên về toàn cảnh bằng những cái nhìn có khoảng cách. Dĩ nhiên, trước tiên là sóng. Những chiếc ghe dài, những chiếc thuyền thúng, những làng mạc nằm gối mình lên sóng tưởng như đã ngủ quên trong tiếng ru của biển, những khu đền đài, nhà thờ, lăng tẩm của những làng biển đưa người xem hướng về thế giới tinh thần của những cộng đồng cư dân ven biển vốn rất sâu nặng và đa dạng. Và giữa những thứ đó là hình ảnh ngư dân lao động… Là phần đầu sách, Mỹ Dũng có dụng ý khi chỉ trình bày những gì chung nhất, thiên về những phác họa chính có tính chất giới thiệu. Các bức ảnh có bố cục đẹp, thời khắc, giàu cảm xúc ở phần này như là một lời mời chào của tác giả, gợi tò mò để cùng người xem đi vào những phần tiếp theo của tập sách – nơi chắc chắn sẽ nhiều thông tin thú vị đang chờ… Vietnam is a country adjacent to the waving sea. Along the coastline of over 3000 kilometers, there are various communities with histories, cultures, traditions and professions closely related to the sea. The lapping of the waves into the shore has occurred through generations and generations of the Vietnamese people, from the very early days of the national founding – with the legend of Au Co and Lac Long Quan, each taking 50 of their children to the mountainous region and the seawards – to the present day. From ancient times, Vietnamese art was not only created from immense wet rice fields over which storks flapping their wings, spring covering high mountains and thick forests but also fostered by waves far offshore, dusky fumes over rooftops of fishing villages, and saturated with the salty flavour of the sea. Fishing is the first of the four popular themes of Vietnamese art – fishing, woodcutting, cultivating, and cattle breeding – and so as painting and photography on it. Slices of life in this part of My Dung’s thought favours panoramas viewed from a distance, and it is certain that the foremost is a wave. Long junks, coracles, villages lying over waves seemed to sleep in the lullaby of the sea. Temples, churches and mausoleums of the coastal villages bring the viewer to the spiritual world of coastal communities which are deep-rooted and diversified. Among all these is the image of a fisherman. At the beginning of the book, My Dung intends to present a wide-ranging view focused on sketches of introduction. Beautiful layouts coupled with timely and emotional pictures are a greeting from the author to induce the curiosity of the viewer to the coming parts of the book, which are rich in interesting information. Chợ cá xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Fish market at Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Xóm Duồng, huyện Tuy Phong, Bình Thuận Duong hamlet, Tuy Phong district, Binh Thuan province Làng biển Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong, Bình Thuận Fishing village at Phan Ri Cua, Tuy Phong district, Binh Thuan province Bãi biển Mỹ Thuỷ, huyện Hải Lăng, Quảng Trị My Thuy beach, Hai Lang district, Quang Tri province Xã đảo Nghi Sơn, Thanh Hóa Nghi Son island commune, Thanh Hoa province Phường An Hoà, TP. Rạch Giá, Kiên Giang An Hoa ward, Rach Gia city, Kien Giang province Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 2: Hạnh phúc – Happiness
Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 1: Ngàn đời sóng vỗ – A thousand years of waving seas Nhiếp ảnh gia Mỹ Dũng Sinh ra và lớn lên từ một làng chài ven biển Đà Nẵng, biển với những chiếc thuyền thúng, ghe nan đan bằng tre, be thuyền được bện bằng những sợi mây rắn chắc và trét dầu rái có màu đen nâu thật bình dị…. đã đi vào tác phẩm của Mỹ Dũng một cách tự nhiên và giàu cảm xúc. Tất cả những tấm ảnh trong tập sách ảnh này lại đều là ảnh trắng đen càng làm tăng thêm tính thi vị và ý vị của con người và các làng chài truyền thống. Như là sự đồng điệu, vansudia.net xin trân trọng giới thiệu Biển trong chúng ta (The Ocean Within us) của Nhiếp ảnh gia Mỹ Dũng. Chúng ta hy vọng và chờ đợi ở anh những tác phẩm ảnh mới: đa dạng, bùng nổ hơn, với những màu sắc và hình ảnh sống động hơn nữa về nghề biển và làng biển, về những cảng cá, những con tàu đánh bắt xa bờ và những ngư dân thời đại 4.0 đang làm chủ những ngư trường lớn của đất nước… vansudia.net MỤC LỤC / CONTENT Lời nói đầu 4 Introduction 5 Ngàn đời sóng vỗ 6 A thousand years of waving seas 6 Hạnh phúc 20 Happiness 20 Thờ biển – Giữ biển 38 Sea worship and preservation 38 Bám biển 46 Sea adherence 46 Thiên tai biển động 54 Disasters and rough sea 54 Cả đời với biển 77 The whole life with the sea 77 Lời/ Introduction: Trương Vũ Quỳnh, Huỳnh Yên Trầm My Biên dịch và hiệu đính/ Translation and Revision: Lance Gould, Mzung Nguyễn, Nguyễn Thanh Xuân Chú thích ảnh: Ca dao, tục ngữ vùng biển sử dụng trong tập sách được tác giả sưu tầm và chọn lọc Caption: The folk-songs and proverbs related to sea are collected and selected by the author. Xin cảm ơn quý anh/ chị đã giúp đỡ tác giả hoàn thành cuốn sách này: Acknowledgments I was able to complete this book with the help and co-operation of the following persons: Ông Trương Công Báo – GĐ NXB. Đà Nẵng, Ông Nguyễn Kim Huy – Tổng Biên Tập NXB. Đà Nẵng, Bà Huỳnh Yên Trầm My – Trưởng Ban Biên Tập NXB. Đà Nẵng Mr. Trương Công Báo, Manager; Mr. Nguyễn Kim Huy, Editor-in-Chief and Ms. Huỳnh Yên Trầm My, Chief of Editorial Section of Danang Publishing House. Đạo diễn/ Film director: Trương Vũ Quỳnh (Đà Nẵng) Nhiếp ảnh gia/Photographer: Hồ Xuân Bổn (Đà Nẵng), Phạm Văn Hạ (Quảng Nam), Quốc Hiếu (Hà Tĩnh), Vũ Thanh Hải (Nghệ An), Lưu Trọng Thắng, Lê Bá Dũng (Thanh Hóa), Thành Vương (Quảng Bình), Nguyễn Sỹ Quân, Lê Văn Thọ (Đà Nẵng), Nguyễn Đạo Hoàng (Úc Châu), Tô Hoàng Vũ (Cần Thơ), Lê Nguyễn, Tấn Điệp (Cà Mau), Thế Duy (Kiên Giang). Cùng các anh/And Mr: Lê Chúc (USA), Trần Ngọc Tuấn (Phan Thiết), Trần Ngọc Nhiều (Cà Mau), Nguyễn Văn Khán (Canada). Nhà làm phim độc lập/ Freelance filmmaker: Nguyễn MZung, Lance Gould (USA); Họa sĩ / Artist: Trung Nghĩa PHOTOGRAPHER NGUYỄN VĂN MỸ (MỸ DŨNG) Sinh năm: 1959 Địa chỉ: 331 Trần Nhân Tông, Đà Nẵng, Việt Nam Hoạt động nhiếp ảnh nghệ thuật từ năm 1984 Hội viên Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đà Nẵng Triển lãm cá nhân – Chủ đề ABC nhìn – 2010 tại Hà Nội và Đà Nẵng – Chủ đề Tự do – 2013 tại Đà Nẵng – Chủ đề Biển báo (giao thông) – 2014 tại Đà Nẵng – Chủ đề Biển trong chúng ta – 2018 tại Đà Nẵng Triển lãm chung – Chủ đề Phụ Nữ Việt Nam – 2005 tại Hoa Kỳ PHOTOGRAPHER NGUYEN VAN MY (MY DUNG) Born in 1959 Address: 331 Tran Nhan Tong, Da Nang city, Viet Nam Starting photography career in 1984. Member of Vietnam Photography Association Member of the Da Nang Union of Literature and Arts Associations Solo exhibition Theme: ABC WATCH – 2010 in Ha Noi and Da Nang Theme: Free – 2013 in Da Nang Theme: Traffic Sign – 2014 in Da Nang Theme: The Sea within us – 2018 in Da Nang Co-exhibition Theme: Vietnamese Women – 2005 in the U.S.A Biển trong chúng ta Lời nói đầu Người Ba Na phía đông nam cao nguyên Gia Lai có tục chạm một chiếc thuyền trên ngạch cửa ra vào trong ngôi nhà sàn của họ. Ở đó, sau mùa rẫy, người phụ nữ thường ngồi dệt các món thổ cẩm quen thuộc cho gia đình mình. Ngực để trần, đôi tay uyển chuyển đưa thoi như thể chị đang chèo thuyền ra khơi. Giải mã hiện tượng này, Giáo sư Từ Chi cho rằng con thuyền đó chính là dấu vết xa xăm trong ký ức đời biển của người ở rừng. Biển trong mỗi chúng ta là một khái niệm rộng và đa chiều, ăn sâu vào tâm thức cộng đồng quốc gia biển Việt. Vì thế, ĐỌC ảnh đời biển của Mỹ Dũng, ta như gặp đâu đó những mảnh ghép đã thấm mặn trong trí tưởng của mình. Những ghi chú địa danh dọc dài đất nước cho mỗi bức ảnh trong tập sách này đã hiện lên một hành trình vừa nhọc nhằn vừa hứng khởi, giàu cảm xúc của tay máy vốn là người con của một làng chài ở Đà Nẵng. Ta không chỉ đọc nó bằng thị giác trong khuôn hình có hạn trong mỗi tác phẩm, mà ta còn có thể đọc nó bằng trải nghiệm đã biết từ bên ngoài khuôn hình gợi mở, những sự cố thiên tai và những sự cố nhân tai dập dồn thách thức trong cuộc đời người làm biển. “ Ồ sóng trắng, ngất thiên hà sóng trắng ” Và, lẽ tất nhiên, cả những niềm hoan trong đôi mắt được mùa mà trời biển đã hào phóng ban cho người làng biển. Hay nói như một nhà thơ Pháp: “ Biển trong chúng ta đến tận thấm vào hơi thở và kết thúc hơi thở ”. Đoàn Huy Giao The ocean within us Introduction The Ba Na people in the southeastern highlands of Gia Lai have a tradition of carving a boat right on the threshold of their stilt houses. After harvesting season, Bahnar women often sit there to weave brocade fabric for their families. With bare chests and flexible hands, they needle or weave as if they were rowing out to the sea.Deciphering this tradition, Professor Từ Chi thought that the boat is a faraway trace to the sea-life memories of the mountainous people. The sea in each of us is a broad and multi-dimensional concept, deeply ingrained in the mind of the Vietnamese marine national community. Therefore, the “reading” of My Dung’s photos on the sea gives us the feeling that we have met the pieces of memories enrooted in our minds. The notes for the landscapes of his picture book display a tough, but exciting and emotional journey of a photographer who comes from a fishing village in Da Nang. We not only “read” his photos visually, but also through our known experiences of the continuous natural and human disasters challenging those who live on the sea. “Oh! the white waves A touching galaxy of white waves” And of course, there is also the joyfulness in the eyes of the coastal people with the offerings that the sea gives them. As a French poet once said, “ the ocean within us deeply penetrates our breath and end itself in our breath ”. Doan Huy Giao Việt Nam là một đất nước nằm ven theo chân sóng. Dọc theo hơn 3000 km bờ biển là những cộng đồng cư dân có lịch sử, văn hóa, truyền thống, nghề nghiệp…gắn liền với biển. Ngàn đời sóng vỗ đã dặt dìu qua bao thế hệ người dân Việt từ thăm thẳm những ngày mở nước thuở Âu Cơ và Lạc Long Quân chia nhau lên rừng xuống biển đến tự bây giờ… Cũng từ xưa, nghệ thuật Việt sinh ra, ngoài những cánh đồng lúa nước bát ngát cánh cò, ngoài những sông suối giăng mắc khắp các cánh rừng đại ngàn, còn được nuôi dưỡng từ tiếng sóng vỗ ngàn khơi, bảng lảng trong khói bếp từ những nóc nhà của những vạn chài và thấm đậm vị mặn mòi của biển… Trong 4 chủ đề lớn của nghệ thuật Việt là “Ngư tiều canh mục”, “Ngư “ là yếu tố được nhắc đến trước tiên. Hội họa, nhiếp ảnh vì thế, cũng không là ngoại lệ… Những lát cắt đời sống của phần này trong tư duy Mỹ Dũng thiên về toàn cảnh bằng những cái nhìn có khoảng cách. Dĩ nhiên, trước tiên là sóng. Những chiếc ghe dài, những chiếc thuyền thúng, những làng mạc nằm gối mình lên sóng tưởng như đã ngủ quên trong tiếng ru của biển, những khu đền đài, nhà thờ, lăng tẩm của những làng biển đưa người xem hướng về thế giới tinh thần của những cộng đồng cư dân ven biển vốn rất sâu nặng và đa dạng. Và giữa những thứ đó là hình ảnh ngư dân lao động… Là phần đầu sách, Mỹ Dũng có dụng ý khi chỉ trình bày những gì chung nhất, thiên về những phác họa chính có tính chất giới thiệu. Các bức ảnh có bố cục đẹp, thời khắc, giàu cảm xúc ở phần này như là một lời mời chào của tác giả, gợi tò mò để cùng người xem đi vào những phần tiếp theo của tập sách – nơi chắc chắn sẽ nhiều thông tin thú vị đang chờ… Vietnam is a country adjacent to the waving sea. Along the coastline of over 3000 kilometers, there are various communities with histories, cultures, traditions and professions closely related to the sea. The lapping of the waves into the shore has occurred through generations and generations of the Vietnamese people, from the very early days of the national founding – with the legend of Au Co and Lac Long Quan, each taking 50 of their children to the mountainous region and the seawards – to the present day. From ancient times, Vietnamese art was not only created from immense wet rice fields over which storks flapping their wings, spring covering high mountains and thick forests but also fostered by waves far offshore, dusky fumes over rooftops of fishing villages, and saturated with the salty flavour of the sea. Fishing is the first of the four popular themes of Vietnamese art – fishing, woodcutting, cultivating, and cattle breeding – and so as painting and photography on it. Slices of life in this part of My Dung’s thought favours panoramas viewed from a distance, and it is certain that the foremost is a wave. Long junks, coracles, villages lying over waves seemed to sleep in the lullaby of the sea. Temples, churches and mausoleums of the coastal villages bring the viewer to the spiritual world of coastal communities which are deep-rooted and diversified. Among all these is the image of a fisherman. At the beginning of the book, My Dung intends to present a wide-ranging view focused on sketches of introduction. Beautiful layouts coupled with timely and emotional pictures are a greeting from the author to induce the curiosity of the viewer to the coming parts of the book, which are rich in interesting information. Chợ cá xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, Quảng Nam Fish market at Tam Tien commune, Nui Thanh district, Quang Nam province Xóm Duồng, huyện Tuy Phong, Bình Thuận Duong hamlet, Tuy Phong district, Binh Thuan province Làng biển Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong, Bình Thuận Fishing village at Phan Ri Cua, Tuy Phong district, Binh Thuan province Bãi biển Mỹ Thuỷ, huyện Hải Lăng, Quảng Trị My Thuy beach, Hai Lang district, Quang Tri province Xã đảo Nghi Sơn, Thanh Hóa Nghi Son island commune, Thanh Hoa province Phường An Hoà, TP. Rạch Giá, Kiên Giang An Hoa ward, Rach Gia city, Kien Giang province Biển trong chúng ta – The Ocean within us Kỳ 2: Hạnh phúc – Happiness
Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên đán Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của Việt Nam, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây Tết Nguyên Đán Việt Nam có ý nhĩa nhân văn vô cùng sâu sắc, thể hiện sự trường tồn cuộc sống, khao khát của con người về sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân. Tết Nguyên Đán là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp; với gia tộc và xóm làng trong tính cộng đồng dân tộc; với niềm tin thiêng liêng, cao cả trong đời sống tâm linh… 1. Tết Nguyên Đán Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này. Người Việt Nam tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Năm cũ đi qua mang theo những điều không may mắn và năm mới bắt đầu mang đến cho mọi người niềm tin lạc quan vào cuộc sống. Nếu năm cũ khá may mắn, thì sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.Với ý nghĩa này, Tết còn là ngày của lạc quan và hy vọng. Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi; còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được báo hiếu và hưởng ân phúc. 3.4. Tết Nguyên Đán là ngày tạ ơn Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, lãnh đạo cũng cảm ơn nhân viên qua những buổi tiệc chiêu đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết… 4. Những biến đổi do tác động tiếp xúc văn hoá Đông – Tây trong Tết Nguyên Đán ở Việt Nam Với một hệ thống lễ nghi vô cùng phong phú và giàu ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tết Nguyên Đán đã trở thành ý thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là một phong tục đẹp mà nhân dân ta còn duy trì tới ngày nay. Thế nhưng trong thời kỳ toàn cầu hoá như hiện nay cách ăn Tết của người Việt Nam phần nào đã thay đổi. Một số tập tục trong ngày Tết xưa không còn phù hợp với xã hội hiện đại đã dần bị loại bỏ. Ngày nay người dân ăn Tết đã có phần đổi khác hơn so với trước kia, dường như dân ta ăn Tết “tây hoá”dần đi, sự thay đổi đó phần nào được thể hiện qua cách đón tết và trong việc sắm tết. Đời sống kinh tế được nâng cao đi kèm với những giá trị hưởng thụ về văn hoá tinh thần và vật chất, nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên và có thể đáp ứng ngay khi cần chứ không phải đợi đến Tết như ngày xưa. Hơn nữa, ngày nay trong một năm có rất nhiều ngày lễ khác đang chi phối tầm quan trọng của ngày Tết cổ truyền. Vì vậy, dường như Tết bây giờ có phần nhạt hơn so với Tết xưa. Trong đời sống hiện đại, việc sắm Tết cũng ”hiện đại” theo và sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây rất rõ nét. Giờ đây người dân ít hào hứng với việc mua thực phẩm về tự chế biến mà đặt mua đồ đã chế biến sẵn cho tiện. Mâm cỗ ngày Tết giờ cũng phong phú hơn và đa dạng hơn. Bên cạnh những món ăn truyền thống của người Việt như bánh chưng xanh, giò, các món rau, món xào thì còn có những món ăn được du nhập từ Phương Tây. Trải qua bao biến thiên của thời đại, đến nay, quan niệm về Tết đã có nhiều thay đổi cả về mặt khái niệm lẫn hành vi. Bây giờ người ta quan niệm là “nghỉ Tết”, “chơi Tết” chứ không còn là “ăn Tết”. Khi cái ăn, cái mặc không còn là vấn đề quan trọng trong ngày Tết thì người ta hướng đến tinh thần nhiều hơn. Tết hiện đại mọi người thích nghỉ ngơi thoải mái, đi chơi nhiều hơn, nhân dịp Tết nhiều gia đình đã lên lịch trình cho một chuyến du lịch với người thân trong nhà hoặc cùng bạn bè, đồng nghiệp. Quà Tết bây giờ cũng khác. Trước đây, mọi người có thể chúc Tết nhau bằng cặp bánh, cân giò, với tấm lòng trân trọng mến thương. Bây giờ người ta có thể tặng nhau những món quà có giá trị cao nhưng tình cảm trong đó hầu như không có mà xen vào đó là lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế. Quả thật, quá trình tiếp xúc văn hoá Đông – Tây đã làm cho Tết thay đổi, những đồ ăn nhanh, làm sẵn đã làm mất đi không khí chuẩn bị vui tươi của ngày tết. Trẻ con không còn ngồi xem bố mẹ, ông bà gói bánh chưng và mong chờ còn ít gạo vét để gói chiếc bánh ống với nhiều đậu và một miếng thịt to, không còn vui thú khi vùi củ khoai nướng trong lúc trông nồi bánh chưng, các cô thiếu nữ đã dần quên thói quen đi ngắm hoa đào, hoa mai trên phố chợ. Những điều thay đổi đó khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng “bao giờ cho đến Tết xưa”. Tuy nhiên, tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã làm cho ngày Tết của người Việt có nhiều thứ mới lạ hơn, thực phẩm vừa ngon vừa phong phú đa dạng, những đồ ăn sẵn thật là thuận tiện, mâm cỗ cúng gia tiên có thêm chai rượu vang thì thật là sang trọng. Ngày Tết được đi du lịch với cả gia đình, bạn bè, đồng nghiệp khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, gạt bỏ được những căng thẳng trong một năm làm việc vất vả, tìm được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn. Chúng ta không thể phủ nhận mặt tích cực của hội nhập văn hoá đem lại. Nếu chúng ta “khép” cửa “ăn Tết” với nhau thì Tết Việt đương nhiên chỉ là một sản phẩm của văn hoá thuần tuý đơn lẻ, nó sẽ không thể trở thành sản phẩm văn hoá đặc trưng của quốc gia trong mối quan tâm của bạn bè quốc tế. Sự mở cửa giao lưu, tiếp xúc lại chính là những phương thức tốt nhất giúp chúng ta giới thiệu đến bạn bè quốc tế về Tết cổ truyền của người Việt Nam. Vấn đề ở đây là chúng ta phải làm chủ được quá trình tiếp xúc với văn hóa phương Tây để tết cổ truyền của người Việt vẫn giữ được bản sắc riêng của mình mà không bị “ Tây hoá”. Có thể nói, Tết Nguyên Đán vẫn là một sinh hoạt văn hoá vừa lưu giữ những giá trị truyền thống vừa thích nghi với nhịp sống hiện đại. Trong ngày Tết vẫn còn nhiều phong tục tốt đẹp và đậm tính nhân văn mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy để Tết Nguyên Đán mãi là nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Th.S Hoàng Thị Tố Nga – Khoa SP Tiểu học – Mầm non TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Tp. Hồ Chí Minh , 1992. 2. Đinh Gia Khánh. Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á, NXB KHXH, 1993. 3. Phan Kế Bính. Việt Nam phong tục, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1992. 4.Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB GD 5. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: Cái nhìn hệ thống – loại hình, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1996. 6. Trương Thìn (biên soạn). 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam, NXB Thời đại, 2010.
Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên đán Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của Việt Nam, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây Tết Nguyên Đán Việt Nam có ý nhĩa nhân văn vô cùng sâu sắc, thể hiện sự trường tồn cuộc sống, khao khát của con người về sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân. Tết Nguyên Đán là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp; với gia tộc và xóm làng trong tính cộng đồng dân tộc; với niềm tin thiêng liêng, cao cả trong đời sống tâm linh… 1. Tết Nguyên Đán Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này. Người Việt Nam tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Năm cũ đi qua mang theo những điều không may mắn và năm mới bắt đầu mang đến cho mọi người niềm tin lạc quan vào cuộc sống. Nếu năm cũ khá may mắn, thì sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.Với ý nghĩa này, Tết còn là ngày của lạc quan và hy vọng. Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi; còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được báo hiếu và hưởng ân phúc. 3.4. Tết Nguyên Đán là ngày tạ ơn Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, lãnh đạo cũng cảm ơn nhân viên qua những buổi tiệc chiêu đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết… 4. Những biến đổi do tác động tiếp xúc văn hoá Đông – Tây trong Tết Nguyên Đán ở Việt Nam Với một hệ thống lễ nghi vô cùng phong phú và giàu ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tết Nguyên Đán đã trở thành ý thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là một phong tục đẹp mà nhân dân ta còn duy trì tới ngày nay. Thế nhưng trong thời kỳ toàn cầu hoá như hiện nay cách ăn Tết của người Việt Nam phần nào đã thay đổi. Một số tập tục trong ngày Tết xưa không còn phù hợp với xã hội hiện đại đã dần bị loại bỏ. Ngày nay người dân ăn Tết đã có phần đổi khác hơn so với trước kia, dường như dân ta ăn Tết “tây hoá”dần đi, sự thay đổi đó phần nào được thể hiện qua cách đón tết và trong việc sắm tết. Đời sống kinh tế được nâng cao đi kèm với những giá trị hưởng thụ về văn hoá tinh thần và vật chất, nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên và có thể đáp ứng ngay khi cần chứ không phải đợi đến Tết như ngày xưa. Hơn nữa, ngày nay trong một năm có rất nhiều ngày lễ khác đang chi phối tầm quan trọng của ngày Tết cổ truyền. Vì vậy, dường như Tết bây giờ có phần nhạt hơn so với Tết xưa. Trong đời sống hiện đại, việc sắm Tết cũng ”hiện đại” theo và sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây rất rõ nét. Giờ đây người dân ít hào hứng với việc mua thực phẩm về tự chế biến mà đặt mua đồ đã chế biến sẵn cho tiện. Mâm cỗ ngày Tết giờ cũng phong phú hơn và đa dạng hơn. Bên cạnh những món ăn truyền thống của người Việt như bánh chưng xanh, giò, các món rau, món xào thì còn có những món ăn được du nhập từ Phương Tây. Trải qua bao biến thiên của thời đại, đến nay, quan niệm về Tết đã có nhiều thay đổi cả về mặt khái niệm lẫn hành vi. Bây giờ người ta quan niệm là “nghỉ Tết”, “chơi Tết” chứ không còn là “ăn Tết”. Khi cái ăn, cái mặc không còn là vấn đề quan trọng trong ngày Tết thì người ta hướng đến tinh thần nhiều hơn. Tết hiện đại mọi người thích nghỉ ngơi thoải mái, đi chơi nhiều hơn, nhân dịp Tết nhiều gia đình đã lên lịch trình cho một chuyến du lịch với người thân trong nhà hoặc cùng bạn bè, đồng nghiệp. Quà Tết bây giờ cũng khác. Trước đây, mọi người có thể chúc Tết nhau bằng cặp bánh, cân giò, với tấm lòng trân trọng mến thương. Bây giờ người ta có thể tặng nhau những món quà có giá trị cao nhưng tình cảm trong đó hầu như không có mà xen vào đó là lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế. Quả thật, quá trình tiếp xúc văn hoá Đông – Tây đã làm cho Tết thay đổi, những đồ ăn nhanh, làm sẵn đã làm mất đi không khí chuẩn bị vui tươi của ngày tết. Trẻ con không còn ngồi xem bố mẹ, ông bà gói bánh chưng và mong chờ còn ít gạo vét để gói chiếc bánh ống với nhiều đậu và một miếng thịt to, không còn vui thú khi vùi củ khoai nướng trong lúc trông nồi bánh chưng, các cô thiếu nữ đã dần quên thói quen đi ngắm hoa đào, hoa mai trên phố chợ. Những điều thay đổi đó khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng “bao giờ cho đến Tết xưa”. Tuy nhiên, tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã làm cho ngày Tết của người Việt có nhiều thứ mới lạ hơn, thực phẩm vừa ngon vừa phong phú đa dạng, những đồ ăn sẵn thật là thuận tiện, mâm cỗ cúng gia tiên có thêm chai rượu vang thì thật là sang trọng. Ngày Tết được đi du lịch với cả gia đình, bạn bè, đồng nghiệp khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, gạt bỏ được những căng thẳng trong một năm làm việc vất vả, tìm được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn. Chúng ta không thể phủ nhận mặt tích cực của hội nhập văn hoá đem lại. Nếu chúng ta “khép” cửa “ăn Tết” với nhau thì Tết Việt đương nhiên chỉ là một sản phẩm của văn hoá thuần tuý đơn lẻ, nó sẽ không thể trở thành sản phẩm văn hoá đặc trưng của quốc gia trong mối quan tâm của bạn bè quốc tế. Sự mở cửa giao lưu, tiếp xúc lại chính là những phương thức tốt nhất giúp chúng ta giới thiệu đến bạn bè quốc tế về Tết cổ truyền của người Việt Nam. Vấn đề ở đây là chúng ta phải làm chủ được quá trình tiếp xúc với văn hóa phương Tây để tết cổ truyền của người Việt vẫn giữ được bản sắc riêng của mình mà không bị “ Tây hoá”. Có thể nói, Tết Nguyên Đán vẫn là một sinh hoạt văn hoá vừa lưu giữ những giá trị truyền thống vừa thích nghi với nhịp sống hiện đại. Trong ngày Tết vẫn còn nhiều phong tục tốt đẹp và đậm tính nhân văn mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy để Tết Nguyên Đán mãi là nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Th.S Hoàng Thị Tố Nga – Khoa SP Tiểu học – Mầm non TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Tp. Hồ Chí Minh , 1992. 2. Đinh Gia Khánh. Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á, NXB KHXH, 1993. 3. Phan Kế Bính. Việt Nam phong tục, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1992. 4.Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB GD 5. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: Cái nhìn hệ thống – loại hình, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1996. 6. Trương Thìn (biên soạn). 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam, NXB Thời đại, 2010.
Các điểm ngắm mây đẹp ở Sa Pa, Tam Đảo Thời điểm này chính là cơ hội để du khách hòa mình vào khung cảnh đất trời, chìm đắm trong biển mây mờ ảo tại các điểm du lịch nổi tiếng miền Bắc. Từ tháng 11, nhiều vùng núi cao thường xuyên có sương và mây bao phủ, tô điểm cho khung cảnh thiên nhiên vẻ đẹp đầy quyến rũ. Dành kỳ nghỉ ngắn cuối tuần đến Sa Pa hay Tam Đảo, bạn sẽ chiêm ngưỡng những biển mây bồng bềnh và chìm đắm trong khí trời dịu êm. Sa Pa (Lào Cai) Từ lâu, sương và mây nổi tiếng là đặc sản thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này. Tháng 11 đến, khách du lịch tấp nập, kéo nhau lên Sa Pa trải nghiệm săn mây. Khoảng thời gian này, toàn thị trấn được bao phủ trong màu mây trắng xóa. Bạn có thể bắt gặp khung cảnh mây lảng vảng trôi ở bất kỳ đâu. Hòa cùng thiên nhiên thơ mộng, có mây sương mờ ảo, ánh Mặt Trời le lói, tiếng chim ríu rít hót, những âm thanh rộn ràng của cuộc sống thường nhật nơi núi cao… bạn sẽ lưu giữ trải nghiệm khó quên. Những điểm săn mây đẹp: Đỉnh Fansipan , đèo Ô Quy Hồ, núi Hàm Rồng, bản Hang Đá, bản Sâu Chua… Đến Sa Pa thời điểm này, du khách thưởng ngoạn biển mây đẹp nhất trong năm. Ảnh: Ppa.ppa, Adriananhtuan. Tam Đảo (Vĩnh Phúc) Nếu không muốn di chuyển xa, bạn có thể thưởng thức biển mây ở địa điểm du lịch nổi tiếng gần ngay Hà Nội này. Cách thủ đô chưa đầy 2 giờ đi xe máy, Tam Đảo là “chốn bồng lai tiên cảnh” tràn ngập mùi hương đất trời và rừng núi. Tuy săn mây Tam Đảo không quá phổ biến như Sa Pa, nếu đến đúng thời điểm, bạn vẫn có hành trình đáng nhớ. Thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 bạn sẽ dễ dàng gặp gỡ khung cảnh mây mù tuyệt đẹp ở nơi đây. Vào sáng sớm, trời nhiều mây và sương. Bạn có thể cảm nhận mây ở ngay trên đầu hay sương sà xuống bên mình và tận hưởng không khí trong trẻo, yên bình. Những điểm săn mây đẹp: Tháp truyền hình, cổng trời, cầu mây, các homestay view ngắm mây đẹp… Thời gian trong ngày lý tưởng để chụp những bức hình cùng mây trời ở Tam Đảo là buổi sáng sớm. Ảnh: Thangcuoi.93, Duc_duong97. Tà Xùa (Sơn La) Được giới ưa xê dịch ưu ái đặt tên “thiên đường mây Tà Xùa”, nơi đây không làm bạn thất vọng khi ghé thăm vào một ngày thời tiết ủng hộ. Với một bên là núi và mây ở bên kia, bạn có thể ngắm mây bồng bềnh tại bất cứ góc nào Tà Xùa. Nhiều khi, bạn chỉ cần đứng ở homestay, cũng đã có thể ngắm mây cuồn cuộn. Từ độ cao 2.850 m của đỉnh Tà Xùa cao nhất, bạn chìm đắm trong biển mây đồ sộ tưởng như có thể chạm tay đến chân trời. Trong không gian yên bình, bạn cảm nhận cuộc sống đầy thi vị của những con người hàng ngày bước trên mây, sống cùng mây, gió, núi và bầu trời. Những điểm săn mây đẹp: Đỉnh Gió, Sống lưng khủng long… Du khách có thể bắt gặp hiện tượng biển mây ở Tà Xùa quanh năm, nếu may mắn đi vào ngày thời tiết phù hợp. Ảnh: Ninh_sen, Bongmieo. Y Tý (Lào Cai) Thời điểm đẹp nhất để du lịch Y Tý là khoảng tháng 9 tới tháng 4 sang năm. Sau mùa lúa chín, vùng cao nơi đây chìm trong biển mây. Thời tiết khô ráo không mưa nhiều, thích hợp cho những tín đồ đam mê xê dịch thực hiện chuyến phượt săn mây Y Tý, ngắm núi rừng hùng vĩ. Vào những ngày giá lạnh, nhiệt độ xuống thấp, mây sà xuống lưng chừng núi, bao trùm thung lũng và các bản làng. Trên đường đến các điểm ngắm mây đẹp, bạn cũng có thể ngắm những màn sương mây lảng bảng, vờn trên cảnh vật mang vẻ đẹp mờ ảo, mê hoặc. Điểm săn mây đẹp: bản Choản Thèn, núi Lảo Thẩn, bản Ngải Thầu Thượng… Từ lâu, Y Tý là điểm săn mây hút giới trẻ check-in. Ảnh: Linhthocam.travel, Mailinh29, Nhungk0i, Tieu_yen_yen. Uyên Hoàng
Beautiful cloud viewing spots in Sa Pa and Tam Dao This time is an opportunity for tourists to immerse themselves in the scenery of heaven and earth, immersing themselves in the sea of ​​hazy clouds at famous tourist destinations in the North. From November, many high mountain areas are often covered with mist and clouds, beautifying the natural scenery with charming beauty. Spending a short weekend vacation to Sa Pa or Tam Dao, you will admire the sea of ​​floating clouds and immerse yourself in the gentle air. Sa Pa (Lao Cai) For a long time, dew and clouds have been famous as natural specialties bestowed on this land. When November comes, tourists flock to Sa Pa to experience cloud hunting. Around this time, the whole town is covered in white clouds. You can see the sight of clouds drifting anywhere. Blending with poetic nature, misty clouds, glimmering sunlight, chirping birds, the bustling sounds of daily life in high mountains... you will have an unforgettable experience. Beautiful cloud hunting spots: Fansipan peak , O Quy Ho pass, Ham Rong mountain, Hang Da village, Sau Chua village... Coming to Sa Pa at this time, tourists enjoy the most beautiful sea of ​​clouds of the year. Photo: Ppa.ppa, Adriananhtuan. Tam Dao (Vinh Phuc) If you don't want to travel far, you can enjoy the sea of ​​clouds at this famous tourist destination near Hanoi. Less than 2 hours by motorbike from the capital, Tam Dao is a "fairyland" filled with the scent of earth, sky and mountains. Although cloud hunting in Tam Dao is not as popular as Sa Pa, if you come at the right time, you will still have a memorable journey. From November to March, you will easily encounter beautiful cloudy scenery here. In the early morning, the sky was cloudy and foggy. You can feel the clouds right above your head or the mist swooping down beside you and enjoy the clear, peaceful air. Beautiful cloud hunting spots: TV tower, sky gate, cloud bridge, homestays with beautiful cloud views... The ideal time of day to take pictures with clouds and sky in Tam Dao is early morning. Photos: Thangcuoi.93, Duc_duong97. Ta Xua (Son La) Favorably named "Ta Xua cloud paradise" by travel enthusiasts, this place will not disappoint you when you visit on a day with favorable weather. With mountains on one side and clouds on the other, you can watch clouds floating in any corner of Ta Xua. Many times, you just need to stand at the homestay and you can watch the rolling clouds. From the height of 2,850 m of the highest peak of Ta Xua, you are immersed in a sea of ​​clouds that seems like you can touch the horizon. In the peaceful space, you feel the poetic life of people who walk on the clouds every day, living with clouds, wind, mountains and sky. Beautiful cloud hunting spots: Windy Peak, Dinosaur spine... Visitors can encounter the sea of ​​clouds phenomenon in Ta Xua all year round, if they are lucky enough to go on a day with suitable weather. Photo: Ninh_sen, Bongmieo. Y Ty (Lao Cai) The best time to travel to Y Ty is from September to April next year. After the ripe rice season, the highlands here are submerged in a sea of ​​clouds. The weather is dry without much rain, suitable for those who are passionate about traveling to go on a trip to hunt clouds in Y Ty and admire the majestic mountains and forests. On cold days, when the temperature drops, clouds swoop down halfway up the mountain, covering the valley and villages. On the way to beautiful cloud viewing spots, you can also watch misty clouds hovering over the landscape with a hazy, enchanting beauty. Beautiful cloud hunting spots: Choan Then village, Lao Than mountain, Ngai Thau Thuong village... For a long time, Y Ty has been a cloud hunting destination that attracts young people to check-in. Photos: Linhthocam.travel, Mailinh29, Nhungk0i, Tieu_yen_yen. Uyen Hoang
