vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Giới thiệu khái quát huyện Như Thanh
Theo quốc lộ 45A về phía nam, qua huyện Nông Cống là địa phận huyện Như Thanh. Với vị thế của một huyện miền núi, nằm ở phía tây
tỉnh Thanh Hoá
, Như Thanh tiếp giáp với huyện Triệu Sơn, Thường Xuân ở phía bắc; huyện Tĩnh Gia và tỉnh Nghệ An ở phía nam; huyện Nông Cống ở phía đông và huyện Như Xuân ở phía tây.
Diện tích tự nhiên: 588,29 km2 – Dân số: 85.629 người, với 3 dân tộc chủ yếu: Kinh, Thái, Mường – Ðơn vị hành chính: 1 thị trấn, 16 xã – Sản lượng lương thực (quy thóc): 26.418 tấn – Cơ cấu kinh tế: nông – lâm nghiệp: 74,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 11,4%, thương mại – dịch vụ: 14,4% – Thu nhập bình quân đầu người: 2,2 triệu đồng/năm – Bình quân lương thực đầu người: 335 kg/năm. Thực hiện Nghị định 72/CP của Chính phủ ngày 18-11-1996, Như Thanh được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Như Xuân. Tên gọi Như Thanh là tên ghép từ hai địa danh Như Xuân và Thanh Hóa. Kể từ đó, Như Thanh bước vào giai đoạn phát triển mới, thời kỳ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn bằng việc ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư có trọng điểm để hình thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá; đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá huyện nhà nhằm hướng tới mục tiêu; “Dân giàu, huyện mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Ðể Như Thanh vững bước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trước tiên cần phải đẩy mạnh sự nghiệp phát triển giáo dục. Nhận thức được vấn đề này, huyện Như Thanh đã triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII). Nếu năm 1997, toàn huyện chỉ có 45 trường, 915 lớp và 24.000 học sinh, trong đó phòng học tranh tre, nứa lá chiếm gần 60% thì đến nay đã có 54 trường, 992 lớp và 29.470 học sinh. Hiện nay, toàn huyện chỉ còn 27% phòng học tranh tre, nứa lá. Chất lượng giảng dạy được tăng lên, chất lượng đại trà, chất lượng học sinh giỏi tăng đều qua các năm. Tính đến hết quý I-2003, toàn huyện có 100% xã được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 9 xã đã hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở đúng độ tuổi; 3 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Hàng năm, số học sinh tốt nghiệp các cấp đạt 97 – 98%; số học sinh phổ thông trung học thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đạt trên 15%. Những kết quả đó thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của Ðảng bộ, các ngành, đặc biệt là ngành giáo dục Như Thanh trong sự nghiệp “Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
|
General introduction to Nhu Thanh district
Follow Highway 45A south, through Nong Cong district to Nhu Thanh district. With the position of a mountainous district, located in the west
Thanh Hoa province
, Nhu Thanh is adjacent to Trieu Son and Thuong Xuan districts in the north; Tinh Gia district and Nghe An province in the south; Nong Cong district in the east and Nhu Xuan district in the west.
Natural area: 588.29 km2 – Population: 85,629 people, with 3 main ethnic groups: Kinh, Thai, Muong – Administrative units: 1 town, 16 communes – Food output (paddy): 26,418 tons – Economic structure: agriculture – forestry: 74.2%, industry – handicrafts: 11.4%, trade – services: 14.4% – Average income per capita: 2 2 million VND/year – Average food per capita: 335 kg/year. Implementing Decree 72/CP of the Government dated November 18, 1996, Nhu Thanh was established on the basis of separation from Nhu Xuan district. The name Nhu Thanh is a compound name from two place names Nhu Xuan and Thanh Hoa. Since then, Nhu Thanh has entered a new phase of development, a period of restructuring the agricultural and rural economy by applying many scientific and technical advances and key investments to form a agriculture produces goods; Accelerate the process of industrialization and modernization of the district towards the goal; "Rich people, strong district, fair, democratic and civilized society"
In order for Nhu Thanh to firmly step on the path of industrialization and modernization, especially in the agricultural and rural economic sectors, it is necessary to first promote the development of education. Recognizing this problem, Nhu Thanh district has implemented an action program to implement Central Resolution 2 (term VIII). If in 1997, the whole district had only 45 schools, 915 classes and 24,000 students, of which bamboo classrooms accounted for nearly 60%, now there are 54 schools, 992 classes and 29,470 students. Currently, the whole district only has 27% of classrooms left with bamboo paintings. The quality of teaching has increased, universal quality, and the quality of excellent students has increased steadily over the years. By the end of the first quarter of 2003, the entire district had 100% of communes recognized for completing universal primary education at the right age, 9 communes had completed universal basic education at the right age; 3 primary schools meet national standards. Every year, the number of students graduating at all levels reaches 97 - 98%; The number of high school students passing the entrance exam to universities, colleges, and professional schools is over 15%. Those results demonstrate the efforts of the Party, branches, especially Nhu Thanh's education sector in the cause of "For the benefit of hundreds of years of cultivating people".
|
Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Lộc
Tích cực tuyên truyền giáo dục vận động nhân dân thực hiện và đấu tranh ngăn ngừa và xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo an ninh nông thôn gắn phát triển kinh tế. Đẩy mạnh truy quét tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội. Giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại của công dân. Tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Củng cố sự đoàn kết, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quốc phòng- an ninh./.
Vĩnh Tân là xã có khá nhiều diện tích đất chiêm trũng của huyện trong tổng số 400 ha đất canh tác thì có tới ¼ là thuộc vùng đồng trũng. Câu nói “Chiêm khê” không xa lạ gì với người dân nơi đây. Chính vì vậy theo nghị quyết của huyện, vĩnh tân đã mạnh dạn chuyển đổi ruộng đất, nói cách khác là dồn đổi ruộng đất để áp dụng cho phát triển mô hình cá lúa.
Di tích, danh thắng
Làng Đông Môn là một làng cổ trực thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nằm bên cạnh Thành Nhà Hồ được hình thành từ trước năm 1937- Thời điểm Hồ Qúy Ly cho xây dựng Thành.
Thắng tích Kim Sơn thuộc địa phận làng Hang, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Cách Thành Nhà Hồ 25 km, cách thành phố Thanh Hoá 40 km. Nơi đây là hệ thống núi đá vôi có nhiều hang động.
ĐỀN THỜ, BIA KÝ TRỊNH KHẢ – XÃ VĨNH HÒA
Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh là bậc khai quốc công thần, làm quan dưới 3 triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được ban quốc tính họ vua gọi là Lê Khả. Trịnh Quyện là cha của Trịnh Khả. Ông sinh được 4 người con trai, Trịnh Khả là con út.
|
General introduction of Vinh Loc district
Actively propagate, educate and mobilize people to implement and fight to prevent and strictly and promptly handle violations of the law, ensuring rural security associated with economic development. Promote the pursuit of criminal crimes and social evils. Timely resolve denunciations and complaints from citizens. Continue to well implement democratic regulations at the grassroots level. Strengthen solidarity and close coordination among law enforcement agencies, strengthen the Party's leadership in defense and security work./.
Vinh Tan is a commune with quite a lot of low-lying land area in the district. Of the total 400 hectares of cultivated land, up to ¼ is in low-lying areas. The saying "Chiem Khe" is not strange to the people here. Therefore, according to the district's resolution, Vinh Tan boldly converted land, in other words, consolidated land to apply for developing the rice fish model.
Monuments and landscapes
Dong Mon Village is an ancient village belonging to Vinh Long commune, Vinh Loc district, Thanh Hoa province, located next to the Ho Dynasty Citadel formed before 1937 - when Ho Quy Ly built the citadel.
Kim Son relic is located in Hang village, Vinh An commune, Vinh Loc district, Thanh Hoa province. 25 km from Ho Dynasty Citadel, 40 km from Thanh Hoa city. This place is a limestone mountain system with many caves.
TEMPLE, TRINH Kha STONE – VINH HOA COMMUNE
Trinh Kha from Kim Boi village, Vinh Ninh district was a national founder, served as an official under the three dynasties of King Le: Thai To, Thai Tong, Nhan Tong and was given the royal family name Le Kha. Trinh Quyen is Trinh Kha's father. He gave birth to four sons, Trinh Kha is the youngest.
|
Giới thiệu khái quát huyện Nông cống
Nông Cống là huyện nằm phía nam
tỉnh Thanh hóa
, phía bắc giáp huyện Triệu Sơn và Đông Sơn, phía đông giáp huyện Tĩnh Gia và Quảng Xương, phía tây giáp huyện Như Thanh. Là huyện phụ cận trong vùng kinh tế nam Thanh, bắc nghệ, có đường sắt Bắc Nam chạy qua huyện (có 3 nhà ga là Yên Thái, Minh Khôi, Thị Long); có quốc lộ 45 chạy dọc huyện nối Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, giao lưu, buôn bán và hội nhập.
Nông Cống có diện tích tự nhiên 28.700ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp trên 14.000ha; với 33 đơn vị hành chính bao gồm 32 xã, 1 thị trấn (trong quy hoạch 2015-2020 huyện Nông Cống sẽ có 3 thị trấn là thị trấn Nông Cống, thị trấn Yên Mỹ, thị trấn Trường Sơn và 3 khu dân cư dịch vụ, thương mại là Cầu quan, Minh Khôi, Trầu – Công Liêm); Dân số 183.000 người (dân số trong độ tuổi lao động 97.400 người. Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, đặc biệt là nguồn tài nguyên khoáng sản như: Quặng cromit, quặng secpentin, quặng đá Baza làm phụ gia xi măng, quặng sắt, đất phụ gia xi măng, đá vôi VLXD, cát xây dựng, đá mỹ nghệ ….. Khu du lịch sinh tái hồ Yên Mỹ cũng là một tiềm năng và thế mạnh trong mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của huyện.
|
General introduction to Nong Cong district
Nong Cong is a district located in the south
Thanh Hoa province
, to the north it borders Trieu Son and Dong Son districts, to the east it borders Tinh Gia and Quang Xuong districts, to the west it borders Nhu Thanh district. It is a neighboring district in the southern Thanh and northern Nghe economic regions, with the North-South railway running through the district (with 3 stations: Yen Thai, Minh Khoi, Thi Long); There is National Highway 45 running along the district connecting National Highway 1A and Ho Chi Minh Road, creating conditions for economic development, exchange, trade and integration.
Nong Cong has a natural area of 28,700 hectares, of which agricultural land area is over 14,000 hectares; with 33 administrative units including 32 communes, 1 town (in the 2015-2020 planning, Nong Cong district will have 3 towns: Nong Cong town, Yen My town, Truong Son town and 3 serviced residential areas). services and commerce are Cau Quan, Minh Khoi, Trau – Cong Liem); Population of 183,000 people (working age population 97,400 people. There are rich and diverse natural resources, especially mineral resources such as: Chromite ore, serpentine ore, basalt ore as cement additives cement, iron ore, cement additive soil, limestone construction materials, construction sand, fine art stone... Yen My lake regeneration tourism area is also a potential and strength in the goal of socio-economic development district association.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Bỉm Sơn
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Khí hậu
Tài nguyên thiên nhiên
Thị xã Bỉm Sơn có nhiều tiềm năng to lớn, đặc biệt là tiềm năng khoáng sản phục vụ công nghiệp xây dựng. Diện tích mỏ đá ở Bỉm Sơn có tới 1.052,730 ha chiếm khoảng 15,9% tổng diện tích tự nhiên. Trữ lượng đá vôi ở Bỉm Sơn dự báo có tới vài tỷ mét khối; lượng đá vôi đã thăm dò là hơn 600 triệu m
3
. Chất lượng đá vôi ở Bỉm Sơn có hàm lượng ô xít canxi và ô xít mangiê rất thích hợp cho sản xuất xi măng và là nguyên liệu tốt để sản xuất các hoá chất như đất đèn, bột nhẹ, làm chất lọc đường và làm đá ốp lát. Bỉm Sơn còn có đá phiến sét có chất lượng phù hợp để sản xuất xi măng thay thế cho loại đất sét dẻo. Đá phiến sét là nguyên liệu chính xếp sau đá vôi để sản xuất xi măng Poóclăng. Hiện nay trữ lượng đá phiến sét đã thăm dò là hơn 640 triệu tấn; dự báo trữ lượng có thể lên đến hàng tỷ tấn. Ngoài hai nguyên liệu trên Bỉm Sơn còn có đất sét dẻo để làm gạch ngói, trữ lượng đủ cho các nhà máy gạch ngói có công suất 100 triệu viên/năm. Nguồn nước ngầm trong lòng đất Bỉm Sơn đã được Đoàn địa chất 47 thăm dò xác định thuộc dạng nước ngầm cáctơ, trữ lượng khá phong phú để phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI
III. VĂN HÓA – XÃ HỘI.
1.
Giáo dục & Đào tạo:
Các đơn vị trường học thực hiện tốt công tác thi, đánh giá xếp loại học sinh cuối năm, tổng kết năm học 2017-2018; Xét công nhận TN THCS cho 738 HS lớp 9 và xét hoàn thành chương trình Tiểu học cho 923 học sinh, chuẩn bị các điều kiện tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPTQG năm 2018 cho 661 HS (trong đó THPT Bỉm Sơn: 306 hs, THPT Lê Hồng Phong: 239hs; TCN: 96HS; thí sinh tư do: 20), chuẩn bị công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp năm học 2018-2019; thành lập BCĐ, ban hành Phương án tổ chức kỳ thi THPT Quốc gia và tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2017-2018.
Thực hiện kiểm tra, kiểm kê các di tích – danh thắng đã được xếp hạng và chưa được xếp hạng trên địa bàn thị xã; Xây dựng kế hoạch tổ chức đợt kiểm tra hoạt động dịch vụ văn hóa.Tham gia ĐHTDTT tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII, kết quả thị xã Bỉm Sơn được xếp thứ 4 toàn đoàn. Ban hành kế hoạch hoạt động hè năm 2018.
Hoạt động tuyên truyền trên Đài Truyền thanh – TH và Cổng TTĐT Thị xã được thực hiện tốt, nội dung phong phú, đa dạng góp phần tuyên truyền, phổ biến các hoạt động của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học trên địa bàn.
Lĩnh vực dịch vụ Bưu chính – Viễn thông trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn những năm vừa qua phát triển khá mạnh, đến nay Thị xã đạt 74 máy điện thoại/100dân, bình quân sử dụng internet ADSL đạt 6,5 thuê bao/100dân. Cơ quan Thị uỷ, các Đoàn thể, UBND Thị xã, UBND xã, phường đã nối mạng internet và trao đổi công việc qua hệ thống mạng WAN.
Hiện nay trên địa bàn thị xã có 02 nhà máy cung cấp nước sinh hoạt với công suất 16.000m
3
/ngày đêm do Xí nghiệp nước Bỉm Sơn quản lý.
Hệ thống y Tế:
Bệnh viện Đa khoa Bỉm Sơn.
Trung tâm Y tế dự phòng Bỉm Sơn
Bệnh viện tư nhân ACA Bỉm Sơn quy mô 100 gường bệnh đã khai trương và đi vào hoạt động.
Trạm xá các xã phường;
Có 62 cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập.
Có 05/8 xã phường đã được công nhận xã, phường đạt chuẩn Quốc gia về y tế.
Hệ thống Ngân hàng:
Ngân hàng Công thương Bỉm Sơn (Chi nhánh cấp 1)
Ngân hàng Đầu tư Bỉm Sơn (Chi nhánh cấp 1)
Ngân hàng Nông nghiệp Bỉm Sơn
Ngân hàng Chính sách xã hội Bỉm Sơn
Chi nhánh Ngân hàng VP Bank Bỉm Sơn (Việt Nam Thịnh Vượng)
Ngân hàng ACB
Ngân hàng Cổ phần Hàng Hải
Ngân gàng Thương mại Sài gòn Thương Tín (Sacombank)
Quỹ Tín dụng Ngọc Sơn.
Hệ thống Nhà thi đấu TDTT – Nhà văn hoá:
Nhà thi đấu TDTT Thị xã – Phường Ba Đình – Bỉm Sơn.
Nhà thi đấu TDTT Công ty Xi Măng Bỉm Sơn – Phường Đông Sơn – Bỉm Sơn
Nhà hát công nhân Thị xã – Phường Ba Đình – Bỉm Sơn
Khu văn hoá thể thao Phường Ngọc Trạo
Hệ thống Khách sạn – Nhà nghỉ:
Trên địa bàn Bỉm Sơn hiện có 26 Nhà nghỉ, khách sạn, trong đó có 22 nhà nghỉ và 04 khách sạn. Với tổng số phòng là 261 phòng
.
Tổng doanh thu khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch đạt 32.235Tr tăng bình quân hàng năm 7.8%.
V
I. NHỮNG TRANG SỬ VÀNG
–
Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới: 01 đơn vị
– Huân chương độc lập: 01 đơn vị
– Huân chương lao động hạng nhất: 3 đơn vị
– Huân chương lao động hạng nhì: 4 đơn vị
– Huân chương lao động hạng ba: 13 đơn vị
– Huân chương chiến công: 2
– Cờ thi đua của Chính phủ: 3
– Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ: 09
– Bằng khen của Bộ, cơ quan ngang Bộ: 60
– 06 Bà mẹ được tặng và Truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng
– 03 Anh hùng Lực lượng vũ trang;
– 5.056 người được nhà nước khen thưởng có công trong kháng chiến.
|
General introduction to Bim Son town
I. NATURAL CONDITIONS
Climate
Natural resources
Bim Son town has great potential, especially mineral potential to serve the construction industry. The area of the quarry in Bim Son is up to 1,052,730 hectares, accounting for about 15.9% of the total natural area. Limestone reserves in Bim Son are forecast to reach several billion cubic meters; The amount of limestone explored is more than 600 million m
3
. The quality of limestone in Bim Son has calcium oxide and magnesium oxide content, which is very suitable for cement production and is a good raw material for producing chemicals such as clay, light powder, road filter and ice making. tile. Bim Son also has shale of suitable quality to produce cement to replace plastic clay. Shale is the main raw material after limestone to produce Portland cement. Currently, explored shale reserves are more than 640 million tons; Reserves are forecast to reach billions of tons. In addition to the two raw materials on Bim Son, there is also plastic clay to make bricks and tiles, with enough reserves for brick and tile factories with a capacity of 100 million bricks/year. The underground water source in Bim Son's underground has been determined by Geological Team 47 to be in the form of carbonate groundwater, with quite abundant reserves to serve industrial production.
II. SOCIO-ECONOMIC SITUATION
III. SOCIOCULTURAL.
first.
Educations:
School units have performed well the work of testing, evaluating and grading students at the end of the year, summarizing the 2017-2018 school year; Consider recognizing secondary school diplomas for 738 9th grade students and consider completing the Primary school program for 923 students, preparing conditions for organizing the 2018 national high school graduation exam for 661 students (of which Bim Son High School: 306 students, Le Hong Phong High School: 239 hours; Secondary school: 96 students; private candidates: 20), preparing for admission to the first grade of the 2018-2019 school year; Established Steering Committee, promulgated the Plan for organizing the National High School Exam and enrolling students in 10th grade of High School for the 2017-2018 school year.
Carry out inspection and inventory of ranked and unclassified monuments and landscapes in the town; Develop a plan to organize an inspection of cultural service activities. Participating in the 8th Thanh Hoa Provincial Sports Festival, Bim Son town was ranked 4th in the entire group. Issued summer 2018 activity plan.
Propaganda activities on Radio and Television Stations and the Town's Electronic Information Portal are carried out well, with rich and diverse content contributing to propagandizing and disseminating activities of the Party, the State, agencies and units, businesses and schools in the area.
The field of Postal and Telecommunications services in Bim Son town has developed quite strongly in recent years. Up to now, the town has reached 74 telephones/100 people, the average ADSL internet usage is 6.5 subscribers/100 people. 100 people. The Town Party Committee, Unions, Town People's Committees, Commune and Ward People's Committees have connected to the internet and exchanged work via the WAN system.
Currently in the town there are 02 domestic water supply plants with a capacity of 16,000 m
3
/day and night managed by Bim Son Water Enterprise.
Medical system:
Bim Son General Hospital.
Bim Son Preventive Medicine Center
ACA Bim Son private hospital with 100 beds has opened and gone into operation.
Clinics of communes and wards;
There are 62 non-public medical examination and treatment facilities.
There are 05/8 communes and wards that have been recognized as communes and wards meeting national health standards.
Banking system:
Bim Son Industrial and Commercial Bank (Level 1 Branch)
Bim Son Investment Bank (Level 1 Branch)
Bim Son Agricultural Bank
Bim Son Social Policy Bank
VP Bank Bim Son Branch (Prosperous Vietnam)
ACB bank
Maritime Joint Stock Bank
Saigon Thuong Tin Commercial Bank (Sacombank)
Ngoc Son Credit Fund.
System of Sports Gymnasium - Cultural House:
Sports Stadium of Town - Ba Dinh Ward - Bim Son.
Sports stadium of Bim Son Cement Company - Dong Son Ward - Bim Son
Town Workers Theater - Ba Dinh Ward - Bim Son
Cultural and sports area of Ngoc Trao Ward
Hotel - Motel System:
In Bim Son area, there are currently 26 motels and hotels, including 22 motels and 04 hotels. With a total number of rooms of 261 rooms
.
Total revenue from hotels, restaurants, and tourism services reached 32,235 million, an average annual increase of 7.8%.
V
I. GOLDEN PAGES OF HISTORY
–
Labor heroes in the reform period: 01 unit
– Independence Medal: 01 unit
– First-class Labor Medal: 3 units
– Second class Labor Medal: 4 units
– Third class Labor Medal: 13 units
– Victory medal: 2
– Government emulation flag: 3
– Certificate of Merit from the Prime Minister: 09
– Certificates of merit from ministries and ministerial-level agencies: 60
– 06 Mothers were awarded and posthumously awarded the title of Vietnamese Heroic Mother
– 03 Heroes of the Armed Forces;
– 5,056 people were rewarded by the state for their contributions in the resistance war.
|
Giới thiệu khái quát huyện Mường Lát
Mường Lát là huyện vùng cao biên giới nằm ở tận cùng phía Tây bắc
tỉnh Thanh Hóa
, phía bắc giáp huyện Xốp Bâu; phía tây giáp huyện Viêng Xay (Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) với đường biên giới 110km; phía tây Đông Bắc giáp tỉnh Sơn La (với đường biên 30 km); phía đông giáp huyện Quan Hóa. Với vị trí đó, Mường Lát có thể “ Bắc tiến” phát triển về Sơn La; “ Tây tiến” sang nước bạn Lào. Cách trung tâm tỉnh Thanh Hóa (Thành phố Thanh Hóa) 246 km.
Nằm trong quá trình cải tạo hàng chục vạn năm của đồng bằng Trung Bộ, đất đai Mường Lát được hình thành chủ yếu do đá mẹ phong hóa tại chỗ. Địa hình bị chia cắt phức tạp, chủ yếu dốc, núi cao, tầng đất trung bình đất tươi xốp, phía trên cao cây rừng phát triển mạnh; phía sườn đất dốc, sói mòn, rửa trôi mạnh.
Mường Lát có mạng lưới sông, suối, chằng chịt, lớn nhất là sông mã, bắt nguồn từ Trung Quốc, qua nước bạn Lào chảy vào xã Tén Tằn, xã Tam Chung, Trung Lý về Quan Hóa.
Hệ thống giao thông đường bộ của huyện có quá trình phát triển rất sớm. Năm 1925, thực dân Pháp làm đường Thanh Hóa đi Quan Hóa (cũ) chiều dài 246 km. Sau đó là những đường liên huyện như: Quan Hóa đi Tam Chung; Quan Hóa đi Quang Chiểu… đó là những con đường trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tiếp tế lương thực, thực phẩm, quân tư trang… Hiện nay Mường Lát đã có hệ thống đường ô tô đến trung tâm xã, đường tỉnh lộ 520 chạy từ Quan Hóa đến Mường Chanh với tổng chiều dài 136km (trong đó qua Mường Lát 98km).
Huyện Mường Lát mặc dù mới bước sang tuổi 17, nhưng trong chiều sâu lịch sử nơi đây là một trong những địa bàn sinh tụ của người Việt Cổ.
Mường Xưa nằm trong châu Quan Da, phủ Thanh Đô. Năm minh mệnh thứ 10 (1829), dồn Tàm Châu vào Quan Da đổi làm châu Quan Hóa.Năm Tự Đức thứ 3 (1851) dồn Thạch Thành, Quảng Địa, Quan Hóa về phủ Quảng Hóa kiêm nhiếp gồm 10 động: Phú Lệ, Phú Xuân, Cổ Am, Ái Chư, Lực Canh, Hoa Dụ, Vân Lung, Đặc Kiệt, Bất Căng, Sơn Chênh. Đầu thế kỷ XX đến trước năm 1930, châu Quan Hóa có 12 tổng, sau đó chính quyền thực dân pháp cắt 4 tổng thành lập châu Tân Hóa, châu Quan Hóa còn lại 8 tổng. Huyện Mường Lát ngày nay có 2 tổng là tổng Lục Canh và tổng Qung Chiểu
– Tổng Lục Canh có 4 Mường: Mường Lát, Mường Lý, Mường Ai và Mường Chiềng Cồng. Diện tích 204km
2
; 1.430 khẩu; trung bình 7 người/km
2
– Tổng Quang Chiểu có 3 mường: Mường Pung, Mường Xim và Mường Chanh. Diện tích 391km
2
; dân so0os 720 người; mật độ trung bình 1 người hơn 1km
2
.
Sau cách mạng tháng 8 /1945, chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, quyết định bỏ cấp phủ, châu dưới tỉnh gọi là huyện, xã. Lúc này tổng Lực Canh đổi thành xã Tam Chung. Hai xã Tam Chung và Quang Chiểu thuộc huyện Quan Hóa, ngày 6/3/1963 theo quyết định số 30 – CP của Hội đồng Chính phủ ( nay là Chính Phủ) chia xã Tam Chung thành 3 xã mới là :
+ Xã Trung Lý gồm có các chòm: Tà Cóm, Tài Chánh, Co Cài, Nang, Cang, Xa Lăn, Táo, Phó và Đông.
+ Xã Tam Chung gồm có các chòm: Can, Nháp, Lát, Pong, Chung Lợi, Trung Lập, Buốn, Hia, Chiên,Thàng Công, Mòn, Canh, Đoàn Kết và Pù Nhịu.
+ Xã Pù Nhi gồm các chòm: Pù Cá, Pa Ay, Phá Hịa, Pha Đén, Hua Pù, Pa Hộc, Luốc Ha, Chim, Cơm, Pu Ngùa, Piềng Diếm và Pu Quản.
Ngày 14 tháng 12 năm 1984, thực hiện Quyết định số 163/HĐBT của Hội đồng Bộtrưởng chia xã Tam Chung thành 2 xã mới là xã Tén Tằn và xã Tam Chung, chia xã Quang Chiểu thành 2 xã là xã Mường Chanh và xã Quang Chiểu.
Xã Tén Tằn gồm 5 bản là Tân Lập, Đoàn Kết, Na Khà, Chòm Chiên và xã Tén Tằn.
Xã Tam Chung gồm 5 chòm bản: là Bản Lát, Na Poong, Pù nghiêu, Chòm Căn, Chòm Poong và Đông Ban.
Xã Quang Chiểu gồm 12 chòm bản là: Chòm Sáng, Chòm Poong, Chòm Cún, Chòm Sim, Chòm Pùng, Chòm Qua, Chòm Hạm, Chòm Mừng, Suối Tút, Pù Đứa, Còn Dao và Co Cài.
Xã Mường Chanh gồm 6 chòm bản là: Chòm Ngó, Na Hào, Chòm Bống, Chòm Cang, Chòm Chai và Chòm Lách.
Đến đây 6 xã : Trung Lý, Tam Chung, Pù Nhi, Tén Tằn, Quang Chiểu, Mường Chanh, ổn định về địa giới và quản lý các mặt thuộc huyện Quan Hóa cũ
Ngày 18 tháng 11 năm 1996, theo Nghị định 72 NĐ/CP của Chính Phủ, huyện Quan Hóa cũ chia thành 3 huyện, từ đây huyện Mường Lát chính thức có tên gọi gồm 6 xã vùng cao biên giới: Trung Lý, Tam Chung, Pù Nhi, Tén Tằn, Quang Chiểu, Mường Chanh. Sau gần 3 năm chia huyện ngày 5 tháng 9 năm 1999 Chính Phủ có Nghị định số 65/1999/NĐ-CP Thành lập xã Mường Lý thuộc Mường Lát, trên cơ sở 12.009ha diện tích và 3.874 nhân khẩu xã Trung Lý.
Ngày 31 tháng 12 năm 2003 theo Nghị định 131 của Chính Phủ chia xã Tam Chung thành 2 là: Thị trấn Mường Lát và xã Tam Chung. Thị trấn Mường Lát gồm các bản: bản Poong, bản Pom Buôi, bản Pom Khuông, bản Ón, Khu phố huyện và Trung tâm lâm trường Mường Lát. Xã Tam Chung gồm: bản Lát, bản Poong, bản Cân, bản suối Phái, bản Tân Hương, bản suối Lóng và một phần bản Pom Khuông, bản Hin Phăng, bản Ón.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008 Thành lập xã Nhi Sơn thuộc huyện Mường Lát trên cơ sở điều chỉnh 3.684,61 ha diện tích tự nhiên và 2.029 nhân khẩu của xã Pù Nhi.
Xã Nhi Sơn có 3.684,61 ha diện tích tự nhiên và 2.029 nhân khẩu.
Địa giới hành chính xã Nhi Sơn: Đông giáp xã Trung Lý, huyện Mường Lát; Tây giáp xã Pù Nhi, huyện Mường Lát; Nam giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Bắc giáp xã Tam Chung và thị trấn Mường Lát huyện Mường Lát.
Đến nay huyện Mường Lát có 8 xã và 1 thị trấn với số dân 35.536 người (năm 2012) gồm 6 dân tộc anh em cùng chung sống: Thái, Mông, Khơ Mú, Dao, Kinh, Mường mỗi dân tộc lại mang sắc thái riêng./.
|
General introduction of Muong Lat district
Muong Lat is a border highland district located in the far northwest
Thanh Hoa province
, bordering Xop Bau district to the north; The west borders Vieng Xay district (Lao People's Democratic Republic) with a border of 110km; The West and Northeast borders Son La province (with a 30 km border); The east borders Quan Hoa district. With that location, Muong Lat can "go North" to develop towards Son La; "Go West" to our friend country Laos. 246 km from the center of Thanh Hoa province (Thanh Hoa City).
During the tens of thousands of years of reclamation process in the Central Delta, Muong Lat land was formed mainly by on-site weathering of parent rocks. The terrain is complexly divided, mainly steep, high mountains, medium soil layer, fresh and spongy soil, high growth of forest trees; On steep slopes, strong erosion and washing away.
Muong Lat has an intricate network of rivers and streams, the largest of which is the Ma River, originating from China, passing through Laos, flowing into Ten Tan commune, Tam Chung commune, Trung Ly commune to Quan Hoa.
The district's road transport system has a very early development process. In 1925, the French colonialists built the Thanh Hoa to Quan Hoa (old) road with a length of 246 km. Then there are inter-district roads such as: Quan Hoa to Tam Chung; Quan Hoa to Quang Chieu... those were the roads during the resistance war against the French colonialists to supply food, food, military equipment... Currently, Muong Lat has a system of motorways to the commune center, provincial roads 520 runs from Quan Hoa to Muong Chanh with a total length of 136km (of which 98km passes through Muong Lat).
Although Muong Lat district has just turned 17 years old, in its depth of history it is one of the birthplaces of the Ancient Vietnamese people.
Muong Xua was located in Quan Da district, Thanh Do district. In the 10th year of Minh Menh (1829), Tam Chau was gathered into Quan Da and changed to Quan Hoa province. In the 3rd year of Tu Duc (1851), Thach Thanh, Quang Dia and Quan Hoa were gathered into Quang Hoa district and included 10 caves: Phu Le. , Phu Xuan, Co Am, Ai Chu, Luc Canh, Hoa Du, Van Lung, Dat Kiet, Bat Cang, Son Dinh. In the early 20th century until 1930, Quan Hoa district had 12 cantons, then the French colonial government cut 4 cantons to form Tan Hoa district, Quan Hoa district had 8 remaining cantons. Muong Lat district today has 2 cantons: Luc Canh canton and Quang Chieu canton
– Luc Canh district has 4 Muong: Muong Lat, Muong Ly, Muong Ai and Muong Chieng Cong. Area 204km
2
; 1,430 guns; Average 7 people/km
2
– Quang Chieu district has 3 villages: Muong Pung, Muong Xim and Muong Chanh. Area 391km
2
; So0os population 720 people; The average density per person is more than 1km
2
.
After the August 1945 revolution, the government of the Democratic Republic of Vietnam decided to abolish the government and sub-province levels called districts and communes. At this time, Luc Canh district was changed to Tam Chung commune. The two communes Tam Chung and Quang Chieu belong to Quan Hoa district. On March 6, 1963, according to Decision Không. 30 - CP of the Government Council (now the Government), Tam Chung commune was divided into 3 new communes:
+ Trung Ly commune includes the constellations: Ta Com, Tai Chanh, Co Cai, Nang, Cang, Xa Lan, Tao, Pho and Dong.
+ Tam Chung commune includes the constellations: Can, Nhap, Lat, Pong, Chung Loi, Trung Lap, Buon, Hia, Chien, Thang Cong, Mon, Canh, Doan Ket and Pu Nhiu.
+ Pu Nhi commune includes the following constellations: Pu Ca, Pa Ay, Pha Hia, Pha Den, Hua Pu, Pa Hoc, Luoc Ha, Chim, Com, Pu Ngua, Pieng Diem and Pu Quan.
On December 14, 1984, implementing Decision Không. 163/HDBT of the Council of Ministers divided Tam Chung commune into 2 new communes, Ten Tan commune and Tam Chung commune, dividing Quang Chieu commune into 2 communes, Muong Chanh commune and Quang commune. Chieu.
Ten Tan commune includes 5 villages: Tan Lap, Doan Ket, Na Kha, Chom Chien and Ten Tan commune.
Tam Chung commune includes 5 villages: Ban Lat, Na Poong, Pu Nghieu, Chom Can, Chom Poong and Dong Ban.
Quang Chieu commune includes 12 village constellations: Chom Sang, Chom Poong, Chom Cun, Chom Sim, Chom Pung, Chom Qua, Chom Ham, Chom Mung, Suoi Tut, Pu Dua, Con Dao and Co Cai.
Muong Chanh commune includes 6 hamlets: Chom Ngo, Na Hao, Chom Bong, Chom Cang, Chom Chai and Chom Lach.
Coming here, 6 communes: Trung Ly, Tam Chung, Pu Nhi, Ten Tan, Quang Chieu, Muong Chanh, are stable in terms of boundaries and manage all aspects of the old Quan Hoa district.
On November 18, 1996, according to Decree 72 ND/CP of the Government, the old Quan Hoa district was divided into 3 districts, from here Muong Lat district officially had the name including 6 border highland communes: Trung Ly, Tam Chung , Pu Nhi, Ten Tan, Quang Chieu, Muong Chanh. After nearly 3 years of district division, on September 5, 1999, the Government issued Decree Không. 65/1999/ND-CP establishing Muong Ly commune in Muong Lat, on the basis of 12,009 hectares of area and 3,874 inhabitants of Trung Ly commune.
On December 31, 2003, according to Decree 131 of the Government, Tam Chung commune was divided into 2: Muong Lat town and Tam Chung commune. Muong Lat town includes the following villages: Poong village, Pom Buoi village, Pom Khuong village, On village, District Quarter and Muong Lat Forest Enterprise Center. Tam Chung commune includes: Lat village, Poong village, Can village, Phai stream village, Tan Huong village, Long stream village and part of Pom Khuong village, Hin Phang village, On village.
December 23, 2008 Established Nhi Son commune in Muong Lat district on the basis of adjusting 3,684.61 hectares of natural area and 2,029 people of Pu Nhi commune.
Nhi Son commune has 3,684.61 hectares of natural area and 2,029 people.
Administrative boundaries of Nhi Son commune: East borders Trung Ly commune, Muong Lat district; West borders Pu Nhi commune, Muong Lat district; The South borders the Lao People's Democratic Republic; The North borders Tam Chung commune and Muong Lat town, Muong Lat district.
Up to now, Muong Lat district has 8 communes and 1 town with a population of 35,536 people (in 2012) including 6 ethnic groups living together: Thai, Mong, Kho Mu, Dao, Kinh, Muong, each ethnic group has its own characteristics. private./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Lang Chánh
Lang Chánh là huyện miền núi của tỉnh Thanh Hoá, nằm gần khu đô thị miền Tây của tỉnh và trên trục giao lưu chủ yếu với Tây Bắc của vùng miền núi Thanh Hoá, nên có vai trò rất quan trọng về KT-XH và an ninh- quốc phòng của tỉnh Thanh Hoá và vùng trung du- miền núi.
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
1.Vị trí địa lý:
Lang Chánh là huyện miền núi cao nằm ở phía Tây -Tây Bắc của
tỉnh Thanh Hóa
, có diện tích tự nhiên là 58.659,18 ha chiếm 5,3% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số năm 2008 là 48.794 người, mật độ dân số 83 người/km
2
, (theo tổng điều tra dân số 1/4/2009 thì dân số toàn huyện là 45.637 người, mật độ dân số 78 người/km
2
, giảm 3.157 người so với năm 2008), có 11 đơn vị hành chính (gồm 10 xã và 1 thị trấn huyện). Trung tâm huyện lỵ cách thành phố Thanh Hóa 100 km về phía Tây – Tây Bắc, cách đô thị miền Tây của tỉnh 16 km về phía Tây. Phía Bắc giáp huyện Bá Thước, phía Nam giáp huyện Thường Xuân, phía Đông giáp huyện Ngọc Lặc, phía Tây giáp huyện Quan Sơn và Piềng Xây Sầm Tớ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Tọa độ địa lý:
Từ 20
0
00’ 13” -20
0
18’ 15”
Từ 105
0
17’ 30” – 105
0
45’ 20”
Vị trí địa kinh tế:
Lang Chánh có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế – xã hội, quốc phòng- an ninh của Thanh Hoá, khu vực Tây Bắc và cả nước. Là vùng đầu nguồn của các hệ thống sông suối của tỉnh Thanh Hoá, có ý nghĩa rất lớn và quan trọng về vị trí phòng hộ, dự trữ nguồn nước, giảm tác động thiên tai và bảo vệ môi trường sinh thái đối với cả tỉnh. Có quốc lộ 15A chạy qua, nối miền núi với các huyện đồng bằng, các trung tâm phát triển của tỉnh, thành phố Thanh Hóa và các tỉnh, thành phố trong cả nước, với nước bạn Lào; là điều kiện thuận lợi cho giao lưu, hợp tác và liên kết phát triển. Có 7 km đường biên với Lào và đồn biên phòng 503, thuận lợi cho phát triển kinh tế cửa khẩu, kinh tế vùng biên; xây dựng biên giới hòa bình, hợp tác và hữu nghị.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên:
Địa hình:
Lang Chánh nằm ở khu vực miền núi có địa hình cao và phức tạp, nhiều núi cao, độ dốc lớn và chia cắt mạnh bởi các đồi núi, sông, suối… gây trở ngại lớn cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là cho xây dựng kết cấu hạ tầng; độ cao trung bình toàn huyện từ 500 m-700 m (so với mặt nước biển), cao nhất là đỉnh Bù Rinh 1.291 m, địa hình thấp dần từ Tây Bắc
|
General introduction of Lang Chanh district
Lang Chanh is a mountainous district of Thanh Hoa province, located near the western urban area of the province and on the main exchange axis with the Northwest of Thanh Hoa mountainous region, so it plays a very important role in terms of socio-economic and security. security and defense of Thanh Hoa province and the midland and mountainous regions.
Geographic location, natural conditions:
1.Geographical location:
Lang Chanh is a high mountainous district located in the West-Northwest of Vietnam
Thanh Hoa province
, has a natural area of 58,659.18 hectares, accounting for 5.3% of the total natural area of the province. The population in 2008 was 48,794 people, population density 83 people/km
2
, (according to the April 1, 2009 census, the district's population is 45,637 people, population density is 78 people/km
2
, down 3,157 people compared to 2008), has 11 administrative units (including 10 communes and 1 district town). The district center is 100 km west-northwest of Thanh Hoa city, 16 km west of the province's western urban area. The North borders Ba Thuoc district, the South borders Thuong Xuan district, the East borders Ngoc Lac district, the West borders Quan Son and Pieng Xay Sam To districts of the Lao People's Democratic Republic.
Geographical coordinates:
From 20
0
00’ 13” -20
0
18’ 15”
From 105
0
17’ 30” – 105
0
45’ 20”
Economic location:
Lang Chanh has an important strategic position in terms of economy - society, defense - security of Thanh Hoa, the Northwest region and the whole country. As the upstream area of Thanh Hoa province's river and stream systems, it has great significance and importance in terms of protection, water reserve, reducing the impact of natural disasters and protecting the ecological environment for the whole province. . There is National Highway 15A running through, connecting mountainous areas with delta districts, development centers of the province, Thanh Hoa city and provinces and cities throughout the country, with Laos; are favorable conditions for exchange, cooperation and development links. There is a 7 km border with Laos and border post 503, which is convenient for the development of the border gate economy and border area economy; building borders of peace, cooperation and friendship.
Natural conditions and natural resources:
Topographic:
Lang Chanh is located in a mountainous area with high and complex terrain, many high mountains, steep slopes and strong separation by hills, rivers, streams... causing great obstacles to socio-economic development, especially especially for infrastructure construction; The average altitude of the entire district is from 500 m to 700 m (above sea level), the highest is Bu Rinh peak at 1,291 m, the terrain gradually lowers from the Northwest.
|
Giới thiệu khái quát huyện Quan Hoá
Quan Hoá là huyện vùng cao, biên giới, cách trung tâm
tỉnh Thanh Hoá
140 km về phía Tây, theo quốc lộ 47 và quốc lộ 15A. Toàn huyện có 17 xã và 01 thị trấn, 123 chòm bản, khu phố với tổng diện tích tự nhiệm 99.013,68 ha. Phía Bắc giáp huyện Vân Hồ tỉnh Sơn La; Hhuyện Mai Châu Tỉnh Hòa BÌnh. Phía Nam giáp với huyện Viêng Xay tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào và huyện Quan Sơn. Phía Đông giáp với huyện Bá Thước, và có chung đường biên giới 4,8km với nước bạn Lào tại xã Hiền Kiệt.
Toàn huyện có 10.762 hộ với 47.335 người, gồm 5 dân tộc anh em sinh sống: Dân tộc Thái chiếm 65,61%; Dân tộc Mường chiếm 24,,48%; Dân tộc Kinh chiếm 8,97%; Dân tộc H, Mông chiếm 0,82% và Dân tộc Hoa 0,12%. Quan Hóa là 01 trong 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Trong những năm qua an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh biên giới, lãnh thổ tương đối ổn định.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Trung ương, tỉnh nhiều chủ trương, chính sách được đầu tư vào huyện đã làm thay đổi căn bản hệ thống cơ hạ tầng, đời sống của nhân dân. Điều này đã được đánh giá cụ thể trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXI, nhiệm kỳ 2010 – 2015, kết quả trên một số lĩnh vực:
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 15,81%, tăng 3,31% so với nhiệm kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, năm 2015 tỷ trọng nông – lâm nghiệp chiếm 52,1%, công nghiệp – xây dựng 22,3%; dịch vụ – thương mại 25,6%; Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 14,962 triệu đồng, tăng 8,972 triệu đồng so với năm 2010. Thu NSS địa phương năm 2015 đạt17.580 triệu đồng, bằng 120,4 % so CK
Tổng giá trị sản xuất ngành Công nghiệp – xây dựng năm 2015 đạt 194,042 tỷ đồng.
Các ngành dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô và loại hình dịch vụ, chất lượng từng bước được nâng lên. Tổng giá trị sản xuất dịch vụ – thương mại năm 2015 đạt 221,761 tỷ đồng.
– Văn hoá – xã hộicó chuyển biến tích cực; an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm chăm lo; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước đượccải thiện.
Chất lượng giáo dục đại trà được cải thiện; phổ cập giáo dục tiểu học, THCS được giữ vững;
hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi
;
cơ sở vật chất trường lớp, học được cải thiện; kiện toàn lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đã cơ bản khắc phục được tình trạng thừa, thiếu giáo viên; 100% giáo viên đạt chuẩn về bằng cấp; số trường đạt chuẩn quốc gia được nâng lên 11/54 trường.
– Hoạt động văn hóa thông tin đạt nhiều kết quả tích cực, hoạt động tuyên truyền luôn gắn với các nhiệm vụ chính trị của cả nước, tỉnh, huyện như: tuyên truyền về:Chỉ thị số 03 của Bộ chính trịPhong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trương 4 khóa XI Về một số vấn đề cấp bách xây dựng đảng hiện nay”; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020.
– Quốc phòng – an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, an ninh biên giới và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác tuyển quân hàng năm luôn hoàn thành 100% chỉ tiêu giao.
– Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được sắp xếp, xây dựng ngày càng vững mạnh.
Đặc biệt trong năm 2015, huyện đã chỉ đạo và tổ chức thành công Đại hội Đảng cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020.
Để đạt được những kết quả trên đó là sự nổ lực, cố gắng, phấn đấu của cả hệ thống chính trị và tầng lớp nhân dân huyện Quan Hóa và trong đó có sự đóng góp tích cực của các cơ quan báo trí, đài truyền thanh –truyền hình, trung ương và địa phương.
Kính thưa các đồng chí. Trong những năm qua Đảng bộ, chính quyền nhân dân huyện Quan Hóa đã xác định công tác thông tin, truyền truyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Do đó huyện Quan Hóa đã ký kết, đăng tin, đăng bài tuyên truyền và các hoạt động, chỉ đạo điều hành của huyện với nhiều tờ báo của Trung ương và địa phương, trong đó có báo Thanh Hóa. Tuy nhiên việc ký kết, phối hợp mới dừng lại ở các sự vụ, sự việc chưa có sự ký kết phối hợp thành chương trình, kế hoạch lâu dài.
Để công tác thông tin tuyên truyền về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội của huyện Quan Hóa được phản ánh toàn diện đến với nhân dân; công tác chỉ đạo, điều hành của UBND huyện được phản ánh kịp thời nhằm định hướng dư luận, tạo niềm tin và sự ổn định xã hội, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân huyện nhà thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của huyện. Việc hôm nay giữa huyện Quan Hóa – Báo Thanh Hóa ký kết chương trình phối hợp là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, phục vụ cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền huyện Quan Hóa, qua đó, từng bước thực hiện mục tiêu công khai, dân chủ, tôn trọng và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực triển khai thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đề ra.
Để phấn đấu đến năm 2020, đưa Quan Hóa trở thành huyện khá của tỉnh, Đảng bộ, chính quyền nhân dân huyện, trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện xác định, đưa ra một số chương trình, kế hoạch trọng tâm lớn cần phải tập trung chỉ đạo trong giai đoạn 2016 – 2020, đó là:
1. Về kinh tế:
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020; Đề án Thực hiện chương trình trọng tâm Nghị quyết huyện Đảng bộ Khóa XXII – nhiệm kỳ 2015-2020 về công tác giảm nghèo nhanh bền vững, gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn mới; đề án “tiếp tục thực hiện Chương trình phát triển rừng sản xuất, gắn với công nghiệp chế biến lâm sản, giai đoạn 2015-2020”; Chương trình xây dựng nông thôn mới; Đề án phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm giai đoạn 2016-2020; các chương trình, dự án, đề án thuộc các chương trình: Chương trình 30 a, Chương trình 135…
2. Về văn hóa – xã hội:
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”;Chương trình phát triển du lịch sinh thái – văn hóa; Đề án trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 2016-2020; Đề án xây dựng đề án xã đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2016 – 2020;
3. Về an ninh – Quốc phòng: Tiếp tục tổ chức thực hiện Đề án 560/ĐA-UBND, ngày 26/11/2012 của UBND huyện về phòng, chống tội phạm có tổ chức trên địa bàn huyện Quan Hóa.
4. Về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị:
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt: Về chủ trương, Nghị quyết Chỉ thị lớn của Đảng, Nhà nước, như: Chỉ thị số 03 của Bộ chính trị “về cuộc vận động và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về “ Một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay”; Đề án về Chương trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ…
|
Giới thiệu khái quát huyện Quan Hoá
Quan Hoá là huyện vùng cao, biên giới, cách trung tâm
tỉnh Thanh Hoá
140 km về phía Tây, theo quốc lộ 47 và quốc lộ 15A. Toàn huyện có 17 xã và 01 thị trấn, 123 chòm bản, khu phố với tổng diện tích tự nhiệm 99.013,68 ha. Phía Bắc giáp huyện Vân Hồ tỉnh Sơn La; Hhuyện Mai Châu Tỉnh Hòa BÌnh. Phía Nam giáp với huyện Viêng Xay tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào và huyện Quan Sơn. Phía Đông giáp với huyện Bá Thước, và có chung đường biên giới 4,8km với nước bạn Lào tại xã Hiền Kiệt.
Toàn huyện có 10.762 hộ với 47.335 người, gồm 5 dân tộc anh em sinh sống: Dân tộc Thái chiếm 65,61%; Dân tộc Mường chiếm 24,,48%; Dân tộc Kinh chiếm 8,97%; Dân tộc H, Mông chiếm 0,82% và Dân tộc Hoa 0,12%. Quan Hóa là 01 trong 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Trong những năm qua an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh biên giới, lãnh thổ tương đối ổn định.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Trung ương, tỉnh nhiều chủ trương, chính sách được đầu tư vào huyện đã làm thay đổi căn bản hệ thống cơ hạ tầng, đời sống của nhân dân. Điều này đã được đánh giá cụ thể trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXI, nhiệm kỳ 2010 – 2015, kết quả trên một số lĩnh vực:
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 15,81%, tăng 3,31% so với nhiệm kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, năm 2015 tỷ trọng nông – lâm nghiệp chiếm 52,1%, công nghiệp – xây dựng 22,3%; dịch vụ – thương mại 25,6%; Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 14,962 triệu đồng, tăng 8,972 triệu đồng so với năm 2010. Thu NSS địa phương năm 2015 đạt17.580 triệu đồng, bằng 120,4 % so CK
Tổng giá trị sản xuất ngành Công nghiệp – xây dựng năm 2015 đạt 194,042 tỷ đồng.
Các ngành dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô và loại hình dịch vụ, chất lượng từng bước được nâng lên. Tổng giá trị sản xuất dịch vụ – thương mại năm 2015 đạt 221,761 tỷ đồng.
– Văn hoá – xã hộicó chuyển biến tích cực; an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm chăm lo; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước đượccải thiện.
Chất lượng giáo dục đại trà được cải thiện; phổ cập giáo dục tiểu học, THCS được giữ vững;
hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi
;
cơ sở vật chất trường lớp, học được cải thiện; kiện toàn lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đã cơ bản khắc phục được tình trạng thừa, thiếu giáo viên; 100% giáo viên đạt chuẩn về bằng cấp; số trường đạt chuẩn quốc gia được nâng lên 11/54 trường.
– Hoạt động văn hóa thông tin đạt nhiều kết quả tích cực, hoạt động tuyên truyền luôn gắn với các nhiệm vụ chính trị của cả nước, tỉnh, huyện như: tuyên truyền về:Chỉ thị số 03 của Bộ chính trịPhong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trương 4 khóa XI Về một số vấn đề cấp bách xây dựng đảng hiện nay”; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020.
– Quốc phòng – an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, an ninh biên giới và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác tuyển quân hàng năm luôn hoàn thành 100% chỉ tiêu giao.
– Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được sắp xếp, xây dựng ngày càng vững mạnh.
Đặc biệt trong năm 2015, huyện đã chỉ đạo và tổ chức thành công Đại hội Đảng cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020.
Để đạt được những kết quả trên đó là sự nổ lực, cố gắng, phấn đấu của cả hệ thống chính trị và tầng lớp nhân dân huyện Quan Hóa và trong đó có sự đóng góp tích cực của các cơ quan báo trí, đài truyền thanh –truyền hình, trung ương và địa phương.
Kính thưa các đồng chí. Trong những năm qua Đảng bộ, chính quyền nhân dân huyện Quan Hóa đã xác định công tác thông tin, truyền truyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Do đó huyện Quan Hóa đã ký kết, đăng tin, đăng bài tuyên truyền và các hoạt động, chỉ đạo điều hành của huyện với nhiều tờ báo của Trung ương và địa phương, trong đó có báo Thanh Hóa. Tuy nhiên việc ký kết, phối hợp mới dừng lại ở các sự vụ, sự việc chưa có sự ký kết phối hợp thành chương trình, kế hoạch lâu dài.
Để công tác thông tin tuyên truyền về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội của huyện Quan Hóa được phản ánh toàn diện đến với nhân dân; công tác chỉ đạo, điều hành của UBND huyện được phản ánh kịp thời nhằm định hướng dư luận, tạo niềm tin và sự ổn định xã hội, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân huyện nhà thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của huyện. Việc hôm nay giữa huyện Quan Hóa – Báo Thanh Hóa ký kết chương trình phối hợp là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, phục vụ cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền huyện Quan Hóa, qua đó, từng bước thực hiện mục tiêu công khai, dân chủ, tôn trọng và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực triển khai thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đề ra.
Để phấn đấu đến năm 2020, đưa Quan Hóa trở thành huyện khá của tỉnh, Đảng bộ, chính quyền nhân dân huyện, trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện xác định, đưa ra một số chương trình, kế hoạch trọng tâm lớn cần phải tập trung chỉ đạo trong giai đoạn 2016 – 2020, đó là:
1. Về kinh tế:
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020; Đề án Thực hiện chương trình trọng tâm Nghị quyết huyện Đảng bộ Khóa XXII – nhiệm kỳ 2015-2020 về công tác giảm nghèo nhanh bền vững, gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn mới; đề án “tiếp tục thực hiện Chương trình phát triển rừng sản xuất, gắn với công nghiệp chế biến lâm sản, giai đoạn 2015-2020”; Chương trình xây dựng nông thôn mới; Đề án phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm giai đoạn 2016-2020; các chương trình, dự án, đề án thuộc các chương trình: Chương trình 30 a, Chương trình 135…
2. Về văn hóa – xã hội:
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”;Chương trình phát triển du lịch sinh thái – văn hóa; Đề án trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 2016-2020; Đề án xây dựng đề án xã đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2016 – 2020;
3. Về an ninh – Quốc phòng: Tiếp tục tổ chức thực hiện Đề án 560/ĐA-UBND, ngày 26/11/2012 của UBND huyện về phòng, chống tội phạm có tổ chức trên địa bàn huyện Quan Hóa.
4. Về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị:
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt: Về chủ trương, Nghị quyết Chỉ thị lớn của Đảng, Nhà nước, như: Chỉ thị số 03 của Bộ chính trị “về cuộc vận động và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về “ Một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay”; Đề án về Chương trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ…
|
Giới thiệu khái quát huyện Như Xuân
Là một huyện miền núi cao, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa 60 km về phía Tây Nam. Như Xuân có 18 xã, thị trấn, với 4 dân tộc chính, trong đó có 3 dân tộc thiểu số là Thái, Mường, Thổ. Với 23 di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, trong đó mới chỉ có 4 di tích danh thắng được công nhận di tích cấp tỉnh, những năm gần đây, huyện đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, khôi phục và phát huy các trò chơi, trò diễn dân gian của đồng bào các dân tộc gắn với việc đẩy mạnh phát triển du lịch.
Điểm du lịch hấp dẫn đầu tiên chính là Vườn Quốc gia Bến En thuộc địa phận huyện Như Thanh và Như Xuân. Đây là nơi sinh sống của nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Đến với Bến En được hòa mình vào thiên nhiên và thưởng ngoạn một quần thể du lịch vừa có núi, có rừng, có sông hồ và hang động là điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh. Đây cũng chính là cơ hội dành cho 5 xã Bình Lương, Tân Bình, Hóa Quỳ, Xuân Quỳ, Xuân Hòa của huyện Như Xuân nằm trong địa phận của Vườn Quốc gia Bến En đẩy mạnh, khai thác tiềm năng sẵn có về du lịch, phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Dù vậy, việc định hướng phát triển cho 5 xã trên vẫn chỉ là tiềm năng mà chưa bất cứ quy hoạch hay mục tiêu nào.
Bên cạnh đó, lễ hội Đình Thi, một lễ hội nổi tiếng của đồng bào dân tộc Thổ, thuộc thôn Trung Thành, xã Yên Lễ được tổ chức để tri ân, tưởng nhớ công đức danh tướng Lê Phúc Thành – Người có công lớn giúp Lê Lợi đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh. Sau khi khởi nghĩa giành thắng lợi, ông được phong lộc điền ở làng Sẹt, tức làng Trung Thành, xã Yên Lễ ngày nay, khai khẩn đất đai, dựng làng, lập ấp mang lại cuộc sống ấm no cho dân làng. Sau khi ông mất được nhân dân trong vùng tôn vinh làm Thành Hoàng và xây dựng Đình Thi. Lễ hội Đình Thi 3 năm được tổ chức đại lễ vào những dịp đầu năm mới là điểm đến tâm linh đồng thời là nơi giao lưu văn hóa, văn nghệ, các trò chơi, trò diễn dân gian hấp dẫn nhân dân, du khách. Hiện, Đình còn lưu giữ 2 sắc phong thời Nguyễn do vua Khải Định và Bảo Đại năm 1922 và 1934. Đình Thi được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng lễ hội Đình Thi được xem là “đặc sản” văn hóa truyền thống của Như Xuân thu hút được sự quan tâm của đông đảo du khách mỗi khi tổ chức. Đây cũng chính là điểm nhấn để huyện Như Xuân tập trung đầu tư phát triển du lịch.
Đến Như Xuân, đặc biệt vào những ngày hè nóng bức, du khách đừng bỏ qua địa điểm du lịch sinh thái thác Đồng Quan, thuộc thôn Đồng Quan, xã Hóa Quỳ. Đây là nơi có vị trí địa lý hết sức độc đáo, Thác Đồng Quan bắt nguồn từ đỉnh núi Bù Mùn, cao hơn 1.000m so với mức nước biển qua các lũng núi rồi tạo thành dòng chảy không ngừng. Mùa hè đến nơi đây có không khí mát mẻ trong lành, thác nước đổ xuống cuồn cuộn tung bọt trắng xóa.Vùng nước rộng dưới chân thác trong suốt như pha lê, nhìn xuyên suốt tận đáy. Những ngày nắng nóng, đắm mình trong làn nước mát và không gian rừng nguyên sinh tràn ngập màu xanh là điều rất thú vị. Ngày 14/03/2016 huyện Như Xuân tổ chức lễ công bố quyết định số 180/QĐ/UBND, ngày 15 tháng 01 năm 2016 UBND tỉnh về việc xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh thác Đồng Quan xã Hóa Quỳ. Di tích Thác Đồng Quan nằm trong khu vực cư trú của đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Thổ, ở đây các bản làng của các dân tộc người còn bảo tồn được những nét đặc sắc như các phong tục tập quán, các làn điệu dân ca, nghề thủ công truyền thống, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống… trở thành một nơi danh lam thắng cảnh lý thú và là tiềm năng du lịch sinh thái cộng đồng.
Sự kiện thác Đồng Quan được công nhận di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh có ý nghĩa quan trọng, được xem là cơ hội mới để Như Xuân đẩy mạnh phát triển du lịch, đặc biệt du lịch cộng đồng. Hiện huyện Như Xuân đang tập trung mọi nguồn lực để xây dựng di tích danh lam thắng cảnh thác Đồng Quan trở thành một điểm du lịch lý thú, cho những ai thích khám phá, như xây dựng bể bơi, trồng cây, hoa 2 bên đường đi vào thác, xây dựng cầu, làm đường đi lên thác,xây dựng máng trượt, khu ăn uống ẩm thực,để sớm đưa vào khai thác .Du khách đến đây ngoài việc được chiêm ngưỡng cảnh quan, được đắm mình trong dòng nước trong vắt,còn được thưởng thức các món ăn dân tộc, nguyên liệu chủ yếu là sẵn có ở địa phương. Ngoài những điểm du lịch trọng điểm như vườn Quốc gia Bến En, Lễ hội Đình Thi, thác Đồng Quan…thì thác Cổng Tròi, hang Dơi.., đặc biệt lễ hội Dâng trâu tế trời, đền Chín gian của cộng đồng dân tộc Thái tại Xã Thanh Quân sẽ hoàn thiện, tổ chức lễ hội vào đầu năm 2017 hứa hẹn là địa điểm hấp dẫn nhân dân địa phương và du khách./.
|
General introduction of Nhu Xuan district
Is a high mountainous district, 60 km southwest of Thanh Hoa city center. Nhu Xuan has 18 communes and towns, with 4 main ethnic groups, including 3 ethnic minorities: Thai, Muong, Tho. With 23 historical-cultural relics and scenic spots, of which only 4 are recognized as provincial-level relics, in recent years, the district has paid special attention to preserving the values traditional culture, restoring and promoting folk games and performances of ethnic minorities associated with promoting tourism development.
The first attractive tourist destination is Ben En National Park in Nhu Thanh and Nhu Xuan districts. This is the habitat of many rare species of animals and plants. Coming to Ben En, you can immerse yourself in nature and enjoy a tourist complex with mountains, forests, rivers, lakes and caves, which is an attractive destination for tourists inside and outside the province. This is also an opportunity for the 5 communes of Binh Luong, Tan Binh, Hoa Quy, Xuan Quy, Xuan Hoa of Nhu Xuan district located within the territory of Ben En National Park to promote and exploit the available tourism potential. , local economic and social development. However, the development orientation for the above 5 communes is still just potential without any planning or goals.
In addition, Dinh Thi festival, a famous festival of the Tho ethnic group, in Trung Thanh village, Yen Le commune, is held to express gratitude and commemorate the merits of famous general Le Phuc Thanh - a man of great merit. Helped Le Loi expel the Ming invaders. After the uprising won, he was awarded land in Set village, which is Trung Thanh village, Yen Le commune today, cleared land, built villages and hamlets to bring a prosperous life to the villagers. After his death, the people of the area honored him as Thanh Hoang and built Dinh Thi. The 3-year Dinh Thi Festival is held grandly at the beginning of the new year and is a spiritual destination as well as a place for cultural and artistic exchanges, games, and folk performances to attract people and tourists. Currently, the Dinh still retains two Nguyen dynasty conferments by King Khai Dinh and Bao Dai in 1922 and 1934. Dinh Thi was recognized as a provincial-level historical and cultural relic in 1995. Although still facing many difficulties, the festival Dinh Thi is considered a traditional cultural "specialty" of Nhu Xuan, attracting the attention of many tourists every time it is organized. This is also the highlight for Nhu Xuan district to focus on investing in tourism development.
Coming to Nhu Xuan, especially on hot summer days, visitors should not miss the eco-tourism site of Dong Quan waterfall, located in Dong Quan village, Hoa Quy commune. This is a place with a very unique geographical location, Dong Quan Waterfall originates from the top of Bu Mun mountain, 1,000m above sea level through mountain valleys and creates a continuous flow. When summer comes here, the air is cool and fresh, the waterfall pours down with white foam. The wide water area at the foot of the waterfall is as transparent as crystal, visible all the way to the bottom. On hot sunny days, immersing yourself in the cool water and the primeval forest space filled with green is very enjoyable. On March 14, 2016, Nhu Xuan district held a ceremony to announce decision Không. 180/QD/UBND, dated January 15, 2016 of the Provincial People's Committee on ranking the Dong Quan waterfall scenic relic in Hoa Quy commune. Dong Quan Waterfall relic is located in the residential area of the Thai, Muong, and Tho ethnic groups. Here, the villages of these ethnic groups still preserve unique features such as customs and traditions. Folk songs, traditional crafts, culinary culture, traditional costumes... become an interesting scenic place and potential for community ecotourism.
The fact that Dong Quan waterfall was recognized as a provincial-level scenic relic has important significance, and is considered a new opportunity for Nhu Xuan to promote tourism development, especially community tourism. Currently, Nhu Xuan district is focusing all resources to build the Dong Quan waterfall scenic relic into an interesting tourist destination for those who like to explore, such as building swimming pools, planting trees and flowers on both sides. road to the waterfall, building a bridge, building a road to the waterfall, building a slide, a dining area, to soon be put into operation. Tourists come here in addition to admiring the landscape, immersing themselves in the stream. Clear water, you can also enjoy ethnic dishes, ingredients are mainly available locally. In addition to key tourist attractions such as Ben En National Park, Dinh Thi Festival, Dong Quan waterfall..., Cong Troi waterfall, Bat cave..., especially the Buffalo Sacrifice Festival, Nine Gian Temple of the ethnic community Thai in Thanh Quan Commune will be completed and hold a festival in early 2017, promising to be an attractive place for local people and tourists./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thạch Thành
Thạch Thành là huyện miền núi phía bắc
tỉnh Thanh Hóa
, giáp với Hòa Bình, có diện tích đất tự nhiên 55.919 ha, trong đó hơn một nửa là đất rừng, núi đá; có 26 xã và hai thị trấn, 230 thôn, bảy bản thuộc vùng sâu, vùng xa. Dân số gần 235 nghìn người, hơn một nửa là dân tộc Mường và một số ít người dân tộc khác.
Hành chính:
+ Diện tích: 558,1km2
+ Dân số: 133.600 người (2004)
+ Mật độ dân số: 239 người/km2
+ Bao gồm 2 thị trấn và 26 xã:
Thị trấn Kim Tân
Thị trấn Vân Du
01. Thành Kim
02. Thành Tâm
03. Thành An
04. Thành Thọ
05. Thành Tiến
06. Thành Minh
07. Thành Yên
08. Thạch Long
09. Thạch Định
10. Thạch Sơn
11. Thạch Tân
12. Thạch Lâm
13. Thành Hưng
14. Thành Long
15. Thành Trực
16. Thành Vân
17. Thành Tân
18. Thành Công
19. Thành Vinh
20. Thành Mỹ
21. Thạch Đồng
22. Thạch Bình
23. Thạch Cẩm
24. Thạch Tượng
25. Thạch Quảng
26. Ngọc Trạo
Thắng cảnh – Du lịch
Khu di tích chiến khu Ngọc Trạo
Cách thị trấn Kim Tân khoảng chừng 15 km về phía Đông là chiến khu Ngọc Trạo – nơi đây được Nhà nước công nhận là di tích cách mạng Quốc gia vào năm 1993.
Đến chiến khu Ngọc Trạo du khách sẽ được ngắm những thắng cảnh đẹp và có dịp được thăm Hang Treo – nơi ra đời của Đội du kích Ngọc Trạo với 21 đội viên, tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh Hóa. Thăm đồi Ma Dầu là căn cứ hiểm yếu của chiến khu; thăm Nhà bảo tàng truyền thống, dâng hương tại khu mộ và đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đã được nhân dân tỉnh Thanh Xây dựng khang trang nhân dịp lễ kỷ niệm 70 thành lập chiến khu Ngọc Trạo. Thăm đền thờ Tống Duy Tân được đồng bào Mường – Ngọc Trạo sùng ải lập nên. Thăm tổng Trạc Nhật nổi tiếng với sản vật vịt bầu được chọn cung tiến vua….và đặc biệt du khách còn được chiêm ngưỡng bức phù điêu cỡ lớn bằng chất liệu đá quý xứ Thanh tái hiện cuộc khởi nghĩa sinh tử, rạng ngời khí phách anh hùng cách mạng của chiến sỹ và nhân dân huyện Thạch Thành hưởng ứng phong trào Bắc Sơn và Khởi nghĩa Nam Kỳ năm xưa.
Hang Con Moong
Hang Con Moong – một di chỉ khảo cổ học thuộc bản Thành Trung, xã Thành Yên được biết đến như một địa chỉ quen thuộc nổi tiếng trong giới khảo cổ học Việt Nam và thế giới, với những vết dấu của người tiền sử vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn.Con Moong có nghĩa là “con thú” – một hang đá trong VQG Cúc Phương . Hang được phát hiện năm 1974 và khai quật lần đầu tiên năm 1976, có độ dài khoảng 40m, thông hai đầu, trần hang cao 10m, hang nổi bật với những thế mạnh của một di chỉ khảo cổ học độc đáo và nhiều điều bí ẩn.
Hang Con Moong nằm trong quần thể núi rừng hoang sơ, với hệ thống động, thực vật khá phong phú. Đặc biệt, tại đây còn khá nhiều động vật hoang dã như: khỉ, gấu, hoẵng, nai rừng…
Để đến với hang Con Moong, du khách có thể đi bằng nhiều tuyến đường khác nhau. Những người yêu thích khám phá rừng Quốc gia Cúc Phương thì có thể băng qua đường rừng này để vào hang. Nếu đi đường bộ, xuất phát từ TP. Thanh Hóa theo quốc lộ 1A, 217 du khách sẽ tiếp tục vào xã Thành Yên để đến với hang này.
Ngoài ra, du khách còn được khám phá cuộc sống của cư dân bản Mường qua những nét đẹp văn hóa truyền thống trong sinh hoạt và giao tiếp.
Vườn quốc gia Cúc Phương
Cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Nam, nằm sâu trong lòng dãy núi Tam Điệp, thuộc địa phận của ba tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình và Thanh Hóa (địa bàn huyện Thạch Thành).
Vườn quốc gia Cúc Phương – Thạch Thành với cảnh quan thiên nhiên khoáng đạt, bao la của đại ngàn xanh, đa dạng về hệ sinh thái, giá trị về văn hóa lịch sử, từ lâu đã trở thành điểm du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn.
Thăm vườn Quốc gia Cúc Phương du khách dường như lạc vào một miền đất kỳ diệu, hoang sơ đầy bí ẩn. Đến đây, du khách được tham quan nhiều hang động như Sơn Cung, Phò Mã Giáng, Trăng Khuyết… kỳ thú nhất là được chiêm ngưỡng và khám phá hơn 300 loài chim cư trú như gà lôi trắng, chim gõ kiến đầu đỏ, chim phượng hoàng đất, đuôi cụt bụng vằn…; hơn 89 loài thú, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá, có loài thú quý hiếm như báo lửa, gấu ngựa, báo gấm, sóc bụng đỏ…và du khách có cơ hội tìm hiểu về cuộc sống và văn hóa cộng đồng người Mường Thạch Thành.
Khu Du lịch sinh thái thác Voi
Khu du lịch sinh thái thác Voi thuộc xã Thành Vân, huyện Thạch Thành. Người xưa truyền lại rằng: Quang Trung – Nguyễn Huệ hành quân ra Bắc, khi vượt dãy Tam Điệp đã tình cờ phát hiện ra một mó nước lớn giữa rừng, ông đã cho đàn voi chiến của mình xuống tắm. Sau khi tắm ở mó nước này, đàn voi nhanh chóng hồi sức, thích thú rống lên vang dội núi rừng. Từ đó mó nước được gọi là Hốc Voi hay Thác Voi.
Với diện tích 1.466m² gồm thác nước, suối, rừng tái sinh đặc biệt là hơn 400 gốc sung cổ thụ cành lá xum xuê có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều du khách. Men theo những sườn đồi thoai thoải, nghe tiếng rì rào của cây rừng, lẫn trong âm thanh của nước chảy, hít thở không khí trong lành, thả hồn ngắm dòng thác bạc trắng, hơi nước tạo thành một màn sương mờ du khách không khỏi trầm trồ trước cảnh đẹp hoang sơ, kỳ tú của thiên nhiên.
Đền Phố Cát
Đền Phố Cát là một trong những trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh tiêu biểu người dân xứ Thanh thuộc xã Thành Vân, Thạch Thành.
Tương truyền đây là nơi nữ thần Vân Hương tức Liễu Hạnh công chúa giáng trần lần thứ ba để cứu nhân độ thế, được nhân dân suy tôn là Đức Thánh Mẫu -một trong tứ bất tử của văn hóa Việt Nam.
Đền thờ được nhân dân địa phương lập vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVI với kiểu kiến trúc truyền thống mang những dấu ấn riêng của vùng núi xứ Thanh. Nghi lễ cầu cúng Thánh Mẫu rất đơn giản mà tôn nghiêm, không phân biệt trên, dưới, giàu, nghèo. Quanh năm bốn mùa đền Phố Cát mở cửa đón du khách thập phương về vãn cảnh, nghe những câu hát văn về Thánh Mẫu và cầu nguyện những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Độc đáo nhà sàn cổ ở Thanh Hoá
Hơn 300 ngôi nhà sàn có tuổi đời hàng trăm năm tuổi của bà con dân tộc Mường ở Thạch Thành, Thanh Hoá với nét kiến trúc độc đáo vừa được công nhận là quần thể Di tích nhà sàn cổ cần được bảo tồn.
Với các làng Thành Nội, Đăng và Thượng, xã Thạch Lâm (Thạch Thành, Thanh Hóa). Trong 3 làng này, làng Thượng là nơi có nhiều nhà sàn cổ nhất. Hầu hết các hộ trong làng đều sinh sống trong những ngôi nhà sàn do cha ông để lại.
Ông Nguyễn Văn Phúc – người sở hữu ngôi nhà sàn cổ nhất của Làng Thượng, nằm ngay dưới chân đồi cho biết, ngôi nhà đã hơn 200 năm tuổi, được dựng theo kiểu hình mai rùa với ba khoang chính (trong, ngoài và giữa).
Nhà ông Phúc đang ở từng hai lần bị bom Mỹ làm cháy nhưng gia đình ông đã phục dựng lại nguyên trạng. Phần lớn các cột trụ trong nhà đều làm bằng gỗ lim lấy ở rừng già nên không lo bị mối, mọt làm hư hại.
Hiện Thạch Lâm có 7 ngôi nhà cổ trên 200 năm tuổi được dựng theo lối kiến trúc Mường xưa là chôn cột làm trụ đỡ. Ông Nguyễn Văn Ních (làng Thành Nội) – chủ một nhà sàn cổ cho hay: “Để xây dựng một ngôi nhà sàn theo kiểu ngày xưa phải mất từ 2-3 năm và phải chọn được gỗ lim loại một làm cột trụ, nên hiện nay mọi người thường dựng nhà theo kiểu mới. Giá trị mỗi ngôi nhà sàn từ 40-70 triệu đồng, nhà cổ thì cao hơn nhiều”.
Với địa thế thuận lợi, phía bắc tiếp giáp với rừng quốc gia Cúc Phương (tỉnh Ninh Bình), trong vùng lại có nhiều thác nước, hang động đẹp cùng hệ thống nhà sàn cổ, Thạch Lâm là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước. Nhiều làng ở đây đã đầu tư hệ thống cơ sở vật chất để khách lưu trú, thám hiểm hang động và tìm hiểu phong tục văn hóa Mường.
Ông Bùi Văn Thương-Trưởng thôn làng Thượng, cho biết, 8 tháng đầu năm 2010 đã có hơn một vạn lượt khách đến tham quan nhà sàn cổ. Ba làng nhà sàn cổ bắt đầu tiếp nhận các tour du lịch tại gia, là loại hình hút khách hiện nay.
Chị Thuỷ – du khách ở Đống Đa, Hà Nội hào hứng: “Đây là lần thứ hai tôi cùng gia đình đến làng nhà sàn cổ. Mỗi lần đến đây, tôi lại biết thêm nhiều điều về phong tục và tập quán sinh hoạt của người Mường”.
Để thu hút khách du lịch, chính quyền xã cũng thường xuyên tổ chức giao lưu văn hóa, văn nghệ để quảng bá những ngôi nhà sàn hàng trăm năm tuổi ở Thạch Lâm.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thạch Thành
Thạch Thành là huyện miền núi phía bắc
tỉnh Thanh Hóa
, giáp với Hòa Bình, có diện tích đất tự nhiên 55.919 ha, trong đó hơn một nửa là đất rừng, núi đá; có 26 xã và hai thị trấn, 230 thôn, bảy bản thuộc vùng sâu, vùng xa. Dân số gần 235 nghìn người, hơn một nửa là dân tộc Mường và một số ít người dân tộc khác.
Hành chính:
+ Diện tích: 558,1km2
+ Dân số: 133.600 người (2004)
+ Mật độ dân số: 239 người/km2
+ Bao gồm 2 thị trấn và 26 xã:
Thị trấn Kim Tân
Thị trấn Vân Du
01. Thành Kim
02. Thành Tâm
03. Thành An
04. Thành Thọ
05. Thành Tiến
06. Thành Minh
07. Thành Yên
08. Thạch Long
09. Thạch Định
10. Thạch Sơn
11. Thạch Tân
12. Thạch Lâm
13. Thành Hưng
14. Thành Long
15. Thành Trực
16. Thành Vân
17. Thành Tân
18. Thành Công
19. Thành Vinh
20. Thành Mỹ
21. Thạch Đồng
22. Thạch Bình
23. Thạch Cẩm
24. Thạch Tượng
25. Thạch Quảng
26. Ngọc Trạo
Thắng cảnh – Du lịch
Khu di tích chiến khu Ngọc Trạo
Cách thị trấn Kim Tân khoảng chừng 15 km về phía Đông là chiến khu Ngọc Trạo – nơi đây được Nhà nước công nhận là di tích cách mạng Quốc gia vào năm 1993.
Đến chiến khu Ngọc Trạo du khách sẽ được ngắm những thắng cảnh đẹp và có dịp được thăm Hang Treo – nơi ra đời của Đội du kích Ngọc Trạo với 21 đội viên, tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh Hóa. Thăm đồi Ma Dầu là căn cứ hiểm yếu của chiến khu; thăm Nhà bảo tàng truyền thống, dâng hương tại khu mộ và đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đã được nhân dân tỉnh Thanh Xây dựng khang trang nhân dịp lễ kỷ niệm 70 thành lập chiến khu Ngọc Trạo. Thăm đền thờ Tống Duy Tân được đồng bào Mường – Ngọc Trạo sùng ải lập nên. Thăm tổng Trạc Nhật nổi tiếng với sản vật vịt bầu được chọn cung tiến vua….và đặc biệt du khách còn được chiêm ngưỡng bức phù điêu cỡ lớn bằng chất liệu đá quý xứ Thanh tái hiện cuộc khởi nghĩa sinh tử, rạng ngời khí phách anh hùng cách mạng của chiến sỹ và nhân dân huyện Thạch Thành hưởng ứng phong trào Bắc Sơn và Khởi nghĩa Nam Kỳ năm xưa.
Hang Con Moong
Hang Con Moong – một di chỉ khảo cổ học thuộc bản Thành Trung, xã Thành Yên được biết đến như một địa chỉ quen thuộc nổi tiếng trong giới khảo cổ học Việt Nam và thế giới, với những vết dấu của người tiền sử vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn.Con Moong có nghĩa là “con thú” – một hang đá trong VQG Cúc Phương . Hang được phát hiện năm 1974 và khai quật lần đầu tiên năm 1976, có độ dài khoảng 40m, thông hai đầu, trần hang cao 10m, hang nổi bật với những thế mạnh của một di chỉ khảo cổ học độc đáo và nhiều điều bí ẩn.