Sơ kỳ thời đại đồ đồng Con người đã biết đúc các công cụ, vũ khí và đồ trang sức bằng đồng thau. Họ đã biết trồng lúa và chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà. Có ba nhóm văn hoá phân bố ở ba khu vực. Nhóm thứ nhất (văn hoá Tiền Ðông Sơn) phân bố trong các lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Nhóm thứ hai (văn hoá Tiền Sa Huỳnh) phân bố ở vùng Nam Trung Bộ. Và nhóm thứ ba, phân bố trong lưu vực sông Ðồng Nai ở miền Ðông Nam Bộ. Ở miền Bắc Việt Nam, các văn hoá Tiền Ðông Sơn tương ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương. Các nhóm văn hoá Tiền Ðông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã hội tụ lại thành một văn hoá thống nhất, đó là văn hoá Ðông Sơn, thuộc thời đại sắt sớm vì một số công cụ bằng sắt đã xuất hiện. Nhưng các chế phẩm bằng đồng thau tinh mĩ là đặc trưng của văn hoá này. Hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lớn có hoa văn trang trí đẹp. Văn Hoá Phùng Nguyên Văn hoá mở đầu cho các văn hoá Tiền Đông Sơn trên lưu vực Sông Hồng, Việt Nam; phân bố chủ yếu trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ thuộc sơ kì thời đại đồ đồng, niên đại trong khoảng 3.500 – 4.000 năm cách ngày nay. Cho đến nay đã phát hiện được hàng mấy chục di tích cư trú, công xưởng chế tác đồ đá và mộ táng, trong đó có những di tích tiêu biểu như Phùng Nguyên, Xóm Rền, Gò Bông, An Đạo, Nghĩa Lập, Đồng Đậu (lớp văn hoá dưới), Lũng Hoà, Chùa Gio, Văn Điển, Bãi Tự, vv. Đồ đá VHPN đạt đến đỉnh cao của đồ đá nguyên thuỷ, được chế tác bằng các phương pháp cưa, khoan, mài, tiện rất tinh xảo, có kích thước tương đối nhỏ, được làm từ đá bazan và các loại đá nephrit, spilit có màu sắc đẹp; gồm có các loại rìu, bôn, đục, bàn mài, mũi tên, mũi giáo, qua, nha chương và các loại vòng tay, khuyên tai, nhẫn, ống chuỗi, hạt chuỗi với đủ loại kích cỡ và kiểu dáng khác nhau. Hầu hết rìu, bôn ở đây đều có hình tứ giác, rất hiếm rìu, bôn có vai và có nấc. Đồ gốm VHPN phần lớn được làm bằng bàn xoay, thành gốm mỏng đều, độ nung tương đối cao, chất liệu gốm thô pha cát hạt nhỏ, ngoài có lớp áo gốm mỏng màu hồng nhạt, còn một ít gốm mịn, mặt ngoài được miết láng rất đẹp. Hoa văn trang trí cực kì phong phú gồm văn thừng mịn, văn chải, văn in kiểu cuống rạ, văn đắp nổi, tiêu biểu hơn cả là văn khắc vạch chấm giải với những mô típ hình chữ S, chữ V, hình tam giác, tạo thành những đồ án đối xứng phong phú đẹp mắt. Về loại hình có các loại nồi, vò, bình, bát, chạc gốm, dọi xe sợi, bi gốm, v..v. Tiêu biểu hơn cả có loại nồi vò thành miệng dày, bình bát có chân đế tương đối cao, bát kiểu mâm bồng, bình miệng vuông đáy tròn. Đã phát hiện ra một số tượng động vật bằng đất nung như tượng bò, tượng gà vừa hiện thực vừa sinh động, có thể xem là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình sớm nhất được phát hiện ở Việt Nam. Đồ đồng rất hiếm, chỉ mới phát hiện được ở một vài di tích và cũng chỉ ở dạng xỉ đồng. Người Phùng Nguyên chôn người chết trong mộ địa, các mộ có phương hướng gần giống nhau, tử thi được chôn theo tư thế nằm ngửa chân tay duỗi thẳng. Huyệt mộ hình chữ nhật, trong đó một số mộ được đào thành bậc cấp. Đồ tuỳ táng thường là nồi, bình, bát, chạc gốm, rìu, đục cùng một số đồ trang sức bằng đá, đôi khi chôn theo hàm lợn. Người Phùng Nguyên sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Văn Hoá Phùng Nguyên Văn Hoá Hoa Lộc Văn hoá khảo cổ sơ kì thời đại đồng, được gọi theo tên xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc , tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam, nơi phát hiện di chỉ đầu tiên và điển hình cho nền văn hoá này (vào cuối 1973). Các di chỉ VHHL phân bố trên các đồi cát cao chạy dài ven biển bắc Thanh Hoá, thuộc địa phận huyện Hậu Lộc và Nga Sơn. Đồ đá phong phú, đa dạng, gồm chủ yếu là công cụ lao động: cuốc có vai (nhiều), cuốc tứ giác (ít); rìu bôn tứ giác (nhiều), rìu bôn có vai (ít), đặc biệt có loại rìu xéo giống hình rìu xéo bằng đồng trong văn hoá Đông Sơn; bàn mài các loại số lượng rất nhiều; công cụ ghè đập; công cụ đá lưỡi rất tù, thân có những đường rãnh chưa rõ chức năng. Đồ trang sức ít, vòng tay gồm mặt cắt hình tam giác, bầu dục. Kĩ thuật mài chiếm vị trí chủ đạo trong chế tác đồ đá nhưng không thật tinh tế, trau chuốt. Đồ gốm nhiều về số lượng, đa dạng về loại hình. Ngoài các đồ gia dụng như nồi, bình, bát, chậu, vật hình hộp, đồ gốm có chân nhọn… còn có các đồ trang sức như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai bằng đất nung, những con dấu in hoa văn đặc trưng cho văn hoá này. Đồ gốm được trang trí văn thừng, khắc vạch, in dấu lưng và miệng sò, ấn vũm, trổ lỗ. Các cách tạo hoa văn này được phối hợp với nhau, tạo nên phong cách rất riêng cho đồ gốm VHHL. Đồ đồng hiếm, mới tìm thấy mảnh vòng, rìu, mảnh đồng. Chủ nhân VHHL sống bằng nghề nông (đã tìm thấy dấu tích hạt lúa), chăn nuôi (tìm thấy xương thú thuần dưỡng), săn bắn (tìm thấy nhiều xương thú rừng), đánh cá (tìm thấy nhiều xương cá). VHHL nằm cùng bình tuyến và có mối quan hệ giao lưu văn hoá rõ ràng với các văn hoá sơ kì đồ đồng khác ở vùng Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam là văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá Hạ Long, nhóm di tích văn hoá Cồn Chân Tiên, Mả Đống. Thời gian tồn tại của VHHL vào khoảng trên dưới 4.000 năm cách ngày nay. Văn Hoá Hoa Lộc
Early Bronze Age Humans knew how to cast tools, weapons and jewelry in brass. They knew how to grow rice and raise some livestock such as buffaloes, cows, pigs, and chickens. There are three cultural groups distributed in three regions. The first group (Pre-Dong Son culture) is distributed in the Red River, Ma River and Ca River basins. The second group (Pre-Sa Huynh culture) is distributed in the South Central region. And the third group, distributed in the Dong Nai river basin in the Southeast region. In Northern Vietnam, the Pre-Dong Son cultures correspond to the early stages of the Hung King period. The pre-Dong Son cultural groups in the North and North Central regions converged into a unified culture, that is, the Dong Son culture, belonging to the early iron age because a number of iron tools appeared. But exquisite brass preparations are characteristic of this culture. Typical artifacts are large bronze drums with beautiful decorative patterns. Phung Nguyen Culture The opening culture for the pre-Dong Son cultures in the Red River basin, Vietnam; distributed mainly in the midlands and Northern Delta in the early Bronze Age, dating from about 3,500 - 4,000 years ago today. Up to now, dozens of relics of residences, stone workshops and burials have been discovered, including typical relics such as Phung Nguyen, Xom Ren, Go Bong, An Dao, Nghia Lap, Dong Dau (lower cultural layer), Lung Hoa, Gio Pagoda, Van Dien, Bai Tu, etc. VHPN stoneware reached the pinnacle of primitive stoneware, crafted using very sophisticated sawing, drilling, grinding, and turning methods, relatively small in size, made from basalt and various types of nephrite and spilite. has beautiful colors; including all kinds of axes, hammers, chisels, grinders, arrows, spear tips, swords, wigs and all kinds of bracelets, earrings, rings, chains, beads of all different sizes and designs. Most axes and shafts here are quadrangular in shape, very rare are axes and shafts with shoulders and rungs. VHPN ceramics are mostly made by turning wheels, the ceramic walls are thin, the firing level is relatively high, the ceramic material is coarse with small grains of sand, on the outside there is a thin layer of pale pink ceramic, there is also a small amount of smooth ceramic, the outside is polished. very beautiful smooth. Extremely rich decorative patterns include smooth rope patterns, brushed patterns, straw-print patterns, embossed patterns, the most typical of which is engraved marking lines with S-shaped, V-shaped, and triangular motifs. , creating rich and beautiful symmetrical projects. In terms of type, there are pots, jars, vases, bowls, ceramic pins, spinning plumbs, ceramic balls, etc. The most typical types are pots with thick mouths, bowls with relatively high bases, bowls with round rims, and square-mouthed pots with round bottoms. A number of terracotta animal statues such as cow statues and chicken statues have been discovered that are both realistic and lively, and can be considered the earliest works of visual art discovered in Vietnam. Bronze is very rare, only discovered in a few relics and only in the form of copper slag. The Phung Nguyen people bury their dead in graves. The graves have nearly the same direction, and the corpses are buried in a supine position with arms and legs stretched out. The graves are rectangular in shape, some of which are dug into steps. Burial items are usually pots, vases, bowls, ceramic forks, axes, chisels and some stone jewelry, sometimes buried in pig jaws. Phung Nguyen people live mainly on agriculture. Phung Nguyen Culture Hoa Loc Culture Archaeological culture of the early Bronze Age, called after Hoa Loc commune, Hau Loc district , Thanh Hoa province, Vietnam, where the first and typical site for this culture was discovered (at the end of 1973). Cultural relics are distributed on high sand dunes along the northern coast of Thanh Hoa, in Hau Loc and Nga Son districts. Stoneware is rich and diverse, consisting mainly of working tools: shouldered hoes (many), quadrangular hoes (few); Quadrilateral axes (many), shouldered axes (few), especially slanted axes similar to bronze slanted axes in Dong Son culture; There are many types of grinding tables; crushing tools; The blade of the stone tool is very blunt and the body has grooves of unknown function. There is little jewelry, bracelets include triangular and oval cross-sections. Grinding techniques occupy a leading position in stoneware making but are not very delicate or elaborate. Pottery is abundant in quantity and diverse in type. In addition to household items such as pots, vases, bowls, basins, box-shaped objects, ceramics with pointed feet... there are also jewelry such as bracelets, beads, terracotta earrings, and stamps printed with typical patterns. for this culture. The ceramics are decorated with rope patterns, engraved lines, imprinted on the back and mouth of the scallop, stamped, and perforated. These ways of creating patterns are combined together, creating a very unique style for VHHL ceramics. Rare bronze items, recently found pieces of rings, axes, and pieces of bronze. The owner of VHHL lived by farming (remains of rice grains were found), animal husbandry (domesticated animal bones were found), hunting (many wild animal bones were found), and fishing (many fish bones were found). The cultural heritage is located on the same line and has a clear cultural exchange relationship with other early Bronze Age cultures in the Central and Northern regions of Vietnam, including the Phung Nguyen culture, Ha Long culture, and the group of cultural relics. Chan Tien Islet, Ma Dong Grave. The existence of VHHL is about 4,000 years ago. Hoa Loc Culture
Ảnh hiếm về nghề xẻ gỗ, cắt tóc của người Việt xưa Ngoài những nghề truyền thống như sĩ, nông, công, thương, sách ‘Nhiếp ảnh hiện thực và Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20’ còn ghi lại hình ảnh một số nghề ít được nhắc tới Khảm xà cử: Nghề này đòi hỏi sự khéo tay, tỉ mỉ của người thợ khảm. Người thợ phải trổ tấm gỗ lấy nền, sau đó cắt mảnh trai ốc cho khít hình và ghép xuống. Xẻ gỗ: Nghề phổ biến ở khu vực rừng núi phía Bắc. Các thợ sơn tràng phải phối hợp nhịp nhàng để đưa đẩy lưỡi cưa sao cho tấm gỗ được xẻ phẳng như ý. Phu kéo xe: Với sự xuất hiện của người Pháp, loại hình vận chuyển xe tay bánh gỗ hoặc bánh cao su do người kéo có mặt ở thành thị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Để làm được việc này người phu xe tay phải có sức khỏe dẻo dai, sử dụng đôi tay thuần thục giữ thăng bằng cũng như phân phối sức cho đều tùy vào quãng đường kéo. Cắt tóc: Nghề cắt tóc và lấy ráy tai dạo phổ biến ở Việt Nam trước đây. Có thể nhìn thấy trong hình những người thợ cắt tóc và khách hàng đều búi tó củ hành để tóc dài. Nghề làm giấy: Trong ảnh chụp cảnh làng làm giấy ở Hà Nội , có thể là làng Bưởi. Những người thợ giã vỏ cây dó trong những chiếc cối đá lớn. Đây là nguyên liệu chính để làm giấy. Diễn viên: Đây là hình ảnh trang phục và các diễn viên tuồng của một gánh hát. Họ thường biểu diễn nhiều nơi với sân khấu tự dựng hoặc tận dụng sân đình. Mò cua bắt ốc: Đúng nghĩa đen với câu cửa miệng “mò cua bắt ốc”, đồng ruộng xưa nhiều tôm cá, nên lúc nông nhàn công việc này góp phần cải thiện cuộc sống của người thôn quê. Gánh nước: Khi những con phố ở thành thị, nhất là ở Hà Nội chưa có nước, người dân còn dùng nước giếng và nước ở máy nước công cộng. Nghề gánh nước thuê nhờ đó có đất sống. Nhất là vào dịp Tết, những người làm nghề gánh nước ăn nên làm ra vì gia chủ phải trả thêm cho họ để lấy may cho năm mới “tiền vào như nước”. Nguồn: Sách Nhiếp ảnh hiện thực và Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Rare photos of the ancient Vietnamese profession of sawing wood and cutting hair In addition to traditional occupations such as scholars, farmers, workers, and traders, the book 'Realistic Photography and Vietnam in the late 19th and early 20th centuries' also records images of a number of professions that are rarely mentioned. Mosaic inlay: This profession requires skill and meticulousness of the inlay worker. The craftsman must carve out a wooden board to create a base, then cut the shell pieces to fit the shape and assemble them. Wood cutting: A popular profession in the northern mountainous areas. The woodworkers must coordinate smoothly to move the saw blade so that the wood panel is cut as flat as desired. Rickshaw puller: With the arrival of the French, the type of transport of hand-carts with wooden or rubber wheels pulled by a human being appeared in Vietnam. city Vietnam in the early 20th century. To do this, the hand-cart driver must have good health, use his hands skillfully to maintain balance and distribute his strength evenly depending on the pulling distance. Hair cutting: Hair cutting and ear wax removal were popular in Vietnam in the past. It can be seen in the picture that the barbers and customers all wear onion buns to keep their hair long. Paper making profession: The photo shows the scene of the paper making village Hanoi , possibly Buoi village. Workers pound the bark of the tree in large stone mortars. This is the main raw material for making paper. Actors: This is a picture of the costumes and actors of a theater troupe. They often perform in many places with self-built stages or using communal courtyards. Finding crabs and catching snails: Literally with the catchphrase "finding crabs and catching snails", the ancient fields were rich in shrimp and fish, so in leisure time this job contributed to improving the lives of rural people. Carrying water: When urban streets, especially in Hanoi, do not have water, people still use well water and water from public water taps. The job of carrying water for rent gives me a place to live. Especially during Tet, people who work as water carriers make a living because homeowners have to pay them extra for good luck in the new year, "money flows in like water". Source: Book Realistic Photography and Vietnam in the late 19th and early 20th centuries.
THÔNG BÁO HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM, LẦN THỨ 15 KHOÁ IX (NHIỆM KỲ 2015-2020) Tại Hà Nội, trong các ngày 5 và 6 tháng 11 năm 2020, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX đã tiến hành Hội nghị toàn thể lần thứ 15. Tham dự Hội nghị có đầy đủ các thành viên Ban chấp hành, đại diện các Hội đồng chuyên môn, đại diện Ban kiểm tra. 1/ Căn cứ Điều lệ Hội Nhà văn Việt Nam, căn cứ kết quả các Đại hội cơ sở và công tác chuẩn bị, Ban chấp hành quyết định triệu tập Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ X nhiệm kỳ 2020-2025 vào các ngày 23, 24, 25 tháng 11 năm 2020, tại Khách sạn La Thanh – 226 Vạn Phúc, quận Ba Đình, thủ đô Hà Nội. 2/ Sau khi nghe báo cáo của Hội đồng Chung khảo Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ năm (2016-2019), Ban chấp hành căn cứ thể lệ cuộc thi đã tiến hành thảo luận, đánh giá, xem xét toàn diện và quyết định trao giải thưởng cho các tác phẩm của các tác giả sau: GIẢI NHẤT: Tác phẩm Từ Dụ Thái Hậu , tác giả Trần Thùy Mai GIẢI NHÌ: Tác phẩm Mệnh đế vương , tác giả Trương Thị Thanh Hiền Trong vô tận , tác giả Vĩnh Quyền Quay đầu lại là bờ , tác giả Hữu Phương Thị Lộ chính danh , tác giả Võ Khắc Nghiêm Gió xan h , tác giả Chu Lai GIẢI BA: Tác phẩm Và khép rồi lại mở , tác giả Vũ Từ Trang Vùng xoáy , tác giả Vũ Quốc Khánh Vỡ vụn, Cuộc vuông tròn , tác giả Nguyễn Bắc Sơn Gió bụi đầy trời , tác giả Thiên Sơn Sông Luộc ở phương nam , tác giả Khôi Vũ Gió Thượng Phùng , tác giả Võ Bá Cường Chim bằng và Nghé hoa , tác giả Bùi Việt Sỹ GIẢI TƯ: Tác phẩm Ngô vương , tác giả Phùng Văn Khai Đông trùng hạ thảo , tác giả Mai Tiến Nghị Hùng Binh , tác giả Đặng Ngọc Hưng Đường về Thăng Long , tác giả Nguyễn Thế Quang Lạc lối , tác giả Thùy Dương Hạc hồng , tác giả Lê Hoài Nam Bụi đời thục nữ , Nguyễn Trí Ngoài ra Ban chấp hành đã quyết định trao tặng thưởng và tặng phẩm sau: Tặng thưởng . Tác phẩm: Thật giả cũ mới , tác giả Trần Văn Tuấn Thư về quá khứ , tác giả Nguyễn Trọng Tân Hành trình khổ ải , tác giả Anh Chi Đường 19 , tác giả Nguyễn Văn Hồng Tặng phẩm . Tác phẩm: Ký ức gã ăn mày , tác giả Tôn Ái Nhân Chân trời Tây Tạng , tác giả Nguyễn Bát Nhã 3/ Sau khi các Chủ tịch Hội đồng chuyên môn báo cáo kết quả Sơ khảo giải thưởng năm 2020, Ban chấp hành đã tiến hành thảo luận, cân nhắc, đánh giá thận trọng, nghiêm túc và quyết định trao GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM năm 2020 cho các tác phẩm của các tác giả sau: – Thơ : BÊN TRỜI , tập thơ của TRẦN KIM HOA – Văn : GÁNH GÁNH GỒNG GỒNG , tập hồi ký của XUÂN PHƯỢNG (NGUYỄN THỊ XUÂN PHƯỢNG) – Lý luận phê bình : – VĂN HÓA- VĂN HỌC DƯỚI GÓC NHÌN LIÊN KHÔNG GIAN , tập lý luận phê bình của NGUYỄN VĂN DÂN – Văn học dịch : LỜI NGUYỆN CẦU CHERNOBYL , tác giả Svetlana Alexievich bản dịch của PHẠM NGỌC THẠCH và NGUYỄN BÍCH LAN – Tại cuộc họp này, Ban chấp hành cũng xem xét, đánh giá và thống nhất giới thiệu tập thơ Nghe mưa của nhà thơ Hà Phạm Phú để dự xét giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2020. 4/ Căn cứ danh sách giới thiệu từ các Hội đồng và các Ban chuyên môn, Ban chấp hành đã quyết định kết nạp các tác giả có tên sau đây vào Hội Nhà văn Việt Nam. 5/ Hội nghị đã xem xét quyết định một số vấn đề tổ chức, cán bộ. Hà Nội, ngày 6 tháng 11 năm 2020 T/M BAN CHẤP HÀNH HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM CHỦ TỊCH Nhà thơ HỮU THỈNH (đã ký)
ANNOUNCEMENT OF THE EXECUTIVE COMMITTEE CONFERENCE OF VIETNAM WRITERS ASSOCIATION, 15TH TERM IX (TERM 2015-2020) In Hanoi, on November 5 and 6, 2020, the Executive Committee of the Vietnam Writers Association term IX held the 15th Plenary Conference. Attending the Conference were all members of the Executive Committee, Representatives of professional councils and inspection committees. first/ Pursuant to the Charter of the Vietnam Writers' Association, based on the results of grassroots congresses and preparation work, the Executive Committee decided to convene the 10th Vietnam Writers' Congress for the 2020-2025 term on the 23rd. , November 24, 25, 2020, at La Thanh Hotel - 226 Van Phuc, Ba Dinh district, Hanoi capital. 2/ After listening to the report of the Final Council of the Fifth Novel Contest (2016-2019), the Executive Committee, based on the contest rules, discussed, evaluated, reviewed comprehensively and decided to award prizes. Rewards for the works of the following authors: FIRST PRIZE: Artwork Tu Du Queen Mother , author Tran Thuy Mai SECOND PRIZE: Artwork Emperor's destiny , author Truong Thi Thanh Hien In infinity , author Vinh Quyen Turn around and see the shore , author Huu Phuong The real Thi Lo , author Vo Khac Nghiem Blue wind H , author Chu Lai THIRD PRIZE: Artwork And closed and then opened again , author Vu Tu Trang Vortex area , author Vu Quoc Khanh Shattered, the end is complete , author Nguyen Bac Son Wind and dust filled the sky , author natural paints Luoc River in the south , author Khoi Vu Thuong Phung wind , author Vo Ba Cuong Birds and Flower Birds , author Bui Viet Sy FOURTH PRIZE: Works Ngo king , author Phung Van Khai Cordyceps , author Mai Tien Nghi Hung Binh , author Dang Ngoc Hung Road to Thang Long , author Nguyen The Quang Lost , author Thuy Duong Pink crane , author Le Hoai Nam The dust of a woman's life , Nguyen Tri In addition, the Executive Committee decided to award the following prizes and gifts: Give rewards . Work: Real fake old new , author Tran Van Tuan Letters about the past , author Nguyen Trong Tan A journey of suffering , author Mr. Chi Road 19 , author Nguyen Van Hong Gift . Work: Memories of a beggar , author Ton Ai Nhan Tibetan horizon , author Nguyen Bat Nha 3/ After the Chairmen of the Professional Council reported the preliminary results of the 2020 award, the Executive Committee discussed, considered, evaluated carefully and seriously and decided to award the WRITERS' ASSOCIATION LITERATURE AWARD. VIETNAM 2020 for works by the following authors: – Poem : SKY SIDE , poetry collection by TRAN KIM HOA – Literature : THE BURDEN IS STRONG , memoir by XUAN PHUONG (NGUYEN THI XUAN PHUONG) – Critical theory : – CULTURE-LITERATURE IN AN INTER-SPATIAL PERSPECTIVE , volume of critical theory by NGUYEN VAN DAN – Translated literature : CHERNOBYL PRAYER , author Svetlana Alexievich translation of PHAM NGOC THACH and NGUYEN Bich Lan – At this meeting, the Executive Committee also reviewed, evaluated and agreed to introduce the poetry collection Listen to the rain of the poet Ha Pham Phu to consider the award of the Vietnam Union of Literature and Arts Associations in 2020. 4/ Based on the list of recommendations from the Councils and Professional Committees, the Executive Committee has decided to admit the following authors to the Vietnam Writers' Association. 5/ The conference considered and decided a number of organizational and personnel issues. Hanoi, November 6, 2020 To/M EXECUTIVE COMMITTEE VIETNAM WRITERS ASSOCIATION CHAIRPERSON Poet HUU THINH (Signed)
Công cụ 40.000 năm tuổi bằng ngà voi ma mút Nhóm nghiên cứu của Nicholas Conard, giám đốc viện khảo cổ thuộc Đại học Tübingen, bắt đầu khám phá hang Hohle Fels, dãy núi Swabian Jura, Đức, từ năm 2008. Trong quá trình nghiên cứu, họ phát hiện một công cụ bằng ngà voi ma mút 40.000 năm tuổi, dài 20 cm, có 4 lỗ thủng với những vết khắc xoắn ốc tinh xảo. Mục đích sử dụng của công cụ này là một bí ẩn cho đến khi Veerle Rots, chuyên gia về vật liệu thời Đồ Đá cũ tại Đại học Liege, bắt tay vào thí nghiệm, Guardian hôm 1/8 đưa tin. Trước đó, một số ý kiến cho rằng đây là bộ phận của một nhạc cụ hoặc vật dụng mang ý nghĩa tôn giáo. Rots chế tạo bản mô phỏng bằng đồng của công cụ ngà voi, sau đó luồn sợi thực vật qua những chiếc lỗ. Kết quả, ông thu được 4 sợi dây xoắn có thể dùng để bện thành dây thừng. “Công cụ này giúp hé lộ cách chế tạo dây thừng trong thời đại Đồ Đá cũ, vấn đề mà các nhà khoa học băn khoăn suốt nhiều thập kỷ”, Rots cho biết. Thời Đồ Đá, người xưa luồn sợi thực vật qua 4 chiếc lỗ nhỏ rồi bện lại để tạo thành dây thừng chắc chắn. Những đường khắc xung quanh lỗ giúp giữ sợi thực vật vào đúng vị trí. Dây thừng sau đó có thể dùng để làm lưới đánh cá, bẫy, cung tên, quần áo và đồ đựng thức ăn. Dây thừng cũng giúp người xưa kéo những vật nặng như xe trượt hoặc buộc mũi giáo nhọn vào cán. “Nhiều người dành sự quan tâm lớn đến khả năng chế tạo các công cụ đá chuyên dụng và sử dụng lửa, coi đây là những thành công then chốt của người Homo sapiens thời tiền sử. Nhưng ở nhiều khía cạnh, khả năng làm dây thừng từ mô động vật và sợi thực vật cũng là bước đột phá vào thời kỳ đó. Điều này mở ra những con đường mới để khai thác thế giới tự nhiên, từ việc đan giỏ cho đến chế tạo cung tên”, giáo sư Chris Stringer tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London cho biết. Các nhà khoa học Anh cũng tìm thấy một số công cụ tương tự ở hang Gough, Somerset, làm bằng sừng tuần lộc. Những công cụ này khoảng 15.000 năm tuổi, nghĩa là ra đời muộn hơn công cụ bằng ngà voi ma mút trong hang Hohle Fels. Sự hiện diện của chúng ở hang Gough, một trong những nơi xa nhất về phía tây bắc của châu Âu mà người Homo sapiens sống vào thời Đồ Đá cũ, cho thấy việc chế tạo dây thừng đã phát triển và trở thành một phần thiết yếu trong đời sống của con người. Thu Thảo (Theo Guardian )
40,000 year old mammoth ivory tool The research team of Nicholas Conard, director of the archaeological institute at the University of Tübingen, began exploring the Hohle Fels cave, Swabian Jura Mountains, Germany, in 2008. During their research, they discovered an ivory tool. 40,000 year old mammoth, 20 cm long, has 4 holes with delicate spiral engravings. The purpose of this tool was a mystery until Veerle Rots, an expert on Paleolithic materials at the University of Liege, began experimenting, Guardian reported on August 1. Previously, some opinions suggested that this was a part of a musical instrument or an object with religious significance. Rots made a bronze replica of the ivory tool, then threaded plant fibers through the holes. As a result, he obtained 4 twisted ropes that could be used to braid into ropes. "This tool helps reveal how rope was made in the Paleolithic era, a problem that has puzzled scientists for decades," Rots said. During the Stone Age, ancient people threaded plant fibers through four small holes and then braided them to form strong ropes. The engraved lines around the holes help hold the plant fibers in place. The rope can then be used to make fishing nets, traps, bows and arrows, clothing and food containers. Rope also helped ancient people pull heavy objects such as sleds or tie sharp spear tips to handles. “Many people pay great attention to the ability to make specialized stone tools and use fire, considering these to be key achievements of prehistoric Homo sapiens. But in many respects, the ability to make rope from animal tissue and plant fibers was also a breakthrough for its time. This opens up new ways to exploit the natural world, from weaving baskets to making bows and arrows," said Professor Chris Stringer at London's Natural History Museum. British scientists also found a number of similar tools in Gough Cave, Somerset, made of reindeer horns. These tools are about 15,000 years old, meaning they were invented later than the mammoth ivory tools in Hohle Fels cave. Their presence in Gough Cave, one of the most northwestern places in Europe where Homo sapiens lived during the Paleolithic period, shows that rope making developed and became an essential part of the world. in human life. Thu Thao (According to Guardian )
Có gì trong cuốn sách cổ trị giá 3,3 triệu USD? Cuốn “Das Grosse Stammbuch” có bìa gỗ bọc nhung đỏ, đặt trong hộp da; các trang sách có chữ ký của nhiều nhân vật quyền lực, nghệ sĩ nổi tiếng ở thế kỷ 17. Das Grosse Stammbuch của Philipp Hainhofer là cuốn sách bằng hữu cổ với chữ ký của nhiều người nổi tiếng ở châu Âu vào thế kỷ 17. Augustus II là một quý tộc Đức và cũng là người xây dựng thư viện Herzog August. Năm 1648, ông cố gắng mua cuốn sách nhưng không thành. Vừa qua, thư viện Herzog August, Đức mua thành công sách với giá hơn 3,3 triệu USD Cuốn sách quý Das Grosse Stammbuch có khổ giấy 208 x 160 mm, bao gồm 10 trang lời tựa; 108 trang nội dung (trong đó có 9 trang trống); 13 trang giấy cùng hai trang bìa cứng; hai trang có dán bảng thêu họa tiết, một trang tranh vẽ trên lụa; một trang có tranh họa màu; một trang có bản in, 10 trang giấy nằm ở cuối cùng. Ngoài ra, các trang giấy lời tựa và sáu trang cuối cùng được làm bằng giấy Thổ Nhĩ Kỳ. Cuốn sách được đánh số trang từ 1-227. Tới nay, một số trang giấy bị xước, nhăn nhẹ, có đốm hoặc vết bẩn nhỏ. Bìa sách làm bằng nhung đỏ phủ trên bảng gỗ, các trang giấy thường được gắn trên các tấm bảo vệ. Phần bọc nhung đỏ bên ngoài sách được cố định lại bằng dây. Hộp sách màu đỏ làm bằng da Maroc. Người đã tạo ra cuốn sách này là Philipp Hainhofer (1578-1647). Sau khi học ở Padua, Cologne và Hà Lan, ông noi gương cha mình thành lập một hãng buôn vải ở thành phố quê hương Augsburg. Không chỉ buôn bán mặt hàng chủ lực là lụa Italy, ông còn mở rộng hoạt động giao thương ra các loại xa xỉ phẩm. Philipp đã đi khắp nơi để thực hiện các nhiệm vụ về ngoại giao, nghi thức. Ông lưu lại chữ ký, bút tích của nhiều nhân vật nổi tiếng châu Âu, và đưa vào bản thảo cuốn sách như ta thấy hiện nay. Sách bằng hữu ra đời ở châu Âu từ giữa thế kỷ 16. Lúc đầu, các sinh viên thu thập chữ ký của những người họ gặp trong các chuyến du lịch. Dần dần những cuốn sách này mang nhiều nét sáng tạo cá nhân hơn, hình thức của cuốn sách cũng được để ý nhiều hơn. Tuy vậy, không cuốn sách nào có thể so sánh được với bộ sưu tập của Philipp Hainhofer. Cuốn sách này được coi là một tuyệt phẩm mà ông tạo ra. Vào những năm cuối đời, Philipp đã có năm cuốn Stammbuch , ba cuốn trong số đó chỉ là những bộ sưu tập khiêm tốn (hai cuốn dành cho gia đình Augsburg, đang ở thư viện Stadtbibliothek của thành phố và một cuốn nhỏ ở thư viện Herzog August Bibliothek, Wolfenbüttel). Cuốn Stammbuch quan trọng nhất tập hợp chữ ký và phù hiệu của những nhân vật cấp cao, có uy tín tại châu Âu. Vào năm 1613, Hainhofer quyết định phân loại bộ sưu tập của mình, cuốn Grosse Stammbuch dành cho những người danh giá và cuốn Kleinere dành cho giới quý tộc, những người yêu nước và bạn bè. Cuốn cuối cùng là một phần của gia sản mà Augustus đã mua sau khi Hainhofer phá sản và buộc phải bán đi. Cuốn sách này vẫn còn trong thư viện ở Wolfenbüttel. Cuốn Grosse Stammbuch là nguồn tư liệu vô giá để nâng cao hiểu biết về tòa án, luật pháp cũng như các nhân vật lớn ở châu Âu thời đó. Cuốn sách có các bức tranh hoặc bản vẽ của Lucas Kilian, Anton Mozart, Tobias Bernhard, Jacopo Ligozzi, Georg Behem, Johann Mathias Kager và Joseph Heintz. Bên cạnh đó, nhiều trang sách là tác phẩm giá trị, nhưng đến nay vẫn chưa xác định được danh tính của nghệ sĩ tạo ra nó. Trước khi qua đời, Hainhofer đã cho (hoặc bán) một số trang sách, chúng không còn được tìm thấy trong cả cuốn Grosse Stammbuch và cuốn sách ở Wolfenbüttel. Chắc chắn rằng Philipp đã giữ lại những trang quan trọng nhất đối với bản thân (có thể vì chất lượng nghệ thuật hoặc địa vị cao của người ký). Cuốn sách cũng tập hợp bút tích của một số vị vua, hoàng hậu và hoàng tử từ các phe đối lập trong Chiến tranh Ba mươi năm. Cuốn sách là một tài liệu lịch sử hấp dẫn ghi lại những động thái, tuyên bố của những người cai trị châu Âu thời bấy giờ. Có thể dễ dàng liệt kê một số trang sách nổi bật. Trang đầu tiên của cuốn sách được đề năm 1600, với ba câu trích dẫn bằng tiếng Pháp, tiếng Italy và Latin. Trên đường viền là hình vẽ các công cụ đại diện cho hòa bình – nghệ thuật, khoa học và chiến tranh trên nền đen. Trang 50 có bút tích của Adolf, Công tước xứ (1600-1631). Trên trang là khẩu hiệu của ông, đề năm 1620 và được trang trí bằng hình ảnh một nữ thần chiến tranh đang cầm khiên, huy hiệu. Đến trang 100 là dấu ấn của Friedrich Achilles xứ Württemberg (1591-1630), em trai của Johann Friedrich. Ở giữa là chữ ký cùng khẩu hiệu của ông ghi năm 1619, được bao quanh bởi một đường viền họa tiết tinh xảo cùng các thiên thần nhỏ cầm khiên và huy hiệu của ông. Trang 160 là bút tích của Jehan Phelipaux, cố vấn và thư ký của vua Henri IV, Pháp. Khẩu hiệu, chữ ký và các công trạng của ông được đề trên trang này. Trang sách có chữ ký năm 1609 ở Augsburg, trên và dưới là hình quốc huy với nhiều tán lá bao quanh. Trang 200 là của Hugoldt Beer auf Hugoldtsdorff. Trên trang là khẩu hiệu và chữ ký của ông, đề năm 1614, được trang trí với các dải ruy băng và cờ hiệu ở trên và dưới hình quốc huy.