Hang Con Moong nằm trong quần thể núi rừng hoang sơ, với hệ thống động, thực vật khá phong phú. Đặc biệt, tại đây còn khá nhiều động vật hoang dã như: khỉ, gấu, hoẵng, nai rừng…
Để đến với hang Con Moong, du khách có thể đi bằng nhiều tuyến đường khác nhau. Những người yêu thích khám phá rừng Quốc gia Cúc Phương thì có thể băng qua đường rừng này để vào hang. Nếu đi đường bộ, xuất phát từ TP. Thanh Hóa theo quốc lộ 1A, 217 du khách sẽ tiếp tục vào xã Thành Yên để đến với hang này.
Ngoài ra, du khách còn được khám phá cuộc sống của cư dân bản Mường qua những nét đẹp văn hóa truyền thống trong sinh hoạt và giao tiếp.
Vườn quốc gia Cúc Phương
Cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Nam, nằm sâu trong lòng dãy núi Tam Điệp, thuộc địa phận của ba tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình và Thanh Hóa (địa bàn huyện Thạch Thành).
Vườn quốc gia Cúc Phương – Thạch Thành với cảnh quan thiên nhiên khoáng đạt, bao la của đại ngàn xanh, đa dạng về hệ sinh thái, giá trị về văn hóa lịch sử, từ lâu đã trở thành điểm du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn.
Thăm vườn Quốc gia Cúc Phương du khách dường như lạc vào một miền đất kỳ diệu, hoang sơ đầy bí ẩn. Đến đây, du khách được tham quan nhiều hang động như Sơn Cung, Phò Mã Giáng, Trăng Khuyết… kỳ thú nhất là được chiêm ngưỡng và khám phá hơn 300 loài chim cư trú như gà lôi trắng, chim gõ kiến đầu đỏ, chim phượng hoàng đất, đuôi cụt bụng vằn…; hơn 89 loài thú, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá, có loài thú quý hiếm như báo lửa, gấu ngựa, báo gấm, sóc bụng đỏ…và du khách có cơ hội tìm hiểu về cuộc sống và văn hóa cộng đồng người Mường Thạch Thành.
Khu Du lịch sinh thái thác Voi
Khu du lịch sinh thái thác Voi thuộc xã Thành Vân, huyện Thạch Thành. Người xưa truyền lại rằng: Quang Trung – Nguyễn Huệ hành quân ra Bắc, khi vượt dãy Tam Điệp đã tình cờ phát hiện ra một mó nước lớn giữa rừng, ông đã cho đàn voi chiến của mình xuống tắm. Sau khi tắm ở mó nước này, đàn voi nhanh chóng hồi sức, thích thú rống lên vang dội núi rừng. Từ đó mó nước được gọi là Hốc Voi hay Thác Voi.
Với diện tích 1.466m² gồm thác nước, suối, rừng tái sinh đặc biệt là hơn 400 gốc sung cổ thụ cành lá xum xuê có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều du khách. Men theo những sườn đồi thoai thoải, nghe tiếng rì rào của cây rừng, lẫn trong âm thanh của nước chảy, hít thở không khí trong lành, thả hồn ngắm dòng thác bạc trắng, hơi nước tạo thành một màn sương mờ du khách không khỏi trầm trồ trước cảnh đẹp hoang sơ, kỳ tú của thiên nhiên.
Đền Phố Cát
Đền Phố Cát là một trong những trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh tiêu biểu người dân xứ Thanh thuộc xã Thành Vân, Thạch Thành.
Tương truyền đây là nơi nữ thần Vân Hương tức Liễu Hạnh công chúa giáng trần lần thứ ba để cứu nhân độ thế, được nhân dân suy tôn là Đức Thánh Mẫu -một trong tứ bất tử của văn hóa Việt Nam.
Đền thờ được nhân dân địa phương lập vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVI với kiểu kiến trúc truyền thống mang những dấu ấn riêng của vùng núi xứ Thanh. Nghi lễ cầu cúng Thánh Mẫu rất đơn giản mà tôn nghiêm, không phân biệt trên, dưới, giàu, nghèo. Quanh năm bốn mùa đền Phố Cát mở cửa đón du khách thập phương về vãn cảnh, nghe những câu hát văn về Thánh Mẫu và cầu nguyện những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Độc đáo nhà sàn cổ ở Thanh Hoá
Hơn 300 ngôi nhà sàn có tuổi đời hàng trăm năm tuổi của bà con dân tộc Mường ở Thạch Thành, Thanh Hoá với nét kiến trúc độc đáo vừa được công nhận là quần thể Di tích nhà sàn cổ cần được bảo tồn.
Với các làng Thành Nội, Đăng và Thượng, xã Thạch Lâm (Thạch Thành, Thanh Hóa). Trong 3 làng này, làng Thượng là nơi có nhiều nhà sàn cổ nhất. Hầu hết các hộ trong làng đều sinh sống trong những ngôi nhà sàn do cha ông để lại.
Ông Nguyễn Văn Phúc – người sở hữu ngôi nhà sàn cổ nhất của Làng Thượng, nằm ngay dưới chân đồi cho biết, ngôi nhà đã hơn 200 năm tuổi, được dựng theo kiểu hình mai rùa với ba khoang chính (trong, ngoài và giữa).
Nhà ông Phúc đang ở từng hai lần bị bom Mỹ làm cháy nhưng gia đình ông đã phục dựng lại nguyên trạng. Phần lớn các cột trụ trong nhà đều làm bằng gỗ lim lấy ở rừng già nên không lo bị mối, mọt làm hư hại.
Hiện Thạch Lâm có 7 ngôi nhà cổ trên 200 năm tuổi được dựng theo lối kiến trúc Mường xưa là chôn cột làm trụ đỡ. Ông Nguyễn Văn Ních (làng Thành Nội) – chủ một nhà sàn cổ cho hay: “Để xây dựng một ngôi nhà sàn theo kiểu ngày xưa phải mất từ 2-3 năm và phải chọn được gỗ lim loại một làm cột trụ, nên hiện nay mọi người thường dựng nhà theo kiểu mới. Giá trị mỗi ngôi nhà sàn từ 40-70 triệu đồng, nhà cổ thì cao hơn nhiều”.
Với địa thế thuận lợi, phía bắc tiếp giáp với rừng quốc gia Cúc Phương (tỉnh Ninh Bình), trong vùng lại có nhiều thác nước, hang động đẹp cùng hệ thống nhà sàn cổ, Thạch Lâm là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước. Nhiều làng ở đây đã đầu tư hệ thống cơ sở vật chất để khách lưu trú, thám hiểm hang động và tìm hiểu phong tục văn hóa Mường.
Ông Bùi Văn Thương-Trưởng thôn làng Thượng, cho biết, 8 tháng đầu năm 2010 đã có hơn một vạn lượt khách đến tham quan nhà sàn cổ. Ba làng nhà sàn cổ bắt đầu tiếp nhận các tour du lịch tại gia, là loại hình hút khách hiện nay.
Chị Thuỷ – du khách ở Đống Đa, Hà Nội hào hứng: “Đây là lần thứ hai tôi cùng gia đình đến làng nhà sàn cổ. Mỗi lần đến đây, tôi lại biết thêm nhiều điều về phong tục và tập quán sinh hoạt của người Mường”.
Để thu hút khách du lịch, chính quyền xã cũng thường xuyên tổ chức giao lưu văn hóa, văn nghệ để quảng bá những ngôi nhà sàn hàng trăm năm tuổi ở Thạch Lâm.
|
Giới thiệu khái quát huyện Triệu Sơn
I. Tổng quan 1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1. Vị trí địa lý huyện Triệu Sơn:
Từ 190 52′ đến 200 02′ vĩ độ Bắc 1050 24′ đến 1050 42′ kinh độ Đông 1.1.2. Địa hình: Thuộc vùng đồng bằng
tỉnh Thanh Hóa
, có địa hình trung du – miền núi và địa hình đồng bằng. 1.1.3. Khí hậu: Nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng Thanh Hóa, có nền nhiệt độ cao, có lượng mưa lớn, chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng về mùa Hè; sương giá, sương muối về mùa Đông.
Như thường lệ hằng năm, mùa xuân này lễ hội đền Nưa (nằm trên địa bàn xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa) chính thức khai hội vào ngày mùng 1 Tết Kỷ Sửu- 2009
Phần chính hội được tổ chức từ ngày 18- 20 tháng giêng, nhưng hai ngày qua, tại chùa Am Tiên (nằm trong quần thể di tích lịch sử đền Nưa) – nơi thờ nữ tướng, anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh – Bà Triệu có rất nhiều du khách về dâng hương tưởng niệm.
Theo tài liệu dư địa chí của địa phương, xã Tân Ninh (huyện Triệu Sơn) được hình thành từ một làng quê với tên gọi là Kẻ Nưa, vì địa phương có dãy núi Nưa. Đây là dãy núi cao trùng điệp được bắt nguồn từ dải Trường Sơn vươn về phía biển theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Đất đai trên núi phì nhiêu, màu mỡ, cây cối tốt tươi. Trải qua suốt chiều dài lịch sử, vùng đất Kẻ Nưa được đổi thành nhiều tên gọi khác như: Cổ Na, Cổ Ninh, Cổ Định, Ninh Hòa và xã Tân Ninh ngày nay.
Hằng năm, lễ hội đền Nưa diễn ra từ ngày 18- 20 tháng giêng âm lịch. Trong lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần lễ, nhân dân các làng dâng mâm sơn trang để tế lễ và tưởng nhớ công đức của các vị tướng, thần đã có công khai phá và gìn giữ vùng đất. Phần hội trước đây có các trò chơi như cờ người, đua thuyền, hát ví, chọi gà..
Ngày nay, phần hội còn tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao như bóng đá, cầu lông, bóng bàn, cờ tướng, chọi gà… Lễ hội hằng năm được khai mạc rất trọng thể và trang nghiêm tại đền thờ Trần Khát Chân và kết thúc tại đền Nưa.
Một làng tiêu biểu được chọn để dâng lễ vật chính, cỗ rước bằng kiệu bát cống (8 người khiêng), trong kiệu có đủ loại hoa quả và bánh dầy- một đặc sản của địa phương được làm bằng gạo nếp cái hoa vàng. Kiệu được tổ chức rước tại hai địa điểm, đền Trần Khát Chân và đền Bà Triệu.
Đi đầu đoàn rước kiệu là một người ăn mặc trang phục võ quan, nhanh nhẹn, mắt sáng, tướng võ quan, tay cầm kiếm lệnh dẹp đường, chỉ huy đội quân rước kiệu. Phía sau là một số nam thanh, nữ tú, cùng các chị em thôn nữ đội mâm sơn trang và các lễ vật tế thần. Sau là một đội quân ăn mặc chỉnh tề, tay cầm vũ khí, ô lọng và có một đội khiêng kiệu.
Kiệu rước từ đền Trần Khát Chân được gọi là kiệu Ông; kiệu rước từ đền Bà Triệu gọi là kiệu Bà. Người khiêng kiệu phải là trai, gái thanh tân. Kiệu Ông, kiệu Bà đều được rước về trung tâm sân vận động của địa phương để làm lễ tế thiên địa, thần linh và cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi…
Trong những ngày qua, tại chùa Am Tiên đã đón rất nhiều du khách từ khắp nơi về đây vãn cảnh, ngắm làng quê vùng sơn cước và thực hiện tín ngưỡng dân gian. Ngày trước, muốn lên chùa Am Tiên du khách phải đi bộ theo đường mòn quanh dãy núi Nưa dài khoảng 5 km và mất từ 3- 4 giờ đồng hồ.
Nhưng ngày nay, con đường mòn này đã được anh Lê Bật Tiến (trú tại thôn 10, xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn) đầu tư gần 4 tỉ đồng để mở rộng, hạ thấp độ dốc, làm nền đường tương đối phẳng phiu, nên du khách có thể đi bộ, hoặc thong dong lượn xe máy, chạy ô tô từ chân dãy núi Nưa lên đến chùa Am Tiên.
Mùa xuân đến, dành chút thời gian đến với di tích lịch sử đền Nưa để thắp hương tưởng nhớ các anh hùng dân tộc cũng là nét sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng rất đáng trân trọng của người xứ Thanh nói riêng và người Việt nói chung.
|
General introduction of Trieu Son district
I. Overview 1.1. Natural conditions 1.1.1. Geographical location of Trieu Son district:
From 190 52′ to 200 02′ North latitude 1050 24′ to 1050 42′ East longitude 1.1.2. Terrain: Belongs to the plains
Thanh Hoa province
, has midland - mountainous terrain and plain terrain. 1.1.3. Climate: Located in the climate sub-region of the Thanh Hoa Delta, with high temperatures, heavy rainfall, and influenced by hot, dry West winds in the summer; Frost and hoarfrost in winter.
As usual every year, this spring the Nua temple festival (located in Tan Ninh commune, Trieu Son district, Thanh Hoa province) officially opens on the first day of the Lunar New Year - 2009.
The main part of the festival was held from January 18 to 20, but the last two days, at Am Tien pagoda (located in the Nua temple historical relic complex) - a place to worship female general and national hero Trieu Thi Trinh - Ba Trieu has many tourists coming to offer incense to commemorate.
According to local geographical records, Tan Ninh commune (Trieu Son district) was formed from a village called Ke Nua, because the locality has the Nua mountain range. This is a high mountain range originating from the Truong Son range and reaching towards the sea in the Northwest - Southeast direction. The land in the mountains is fertile, fertile, and the trees are lush. Throughout history, Ke Nua land was changed to many other names such as: Co Na, Co Ninh, Co Dinh, Ninh Hoa and Tan Ninh commune today.
Every year, the Nua temple festival takes place from the 18th to the 20th of the first lunar month. In the festival there is a ceremony part and a festival part. During the ceremony, the people of the villages offered decorative trays to worship and commemorate the merits of the generals and gods who had contributed to the destruction and preservation of the land. The previous festival had games such as human chess, boat racing, singing, cockfighting...
Today, the festival also organizes cultural and sports activities such as football, badminton, table tennis, Chinese chess, cockfighting... The annual festival is opened very solemnly and solemnly at Tran Khat temple. Stop and end at Nua temple.
A typical village was chosen to offer the main offering, a procession with a palanquin (8 people carrying it), in the palanquin there were all kinds of fruits and banh day - a local specialty made with yellow flower sticky rice. The procession is held at two locations, Tran Khat Chan temple and Ba Trieu temple.
At the head of the palanquin procession is a person dressed in military uniform, agile, bright-eyed, a military officer, holding a sword in his hand to clear the way, commanding the palanquin procession army. Behind are a number of young men and women, along with village women holding decorative trays and offerings to the gods. Next is a group of soldiers dressed neatly, holding weapons, umbrellas and a team carrying palanquins.
The palanquin procession from Tran Khat Chan temple is called the Ong palanquin; The palanquin procession from Ba Trieu temple is called Ba palanquin. The person carrying the palanquin must be a young man or woman. Both Ong palanquins and Ba palanquins are carried to the center of the local stadium to make offerings to heaven and earth, to the gods and to pray for peace in the country and people, good weather and good crops...
In recent days, Am Tien Pagoda has welcomed many tourists from all over to visit the scenery, see the mountainous villages and practice folk beliefs. In the past, to go to Am Tien Pagoda, visitors had to walk along a trail around the Nua mountain range, about 5 km long and take 3-4 hours.
But today, this trail has been invested nearly 4 billion VND by Mr. Le Bat Tien (residing in village 10, Tan Ninh commune, Trieu Son district) to expand, lower the slope, and make the road bed relatively flat. , so visitors can walk, or leisurely ride motorbikes or cars from the foot of the Nua mountain range up to Am Tien pagoda.
When spring comes, spending some time at the historical site of Nua temple to burn incense to commemorate national heroes is also a very respectful cultural and religious activity of Thanh people in particular and Vietnamese people in particular. shared.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ngọc Lặc
Ngọc Lặc
là một huyện cửa ngõ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực phía Tây
tỉnh Thanh Hóa
,
Việt Nam
.
Huyện có trục đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 15A đi qua, tiếp giáp Cảng Hàng không Thọ Xuân (khoảng 30 km), cách Cảng biển nước sâu Nghi Sơn gần 100 km…
Ngọc Lặc nằm cận kề Khu công nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn Sao Vàng (đầu tàu kinh tế thứ 2 của tỉnh Thanh Hóa).
Ngọc Lặc có thể giao lưu phát triển kinh tế với Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh là các trung tâm kinh tế lớn của đất nước và cả của nước bạn Lào. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hóa, Ngọc Lặc được Trung ương và tỉnh quan tâm đầu tư phát triển thành trung tâm đô thị miền núi phía Tây của tỉnh…
Là huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa, huyện Ngọc Lặc tiếp giáp với các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước (ở phía Bắc), Thọ Xuân, Thường Xuân (ở phía Nam), Lang Chánh (ở phía Tây), Thọ Xuân, Yên Định (ở phía Đông);
Huyện Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 49.092,4 ha với khoảng 140.000 người, trong đó dân tộc Mường chiếm 70,5% và dân tộc Kinh chiếm 27,3%, dân tộc khác 2,2%.
Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính cấp xã (21 xã, 01 thị trấn). Ngọc Lặc chiếm khoảng 4,4% diện tích và 3,9 dân số toàn tỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Địa hình phức tạp, đồi núi ở phía tây (chiếm 40,1% diện tích), đỉnh Lam Sơn (472 m), đồng bằng phía đông xen nhiều đồi gò. Sông Cầu Chày, Sông Âm, Sông Hép chảy qua.
Điều kiện xã hội:
Giao thông: Giao thông có quốc lộ 15A(Từ phố Lê Duẩn TT Ngọc Lặc tới giáp huyện Lang Chánh), tỉnh lộ 519(Chỉ còn đoạn gần 2km qua Phố 1) và đường Hồ Chí Minh (Tráng tỉnh lộ 519 và đoạn QL 15A từ TT Ngọc Lặc tới Lam Kinh) chạy qua.
Hành chính: Gồm 1 thị trấn (Ngọc Lặc – huyện lị), 21 xã (Mỹ Tân, Thúy Sơn, Thạch Lập, Vân Âm, Cao Ngọc, Ngọc Khê, Quang Trung, Đồng Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Lộc Thịnh, Cao Thịnh, Ngọc Trung, Phùng Giáo, Phùng Minh, Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Lam Sơn).
Dân số: Tổng dân số 146.272 người (2010), bình quân 295.2 người/km2, gồm các dân tộc: Mường, Dao, Thái, Kinh.
Lịch sử hình thành
Theo sách địa chí và địa danh viết ở thời Lê và thời Nguyễn cũng như những di chi khảo cổ của các nhà khảo cổ học người Pháp từ những năm hai mươi của thế kỷ XX đã phát hiện ở Ngọc Lặc những di chỉ của cư dân cư trú thời đại đá mới (thuộc văn hoá Hòa Bình) trong các hang động như: Hang Mộc Trạch, Lộc Thịnh I và Lộc Thịnh II.
Vào thời văn hoá Đông Sơn, trên đất Ngọc Lặc đã phát hiện được các nhóm đồ đồng Đông Sơn gồm: Công cụ, vũ khí, trống đồng ở các xã Ngọc Khê qua di chỉ khảo cổ Mả Mè và núi Nú (Nguyện ấn).
Đến đầu công nguyên Ngọc Lặc thuộc vùng đất Đô Lung.
Thời thuộc Hán, Ngọc Lặc thuộc huyện Võ Biền.
Thời thuộc Tuỳ – Đường (581 – 905) miền đất Ngọc Lặc thuộc huyện Di Phong rồi huyện Trường Lâm đến tận thời Đinh – Tiền Lê – Lý.
Thời Trần – Hồ thuộc huyện Nga Lặc (tương đương với huyện Ngọc Lặc ngày nay và một phần đất huyện Thọ Xuân phía tả ngạn sông Chu)
Thời thuộc Minh nhập Nga Lặc với Lôi Giang gọi là huyện Nga Lạc (tức huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thuỷ ngày nay).
Thời Hậu Lê năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên.
Thời Nguyễn là phần đất của huyện Thụy Nguyên. Năm Thành Thái thứ 12 (1900) cắt tổng Ngọc Lặc và các xã Người Mường thuộc tổng Yên Trường, Quảng Thi (huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hoá) thành lập châu Ngọc, sau đó là châu Ngọc Lặc.
Sau cách mạng tháng tám (1945) bỏ “châu” đổi thành huyện Ngọc Lặc.
Ngày 05 tháng 7 năm 1977 theo quyết định 177-CP của Hội đồng chính phủ sát nhập hai huyện Ngọc Lặc và huyện Lang Chánh gọi là huyện Lương Ngọc.
Ngày 30 tháng 8 năm 1982 theo quyết định số 149-HĐBT của Hội đồng bộ trưởng chia huyện Lương Ngọc thành hai huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc. Huyện Ngọc Lặc giữ nguyên tên gọi đến ngày nay.
Như vậy, miền đất Ngọc Lặc trải qua nhiều thời kỳ chia tách, sát nhập, thay đổi tên gọi khác nhau nhưng vùng đất Ngọc Lặc đã có cư dân sinh sống khá sớm, có địa thế chiến lược quân sự trọng yếu, là nơi căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn. Cũng từ vùng đất Ngọc Lặc nghĩa quân Lam Sơn dấy binh khởi nghĩa đánh thắng quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc lập nên triều đại hậu Lê, một triều đại phong kiến thịnh trị nhất so với các triều đại phong kiến Việt Nam. Nên vùng đất Ngọc Lặc được các triều đại phong kiến Việt Nam ví như một viên ngọc quý phải lấy lụa và gấm vóc bọc chặt để cất kỹ hay viên ngọc quý phải được cất giữ như nhà vua cất giữ “triện” trong một cái ẩm. Tên gọi huyện Ngọc Lặc được xuất xứ từ đấy.
Thời Hậu Lê và thời Nguyễn cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 huyện Ngọc Lặc chia thành bốn đơn vị tổng, các tổng được gọi tắt bằng chữ đầu là: Tổng Ngọc (Ngọc Khê); Tổng Cốc (Cốc Xá); Tổng Hạt (Hạt Cao); Tổng Vân (Vân Am). Dưới tổng là các đơn vị cư dân cơ sở (xã, thôn, mường, làng, trang, trại) và có ông mường, ông cai, lý trưởng cai quản. Thời Nhà Nguyễn những đơn vị dân cư đông đúc được gọi là mường, làng hay còn do vị trí địa lý nhiều làng trong một khu vực địa lý thuân lợi thành lập thôn như thôn Mỹ Thi (nay là xã Mỹ Tân); thôn Cao Trị (nay là xã Cao Ngọc); thành lập xã như xã Thạch Yến (gồm mường Yến và một số làng lân cận thuộc xã Thạch Lập ngày nay). Những đơn vị dân cư ít hay mới đến khai hoang lập nghiệp gọi là làng, trang.
Sau Cách mạng tháng Tám đơn vị tổng được bãi bỏ và thay bằng các đơn vị xã, với quy mô nhỏ hơn. Từ năm 1946-1963 toàn huyện Ngọc Lặc được chia thành 12 xã là: Cao Khê; Đô Lương; Quang Trung; Ngọc Thắng; Minh Sơn; Lộc Thịnh; Kiên Thọ; Phúc Thịnh; Nguyệt Ấn; Phùng Giáo; Vân Am và Lương Ngọc.
Từ năm 1963 đến năm 1982 được chia tách thành 17 đơn vị hành chính: chia xã Cao Khê thành (Ngọc Khê, Mỹ Tân và Cao Ngọc); chia xã Đô Lương thành Thuý Sơn và Thạch Lập; chia xã Lộc Thịnh thành Lộc Thịnh và Đồng Thịnh; chia xã Ngọc Thắng thành Ngọc Liên, Ngọc Trung, Ngọc Sơn và thành lập thị trấn nông trường Thống Nhất, thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn. Cũng trong năm 1963 cắt xã Lương Ngọc về huyện Thường Xuân (nay là xã Lương Sơn và Ngọc Phụng); cắt đất mường Kim Ơi xã Quang Trung về huyện Cẩm Thủy (nay là xã Cẩm Châu); cắt đất mường Ne làng Quan Trì thuộc xã Lộc Thịnh về xã Yên Lâm thuộc huyện Yên Định ngày nay.
Ngày 05 tháng 07 năm 1977 sáp nhập hai huyện Ngọc Lặc và huyện Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc. Các đơn vị xã và thị trấn nông trường là: Thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn, Vân Am, Cao Ngọc, Mỹ Tân, Ngọc Khê, Thuý Sơn, Thạch Lập, Quang Trung, Đồng Thịnh, Lộc Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Ngọc Trung, Minh Sơn, Kiên Thọ, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh, Phùng Giáo, Quang Hiến, Đồng Lương, Tân Phúc, Tam Văn, Giao An, Trí Nang, Yên Khương, Lâm Phú.
Đến năm 1978 thị trấn nông trường Thống Nhất được chuyển về huyện Yên Định quản lý về dân số nhưng đất đai vẫn thuộc huyện Ngọc Lặc quản lý.
Năm 1982 chia xã Lộc Thịnh thành xã Lộc Thịnh và xã Cao Thịnh; chia xã Minh Sơn thành xã Minh Sơn và xã Minh Tiến; chia xã Phùng Giáo thành xã Phùng Giáo và Phùng Minh.
Từ ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Lương Ngọc dược chia thành huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc như hiện nay. Thời kỳ này huyện Ngọc Lặc có 20 xã. Ngày 03 tháng 06 năm 1988 Chính phủ CHXHCN Việt Nam quyết định thành lập thị trấn huyện lỵ Ngọc Lặc.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp nông lâm nghiệp. Thị trấn nông trường Lam Sơn, thị trấn nông trường Sông Âm giải thể và chuyển đất đai, dân số trước kia thị trấn quản lý về các xã quản lý. Trên cơ sở thị trấn nông trường Lam Sơn quản lý và tiếp nhận làng Minh Thuỷ (xã Minh Tiến) để thành lập xã mới.
Ngày 09 tháng 01 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra nghị quyết số 15/CP về thành lập xã Lam Sơn.
Thắng cảnh – Du lịch
Từ mồng 3 Tết cho đến gần hết tháng Giêng hằng năm, các bản Mường của huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) luôn rộn ràng với lễ hội khai xuân.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ngọc Lặc
Ngọc Lặc
là một huyện cửa ngõ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực phía Tây
tỉnh Thanh Hóa
,
Việt Nam
.
Huyện có trục đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 15A đi qua, tiếp giáp Cảng Hàng không Thọ Xuân (khoảng 30 km), cách Cảng biển nước sâu Nghi Sơn gần 100 km…
Ngọc Lặc nằm cận kề Khu công nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn Sao Vàng (đầu tàu kinh tế thứ 2 của tỉnh Thanh Hóa).
Ngọc Lặc có thể giao lưu phát triển kinh tế với Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh là các trung tâm kinh tế lớn của đất nước và cả của nước bạn Lào. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hóa, Ngọc Lặc được Trung ương và tỉnh quan tâm đầu tư phát triển thành trung tâm đô thị miền núi phía Tây của tỉnh…
Là huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa, huyện Ngọc Lặc tiếp giáp với các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước (ở phía Bắc), Thọ Xuân, Thường Xuân (ở phía Nam), Lang Chánh (ở phía Tây), Thọ Xuân, Yên Định (ở phía Đông);
Huyện Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 49.092,4 ha với khoảng 140.000 người, trong đó dân tộc Mường chiếm 70,5% và dân tộc Kinh chiếm 27,3%, dân tộc khác 2,2%.
Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính cấp xã (21 xã, 01 thị trấn). Ngọc Lặc chiếm khoảng 4,4% diện tích và 3,9 dân số toàn tỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Địa hình phức tạp, đồi núi ở phía tây (chiếm 40,1% diện tích), đỉnh Lam Sơn (472 m), đồng bằng phía đông xen nhiều đồi gò. Sông Cầu Chày, Sông Âm, Sông Hép chảy qua.
Điều kiện xã hội:
Giao thông: Giao thông có quốc lộ 15A(Từ phố Lê Duẩn TT Ngọc Lặc tới giáp huyện Lang Chánh), tỉnh lộ 519(Chỉ còn đoạn gần 2km qua Phố 1) và đường Hồ Chí Minh (Tráng tỉnh lộ 519 và đoạn QL 15A từ TT Ngọc Lặc tới Lam Kinh) chạy qua.
Hành chính: Gồm 1 thị trấn (Ngọc Lặc – huyện lị), 21 xã (Mỹ Tân, Thúy Sơn, Thạch Lập, Vân Âm, Cao Ngọc, Ngọc Khê, Quang Trung, Đồng Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Lộc Thịnh, Cao Thịnh, Ngọc Trung, Phùng Giáo, Phùng Minh, Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Lam Sơn).
Dân số: Tổng dân số 146.272 người (2010), bình quân 295.2 người/km2, gồm các dân tộc: Mường, Dao, Thái, Kinh.
Lịch sử hình thành
Theo sách địa chí và địa danh viết ở thời Lê và thời Nguyễn cũng như những di chi khảo cổ của các nhà khảo cổ học người Pháp từ những năm hai mươi của thế kỷ XX đã phát hiện ở Ngọc Lặc những di chỉ của cư dân cư trú thời đại đá mới (thuộc văn hoá Hòa Bình) trong các hang động như: Hang Mộc Trạch, Lộc Thịnh I và Lộc Thịnh II.
Vào thời văn hoá Đông Sơn, trên đất Ngọc Lặc đã phát hiện được các nhóm đồ đồng Đông Sơn gồm: Công cụ, vũ khí, trống đồng ở các xã Ngọc Khê qua di chỉ khảo cổ Mả Mè và núi Nú (Nguyện ấn).
Đến đầu công nguyên Ngọc Lặc thuộc vùng đất Đô Lung.
Thời thuộc Hán, Ngọc Lặc thuộc huyện Võ Biền.
Thời thuộc Tuỳ – Đường (581 – 905) miền đất Ngọc Lặc thuộc huyện Di Phong rồi huyện Trường Lâm đến tận thời Đinh – Tiền Lê – Lý.
Thời Trần – Hồ thuộc huyện Nga Lặc (tương đương với huyện Ngọc Lặc ngày nay và một phần đất huyện Thọ Xuân phía tả ngạn sông Chu)
Thời thuộc Minh nhập Nga Lặc với Lôi Giang gọi là huyện Nga Lạc (tức huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thuỷ ngày nay).
Thời Hậu Lê năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên.
Thời Nguyễn là phần đất của huyện Thụy Nguyên. Năm Thành Thái thứ 12 (1900) cắt tổng Ngọc Lặc và các xã Người Mường thuộc tổng Yên Trường, Quảng Thi (huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hoá) thành lập châu Ngọc, sau đó là châu Ngọc Lặc.
Sau cách mạng tháng tám (1945) bỏ “châu” đổi thành huyện Ngọc Lặc.
Ngày 05 tháng 7 năm 1977 theo quyết định 177-CP của Hội đồng chính phủ sát nhập hai huyện Ngọc Lặc và huyện Lang Chánh gọi là huyện Lương Ngọc.
Ngày 30 tháng 8 năm 1982 theo quyết định số 149-HĐBT của Hội đồng bộ trưởng chia huyện Lương Ngọc thành hai huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc. Huyện Ngọc Lặc giữ nguyên tên gọi đến ngày nay.
Như vậy, miền đất Ngọc Lặc trải qua nhiều thời kỳ chia tách, sát nhập, thay đổi tên gọi khác nhau nhưng vùng đất Ngọc Lặc đã có cư dân sinh sống khá sớm, có địa thế chiến lược quân sự trọng yếu, là nơi căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn. Cũng từ vùng đất Ngọc Lặc nghĩa quân Lam Sơn dấy binh khởi nghĩa đánh thắng quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc lập nên triều đại hậu Lê, một triều đại phong kiến thịnh trị nhất so với các triều đại phong kiến Việt Nam. Nên vùng đất Ngọc Lặc được các triều đại phong kiến Việt Nam ví như một viên ngọc quý phải lấy lụa và gấm vóc bọc chặt để cất kỹ hay viên ngọc quý phải được cất giữ như nhà vua cất giữ “triện” trong một cái ẩm. Tên gọi huyện Ngọc Lặc được xuất xứ từ đấy.
Thời Hậu Lê và thời Nguyễn cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 huyện Ngọc Lặc chia thành bốn đơn vị tổng, các tổng được gọi tắt bằng chữ đầu là: Tổng Ngọc (Ngọc Khê); Tổng Cốc (Cốc Xá); Tổng Hạt (Hạt Cao); Tổng Vân (Vân Am). Dưới tổng là các đơn vị cư dân cơ sở (xã, thôn, mường, làng, trang, trại) và có ông mường, ông cai, lý trưởng cai quản. Thời Nhà Nguyễn những đơn vị dân cư đông đúc được gọi là mường, làng hay còn do vị trí địa lý nhiều làng trong một khu vực địa lý thuân lợi thành lập thôn như thôn Mỹ Thi (nay là xã Mỹ Tân); thôn Cao Trị (nay là xã Cao Ngọc); thành lập xã như xã Thạch Yến (gồm mường Yến và một số làng lân cận thuộc xã Thạch Lập ngày nay). Những đơn vị dân cư ít hay mới đến khai hoang lập nghiệp gọi là làng, trang.
Sau Cách mạng tháng Tám đơn vị tổng được bãi bỏ và thay bằng các đơn vị xã, với quy mô nhỏ hơn. Từ năm 1946-1963 toàn huyện Ngọc Lặc được chia thành 12 xã là: Cao Khê; Đô Lương; Quang Trung; Ngọc Thắng; Minh Sơn; Lộc Thịnh; Kiên Thọ; Phúc Thịnh; Nguyệt Ấn; Phùng Giáo; Vân Am và Lương Ngọc.
Từ năm 1963 đến năm 1982 được chia tách thành 17 đơn vị hành chính: chia xã Cao Khê thành (Ngọc Khê, Mỹ Tân và Cao Ngọc); chia xã Đô Lương thành Thuý Sơn và Thạch Lập; chia xã Lộc Thịnh thành Lộc Thịnh và Đồng Thịnh; chia xã Ngọc Thắng thành Ngọc Liên, Ngọc Trung, Ngọc Sơn và thành lập thị trấn nông trường Thống Nhất, thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn. Cũng trong năm 1963 cắt xã Lương Ngọc về huyện Thường Xuân (nay là xã Lương Sơn và Ngọc Phụng); cắt đất mường Kim Ơi xã Quang Trung về huyện Cẩm Thủy (nay là xã Cẩm Châu); cắt đất mường Ne làng Quan Trì thuộc xã Lộc Thịnh về xã Yên Lâm thuộc huyện Yên Định ngày nay.
Ngày 05 tháng 07 năm 1977 sáp nhập hai huyện Ngọc Lặc và huyện Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc. Các đơn vị xã và thị trấn nông trường là: Thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn, Vân Am, Cao Ngọc, Mỹ Tân, Ngọc Khê, Thuý Sơn, Thạch Lập, Quang Trung, Đồng Thịnh, Lộc Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Ngọc Trung, Minh Sơn, Kiên Thọ, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh, Phùng Giáo, Quang Hiến, Đồng Lương, Tân Phúc, Tam Văn, Giao An, Trí Nang, Yên Khương, Lâm Phú.
Đến năm 1978 thị trấn nông trường Thống Nhất được chuyển về huyện Yên Định quản lý về dân số nhưng đất đai vẫn thuộc huyện Ngọc Lặc quản lý.
Năm 1982 chia xã Lộc Thịnh thành xã Lộc Thịnh và xã Cao Thịnh; chia xã Minh Sơn thành xã Minh Sơn và xã Minh Tiến; chia xã Phùng Giáo thành xã Phùng Giáo và Phùng Minh.
Từ ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Lương Ngọc dược chia thành huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc như hiện nay. Thời kỳ này huyện Ngọc Lặc có 20 xã. Ngày 03 tháng 06 năm 1988 Chính phủ CHXHCN Việt Nam quyết định thành lập thị trấn huyện lỵ Ngọc Lặc.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp nông lâm nghiệp. Thị trấn nông trường Lam Sơn, thị trấn nông trường Sông Âm giải thể và chuyển đất đai, dân số trước kia thị trấn quản lý về các xã quản lý. Trên cơ sở thị trấn nông trường Lam Sơn quản lý và tiếp nhận làng Minh Thuỷ (xã Minh Tiến) để thành lập xã mới.
Ngày 09 tháng 01 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra nghị quyết số 15/CP về thành lập xã Lam Sơn.
Thắng cảnh – Du lịch
Từ mồng 3 Tết cho đến gần hết tháng Giêng hằng năm, các bản Mường của huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) luôn rộn ràng với lễ hội khai xuân.
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Vang
Phú Vang là huyện đồng bằng ven biển và đầm phá của
tỉnh Thừa Thiên Huế
. Phía Bắc giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Hương Trà và thành phố Huế, phía Nam giáp huyện Hương Thủy, phía Đông giáp huyện Phú Lộc.
Phú Vang có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Có bờ biển dài trên 35km, có cửa biển Thuận An và nhiều đầm phá như đầm Sam, đầm Chuồng, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú nằm trong hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai với diện tích trên 6.800 ha mặt nước, là tiềm năng lớn để phát triển đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Đây là ngành kinh tế mũi nhọn, là thế mạnh, lợi thế so sánh để phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn. Huyện có cảng biển Thuận An là vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thừa Thiên Huế, có tiềm năng lớn về kinh tế đang được khai thác và sử dụng. Bãi tắm Thuận An xinh đẹp nổi tiếng, là nơi nghỉ mát lý tưởng đối với khách du lịch trong nước và ngoài nước khi đến tham quan cố đô Huế.
Khí hậu:
Phú Vang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm của vùng ven biển, có hai mùa mưa, nắng rõ rệt
:
Mùa mưa từ tháng 8 năm trước đến tháng giêng năm sau, lượng mưa hàng năm khá lớn, trung bình khoảng 3.000mm. Mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 9,10,11 và 12 chiếm 75-80% lượng mưa cả năm, gây úng lụt ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, khai thác thủy sản, cũng như đời sống của nhân dân.
Mùa nắng gió Tây-Nam khô nóng oi bức, bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, lượng bốc hơi cao nhất là từ tháng 2 đến tháng 4 (lúc nước thủy triều thấp) làm độ mặn trong các ao hồ nuôi thủy sản tăng, gây trở ngại cho ngành nuôi trồng thủy sản.
Thủy triều có hai chế độ, từ bán nhật triều đều đến bán nhật triều không đều, biên độ thủy triều dưới 0,5-2 m. Tại Thuận An, độ cao thủy triều trung bình khoảng 0,4-0,5m. Vùng Bắc Thuận An có độ cao thủy triều trung bình 0,6-1,2m. Độ cao triều trong đầm phá thường nhỏ hơn ở vùng biển. Nhìn chung chế độ thủy triều vùng ven biển, đầm phá của Phú Vang thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy hải sản.
Địa hình, đất đai:
Phú Vang thuộc vùng đất trũng, có diện tích đầm phá lớn, đất đai bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi, doi cát không thuận lợi cho phát triển hệ thống đường bộ và đường thủy. Diện tích tự nhiên 28.031,80 ha, trong đó đất nông nghiệp 10.829,44 ha, đất phi nông nghiệp 13.932,94 ha, đất chưa sử dụng 3.269,42 ha.
Đất đai của huyện Phú Vang chủ yếu là đất nông nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản. Tiềm năng đất chưa khai thác còn lớn, chiếm 42,3% tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy nhiên, tỷ lệ đất chưa sử dụng có thể chuyển sang gieo trồng không lớn, chủ yếu là các cồn cát, đất bãi cát. Đất mặt nước chưa sử dụng chủ yếu là đất ao hồ, đầm phá.
Khoáng sản:
Phú Vang là nơi có nhiều khoáng sản Ti tan, tập trung ở các xã Phú Diên, Vinh Xuân, Vinh Thanh và Vinh An, có chất lượng tốt với quy mô khá lớn đang được khai thác.
|
General introduction to Phu Vang district
Phu Vang is a coastal plain and lagoon district of
Thua Thien Hue province
. The North borders the East Sea, the West borders Huong Tra district and Hue city, the South borders Huong Thuy district, the East borders Phu Loc district.
Phu Vang has great potential for fishing and aquaculture. There is a coastline of over 35km, with Thuan An seaport and many lagoons such as Sam lagoon, Chuong lagoon, Thanh Lam lagoon, Ha Trung lagoon, Thuy Tu lagoon located in the Tam Giang - Cau Hai lagoon system with an area of over 6,800 square meters. hectares of water surface, is great potential for developing fishing and aquaculture. This is a key economic sector, a strength and comparative advantage for socio-economic development in the area. The district has Thuan An seaport, an important strategic location of Thua Thien Hue province, with great economic potential being exploited and used. Thuan An beach is famous and beautiful, an ideal resort for domestic and foreign tourists when visiting the ancient capital of Hue.
Climate:
Phu Vang is located in the hot, humid tropical monsoon climate of the coastal area, with two distinct rainy and sunny seasons.
:
The rainy season is from August of the previous year to January of the following year, the annual rainfall is quite large, an average of about 3,000mm. Rain is unevenly distributed throughout the year, focusing mainly on the months of September, October, November and December, accounting for 75-80% of the yearly rainfall, causing flooding that affects agricultural production, aquaculture, and aquaculture. , as well as the lives of the people.
The dry, hot and muggy southwest wind season starts from March to August. The highest amount of evaporation is from February to April (when the tide is low), causing salinity in aquaculture ponds to increase. , causing obstacles to the aquaculture industry.
The tide has two regimes, from regular semi-diurnal tide to irregular semi-diurnal tide, with tidal amplitude less than 0.5-2 m. At Thuan An, the average tidal height is about 0.4-0.5m. The Northern Thuan An region has an average tidal height of 0.6-1.2m. Tidal heights in lagoons are usually smaller than in coastal areas. In general, the tidal regime in the coastal and lagoon areas of Phu Vang is favorable for aquaculture.
Terrain and land:
Phu Vang is located in a lowland area, has a large lagoon area, and the land is divided by a system of rivers and sandbars that are not favorable for the development of road and waterway systems. Natural area is 28,031.80 hectares, of which agricultural land is 10,829.44 hectares, non-agricultural land is 13,932.94 hectares, and unused land is 3,269.42 hectares.
The land of Phu Vang district is mainly agricultural land and water surface for aquaculture. Untapped land potential is still large, accounting for 42.3% of the total natural land area. However, the proportion of unused land that can be converted to cultivation is not large, mainly sand dunes and sandy beach land. Unused water surface land is mainly pond, lake and lagoon land.
Mineral:
Phu Vang is home to many titanium minerals, concentrated in the communes of Phu Dien, Vinh Xuan, Vinh Thanh and Vinh An, of good quality with a fairly large scale being exploited.
|
Giới thiệu khái quát huyện Nam Đông
Nam Đông là một huyện miền núi của
tỉnh Thừa Thiên Huế
cách thành phố Huế khoảng 50 km về phía Tây Nam, được tái lập vào tháng 10 năm 1990; tổng diện tích tự nhiên là 64.777,88 ha, chủ yếu là diện tích đất lâm nghiệp 54.567,79ha chiếm 84,24% diện tích, trong đó diện tích rừng trồng sản xuất 16.754,73ha chiếm 30,7% diện tích đất lâm nghiệp. Địa hình rừng núi có nhiều hang động, bị chia cắt bởi hệ thống núi non và khe suối, do vậy vùng miền núi Nam Đông có một vị trí chiến lược rất quan trọng, nơi đây là căn cứ địa cách mạng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
– Tổng diện tích:
647,78 km2 (theo niên giám thống kê năm 2013).
– Dân số:
25.046 người (theo niên giám thống kê năm 2013).
– Mật độ dân số:
38,7 người/km2
– Vị trí địa lý:
+ Phía Đông giáp huyện Phú Lộc
+ Phía Tây giáp huyện A Lưới
+ Phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng
+ Phía Bắc giáp thị xã Hương Thủy.
– Tài nguyên:
+ Nam Đông là huyện có những tài nguyên thiên nhiên và giá trị văn hóa độc đáo, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch như: các thác nước đẹp thác Phướn, thác Mơ, thác Trượt (xã Hương Phú), lễ hội truyền thống và di sản văn hóa đặc sắc của các dân tộc (nhà Gươl của dân tộc Cà Tu), di tích lịch sử kháng chiến (căn cứ địa của Tỉnh uỷ Thừa Thiên).
+ Trên địa bàn huyện Nam Đông có một số loại khoáng sản phi kim loại gồm: đá vôi, đá granit, đá pirit… với trữ lượng tương đối lớn. Trữ lượng đá vôi vào khoảng 500 triệu m3 và nằm ở vị trí thuận lợi (gần đường giao thông) cho việc phát triển công nghiệp sản xuất xi măng và sản xuất đá xây dựng.
Toàn huyện có 10 xã và 01 thị trấn; với tổng số 5.738 hộ, dân số 24.815 khẩu, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có 2.423 hộ, 11.044 khẩu, chiếm 44,5% dân số toàn huyện. Đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện chủ yếu là dân tộc Cơ tu và một số ít các dân tộc khác như Tà ôi, Pa cô, Pa hy, Vân kiều… sống tập trung tại các xã Thượng Long, Thượng Quảng, Hương Hữu, Thượng Nhật, Hương Sơn, Thượng Lộ và Hương Phú.
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, các Bộ ngành ở Trung ương, của tỉnh, đồng bào các dân tộc huyện Nam Đông đã ra sức nổ lực xây dựng huyện nhà, đưa nền kinh tế ngày càng tăng trưởng khá; sản xuất nông lâm nghiệp phát triển theo hướng bền vững; cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố và từng bước hiện đại; văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đã được giữ gìn và phát huy; đời sống nhân dân cơ bản ổn định và có bước cải thiện, định canh định cư đi vào thế ổn định, bộ mặt nông thôn mới được hình thành và ngày càng đổi thay; chính trị được ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững.
Truyền thống văn hóa
Bản sắc văn hóa cồng chiêng
Cồng chiêng là nét đẹp văn hóa truyền thống đã gắn bó với cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và người Cơ Tu huyện Nam Đông nói riêng từ bao đời nay. Cồng chiêng không chỉ là tiếng nói của tâm linh, thể hiện tâm hồn của con người, mà còn diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, lao động và sinh hoạt hàng ngày.
Huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông qua các nghệ nhân mở lớp truyền đạt các loại nhạc cụ truyền thống của người Cơ Tu. Qua đó, người dân đặc biệt là thế hệ trẻ đã phần nào ý thức hơn công tác bảo tồn và phát huy giá trị của loại nhạc khí này.
|
Overview of Nam Dong district
Nam Dong is a mountainous district of
Thua Thien Hue province
about 50 km southwest of Hue city, re-established in October 1990; The total natural area is 64,777.88 hectares, mainly forestry land area of 54,567.79 hectares, accounting for 84.24% of the area, of which production forest area is 16,754.73 hectares, accounting for 30.7% of the forest land area. Karma. The mountainous terrain has many caves, divided by a system of mountains and streams, so the Nam Dong mountainous region has a very important strategic position, this place was the revolutionary base during the two resistance wars. war against France and America.
- Total area:
647.78 km2 (according to the 2013 statistical yearbook).
- Population:
25,046 people (according to the 2013 statistical yearbook).
- Population density:
38.7 people/km2
- Geographical location:
+ The East borders Phu Loc district
+ The West borders A Luoi district
+ The South borders Quang Nam province and Da Nang city
+ The North borders Huong Thuy town.
- Resources:
+ Nam Dong is a district with unique natural resources and cultural values, creating favorable conditions for tourism development such as: beautiful waterfalls such as Phuon waterfall, Mo waterfall, Truot waterfall (Huong Phu commune), Phuoc waterfall, Mo waterfall, Truot waterfall (Huong Phu commune), Phuoc waterfall, Mo waterfall, Truot waterfall (Huong Phu commune), Phuoc waterfall, Mo waterfall, Truot waterfall (Huong Phu commune), Phuon waterfall, Mo waterfall, Truot waterfall (Huong Phu commune), Nam Dong waterfall. Traditional festivals and unique cultural heritage of ethnic groups (Guol house of Ca Tu ethnic group), historical relics of the resistance war (base of Thua Thien Provincial Party Committee).
+ In Nam Dong district, there are a number of non-metallic minerals including: limestone, granite, pyrite... with relatively large reserves. Limestone reserves are about 500 million m3 and are located in a favorable location (near roads) for the development of cement production and construction stone production.
The whole district has 10 communes and 01 town; with a total of 5,738 households, population of 24,815 people, of which ethnic minorities have 2,423 households, 11,044 people, accounting for 44.5% of the district's population. Ethnic minorities in the district are mainly the Co Tu ethnic group and a small number of other ethnic groups such as Ta Oi, Pa Co, Pa Hy, Van Kieu... living concentrated in the communes of Thuong Long, Thuong Quang, Huong Huu, Thuong Nhat, Huong Son, Thuong Lo and Huong Phu.
In recent years, with the investment attention of the Party, the State, ministries and branches at the Central Government and the province, ethnic people of Nam Dong district have made every effort to build the district, bringing the economy to a modern day. growing better; Agricultural and forestry production develops in a sustainable manner; Infrastructure is invested and built in a solid and gradually modern way; Social culture has had many progressive changes, the cultural identity of ethnic minorities has been preserved and promoted; People's lives are basically stable and gradually improving, sedentary farming has become stable, the new face of rural areas has been formed and is increasingly changing; Politics is stable, national defense and security are maintained.
Cultural traditions
Cultural identity of gongs
Gongs are a traditional cultural beauty that has been attached to the lives of ethnic minorities in general and Co Tu people in Nam Dong district in particular for many generations. Gongs are not only the voice of spirituality, expressing the human soul, but also expressing joy and sadness in life, work and daily activities.
Nam Dong district, Thua Thien Hue province has been promoting propaganda work, through artisans opening classes to teach traditional musical instruments of the Co Tu people. Thereby, people, especially the younger generation, have become somewhat more aware of the work of preserving and promoting the value of this musical instrument.
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Lộc
Huyện Phú Lộc có diện tích 720,9 km2, dân số trung bình là 134.628 người, mật độ dân số 187 người/km2, (theo niên giám thống kê năm 2012). Toàn huyện có 18 đơn vị hành chính, trong đó có 16 xã và 2 thị trấn. Là một huyện đầm phá, ven biển, nằm ở cực Nam của tỉnh Thừa Thiên Huế; phía Bắc giáp Hương Thủy và
Phú Vang
; phía Nam giáp
thành phố Đà Nẵng
; phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp huyện Nam Đông.
Huyện Phú Lộc có vị trí địa lý – kinh tế rất thuận lợi, có các trục giao thông quốc gia quan trọng chạy qua như quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc-Nam; Phú Lộc nằm ở trung điểm của hai thành phố lớn nhất của khu vực miền Trung là thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng (cách Huế 45 km về phía Bắc và cách Đà Nẵng 55 km về phía Nam).
Phú Lộc có nhiều tiềm năng, thế mạnh về biển, đầm phá, đồng bằng, gò đồi, rừng núi, đặc biệt là tài nguyên cảnh quan thiên nhiên. Phú Lộc có đất rừng hơn 34.000ha.
Vườn Quốc gia Bạch Mã
là một điểm nhấn trong hệ sinh thái rừng nguyên sinh còn lại trong dãy Trường Sơn hùng vĩ; mặt nước đầm phá Cầu Hai – Lăng Cô hơn 12.000ha; có bờ biển dài hơn 60 km với những bãi biển nổi tiếng như: Hàm Rồng, Cảnh Dương, Lăng Cô, Bãi Chuối và vùng đảo Sơn Chà là những thuận lợi cho phát triển du lịch. Có
Cảng nước sâu Chân Mây
là một trong những cửa ngõ thông ra biển quan trọng của Hành lang kinh tế Đông – Tây theo quốc lộ 1A và đường 9 nối Việt Nam với các nước trong khu vực.
Với lợi thế là điểm nối 2 trung tâm đô thị lớn nhất miền Trung là Huế và Đà Nẵng, có quốc lộ 1A , đường sắt và vùng ven biển, đầm phá, Phú Lộc là nơi hội tụ của nhiều tiềm năng phong phú, đa dạng để phát triển sản xuất và mở rộng giao thương với các địa phương các vùng trong tỉnh và khu vực. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt xây dựng Khu Kinh tế Chân Mây – Lăng Cô trở thành một trong những trung tâm giao thương quốc tế lớn và hiện đại của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng mang tầm cỡ khu vực, quốc tế; tập trung xây dựng cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng Khu Kinh tế Chân Mây – Lăng Cô hiện đại, đồng bộ. Xây dựng mới đô thị Chân Mây hiện đại, văn minh có kiến trúc mang bản sắc Huế gắn với chuỗi đô thị Huế – Chân Mây – Lăng Cô – Đà Nẵng – Chu Lai – Dung Quất – Nhơn Hội – Vân Phong… đưa Phú Lộc trở thành điểm sáng, là nơi thu hút các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đến tìm kiếm cơ hội đầu tư. Mặt khác, khi vịnh Lăng Cô được Câu lạc bộ Các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays) xếp hạng đưa vào danh sách các Vịnh biển đẹp nhất thế giới đã tạo ra động lực mới cho việc xây dựng Lăng Cô thành một trong những điểm đến du lịch đầy hấp dẫn.
Thời gian qua, huyện Phú Lộc đã thu hút nhiều nhà đầu tư tìm đến. Có thể kể ra một số dự án tiêu biểu đã và đang triển khai như: Dự án
Khu phức hợp du lịch Laguna
của
Tập đoàn Banyan Tree (Singapore)
với vốn đầu tư 875 triệu USD ở khu Cù Dù đã hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt động giai đoạn I. Khi hoàn thiện tất cả, Laguna Huế sẽ có 7 khu khách sạn cao cấp với 2.000 phòng, 1.000 biệt thự (để bán), khu trung tâm hội nghị, mua sắm quốc tế, sân golf…
Dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp và khu phi thuế quan Sài Gòn – Chân Mây của Công ty Cổ phần Đầu tư Sài Gòn – Huế. Dự án này có tổng vốn đầu tư là 1.279 tỉ đồng, trên tổng diện tích là 657,78ha. Dự án dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2014. Công ty Du lịch và Thương mại Á Đông với
Khu du lịch sinh thái Vedana Lagoon
với tổng trị giá đầu tư 6 triệu USD, nằm phía Tây Bắc đèo Mũi Né, huyện Phú Lộc, có diện tích hơn 27.000m2, được bao quanh bởi vùng đồi núi và mặt nước đầm Cầu Hai hiền hoà, thơ mộng.
Phú Lộc hiện nay có hoạt động thương mại phát triển mạnh mẽ. Nhiều trung tâm thương mại ở các xã, thị trấn đã và đang được tập trung đầu tư mới với quy mô lớn, vị trí thuận tiện như chợ Cầu Hai, chợ Nước Ngọt, chợ Lăng Cô nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá trong vùng. Các điểm du lịch sinh thái khác do nhân dân đầu tư cũng được khuyến khích phát triển như Suối Voi, Nhị Hồ, hồ Truồi… Khu công nghiệp La Sơn cũng được xúc tiến triển khai đầu tư để xây dựng thành một vệ tinh thu hút đầu tư.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp Phú Lộc đã có sự chuyển biến tích cực, diện tích một số nơi được chuyển đổi để nuôi trồng các loại cây, con cho giá trị kinh tế cao. Ngoài cây lúa truyền thống, nhiều diện tích vườn được cải tạo để trồng các loại cây ăn trái đặc sản bản địa như dâu tiên, thanh trà, cam, quýt…
Có thể nói, từ khi Khu Kinh tế Chân Mây – Lăng Cô hình thành, vùng động lực kinh tế phía nam này đã có bước phát triển nhanh chóng, hệ thống cơ sở hạ tầng được đẩy nhanh xây dựng, như đường sá, hệ thống cấp nước, hệ thống xử lý chất thải, nghĩa trang… đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đô thị hoá, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện nâng cao.
Với những tiềm năng, lợi thế về mặt địa lý, về tài nguyên thiên nhiên và Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô đang đầu tư phát triển, Phú Lộc sẽ có điều kiện khai thác những lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng tương xứng với vùng kinh tế động lực, bộ mặt phía Nam của Thừa Thiên Huế.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Phú Lộc là một huyện nằm phía Nam của tỉnh Thừa Thiên Huế, có 18 đơn vị hành chính gồm 02 thị trấn (Phú Lộc, Lăng Cô) và 16 xã (Lộc Trì, Lộc Bổn, Vinh Hải, Lộc Hòa, Lộc An, Lộc Bình, Lộc Thủy, Vinh Giang, Lộc Vĩnh, Vinh Mỹ, Lộc Sơn, Lộc Tiến, Vinh Hiền, Vinh Hưng, Xuân Lộc, Lộc Điền).
Trước năm 1990, huyện Phú Lộc có 01 thị trấn là thị trấn Phú Lộc và 28 xã, gồm: Vinh Xuân, Vinh Thanh, Vinh An, Vinh Mỹ, Vinh Hải, Vinh Hưng, Vinh Giang, Vinh Hiền, Lộc Bổn, Lộc Sơn, Lộc An, Xuân Lộc, Lộc Hòa, Lộc Điền, Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Thủy, Lộc Tiến, Lộc Hải, Thượng Quảng, Hương Sơn, Hương Phú, Hương Hữu, Hương Giang, Hương Lộc, Thượng Long, Thượng Nhật, Thượng Lộ.
Đến năm 1990, 09 xã sáp nhập vào huyện Nam Đông vừa mới được tái lập gồm: Thượng Quảng, Hương Sơn, Hương Phú, Hương Hữu, Hương Giang, Hương Lộc, Thượng Long, Thượng Nhật, Thượng; 03 xã sáp nhập vào huyện Phú Vang vừa được tái lập gồm: Vinh Xuân, Vinh Thanh, Vinh An.
|
General introduction of Phu Loc district
Phu Loc district has an area of 720.9 km2, an average population of 134,628 people, population density of 187 people/km2, (according to the 2012 statistical yearbook). The whole district has 18 administrative units, including 16 communes and 2 towns. Is a lagoon and coastal district, located at the southern tip of Thua Thien Hue province; The North borders Huong Thuy and Huong Thuy
Phu Vang
; bordered to the south
Da Nang city
; East sea bordering the east; The West borders Nam Dong district.
Phu Loc district has a very favorable geographical and economic location, with important national traffic axes running through such as National Highway 1A, North-South railway; Phu Loc is located at the midpoint of the two largest cities of the Central region, Hue city and Da Nang city (45 km north of Hue and 55 km south of Da Nang).
Phu Loc has many potentials and strengths in the sea, lagoons, plains, hills, forests and mountains, especially natural landscape resources. Phu Loc has more than 34,000 hectares of forest land.
Bach Ma National Park
is a highlight in the remaining primeval forest ecosystem in the majestic Truong Son range; Cau Hai - Lang Co lagoon water surface is more than 12,000 hectares; It has a coastline of more than 60 km with famous beaches such as Ham Rong, Canh Duong, Lang Co, Bai Chuoi and Son Cha island, which are favorable for tourism development. Have
Chan May deep-water port
is one of the important gateways to the sea of the East - West Economic Corridor along National Highway 1A and Road 9 connecting Vietnam with countries in the region.
With the advantage of being the connection point of the two largest urban centers in the Central region, Hue and Da Nang, with National Highway 1A, railways and coastal areas, lagoons, Phu Loc is the convergence of many rich and diverse potentials. form to develop production and expand trade with localities in the province and the region. Decision of the Prime Minister approving the construction of Chan May - Lang Co Economic Zone to become one of the large and modern international trade centers of the Central key economic region, a tourism and resort center. of regional and international stature; Focus on building modern and synchronous facilities and infrastructure of Chan May - Lang Co Economic Zone. New construction of modern and civilized Chan May urban area with architecture bearing Hue identity associated with the urban chain of Hue - Chan May - Lang Co - Da Nang - Chu Lai - Dung Quat - Nhon Hoi - Van Phong... bringing Phu Loc become a bright spot, a place to attract domestic and international investors to seek investment opportunities. On the other hand, when Lang Co Bay was ranked by the World's Most Beautiful Bays Club (Worldbays) as one of the world's most beautiful bays, it created new motivation for building Lang Co into one of the world's most beautiful bays. attractive tourist destination.
Recently, Phu Loc district has attracted many investors. Some typical projects that have been and are being implemented can be listed as: Project
Laguna tourist complex
belong to
Banyan Tree Group (Singapore)
With an investment capital of 875 million USD in Cu Du area, construction has been completed and phase I has been put into operation. When completed, Laguna Hue will have 7 high-end hotel areas with 2,000 rooms and 1,000 villas (for sale), convention center, international shopping, golf course...
Saigon - Chan May industrial park and non-tariff zone infrastructure construction project of Saigon - Hue Investment Joint Stock Company. This project has a total investment capital of 1,279 billion VND, on a total area of 657.78 hectares. The project is expected to be completed at the end of 2014. A Dong Tourism and Trading Company with
Vedana Lagoon eco-tourism area
with a total investment value of 6 million USD, located northwest of Mui Ne Pass, Phu Loc district, with an area of more than 27,000 square meters, surrounded by hills and mountains and the gentle, poetic water surface of Cau Hai lagoon.
Phu Loc currently has strongly developed commercial activities. Many commercial centers in communes and towns have been focusing on new large-scale investments with convenient locations such as Cau Hai market, Nuoc Ngot market, and Lang Co market to meet the needs of trading activities. , exchanging goods in the region. Other ecotourism destinations invested by the people are also encouraged to develop such as Suoi Voi, Nhi Ho, Truoi Lake... La Son Industrial Park is also promoted for investment to build into an attractive satellite. invest.
In the field of agriculture and fishery, Phu Loc has had positive changes, the area of some places has been converted to grow plants and animals of high economic value. In addition to traditional rice, many garden areas have been renovated to grow local specialty fruit trees such as mulberry, barberry, orange, tangerine...
It can be said that since Chan May - Lang Co Economic Zone was formed, this southern economic driving force has developed rapidly, infrastructure systems have been accelerated in construction, such as roads, Water supply systems, waste treatment systems, cemeteries... have contributed to strongly promoting the urbanization process, and people's lives have gradually improved.
With the potential and advantages in terms of geography, natural resources and the Chan May - Lang Co Economic Zone that is being invested and developed, Phu Loc will have the conditions to exploit the advantages for socio-economic development. Association, ensuring national security and defense commensurate with the driving economic region, the southern face of Thua Thien Hue.
HISTORY BEGIN
Phu Loc is a district located in the south of Thua Thien Hue province, with 18 administrative units including 02 towns (Phu Loc, Lang Co) and 16 communes (Loc Tri, Loc Bon, Vinh Hai, Loc Hoa, Loc An, Loc Binh, Loc Thuy, Vinh Giang, Loc Vinh, Vinh My, Loc Son, Loc Tien, Vinh Hien, Vinh Hung, Xuan Loc, Loc Dien).
Before 1990, Phu Loc district had 01 town, Phu Loc town, and 28 communes, including: Vinh Xuan, Vinh Thanh, Vinh An, Vinh My, Vinh Hai, Vinh Hung, Vinh Giang, Vinh Hien, Loc Bon, Loc Son, Loc An, Xuan Loc, Loc Hoa, Loc Dien, Loc Binh, Loc Vinh, Loc Thuy, Loc Tien, Loc Hai, Thuong Quang, Huong Son, Huong Phu, Huong Huu, Huong Giang, Huong Loc, Thuong Long, Thuong Nhat, Thuong Lo.
By 1990, 09 communes merged into the newly re-established Nam Dong district including: Thuong Quang, Huong Son, Huong Phu, Huong Huu, Huong Giang, Huong Loc, Thuong Long, Thuong Nhat, Thuong; 03 communes merged into Phu Vang district have just been re-established, including: Vinh Xuan, Vinh Thanh, Vinh An.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Huế
Toạ độ địa lý: 107
o
31‘45‘‘-107
o
38\’ kinh Ðông và 16
o
30\’‘45‘‘-16
o
24\’ vĩ Bắc. Thành phố Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước, trên trục Bắc – Nam của các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần tuyến hành lang Đông – Tây của tuyến đường Xuyên Á. Cách
Hà Nội
675 km về phía Bắc, cách Thành phố
Hồ Chí Minh
1.060 km, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ với các trung tâm kinh tế đang phát triển nhanh như khu khuyến khích phát triển kinh tế – thương mại Chân Mây, Thành phố Đà Nẵng, khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quốc…, có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối dễ dàng với Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh, thành khác trong cả nước.
Thành phố Huế nằm ở vị trí có điều kiện thiên nhiên, hệ sinh thái đa dạng, phong phú và diện mạo Riêng tạo nên một không gian hấp dẫn, được xây dựng trong không gian phong cảnh thiên nhiên kỳ diệu từ núi Ngự Bình, đồi Thiên An – Vọng Cảnh, Thành phố hội đủ các dạng địa hình: đồi núi, đồng bằng, sông hồ, tạo thành một không gian cảnh quan thiên nhiên-đô thị-văn hoá lý tưởng để tổ chức các loại hình Festival và các hoạt động du lịch thể thao khác nhau.
Thành phố Huế là địa bàn lý tưởng gắn kết các tài nguyên văn hoá truyền thống đặc sắc với du lịch mà không một Thành phố, địa danh nào ở nước ta có được và là một trong 5 trung tâm du lịch quốc gia. Huế nằm ở vị trí trung tâm của các di sản văn hoá thế giới của Việt Nam (Hội An, Mỹ Sơn, động Phong Nha-Kẻ Bàng) và gần với các Thành phố cố đô của các nước trong khu vực.
Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chuyển tiếp từ á xích đạo đến nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta.
Chế độ nhiệt: Thành phố Huế có mùa khô nóng và mùa mưa ẩm lạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm vùng đồng bằng khoảng 24°C – 25°C.
+ Mùa nóng: từ tháng 5 đến tháng 9, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên khô nóng, nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình các tháng nóng là từ 27°C – 29°C, tháng nóng nhất (tháng 5, 6) nhiệt độ có thể lên đến 38°C- 40°C.
+ Mùa lạnh: Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông bắc nên mưa nhiều, trời lạnh. Nhiệt độ trung bình về mùa lạnh ở vùng đồng bằng là 20°C – 22°C.
– Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình khoảng 2500mm/năm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, tháng 11 có lượng mưa lớn nhất, chiếm tới 30% lượng mưa cả năm.
– Độ ẩm trung bình 85%-86%.
– Đặc điểm mưa ở Huế là mưa không đều, lượng mưa tăng dần từ Đông sang Tây, từ Bắc vào Nam và tập trung vào một số tháng với cường độ mưa lớn do đó dễ gây lũ lụt, xói lở.
– Gió bão: Chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính:
+ Gió mùa Tây Nam: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, gió khô nóng, bốc hơi mạnh gây khô hạn kéo dài.
+ Gió mùa Đông Bắc: Bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, gió thường kèm theo mưa làm cho khí hậu lạnh, ẩm, dễ gây lũ lụt.
+ Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 9 -10.
Lịch sử hình thành
Từ năm 192 sau CN vùng đất này thuộc địa bàn nước Lâm Ấp và sau đó là vương quốc Champa kéo dài gần 12 thế kỷ. Sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, biên giới Đại Việt mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô – Rí. Năm sau vua Trần cho đổi thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thành Hóa châu (nằm cách Huế 9 km về phía hạ lưu sông Hương) là trị sở và trung tâm chính trị kinh tế hành chính và quân sự của châu Hóa. Sau hơn hai thế kỷ mở mang khai khẩn, đến giữa thế kỷ thứ XVI, lộ Thuận Hóa đã thành nơi “đô hội lớn của một phương”. Năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là PHÚ XUÂN, ở vị trí tây nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712-1738) phủ chúa dời ra BÁC VỌNG, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở “bên tả phủ cũ”, tức góc đông nam Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong sách Phủ biên tạp lục năm 1776. Đó là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long – Dương Xuân đến Bao Vinh – Thanh Hà. Tiếp đó, Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là kinh đô của nước Việt Nam gần 1,5 thế kỷ dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945).
Nhưng Phú Xuân được thay bằng tên gọi HUẾ từ bao giờ?
|
General introduction to Hue city
Geographic coordinates: 107
o
31‘45‘‘-107
o
38\' Eastern canal and 16
o
30''45''-16
o
24\' North latitude. Hue city is located in the center of the country, on the North - South axis of road, rail, air and sea routes, near the East - West corridor of the Trans-Asia route. Way
Hanoi
675 km north, away from the City
Ho Chi Minh
1,060 km, located in the Central key economic region with rapidly developing economic centers such as Chan May economic and commercial development incentive zone, Da Nang City, Chu Lai open economic zone, industrial park Dung Quoc Industrial Park..., has a convenient transportation system that easily connects with Hanoi Capital, Ho Chi Minh City and many other provinces and cities nationwide.
Hue city is located in a location with natural conditions, a diverse and rich ecosystem and a unique appearance that creates an attractive space, built in the space of magical natural landscapes from Ngu Binh mountain, Thien An - Vong Canh hill, the city meets all types of terrain: hills, plains, rivers and lakes, creating an ideal natural-urban-cultural landscape space to organize all types of festivals and events. various sports tourism activities.
Hue City is an ideal location that connects unique traditional cultural resources with tourism like no other city or place in our country and is one of the 5 national tourism centers. Hue is located in the center of Vietnam's world cultural heritages (Hoi An, My Son, Phong Nha-Ke Bang caves) and close to the ancient capital cities of countries in the region.
The climate belongs to the tropical monsoon region, transitional from the sub-equator to the inner monsoon tropic, influenced by the transitional climate between the North and the South of our country.
Thermal regime: Hue city has a hot dry season and a cold, wet rainy season. The average annual temperature in the delta is about 24°C - 25°C.
+ Hot season: from May to September, influenced by the southwest wind, so it is dry, hot, and has high temperatures. The average temperature in hot months is from 27°C - 29°C, the hottest months (May and June) can reach 38°C - 40°C.
+ Cold season: From October to March of the following year, influenced by the Northeast monsoon, it rains a lot and is cold. The average temperature in the cold season in the delta is 20°C - 22°C.
– Rain regime: Average rainfall is about 2500mm/year. The rainy season starts from September to February of the following year, November has the heaviest rainfall, accounting for 30% of the yearly rainfall.
– Average humidity 85%-86%.
– The characteristics of rain in Hue are irregular rain, the amount of rain gradually increases from East to West, from North to South and concentrates in a few months with high rainfall intensity, thus easily causing floods and erosion.
– Storm winds: Influenced by 2 main wind directions:
+ Southwest monsoon: From April to August, hot, dry winds and strong evaporation cause prolonged drought.
+ Northeast monsoon: Starting from September to March of the following year, the wind is often accompanied by rain, making the climate cold, humid, and prone to flooding.
+ Storms usually appear from August to September - October.
History begin
Since 192 AD, this land belonged to Lam Ap country and then the Champa kingdom for nearly 12 centuries. After Ngo Quyen's Bach Dang victory, Dai Viet's border gradually expanded to the South. In 1306, King Tran Anh Tong married Princess Huyen Tran to Che Man in exchange for the two continents of O-Ri. The following year, King Tran changed the provinces to Thuan and Hoa and appointed them as rulers. Thanh Hoa Chau (located 9 km from Hue downstream of the Perfume River) is the headquarters and political, economic, administrative and military center of Chau Hoa. After more than two centuries of expansion and exploitation, by the middle of the 16th century, Thuan Hoa Highway had become a "big gathering place of one direction". In 1636, Lord Nguyen Phuc Lan moved his palace to Kim Long, which was the first step for the urbanization process in the later history of formation and development of Hue city. More than half a century later, in 1687, Lord Nguyen Phuc Thai moved the government to Thuy Loi village, changing it to PHU XUAN, in the southwest position of the current Hue citadel, continuing to build and develop Phu Xuan into a central city. The thriving urban center of Dang Trong. Except for a short period of time (1712-1738), the lord's palace moved to BAC VONG, but when Vo Vuong ascended the throne, he moved the government palace to Phu Xuan but built it on the "left side of the old palace", which is the southeast corner of the current Hue Citadel. now. The magnificence of Phu Xuan Citadel under Lord Nguyen Phuc Khoat was described by Le Quy Don in the book Phu Bien Tap Luc in 1776. It was a prosperous urban area stretching along both banks of the Perfume River Delta. from Kim Long - Duong Xuan to Bao Vinh - Thanh Ha. Next, Phu Xuan was the capital of the unified Dai Viet country under the Tay Son dynasty (1788-1801) and the capital of Vietnam for nearly 1.5 centuries under the feudal Nguyen dynasty (1802-1945).
But when was Phu Xuan replaced by the name HUE?
|
Giới thiệu khái quát thị xã Hương Thủy
Nằm ở cửa ngõ phía Nam của thành phố Huế, Thị xã Hương Thủy có diện tích là 456 km
2
, dân số 100.313 người, mật độ dân số 220 người/km
2
. Theo Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 09 tháng 2 năm 2010 của Chính phủ, huyện Hương Thủy trở thành thị xã Hương Thủy – đánh dấu bước trưởng thành và chặng đường phát triển mới nhanh hơn. Toàn thị xã có 12 đơn vị hành chính, trong đó có 5 phường (phường Phú Bài, Thủy Dương, Thủy Phương, Thủy Châu, Thủy Lương) và 7 xã (Thủy Vân, Thủy Thanh, Thủy Bằng, Thủy Tân, Thủy Phù, Dương Hòa, Phú Sơn).
Giáp ranh thành phố Huế về phía Bắc, cách Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô chừng 30 km về phía Đông-Nam, nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông -Tây, thị xã Hương Thủy có điều kiện giao thông khá thuận lợi: có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua nối Hương Thủy với các đô thị lớn trong vùng và cả nước; có quốc lộ 49A nối Hương Thủy với vùng ven biển, đầm phá của tỉnh về phía Đông và nối với đường Hồ Chí Minh đến các cửa khẩu sang Lào và nối với các tỉnh Tây Nguyên. Trên địa bàn Thị xã có sân bay quốc tế Phú Bài, ga hàng hoá đường sắt Hương Thủy, có khu công nghiệp tập trung đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên Huế; Hương Thủy nằm cách không xa Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô và đô thị Đà Nẵng. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao thương kinh tế với cả nước và hội nhập khu vực Đông Nam Á và quốc tế.
Bên cạnh đó, Thị xã Hương Thủy là địa bàn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh; có các làng nghề tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống nổi tiếng. Đây là tiềm năng, thế mạnh của thị xã có thể khai thác để phát triển các ngành du lịch, dịch vụ trở thành ngành kinh tế chủ đạo, mũi nhọn.
Đặc biệt, trên địa bàn Hương Thủy có Khu công nghiệp Phú Bài là trọng điểm công nghiệp của tỉnh, đang phát huy hiệu quả và trong tương lai gần tiếp tục được mở rộng quy mô và hiện đại hóa. Đây là một động lực quan trọng, tác động mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của thị xã.
Hương Thủy có đất đai màu mỡ, tài nguyên nước dồi dào; có hệ thống sông ngòi phân bố đều trên địa bàn, hàng năm đem đến phù sa bồi đắp đất đai màu mỡ, rất thuận lợi cho phát triển một nền nông nghiệp ven đô hiện đại, thâm canh theo chiều sâu. Vùng gò đồi còn diện tích khá lớn đất chưa sử dụng, đây là tiềm năng lớn có thể khai thác đưa vào phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, phát triển du lịch. Thị xã Hương Thủy còn nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, làng nghề, phát triển nông nghiệp ven đô…
Những thuận lợi về vị trí địa lý – kinh tế, điều kiện giao thông, tài nguyên thiên nhiên mà Hương Thủy đang có là điều kiện tốt để mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong tỉnh, với các tỉnh trong cả nước và hợp tác khu vực, quốc tế.
Trong thời gian qua, Hương Thủy được sự quan tâm đầu tư của Trung ương, của Tỉnh, sự giúp đỡ của các sở, ban ngành, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Hương Thủy đã đoàn kết khắc phục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tập trung huy động các nguồn lực, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của địa phương, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, đưa lại nhiều thành quả quan trọng, tạo chuyển biến cơ bản về chuyển dịch nền kinh tế địa phương từ một huyện nông nghiệp sang thị xã phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Những năm gần đây, công nghiệp của thị xã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh. Trên địa bàn thị xã có Khu công nghiệp Phú Bài là trọng điểm kinh tế của tỉnh và cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp Thủy Phương đã tập trung được nhiều dự án công nghiệp, nhà máy lớn. Diện mạo của thị xã, đặc biệt là hạ tầng giao thông và hệ thống điện, nước đã và đang thay đổi tích cực. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, các vấn đề đời sống xã hội cũng không ngừng được nâng cao, lĩnh vực giáo dục, y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và chất lượng hoạt động.
Thị xã Hương Thủy đang được định hướng tập trung xây dựng và quy hoạch phát triển không gian đô thị, đặc biệt là Khu trung tâm, Khu hành chính tập trung. Đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội theo hướng cơ cấu kinh tế Dịch vụ – Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – Nông nghiệp. Tập trung phát triển thương mại dịch vụ và du lịch, khai thác có hiệu quả tiềm năng lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử của địa phương. Thực hiện mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo hướng phát triển đô thị (đã có 4/7 xã được công nhận đạt tiêu chuẩn nông thôn mới)…
Với phần lớn diện tích các xã, phường giáp ranh với thành phố Huế như Thủy Vân, Thủy Dương, Thủy Thanh nằm trong quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết các khu đô thị mới của tỉnh như Khu đô thị An Vân Dương, Khu đô thị Đông Nam Thủy An, Khu đô thị và nhà ở An Đông… do đó thị xã đã tranh thủ tốt những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Trong 3 năm qua, thị xã Hương Thủy đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện nhiều quy hoạch có tính chiến lược và lâu dài, bền vững, định hướng cho phát triển không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị. Hiện nay một phần của khu đô thị An Vân Dương trên địa bàn thị xã Hương Thủy đang được đô thị hóa mạnh mẽ với nhiều dự án phát triển đô thị đang được thực hiện đã tạo cho diện mạo Hương Thủy mang dáng dấp của một đô thị hiện đại, văn minh.
Ngoài ra, Hương Thủy còn được Tỉnh quan tâm đầu tư hình thành một số cụm công nghiệp, làng nghề, khu du lịch, dịch vụ; tiếp tục hoàn thiện hạ tầng đô thị Phú Bài cùng cơ sở hạ tầng nông thôn… Đó là những nền tảng cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi để thị xã Hương Thủy tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới hướng đến mục tiêu xây dựng Hương Thủy trở thành một trong những đô thị hiện đại, giàu đẹp, văn minh; một trong những trung tâm kinh tế động lực, có tăng trưởng kinh tế cao, chuyển biến mạnh về chất lượng tăng trưởng gắn với phát triển bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, lấy công nghiệp và dịch vụ làm trọng tâm; xây dựng hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại; đời sống nhân dân được nâng cao.
Sự hình thành và phát triển của Thị xã Hương Thủy
Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế được thành lập năm 1835 dưới thời Vua Minh Mạng trên cơ sở tách đất từ 3 huyện Phú Vang, Hương Trà, Quảng Điền lập thêm 3 huyện mới. Trải qua các thế kỷ, mảnh đất Hương Thuỷ đã mang nhiều dấu ấn lịch sử gắn với quá trình phát triển, đặc biệt là trong kháng chiến chống Mỹ, được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Huyện và 7 Xã trong huyện. Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất Tổ quốc, Hương Thuỷ được xác định là một đơn vị hành chính quan trọng của tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1977, huyện Hương Thuỷ và huyện Phú Vang sáp nhập thành huyện Hương Phú và năm 1983 thị trấn Phú Bài được thành lập, là trung tâm chính trị, kinh tế – văn hoá xã hội của huyện Hương Phú. Cuối năm 1990, HĐBT ra Quyết định số 345/HĐBT tách huyện Hương Phú thành lập lại 2 huyện như cũ.