What's in an ancient book worth 3.3 million USD? The book "Das Grosse Stammbuch" has a wooden cover covered with red velvet, placed in a leather box; The book's pages are signed by many powerful figures and famous artists in the 17th century. Das Grosse Stambuch by Philipp Hainhofer is an ancient friend's book with the signatures of many famous people in Europe in the 17th century. Augustus II was a German nobleman and also the builder of the Herzog August library. In 1648, he tried unsuccessfully to buy the book. Recently, the Herzog August library, Germany, successfully purchased books at a higher price 3.3 million USD Precious book Das Grosse Stambuch has a paper size of 208 x 160 mm, including 10 pages of preface; 108 pages of content (including 9 blank pages); 13 pages of paper and two pages of hardcover; Two pages have embroidered panels with motifs, one page has a painting on silk; one page with color illustrations; one page has the printout, 10 paper pages are at the bottom. Additionally, the preface pages and the last six pages are made of Turkish paper. The book is page numbered from 1-227. To date, some pages are scratched, slightly wrinkled, have small spots or stains. The book cover is made of red velvet covered on a wooden board, the pages are often mounted on protective plates. The red velvet cover on the outside of the book is secured with string. Red book box made of Moroccan leather. The person who created this book was Philipp Hainhofer (1578-1647). After studying in Padua, Cologne and the Netherlands, he followed his father's example and established a cloth merchant in his hometown of Augsburg. Not only did he trade the main product, Italian silk, but he also expanded his trading activities to other types of luxury products. Philipp traveled everywhere to perform diplomatic and protocol tasks. He saved the signatures and autographs of many famous European figures, and included them in the manuscript of the book as we see it today. Friendship books were born in Europe in the mid-16th century. At first, students collected signatures from people they met on their travels. Gradually these books take on more personal creativity, and more attention is paid to the form of the book. However, no book can compare with Philipp Hainhofer's collection. This book is considered a masterpiece that he created. In his later years, Philipp had five books Stambuch , three of which are only modest collections (two for the Augsburg family, are in the city's Stadtbibliothek library, and one small volume is in the Herzog August Bibliothek library, Wolfenbüttel). Coil Stambuch The most important is the collection of signatures and badges of high-ranking, prestigious figures in Europe. In 1613, Hainhofer decided to catalog his collection, vol Grosse Stambuch for honorable and noble people Kleinere for aristocrats, patriots and friends. The last book was part of the estate that Augustus bought after Hainhofer went bankrupt and was forced to sell it. This book is still in the library in Wolfenbüttel. Coil Grosse Stambuch is an invaluable source of information to improve understanding of the court, the law as well as major figures in Europe at that time. The book features paintings or drawings by Lucas Kilian, Anton Mozart, Tobias Bernhard, Jacopo Ligozzi, Georg Behem, Johann Mathias Kager and Joseph Heintz. Besides, many pages of the book are valuable works, but up to now the identity of the artist who created them has not been determined. Before his death, Hainhofer gave away (or sold) some of the book's pages, which are no longer found in the entire book. Grosse Stambuch and the book in Wolfenbüttel. It is certain that Philipp kept the most important pages for himself (perhaps because of their artistic quality or the high status of the signer). The book also collects the autographs of several kings, queens, and princes from opposing sides during the Thirty Years' War. The book is a fascinating historical document recording the moves and statements of European rulers at that time. It is easy to list some outstanding book pages. The first page of the book is dated 1600, with three quotes in French, Italian and Latin. On the border are drawings of tools representing peace – art, science and war on a black background. Page 50 contains the autograph of Adolf, Duke (1600-1631). On the page is his motto, dated 1620 and decorated with an image of a war goddess holding a shield and coat of arms. On page 100 is the imprint of Friedrich Achilles of Württemberg (1591-1630), younger brother of Johann Friedrich. In the middle is his signature and motto dated 1619, surrounded by an elaborate border with little angels holding his shield and coat of arms. Page 160 is the autograph of Jehan Phelipaux, advisor and secretary of King Henri IV, France. His motto, signature and achievements are mentioned on this page. The book page is signed in 1609 in Augsburg, above and below is the coat of arms surrounded by many foliage. Page 200 is by Hugoldt Beer auf Hugoldtsdorff. On the page is his motto and signature, dated 1614, decorated with ribbons and pennants above and below the coat of arms.
Lễ giỗ đại thi hào Nguyễn Du Lễ giỗ lần thứ 200 của đại thi hào Nguyễn Du được tổ chức sáng 26/9, tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Nguyễn Du, thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Khu di tích quốc gia đặc biệt Nguyễn Du có diện tích hơn 4 ha, nằm bên quốc lộ 8B, thuộc thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, cách thành phố Hà Tĩnh 50 km. Dịp kỷ niệm 255 năm ngày sinh (1765-2020), tưởng niệm 200 năm ngày mất (16/9/1820-16/9/2020) của Nguyễn Du, nơi đây diễn ra nhiều hoạt động quan trọng, trong đó có lễ giỗ, triển lãm trưng bày các tác phẩm nghệ thuật liên quan đến đại thi hào. Đặt giữa sân trong khu di tích là bức tượng Nguyễn Du cao 1,5 m làm bằng đồng, khăn đóng áo dài, tay cầm bút lông. Nguyễn Du, hiệu Tố Như (1765-1820) quê xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Ông sống vào cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn, được người Việt kính trọng gọi là “Đại thi hào dân tộc”. Ông có ba tập tác phẩm tiếng Hán là Thanh Hiên thi tập , Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Về văn thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát. Truyện Kiều ( Đoạn trường tân thanh ) là tác phẩm truyện Nôm nổi tiếng nhất của ông. Ở Việt Nam, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới. Ngày 26/9, tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Hội Kiều học Việt Nam, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn – Tiên Điền tổ chức lễ giỗ lần thứ 200 của Nguyễn Du. Lúc 8h, đoàn đại biểu trung ương và địa phương ra mộ Nguyễn Du ở thôn Giáp Tiền, thị trấn Tiên Điền, cách khu di tích hơn một km để dâng hương. Ông Phan Thanh Bình, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội và ông Lê Đình Sơn, Bí thư tỉnh ủy Hà Tĩnh (hàng đầu, thứ nhất và thứ hai từ trái sang) cùng nhiều cán bộ dâng hương tại mộ Nguyễn Du. Kết thúc lễ dâng hương, đoàn dâng rượu, sau đó tưới rượu xung quanh mộ hoặc uống để lấy lộc. Nhiều người dân địa phương mặc áo dài, mang hoa ra mộ viếng. 8h30, lễ giỗ được cử hành tại Linh điện đại triều Nguyễn Du đặt trong khu di tích. Ban tế lễ gồm 8 người, thực hiện các nghi lễ cúng bái theo truyền thống dân tộc Việt Nam. Lễ giỗ có nhiều nghi thức như đọc chúc văn, đốt đèn, hóa chúc văn, tiến tửu. Những người làm lễ được gọi là Tế chủ, Bồi tế, Phụ tế… Trên ảnh là nghi thức tiến tửu (dâng rượu) lên đại thi hào Nguyễn Du. Theo nghi thức dân gian, sau khi tế lễ, Ban tế lễ hóa chúc văn, là văn tế tưởng nhớ người đã khuất. Kết thúc lễ giỗ, đại biểu và người dân vào dâng hương. “Những di sản văn hóa mà Nguyễn Du để lại cho hậu thế luôn có ý nghĩa thời đại. Hàng năm đến ngày giỗ, tôi cùng con cháu thường đến khu di tích để dâng hương bày tỏ lòng biết ơn đến đại thi hào của dân tộc”, bà Phan Thị Tâm, trú thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, nói. Dịp này, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh tổ chức triển lãm tranh minh họa Truyện Kiều và các ấn phẩm di sản văn chương của Nguyễn Du. 150 bức tranh Truyện Kiều , 40 bức tranh sơn dầu khổ lớn, 500 ấn phẩm Truyện Kiều qua các thời kỳ được đóng khung, đặt tại nhiều vị trí trong khu di tích. Triển lãm diễn ra từ ngày 24 đến 28/9. Đức Hùng
Death anniversary of great poet Nguyen Du The 200th death anniversary of the great poet Nguyen Du was held on the morning of September 26, at the Nguyen Du Special National Relic Area, Tien Dien town, Nghi Xuan district. Nguyen Du special national relic area has an area of ​​more than 4 hectares, located on Highway 8B, in Tien Dien town, Nghi Xuan district, Ha Tinh city 50 km. On the occasion of the 255th anniversary of Nguyen Du's birth (1765-2020) and the 200th anniversary of his death (September 16, 1820-September 16, 2020), many important activities took place here, including the ceremony death anniversary, exhibition displays works of art related to the great poet. Placed in the middle of the courtyard in the relic is a 1.5 m tall statue of Nguyen Du made of bronze, wearing an ao dai and holding a brush in his hand. Nguyen Du, alias To Nhu (1765-1820), native of Tien Dien commune, Nghi Xuan district. He lived at the end of the Le Dynasty and the beginning of the Nguyen Dynasty, and was respected by Vietnamese people as the "Great National Poet". He has three volumes of works in Chinese: Thanh Hien takes practice exams , South Central mixed soak and Bac Hanh Tap Luc. Regarding Nom poetry, Nguyen Du skillfully used two national poetic forms: Luc Bat and Song That Luc Bat. Kieu story ( Tan Thanh section ) is his most famous work of Nom stories. In Vietnam, Nguyen Du, Nguyen Trai, Chu Van An and President Ho Chi Minh were honored by UNESCO as World Cultural Celebrities. On September 26, Ha Tinh province coordinated with the Vietnamese Overseas Study Association and the Nguyen - Tien Dien Family Council to organize the 200th death anniversary of Nguyen Du. At 8:00 a.m., the central and local delegations went to Nguyen Du's grave in Giap Tien village, Tien Dien town, more than a kilometer from the relic site to offer incense. Mr. Phan Thanh Binh, Chairman of the National Assembly's Committee for Culture, Education, Youth, Adolescents and Children and Mr. Le Dinh Son, Secretary of the Ha Tinh Provincial Party Committee (front row, first and second from left ) and many officials offered incense at Nguyen Du's grave. At the end of the incense offering ceremony, the group offers wine, then sprinkles wine around the grave or drinks it for good fortune. Many local people wear ao dai and bring flowers to the grave to pay their respects. At 8:30 a.m., the death anniversary ceremony was held at the Nguyen Du Dynasty's Spiritual Palace located in the relic site. The worship committee consists of 8 people, performing worship rituals according to Vietnamese ethnic traditions. The death anniversary ceremony has many rituals such as reading wishes, lighting lamps, making wishes, and serving wine. The people who perform the ceremony are called Priests, Priests, Deacons... On the photo is the ceremony of offering wine to the great poet Nguyen Du. According to folk rituals, after the sacrifice, the Ritual Committee prepares a wish, which is an oration commemorating the deceased. At the end of the death anniversary ceremony, delegates and people offered incense. “The cultural heritage that Nguyen Du left behind for posterity always has contemporary significance. Every year on the death anniversary, my children and I often go to the relic site to offer incense to express our gratitude to the nation's great poet," said Ms. Phan Thi Tam, residing in Tien Dien town, Nghi Xuan district. On this occasion, the Department of Culture, Sports and Tourism of Ha Tinh organized an illustration exhibition Kieu story and Nguyen Du's literary heritage publications. 150 paintings Kieu story , 40 large-scale oil paintings, 500 publications Kieu story through the ages are framed and placed in many locations within the relic site. The exhibition takes place from September 24 to 28. Duc Hung
Bất ngờ thần thái “ngút trời” của Thái tử cuối cùng triều Nguyễn So với thần thái của vị thái tử này, nhiều “soái ca” của hiện tại không thể nào sánh được. Thái tử Bảo Long sinh ngày 4/1/1936, tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Bảo Long. Ông cũng là vị hoàng tử cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Thái tử Bảo Long là con trai của vua Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu. Có thể thấy vị thái tử này đã được thừa hưởng nét đẹp của cả bố và mẹ ngay từ nhỏ. Lớn lên, thái tử càng tỏ rõ thần thái hơn người. 7 phát súng thần công đã được bắn khi Bảo Long chào đời, cả hoàng tộc mừng rỡ đón người sẽ kế vị ngai vàng. Trong ảnh là lễ sắc phong Thái tử của Bảo Long. 9 năm sau đó, vua cha thoái vị, chế độ phong kiến sụp đổ, nhưng với hy vọng khôi phục vương triều, vua Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu vẫn chú tâm đào tạo Bảo Long như một ông vua tương lai. Khi sang Pháp sống, Bảo Long 11 tuổi. Thái tử được gửi vào trường College des Roches tại Maslacq, thành phố Paul – một trong những ngôi trường nổi tiếng nhất ở Pháp. Bảo Long từng trở thành mục tiêu của một cuộc bắt cóc và thoát nạn do nhà chức trách ra tay kịp thời, nhưng sau đó hoàng tử 14 tuổi luôn phải ra đường với cả đoàn xe hộ tống của an ninh Pháp. Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm lật đổ, phải lưu vong, hy vọng về con đường sự nghiệp của Bảo Long bị dập tắt. Vị thái tử chán đời, u uất, thu hẹp giao tiếp. Khi tốt nghiệp, chàng trai nộp đơn tình nguyện vào binh đoàn lê dương của Pháp sang chiến trường Algerie. Hoàng tử chỉ huy một đội trinh sát và xông pha với một thái độ không tiếc thân, nhờ thế mà được thưởng 2 huy chương, được phong Trung tá danh dự của Trung đoàn Ngự lâm quân và Đại tá danh dự của Vệ binh Hoàng gia. Từ giã binh nghiệp, Bảo Long làm việc cho một ngân hàng. Không chỉ bất đắc chí trong sự nghiệp, đường tình ái và hôn nhân của ông cũng tẻ nhạt. Thái tử cuối cùng của nhà Nguyễn lấy một quả phụ người Pháp có hai con riêng ở Paris. Họ không có đứa con chung nào. Bảo Long qua đời tại Bệnh viện Sens của Pháp năm 2007, hưởng thọ 71 tuổi. Ông từ trần sau cha ông là vua Bảo Đại gần đúng 10 năm (31/7/1997).
Unexpectedly, the "heavenly" charisma of the last Crown Prince of the Nguyen Dynasty Compared to the charisma of this crown prince, many "handsome men" of today cannot compare. Crown Prince Bao Long was born on January 4, 1936, full name is Nguyen Phuc Bao Long. He is also the last prince of the monarchy in Vietnamese history. Crown Prince Bao Long is the son of King Bao Dai and Queen Nam Phuong. It can be seen that this crown prince has inherited the beauty of both his parents since he was young. As he grew older, the prince became more and more evident in his charisma. 7 cannon shots were fired when Bao Long was born, the whole royal family happily welcomed the successor to the throne. In the photo is Bao Long's Crown Prince investiture ceremony. Nine years later, his father abdicated and the feudal regime collapsed, but with the hope of restoring the dynasty, King Bao Dai and Queen Nam Phuong still focused on training Bao Long as a future king. When he came to live in France, Bao Long was 11 years old. The Crown Prince was sent to College des Roches in Maslacq, Paul city - one of the most famous schools in France. Bao Long once became the target of a kidnapping and escaped due to timely action by the authorities, but after that the 14-year-old prince always had to go out with a convoy of French security vehicles. Bao Dai was overthrown by Ngo Dinh Diem, had to go into exile, and Bao Long's hopes for his career were extinguished. The crown prince was bored with life, melancholy, and narrowed his interactions. Upon graduation, the young man applied to volunteer in the French Legion to the Algerian battlefield. The prince commanded a reconnaissance team and charged forward with an unsparing attitude, for which he was awarded two medals and was awarded the title of Honorary Lieutenant Colonel of the Musketeer Regiment and Honorary Colonel of the Royal Guard. . Retiring from his military career, Bao Long worked for a bank. Not only was he frustrated in his career, his love life and marriage were also boring. The last crown prince of the Nguyen Dynasty married a French widow with two stepchildren in Paris. They don't have any children together. Bao Long passed away at Sens Hospital in France in 2007, at the age of 71. He passed away almost exactly 10 years after his father, King Bao Dai (July 31, 1997).
Nhìn lại những kỳ tích xây dựng bệnh viện dã chiến khắp thế giới Để ứng phó với dịch bệnh Covid-19, từ đầu mùa dịch, 14ềm tin và ý chí con người trước cuộc chiến cam go chống lại chủng virus nguy hiểm. Bệnh viện Hỏa Thần Sơn và Lôi Thần Sơn, Trung Quốc Đầu năm nay, khi virus Covid-19 bùng phát mạnh mẽ tại tâm dịch Vũ Hán, Trung Quốc đã xây dựng 2 bệnh viện dã chiến đầu tiên là Hỏa Thần Sơn và Lôi Thần Sơn. Hai bệnh viện quy mô lớn được dựng lên một cách “thần tốc” đã khiến cả thế giới phải kinh ngạc và thán phục. Trong đó, Hỏa Thần Sơn đi vào hoạt động ngày 4/2/2020, chỉ sau khoảng 10 ngày xây dựng, với quy mô 1.000 giường bệnh, rộng 25.000 m2. Các dãy nhà của bệnh viện được lắp đặt bằng mô hình nhà lắp ghép, bên trong được lắp đặt cấp tốc đường điện, hệ thống thoát nước, giường bệnh và đầy đủ các thiết bị y tế hỗ trợ. Thậm chí, do khu đất xây dựng bệnh viện gần một cái hồ, để đảm bảo ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh nhóm thiết kế đã thêm vào một màng chống thấm để cách ly toàn bộ bệnh viện với môi trường xung quanh, đảm bảo rằng không có bất cứ rác thải y tế nào được thải ra hồ hoặc đất. Để hoàn thiện công trình này, Trung Quốc đã sử dụng tới 7.000 nhân công, trong đó có thợ hàn chì, thợ điện và nhiều chuyên gia, vận hành tới 800 thiết bị để chạy đua với thời gian, làm nhiều ca để hoàn tất bệnh viện trong thời gian “không tưởng”. Còn Lôi Thần Sơn, bệnh viện tiếp theo được xây dựng ngay sau đó cũng được thi công thần tốc trong 8 ngày với 32 phòng và một phòng phẫu thuật, sức chứa lên hơn 1.300 giường, mỗi phòng đầy đủ tiện nghi và trang thiết bị, với 2 giường đơn, bàn ăn, nhà tắm, nhà vệ sinh và máy lọc không khí. Tiếp sau Hỏa Thần Sơn và Lôi Thần Sơn, 14 bệnh viện dã chiến khác cũng đã được dựng nên ở tâm dịch Vũ Hán, thể hiện quyết tâm cao của chính quyền địa phương trong cuộc chiến chống dịch và thật sự đã góp phần không nhỏ giúp Trung Quốc khống chế được đại dịch Covid-19 tại “chảo lửa” Vũ Hán. Bệnh viện Nightingale – London – Anh Là một trong những tâm dịch tại châu Âu, ngày 4/4, Anh đã cấp tốc dựng nên bệnh viện dã chiến khổng lồ Nightingale trong 9 ngày tại Trung tâm triển lãm ExCel, London, nơi từng diễn ra một số sự kiện như Hội nghị Thượng đỉnh G20, Thế vận hội London 2012. Đây là bệnh viện dã chiến lớn nhất thế giới thời điểm tháng 4, với sức chứa tối đa lên đến khoảng 4.000 giường bệnh, trên diện tích hơn 87.000 m2. Ban đầu, bệnh viện hoạt động với 550 giường bệnh, số giường còn lại được tiếp tục hoàn thiện sau đó, và được c hia thành hơn 80 khu điều trị, mỗi khu gồm 42 giường bệnh với đầy đủ thiết bị y tế cần thiết, trong đó có máy trợ thở. Để “hô biến” một trung tâm triển lãm thành bệnh viện dã chiến lớn nhất Anh, 200 binh sĩ đã được huy động mỗi ngày, cùng với các nhà thầu làm việc ngày đêm để làm nên công trình lịch sử này. Bệnh viện dã chiến Singapore Ngày 23/4, Singapore được ghi nhận là nơi có số ca nhiễm virus đứng đầu Đông Nam Á. Ngay trước đó, Trung tâm hội nghị Singapore Expo đã được tái thiết trở thành bệnh viện dã chiến lớn nhất Singapore chỉ trong 3 ngày, với quy mô 950 buồng bệnh. Mỗi buồng đều được trang bị một giường bệnh, bàn, ghế, tủ và ổ điện cùng hệ thống wifi. Khối lượng công việc không hề nhỏ, bởi từ một trung tâm triển lãm chuyển thành bệnh viện, tất cả mọi yếu tố như khu nhà tắm, khu vệ sinh và an toàn phòng cháy chữa cháy đều phải được bố trí, xếp đặt thêm. Ngoài ra, các vật dụng cá nhân như khăn tắm, nước uống đều phải được vận chuyển đến bệnh viện trước khi Singapore áp lệnh hạn chế di chuyển và đóng cửa các cửa hàng không thiết yếu. Bệnh viện dã chiến New Delhi – Ấn Độ Đầu tháng 7/2020, Ấn Độ đã khai trương bệnh viện dã chiến điều trị Covid-19 có quy mô lớn nhất thế giới tại thủ đô New Delhi. Bệnh viện này được chuyển đổi từ một cơ sở tôn giáo có diện tích gần bằng 22 sân bóng đá. Đây cũng là lúc Ấn Độ đã vượt qua Nga, trở thành quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới về số ca mắc Covid-19. Điều đặc biệt là 10.000 chiếc giường tại đây được làm từ bìa carton, có lớp phủ để không bị thấm nước và có thể chịu tải 300 kg. Đây là một sáng kiến với mong muốn giảm tối đa khả năng lây nhiễm, bởi theo các nghiên cứu, corona virus chỉ tồn tại trên bề mặt carton trong 24 giờ. Bệnh viện đã được hoàn thành chỉ trong 10 ngày. Tại đây, có khoảng 10% trên tổng số giường bệnh được trang bị các thiết bị hỗ trợ oxy, và trên 1.000 bác sĩ và nhân viên y tế được huy động làm việc tại đây, cùng sự trợ giúp của Lực lượng Cảnh sát biên giới Ấn Độ – Tây Tạng để vận hành bệnh viện dã chiến lớn nhất thế giới này. Bệnh viện dã chiến Tiên Sơn – Đà Nẵng Trong bối cảnh gấp rút và đầy áp lực giữa thời điểm giãn cách xã hội tại Đà Nẵng, thành phố đã đặt tiến độ 5 ngày cho Tập đoàn Sun Group – đơn vị tài trợ và chịu trách nhiệm thi công dự án – để “hô biến” Cung thể thao Tiên Sơn – Đà Nẵng thành bệnh viện dã chiến. Tuy nhiên, với nỗ lực căng mình 24/24 giờ chia ca của hơn 500 công nhân, kỹ sư thi công trực tiếp và hàng trăm cán bộ nhân viên hỗ trợ gián tiếp các khâu từ mua sắm, vận chuyển nguyên vật liệu, nấu ăn, dọn dẹp vệ sinh, đến vận chuyển, lắp đặt thiết bị…, bệnh viện dã chiến lịch sử này đã được thành hình chỉ sau 3,5 ngày. Công trình “thần tốc” này hiện đã được lắp đặt 284 giường bệnh tại sàn thi đấu tầng 1, theo mô hình lắp modul dưới sự tư vấn thiết kế của Trung tâm tư vấn xây dựng thuộc Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng. Bệnh viện có hệ thống buồng bệnh, xử lý nước thải, ánh sáng, vách ngăn…. được thiết kế, lắp đặt theo tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng và Bộ Y tế Việt Nam đối với Bệnh viện dã chiến. Đặc biệt, hệ thống thông gió cũng được lắp đặt thiết bị khử khuẩn chuyên dụng để ngăn chặn sự lây lan ra cộng đồng. Từng buồng bệnh được trang bị đầy đủ tiện nghi với giường y tế, tủ đầu giường, quạt, móc treo đồ, công tắc, ổ cắm, đèn chiếu sáng phục vụ thăm khám, đặc biệt có nút nhấn khẩn cấp báo đến trung tâm chỉ huy. Toàn bộ khu vực bệnh nhân có camera phủ khắp, trang bị đầy đủ thiết bị để đảm bảo công tác PCCC, thoát hiểm, cứu hộ cùng hệ thống wifi miễn phí.
Looking back at construction miracles field hospitals around the world In response to the Covid-19 epidemic, from the beginning of the epidemic season, people's faith and will faced a tough battle against the dangerous virus. Huoshenshan and Leishenshan Hospital, China Earlier this year, when the Covid-19 virus broke out strongly in the epidemic center of Wuhan, China built the first two field hospitals, Hoa Than Son and Loi Than Son. Two large-scale hospitals were built in a "lightning speed" that surprised and admired the whole world. Among them, Hoa Than Son went into operation on February 4, 2020, after only about 10 days of construction, with a scale of 1,000 hospital beds and an area of ​​25,000 m2. The hospital's buildings are installed using a prefabricated house model, inside which are quickly installed electricity lines, drainage systems, hospital beds and a full range of supporting medical equipment. Even because the hospital's construction site is near a lake, to ensure the prevention of the spread of epidemics, the design team added a waterproof membrane to isolate the entire hospital from the surrounding environment, ensuring Ensure that no medical waste is discharged into the lake or land. To complete this project, China used up to 7,000 workers, including welders, electricians and many experts, operating up to 800 pieces of equipment to race against time, working many shifts to complete. hospital during "utopian" times. As for Loi Than Son, the next hospital built soon after was also constructed quickly in 8 days with 32 rooms and an operating room, accommodating more than 1,300 beds, each room fully furnished and equipped. , with 2 single beds, dining table, bathroom, toilet and air purifier. Following Hoa Than Son and Loi Than Son, 14 other field hospitals were also set up in the Wuhan epidemic center, demonstrating the high determination of the local government in the fight against the epidemic and truly contributing significantly. helping China control the Covid-19 pandemic in the "pan of fire" Wuhan. Nightingale Hospital – London – Older brother As one of the epidemic centers in Europe, on April 4, the UK quickly built the giant Nightingale field hospital in 9 days at the ExCel Exhibition Center, London, where a number of events such as G20 Summit, London 2012 Olympics. This is the largest field hospital in the world in April, with a maximum capacity of about 4,000 beds, on an area of ​​more than 87,000 m2. Initially, the hospital operated with 550 beds, the remaining beds were continued to be completed later, and were Divided into more than 80 treatment areas, each area has 42 beds with all necessary medical equipment, including ventilators. To "transform" an exhibition center into the largest field hospital in England, 200 soldiers were mobilized every day, along with contractors working day and night to make this historic project. Singapore Field Hospital On April 23, Singapore was recorded as having the highest number of virus infections in Southeast Asia. Right before that, the Singapore Expo Convention Center was reconstructed into Singapore's largest field hospital in just 3 days, with a scale of 950 patient rooms. Each room is equipped with a hospital bed, table, chair, cabinet, electrical outlet and wifi system. The amount of work is not small, because from an exhibition center to a hospital, all elements such as bathrooms, toilets and fire safety must be arranged and arranged. In addition, personal items such as towels and drinking water must be transported to the hospital before Singapore impose restrictions on movement and close non-essential stores. New Delhi Field Hospital – India In early July 2020, India opened the world's largest Covid-19 field hospital in the capital New Delhi. This hospital was converted from a religious facility with an area nearly the size of 22 football fields. This was also the time when India surpassed Russia, becoming the third country in the world in terms of the number of Covid-19 cases. The special thing is that the 10,000 beds here are made from cardboard, have a waterproof coating and can bear a load of 300 kg. This is an initiative with the desire to minimize the possibility of infection, because according to studies, corona virus only exists on the surface of cardboard for 24 hours. The hospital was completed in just 10 days. Here, about 10% of the total number of hospital beds are equipped with oxygen support equipment, and over 1,000 doctors and medical staff are mobilized to work here, with the help of the Border Police Force. India-Tibet border to operate the world's largest field hospital. Tien Son field hospital - Da Nang In the urgent and stressful context of social distancing in Da Nang, the city has set a 5-day schedule for Sun Group - the sponsor and responsible for constructing the project - to "call for Turn "Tien Son Sports Palace - Da Nang into a field hospital." However, with the 24/7 efforts of more than 500 workers, direct construction engineers and hundreds of employees indirectly supporting stages from purchasing, transporting raw materials, cooking Eating, cleaning, transporting, installing equipment..., this historic field hospital was formed after only 3.5 days. This "speedy" project has now installed 284 hospital beds on the first floor of the competition floor, according to the modular installation model under the design advice of the Construction Consulting Center of the Department of Construction of Da Nang city. The hospital has a system of patient rooms, wastewater treatment, lighting, partitions, etc. designed and installed according to the standards of the Ministry of Construction and the Ministry of Health of Vietnam for field hospitals. In particular, the ventilation system is also equipped with specialized disinfection equipment to prevent the spread to the community. Each patient room is fully equipped with medical beds, bedside cabinets, fans, hangers, switches, sockets, lights for examination, and especially an emergency button to notify the center. command. The entire patient area has cameras throughout, fully equipped with equipment to ensure fire prevention, escape, rescue and free wifi system.