Từ đó đến năm 2009, huyện Hương Thuỷ có 11 xã và 1 thị trấn huyện lỵ, với tổng diện tích tự nhiên: 45.817,49 ha, và dân số toàn huyện là 96.525 người (tính đến ngày 31/12/2008). Tình hình kinh tế- xã hội của Huyện được xây dựng và phát triển khá mạnh và toàn diện trên các lĩnh vực theo hướng CNH- HĐH và Đô thị hoá. Thị trấn Phú Bài- trung tâm huyện lỵ của huyện Hương Thuỷ và phần mở rộng ở 3 xã Thuỷ Lương, Thuỷ Phương và Thuỷ Châu đã được công nhận là đô thị loại IV (theo Quyết định số 659/QĐ-BXD ngày 10/6/2009 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng) và Huyện được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng nhất (Quyết định số 1320/QĐ-CTN ngày 09/9/2009).
Đặc biệt là ngày 09/2/2010 Chính phủ ra Nghị quyết số 08/NQ-CP về việc thành lập thị xã Hương Thuỷ và thành lập các phường thuộc thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo đó Thị xã Hương Thuỷ có 45.817,49 ha diện tích tự nhiên và 96.525 nhân khẩu, có 12 đơn vị hành chính, bao gồm các phường: Phú Bài, Thuỷ Châu, Thủy Lương, Thủy Phương, Thủy Dương và các xã: Thủy Bằng, Thủy Phù, Thủy Tân, Thủy Thanh, Thủy Vân, Dương Hoà, Phú Sơn.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Hương Thủy
Nằm ở cửa ngõ phía Nam của thành phố Huế, Thị xã Hương Thủy có diện tích là 456 km
2
, dân số 100.313 người, mật độ dân số 220 người/km
2
. Theo Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 09 tháng 2 năm 2010 của Chính phủ, huyện Hương Thủy trở thành thị xã Hương Thủy – đánh dấu bước trưởng thành và chặng đường phát triển mới nhanh hơn. Toàn thị xã có 12 đơn vị hành chính, trong đó có 5 phường (phường Phú Bài, Thủy Dương, Thủy Phương, Thủy Châu, Thủy Lương) và 7 xã (Thủy Vân, Thủy Thanh, Thủy Bằng, Thủy Tân, Thủy Phù, Dương Hòa, Phú Sơn).
Giáp ranh thành phố Huế về phía Bắc, cách Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô chừng 30 km về phía Đông-Nam, nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông -Tây, thị xã Hương Thủy có điều kiện giao thông khá thuận lợi: có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua nối Hương Thủy với các đô thị lớn trong vùng và cả nước; có quốc lộ 49A nối Hương Thủy với vùng ven biển, đầm phá của tỉnh về phía Đông và nối với đường Hồ Chí Minh đến các cửa khẩu sang Lào và nối với các tỉnh Tây Nguyên. Trên địa bàn Thị xã có sân bay quốc tế Phú Bài, ga hàng hoá đường sắt Hương Thủy, có khu công nghiệp tập trung đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên Huế; Hương Thủy nằm cách không xa Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô và đô thị Đà Nẵng. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao thương kinh tế với cả nước và hội nhập khu vực Đông Nam Á và quốc tế.
Bên cạnh đó, Thị xã Hương Thủy là địa bàn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh; có các làng nghề tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống nổi tiếng. Đây là tiềm năng, thế mạnh của thị xã có thể khai thác để phát triển các ngành du lịch, dịch vụ trở thành ngành kinh tế chủ đạo, mũi nhọn.
Đặc biệt, trên địa bàn Hương Thủy có Khu công nghiệp Phú Bài là trọng điểm công nghiệp của tỉnh, đang phát huy hiệu quả và trong tương lai gần tiếp tục được mở rộng quy mô và hiện đại hóa. Đây là một động lực quan trọng, tác động mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của thị xã.
Hương Thủy có đất đai màu mỡ, tài nguyên nước dồi dào; có hệ thống sông ngòi phân bố đều trên địa bàn, hàng năm đem đến phù sa bồi đắp đất đai màu mỡ, rất thuận lợi cho phát triển một nền nông nghiệp ven đô hiện đại, thâm canh theo chiều sâu. Vùng gò đồi còn diện tích khá lớn đất chưa sử dụng, đây là tiềm năng lớn có thể khai thác đưa vào phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, phát triển du lịch. Thị xã Hương Thủy còn nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, làng nghề, phát triển nông nghiệp ven đô…
Những thuận lợi về vị trí địa lý – kinh tế, điều kiện giao thông, tài nguyên thiên nhiên mà Hương Thủy đang có là điều kiện tốt để mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong tỉnh, với các tỉnh trong cả nước và hợp tác khu vực, quốc tế.
Trong thời gian qua, Hương Thủy được sự quan tâm đầu tư của Trung ương, của Tỉnh, sự giúp đỡ của các sở, ban ngành, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Hương Thủy đã đoàn kết khắc phục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tập trung huy động các nguồn lực, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của địa phương, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, đưa lại nhiều thành quả quan trọng, tạo chuyển biến cơ bản về chuyển dịch nền kinh tế địa phương từ một huyện nông nghiệp sang thị xã phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Những năm gần đây, công nghiệp của thị xã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh. Trên địa bàn thị xã có Khu công nghiệp Phú Bài là trọng điểm kinh tế của tỉnh và cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp Thủy Phương đã tập trung được nhiều dự án công nghiệp, nhà máy lớn. Diện mạo của thị xã, đặc biệt là hạ tầng giao thông và hệ thống điện, nước đã và đang thay đổi tích cực. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, các vấn đề đời sống xã hội cũng không ngừng được nâng cao, lĩnh vực giáo dục, y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và chất lượng hoạt động.
Thị xã Hương Thủy đang được định hướng tập trung xây dựng và quy hoạch phát triển không gian đô thị, đặc biệt là Khu trung tâm, Khu hành chính tập trung. Đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội theo hướng cơ cấu kinh tế Dịch vụ – Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – Nông nghiệp. Tập trung phát triển thương mại dịch vụ và du lịch, khai thác có hiệu quả tiềm năng lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử của địa phương. Thực hiện mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo hướng phát triển đô thị (đã có 4/7 xã được công nhận đạt tiêu chuẩn nông thôn mới)…
Với phần lớn diện tích các xã, phường giáp ranh với thành phố Huế như Thủy Vân, Thủy Dương, Thủy Thanh nằm trong quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết các khu đô thị mới của tỉnh như Khu đô thị An Vân Dương, Khu đô thị Đông Nam Thủy An, Khu đô thị và nhà ở An Đông… do đó thị xã đã tranh thủ tốt những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Trong 3 năm qua, thị xã Hương Thủy đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện nhiều quy hoạch có tính chiến lược và lâu dài, bền vững, định hướng cho phát triển không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị. Hiện nay một phần của khu đô thị An Vân Dương trên địa bàn thị xã Hương Thủy đang được đô thị hóa mạnh mẽ với nhiều dự án phát triển đô thị đang được thực hiện đã tạo cho diện mạo Hương Thủy mang dáng dấp của một đô thị hiện đại, văn minh.
Ngoài ra, Hương Thủy còn được Tỉnh quan tâm đầu tư hình thành một số cụm công nghiệp, làng nghề, khu du lịch, dịch vụ; tiếp tục hoàn thiện hạ tầng đô thị Phú Bài cùng cơ sở hạ tầng nông thôn… Đó là những nền tảng cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi để thị xã Hương Thủy tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới hướng đến mục tiêu xây dựng Hương Thủy trở thành một trong những đô thị hiện đại, giàu đẹp, văn minh; một trong những trung tâm kinh tế động lực, có tăng trưởng kinh tế cao, chuyển biến mạnh về chất lượng tăng trưởng gắn với phát triển bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, lấy công nghiệp và dịch vụ làm trọng tâm; xây dựng hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại; đời sống nhân dân được nâng cao.
Sự hình thành và phát triển của Thị xã Hương Thủy
Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế được thành lập năm 1835 dưới thời Vua Minh Mạng trên cơ sở tách đất từ 3 huyện Phú Vang, Hương Trà, Quảng Điền lập thêm 3 huyện mới. Trải qua các thế kỷ, mảnh đất Hương Thuỷ đã mang nhiều dấu ấn lịch sử gắn với quá trình phát triển, đặc biệt là trong kháng chiến chống Mỹ, được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Huyện và 7 Xã trong huyện. Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất Tổ quốc, Hương Thuỷ được xác định là một đơn vị hành chính quan trọng của tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1977, huyện Hương Thuỷ và huyện Phú Vang sáp nhập thành huyện Hương Phú và năm 1983 thị trấn Phú Bài được thành lập, là trung tâm chính trị, kinh tế – văn hoá xã hội của huyện Hương Phú. Cuối năm 1990, HĐBT ra Quyết định số 345/HĐBT tách huyện Hương Phú thành lập lại 2 huyện như cũ.
Từ đó đến năm 2009, huyện Hương Thuỷ có 11 xã và 1 thị trấn huyện lỵ, với tổng diện tích tự nhiên: 45.817,49 ha, và dân số toàn huyện là 96.525 người (tính đến ngày 31/12/2008). Tình hình kinh tế- xã hội của Huyện được xây dựng và phát triển khá mạnh và toàn diện trên các lĩnh vực theo hướng CNH- HĐH và Đô thị hoá. Thị trấn Phú Bài- trung tâm huyện lỵ của huyện Hương Thuỷ và phần mở rộng ở 3 xã Thuỷ Lương, Thuỷ Phương và Thuỷ Châu đã được công nhận là đô thị loại IV (theo Quyết định số 659/QĐ-BXD ngày 10/6/2009 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng) và Huyện được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng nhất (Quyết định số 1320/QĐ-CTN ngày 09/9/2009).
Đặc biệt là ngày 09/2/2010 Chính phủ ra Nghị quyết số 08/NQ-CP về việc thành lập thị xã Hương Thuỷ và thành lập các phường thuộc thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo đó Thị xã Hương Thuỷ có 45.817,49 ha diện tích tự nhiên và 96.525 nhân khẩu, có 12 đơn vị hành chính, bao gồm các phường: Phú Bài, Thuỷ Châu, Thủy Lương, Thủy Phương, Thủy Dương và các xã: Thủy Bằng, Thủy Phù, Thủy Tân, Thủy Thanh, Thủy Vân, Dương Hoà, Phú Sơn.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tân Phú Đông
Huyện Tân Phú Đông nằm trên cù lao Lợi Quan được thành lập theo Nghị định 09/2008/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Gò Công Tây, huyện Gò Công Đông, có 6 đơn vị hành chínhtrực thuộc, gồm các xã: Phú Đông, Phú Tân, Tân Thới, Tân Phú, Tân Thạnh và Phú Thạnh; diện tích tự nhiên là 20.208,31 ha, dân số 42.926 người.
Vị trí địa lý: Huyện Tân Phú Đông nằm về phía đông của
tỉnh Tiền Giang
, Đông giáp biển Đông;Tây giáp huyện Chợ Gạo; Nam giáp tỉnh Bến Tre; Bắc giáp huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Tây và huyện Gò Công Đông.
Huyện Tân Phú Đông có 12 km bờ biển và nằm giữa hai cửa sông là cửa Tiểu và cửa Đại, có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế biển, đặc biệt là đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, hiện nay Tân Phú Đông vẫn còn là huyện khó khăn, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
Năm 2013 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,77%, thunhập bình quân đầu người 18,6 triệu đồng/năm. Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp chiếm 69,2%, công nghiệp xây dựng chiếm 9,42%, dịch vụ thương mại 20,68%.
Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản. Rừng phòng hộ ven biển 957,5ha. Diện tích nuôitrồng thủy sản 5.903 ha, sản lượng 16.400 tấn. Có 3.150 ha dừa đang cho trái ổn định. Cây ăn trái 1.196 ha, sản lượng trên 14.500 tấn; trong đó có 528 ha vùng chuyên canh cây mãng cầu xiêm cho năng suất cao.
Dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 45%. Hộ dân có điện sử dụng đạt 99,98. Hộ nghèo 3.725 hộ, chiếm 33,4%. Đạt tỷ lệ 1,75 bác sĩ trên 10.000 dân.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học được tăng cường đầu tư xây dựng, trang bị theo hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa với tổng kinh phí hơn 55 tỷ đồng. Có 6/6 xã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS.
Huyện có duy nhất tuyến đường tỉnh 877B, dài 35,3 km chạy dài từ tây sang đông, được láng nhựa theo tiêu chuẩn cấp VI đồng bằng. Các tuyến đường huyện, đường giao thông nông thôn tiếp tục được đầu tư, nâng cấp. Các bến phà, đò phân bổ đều trên địa bàn với 3 bến phà chung và 18 bến đò. Bến phà Tân Long được đầu tư beton 60 tấn, với tổng kinh phí 50 tỷ đồng.
Đặc biệt huyện có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái ở khu vực cồn Cống và cồn Ngang. UBND tỉnh đã giao cho công ty CPTM Kinh Thành đầu tư du lịch sinh thái kết hợp nghĩ dưỡng với diện tích 150 ha ở cồn Ngang, tổng mức đầu tư 1.300 tỷ; công ty TNHH-TM DV DL Lợi Đạt đầu tư 100 ha ở cồn Cống với tổng kinh phí 300 tỷ đồng. Kết hợp với khu di tích lịch sử Luỹ Pháo Đài Trương Định được công nhận di tích lịchsử cấp quốc gia sẽ tạo thêm sức hấp dẫn cho du khách.
Định hướng đến năm 2020 thu nhập bình quân đầu người đạt 23 triệu đồng. Có 1 đô thị loại 5 là thị trấn Tân Phú Đông và 2 thị tứ là Tân Thới và Cồn Cống; tổng diện tích đất đô thị là 410 ha, dân số đô thị 8.813 người, mật độ 2.152 người/km
2
, tỉ lệ đô thị hóa 15%.
Thực hiện tốt đề án giảm nghèo bền vững theo kế hoạch, đào tạo nghề, đảm bảo không có hộ nghèo phát sinh. Từng bước đầu tư xây dựng xã đạ chuẩn nông thôn mới.
|
General introduction of Tan Phu Dong district
Tan Phu Dong district located on Loi Quan island was established under Decree 09/2008/ND-CP dated January 21, 2008 of the Government on the basis of adjusting the administrative boundaries of Go Cong Tay district and Go Cong Dong district. , has 6 affiliated administrative units, including communes: Phu Dong, Phu Tan, Tan Thoi, Tan Phu, Tan Thanh and Phu Thanh; Natural area is 20,208.31 hectares, population is 42,926 people.
Geographical location: Tan Phu Dong district is located to the east of
Tien Giang Province
, East borders the East Sea; West borders Cho Gao district; The South borders Ben Tre province; The North borders Cho Gao district, Go Cong Tay district and Go Cong Dong district.
Tan Phu Dong district has 12 km of coastline and is located between two estuaries, Cua Tieu and Cua Dai, with great potential in marine economic development, especially fishing and aquaculture. However, currently Tan Phu Dong is still a difficult district, its economic development is not commensurate with its potential.
In 2013, the economic growth rate reached 10.77%, average income per capita was 18.6 million VND/year. Economic structure: agriculture accounts for 69.2%, construction industry accounts for 9.42%, commercial services 20.68%.
The main economy is agricultural production, fishing and aquaculture. Coastal protection forest 957.5 hectares. Aquaculture area is 5,903 hectares, output is 16,400 tons. There are 3,150 hectares of coconut trees that are producing fruit stably. Fruit trees 1,196 hectares, output over 14,500 tons; including 528 hectares of high-yield soursop growing area.
The rural population using hygienic water reached 45%. Households with electricity usage reached 99.98. There are 3,725 poor households, accounting for 33.4%. Achieving a ratio of 1.75 doctors per 10,000 people.
School facilities and equipment have increased investment in construction and equipment in the direction of solidification and modernization with a total cost of more than 55 billion VND. There are 6/6 communes that meet national standards for universal secondary school education.
The district has only provincial road 877B, 35.3 km long running from west to east, paved according to level VI plain standards. District roads and rural roads continue to be invested and upgraded. Ferries and ferry terminals are evenly distributed in the area with 3 common ferry terminals and 18 ferry terminals. Tan Long ferry terminal is invested in 60 tons of concrete, with a total cost of 50 billion VND.
In particular, the district has the potential to develop ecotourism in the Cong and Ngang islands areas. The Provincial People's Committee has assigned Kinh Thanh Trading Joint Stock Company to invest in eco-tourism combined with resorts with an area of 150 hectares in Ngang island, total investment of 1,300 billion; Loi Dat Tourism Service Trading Company Limited invested 100 hectares in Cong Islet with a total cost of 300 billion VND. Combined with the Truong Dinh Luy Fort historical relic site, which is recognized as a national historical relic, it will create more attraction for tourists.
Oriented to 2020, the average income per capita will reach 23 million VND. There is 1 class 5 urban area, Tan Phu Dong town, and 2 towns, Tan Thoi and Con Cong; Total urban land area is 410 hectares, urban population is 8,813 people, density is 2,152 people/km
2
, urbanization rate 15%.
Implement well the sustainable poverty reduction project according to the plan, provide vocational training, and ensure that no poor households arise. Step by step invest in building communes that meet new rural standards.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tân Phước
Huyện Tân Phước là một huyện nằm trong vùng Đồng Tháp Mười của
tỉnh Tiền Giang
, được thành lập ngày 27 tháng 8 năm 1994, theo Nghị định số 68/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính Phủ, trên cơ sở tách ra từ phần đất của huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và một phần đất của
tỉnh Long An
.
Vị trí cách trung tâm thành phố Mỹ Tho 25 km về hướng Tây Bắc.
Tọa độ địa lý:
+ Từ 105
0
00′ đến 106
0
45′ kinh độ Đông;
+ Từ 10
0
25′ đến 10
0
35′ vĩ độ Bắc.
Ranh giới hành chính:
+ Phía Đông: giáp huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và tỉnh Long An;
+ Phía Tây: giáp huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang và tỉnh Long An
+ Phía Nam: giáp huyện Châu Thành và huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang;
+ Phía Bắc: giáp tỉnh Long An.
Diện tích tự nhiên: 33.321 ha.
Đơn vị hành chính: có 12 xã và 01 thị trấn.
Thị trấn Mỹ Phước là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện.
Dân số (năm 2013): 66.880 người, số hộ gia đình 15.670 hộ. Dân cư đa phần là từ các nơi đến lập nghiệp khi mới thành lập huyện, có 08 dân tộc thiểu số chung sống đan xen trong cộng đồng dân cư, gồm: Khơme, Hoa, Tày, Thái, Nùng, Mường, Êđê, Sán Dìu.
Đặc điểm kinh tế
Huyện Tân Phước là một huyện nằm trong vùng Đồng Tháp Mười, nên đất đai, nguồn nước đều bị nhiễm phèn, hàng năm bị ảnh hưởng lũ lụt của vùng Đồng Tháp Mười.
Qua quá trình xây dựng và phát triển, công cuộc khai thác và cải tạo đất đai, phát triển hệ thống thủy lợi tháo chua, rửa phèn, dẫn nước ngọt, thoát lũ, khai hoang sản xuất; xây dựng hệ thống đê bao bảo vệ cây trồng trong mùa lũ, xây dựng cụm tuyến dân cư vượt lũ và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước SHNT, trường học, trạm y tế,…phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, ổn định dân cư; xây dựng hệ thống chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh đã thay đổi diện mạo của vùng đất từng mệnh danh là “rốn phèn, rốn lũ”đến nay kinh tế – xã hội của huyện phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều mặt, thu hút đầu tư nhiều dự án lớn, khẳng định nơi đây không phải là “vùng đất chết”.
Kinh tế của huyện luôn tăng trưởng ở mức cao (15,18%/năm, thời kỳ 2010-2015)
Cơ cấu kinh tế (năm 2015):
+ Khu vực I: 44.90%;
+ Khu vực II: 28.57%;
+ Khu vực II: 26.53%.
Thu nhập bình quân đầu người (năm 2013): 25.22 triệu đồng/người/năm
Các vùng kinh tế chủ lực của huyện:
+ Vùng khóm nguyên liệu: 15.700 ha, sản lượng 287.000 tấn/năm. Là vùng nguyên liệu khóm (dứa) lớn nhất tỉnh, phục vụ cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP đang giúp nông dân sản xuất, tiêu thụ có hiệu quả.
+ Vùng sản xuất lúa: 6.600 ha, diện tích gieo trồng hàng năm trên 17.800 ha; sản lượng bình quân gần 110.000 tấn/ năm . Mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cho hiệu quả sản xuất cao và thúc đẩy thực hiện tốt CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tại huyện.
+ Vùng khoai mỡ : 1.000 ha, sản lượng 16.000 tấn/năm; là cây trồng thích nghi vùng đất phèn ở khu vực phía đông bắc của huyện, hiêu quả kinh tế cao cho nông dân.
+ Rau màu các loại : 2.200 ha, sản lượng hàng năm 35.200 tấn. Trong đó, cây dưa hấu trên đất phèn hàng năm gần 200 ha, chất lượng rất ngon, không thua kém các vùng khác.
+ Chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao và qui mô lớn: hàng năm tổng đàn ổn định. Đàn gia cầm 350.000 con, Đàn heo 15.000 con.
+ Rừng tràm: 3.100 ha, là vùng đệm khu bảo tồn sinh thái, bảo vệ hệ sinh thái vùng ngập nước Đồng Tháp Mười.
+ Khu công nghiệp Long Giang: 540 ha, với các ngành công nghiệp hiện đại, vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động.
+ Khu bảo tồn sinh thái: 100,6 ha. Có trên 50 loài chim, cò sinh sống, bảo tồn hệ thực vật sinh thái ngập nước vùng Đồng Tháp Mười.
+ Khu thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác: rộng 30 ha, đang trong giai đoạn xây dựng, nhưng hàng tháng đón khách thập phương ngàn hàng người đến viếng, hứa hẹn nơi đây sẽ là điểm du lịch tâm linh trong tương lai.
|
General introduction of Tan Phuoc district
Tan Phuoc district is a district located in the Dong Thap Muoi region of
Tien Giang Province
, was established on August 27, 1994, according to Decree Không. 68/CP dated July 11, 1994 of the Government, on the basis of separating from the land of Cai Lay district, Chau Thanh district, Tien Giang province and one land of
Long An province
.
Location is 25 km northwest of My Tho city center.
Geographical coordinates:
+ From 105
0
00′ to 106
0
45′ East longitude;
+ From 10
0
25' to 10
0
35′ North latitude.
Administrative boundaries:
+ East: bordering Chau Thanh district, Tien Giang province and Long An province;
+ West: bordering Cai Lay district, Tien Giang province and Long An province
+ South: bordering Chau Thanh district and Cai Lay district, Tien Giang province;
+ North: bordering Long An province.
Natural area: 33,321 hectares.
Administrative units: 12 communes and 01 town.
My Phuoc town is the political, economic, cultural and social center of the district.
Population (2013): 66,880 people, number of households 15,670 households. Most of the population comes from other places to settle down when the district was first established. There are 08 ethnic minorities living together in the community, including: Khmer, Hoa, Tay, Thai, Nung, Muong, Ede, San Diu.
Economic characteristics
Tan Phuoc district is a district located in the Dong Thap Muoi region, so the land and water sources are contaminated with alum, and are affected by floods in the Dong Thap Muoi region every year.
Through the process of construction and development, the work of exploiting and improving land, developing irrigation systems to remove acidity, wash alum, direct fresh water, drain floods, and reclaim production; Build a dike system to protect crops during the flood season, build flood-proof residential clusters and develop transport infrastructure, electricity, water, SHNT, schools, medical stations,... to serve economic development. socio-economic, population stability; Building the political system, consolidating national defense and security has changed the appearance of the land once known as "the alum navel, the navel of the flood", until now the district's socio-economic development has boomed, and people's lives have developed rapidly. The population has improved in many aspects, attracting investment in many large projects, affirming that this place is not a "dead land".
The district's economy always grows at a high rate (15.18%/year, period 2010-2015)
Economic structure (2015):
+ Region I: 44.90%;
+ Region II: 28.57%;
+ Area II: 26.53%.
Average income per capita (2013): 25.22 million VND/person/year
Key economic regions of the district:
+ Raw material pineapple area: 15,700 hectares, output 287,000 tons/year. It is the largest pineapple raw material area in the province, serving the export processing industry. The production model following VietGAP standards is helping farmers produce and consume effectively.
+ Rice production area: 6,600 hectares, annual planting area over 17,800 hectares; Average output is nearly 110,000 tons/year. The "large sample field" model provides high production efficiency and promotes good implementation of industrialization and modernization of agriculture and rural areas in the district.
+ Yam area: 1,000 hectares, output 16,000 tons/year; It is a crop adapted to alkaline soils in the northeast of the district, with high economic efficiency for farmers.
+ Vegetables of all kinds: 2,200 hectares, annual output 35,200 tons. Of these, nearly 200 hectares of watermelon are planted on alum soil every year, with very good quality, not inferior to other regions.
+ Livestock farming applies high technology and large scale: the annual herd is stable. Poultry herd 350,000, pigs 15,000.
+ Melaleuca forest: 3,100 hectares, is the buffer zone of the ecological reserve, protecting the ecosystem of Dong Thap Muoi wetlands.
+ Long Giang Industrial Park: 540 hectares, with modern industries, foreign investment, creating jobs for thousands of workers.
+ Ecological reserve: 100.6 hectares. There are over 50 species of birds and storks living and preserving the wetland ecosystem of Dong Thap Muoi.
+ Truc Lam Chanh Giac Zen Monastery: 30 hectares wide, under construction, but welcomes thousands of visitors every month, promising this place will be a spiritual tourist destination in the future.
|
Giới thiệu khái quát huyện Gò Công Đông
Gò Công Đông là huyện ven biển của
tỉnh Tiền Giang
,
+ Phía Đông: giáp
Biển Đông
;
+ Phía Tây: giáp Thị xã Gò Công;
+ Phía Nam: giáp huyện Gò Công Tây và huyện Tân Phú Đông;
+ Phía Bắc: giáp huyện Cần Đước tỉnh Long An.
– Diện tích: tự nhiên 26.768,16 ha.
– Dân số: 142.820 người (năm 2013).
Với ưu thế của hệ thống sông ngòi, có hai cửa sông lớn Soài Rạp, Cửa Tiểu thông ra biển Đông, có tuyến đê chạy dọc bờ biển dài 18,5km; giao thông vận tải cả đường thủy và đường bộ của huyện khá thuận lợi khi cách trung tâm Thành phố của tỉnh 41km, thành phố Hồ Chí Minh 58 km. Đặc điểm địa lý này được xác định là lợi thế nổi bật đã tạo nên vị thế của huyện trong phát triển kinh tế biển, phát triển giao thông vận tải thủy – bộ kết nối ra biển đã đưa huyện trở thành vùng kinh tế động lực của tỉnh, có tác động thúc đẩy sự giao thương hàng hoá trong và ngoài nước.
Kinh tế của huyện phát triển theo hướng nông – ngư nghiệp – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ, trong đó nông ngư nghiệp̣ đóng vai trò chủ lực. Tốc độ phát triển kinh tế hàng năm khá cao và ổn định, bình quân tăng 10,5% trong 10 năm gần đây, hiện đang có nhiều tiềm năng đột phá về thủy hải sản và công thương nghiệp.
– Trong phát triển nông nghiệp, với vị trí đất đai thuộc vùng nhiễm mặn lợ đã chủ động ngọt hóa, có nhiều giồng cát, Gò Công Đông có nền nông nghiệp khá phát triển, đủ điều kiện để hình thành vành đai xanh cho các khu công nghiệp trong vùng và của khu vực. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản với vật nuôi chủ lực là tôm sú, cá nước lợ và các loài nhuyễn thể đang phát triển theo mô hình nuôi công nghiệp. Huyện có 2.150 ha nuôi nghêu, sò, 618 ha nuôi tôm…là đặc sản biển của huyện. Với 701 phương tiện đánh bắt hải sản đã khai thác tạo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và chế biến làng nghề thủy sản của địa phương
– Lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến thủy – hải sản và sản phẩm nông nghiệp. Nhìn chung, lĩnh vực này đang trong giai đoạn chuyển mình, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.
Theo quy hoạch huyện có trên 2.000 ha để phát triển khu công nghiệp, hiện tại trên địa bàn huyện có 01 khu công nghiệp với 05 dự án đang triển khai thực hiện:
– Tổng kho xăng dầu của Công ty Cổ phần Thương mại Hiệp Phước:
– Khu công nghiệp Dịch vụ dầu khí Soài Rạp:
– Nhà máy chế tạo ống thép (22,9ha) của công ty Cổ phần Sản xuất ống thép Dầu khí Việt Nam:
– Dự án Tổng kho của Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Nam Việt: gồm khu tái định cư và dự án Tổng kho xăng dầu.
– Dự án Kho cảng của công ty TNHH Một thành viên Dầu khí TPHCM: đã hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư. Tổ liên ngành tỉnh đang xem xét, đề xuất UBND tỉnh.
Trong đó có 02 dự án đã đi vào hoạt động: Nhà máy chế tạo ống thép của công ty Cổ phần Sản xuất ống thép Dầu khí Việt Nam và Tổng kho xăng dầu của Công ty Cổ phần Thương mại Hiệp Phước.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện đã hình thanh Ngoài ra công ty Nichirei Suco của Nhật Bản đã xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phát triển cây sơri và nhà máy chế biến trái sơri (Đây là 1 trong 7 loại trái cây chủ lực của tỉnh); 01 công ty TNHH một thành viên may mặc Nam Đô sản xuất các mặc hàng xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật, Mỹ (chủ yếu là xuất khẩu sang Hàn Quốc).
– Dự án Khu du lịch sinh thái biển Tân Thành giai đoạn 1 (11,7ha) của Công ty TNHH Một thành viên Vạn Bình An: Hoàn thành các hạng mục chính (giai đoạn 1) và đưa vào hoạt động ổn định; đang chuẩn bị hồ sơ, thủ tục các hạng mục công trình để thực hiện giai đoạn 2.
|
General introduction to Go Cong Dong district
Go Cong Dong is a coastal district of
Tien Giang Province
,
+ East: border
East Sea
;
+ West: adjacent to Go Cong Town;
+ South: bordering Go Cong Tay district and Tan Phu Dong district;
+ North: adjacent to Can Duoc district, Long An province.
– Area: natural 26,768.16 hectares.
– Population: 142,820 people (2013).
With the advantage of the river system, there are two large estuaries Soai Rap and Cua Tieu connecting to the East Sea, with a dyke line running along the coast 18.5km long; The district's transportation by both waterway and road is quite convenient, 41km from the provincial city center and 58km from Ho Chi Minh City. This geographical feature is identified as an outstanding advantage that has created the district's position in marine economic development, and the development of land and water transportation connecting to the sea has turned the district into a dynamic economic region. of the province, has an impact on promoting domestic and foreign trade of goods.
The district's economy develops in the direction of agriculture - fishery - industry - handicrafts and trade and services, in which agriculture and fishery play a key role. The annual economic growth rate is quite high and stable, with an average increase of 10.5% in the last 10 years. There is currently a lot of potential for breakthroughs in seafood and industry and trade.
– In agricultural development, with land located in a saline and brackish area that has been proactively sweetened, with many sand dunes, Go Cong Dong has a fairly developed agriculture, qualified to form a green belt for agricultural areas. industrial parks in the region and the region. The aquaculture sector with the main livestock being tiger shrimp, brackish water fish and molluscs is developing according to the industrial farming model. The district has 2,150 hectares of clam and oyster farming, 618 hectares of shrimp farming... which are the district's marine specialties. With 701 fishing vessels exploited to create a source of raw materials to serve the production and processing of local seafood craft villages.
– The industry and handicraft sector focuses mainly on the fish and seafood processing industry and agricultural products. In general, this field is in a period of transformation, attracting the attention of investors.
According to the district plan, there are over 2,000 hectares for industrial park development. Currently, the district has 01 industrial park with 05 projects being implemented:
– General petroleum warehouse of Hiep Phuoc Trading Joint Stock Company:
– Soai Rap Petroleum Services Industrial Park:
– Steel pipe manufacturing factory (22.9ha) of Vietnam Petroleum Steel Pipe Manufacturing Joint Stock Company:
– General warehouse project of Nam Viet Refining and Petrochemical Joint Stock Company: including resettlement area and general petroleum warehouse project.
– Port warehouse project of Ho Chi Minh City Petroleum One Member Company Limited: completed documents and procedures to apply for an investment certificate. The provincial interdisciplinary team is considering and making recommendations to the Provincial People's Committee.
Among them, 02 projects have been put into operation: Steel pipe manufacturing factory of Vietnam Petroleum Steel Pipe Manufacturing Joint Stock Company and Petroleum depot of Hiep Phuoc Trading Joint Stock Company.
In addition, the district has established a new image. In addition, the Japanese company Nichirei Suco has built a cherry tree research and development center and a cherry fruit processing factory (this is one of the seven key fruits of the province). ); 01 Nam Do Garment One-Member LLC produces goods for export to Korea, Japan, and the US (mainly exported to Korea).
– Tan Thanh marine eco-tourism area project phase 1 (11.7 hectares) of Van Binh An One Member Company Limited: Completed the main items (phase 1) and put into stable operation; is preparing documents and procedures for project items to implement phase 2.
|
Giới thiệu khái quát huyện Gò Công Tây
ĐIỀU
KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI
1. Điều kiện tự nhiên:
– Vị trí địa lý
: Huyện Gò Công Tây nằm về phía Đông của
tỉnh Tiền Giang
, trung tâm của huyện cách thành phố Mỹ Tho 26 km về hướng Đông và thị xã Gò Công 12,2 km về hướng Tây. Huyện có diện tích tự nhiên là 18.017,34 ha; phía Đông giáp huyện Gò Công Đông và thị xã Gò Công; phía Tây giáp huyện Chợ Gạo; phía Nam giáp huyện Tân Phú Đông; phía Bắc giáp
tỉnh Long An
.
– Khí hậu:
Huyện Gò công Tây nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 trùng với mùa gió Tây Nam, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau trùng với mùa gió Tây Bắc. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 1.800 mm, mức thấp nhất đồng bằng sông Cửu Long; nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26
0
C – 27
0
C.
2. Tài nguyên thiên nhiên:
– Tài nguyên đất:
Huyện Gò Công Tây nguồn tài nguyên đất có độ phì khá, thích nghi cho sản xuất nông nghiệp, nhu cầu thâm canh, tăng vụ ngày càng được chú trọng; bằng những nổ lực của mình, nhân dân Gò Công Tây đã tiến hành nạo vết nhiều công trình thủy lợi, cải tạo đất đai nhằm khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này có hiệu quả hơn.
– Tài nguyên nước
: Có mật độ dòng chảy khá dầy, hai sông chính chảy qua địa bàn huyện là sông Cửa Tiểu và Sông Ta, chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đồng đều của Biển Đông. Ngoài ra còn có Kênh 14, Rạch Gò Gừa, rạch vàm Giồng, Kênh Bình Phan … ăn sâu vào nội đồng cung cấp nước trãi dài qua các cánh đồng của huyện thông qua hệ thống kênh mương nội đồng.
3. Đặc điểm kinh tế – xã hộ
i:
Ngành kinh tế chính của huyện là sản xuất nông nghiệp, hàng năm sản lượng lương thực đạt trên 179.000 tấn. Ngoài 2 – 3 vụ lúa chuyên canh trong năm, nhiều loại cây màu như: dưa hấu, bắp, ớt, rau, đậu các loại… đã được nhân dân sản xuất trên quy mô lớn, giá trị kinh tế cao. Vuờn dừa ổn định diện tích 1.977 ha, sản lượng thu hoạch hàng năm trên 13.500 tấn, ngoài ra trong vường dừa còn được nông dân trồng xen canh cây cao cao và nuôi thủy sản. Sự chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, môi trường sinh thái và nhu cầu của địa phương gắn kết chặt chẽ với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên đã đưa mức tăng trưởng ngành trồng trọt tăng hàng năm.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển nhanh về số lượng và chất lựơng. Đàn heo đang phát triển mạnh theo qui mô trang trại với nhiều loại giống có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. Mức tăng trưởng ngành chăn nuôi đạt bình quân 7,12% năm; điều đó chứng tỏ tiềm năng và thế mạnh của ngành chăn nuôi trong kinh tế nông nghiệp – nông thôn huyện nhà. Tổng đàn heo có đến thời điểm tháng 12/2013 là 83.500 con, đàn gia cầm 784.704 con. Ngoài ra, nông dân còn nuôi thêm một số con nuôi khác như dê, thỏ… nhưng do thị trường tiêu thụ chưa ổn định, nên chỉ phát triển với quy mô hộ gia đình.
Diện tích mặt nước nuôi thủy sản tăng khá nhanh; tính đến cuối năm 2013, toàn huyện đã phát triển được 842,84 ha, tổng sản lượng đạt 5.313,45 tấn, đạt giá trị kinh tế cao hơn nhiều lần so với cùng một đơn vị diện tích nuôi trồng các loại cây, con khác.
Ngành Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện tiếp tục chuyển dịch, từng bước mở rộng về quy mô góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Toàn huyện có 257 cơ sở sản xuất, giá trị sản xuất công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 3%. Một số ngành nghề mới được mở ra như: đan xuất khẩu, các cơ sở sửa chữa máy móc phục vụ cơ giới hoá công nghiệp được trang bị công nghệ mới.
Ngành thương mại dịch vụ: hiện có 108 doanh nghiệp tư nhân và 2.500 hộ kinh doanh; tỉnh và huyện đã đầu tư xây dựng, phát triển chợ nông thôn hợp lý, khang trang, hàng hoá đa dạng, phong phú. Hoạt động dịch vụ trên nhiều lĩnh vực được mở rộng và phát triển mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Sự nghiệp Giáo dục – đào tạo và công tác xã hội hoá giáo dục được đặc biệt quan tâm; qua đó, hàng năm tỷ lệ học sinh ra lớp ở các cấp học và tốt nghiệp đạt cao. Huyện Gò Công Tây được tỉnh công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống dịch và điều trị bệnh cho nhân dân, được thực hiện tốt. Toàn huyện có 13/13 trạm y tế xã có bác sĩ khám và điều trị bệnh; các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng được tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã được các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã và đang trở thành hành động tự giác của mọi người. Hàng năm có trên 96% hộ được bình xét đạt 4 tiêu chuẩn “gia đình văn hoá”; toàn huyện có 66/66 ấp được công nhận là ấp văn hoá và 04/13 xã được công nhận danh hiệu xã văn hoá. Hoạt động thể thao và rèn luyện thân thể được cơ quan, trường học và nhân dân quan tâm nên có xu hướng ngày càng phát triển.
Các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện tốt nên đời sống gia đình các hộ chính sách, hộ nghèo được cải thiện rõ nét; số hộ nghèo còn 5,51% vào cuối năm 2013.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an tòan xã hội luôn được giữ vững; phạm pháp hình sự, tai – tệ nạn xã hội hàng năm đều giảm, điều này cho thấy sự nhận thức đúng đắn về pháp luật của đại bộ phận nhân dân, nhất là đối với thanh thiếu niên. Hàng năm, huyện đều đạt chỉ tiêu tuyển quân do tỉnh giao.
|
General introduction to Go Cong Tay district
THING
NATURAL CONDITIONS AND SOCIO-ECONOMIC CHARACTERISTICS
1. Natural conditions:
- Geographical location
: Go Cong Tay district is located to the east of
Tien Giang Province
, the district center is 26 km east of My Tho city and 12.2 km west of Go Cong town. The district has a natural area of 18,017.34 hectares; The East borders Go Cong Dong district and Go Cong town; The West borders Cho Gao district; The South borders Tan Phu Dong district; bordering the North
Long An province
.
- Climate:
Go Cong Tay district is located in the sub-equatorial tropical monsoon climate zone, with two distinct seasons: the rainy season from May to November coincides with the southwest monsoon season, the dry season from December to April the following year coincides with the Northwest monsoon season. Average annual rainfall ranges from 1,500 to 1,800 mm, the lowest level in the Mekong Delta; Average annual temperature from 26
0
C – 27
0
C.
2. Natural resources:
– Land resources:
Go Cong Tay district has land resources with good fertility, suitable for agricultural production, the need for intensive farming and increasing crops is increasingly emphasized; With their efforts, the people of Go Cong Tay have carried out excavation of many irrigation works and improved land to exploit and use this resource more effectively.
- Water Resources
: There is a fairly thick flow density, the two main rivers flowing through the district are Cua Tieu and Ta rivers, influenced by the uneven semi-diurnal tide regime of the East Sea. There are also Canal 14, Go Gua Canal, Vam Giong Canal, Binh Phan Canal... deep into the field providing water stretching across the fields of the district through the system of inland canals.
3. Household socio-economic characteristics
i:
The district's main economic sector is agricultural production, with annual food output reaching over 179,000 tons. In addition to 2-3 specialized rice crops a year, many crops such as watermelon, corn, chili, vegetables, beans of all kinds... have been produced by the people on a large scale with high economic value. The coconut garden has a stable area of 1,977 hectares, with an annual harvest of over 13,500 tons. In addition, farmers also intercrop tall trees and aquaculture in the coconut garden. The transformation of plant variety structure to suit soil conditions, ecological environment and local needs is closely linked to the application of scientific and technical advances in production, which has led to industry growth. Cultivation increases every year.
Cattle and poultry farming is growing rapidly in quantity and quality. The pig herd is growing strongly according to farm scale with many high-quality breeds, meeting market demand, bringing economic efficiency to farmers. The livestock industry's growth rate reached an average of 7.12% per year; This proves the potential and strength of the livestock industry in the agricultural and rural economy of the district. The total number of pigs as of December 2013 was 83,500 heads, and the poultry herd was 784,704 heads. In addition, farmers also raise a number of other animals such as goats, rabbits... but because the consumer market is not stable, they only grow on a household scale.
The water surface area for aquaculture has increased quite rapidly; By the end of 2013, the whole district had developed 842.84 hectares, with a total output of 5,313.45 tons, achieving an economic value many times higher than the same unit of area for cultivating different types of plants and animals. other.
The Industry - Handicraft industry in the district continues to shift, gradually expanding in scale, making an important contribution to the socio-economic development of the district. The whole district has 257 production establishments, the value of industrial and handicraft production increases by an average annual rate of 3%. A number of new industries have been opened such as knitting for export, and machinery repair facilities serving industrial mechanization are equipped with new technology.
Trade and service industry: currently there are 108 private enterprises and 2,500 business households; The province and district have invested in building and developing reasonable, spacious rural markets with diverse and abundant goods. Service activities in many fields have expanded and developed strongly, meeting the production and daily needs of the people.
Education - training and educational socialization work receive special attention; Thereby, every year the rate of students graduating at all levels and graduating is high. Go Cong Tay district is recognized by the province as meeting national standards for universal primary education at the right age and universal lower secondary education.
Primary health care, epidemic prevention and disease treatment for the people are being carried out well. The whole district has 13/13 commune health stations with doctors to examine and treat diseases; National health and community health programs have been organized and implemented with good results.
The movement "All people unite to build a cultural life" has been unanimously responded to by all walks of life, and has become a voluntary action of everyone. Every year, over 96% of households are considered to meet 4 "cultural family" standards; The entire district has 66/66 hamlets recognized as cultural hamlets and 04/13 communes recognized as cultural communes. Sports and physical training activities are of interest to agencies, schools and people, so they tend to grow more and more.
Social policies have been well implemented, so the family life of policy households and poor households has clearly improved; The number of poor households was 5.51% at the end of 2013.
The political security situation and social order and safety are always maintained; Criminal crimes, accidents and social evils all decrease every year, which shows the correct awareness of the law among the majority of people, especially teenagers. Every year, the district meets the military recruitment target assigned by the province.
|
Giới thiệu khái quát huyện Chợ Gạo
1. Vị trí địa lý
Huyện Chợ Gạo nằm ở phía Đông, cách thành phố Mỹ Tho – trung tâm
tỉnh Tiền Giang
10 km, là cửa ngõ đi về các huyện phía Đông và ra biển, có kênh Chợ Gạo là tuyến giao thông thủy quan trọng nối liền Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Ranh giới hành chính được xác định như sau:
– Phía Đông: giáp huyện Gò Công Tây;
– Phía Tây: giáp thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;
– Phía Nam: giáp sông Tiền;
– Phía Bắc: giáp huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Dân số: 177.811 người, tổng số hộ gia đình 48.100 hộ (tính đến thời điểm tháng 9 năm 2013).
Diện tích tự nhiên: 23.139 ha.
Diện tích đất nông nghiệp 19.412 ha; đất phi nông nghiệp 3.727 ha.
Mật độ dân số trung bình 768 người/km
2
, nhân dân trong huyện sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, kinh doanh và buôn bán nhỏ.
2. Đặc điểm Kinh tế – Xã hội
a. Một số vấn đề trong phát triển kinh tế – xã hội của huyện
Chợ Gạo thuộc nhóm vùng kinh tế – đô thị trung tâm của tỉnh Tiền Giang (gồm thành phố Mỹ tho, huyện Châu Thành và Chợ Gạo); huyện có 19 đơn vị hành chính – gồm 01 thị trấn và 18 xã, với tổng diện tích tự nhiên 23.139 ha. Cũng như một số huyện khác trong tỉnh, Chợ Gạo là huyện thuần nông, khoảng 80% hộ gia đình là nông dân. Hệ thống đường giao thông trên địa bàn toàn huyện được đầu tư xây dựng mới, nâng cấp và cải tạo ngày một tốt hơn. 100% các xã trong huyện đều đã có đường cho xe ô tô đến được trung tâm của xã; trên 80% các tuyến đường chính đã được nhựa hóa và trên 60% các tuyến đường do xã quản lý đã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; công tác cung cấp nước sạch, điện, thông tin liên lạc đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt của nhân dân và phục vụ cho sản xuất.
Gắn sản xuất nông nghiệp, địa bàn huyện được chia làm 02 vùng gồm:
– Vùng thuộc hệ Ngọt hóa Gò Công: gồm 07 đơn vị – xã Xuân Đông, Hòa Định, Bình Ninh, An Thạnh Thủy, Bình Phan, Bình Phục Nhứt và thị trấn Chợ Gạo. Vùng này chủ yếu sản xuất các loại lúa thơm phục vụ xuất khẩu, sản xuất rau màu và cũng là khu vực trồng tập trung các loại cây công nghiệp như dừa – khoảng 5.000 ha, ca cao – khoảng 955 ha …
– Các xã thuộc hệ Bảo Định: gồm 12 đơn vị – xã Hòa Tịnh, Phú Kiết, Lương Hòa Lạc, Trung Hòa, Mỹ Tịnh An, Tân Bình Thạnh, Thanh Bình, Song Bình, Long Bình Điền, Đăng Hưng Phước, Tân Thuận Bình, Quơn Long là vùng chuyên sản xuất nếp Bè – khoảng 2.500 ha, trồng rau màu và là vùng trồng cây ăn trái tập trung – trong đó có hơn 2.800 ha cây Thanh long đã được bảo hộ xuất xứ hàng hóa.
– Thanh long và nếp Bè là 02 sản phẩm của huyện đã được Cục Sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Trên cơ sở đó, huyện đã thành lập Hợp tác xã để sản xuất, kinh doanh và quảng bá thương hiệu cho 02 loại sản phẩm này. Hiện các sản phẩm đang từng bước thâm nhập thị trường một số nước như Đức, Nhật, Mỹ… Để đáp ứng cho việc phát triển thương hiệu, sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh đối với 02 sản phẩm này, huyện đang triển khai chương trình sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP, góp phần tiêu thụ hàng hóa nông sản, đồng thời tạo điều kiện để khai thác tốt các thương hiệu hàng hóa đã được công nhận.
– Cùng với phát triển cây lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng được đầu tư phát triển theo hướng bán công nghiệp với quy mô trang trại vừa và nhỏ và chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của huyện với khoảng 102.000 con heo, 39.000 con bò và 1,6 triệu con gia cầm lấy trứng và thịt mỗi năm; công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất có nhiều tiến bộ, góp phần đưa sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển theo hướng tập trung và bền vững.
– Ngoài ra, huyện Chợ Gạo cũng có tiềm năng lớn về phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch; phát triển du lịch sinh thái gắn với vùng sông nước ở xã Xuân Đông, các di tích lịch sử, văn hóa (Khu di tích Óc eo, Đền thờ Thủ Khoa Huân…) và du lịch nhà vườn Thanh long (trái cây đặc sản địa phương).
Mục tiêu đến năm 2015 và định hướng 2020 của huyện là ngoài việc đảm bảo ổn định và phát triển về kinh tế, quốc phòng – an ninh, văn hóa – xã hội, huyện sẽ tiếp tục mời gọi, thu hút đầu tư để xây dựng hoàn thành kết cấu hạ tầng Cụm công nghiệp Chợ Gạo (xã Tân Thuận Bình), Cụm công nghiệp Bình Ninh (xã Bình Ninh) và khai thác, sử dụng tốt thương hiệu Thanh long, nếp Bè.
b. Thuận lợi khi đầu tư trên địa bàn Chợ Gạo
– Về hạ tầng cơ sở
+ Đối với phát triển sản xuất nông nghiệp: được đảm bảo các nhu cầu về nước cho tưới tiêu thông qua hệ thống các cống ngăn mặn, ngăn triều cường hiện có (bao gồm hệ Ngọt hóa Gò Công, hệ Bảo Định); đảm bảo nhu cầu về nước sạch cho sản xuất, kinh doanh thông qua hệ thống cung cấp nước sạch hiện có.
+ Đối với vận chuyển, lưu thông hàng hóa: đảm bảo được thực hiện thông suốt thông qua các tuyến giao thông lớn như Quốc lộ 50 nối liền thành phố Mỹ Tho với các huyện phía Đông và Thành phố Hồ Chí Minh; kênh Chợ Gạo được xem là tuyến đường thủy huyết mạch nối liền Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ; Đường Cần Đước – Chợ Gạo đã xây dựng xong, sẽ tạo cho Chợ Gạo trở thành một điểm nối liền gần gũi với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây Nam Bộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông, trao đổi hàng hóa.
– Về mặt bằng đầu tư:
+ Cụm công nghiệp Chợ Gạo đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang phê duyệt quy hoạch chi tiết, có quy mô diện tích 50,4 ha, có đường giao thông cả đường thủy và đường bộ, hiện trạng đường đi đến dự án sử dụng tuyến tránh Quốc lộ 50, đường huyện 25C, đường thủy kênh Chợ Gạo và đường Cần Đước – Chợ Gạo (đường tỉnh 879D) cặp khu quy hoạch đã xây dựng xong. Dân cư tại khu vực quy hoạch không nhiều, nhà cửa vật kiến trúc ít (trong khu quy hoạch có 57 hộ dân, với số lượng 57 căn nhà cấp 4 và thô sơ), đất đai chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp nên thuận lợi cho việc bồi thường, giải tỏa. Khả năng cung cấp điện, nước thuận lợi đảm bảo yêu cầu khi cụm công nghiệp đi vào hoạt động.
+ Cụm công nghiệp Bình Ninh: Được Ủy ban nhân dân tỉnh tiền Giang phê duyệt quy hoạch chi tiết, có diện tích 14,6 ha, có đường giao thông thủy và đường bộ (Đường tỉnh 877, đường thủy sông Tiền). Khả năng cung cấp điện, nước thuận lợi đảm bảo yêu cầu khi cụm công nghiệp đi vào hoạt động; giáp ranh huyện Gò Công Tây và huyện Tân Phú Đông thuận lợi trong thu hút lực lượng lao động. Hiện nay, tại xã Bình Ninh đã hình thành được các cơ sở sản xuất của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Công ty TNHH MTV Jako Vina, Công ty TNHH MTV Centum Vina, Công ty TNHH Daechang Vina,… tạo điều kiện thu hút đầu tư hình thành vùng sản xuất công nghiệp.
– Về nguồn lao động: nguồn lao động của huyện khá dồi dào, chủ yếu là lao động trẻ, đã từng bước được đào tạo, nâng cao tay nghề, đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu của các nhà đầu tư – với khoảng 115.921 lao động, kể cả lao động kỹ thuật và cán bộ làm khoa học.
Trên cơ sở đó, thời gian qua, huyện đã thu hút được một số nhà đầu tư trong các lĩnh vực xây dựng nhà ở (Khu dân cư Long Thạnh Hưng – diện tích 23,6 ha ở xã Long Bình Điền và thị trấn Chợ Gạo; nhà ở khu phố 4, 5 – thị trấn Chợ Gạo); thu hút được một số nhà đầu tư vốn nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất, gia công quần, áo khoác, áo lông vịt, ba lô, túi xách xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Châu Âu, Châu Á,…. như Công ty TNHH MTV Wondo Vina, Công ty TNHH MTV Jako Vina (Hàn Quốc),…
c. Những lĩnh vực cần được khai thác, mời gọi đầu tư
– Xây dựng và phát triển cụm công nghiệp của huyện góp phần giải quyết nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nông sản; nâng cao giá trị của hàng hóa nông sản và góp phần giải quyết việc làm cho lực lượng lao động của huyện – hiện phải phân tán đi làm việc ở các địa phương khác và ngoài tỉnh.
– Đầu tư công nghệ, trang thiết bị để phát triển trên lĩnh vực chế biến lương thực – gạo xuất khẩu, phát triển vùng chuyên canh và nâng cao giá trị các loại đặc sản của huyện gồm Thanh long và nếp Bè, tiêu thụ sản phẩm từ cây cacao, các loại cây ăn trái khác,…
– Tiếp tục mời gọi các nhà đầu tư thực hiện công tác xã hội hóa trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm,..
|
Giới thiệu khái quát huyện Chợ Gạo
1. Vị trí địa lý
Huyện Chợ Gạo nằm ở phía Đông, cách thành phố Mỹ Tho – trung tâm
tỉnh Tiền Giang
10 km, là cửa ngõ đi về các huyện phía Đông và ra biển, có kênh Chợ Gạo là tuyến giao thông thủy quan trọng nối liền Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Ranh giới hành chính được xác định như sau:
– Phía Đông: giáp huyện Gò Công Tây;
– Phía Tây: giáp thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;
– Phía Nam: giáp sông Tiền;
– Phía Bắc: giáp huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Dân số: 177.811 người, tổng số hộ gia đình 48.100 hộ (tính đến thời điểm tháng 9 năm 2013).
Diện tích tự nhiên: 23.139 ha.
Diện tích đất nông nghiệp 19.412 ha; đất phi nông nghiệp 3.727 ha.
Mật độ dân số trung bình 768 người/km
2
, nhân dân trong huyện sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, kinh doanh và buôn bán nhỏ.
2. Đặc điểm Kinh tế – Xã hội
a. Một số vấn đề trong phát triển kinh tế – xã hội của huyện
Chợ Gạo thuộc nhóm vùng kinh tế – đô thị trung tâm của tỉnh Tiền Giang (gồm thành phố Mỹ tho, huyện Châu Thành và Chợ Gạo); huyện có 19 đơn vị hành chính – gồm 01 thị trấn và 18 xã, với tổng diện tích tự nhiên 23.139 ha. Cũng như một số huyện khác trong tỉnh, Chợ Gạo là huyện thuần nông, khoảng 80% hộ gia đình là nông dân. Hệ thống đường giao thông trên địa bàn toàn huyện được đầu tư xây dựng mới, nâng cấp và cải tạo ngày một tốt hơn. 100% các xã trong huyện đều đã có đường cho xe ô tô đến được trung tâm của xã; trên 80% các tuyến đường chính đã được nhựa hóa và trên 60% các tuyến đường do xã quản lý đã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; công tác cung cấp nước sạch, điện, thông tin liên lạc đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt của nhân dân và phục vụ cho sản xuất.
Gắn sản xuất nông nghiệp, địa bàn huyện được chia làm 02 vùng gồm:
– Vùng thuộc hệ Ngọt hóa Gò Công: gồm 07 đơn vị – xã Xuân Đông, Hòa Định, Bình Ninh, An Thạnh Thủy, Bình Phan, Bình Phục Nhứt và thị trấn Chợ Gạo. Vùng này chủ yếu sản xuất các loại lúa thơm phục vụ xuất khẩu, sản xuất rau màu và cũng là khu vực trồng tập trung các loại cây công nghiệp như dừa – khoảng 5.000 ha, ca cao – khoảng 955 ha …
– Các xã thuộc hệ Bảo Định: gồm 12 đơn vị – xã Hòa Tịnh, Phú Kiết, Lương Hòa Lạc, Trung Hòa, Mỹ Tịnh An, Tân Bình Thạnh, Thanh Bình, Song Bình, Long Bình Điền, Đăng Hưng Phước, Tân Thuận Bình, Quơn Long là vùng chuyên sản xuất nếp Bè – khoảng 2.500 ha, trồng rau màu và là vùng trồng cây ăn trái tập trung – trong đó có hơn 2.800 ha cây Thanh long đã được bảo hộ xuất xứ hàng hóa.
– Thanh long và nếp Bè là 02 sản phẩm của huyện đã được Cục Sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Trên cơ sở đó, huyện đã thành lập Hợp tác xã để sản xuất, kinh doanh và quảng bá thương hiệu cho 02 loại sản phẩm này. Hiện các sản phẩm đang từng bước thâm nhập thị trường một số nước như Đức, Nhật, Mỹ… Để đáp ứng cho việc phát triển thương hiệu, sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh đối với 02 sản phẩm này, huyện đang triển khai chương trình sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP, góp phần tiêu thụ hàng hóa nông sản, đồng thời tạo điều kiện để khai thác tốt các thương hiệu hàng hóa đã được công nhận.
– Cùng với phát triển cây lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng được đầu tư phát triển theo hướng bán công nghiệp với quy mô trang trại vừa và nhỏ và chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của huyện với khoảng 102.000 con heo, 39.000 con bò và 1,6 triệu con gia cầm lấy trứng và thịt mỗi năm; công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất có nhiều tiến bộ, góp phần đưa sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển theo hướng tập trung và bền vững.
– Ngoài ra, huyện Chợ Gạo cũng có tiềm năng lớn về phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch; phát triển du lịch sinh thái gắn với vùng sông nước ở xã Xuân Đông, các di tích lịch sử, văn hóa (Khu di tích Óc eo, Đền thờ Thủ Khoa Huân…) và du lịch nhà vườn Thanh long (trái cây đặc sản địa phương).
Mục tiêu đến năm 2015 và định hướng 2020 của huyện là ngoài việc đảm bảo ổn định và phát triển về kinh tế, quốc phòng – an ninh, văn hóa – xã hội, huyện sẽ tiếp tục mời gọi, thu hút đầu tư để xây dựng hoàn thành kết cấu hạ tầng Cụm công nghiệp Chợ Gạo (xã Tân Thuận Bình), Cụm công nghiệp Bình Ninh (xã Bình Ninh) và khai thác, sử dụng tốt thương hiệu Thanh long, nếp Bè.
b. Thuận lợi khi đầu tư trên địa bàn Chợ Gạo
– Về hạ tầng cơ sở
+ Đối với phát triển sản xuất nông nghiệp: được đảm bảo các nhu cầu về nước cho tưới tiêu thông qua hệ thống các cống ngăn mặn, ngăn triều cường hiện có (bao gồm hệ Ngọt hóa Gò Công, hệ Bảo Định); đảm bảo nhu cầu về nước sạch cho sản xuất, kinh doanh thông qua hệ thống cung cấp nước sạch hiện có.
+ Đối với vận chuyển, lưu thông hàng hóa: đảm bảo được thực hiện thông suốt thông qua các tuyến giao thông lớn như Quốc lộ 50 nối liền thành phố Mỹ Tho với các huyện phía Đông và Thành phố Hồ Chí Minh; kênh Chợ Gạo được xem là tuyến đường thủy huyết mạch nối liền Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ; Đường Cần Đước – Chợ Gạo đã xây dựng xong, sẽ tạo cho Chợ Gạo trở thành một điểm nối liền gần gũi với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây Nam Bộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông, trao đổi hàng hóa.
– Về mặt bằng đầu tư:
+ Cụm công nghiệp Chợ Gạo đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang phê duyệt quy hoạch chi tiết, có quy mô diện tích 50,4 ha, có đường giao thông cả đường thủy và đường bộ, hiện trạng đường đi đến dự án sử dụng tuyến tránh Quốc lộ 50, đường huyện 25C, đường thủy kênh Chợ Gạo và đường Cần Đước – Chợ Gạo (đường tỉnh 879D) cặp khu quy hoạch đã xây dựng xong. Dân cư tại khu vực quy hoạch không nhiều, nhà cửa vật kiến trúc ít (trong khu quy hoạch có 57 hộ dân, với số lượng 57 căn nhà cấp 4 và thô sơ), đất đai chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp nên thuận lợi cho việc bồi thường, giải tỏa. Khả năng cung cấp điện, nước thuận lợi đảm bảo yêu cầu khi cụm công nghiệp đi vào hoạt động.
+ Cụm công nghiệp Bình Ninh: Được Ủy ban nhân dân tỉnh tiền Giang phê duyệt quy hoạch chi tiết, có diện tích 14,6 ha, có đường giao thông thủy và đường bộ (Đường tỉnh 877, đường thủy sông Tiền). Khả năng cung cấp điện, nước thuận lợi đảm bảo yêu cầu khi cụm công nghiệp đi vào hoạt động; giáp ranh huyện Gò Công Tây và huyện Tân Phú Đông thuận lợi trong thu hút lực lượng lao động. Hiện nay, tại xã Bình Ninh đã hình thành được các cơ sở sản xuất của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Công ty TNHH MTV Jako Vina, Công ty TNHH MTV Centum Vina, Công ty TNHH Daechang Vina,… tạo điều kiện thu hút đầu tư hình thành vùng sản xuất công nghiệp.
– Về nguồn lao động: nguồn lao động của huyện khá dồi dào, chủ yếu là lao động trẻ, đã từng bước được đào tạo, nâng cao tay nghề, đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu của các nhà đầu tư – với khoảng 115.921 lao động, kể cả lao động kỹ thuật và cán bộ làm khoa học.
Trên cơ sở đó, thời gian qua, huyện đã thu hút được một số nhà đầu tư trong các lĩnh vực xây dựng nhà ở (Khu dân cư Long Thạnh Hưng – diện tích 23,6 ha ở xã Long Bình Điền và thị trấn Chợ Gạo; nhà ở khu phố 4, 5 – thị trấn Chợ Gạo); thu hút được một số nhà đầu tư vốn nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất, gia công quần, áo khoác, áo lông vịt, ba lô, túi xách xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Châu Âu, Châu Á,…. như Công ty TNHH MTV Wondo Vina, Công ty TNHH MTV Jako Vina (Hàn Quốc),…
c. Những lĩnh vực cần được khai thác, mời gọi đầu tư
– Xây dựng và phát triển cụm công nghiệp của huyện góp phần giải quyết nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nông sản; nâng cao giá trị của hàng hóa nông sản và góp phần giải quyết việc làm cho lực lượng lao động của huyện – hiện phải phân tán đi làm việc ở các địa phương khác và ngoài tỉnh.
– Đầu tư công nghệ, trang thiết bị để phát triển trên lĩnh vực chế biến lương thực – gạo xuất khẩu, phát triển vùng chuyên canh và nâng cao giá trị các loại đặc sản của huyện gồm Thanh long và nếp Bè, tiêu thụ sản phẩm từ cây cacao, các loại cây ăn trái khác,…
– Tiếp tục mời gọi các nhà đầu tư thực hiện công tác xã hội hóa trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm,..
|
Giới thiệu khái quát huyện Châu Thành
1. Vị trí địa lý:
Huyện Châu Thành nằm ở phía Tây của
tỉnh Tiền Giang
.
+ Đông giáp huyện Chợ Gạo và TP Mỹ Tho.
+ Tây giáp huyện Cai Lậy.
+ Nam giáp
sông Tiền
.
+ Bắc giáp huyện Tân Phước- Tiền Giang và
tỉnh Long An
.
– Diện tích tự nhiên 22.991,09 ha trong đó:
+ Đất Nông nghiệp 18.537,13 ha
+ Đất phi nông nghiệp 44.29,75ha
+ Đất chưa sử dụng 24,21 ha
2. Tóm tắt đặc điểm kinh tế – xã hội
Nhờ vị trí địa lý kinh tế huyện Châu Thành khá thuận lợi, toàn huyện có quốc lộ 1A đi xuyên qua chiều dài của huyện, nằm cặp bờ sông Tiền; cửa ngõ của Tiền Giang với TP HCM nên những năm, nền kinh tế phát triển khá nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và thương mại – dịch vụ, đến nay cơ cấu như sau:
Khu vực I 40,38
Khu vực II 32,06
Khu vực III 27,56
Về nông nghiệp huyện Châu Thành:
Chủ yếu là kinh tế vườn với diện tích 11.359 ha với các loại cây chủ yếu như sapô, nhãn, vú sữa và các loại cây có múi với sản lượng hàng năm khoảng 135.000 tấn.
Cây lúa có diện tích canh tác 4.990 ha, sản lượng hàng năm khoảng 8.000 tấn.
Cây rau màu thực phẩm diện tích xuống giống hàng năm khoảng 7.200 ha.
Về Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp huyện Châu Thành:
Huyện có 709 cơ sở sản xuất kinh doanh tiểu thủ công nghiệp, qui mô vốn 950,34 tỷ đồng, giải quyết việc làm 18.642 lao động. Hiện có 1 cụm Công nghiệp Song Thuận 5 ha, đang quy hoạch cụm Công nghiệp Tam Hiệp qui mô 80 ha.
Về thương mại – dịch vụ huyện Châu Thành:
– Huyện có 18 chợ, trong đó có 1 chợ đầu mối là Vĩnh Kim, có sức mua bán trao đổi khá lớn, huyện đang kêu gọi đầu tư mở rộng.
– Các loại hình dịch vụ tương đối đa dạng, đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng. Ngoài ra còn có các di tích lịch sử như Đình Long Hưng, Rạch Gầm Xoài Mút, có khả năng phát triển du lịch gắn với giáo dục truyền thống.
Về văn hóa xã hội huyện Châu Thành:
– Giáo dục: huyện có 17 trường THCS, 29 trường TH và 1 trường mầm non, 11 trường mẫu giáo; đội ngũ giáo viên có 1.896 người, cơ bản đạt chuẩn; số lượng học sinh năm học 2009-2010 có 35.276 em, trong đó THCS 12.397 em, TH 18.176 em, mẫu giáo 4.703 cháu. Huyện đạt chuẩn PCTHCS năm 2005.
– Y tế: có 1 bệnh viện đa khoa Trung tâm, 1 Trung tâm y tế dự phòng và phòng khám khu vực ở Vĩnh Kim và Dưỡng Điềm; có 64 bác sĩ, 145 y sĩ. 100 % xã có bác sĩ phục vụ.
– Văn hóa trung tâm thể thao: 105 /134 ấp đạt chuẩn văn hóa. Phong trào đàn ca tài tử nam bộ có 11 xã được duy trì thường xuyên hàng tháng.
Đã đầu tư xây dựng Trung tâm văn hóa huyện; có 1 sân vận động huyện và 9 xã có sân vận động.
– Chính sách xã hội: có 13 xã được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang, 3.554 liệt sĩ, 1.926 thương binh và 5.518 gia đình có công cách mạng.
|
General introduction to Chau Thanh district
1. Geographical location:
Chau Thanh district is located in the west of
Tien Giang Province
.
+ East borders Cho Gao district and My Tho city.
+ West borders Cai Lay district.
+ South borders
Tien River
.
+ North borders Tan Phuoc district - Tien Giang and
Long An province
.
– Natural area of 22,991.09 hectares of which:
+ Agricultural land 18,537.13 hectares
+ Non-agricultural land 44.29.75ha
+ Unused land 24.21 hectares
2. Summary of socio-economic characteristics
Thanks to the favorable geographical and economic position of Chau Thanh district, the entire district has National Highway 1A running through the length of the district, located on the banks of the Tien River; Tien Giang's gateway to Ho Chi Minh City, so in recent years, the economy has developed quite rapidly, the economic structure has shifted towards increasing the proportion of industry and trade - services, up to now the structure is as follows:
Region I 40.38
Region II 32.06
Region III 27.56
Regarding agriculture in Chau Thanh district:
Mainly the garden economy with an area of 11,359 hectares with main trees such as sapo, longan, star apple and citrus trees with an annual output of about 135,000 tons.
Rice has a cultivated area of 4,990 hectares, with an annual output of about 8,000 tons.
The annual sowing area for food color vegetables is about 7,200 hectares.
Regarding Industry and Handicrafts in Chau Thanh district:
The district has 709 handicraft production and business establishments, with capital of 950.34 billion VND, creating jobs for 18,642 workers. There is currently a Song Thuan Industrial cluster of 5 hectares, and Tam Hiep Industrial cluster of 80 hectares is being planned.
Regarding trade and services of Chau Thanh district:
– The district has 18 markets, including 1 wholesale market, Vinh Kim, with quite large trading power. The district is calling for investment in expansion.
– The types of services are relatively diverse, meeting production and consumption requirements. There are also historical relics such as Long Hung Communal House and Rach Gam Xoai Mut, which have the potential to develop tourism associated with traditional education.
About Chau Thanh district's culture and society:
– Education: the district has 17 secondary schools, 29 primary schools and 1 preschool, 11 kindergartens; The teaching staff has 1,896 people, basically meeting standards; The number of students in the 2009-2010 school year is 35,276, of which 12,397 are in middle school, 18,176 in primary school, and 4,703 in kindergarten. The district met the standards of secondary school control in 2005.
– Health: there is 1 central general hospital, 1 preventive medicine center and regional clinics in Vinh Kim and Duong Diem; There are 64 doctors and 145 physicians. 100% of communes have doctors serving them.
– Sports center culture: 105/134 hamlets meet cultural standards. The southern amateur folk music movement in 11 communes is maintained regularly every month.
Invested in building the District Cultural Center; There is 1 district stadium and 9 communes have stadiums.
– Social policy: there are 13 communes awarded the title of hero of the armed forces, 3,554 martyrs, 1,926 wounded soldiers and 5,518 families with revolutionary contributions.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cái Bè
Huyện Cái Bè có 1 thị trấn và 24 xã. Cái Bè là huyện nông nghiệp, nằm về phía tây, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho 50 km, cách thành phố
Hồ Chí Minh
113 km. Phía bắc giáp tỉnh Long An, phía nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp và phía đông giáp
huyện Cai Lậy
. Diện tích tự nhiên là 420, 9km2, chiếm 17,23% diện tích toàn tỉnh.
Dân số theo thống kê năm 2004 có 287.481 người, trong đó: 139.171 nam, 147.766 nữ. Mật độ 683 người/km
2
.
Phân bố địa bàn định cư: Khu vực thị trấn, thị tứ 16.087 người; nông thôn 217.394 người.
Mật độ dân số cao nhất là thị trấn Cái Bè: 3.696 người / km2 và thấp nhất là xã Mỹ Tân (xã mới thành lập năm 1990): 252 người / km2.
Huyện được chia thành 24 đơn vị hành chính với 1 thị trấn và 24 xã gồm: thị trấn Cái Bè, Đông Hoà Hiệp, Hoà Khánh, Mỹ Lương, An Hữu, Hoà Hưng, Hội Cư, Hậu Thành, Thiện Trí, An Thái Trung, Mỹ Đức Đông, Mỹ Đức Tây, An Thái Đông, Tân Thanh, Tân Hưng, Mỹ Lợi A, Mỹ Lợi B, Mỹ Trung, Thiện Trung, Hậu Mỹ Phú, Hậu Mỹ Trinh, Hậu Mỹ Bắc A, Hậu Mỹ Bắc B và Mỹ Tân.
Huyện Cái Bè có đường Quốc lộ 1A chạy dọc từ đông sang tây dài 27 km, Quốc lộ 30 dài 9 km từ ngã ba xã An Thái Trung đi Đồng Tháp, đây là hai tuyến đường bộ huyết mạch. Ngoài ra còn có nhiều tỉnh lộ như các đường 861, 863, 865, 869, 875 với tổng chiều dài gần 60 km.
Ngoài đường bộ, ở Cái Bè còn có các kinh rạch quan trọng gồm: rạch Cái Bè, rạch Cái Cối, rạch Bằng Lăng, kênh Nguyễn Văn Tiếp, rạch Cổ Cò, rạch Trà Lọt, kênh 28, rạch Ruộng và hàng chục kinh, rạch lớn nhỏ khác, chằng chịt đan xen với tổng chiều dài trên 500 km. Cái Bè là địa phương được thiên nhiên ưu đãi với hệ thống thủy lợi tự nhiên tốt nhất trong tỉnh.
Huyện Cái Bè là huyện có nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh, diện tích trồng lúa 3 vụ là 59.983 ha, nhưng cao nhất là diện tích trồng cây ăn trái với 140.600 ha. Huyện có 3 xã có diện tích đất nông nghiệp tương đối rộng, đó là xã Hậu Mỹ Trinh: 29.600 ha, Hậu Mỹ Bắc A: 25.260 ha và Hội Cư: 24.120 ha. Ngoài 3 xã nói trên còn có 3 vùng đất bãi bồi có diện tích tương đối rộng như: đất bãi bồi Cổ Lịch (còn gọi là cồn Cổ Lịch) với diện tích trồng cây ăn trái là 70 ha, cồn Hoà Khánh với diện tích hơn 40 ha và cồn Qui với diện tích hơn 80 ha, hiện trở thành một ấp thuộc xã Tân Thanh.
Huyện Cái Bè xưa vốn là lỵ sở của dinh Long Hồ. Chợ Cái Bè lập năm 1732, lúc đó gọi là chợ Long Hồ,nay là thị trấn Cái Bè. Dưới chế độ cũ, Cái Bè là đơn vị cấp quận thuộc tỉnh Mỹ Tho; từ năm 1955, chính quyền Sài Gòn cắt bớt các xã Tân Mỹ, Đốc Binh Kiều, Mỹ An, Mỹ Hoà và một phần đất xã Mỹ Trung của Cái Bè để sáp nhập vào quận Mỹ An thuộc tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 9.8.1961, chính quyền Sài Gòn ra nghị định 760-NV thành lập quận Giáo Đức, quận lỵ đặt tại xã An Hữu; quận Cái Bè đổi tên thành quận Sùng Hiếu. Theo thống kê năm 1970, quận Sùng Hiếu và Giáo Đức có diện tích 504,9 km2 (lớn hơn diện tích huyện Cái Bè ngày nay 100 km2). Quận Sùng Hiếu kéo dài đến xã Mỹ Thành, Phú An (thuộc huyện Cai Lậy hiện nay). Dân số hai quận cộng lại có 127.915 người. Quận Sùng Hiếu có 11 xã và quận Giáo Đức có 10 xã.
Về phía chính quyền cách mạng, thời điểm này vẫn giữ nguyên là huyện Cái Bè với có 16 xã và một thị trấn.
Trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập, địa bàn huyện là căn cứ địa cách mạng của Tỉnh ủy Tiền Giang, Khu ủy Khu 8, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ…Các trận đánh quan trọng: trận chiến thắng Cổ Cò tháng 2/1947 – đây là trận quyết chiến chặn đánh giao thông của bộ đội Nam bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp; trận tập kích đoàn tàu Pháp ở Thiên Hộ năm 1952; trận Kinh Bùi năm 1953… Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các chiến công được ghi nhận là: trận đánh đoàn tàu Mỹ trên sông rạch Ruộng vào năm 1967; trận diệt gọn tiểu đoàn Mỹ ở đập Ông Tải; trận đánh bắn cháy máy bay ở Á Rặc, thuộc xã Thiện Trí, huyện Cái Bè….Đó là những chiến công tiêu biểu cho hàng ngàn chiến công của quân và dân trong huyện.
Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, huyện Cái Bè đã có hơn 4.000 thương binh, liệt sĩ, gần 100.000 người có công với cách mạng được tặng thưởng huân, huy chương các loại. Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho quân dân huyện Cái Bè, 10 xã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang, 216 bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các Anh hùng lực lượng vũ trang như: Ngô Văn Nhạc, Nguyễn Văn Mười, Đỗ Hoài Nam, Đoàn Thị Nghiệp, Phạm Thị Thao, Trần Văn Thế…
Sau ngày thống nhất đất nước, Đảng bộ và nhân dân Cái Bè đã đoàn kết xây dựng, khôi phục kinh tế. Thành tựu lớn nhất là đã tập trung cải tạo đất nông nghiệp từ một vụ thành đất trồng lúa 3 vụ, cải tạo vườn tạp để trở thành vườn chuyên canh. Mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ phát triển rất mạnh, hầu như xã nào cũng có 1 – 2 chợ, huyện lỵ có chợ tập trung hàng hoá dồi dào, trái cây cũng nhiều chủng loại, các bến bãi tập kết xe, trái cây, lúa gạo, cá được khai thác mạnh mẽ. Cây ăn trái ở huyện Cái Bè gồm có cam mật, quít đường, bưởi long, ổi, mận, xoài… Đặc biệt, xoài cát Hoà Lộc (Hòa Hưng), bưởi lông Cổ Cò (Mỹ Lương) là hai đặc sản nổi tiếng trên thương trường.
Sau 1975, có hơn 100 công trình thủy lợi lớn và vừa được xây dựng, trong đó có hàng chục công trình do Nhà nước và nhân dân cùng đầu tư với kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Hơn 20 triệu ngày công lao động để làm mới và khôi phục đường giao thông nông thôn để ngày nay cả 24 xã đều có đường xe chạy đến tận xóm ấp, trong đó có 22 xã xe ô tô đến tận trung tâm xã. Giao thông đường thủy rất thuận lợi, lòng kênh rạch hàng năm luôn được nạo vét, chính vì thế mà chợ búa, trường học, trạm, trại được xây dựng rất nhanh, các ngành nghề thủ công như bánh phồng, báng tráng rế… phát triển. Các dịch vụ, mua bán trao đổi hàng hoá ở Cái Bè hoạt động rất mạnh, bảo đảm đời sống nhân dân, thuận tiện trong giao lưu mua bán và tiêu dùng sinh hoạt.