Thơ Tagore theo điểm nhìn dịch giả Việt Nam Ngày 8/5/2020, Hội hữu nghị Việt Nam – Ấn Độ thành phố Đà Nẵng đã phối hợp với Trung tâm Văn hoá Swami Vivekananda tổ chức chương trình Giao lưu trực tuyến chủ đề “Gurudev Tagore theo điểm nhìn dịch giả Việt Nam”. Tại Buổi giao lưu, dịch giả Bùi Xuân đã chia sẻ về thơ Tagore, những giá trị về tình người trong thơ Tagore và cơ duyên gắn bó với công việc dịch thơ Tagore. Nói về cơ duyên đến với thơ Tagore, Dịch giả Bùi Xuân tâm sự: “ Tôi tình cờ đọc được bản dịch “Lời dâng” (NXB An Tiêm xuất bản) của Đỗ Khánh Hoan khi mới từ quê ra thành phố học. Sau này, học Đại học Tổng hợp Huế và nhiều năm sau nữa, tôi đã đọc khá nhiều tác phẩm của Tagore. Trước đây, tôi cũng đã thấy các nhà thơ lớn của Việt Nam như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi đều đọc thơ Tagore và dịch thơ Tagore rất hay. Đặc biệt là dịch giả Cao Huy Đỉnh, La Côn, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung. Và tôi ao ước có một ngày nào đó cũng được dịch thơ Tagore”. Dịch giả Bùi Xuân cũng nói về khó khăn và thuận lợi của ông khi dịch các tác phẩm thơ Tagore ở thời điểm khoảng 20 năm về trước. Ông cho biết thời đó ông làm công tác nghiên cứu lịch sử, có nghiên cứu về lịch sử văn hóa Ấn Độ, có đôi chút ngoại ngữ, cùng với sự động viên, giúp đỡ của nhiều người thầy, người bạn, ông đã hoàn thành các tác phẩm thơ Tagore đầu tiên. Năm 2012, ông dịch tác phẩm “Bầy chim lạc”. Khi tập thơ xuất bản “ tôi có viết lời cảm tạ 11 người đã giúp đỡ động viên khi tôi dịch ” – dịch giả Bùi Xuân chia sẻ. Sau đó, ông tự tin dịch tiếp “Mùa hái quả”, “Người thoáng hiện”. Dịch giả Bùi Xuân nói: “ Tôi rất biết ơn người thầy của tôi – nhà thơ Hải Nguyên, nhạc sĩ Tôn Thất Lan, nhà nghiên cứu văn hóa Võ Văn Thắng, TS. Huỳnh Văn Hoa, nhà văn Nhật Chiêu, họa sĩ Dư Dư, Phan Ngọc Minh, Giám đốc Nhà xuất bản Đà Nẵng Trương Công Báo, nhà thơ Nguyễn Kim Huy, Nguyễn Nho Khiêm, Mai Hữu Phước. Đặc biệt là TS. Lâm Vinh, PGS. Lưu Đức Trung “. Dịch giả cũng cho biết thêm về TS. Lâm Vinh là người bạn vong niên của ông, bản dịch nào của ông cũng có lời giới thiệu hoặc lời bạt của TS. Lâm Vinh. Về PGS. Lưu Đức Trung thì ảnh hưởng rất nhiều tới phong cách dịch của ông, người chỉ dẫn cho ông nhiều điều bổ ích, và là người viết giới thiệu cho tập thơ “Mùa hái quả” ông đã dịch. Dù trong suốt 5 năm quen biết, ông và PGS. Lưu Đức Trung chỉ gặp nhau trực tiếp duy nhất một lần. Các tác phẩm của Tagore do Bùi Xuân dịch được xuất bản tại Việt Nam Bên cạnh đó, dịch giả cũng gửi lời cảm ơn tới NXB Đà Nẵng là đơn vị xuất bản 3 tập thơ dạng song ngữ Anh – Việt mà ông đã dịch cùng NXB Kim Đồng đã in lại 2 lần ba tập thơ đó bằng tiếng Việt. Nói về nhà thơ Tagore và các tác phẩm thơ ca, dịch giả Bùi Xuân nhận xét: Tagore là nhà thơ của tình yêu rộng lớn – tình yêu thương con người. Triết lý trong thơ Tagore là sự hòa điệu của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên, con người trong mối quan vệ với vũ trụ. Con người là một thành phần trong vũ trụ bao la, con người cần hiểu được giá trị của mình. Giọng điệu thơ Tagore phong phú, nồng nàn, nhiều màu sắc. Đó là giọng điệu sùng kính với Đấng Thiêng liêng, tình yêu tha thiết, triết lý cao xa, sâu sắc. “ Khi dịch thơ Tagore, tôi phát hiện ra những từ ngữ gắn liền với nội dung hình ảnh trong thơ. Nên tôi chú trọng những điều này khi dịch Thơ Tagore: Tìm văn bản, có sách giấy thì lý tưởng, nếu có bản scan sách thì cũng tốt; Đọc hiểu, nắm được nội dung, cách tổ chức bài thơ, nhịp điệu, giọng điệu; Tìm được từ ngữ để chuyển ngữ đúng và hay; Cố gắng dịch sát nghĩa, nhưng cố gắng không làm mất đi vẻ đẹp trong ngôn ngữ của Tagore “- Dịch giả Bùi Xuân cho biết. Nói về dự định sắp tới, dịch giả Bùi Xuân cho biết tập thơ “Những khúc hát của Kabir” (Songs of Kabir) ông dịch sẽ được xuất bản tại Việt Nam. Đây là tác phẩm của Kabir là nhà thơ lớn của Ấn Độ, người có ảnh hưởng sâu sắc tới Tagore. Thu Hiền
Tagore's poetry from the perspective of a Vietnamese translator On May 8, 2020, Vietnam - India Friendship Association of Da Nang city coordinated with Swami Vivekananda Cultural Center to organize an online exchange program with the topic "Gurudev Tagore from the perspective of a Vietnamese translator" . At the exchange, translator Bui Xuan shared about Tagore's poetry, the values ​​of human love in Tagore's poetry and his fate in translating Tagore's poetry. Talking about his fate with Tagore's poetry, Translator Bui Xuan confided: " I accidentally read the translation of "The Offering" (published by An Tiem Publishing House) by Do Khanh Hoan when I first came from the countryside to the city to study. Later, when I studied at Hue University and many years later, I read many of Tagore's works. Previously, I had also seen great Vietnamese poets such as Huy Can, Xuan Dieu, Che Lan Vien, Hoang Trung Thong, Nguyen Dinh Thi all read Tagore's poetry and translate Tagore's poetry very well. Especially translators Cao Huy Dinh, La Con, Dao Xuan Quy, and Luu Duc Trung. And I wish that one day I could also translate Tagore's poetry." Translator Bui Xuan also talked about his difficulties and advantages when translating Tagore's poetic works about 20 years ago. He said that at that time he did historical research, studied the history of Indian culture, and had some foreign languages. With the encouragement and help of many teachers and friends, he completed his studies. into Tagore's first poetic works. In 2012, he translated the work "Lost Birds". When the poetry book was published " I wrote a thank you note to 11 people who helped and encouraged me when I translated ” – translator Bui Xuan shared. After that, he confidently translated "Fruit picking season" and "The fleeting person". Translator Bui Xuan said: “ I am very grateful to my teachers - poet Hai Nguyen, musician Ton That Lan, cultural researcher Vo Van Thang, PhD. Huynh Van Hoa, writer Nhat Chieu, painter Du Du, Phan Ngoc Minh, Director of Da Nang Publishing House Truong Cong Bao, poets Nguyen Kim Huy, Nguyen Nho Khiem, Mai Huu Phuoc. Especially Dr. Lam Vinh, Associate Professor. Liu Duc Trung “. The translator also told more about Dr. Lam Vinh is his long-time friend, every translation of his has an introduction or afterword by Dr. Lam Vinh. About Associate Professor. Luu Duc Trung greatly influenced his translation style, gave him many useful instructions, and wrote the introduction to the poem collection "Fruit Picking Season" that he translated. Although during the 5 years of knowing each other, he and Associate Professor. Luu Duc Trung only met each other in person once. Tagore's works translated by Bui Xuan were published in Vietnam In addition, the translator also sent his thanks to Da Nang Publishing House, which published the three English-Vietnamese bilingual poetry collections that he translated, and Kim Dong Publishing House, which reprinted those three poetry collections twice in Vietnamese. Talking about poet Tagore and his poetic works, translator Bui Xuan commented: Tagore is a poet of great love - love of people. The philosophy in Tagore's poetry is the harmony of humans in their relationship with nature, humans in their relationship with the universe. Humans are a part of the vast universe, humans need to understand their value. The tone of Tagore's poetry is rich, passionate, and colorful. That is the tone of devotion to the Divine, passionate love, lofty and profound philosophy. “ When translating Tagore's poetry, I discovered words associated with the image content in the poem. So I pay attention to these things when translating Tagore's Poems: Find the text, having a paper book is ideal, if you have a scanned copy of the book that's also good; Read and understand the poem's content, organization, rhythm, and tone; Find words to translate correctly and well; Try to translate literally, but try not to lose the beauty of Tagore's language “- Translator Bui Xuan said. Talking about his upcoming plans, translator Bui Xuan said that the poetry collection "Songs of Kabir" he translated will be published in Vietnam. This is the work of Kabir, a great Indian poet who had a profound influence on Tagore. Thu Hien
Mercure Danang French Village Bana Hills tung ưu đãi khủng đón khách trở lại sau cách ly Mừng dịp mở cửa trở lại sau thời gian cách ly xã hội, Mercure Danang French Village Bana Hills – khách sạn lãng mạn như cổ tích trên đỉnh Bà Nà tung ưu đãi siêu khủng làm nức lòng các tín đồ xê dịch. Theo đó, từ 30/4 đến 1/6/2020, Mercure Danang French Village Bana Hills sẽ triển khai chương trình ưu đãi có tên gọi “Fresh Breeze in Ba Na” với mức giá hấp dẫn chỉ 1,5 triệu đồng net/phòng cho 2 người, bao gồm ăn sáng, miễn phí nhận phòng sớm lúc 10:00 sáng và trả phòng trễ lúc 3:00 chiều. Thêm vào đó, khách nghỉ còn được hưởng ưu đãi set menu bữa trưa Fresh Spring với giá chỉ 400 nghìn đồng/người. Đây quả là cơ hội có một không hai để trải nghiệm “Khách sạn lãng mạn nhất thế giới” ngay tại Đà Nẵng, bởi mức giá này đã giảm 40% so với giá vào thời điểm bình thường và gần 50% so với giá ngày lễ ở thời điểm trước dịch Covid-19. Nét cổ kính và vẻ đẹp nên thơ như một châu Âu thu nhỏ chính là cảm nhận của mọi du khách khi đến với Mercure Danang French Village Bana Hills. Dưới màn sương lãng đãng của vùng núi Chúa, từng mái vòm Gothic, từng bức tường đá xù xì đều gợi đến một miền cổ tích rất đỗi thanh bình và lịch lãm. 494 phòng nghỉ tại đây đều mang gam màu trang nhã với nội thất tinh tế, và từ đây du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh núi rừng Bà Nà và hít căng bầu không khí trong lành của vùng núi Chúa. Với vị trí độc đáo, khí hậu trong lành của vùng núi Chúa và vẻ đẹp cổ điển riêng có, Mercure Danang French Village Bana Hills cũng là điểm đến lý tưởng cho một chuyến trăng mật trong mơ với các cặp đôi. Khách sạn này từng được World Travel Awards, giải thưởng danh giá bậc nhất thế giới về du lịch xướng danh là “Khách sạn sang trọng hàng đầu châu Á cho kỳ nghỉ trăng mật”. Và hơn thế nữa, nghỉ dưỡng tại Mercure Danang French Village Bana Hills, bạn cũng sẽ được thỏa sức khám phá khu du lịch Sun World Ba Na Hills với vườn hồng Morin lãng mạn, những vườn hoa rực rỡ đủ loại, quần thể tâm linh đậm chất thiền cũng như check-in điểm đến hot nhất Đà Nẵng – cây cầu Vàng, nơi mới đây vừa được trang tin Insider của Mỹ bình chọn là một trong 28 cây cầu ngoạn mục và ấn tượng nhất thế giới. Vừa hết thời gian cách ly xã hội, còn gì tuyệt hơn một chuyến nghỉ dưỡng đầy lãng mạn tại khu nghỉ dưỡng độc đáo trên đỉnh Bà Nà, nhất là khi giá phòng được giảm sâu chưa từng có và kèm theo hàng loạt ưu đãi khủng. Đi ngay thôi chờ chi!
Mercure Danang French Village Bana Hills Launching great incentives to welcome guests back after quarantine Celebrating the occasion of reopening after the period of social isolation, Mercure Danang French Village Bana Hills - a romantic, fairy-tale hotel on the top of Ba Na has launched a super promotion to delight travel enthusiasts. Accordingly, from April 30 to June 1, 2020, Mercure Danang French Village Bana Hills will launch a promotional program called "Fresh Breeze in Ba Na" with an attractive price of only 1.5 million VND net/ Room for 2 people, breakfast included, free early check-in at 10:00 am and late check-out at 3:00 pm. In addition, guests can also enjoy the Fresh Spring lunch set menu for only 400,000 VND/person. This is truly a unique opportunity to experience "The most romantic hotel in the world" right in Da Nang, because this price has been reduced by 40% compared to the price at normal times and nearly 50% compared to the daily price. ceremony before the Covid-19 epidemic. Ancient features and poetic beauty like a miniature Europe are the feelings of every visitor when coming to Mercure Danang French Village Bana Hills. Under the mist of the Chua Mountain region, each Gothic dome and each rough stone wall evoke a very peaceful and elegant fairy tale land. The 494 rooms here all have elegant colors with sophisticated interiors, and from here visitors can admire the panoramic view of Ba Na mountains and breathe in the fresh air of the Chua mountain region. With a unique location, fresh climate of the Chua mountain region and unique classic beauty, Mercure Danang French Village Bana Hills is also the ideal destination for a dream honeymoon for couples. This hotel was once named "Asia's leading luxury hotel for honeymoon" by the World Travel Awards, the world's most prestigious award for tourism. And more than that, staying at Mercure Danang French Village Bana Hills, you will also be able to freely explore the Sun World Ba Na Hills tourist area with the romantic Morin rose garden, colorful flower gardens of all kinds, and spiritual complexes. full of meditation as well as check-in to Da Nang's hottest destination - the Golden Bridge, which was recently voted by the US news site Insider as one of the 28 most spectacular and impressive bridges in the world. Just after the social isolation period, what could be better than a romantic vacation at the unique resort on top of Ba Na, especially when room prices are at unprecedented discounts and accompanied by a series of great incentives? . Go now, what are you waiting for?