Kinh tế phát triển, đời sống tinh thần và phúc lợi xã hội cũng từng bước được cải thiện. Với truyền thống hiếu học, hàng năm ở Cái Bè có hơn 50.000 học sinh ở tất cả các cấp học, trên 95% trẻ em đến trường, trẻ 6 tuổi đều được vào lớp 1. Đội ngũ giáo viên trên 2000 người trong đó có hơn 600 người có trình độ cao đẳng, đại học. Bên cạnh đó, ngành y tế huyện cũng không ngừng phát triển, Cái Bè đã có hơn 300 y bác sĩ, một bệnh viện huyện , hai bệnh viện khu vực. Tất cả các xã đều có trạm xá với hơn 41% xã có bác sĩ, 100% xã có y sĩ và y tá hộ lý. Phong trào thể dục – thể thao, văn hoá – văn nghệ phát triển rộng khắp. Trong huyện có 3 rạp hát lớn và nhiều sân khấu nhỏ với 16 câu lạc bộ hát cho nhau nghe…
Về mặt văn hoá, khu vực rạch Cái Cối có thể xem như là vùng miệt vườn tiêu biểu của Nam bộ. Ở đây có nhóm họ Lê –Lê Văn Thoại, ông nội của tướng Lê Văn Duyệt, là người từ Mộ Đức, Quảng Ngãi đến đây khai phá đầu tiên. Họ Đoàn- Đoàn Cảnh Cư, tướng thuộc triều Gia Long…Đây cũng là vùng đất sản sinh nhiều nhân tài làm văn hoá nghệ thuật như Nguyễn Tống Triều, một trong những người sáng lập nghệ thuật cải lương, nhạc sĩ Hoàng Việt, nhà thơ Bảo Định Giang… Các di tích quan trọng trong huyện gồm có phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh (xã Tân Hưng), miếu Hà Dương Thủy thần ở xã Hòa Khánh, đình Mỹ Lương, các di tích chiến thắng Á Rặc (xã Thiện Trí), chiến thắng đập Ông Tải (Hậu Mỹ Trinh ), chiến thắng Thẻ 23 (xã Hội Cư)…. Cái Bè còn là nơi có tiềm năng du lịch đáng kể. Khu du lịch Cái bè gồm các tuyến tham quan chợ nổi Cái Bè, nhà cổ ở Đông Hòa Hiệp, cồn Cổ Lịch, cầu Mỹ Thuận…
|
Giới thiệu khái quát huyện Cái Bè
Huyện Cái Bè có 1 thị trấn và 24 xã. Cái Bè là huyện nông nghiệp, nằm về phía tây, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho 50 km, cách thành phố
Hồ Chí Minh
113 km. Phía bắc giáp tỉnh Long An, phía nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp và phía đông giáp
huyện Cai Lậy
. Diện tích tự nhiên là 420, 9km2, chiếm 17,23% diện tích toàn tỉnh.
Dân số theo thống kê năm 2004 có 287.481 người, trong đó: 139.171 nam, 147.766 nữ. Mật độ 683 người/km
2
.
Phân bố địa bàn định cư: Khu vực thị trấn, thị tứ 16.087 người; nông thôn 217.394 người.
Mật độ dân số cao nhất là thị trấn Cái Bè: 3.696 người / km2 và thấp nhất là xã Mỹ Tân (xã mới thành lập năm 1990): 252 người / km2.
Huyện được chia thành 24 đơn vị hành chính với 1 thị trấn và 24 xã gồm: thị trấn Cái Bè, Đông Hoà Hiệp, Hoà Khánh, Mỹ Lương, An Hữu, Hoà Hưng, Hội Cư, Hậu Thành, Thiện Trí, An Thái Trung, Mỹ Đức Đông, Mỹ Đức Tây, An Thái Đông, Tân Thanh, Tân Hưng, Mỹ Lợi A, Mỹ Lợi B, Mỹ Trung, Thiện Trung, Hậu Mỹ Phú, Hậu Mỹ Trinh, Hậu Mỹ Bắc A, Hậu Mỹ Bắc B và Mỹ Tân.
Huyện Cái Bè có đường Quốc lộ 1A chạy dọc từ đông sang tây dài 27 km, Quốc lộ 30 dài 9 km từ ngã ba xã An Thái Trung đi Đồng Tháp, đây là hai tuyến đường bộ huyết mạch. Ngoài ra còn có nhiều tỉnh lộ như các đường 861, 863, 865, 869, 875 với tổng chiều dài gần 60 km.
Ngoài đường bộ, ở Cái Bè còn có các kinh rạch quan trọng gồm: rạch Cái Bè, rạch Cái Cối, rạch Bằng Lăng, kênh Nguyễn Văn Tiếp, rạch Cổ Cò, rạch Trà Lọt, kênh 28, rạch Ruộng và hàng chục kinh, rạch lớn nhỏ khác, chằng chịt đan xen với tổng chiều dài trên 500 km. Cái Bè là địa phương được thiên nhiên ưu đãi với hệ thống thủy lợi tự nhiên tốt nhất trong tỉnh.
Huyện Cái Bè là huyện có nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh, diện tích trồng lúa 3 vụ là 59.983 ha, nhưng cao nhất là diện tích trồng cây ăn trái với 140.600 ha. Huyện có 3 xã có diện tích đất nông nghiệp tương đối rộng, đó là xã Hậu Mỹ Trinh: 29.600 ha, Hậu Mỹ Bắc A: 25.260 ha và Hội Cư: 24.120 ha. Ngoài 3 xã nói trên còn có 3 vùng đất bãi bồi có diện tích tương đối rộng như: đất bãi bồi Cổ Lịch (còn gọi là cồn Cổ Lịch) với diện tích trồng cây ăn trái là 70 ha, cồn Hoà Khánh với diện tích hơn 40 ha và cồn Qui với diện tích hơn 80 ha, hiện trở thành một ấp thuộc xã Tân Thanh.
Huyện Cái Bè xưa vốn là lỵ sở của dinh Long Hồ. Chợ Cái Bè lập năm 1732, lúc đó gọi là chợ Long Hồ,nay là thị trấn Cái Bè. Dưới chế độ cũ, Cái Bè là đơn vị cấp quận thuộc tỉnh Mỹ Tho; từ năm 1955, chính quyền Sài Gòn cắt bớt các xã Tân Mỹ, Đốc Binh Kiều, Mỹ An, Mỹ Hoà và một phần đất xã Mỹ Trung của Cái Bè để sáp nhập vào quận Mỹ An thuộc tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 9.8.1961, chính quyền Sài Gòn ra nghị định 760-NV thành lập quận Giáo Đức, quận lỵ đặt tại xã An Hữu; quận Cái Bè đổi tên thành quận Sùng Hiếu. Theo thống kê năm 1970, quận Sùng Hiếu và Giáo Đức có diện tích 504,9 km2 (lớn hơn diện tích huyện Cái Bè ngày nay 100 km2). Quận Sùng Hiếu kéo dài đến xã Mỹ Thành, Phú An (thuộc huyện Cai Lậy hiện nay). Dân số hai quận cộng lại có 127.915 người. Quận Sùng Hiếu có 11 xã và quận Giáo Đức có 10 xã.
Về phía chính quyền cách mạng, thời điểm này vẫn giữ nguyên là huyện Cái Bè với có 16 xã và một thị trấn.
Trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập, địa bàn huyện là căn cứ địa cách mạng của Tỉnh ủy Tiền Giang, Khu ủy Khu 8, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ…Các trận đánh quan trọng: trận chiến thắng Cổ Cò tháng 2/1947 – đây là trận quyết chiến chặn đánh giao thông của bộ đội Nam bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp; trận tập kích đoàn tàu Pháp ở Thiên Hộ năm 1952; trận Kinh Bùi năm 1953… Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các chiến công được ghi nhận là: trận đánh đoàn tàu Mỹ trên sông rạch Ruộng vào năm 1967; trận diệt gọn tiểu đoàn Mỹ ở đập Ông Tải; trận đánh bắn cháy máy bay ở Á Rặc, thuộc xã Thiện Trí, huyện Cái Bè….Đó là những chiến công tiêu biểu cho hàng ngàn chiến công của quân và dân trong huyện.
Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, huyện Cái Bè đã có hơn 4.000 thương binh, liệt sĩ, gần 100.000 người có công với cách mạng được tặng thưởng huân, huy chương các loại. Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho quân dân huyện Cái Bè, 10 xã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang, 216 bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các Anh hùng lực lượng vũ trang như: Ngô Văn Nhạc, Nguyễn Văn Mười, Đỗ Hoài Nam, Đoàn Thị Nghiệp, Phạm Thị Thao, Trần Văn Thế…
Sau ngày thống nhất đất nước, Đảng bộ và nhân dân Cái Bè đã đoàn kết xây dựng, khôi phục kinh tế. Thành tựu lớn nhất là đã tập trung cải tạo đất nông nghiệp từ một vụ thành đất trồng lúa 3 vụ, cải tạo vườn tạp để trở thành vườn chuyên canh. Mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ phát triển rất mạnh, hầu như xã nào cũng có 1 – 2 chợ, huyện lỵ có chợ tập trung hàng hoá dồi dào, trái cây cũng nhiều chủng loại, các bến bãi tập kết xe, trái cây, lúa gạo, cá được khai thác mạnh mẽ. Cây ăn trái ở huyện Cái Bè gồm có cam mật, quít đường, bưởi long, ổi, mận, xoài… Đặc biệt, xoài cát Hoà Lộc (Hòa Hưng), bưởi lông Cổ Cò (Mỹ Lương) là hai đặc sản nổi tiếng trên thương trường.
Sau 1975, có hơn 100 công trình thủy lợi lớn và vừa được xây dựng, trong đó có hàng chục công trình do Nhà nước và nhân dân cùng đầu tư với kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Hơn 20 triệu ngày công lao động để làm mới và khôi phục đường giao thông nông thôn để ngày nay cả 24 xã đều có đường xe chạy đến tận xóm ấp, trong đó có 22 xã xe ô tô đến tận trung tâm xã. Giao thông đường thủy rất thuận lợi, lòng kênh rạch hàng năm luôn được nạo vét, chính vì thế mà chợ búa, trường học, trạm, trại được xây dựng rất nhanh, các ngành nghề thủ công như bánh phồng, báng tráng rế… phát triển. Các dịch vụ, mua bán trao đổi hàng hoá ở Cái Bè hoạt động rất mạnh, bảo đảm đời sống nhân dân, thuận tiện trong giao lưu mua bán và tiêu dùng sinh hoạt.
Kinh tế phát triển, đời sống tinh thần và phúc lợi xã hội cũng từng bước được cải thiện. Với truyền thống hiếu học, hàng năm ở Cái Bè có hơn 50.000 học sinh ở tất cả các cấp học, trên 95% trẻ em đến trường, trẻ 6 tuổi đều được vào lớp 1. Đội ngũ giáo viên trên 2000 người trong đó có hơn 600 người có trình độ cao đẳng, đại học. Bên cạnh đó, ngành y tế huyện cũng không ngừng phát triển, Cái Bè đã có hơn 300 y bác sĩ, một bệnh viện huyện , hai bệnh viện khu vực. Tất cả các xã đều có trạm xá với hơn 41% xã có bác sĩ, 100% xã có y sĩ và y tá hộ lý. Phong trào thể dục – thể thao, văn hoá – văn nghệ phát triển rộng khắp. Trong huyện có 3 rạp hát lớn và nhiều sân khấu nhỏ với 16 câu lạc bộ hát cho nhau nghe…
Về mặt văn hoá, khu vực rạch Cái Cối có thể xem như là vùng miệt vườn tiêu biểu của Nam bộ. Ở đây có nhóm họ Lê –Lê Văn Thoại, ông nội của tướng Lê Văn Duyệt, là người từ Mộ Đức, Quảng Ngãi đến đây khai phá đầu tiên. Họ Đoàn- Đoàn Cảnh Cư, tướng thuộc triều Gia Long…Đây cũng là vùng đất sản sinh nhiều nhân tài làm văn hoá nghệ thuật như Nguyễn Tống Triều, một trong những người sáng lập nghệ thuật cải lương, nhạc sĩ Hoàng Việt, nhà thơ Bảo Định Giang… Các di tích quan trọng trong huyện gồm có phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh (xã Tân Hưng), miếu Hà Dương Thủy thần ở xã Hòa Khánh, đình Mỹ Lương, các di tích chiến thắng Á Rặc (xã Thiện Trí), chiến thắng đập Ông Tải (Hậu Mỹ Trinh ), chiến thắng Thẻ 23 (xã Hội Cư)…. Cái Bè còn là nơi có tiềm năng du lịch đáng kể. Khu du lịch Cái bè gồm các tuyến tham quan chợ nổi Cái Bè, nhà cổ ở Đông Hòa Hiệp, cồn Cổ Lịch, cầu Mỹ Thuận…
|
Giới thiệu khái quát thị xã Cai Lậy
Điều kiện tự nhiên
–
Về tọa độ địa lý
:
+ Kinh độ Đông : 105
0
33’22” – 105
0
44’69”
+ Vĩ độ Bắc : 10
0
35’37” – 10
0
50’40”
–
Diện tích tự nhiên:
14.019 ha
– Dân số:
123.861 nhân khẩu;
Mật độ dân số
: 878 người/km
2
.
–
Ranh giới địa lý
hành chính:
+ Phía Bắc giáp
huyện Tân Phước
;
+ Phía Đông giáp huyện Châu Thành;
+ Phía Tây giáp huyện Cai Lậy;
+ Phía Nam giáp huyện Cai Lậy;
–
Thị xã Cai Lậy
có 16
đơn vị hành chính:
Gồm 6 phường, 10 xã,: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường Nhị Mỹ, xã Phú Quý, xã Tân Bình, xã Thanh Hòa, xã Tân Hội, xã Long Khánh, xã Mỹ Hạnh Đông, xã Mỹ Phước Tây, xã Mỹ Hạnh Trung, xã Tân Phú, xã Nhị Quý.
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số
130/NQ-CP
điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy và huyện Cai Lậy còn lại. Nội dung Nghị quyết về việc thành lập thị xã Cai Lậy như sau:
1. Thành lập thị xã Cai Lậy thuộc
tỉnh Tiền Giang
trên cơ sở điều chỉnh 14.018,95 ha diện tích tự nhiên và 123.775 nhân khẩu của huyện Cai Lậy, bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của thị trấn Cai Lậy và các xã Mỹ Phước Tây, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Phú, Tân Bình, Tân Hội, Nhị Mỹ, Nhị Quý, Thanh Hòa, Phú Quý, Long Khánh.
Thị xã Cai Lậy có 14.018,95 ha diện tích tự nhiên và 123.775 nhân khẩu.
2. Điều chỉnh địa giới hành chính thị trấn Cai Lậy và các xã Nhị Mỹ, Tân Bình để thành lập 6 phường thuộc thị xã Cai Lậy:
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy và huyện Cai Lậy còn lại; thành lập các phường thuộc thị xã Cai Lậy, thị xã Cai Lậy có 16 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường Nhị Mỹ và các xã Tân Bình, Mỹ Phước Tây, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Phú, Tân Hội, Nhị Quý, Thanh Hòa, Phú Quý, Long Khánh.
Di tích
Di tích Chiến thắng Ấp Bắc
Di tích Chiến thắng Ấp Bắc
Đây là nơi diễn ra trận đánh lớn nhất miền Nam kể từ sau Hiệp định
Giơ-ne-vơ
vào ngày 2-1-1963, báo hiệu sự sụp đổ của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ áp dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Do thất bại nặng nề trong trận đánh, giặc cho pháo và máy bay ném bom vào trận địa Ấp Bắc, làm cháy nhiều nhà dân. Mặc dù vậy, các mẹ, các chị vẫn nấu cơm tiếp tế cho bộ đội. Từ đấy đã vang lên những câu ca dao ca ngợi tấm lòng của người dân Ấp Bắc:
“Bom rơi thì mặc bom rơi
Chị em Ấp Bắc vẫn khơi bếp hồng
Thổi nồi cơm dẻo thơm nồng
Giúp anh bộ đội no lòng đánh hăng”
Đến với khu di tích, du khách sẽ được đi trong quần thể rộng lớn với 2 phân khu chức năng. Khu vực 1 gồm có tượng đài, nhà mộ 3 chiến sĩ gang thép, 3 hồ sen lớn, nhà trưng bày xe tăng, máy bay, công viên với nhiều loại cây kiểng.
Khu vực 2 gồm có nhà trưng bày hiện vật, phía dưới là hồ sen, bên trái là quảng trường và công viên được trồng cây cảnh; phía sau là những mô hình được phục chế tái hiện cảnh dân quân tải thương, nấu cơm, trảng xê, hầm bí mật. Xa xa ngoài cánh đồng rộng lớn là những biểu tượng máy bay, xe tăng địch bị bốc cháy.
Ngày 2-1 hàng năm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương long trọng tổ chức lễ kỷ niệm tại khu di tích này.
Di tích Lăng Tứ Kiệt
Lăng Tứ Kiệt đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây là niềm vui lớn của nhân dân trong huyện Cai Lậy trước đây (nay là thị xã Cai Lậy) đối với một di tích gắn liền với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm vào giữa thế kỷ XIX.
Ảnh: Lăng Tứ Kiệt
Nằm ở trung tâm thị xã Cai Lậy, với cổng nhìn ra đường 30-4, lăng Tứ Kiệt đã được trùng tu, xây dựng lại theo kiến trúc truyền thống chia làm 2 khu vực rõ rệt: chính tẩm và nhà mộ.
Chính tẩm được thiết kế theo lối thờ phụng có bàn thờ, lư hương, đôi hạc; chính giữa có bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và bài vị, tạo nét nghiêm trang.
Phía sau là nhà mộ có 4 ngôi mộ tượng trưng dán gạch tráng men khá tươm tất. Khuôn viên quanh lăng được tôn tạo, bố trí thêm các loại kiểng quý lúc nào cũng được cắt tỉa cẩn thận, tạo nên nét hài hòa với cảnh quan chung quanh.
Du khách đến tham quan sẽ hài lòng với khung cảnh và càng thích thú hơn khi được nghe về lai lịch của di tích này.
Nhân viên thuyết minh sẽ đưa du khách trở về những năm đầu khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tứ Kiệt (hay Bốn ông) là cách gọi tôn kính của nhân dân đối với 4 vị anh hùng đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp từ năm 1868 đến năm 1870. Đó là các ông: Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đước và Trương Văn Rộng.
Sau khi giặc Pháp hạ thành Mỹ Tho và chiếm toàn bộ tỉnh Định Tường (năm 1861), Bốn ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Thiên Hộ Dương khởi xướng và lãnh đạo, góp phần cùng nghĩa quân tạo nên những chiến thắng oai hùng.
Căn cứ Đồng Tháp Mười bị vỡ, Bốn ông về Cai Lậy chiêu mộ nghĩa quân tiếp tục phất cao cờ khởi nghĩa. Trong hàng loạt những chiến công của nghĩa quân Tứ Kiệt, cuộc tấn công vào thành Mỹ Tho và thiêu hủy đồn Cai Lậy có thể xem là 2 chiến công chói lọi nhất.
Sau 2 năm hoạt động gây cho giặc nhiều tổn thất, cuộc khởi nghĩa Tứ Kiệt đành chịu thất bại trước sự bao vây và đàn áp tổng lực của Pháp. Bốn ông cùng 150 nghĩa quân bị bắt. Bọn chúng đem vinh hoa phú quý ra dụ dỗ các ông trong nhiều ngày nhưng không thành.
Ngày 14-2-1871 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc đưa Bốn ông ra pháp trường xử trảm, bêu đầu ở chợ Cai Lậy nhằm uy hiếp tinh thần của dân chúng, sau đó vùi dập ở bến sông cạnh chợ. Thân nhân mang thân mình các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào chôn cất.
Cảm kích 4 vị anh hùng, nhân dân Cai Lậy đã bí mật mang chôn thủ cấp của Bốn ông và đắp mộ, hương khói trang nghiêm. Ở làng Mỹ Trang, ông Nhiêu học Đặng Văn Ngưu dựng trước nhà 1 ngôi miếu thờ ngay khu đất giặc bêu đầu Bốn ông. Ngôi miếu lợp ngói âm dương và để che mắt chính quyền thực dân, người ta gọi đó là chùa Ông ( vì phía trước lập bàn thờ Quan Công tượng trưng cho trung nghĩa), còn phía sau lập bài vị khắc 4 chữ Tứ vị thần hồn sơn son thiếp vàng rực rỡ (nên có người gọi là Miếu cô hồn).
Mặc dù vậy nhưng ai ai cũng biết đó là miếu thờ Tứ Kiệt. Trận bão năm Giáp Thìn (1904) làm ngôi miếu đổ sập. Ông Nhiêu dời ngôi miếu về làng Thanh Sơn (trước thuộc xã Thanh Hòa nay là thị trấn Cai Lậy). Hiện ngôi miếu tọa lạc tại KP.1, thị trấn Cai Lậy, cách lăng hơn trăm mét. Còn ngôi mộ nơi chôn 4 thủ cấp từ năm 1871 được đắp bằng đất, xung quanh có hàng rào bằng cau sơn vôi trắng. Gần đó có cây còng cổ thụ tỏa bóng mát tạo bầu không khí linh thiêng.
Vào những năm 30 của thế kỷ trước, người ta đồn rằng: Những đêm thanh vắng ở khu mộ Bốn ông có tiếng quân reo, ngựa hí. Huyền thoại về Bốn ông được lan truyền khắp vùng. Năm 1938, trong đội lính mã tà có ông Đội Lung vì cảm mộ tấm lòng trung nghĩa của Bốn ông nên thuê thợ làm tấm bia đá đặt tại đầu mộ. Bia khắc dòng chữ “Đại Nam Mỹ Tho tỉnh, Thanh Hòa thôn, tứ vị cựu quan chi mộ”.
Mãi đến năm 1954, quận trưởng Lê Văn Thai đồng ý cho nhân dân xây dựng lại ngôi miếu và 4 ngôi mộ tượng trưng bằng xi măng song song và gần sát nhau, xung quanh có hàng rào sắt kiên cố ngay trên nấm đất cũ. Khu vực này gọi là lăng Tứ Kiệt. Năm 1967, nhân dân Cai Lậy tiến hành trùng tu ngôi miếu và khu mộ Bốn ông quy mô hơn, trong có miếu thờ, ngoài có nhà khách. Tại lăng có Ban Quí tế lo việc trùng tu cúng bái.
Hàng năm, vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch, nhân dân Cai Lậy tụ tập đông đúc về đây tảo mộ và làm giỗ rất trang trọng, thành kính tưởng nhớ đến Bốn ông vì nước quên mình, vì dân giết giặc, nêu tấm gương sáng ngời cho hậu thế. Nghi thức tế lễ theo lối cổ truyền có sự cố vấn của ông Trương Ngọc Tường – nhà nghiên cứu về Nam bộ, quê ở Cai Lậy.
Năm 1998, Sở Văn hóa – Thông tin Tiền Giang kết hợp UBND huyện Cai Lậy dành ra một ngân khoản đáng kể để trùng tu toàn diện khu lăng mộ Tứ Kiệt, tương xứng với tầm vóc và khí phách anh hùng của Bốn ông đúng như hai câu đối được chạm khắc tại cổng:
Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.
Nhân kỷ niệm 128 năm ngày Bốn ông hy sinh, lăng được khánh thành. Từ đó đến nay, đông đảo nhân dân khắp nơi đến viếng và thắp hương tưởng niệm người đã khuất. Đến thăm lăng Tứ Kiệt, chắc chắn du khách sẽ hiểu thêm tấm lòng của người dân địa phương với Bốn ông – những người đã góp phần điểm tô cho 4 chữ vàng Địa Linh Nhân Kiệt của Tiền Giang luôn ngời sáng./.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Cai Lậy
Điều kiện tự nhiên
–
Về tọa độ địa lý
:
+ Kinh độ Đông : 105
0
33’22” – 105
0
44’69”
+ Vĩ độ Bắc : 10
0
35’37” – 10
0
50’40”
–
Diện tích tự nhiên:
14.019 ha
– Dân số:
123.861 nhân khẩu;
Mật độ dân số
: 878 người/km
2
.
–
Ranh giới địa lý
hành chính:
+ Phía Bắc giáp
huyện Tân Phước
;
+ Phía Đông giáp huyện Châu Thành;
+ Phía Tây giáp huyện Cai Lậy;
+ Phía Nam giáp huyện Cai Lậy;
–
Thị xã Cai Lậy
có 16
đơn vị hành chính:
Gồm 6 phường, 10 xã,: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường Nhị Mỹ, xã Phú Quý, xã Tân Bình, xã Thanh Hòa, xã Tân Hội, xã Long Khánh, xã Mỹ Hạnh Đông, xã Mỹ Phước Tây, xã Mỹ Hạnh Trung, xã Tân Phú, xã Nhị Quý.
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số
130/NQ-CP
điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy và huyện Cai Lậy còn lại. Nội dung Nghị quyết về việc thành lập thị xã Cai Lậy như sau:
1. Thành lập thị xã Cai Lậy thuộc
tỉnh Tiền Giang
trên cơ sở điều chỉnh 14.018,95 ha diện tích tự nhiên và 123.775 nhân khẩu của huyện Cai Lậy, bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của thị trấn Cai Lậy và các xã Mỹ Phước Tây, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Phú, Tân Bình, Tân Hội, Nhị Mỹ, Nhị Quý, Thanh Hòa, Phú Quý, Long Khánh.
Thị xã Cai Lậy có 14.018,95 ha diện tích tự nhiên và 123.775 nhân khẩu.
2. Điều chỉnh địa giới hành chính thị trấn Cai Lậy và các xã Nhị Mỹ, Tân Bình để thành lập 6 phường thuộc thị xã Cai Lậy:
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy và huyện Cai Lậy còn lại; thành lập các phường thuộc thị xã Cai Lậy, thị xã Cai Lậy có 16 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường Nhị Mỹ và các xã Tân Bình, Mỹ Phước Tây, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Phú, Tân Hội, Nhị Quý, Thanh Hòa, Phú Quý, Long Khánh.
Di tích
Di tích Chiến thắng Ấp Bắc
Di tích Chiến thắng Ấp Bắc
Đây là nơi diễn ra trận đánh lớn nhất miền Nam kể từ sau Hiệp định
Giơ-ne-vơ
vào ngày 2-1-1963, báo hiệu sự sụp đổ của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ áp dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Do thất bại nặng nề trong trận đánh, giặc cho pháo và máy bay ném bom vào trận địa Ấp Bắc, làm cháy nhiều nhà dân. Mặc dù vậy, các mẹ, các chị vẫn nấu cơm tiếp tế cho bộ đội. Từ đấy đã vang lên những câu ca dao ca ngợi tấm lòng của người dân Ấp Bắc:
“Bom rơi thì mặc bom rơi
Chị em Ấp Bắc vẫn khơi bếp hồng
Thổi nồi cơm dẻo thơm nồng
Giúp anh bộ đội no lòng đánh hăng”
Đến với khu di tích, du khách sẽ được đi trong quần thể rộng lớn với 2 phân khu chức năng. Khu vực 1 gồm có tượng đài, nhà mộ 3 chiến sĩ gang thép, 3 hồ sen lớn, nhà trưng bày xe tăng, máy bay, công viên với nhiều loại cây kiểng.
Khu vực 2 gồm có nhà trưng bày hiện vật, phía dưới là hồ sen, bên trái là quảng trường và công viên được trồng cây cảnh; phía sau là những mô hình được phục chế tái hiện cảnh dân quân tải thương, nấu cơm, trảng xê, hầm bí mật. Xa xa ngoài cánh đồng rộng lớn là những biểu tượng máy bay, xe tăng địch bị bốc cháy.
Ngày 2-1 hàng năm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương long trọng tổ chức lễ kỷ niệm tại khu di tích này.
Di tích Lăng Tứ Kiệt
Lăng Tứ Kiệt đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây là niềm vui lớn của nhân dân trong huyện Cai Lậy trước đây (nay là thị xã Cai Lậy) đối với một di tích gắn liền với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm vào giữa thế kỷ XIX.
Ảnh: Lăng Tứ Kiệt
Nằm ở trung tâm thị xã Cai Lậy, với cổng nhìn ra đường 30-4, lăng Tứ Kiệt đã được trùng tu, xây dựng lại theo kiến trúc truyền thống chia làm 2 khu vực rõ rệt: chính tẩm và nhà mộ.
Chính tẩm được thiết kế theo lối thờ phụng có bàn thờ, lư hương, đôi hạc; chính giữa có bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và bài vị, tạo nét nghiêm trang.
Phía sau là nhà mộ có 4 ngôi mộ tượng trưng dán gạch tráng men khá tươm tất. Khuôn viên quanh lăng được tôn tạo, bố trí thêm các loại kiểng quý lúc nào cũng được cắt tỉa cẩn thận, tạo nên nét hài hòa với cảnh quan chung quanh.
Du khách đến tham quan sẽ hài lòng với khung cảnh và càng thích thú hơn khi được nghe về lai lịch của di tích này.
Nhân viên thuyết minh sẽ đưa du khách trở về những năm đầu khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tứ Kiệt (hay Bốn ông) là cách gọi tôn kính của nhân dân đối với 4 vị anh hùng đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp từ năm 1868 đến năm 1870. Đó là các ông: Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đước và Trương Văn Rộng.
Sau khi giặc Pháp hạ thành Mỹ Tho và chiếm toàn bộ tỉnh Định Tường (năm 1861), Bốn ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Thiên Hộ Dương khởi xướng và lãnh đạo, góp phần cùng nghĩa quân tạo nên những chiến thắng oai hùng.
Căn cứ Đồng Tháp Mười bị vỡ, Bốn ông về Cai Lậy chiêu mộ nghĩa quân tiếp tục phất cao cờ khởi nghĩa. Trong hàng loạt những chiến công của nghĩa quân Tứ Kiệt, cuộc tấn công vào thành Mỹ Tho và thiêu hủy đồn Cai Lậy có thể xem là 2 chiến công chói lọi nhất.
Sau 2 năm hoạt động gây cho giặc nhiều tổn thất, cuộc khởi nghĩa Tứ Kiệt đành chịu thất bại trước sự bao vây và đàn áp tổng lực của Pháp. Bốn ông cùng 150 nghĩa quân bị bắt. Bọn chúng đem vinh hoa phú quý ra dụ dỗ các ông trong nhiều ngày nhưng không thành.
Ngày 14-2-1871 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc đưa Bốn ông ra pháp trường xử trảm, bêu đầu ở chợ Cai Lậy nhằm uy hiếp tinh thần của dân chúng, sau đó vùi dập ở bến sông cạnh chợ. Thân nhân mang thân mình các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào chôn cất.
Cảm kích 4 vị anh hùng, nhân dân Cai Lậy đã bí mật mang chôn thủ cấp của Bốn ông và đắp mộ, hương khói trang nghiêm. Ở làng Mỹ Trang, ông Nhiêu học Đặng Văn Ngưu dựng trước nhà 1 ngôi miếu thờ ngay khu đất giặc bêu đầu Bốn ông. Ngôi miếu lợp ngói âm dương và để che mắt chính quyền thực dân, người ta gọi đó là chùa Ông ( vì phía trước lập bàn thờ Quan Công tượng trưng cho trung nghĩa), còn phía sau lập bài vị khắc 4 chữ Tứ vị thần hồn sơn son thiếp vàng rực rỡ (nên có người gọi là Miếu cô hồn).
Mặc dù vậy nhưng ai ai cũng biết đó là miếu thờ Tứ Kiệt. Trận bão năm Giáp Thìn (1904) làm ngôi miếu đổ sập. Ông Nhiêu dời ngôi miếu về làng Thanh Sơn (trước thuộc xã Thanh Hòa nay là thị trấn Cai Lậy). Hiện ngôi miếu tọa lạc tại KP.1, thị trấn Cai Lậy, cách lăng hơn trăm mét. Còn ngôi mộ nơi chôn 4 thủ cấp từ năm 1871 được đắp bằng đất, xung quanh có hàng rào bằng cau sơn vôi trắng. Gần đó có cây còng cổ thụ tỏa bóng mát tạo bầu không khí linh thiêng.
Vào những năm 30 của thế kỷ trước, người ta đồn rằng: Những đêm thanh vắng ở khu mộ Bốn ông có tiếng quân reo, ngựa hí. Huyền thoại về Bốn ông được lan truyền khắp vùng. Năm 1938, trong đội lính mã tà có ông Đội Lung vì cảm mộ tấm lòng trung nghĩa của Bốn ông nên thuê thợ làm tấm bia đá đặt tại đầu mộ. Bia khắc dòng chữ “Đại Nam Mỹ Tho tỉnh, Thanh Hòa thôn, tứ vị cựu quan chi mộ”.
Mãi đến năm 1954, quận trưởng Lê Văn Thai đồng ý cho nhân dân xây dựng lại ngôi miếu và 4 ngôi mộ tượng trưng bằng xi măng song song và gần sát nhau, xung quanh có hàng rào sắt kiên cố ngay trên nấm đất cũ. Khu vực này gọi là lăng Tứ Kiệt. Năm 1967, nhân dân Cai Lậy tiến hành trùng tu ngôi miếu và khu mộ Bốn ông quy mô hơn, trong có miếu thờ, ngoài có nhà khách. Tại lăng có Ban Quí tế lo việc trùng tu cúng bái.
Hàng năm, vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch, nhân dân Cai Lậy tụ tập đông đúc về đây tảo mộ và làm giỗ rất trang trọng, thành kính tưởng nhớ đến Bốn ông vì nước quên mình, vì dân giết giặc, nêu tấm gương sáng ngời cho hậu thế. Nghi thức tế lễ theo lối cổ truyền có sự cố vấn của ông Trương Ngọc Tường – nhà nghiên cứu về Nam bộ, quê ở Cai Lậy.
Năm 1998, Sở Văn hóa – Thông tin Tiền Giang kết hợp UBND huyện Cai Lậy dành ra một ngân khoản đáng kể để trùng tu toàn diện khu lăng mộ Tứ Kiệt, tương xứng với tầm vóc và khí phách anh hùng của Bốn ông đúng như hai câu đối được chạm khắc tại cổng:
Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.
Nhân kỷ niệm 128 năm ngày Bốn ông hy sinh, lăng được khánh thành. Từ đó đến nay, đông đảo nhân dân khắp nơi đến viếng và thắp hương tưởng niệm người đã khuất. Đến thăm lăng Tứ Kiệt, chắc chắn du khách sẽ hiểu thêm tấm lòng của người dân địa phương với Bốn ông – những người đã góp phần điểm tô cho 4 chữ vàng Địa Linh Nhân Kiệt của Tiền Giang luôn ngời sáng./.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Gò Công
Thị xã Gò Công ở trung tâm phía Đông của
tỉnh Tiền Giang
, là đô thị đứng thứ 2 của tỉnh (sau thành phố Mỹ Tho). Phía Đông giáp huyện Gò Công Đông, phía Tây giáp huyện Gò Công Tây, phía Bắc giáp
tỉnh Long An
, phía Nam giáp huyện Gò Công Tây và huyện Gò Công Đông. Diện tích tự nhiên 101,98 km
2
. Dân số 96.352 người (năm 2013). Trong đó:
. Nam 47.102 người.
. Nữ 49.250 người.
. Mật độ dân số 945 người/km
2
.
. Phân bố địa bàn cư trú:
. Khu vực nội thị: 29.058 người.
. Nông thôn: 67.294 người.
Thị xã Gò Công được chia thành 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 5 phường (1, 2, 3, 4 và 5) và 7 xã (Long Chánh, Long Hòa, Long Hưng, Long Thuận, Tân Trung, Bình Đông và Bình Xuân).
Thị xã Gò Công có đường
Quốc lộ 50
đi qua, nối với thành phố Hồ Chí Minh cách 60 km về phía Bắc, nối với thành phố Mỹ Tho cách 35 km về phía Tây. và có các đường tỉnh lộ đi về các thị trấn ven biển cách 15 km về phía Đông. Rạch Gò Công bắt nhánh từ sông Vàm Cỏ, bao quanh phía Bắc thị xã và chảy qua nội thị theo hướng Bắc – Nam nối với các kênh rạch khác đi ra sông Tiền. Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện, thị xã Gò Công ngày càng phát huy vị trí đô thị trung tâm phía Đông của tỉnh Tiền Giang.
Địa bàn thị xã cũng trải qua nhiều thay đổi về địa lý hành chính. Tại trung tâm thị xã ngày nay, trước kia là hai làng Bình Thuận Đông và Bình Thuận Tây. Năm 1836, đổi tên là làng Thuận Tắc và Thuận Ngãi, thuộc tổng Hòa Lạc. Thời Pháp thuộc, hai làng Thuận Tắc là Thuận Ngãi nhập lại gọi là làng Thành Phố.
Năm 1840, dưới triều vua Minh Mạng vùng đất này là huyện lỵ của huyện Tân Hoà, thuộc phủ Hoà Thạnh, tỉnh Gia Định; năm 1852 lại nhập vào phủ Tân An vẫn thuộc tỉnh Gia Định. Sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862, thực dân Pháp vẫn giữ Gò Công là huyện lỵ của huyện Tân Hoà. Từ năm 1867 là Châu thành, Gò Công của khu Tham biện Tân Hoà thuộc tỉnh Sài Gòn. Từ năm 1924, tỉnh lỵ của tỉnh Gò Công đặt tại làng Thành Phố. Khi Pháp tái chiếm Gò Công (10/1954), đây vẫn là tỉnh lỵ. Sau hiệp định Genève, từ 1958 đến 1963 là quận lỵ của quận Gò Công thuộc tỉnh Định Tường. Từ năm 1964 đến 30-4-1975 là tỉnh lỵ của tỉnh Gò Công.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng vẫn đặt thị xã Gò Công là tỉnh tỵ của tỉnh Gò Công. Sau ngày 30-4-1975, thị xã Gò Công được tổ chức đầy đủ các cơ quan hành chính, tổ chức và đoàn thể cách mạng. Từ năm 1976, khi Gò công và Mỹ Tho hợp nhất thành tỉnh Tiền Giang, Gò Công là thị trấn của huyện Gò Công, tiếp theo là thị trấn của huyện Gò Công Đông.
Ngày 16/2/1987, theo quyết định số 37/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, Gò Công vẫn là một tỉnh lỵ nhỏ, nhiều nét cổ xưa, đường phố hẹp, ngắn, những dãy phố với mái ngói âm dương, những tiệm buôn bán có biển hiệu chữ Hoa, chữ Việt liền kề, bến xe ngựa, bến xe ca, bến xe tải, bến đò còn vắng khách, nhà lồng chợ thoáng đãng, buổi tối đường phố vẫn còn thắp đèn dầu. Năm 1936, xây dựng nhà máy nước, năm 1937 mới xây dựng nhà máy điện công suất nhỏ. Một vài cơ sở tiểu thủ công nghiệp nhỏ như xay xát lúa gạo, sửa chữa xe nhỏ. Chợ Gò Công thành lập năm 1917, chủ yếu buôn bán lúa gạo và các sản vật địa phương.
Trên mảnh đất này đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử. Năm 1861-1862 những đội quân chống Pháp của ba tỉnh miền Đông về tụ nghĩa dưới ngọn cờ của Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định. Tháng 3-1963, nghĩa quân Trương Định đã anh dũng chống lại cuộc tấn công qui mô của liên quân Pháp – Tây Ban Nha. Tháng 8-1964, mảnh đất này là nơi an nghỉ cuối cùng của người anh hùng dân tộc Trương Định. Người dân địa phương còn ghi nhận công lao của bà Trần Thị Sanh, người vợ thứ của Trương Định, là một người giàu tinh thần yêu nước, bà từng là nguồn hậu cần lớn của cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Trương Định.
Những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã từng đến Gò Công khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân sĩ trí thức ở đây. Nhân sĩ Huỳnh Đình Điển cùng một số người quê Gò Công đã tích cực tham gia phong trào Minh Tân. Ông là người ủng hộ Phan Chu Trinh trên nhiều lĩnh vực. Năm 1927, đây cũng là nơi tỉnh hội Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội tỉnh Gò Công lập trụ sở, mở cơ sở kinh tế và hoạt động. Năm 1930, tại đây đã xuất hiện cờ đỏ, truyền đơn báo hiệu Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Tháng 8-1945, nơi đây chứng kiến cuộc mít tinh chào mừng Cách mạng thành công và sự ra mắt của Chính quyền Cách mạng tỉnh Gò Công. Tháng 8-1954, tại đây đã diễn ra cuộc mít tinh chào mừng Hiệp định Genève của hơn 20.000 nhân dân Gò Công tạo nên tiếng vang lớn trong vùng. Tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng vũ trang cách mạng đã tiến công vào trung tâm tỉnh lỵ đánh dấu một mốc son trong lịch sử đấu tranh của quân dân Gò Công.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thị xã Gò Công đẩy mạnh công việc phục hồi sau chiến tranh, chuyển dần những cơ sở dịch vụ hậu cần của quân đội ngụy trước đây sang những tổ sản xuất nông nghiệp, tổ sản xuất thủ công nghiệp, phục vụ đời sống. Cùng với sự phục hồi chung của đất nước, đời sống kinh tế – xã hội của thị xã cũng từng bước đi vào ổn định.
Từ năm 1987, thị xã Gò Công đã được xác định cơ cấu kinh tế “thương mại – dịch vụ – công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp”. Việc chỉnh trang đô thị đã tạo nên những nét đổi mới ở nội thị, hoạt động thương mại, dịch vụ được thuận lợi hơn. Các ngành công nghiệp được chú trọng, ngành điện tập trung ưu tiên cho sản xuất và phục vụ sinh hoạt. Các hợp tác xã thủ công nghiệp được khuyến khích, đã thu hút hàng trăm lao động. Sản xuất nông nghiệp đã phát huy hiệu quả chương trình “Ngọt hoá Gò Công”, đưa đời sống kinh tế ở nông thôn ngày càng được cải thiện. Đến cuối năm 2000, kinh tế thị xã luôn ở mức tăng trưởng khá và ổn định, tạo tiền đề cho việc chuyển dịch theo hướng công nghiệp, hoá hiện đại hoá.
Địa bàn thị xã Gò Công vốn là trung tâm văn hoá của vùng Gò Công. Nơi đây có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt cao trong các kỳ thi xưa rồi làm quan dưới các triều vua nhà Nguyễn. Ông Phạm Đăng Hưng đã từng làm quan Thượng thư dưới 3 triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Con gái ông là bà Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị, là mẹ vua Tự Đức tức Thái hậu Từ Dũ nổi tiếng trong lịch sử. Đây cũng là quê hương của nhà văn Hồ Biểu Chánh, nhà văn Sơn Vương… Trong những năm 1925-1930, tại đây đã có Nhà xuất bản Nữ lưu thơ quán của Phan Thị Bạch Vân nổi tiếng toàn quốc, tập hợp nhiều cây bút tiến bộ đương thời cổ động cho nữ giới mở mang học vấn và bảo vệ luân lý đạo đức. Đây cũng là quê hương của nữ thi sĩ Lê Thị Kim (nữ sĩ Manh Manh), của bà Cao Thị Khanh, chủ bút tờ Phụ nữ tân văn… Những sản phẩm độc đáo của vùng Gò Công như: điệu lý con sáo Gò Công, tủ thờ Gò Công hiện vẫn còn được lưu giữ. Ngoài ra, Gò Công còn có những di tích quan trọng như Lăng Hoàng Gia, đền thờ anh hùng Trương Định, đình Trung, miếu thờ Võ Tánh…
Định hướng phát triển tới năm 2015 là đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn diện, ổn định, tăng trưởng nhanh và bền vững theo cơ cấu kinh tế “Thương mại – dịch vụ – du lịch, công nghiệp và nông nghiệp”, xây dựng thị xã Gò Công thành một trung tâm thương mại – dịch vụ và phát triển công nghiệp chế biến, trung tâm văn hoá, giáo dục – đào tạo vùng phía Đông của tỉnh Tiền Giang. Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, thu hút đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp; phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật công trình; hoàn chỉnh mạng lưới giao thông nội, ngoại thị, giao thông đối ngoại; hoàn chỉnh mạng lưới điện, thông tin liên lạc cấp thoát nước… đảm bảo cho thị xã Gò Công phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh tiến bộ vì mục tiêu “Dân giàu , nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng , văn minh”; phấn đấu đạt tiêu chí thị xã văn minh đô thị vào năm 2015.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Gò Công
Thị xã Gò Công ở trung tâm phía Đông của
tỉnh Tiền Giang
, là đô thị đứng thứ 2 của tỉnh (sau thành phố Mỹ Tho). Phía Đông giáp huyện Gò Công Đông, phía Tây giáp huyện Gò Công Tây, phía Bắc giáp
tỉnh Long An
, phía Nam giáp huyện Gò Công Tây và huyện Gò Công Đông. Diện tích tự nhiên 101,98 km
2
. Dân số 96.352 người (năm 2013). Trong đó:
. Nam 47.102 người.
. Nữ 49.250 người.
. Mật độ dân số 945 người/km
2
.
. Phân bố địa bàn cư trú:
. Khu vực nội thị: 29.058 người.
. Nông thôn: 67.294 người.
Thị xã Gò Công được chia thành 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 5 phường (1, 2, 3, 4 và 5) và 7 xã (Long Chánh, Long Hòa, Long Hưng, Long Thuận, Tân Trung, Bình Đông và Bình Xuân).
Thị xã Gò Công có đường
Quốc lộ 50
đi qua, nối với thành phố Hồ Chí Minh cách 60 km về phía Bắc, nối với thành phố Mỹ Tho cách 35 km về phía Tây. và có các đường tỉnh lộ đi về các thị trấn ven biển cách 15 km về phía Đông. Rạch Gò Công bắt nhánh từ sông Vàm Cỏ, bao quanh phía Bắc thị xã và chảy qua nội thị theo hướng Bắc – Nam nối với các kênh rạch khác đi ra sông Tiền. Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện, thị xã Gò Công ngày càng phát huy vị trí đô thị trung tâm phía Đông của tỉnh Tiền Giang.
Địa bàn thị xã cũng trải qua nhiều thay đổi về địa lý hành chính. Tại trung tâm thị xã ngày nay, trước kia là hai làng Bình Thuận Đông và Bình Thuận Tây. Năm 1836, đổi tên là làng Thuận Tắc và Thuận Ngãi, thuộc tổng Hòa Lạc. Thời Pháp thuộc, hai làng Thuận Tắc là Thuận Ngãi nhập lại gọi là làng Thành Phố.
Năm 1840, dưới triều vua Minh Mạng vùng đất này là huyện lỵ của huyện Tân Hoà, thuộc phủ Hoà Thạnh, tỉnh Gia Định; năm 1852 lại nhập vào phủ Tân An vẫn thuộc tỉnh Gia Định. Sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862, thực dân Pháp vẫn giữ Gò Công là huyện lỵ của huyện Tân Hoà. Từ năm 1867 là Châu thành, Gò Công của khu Tham biện Tân Hoà thuộc tỉnh Sài Gòn. Từ năm 1924, tỉnh lỵ của tỉnh Gò Công đặt tại làng Thành Phố. Khi Pháp tái chiếm Gò Công (10/1954), đây vẫn là tỉnh lỵ. Sau hiệp định Genève, từ 1958 đến 1963 là quận lỵ của quận Gò Công thuộc tỉnh Định Tường. Từ năm 1964 đến 30-4-1975 là tỉnh lỵ của tỉnh Gò Công.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng vẫn đặt thị xã Gò Công là tỉnh tỵ của tỉnh Gò Công. Sau ngày 30-4-1975, thị xã Gò Công được tổ chức đầy đủ các cơ quan hành chính, tổ chức và đoàn thể cách mạng. Từ năm 1976, khi Gò công và Mỹ Tho hợp nhất thành tỉnh Tiền Giang, Gò Công là thị trấn của huyện Gò Công, tiếp theo là thị trấn của huyện Gò Công Đông.
Ngày 16/2/1987, theo quyết định số 37/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, Gò Công vẫn là một tỉnh lỵ nhỏ, nhiều nét cổ xưa, đường phố hẹp, ngắn, những dãy phố với mái ngói âm dương, những tiệm buôn bán có biển hiệu chữ Hoa, chữ Việt liền kề, bến xe ngựa, bến xe ca, bến xe tải, bến đò còn vắng khách, nhà lồng chợ thoáng đãng, buổi tối đường phố vẫn còn thắp đèn dầu. Năm 1936, xây dựng nhà máy nước, năm 1937 mới xây dựng nhà máy điện công suất nhỏ. Một vài cơ sở tiểu thủ công nghiệp nhỏ như xay xát lúa gạo, sửa chữa xe nhỏ. Chợ Gò Công thành lập năm 1917, chủ yếu buôn bán lúa gạo và các sản vật địa phương.
Trên mảnh đất này đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử. Năm 1861-1862 những đội quân chống Pháp của ba tỉnh miền Đông về tụ nghĩa dưới ngọn cờ của Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định. Tháng 3-1963, nghĩa quân Trương Định đã anh dũng chống lại cuộc tấn công qui mô của liên quân Pháp – Tây Ban Nha. Tháng 8-1964, mảnh đất này là nơi an nghỉ cuối cùng của người anh hùng dân tộc Trương Định. Người dân địa phương còn ghi nhận công lao của bà Trần Thị Sanh, người vợ thứ của Trương Định, là một người giàu tinh thần yêu nước, bà từng là nguồn hậu cần lớn của cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Trương Định.
Những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã từng đến Gò Công khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân sĩ trí thức ở đây. Nhân sĩ Huỳnh Đình Điển cùng một số người quê Gò Công đã tích cực tham gia phong trào Minh Tân. Ông là người ủng hộ Phan Chu Trinh trên nhiều lĩnh vực. Năm 1927, đây cũng là nơi tỉnh hội Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội tỉnh Gò Công lập trụ sở, mở cơ sở kinh tế và hoạt động. Năm 1930, tại đây đã xuất hiện cờ đỏ, truyền đơn báo hiệu Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Tháng 8-1945, nơi đây chứng kiến cuộc mít tinh chào mừng Cách mạng thành công và sự ra mắt của Chính quyền Cách mạng tỉnh Gò Công. Tháng 8-1954, tại đây đã diễn ra cuộc mít tinh chào mừng Hiệp định Genève của hơn 20.000 nhân dân Gò Công tạo nên tiếng vang lớn trong vùng. Tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng vũ trang cách mạng đã tiến công vào trung tâm tỉnh lỵ đánh dấu một mốc son trong lịch sử đấu tranh của quân dân Gò Công.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thị xã Gò Công đẩy mạnh công việc phục hồi sau chiến tranh, chuyển dần những cơ sở dịch vụ hậu cần của quân đội ngụy trước đây sang những tổ sản xuất nông nghiệp, tổ sản xuất thủ công nghiệp, phục vụ đời sống. Cùng với sự phục hồi chung của đất nước, đời sống kinh tế – xã hội của thị xã cũng từng bước đi vào ổn định.
Từ năm 1987, thị xã Gò Công đã được xác định cơ cấu kinh tế “thương mại – dịch vụ – công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp”. Việc chỉnh trang đô thị đã tạo nên những nét đổi mới ở nội thị, hoạt động thương mại, dịch vụ được thuận lợi hơn. Các ngành công nghiệp được chú trọng, ngành điện tập trung ưu tiên cho sản xuất và phục vụ sinh hoạt. Các hợp tác xã thủ công nghiệp được khuyến khích, đã thu hút hàng trăm lao động. Sản xuất nông nghiệp đã phát huy hiệu quả chương trình “Ngọt hoá Gò Công”, đưa đời sống kinh tế ở nông thôn ngày càng được cải thiện. Đến cuối năm 2000, kinh tế thị xã luôn ở mức tăng trưởng khá và ổn định, tạo tiền đề cho việc chuyển dịch theo hướng công nghiệp, hoá hiện đại hoá.
Địa bàn thị xã Gò Công vốn là trung tâm văn hoá của vùng Gò Công. Nơi đây có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt cao trong các kỳ thi xưa rồi làm quan dưới các triều vua nhà Nguyễn. Ông Phạm Đăng Hưng đã từng làm quan Thượng thư dưới 3 triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Con gái ông là bà Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị, là mẹ vua Tự Đức tức Thái hậu Từ Dũ nổi tiếng trong lịch sử. Đây cũng là quê hương của nhà văn Hồ Biểu Chánh, nhà văn Sơn Vương… Trong những năm 1925-1930, tại đây đã có Nhà xuất bản Nữ lưu thơ quán của Phan Thị Bạch Vân nổi tiếng toàn quốc, tập hợp nhiều cây bút tiến bộ đương thời cổ động cho nữ giới mở mang học vấn và bảo vệ luân lý đạo đức. Đây cũng là quê hương của nữ thi sĩ Lê Thị Kim (nữ sĩ Manh Manh), của bà Cao Thị Khanh, chủ bút tờ Phụ nữ tân văn… Những sản phẩm độc đáo của vùng Gò Công như: điệu lý con sáo Gò Công, tủ thờ Gò Công hiện vẫn còn được lưu giữ. Ngoài ra, Gò Công còn có những di tích quan trọng như Lăng Hoàng Gia, đền thờ anh hùng Trương Định, đình Trung, miếu thờ Võ Tánh…
Định hướng phát triển tới năm 2015 là đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn diện, ổn định, tăng trưởng nhanh và bền vững theo cơ cấu kinh tế “Thương mại – dịch vụ – du lịch, công nghiệp và nông nghiệp”, xây dựng thị xã Gò Công thành một trung tâm thương mại – dịch vụ và phát triển công nghiệp chế biến, trung tâm văn hoá, giáo dục – đào tạo vùng phía Đông của tỉnh Tiền Giang. Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, thu hút đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp; phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật công trình; hoàn chỉnh mạng lưới giao thông nội, ngoại thị, giao thông đối ngoại; hoàn chỉnh mạng lưới điện, thông tin liên lạc cấp thoát nước… đảm bảo cho thị xã Gò Công phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh tiến bộ vì mục tiêu “Dân giàu , nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng , văn minh”; phấn đấu đạt tiêu chí thị xã văn minh đô thị vào năm 2015.
|
Giới thiệu khái quát huyện Càng Long
Huyện Càng Long nằm ở phía Bắc tỉnh Trà Vinh và là huyện cửa ngõ của tỉnh.
– Phía Đông giáp huyện Châu Thành và thị xã Trà Vinh.
– Phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long.
– Phía Nam giáp huyện Tiểu Cần và huyện Cầu Kè.
– Phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long và
tỉnh Bến Tre
.
Trung tâm của huyện nằm ven Quốc lộ 53, nối liền hai
tỉnh Trà Vinh
và Vĩnh Long, cách thị xã Trà Vinh 21km và cách thị xã Vĩnh Long 43km. Huyện Càng Long được xem là cửa ngỏ giao lưu kinh tế – văn hóa – xã hội của tỉnh Trà Vinh với các tỉnh trong khu vực đồng bằng
sông Cửu Long
. Toàn huyện có 14/14 xã – thị trấn, với 135 ấp – khóm.
* Tài nguyên nước:
Huyện Càng Long có nguồn nước mặt rất phong phú, huyện có hệ thống các sông ngòi chính, như: sông Cổ Chiên, sông Cái Hóp, hệ thống kênh Trà Ngoa, sông Càng Long, sông Láng Thé.
* Thổ nhưỡng:
Càng Long có diện tích tự nhiên 30.009,88ha, gồm các loại đất:
– Đất sản xuất nông nghiệp: 24.811,6 ha.
– Đất nuôi trồng thủy sản: 26,43ha.
– Đất phi nông nghiệp: 5.163,3ha.
– Đất khác: 8,55ha.
Khí hậu địa hình đất đai thích hợp cho việc bố trí. Cơ cấu sản xuất đa dạng, thích hợp cho việc canh tác lúa, hoa màu và cây lâu năm.
* Dân số lao động:
– Dân số của huyện là 171.955 người, mật độ dân số 563 người/km2. Trong đó: dân tộc Khmer chiếm 5,64% so với tổng số dân.
– Lao động: Số lao động 96.870 người, so tỷ lệ dân số 57,40%. Trong đó: trong độ tuổi lao động là 91.847 người. Lao động có việc làm 94.628 người, số lao động không có việc làm 2.242 người.
* Hệ thống giao thông:
– Đường bộ: Huyện có 02 tuyến Quốc lộ 53,Quốc lộ 60 tổng chiều dài là 28km, tuyến tỉnh lộ 911 dài 15,6km, 05 tuyến hương lộ dài 71,3km và nhiều đường giao thông nông thôn với chiều dài 416km.
– Đường thủy: Sông Cổ Chiên dài 11.5km và 02 hệ thống sông, sông Rạch Bàng và Láng Thé đảm bảo cho tàu có trọng tải từ 100 – 250 tấn lưu thông.
Văn hóa xã hội
Việc làm và mức sống dân cư:
Trong năm 2007, xây dựng và phê duyệt 31 dự án, trong này 26 dự án thuộc nguồn vốn 120, 05 dự án thuộc vốn Trung ương hội. Với tổng số tiền 3,67 tỷ đồng đạt 100% kế hoạch năm, hỗ trợ gần 636 hộ, giải quyết việc làm 1.281 lao động có việc làm tại chổ. Đồng thời cho 5.300 lượt hộ dân vay vốn xóa đói giảm nghèo với số tiền 42,668 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 7.200 lao động địa phương.
Giáo dục và đào tạo:
Trong năm 2007 – 2008 hiện có:
– Bậc mầm non: có 154 lớp, 3.808 học sinh với 17 trường.
– Bậc tiểu học: có 516 lớp, 11.895 học sinh so với năm trước giảm 256 học sinh với 35 trường.
– Bậc THCS: có 248 lớp, 8.540 học sinh so với cùng kỳ giảm 1.030 học sinh với 13 trường.
– Bậc THPT: có 6.106 học sinh so cùng kỳ giảm 954 học sinh với 05 trường.
Toàn huyện có 8/65 trường đạt tiêu chuẩn Quốc gia, trong đó có 07 trường tiểu học, 01 trường mẫu giáo.
Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 98%. Xét duyện tốt nghiệp bậc THCS đạt 95,80% giảm 3,90% so cùng kỳ. Bổ túc THCS đỗ tốt nghiệp đạt 91,10% giảm 1,90% so cùng kỳ.
Công tác phổ cập giáo dục: Phổ cập THCS xét tốt nghiệp đạt 82,80%. Toàn huyện có 14/14 xã, thị trấn duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập Trung học cơ sở.
Huyện vừa được Ban chỉ đạo phổ cập GDTHCS tỉnh kiểm tra công nhận huyện Càng Long đạt tiêu chuẩn phổ cập GDTHCS, PCTHĐĐT, CMC tháng 3/2008.
Văn hóa, thể dục thể thao:
Trong năm 2007:
Tổ chức tham dự 05 chương trình hội thao do tỉnh tổ chức như: Hội thao bóng chuyền truyền thống, giải bóng đá nhi đồng, giải vô địch Takwondo, giải vô địch cầu lông – bóng bàn và chạy việt dã “ Sacombank vì sức khỏe cộng đồng”. Kết quả đạt 83 huy chương các loại, ngoài ra còn được trao tặng các giải danh hiệu đồng đội.
Phối hợp cùng Liên đoàn lao động huyện tổ chức Hội thao Công nhân viên chức – Lao động năm 2007, có 205 vận động viên tham dự. Tổ chức khai mạc giải bóng đá truyền thống huyện lần thứ XII năm 2007, có 09 đội tham dự với 108 vận động viên tham gia.
Phát động công tác xây dựng nếp sống văn minh – gia đình văn hóa, đến nay toàn huyện có 28.753/31.914 hộ được công nhận. Cấp 2.432 bằng công nhận gia đình văn hóa cho 04 xã. Công nhận mới 03 ấp văn hóa, 08 cơ quan văn minh, 01 cơ sở tôn giáo đạt chuẩn tín ngưỡng văn minh. Nâng tổng số đến nay có 93/135 ấp, khóm văn hóa; 110/133 cơ quan văn minh và 9/27 cơ sở tôn giáo văn minh.
Tổ chức sơ kết công tác kiểm tra và nâng cao chất lượng 12 ấp văn hóa, kiểm tra công nhận 06 trường học, 04 cơ quan văn minh ở xã và 44 cơ quan ban ngành huyện để tái công nhận.
Y tế:
Trong năm 2007
Phối hợp cùng các tổ chức từ thiện và các đoàn y bác sĩ tiến hành khám bệnh miễn phí cho bệnh nhân nghèo ở các xã, được 3.008 lượt người, cấp 696 phần quà, với tổng số tiền trên 97 triệu đồng. Ngoài ra còn được sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, đã tổ chức khám và mổ mắt cho 271 lượt bệnh nhân đục thủy tinh thể.
Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em luôn được quan tâm, đến nay đã tổ chức tiêm chủng mở rộng cho trẻ em dưới 1 tuổi được 2.911 trẻ, trong đó tiêm ngừa các bệnh quan trọng như: Viêm gan B, bại liệt, sởi, bạch cầu – ho gà – uốn ván cho trẻ em từ 6-36tháng tuổi, uống vitamin A được 7.010 lượt và phụ nữ có thai uống viên sắt được 1.285 lượt. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đến cuối năm còn 14,76% (2.047 em), giảm 1,87% so với cùng kỳ năm 2006.
Thường xuyên tiến hành kiểm tra, củng cố và xây dựng các Trạm Y tế đạt chuẩn Quốc gia, lập kế hoạch xây dựng Trạm Y tế đạt chuẩn Quốc gia năm 2007 các xã: Bình Phú, Phương Thạnh và Tân Bình. Phối hợp cùng Sở Y tế tỉnh tiến hành kiểm tra công nhận Trạm Y tế xã Tân An đạt chuẩn Quốc gia và tái công nhận 04 trạm y tế ở các xã: Nhị Long, Huyền Hội, Mỹ Cẩm và An Trường.
|
General introduction of Cang Long district
Cang Long district is located in the north of Tra Vinh province and is the gateway district of the province.
– The East borders Chau Thanh district and Tra Vinh town.
– The West borders Vinh Long province.
– The South borders Tieu Can district and Cau Ke district.
– The North borders Vinh Long province and
Ben Tre province
.
The center of the district is located along Highway 53, connecting the two
Tra Vinh province
and Vinh Long, 21km from Tra Vinh town and 43km from Vinh Long town. Cang Long district is considered the gateway for economic - cultural - social exchange of Tra Vinh province with provinces in the delta region.
Mekong River
. The whole district has 14/14 communes - towns, with 135 hamlets - hamlets.
* Water Resources:
Cang Long district has very rich surface water resources, the district has a system of main rivers, such as: Co Chien river, Cai Hop river, Tra Ngoa canal system, Cang Long river, Lang The river.
* Land:
Cang Long has a natural area of 30,009.88 hectares, including the following land types:
– Agricultural land: 24,811.6 hectares.
– Aquaculture land: 26.43 hectares.
– Non-agricultural land: 5,163.3 hectares.
– Other land: 8.55 hectares.
The climate and terrain are suitable for the arrangement. The production structure is diverse, suitable for cultivating rice, crops and perennial crops.
* Working population:
– The district's population is 171,955 people, population density is 563 people/km2. Of which: Khmer ethnic group accounts for 5.64% of the total population.
– Labor: Number of workers is 96,870 people, compared to the population ratio of 57.40%. Of which: 91,847 people are of working age. There are 94,628 employed workers, 2,242 unemployed workers.
* Transportation system:
– Road: The district has 02 National Highway 53 and National Highway 60 with a total length of 28km, Provincial Highway 911 with a length of 15.6km, 05 rural roads with a length of 71.3km and many rural roads with a length of 416km.
– Waterway: Co Chien River is 11.5km long and 02 river systems, Rach Bang and Lang The rivers, ensure the circulation of ships with a tonnage of 100 - 250 tons.
Sociocultural
Employment and living standards of the population:
In 2007, 31 projects were built and approved, of which 26 projects belonged to the capital of 120, 05 projects belonged to the Central Association's capital. With a total amount of 3.67 billion VND, reaching 100% of the year's plan, supporting nearly 636 households, creating jobs for 1,281 workers with on-site jobs. At the same time, 5,300 households borrowed capital to alleviate hunger and reduce poverty with an amount of 42.668 billion VND, creating jobs for 7,200 local workers.
Education and training:
In 2007 - 2008, there are:
– Preschool level: has 154 classes, 3,808 students with 17 schools.
– Primary school level: there are 516 classes, 11,895 students compared to last year, a decrease of 256 students with 35 schools.
– Secondary level: there are 248 classes, 8,540 students compared to the same period, a decrease of 1,030 students with 13 schools.
– High school level: there are 6,106 students compared to the same period, a decrease of 954 students with 05 schools.
The entire district has 8/65 schools meeting national standards, including 07 primary schools and 01 kindergarten.
The rate of mobilization of school-age students reached 98%. Secondary school graduation approval reached 95.80%, down 3.90% over the same period. Secondary school graduation pass completion rate reached 91.10%, down 1.90% over the same period.
Education universalization work: Universal secondary school graduation rate reached 82.80%. In the entire district, 14/14 communes and towns maintain standards of universal primary education at the right age and universal secondary education.
The district has just been inspected by the Provincial Steering Committee for Universalization of Secondary Education and recognized that Cang Long district met the standards of universalization of Secondary Education, Prevention of Urban Primary Education, and CMC in March 2008.
Culture, sports:
In 2007:
Organized participation in 05 sports festival programs organized by the province such as: Traditional volleyball sports festival, children's soccer tournament, Takwondo championship, badminton - table tennis championship and cross-country running "Sacombank for health" community". The result was 83 medals of all kinds, in addition to being awarded team titles.
Coordinated with the District Labor Federation to organize the 2007 Sports Festival for Public Employees - Labor, with 205 athletes participating. Organizing the opening ceremony of the 12th district traditional football tournament in 2007, there were 09 teams participating with 108 athletes participating.
Launching the work of building a civilized lifestyle - cultural families, up to now the whole district has 28,753/31,914 households recognized. Issued 2,432 certificates of cultural family recognition for 04 communes. Newly recognized 03 cultural hamlets, 08 civilized agencies, 01 religious facility meeting civilized belief standards. Bringing the total number to now 93/135 cultural hamlets and clusters; 110/133 civilized agencies and 9/27 civilized religious establishments.
Organize a preliminary review of the inspection and quality improvement of 12 cultural hamlets, check and re-accredit 06 schools, 04 civilized agencies in communes and 44 district agencies for re-accreditation.
Medical:
In 2007
Coordinated with charity organizations and medical groups to conduct free medical examinations for poor patients in communes, reaching 3,008 people and providing 696 gifts, with a total amount of over 97 million VND. In addition, with the support of domestic and foreign organizations, eye examinations and surgeries were organized for 271 cataract patients.
Maternal and child health care is always of concern. To date, 2,911 children under 1 year old have been vaccinated, including vaccination against important diseases such as: Hepatitis B, polio. paralysis, measles, leukemia - pertussis - tetanus for children from 6-36 months old, took vitamin A 7,010 times and pregnant women took iron pills 1,285 times. The rate of malnourished children by the end of the year was 14.76% (2,047 children), down 1.87% compared to the same period in 2006.
Regularly inspect, consolidate and build medical stations that meet national standards, and plan to build medical stations that meet national standards in 2007 in communes: Binh Phu, Phuong Thanh and Tan Binh. Coordinate with the Provincial Department of Health to conduct an inspection to recognize Tan An Commune Health Station as meeting national standards and re-accredit 04 health stations in communes: Nhi Long, Huyen Hoi, My Cam and An Truong.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cầu Ngang
Vị trí địa lý
Huyện Cầu Ngang nằm về phía Đông Nam tỉnh Trà Vinh và nằm bên bờ sông Cổ Chiên và cửa Cung Hầu.
+ Phía Đông giáp huyện Châu Thành và
tỉnh Bến Tre
;
+ Phía Nam giáp huyện Trà Cú và huyện Duyên Hải;
+ Phía Tây giáp huyện Châu Thành và huyện Trà Cú;
+ Phía Bắc giáp huyện Châu Thành.
Toàn huyện hiện có 15 đơn vị hành chính, gồm 13 xã và 2 thị trấn: thị trấn Cầu Ngang, thị trấn Mỹ Long, xã Kim Hòa, Hiệp Hòa, Vinh Kim, Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam, Mỹ Hòa, Thuận Hòa, Nhị Trường, Trường Thọ, Long Sơn, Hiệp Mỹ Đông, Hiệp Mỹ Tây và Thạnh Hòa Sơn. Trung tâm hành chính huyện đặt tại thị trấn Cầu Ngang, nằm cách trung tâm hành chính tỉnh Trà Vinh 23 km theo
quốc lộ 53
về phía Tây Bắc.
* Tài nguyên thiên nhiên
– Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện: 31.885,97ha, chiếm 14,39% diện tích toàn tỉnh (221.515 ha); phần lớn đất đai của huyện là đất nông nghiệp, với 27.569,55ha chiếm 86,463% diện tích tự nhiên của huyện, đất phi nông nghiệp có 4.303,63ha, chiếm 13,5% diện tích đất tự nhiên của huyện, hiện còn 11,79ha đất chưa sử dụng, chiếm 0,03% diện tích đất tự nhiên của huyện.
Gồm 3 nhóm đất chính:
+ Đất cát giồng: có 4.181,79 ha, chiếm 12,81% diện tích đất;
+ Đất phù sa: có 21.357,72 ha, chiếm 65,44% diện tích đất;
+ Đất phèn: có 7.899,08 ha, chiếm 21,75% diện tích đất.
Nhìn chung, đất đai trong huyện có sa cấu là sét đến sét pha thịt, tầng canh tác trung bình đến khá dày, thích hợp cho việc trồng lúa và các loại cây màu.
– Tài nguyên nước
Huyện Cầu Ngang có đặc điểm nguồn nước mặt rất đặc biệt, bao gồm ba nguồn mặn, ngọt, lợ do đó rất phù hợp cho việc canh tác đa cây, đa con của huyện. Nguồn nước mặt của huyện chủ yếu được cung cấp từ sông Cổ Chiên, sông Thâu Râu và sông Vinh Kim và nguồn nước mưa, vào mùa khô do tác động của thủy triều đưa nước mặn từ biển xâm nhập sâu vào nội địa làm nhiểm mặn nước khu vực cửa sông nên khả năng cung cấp nước ngọt cho sinh họat và sản xuất có gặp khó khăn, nhưng đây lại là lợi thế cho việc phát triển nuôi thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm sú. Nguồn nước ngầm khá phong phú, với 3 tầng chứa nước thay đổi từ 60 – 400 m, phổ biến từ 90 – 120 m; khả năng khai thác 97.000m
3
/ngày.
* Thủy sản
Huyện Cầu Ngang thuộc vùng đồng bằng ven biển và giáp với sông Cổ Chiên nên chịu sự chi phối bởi chế độ triều cường biển Đông thông qua sông Cổ Chiên, nên sự xâm nhiểm của nước mặn vào mùa khô đã hạn chế đến việc khai thác và sử dụng đất nông nghiệp, nhưng đây lại là lợi thế để phát triển nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là nuôi tôm sú), từ đó có nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển công nghiệp chế biến. Ngoài ra huyện còn có 15 km đường bờ biển thuộc khu vực các xã Vinh Kim, Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam và thị trấn Mỹ Long, đây cũng là lợi thế của huyện trong việc phát triển ngành khai thác và đánh bắt thủy hải sản xa bờ.
* Du lịch
Tập trung đầu tư phát triển các khu du lịch sinh thái Cồn Nghêu (xã Mỹ Long Nam), Cồn Bần (xã Mỹ Long Bắc), Hàng Dương (thị trấn Mỹ Long) và tôn tạo khu di tích lịch sử Chùa Dơi (xã Mỹ Long Bắc).
– Dân số: Năm 2005 ước khoảng 136.244 người, mật độ dân số 428 người/km
2
, tỷ lệ sinh 1,64%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,4%; tỷ lệ phân bố dân cư theo khu vực thành thị 13.946 người, đạt 10,23%, nông thôn 122.361 người, đạt 89,77%.
– Nguồn lao động: số người hoạt động trong nền kinh tế quốc dân là 79.405 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 75.774, chiếm 55,62% số dân, trong đó có việc làm 72.885 người, tỷ lệ thất ngiệp tương đối thấp, còn khoảng 3,83%; tỷ lệ lao động tại khu vực thành thị là 62,8%, nông thôn là 85,5%.
– Dự báo nguồn nhân lực: Dân số trong thời gian tới được xây dựng trong điều kiện kinh tế – xã hội tăng trưởng đều; tỷ lệ tăng trưởng dân số bình quân giai đoạn từ 2006 – 2010 là 1,3%, giai đoạn 2011 – 2015 là 1,1%, giai đọan 2016 – 2020 là 1,0%. Tương ứng dân số năm 2010 là 145.332 người, năm 2015 là 153.500 người, năm 2020 là 163.000 người.
Cơ sở tôn giáo
Tài nguyên du lịch
Trong tháng 5 năm 2008, huyện tiến hành điều tra tài nguyên du lịch trên địa bàn huyện, nhằm phục vụ cho công tác phân loại tài nguyên du lịch, quảng bá du lịch và quy hoạch du lịch, trong đợt I tiến hành điều tra 14 tài nguyên du lịch bao gồm:
– Chùa Giác Linh, ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang.
– Chùa Phước Mỹ, xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang.
– Miếu Bà Chúa Xứ, thị trấn Mỹ Long, huyện Cầu Ngang.
– HTX sản xuất Tôm khô Vinh Kim, ấp Chà Và, xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang.
– Làng nghề Cốm Dẹp, ấp Ba So, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang.
– Lễ hội SanDolta- CholchămThmây, xã Thuận Hoà, Nhị Trường, Thạnh Hoà Sơn, Trường Thọ, Hiệp Hoà.
– Hàng Dương, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang.
– Cồn Bần, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang.
– Lễ hội Nghing Ông, tại Miếu Bà Chúa Xứ, thị trấn Mỹ Long.
– Bào Dài, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang.
– Cồn Nghêu, xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang.
Nhiều chủ lò bánh tét ở Trà Cuôn nhìn nhận người có công khởi nghiệp làng nghề bánh tét Trà Cuôn là bà Thạch Thị Lý, người dân tộc Khmer ở xã Hiệp Hòa, huyện Cầu Ngang (Trà Vinh). Năm nay, bà Lý đã ngoài 70 tuổi và có trên 37 năm làm nghề gói bánh tét. Nhờ nghề này bà đã nuôi dạy được 12 người con khôn lớn.
Làng nghề bánh tét Trà Cuôn (chợ Trà Cuôn, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang) nằm trên tuyến Quốc lộ 53, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 12 km, từ hơn một tháng nay sôi động hẳn lên. Chị Mai Thị Hoàng Lý, Chủ cơ sở làm bánh tét có qui mô lớn nhất làng nghề, cho biết: “Càng cận Tết, bánh tét càng đắt hàng.
Mỗi ngày, cơ sở của tôi cho ra lò khoảng 1.000 đòn bánh. Riêng trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Tý năm 2008, tôi đã nhận được nhiều đơn đặt hàng từ các công ty, doanh nghiệp, chợ đầu mối ở ĐBSCL, TP HCM và cả các kiều bào từ nước ngoài về quê ăn Tết”. Bánh tét Trà Cuôn có 3 loại, loại nhỏ có trọng lượng 900 gr, giá 10.000 đồng/đòn, loại trung 1,2 kg giá 15.000 đồng/đòn và loại lớn 1,5 kg giá 18.000 đồng/đòn.
Nhiều chủ lò bánh tét cho biết, trước đây bánh tét Trà Cuôn được làm từ loại nếp sáp địa phương. Hiện nay, nhu cầu ngày càng tăng cao, nguồn nếp địa phương không đủ cung cấp nên các lò bánh phải nhập nếp sáp của Thái Lan để làm bánh. Năm nay, giá các loại nguyên vật liệu làm bánh (nếp, đường, đậu, thịt heo…) đều tăng từ 1,5-2 lần so với năm trước, lợi nhuận của các lò bánh bị sụt giảm. Nhưng nhờ lượng bánh tiêu thụ tăng nhiều so với năm rồi nên cũng bù đắp được phần nào.
Theo chị Mai Thị Hoàng Lý, để làm được đòn bánh tét ngon, người làm phải trải qua nhiều công đoạn. Từ khâu đầu đem nếp đi vo (khoảng 6-7 nước), để cho ráo nước, sau đó trộn đều với nước lá rau ngót (loại rau ngót dùng nấu canh) để tạo màu tươi và có mùi thơm. Thịt nạc, mỡ heo, lòng đỏ trứng vịt muối và đậu xanh là những nguyên liệu chính làm nhưn bánh tét. Nếp dẻo, thơm, ngon, gia vị độc đáo, người gói khéo tay và có “bí quyết” đã làm nên nét đặc trưng của bánh tét Trà Cuôn.
Bánh tét Trà Cuôn ngoài hương vị độc đáo còn có thể bảo quản được lâu (7-8 ngày). Nhiều kiều bào về quê ăn Tết còn mang bánh tét Trà Cuôn sang tận trời “Tây” để kiều bào xa quê thưởng thức hương vị độc đáo của quê nhà.
Hiện nay, chợ bánh tét Trà Cuôn có trên 12 sạp bán lẻ, tiêu thụ từ 1.000 – 1.500 đòn bánh/ngày. Khách hàng chủ yếu là người dân thị xã Trà Vinh, khách du lịch từ TP HCM và các tỉnh ĐBSCL. “Bánh tét Trà Cuôn giờ đã có uy tín, mỗi ngày có hàng ngàn đòn bánh tét tới tay người tiêu dùng. Xây dựng một thương hiệu cho bánh tét Trà Cuôn là việc cần làm. Chúng tôi đang xúc tiến thủ tục xây dựng thương hiệu cho làng nghề, để đưa sản phẩm đi xa hơn nữa”. Ông Lê Thanh Dũng, Phó Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang, lạc quan nói.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cầu Ngang
Vị trí địa lý
Huyện Cầu Ngang nằm về phía Đông Nam tỉnh Trà Vinh và nằm bên bờ sông Cổ Chiên và cửa Cung Hầu.
+ Phía Đông giáp huyện Châu Thành và
tỉnh Bến Tre
;
+ Phía Nam giáp huyện Trà Cú và huyện Duyên Hải;
+ Phía Tây giáp huyện Châu Thành và huyện Trà Cú;
+ Phía Bắc giáp huyện Châu Thành.
Toàn huyện hiện có 15 đơn vị hành chính, gồm 13 xã và 2 thị trấn: thị trấn Cầu Ngang, thị trấn Mỹ Long, xã Kim Hòa, Hiệp Hòa, Vinh Kim, Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam, Mỹ Hòa, Thuận Hòa, Nhị Trường, Trường Thọ, Long Sơn, Hiệp Mỹ Đông, Hiệp Mỹ Tây và Thạnh Hòa Sơn. Trung tâm hành chính huyện đặt tại thị trấn Cầu Ngang, nằm cách trung tâm hành chính tỉnh Trà Vinh 23 km theo
quốc lộ 53
về phía Tây Bắc.
* Tài nguyên thiên nhiên
– Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện: 31.885,97ha, chiếm 14,39% diện tích toàn tỉnh (221.515 ha); phần lớn đất đai của huyện là đất nông nghiệp, với 27.569,55ha chiếm 86,463% diện tích tự nhiên của huyện, đất phi nông nghiệp có 4.303,63ha, chiếm 13,5% diện tích đất tự nhiên của huyện, hiện còn 11,79ha đất chưa sử dụng, chiếm 0,03% diện tích đất tự nhiên của huyện.
Gồm 3 nhóm đất chính:
+ Đất cát giồng: có 4.181,79 ha, chiếm 12,81% diện tích đất;
+ Đất phù sa: có 21.357,72 ha, chiếm 65,44% diện tích đất;
+ Đất phèn: có 7.899,08 ha, chiếm 21,75% diện tích đất.
Nhìn chung, đất đai trong huyện có sa cấu là sét đến sét pha thịt, tầng canh tác trung bình đến khá dày, thích hợp cho việc trồng lúa và các loại cây màu.