Đối với người Việt Nam, gia đình là nơi duy trì, bảo tồn nòi giống, là môi trường đầu tiên cho việc nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành nhân cách mỗi con người, cũng là nơi các giá trị văn hóa được tiếp nôi và trao truyền. Chủ đề “Phụ nữ trong gia đình” là câu chuyện về người phụ nữ từ khi bước vào cuộc sống hôn nhân, thực hiện thiên chức làm mẹ và một người vợ biết tổ chức cuộc sống gia đình. Đồng thời, các giá trị truyền thống được giới thiệu qua các nghi lễ, tập tục, tri thức và kinh nghiệm dân gian trong hôn nhân, sinh đẻ và chăm lo cuộc sống gia đình của Phụ nữ Việt Nam. Chủ đề Phụ nữ trong gia đình có 3 nội dung chính: “Vợ chồng như đũa có đôi” Hôn nhân là điểm khởi đầu của cuộc sống gia đình. Thông qua những nghi lễ, tập tục trong đám cưới của các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng giới thiệu 2 hình thái hôn nhân tồn tại ở nước ta là: hôn nhân phụ hệ và hôn nhân mẫu hệ. Đa số các tộc người ở Việt Nam sống theo chế độ phụ hệ: Việt, Dao, Thái, Xinh-mun, Bru -Vân kiều, Ta-ôi, Mạ, Hoa… Dù là gia đình lớn trước kia hay gia đình nhỏ ngày nay, người chồng, người cha có vị thế quan trọng hơn và được được coi là trụ cột của gia đình. Vì thế, trong hôn nhân, nhà trai đóng vai trò chủ động. Lễ cưới diễn ra tại nhà trai và cô dâu chuyển đến cư trú với gia đình bên chồng. Việc cưới hỏi thường trải qua 3 bước chính: lễ dạm hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Sau đám cưới, cô dâu sẽ về lưu trú tại nhà chồng. Khác với hôn nhân phụ hệ, trong gia đình mẫu hệ, người đàn bà cao tuổi nhất lại có ảnh hưởng lớn hơn cả và có quyền quyết định trong đời sống gia đình. Tuy mỗi tộc người có tập tục cưới hỏi riêng, nhưng các cư dân mẫu hệ đều có những đặc điểm chung, như: chàng rể cư trú đằng vợ, các con mang họ mẹ, con gái thừa kế gia tài… Để hỏi chồng cho con gái và đưa con rể về, nhà gái phải đền bù của cải cho nhà trai dưới hình thức lễ vật cưới được thỏa thuận giữa hai bên. “Tôi là con gái Hà Nội, gia đình tôi còn giữ hầu hết các nghi lễ truyền thống. Nhớ lại khi ăn hỏi tôi năm 1962, đoàn nhà trai họ sang đông lắm. Lễ vật được đựng trong tráp, số lượng thì tôi không nhớ rõ nhưng còn có cả một con lợn sữa quay! Trong tráp có nhiều đồ lễ truyền thống như trà, thuốc lá, trầu cau, hạt sen, rượu; còn có cả bánh cốm, bánh xu xê và tiền nữa” -Trích câu chuyện thuyết minh tự động về lễ ăn hỏi của Người Việt- Với quan niệm con cái là tài sản của mỗi gia đình và để duy trì nòi giống dòng họ qua các thế hệ nên ở Việt Nam rất coi trọng việc có con. Có rất nhiều cách để người ta thể hiện niềm mong mỏi có con sau khi kết hôn, nhất là với những người gặp hiếm muộn. Nghi lễ cầu tự đến nay vẫn còn phổ biến ở nhiều tộc người. Ở người Việt, nhiều đôi vợ chồng muộn sinh con thường đến làm lễ ở chùa, đền hay miếu. Một số tộc người mời thầy cúng tiến hành nghi lễ tại nhà. Trong thời kỳ mang thai, phụ nữ phải kiêng cữ và thực hiện nhiều nghi lễ để bảo vệ mình và thai nhi. Bộ vòng cầu tự, nhóm người Hmong Xanh, Pà Cò, Mai Châu, Hòa Bình Bùa cầu an thai của dân tộc Việt, Duy Tiên, Hà Nam Bùa cầu an thai của dân tộc Việt, Vụ Bản, Nam Định Ngày nay, với sự tiến bộ của y tế, các bà mẹ mang thai có sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ ngay từ giai đoạn đầu của thai kỳ. Trước khi sinh, phụ nữ cũng thực hiện một số tập tục đã được lưu truyền trong dân gian như ăn cháo vừng để dễ sinh ở người Việt, Người Hmong và người Dao mời thầy cúng đến làm phép khi khó đẻ, người Thái bôi hạt vừng giã nát lên bụng… Việc sinh con của người phụ nữ từ trước năm 1960 cho đến nay cũng có nhiều thay đổi. Trước kia, phụ nữ thường sinh con tại nhà hoặc trong rừng, đẻ đứng hay đẻ quỳ theo tập tục. Nhưng đa phần hiện nay họ sinh con ở trạm xá, bệnh viện. Ở Việt Nam, hầu hết sản phụ đều có tục ở cữ sau sinh. Có nơi thời gian ở cữ kéo dài một tuần, có nơi một tháng, thậm chí có nơi sản phụ ở cữ trong vòng 100 ngày. Đây là thời gian có nhiều kiêng cữ về ăn uống, lao động và chăm sóc đối với sản phụ. Ở người Việt, quả đu đủ non, quả mít non và hoa chuối là thức ăn hằng ngày của các sản phụ ít sữa. Người Chăm và người Việt ở miền Trung thường nằm sưởi than và xông mặt trong tháng đầu tiên sau sinh. Người Thái ngồi xông than và sưởi lửa bên bếp 7 – 10 ngày. “Ở Tam Kỳ , Quảng Nam quê tôi, xông than sau khi sinh vẫn còn phổ biến lắm. Mẹ chồng là người hướng dẫn tôi cách xông. Mẹ hoặc chồng thường chuẩn bị và quạt than cho tôi xông. Mỗi ngày tôi xông 3 lần sau các bữa ăn sáng, trưa, tối. Tôi nằm úp bụng xuống giường, khi than tàn mới kết thúc công việc xông. Tôi xông được hơn một tháng thì thôi, những cũng có người xông kỹ phải hết thời gian ở cữ là 3 tháng.” – Trích câu chuyện thuyết minh tự động về phương pháp xông than của sản phụ- Sự đảm đang, tài khéo và vai trò của người phụ nữ trong gia đình không chỉ thể hiện qua thiên chức làm vợ, làm mẹ mà đó còn là khả năng tổ chức cuộc sống gia đình và tham gia vào lực lượng lao động ở nông thôn và thành thị. Ở nông thôn những vùng đồng bằng, phụ nữ thường tham gia trồng lúa nước. Những công đoạn như chọn giống, thu hoạch thậm chí cày bừa đều được phụ nữ thực hiện. Do điều kiện địa hình, phụ nữ ở các dân tộc miền núi lại có truyền thống canh tác nương rẫy. Trên nương rẫy thường trồng nhiều loại cây khác nhau: lúa, ngô, sắn, bầu bí, ớt, bông… Phụ nữ nhiều nơi còn tham gia đánh bắt, hái lượm để tạo ra nguồn thực phẩm quan trọng thường ngày. Hái lượm được tiến hành quanh năm. Sản phẩm chính là rau rừng, măng, hoa quả, nấm, mật ong và cây thuốc. Nghề dệt vải thủ công có ở đa số các dân tộc. Phụ nữ là người trồng bông, trồng chàm, nuôi tằm, dệt vải và chăm lo may vá cho cả gia đình. Ngay từ nhỏ, các bé gái đã học dệt, may vá, thêu thùa từ bà, mẹ hay từ chị gái. Trước khi cưới, cô gái tự may y phục cho mình và làm nhiều đồ vải để tặng cho nhà chồng. Với phụ nữ Chu-ru ở Lâm Đồng và Chăm ở Bình Thuận, nghề làm gốm đất nung truyền thống không dùng bàn xoay vẫn được duy trì. Sản phẩm làm ra thường là những đồ gia dụng thiết yếu, đôi khi còn để bán tăng thêm thu nhập. Buôn bán nhỏ là cách kiếm sống có từ lâu đời ở một số tộc người như: Việt, Hoa, Chăm; hoạt động chuyên nghiệp hoặc khi nông nhàn. Hàng hóa gồm nông sản, vật dụng sinh hoạt, sản phẩm thủ công, hàng ăn uống… Có thể bán hàng ở chợ hay tại nhà, đi rong… Chợ thường họp theo phiên, riêng ở đô thị thì họp hàng ngày. Đa phần người bán hàng là phụ nữ. Hiện nay, hoạt động buôn bán nhỏ đa dạng hơn, phát triển ở cả vùng nông thôn hẻo lánh, thu hút ngày càng nhiều phụ nữ sử dụng các phương tiện như xe đạp, xe máy, ôtô, kể cả điện thoại di động. Thiên chức làm mẹ được thể hiện rõ qua việc nuôi dạy con cái. Người mẹ dạy con qua các bài hát ru, kể chuyện cổ tích, các đồ chơi, trò chơi mang tính giáo dục, các vật dụng nhỏ vừa sức để hướng dẫn trẻ em làm quen dần với lao động. Nếu là bé gái, bé sẽ theo mẹ tập làm việc nhà để sau này đảm đang được như mẹ. Trong xã hội ngày nay, cả hai bố mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cái.
Đối với người Việt Nam, gia đình là nơi duy trì, bảo tồn nòi giống, là môi trường đầu tiên cho việc nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành nhân cách mỗi con người, cũng là nơi các giá trị văn hóa được tiếp nôi và trao truyền. Chủ đề “Phụ nữ trong gia đình” là câu chuyện về người phụ nữ từ khi bước vào cuộc sống hôn nhân, thực hiện thiên chức làm mẹ và một người vợ biết tổ chức cuộc sống gia đình. Đồng thời, các giá trị truyền thống được giới thiệu qua các nghi lễ, tập tục, tri thức và kinh nghiệm dân gian trong hôn nhân, sinh đẻ và chăm lo cuộc sống gia đình của Phụ nữ Việt Nam. Chủ đề Phụ nữ trong gia đình có 3 nội dung chính: “Vợ chồng như đũa có đôi” Hôn nhân là điểm khởi đầu của cuộc sống gia đình. Thông qua những nghi lễ, tập tục trong đám cưới của các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng giới thiệu 2 hình thái hôn nhân tồn tại ở nước ta là: hôn nhân phụ hệ và hôn nhân mẫu hệ. Đa số các tộc người ở Việt Nam sống theo chế độ phụ hệ: Việt, Dao, Thái, Xinh-mun, Bru -Vân kiều, Ta-ôi, Mạ, Hoa… Dù là gia đình lớn trước kia hay gia đình nhỏ ngày nay, người chồng, người cha có vị thế quan trọng hơn và được được coi là trụ cột của gia đình. Vì thế, trong hôn nhân, nhà trai đóng vai trò chủ động. Lễ cưới diễn ra tại nhà trai và cô dâu chuyển đến cư trú với gia đình bên chồng. Việc cưới hỏi thường trải qua 3 bước chính: lễ dạm hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Sau đám cưới, cô dâu sẽ về lưu trú tại nhà chồng. Khác với hôn nhân phụ hệ, trong gia đình mẫu hệ, người đàn bà cao tuổi nhất lại có ảnh hưởng lớn hơn cả và có quyền quyết định trong đời sống gia đình. Tuy mỗi tộc người có tập tục cưới hỏi riêng, nhưng các cư dân mẫu hệ đều có những đặc điểm chung, như: chàng rể cư trú đằng vợ, các con mang họ mẹ, con gái thừa kế gia tài… Để hỏi chồng cho con gái và đưa con rể về, nhà gái phải đền bù của cải cho nhà trai dưới hình thức lễ vật cưới được thỏa thuận giữa hai bên. “Tôi là con gái Hà Nội, gia đình tôi còn giữ hầu hết các nghi lễ truyền thống. Nhớ lại khi ăn hỏi tôi năm 1962, đoàn nhà trai họ sang đông lắm. Lễ vật được đựng trong tráp, số lượng thì tôi không nhớ rõ nhưng còn có cả một con lợn sữa quay! Trong tráp có nhiều đồ lễ truyền thống như trà, thuốc lá, trầu cau, hạt sen, rượu; còn có cả bánh cốm, bánh xu xê và tiền nữa” -Trích câu chuyện thuyết minh tự động về lễ ăn hỏi của Người Việt- Với quan niệm con cái là tài sản của mỗi gia đình và để duy trì nòi giống dòng họ qua các thế hệ nên ở Việt Nam rất coi trọng việc có con. Có rất nhiều cách để người ta thể hiện niềm mong mỏi có con sau khi kết hôn, nhất là với những người gặp hiếm muộn. Nghi lễ cầu tự đến nay vẫn còn phổ biến ở nhiều tộc người. Ở người Việt, nhiều đôi vợ chồng muộn sinh con thường đến làm lễ ở chùa, đền hay miếu. Một số tộc người mời thầy cúng tiến hành nghi lễ tại nhà. Trong thời kỳ mang thai, phụ nữ phải kiêng cữ và thực hiện nhiều nghi lễ để bảo vệ mình và thai nhi. Bộ vòng cầu tự, nhóm người Hmong Xanh, Pà Cò, Mai Châu, Hòa Bình Bùa cầu an thai của dân tộc Việt, Duy Tiên, Hà Nam Bùa cầu an thai của dân tộc Việt, Vụ Bản, Nam Định Ngày nay, với sự tiến bộ của y tế, các bà mẹ mang thai có sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ ngay từ giai đoạn đầu của thai kỳ. Trước khi sinh, phụ nữ cũng thực hiện một số tập tục đã được lưu truyền trong dân gian như ăn cháo vừng để dễ sinh ở người Việt, Người Hmong và người Dao mời thầy cúng đến làm phép khi khó đẻ, người Thái bôi hạt vừng giã nát lên bụng… Việc sinh con của người phụ nữ từ trước năm 1960 cho đến nay cũng có nhiều thay đổi. Trước kia, phụ nữ thường sinh con tại nhà hoặc trong rừng, đẻ đứng hay đẻ quỳ theo tập tục. Nhưng đa phần hiện nay họ sinh con ở trạm xá, bệnh viện. Ở Việt Nam, hầu hết sản phụ đều có tục ở cữ sau sinh. Có nơi thời gian ở cữ kéo dài một tuần, có nơi một tháng, thậm chí có nơi sản phụ ở cữ trong vòng 100 ngày. Đây là thời gian có nhiều kiêng cữ về ăn uống, lao động và chăm sóc đối với sản phụ. Ở người Việt, quả đu đủ non, quả mít non và hoa chuối là thức ăn hằng ngày của các sản phụ ít sữa. Người Chăm và người Việt ở miền Trung thường nằm sưởi than và xông mặt trong tháng đầu tiên sau sinh. Người Thái ngồi xông than và sưởi lửa bên bếp 7 – 10 ngày. “Ở Tam Kỳ , Quảng Nam quê tôi, xông than sau khi sinh vẫn còn phổ biến lắm. Mẹ chồng là người hướng dẫn tôi cách xông. Mẹ hoặc chồng thường chuẩn bị và quạt than cho tôi xông. Mỗi ngày tôi xông 3 lần sau các bữa ăn sáng, trưa, tối. Tôi nằm úp bụng xuống giường, khi than tàn mới kết thúc công việc xông. Tôi xông được hơn một tháng thì thôi, những cũng có người xông kỹ phải hết thời gian ở cữ là 3 tháng.” – Trích câu chuyện thuyết minh tự động về phương pháp xông than của sản phụ- Sự đảm đang, tài khéo và vai trò của người phụ nữ trong gia đình không chỉ thể hiện qua thiên chức làm vợ, làm mẹ mà đó còn là khả năng tổ chức cuộc sống gia đình và tham gia vào lực lượng lao động ở nông thôn và thành thị. Ở nông thôn những vùng đồng bằng, phụ nữ thường tham gia trồng lúa nước. Những công đoạn như chọn giống, thu hoạch thậm chí cày bừa đều được phụ nữ thực hiện. Do điều kiện địa hình, phụ nữ ở các dân tộc miền núi lại có truyền thống canh tác nương rẫy. Trên nương rẫy thường trồng nhiều loại cây khác nhau: lúa, ngô, sắn, bầu bí, ớt, bông… Phụ nữ nhiều nơi còn tham gia đánh bắt, hái lượm để tạo ra nguồn thực phẩm quan trọng thường ngày. Hái lượm được tiến hành quanh năm. Sản phẩm chính là rau rừng, măng, hoa quả, nấm, mật ong và cây thuốc. Nghề dệt vải thủ công có ở đa số các dân tộc. Phụ nữ là người trồng bông, trồng chàm, nuôi tằm, dệt vải và chăm lo may vá cho cả gia đình. Ngay từ nhỏ, các bé gái đã học dệt, may vá, thêu thùa từ bà, mẹ hay từ chị gái. Trước khi cưới, cô gái tự may y phục cho mình và làm nhiều đồ vải để tặng cho nhà chồng. Với phụ nữ Chu-ru ở Lâm Đồng và Chăm ở Bình Thuận, nghề làm gốm đất nung truyền thống không dùng bàn xoay vẫn được duy trì. Sản phẩm làm ra thường là những đồ gia dụng thiết yếu, đôi khi còn để bán tăng thêm thu nhập. Buôn bán nhỏ là cách kiếm sống có từ lâu đời ở một số tộc người như: Việt, Hoa, Chăm; hoạt động chuyên nghiệp hoặc khi nông nhàn. Hàng hóa gồm nông sản, vật dụng sinh hoạt, sản phẩm thủ công, hàng ăn uống… Có thể bán hàng ở chợ hay tại nhà, đi rong… Chợ thường họp theo phiên, riêng ở đô thị thì họp hàng ngày. Đa phần người bán hàng là phụ nữ. Hiện nay, hoạt động buôn bán nhỏ đa dạng hơn, phát triển ở cả vùng nông thôn hẻo lánh, thu hút ngày càng nhiều phụ nữ sử dụng các phương tiện như xe đạp, xe máy, ôtô, kể cả điện thoại di động. Thiên chức làm mẹ được thể hiện rõ qua việc nuôi dạy con cái. Người mẹ dạy con qua các bài hát ru, kể chuyện cổ tích, các đồ chơi, trò chơi mang tính giáo dục, các vật dụng nhỏ vừa sức để hướng dẫn trẻ em làm quen dần với lao động. Nếu là bé gái, bé sẽ theo mẹ tập làm việc nhà để sau này đảm đang được như mẹ. Trong xã hội ngày nay, cả hai bố mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cái.