– Tài nguyên nước
Huyện Cầu Ngang có đặc điểm nguồn nước mặt rất đặc biệt, bao gồm ba nguồn mặn, ngọt, lợ do đó rất phù hợp cho việc canh tác đa cây, đa con của huyện. Nguồn nước mặt của huyện chủ yếu được cung cấp từ sông Cổ Chiên, sông Thâu Râu và sông Vinh Kim và nguồn nước mưa, vào mùa khô do tác động của thủy triều đưa nước mặn từ biển xâm nhập sâu vào nội địa làm nhiểm mặn nước khu vực cửa sông nên khả năng cung cấp nước ngọt cho sinh họat và sản xuất có gặp khó khăn, nhưng đây lại là lợi thế cho việc phát triển nuôi thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm sú. Nguồn nước ngầm khá phong phú, với 3 tầng chứa nước thay đổi từ 60 – 400 m, phổ biến từ 90 – 120 m; khả năng khai thác 97.000m
3
/ngày.
* Thủy sản
Huyện Cầu Ngang thuộc vùng đồng bằng ven biển và giáp với sông Cổ Chiên nên chịu sự chi phối bởi chế độ triều cường biển Đông thông qua sông Cổ Chiên, nên sự xâm nhiểm của nước mặn vào mùa khô đã hạn chế đến việc khai thác và sử dụng đất nông nghiệp, nhưng đây lại là lợi thế để phát triển nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là nuôi tôm sú), từ đó có nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển công nghiệp chế biến. Ngoài ra huyện còn có 15 km đường bờ biển thuộc khu vực các xã Vinh Kim, Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam và thị trấn Mỹ Long, đây cũng là lợi thế của huyện trong việc phát triển ngành khai thác và đánh bắt thủy hải sản xa bờ.
* Du lịch
Tập trung đầu tư phát triển các khu du lịch sinh thái Cồn Nghêu (xã Mỹ Long Nam), Cồn Bần (xã Mỹ Long Bắc), Hàng Dương (thị trấn Mỹ Long) và tôn tạo khu di tích lịch sử Chùa Dơi (xã Mỹ Long Bắc).
– Dân số: Năm 2005 ước khoảng 136.244 người, mật độ dân số 428 người/km
2
, tỷ lệ sinh 1,64%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,4%; tỷ lệ phân bố dân cư theo khu vực thành thị 13.946 người, đạt 10,23%, nông thôn 122.361 người, đạt 89,77%.
– Nguồn lao động: số người hoạt động trong nền kinh tế quốc dân là 79.405 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 75.774, chiếm 55,62% số dân, trong đó có việc làm 72.885 người, tỷ lệ thất ngiệp tương đối thấp, còn khoảng 3,83%; tỷ lệ lao động tại khu vực thành thị là 62,8%, nông thôn là 85,5%.
– Dự báo nguồn nhân lực: Dân số trong thời gian tới được xây dựng trong điều kiện kinh tế – xã hội tăng trưởng đều; tỷ lệ tăng trưởng dân số bình quân giai đoạn từ 2006 – 2010 là 1,3%, giai đoạn 2011 – 2015 là 1,1%, giai đọan 2016 – 2020 là 1,0%. Tương ứng dân số năm 2010 là 145.332 người, năm 2015 là 153.500 người, năm 2020 là 163.000 người.
Cơ sở tôn giáo
Tài nguyên du lịch
Trong tháng 5 năm 2008, huyện tiến hành điều tra tài nguyên du lịch trên địa bàn huyện, nhằm phục vụ cho công tác phân loại tài nguyên du lịch, quảng bá du lịch và quy hoạch du lịch, trong đợt I tiến hành điều tra 14 tài nguyên du lịch bao gồm:
– Chùa Giác Linh, ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang.
– Chùa Phước Mỹ, xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang.
– Miếu Bà Chúa Xứ, thị trấn Mỹ Long, huyện Cầu Ngang.
– HTX sản xuất Tôm khô Vinh Kim, ấp Chà Và, xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang.
– Làng nghề Cốm Dẹp, ấp Ba So, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang.
– Lễ hội SanDolta- CholchămThmây, xã Thuận Hoà, Nhị Trường, Thạnh Hoà Sơn, Trường Thọ, Hiệp Hoà.
– Hàng Dương, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang.
– Cồn Bần, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang.
– Lễ hội Nghing Ông, tại Miếu Bà Chúa Xứ, thị trấn Mỹ Long.
– Bào Dài, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang.
– Cồn Nghêu, xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang.
Nhiều chủ lò bánh tét ở Trà Cuôn nhìn nhận người có công khởi nghiệp làng nghề bánh tét Trà Cuôn là bà Thạch Thị Lý, người dân tộc Khmer ở xã Hiệp Hòa, huyện Cầu Ngang (Trà Vinh). Năm nay, bà Lý đã ngoài 70 tuổi và có trên 37 năm làm nghề gói bánh tét. Nhờ nghề này bà đã nuôi dạy được 12 người con khôn lớn.
Làng nghề bánh tét Trà Cuôn (chợ Trà Cuôn, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang) nằm trên tuyến Quốc lộ 53, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 12 km, từ hơn một tháng nay sôi động hẳn lên. Chị Mai Thị Hoàng Lý, Chủ cơ sở làm bánh tét có qui mô lớn nhất làng nghề, cho biết: “Càng cận Tết, bánh tét càng đắt hàng.
Mỗi ngày, cơ sở của tôi cho ra lò khoảng 1.000 đòn bánh. Riêng trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Tý năm 2008, tôi đã nhận được nhiều đơn đặt hàng từ các công ty, doanh nghiệp, chợ đầu mối ở ĐBSCL, TP HCM và cả các kiều bào từ nước ngoài về quê ăn Tết”. Bánh tét Trà Cuôn có 3 loại, loại nhỏ có trọng lượng 900 gr, giá 10.000 đồng/đòn, loại trung 1,2 kg giá 15.000 đồng/đòn và loại lớn 1,5 kg giá 18.000 đồng/đòn.
Nhiều chủ lò bánh tét cho biết, trước đây bánh tét Trà Cuôn được làm từ loại nếp sáp địa phương. Hiện nay, nhu cầu ngày càng tăng cao, nguồn nếp địa phương không đủ cung cấp nên các lò bánh phải nhập nếp sáp của Thái Lan để làm bánh. Năm nay, giá các loại nguyên vật liệu làm bánh (nếp, đường, đậu, thịt heo…) đều tăng từ 1,5-2 lần so với năm trước, lợi nhuận của các lò bánh bị sụt giảm. Nhưng nhờ lượng bánh tiêu thụ tăng nhiều so với năm rồi nên cũng bù đắp được phần nào.
Theo chị Mai Thị Hoàng Lý, để làm được đòn bánh tét ngon, người làm phải trải qua nhiều công đoạn. Từ khâu đầu đem nếp đi vo (khoảng 6-7 nước), để cho ráo nước, sau đó trộn đều với nước lá rau ngót (loại rau ngót dùng nấu canh) để tạo màu tươi và có mùi thơm. Thịt nạc, mỡ heo, lòng đỏ trứng vịt muối và đậu xanh là những nguyên liệu chính làm nhưn bánh tét. Nếp dẻo, thơm, ngon, gia vị độc đáo, người gói khéo tay và có “bí quyết” đã làm nên nét đặc trưng của bánh tét Trà Cuôn.
Bánh tét Trà Cuôn ngoài hương vị độc đáo còn có thể bảo quản được lâu (7-8 ngày). Nhiều kiều bào về quê ăn Tết còn mang bánh tét Trà Cuôn sang tận trời “Tây” để kiều bào xa quê thưởng thức hương vị độc đáo của quê nhà.
Hiện nay, chợ bánh tét Trà Cuôn có trên 12 sạp bán lẻ, tiêu thụ từ 1.000 – 1.500 đòn bánh/ngày. Khách hàng chủ yếu là người dân thị xã Trà Vinh, khách du lịch từ TP HCM và các tỉnh ĐBSCL. “Bánh tét Trà Cuôn giờ đã có uy tín, mỗi ngày có hàng ngàn đòn bánh tét tới tay người tiêu dùng. Xây dựng một thương hiệu cho bánh tét Trà Cuôn là việc cần làm. Chúng tôi đang xúc tiến thủ tục xây dựng thương hiệu cho làng nghề, để đưa sản phẩm đi xa hơn nữa”. Ông Lê Thanh Dũng, Phó Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang, lạc quan nói.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Trà Vinh
Thành phố Trà Vinh là tỉnh lỵ của tỉnh Trà Vinh, có diện tích tự nhiên 6.803,5 ha chiếm gần 3% diện tích của tỉnh. Nằm ở phía Nam sông Tiền có tọa độ địa lý từ 106
o
18’ đến 106
o
25’ kinh độ Đông và từ 9
o
31’ đến 10
o
1’ vĩ độ Bắc.
– Phía Bắc: giáp sông Cổ Chiên thuộc
tỉnh Bến Tre
.
– Phía Tây Bắc: giáp huyện Càng Long.
– Phía Đông và Đông Nam: giáp
huyện Châu Thành
.
– Phía Nam: giáp huyện Châu Thành.
– Phía Tây, Tây Nam: giáp huyện Châu Thành.
Thành phố Trà Vinh nằm trên Quốc lộ 53 cách thành phố Hồ Chí Minh 202 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km, cách bờ biển Đông 40 km, với hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy khá hoàn chỉnh thuận tiện để phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội với các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long
và là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh.
Với diện tích 6.803,5 ha chủ yếu gồm 3 nhóm đất chính: đất cát giồng, đất phù sa và đất phèn tiềm năng. Tài nguyên thiên nhiên nước chủ yếu từ nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm khai thác từ sông, hồ kênh, rạch… tuy nhiên trữ lượng nước không đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Chưa phát hiện có các loại khoáng sản mà chủ yếu là cát xây dựng ở xã Long Đức với trữ lượng không lớn, chất lượng thấp và phù thuộc vào dòng chảy của sông Cổ Chiên. Hiện nay trên địa bàn thành phố Trà Vinh có nhiều địa điểm du lịch gắn liền với văn hóa dân tộc như khu văn hóa du lịch Ao Bà Om, Đền thờ Bác Hồ, các di tích cổ đền, chùa và tiềm năng phát triển khu du lịch sinh thái ấp Long Trị, xã Long Đức.
Thành phố Trà Vinh có dân số khoảng 109.341 người, trong đó dân tộc Khmer chiếm 19,96%, dân tộc Hoa chiếm 6,22%, dân tộc khác chiếm 0,2% và số đông còn lại là dân tộc Kinh. Nguồn lao động (theo đơn vị sự nghiệp) có khoảng 55.513 người trong độ tuổi lao động, mật độ dân số tăng tự nhiên hàng năm (trong năm 2007) là 1,025%.
Lịch sử hình thành và phát triển
– Giai đoạn 1: tỉnh Trà Vinh được thành lập năm 1900. Thị xã Trà Vinh có vị trí thuận lợi do nằm gần cửa sông Cổ Chiên nên sớm trở thành trung tâm dịch vụ và sau đó là trung tâm hành chính, quân sự của tỉnh Trà Vinh.
– Giai đoạn 2: (Từ năm 1955 – 1975), tỉnh Trà Vinh được đổi tên thành tỉnh Vĩnh Bình, thị xã Trà Vinh vẫn là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Bình.
– Giai đoạn 3: (1975 – 1991), năm 1975 Quốc hội khóa VI quyết định hợp nhất 2 tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long thành tỉnh Cửu Long, với tỉnh lỵ là thị xã Vĩnh Long. Giai đoạn này thị xã Trà Vinh là trung tâm vùng phía Đông Nam của tỉnh.
– Giai đoạn 4: Sau gần 17 năm sáp nhập hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long, đến tháng 5 năm 1992 tỉnh Cửu Long được chia tách thành hai tỉnh: Vĩnh Long và Trà Vinh. Và cũng từ đây, thị xã Trà Vinh đã và đang được đầu tư xây dựng, quy hoạch lại theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trở thành Trung tâm hành chính – Chính trị – Kinh tế – Văn hóa – Xã hội – An ninh – quốc phòng của tỉnh.
– Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về việc thành lập Thành phố Trà Vinh đã mở ra một bước ngoặc mới cho Thành phố Trà Vinh.
– Quyết định 241/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tưởng Chính phủ về việc công nhận thành phố Trà Vinh là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Trà Vinh.
|
General introduction to Tra Vinh city
Tra Vinh city is the capital of Tra Vinh province, with a natural area of 6,803.5 hectares, accounting for nearly 3% of the province's area. Located south of Tien River with geographical coordinates from 106
o
18' to 106
o
25' East longitude and from 9
o
31' to 10
o
1' North latitude.
– North: adjacent to Co Chien River
Ben Tre province
.
– Northwest: adjacent to Cang Long district.
– East and Southeast: border
Chau Thanh district
.
– South: bordering Chau Thanh district.
– West and southwest: bordering Chau Thanh district.
Tra Vinh city is located on Highway 53, 202 km from Ho Chi Minh City and 100 km from Can Tho city, 40 km from the East coast, with a quite complete road and waterway transportation system, convenient for development. economic, cultural and social development with the provinces
Mekong Delta
and is the key economic region of the province.
With an area of 6,803.5 hectares, it mainly includes 3 main soil groups: sandy soil, alluvial soil and potential alum soil. Natural water resources are mainly from surface water sources and underground water sources exploited from rivers, lakes, canals, etc. However, water reserves do not meet the production and living needs of the people. No minerals have been discovered, mainly construction sand in Long Duc commune with not large reserves, low quality and depending on the flow of the Co Chien river. Currently, in Tra Vinh city, there are many tourist destinations associated with national culture such as Ao Ba Om cultural and tourist area, Uncle Ho's Temple, ancient temples and pagodas, and the potential for developing the area. Ecotourism in Long Tri hamlet, Long Duc commune.
Tra Vinh city has a population of about 109,341 people, of which the Khmer ethnic group accounts for 19.96%, the Chinese ethnic group accounts for 6.22%, other ethnic groups account for 0.2% and the remaining majority is Kinh ethnic group. The labor source (according to public service units) is about 55,513 people of working age, the population density increases naturally every year (in 2007) is 1,025%.
History of formation and development
– Phase 1: Tra Vinh province was established in 1900. Tra Vinh town has a favorable location because it is located near the mouth of the Co Chien river, so it soon became a service center and then the administrative and military center of the country. Tra Vinh province.
– Phase 2: (From 1955 - 1975), Tra Vinh province was renamed Vinh Binh province, Tra Vinh town is still the provincial center of Vinh Binh province.
– Phase 3: (1975 – 1991), in 1975, the 6th National Assembly decided to merge the two provinces of Tra Vinh and Vinh Long into Cuu Long province, with the provincial capital being Vinh Long town. During this period, Tra Vinh town was the center of the southeast region of the province.
– Phase 4: After nearly 17 years of merging Vinh Long and Tra Vinh provinces into Cuu Long province, in May 1992 Cuu Long province was divided into two provinces: Vinh Long and Tra Vinh. And from here, Tra Vinh town has been invested in construction, re-planned in the direction of industrialization, modernization and becoming an administrative - political - economic - cultural - social center. Security and defense of the province.
– Resolution Không. 11/NQ-CP dated March 4, 2010 of the Government on the establishment of Tra Vinh City has opened a new turning point for Tra Vinh City.
– Decision 241/QD-TTg dated February 5, 2016 of the Prime Minister on recognizing Tra Vinh city as a class II urban area under Tra Vinh province.
|
Giới thiệu khái quát huyện Sơn Dương
Vị trí địa lý:
Sơn Dương là một huyện miền núi nằm ở phía Nam của
tỉnh Tuyên Quang
, cách trung tâm thành phố Tuyên Quang 30km về phía Đông Nam cách Thủ đô Hà Nội 104 km và cách
Cảng Hàng không Quốc tế Nội Bài
78 km theo hướng Quốc lộ 2C và đường Cao tốc 05 Nội Bài- Lào Cai qua các huyện Lập Thạch, Tam Đảo, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; phía Nam, Đông Nam giáp huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và Trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 60 km theo hướng Quốc lộ 37 Tuyên Quang- Thái Nguyên; phía Tây Nam cách Trung tâm huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 44 km theo hướng Quốc lộ 2C sang Quốc lộ 2; phía Tây Bắc giáp huyện Yên Sơn và thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; phía Đông giáp huyện Định Hoá, cách khu di tích lịch sử ATK Định Hóa khoảng 29 km theo Quốc lộ 2C Sơn Dương- Tân Trào…
– Điều kiện tự nhiên:
Tổng diện tích tự nhiên là 78.795,2 ha; trong đó: Đất Nông nghiệp 69.206,4 ha, chiếm 87,83% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 9.169,9 ha, chiếm 11,64% tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng 418,89 ha, chiếm 0,53% tổng diện tích tự nhiên. Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa đông hanh khô, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều; nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 – 24oC (cao nhất từ 33 – 35oC, thấp nhất từ 12 – 13oC); lượng mưa bình quân hàng năm 1.500mm – 1.800mm; huyện có hai sông lớn chảy qua, bao gồm sông Lô (chảy qua địa phận 11 xã của huyện Sơn Dương, với chiều dài 33km), sông Phó Đáy (chảy qua địa phận 10 xã của huyện, với chiều dài 50km), hệ thống suối, khe, lạch tạo nguồn nước phong phú. Đất đai của huyện Sơn Dương khá đa dạng về nhóm và loại (đất phù sa, đất dốc tụ, đất đỏ vàng, vàng đỏ, đất mùn vàng đỏ trên núi cao…) đã tạo ra nhiều vùng sinh thái nông- lâm nghiệp thích hợp cho việc trồng các loại cây như mía, chè, cây nguyên liệu giấy, các loại cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm và phát triển nông nghiệp sạch;
– Về tiền năng, thế mạnh phát triển kinh tế – xã hội:
Kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng “tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản”. Công nghiệp có bước phát triển; nông lâm nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới; du lịch bước đầu phát triển để từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng của huyện; hoạt động tài chính, tín dụng điều hành ngân sách có nhiều tiến bộ, thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đạt trên 100 tỷ đồng; đời sống nhân dân được nâng lên, Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 26,5triệu đồng/người/năm. Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố, giữ vững. Thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển; củng cố nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân; khơi dậy các nguồn lực trong dân; tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế – xã hội, nhất là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hỗ trợ sản xuất hàng hoá;
Về giao thông:
huyện có 2 tuyến quốc lộ chạy qua là Quốc lộ 37; Quốc lộ 2C và các tuyến đường Tỉnh lộ, huyện lộ, đường liên xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa tạo điều kiện thuận lợi trong liên kết, giao thương hàng hoá, phát triển kinh tế với các tỉnh có nền kinh tế phát triển như Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ…;
Về Công nghiệp, thương mại:
Huyện có 01 Khu công nghiệp và 03 điểm công nghiệp với trên 15 nhà máy công nghiệp đã được phê duyệt quy hoạch và thu hồi đất với tổng diện tích gần 400 ha, cụ thể như Khu công nghiệp Sơn Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể là 150 ha; Điểm công nghiệp độc lập Măng ngọt (Tổ nhân dân Măng Ngọt, thị trấn Sơn Dương) tổng diện tích Quy hoạch là 4 ha; Cụm công nghiệp An Hoà (xã Vĩnh Lợi) có tổng diện tích đất đã thu hồi, bồi thường GPMB là 222,6 ha (có Nhà máy giấy và Bột giấy An Hòa, công suất 270.000 tấn bột giấy và giấy cao cấp/năm); Đang xây dựng Cụm Công nghiệp tại xã Phúc ứng có tổng diện tích đất đã bồi thường 23 ha (đã thu hút được 01 nhà máy May của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, 01 Nhà máy chế biến thức ăn gia súc và 01 tổ hợp sản xuất thức ăn chăn nuôi, giống gia súc, gia cầm của Tập đoàn DABACO). Để ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế, huyện luôn khuyến khích mời gọi, huy động các nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng các cụm công nghiệp trên địa bàn; cam kết thực hiện có hiệu quả các cơ chế khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để các doanh nghiệp triển khai các dự án…
Huyện đã thực hiện quy hoạch và thu hút các nhà đầu tư triển khai các công trình hạ tầng dịch vụ tại Khu dịch vụ ẩm thực và thương mại Tổ dân phố Xây dựng, Thị trấn Sơn Dương. Hiện tại huyện đang triển khai các thủ tục đầu tư dự án xây dựng đập dâng nước và khu thương mại, dịch vụ và nhà ở Tổ dân phố Cơ quan (dọc bờ sông Phó Đáy) theo hình thức BT; hiện nay huyện đang thu hút các dự án phát triển đô thị, thương mại dọc 02 bờ sông Phó Đáy và chỉnh trang đô thị thị trấn Sơn Dương để lên đô thị loại IV trước năm 2020…
Về phát triển du lịch:
Sơn Dương có tiềm năng lớn về phát triển du lịch lịch sử – sinh thái, tâm linh, nơi có Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào – Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô Kháng chiến, nơi Trung ương Đảng, Bác Hồ, 13/14 bộ, ban, ngành của Trung ương đã ở và làm việc, với 4 cụm di tích chính: cụm di tích Tân Trào; cụm di tích Bác Tôn, Ban Thường trực Quốc hội, Mặt trận Liên Việt ở xã Trung Yên; cụm di tích Chính phủ tại thôn Lập Binh, xã Bình Yên; cụm di tích Nha Công an và các bộ ngành ở xã Minh Thanh; di tích Chùa Lang Đạo đang được khai quật và phục dựng. Hàng năm có trên 600.000 lượt người đến tham quan Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào. Ngoài ra có thể đầu tư phát triển dịch vụ, du lịch thác Đát (suối Tiên) xã Hợp Hoà, thác Cao Ngỗi xã Đông Lợi…Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch; thu hút các nhà đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch, xây dựng cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng, khu ẩm thực; phát triển các sản phẩm du lịch, xác định du lịch lịch sử là sản phẩm chính, sản phẩm chủ lực.
Về sản xuất nông lâm nghiệp:
Huyện đang tập trung cơ cấu, tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung, chuyên canh, chú trọng đổi mới phương thức canh tác, thâm canh tăng năng suất cây trồng; Thực hiện quy hoạch ổn định vùng nguyên liệu mía (trên 3.700 ha), chè (trên 1.500 ha), cây nguyên liệu giấy (rừng trồng 35.000 ha), thức ăn chăn nuôi gia súc đảm bảo phù hợp; tập trung phát triển sản xuất nông lâm nghiệp theo chuỗi giá trị, chất lượng cao, gia tăng giá trị sản phẩm và thu nhập, tập trung các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực như: cây mía, cây chè, cây nguyên liệu giấy, con lợn, bò thịt, bò sữa… Toàn huyện hiện có 214 trang trại lớn nhỏ và 42 Hợp tác xã đang hoạt động. Hiện tại huyện đang khuyến khích phát triển các hợp tác xã kiểu mới, xây dựng cánh đồng lớn để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực của huyện; hỗ trợ phát triển các trang trại chăn nuôi, trồng trọt theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP…; khuyến khích mời gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống nôn nghiệp sạch, nông nghiệp an toàn…
Về nguồn nhân lực:
Dân số của huyện có trên 181.052 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động của toàn huyện là trên 121.000 người chiếm 61,6% (trong đó trên 50,4% lao động đã qua đào tạo nghề) đây là nguồn lao động dồi dào, có điều kiện phát triển để đáp ứng cho sản xuất các ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và sản xuất nông lâm nghiệp sạch tại địa phương.
Về cải cách hành chính:
Huyện xác định cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng công vụ, công chức là nhiệm vụ trọng tâm; hoàn thành việc xây dựng bộ phận “một cửa” tại huyện theo hướng hiện đại; duy trì hoạt động của bộ phận “một cửa” tại 33 xã, thị trấn. Phấn đấu trước năm 2020 hoàn thành việc cung các cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, 4.
UBND huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
Địa chỉ: Thị trấn Sơn Dương, huyện Sơn Dương , tỉnh Tuyên Quang.
Điện thoại: 0207 3835 697 – Email:
|
Giới thiệu khái quát huyện Sơn Dương
Vị trí địa lý:
Sơn Dương là một huyện miền núi nằm ở phía Nam của
tỉnh Tuyên Quang
, cách trung tâm thành phố Tuyên Quang 30km về phía Đông Nam cách Thủ đô Hà Nội 104 km và cách
Cảng Hàng không Quốc tế Nội Bài
78 km theo hướng Quốc lộ 2C và đường Cao tốc 05 Nội Bài- Lào Cai qua các huyện Lập Thạch, Tam Đảo, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; phía Nam, Đông Nam giáp huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và Trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 60 km theo hướng Quốc lộ 37 Tuyên Quang- Thái Nguyên; phía Tây Nam cách Trung tâm huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 44 km theo hướng Quốc lộ 2C sang Quốc lộ 2; phía Tây Bắc giáp huyện Yên Sơn và thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; phía Đông giáp huyện Định Hoá, cách khu di tích lịch sử ATK Định Hóa khoảng 29 km theo Quốc lộ 2C Sơn Dương- Tân Trào…
– Điều kiện tự nhiên:
Tổng diện tích tự nhiên là 78.795,2 ha; trong đó: Đất Nông nghiệp 69.206,4 ha, chiếm 87,83% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 9.169,9 ha, chiếm 11,64% tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng 418,89 ha, chiếm 0,53% tổng diện tích tự nhiên. Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa đông hanh khô, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều; nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 – 24oC (cao nhất từ 33 – 35oC, thấp nhất từ 12 – 13oC); lượng mưa bình quân hàng năm 1.500mm – 1.800mm; huyện có hai sông lớn chảy qua, bao gồm sông Lô (chảy qua địa phận 11 xã của huyện Sơn Dương, với chiều dài 33km), sông Phó Đáy (chảy qua địa phận 10 xã của huyện, với chiều dài 50km), hệ thống suối, khe, lạch tạo nguồn nước phong phú. Đất đai của huyện Sơn Dương khá đa dạng về nhóm và loại (đất phù sa, đất dốc tụ, đất đỏ vàng, vàng đỏ, đất mùn vàng đỏ trên núi cao…) đã tạo ra nhiều vùng sinh thái nông- lâm nghiệp thích hợp cho việc trồng các loại cây như mía, chè, cây nguyên liệu giấy, các loại cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm và phát triển nông nghiệp sạch;
– Về tiền năng, thế mạnh phát triển kinh tế – xã hội:
Kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng “tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản”. Công nghiệp có bước phát triển; nông lâm nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới; du lịch bước đầu phát triển để từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng của huyện; hoạt động tài chính, tín dụng điều hành ngân sách có nhiều tiến bộ, thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đạt trên 100 tỷ đồng; đời sống nhân dân được nâng lên, Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 26,5triệu đồng/người/năm. Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố, giữ vững. Thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển; củng cố nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân; khơi dậy các nguồn lực trong dân; tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế – xã hội, nhất là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hỗ trợ sản xuất hàng hoá;
Về giao thông:
huyện có 2 tuyến quốc lộ chạy qua là Quốc lộ 37; Quốc lộ 2C và các tuyến đường Tỉnh lộ, huyện lộ, đường liên xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa tạo điều kiện thuận lợi trong liên kết, giao thương hàng hoá, phát triển kinh tế với các tỉnh có nền kinh tế phát triển như Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ…;
Về Công nghiệp, thương mại:
Huyện có 01 Khu công nghiệp và 03 điểm công nghiệp với trên 15 nhà máy công nghiệp đã được phê duyệt quy hoạch và thu hồi đất với tổng diện tích gần 400 ha, cụ thể như Khu công nghiệp Sơn Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể là 150 ha; Điểm công nghiệp độc lập Măng ngọt (Tổ nhân dân Măng Ngọt, thị trấn Sơn Dương) tổng diện tích Quy hoạch là 4 ha; Cụm công nghiệp An Hoà (xã Vĩnh Lợi) có tổng diện tích đất đã thu hồi, bồi thường GPMB là 222,6 ha (có Nhà máy giấy và Bột giấy An Hòa, công suất 270.000 tấn bột giấy và giấy cao cấp/năm); Đang xây dựng Cụm Công nghiệp tại xã Phúc ứng có tổng diện tích đất đã bồi thường 23 ha (đã thu hút được 01 nhà máy May của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, 01 Nhà máy chế biến thức ăn gia súc và 01 tổ hợp sản xuất thức ăn chăn nuôi, giống gia súc, gia cầm của Tập đoàn DABACO). Để ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế, huyện luôn khuyến khích mời gọi, huy động các nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng các cụm công nghiệp trên địa bàn; cam kết thực hiện có hiệu quả các cơ chế khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để các doanh nghiệp triển khai các dự án…
Huyện đã thực hiện quy hoạch và thu hút các nhà đầu tư triển khai các công trình hạ tầng dịch vụ tại Khu dịch vụ ẩm thực và thương mại Tổ dân phố Xây dựng, Thị trấn Sơn Dương. Hiện tại huyện đang triển khai các thủ tục đầu tư dự án xây dựng đập dâng nước và khu thương mại, dịch vụ và nhà ở Tổ dân phố Cơ quan (dọc bờ sông Phó Đáy) theo hình thức BT; hiện nay huyện đang thu hút các dự án phát triển đô thị, thương mại dọc 02 bờ sông Phó Đáy và chỉnh trang đô thị thị trấn Sơn Dương để lên đô thị loại IV trước năm 2020…
Về phát triển du lịch:
Sơn Dương có tiềm năng lớn về phát triển du lịch lịch sử – sinh thái, tâm linh, nơi có Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào – Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô Kháng chiến, nơi Trung ương Đảng, Bác Hồ, 13/14 bộ, ban, ngành của Trung ương đã ở và làm việc, với 4 cụm di tích chính: cụm di tích Tân Trào; cụm di tích Bác Tôn, Ban Thường trực Quốc hội, Mặt trận Liên Việt ở xã Trung Yên; cụm di tích Chính phủ tại thôn Lập Binh, xã Bình Yên; cụm di tích Nha Công an và các bộ ngành ở xã Minh Thanh; di tích Chùa Lang Đạo đang được khai quật và phục dựng. Hàng năm có trên 600.000 lượt người đến tham quan Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào. Ngoài ra có thể đầu tư phát triển dịch vụ, du lịch thác Đát (suối Tiên) xã Hợp Hoà, thác Cao Ngỗi xã Đông Lợi…Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch; thu hút các nhà đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch, xây dựng cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng, khu ẩm thực; phát triển các sản phẩm du lịch, xác định du lịch lịch sử là sản phẩm chính, sản phẩm chủ lực.
Về sản xuất nông lâm nghiệp:
Huyện đang tập trung cơ cấu, tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung, chuyên canh, chú trọng đổi mới phương thức canh tác, thâm canh tăng năng suất cây trồng; Thực hiện quy hoạch ổn định vùng nguyên liệu mía (trên 3.700 ha), chè (trên 1.500 ha), cây nguyên liệu giấy (rừng trồng 35.000 ha), thức ăn chăn nuôi gia súc đảm bảo phù hợp; tập trung phát triển sản xuất nông lâm nghiệp theo chuỗi giá trị, chất lượng cao, gia tăng giá trị sản phẩm và thu nhập, tập trung các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực như: cây mía, cây chè, cây nguyên liệu giấy, con lợn, bò thịt, bò sữa… Toàn huyện hiện có 214 trang trại lớn nhỏ và 42 Hợp tác xã đang hoạt động. Hiện tại huyện đang khuyến khích phát triển các hợp tác xã kiểu mới, xây dựng cánh đồng lớn để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực của huyện; hỗ trợ phát triển các trang trại chăn nuôi, trồng trọt theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP…; khuyến khích mời gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống nôn nghiệp sạch, nông nghiệp an toàn…
Về nguồn nhân lực:
Dân số của huyện có trên 181.052 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động của toàn huyện là trên 121.000 người chiếm 61,6% (trong đó trên 50,4% lao động đã qua đào tạo nghề) đây là nguồn lao động dồi dào, có điều kiện phát triển để đáp ứng cho sản xuất các ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và sản xuất nông lâm nghiệp sạch tại địa phương.
Về cải cách hành chính:
Huyện xác định cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng công vụ, công chức là nhiệm vụ trọng tâm; hoàn thành việc xây dựng bộ phận “một cửa” tại huyện theo hướng hiện đại; duy trì hoạt động của bộ phận “một cửa” tại 33 xã, thị trấn. Phấn đấu trước năm 2020 hoàn thành việc cung các cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, 4.
UBND huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
Địa chỉ: Thị trấn Sơn Dương, huyện Sơn Dương , tỉnh Tuyên Quang.
Điện thoại: 0207 3835 697 – Email:
|
Giới thiệu khái quát huyện Hàm Yên
Địa hình Hàm Yên khá phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy núi cao và hệ thống sông ngòi, thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Nhìn tổng thể, huyện nằm giữa hai dãy núi lớn. Dãy Cham Chu chạy từ Tự Do (thuộc xã Yên Thuận) tới Bình Xa theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có đỉnh cao nhất là
núi Cham Chu
(1.587m) và nhiều đỉnh cao từ 831 đến 1.435 m. Dãy núi Phấn cũng chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, từ Yên Hương (nay là xã Yên Lâm và xã Yên Phú) tới Hùng Đức, có đỉnh cao nhất là núi Phấn (651m) và nhiều đỉnh cao trên dưới 500m. Cả hai dãy núi này đều có hướng dốc xuôi xuống phía sông Lô, tạo cho Hàm Yên có một hình thế như một thung lũng lòng chảo lớn mà đáy của nó là lưu vực sông Lô với những cánh đồng lớn và các soi bãi phù sa dọc hai bên bờ sông Lô, có độ cao trung bình so với mặt nước biển là 46,7m.
Núi đồi Hàm Yên chủ yếu là núi đất (91,36% diện tích), có thảm thực vật phong phú với nhiều loại gỗ quý hiếm như đinh, lim, nghiến, lát và các loài thú quý như hươu, nai, hổ, báo, gấu, nhím, tắc kè… Núi đá chiếm khoảng 8,64% diện tích núi đồi, phân bố chủ yếu ở các xã: Yên Thuận, Bạch Xa, Minh Khương, Phù Lưu, Minh Hương, Thái Sơn, Thái Hoà, Yên Phú. Đặc biệt với vị trí thuận lợi cho khai thác, vận chuyển với diện tích lớn và chất lượng tốt, rừng Hàm Yên là vùng nguyên liệu giấy truyền thống của tỉnh Tuyên Quang.
Diện tích đất nông nghiệp của huyện 11.403 ha, chiếm 12,66% tổng diện tích, trong đó chỉ có 3.325 ha lúa nước; bình quân là 1.052m2/người. Các cánh đồng phần lớn nhỏ hẹp, phân tán dọc các triền đồi. Hàm Yên có một số cánh đồng rộng từ 30 đến 70 ha nằm ở các xã: Hùng Đức, Đức Ninh, Thái Sơn, Thái Hoà, Nhân Mục, Yên Phú, Bình Xa, Minh Hương và Phù Lưu. Huyện có 61.039 ha đất đồi, thích hợp với các loại cây công nghiệp (sả, chè), cây ăn quả (cam, quýt, dứa…), cây lương thực (ngô, sắn…).
Hệ thống sông ngòi của huyện khá dầy, tổng chiều dài là 455km. Sông Lô chảy qua địa phận huyện với chiều dài 68,8km từ Hoà Đông (xã Yên Thuận) tới chợ Tổng (xã Đức Ninh), có giá trị lớn về giao thông vận tải, là nguồn nước sinh hoạt của nhân dân ven sông. Hàm Yên còn có 6 con suối lớn là Ngòi Nắc, Ngòi Mục, Ngòi Lù, Ngòi Hẻ, Ngòi Khiêng, Ngòi Hương Lạp, đều bắt nguồn từ núi Phấn và núi Cham Chu và cùng đổ ra sông Lô.
Do độ dốc lớn, khúc khuỷu, nhiều thác ghềnh, thường có lũ lớn vào mùa mưa nên sông suối ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp, gây trở ngại lớn trong giao thông.
Khí hậu ở Hàm Yên hình thành hai mùa rõ rệt; mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10; mùa lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,490c, độ ẩm là 87,07%, lượng mưa bình quân là 162,40 mm.
Điều kiện tự nhiên của Hàm Yên đã mang lại cho huyện những lợi thế lớn về nghề rừng, chăn nuôi và trồng trọt. Trong quá trình xây dựng quê hương, các thế mạnh trên đã từng bước được khai thác, phát huy trong cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện. Với các điều kiện, tiền đề đó, từ điểm xuất phát rất thấp, nền kinh tế của huyện đã đạt tới bước phát triển mới và đi dần vào thế ổn định.
Lịch sử
Hàm Yên xưa là huyện Sóc Sùng, đời Minh là huyện Văn Yên, sau nhập vào huyện Khoáng. Đời Lê sơ gọi là huyện Sùng Yên sau đổi là Phúc Yên. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) kị húy chữ Phúc, đổi là Hàm Yên. Năm Duy Tân thứ 7 (1913) chia huyện Hàm Yên thành 2 huyện Hàm Yên và Yên Sơn.Tháng 12 năm 1975 trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên, Hàm Yên là huyện lị của tỉnh Hà Tuyên. Năm 1991, khi tách trở lại thành Tuyên Quang và Hà Giang, Hàm Yên là huyện lị của tỉnh Tuyên Quang.
Sau năm 1954, huyện Hàm Yên có 17 xã: Bạch Xa, Bằng Cốc, Bình Xa, Đức Ninh, Hành Mai, Hùng Đức, Minh Dân, Minh Hương, Minh Khương, Nhân Mục, Phù Lưu, Thái Hòa, Thái Sơn, Tân Thành, Thành Long, Tự Do, Yên Hương.
Ngày 26-12-1970, hợp nhất xã Tự Do và xã Hành Mai thành một xã lấy tên là xã Yên Thuận.
Ngày 19-11-1985, chia xã Nhân Mục thành 2 đơn vị hành chính lấy tên là xã Nhân Mục và thị trấn Tân Yên (thị trấn huyện lỵ huyện Hàm Yên).
Ngày 15-7-1999, chia xã Yên Hương thành hai xã Yên Lâm và Yên Phú.
Diện tích, dân số, giao thông
Diện tích 907 km2
Dân số là 109.000 người (năm 2008). Huyện lị là thị trấn Tân Yên nằm trên quốc lộ 2, cách thành phố Tuyên Quang khoảng 40 km về hướng tây bắc, huyện cũng là nơi con sông Lô chảy qua. Bí thư huyện uỷ hiện hay là ông Hà Phúc Phình, chủ tịch huyện là ông Vũ Đình Hưng.Trưởng Công an huyện là Đồng chí: Bùi Quang Tuấn. Huyên Hàm Yên gồm có các dân tộc sau: Kinh, Tày, Nùng, dao, H’Mông…
Các đơn vị hành chính
Huyện gồm 1 thị trấn Tân Yên và 17 xã: Bạch Xa, Bằng Cốc, Bình Xa, Đức Ninh, Hùng Đức, Minh Dân, Minh Hương, Minh Khương, Nhân Mục, Phù Lưu, Thái Hòa, Thái Sơn, Tân Thành, Thành Long, Yên Lâm, Yên Phú, Yên Thuận.
Kinh tế
Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp như trồng cam, lúa,… nuôi cá và các loại gia súc như trâu bò, dê,… Cây công nghiệp có chè; cây lâm nghiệp có keo.
Du lịch
Thắng cảnh Động Tiên
Đền Bắc mục tại km 43 nằm bên bờ sông lô thờ tướng Trần Hưng Đạo
Đền thác cái tại km 61 Quốc lộ A2 là một nơi thu hút được đông đảo người đến lễ bái với truyền thuyết” ái cội”
Hội chọi trâu Hàm Yên
Du lịch sinh thái Cao Đường – xã Yên Thuận được ví như Đà lạt của Tuyên Quang
Hang Bạch Xà với tượng Đức Mẹ – Xã Bạch Xa
Ngoài ra còn có các lễ hội tại các xã như: Hội cầu đình của xã Bạch Xa, lễ hội đón xuân của người H’mông tại thôn Cao Đường với nhiều trò chơi dân tộc như đi cà kheo, đánh quay, tung còn,…
|
General introduction of Ham Yen district
Ham Yen's terrain is quite complex, divided by high mountain ranges and river systems, gradually lowering in the Northwest - Southeast direction. Overall, the district is located between two large mountain ranges. Cham Chu range runs from Tu Do (in Yen Thuan commune) to Binh Xa in the Northwest - Southeast direction, with the highest peak at
Cham Chu mountain
(1,587m) and many peaks from 831 to 1,435 m. The Phan mountain range also runs in the Northwest - Southeast direction, from Yen Huong (now Yen Lam commune and Yen Phu commune) to Hung Duc, with the highest peak being Phan mountain (651m) and many peaks of around 500m high. Both of these mountain ranges slope downward towards the Lo River, giving Ham Yen a shape like a large valley whose bottom is the Lo River basin with large fields and alluvial fields. along both sides of the Lo River, with an average height above sea level of 46.7m.
Ham Yen mountains and hills are mainly dirt mountains (91.36% of the area), with rich vegetation with many rare types of wood such as nails, ironwood, grind, slices and precious animals such as deer, tigers, Leopards, bears, porcupines, geckos... Rocky mountains account for about 8.64% of the mountain area, mainly distributed in communes: Yen Thuan, Bach Xa, Minh Khuong, Phu Luu, Minh Huong, Thai Son, Thai Hoa , Yen Phu. Especially with a convenient location for exploitation and transportation of large area and good quality, Ham Yen forest is a traditional paper raw material area of Tuyen Quang province.
The district's agricultural land area is 11,403 hectares, accounting for 12.66% of the total area, of which only 3,325 hectares are wet rice; The average is 1,052m2/person. The fields are mostly small and narrow, scattered along the hillsides. Ham Yen has a number of fields ranging from 30 to 70 hectares located in the communes: Hung Duc, Duc Ninh, Thai Son, Thai Hoa, Nhan Muc, Yen Phu, Binh Xa, Minh Huong and Phu Luu. The district has 61,039 hectares of hilly land, suitable for industrial crops (lemongrass, tea), fruit trees (oranges, tangerines, pineapples...), food crops (corn, cassava...).
The district's river system is quite thick, with a total length of 455km. Lo River flows through the district with a length of 68.8km from Hoa Dong (Yen Thuan commune) to Cho Tong (Duc Ninh commune), has great value in transportation, and is a source of domestic water for people along the river. . Ham Yen also has 6 large streams: Ngoi Nac, Ngoi Muc, Ngoi Lu, Ngoi He, Ngoi Khieng, Ngoi Huong Lap, all originating from Phan Mountain and Cham Chu Mountain and flowing into the Lo River.
Due to steep slopes, meanderings, many waterfalls and rapids, and often large floods in the rainy season, rivers and streams greatly affect agricultural production, causing major obstacles in transportation.
The climate in Ham Yen forms two distinct seasons; hot season from April to October; The cold season is from November of the previous year to March of the following year. The average annual temperature is 22,490c, humidity is 87.07%, average rainfall is 162.40 mm.
Ham Yen's natural conditions have brought the district great advantages in forestry, animal husbandry and farming. In the process of building the homeland, the above strengths have gradually been exploited and promoted in the agricultural and forestry economic structure of the district. With these conditions and premises, from a very low starting point, the district's economy has reached a new stage of development and gradually entered a stable position.
History
Ham Yen in the past was Soc Sung district, during the Ming dynasty it was Van Yen district, then merged into Khoang district. During the early Le dynasty, it was called Sung Yen district, later changed to Phuc Yen. In the 3rd year of Minh Mang's reign (1822), the word Phuc was banned and changed to Ham Yen. The 7th year of Duy Tan (1913) divided Ham Yen district into two districts: Ham Yen and Yen Son. In December 1975, on the basis of merging Tuyen Quang and Ha Giang provinces into Ha Tuyen province, Ham Yen was the capital of Ha province. Tuyen. In 1991, when divided back into Tuyen Quang and Ha Giang, Ham Yen became the district capital of Tuyen Quang province.
After 1954, Ham Yen district had 17 communes: Bach Xa, Bang Coc, Binh Xa, Duc Ninh, Hanh Mai, Hung Duc, Minh Dan, Minh Huong, Minh Khuong, Nhan Muc, Phu Luu, Thai Hoa, Thai Son, Tan Thanh, Thanh Long, Tu Do, Yen Huong.
On December 26, 1970, Tu Do commune and Hanh Mai commune merged into one commune named Yen Thuan commune.
On November 19, 1985, Nhan Muc commune was divided into two administrative units named Nhan Muc commune and Tan Yen town (district capital town of Ham Yen district).
On July 15, 1999, Yen Huong commune was divided into two communes: Yen Lam and Yen Phu.
Area, population, traffic
Area 907 km2
The population is 109,000 people (2008). The district capital is Tan Yen town located on Highway 2, about 40 km northwest of Tuyen Quang city. The district is also where the Lo river flows through. The current Secretary of the District Party Committee is Mr. Ha Phuc Phinh, the District Chairman is Mr. Vu Dinh Hung. The District Police Chief is Comrade: Bui Quang Tuan. Ham Yen district includes the following ethnic groups: Kinh, Tay, Nung, Dao, H'Mong...
Administrative units
The district includes 1 town of Tan Yen and 17 communes: Bach Xa, Bang Coc, Binh Xa, Duc Ninh, Hung Duc, Minh Dan, Minh Huong, Minh Khuong, Nhan Muc, Phu Luu, Thai Hoa, Thai Son, Tan Thanh, Thanh Long, Yen Lam, Yen Phu, Yen Thuan.
Economy
The economy is mainly based on agriculture such as growing oranges, rice,... raising fish and livestock such as cattle, goats, etc. Industrial crops include tea; Acacia forestry trees.
Tourism
Tien Cave scenic spot
Bac Muc Temple at km 43 is located on the bank of the river to worship General Tran Hung Dao
Thac Cai Temple at km 61 National Highway A2 is a place that attracts a large number of people to worship with the legend of "love for the roots".
Ham Yen buffalo fighting festival
Cao Duong ecotourism - Yen Thuan commune is likened to Tuyen Quang's Da Lat
Bach Xa Cave with statue of the Virgin Mary - Bach Xa Commune
There are also festivals in the communes such as: The Communal Bridge Festival of Bach Xa commune, the spring festival of the H'mong people in Cao Duong village with many national games such as stilt walking, spinning, tossing, etc. …
|
Giới thiệu khái quát thành phố Tuyên Quang
1. Điều kiện tự nhiên:
Thành phố Tuyên Quang có tổng diện tích đất tự nhiên là 11921.00 ha, nằm ở trung tâm của tỉnh Tuyên Quang, có vị trí địa lý như sau:
– Phía Bắc giáp xã Tân Long, Tân Tiến,
huyện Yên Sơn
– Phía Nam giáp xã Nhữ Khê, thị trấn Tân Bình, xã cấp tiến của huyện Yên Sơn
– Phía Đông giáp xã Thái Bình, Tiến Bộ, Vĩnh Lợi của huyện Yên Sơn
– Phía Tây giáp xã Trung Môn, Hoàng Khai, Kim Phú, Nhữ Hán của huyện Yên Sơn
2. Hệ thống giao thông
Toàn thành phố có đường quốc lộ 2 và
quốc lộ 37
chạy qua và cùng với các tuyến đường liên huyện liên xã, phường tạo thành mạch máu giao thông chính nối liền các huyện, xã trong khu vực, trung tâm thành phố đồng thời nối liền với các tỉnh bạn. thuận lợi cho việc lưu thông và phát triển kinh tế, văn hoá , hệ thống giao thông liên xã, phường, liên thôn đã được trải nhựa và bê tông.
3. Địa hình, địa mạo
– Được phân bố thành 2 vùng rõ rệt phía tây thành phố là vùng có địa hình tương đối bằng phẳng tập trung chủ yếu ở các phường Tân Hà, Ỷ La, Hưng Thành, Phan Thiết, Minh Xuân, Tân Quang và xã An Tường. Có dòng sông Lô chảy qua thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp. Vùng đồi núi tập trung ở các xã, phường, Nông Tiến, Tràng Đà, An Khang, Thái Long, Đội Cấn, Lưỡng Vượng. Hệ thống đồi núi ở thành phố chủ yếu là đồi núi thấp có hình bát úp, có trữ lượng lớn về đá vôi. Thuận lợi cho việc phát triển về lâm nghiệp và công nghiệp khai khoáng.
4. Điều kiện kinh tế – xã hội:
Những nét chính về tình hình kinh tế xã hội của địa phương:
– Tổng số hộ trong toàn thành phố là 28.483 hộ với 95.260 nhân khẩu trên địa bàn thành phố có 19 dân tộc cùng chung sống.
– Thành phố Tuyên Quang là trung tâm kinh tế – xã hội của tỉnh, có mật độ dân số cao nhất tỉnh, có trình độ dân trí cao và tương đối đồng đều.
|
General introduction of Tuyen Quang city
1. Natural conditions:
Tuyen Quang city has a total natural land area of 11,921.00 hectares, located in the center of Tuyen Quang province, with the following geographical location:
– The North borders Tan Long and Tan Tien communes,
Yen Son district
– The South borders Nhu Khe commune, Tan Binh town, a progressive commune of Yen Son district
– The East borders Thai Binh, Tien Bo, Vinh Loi communes of Yen Son district
– The West borders Trung Mon, Hoang Khai, Kim Phu, Nhu Han communes of Yen Son district
2. Transportation system
The entire city has National Highway 2 and
Highway 37
running through and along with inter-district, inter-commune and ward roads, forming the main traffic artery connecting districts and communes in the region, the city center and connecting with other provinces. Convenient for circulation and economic and cultural development, the inter-commune, ward and inter-village transportation system has been paved with asphalt and concrete.
3. Topography and geomorphology
– Distributed into two distinct areas in the west of the city, which is a relatively flat terrain area concentrated mainly in Tan Ha, Ỷ La, Hung Thanh, Phan Thiet, Minh Xuan, Tan Quang wards and An Tuong communes. . There is the Lo River flowing through, which is convenient for the development of agriculture, industry and fishery. Hilly areas are concentrated in communes, wards, Nong Tien, Trang Da, An Khang, Thai Long, Doi Can, and Luong Vuong. The hill system in the city is mainly low, bowl-shaped hills and mountains with large reserves of limestone. Favorable for the development of forestry and mining industry.
4. Socio-economic conditions:
Main features of the local socio-economic situation:
– The total number of households in the entire city is 28,483 households with 95,260 people in a city with 19 ethnic groups living together.
– Tuyen Quang city is the socio-economic center of the province, has the highest population density in the province, has a high educational level and is relatively uniform.
|
Giới thiệu khái quát huyện Chiêm Hoá
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Chiêm Hoá đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý được gọi là Châu Vị Long. Thời nhà Minh cai trị nước ta (1414-1427) đổi tên thành châu Đại Man. Từ thời Lê Sơ đến thời điểm thành lập tỉnh Tuyên Quang năm 1831 vẫn giữ tên cũ là châu Đại Man, đến năm 1935 được đổi thành châu Chiêm Hoá (bao gồm cả Na Hang ngày nay) với tổng diện tích là 2.427km2, đến năm 1943 châu Chiêm Hoá được chia thành 2 huyện Chiêm Hoá và Na Hang. Trong cuộc vận động cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi được giải phóng (tháng 4/1945) Chiêm Hoá được gọi là châu Khánh Thiện bao gồm cả một số vùng của huyện Hàm Yên, Yên Sơn, tới đầu năm 1946 huyện được quy về theo địa giới hành chính cũ với tên gọi huyện Chiêm Hoá. Qua nhiều lần thay đổi, tới nay Chiêm Hoá có 25 xã và 1 thị trấn, gồm: Thị trấn Vĩnh Lộc, các xã: Yên Nguyên, Hòa Phú, Phúc Thịnh, Tân Thịnh, Tân An, Hà Lang, Trung Hà, Xuân Quang, Tân Mỹ, Hùng Mỹ, Phúc Sơn, Minh Quang, Ngọc Hội, Phú Bình, Bình Phú, Yên Lập, Kiên Đài, Trung Hòa, Hòa An, Nhân Lý, Vinh Quang, Kim Bình, Linh Phú, Tri Phú, Bình Nhân.
Địa hình của Chiêm Hoá bị chia cắt khá lớn bởi hệ thống sông ngòi và nhiều dãy núi lớn. Nét chung của địa hình là sự xen kẽ không đều giữa các núi đá vôi và núi đất, giữa các dải núi cao và vùng đồi đất có độ cao trung bình hoặc thấp. Giữa các vùng đồi núi đó là các thung lũng có diện tích không lớn song đất đai mầu mỡ, thuận lợi cho việc xây dựng các điểm dân cư, phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp. Chiêm Hoá có nhiều dãy núi cao. Phía Đông có đỉnh cao nhất là núi Khau Bươn (thuộc địa phận xã Kiên Đài, có độ cao 957m), phía Tây có đỉnh cao nhất là
núi Cham Chu
có độ cao 1.587 m (thuộc địa phận xã Tân An, Hà Lang, Trung Hà) là ranh giới giữa huyện Chiêm Hóa, huyện Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) và huyện Bắc Quang (tỉnh Hà Giang).
Sông, suối của Chiêm Hoá có độ dốc cao, hướng chảy khá tập trung, các con suối, ngòi đều đổ dồn về sông Gâm và sông Lô. Con sông lớn nhất là sông Gâm, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, huyện Na Hang, chảy qua Chiêm Hoá với độ dài 40 km và là đường thuỷ duy nhất nối huyện với tỉnh lỵ Tuyên Quang và các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Cùng với các con suối lớn, nhiều khe nhỏ tạo thành một nguồn thuỷ sinh phong phú, cung cấp nước, thuỷ sản phục vụ đời sống, sản xuất của nhân dân và là con đường giao thông, vận tải khá quan trọng.
Chiêm Hoá thuộc vùng khí hậu nhiệt đới thấp, được phân chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa hè từ tháng 4 đến tháng 9, thường có nhiều mưa và mưa rào tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, mùa này thường hay xẩy ra lũ lụt; mùa đông kéo dài từ tháng 10 năm trước tới tháng 3 năm sau, thường có gió mùa Đông Bắc, sương mù và sương muối.
Điều kiện tự nhiên mang lại cho Chiêm Hoá nhiều lợi thế, sự giàu có về tài nguyên, khoáng sản cũng như thế mạnh về sản xuất nông, lâm nghiệp. Rừng Chiêm Hoá có nhiều lâm thổ sản: Đinh, Lim, Nghiến, Lát, Sa nhân… và muông thú quý, hiếm: Gấu, Nhím, Tê tê, Tắc kè, Voọc mũi hếch (một loài thú có nguy cơ bị tuyệt chủng ở mức nguy cấp, được ghi tên trong sách đỏ của thế giới và sách đỏ Việt Nam)… Dưới lòng đất các khoáng sản đã được khai thác có Ăng – ty – moan, Măng – gan, vàng sa khoáng… Đất đai có độ phong hoá cao, lượng mưa và độ ẩm thích hợp, nhiều thung lũng cỏ… Chiêm Hoá có đầy đủ các điều kiện để trồng cây lương thực (lúa, ngô), cây công nghiệp (lạc, mía, chè, các cây họ đậu), chăn nuôi gia súc gia cầm và phát triển nghề rừng cũng như các ngành công nghiệp khai thác, chế biến.
Kinh tế của huyện tập trung phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản là thế mạnh; bên cạnh đó sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển du lịch trong những năm gần đây được huyện phát huy lợi thế để đẩy mạnh phát triển. Dự kiến đến hết năm 2018, thu nhập bình quân toàn huyện đạt 27,05 triệu đồng/người.
Đời sống văn hoá của nhân dân các dân tộc khá phong phú, tứ xa xưa đã sớm biết tạo nên những đường nét hoa văn tinh xảo, thể hiện trình độ nghệ thuật cao trên trang phục và các đồ trang sức. Vào các ngày lễ, tết, đồng bào thường tụ họp theo làng, bản cùng nhau ném còn, hát then, hát cọi… Những điệu hát chứa đựng nhiều nội dung phong phú, trong sáng và đầy sức thuyết phục của một nền nghệ thuật văn hoá dân tộc giầu sức sống. Ngày nay, cứ vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, Lễ hội Lồng Tông lại được tổ chức tại trung tâm huyện với nhiều loại hình văn hoá, thể thao… đã thực sự trở thành ngày hội văn hoá của nhân dân các dân tộc trong huyện.
Toàn Đảng bộ có 55 tổ chức cơ sở đảng; trong đó chi bộ cơ sở 23, đảng bộ cơ sở 32, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở 557 với trên 8.200 đảng viên.
Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
Chiêm Hóa là huyện có cảnh quan thiên nhiên kỳ vỹ với nhiều danh thắng đẹp như: Thác Bản Ba (xã Trung Hà), thác Lụa (xã Hòa Phú), hang Bó Ngoặng (xã Phúc Sơn)…. là địa danh có nhiều di tích lịch sử, văn hóa lâu đời của dân tộc: Khu di tích Quốc gia đặc biệt Kim Bình, chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, đền Đầm Hồng, đền Bách Thần… và là vùng đất có nhiều di sản văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia: Nghi lễ Then, Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày; hát Páo dung, lễ cấp sắc của dân tộc Dao. Với nhiều lợi thế, huyện Chiêm hóa đang là điểm đến hấp dẫn du khách. Đến nay, huyện có 114 di tích, danh thắng được xếp hạng cấp Quốc gia và cấp tỉnh bao gồm: các di tích kiến trúc nghệ thuật; di tích Lịch sử cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ; di tích danh lam thắng cảnh; di tích khảo cổ, bảo vật quốc gia.
* Lễ hội Lồng Tông
Lồng Tông theo Tiếng Tày nghĩa là xuống đồng. Lễ hội Lồng Tông là ngày hội văn hóa của nhân dân các dân tộc trong huyện được tổ chức vào ngày mùng Tám tháng Giêng hằng năm với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt, nhà nhà ấm no. Lễ hội được diễn ra với 2 phần: Phần lễ và phần hội. Phần lễ, là các nghi lễ cúng tế những sản vật dâng lên trời đất và các vị thần. Phần hội có ném còn và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian đã thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc và du khách thập phương đến du xuân.
* Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Kim Bình
Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Kim Bình thuộc thôn Bó Củng, xã Kim Bình, cách trung tâm huyện lỵ 15km, là quần thể gồm 23 di tích ghi nhận các sự kiện lịch sử: nơi diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951), Đại hội Đảng đầu tiên tổ chức ở trong nước và ngoài thủ đô Hà Nội; nơi tổ chức Đại hội thống nhất Việt Minh-Liên Việt; Đại hội Liên minh nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Căm Pu Chia; Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất.
* Điểm du lịch sinh thái Thác Bản Ba
Là Danh thắng Quốc gia, thuộc thôn Bản Ba, xã Trung Hà, cách trung tâm huyện lỵ 25 km. Thác có vẻ đẹp độc đáo bởi chuỗi thác liên hoàn với ba tầng thác lớn cùng đổ nước thẳng đứng ở độ cao 1.000m và nhiều dòng thác nhỏ mềm mại như dải lụa trắng tỏa rộng ra xung quanh. Hai bên dòng thác là cánh rừng nguyên sinh trải dài với thảm động, thực vật phong phú và đa dạng.
* Danh thắng Quốc gia Thác Lụa, xã Hòa Phú:
Thác Lụa nằm trong khu rừng đặc dụng thôn Thác Ca, xã Hòa Phú, cách trung tâm huyện lỵ 30 km; thác được tạo bởi 3 tầng thác chính và các tầng thác nhỏ mềm mại như dải lụa trắng giữa rừng nguyên sinh; đến đây du khách được trải nghiệm leo thác, khám phá rừng nguyên sinh với nhiều loài động, thực vật quý hiếm.
* Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc
Là ngôi chùa cổ nhất Tuyên Quang được dựng vào năm 1107 dưới thời vua Lý Nhân Tông (Càn Đức), chùa thờ phụng đức Phật tổ, tổ tiên và Lý Nhân Tông. Tại đây còn lưu giữ một hiện vật rất quý thời Lý đó là tấm bia đá được tạc bằng đá xanh nguyên khối, tấm bia được công nhận là bảo vật Quốc gia năm 2013.
* Đền Bách Thần
Là đền thờ Tam phủ công đồng cùng các vị thần linh trong tín ngưỡng thờ mẫu, đặc biệt là thờ tướng quân Ma Doãn Giảo người con của quê hương Chiêm Hóa có công giúp dân đánh giặc “Cờ đen” vào khoảng cuối thế kỷ XIX; đền Bách Thần gắn với Lễ hội Lồng Tông mồng 8 tháng giêng (âm lịch) hàng năm, là biểu tượng cho nét văn hoá tâm linh của nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hoá.
* Đền Đầm Hồng
Là đền thờ Địa tiên Thánh Mẫu với kiến trúc đền độc đáo theo thuyết phong thủy “Tiền minh đường, hữu hậu chẩm”, là nơi thủy tụ phúc; đền còn lưu giữ được 4 bức đại tự cổ, trong đó bức cổ nhất là bức Cao Thanh Túc, cách đây gần 200 năm.
* Địa điểm chiến thắng Cầu Cả, thôn Cầu Cả, xã Yên Nguyên:
Tại đây, tháng 6 năm 1945, đã diễn ra trận phục kích chặn đánh phát xít Nhật của quân chủ lực Tuyên Quang và dân quân du kích địa phương. Ngày 05 tháng 11 năm 1947, Trung đoàn Tuyên – Hà và du kích đã chặn đánh một cánh quân địch, bảo vệ an toàn các cơ sở kháng chiến, góp phần làm nên chiến thắng Việt Bắc – Thu Đông năm 1947.
* Hệ thống các hang động:
Đến Chiêm Hóa du khách sẽ bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp như mê cung của các hang như: hang Mỏ Bài, Bản Pài xã Minh Quang; hang Thẳm Hốc, Thẳm Vài, Thẳm Nặm, Chợ Khỉ xã Phúc Sơn… và các hang nước đẹp lung linh như: hang Bó Ngoặng, xã Phúc Sơn, hang Thẳm Mên, xã Trung Hà…
|
Giới thiệu khái quát huyện Chiêm Hoá
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Chiêm Hoá đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý được gọi là Châu Vị Long. Thời nhà Minh cai trị nước ta (1414-1427) đổi tên thành châu Đại Man. Từ thời Lê Sơ đến thời điểm thành lập tỉnh Tuyên Quang năm 1831 vẫn giữ tên cũ là châu Đại Man, đến năm 1935 được đổi thành châu Chiêm Hoá (bao gồm cả Na Hang ngày nay) với tổng diện tích là 2.427km2, đến năm 1943 châu Chiêm Hoá được chia thành 2 huyện Chiêm Hoá và Na Hang. Trong cuộc vận động cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi được giải phóng (tháng 4/1945) Chiêm Hoá được gọi là châu Khánh Thiện bao gồm cả một số vùng của huyện Hàm Yên, Yên Sơn, tới đầu năm 1946 huyện được quy về theo địa giới hành chính cũ với tên gọi huyện Chiêm Hoá. Qua nhiều lần thay đổi, tới nay Chiêm Hoá có 25 xã và 1 thị trấn, gồm: Thị trấn Vĩnh Lộc, các xã: Yên Nguyên, Hòa Phú, Phúc Thịnh, Tân Thịnh, Tân An, Hà Lang, Trung Hà, Xuân Quang, Tân Mỹ, Hùng Mỹ, Phúc Sơn, Minh Quang, Ngọc Hội, Phú Bình, Bình Phú, Yên Lập, Kiên Đài, Trung Hòa, Hòa An, Nhân Lý, Vinh Quang, Kim Bình, Linh Phú, Tri Phú, Bình Nhân.
Địa hình của Chiêm Hoá bị chia cắt khá lớn bởi hệ thống sông ngòi và nhiều dãy núi lớn. Nét chung của địa hình là sự xen kẽ không đều giữa các núi đá vôi và núi đất, giữa các dải núi cao và vùng đồi đất có độ cao trung bình hoặc thấp. Giữa các vùng đồi núi đó là các thung lũng có diện tích không lớn song đất đai mầu mỡ, thuận lợi cho việc xây dựng các điểm dân cư, phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp. Chiêm Hoá có nhiều dãy núi cao. Phía Đông có đỉnh cao nhất là núi Khau Bươn (thuộc địa phận xã Kiên Đài, có độ cao 957m), phía Tây có đỉnh cao nhất là
núi Cham Chu
có độ cao 1.587 m (thuộc địa phận xã Tân An, Hà Lang, Trung Hà) là ranh giới giữa huyện Chiêm Hóa, huyện Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) và huyện Bắc Quang (tỉnh Hà Giang).
Sông, suối của Chiêm Hoá có độ dốc cao, hướng chảy khá tập trung, các con suối, ngòi đều đổ dồn về sông Gâm và sông Lô. Con sông lớn nhất là sông Gâm, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, huyện Na Hang, chảy qua Chiêm Hoá với độ dài 40 km và là đường thuỷ duy nhất nối huyện với tỉnh lỵ Tuyên Quang và các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Cùng với các con suối lớn, nhiều khe nhỏ tạo thành một nguồn thuỷ sinh phong phú, cung cấp nước, thuỷ sản phục vụ đời sống, sản xuất của nhân dân và là con đường giao thông, vận tải khá quan trọng.
Chiêm Hoá thuộc vùng khí hậu nhiệt đới thấp, được phân chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa hè từ tháng 4 đến tháng 9, thường có nhiều mưa và mưa rào tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, mùa này thường hay xẩy ra lũ lụt; mùa đông kéo dài từ tháng 10 năm trước tới tháng 3 năm sau, thường có gió mùa Đông Bắc, sương mù và sương muối.
Điều kiện tự nhiên mang lại cho Chiêm Hoá nhiều lợi thế, sự giàu có về tài nguyên, khoáng sản cũng như thế mạnh về sản xuất nông, lâm nghiệp. Rừng Chiêm Hoá có nhiều lâm thổ sản: Đinh, Lim, Nghiến, Lát, Sa nhân… và muông thú quý, hiếm: Gấu, Nhím, Tê tê, Tắc kè, Voọc mũi hếch (một loài thú có nguy cơ bị tuyệt chủng ở mức nguy cấp, được ghi tên trong sách đỏ của thế giới và sách đỏ Việt Nam)… Dưới lòng đất các khoáng sản đã được khai thác có Ăng – ty – moan, Măng – gan, vàng sa khoáng… Đất đai có độ phong hoá cao, lượng mưa và độ ẩm thích hợp, nhiều thung lũng cỏ… Chiêm Hoá có đầy đủ các điều kiện để trồng cây lương thực (lúa, ngô), cây công nghiệp (lạc, mía, chè, các cây họ đậu), chăn nuôi gia súc gia cầm và phát triển nghề rừng cũng như các ngành công nghiệp khai thác, chế biến.
Kinh tế của huyện tập trung phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản là thế mạnh; bên cạnh đó sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển du lịch trong những năm gần đây được huyện phát huy lợi thế để đẩy mạnh phát triển. Dự kiến đến hết năm 2018, thu nhập bình quân toàn huyện đạt 27,05 triệu đồng/người.
Đời sống văn hoá của nhân dân các dân tộc khá phong phú, tứ xa xưa đã sớm biết tạo nên những đường nét hoa văn tinh xảo, thể hiện trình độ nghệ thuật cao trên trang phục và các đồ trang sức. Vào các ngày lễ, tết, đồng bào thường tụ họp theo làng, bản cùng nhau ném còn, hát then, hát cọi… Những điệu hát chứa đựng nhiều nội dung phong phú, trong sáng và đầy sức thuyết phục của một nền nghệ thuật văn hoá dân tộc giầu sức sống. Ngày nay, cứ vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, Lễ hội Lồng Tông lại được tổ chức tại trung tâm huyện với nhiều loại hình văn hoá, thể thao… đã thực sự trở thành ngày hội văn hoá của nhân dân các dân tộc trong huyện.
Toàn Đảng bộ có 55 tổ chức cơ sở đảng; trong đó chi bộ cơ sở 23, đảng bộ cơ sở 32, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở 557 với trên 8.200 đảng viên.
Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
Chiêm Hóa là huyện có cảnh quan thiên nhiên kỳ vỹ với nhiều danh thắng đẹp như: Thác Bản Ba (xã Trung Hà), thác Lụa (xã Hòa Phú), hang Bó Ngoặng (xã Phúc Sơn)…. là địa danh có nhiều di tích lịch sử, văn hóa lâu đời của dân tộc: Khu di tích Quốc gia đặc biệt Kim Bình, chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, đền Đầm Hồng, đền Bách Thần… và là vùng đất có nhiều di sản văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia: Nghi lễ Then, Lễ hội Lồng Tông của dân tộc Tày; hát Páo dung, lễ cấp sắc của dân tộc Dao. Với nhiều lợi thế, huyện Chiêm hóa đang là điểm đến hấp dẫn du khách. Đến nay, huyện có 114 di tích, danh thắng được xếp hạng cấp Quốc gia và cấp tỉnh bao gồm: các di tích kiến trúc nghệ thuật; di tích Lịch sử cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ; di tích danh lam thắng cảnh; di tích khảo cổ, bảo vật quốc gia.
* Lễ hội Lồng Tông
Lồng Tông theo Tiếng Tày nghĩa là xuống đồng. Lễ hội Lồng Tông là ngày hội văn hóa của nhân dân các dân tộc trong huyện được tổ chức vào ngày mùng Tám tháng Giêng hằng năm với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt, nhà nhà ấm no. Lễ hội được diễn ra với 2 phần: Phần lễ và phần hội. Phần lễ, là các nghi lễ cúng tế những sản vật dâng lên trời đất và các vị thần. Phần hội có ném còn và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian đã thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc và du khách thập phương đến du xuân.
* Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Kim Bình
Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Kim Bình thuộc thôn Bó Củng, xã Kim Bình, cách trung tâm huyện lỵ 15km, là quần thể gồm 23 di tích ghi nhận các sự kiện lịch sử: nơi diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951), Đại hội Đảng đầu tiên tổ chức ở trong nước và ngoài thủ đô Hà Nội; nơi tổ chức Đại hội thống nhất Việt Minh-Liên Việt; Đại hội Liên minh nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Căm Pu Chia; Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất.
* Điểm du lịch sinh thái Thác Bản Ba
Là Danh thắng Quốc gia, thuộc thôn Bản Ba, xã Trung Hà, cách trung tâm huyện lỵ 25 km. Thác có vẻ đẹp độc đáo bởi chuỗi thác liên hoàn với ba tầng thác lớn cùng đổ nước thẳng đứng ở độ cao 1.000m và nhiều dòng thác nhỏ mềm mại như dải lụa trắng tỏa rộng ra xung quanh. Hai bên dòng thác là cánh rừng nguyên sinh trải dài với thảm động, thực vật phong phú và đa dạng.
* Danh thắng Quốc gia Thác Lụa, xã Hòa Phú:
Thác Lụa nằm trong khu rừng đặc dụng thôn Thác Ca, xã Hòa Phú, cách trung tâm huyện lỵ 30 km; thác được tạo bởi 3 tầng thác chính và các tầng thác nhỏ mềm mại như dải lụa trắng giữa rừng nguyên sinh; đến đây du khách được trải nghiệm leo thác, khám phá rừng nguyên sinh với nhiều loài động, thực vật quý hiếm.
* Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc
Là ngôi chùa cổ nhất Tuyên Quang được dựng vào năm 1107 dưới thời vua Lý Nhân Tông (Càn Đức), chùa thờ phụng đức Phật tổ, tổ tiên và Lý Nhân Tông. Tại đây còn lưu giữ một hiện vật rất quý thời Lý đó là tấm bia đá được tạc bằng đá xanh nguyên khối, tấm bia được công nhận là bảo vật Quốc gia năm 2013.
* Đền Bách Thần
Là đền thờ Tam phủ công đồng cùng các vị thần linh trong tín ngưỡng thờ mẫu, đặc biệt là thờ tướng quân Ma Doãn Giảo người con của quê hương Chiêm Hóa có công giúp dân đánh giặc “Cờ đen” vào khoảng cuối thế kỷ XIX; đền Bách Thần gắn với Lễ hội Lồng Tông mồng 8 tháng giêng (âm lịch) hàng năm, là biểu tượng cho nét văn hoá tâm linh của nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hoá.
* Đền Đầm Hồng
Là đền thờ Địa tiên Thánh Mẫu với kiến trúc đền độc đáo theo thuyết phong thủy “Tiền minh đường, hữu hậu chẩm”, là nơi thủy tụ phúc; đền còn lưu giữ được 4 bức đại tự cổ, trong đó bức cổ nhất là bức Cao Thanh Túc, cách đây gần 200 năm.
* Địa điểm chiến thắng Cầu Cả, thôn Cầu Cả, xã Yên Nguyên:
Tại đây, tháng 6 năm 1945, đã diễn ra trận phục kích chặn đánh phát xít Nhật của quân chủ lực Tuyên Quang và dân quân du kích địa phương. Ngày 05 tháng 11 năm 1947, Trung đoàn Tuyên – Hà và du kích đã chặn đánh một cánh quân địch, bảo vệ an toàn các cơ sở kháng chiến, góp phần làm nên chiến thắng Việt Bắc – Thu Đông năm 1947.
* Hệ thống các hang động:
Đến Chiêm Hóa du khách sẽ bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp như mê cung của các hang như: hang Mỏ Bài, Bản Pài xã Minh Quang; hang Thẳm Hốc, Thẳm Vài, Thẳm Nặm, Chợ Khỉ xã Phúc Sơn… và các hang nước đẹp lung linh như: hang Bó Ngoặng, xã Phúc Sơn, hang Thẳm Mên, xã Trung Hà…
|
Giới thiệu khái quát huyện Bình Tân
Huyện Bình Tân được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2008 trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Bình Minh, theo Nghị định 125/2007/NĐ-CP, ngày 31/7/2007 của Chính Phủ. Huyện có diện tích tự nhiên 15.288,63 Ha và có 11 xã như sau: Mỹ Thuận, Nguyễn Văn Thảnh, Thành Trung, Tân Thành, Tân Hưng, Tân An Thạnh, Tân Lược, Tân Bình, Tân Quới, Thành Đông, Thành Lợi.
Địa giới hành chính:
Huyện nằm về hướng Tây Nam
tỉnh Vĩnh Long
, phía Tây và phía Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Đông giáp huyện Tam Bình, phía Đông Nam giáp huyện Bình Minh, phía Tây Nam giáp Thành phố Cần thơ.
Huyện Bình Tân có đoạn sông Hậu đi qua dài khoảng 15Km. Đường quốc lộ 54 đi qua dài 15,44Km, kết nối đường tỉnh 908 là tuyến đường giao thông huyết mạch đi trong và ngoài huyện, nối địa bàn huyện với tỉnh Đồng Tháp.
Dân số:
Toàn huyện có 23.632 hộ, với 93.914 người, chủ yếu là dân tộc kinh.
Khí hâu:
Huyện Bình Tân nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm nóng ẩm, có chế độ nhiệt tương đối cao, nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 27
0
c. Độ ẩm không khí trung bình 79%. Trong năm khí hậu chi thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Đất đai:
diện tích đất sản xuất nông nghiệp 12.841ha, trong đó đất trồng cây hàng năm 9.562ha. Trên địa bàn huyện có 3 nhóm đất chính: (đất phù sa chiếm 20%, đất phèn tiềm táng chiếm 60%, đất phèn phát triển chiếm 20% diện tích tự nhiên)
Lịch sử văn hóa
– Huyện Bình Tân được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Huyện Anh Hùng” cùng với huyện Bình Minh; Thủ tướng Chính phủ tặng Huân chương lao động hạng 3.
– Trên địa bàn huyện có Đình Tân Quới là di tích văn hóa cấp tỉnh;
|
General introduction of Binh Tan district
Binh Tan district was established and officially came into operation from January 1, 2008 on the basis of adjusting the administrative boundaries of Binh Minh district, according to Decree 125/2007/ND-CP, dated July 31, 2007 government. The district has a natural area of 15,288.63 Ha and has 11 communes as follows: My Thuan, Nguyen Van Thanh, Thanh Trung, Tan Thanh, Tan Hung, Tan An Thanh, Tan Luoc, Tan Binh, Tan Quoi, Thanh Dong, Thanh Profit.
Administrative boundaries:
The district is located to the southwest
Vinh Long province
, the West and North border Dong Thap province, the East borders Tam Binh district, the Southeast borders Binh Minh district, the Southwest borders Can Tho City.
Binh Tan district has a section of Hau river passing through about 15km long. National Highway 54 passing through is 15.44km long, connecting to provincial road 908, which is a vital traffic route inside and outside the district, connecting the district with Dong Thap province.
Population:
The whole district has 23,632 households, with 93,914 people, mainly Kinh ethnic people.
Air:
Binh Tan district is located in an area influenced by tropical monsoon climate factors, hot and humid all year round, with a relatively high temperature regime, average annual air temperature 27
0
c. Average air humidity is 79%. During the year, the climate is divided into two distinct seasons. The rainy season is from May to November, the dry season is from December to April of the following year.
Land:
Agricultural land area is 12,841 hectares, of which annual crop land is 9,562 hectares. In the district, there are 3 main soil groups: (alluvial soil accounts for 20%, potential alum soil accounts for 60%, developed alum soil accounts for 20% of the natural area)
Cultural history
– Binh Tan district was awarded the title "Heroic District" by the President along with Binh Minh district; The Prime Minister awarded the Labor Medal 3rd class.
– In the district, there is Tan Quoi Communal House which is a provincial cultural relic;
|
Giới thiệu khái quát huyện Long Hồ
1. Vị trí địa lý:
– Huyện Long Hồ nằm ở phía bắc tỉnh Vĩnh Long, phía bắc giáp
tỉnh Tiền Giang
qua sông Mỹ Tho (
sông Tiền
), phía đông bắc giáp tỉnh Bến Tre (huyện Chợ Lách), phía đông và đông nam giáp huyện Mang Thít, phía nam giáp huyện Tam Bình, phía tây giáp thành phố Vĩnh Long, phía tây nam giáp tỉnh Đồng Tháp (huyện Châu Thành).
– Diện tích tự nhiên 193,17 ha. Dân số là 48.163 hộ với 161.805 người (có 82.328 nữ), gồm các dân tộc: Kinh, Khơ Me, Hoa.
– Kinh tế phát triển chủ yếu là nông nghiệp với những vườn cây ăn trái và hiện tại loại hình du lịch sinh thái đang trên đà phát triển và là thế mạnh của huyện. Trên địa bàn huyện có KCN Hòa Phú đã góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng tăng tỷ trọng CN và dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp.
2. Đơn vị hành chính:
– Huyện gồm 1 thị trấn huyện lỵ là Thị trấn Long Hồ và 14 xã: Long An, Phú Đức, An Bình, Bình Hoà Phước, Hoà Ninh, Đồng Phú, Tân Hạnh, Thanh Đức, Phước Hậu, Lộc Hoà, Hoà Phú, Long Phước, Phú Quới, Thạnh Quới.
– Huyện đang phấn đấu xây dựng thị trấn Long Hồ sớm đạt chuẩn đô thị loại 4 trong tương lai không xa. Bên cạnh đó, huyện cũng đang tập trung nâng cấp xã Phú Quới đạt chuẩn đô thị loại 5 để thành lập thị trấn Phú Quới.
3. Địa hình:
– Thuộc miền phù sa sông nước Cửu Long (hạ lưu sông MêKông), có nước ngọt quanh năm.
– Đất đai tương đối bằng phẳng, có nhiều sông ngòi, ao, hồ, mương, rạch; có đất cù lao, bãi bồi và cồn mới nổi,…
4. Khí hậu-Thuỷ văn:
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mực thuỷ văn tăng giảm trên sông trong năm tương đối đều hoà, bão lũ triều cường có ảnh hưởng nhưng mức độ không lớn như các khu vực khác, nhiệt độ phần lớn dao động từ 32-37
0
C.
Lịch sử văn hóa
– Thời chúa Nguyễn, Long Hồ là dinh thuộc châu Định Viễn. Dinh Long Hồ rất rộng, bao trùm hầu như cả vùng Đồng bằng Sông Cửu Long ngày nay: Từ Bến Tre, qua Trà Vinh, sang Sa Đéc, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau đến tận Hà Tiên thuộc Kiên Giang.
– Vào thời Gia Long, Long Hồ ngày nay thuộc huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Triều Minh Mạng, đất này thuộc tỉnh Vĩnh Long. Thời Pháp thuộc, Long Hồ thuộc hạt thanh tra Định Viễn, sau là hạt Vĩnh Long, đến ngày 1 tháng 1 năm 1900 thì thuộc tỉnh Vĩnh Long. Từ ngày 25 tháng 1 năm 1908, địa bàn huyện Long Hồ và thành phố Vĩnh Long ngày nay thuộc quận Long Châu, tỉnh Vĩnh Long.
– Ngày 9 tháng 2 năm 1917, quận Long Châu đổi thành quận Châu Thành. Ngày 11 tháng 8 năm 1942, trung tâm quận Châu Thành được tách ra thành lập làng tỉnh lỵ Long Châu. Sau 30 tháng 4 năm 1975, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long đổi thành huyện Châu Thành Tây, tỉnh Cửu Long.
– Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Châu Thành Tây nhập với huyện Cái Nhum và 2 xã Hòa Hiệp, Hậu Lộc của huyện Tam Bình thành huyện Long Hồ; huyện lỵ đặt tại xã An Đức. Ngày 29 tháng 9 năm 1981, tách một số xã của huyện Long Hồ tham gia thành lập huyện Mang Thít, huyện Long Hồ còn lại 9 xã: An Bình, Bình Hòa Phước, Long Phước, Lộc Hòa, Tân Hạnh, Đồng Phú, An Đức, Phú Quới, Thanh Đức.
– Ngày 17 tháng 4 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ban hành Quyết định số 44/HĐBT về việc điều chỉnh lại địa giới hành chính, sáp nhập huyện Mang Thít vào huyện Long Hồ. Từ đó huyện Long Hồ có 18 xã: An Đức, Lộc Hòa, Long Phước, Phú Quới, Đồng Phú, An Bình, Bình Hòa Phước, Phước Hậu, Tân Hạnh, Thanh Đức, An Phước, Chánh Hội, Tân Long Hội, Nhơn Phú, Mỹ An, Hòa Tịnh, Bình Phước, Long Mỹ.
– Ngày 23 tháng 11 năm 1991, thành lập thị trấn Long Hồ trên cơ sở một phần đất của xã An Đức, xã Bình Phước và xã Long Phước. Cuối năm 1991, tỉnh Cửu Long tách thành tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, huyện Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long.
– Ngày 13 tháng 02 năm 1992, tách một số xã của huyện Long Hồ tái lập huyện Mang Thít. Huyện Long Hồ còn lại thị trấn Long Hồ và 10 xã: An Đức, Lộc Hòa, Long Phước, Phú Quới, Đồng Phú, An Bình, Bình Hòa Phước, Phước Hậu, Tân Hạnh, Thanh Đức.
– Ngày 01 tháng 8 năm 1994, giải thể xã An Đức, lập thêm các xã mới: Long An, Phú Đức, Hòa Ninh, Hòa Phú, Thạnh Quới. Huyện Long Hồ có Thị trấn Long Hồ và 14 xã: Long An, Phú Đức, An Bình, Bình Hòa Phước, Hòa Ninh, Đồng Phú, Tân Hạnh, Thanh Đức, Phước Hậu, Lộc Hòa, Hòa Phú, Long Phước, Phú Quới, Thạnh Quới.
–
Nhân vật lịch sử
: Long Hồ tự hào là nơi địa linh nhân kiệt khi có rất nhiều chính khách là những nhân vật nắm giữ những trọng trách quan trọng trong Chính Phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam như: Phan Văn Đáng, Phạm Hùng – Chủ tịch HĐBT nước CHXHCN Việt Nam; trước năm 1975, chế độ Việt nam Cộng Hoà có ông Trần Văn Hương (Tổng thống) và ông Trần Văn Hữu (thủ tướng).
|
General introduction of Long Ho district
1. Geographical location:
– Long Ho district is located in the north of Vinh Long province, bordered to the north
Tien Giang Province
across My Tho River (
Tien River
), the northeast borders Ben Tre province (Cho Lach district), the east and southeast borders Mang Thit district, the south borders Tam Binh district, the west borders Vinh Long city, the southwest borders Dong Thap province (Chau district Wall).
– Natural area 193.17 hectares. The population is 48,163 households with 161,805 people (82,328 women), including ethnic groups: Kinh, Khmer, Chinese.
– Economic development is mainly agriculture with fruit orchards and currently eco-tourism is on the rise and is the district's strength. In the district, there is Hoa Phu Industrial Park, which has contributed to changing the economic structure of the district towards increasing the proportion of industry and services and reducing the proportion of agriculture.
2. Administrative unit:
– The district includes 1 district capital town, Long Ho Town, and 14 communes: Long An, Phu Duc, An Binh, Binh Hoa Phuoc, Hoa Ninh, Dong Phu, Tan Hanh, Thanh Duc, Phuoc Hau, Loc Hoa, Hoa Phu , Long Phuoc, Phu Quoi, Thanh Quoi.
– The district is striving to build Long Ho town to soon reach class 4 urban standards in the near future. In addition, the district is also focusing on upgrading Phu Quoi commune to meet class 5 urban standards to establish Phu Quoi town.
3. Terrain:
– Belongs to the alluvial region of the Mekong River (lower Mekong River), has fresh water all year round.
– The land is relatively flat, with many rivers, ponds, lakes, ditches and canals; There are islands, mudflats and emerging dunes...
4. Climate-Hydrology:
The climate is tropical monsoon, hydrological levels rise and fall on the river throughout the year relatively evenly, storms and floods have an impact but the level is not as great as other areas, temperatures mostly range from 32-37
0
C.
Cultural history
– During the reign of Lord Nguyen, Long Ho was a palace in Dinh Vien district. Dinh Long Ho is very large, covering almost the entire Mekong Delta region today: From Ben Tre, through Tra Vinh, to Sa Dec, Can Tho, An Giang, Ca Mau to Ha Tien in Kien Giang.
– During Gia Long's reign, today's Long Ho belonged to Vinh Binh district, Dinh Vien district, Vinh Thanh town. During the Minh Mang dynasty, this land belonged to Vinh Long province. During the French colonial period, Long Ho belonged to Dinh Vien inspection district, then Vinh Long district, and on January 1, 1900, it belonged to Vinh Long province. From January 25, 1908, the area of Long Ho district and Vinh Long city today belongs to Long Chau district, Vinh Long province.
– On February 9, 1917, Long Chau district changed to Chau Thanh district. On August 11, 1942, Chau Thanh district center was separated to establish Long Chau provincial village. After April 30, 1975, Chau Thanh district, Vinh Long province changed to Chau Thanh Tay district, Cuu Long province.
– On March 11, 1977, Chau Thanh Tay district merged with Cai Nhum district and 2 communes Hoa Hiep and Hau Loc of Tam Binh district to become Long Ho district; The district capital is located in An Duc commune. On September 29, 1981, a number of communes of Long Ho district were separated to form Mang Thit district. Long Ho district left 9 communes: An Binh, Binh Hoa Phuoc, Long Phuoc, Loc Hoa, Tan Hanh, Dong Phu, An Duc, Phu Quoi, Thanh Duc.
– On April 17, 1986, the Council of Ministers of Vietnam issued Decision Không. 44/HDBT on readjusting administrative boundaries and merging Mang Thit district into Long Ho district. Since then, Long Ho district has 18 communes: An Duc, Loc Hoa, Long Phuoc, Phu Quoi, Dong Phu, An Binh, Binh Hoa Phuoc, Phuoc Hau, Tan Hanh, Thanh Duc, An Phuoc, Chanh Hoi, Tan Long Hoi, Nhon Phu, My An, Hoa Tinh, Binh Phuoc, Long My.
– November 23, 1991, Long Ho town was established on the basis of part of the land of An Duc commune, Binh Phuoc commune and Long Phuoc commune. At the end of 1991, Cuu Long province split into Vinh Long province and Tra Vinh province, Long Ho district belongs to Vinh Long province.
– February 13, 1992, separating a number of communes of Long Ho district to reestablish Mang Thit district. Long Ho district remains Long Ho town and 10 communes: An Duc, Loc Hoa, Long Phuoc, Phu Quoi, Dong Phu, An Binh, Binh Hoa Phuoc, Phuoc Hau, Tan Hanh, Thanh Duc.
– On August 1, 1994, An Duc commune was dissolved and new communes were established: Long An, Phu Duc, Hoa Ninh, Hoa Phu, Thanh Quoi. Long Ho district has Long Ho Town and 14 communes: Long An, Phu Duc, An Binh, Binh Hoa Phuoc, Hoa Ninh, Dong Phu, Tan Hanh, Thanh Duc, Phuoc Hau, Loc Hoa, Hoa Phu, Long Phuoc, Phu Quoi, Thanh Quoi.
–
Historical figures
: Long Ho is proud to be a place of spiritual excellence when there are many politicians who hold important responsibilities in the Government of the Socialist Republic of Vietnam such as: Phan Van Dang, Pham Hung - President Chairman of the Security Council of the Socialist Republic of Vietnam; Before 1975, the Republic of Vietnam regime had Mr. Tran Van Huong (President) and Mr. Tran Van Huu (Prime Minister).
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Quý
Phú Quý (còn gọi là cù lao Thu hay cù lao Khoai Xứ) là một đảo nhỏ, với diện tích 16 km². Huyện đảo Phú Quý thuộc
tỉnh Bình Thuận
, khoảng cách tới các vùng lân cận:
* Cách thành phố Phan Thiết 120 km về hướng Đông Nam.
* Cách quần đảo Trường Sa 540 km về phía Tây Bắc.
* Cách thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150km (về phía Nam).
* Cách Côn Đảo 330km (về phía Đông Bắc).
* Cách
thành phố Vũng Tàu
200km (về phía Đông).
Ngoài đảo chính, chung quanh đảo Phú Quý còn Hòn Đá Cao hướng tây-bắc, Hòn Đỏ hướng đông-bắc và Hòn Tranh và Hòn Hải hướng Tây Nam.
Hành chính
Huyện đạo Phú Quý có 3 xã:
* Long Hải: thôn Tân Hải, Quý Hải, Đông Hải, Phú Long
* Ngũ Phụng (huyện lỵ): thôn Phú An, Thương Châu, Quý Thạnh
* Tam Thanh: thôn Mỹ Khê, Hội An, Triều Dương
Lịch sử huyện Phú Quý
Đã từ lâu đảo Phú Quý trở nên rất quen thuộc với nhiều người qua sử sách xưa dưới nhiều tên gọi: Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao Khoai Xứ, Cù Lao Thu… Từ niên hiệu trị thứ 4 (1844) vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể biệt nạp cho Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Hiện nay, Phú Quý là một huyện đảo xa của tỉnh Bình Thuận.
Tuy là một hòn đảo nằm biệt lập giữa trùng dương nhưng dấu tích phát hiện được cho thấy đảo đã được khai phá tạo nên cuộc sống ở đảo từ rất sớm. Trong quá trình khai thác đá quánh, nhân dân đã tìm thấy những mộ vò lớn. Trong mộ có chôn theo một số công cụ lao động như rìu, bôn và cả những chiếc vòng đeo tay bằng đá với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo. Điều này phù hợp với những giai thoại được lưu truyền rằng trước khi có sự khai phá thiên nhiên của những con người từ lục địa, ở đây đã có một giống người “Thượng” sinh sống bằng nghề hái lượm và bắt cá ven biển. Trải qua những biến thiên của lịch sử, Phú Quý là nơi hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó người Kinh đóng vai trò chủ thể.
Khi bắt đầu phát triển mạnh kỹ thuật đóng thuyền buồm với những chiếc thuyền ra được khơi xa thì cũng là lúc có nhiều người từ lục địa đặt chân lên đảo. Cùng với những phần mộ còn xót lại trên đảo, sự tích công chúa Bàng Tranh chứng tỏ người Chăm đã có mặt ở đảo này. Sự tích kể rằng: Bàng Tranh là một công chúa xinh đẹp vì chống lệnh vua cha nên bị kết tội phản nghịch nên bị kết đày ra đảo.
Bên cạnh đó, do không chịu nổi sự hà khắc của chế độ nông nô, bất mãn với triều đình phong kiến, nhiều người đã tìm đường ra đây lập kế sinh nhai. Người Kinh có mặt ở đảo cũng từ rất sớm. Lúc bấy giờ, vào một thời điểm mà triều đại phong kiến Việt Nam đang trượt nhanh trên con đường mục nát, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi. Ở các tỉnh miền trung lúc bấy giờ, những người cùng khổ hoặc phải bán vợ đợ con hoặc phải phiêu dạt đi khắp nơi để kiếm sống. Và Phú Quý là một điểm đến an lành mà họ đã tình cờ bắt gặp. Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627–1672), rất nhiều ngư dân thuộc các tỉnh duyên hải miền trung, hoặc chạy giặc lánh nạn, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ vượt sóng trùng dương đã gặp phải những trận cuồng phong khốc liệt và “xiêu” lên đảo.
Cùng với người Kinh, một số người Hoa cũng hoà nhập vào cộng đồng cư dân ở Phú Quý. Vàơ thế kỷ 17, một số quan lại nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, đã phải trốn ra nước ngoài. Từng đoàn thuyền vượt biển tiến về phía nam, trong số đó có hàng chục thuyền đã quyết định dừng chân lập nghiệp ở Phú Quý. Người Hoa đến đây sống dựa vào các ngành nghề như dệt tơ lụa, buôn bán. Quá trình phát triển về sau, một số người do làm ăn trở nên giàu có đã lần lượt tìm vào các thành phố lớn ở đất liền, chỉ một số ít còn lại trên đảo.
Khi dân cư ngày một đông hơn thì các hình thức tổ chức xã hội cũng dần dần được hình thành. Và thời Lê Hiển Tông – Cảnh Hưng (1740–1786), nhà Lê đã tổ chức trên đảo thành từng hộ bạch bố đến đội bạch bố rồi dần dần trở thành ấp và làng. Tuy số dân lúc bấy giờ chưa đông đúc nhưng Phú Quý có đến 14 làng và 1 ấp. Mỗi làng được lập trên cơ sở một nhóm nhỏ ngư dân, đôi lúc chỉ có từ 10 đến 12 tránh đinh và thường mang những tên cũ của địa phương trước khi đến đây lập nghiệp: Thoại Hải, Thế Hanh, Thế An, Hội Thiên, Hội Hưng, Hương Lăng, Mỹ Xuyên, Phú Ninh, An Hoà, Hải Châu, Thương Hải, Triều Dương, Hội An, Mỹ Khê và ấp Quý Thạnh. Từ niên hiệu Đồng Khánh – Nguyễn Cảnh Tông năm thứ 1 (1886), toàn đảo được tổ chức thành 11 làng và đến năm 1930 do sự sáp nhập hai làng Phú Ninh vào Phú Mỹ và Hương Lăng vào Quý Thạnh nên chỉ còn lại 9 làng: Long Hải, Phú Mỹ, An Hoà, Hải Châu, Thương Hải, Quý Thạnh, Triều Dương, Mỹ Khê và Hội An. Hiện nay, đảo được chia làm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng, Tam Thanh.
Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện khép kín tự cung tự cấp với những hoạt động kinh tế như trồng trọt, đánh bắt hải sản, một số ngành nghề thủ công như dệt vải, đan võng, ép dầu… Trong đó, ngư nghiệp đóng vai trò chủ đạo.
|
General introduction to Phu Quy district
Phu Quy (also known as Thu Islet or Khoai Xu Islet) is a small island, with an area of 16 km². Phu Quy island district belongs to
Binh Thuan Province
, distance to surrounding areas:
* 120 km southeast of Phan Thiet city.
* 540 km northwest of Truong Sa archipelago.
* 150km from Cam Ranh town, Khanh Hoa province (to the south).
* 330km from Con Dao (northeast).
* Way
Vung Tau city
200km (to the East).
In addition to the main island, around Phu Quy island there are Hon Da Cao to the northwest, Hon Do to the northeast and Hon Tranh and Hon Hai to the southwest.
Administration
Phu Quy district has 3 communes:
* Long Hai: Tan Hai village, Quy Hai, Dong Hai, Phu Long
* Ngu Phung (district capital): Phu An village, Thuong Chau, Quy Thanh
* Tam Thanh: My Khe village, Hoi An, Trieu Duong
History of Phu Quy district
For a long time, Phu Quy island has become very familiar to many people through ancient history books under many names: Co Long, Thuan Tinh, Cu Lao Khoai Xu, Cu Lao Thu... From the 4th reign year (1844) because of its potential. With a rich economy and a significant amount of specialties supplied to the Hue Court, the island was renamed from Tong Ha to Tong Phu Quy, belonging to Tuy Phong district, Ninh Thuan district, Binh Thuan province. Currently, Phu Quy is a remote island district of Binh Thuan province.
Although it is an isolated island in the middle of the ocean, the traces discovered show that the island was exploited to create life on the island very early. During the process of quarrying stone, people found large tombs. In the grave, there were buried a number of working tools such as axes, hammers and even stone bracelets with very sophisticated crafting techniques. This is consistent with the legends that have been passed down that before the exploration of nature by people from the mainland, there was a race of "Mongolian" people living here by gathering and catching fish along the coast. Through historical changes, Phu Quy is the convergence of many migration flows from the continent with many different ethnic groups. In which the Kinh people play the main role.
When the technique of building sailboats began to develop strongly with boats going far out to sea, it was also the time when many people from the mainland set foot on the island. Along with the remaining graves on the island, the legend of Princess Bang Tranh proves that the Cham people were present on this island. Legend has it that: Bang Tranh was a beautiful princess who, because she disobeyed her father's orders, was accused of treason and was exiled to the island.
Besides, because they could not stand the harshness of serfdom and were dissatisfied with the feudal court, many people found their way here to make a living. The Kinh people were present on the island very early. At that time, at a time when the Vietnamese feudal dynasty was sliding rapidly on the path of decay, famine occurred in many places. In the central provinces at that time, poor people either had to sell their wives and children or wander around to make a living. And Phu Quy is a peaceful destination that they came across by chance. During the Trinh-Nguyen conflict (1627–1672), many fishermen in the central coastal provinces, either fleeing from the enemy or looking for fish sources, their boats crossed the ocean waves and encountered many battles. The hurricane was fierce and "swept" onto the island.
Along with the Kinh people, some Chinese people also integrated into the community in Phu Quy. In the 17th century, some Ming Dynasty mandarins, after failing to resist the Qing Dynasty, had to flee abroad. Each group of boats crossed the sea and headed south, among which dozens of boats decided to stop and settle in Phu Quy. The Chinese came here to make a living based on occupations such as silk weaving and trading. During the later development process, some people became rich through business and moved to big cities on the mainland, leaving only a few remaining on the island.
As the population becomes more and more crowded, forms of social organization are gradually formed. And during the reign of Le Hien Tong - Canh Hung (1740–1786), the Le Dynasty organized the island into households with white awns and white combs, then gradually became hamlets and villages. Although the population at that time was not crowded, Phu Quy had 14 villages and 1 hamlet. Each village is established based on a small group of fishermen, sometimes only 10 to 12 fisherman, and often bears the old local names before coming here to settle: Thoai Hai, The Hanh, The An, Hoi Thien. , Hoi Hung, Huong Lang, My Xuyen, Phu Ninh, An Hoa, Hai Chau, Thuong Hai, Trieu Duong, Hoi An, My Khe and Quy Thanh hamlet. From the 1st year of Dong Khanh - Nguyen Canh Tong (1886), the whole island was organized into 11 villages and by 1930, due to the merger of two villages, Phu Ninh into Phu My and Huong Lang into Quy Thanh, there were only 9 remaining. Villages: Long Hai, Phu My, An Hoa, Hai Chau, Thuong Hai, Quy Thanh, Trieu Duong, My Khe and Hoi An. Currently, the island is divided into 3 communes: Long Hai, Ngu Phung, Tam Thanh.
Phu Quy for a long time has lived in self-sufficient conditions with economic activities such as farming, fishing, and some handicrafts such as weaving, hammock weaving, oil pressing... There, fishing plays a key role.
|
Giới thiệu khái quát huyện Hàm Tân
Hàm Tân được điều chỉnh địa giới hành chính theo Nghị định 114 của Thủ tướng Chính phủ vào cuối năm 2005. Là huyện nằm ở phía Nam của
tỉnh Bình Thuận
, có vị trí thuận lợi trong giao lưu, hợp tác đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Diện tích tự nhiên trên 70.000 ha, dân số trên 72.000 nhân khẩu, có 10 xã, thị trấn. Thị trấn Tân Nghĩa có dân số đông nhất, tập trung nhiều hoạt động văn hoá, kinh tế, trung tâm hành chính của huyện được đặt ở nơi đây.
Trên địa bàn Hàm Tân có nhiều dân tộc anh em sinh sống, tạo nên nét văn hóa đặc sắc của vùng đất. Người Chăm Tân Thắng giỏi múa hát, người Rắc lay Tân Hà giỏi đánh cồng chiêng. Vùng Cù Mi (xã Tân Thắng, Thắng Hải) còn lưu giữ nhiều dấu tích của người đi mở đất. Lễ hội ở Dinh Chúa Cậu Tân Xuân, Chúa Chàng Râu Tân Thắng có từ lâu đời, được tổ chức hàng năm thu hút đông đảo du khách tham gia.
Hàm Tân là vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, Hàm Tân là căn cứ cách mạng. Trong kháng chiến chống Mỹ, trên địa bàn Hàm Tân diễn ra nhiều trận đánh hay được ghi vào sử sách. Khu Rừng Lá dọc theo Quốc lộ 1A là nơi được nhiều người biết đến với vai trò là căn cứ rộng lớn án ngữ tuyến đường huyết mạch tiến về Sài Gòn.
Hàm Tân có hệ thống giao thông phát triển, kết nối thông suốt với các tỉnh lân cận như: Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Lâm Đồng, TP. Hồ Chí Minh…Có tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua Ga Sông Phan. Các tuyến giao thông như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 55 mở ra sự lưu thông thuận lợi tạo cho Hàm Tân có điều kiện giao lưu phát triển kinh tế – xã hội với các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Các công trình kiến trúc- xây dựng trước đây trên địa bàn Hàm Tân không nhiều. Tuy nhiên hiện nay nhiều công trình thủy lợi lớn đang được đầu tư xây dựng như đập dâng Sông Phan, hồ chứa nước Sông Dinh 3 chuẩn bị hoàn thành và đưa vào sử dụng phục vụ nước sinh hoạt cho nhân dân và sản xuất nông nghiệp, công nghiệp.
Tiềm năng trong phát triển ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nhất là các lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, khai khoáng, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ khá lớn. Hàm Tân có các khu công nghiệp được Chính phủ đưa vào danh mục quy hoạch phát triển đến năm 2015, như: Khu liên hợp công nghiệp – dịch vụ Sơn Mỹ, diện tích 656 ha; khu công nghiệp – dân cư dịch vụ công nghiệp Tân Đức, diện tích 300 ha và cụm công nghiệp Nghĩa Hoà, cụm công nghiệp Thắng Hải đang triển đầu tư xây dựng.
Dọc theo 22 km bờ biển nối từ thị xã La Gi đến mũi Dinh (Bà Rịa-Vũng Tàu) là những dự án du lịch quy mô lớn, đang trong giai đoạn triển khai đầu tư. Đến với Hàm Tân, du khách có thể cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp của biển cả mênh mông, hoang sơ và thơ mộng.
Những hình ảnh khá ấn tượng khi đến Hàm Tân đó là những hoạt động nông nghiệp và công nghiệp đan xen nhau. Trạm Vi ba cao vút trên đỉnh đồi Dăng Co thị trấn Tân Nghĩa, những ống khói vươn trời xanh của khu sản xuất gạch ngói xã Sông Phan tiếp nối những ruộng mía xanh bạt ngàn của xã Tân Phúc. Cây buông của Hàm Tân là loại cây được nhiều người nhắc đến khi nghĩ về Hàm Tân. Cây buông sức sống mãnh liệt, cành buông tha thướt, sản phẩm từ cây buông là mặt hàng thủ công mỹ nghệ được xuất đi nhiều nơi.
Với đặc điểm lợi thế tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng; nguồn nhân lực trẻ dồi dào và cần cù; khí hậu ôn hoà; đặc biệt với truyền thống cách mạng kiên cường và ý chí vươn lên trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- dịch vụ- nông lâm, ngư nghiệp, Hàm Tân có nhiều cơ hội đang mở ra để phát triển nhanh hơn, mạnh hơn. Hứa hẹn không xa Hàm Tân đi lên đầy triển vọng./.
|
General introduction of Ham Tan district
Ham Tan had its administrative boundaries adjusted according to Decree 114 of the Prime Minister at the end of 2005. It is a district located in the south of Vietnam.
Binh Thuan Province
, has a favorable position in exchange and investment cooperation for socio-economic development. The natural area is over 70,000 hectares, the population is over 72,000 people, and there are 10 communes and towns. Tan Nghia town has the largest population, concentrates many cultural and economic activities, and the administrative center of the district is located here.
In Ham Tan area, many ethnic groups live, creating the unique culture of the land. Tan Thang Cham people are good at dancing and singing, while Tan Ha Rac lay people are good at playing gongs. The Cu Mi area (Tan Thang commune, Thang Hai) still retains many traces of people opening the land. The festival at the Palace of Tan Xuan Lord, Tan Thang Bearded Lord has been around for a long time and is held every year, attracting a large number of visitors.
Ham Tan is a land with a tradition of revolutionary struggle. During the resistance war against the French, Ham Tan was a revolutionary base. During the resistance war against America, in Ham Tan area, many battles took place that were recorded in history books. Leaf Forest along Highway 1A is a place known to many people as a large base blocking the main route to Saigon.
Ham Tan has a developed transportation system, connecting smoothly with neighboring provinces such as: Ba Ria-Vung Tau, Dong Nai, Lam Dong, City. Ho Chi Minh...There is a North-South railway running through Song Phan Station. Traffic routes such as National Highway 1A and National Highway 55 open up convenient circulation, creating conditions for Ham Tan to exchange for socio-economic development with key economic regions in the South.
There are not many previous architectural and construction works in Ham Tan area. However, currently many large irrigation projects are being invested in and built, such as the Phan River dam and Song Dinh 3 reservoir, which are about to be completed and put into use to serve domestic water for people and agricultural production. , industry.
The potential for developing industry and handicrafts, especially the fields of construction materials production, mining, and handicraft production is quite large. Ham Tan has industrial parks included in the list of development planning by the Government until 2015, such as: Son My industrial and service complex, area of 656 hectares; Tan Duc industrial - residential industrial service park, area of 300 hectares and Nghia Hoa industrial cluster, Thang Hai industrial cluster are under construction investment.
Along the 22 km coastline connecting La Gi town to Dinh cape (Ba Ria-Vung Tau) are large-scale tourism projects, in the investment implementation phase. Coming to Ham Tan, visitors can fully feel the beauty of the vast, wild and poetic sea.
The impressive images when coming to Ham Tan are the interwoven agricultural and industrial activities. The microwave station towers high on the top of Dang Co hill in Tan Nghia town, the chimneys reaching the blue sky of the brick and tile production area of Song Phan commune continue the vast green sugarcane fields of Tan Phuc commune. The Ham Tan tree is a tree that many people mention when thinking about Ham Tan. The tree has strong vitality and graceful branches. Products from the tree are handicraft items that are exported to many places.
With the advantage of rich and diverse natural resources; abundant and industrious young human resources; temperate climate; Especially with a resilient revolutionary tradition and the will to rise up in the process of implementing innovation and economic restructuring towards industry-service-agriculture, forestry, and fishery, Ham Tan has many opportunities. is opening up to develop faster and stronger. Ham Tan is not far away from promising prospects./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Bắc Bình
Bắc Bình
là một huyện của tỉnh
Bình Thuận
, nằm ở phía bắc của tỉnh.
Huyện Bắc Bình là huyện có diện tích lớn nhất tỉnh Bình Thuận, cách
TP.HCM
khoảng 230 km theo phía đông, cách Nha Trang khoảng 200 km theo phía tây nam. Huyện có
quốc lộ 1A
và dường sắt Bắc- Nam đi qua.
Phía đông giáp huyện Tuy Phong
Phía nam giáp Biển Đông
Phía tây nam giáp thành phố Phan Thiết
Phía tây giáp huyện Hàm Thuận Bắc
Phía tây bắc giáp huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng
Phía bắc giáp huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng
Bắc Bình – mảnh đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa đã đi được một chặng đường 300 năm có lẻ. Trải qua nhiều đời xây dựng và đấu tranh gìn giữ bản sắc dân tộc, nhân dân địa phương đã để lại cho thế hệ hôm nay những di sản tinh thần vô cùng quý giá. Xét về góc độ văn hóa, Bắc Bình là nơi hội tụ của 16 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có ngôn ngữ, văn hóa khác nhau tạo nên sự sinh động, đa dạng. Xét về góc độ lịch sử, toàn huyện có 18 xã, thị trấn thì đã có 5 xã được phong tặng danh hiệu lực lượng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Sự tôn vinh và truyền bá những giá trị tinh thần của cha anh đi trước đã tạo cho Bắc Bình một khí thế mới trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội.
Bắc Bình là nơi bảo lưu dòng văn hoá Chăm Pa đặc sắc. Vị công chúa cuối cùng của hoàng tộc Chăm Pa, người dân địa phương gọi bà là Bà Thềm, bà mất khoảng năm 1997. Dòng văn hoá Chăm có những giá trị nghệ thuật đỉnh cao trong đó điển hình nhất là nghệ thuật múa vẫn còn lưu giữ và phát huy. Tiến sĩ nghệ thuật múa Đặng Hùng là người đã sống nhiều năm tại đây và nghiên cứu bảo tồn, phát huy nền nghệ thuật múa Chăm, các thể loại múa quạt, múa đội nước, múa Siva (cung đình) và nhiều thể loại khác đã từ lâu xứng tầm nghệ thuật bác học.
Thị trấn Chợ Lầu, Bắc Bình, Bình Thuận
Bắc Bình Bao gồm 2 thị trấn: Chợ Lầu và Lương Sơn và 16 xã: Phan Lâm, Phan Sơn, Phan Điền, Bình An, Phan Hoà, Hải Ninh, Phan Rí Thành, Phan Thanh, Hồng Thái, Sông Bình, Sông Luỹ, Phan Tiến, Bình Tân, Hoà Thắng, Phan Hiệp và Hồng Phong.
Cảnh đẹp độc đáo của Bình Thuận và Bắc Bình là những ốc đảo xanh tươi chạy dọc theo hơn 100km bờ biển thanh bình, từ thị trấn Lagi phía nam, đến mũi Kê Gà nơi có ngọn hải đăng đẹp nhất và cổ nhất Việt Nam; đến thành phố Phan Thiết hiền hoà nơi lưu giữ những di sản văn hoá 300 năm mở cõi của người Việt và những di sản truyền thống của người Hoa; tâm điểm du lịch hiện nay là dải hàng trăm resort kéo dài ra đến Mũi Né, tạo thành một chuỗi bờ biển du lịch nối ra đến khu vực Suối Nước cách Phan Thiết 40 km, tại đây hàng loạt dự án tầm cỡ đang mọc lên tạo ra một quần thể du lịch cao cấp mới kéo dài thành phố Phan thiết trên một dải bờ biển gần 50km thật xứng với danh hiệu “Thủ đô Resort củ Việt Nam”. Cảnh đẹp này tương phản bằng nhiều sắc thái, nhiều cung bậc cảnh sắc. Từ những khu rừng nguyên sinh trong vùng giáp ranh với Lâm Đồng với những cảnh đẹp hồ thuỷ điện Hàm Thuận, Đa Mi, Thác Sương Mù, Thủy Điện Đại Ninh dọc theo con đường mòn mà xưa kia Bác sĩ Yersin đã lần tìm ra cao nguyên Liang Biang, Đà Lạt ngày nay; cảnh sắc xuôi về những đồng bằng xanh ngát qua những thị trấn nhỏ thanh bình, xanh ngắt vườn thanh long; xuôi về hướng biển là cung đường du lịch ấn tượng nhất và đẹp nhất Việt Nam, con đường này nối từ thị trấn Lương Sơn về Mũi Né ngược về Hàm Tiến và Phan Thiết, đây là cung đường nối từ đồng bằng, vắt ngang lên những dải đồi cát hoang sơ nơi lưu dấu chiến khu Lê Hồng Phong oai hùng (nay thuộc xã Hồng Phong và Hoà Thắng); phóng tầm mắt nhìn hàng chục cây số mêmh mông thanh vắng, rồi bất ngờ chiêm ngưỡng một dãi cát trắng tinh khôi và gợi cảm như nàng Trinh Nữ nằm vắt mình bên hồ nước xanh trong với dải hoa sen đỏ thắm mọc ven bờ; con đường lại bất ngờ mang chúng ta đến với biển xanh và nắng vàng trải dọc thêm hàng chục cây số mêng mang, cảnh sắc sánh ngang với con đường Malibu miền Cali nước Mỹ.
Đi dọc Quốc lộ 1A ra hướng Nha Trang con đường mang ta đến với suối nước khoáng nóng Vĩnh Hảo lừng danh đã từng được gắn thương hiệu Vichy (Pháp), thêm 10 cây số nữa là bờ biển dọc theo vách đá dựng đứng của Cà Ná. Nơi đây cũng có hàng chục điểm du lịch cao cấp và các điểm dừng cho du khách, ngắm nhìn biển xanh bao la hay hoà mình với sóng biển xanh.
|
General introduction of Bac Binh district
Bac Binh
is a district of the province
Binh Thuan
, located in the north of the province.
Bac Binh district is the district with the largest area in Binh Thuan province
Ho Chi Minh City
about 230 km east, about 200 km southwest of Nha Trang. The district has
1A highway
and the North-South railway passes through.
The east borders Tuy Phong district
The south borders the East Sea
The southwest borders Phan Thiet city
The west borders Ham Thuan Bac district
The northwest borders Di Linh district, Lam Dong province
The north borders Duc Trong district, Lam Dong province
Bac Binh - a land rich in historical and cultural traditions, has traveled a journey of 300 years. After many generations of building and struggling to preserve national identity, local people have left behind extremely valuable spiritual legacies for today's generation. From a cultural perspective, Bac Binh is a convergence of 16 ethnic groups, each with different languages and cultures, creating vitality and diversity. From a historical perspective, the entire district has 18 communes and towns, of which 5 communes have been awarded the title of heroic force of the people's armed forces. The honoring and spreading of the spiritual values of our ancestors has created a new momentum for Bac Binh in the work of socio-economic construction and development.
Bac Binh is the place where the unique Champa culture is preserved. The last princess of the Champa royal family, locals called her Ba Them, she died around 1997. The Cham cultural line has peak artistic values, the most typical of which is the art of dance, which is still alive. preserve and promote. Doctor of dance art Dang Hung has lived here for many years and researched the preservation and promotion of Cham dance art, fan dances, water team dances, Siva (royal) dances and many other genres. has long been worthy of scholarly art.
Cho Lau town, Bac Binh, Binh Thuan
Bac Binh Includes 2 towns: Cho Lau and Luong Son and 16 communes: Phan Lam, Phan Son, Phan Dien, Binh An, Phan Hoa, Hai Ninh, Phan Ri Thanh, Phan Thanh, Hong Thai, Song Binh, Song Luy , Phan Tien, Binh Tan, Hoa Thang, Phan Hiep and Hong Phong.
The unique beauty of Binh Thuan and Bac Binh are green oases running along more than 100km of peaceful coastline, from Lagi town in the south, to Ke Ga cape where there is the most beautiful and oldest lighthouse in Vietnam; to the peaceful city of Phan Thiet, which preserves the cultural heritage of 300 years of Vietnamese expansion and the traditional heritage of the Chinese; The current tourist focus is a strip of hundreds of resorts extending to Mui Ne, forming a chain of tourist beaches connecting to the Suoi Nuoc area, 40 km from Phan Thiet, where a series of large-scale projects are springing up. creating a new high-end tourist complex spanning Phan Thiet city on a nearly 50km stretch of coastline worthy of the title "Resort Capital of Vietnam". This beautiful scene contrasts with many nuances and levels of scenery. From the primeval forests in the area bordering Lam Dong with the beautiful scenery of Ham Thuan, Da Mi hydroelectric lakes, Suong Mu Waterfall, Dai Ninh Hydropower Plant along the trail that Doctor Yersin once discovered. Former Liang Biang, Da Lat today; The scenery sweeps down the green plains through peaceful small towns, green with dragon fruit gardens; Going down to the sea is the most impressive and most beautiful tourist route in Vietnam, this road connects from Luong Son town to Mui Ne back to Ham Tien and Phan Thiet, this is the road connecting from the plain, crossing up the pristine sand dunes that mark the majestic Le Hong Phong war zone (now in Hong Phong and Hoa Thang communes); Looking out across dozens of kilometers of vast, deserted land, then suddenly admiring a strip of pure and sexy white sand like a Virgin lying on the side of a clear blue lake with a strip of crimson lotus flowers growing along the shore; The road suddenly brought us to the blue sea and golden sunshine stretching along dozens of vast kilometers, with scenery comparable to the Malibu road in California, USA.
Going along Highway 1A toward Nha Trang, the road brings us to the famous Vinh Hao hot mineral springs that were once branded Vichy (France), another 10 kilometers to the coast along the steep cliffs of Ca Mau. Nah. This place also has dozens of high-end tourist attractions and stops for tourists to admire the vast blue sea or immerse themselves in the blue ocean waves.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Phan Thiết
Thành phố Phan Thiết là tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của
tỉnh Bình Thuận
. Phan Thiết nằm trên quốc lộ 1A (chiều dài
quốc lộ 1A
đi qua là 7 km), cách Thành phố Hồ Chí Minh 198 km về hướng Đông. Phan Thiết là đô thị của miền Trung, thuộc khu vực Nam Trung Bộ, tuy nhiên, theo quy hoạch phát triển đến năm 2025, nó sẽ là đô thị cấp vùng Đông Nam Bộ[1][2]. Diện tích tự nhiên là 206,45 km², bờ biển trải dài 57,40 km.
Nguồn gốc tên gọi
Có một số giả thiết về tên gọi của Phan Thiết và phần lớn đều chấp nhận rằng, “Phan Thiết” không phải là một cái tên thuần Việt:
* Khi chưa có người Việt định cư, người Chăm gọi vùng đất này là “Hamu Lithít” – “Hamu” là xóm ruộng bằng, “Lithít” là ở gần biển. Khi bắt đầu có người Việt định cư, vẫn chưa ai có ý định đặt ngay cho vùng đất này một tên gọi mới bằng tiếng Việt. Lâu dần, âm cuối “Lithit” lại được gắn liền với âm “Phan” tách từ phiên âm của tên hai vùng Phan Rang, Phan Rí mà thành ra Phan Tiết (tên gọi ngày xưa) và sau này người ta gọi chuẩn với cái tên là Phan Thiết.
* Người Việt đã phiên âm lại cách gọi tên của người Chăm trước đó: Mang-lang (Phan Rang), Mang-lý (Phan Rí), Mang-thít (Phan Thiết). Ba địa danh này được gọi chung là “Tam Phan”.
* Po Thit (hoàng tử em của công chúa Po Sah Inư, con của vua Chăm Par Ra Chanh, tức Trà Chanh) đóng đồn trấn ngữ vùng đất này vào thế kỷ XIV được người Việt đọc trại ra mà thành Phan Thiết.
Ngày nay, yếu tố “Phan” còn xuất hiện nhiều trong các địa danh ở tỉnh Bình Thuận như: Sông Phan, Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành, Phan Lâm, Phan Sơn…
Lễ hội Cầu ngư
Lễ hội Cầu Ngư ở dinh Vạn Thủy Tú, thành phố Phan Thiết thường diễn ra vào ngày 20/6 Âm lịch hàng năm và đã trở thành một lễ hội truyền thống của nhân dân ở đây. Ở mỗi kỳ lễ hội, bà con tổ chức lễ với các nghi thức cúng tế trang trọng, bên cạnh đó là phần hội với chèo Bả Trạo, hát Bội đan xen trong lễ. Ngoài ta, còn có các trò chơi dân gian của ngư dân miền biển như hát bài chòi, thi đua thuyền, lắc thúng giữa các Vạn với nhau như câu ca xưa còn truyền lại:
Dưới sông sắp đặt ghe đua
Trên bờ sửa soạn Miếu Chìa Trạo ca
(Hát chèo Bả Trạo)
Việc thờ tự, cúng tế, lễ hội ở Vạn nhằm hướng con người về với cội nguồn, với Tổ nghề và thắt chặt tình ái hữu tương tế.
|
General introduction to Phan Thiet city
Phan Thiet city is the provincial capital, political, economic, cultural and scientific and technical center of the country
Binh Thuan Province
. Phan Thiet is located on National Highway 1A (length
1A highway
7 km), 198 km east of Ho Chi Minh City. Phan Thiet is an urban area in the Central region, in the South Central region, however, according to the development plan until 2025, it will be a Southeast regional urban area[1][2]. The natural area is 206.45 km², the coastline stretches 57.40 km.
Origin of name
There are a number of theories about the name of Phan Thiet and most accept that "Phan Thiet" is not a purely Vietnamese name:
* When there were no Vietnamese settlers, the Cham people called this land "Hamu Lithít" - "Hamu" means flat rice field village, "Lithít" means near the sea. When Vietnamese people began to settle, no one had any intention of immediately giving this land a new name in Vietnamese. Over time, the last sound "Lithit" became associated with the sound "Phan" separated from the phonetic transcription of the names of the two regions Phan Rang and Phan Ri to form Phan Tiet (the old name) and later people called it correctly with the name Phan Rang and Phan Ri. The name is Phan Thiet.
* The Vietnamese have transcribed the previous Cham people's way of calling names: Mang-lang (Phan Rang), Mang-ly (Phan Ri), Mang-thit (Phan Thiet). These three places are collectively called "Tam Phan".
* Po Thit (the younger prince of Princess Po Sah Inu, son of the Cham king Par Ra Chanh, also known as Tra Chanh) was stationed in this area in the 14th century and was converted into Phan Thiet by the Vietnamese.
Today, the element "Phan" also appears in many places in Binh Thuan province such as Phan River, Phan Ri Cua, Phan Ri Thanh, Phan Lam, Phan Son...
Fish festivals
Cau Ngu Festival at Van Thuy Tu Palace, Phan Thiet City usually takes place on the 20th day of the 6th lunar month every year and has become a traditional festival of the people here. At each festival, people organize the ceremony with solemn worshiping rituals, in addition to the festival with Ba Trao Cheo and Boi singing interwoven in the ceremony. Besides us, there are also folk games of coastal fishermen such as singing the hut song, boat racing, shaking baskets among Vans together like the old song still passed down:
There are racing boats set up on the river
On the shore, prepare for the Temple of Trao Trao ca
(Ba Trao Cheo singing)
The worship, sacrifices, and festivals in Van aim to direct people back to their roots, to their ancestors, and to strengthen mutual love and affection.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tuy Phong
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Phía Đông Bắc giáp huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận
.
Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Phía Tây giáp huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.
Phía Đông giáp Biển Đông.
Phía Đông Nam giáp Biển Đông.
TỌA ĐỘ ĐỊA LÝ
Từ 11 độ 17 phút 30 giây đến 11 độ 37 phút 30 giây Vĩ độ Bắc
Từ 108 độ 30 phút đến 108 độ 52 phút 30 giây Kinh độ Đông
Diện tích tự nhiên 79.386 ha
Chiều dài bờ biển 50 km
Chiều dài Quốc lộ 1A đi qua 43 km
Chiều dài đường sắt Bắc Nam chạy qua 38 km
Huyện Tuy Phong nằm ở phía Bắc của tỉnh Bình Thuận, có diện tích tự nhiên 79.385,54 ha, số đơn vị hành chính gồm có 2 thị trấn và 10 xã, có đường ranh giới giáp với tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Lâm Đồng. Trung tâm huyện lỵ đặt tại thị trấn Liên Hương, cách thành phố Phan Thiết 90km về phía Bắc. Trên địa bàn huyện có đường Quốc lộ 1A đi qua dài 43km, đường sắt Bắc – Nam đi qua dài 38km. Từ trung tâm huyện rất thuận lợi đi đến các tỉnh giáp ranh là tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Lâm Đồng và nhiều tỉnh khác trong vùng Duyên hải miền Trung, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Tây Nguyên. Đặc biệt vùng ven biển của huyện Tuy Phong có mối quan hệ chặt chẽ với vùng ven biển của huyện Bắc Bình, thành phố Phan Thiết, và vùng ven biển của tỉnh Ninh Thuận. Do đó, rất thuận lợi trong mối liên kết và hợp tác phát triển các ngành kinh tế biển. Vị trí đất đai của huyện nằm ở toạ độ địa lý từ 11017′30′′ đến 110 37′30′′ vĩ độ Bắc và 1080 30′ đến 108052′30′′ kinh độ Đông. – Phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. – Phía Nam và Đông Nam giáp Biển Đông. – Phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận và huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Trong số 12 đơn vị hành chính của huỵên, chỉ có 2 thị trấn thuộc vùng đồng bằng, còn 10 xã đều thuộc vùng cao, miền núi và trung du (bao gồm : xã vùng cao là Phan Dũng, 4 xã miền núi là Phong phú, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân, Phú Lạc và 5 xã còn lại là trung du). Huyện Tuy Phong có chiều dài bờ biển 50km, có 2 cửa sông đổ ra biển, thuận lợi cho xây dựng Cảng cá và trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá. Cảnh quan thiên nhiên đa dạng, bao gồm : đồi núí, đồng bằng và vùng ven biển, thuận lợi cho xây dựng các khu du lịch sinh thái ven biển gắn với du lịch sinh thái vùng đồi núi. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý của huyện, cần đẩy mạnh phát triển toàn diện các ngành sản xuất nông, lâm,ngư, diêm nghiệp – công nghiệp – thương mại dịch vụ và du lịch. Đặc biệt coi trọng thu hút các dự án đầu tư phát triển công nghiệp và du lịch, trước hết là phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp có liên quan để đẩy mạnh tiến độ đầu tư xaay dựng trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân trên địa bàn huyện.
Vùng sinh thái Tân Cung – Tà Hoàng, vẻ đẹp tiềm ẩn
Để mở đầu cho chuyến du lịch tham quan thắng cảnh vùng miền núi địa bàn huyện Tuy Phong, mời các bạn ghé thăm hồ chứa nước Sông Lòng Sông:
Hồ Sông Lòng Sông được khởi công xây dựng vào cuối năm 2001, bắt đầu đưa vào sử dụng năm 2005. Trữ lượng diện tích mặt nước khoảng 275 ha, dung tích hơn 37 triệu khối, cung cấp nước tưới cho 4.300 ha diện tích đất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân toàn huyện. Ngoài ra, hồ còn có nhiệm vụ là điều tiết lũ cho vùng hạ du, diện tích mặt hồ rộng, được bao bọc bởi các dãy núi, tạo nên một phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, rất phù hợp cho những chuyến dã ngoại, câu cá thư giãn.
Sau khi tham quan hồ, chúng ta vượt dốc với con đường ngoằn ngoèo quanh co uốn khúc, hiểm trở, bao bọc xung quanh hồ để đến một điểm du lịch khác, không kém phần kỳ bí, nó gắn liền với lịch sử giải phóng quê hương Tuy Phong, đó là thác Tân Cung.
Đây là dòng thác đầu nguồn của Hồ Sông Lòng Sông với dòng chảy trải dài hơn 3 km, nhiều khe nước đổ về, tạo nên dòng thác tuyệt đẹp, bọt tung trắng xoá, từng đàn cá lượn lờ, tạo cho phong cảnh sinh động. Không những thế, các bạn còn được chiêm ngưỡng những khối đá bị bào mòn theo thời gian tạo nên hình thái kỳ dị, uốn lượn như những con rồng đá hội tụ nơi này, nào là Hàm Ếch, Hang Cọp, suối Cá Linh …. theo tên gọi của địa phương. Nơi đây cũng là cửa ngõ giao liên giữa các căn cứ cách mạng như Khu nhà Bảo, suối Huyện đội, căn cứ Tân Lê với miền xuôi của các chiến sỹ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng quê hương Tuy Phong.
Ngược về hướng tây bắc hơn 10 km, chúng ta đến với xã Phan Dũng, vùng đồng bào dân tộc Răglay, các bạn sẽ có dịp giao lưu, tìm hiểu phong tục tập quán của người địa phương, thưởng thức những đặc sản vùng miền núi, giao lưu ca hát và uống rượu cần với người dân bản địa…
Theo lịch trình, chúng ta tiếp tục khám phá khu rừng nguyên sinh Tà Hoàng và thác Yavly. Để đến được với thác Yavly, chúng ta phải đi xuyên qua khu rừng nguyên sinh Tà Hoàng. Đoạn đường mặc dù quanh co, khúc khuỷu, men theo con đường nhỏ, những quãng ngắn có những con suối với từng đàn cá tung tăng bơi lội và thật thỏa thích hơn khi dạo chơi trong rừng đại ngàn. Rừng Tà Hoàng là khu rừng còn tương đối nguyên vẹn, rộng hơn 20 ngàn ha, nơi đây còn khá nhiều loài cây gỗ quý như lim, sao, căm xe, trắc, gõ, giáng hương, nhiều khu rừng bằng lăng thẳng tấp, chót vót lên trời xanh… dưới tán rừng là những thảm thực vật cây bụi, nhiều loài hoa rừng đủ màu sắc, những khối đá kỳ vĩ, với những con suối chắn ngang, nép bên bờ là những rặng chuối rừng, măng tre, hoa dại, thắp thoáng trong rừng có những ngôi nhà sàn, đồng ruộng xanh tươi của đồng bào dân tộc, tạo thành những bức tranh thuỷ mặc thiên nhiên tuyệt đẹp giữa núi rừng.
Nép sâu nơi cuối rừng là ngọn thác mang tên người con gái Răglay là Yavly, hay còn gọi là thác Mây. Sau hơn 2 giờ băng rừng, lội suối, chúng ta đã nghe tiếng thác đổ như mời như gọi.
Thác Yavly cao gần 50 mét, dù mùa nắng hay mùa mưa, thác vẫn tuôn trào tại đỉnh thác nước chảy xiết như hai máng xối giao nhau, uốn lượn như rồng đang phun nước, hơi nước bay cao tạo thành những làn mây phủ cả một góc rừng, gặp ánh nắng tạo thành cầu vồng bảy sắc tuyệt đẹp. Dưới chân thác là một bể rộng khoảng hơn 100 mét vuông, mực nước không sâu nhưng trong vắt, có thể nhìn thấy từng viên đá cuội, từng đàn cá tung tăng lội ngược dòng nước, là một bãi tắm lý tưởng với dòng nước mát lạnh.
Phải tắm một lần ở đây bạn mới cảm nhận hết sự thú vị của nó, nước trong mát, đủ rộng để bạn bơi lội vui đùa thoả thích, tắm xong, bạn có thể chọn những tảng đá lớn làm nơi nghỉ ngơi và thưởng thức những món cá đồng tại chỗ thật là tuyệt vời và thi vị khi ngắm nhìn nhiều loài bướm đẹp, nhiều cây gỗ quý, những mảng rêu phong cổ kính, tạo nên quang cảnh thần tiên của riêng núi rừng Tà Hoàng.
Trong tương lai không xa, ngành du lịch Tuy Phong sẽ có kế hoạch đầu tư khai thác đưa thác và rừng Tà Hoàng trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, cuốn hút nhiều du khách đến với thiên nhiên, đến với con người Tuy Phong.
|
General introduction of Tuy Phong district
GEOGRAPHICAL LOCATION
The Northeast borders Ninh Phuoc district,
Ninh Thuan province
.
The North and Northwest border Don Duong district, Lam Dong province.
The West borders Bac Binh district, Binh Thuan province.
East sea bordering the east.
The Southeast borders the East Sea.
GEOGRAPHICAL COORDINATES
From 11 degrees 17 minutes 30 seconds to 11 degrees 37 minutes 30 seconds North latitude
From 108 degrees 30 minutes to 108 degrees 52 minutes 30 seconds East Longitude
Natural area 79,386 hectares
Coastline length 50 km
The length of National Highway 1A passes through 43 km
The length of the North-South railway is 38 km
Tuy Phong district is located in the north of Binh Thuan province, has a natural area of 79,385.54 hectares, the number of administrative units includes 2 towns and 10 communes, and has a border with Ninh Thuan province and Lam Dong province. The district center is located in Lien Huong town, 90km north of Phan Thiet city. In the district, there is National Highway 1A passing through with a length of 43km, and the North - South railway passing through with a length of 38km. From the district center, it is very convenient to go to neighboring provinces such as Ninh Thuan province, Lam Dong province and many other provinces in the Central Coast region, the Southern key economic region and the Central Highlands. In particular, the coastal area of Tuy Phong district has a close relationship with the coastal area of Bac Binh district, Phan Thiet city, and the coastal area of Ninh Thuan province. Therefore, it is very convenient for linkages and cooperation to develop marine economic sectors. The land location of the district is located at geographical coordinates from 11017′30′′ to 110 37′30′′ North latitude and 1080 30′ to 108052′30′′ East longitude. – The North and Northeast border Ninh Phuoc district, Ninh Thuan province. – The South and Southeast border the East Sea. – The West and Northwest border Bac Binh district, Binh Thuan province and Don Duong district, Lam Dong province. Among the 12 administrative units of the district, only 2 towns are in the plains, while the 10 communes are all in the highlands, mountains and midlands (including: the highland commune is Phan Dung, 4 mountainous communes are Phong Phu, Vinh Hao, Vinh Tan, Phu Lac and the remaining 5 communes are midland). Tuy Phong district has a coastline of 50km, has 2 river mouths flowing into the sea, convenient for building a fishing port and a fishery logistics service center. The natural landscape is diverse, including mountains, plains and coastal areas, favorable for the construction of coastal eco-tourism areas associated with eco-tourism in mountainous areas. Promoting the advantage of the district's geographical location, it is necessary to promote comprehensive development of agriculture, forestry, fishery, salt production - industry - trade, services and tourism. Paying special attention to attracting investment projects to develop industry and tourism, first of all, closely coordinate with relevant industries and levels to accelerate investment progress in building Vinh Tan thermal power center. in the district.
Tan Cung - Ta Hoang ecological region, hidden beauty
To start your trip to visit the scenic mountainous region of Tuy Phong district, we invite you to visit Long Song reservoir:
Song Long Song Lake was constructed at the end of 2001 and put into use in 2005. The water surface area is about 275 hectares, the capacity is more than 37 million cubic meters, providing irrigation water for 4,300 hectares of land area. agriculture and domestic water for the people of the entire district. In addition, the lake also has the task of regulating floods for the downstream area. The lake's surface area is large and surrounded by mountains, creating a charming landscape, very suitable for picnics. Relaxing fishing.
After visiting the lake, we go uphill with a winding, winding, dangerous road surrounding the lake to reach another tourist destination, no less mysterious, it is associated with the history of liberation. Tuy Phong's hometown is Tan Cung waterfall.
This is the upstream waterfall of Long Song Lake with a flow stretching more than 3 km, many streams flowing into it, creating a beautiful waterfall with white foam and flocks of fish hovering, creating a lively landscape. . Not only that, you can also admire the rocks eroded over time, creating strange shapes, winding like stone dragons converging here, such as Ham Ech, Tiger Cave, Ca Linh stream... . by local name. This place is also the gateway for communication between revolutionary bases such as Nha Bao area, Huyen Doi stream, Tan Le base and the lowlands of revolutionary soldiers in the two resistance wars to liberate Tuy Phong homeland.
More than 10 km to the northwest, we come to Phan Dung commune, Raglay ethnic area, you will have the opportunity to interact, learn about local customs and traditions, and enjoy regional specialties. mountains, singing and drinking wine with indigenous people...
According to the schedule, we continue to explore Ta Hoang primeval forest and Yavly waterfall. To get to Yavly waterfall, we have to go through the Ta Hoang primeval forest. Although the road is winding and winding, along small roads, short distances there are streams with schools of fish swimming freely, and it is more enjoyable to roam in the vast forest. Ta Hoang forest is a relatively intact forest, covering more than 20 thousand hectares, where there are many precious wood species such as ironwood, star, rosewood, rosewood, rosewood, sandalwood, many straight forests of Lagerstroemia, Towering into the blue sky... under the forest canopy are shrub vegetation, many colorful forest flowers, majestic rocks, with streams blocking them, nestled on the banks are rows of wild bananas, bamboo shoots, Wildflowers, brightly lit in the forest with stilt houses and green fields of ethnic minorities, create beautiful natural paintings in the middle of the mountains and forests.
Nestled deep at the end of the forest is a waterfall named after Raglay's daughter, Yavly, also known as May waterfall. After more than 2 hours of walking through the forest and wading streams, we heard the inviting sound of the waterfall.
Yavly Waterfall is nearly 50 meters high, whether it is sunny or rainy season, the waterfall still flows at the top of the waterfall, flowing rapidly like two intersecting gutters, winding like a dragon spraying water, steam flying high creating clouds covering the whole area. A corner of the forest, meeting the sunlight, creates a beautiful rainbow of seven colors. At the foot of the waterfall is a pool of about 100 square meters, the water level is not deep but clear, you can see every pebble, every school of fish swimming upstream, it is an ideal beach with cool water. cold.
You have to take a bath here to feel all the fun of it, the water is clear and cool, large enough for you to swim and play freely. After bathing, you can choose the large rocks as a place to rest and enjoy. The on-site fish dishes are truly wonderful and poetic when looking at many beautiful butterflies, many precious trees, and ancient moss patches, creating a magical scene of Ta Hoang mountain and forest.
In the near future, Tuy Phong tourism industry will have a plan to invest in exploiting the waterfall and Ta Hoang forest to become an attractive eco-tourism destination, attracting many tourists to nature and people of Tuy Phong. Wind.
|
Giới thiệu khái quát huyện Văn Lâm
Văn Lâm được xác định là một trong các vùng kinh tế động lực quan trọng của tỉnh Hưng Yên. Giáp
thủ đô Hà Nội
, với Quốc lộ 5A chạy qua, đã và đang có nhiều lợi thế phát triển trở thành huyện công nghiệp.
1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
: Văn Lâm là huyện nằm ở phía bắc
tỉnh Hưng Yên
, phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía tây giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp các huyện Văn Giang, Yên Mỹ và Mỹ Hào, phía đông giáp tỉnh Hải Dương. Huyện Văn Lâm có 11 đơn vị hành chính xã, thị trấn.
Đặc điểm địa hình
: Văn Lâm có địa hình bằng phẳng, cốt đất cao thấp không đều, độ dốc thoải dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao trung bình từ 3 – 4 mét. Với địa hình như vậy, huyện vẫn có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời có tiềm năng lớn cho đầu tư phát triển công nghiệp.
Khí hậu
: Huyện có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ dao động từ 25 – 28
o
C; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ dao động từ 15 – 21
o
C. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1176mm, độ ẩm trung bình 80%. Điều kiện khí hậu thủy văn của huyện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, có điều kiện thâm canh gối vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
2. Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Văn Lâm có tổng diện tích tự nhiên là 74,42km
2
, trong đó: đất nông nghiệp 4.674,68 ha(chiếm 62,81%), đất chuyên dùng 1.740,83 ha (chiếm 23,39%), đất ở 709,02 ha (chiếm 9,53%), đất chưa sử dụng 317,66 ha (chiếm 4,27%).
Huyện Văn Lâm có nguồn nước ngầm với trữ lượng lớn, chất lượng tốt, có khả năng khai thác tới 100.000 m
3
/ngày đêm, qua phân tích hàm lượng nước có 43 chất đảm bảo cho khai thác sử dụng, đáp ứng công suất nhà máy nước khoảng 10 triệu lít/năm.
3. Kết cấu hạ tầng
Cấp điện
: Các tuyến đường dây tải điện và các trạm biến áp trung và hạ thế trên địa bàn huyện đã từng bước được nâng cấp. Đến nay 100% số hộ nông thôn đã có điện.
Cấp nước
: Đến nay đã có khoảng 92% số hộ được dùng nước sạch, hợp vệ sinh.
Giao thông vận tải
: Văn Lâm có Quốc lộ 5A và đường sắt Hà Nội-Hải Phòng chạy từ đông sang tây, hai trục giao thông này là điều kiện thuận lợi để Văn Lâm có thể giao lưu trực tiếp với hai trung tâm kinh tế, văn hóa lớn, quan trọng của các tỉnh phía Bắc. Hệ thống cầu, đường chính trên địa bàn đã cơ bản được đầu tư, cải tạo. Đường giao thông nông thôn được quan tâm xây dựng, cải tạo các tuyến đường trục xã, cứng hóa đường trục thôn.
Thông tin liên lạc
: Mạng lưới bưu chính viễn thông được quan tâm phát triển, phát huy tốt tác dụng của điểm bưu điện văn hóa xã. 100% các thôn trong huyện đã có mạng lưới điện thoại, tỷ lệ 5 máy/100 dân.
4. Tiềm năng du lịch
Văn Lâm là vùng đất giàu tính văn hiến – văn hóa – anh hùng; chịu ảnh hưởng của văn hóa Kinh Bắc, có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tầm cỡ vùng, quốc gia như: Chùa Nôm, Cầu Đà, Chùa Thái Lạc, đền Nguyên phi Ỷ Lan,…hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
5. Nguồn nhân lực
Năm 2003, dân số toàn huyện là 97.519 người, mật độ dân số 1.309 người/km
2
.
|
General introduction of Van Lam district
Van Lam is identified as one of the important economic driving regions of Hung Yen province. Giap
Ha Noi capital
, with National Highway 5A running through, has and is having many advantages to develop into an industrial district.
1. Natural conditions
Geographical location
: Van Lam is a district located in the north
hung Yen province
, the north and northeast borders Bac Ninh province, the west borders the capital Hanoi, the south borders Van Giang, Yen My and My Hao districts, the east borders Hai Duong province. Van Lam district has 11 administrative units of communes and towns.
Topographic characteristics
: Van Lam has flat terrain, uneven high and low soil levels, gentle slope from northwest to southeast, average height of 3 - 4 meters. With such terrain, the district still has favorable conditions to develop agricultural production and at the same time has great potential for investment in industrial development.
Climate
: The district has a tropical monsoon climate, with two distinct seasons. The rainy season is from May to October, temperatures range from 25 - 28
o
C; The dry season is from November to April of the following year, temperatures range from 15 to 21
o
C. Average annual rainfall is about 1176mm, average humidity is 80%. The district's hydro-climatic conditions are favorable for agricultural development, with conditions for intensive cropping and restructuring of crops and livestock.
2. Natural resources
Van Lam district has a total natural area of 74.42 km2
2
, of which: agricultural land 4,674.68 hectares (accounting for 62.81%), specialized land 1,740.83 hectares (accounting for 23.39%), residential land 709.02 hectares (accounting for 9.53%), undeveloped land using 317.66 hectares (accounting for 4.27%).
Van Lam district has underground water resources with large reserves and good quality, capable of exploiting up to 100,000 m
3
/day and night, through analysis of water content, there are 43 substances that ensure exploitation and use, meeting the water plant capacity of about 10 million liters/year.
3. Infrastructure
Power supply
: Power transmission lines and medium and low voltage transformer stations in the district have been gradually upgraded. Up to now, 100% of rural households have electricity.
Water supply
: Up to now, about 92% of households have access to clean, hygienic water.
Transportation
: Van Lam has National Highway 5A and the Hanoi-Hai Phong railway running from east to west. These two traffic axes are favorable conditions for Van Lam to interact directly with two major economic and cultural centers. , important in the Northern provinces. The main road and bridge system in the area has been basically invested and renovated. Attention is paid to building and improving commune roads and hardening village roads.
Communications
: The postal and telecommunications network is paid attention to development, promoting the effectiveness of commune cultural post offices. 100% of villages in the district have a telephone network, the ratio is 5 phones/100 people.
4. Tourism potential
Van Lam is a land rich in civilization - culture - heroes; Influenced by Kinh Bac culture, there are many historical relics and scenic spots of regional and national significance such as: Nom Pagoda, Da Bridge, Thai Lac Pagoda, Nguyen Phi Y Lan Temple,... attracting domestic and foreign tourists. and abroad.
5. Human resources
In 2003, the district's population was 97,519 people, population density was 1,309 people/km
2
.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thanh Hà
Diện tích:
159 km2
Dân số:
152.492 người
Đơn vị hành chính:
gồm 24 xã và 01 thị trấn
Giới thiệu chung:
Thanh Hà là một huyện của
tỉnh Hải Dương
, đất đai do phù sa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nổi tiếng với đặc sản Vải thiểu
Vị trí địa lý:
nằm ở phía đông nam tỉnh, Phía bắc giáp huyện Nam Sách, phía đông giáp huyện Kim Thành, phía nam giáp thành phố Hải Phòng, phía tây giáp thành phố Hải Dương. Huyện có 24 xã và 1 thị trấn (huyện lỵ).
Huyện được chia làm 4 khu là Hà Nam, Hà Đông, Hà Tây và Hà Bắc.
Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m.
Khí hậu ở Thanh Hà mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, lại nằm giữa vùng trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, nên Thanh Hà có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội và quân sự của tỉnh Hải Dương.
Thanh Hà có các con sông lớn như Thái Bình (ở phía Tây Nam), sông Rạng, sông Văn Úc (ở phía Đông Bắc) bao bọc quanh tạo nên các tuyến giao thông đường thuỷ rất quan trọng với thành phố Hải Dương các tuyến bạn như Tứ Kỳ, Kim Thành và giữa Hải Dương với hải cảng Hải Phòng, Quảng Ninh. Ngoài các con sông lớn bao quanh, trong địa phận Thanh Hà còn có sông Gùa nối sông Thái Bình với sông Văn Úc, tách khu vực Hà Đông (gồm 6 xã) như một hòn đảo nằm giữa các con sông lớn; sông Hương (đầu công nguyên gọi là sông Cam Giang) chi lưu của sông Thái Bình vào Thanh Hà từ đầu phía Tây Bắc (đầu xã Tiền Tiến, hiện nay đã bị lấp) xuyên dọc giữa huyện nhập vào sông Văn Úc tại xã Thanh Xuân. Từ các con sông lớn, có các sông, ngòi nhỏ chạy len lỏi vào tận các thôn, xã trong huyện, tạo thuận lợi cho việc tưới tiêu nước cho đồng ruộng và là hệ thống giao thông thuỷ quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, quân sự giữa các vùng, giữa Thanh Hà với các huyện trong tỉnh và các tỉnh trong cả nước. Đồng thời cũng rất thuận lợi cho việc chăn nuôi đánh bắt thuỷ sản, chăn nuôi gia cầm có giá trị kinh tế cao.
Giao thông bộ có đường 390A chạy từ Ngã Ba Hàng (đường 5 cũ) qua địa phận xã Tiền Tiến về huyện lỵ xuôi xuống bến Gùa, kéo dài đến phà Quang Thanh; đường 390B nối từ đường 5 (đầu cầu Lai Vu) qua các xã Hồng Lạc, Việt Hồng, Cẩm Chế về huyện lỵ. Hai con đường này là huyết mạch giao thông của huyện, ngoài ra trong nội hạt còn có các con đường nhỏ liên huyện, liên xã, liên thôn tạo thành hệ thống giao thông sinh hoạt, giao lưu kinh tế, văn hoá của nhân dân và có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc phòng của địa phương.
Về điều kiện tự nhiên, đất đai do phù sa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, do phù sa bồi tụ không đều nên địa hình thổ nhưỡng của Thanh Hà không bằng phẳng và phần lớn vẫn ở dạng phù sa non. Khi chưa có hệ thống đê, hàng năm vào mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về mang phù sa tràn vào đồng ruộng, đầm bãi, ao hồ, có khi ngập nước đến ba bốn tháng (từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch). Sau khi nước rút đi đã để lại lớp phù sa dày 5 – 10 cm. Thanh Hà có2/ 3 diện tích là triều bãi, nhiều vùng trước đây là đầm hồ, bãi trũng, quanh năm chỉ có cỏ lau , lác sú, vẹt mọc um tùm, song đó lại là môi trường tốt cho các loài thuỷ sinh quý, có giá trị dinh dưỡng cao như: tôm, cá, cua, cáy, rươi, ruốc,…
Riêng 6 xã khu Hà Đông trũng hơn, có nhiều đầm, hồ, ruộng bãi rất thấp, lại gần hạ lưu, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuỷ triều lên xuống hàng ngày, do đó đã tạo thành một vùng sinh thái nước lợ đặc biệt phong phú. Nhiều loại thuỷ sản được mệnh danh là đặc sản nổi tiếng: Tôm rảo, cà ra, rươi, rạm,… “Tháng mười cà ra, tháng ba tôm rảo”; đặc biệt con rươi là thuỷ sản quý chỉ có ở vùng nước lợ, sống chủ yếu trong lòng đất phù sa, xuất hiện nhiều vào tháng 9, tháng 10 (âm lịch)
Lịch sử:
Mảnh đất Thanh Hà có lịch sử phát triển lâu đời căn cứ vào tài liệu khảo cổ thì xa xưa nơi đây là biển cả mênh mông, trải qua hàng vạn năm – được phù sa sông Thái Bình và sông Kinh Thầy bồi đắp đã thành đồng bãi phù sa châu thổ. Những cư dân Thanh Hà đầu tiên đã đến đây khai phá vùng đầm lầy, bãi lau, bờ sú thành đồng ruộng tốt tươi. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước cùng dân tộc, nhân dân lao động và đã tạo dựng lên mảnh đất giàu đẹp như ngày nay và trở thành niềm tự hào của người Thanh Hà.
Từ lâu trong nhân dân đã có câu ca:
“Đã là con mẹ con cha
Sinh ra ở đất Thanh Hà xứ Đông”
Cũng có nơi trong huyện truyền nhau câu ca:
“Muốn làm con mẹ con cha
Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông”
(tỉnh Hải Dương xưa có tên tỉnh Đông – xứ Đông).
Trải qua những biến động của lịch sử, đơn vị hành chính và địa giới Thanh Hà cũng thay đổi. Thời Hùng Vương , nước ta được chia thành 15 bộ, Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền; đến đầu Công nguyên nhà Hán đô hộ chia nước ta ra làm 3 quận, 10 huyện, Thanh Hà lúc đó có tên huyện là Câu Lậu (gồm Nam Thanh Hà, Tây An Lão và 1/ 3 huyện Tiên Lãng – Hải Phòng). Lúc này cư dân đã khá đông đúc, sống tập trung ở các vùng thuộc khu Hà Bắc, Hà Tây và một phần Hà Nam ngày nay.
Đến đầu thế kỷ VI, Thanh Hà đã có nhiều cụm dân cư ở tập trung thành xóm trại; lớn hơn là các trang như: Cập Hiền Trang (Tiền Tiến); Hoàng Mô, Hoàng Mai Trang (Quyết Thắng); Hưu Cao Trang, Sơn Trại Trang (Thanh Bình); Hạ Hào Trang (Thanh Xá); Đìa La Trang (Cẩm Chế); Tảo Sơn Trang (Thanh An); Đại Lý, Hải Hộ Trang (Hồng Lạc),…
|
General introduction of Thanh Ha district
Acreage:
159 km2
Population:
152,492 people
Administrative units:
includes 24 communes and 01 town
General introduction:
Thanh Ha is a district of
Hai Duong Province
, the land is deposited by alluvium and has many rivers so it is very fertile and fertile, favorable for agricultural economic development, famous for its specialty Litchi.
Geographical location:
Located in the southeast of the province, the North borders Nam Sach district, the East borders Kim Thanh district, the South borders Hai Phong city, the West borders Hai Duong city. The district has 24 communes and 1 town (district capital).
The district is divided into 4 zones: Ha Nam, Ha Dong, Ha Tay and Ha Bac.
The nature of the land as well as the terrain of the district is characterized by the alluvial soil of the Thai Binh River. The average altitude above sea level is 0.60 m.
The climate in Thanh Ha clearly has the characteristics of a tropical monsoon climate, converging all the conditions to develop a comprehensive agriculture.
With a geographical location and natural conditions favorable for socio-economic development, and located in the middle of the key region of the Northern Delta, Thanh Ha plays an important role in socio-economic development. and military of Hai Duong province.
Thanh Ha is surrounded by large rivers such as Thai Binh (in the southwest), Rang river, Van Uc river (in the northeast), creating very important waterway transportation routes for Hai Duong city. Friends like Tu Ky, Kim Thanh and between Hai Duong and Hai Phong port, Quang Ninh. In addition to the surrounding large rivers, in Thanh Ha territory, there is also the Gua River connecting the Thai Binh River with the Van Uc River, separating the Ha Dong area (including 6 communes) like an island between large rivers; Huong River (at the beginning of AD called Cam Giang River) is a tributary of Thai Binh River entering Thanh Ha from the northwest end (at the beginning of Tien Tien commune, now filled in) through the middle of the district and joining Van Uc river in Thanh commune. Spring. From large rivers, there are small rivers and streams running into villages and communes in the district, facilitating irrigation for fields and being an important water transportation system in economic exchange. , culture, and military between regions, between Thanh Ha and districts in the province and provinces throughout the country. At the same time, it is also very convenient for aquaculture and poultry farming with high economic value.
Road traffic has road 390A running from Nga Ba Hang (old road 5) through Tien Tien commune to the district capital down to Gua wharf, extending to Quang Thanh ferry; Road 390B connects from Road 5 (Lai Vu bridgehead) through Hong Lac, Viet Hong, Cam Che communes to the district capital. These two roads are the district's traffic arteries. In addition, within the district there are also small inter-district, inter-commune and inter-village roads forming a transportation system for daily life, economic and cultural exchanges of the people. and plays an important role in local national security and defense.
Regarding natural conditions, the land is deposited by alluvium and has many rivers, so it is very fertile and fertile, favorable for agricultural economic development. However, due to uneven alluvial deposition, Thanh Ha's soil terrain is uneven and most of it is still in young alluvial form. When there was no dyke system, every year during the rainy season, floodwaters from upstream poured in, carrying silt into fields, swamps, ponds, and lakes, sometimes submerged for three or four months (from May to September). calendar). After the water receded, it left behind a layer of silt 5 - 10 cm thick. Thanh Ha has 2/3 of its area being tidal flats, many areas were formerly lakes and lowlands, year-round only reeds, tiger grasses, and parrots grow luxuriantly, but it is a good environment for precious aquatic species. , have high nutritional value such as: shrimp, fish, crabs, fiddler crabs, worms, shrimps,...
Particularly, the 6 communes of Ha Dong area are more low-lying, have many lagoons, lakes, and very low fields, close to the downstream, and are directly affected by daily rising and falling tides, thus forming a special brackish water ecological region. exceptionally rich. Many types of aquatic products are known as famous specialties: Shrimp crepes, eggplants, worms, crabs, etc. "In October, tomatoes come out, in March shrimp sprouts"; In particular, worms are a precious aquatic product found only in brackish water areas, living mainly in alluvial soil, appearing in abundance in September and October (lunar calendar).
History:
The land of Thanh Ha has a long history of development. Based on archaeological documents, in the past, this place was a vast sea, over tens of thousands of years - alluvial deposits from the Thai Binh and Kinh Thay rivers became copper. delta alluvium. The first Thanh Ha residents came here to exploit the wetlands, reed beds, and sandbanks into lush fields. Through the historical process of building and defending the country with the nation and the working people, it has created the rich and beautiful land it is today and has become the pride of Thanh Ha people.
There has long been a song among the people:
“It's mother and father
Born in Thanh Ha, Eastern region"
There are also places in the district that pass along the song:
“Want to be a mother and father
Then I was born in Thanh Ha land, Eastern region."
(Ancient Hai Duong province was called Dong province - Eastern land).
Through historical upheavals, Thanh Ha's administrative units and boundaries also changed. During the Hung King period, our country was divided into 15 departments, Hai Duong belonged to the Duong Tuyen department; At the beginning of the Common Era, Han Dynasty domination divided our country into 3 districts, 10 districts, Thanh Ha at that time was called Cau Lau district (including Nam Thanh Ha, Tay An Lao and 1/3 of Tien Lang district - Hai Phong). At this time, the population was quite crowded, living concentrated in the areas of Ha Bac, Ha Tay and part of Ha Nam today.
By the beginning of the 6th century, Thanh Ha had many residential clusters concentrated into hamlets; Larger sites are sites such as: Egypt Hien Trang (Tien Tien); Hoang Mo, Hoang Mai Trang (Quyet Thang); Huu Cao Trang, Son Trai Trang (Thanh Binh); Ha Hao Trang (Thanh Xa); Dia La Trang (Cam Che); Tao Son Trang (Thanh An); Dali, Hai Ho Trang (Hong Lac),…
|
Giới thiệu khái quát huyện Thanh Miện
Diện tích huyện Thanh Miện: 122 km2
– Dân số huyện Thanh Miện: 122.574 người
– Đơn vị hành chính huyện Thanh Miện: 18 xã và 1 thị trấn
Thị trấn: Thanh Miện (trước là xã Lê Bình).
Xã: Cao Thắng, Chi Lăng Bắc, Chi Lăng Nam, Diên Hồng, Đoàn Kết, Đoàn Tùng, Hồng Quang, Hùng Sơn, Lam Sơn,Lê Hồng, Ngô Quyền, Ngũ Hùng, Phạm Kha, Tân Trào, Thanh Giang, Thanh Tùng, Tứ Cường, Tiền Phong.
Giới thiệu chung:
Thanh Miện là một huyện của
tỉnh Hải Dương
, trung tâm huyện cách Hà Nội 60 km; cách thành phố Hải Dương 23 km và cách thị xã Hưng Yên 25 km. Cùng với mạng lưới giao thông thông suốt, Thanh Miện có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp và nông thôn.
Lịch sử:
Thời thuộc Minh là huyện thuộc châu Hạ Hồng, phủ Tây An, sau thuộc phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương. Năm 1979, sáp nhập với huyện Ninh Giang thành huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng, nay là tỉnh Hải Dương. Tháng 1 năm 1996 lại tách thành 2 huyện như cũ.
Vị trí địa lý:
Thanh Miện là huyện đồng bằng nằm ở phía tây nam của tỉnh Hải Dương. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 122,321 km² trải dài từ 106°7′50″ đến 160°16′20″ kinh Đông và từ 20°40′45″ đến 20°50′55″ vĩ Bắc. Phía tây bắc giáp huyện Bình Giang, đông bắc giáp huyện Gia Lộc, đông nam giáp huyện Ninh Giang, nam giáp tỉnh Thái Bình, tây giáp tỉnh Hưng Yên.
Thời tiết khí hậu
Do nằm trong vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng nên Thanh Miện có khí hậu đăc trưng của đồng bằng Bắc Bộ đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm phân biệt thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt. Lượng mưa trong năm tập trung từ tháng 4 đến tháng 9 và mưa rất ít từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Lượng nước mưa trung bình trong năm của huyện từ 1.350 đến 1.600 mm (cao nhất là 2.501 mm vào năm 1973 và thấp nhất là 752,2 mm vào năm 1989). Nhiệt độ trung bình 23,3°C; số ngày nắng từ 180 đến 200 ngày một năm. Độ ẩm trung bình từ 81 đến 87%.
Đất đai, địa hình
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 122,321 km² trong đó đất nông nghiệp 8.551 ha; đất khu dân cư 865 ha và đất chưa sử dụng 304 ha. Mật độ dân số tính theo website Chính phủ[1] là 1.075 người/km².
Đất nông nghiệp của huyện ở địa hình dốc từ tây bắc xuống đông nam, có cao trình cao, thấp xen kẽ nhau.
Theo đó cơ cấu đất nông nghiệp của huyện rất phức tạp, trong đó 1.489 ha đất chân cao; 4.412 ha đất chân vàn; 1.688 ha đất chân thấp; 277 ha đất trũng và 685 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản.
Nhìn chung đất nông nghiệp ở Thanh Miện nghèo dinh dưỡng, tầng canh tác mỏng, tỷ lệ đất nghèo lân chiếm 60%( 4.720 ha) và có tới 6.028 ha ở độ chua cấp I (pH< 4,5; chiếm 70%).
Giao thông và nguồn nước
Quy hoạch, phát triển hệ thống giao thông đường bộ là một trong những ưu tiên hàng đầu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện trong những năm trở lại đây. Thanh Miện có đường liên tỉnh 38B chạy từ thành phố Hải Dương qua Gia Lộc, qua trung tâm huyện, nối với tỉnh Hưng Yên; Thái Bình đi các tỉnh phía nam.
Đường tỉnh có 20A nối trung tâm huyện với Bình Giang đi Hà Nội; các tuyến 20B; 39D chạy theo trục bắc nam, đông tây nối Thanh Miện với các huyện lân cận. Ngoài ra, hệ thống giao thông thuỷ với sông Luộc; sông Cửu An; sông Hàng Kẻ Sặt và 3 bến chính cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giao thương hàng hoá giữa Thanh Miện với các tỉnh, các huyện khác.
Nguồn nước tưới, tiêu trên địa bàn huyện cũng khá đa dạng và ổn định, do Thanh Miện nằm trong hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải. Phía nam huyện giáp sông Luộc với chiều dài 2,8 km. Trong nội đồng có sông Hàng Kẻ Sặt và sông Cửu An là trục chính Bắc Hưng Hải tiếp giáp với sông ngoài bằng cửa An Thổ và Cầu Xe.
|
General introduction of Thanh Mien district
Area of Thanh Mien district: 122 km2
– Thanh Mien district population: 122,574 people
– Thanh Mien district administrative unit: 18 communes and 1 town
Town: Thanh Mien (formerly Le Binh commune).
Communes: Cao Thang, Chi Lang Bac, Chi Lang Nam, Dien Hong, Doan Ket, Doan Tung, Hong Quang, Hung Son, Lam Son, Le Hong, Ngo Quyen, Ngu Hung, Pham Kha, Tan Trao, Thanh Giang, Thanh Tung, Tu Cuong, Tien Phong.
General introduction:
Thanh Mien is a district of
Hai Duong Province
, the district center is 60 km from Hanoi; 23 km from Hai Duong city and 25 km from Hung Yen town. Along with a smooth transportation network, Thanh Mien has many favorable conditions to develop commodity production in agriculture and rural areas.
History:
During the Ming Dynasty, the district belonged to Ha Hong district, Tay An district, then belonged to Ninh Giang district, Hai Duong town. In 1979, merged with Ninh Giang district to become Ninh Thanh district, Hai Hung province, now Hai Duong province. In January 1996, it was divided into 2 districts again.
Geographical location:
Thanh Mien is a delta district located in the southwest of Hai Duong province. The total natural area of the district is 122,321 km², stretching from 106°7′50″ to 160°16′20″ East longitude and from 20°40′45″ to 20°50′55″ North latitude. The northwest borders Binh Giang district, the northeast borders Gia Loc district, the southeast borders Ninh Giang district, the south borders Thai Binh province, and the west borders Hung Yen province.
Weather and climate
Due to its central location in the Red River Delta, Thanh Mien has a typical climate of the Northern Delta, which is a tropical monsoon climate. The year is divided into four distinct seasons: spring, summer, autumn, and winter. Rainfall during the year is concentrated from April to September and very little rain from October to March of the following year.
The district's average annual rainfall is from 1,350 to 1,600 mm (the highest is 2,501 mm in 1973 and the lowest is 752.2 mm in 1989). Average temperature 23.3°C; The number of sunny days ranges from 180 to 200 days a year. Average humidity is from 81 to 87%.
Land, topography
The total natural area of the district is 122,321 km², of which agricultural land is 8,551 hectares; 865 hectares of residential land and 304 hectares of unused land. Population density calculated according to the Government website[1] is 1,075 people/km².
The district's agricultural land is in sloping terrain from northwest to southeast, with alternating high and low elevations.
Accordingly, the district's agricultural land structure is very complex, of which 1,489 hectares are high land; 4,412 hectares of prime land; 1,688 hectares of lowland land; 277 hectares of lowland land and 685 hectares of water surface for aquaculture.
In general, agricultural land in Thanh Mien is poor in nutrients, the arable layer is thin, the proportion of poor soil in phosphorus accounts for 60% (4,720 hectares) and up to 6,028 hectares are at level I acidity (pH < 4.5; accounting for 70%). .
Traffic and water sources
Planning and developing the road traffic system is one of the top priorities in building the district's infrastructure in recent years. Thanh Mien has inter-provincial road 38B running from Hai Duong city through Gia Loc, through the district center, connecting with Hung Yen province; Thai Binh goes to the southern provinces.
Provincial road has 20A connecting the district center with Binh Giang to Hanoi; routes 20B; 39D runs along the north-south, east-west axis connecting Thanh Mien with neighboring districts. In addition, the water transportation system with Luoc River; Cuu An River; Hang Ke Sat River and 3 main wharves also play an important role in goods trade between Thanh Mien and other provinces and districts.
Water sources for irrigation and drainage in the district are also quite diverse and stable, because Thanh Mien is located in the Bac Hung Hai irrigation system. The south of the district borders Luoc River with a length of 2.8 km. In the inner field, there are Hang Ke Sat River and Cuu An River, the main axis of Bac Hung Hai, adjacent to the outer river by An Tho estuary and Cau Xe.
|
Giới thiệu khái quát huyện Gia Lộc
Gia Lộc là một huyện nằm phía tây nam của
tỉnh Hải Dương
với tổng diện tích 112 km² và dân số 137.586 147.322 người. Địa hình Gia Lộc là đồng bằng, đất nông nghiệp chiếm 67% diện tích. Về giao thông, đường 17 chạy qua địa phận huyện và đường thuỷ trên sông Thái Bình.
Trước đây, huyện mang tên Gia Lộc. Sau đó Gia Lộc sáp nhập với huyện Tứ Kỳ, thành huyện Tứ Lộc vào những năm 1979 – 1996, thuộc tỉnh Hải Hưng. Từ ngày 27 tháng 1 năm 1996, hai huyện lại được tách ra và mang tên như trước đó.
Diện tích:
112 km2
Dân số:
147.322 người
Đơn vị hành chính:
Huyện có một thị trấn và 22 xã, bao gồm:
Kinh tế
Gia Lộc hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa, các loại rau, khoai tây, tỏi, ớt, hoa đào v.v. với nguồn nước phong phú. Rau quả, táo, dưa hấu Gia Lộc được tiêu thụ cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh phía nam. Trung tâm mua bán, trao đổi các sản phẩm nông nghiệp tập trung ở Quán Nghiên(thuộc khu vực xã Gia Xuyên). Tại xã Thống Nhất có Viện cây lương thực Lương Đình Của của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Du lịch
Huyện có đền thờ Yết Kiêu tại xã Yết Kiêu, quê hương của ông, di tích lịch sử Đền Quát, mộ Đỗ Quang, đình Phương Điếm, đền Cuối. Ngoài ra còn có đền thờ Nguyễn Chế Nghĩa tại Thị trấn Gia Lộc.
Người nổi tiếng
• Lê Thanh Nghị (1911-1989), phó Thủ tướng của Việt Nam từ năm 1960 đến 1980
|
General introduction of Gia Loc district
Gia Loc is a district located southwest of
Hai Duong Province
with a total area of 112 km² and a population of 137,586 147,322 people. Gia Loc's terrain is plain, agricultural land accounts for 67% of the area. Regarding traffic, Road 17 runs through the district and the waterway on the Thai Binh River.
Previously, the district was named Gia Loc. Then Gia Loc merged with Tu Ky district, forming Tu Loc district in the years 1979 - 1996, in Hai Hung province. From January 27, 1996, the two districts were separated again and had the same name as before.
Acreage:
112 km2
Population:
147,322 people
Administrative units:
The district has one town and 22 communes, including:
Economy
Gia Loc operates economically in the agricultural sector, mainly growing rice, vegetables, potatoes, garlic, chili, peach blossoms, etc. with abundant water resources. Gia Loc vegetables, apples, and watermelons are consumed in the market in the province and the southern provinces. The center for buying, selling and exchanging agricultural products is concentrated in Quan Nghien (in Gia Xuyen commune). In Thong Nhat commune, there is Luong Dinh Cua Food Plant Institute of the Ministry of Agriculture and Rural Development.
Tourism
The district has Yet Kieu temple in Yet Kieu commune, his hometown, historical relics Quat Temple, Do Quang tomb, Phuong Diem communal house, Cuoi temple. There is also a temple to Nguyen Che Nghia in Gia Loc Town.
Celebrity
• Le Thanh Nghi (1911-1989), Deputy Prime Minister of Vietnam from 1960 to 1980
|
Giới thiệu khái quát huyện Tiên Lữ
Huyện Tiên Lữ là huyện đồng bằng Bắc Bộ, nằm ven sông Luộc và sông Hồng, tại ngã ba của hai con sông này. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có các con sông nhỏ là chi nhánh của sông Luộc là: sông Nghĩa Lý là danh giới tự nhiên giữa hai xã Lệ Xá và Trung Dũng.
Vị trí địa lý
: huyện Tiên Lữ về phía tây tiếp giáp với thành phố Hưng yên, phía tây bắc giáp huyện Kim Động, phía bắc giáp huyện Ân Thi, phía đông và đông bắc giáp huyện Phù Cừ, đều của tỉnh Hưng Yên. Phía đông nam giáp huyện Hưng Hà
tỉnh Thái Bình
, ranh giới là sông Luộc.
Đặc điểm địa hình
: Huyện Tiên Lữ nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ và là vùng trũng của tỉnh, có địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Độ cao của đất xen nhau, đây là một trong những yếu tố gây không ít khó khăn cho công tác thủy lợi phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp.
Khí hậu
: Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, từ tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ trung bình từ 24 – 27 °C, đây là mùa có nhiều mưa bão, ảnh hưởng đến phát triển sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 18 – 24 °C. Độ ẩm tương đối hàng năm là 86%. Lượng mưa trung bình từ 1680 – 1730mm, có năm lượng mưa trên 2000mmm (do vị trí địa lý nên lượng mưa thường cao hơn các huyện phía bắc tỉnh từ 100 – 200mm và tập trung vào các tháng 8, 9). Diện tích tự nhiên của huyện Tiên Lữ là 115,10km2.
Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Tiên Lữ có diện tích đất tự nhiện 115,10km2
Diện tích đất nông nghiệp là 6.293,68 ha; diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người của huyện là 549m2. Thổ nhưỡng chủ yếu là đất phù sa được bồi và đất phù sa không được bồi. Đất phù sa được bồi phân bổ chủ yếu ở vùng ngoài đê ven sông Luộc, hàng năm được phù sa bồi đắp nên đất đai màu mỡ, thích hợp trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực và hoa màu. Nhìn chung, điều kiện khí hậu và đất đai của Tiên Lữ thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đa dạng, với nhiều loại cây trồng.
Huyện nằm kề hai con sông
Hồng
và sông
Luộc
, hợp lưu giữa sông Hồng – sông Luộc – sông Thái Bình tạo nên ngã ba Tuần Vường. Ngoài ra còn các sông cổ được hình thành từ xa xưa là sông Càn Đà nối tiếp với sông Cửu An đổ ra Cửa Gàn,… cùng hệ thống sông đào làm thành hệ thống thủy lợi đảm bảo nguồn nước cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.
Danh sách các di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng trên địa bàn huyện
Danh sách các di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng trên địa bàn huyện
Di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng trên địa bàn huyện gồm
12 di tích xếp hạng cấp quốc gia
15 di tích xếp hạng cấp tỉnh
chi tiết trong file đính kèm
thong ke di tich lich su van hoa.pdf
Hoàng Hoa Thám, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên
Không nhiều người biết, người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế – phong trào yêu nước chống Pháp lớn nhất, kéo dài nhất và ảnh hưởng sâu sắc nhất tới xã hội Việt Nam, làm thực dân Pháp mất ăn mất ngủ cách đây một thế kỷ là một người con ưu tú của quê hương Hưng Yên.
|
General introduction of Tien Lu district
Tien Lu district is a Northern Delta district, located along the Luoc and Red rivers, at the confluence of these two rivers. In addition, in the district there are also small rivers that are branches of Luoc River: Nghia Ly River is the natural boundary between Le Xa and Trung Dung communes.
Geographical location
: Tien Lu district to the west borders Hung Yen city, the northwest borders Kim Dong district, the north borders An Thi district, the east and northeast borders Phu Cu district, all of Hung Yen province. The southeast borders Hung Ha district
Thai Binh Province
, the boundary is Luoc River.
Topographic characteristics
: Tien Lu district is located in the center of the Northern Delta and is a low-lying area of the province, with terrain gradually lowering from North to South, from West to East. The height of the land is mixed, this is one of the factors that causes many difficulties for irrigation work to serve the development of agricultural production.
Climate
: The district is located in the tropical monsoon climate zone, from May to October the average temperature is from 24 - 27 °C. This is the season with many storms, affecting production development, especially in the field of agriculture. From November to April next year, the average annual temperature is from 18 - 24 °C. The annual relative humidity is 86%. The average rainfall is from 1680 - 1730mm, with some years the rainfall is over 2000mm (due to geographical location, the rainfall is usually 100 - 200mm higher than the northern districts of the province and is concentrated in August and September). The natural area of Tien Lu district is 115.10km2.
Natural resources
Tien Lu district has a natural land area of 115.10km2
The agricultural land area is 6,293.68 hectares; The average agricultural land area per capita of the district is 549m2. The soil is mainly alluvial soil and non-alluvial soil. Alluvial soil is distributed mainly in the area outside the dyke along the Luoc River. Every year it is deposited with alluvium, making the land fertile, suitable for growing short-term industrial crops, food crops and crops. In general, Tien Lu's climate and soil conditions are favorable for the development of diverse agriculture, with many types of crops.
The district is located next to two rivers
Pink
and river
Boil
, the confluence of the Red River - Luoc River - Thai Binh River creates the Tuan Vuong junction. In addition, there are ancient rivers formed long ago, the Can Da River connecting with the Cuu An River flowing to Cua Gan,... along with the canal system forming an irrigation system to ensure water supply for agricultural production. and industry.
List of ranked historical and cultural relics in the district
List of ranked historical and cultural relics in the district
Historical and cultural relics ranked in the district include:
12 national-level relics
15 relics ranked at provincial level
detail in attached file
information on Van Hoa's historical relics.pdf
Hoang Hoa Tham, an outstanding son of his hometown Hung Yen
Not many people know that the hero Hoang Hoa Tham, leader of the Yen The uprising - the largest, longest-lasting anti-French patriotic movement and most deeply influenced Vietnamese society, was a French colonialist. Losing appetite and sleep a century ago was an outstanding son of his hometown Hung Yen.
|
Giới thiệu khái quát huyện Nam Sách
Diện tích:
109 km2
Dân số:
111.635 người
Đơn vị hành chính:
18 xã và 01 thị trấn
Thị trấn : Nam Sách
Xã: An Bình, An Sơn, An Lâm, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hiệp Cát, Hồng Phong, Hợp Tiến, Minh Tân, Nam Chính, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Tân, Nam Trung, Phú Điền, Quốc Tuấn, Thái Tân, Thanh Quang
Giới thiệu chung
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống
Vị trí địa lý
Huyện Nam Sách phía bắc giáp huyện Chí Linh, phía đông giáp huyện Kinh Môn và huyện Kim Thành, phía nam giáp thành phố Hải Dương, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng và huyện Gia Bình (
tỉnh Bắc Ninh
). Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m.
Khí hậu ở Nam Sách mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Lịch sử
Tên Nam Sách không hiểu có từ khi nào chỉ biết rằng, Phạm Chiêm là một hào trưởng ở vùng Trà Hương (Nam Sách Giang) giúp Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và đã cưu mang con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập năm 944. Sau khi giành lại ngôi vua Ngô Xương Văn xưng vương lấy hiệu là Nam Tấn Vương và Ngô Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách Vương, mỗi người lấy một từ của tên “Nam Sách” để tỏ lòng ghi nhớ về vùng đất này. Đến đời nhà Lý cũng có tên là Nam Sách Giang. Nam Sách là nơi phát tích của hai dòng họ Việt Nam đó là dòng họ Phạm (Trà Hương) và họ Mạc (Long Động).
Thời nhà Trần, Nam Sách là tên gọi của một xứ, bao gồm Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà và Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày nay. Cuối thời nhà Trần, nó là tên gọi của một châu (Nam Sách châu) thuộc phủ Lạng Giang. Đầu thời kỳ Lê sơ, là tên gọi của một lộ, bao gồm Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Đến thời Lê Nhân Tông là tên gọi của một phủ. Đến năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 đạo thừa tuyên, Nam Sách là một trong số đó. Tháng 4 năm 1469, nó lại chỉ là tên gọi của một phủ, do đạo thừa tuyên Nam Sách đã đổi thành Hải Dương. Trong thành phần phủ Nam Sách khi đó có các huyện Thanh Lâm, Chí Linh, Thanh Hà và Tiên Minh (Tiên Lãng ngày nay). Thời Hậu Lê, trụ sở phủ Nam Sách đặt tại Vạn Tải (nay thuộc xã Hồng Phong). Tới năm Gia Long 7 (1806) chuyển về Tổng Xá (xã Thanh Quang ngày nay). Năm 1898, bỏ cấp phủ. Tên gọi huyện Nam Sách có lẽ có từ khi này.
• Các giai đoạn từ 9/1947 tới 25/8/1948 và từ 7/11/1949 tới 22/2/1955, huyện thuộc tỉnh Quảng Yên.
• Ngày 24/2/1979 Nam Sách hợp nhất với Thanh Hà thành huyện Nam Thanh.
• Ngày 17/2/1997 huyện Nam Thanh lại tách ra thành huyện Nam Sách và huyện Thanh Hà.
Truyền thống-Văn hóa
Đình thờ Phạm Chiêm ở Thuỵ Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương
Nam Sách đã từng là đại bản doanh của nhiều triều đại: Hai bà Trưng, nhà Tiền Lý, nhà Ngô, nhà Trần.
Đây cũng là vùng đất của gốm Chu Đậu, chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian xứ Đông), quê hương của nhiều nhân vật lịch sử như:
• Phạm Chiêm (Phạm Lệnh Công) người đã cưu mang con trai Ngô Quyền (ông Tổ trung hưng nước Việt), có công xây dựng nhà Hậu Ngô Vương.
• Phạm Cự Lạng, cháu của Phạm Chiêm, người suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi cửu ngũ.
• Mạc Đăng Dung, người mở đầu triều đại nhà Mạc.
• Ngô Hoán, một thành viên trong hội thơ Tao Đàn của Lê Thánh Tông.
Tại Nam Sách còn là nơi mai táng Vũ Hồn, thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng.
Trong thời kỳ phong kiến Hải Dương có 10 vị đỗ đại khoa (Thủ khoa Đại Việt hay Trạng nguyên) thì riêng huyện Nam Sách có 6 vị là:
• Thủ khoa Minh kinh bác học Mạc Hiển Tích (1086), người Long Động, Nam Tân;
• Trạng nguyên Trần Quốc Lặc (1256) người Uông Hạ, Minh Tân;
• Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1304) người Long Động, Nam Tân;
• Trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh (1487) người Đồng Khê, An Lâm;
• Trạng nguyên Vũ Dương (1493) người Mạn Nhuế, Thanh Lâm.
• Trạng nguyên Đặng Thì Thố (1559) người làng Thạc, An Châu (nay thuộc thành phố Hải Dương);
Cũng chính vì có nhiều người đỗ đạt cao mà nhiều ý kiến cho rằng Nam Sách tức là “Sách của trời Nam”.
Trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc Nam Sách có 8 người được nhà nước Việt Nam tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là Vũ Ngọc Diệu, Đỗ Chu Bỉ, Nguyễn Nhật Chiêu, Đặng Đức Song, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Trung Goòng, Nguyễn Đức Sáu và Nguyễn Đăng Lành.
Năm 1978, huyện Nam Sách được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang.
Nơi đây còn là quê hương nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Kinh tế
Nông nghiệp
• Khuyến khích phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, đưa giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất. Mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, với những con có giá trị kinh tế cao như tôm, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng. Giai đoạn 2006 – 2010, phấn đấu đưa tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp đạt 7,6 – 7,8% /năm; tổng thu trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp vào năm 2010 đạt 53 triệu đồng/ha.
• Diện tích trên 800 ha nuôi trồng thuỷ sản, 1.038,5 ha sông ngòi tự nhiên và 500 ha đất bãi trũng cấy lúa được chuyển đổi sang đào ao lập vườn phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Công nghiệp
Trước kia Nam Sách có làng nghề gốm cực kỳ nổi tiếng là gốm Chu Đậu, từ năm 1995 bắt đầu phục hồi làng nghề gốm này. Huyện đã có khu công nghiệp Nam Sách được Chính phủ phê duyệt trên 63 ha, cụm công nghiệp An Đồng đã được tỉnh phê duyệt trên 35 ha. Khu Công nghiệp Cộng Hoà. Ngoài ra một số doanh nghiệp đã đầu tư vào thị trấn Nam Sách, xã Minh Tân; khả năng dành đất cho công nghiệp ở dọc đường 183, đường 17 của huyện còn lớn.
Du lịch
Toàn huyện có nhiều di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 11 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Nam Sách là một miền quê trù phú về phát triển cây vụ đông xuân, phát triển các làng nghề, phải kể đến 2 làng nghề là sấy rau quả ở Mạn Thạch Đê (xã Nam Trung) và làm hương (xã Quốc Tuấn). Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch, văn hoá, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc.
Kiến trúc
Cầu Bình bắc qua sông Kinh Thày nối liền Nam Sách với Chí Linh
Nam Sách nằm ở trung tâm của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, có hệ thống giao thông tổng thể không phải là không thuận lợi, mặc dù có sông bao bọc gần như bốn phía: đường 183 nối Hà Nội, Hải Phòng với Quảng Ninh (qua cầu Bình), có đường sông dài gần 50 km. Đây là một huyện có đầy đủ các điều kiện về địa lý, giao thông, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc phát triển các khu công nghiệp, kinh tế trang trại, mặt khác theo chủ trương phát triển tổng thể của Tỉnh đến năm 2015 thì việc xây dựng thêm Cầu nối liền Thành phố Hải Dương (chạy thẳng từ Thành phố Hải Dương xuyên qua đường vành đai các Thôn Trúc Khê, Nham Cáp, Nhân Lễ và La Xuyên nối thẳng với đường quốc lộ 183 để hình thành một tuyến lộ Hải Dương – Quảng Ninh). Đây chính là tiền đề để biến Nam Sách thành một trung tâm khu vực, điểm liên kết với các Tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhờ điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông mà Nam Sách đang dần trở thành một huyện có lợi thế thu hút vốn đầu tư lớn nhất so với các huyện trong toàn Tỉnh.
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống
Truyền thống cách mạng
Nam Sách là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Nam Sách đã có những đóng góp to lớn cho dân tộc. Toàn huyện có 2.808 liệt sỹ, 2.445 thương, bệnh binh, 291 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến, huyện Nam Sách cùng 05 xã
(Nam Tân, Hợp Tiến, Minh Tân, Đồng Lạc, Cộng Hòa)
và 09 cá nhân đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, 09 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân gồm:
– Liệt sỹ Mạc Thị Bưởi: Thôn Long Động, xã Nam Tân.
– Liệt sỹ Nguyễn Đăng Lành: Thôn Trần Xá, xã Nam Hưng.
– Liệt sỹ Nguyễn Trung Goòng: Thôn Vạn Tải, xã Hồng Phong.
– Liệt sỹ Nguyễn Đức Sáu: Thôn Uông Hạ, xã Minh Tân.
– Liệt sỹ Đỗ Chu Bỉ: Thôn An Lương, xã An Lâm.
– Đặng Đức Song: Thôn Chi Đoan, xã Cộng Hoà.
– Nguyễn Nhật Chiêu: Thôn Đông Thôn, xã Quốc Tuấn.
– Vũ Ngọc Diệu: Thôn Đông Thôn, xã Quốc Tuấn.
– Liệt sĩ Lê Văn Nhân: Thôn Kim Bảng, xã Phú Điền
(được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp ngày 26/4/2018)
Tôn giáo:
Trên địa bàn huyện hiện có 02 tôn giáo (Phật giáo và Công giáo) hoạt động được pháp luật công nhận. Bà con lương giáo đoàn kết, chung sống hài hòa trong cộng đồng xã hội
Những sản phẩm nổi tiếng:
– Gốm Chu Đậu (Thái Tân);
– Các mặt hàng nông sản chế biến như: hành, tỏi, cà rốt, bí ngô,… (Nam Trung, thị trấn Nam Sách);
– Hương thơm (Quốc Tuấn);
– Bún bánh (Lang khê).
|
Giới thiệu khái quát huyện Nam Sách
Diện tích:
109 km2
Dân số:
111.635 người
Đơn vị hành chính:
18 xã và 01 thị trấn
Thị trấn : Nam Sách
Xã: An Bình, An Sơn, An Lâm, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hiệp Cát, Hồng Phong, Hợp Tiến, Minh Tân, Nam Chính, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Tân, Nam Trung, Phú Điền, Quốc Tuấn, Thái Tân, Thanh Quang
Giới thiệu chung
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống
Vị trí địa lý
Huyện Nam Sách phía bắc giáp huyện Chí Linh, phía đông giáp huyện Kinh Môn và huyện Kim Thành, phía nam giáp thành phố Hải Dương, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng và huyện Gia Bình (
tỉnh Bắc Ninh
). Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m.
Khí hậu ở Nam Sách mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Lịch sử
Tên Nam Sách không hiểu có từ khi nào chỉ biết rằng, Phạm Chiêm là một hào trưởng ở vùng Trà Hương (Nam Sách Giang) giúp Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và đã cưu mang con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập năm 944. Sau khi giành lại ngôi vua Ngô Xương Văn xưng vương lấy hiệu là Nam Tấn Vương và Ngô Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách Vương, mỗi người lấy một từ của tên “Nam Sách” để tỏ lòng ghi nhớ về vùng đất này. Đến đời nhà Lý cũng có tên là Nam Sách Giang. Nam Sách là nơi phát tích của hai dòng họ Việt Nam đó là dòng họ Phạm (Trà Hương) và họ Mạc (Long Động).
Thời nhà Trần, Nam Sách là tên gọi của một xứ, bao gồm Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà và Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày nay. Cuối thời nhà Trần, nó là tên gọi của một châu (Nam Sách châu) thuộc phủ Lạng Giang. Đầu thời kỳ Lê sơ, là tên gọi của một lộ, bao gồm Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Đến thời Lê Nhân Tông là tên gọi của một phủ. Đến năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 đạo thừa tuyên, Nam Sách là một trong số đó. Tháng 4 năm 1469, nó lại chỉ là tên gọi của một phủ, do đạo thừa tuyên Nam Sách đã đổi thành Hải Dương. Trong thành phần phủ Nam Sách khi đó có các huyện Thanh Lâm, Chí Linh, Thanh Hà và Tiên Minh (Tiên Lãng ngày nay). Thời Hậu Lê, trụ sở phủ Nam Sách đặt tại Vạn Tải (nay thuộc xã Hồng Phong). Tới năm Gia Long 7 (1806) chuyển về Tổng Xá (xã Thanh Quang ngày nay). Năm 1898, bỏ cấp phủ. Tên gọi huyện Nam Sách có lẽ có từ khi này.
• Các giai đoạn từ 9/1947 tới 25/8/1948 và từ 7/11/1949 tới 22/2/1955, huyện thuộc tỉnh Quảng Yên.
• Ngày 24/2/1979 Nam Sách hợp nhất với Thanh Hà thành huyện Nam Thanh.
• Ngày 17/2/1997 huyện Nam Thanh lại tách ra thành huyện Nam Sách và huyện Thanh Hà.
Truyền thống-Văn hóa
Đình thờ Phạm Chiêm ở Thuỵ Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương
Nam Sách đã từng là đại bản doanh của nhiều triều đại: Hai bà Trưng, nhà Tiền Lý, nhà Ngô, nhà Trần.
Đây cũng là vùng đất của gốm Chu Đậu, chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian xứ Đông), quê hương của nhiều nhân vật lịch sử như:
• Phạm Chiêm (Phạm Lệnh Công) người đã cưu mang con trai Ngô Quyền (ông Tổ trung hưng nước Việt), có công xây dựng nhà Hậu Ngô Vương.
• Phạm Cự Lạng, cháu của Phạm Chiêm, người suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi cửu ngũ.
• Mạc Đăng Dung, người mở đầu triều đại nhà Mạc.
• Ngô Hoán, một thành viên trong hội thơ Tao Đàn của Lê Thánh Tông.
Tại Nam Sách còn là nơi mai táng Vũ Hồn, thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng.
Trong thời kỳ phong kiến Hải Dương có 10 vị đỗ đại khoa (Thủ khoa Đại Việt hay Trạng nguyên) thì riêng huyện Nam Sách có 6 vị là:
• Thủ khoa Minh kinh bác học Mạc Hiển Tích (1086), người Long Động, Nam Tân;
• Trạng nguyên Trần Quốc Lặc (1256) người Uông Hạ, Minh Tân;
• Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1304) người Long Động, Nam Tân;
• Trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh (1487) người Đồng Khê, An Lâm;
• Trạng nguyên Vũ Dương (1493) người Mạn Nhuế, Thanh Lâm.
• Trạng nguyên Đặng Thì Thố (1559) người làng Thạc, An Châu (nay thuộc thành phố Hải Dương);
Cũng chính vì có nhiều người đỗ đạt cao mà nhiều ý kiến cho rằng Nam Sách tức là “Sách của trời Nam”.
Trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc Nam Sách có 8 người được nhà nước Việt Nam tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là Vũ Ngọc Diệu, Đỗ Chu Bỉ, Nguyễn Nhật Chiêu, Đặng Đức Song, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Trung Goòng, Nguyễn Đức Sáu và Nguyễn Đăng Lành.
Năm 1978, huyện Nam Sách được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang.
Nơi đây còn là quê hương nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Kinh tế
Nông nghiệp
• Khuyến khích phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, đưa giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất. Mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, với những con có giá trị kinh tế cao như tôm, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng. Giai đoạn 2006 – 2010, phấn đấu đưa tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp đạt 7,6 – 7,8% /năm; tổng thu trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp vào năm 2010 đạt 53 triệu đồng/ha.
• Diện tích trên 800 ha nuôi trồng thuỷ sản, 1.038,5 ha sông ngòi tự nhiên và 500 ha đất bãi trũng cấy lúa được chuyển đổi sang đào ao lập vườn phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Công nghiệp
Trước kia Nam Sách có làng nghề gốm cực kỳ nổi tiếng là gốm Chu Đậu, từ năm 1995 bắt đầu phục hồi làng nghề gốm này. Huyện đã có khu công nghiệp Nam Sách được Chính phủ phê duyệt trên 63 ha, cụm công nghiệp An Đồng đã được tỉnh phê duyệt trên 35 ha. Khu Công nghiệp Cộng Hoà. Ngoài ra một số doanh nghiệp đã đầu tư vào thị trấn Nam Sách, xã Minh Tân; khả năng dành đất cho công nghiệp ở dọc đường 183, đường 17 của huyện còn lớn.
Du lịch
Toàn huyện có nhiều di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 11 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Nam Sách là một miền quê trù phú về phát triển cây vụ đông xuân, phát triển các làng nghề, phải kể đến 2 làng nghề là sấy rau quả ở Mạn Thạch Đê (xã Nam Trung) và làm hương (xã Quốc Tuấn). Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch, văn hoá, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc.
Kiến trúc
Cầu Bình bắc qua sông Kinh Thày nối liền Nam Sách với Chí Linh
Nam Sách nằm ở trung tâm của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, có hệ thống giao thông tổng thể không phải là không thuận lợi, mặc dù có sông bao bọc gần như bốn phía: đường 183 nối Hà Nội, Hải Phòng với Quảng Ninh (qua cầu Bình), có đường sông dài gần 50 km. Đây là một huyện có đầy đủ các điều kiện về địa lý, giao thông, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc phát triển các khu công nghiệp, kinh tế trang trại, mặt khác theo chủ trương phát triển tổng thể của Tỉnh đến năm 2015 thì việc xây dựng thêm Cầu nối liền Thành phố Hải Dương (chạy thẳng từ Thành phố Hải Dương xuyên qua đường vành đai các Thôn Trúc Khê, Nham Cáp, Nhân Lễ và La Xuyên nối thẳng với đường quốc lộ 183 để hình thành một tuyến lộ Hải Dương – Quảng Ninh). Đây chính là tiền đề để biến Nam Sách thành một trung tâm khu vực, điểm liên kết với các Tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhờ điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông mà Nam Sách đang dần trở thành một huyện có lợi thế thu hút vốn đầu tư lớn nhất so với các huyện trong toàn Tỉnh.
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống
Truyền thống cách mạng
Nam Sách là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Nam Sách đã có những đóng góp to lớn cho dân tộc. Toàn huyện có 2.808 liệt sỹ, 2.445 thương, bệnh binh, 291 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến, huyện Nam Sách cùng 05 xã
(Nam Tân, Hợp Tiến, Minh Tân, Đồng Lạc, Cộng Hòa)
và 09 cá nhân đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, 09 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân gồm:
– Liệt sỹ Mạc Thị Bưởi: Thôn Long Động, xã Nam Tân.
– Liệt sỹ Nguyễn Đăng Lành: Thôn Trần Xá, xã Nam Hưng.
– Liệt sỹ Nguyễn Trung Goòng: Thôn Vạn Tải, xã Hồng Phong.
– Liệt sỹ Nguyễn Đức Sáu: Thôn Uông Hạ, xã Minh Tân.
– Liệt sỹ Đỗ Chu Bỉ: Thôn An Lương, xã An Lâm.
– Đặng Đức Song: Thôn Chi Đoan, xã Cộng Hoà.
– Nguyễn Nhật Chiêu: Thôn Đông Thôn, xã Quốc Tuấn.
– Vũ Ngọc Diệu: Thôn Đông Thôn, xã Quốc Tuấn.
– Liệt sĩ Lê Văn Nhân: Thôn Kim Bảng, xã Phú Điền
(được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp ngày 26/4/2018)
Tôn giáo:
Trên địa bàn huyện hiện có 02 tôn giáo (Phật giáo và Công giáo) hoạt động được pháp luật công nhận. Bà con lương giáo đoàn kết, chung sống hài hòa trong cộng đồng xã hội
Những sản phẩm nổi tiếng:
– Gốm Chu Đậu (Thái Tân);
– Các mặt hàng nông sản chế biến như: hành, tỏi, cà rốt, bí ngô,… (Nam Trung, thị trấn Nam Sách);
– Hương thơm (Quốc Tuấn);
– Bún bánh (Lang khê).
|
Giới thiệu khái quát huyện Bình Giang
– Diện tích
: 105 km2
– Dân số:
105.203
– Đơn vị hành chính
: 01 thị trấn: Kẻ Sặt
Và 17 xã: Vĩnh Tuy, Vĩnh Hồng, Tráng Liệt,
Hưng Thịnh
, Hùng Thắng, Long Xuyên, Tân Việt, Bình Minh, Tân Hồng, Thúc Kháng, Thái Dương, Thái Hoà, Bình Xuyên, Thái Học, Hồng Khê, Nhân Quỳên, Cổ Bì
Giới thiệu chung
Bình Giang là một trong 12 huyện thuộc
tỉnh Hải Dương
. Bình Giang Nằm trên quốc lộ 5, quốc lộ 39B, cách thành phố Hải Dương 20 km. Huyện có ranh giới giáp với tỉnh Hưng Yên, huyện Thanh Miện, huyện Cẩm Giàng và huyện Gia Lộc.Trước kia Bình Giang sáp nhập với huyện Cẩm Giàng thành huyện Cẩm Bình
Vị trí địa lý
Bình giang nằm ở phía Tây Nam thành phố Hải Dương, diện tích tự nhiên là 104,7km2. Phía Bắc giáp huyện Cẩm Giàng; phía Nam giáp huyện Thanh Miện, Phía Đông giáp huyện Gia Lộc; phía Tây giáp huyện Ân Thi và Mỹ Hào của tỉnh Hương Yên.
Bốn mặt đều có sông: sông Kẻ Sặt ở phái Bắc; sông Đình Hào ở phía Đông; sông Cửu An ở phía Tây; sông cầu Lâm, Cầu Cốc ở phía Nam. Trong đó sông Sặt bắt nguồn từ sông Hồng, qua cống Xuân Quan, qua cầu Lực Điền, cầu của đường 39A, nối quốc lộ 5 với thị xã Hưng Yên, tiếp cận với Bình Giang tại vị trí sát làng Tranh Ngoài, xã Thúc Kháng. Đến đây sông có nhánh chạy dọc theo phía Tây huyện, gọi là sông Cửu An; một nhánh chạy dọc phía Bắc huyện gọi là sông Kẻ Sặt, thông với sông Thái Bình, qua Âu Thuyền, thành phố Hải Dương.
Kinh tế
Huyện Bình Giang là một huyện chủ yếu là nông nghiệp, đang chuyển sang công nghiệp, dịch vụ, thương mại.
Năm 2006 tổng GDP huyện đạt 862,625 tỉ đồng, trong đó: nông nghiệp (43,06%), công nghiệp (27,88%), tiểu thủ công nghiệp, xây dựng; thương mại dịch vụ (29,06%).
Văn hóa – Giáo dục
Tại xã Tân Hồng, phía đông của huyện Bình Giang có làng cổ Tuyển Cử, trong những ngôi làng cổ cùng hình thành với làng Mộ Trạch.(Theo “Làng Cổ Việt” của Vũ Khiêu???) Theo sử sách ghi lại làng có 36 tiến sĩ.
|
General introduction of Binh Giang district
- Acreage
: 105 km2
- Population:
105.203
- Administrative units
: 01 town: Ke Sat
And 17 communes: Vinh Tuy, Vinh Hong, Trang Liet,
Prosperous
, Hung Thang, Long Xuyen, Tan Viet, Binh Minh, Tan Hong, Thuc Khang, Thai Duong, Thai Hoa, Binh Xuyen, Thai Hoc, Hong Khe, Nhan Quyen, Co Bi
General introduction
Binh Giang is one of 12 districts
Hai Duong Province
. Binh Giang Located on Highway 5, Highway 39B, 20 km from Hai Duong city. The district has borders with Hung Yen province, Thanh Mien district, Cam Giang district and Gia Loc district. Previously, Binh Giang merged with Cam Giang district to become Cam Binh district.
Geographical location
Binh Giang is located in the southwest of Hai Duong city, with a natural area of 104.7km2. The North borders Cam Giang district; The South borders Thanh Mien district, the East borders Gia Loc district; The West borders An Thi and My Hao districts of Huong Yen province.
There are rivers on all four sides: Ke Sat River in the North; Dinh Hao River in the East; Cuu An River in the West; Cau Lam and Cau Coc rivers in the south. The Sat River originates from the Red River, through Xuan Quan sewer, across Luc Dien bridge, bridge of Road 39A, connecting National Highway 5 with Hung Yen town, approaching Binh Giang at a location close to Tranh Ngoai village, Thuc commune. Resistance. Here, the river has a branch running along the west of the district, called Cuu An River; A branch running along the north of the district is called Ke Sat river, connecting with Thai Binh river, passing through Au Thuyen, Hai Duong city.
Economy
Binh Giang district is a mainly agricultural district, transitioning to industry, services, and commerce.
In 2006, the district's total GDP reached 862,625 billion VND, of which: agriculture (43.06%), industry (27.88%), handicrafts, and construction; trade and services (29.06%).
Culture – Education
In Tan Hong commune, east of Binh Giang district, there is Tuyen Cu ancient village, one of the ancient villages formed with Mo Trach village. (According to "Co Viet Village" by Vu Khieu???) According to historical records of the village There are 36 PhDs.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Chí Linh
–
Diện tích
: 281 km2
– Dân số
: 164.837 người (+ khách vãng lai trên 32 vạn người)
–
Đơn vị hành chính
: Thị xã Chí Linh có 20 đơn vị hành chính gồm
+ 12 xã: An Lạc, Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức.
+ Và 8 phường: Phả lại; Văn An, Chí Minh; Sao Đỏ, Thái Học, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Bến Tắm
Trong đó có 13 xã, phường là miền núi, chiếm 76% diện tích và 56% dân số của toàn thị xã. Ngoài ra còn có Trường ĐH Sao Đỏ, trên 120 cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn
Giới thiệu chung
Thành phố Chí Linh là vùng đất nổi tiếng bởi địa linh nhân kiệt, bởi vị trí địa lý đặc biệt, nằm án ngữ trên đường giao thông thủy, bộ từ biên giới phía Bắc về Hà Nội. Địa danh này gắn với nhiều nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thị Duệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi.
Vị trí địa lý
Thành phố Chí Linh nằm ở phía đông bắc
tỉnh Hải Dương
, cách trung tâm tỉnh 40 km. Phía đông giáp huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp tỉnh Bắc Ninh. Phía nam giáp huyện Nam Sách. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
Phía bắc và đông bắc của Thành phố Chí Linh là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thày, sông Thái Bình và sông Đông Mai.
Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Nó có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có Quốc lộ 18 chạy dọc theo hướng đông-tây qua trung tâm huyện nối liền Hà Nội – Quảng Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược quốc gia từ trung tâm huyện đi tỉnh Bắc Giang. Đường thuỷ có chiều dài 40 km đường sông bao bọc phía đông, tây, nam của huyện thông thương với Hải Phòng, Bắc Giang, Đáp Cầu (Bắc Ninh).
Đơn vị hành chính nổi bật
Chí Linh trước đây có 3 thị trấn, trong đó, Thị trấn Sao Đỏ là huyện lỵ của huyện Chí Linh cũ. Nay 3 thị trấn trở thành 3 phường tiêu biểu của thị xã.
• Phường Sao Đỏ (Thị trấn Sao Đỏ cũ): Có một số lý giải khác nhau về cái tên của thị trấn, song lý giải phổ biến nhất và được chấp nhận nhiều nhất là Sao Đỏ là nơi hoạt động cách mạng của ông Nguyễn Lương Bằng và Sao Đỏ chính là bí danh của ông, sau này được đem đặt tên cho thị trấn.
Sao Đó khá đông dân so với một thị trấn thông thường do khi xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, người ta đã tạm xóa sổ Thị trấn Phả Lại vốn rất sầm uất ở ven sông và đưa toàn bộ dân về sinh sống ở vùng đồi núi tiếp giáp Thị trấn Sao Đỏ. Toàn bộ thị trấn nằm trải dài trên nhiều ngọn đồi thấp, trong đó có khu vực được gọi là Ba Đèo, nơi có đường vào Sân golf Ngôi Sao Chí Linh.
Những năm từ 2000 trở đi, có nhiều dự án phát triển đô thị đã được triển khai ở đây[4]. Tuy nhiên, cũng giống như các thị trấn khác của cả nước, Sao Đỏ chưa có bản sắc đô thị.
Tại Sao Đỏ có nhiều cơ quan, trường học và doanh trại quân đội.
Ngày27 Tháng 9 2009, Bộ Xây dựng đã có Quyết định 941/QĐ-BXD về việc công nhận Thị trấn Sao Đỏ là đô thị loại IV, huyện lỵ của huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
• Phường Phả Lại (Thị trấn Phả Lại cũ): vốn là một thị trấn lâu đời, nằm ven Lục Đầu Giang. Năm 1979 – 1980, để khởi công xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thị trấn đã bị giải tỏa. Sau khi nhà máy xây dựng xong, thị trấn đã được hình thành ngay xung quanh nhà máy với hình thái rất lộn xộn. Từ Phả Lại, thị trấn này đã phát triển khá lan man và lan tới Bình Giang.
Về địa lý, Thị trấn Phả Lại nằm ở phía Tây của huyện Chí Linh. Thị trấn có diện tích tự nhiên 1.382 ha; trong đó, diện tích đất đồi núi, lâm nghiệp là 362 ha; diện tích đất nông nghiệp là 506,15 ha; phần còn lại là đất của các cơ quan đơn vị, xí nghiệp, các thành phần kinh tế đóng trên địa bàn; tạo nên một hình thái kinh tế đa dạng và phong phú. Tổng số nhân khẩu của thị trấn là 21.147 khẩu[5].
• Phường Bến Tắm (Thị trấn Bến Tắm cũ): Thành lập ngày 14/1/2002, trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của xã Bắc An, huyện Chí Linh. Địa giới hành chính của thị trấn Bến Tắm là: Đông, Tây và Bắc giáp xã Bắc An; Nam giáp xã Hoàng Tân.
Lịch sử
Chí Linh được hình thành từ lâu đời, năm 891 vua Đại Hành đã chọn An Lạc là cơ sở chỉ huy chống quân xâm lược Tống. Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành Vạn (Tân Dân) Chí Linh còn có tên gọ là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng Hoàng và sau này là Chí Linh. Tháng 6 năm 1886 thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam Sách; tháng 4 năm 1947 Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Hồng; tháng 11 năm 1948 Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; tháng 2 năm 1955 Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương
Du lịch
Chí Linh có phong cảnh đẹp và nhiều di tích lịch sử từ cấp địa phương đến cấp quốc gia. Trong đó có thể kể đến:
• Chùa Côn Sơn có phong cảnh tuyệt đẹp với rừng thông, hồ, suối Côn Sơn và bàn cờ tiên nổi tiếng trong thơ Nguyễn Trãi. Tại đây còn có đền thờ Trần Nguyên Đán, đền thờ Trần Nguyên Hãn và đền thờ Nguyễn Trãi.
• Đền Kiếp Bạc nằm cạnh Lục Đầu Giang, nơi hợp lưu của sáu con sông (ngã sáu sông). Đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn còn gọi là Đức Ông nổi tiếng về sự linh thiêng
• Đền Cao thuộc xã An Lạc. Ở đây có bốn ngôi đền linh thiêng từ lâu đời, thờ năm anh em nhà họ Vương đã có công giúp vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống do Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng chỉ huy năm 981.
• Đền Chu Văn An nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng mà quý khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998.
• Chùa Thanh Mai thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Chùa Thanh Mai là ngôi chùa rất cổ, được xây dựng năm 1329 do Thiền sư Pháp Loa – Đệ nhị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử sáng lập. Chùa được công nhận di tích lịch sử quốc gia năm 1992.
• Đền bà Chúa Sao sa thờ nữ Tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, bà Nguyễn Thị Duệ. Đền cũng thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 5 km.
• Đền Mẫu Sinh thờ Mẫu, rất đặc biệt bởi được xây dựng trên lưng chừng núi Ngũ Nhạc với Hậu cung nằm trên một tảng đá lớn hình người phụ nữ đang nằm sinh con. Tương truyền Đền Mẫu Sinh là nơi sinh ra Đức Thánh hài nhi. Đền được tin là rất thiêng và là nơi khắp nơi về cầu tự.
Các di tích danh thắng và cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời như núi Nam Tào, Bắc Đẩu, sông Lục Đầu Giang, … tạo thành cụm du lịch lớn của tỉnh, bên cạnh các di tích lịch sử và thắng cảnh thiên nhiên còn có sân Golf Ngôi Sao Chí Linh. Hàng năm có nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan du lịch.
• Sân golf Chí Linh
Nằm ở phường Sao Đỏ, Thành phố Chí Linh. Sân golf này cách Hà Nội 86km, trên đường tới vịnh Hạ Long.
Nằm ngay vị trí trung tâm tam giác kinh tế du lịch phía Bắc, sân golf Chí Linh được đánh giá là một trong những sân golf hàng đầu không chỉ tại Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á. Câu lạc bộ golf Ngôi Sao Chí Linh đã nhanh chóng trở thành một điểm sáng du lịch, trung tâm thể thao, vui chơi, nghỉ dưỡng, xúc tiến đầu tư… cao cấp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
“Trải rộng trên diện tích 325 ha trong lòng một thung lũng tuyệt đẹp, với một hồ nước tự nhiên nép mình bên những dải đồi thông xanh hùng vĩ bao quanh, sân golf Ngôi Sao Chí Linh được xây dựng 36 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế AAA. Những thảm cỏ xanh được chăm sóc, xén tỉa mỗi ngày, những con đường nhỏ uốn mình vòng quanh mép hồ, các rặng cây, các dốc thoải ven đồi, là điểm dừng chân với những quán nhỏ đơn sơ nép mình trong tán cây thơ mộng
Địa linh nhân kiệt
Địa danh Chí Linh gắn với tên tuổi của các nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc sau:
Thiền sư Pháp Loa: ông có tục danh là Đồng Kiên Cương, là người thuộc hương Cửu La, huyện Nam Sách. Năm 1304 ông xuất gia theo Điều Ngự Trần Nhân Tông tu hành tại chùa Yên Tử và trở thành người kế thừa của Thiền phái Trúc Lâm. Năm 1329, ông cho xây dựng hai ngôi chùa là Thanh Mai và Côn Sơn. Ngày 03/3/1330, ông viên tịch tại chùa Quỳnh Lâm, sau theo di chúc của ông, các phật tử đã đưa pháp thể của ông về nhập tháp tại chùa Thanh Mai, Chí Linh. Cảm mến công đức của ông, vua Anh Tông sắc phong danh hiệu Đại Tuệ Tịnh Tri Đức thiền sư, tên tháp là Viên Thông bảo tháp.
Trần Hưng Đạo: Đóng đại bản doanh tại Vạn Kiếp. Những năm cuối đời ông sống ở Vạn Kiếp và mất tại đây.
Nguyễn Thị Duệ: nữ tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.
Trần Nguyên Đán: Là ông ngoại của Nguyễn Trãi. Ông ở ẩn tại Chi Ngái, Chí Linh.
Nguyễn Trãi: thuở nhỏ sinh sống ở Chí Linh. Sau này, nhiều năm ông ở ẩn tại chùa Côn Sơn, Chí Linh.
Chu Văn An: mở trường dạy học trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An (ngày nay), huyện Chí Linh
|
Giới thiệu khái quát thành phố Chí Linh
–
Diện tích
: 281 km2
– Dân số
: 164.837 người (+ khách vãng lai trên 32 vạn người)
–
Đơn vị hành chính
: Thị xã Chí Linh có 20 đơn vị hành chính gồm
+ 12 xã: An Lạc, Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức.
+ Và 8 phường: Phả lại; Văn An, Chí Minh; Sao Đỏ, Thái Học, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Bến Tắm
Trong đó có 13 xã, phường là miền núi, chiếm 76% diện tích và 56% dân số của toàn thị xã. Ngoài ra còn có Trường ĐH Sao Đỏ, trên 120 cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn
Giới thiệu chung
Thành phố Chí Linh là vùng đất nổi tiếng bởi địa linh nhân kiệt, bởi vị trí địa lý đặc biệt, nằm án ngữ trên đường giao thông thủy, bộ từ biên giới phía Bắc về Hà Nội. Địa danh này gắn với nhiều nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thị Duệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi.
Vị trí địa lý
Thành phố Chí Linh nằm ở phía đông bắc
tỉnh Hải Dương
, cách trung tâm tỉnh 40 km. Phía đông giáp huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp tỉnh Bắc Ninh. Phía nam giáp huyện Nam Sách. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
Phía bắc và đông bắc của Thành phố Chí Linh là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thày, sông Thái Bình và sông Đông Mai.
Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Nó có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có Quốc lộ 18 chạy dọc theo hướng đông-tây qua trung tâm huyện nối liền Hà Nội – Quảng Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược quốc gia từ trung tâm huyện đi tỉnh Bắc Giang. Đường thuỷ có chiều dài 40 km đường sông bao bọc phía đông, tây, nam của huyện thông thương với Hải Phòng, Bắc Giang, Đáp Cầu (Bắc Ninh).
Đơn vị hành chính nổi bật
Chí Linh trước đây có 3 thị trấn, trong đó, Thị trấn Sao Đỏ là huyện lỵ của huyện Chí Linh cũ. Nay 3 thị trấn trở thành 3 phường tiêu biểu của thị xã.
• Phường Sao Đỏ (Thị trấn Sao Đỏ cũ): Có một số lý giải khác nhau về cái tên của thị trấn, song lý giải phổ biến nhất và được chấp nhận nhiều nhất là Sao Đỏ là nơi hoạt động cách mạng của ông Nguyễn Lương Bằng và Sao Đỏ chính là bí danh của ông, sau này được đem đặt tên cho thị trấn.
Sao Đó khá đông dân so với một thị trấn thông thường do khi xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, người ta đã tạm xóa sổ Thị trấn Phả Lại vốn rất sầm uất ở ven sông và đưa toàn bộ dân về sinh sống ở vùng đồi núi tiếp giáp Thị trấn Sao Đỏ. Toàn bộ thị trấn nằm trải dài trên nhiều ngọn đồi thấp, trong đó có khu vực được gọi là Ba Đèo, nơi có đường vào Sân golf Ngôi Sao Chí Linh.
Những năm từ 2000 trở đi, có nhiều dự án phát triển đô thị đã được triển khai ở đây[4]. Tuy nhiên, cũng giống như các thị trấn khác của cả nước, Sao Đỏ chưa có bản sắc đô thị.
Tại Sao Đỏ có nhiều cơ quan, trường học và doanh trại quân đội.
Ngày27 Tháng 9 2009, Bộ Xây dựng đã có Quyết định 941/QĐ-BXD về việc công nhận Thị trấn Sao Đỏ là đô thị loại IV, huyện lỵ của huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
• Phường Phả Lại (Thị trấn Phả Lại cũ): vốn là một thị trấn lâu đời, nằm ven Lục Đầu Giang. Năm 1979 – 1980, để khởi công xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thị trấn đã bị giải tỏa. Sau khi nhà máy xây dựng xong, thị trấn đã được hình thành ngay xung quanh nhà máy với hình thái rất lộn xộn. Từ Phả Lại, thị trấn này đã phát triển khá lan man và lan tới Bình Giang.
Về địa lý, Thị trấn Phả Lại nằm ở phía Tây của huyện Chí Linh. Thị trấn có diện tích tự nhiên 1.382 ha; trong đó, diện tích đất đồi núi, lâm nghiệp là 362 ha; diện tích đất nông nghiệp là 506,15 ha; phần còn lại là đất của các cơ quan đơn vị, xí nghiệp, các thành phần kinh tế đóng trên địa bàn; tạo nên một hình thái kinh tế đa dạng và phong phú. Tổng số nhân khẩu của thị trấn là 21.147 khẩu[5].
• Phường Bến Tắm (Thị trấn Bến Tắm cũ): Thành lập ngày 14/1/2002, trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của xã Bắc An, huyện Chí Linh. Địa giới hành chính của thị trấn Bến Tắm là: Đông, Tây và Bắc giáp xã Bắc An; Nam giáp xã Hoàng Tân.
Lịch sử
Chí Linh được hình thành từ lâu đời, năm 891 vua Đại Hành đã chọn An Lạc là cơ sở chỉ huy chống quân xâm lược Tống. Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành Vạn (Tân Dân) Chí Linh còn có tên gọ là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng Hoàng và sau này là Chí Linh. Tháng 6 năm 1886 thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam Sách; tháng 4 năm 1947 Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Hồng; tháng 11 năm 1948 Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; tháng 2 năm 1955 Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương
Du lịch
Chí Linh có phong cảnh đẹp và nhiều di tích lịch sử từ cấp địa phương đến cấp quốc gia. Trong đó có thể kể đến:
• Chùa Côn Sơn có phong cảnh tuyệt đẹp với rừng thông, hồ, suối Côn Sơn và bàn cờ tiên nổi tiếng trong thơ Nguyễn Trãi. Tại đây còn có đền thờ Trần Nguyên Đán, đền thờ Trần Nguyên Hãn và đền thờ Nguyễn Trãi.
• Đền Kiếp Bạc nằm cạnh Lục Đầu Giang, nơi hợp lưu của sáu con sông (ngã sáu sông). Đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn còn gọi là Đức Ông nổi tiếng về sự linh thiêng
• Đền Cao thuộc xã An Lạc. Ở đây có bốn ngôi đền linh thiêng từ lâu đời, thờ năm anh em nhà họ Vương đã có công giúp vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống do Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng chỉ huy năm 981.
• Đền Chu Văn An nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng mà quý khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998.
• Chùa Thanh Mai thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Chùa Thanh Mai là ngôi chùa rất cổ, được xây dựng năm 1329 do Thiền sư Pháp Loa – Đệ nhị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử sáng lập. Chùa được công nhận di tích lịch sử quốc gia năm 1992.
• Đền bà Chúa Sao sa thờ nữ Tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, bà Nguyễn Thị Duệ. Đền cũng thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 5 km.
• Đền Mẫu Sinh thờ Mẫu, rất đặc biệt bởi được xây dựng trên lưng chừng núi Ngũ Nhạc với Hậu cung nằm trên một tảng đá lớn hình người phụ nữ đang nằm sinh con. Tương truyền Đền Mẫu Sinh là nơi sinh ra Đức Thánh hài nhi. Đền được tin là rất thiêng và là nơi khắp nơi về cầu tự.
Các di tích danh thắng và cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời như núi Nam Tào, Bắc Đẩu, sông Lục Đầu Giang, … tạo thành cụm du lịch lớn của tỉnh, bên cạnh các di tích lịch sử và thắng cảnh thiên nhiên còn có sân Golf Ngôi Sao Chí Linh. Hàng năm có nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan du lịch.
• Sân golf Chí Linh
Nằm ở phường Sao Đỏ, Thành phố Chí Linh. Sân golf này cách Hà Nội 86km, trên đường tới vịnh Hạ Long.
Nằm ngay vị trí trung tâm tam giác kinh tế du lịch phía Bắc, sân golf Chí Linh được đánh giá là một trong những sân golf hàng đầu không chỉ tại Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á. Câu lạc bộ golf Ngôi Sao Chí Linh đã nhanh chóng trở thành một điểm sáng du lịch, trung tâm thể thao, vui chơi, nghỉ dưỡng, xúc tiến đầu tư… cao cấp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
“Trải rộng trên diện tích 325 ha trong lòng một thung lũng tuyệt đẹp, với một hồ nước tự nhiên nép mình bên những dải đồi thông xanh hùng vĩ bao quanh, sân golf Ngôi Sao Chí Linh được xây dựng 36 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế AAA. Những thảm cỏ xanh được chăm sóc, xén tỉa mỗi ngày, những con đường nhỏ uốn mình vòng quanh mép hồ, các rặng cây, các dốc thoải ven đồi, là điểm dừng chân với những quán nhỏ đơn sơ nép mình trong tán cây thơ mộng
Địa linh nhân kiệt
Địa danh Chí Linh gắn với tên tuổi của các nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc sau:
Thiền sư Pháp Loa: ông có tục danh là Đồng Kiên Cương, là người thuộc hương Cửu La, huyện Nam Sách. Năm 1304 ông xuất gia theo Điều Ngự Trần Nhân Tông tu hành tại chùa Yên Tử và trở thành người kế thừa của Thiền phái Trúc Lâm. Năm 1329, ông cho xây dựng hai ngôi chùa là Thanh Mai và Côn Sơn. Ngày 03/3/1330, ông viên tịch tại chùa Quỳnh Lâm, sau theo di chúc của ông, các phật tử đã đưa pháp thể của ông về nhập tháp tại chùa Thanh Mai, Chí Linh. Cảm mến công đức của ông, vua Anh Tông sắc phong danh hiệu Đại Tuệ Tịnh Tri Đức thiền sư, tên tháp là Viên Thông bảo tháp.
Trần Hưng Đạo: Đóng đại bản doanh tại Vạn Kiếp. Những năm cuối đời ông sống ở Vạn Kiếp và mất tại đây.
Nguyễn Thị Duệ: nữ tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.
Trần Nguyên Đán: Là ông ngoại của Nguyễn Trãi. Ông ở ẩn tại Chi Ngái, Chí Linh.
Nguyễn Trãi: thuở nhỏ sinh sống ở Chí Linh. Sau này, nhiều năm ông ở ẩn tại chùa Côn Sơn, Chí Linh.
Chu Văn An: mở trường dạy học trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An (ngày nay), huyện Chí Linh
|
Giới thiệu khái quát thành phố Hải Dương
–
Diện tích
: 71 km2
–
Dân số
: 213.639
– Ðơn vị hành chính:
TP Hải Dương hiện có
:
15 phường
:
Bình Hàn; Cẩm Thượng; Hải Tân; Lê Thanh Nghị; Nhị Châu; Ngọc Châu; Nguyễn Trãi; Phạm Ngũ Lão; Quang Trung; Tân Bình; Thanh Bình; Trần Hưng Đạo; Trần Phú; Tứ Minh; Việt Hòa.
Và 6 xã
Ái Quốc, An Châu, Nam Đồng, Tân Hưng, Thạch Khôi, Thượng Đạt
– Cơ cấu kinh tế: công nghiệp – xây dựng;
dịch vụ; nông nghiệp – thuỷ sản
+ Năm 1997: 47% – 45% – 8%
+ Năm 2002: 44,2% – 50,9% – 4,9%
+ Năm 2005: 50,5% – 46% – 3,5%
Giới thiệu chung:
Thành phố Hải Dương là thành phố đạt tiêu chuẩn đô thị loại loại 2 thuộc
tỉnh Hải Dương
, là Trung tâm công nghiệp – dịch vụ thuộc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
.
Vị trí địa lý:
Thành phố Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm tỉnh, phía bắc giáp huyện
Nam Sách, phía đông giáp các huyện Kim Thành
và
Thanh Hà
, phía tây giáp huyện
Cẩm Giàng
, phía nam giáp huyện
Gia Lộc
, phía đông nam giáp hai huyện Thanh Hà
và
Tứ Kỳ
. Thành phố
Hải Dương
nằm cách Thủ đô
Hà Nội
57 km về
phía tây, cách thành phố
Hải Phòng
45 km về phía đông.
Lịch sử:
Thành phố Hải Dương được khởi lập từ năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông.
Trước năm 1804, Lỵ sở Hải Dương được đặt tại Lạc Thiên (Chí Linh), lúc ấy gọi là thành Vạn hay doanh Vạn. Sau đó rời về Mao Điền (Cẩm Giàng).
Năm 1804 (năm Gia Long thứ ba), để củng cố bộ máy cai trị, nhà Nguyễn đã phân chia lại địa giới hành chính của cả nước, do vậy Lỵ sở Hải Dương đã được rời từ Mao Điền về vùng ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt, thuộc địa phận ba xã Hàn Giang, Hàn Thượng và Bình Lao. Tỉnh lỵ mới cách Kinh đô Huế 1.097 dặm. Tổng đốc Trần Công Hiến là người khởi công xây dựng thành, gọi là Thành Đông, với mục tiêu vừa là trấn thành, vừa án ngữ phía đông Kinh thành Thăng Long. Trong thành không có dân, chỉ có quan lại và quân lính.
Năm 1866 (năm Tự Đức thứ 19), Đông Kiều phố được hình thành (Phường Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo ngày nay), nhiều phố nghề ra đời như Hàng Giày (Sơn Hòa ngày nay), Hàng Đồng (Đồng Xuân), Hàng Bạc (Xuân Đài), Hàng Lọng (Tuy An).
Năm 1889, Thành Đông bị thực dân Pháp phá bỏ để lấy mặt bằng xây dựng Nhà máy Rượu và vài tòa dinh thự của người Pháp.
Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Không gian thành phố được chia thành hai khu vực: khu hành chính – nằm ven sông Sặt và khu kinh tế – từ Nhà máy Rượu đến Nhà ga xe lửa. Các công sở và dinh thự của quan chức người Pháp được tập trung ven sông Sặt. Một số tòa dinh thự mang kiến trúc Pháp hiện nay vẫn còn được sử dụng như dinh Công sứ (nhà làm việc và nhà khách Tỉnh ủy); Sở Lục bộ (Sở Giao thông); nhà Séc-tây (Sở Thể dục- Thể thao cũ), Kho bạc (Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh), dinh Phó sứ (Sở Văn hóa – Thể thao & du lịch)… Với vị trí thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế, văn hóa; thành phố Hải Dương đã trở thành một trong 4 thành phố quan trọng nhất của Bắc Kỳ (cùng TP Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định).
Tháng 3 năm 1947, nhà cầm quyền Pháp chia thành phố Hải Dương thành 2 quận, rồi sau đó một thời gian lại chuyển thành thị xã.
Ngày 30-10-1954, thị xã Hải Dương được giải phóng hoàn toàn. Sau khi giải phóng, thị xã được chia làm 3 khu phố: Bắc Sơn, Bạch Đằng và Chi Lăng; mỗi khu phố có một số đường phố và xóm nhỏ.
Năm 1959, thị xã được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị với quy mô dân số từ 40.000 đến 50.000 người.
Từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng.
Năm 1969, thị xã Hải Dương được mở rộng, sáp nhập thêm các xã Ngọc Châu (Nam Sách), Thanh Bình, Tứ Minh, Việt Hòa (Cẩm Giàng), Hải Tân (Gia Lộc).
Năm 1981, các phường Trần Phú, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão được thành lập.
Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, trở lại là tỉnh lị tỉnh Hải Dương.
Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP thành lập các phường Thanh Bình, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Bình Hàn và tách một số khu dân cư của phường Trần Phú để thành lập phường Lê Thanh Nghị.
Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 88/CP thành lập thành phố Hải Dương và là đô thị loại III với 11 phường, 2 xã.
Ngày 1 tháng 7 năm 2008, thành phố sáp nhập thêm các xã Nam Đồng, An Châu, Ái Quốc, Thượng Đạt (Nam Sách), 38 ha của thị trấn Lai Cách (Cẩm Giàng), các xã Tân Hưng, Thạch Khôi (Gia Lộc) và một phần thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn (Tứ Kỳ). Như vậy, sau khi được điều chỉnh địa giới hành chính thành phố có 19 phường, xã (13 phường, 6 xã).
Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố có quyết định trở thành đô thị loại 2.
Ngày 23 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường và thành lập các phường Nhị Châu và Tân Bình thuộc TP Hải Dương
Sự kiện:
Trong tháng 10 năm 2009 (Ngày 30/10), thành phố Hải Dương đón nhận các sự kiện lớn như: Kỷ niệm 205 năm thành lập Thành Đông, 55 giải phóng thành phố Hải Dương, Lễ công bố quyết định thành phố Hải Dương trở thành đô thị loại II; và từ 30 tháng 10 đến 08 tháng 11-2009, thành phố Hải Dương đồng đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 (Asian Indoor Games III) tại Việt Nam.
Kinh tế:
Thành phố Hải Dương là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ của tỉnh.
Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 14,5%. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp – Xây dựng 53,07%, Dịch vụ 45,68%, Nông nghiệp – Thuỷ sản 1,25%. Trên địa bàn thành phố, Chính phủ đã phê duyệt các khu công nghiệp, thu hút 1.247 doanh nghiệp hoạt động.
Năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng ước đạt hơn 1.346 tỷ đồng, tăng 52% so với năm 2007.
Cũng năm này, thành phố có 1.700 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có hơn 900 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người một năm đạt 1.344 Usd/người
Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn TP Hải Dương đạt hơn 676 tỷ đồng, bằng 50,8% kế hoạch năm và tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, kinh tế tập thể đạt hơn 11 tỷ đồng, bằng 50,3% kế hoạch năm; doanh nghiệp tư nhân gần 124 tỷ đồng, bằng 49,7%; công ty trách nhiệm hữu hạn hơn 238 tỷ đồng, bằng 50,8%; công ty cổ phần hơn 206 tỷ đồng, bằng 50,9%; hộ cá thể, gần 98 tỷ đồng, bằng 48,7% kế hoạch năm. Thành phố hiện có gần 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có gần 1.000 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Thành phố Hải Dương là một trong những trung tâm về công nghiệp của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
Du lịch
Địa điểm tham quan, giải trí
– Công viên Bạch Đằng
– Quảng trường Độc Lập (Ngã 5 Bách hóa Tổng Hợp)
– Quảng trường 30 tháng 10 (ĐTM Tây Hải Dương)
– Khu sinh thái Hà Hải.
– Nước khoáng nóng Thạch Khôi.
– Các tuyến phố thương mại
Di tích lịch sử
Thành Hải Dương: Thành được xây từ năm 1804, đặt tại tổng Hàn Giang (nay là thành phố Hải Dương), nhằm bảo vệ Lị sở Hải Dương sau khi được chuyển từ Mao Điền về.
Thành có hình 6 cạnh, chu vi 551 trượng 6 thước, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, mở 4 cửa. Ban đầu thành được đắp bằng đất, đến năm 1824 (năm Minh Mạng thứ 5), thành được xây thêm bằng đá ong (kiểu xây này cũng được thấy ở thành Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An), có sống khế. Năm Tự Đức thứ 19 (1865), đắp thêm thành Dương Mã ở các cửa, hình chóp nón úp vào hào trước cửa thành, cao 5 thước 4 tấc, hào rộng 3 trượng 3 thước, sâu 6 thước.
Thành đã bị phá hủy trong chiến sự 1946-54, ngày nay vẫn còn sót lại một số ít đoạn tường thành và dinh Tổng Đốc ở trụ sở của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hải Dương.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Hải Dương
–
Diện tích
: 71 km2
–
Dân số
: 213.639
– Ðơn vị hành chính:
TP Hải Dương hiện có
:
15 phường
:
Bình Hàn; Cẩm Thượng; Hải Tân; Lê Thanh Nghị; Nhị Châu; Ngọc Châu; Nguyễn Trãi; Phạm Ngũ Lão; Quang Trung; Tân Bình; Thanh Bình; Trần Hưng Đạo; Trần Phú; Tứ Minh; Việt Hòa.
Và 6 xã
Ái Quốc, An Châu, Nam Đồng, Tân Hưng, Thạch Khôi, Thượng Đạt
– Cơ cấu kinh tế: công nghiệp – xây dựng;
dịch vụ; nông nghiệp – thuỷ sản
+ Năm 1997: 47% – 45% – 8%
+ Năm 2002: 44,2% – 50,9% – 4,9%
+ Năm 2005: 50,5% – 46% – 3,5%
Giới thiệu chung:
Thành phố Hải Dương là thành phố đạt tiêu chuẩn đô thị loại loại 2 thuộc
tỉnh Hải Dương
, là Trung tâm công nghiệp – dịch vụ thuộc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
.
Vị trí địa lý:
Thành phố Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm tỉnh, phía bắc giáp huyện
Nam Sách, phía đông giáp các huyện Kim Thành
và
Thanh Hà
, phía tây giáp huyện
Cẩm Giàng
, phía nam giáp huyện
Gia Lộc
, phía đông nam giáp hai huyện Thanh Hà
và
Tứ Kỳ
. Thành phố
Hải Dương
nằm cách Thủ đô
Hà Nội
57 km về
phía tây, cách thành phố
Hải Phòng
45 km về phía đông.
Lịch sử:
Thành phố Hải Dương được khởi lập từ năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông.
Trước năm 1804, Lỵ sở Hải Dương được đặt tại Lạc Thiên (Chí Linh), lúc ấy gọi là thành Vạn hay doanh Vạn. Sau đó rời về Mao Điền (Cẩm Giàng).
Năm 1804 (năm Gia Long thứ ba), để củng cố bộ máy cai trị, nhà Nguyễn đã phân chia lại địa giới hành chính của cả nước, do vậy Lỵ sở Hải Dương đã được rời từ Mao Điền về vùng ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt, thuộc địa phận ba xã Hàn Giang, Hàn Thượng và Bình Lao. Tỉnh lỵ mới cách Kinh đô Huế 1.097 dặm. Tổng đốc Trần Công Hiến là người khởi công xây dựng thành, gọi là Thành Đông, với mục tiêu vừa là trấn thành, vừa án ngữ phía đông Kinh thành Thăng Long. Trong thành không có dân, chỉ có quan lại và quân lính.
Năm 1866 (năm Tự Đức thứ 19), Đông Kiều phố được hình thành (Phường Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo ngày nay), nhiều phố nghề ra đời như Hàng Giày (Sơn Hòa ngày nay), Hàng Đồng (Đồng Xuân), Hàng Bạc (Xuân Đài), Hàng Lọng (Tuy An).
Năm 1889, Thành Đông bị thực dân Pháp phá bỏ để lấy mặt bằng xây dựng Nhà máy Rượu và vài tòa dinh thự của người Pháp.
Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Không gian thành phố được chia thành hai khu vực: khu hành chính – nằm ven sông Sặt và khu kinh tế – từ Nhà máy Rượu đến Nhà ga xe lửa. Các công sở và dinh thự của quan chức người Pháp được tập trung ven sông Sặt. Một số tòa dinh thự mang kiến trúc Pháp hiện nay vẫn còn được sử dụng như dinh Công sứ (nhà làm việc và nhà khách Tỉnh ủy); Sở Lục bộ (Sở Giao thông); nhà Séc-tây (Sở Thể dục- Thể thao cũ), Kho bạc (Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh), dinh Phó sứ (Sở Văn hóa – Thể thao & du lịch)… Với vị trí thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế, văn hóa; thành phố Hải Dương đã trở thành một trong 4 thành phố quan trọng nhất của Bắc Kỳ (cùng TP Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định).
Tháng 3 năm 1947, nhà cầm quyền Pháp chia thành phố Hải Dương thành 2 quận, rồi sau đó một thời gian lại chuyển thành thị xã.
Ngày 30-10-1954, thị xã Hải Dương được giải phóng hoàn toàn. Sau khi giải phóng, thị xã được chia làm 3 khu phố: Bắc Sơn, Bạch Đằng và Chi Lăng; mỗi khu phố có một số đường phố và xóm nhỏ.
Năm 1959, thị xã được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị với quy mô dân số từ 40.000 đến 50.000 người.
Từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng.
Năm 1969, thị xã Hải Dương được mở rộng, sáp nhập thêm các xã Ngọc Châu (Nam Sách), Thanh Bình, Tứ Minh, Việt Hòa (Cẩm Giàng), Hải Tân (Gia Lộc).
Năm 1981, các phường Trần Phú, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão được thành lập.
Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, trở lại là tỉnh lị tỉnh Hải Dương.
Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP thành lập các phường Thanh Bình, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Bình Hàn và tách một số khu dân cư của phường Trần Phú để thành lập phường Lê Thanh Nghị.
Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 88/CP thành lập thành phố Hải Dương và là đô thị loại III với 11 phường, 2 xã.
Ngày 1 tháng 7 năm 2008, thành phố sáp nhập thêm các xã Nam Đồng, An Châu, Ái Quốc, Thượng Đạt (Nam Sách), 38 ha của thị trấn Lai Cách (Cẩm Giàng), các xã Tân Hưng, Thạch Khôi (Gia Lộc) và một phần thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn (Tứ Kỳ). Như vậy, sau khi được điều chỉnh địa giới hành chính thành phố có 19 phường, xã (13 phường, 6 xã).
Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố có quyết định trở thành đô thị loại 2.
Ngày 23 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường và thành lập các phường Nhị Châu và Tân Bình thuộc TP Hải Dương
Sự kiện:
Trong tháng 10 năm 2009 (Ngày 30/10), thành phố Hải Dương đón nhận các sự kiện lớn như: Kỷ niệm 205 năm thành lập Thành Đông, 55 giải phóng thành phố Hải Dương, Lễ công bố quyết định thành phố Hải Dương trở thành đô thị loại II; và từ 30 tháng 10 đến 08 tháng 11-2009, thành phố Hải Dương đồng đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 (Asian Indoor Games III) tại Việt Nam.
Kinh tế:
Thành phố Hải Dương là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ của tỉnh.
Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 14,5%. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp – Xây dựng 53,07%, Dịch vụ 45,68%, Nông nghiệp – Thuỷ sản 1,25%. Trên địa bàn thành phố, Chính phủ đã phê duyệt các khu công nghiệp, thu hút 1.247 doanh nghiệp hoạt động.
Năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng ước đạt hơn 1.346 tỷ đồng, tăng 52% so với năm 2007.
Cũng năm này, thành phố có 1.700 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có hơn 900 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người một năm đạt 1.344 Usd/người
Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn TP Hải Dương đạt hơn 676 tỷ đồng, bằng 50,8% kế hoạch năm và tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, kinh tế tập thể đạt hơn 11 tỷ đồng, bằng 50,3% kế hoạch năm; doanh nghiệp tư nhân gần 124 tỷ đồng, bằng 49,7%; công ty trách nhiệm hữu hạn hơn 238 tỷ đồng, bằng 50,8%; công ty cổ phần hơn 206 tỷ đồng, bằng 50,9%; hộ cá thể, gần 98 tỷ đồng, bằng 48,7% kế hoạch năm. Thành phố hiện có gần 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có gần 1.000 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Thành phố Hải Dương là một trong những trung tâm về công nghiệp của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
Du lịch
Địa điểm tham quan, giải trí
– Công viên Bạch Đằng
– Quảng trường Độc Lập (Ngã 5 Bách hóa Tổng Hợp)
– Quảng trường 30 tháng 10 (ĐTM Tây Hải Dương)
– Khu sinh thái Hà Hải.
– Nước khoáng nóng Thạch Khôi.
– Các tuyến phố thương mại
Di tích lịch sử
Thành Hải Dương: Thành được xây từ năm 1804, đặt tại tổng Hàn Giang (nay là thành phố Hải Dương), nhằm bảo vệ Lị sở Hải Dương sau khi được chuyển từ Mao Điền về.
Thành có hình 6 cạnh, chu vi 551 trượng 6 thước, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, mở 4 cửa. Ban đầu thành được đắp bằng đất, đến năm 1824 (năm Minh Mạng thứ 5), thành được xây thêm bằng đá ong (kiểu xây này cũng được thấy ở thành Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An), có sống khế. Năm Tự Đức thứ 19 (1865), đắp thêm thành Dương Mã ở các cửa, hình chóp nón úp vào hào trước cửa thành, cao 5 thước 4 tấc, hào rộng 3 trượng 3 thước, sâu 6 thước.
Thành đã bị phá hủy trong chiến sự 1946-54, ngày nay vẫn còn sót lại một số ít đoạn tường thành và dinh Tổng Đốc ở trụ sở của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hải Dương.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cam Lâm
Diện tích: 550,26km2. Dân số: 105.759 người. Hành chính: Cam Tân, Cam Hòa, Cam Hải Đông, Cam Hải Tây, Cam Hiệp Bắc, Cam Hiệp Nam, Sơn Tân, Cam Thành Bắc, Cam Phước Tây, Cam An Bắc, Cam An Nam, Suối Tân, Suối Cát và thị trấn Cam Đức.
1. Vị trí địa lý
Huyện Cam Lâm là một trong 9 đơn vị hành chính của
tỉnh Khánh Hòa
được thành lập theo Nghị định số 65/2007/NĐ-CP ngày 11/4/2007 của Chính phủ. Huyện gồm 14 đơn vị hành chính cấp xã (thị trấn Cam Đức và 13 xã) với diện tích tự nhiên 550,26km2, dân số 105.759 người (năm 2014) bằng 10,5% diện tích và 8,7% dân số toàn tỉnh Khánh Hòa. Về quy mô, huyện xếp thứ 4 về diện tích và thứ 5 về dân số trong 9 huyện, thị xã và thành phố.
Huyện Cam Lâm nằm phía Nam tỉnh Khánh Hòa, phía Đông của huyện giáp biển Đông và huyện đảo Trường Sa với bờ biển dài 13 km, phía Bắc giáp Thành phố Nha Trang và huyện Diên Khánh, phía Nam giáp Thành phố Cam Ranh, phía Tây giáp các huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh.
2. Điều kiện tự nhiên
a) Địa hình
Huyện Cam Lâm có địa hình phong phú và đa dạng, có cả núi, đồi, đồng bằng, đầm thủy triều, bãi cát ven biển và biển khơi. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc vào Nam, gồm 3 dạng địa hình chính là núi cao (chiếm 33,3% diện tích), núi thấp (28% diện tích), đồng bằng và đồi thoải (khoảng 38,7% diện tích).
Khu vực phía Tây và Tây Bắc của huyện chủ yếu là núi cao, núi thấp và đồi, độ dốc (15 – 25 độ) và chia cắt mạnh, cao trung bình 500 – 700m, có ngọn núi Hòn Bà cao 1.554m với khí hậu mát mẻ.
Khu vực phía Bắc và Đông Bắc chủ yếu là đồi thoải có sự đan xen – giao thoa giữa núi và đồng bằng bồi tụ ven biển, độ dốc 3 – 8 độ, với đất đai phì nhiêu phù hợp với việc trồng lúa và hoa màu.
Khu vực phía Đông và Đông Nam là địa hình núi thấp, đồi thấp xen kẽ bình nguyên và thung lũng, về phía Đông có Đầm Thủy triều thông với Bãi Dài và biển gồm đồi cát ven biển và biển khơi.
|
General introduction of Cam Lam district
Area: 550.26km2. Population: 105,759 people. Administration: Cam Tan, Cam Hoa, Cam Hai Dong, Cam Hai Tay, Cam Hiep Bac, Cam Hiep Nam, Son Tan, Cam Thanh Bac, Cam Phuoc Tay, Cam An Bac, Cam An Nam, Suoi Tan, Suoi Cat and Cam Duc town.
1. Geographical location
Cam Lam district is one of 9 administrative units of the province
Khanh Hoa province
was established under Decree Không. 65/2007/ND-CP dated April 11, 2007 of the Government. The district includes 14 commune-level administrative units (Cam Duc town and 13 communes) with a natural area of 550.26km2, a population of 105,759 people (in 2014), equal to 10.5% of the area and 8.7% of the total population. Khanh Hoa province. In terms of scale, the district ranks 4th in area and 5th in population among 9 districts, towns and cities.
Cam Lam district is located in the south of Khanh Hoa province, the east of the district borders the East Sea and Truong Sa island district with a 13 km long coastline, the north borders Nha Trang City and Dien Khanh district, the south borders Cam Ranh City, the north borders Nha Trang City and Dien Khanh district. The West borders Khanh Son and Khanh Vinh districts.
2. Natural conditions
a) Terrain
Cam Lam district has a rich and diverse terrain, including mountains, hills, plains, tidal lagoons, coastal sand beaches and the sea. The terrain gradually lowers from West to East and from North to South, including 3 main terrain types: high mountains (accounting for 33.3% of the area), low mountains (28% of the area), plains and gentle hills (about 38% of the area). .7% area).
The western and northwest areas of the district are mainly high mountains, low mountains and hills, steep (15 - 25 degrees) and strongly divided, with an average height of 500 - 700m, with Hon Ba mountain 1,554m high with fresh air. cool climate.
The Northern and Northeast regions are mainly gentle hills with an intersection between mountains and coastal alluvial plains, slopes of 3 - 8 degrees, with fertile soil suitable for growing rice and crops. .
The East and Southeast areas are low mountainous terrain, low hills alternating with plains and valleys, to the East there is Tidal Lagoon connected to Bai Dai and the sea including coastal sand dunes and open sea.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tứ Kỳ
Tứ Kỳ là một huyện mới được tách từ huyện Tứ Lộc cũ theo Quyết định số 05/QĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 1996 của Chính phủ về việc tách huyện Tứ Lộc thành hai huyện Tứ Kỳ và Gia Lộc, hoạt động chính thức ngày 01 tháng 3 năm 1996 theo đơn vị hành chính đã được phân cấp. Cùng ngày 01 tháng 3 năm 1996 huyện Tứ Kỳ chính thức bắt đầu đi vào hoạt động.
Huyện Tứ Kỳ là một trong 12 đơn vị hành chính của
tỉnh Hải Dương
. Huyện nằm ở phía Đông Nam tỉnh Hải Dương, nằm giữa châu thổ sông Hồng. Phía Bắc huyện giáp với thành phố Hải Dương và huyện Gia Lộc; phía Nam giáp huyện Vĩnh Bảo tỉnh Hải Phòng; phía Đông giáp huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương và huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Phòng; phía Tây giáp với huyện Gia Lộc và huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương. Huyện Tứ Kỳ nằm dọc theo trục đường 191(nay là đường 391) nối Quốc lộ 5 với quốc lộ 10 đi Hải Phòng, Thái Bình, cách Hà Nội 60 Km về phía Tây Bắc, cách Hải Phòng 40 Km về phía Nam và Đông Nam, cách thành phố Hải Dương 14 Km về phía Tây Bắc; bao bọc xung quanh huyện là 02 tuyến sông Thái Bình và sông Luộc. Với vị trí trên là điều kiện cho huyện phát triển cơ cấu đa dạng các ngành: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, hạ tầng kinh tế, văn hoá xã hội. Thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các huyện khác và với các tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh…
Huyện Tứ Kỳ có 27 đơn vị hành chính gồm 01 Thị trấn và 26 xã với tổng diện tích tự nhiên là: 16.813 ha, dân số 158.769 người. Bên cạnh, nghề nông, huyện còn có một số làng nghề như: nghề ren ở xã Minh Đức, Tân Kỳ; nghề thêu ở xã Hưng Đạo, chiếu cói ở xã An Thanh, mây tre đan ở Thị trấn Tứ Kỳ…
Có thể nói trong lao động sản xuất phát triển kinh tế, người dân Tứ Kỳ luôn luôn cần cù, sáng tạo thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng khá phong phú. Tứ Kỳ là nơi có nhiều đình, chùa, miếu với cảnh quan đẹp và là nơi nhân dân thờ cúng, hội hè, đình đám…Hiện nay Tứ Kỳ có các công trình được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử- văn hóa là: chùa Đông Dương (Minh Đức), chùa Phúc Diên (Tân Kỳ), chùa Khánh Linh (Phượng Kỳ), miếu Phạm Xá (Ngọc Sơn). Đây là niềm vinh dự và tự hào của người dân Tứ Kỳ. Trong hàng trăm di tích của Tứ Kỳ, nhiều di tích gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của huyện như: đình La Tỉnh (Thị trấn), đền Mắc (Quang Phục), chùa Nghi Khê (Tân Kỳ). Mặc dù các di tích văn hóa của huyện đã trải qua hàng trăm năm bị thiên tai, giặc tàn phá nhưng những dấu ấn tốt đẹp vẫn còn đọng lại sâu sắc trong ký ức của nhiều người dân nơi đây. Là một vùng quê bốn mùa cây cối xanh tươi, mọi người dân sống đoàn kết, vui vẻ, lạc quan, Tứ Kỳ còn lưu truyền nhiều truyền thuyết, những lời ca, tiếng hát như: truyện Nhất bào sinh ngũ tử ở La Tỉnh (Thị trấn Tứ Kỳ), truyện song sinh đồng tử ở Hiền Sĩ (Tây Kỳ), ông Cộc, ông Dài ở Lạc Dục (Hưng Đạo), bà Bổi Lạng ở Bình Lãng- một doanh nhân giàu lòng từ thiện…hầu hết đều phản ánh truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, lao động sáng tạo và đời sống tinh thần phong phú của người dân Tứ Kỳ. Ngoài ra ở thôn Xuân Nẻo (Hưng Đạo) có chiếu chèo bà trùm Bông, người Đại Đồng giỏi hát tuồng, người Đại Hợp giỏi hát đúm, người Dân Chủ giỏi hát ả đào, hát ca trù- là cái nôi của Di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam…Nhiều địa phương ở Tứ Kỳ hàng năm vào những tháng nông nhàn tổ chức các lễ hội như: xã Quang Khải, Minh Đức có hội pháo đất; xã Văn Tố, An Thanh, Hưng Đạo có hội vật, hội bơi, xã Dân Chủ có hội săn bắt chim…
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng bộ và nhân dân Tứ Kỳ đã có những đóng góp xứng đáng công sức và xương máu của mình. Toàn huyện có 4.333 liệt sĩ, 1.722 thương binh, 1.037 bệnh binh, 216 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 02 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và 02 anh hùng lao động. Đặc biệt xã Hưng Đạo được 02 lần phong tặng danh hiệu là xã anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Đây là niềm vinh dự và tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong huyện.
Với những thuận lợi trên huyện Tứ Kỳ ngày càng phát triển lớn mạnh cùng với sự phát triển của đất nước. Tuy còn gặp nhiều khó khăn trước mắt nhưng huyện Tứ Kỳ vẫn vươn lên trở thành điểm sáng của tỉnh Hải Dương, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
|
General introduction to Tu Ky district
Tu Ky is a new district separated from the old Tu Loc district according to Decision Không. 05/QD-CP dated January 27, 1996 of the Government on separating Tu Loc district into two districts, Tu Ky and Gia Loc, officially operating. March 1, 1996 according to the decentralized administrative unit. On March 1, 1996, Tu Ky district officially began operating.
Tu Ky district is one of 12 administrative units of the province
Hai Duong Province
. The district is located in the southeast of Hai Duong province, in the middle of the Red River Delta. The north of the district borders Hai Duong city and Gia Loc district; The South borders Vinh Bao district, Hai Phong province; The East borders Thanh Ha district, Hai Duong province and Tien Lang district, Hai Phong province; The West borders Gia Loc district and Ninh Giang district, Hai Duong province. Tu Ky district is located along Road 191 (now Road 391) connecting National Highway 5 with National Highway 10 to Hai Phong, Thai Binh, 60 km northwest of Hanoi, 40 km south and east of Hai Phong. South, 14 km northwest of Hai Duong city; Surrounding the district are two rivers: Thai Binh and Luoc rivers. The above position is a condition for the district to develop a diverse structure of industries: industry, agriculture, services, economic infrastructure, and social culture. Convenient for economic exchanges with other districts and with major provinces and cities such as Hanoi, Hai Phong, Quang Ninh...
Tu Ky district has 27 administrative units including 01 town and 26 communes with a total natural area of 16,813 hectares, population of 158,769 people. Besides farming, the district also has a number of craft villages such as: lace craft in Minh Duc and Tan Ky communes; embroidery in Hung Dao commune, sedge mats in An Thanh commune, rattan and bamboo weaving in Tu Ky town...
It can be said that in production and economic development, the people of Tu Ky are always industrious and creative, and their cultural and spiritual life is also quite rich. Tu Ky is a place with many communal houses, pagodas, and shrines with beautiful landscapes and is a place where people worship, have festivals, and celebrate... Currently, Tu Ky has works ranked as heritage sites by the Ministry of Culture, Sports and Tourism. Historical and cultural sites are: Indochina pagoda (Minh Duc), Phuc Dien pagoda (Tan Ky), Khanh Linh pagoda (Phuong Ky), Pham Xa temple (Ngoc Son). This is the honor and pride of the people of Tu Ky. Among hundreds of relics in Tu Ky, many relics are associated with the district's revolutionary struggle such as: La Tinh communal house (Town), Mac temple (Quang Phuc), Nghi Khe pagoda (Tan Ky). Although the cultural relics of the district have been destroyed by natural disasters and invaders for hundreds of years, the good marks still remain deeply in the memories of many people here. As a countryside with four seasons of green trees, all the people live in solidarity, happily, and optimistically, Tu Ky still has many legends, lyrics, and singing such as: the story of One robe giving birth to five children in La Tinh. (Tu Ky Town), the story of twins in Hien Si (Tay Ky), Mr. Coc, Mr. Dai in Lac Duc (Hung Dao), Mrs. Boi Lang in Binh Lang - a philanthropic businessman... most All reflect the tradition of solidarity against foreign invaders, creative labor and rich spiritual life of the people of Tu Ky. In addition, in Xuan Neo village (Hung Dao) there is a Cheo mat for Mrs. Bong, Dai Dong people are good at singing tuong, Dai Hop people are good at singing dum, Democratic people are good at singing a dao, singing ca tru - this is the cradle of cultural heritage. Intangible culture of Vietnam... Many localities in Tu Ky annually organize festivals during the off-season months such as: Quang Khai and Minh Duc communes have earthen cannon festivals; Van To, An Thanh, Hung Dao communes have wrestling and swimming festivals, Dan Chu commune has bird hunting festivals...
During the revolutionary cause, the Party Committee and people of Tu Ky have made contributions worthy of their efforts and blood. The entire district has 4,333 martyrs, 1,722 wounded soldiers, 1,037 sick soldiers, 216 heroic Vietnamese mothers, 02 heroes of the people's armed forces and 02 labor heroes. In particular, Hung Dao commune was twice awarded the title of heroic commune of the people's armed forces and heroic labor of the reform period. This is the honor and pride of the entire Party, people, and army in the district.
With the above advantages, Tu Ky district is growing stronger and stronger along with the development of the country. Although there are still many difficulties ahead, Tu Ky district still rises to become a bright spot of Hai Duong province, contributing to the process of building an increasingly rich, beautiful, and civilized country.
|
Giới thiệu khái quát Khánh Vĩnh
Tổng diện tích: 1.165km2
Tổng dân số: 36.024 người
Mật độ dân cư: 30.9 người/km2
Điều kiện tự nhiên
:
Khánh Vĩnh là huyện miền núi và bán sơn địa nằm ở cực Tây tỉnh Khánh Hòa, ở tọa độ 12°16′13″B ,108°53′33″Đ, phía bắc giáp thị xã Ninh Hòa và tỉnh Đak Lak, phía tây là tỉnh Lâm Đồng, phía nam giáp huyện Khánh Sơn và tỉnh Ninh Thuận, phía đông giáp huyện Diên Khánh.
Địa hình: Khánh Vĩnh có địa hình chủ yếu là đồi núi và phân thành 2 khu vực chính. Khu vực phía Đông, dọc theo lưu vực các phụ lưu của sông Cái chủ yếu là các đồi thấp, khu vực phía tây và phía Nam chủ yếu là các núi cao với nhiều đỉnh núi cao từ 1500 m đến trên 2000 m, trong đó có Đỉnh Hòn Giao (2062 m) là đỉnh núi cao nhất tỉnh Khánh Hòa.
Hệ thống sông suối: Do nằm ở thượng nguồn của sông Cái Nha Trang, huyện Khánh Vĩnh có mật độ sông suối cao hơn so với các huyện khác trong tỉnh, Mật độ sông suối bình quân là 0,65 km/km². Hầu hết sông suối đều xuất phát từ các dãy núi cao ở phía Nam, Tây và Bắc rồi tập trung về sông Thác Ngựa và sông Chò chảy về sông Cái Nha Trang. Vìa vậy, dễ gây lũ và sói mòn, sạt lỡ vào mùa mưa và dễ hạn hán, thiếu nước vào mùa nắng.
Tài nguyên khoáng sản của Khánh Vĩnh chủ yếu gồm thiếc, cao lanh… và các loại gỗ quí hiếm. Khánh Vĩnh có 87.198,99 ha đất rừng. Độ che phủ thường xuyên chiếm 75% diện tích tự nhiên của huyện với tổng trữ lượng gỗ lên đến 10 triệu m3, trong đó khoảng 9 triệu m3 tập trung ở rừng rậm và rừng trung bình.
Do vị trí nằm phía tây tỉnh Khánh Hòa nên chịu ảnh hưởng gió Lào từ phía Tây thổi vào làm khí hậu khô hanh. Thường chỉ có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng
DU LỊCH SINH THÁI Ở MIỀN NÚI KHÁNH VĨNH – MỘT TIỀM NĂNG ĐANG CẦN ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN
Khánh Vĩnh là một trong hai huyện miền cao của Tỉnh Khánh hoà, có diện tích tự nhiên là 1116 km2 với dân cư là 27.600 người chủ yếu là đồng bào các dân tộc Rak lay, Trin, Ê đê… Do địa hình miền núi nên rừng và đất rừng chiếm hơn ¾ diện tích với trữ lượng lâm đặc sản lớn, đa dạng về chủng loại. Mặt khác địa hình chia cắt mạnh bởi các ngọn núi cao nên có Khánh Vĩnh có hệ thống sông suối dày đặc, nhiều thác ghềnh nên thuận lợi cho việc phát triển các mô hình kinh tế nông lâm, chăn nuôi và nhất là mô hình du lịch sinh thái. Nếu như ở địa bàn miền duyên hải, du lịch sinh thái thường tập trung ở mô hình biển, đảo với các hình thức cụ thể như lặn biển, tham quan các đảo đá, câu cá rạn… thì ở miền núi có thể giới thiệu các hình thức như tham quan thác, suối, đá, rừng. Du khách có thể đến sinh họat dã ngọai ở các con sông, suối, có thể nghiên cứu hệ động – thực vật nhiệt đới nhiều tầng nhiều lớp đa dạng phong phú
Theo thống kê, với 7 con sông gồm Sông Cầu, Sông Khế, Sông Trang, Sông Giang, Sông Chò, Sông Cái, Sông Mấu với tổng chiều dài trường khi hợp lưu để về thành sông Cái là hơn 300 cây số, cùng hệ thống đồi núi đa dạng đã tạo nên những cảnh quan hùng vĩ dễ làm ngợp lòng người. Từ tuyến Cầu Lùng – Đà Lạt, cây số 20 rẽ vào khoảng 12 km về phía nam là đến với khu du lịch Giang bay – Khánh phú bao gồm cảnh quan về sông, thác, đá, rừng. Tại đây, Tổng công ty Khánh việt đã đầu tư đầu tư xây dựng các hạng mục phục vụ du lịch sinh thái như nhà hàng, nhà nghỉ, hồ tắm, hồ nuôi cá sấu ,khai thác suối Nước Nóng Ho-cho, suối Đá trải để tiếp đón khách tham quan du lịch sinh thái trong tỉnh và ngòai Tỉnh. Cao điểm trong dịp Lễ, Tết, như các ngày Lễ Quốc tế phụ nữ 8-3 vừa qua có đến hàng ngàn người từ các nơi trong và ngoài Tỉnh đến tham quan du lịch. Khu thác Giang bay có tổng chiều dài hơn 10km sông và các phụ lưu gồm các thác nước, khu đá trải, hang đá và hệ thống thực vật gần như nguyên sinh suốt cả chiều dài của con sông Cầu hùng vĩ. Hoặc như Suối Nước nóng – xã Khánh Hiệp, cách thị trấn Khánh vĩnh hơn 20 cây số về phía tây bắc là nơi lý tưởng cho việc điều trị vật lý cho các lọai bệnh như thấp khớp ,bệnh ngoài da…Tại đây có một nguồn suối khóang tự nhiên phun trào với nhiệt độ từ 65 độ đến 70 độ C. Bà con dân tộc dùng nước này để chữa bệnh ,uống và sinh họat. Hiện nay, hàng ngày đều có người đến để tắm chữa bệnh và lấy nước khóang về uống. Đã có một công tư tư doanh đầu tư khai thác nguồn suối nóng này. Khu vực Khánh Hiệp có không dưới 2 nguồn nước khoáng tự nhiên lộ thiên có giá trị. Tại xã Giang ly, dưới chân thác Gia lợi còn đang hoang sơ, ông Mà Giá A nguyên Chủ tịch UBND xã Giang ly cũng bước đầu thiết kế một số hạng mục như nhà chòi, đàn đá dùng sức nước… và tại đây du khách có thể tham quan dọc tuyến suối Gia lợi với những cảnh quan kỳ thú về cây rừng, đá núi mà hiện nay người tham quan đặt tên là khu “du lịch Đàn đá”. Bên cạnh địa danh Giang bay, Suối Nước nóng…
Huyện Khánh vĩnh còn có các địa danh khác như Thác Hòm, Sông Mấu – xã Khánh thượng, Suối Đá trãi –xã Khánh đông, Sông Giang –xã Khánh trung, Suối II-xã Khánh thành. Ở những khu vực trên, du khách có thể chiêm ngưỡng hàng chục km sông suối hùng vĩ với những bãi đá trải dài, những bãi cát sạch sẽ dưới tán cây rừng râm mát bên những dòng nước chảy từ trong lòng đá mát lạnh. Bên trên những tán rừng là những giò phong lan trên cành đại thụ, những hình hài dây leo muôn vẻ chằng chịt…và tiếng chim rừng lảnh lót bất cứ thời khắc nào. Người viết bài này có dịp đặt chân đến khu vực rừng nguyên sinh vùng Trảng Thông, Chư Tôn – xã Khánh Hiệp đã chứng kiến những cây đại thụ to hàng mấy người ôm và rừng chia thành nhiều tầng, nhiều lớp nhưng đặc trưng nhất là mặt đất tuyệt nhiên không có một cây bụi nào mà chỉ có lớp lá ủ dày hàng tấc kết quả của bao năm tháng giao mùa thay lá của cây. Nếu có điều kiện về giao thông, về công tác đầu tư quản lý thì đây là những địa điểm du lịch kỳ thú khi nói đến du lịch sinh thái miền rừng. Hoặc như trên các con sông lớn như Sông Cái, Sông Trang… dài hơn 40km tính từ Liên Sang về hạ lưu là Nha Trang có thể tổ chức những tua du lịch chuyên về sông nước với mô hình chèo thuyền xuôi sông, vượt thác và thỉnh thỏang dừng chân ở các trạm nghỉ dọc sông. Hiện nay, công trình thủy điện Sông Giang – Khánh Trung đang thi công và dự án đập hồ Sông Chò – Khánh Hiệp đang xây dựng thì có thể sử dụng hai mục đích khai thác là năng lượng điện và du lịch sinh thái Đặc biệt, tuyến đường Khánh lê – Lâm Đồng là cầu nối và Khánh Vĩnh sẽ là nơi hội tụ các tuyến tham quan du lịch từ thành phố hoa Đà Lạt xuống trước khi đến vùng duyên hải Nha Trang và ngược lại.
Nói tóm lại, điều kiện tự nhiên ở Khánh Vĩnh rất lý tưởng cho việc đầu tư, phát triển các các mô hình du lịch, nhất là du lịch sinh thái. Tuy nhiên, cần chú ý thêm các yếu tố để vừa thực hiện tốt công tác đầu tư du lịch phát triển kinh tế –xã hội vừa bảo đảm an ninh chính trị địa bàn có vị trí chiến lược này. Hiện tại, theo qui định nếu người nước ngòai đến địa bàn Khánh Vĩnh và lưu lại phải có giấy giới thiệu của cơ quan chức năng và sự cho phép của UBND Tỉnh với các mục đích công tác, nghiên cứu khoa học, từ thiện… Do vậy, nên qui định cụ thể về việc tổ chức du lịch có yếu tố người nước ngòai ở Khánh Vĩnh bởi vì theo xu thế hiện nay, các đơn vị kinh doanh du lịch thường tổ chức các tua khép kín cho du khách và đến tham quan miền núi là lộ trình lý tưởng theo mong muốn của họ. Vấn đề thứ hai, rất quan trọng là cần phải thực hiện nay công tác qui họach đầu tư khai thác phát triển du lịch ở miền núi từ nay đến năm 2020 và sau 2020 với việc đầu tư khai thác hợp lý từng giai đọan với các biện pháp thích hợp. Hiện tại, ngòai khu du lịch Giang Bay được UBND Tỉnh giao công tác đầu tư khai thác cho Tổng công ty Khánh Việt,các địa điểm có khả năng du lịch khác đều được du khách khai thác một cách tự phát, không có sự đầu tư,quản lý của chính quyền sở tại. Từ việc qui họach thống nhất bản đồ du lịch, Nhà nước nên thực hiện từng bước đầu tư khai thác với việc xây dựng hệ thống hạ tầng như giao thông, điện, nước và các hạng mục phụ trợ phục vụ cho du lịch sinh thái. Vấn đề thứ ba là cần khôi phục, phát huy ngành nghề truyền thống đồng bào dân tộc nhằm sản xuất các mặt hàng như dệt thổ cẩm, đan lát để quảng bá đặc trưng du lịch miền núi. Mặt khác, cần sưu tầm các hình thức văn hóa dân tộc, xây dựng các chương trình văn hóa để phục vụ tại các điểm du lịch như dạ hội cồng chiêng, các chương trình văn nghệ dân tộc Ê đê, Ralay, Trin .Vấn đề thứ tư là cần phải thực hiện tốt công tác vận động và triển khai tốt chính sách bảo vệ môi trường sinh thái miền núi mà việc lớn nhất là bảo vệ rừng.
Có thể nói, tiềm năng du lịch sinh thái ở miền núi Khánh Vĩnh chưa được đầu tư ,khai thác đúng mức. Do vậy, trong thời gian đến, Nhà nước nên xem xét thực hiện chính sách đầu tư để khai thác, phát huy tiềm năng sẵn có này giúp miền núi có thêm điều kiện để xóa đói giảm nghèo ,đẩy mạnh tốc độ kiến thiết xây dựng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với đồng bằng.
|
Giới thiệu khái quát Khánh Vĩnh
Tổng diện tích: 1.165km2
Tổng dân số: 36.024 người
Mật độ dân cư: 30.9 người/km2
Điều kiện tự nhiên
:
Khánh Vĩnh là huyện miền núi và bán sơn địa nằm ở cực Tây tỉnh Khánh Hòa, ở tọa độ 12°16′13″B ,108°53′33″Đ, phía bắc giáp thị xã Ninh Hòa và tỉnh Đak Lak, phía tây là tỉnh Lâm Đồng, phía nam giáp huyện Khánh Sơn và tỉnh Ninh Thuận, phía đông giáp huyện Diên Khánh.
Địa hình: Khánh Vĩnh có địa hình chủ yếu là đồi núi và phân thành 2 khu vực chính. Khu vực phía Đông, dọc theo lưu vực các phụ lưu của sông Cái chủ yếu là các đồi thấp, khu vực phía tây và phía Nam chủ yếu là các núi cao với nhiều đỉnh núi cao từ 1500 m đến trên 2000 m, trong đó có Đỉnh Hòn Giao (2062 m) là đỉnh núi cao nhất tỉnh Khánh Hòa.
Hệ thống sông suối: Do nằm ở thượng nguồn của sông Cái Nha Trang, huyện Khánh Vĩnh có mật độ sông suối cao hơn so với các huyện khác trong tỉnh, Mật độ sông suối bình quân là 0,65 km/km². Hầu hết sông suối đều xuất phát từ các dãy núi cao ở phía Nam, Tây và Bắc rồi tập trung về sông Thác Ngựa và sông Chò chảy về sông Cái Nha Trang. Vìa vậy, dễ gây lũ và sói mòn, sạt lỡ vào mùa mưa và dễ hạn hán, thiếu nước vào mùa nắng.
Tài nguyên khoáng sản của Khánh Vĩnh chủ yếu gồm thiếc, cao lanh… và các loại gỗ quí hiếm. Khánh Vĩnh có 87.198,99 ha đất rừng. Độ che phủ thường xuyên chiếm 75% diện tích tự nhiên của huyện với tổng trữ lượng gỗ lên đến 10 triệu m3, trong đó khoảng 9 triệu m3 tập trung ở rừng rậm và rừng trung bình.
Do vị trí nằm phía tây tỉnh Khánh Hòa nên chịu ảnh hưởng gió Lào từ phía Tây thổi vào làm khí hậu khô hanh. Thường chỉ có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng
DU LỊCH SINH THÁI Ở MIỀN NÚI KHÁNH VĨNH – MỘT TIỀM NĂNG ĐANG CẦN ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN
Khánh Vĩnh là một trong hai huyện miền cao của Tỉnh Khánh hoà, có diện tích tự nhiên là 1116 km2 với dân cư là 27.600 người chủ yếu là đồng bào các dân tộc Rak lay, Trin, Ê đê… Do địa hình miền núi nên rừng và đất rừng chiếm hơn ¾ diện tích với trữ lượng lâm đặc sản lớn, đa dạng về chủng loại. Mặt khác địa hình chia cắt mạnh bởi các ngọn núi cao nên có Khánh Vĩnh có hệ thống sông suối dày đặc, nhiều thác ghềnh nên thuận lợi cho việc phát triển các mô hình kinh tế nông lâm, chăn nuôi và nhất là mô hình du lịch sinh thái. Nếu như ở địa bàn miền duyên hải, du lịch sinh thái thường tập trung ở mô hình biển, đảo với các hình thức cụ thể như lặn biển, tham quan các đảo đá, câu cá rạn… thì ở miền núi có thể giới thiệu các hình thức như tham quan thác, suối, đá, rừng. Du khách có thể đến sinh họat dã ngọai ở các con sông, suối, có thể nghiên cứu hệ động – thực vật nhiệt đới nhiều tầng nhiều lớp đa dạng phong phú
Theo thống kê, với 7 con sông gồm Sông Cầu, Sông Khế, Sông Trang, Sông Giang, Sông Chò, Sông Cái, Sông Mấu với tổng chiều dài trường khi hợp lưu để về thành sông Cái là hơn 300 cây số, cùng hệ thống đồi núi đa dạng đã tạo nên những cảnh quan hùng vĩ dễ làm ngợp lòng người. Từ tuyến Cầu Lùng – Đà Lạt, cây số 20 rẽ vào khoảng 12 km về phía nam là đến với khu du lịch Giang bay – Khánh phú bao gồm cảnh quan về sông, thác, đá, rừng. Tại đây, Tổng công ty Khánh việt đã đầu tư đầu tư xây dựng các hạng mục phục vụ du lịch sinh thái như nhà hàng, nhà nghỉ, hồ tắm, hồ nuôi cá sấu ,khai thác suối Nước Nóng Ho-cho, suối Đá trải để tiếp đón khách tham quan du lịch sinh thái trong tỉnh và ngòai Tỉnh. Cao điểm trong dịp Lễ, Tết, như các ngày Lễ Quốc tế phụ nữ 8-3 vừa qua có đến hàng ngàn người từ các nơi trong và ngoài Tỉnh đến tham quan du lịch. Khu thác Giang bay có tổng chiều dài hơn 10km sông và các phụ lưu gồm các thác nước, khu đá trải, hang đá và hệ thống thực vật gần như nguyên sinh suốt cả chiều dài của con sông Cầu hùng vĩ. Hoặc như Suối Nước nóng – xã Khánh Hiệp, cách thị trấn Khánh vĩnh hơn 20 cây số về phía tây bắc là nơi lý tưởng cho việc điều trị vật lý cho các lọai bệnh như thấp khớp ,bệnh ngoài da…Tại đây có một nguồn suối khóang tự nhiên phun trào với nhiệt độ từ 65 độ đến 70 độ C. Bà con dân tộc dùng nước này để chữa bệnh ,uống và sinh họat. Hiện nay, hàng ngày đều có người đến để tắm chữa bệnh và lấy nước khóang về uống. Đã có một công tư tư doanh đầu tư khai thác nguồn suối nóng này. Khu vực Khánh Hiệp có không dưới 2 nguồn nước khoáng tự nhiên lộ thiên có giá trị. Tại xã Giang ly, dưới chân thác Gia lợi còn đang hoang sơ, ông Mà Giá A nguyên Chủ tịch UBND xã Giang ly cũng bước đầu thiết kế một số hạng mục như nhà chòi, đàn đá dùng sức nước… và tại đây du khách có thể tham quan dọc tuyến suối Gia lợi với những cảnh quan kỳ thú về cây rừng, đá núi mà hiện nay người tham quan đặt tên là khu “du lịch Đàn đá”. Bên cạnh địa danh Giang bay, Suối Nước nóng…
Huyện Khánh vĩnh còn có các địa danh khác như Thác Hòm, Sông Mấu – xã Khánh thượng, Suối Đá trãi –xã Khánh đông, Sông Giang –xã Khánh trung, Suối II-xã Khánh thành. Ở những khu vực trên, du khách có thể chiêm ngưỡng hàng chục km sông suối hùng vĩ với những bãi đá trải dài, những bãi cát sạch sẽ dưới tán cây rừng râm mát bên những dòng nước chảy từ trong lòng đá mát lạnh. Bên trên những tán rừng là những giò phong lan trên cành đại thụ, những hình hài dây leo muôn vẻ chằng chịt…và tiếng chim rừng lảnh lót bất cứ thời khắc nào. Người viết bài này có dịp đặt chân đến khu vực rừng nguyên sinh vùng Trảng Thông, Chư Tôn – xã Khánh Hiệp đã chứng kiến những cây đại thụ to hàng mấy người ôm và rừng chia thành nhiều tầng, nhiều lớp nhưng đặc trưng nhất là mặt đất tuyệt nhiên không có một cây bụi nào mà chỉ có lớp lá ủ dày hàng tấc kết quả của bao năm tháng giao mùa thay lá của cây. Nếu có điều kiện về giao thông, về công tác đầu tư quản lý thì đây là những địa điểm du lịch kỳ thú khi nói đến du lịch sinh thái miền rừng. Hoặc như trên các con sông lớn như Sông Cái, Sông Trang… dài hơn 40km tính từ Liên Sang về hạ lưu là Nha Trang có thể tổ chức những tua du lịch chuyên về sông nước với mô hình chèo thuyền xuôi sông, vượt thác và thỉnh thỏang dừng chân ở các trạm nghỉ dọc sông. Hiện nay, công trình thủy điện Sông Giang – Khánh Trung đang thi công và dự án đập hồ Sông Chò – Khánh Hiệp đang xây dựng thì có thể sử dụng hai mục đích khai thác là năng lượng điện và du lịch sinh thái Đặc biệt, tuyến đường Khánh lê – Lâm Đồng là cầu nối và Khánh Vĩnh sẽ là nơi hội tụ các tuyến tham quan du lịch từ thành phố hoa Đà Lạt xuống trước khi đến vùng duyên hải Nha Trang và ngược lại.
Nói tóm lại, điều kiện tự nhiên ở Khánh Vĩnh rất lý tưởng cho việc đầu tư, phát triển các các mô hình du lịch, nhất là du lịch sinh thái. Tuy nhiên, cần chú ý thêm các yếu tố để vừa thực hiện tốt công tác đầu tư du lịch phát triển kinh tế –xã hội vừa bảo đảm an ninh chính trị địa bàn có vị trí chiến lược này. Hiện tại, theo qui định nếu người nước ngòai đến địa bàn Khánh Vĩnh và lưu lại phải có giấy giới thiệu của cơ quan chức năng và sự cho phép của UBND Tỉnh với các mục đích công tác, nghiên cứu khoa học, từ thiện… Do vậy, nên qui định cụ thể về việc tổ chức du lịch có yếu tố người nước ngòai ở Khánh Vĩnh bởi vì theo xu thế hiện nay, các đơn vị kinh doanh du lịch thường tổ chức các tua khép kín cho du khách và đến tham quan miền núi là lộ trình lý tưởng theo mong muốn của họ. Vấn đề thứ hai, rất quan trọng là cần phải thực hiện nay công tác qui họach đầu tư khai thác phát triển du lịch ở miền núi từ nay đến năm 2020 và sau 2020 với việc đầu tư khai thác hợp lý từng giai đọan với các biện pháp thích hợp. Hiện tại, ngòai khu du lịch Giang Bay được UBND Tỉnh giao công tác đầu tư khai thác cho Tổng công ty Khánh Việt,các địa điểm có khả năng du lịch khác đều được du khách khai thác một cách tự phát, không có sự đầu tư,quản lý của chính quyền sở tại. Từ việc qui họach thống nhất bản đồ du lịch, Nhà nước nên thực hiện từng bước đầu tư khai thác với việc xây dựng hệ thống hạ tầng như giao thông, điện, nước và các hạng mục phụ trợ phục vụ cho du lịch sinh thái. Vấn đề thứ ba là cần khôi phục, phát huy ngành nghề truyền thống đồng bào dân tộc nhằm sản xuất các mặt hàng như dệt thổ cẩm, đan lát để quảng bá đặc trưng du lịch miền núi. Mặt khác, cần sưu tầm các hình thức văn hóa dân tộc, xây dựng các chương trình văn hóa để phục vụ tại các điểm du lịch như dạ hội cồng chiêng, các chương trình văn nghệ dân tộc Ê đê, Ralay, Trin .Vấn đề thứ tư là cần phải thực hiện tốt công tác vận động và triển khai tốt chính sách bảo vệ môi trường sinh thái miền núi mà việc lớn nhất là bảo vệ rừng.
Có thể nói, tiềm năng du lịch sinh thái ở miền núi Khánh Vĩnh chưa được đầu tư ,khai thác đúng mức. Do vậy, trong thời gian đến, Nhà nước nên xem xét thực hiện chính sách đầu tư để khai thác, phát huy tiềm năng sẵn có này giúp miền núi có thêm điều kiện để xóa đói giảm nghèo ,đẩy mạnh tốc độ kiến thiết xây dựng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với đồng bằng.
|
NHÀ VĂN NHẬT CHIÊU
Nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu họ tên đầy đủ là Phan Nhật Chiêu, sinh ngày 4 tháng 3 năm 1951 tại Sài Gòn, quê quán ở Vĩnh Long. Ông nguyên là giảng viên Khoa Văn học và ngôn ngữ Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (nay đã nghỉ hưu). Ông có rất nhiều học trò, và được học trò kính trọng cả về tài, đức. Hiện nay, ông là Uỷ viên Hội đồng Lý luận phê bình – Dịch thuật Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đã xuất bản
– Con lừa vàng, Lucius Apuleius, dịch, Nxb Hậu Giang, 1987.
– Tình trong bóng tối, Tanizaki Junichiro, dịch, Nxb Văn nghệ, 1989.
– Tagore – người tình của cuộc đời, viết chung với Hoàng Hữu Đản, Nxb Hội nhà văn, 1991.
– Những kiệt tác văn chương thế giới, viết chung, Nxb Thanh niên, 1991.
– Tiếu lâm Nhật Bản, dịch, Nxb Văn hoá dân tộc, 1993.
– Basho và thơ Haiku, biên khảo, Nxb Văn học, 1994.
– Nhật Bản trong chiếc gương soi, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1995.
– Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Nhật Bản, chủ biên và dịch, 2 tập, Nxb Trẻ, 1996.
– Đại cương văn hoá phương Đông, viết chung, Nxb Giáo dục, 1996.
– Câu chuyện văn chương phương Đông, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1997.
– Thơ ca Nhật Bản, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1998.
– Văn học Nhật Bản, biên khảo, Nxb Giáo dục, 2000.
– Người ăn gió và quả chuông bay đi, tập truyện, Nxb Hội nhà văn & Công ty Đông A, 2007.
– Ba nghìn thế giới thơm, biên khảo, Nxb Văn nghệ, 2007.
– Đi dưới mưa hồng, biên khảo, Nxb Văn nghệ, 2007.
– Người ăn gió và quả chuông bay đi, tập truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, 2007.
– Lời tiên tri của giọt sương, tập truyện song ngữ Việt – Anh, Nxb Hội Nhà văn, 2011.
– Tôi là một kẻ khác, tập thơ, Nxb Văn Hoá Văn Nghệ, 2015.
– Người về với như, thơ ca tương chiếu, NXB Hồng Đức, 2017.
|
WRITER NHAT CHIEU
Writer, translator, literary researcher Nhat Chieu's full name is Phan Nhat Chieu, born on March 4, 1951 in Saigon, hometown in Vinh Long. He is a former lecturer at the Department of Literature and Language at Ho Chi Minh City University of Social Sciences and Humanities (now retired). He had many students, and was respected by his students for both talent and virtue. Currently, he is a member of the Council of Critical Theory and Translation of the Ho Chi Minh City Writers Association.
Published work
– Golden donkey, Lucius Apuleius, translated, Hau Giang Publishing House, 1987.
– Love in the dark, Tanizaki Junichiro, translated, Arts Publishing House, 1989.
– Tagore – lover of life, written with Hoang Huu Dan, Writers Association Publishing House, 1991.
– Masterpieces of world literature, written together, Youth Publishing House, 1991.
– Japanese jokes, translated, National Culture Publishing House, 1993.
– Basho and Haiku poetry, edited by Literature Publishing House, 1994.
– Japan in the looking glass, editorial, Education Publishing House, 1995.
– Collection of modern Japanese short stories, edited and translated, 2 volumes, Tre Publishing House, 1996.
– Outline of Eastern culture, written together, Education Publishing House, 1996.
– The story of Eastern literature, edited by Education Publishing House, 1997.
– Japanese poetry, edited by Education Publishing House, 1998.
– Japanese Literature, edited, Education Publishing House, 2000.
– The wind eater and the flying bell, story collection, Writers Association & Dong A Company Publishing House, 2007.
– Three thousand fragrant worlds, compilation, Literature Publishing House, 2007.
– Walking under the pink rain, editorial, Literature Publishing House, 2007.
– The wind eater and the flying bell, collection of short stories, Writers Association Publishing House, 2007.
– The Prophecy of the Dew Drop, Vietnamese - English bilingual story collection, Writers' Association Publishing House, 2011.
– I am another person, poetry collection, Literature and Arts Publishing House, 2015.
– People come back with likeness, contrasting poetry, Hong Duc Publishing House, 2017.
|
PHAN HOÀNG
(Phan Tuy An)
Năm sinh / Date of birth: 1987
Quê quán / Home town: Phú Yên
Địa chỉ: 38/9 Đô Đốc Long, Quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh. Address: 38/9 Do Doc Long St., Ho Chi Minh City.
Điện thoại / Tel: 090 545 4122 Email:
– Tốt nghiệp chuyên ngành Hội họa, Trường Đại học Nghệ thuật Huế năm 2010.
Graduated from Hue College of Arts in 2010.
– Năm 2015: tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Nghệ thuật và thiết kế đương đại tại Trường Limkokwing University of Inno- vation, Malaysia.
2015: Got the Master of Arts degrre in Contemporary Art and Design at Limkokwing University of Innovation, Malaysia.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Giảng viên khoa Mỹ thuật ứng dụng, trường Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Triễn lãm:
– 2015, 2017: Triển lãm khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên.
– 2017: Art Way – Asian Way Art Mill gallery, Songkhla, Thailand.
– 2015: Triển lãm tranh Đề tài Lực lượng vũ trang tại Đà Nẵng,
– 2011: Drawing Project Thailand – Việt Nam.
Phan Hoàng
Không đề No.1 / No Title No.1
. 2017 Sơn dầu trên vải / Oil on canvas
140cm x 120cm
Phan Hoàng
Nghiên cứu về hình dáng No.1 / Research on shape No.1.
2017
Acrylic trên vải / Acrylic on canvas
100cm x 140cm
|
PHAN HOANG
(Phan Tuy An)
Date of birth: 1987
Hometown / Home town: Phu Yen
Address: 38/9 Do Doc Long, Tan Phu District, City. Ho Chi Minh. Address: 38/9 Do Doc Long St., Ho Chi Minh City.
Phone / Tel: 090 545 4122 Email:
– Graduated with major in Painting, Hue University of Arts in 2010.
Graduated from Hue College of Arts in 2010.
– 2015: graduated with a Master's degree in Contemporary Art and Design at Limkokwing University of Innovation, Malaysia.
2015: Got the Master of Arts degree in Contemporary Art and Design at Limkokwing University of Innovation, Malaysia.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Lecturer at the Department of Applied Arts, Ho Chi Minh City University of Fine Arts.
Exhibition:
– 2015, 2017: Exhibition for the South Central and Central Highlands regions.
– 2017: Art Way – Asian Way Art Mill gallery, Songkhla, Thailand.
– 2015: Painting exhibition with theme Armed Forces in Da Nang,
– 2011: Drawing Project Thailand – Vietnam.
Phan Hoang
No Title Không.1 / No Title Không.1
. 2017 Oil on canvas / Oil on canvas
140cm x 120cm
Phan Hoang
Research on shape Không.1 / Research on shape Không.1.
2017
Acrylic on canvas / Acrylic on canvas
100cm x 140cm
|
NGÔ THANH HÙNG
Năm sinh / Date of birth: 1982 Quê quán / Home town: Nghệ An
Địa chỉ: K03/5 Phan Thành Tài, thành phố.Đà Nẵng. Address: K03/5 Phan Thanh Tai St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 656 6137 Email:
– Tốt nghiệp Đại Học Nghệ Thuật Huế năm 2006.
Graduated from Hue College of Arts in 2006.
– Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Nghệ thuật Thị giác tại Trường Đại học Mahasarakham, Thái Lan năm 2012.
Got the Master degree in visual arts from Mahasarakham Uni- versity, Thailand in 2012.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Giảng viên Mỹ thuật, Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Kiến Trúc Đà Nẵng.
– Từ năm 2011 đến nay: Tham gia triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên; tham gia các triển lãm mỹ thuật do Hội Mỹ thuật Đà Nẵng tổ chức.
– Năm 2012: Triển lãm Mỹ thuật đương đại tiểu vùng sông Mekong lần thứ I tổ chức tại Thái Lan; Triển Lãm “Bản sắc Nghệ thuật thị giác”.
– Năm 2008: Triển lãm tại phố cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam.
– Năm 2006: Triển lãm Hội Mỹ thuật Huế.
– Năm 2005: Triển lãm tại Tp Huế do CLB họa sỹ trẻ Huế tổ chức.
– Năm 2004: Triển lãm nghệ thuật sắp đặt, Festival Huế 2004.
Ngô Thanh Hùng
Gia đình Vooc Chà vá chân nâu /
Family of Red-shanked douc.
2017
Sơn dầu / Oil on canvas
130cm x 75cm
Ngô Thanh Hùng
Ký ức sông Hàn / Han River memories.
2017 Sơn dầu / Oil on canvas
90cm x 90cm
Ngô Thanh Hùng
Đồ Sơn vào hội / Do Son festival.
2012 Acrylic trên vải / Acrylic on canvas
150cm x 200cm
|
NGO THANH HUNG
Year of birth / Date of birth: 1982 Hometown / Home town: Nghe An
Address: K03/5 Phan Thanh Tai, Da Nang city. Address: K03/5 Phan Thanh Tai St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 656 6137 Email:
– Graduated from Hue University of Arts in 2006.
Graduated from Hue College of Arts in 2006.
– Graduated with a Master's degree in Visual Arts from Mahasarakham University, Thailand in 2012.
Got the Master degree in visual arts from Mahasarakham University, Thailand in 2012.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Lecturer of Fine Arts, Faculty of Architecture, Da Nang University of Architecture.
– From 2011 to present: Participated in art exhibitions in the South Central and Central Highlands regions; Participate in art exhibitions organized by the Da Nang Fine Arts Association.
– 2012: The 1st Mekong Subregion Contemporary Art Exhibition was held in Thailand; Exhibition "Visual Art Identity".
– 2008: Exhibition in Hoi An ancient town, Quang Nam province.
– 2006: Exhibition of Hue Fine Arts Association.
– 2005: Exhibition in Hue City organized by Hue Young Artists Club.
– 2004: Installation art exhibition, Hue Festival 2004.
Ngo Thanh Hung
Brown-shanked douc family /
Family of Red-shanked douc.
2017
Oil paint / Oil on canvas
130cm x 75cm
Ngo Thanh Hung
Han River memories / Han River memories.
2017 Oil painting / Oil on canvas
90cm x 90cm
Ngo Thanh Hung
Do Son joins the festival / Do Son festival.
2012 Acrylic on canvas / Acrylic on canvas
150cm x 200cm
|
PHAN NGỌC MINH
Năm sinh / Date of birth: 1954
Quê quán / Home town: Quảng Nam
Địa chỉ: 09 Bàu Hạc 1 – Q.Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Address: 09 Bau Hac 1 St., Da Nang City. Điện thoại / Tel: 098 285 1525
Email:
– Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Tp Hồ Chí Minh. Graduated from Ho Chi Minh City University of Fine Arts.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
Triển lãm:
– 1994: “Ký ức phố xưa” tại Đà Nẵng.
– 1998: “Nhật ký Mỹ Sơn” tại Thánh địa Mỹ Sơn.
– 2000: “Phan Ngọc Minh và Champa” tại Galerie Impressions, Paris, Pháp.
– 2004: “Mỹ Sơn – Hội An và Những kỷ niệm Paris” tại Galerie Dung Bui, Pari, France.
– 2005: Union – Générale Des Vietnamiens de France, Paris, Pháp.
– 2008: “Vietnam/Kerry & Minh” tại Gregory Gallery, Co. Kerry, Ireland.
– 2009: “Minh & Heritages” tại La Résidence Hôtel & Spa, Hue, Vietnam.
– 2011: Tham dự Trại sáng tác và được chọn Triển lãm cá nhân duy nhất tại Red Mill Gallery (VSC), VT, USA.
Giải thưởng: 2010-2011 Giải thưởng của Hiệp hội Nghệ sĩ Châu Á bởi
Freeman Foundation (VSC), VT, USA.
Sưu tập: – Hội Mỹ thuật Việt Nam.
– Các sưu tập cá nhân trong và ngoài Việt Nam.
Phan Ngọc Minh
Vũ nữ Trà Kiệu và tôi /
Tra Kieu dancer and me
. 2018 Acrylic-Sơn dầu trên vải / Acrylic-Oil on canvas
80cm x 100cm
Phan Ngọc Minh
Ký ức Champa / Memories of Champa.
2017 Acrylic-Sơn dầu trên vải / Acrylic-Oil on canvas
80cm x 100cm
Phan Ngọc Minh
Bài tới và Đàn Bà / An ancient game’s winning cards & Women.
2012 Acrylic-Sơn dầu trên vải / Acrylic-Oil on canvas
120cm x 140cm
|
PHAN NGOC MINH
Date of birth: 1954
Hometown / Home town: Quang Nam
Address: 09 Bau Hac 1 - Thanh Khe District, Da Nang City.
Address: 09 Bau Hac 1 St., Da Nang City. Phone / Tel: 098 285 1525
Email:
– Graduated from Ho Chi Minh City University of Fine Arts. Graduated from Ho Chi Minh City University of Fine Arts.
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
Exhibition:
– 1994: “Old Town Memories” in Da Nang.
– 1998: “My Son Diary” at My Son Sanctuary.
– 2000: “Phan Ngoc Minh and Champa” at Galerie Impressions, Paris, France.
– 2004: “My Son – Hoi An and Memories of Paris” at Galerie Dung Bui, Paris, France.
– 2005: Union – Générale Des Vietnamiens de France, Paris, France.
– 2008: “Vietnam/Kerry & Minh” at Gregory Gallery, Co. Kerry, Ireland.
– 2009: “Minh & Heritages” at La Résidence Hôtel & Spa, Hue, Vietnam.
– 2011: Attended the Creative Camp and was selected for the only solo exhibition at Red Mill Gallery (VSC), VT, USA.
Awards: 2010-2011 Asian Artists Association Award by
Freeman Foundation (VSC), VT, USA.
Collection: – Vietnam Fine Arts Association.
– Personal collections inside and outside Vietnam.
Phan Ngoc Minh
Tra Kieu dancer and me /
Tra Kieu dancer and me
. 2018 Acrylic-Oil on canvas / Acrylic-Oil on canvas
80cm x 100cm
Phan Ngoc Minh
Memories of Champa / Memories of Champa.
2017 Acrylic-Oil on canvas / Acrylic-Oil on canvas
80cm x 100cm
Phan Ngoc Minh
Next article and Women / An ancient game’s winning cards & Women.
2012 Acrylic-Oil on canvas / Acrylic-Oil on canvas
120cm x 140cm
|
TRẦN NHƠN
Năm sinh / Date of birth: 1960 Quê quán / Home town: Huế Địa chỉ / Address: Đà Nẵng Email:
– Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1980 (nay là Đại học nghệ thuật Huế).
Graduated from Hue College of Arts in 1980.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Ủy viên BCH; Ủy viên Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2002-2007.
Triển lãm:
– Tham gia các triển lãm mỹ thuật Toàn quốc; triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên, triển lãm mỹ thuật tại địa phương.
Giải thưởng:
– Giải tặng thưởng của Hội Mỹ thuật Việt Nam – 1996
– Giải “Tác phẩm xuất sắc” của Tổng cục Chính trị – 2003
– Giải A của Liên hiệp các Hội VHNT Đà Nẵng – 2003
– Giải B của Hội Mỹ thuật việt Nam – 2004
– Giải A của Liên hiệp các Hội VHNT Đà Nẵng – 2004
– Giải Khuyến khích Văn học Nghệ thuật Đà Nẵng, 5 năm lần thứ nhất.
Sưu tập:
– Có tranh sưu tập tại Bảo tàng Quân đội Việt Nam; Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam; Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng; các sưu tập trong và ngoài nước.
Đồ họa vi tính / Computer graphics 75cm x 100cm
Tràn Nhơn
Bay lên Hòang Sa ơi! / Fly up Hoang Sa!
Đồ họa vi tính / Computer graphics 75cm x 100cm
|
TRAN NHON
Year of birth / Date of birth: 1960 Hometown / Home town: Hue Address / Address: Da Nang Email:
– Graduated from Hue College of Fine Arts in 1980 (now Hue University of Arts).
Graduated from Hue College of Arts in 1980.
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Member of the Executive Board; Member of the Arts Council of Da Nang Fine Arts Association, term 2002-2007.
Exhibition:
– Participate in national art exhibitions; Art exhibitions in the South Central and Central Highlands regions, local art exhibitions.
Prize:
– Award of the Vietnam Fine Arts Association – 1996
– “Excellent work” award from the General Department of Politics – 2003
– Award A of the Danang Union of Cultural and Arts Associations – 2003
– B Prize of the Vietnam Fine Arts Association – 2004
– Award A of the Danang Union of Cultural and Arts Associations – 2004
– Da Nang Literature and Art Consolation Prize, the first 5 years.
Collect:
– Has paintings collected at the Vietnam Army Museum; Vietnam Art Museum; Da Nang Museum of Fine Arts; domestic and foreign collections.
Computer graphics / Computer graphics 75cm x 100cm
Tran Nhon
Fly to Hoang Sa! / Fly up Hoang Sa!
Computer graphics / Computer graphics 75cm x 100cm
|
PHAN MINH NHẬT
Năm sinh / Date of birth: 1979
Quê quán / Home town: Thừa Thiên Huế
Địa chỉ: 48 Vạn Tường – Q.Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Address: 48 Van Tuong St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 510 0066 Email:
– 2004: Tốt nghiệp ngành Thiết kế đồ hoạ, Trường Đại học Nghệ thuật Huế.
Graduated from Hue College of Arts in 2004.
– 2016: Tốt nghiệp Thạc sĩ Mỹ thuật tạo hình Trường Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Got the Master of Fine Arts degree at Ho Chi Minh City Univer- sity of Fine Arts in 2016.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Giảng viên Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Hữu nghị Việt – Hàn.
Triển lãm:
– Năm 2015, 2016 tham gia triển lãm mỹ thuật Khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên; triển lãm do Hội Mỹ thuật Đà Nẵng tổ chức.
– Triển lãm nghệ thuật “Bảng chữ cái Sài Gòn”, trong khuôn khổ Workshop của Nhóm nghệ sĩ t.r.a.n.s.i.t.s.c.a.p.e (Pierre Larauza và Emmanuelle Vincent), do Pháp tổ chức, ngày 14 – 19/5/2016, tại trường Colette (trường Pháp cũ), Tp. Hồ Chí Minh.
Giải thưởng:
– Giải Ba tại triển lãm tranh Sinh viên toàn quốc 2001 “Việt Nam đất nước tôi”.
Bài viết:
– “Hành trình phát triển đầy thú vị của Acrylic” Tạp chí Mỹ thuật – Hội Mỹ thuật Việt Nam, số 291-292 (3/4/2017).
Phan Minh Nhật
Đêm Huế / Hue by night
Acylic 120cm x 90cm
Phan Minh Nhật
Ký ức nông thôn /
Countryside memories
Acrylic 120cm x 90cm
|
PHAN MINH NHAT
Date of birth: 1979
Hometown / Home town: Thua Thien Hue
Address: 48 Van Tuong - Ngu Hanh Son District, Da Nang City. Address: 48 Van Tuong St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 510 0066 Email:
– 2004: Graduated from Graphic Design, Hue University of Arts.
Graduated from Hue College of Arts in 2004.
– 2016: Graduated with Master of Fine Arts from Ho Chi Minh City University of Fine Arts.
Got the Master of Fine Arts degree at Ho Chi Minh City University of Fine Arts in 2016.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Lecturer at Vietnam-Korea Friendship Information Technology College.
Exhibition:
– In 2015, 2016 participated in art exhibitions in the South Central and Central Highlands regions; exhibition organized by Da Nang Fine Arts Association.
– Art exhibition "Saigon Alphabet", within the framework of the Workshop of Artist Group t.r.a.n.s.i.t.s.c.a.p.e (Pierre Larauza and Emmanuelle Vincent), organized by France, May 14 - 19, 2016, at Colette school (French school old), City. Ho Chi Minh.
Prize:
– Third prize at the 2001 national student painting exhibition "Vietnam, my country".
Posts:
– “The exciting development journey of Acrylic” Fine Arts Magazine – Vietnam Fine Arts Association, number 291-292 (April 3, 2017).
Phan Minh Nhat
Hue by night / Hue by night
Acylic 120cm x 90cm
Phan Minh Nhat
Rural memories /
Countryside memories
Acrylic 120cm x 90cm
|
DUY NINH
(Nguyễn Duy Ninh)
Tác giả / Author: DUY NINH (Nguyễn Duy Ninh) Năm sinh / Date of birth: 1951
Quê quán / Home town: Huế
Địa chỉ: 403c Núi Thành, Q.Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Address: 403c Nui Thanh St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 554 0554 Email:
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– UV Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2002-2007.
– UV Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2007-2012.
Triển lãm:
– Tham gia triển lãm mỹ thuật Toàn quốc từ năm 1980 đến 2015.
– Triển lãm cá nhân tại Đà Nẵng năm l989; tại Tp. Hồ Chí Minh năm l991.
– Triển lãm nhóm DUY NINH, VŨ DƯƠNG, HOÀNG ĐẶNG tại Đà Nẵng năm 1991.
– Triển lãm nhóm Họa sĩ Việt Nam tại Đan Mạch năm 1995, 1990.
– Triển lãm mỹ thuật Việt Nam Đương đại Việt Nam – Hoa Kỳ tại Mỹ năm 1995-1996 (Smithsonian Institution Traveling Exhibition Service Washington DC tổ chức).
– Triển lãm mỹ thuật Hiện đại Bắc – Trung – Nam Việt Nam tại Hội An năm 2006.
Giải thưởng:
– Giải thưởng tranh triển lãm mỹ thuật Toàn quốc năm 1995.
– Bằng khen của Philip Morris tại triển lãm mỹ thuật Việt Nam (Asean) năm 1996.
– Giải thưởng Mỹ thuật Quảng Nam Đà Nẵng (1985 – 1995).
– Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Đà Nẵng (1998 – 2000).
– Giải thưởng Triển lãm mỹ thuật khu vực Miền Trung và Tây Nguyên năm 2000.
– Huy chương Đồng triển lãm mỹ thuật Toàn quốc 2006 – 2010.
– Giải Nhì Mỹ thuật Đà Nẵng 2010 – 2015.
Sưu tập:
– Có tranh sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam; Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng.
Duy Ninh
Dạ khúc trăng / Song in a moon night.
2016 Thủ ấn họa / Hand stamp painting
55cm x 70cm
Duy Ninh
Biến đổi gen / Genetianlly modifying.
2017 Thủ ấn họa / hand stamp painting
55cm x 75cm
Duy Ninh
Tình yêu biển cả / The love of the sea.
2015 Thủ ấn họa / Hand stamp painting
55cm x 110cm
|
DUY NINH
(Nguyen Duy Ninh)
Author / Author: DUY NINH (Nguyen Duy Ninh) Year of birth / Date of birth: 1951
Hometown / Home town: Hue
Address: 403c Nui Thanh, Hai Chau District, Da Nang City. Address: 403c Nui Thanh St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 554 0554 Email:
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Member of the Art Council of Da Nang Fine Arts Association, term 2002-2007.
– Member of the Executive Committee of the Da Nang Fine Arts Association, term 2007-2012.
Exhibition:
– Participated in national art exhibitions from 1980 to 2015.
– Solo exhibition in Da Nang in 1989; in City. Ho Chi Minh in l991.
– Group exhibition of DUY NINH, VU DUONG, HOANG DANG in Da Nang in 1991.
– Group exhibition of Vietnamese Artists in Denmark in 1995, 1990.
– Vietnamese Contemporary Art Exhibition Vietnam - United States in the US in 1995-1996 (organized by Smithsonian Institution Traveling Exhibition Service Washington DC).
– Modern art exhibition of North - Central - South Vietnam in Hoi An in 2006.
Prize:
– National fine art exhibition painting award in 1995.
– Certificate of merit from Philip Morris at the Vietnam (Asean) fine arts exhibition in 1996.
– Quang Nam Da Nang Fine Arts Award (1985 – 1995).
– Danang Literature and Arts Award (1998 – 2000).
– Fine Arts Exhibition Award in the Central and Central Highlands region in 2000.
– Bronze Medal at National Fine Arts Exhibition 2006 - 2010.
– Second Prize in Da Nang Fine Arts 2010 - 2015.
Collect:
– Has paintings collected at the Vietnam Fine Arts Museum; Da Nang Museum of Fine Arts.
Duy Ninh
Song in a moon night.
2016 Hand stamp painting / Hand stamp painting
55cm x 70cm
Duy Ninh
Genetic modification / Genetianlly modifying.
2017 Hand stamp painting / hand stamp painting
55cm x 75cm
Duy Ninh
The love of the sea / The love of the sea.
2015 Hand stamp painting / Hand stamp painting
55cm x 110cm
|
ĐẶNG THỊ PHƯỢNG
Năm sinh / Date of birth: 1983
Quê quán / Home town: Quảng Bình
Địa chỉ: K03/5 Phan Thành Tài, thành phố Đà Nẵng. Address: K03/5 Phan Thanh Tai St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 077 858 9006 Email:
– 2012: Tốt nghiệp Đại học Nghệ thuật Huế / Graduated from Hue College of Arts in 2012.
– 2015: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Nghệ thuật thị giác tại Trường Đại học Mahasarakham – Thái Lan.
Got the Master degree in visual arts from Mahasarakham University, Thailand in 2015.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng / Member of Danang Fine Arts Association.
– Giảng viên Mỹ Thuật, Khoa Kiến Trúc, Trường Đại học Kiến Trúc Đà Nẵng.
– Từ 2012 cho đến nay: Tham gia các triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên; triển lãm mỹ thuật do Hội Mỹ thuật Đà Nẵng tổ chức.
– Tháng 12/2012: Triển lãm mỹ thuật đương đại tiểu vùng sông Mekong lần thứ nhất tổ chức tại Thái Lan. Đạt giải Nhì với tác phẩm ”Linh cảm niềm đau”.
Đặng Thị Phượng
Niểm tin của biển / Belief of sea
Sơn mài / Lacquer 80cm x 120cm
Đặng Thị Phượng
Nguyện cầu / Pray
Sơn mài / Lacquer 80cm x 120cm
Đặng Thị Phượng
Linh cảm niềm đau / Precognition of pain
Sơn mài / Lacquer 80cm x 120cm
Giải Nhì – Triển lãm Mekong lần thứ nhất tại Thái Lan – 2012
|
DANG THI PHUONG
Date of birth: 1983
Hometown / Home town: Quang Binh
Address: K03/5 Phan Thanh Tai, Da Nang city. Address: K03/5 Phan Thanh Tai St., Da Nang City.
Phone / Tel: 077 858 9006 Email:
– 2012: Graduated from Hue College of Arts / Graduated from Hue College of Arts in 2012.
– 2015: Graduated with a Master's degree in Visual Arts at Mahasarakham University - Thailand.
Got the Master degree in visual arts from Mahasarakham University, Thailand in 2015.
– Member of Danang Fine Arts Association / Member of Danang Fine Arts Association.
– Lecturer of Fine Arts, Faculty of Architecture, Da Nang University of Architecture.
– From 2012 until now: Participated in art exhibitions in the South Central and Central Highlands regions; Art exhibition organized by the Da Nang Fine Arts Association.
– December 2012: The first Mekong sub-region contemporary art exhibition was held in Thailand. Won second prize with the work "Premonition of Pain".
Dang Thi Phuong
Belief of the sea / Belief of the sea
Lacquer / Lacquer 80cm x 120cm
Dang Thi Phuong
Pray / Pray
Lacquer / Lacquer 80cm x 120cm
Dang Thi Phuong
Precognition of pain
Lacquer / Lacquer 80cm x 120cm
Second Prize – First Mekong Exhibition in Thailand – 2012
|
ĐINH GIA THẮNG
Năm sinh / Date of birth: 1957 Quê quán / Home town: Hà Nội
Địa chỉ: 90 Lê Đình Lý, thành phố Đà Nẵng. Address: 90 Le Dinh Ly St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 091 349 0739
Email: –
– Tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, khóa 1975-1980.
Graduated from Viet Nam University Fine Art, course 1975-1980.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại mỹ thuật Đà Nẵng II.
– Tham gia các triển lãm mỹ thuật Toàn quốc.
– Có tác phẩm được trưng bày trong bộ sưu tập tại Bảo tàng lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam.
Những công trình tượng đài tiêu biểu:
– Tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2015.
– Tượng đài Dũng sĩ Điện Ngọc, Điện Bàn năm 2014.
– Tượng đài liệt sĩ Trung tâm huyện Phú Ninh năm 2014.
– Tượng đài chiến thắng Khâm Đức huyện Phước Sơn năm 2001.
– Phù điêu đài tưởng niệm Núi Thành.
– Đài tưởng niệm xuân Mậu Thân 68.
– Tượng đài nghĩa trang liệt sĩ trung tâm thành phố Tam Kỳ.
Đinh Gia Thắng
Tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng/
Monument of Vietnamese heroic mother.
2015 Đá hoa cương / Granite
18m x 120m x 86,5m
Huy chương vàng – Triển lãm mỹ thuật Toàn quốc – 2015
Đinh Gia Thắng
Tượng đài Dũng sĩ Điện Ngọc / Monument of Dien Ngoc valiant warriors.
2014 Đá – đồng / Stone – bronze
21m x 15,4m x 9m
|
DINH GIA THANG
Year of birth / Date of birth: 1957 Hometown / Home town: Hanoi
Address: 90 Le Dinh Ly, Da Nang city. Address: 90 Le Dinh Ly St., Da Nang City.
Phone / Tel: 091 349 0739
Email: -
– Graduated from Hanoi University of Fine Arts, class 1975-1980.
Graduated from Vietnam University Fine Art, course 1975-1980.
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Director of Da Nang II Construction and Fine Arts Trading Company Limited.
– Participate in national art exhibitions.
– Has works displayed in the collection at the Vietnam People's Army History Museum.
Typical monuments:
– Monument to Vietnamese Heroic Mothers in 2015.
– Dien Ngoc Heroes Monument, Dien Ban in 2014.
– Martyrs' monument in Phu Ninh district center in 2014.
– Kham Duc Victory Monument in Phuoc Son district in 2001.
– Bas-relief of Nui Thanh memorial.
– Mau Than 68 Spring Memorial.
– Martyrs cemetery monument in the center of Tam Ky city.
Dinh Gia Thang
Monument to Vietnamese Heroic Mothers/
Monument of Vietnamese heroic mother.
2015 Marble / Granite
18m x 120m x 86.5m
Gold Medal – National Fine Arts Exhibition – 2015
Dinh Gia Thang
Monument of Dien Ngoc valiant warriors.
2014 Stone – bronze / Stone – bronze
21m x 15.4m x 9m
|
HUỲNH THỊ THẮNG
Năm sinh / Date of birth: 1982 Quê quán / Home town: Đà Nẵng
Địa chỉ: K5/10 Phạm Phú Thứ, Q.Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Address: K5/10 Pham Phu Thu St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 529 3039
Email:
– 2005: Tốt nghiệp chuyên ngành Đồ họa tạo hình, Trường Đại học Nghệ thuật Huế.
Graduated from Hue College of Arts in 2005.
– 2013: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Nghệ thuật thị giác tại Trường Đại học Mahasarakham – Thái Lan.
Got the Master degree in visual arts from Mahasarakham University, Thailand in 2013.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Giảng viên Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Đà Nẵng.
Triển lãm:
– Từ năm 2013 đến nay: Tham gia triển lãm mỹ thuật Toàn quốc; triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên, triển lãm do Hội Mỹ thuật Đà Nẵng tổ chức.
– Năm 2017: tham gia triển lãm mỹ thuật 3 nước Đông Dương.
Giải thưởng:
– 2013: Giải B Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Sưu tập:
– Có tranh sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng.
Huỳnh Thị Thắng
Con trai / Boy.
2016
Khắc Meka / Carving Meka
80cm x 60cm
Huỳnh Thị Thắng
Trẻ em Châu Phi / African children.
2017 Khắc Meka / Carving Meka
60cm x 80cm
Huỳnh Thị Thắng
Niềm vui ký ức
/ Memories joy.
2015 Khắc Meka / Carving Meka
120cm x 160cm
|
HUYNH THI THANG
Year of birth / Date of birth: 1982 Hometown / Home town: Da Nang
Address: K5/10 Pham Phu Thu, Hai Chau District, Da Nang City. Address: K5/10 Pham Phu Thu St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 529 3039
Email:
– 2005: Graduated with major in Visual Graphics, Hue University of Arts.
Graduated from Hue College of Arts in 2005.
– 2013: Graduated with a Master's degree in Visual Arts at Mahasarakham University - Thailand.
Got the Master degree in visual arts from Mahasarakham University, Thailand in 2013.
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Lecturer at Da Nang College of Culture and Arts.
Exhibition:
– From 2013 to present: Participated in national art exhibitions; Fine arts exhibition in the South Central and Central Highlands regions, organized by the Da Nang Fine Arts Association.
– 2017: Participated in art exhibitions of 3 Indochina countries.
Prize:
– 2013: B Prize of Danang Fine Arts Association.
Collect:
– There are paintings collected at the Da Nang Museum of Fine Arts.
Huynh Thi Thang
Son / Boy.
2016
Carving Meka / Carving Meka
80cm x 60cm
Huynh Thi Thang
African children / African children.
2017 Carving Meka / Carving Meka
60cm x 80cm
Huynh Thi Thang
The joy of memories
/ Memories joy.
2015 Carving Meka / Carving Meka
120cm x 160cm
|
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
Năm sinh / Date of birth: 1967 Quê quán / Home town: Hà Nội
Địa chỉ: Q.Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Address: Hai Chau District Da Nang City. Điện thoại / Tel: 090 359 5454
Email:
– Tốt nghiệp Trường Đại học Nghệ thuật Huế năm 1995.
Graduated from Hue College of Arts in 1995.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Cựu giảng viên thỉnh giảng bộ môn mỹ thuật Trường Đại học Kiến trúc, Nhà Thiếu nhi Đà nẵng.
– Yêu thích mỹ thuật cộng đồng.
Triển lãm:
– Tham gia triển lãm mỹ thuật mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên; tham gia các triển lãm mỹ thuật do Hội Mỹ thuật Đà Nẵng tổ chức.
– Tham gia các triển lãm Hành trình Di sản Quảng nam, Fes- tival Huế, triển lãm nhóm, triển lãm giao lưu với hoạ sĩ quốc tế… Tham gia một số triển lãm nhiếp ảnh nghệ thuật.
Sưu tập:
– Có tranh trong sưu tập của Hội Mỹ thuật Việt nam, của cá nhân trong và ngoài nước.
Nguyễn Văn Cường
Khoảng cách / Distance
. 2013 In gỗ phá bản / Woodcut print
60cm x 40cm Giải thưởng Liên hiệp các Hội VHNT Tp.Đà Nẵng
Nguyễn Văn Cường
Ngẫu hứng mưa 3 / Sudden inspiration with rain 3.
2017 Sơn dầu / Oil on canvas
80cm x 130cm
Nguyễn Văn Cường
Ngẫu hứng mưa 2 / Sudden inspiration with rain 2.
2017 Sơn dầu / Oil on canvas
130cm x 80cm
|
NGUYEN VAN CUONG
Year of birth / Date of birth: 1967 Hometown / Home town: Hanoi
Address: Hai Chau District, Da Nang City. Address: Hai Chau District Da Nang City. Phone / Tel: 090 359 5454
Email:
– Graduated from Hue University of Arts in 1995.
Graduated from Hue College of Arts in 1995.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Former visiting lecturer in the fine arts department of the University of Architecture, Da Nang Children's House.
– Loves community art.
Exhibition:
– Participate in fine art exhibitions in the South Central and Central Highlands regions; Participate in art exhibitions organized by the Da Nang Fine Arts Association.
– Participate in the exhibitions of Quang Nam Heritage Journey, Fes-tival Hue, group exhibitions, exchange exhibitions with international artists... Participate in a number of art photography exhibitions.
Collect:
– There are paintings in the collection of the Vietnam Fine Arts Association, domestic and foreign individuals.
Nguyen Van Cuong
Distance / Distance
. 2013 Woodcut print / Woodcut print
60cm x 40cm Award of the Union of Cultural and Arts Associations of Da Nang City
Nguyen Van Cuong
Sudden inspiration with rain 3 / Sudden inspiration with rain 3.
2017 Oil painting / Oil on canvas
80cm x 130cm
Nguyen Van Cuong
Sudden inspiration with rain 2 / Sudden inspiration with rain 2.
2017 Oil painting / Oil on canvas
130cm x 80cm
|
ĐẶNG CÔNG TUẤN
Năm sinh / Date of birth: 1975 Quê quán / Home town: Đà Nẵng
Địa chỉ: P216 KCC Hòa Xuân – Q.Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Address: Cam Le District, Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 525 8223 Email:
– Tốt nghiệp chuyên khoa Sơn mài, Trường Đại học Nghệ thuật Huế năm 2003.
Graduated from Hue College of Arts in 2003.
– Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng năm 2017.
Got the Master degree of Educational Management from Uni- versity of Education the University of Da Nang in 2017.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Ủy viên BCH Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2014-2018.
– P.Trưởng Phòng Đào tạo – NCKH Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Đà Nẵng.
Triển lãm:
– Từ 2003 cho đến nay: Tham gia triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên; triển lãm mỹ thuật tại địa phương.
– Năm 2017: Tham gia triển lãm mỹ thuật 3 nước Đông Dương.
Giải thưởng và sưu tập:
– 2005: Giấy khen – Hội Mỹ thuật Việt Nam tại triển lãm mỹ thuật Khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên.
– 2013: Giải Khuyến khích – Liên hiệp các Hội VHNT Đà Nẵng;
– 2013: Tặng thưởng – Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
– 2015: Giải Ba – Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
– Có tranh trong sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng.
Đặng Công Tuấn
Chân dung TiTi / portrait of TiTi
Sơn mài / Lacquer 84cm x 72cm
Đặng Công Tuấn
Hội làng Túy Loan / Tuy Loan Village Festival.
2008 Sơn mài / Lacquer
122cm x 184cm
Tác phẩm trong sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng
Đặng Công Tuấn
Lễ Hội KaTe / KaTe Festival.
2014
Tổng hợp / Synthetic 110cm x 120cm
Giải Ba – Giải thưởng Hội Mỹ thuật Đà Nẵng – 2015
|
DANG CONG TUAN
Year of birth / Date of birth: 1975 Hometown / Home town: Da Nang
Address: Room 216 KCC Hoa Xuan - Cam Le District, Da Nang City. Address: Cam Le District, Da Nang City.
Phone / Tel: 090 525 8223 Email:
– Graduated from Lacquer major, Hue University of Arts in 2003.
Graduated from Hue College of Arts in 2003.
– Graduated with a Master's degree in Educational Management from Da Nang University of Education in 2017.
Got the Master degree of Educational Management from University of Education the University of Da Nang in 2017.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Member of the Executive Committee of the Da Nang Fine Arts Association, term 2014-2018.
– Deputy Head of Training and Scientific Research Department of Da Nang College of Culture and Arts.
Exhibition:
– From 2003 until now: Participated in art exhibitions in the South Central and Central Highlands regions; local art exhibitions.
– 2017: Participated in art exhibitions of 3 Indochina countries.
Awards and collections:
– 2005: Certificate of Merit – Vietnam Fine Arts Association at the South Central and Central Highlands Regional art exhibition.
– 2013: Encouragement Award – Danang Union of Cultural and Arts Associations;
– 2013: Awarded – Danang Fine Arts Association.
– 2015: Third Prize – Da Nang Fine Arts Association.
– There are paintings in the collection at the Da Nang Museum of Fine Arts.
Dang Cong Tuan
Portrait of TiTi / portrait of TiTi
Lacquer / Lacquer 84cm x 72cm
Dang Cong Tuan
Tuy Loan Village Festival / Tuy Loan Village Festival.
2008 Lacquer / Lacquer
122cm x 184cm
Works in the collection at the Da Nang Museum of Fine Arts
Dang Cong Tuan
KaTe Festival / KaTe Festival.
2014
Synthetic / Synthetic 110cm x 120cm
Third Prize – Danang Fine Arts Association Award – 2015
|
Giới thiệu khái quát thành phố Tuy Hòa
Trong lịch sử hình thành và phát triển
tỉnh Phú Yên
, Tuy Hòa không chỉ được biết đến với vị thế là trung tâm tỉnh lỵ mà còn đây là địa danh gắn liền vói công cuộc khai hoang, lập ấp, mở mang bờ cõi dân tộc về phía Nam dưới thời chua Nguyễn Hoàng, hình thành những cộng đồng dân cư đầu tiên của vùng đất Phú Yên. Trải qua nhiều lần sát nhập, chia tách, mở rộng địa giới hành chính và được chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh.. Tuy Hòa từ một thị xã nhỏ bé, lạc hậu nằm trên hạ lưu sông Đà Rằng đã vươn lên thành một thành phố trẻ, văn minh, năng động với những bước chuyển mình mạnh mẽ hòa nhập chuỗi đô thị hiện đại Duyên hải Nam Trung Bộ.
Thành phố Tuy Hòa có diện tích tự nhiên khoảng 107,3km
2
, dân số khoảng 202.030 người và 16 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 12 phường, 04 xã). Thành phố giáp huyện Tuy An ở phía Bắc, giáp huyện Phú Hòa và Sơn Hòa ở phía Tây, giáp huyện Đông Hòa ở phía Nam và giáp biển Đông ở phía Đông. Các tuyến giao thông huyết mạch Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, Quốc lộ 25, ĐT 645 nối liền thành phố Tuy Hòa với các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, khu vực Tây Nguyên, Bắc Bộ và Nam Bộ, tạo mối quan hệ kinh tế – xã hội bền chặt giữa thành phố với các tỉnh, thành phố trong khu vực trên cả nước. Cách trung tâm thành phố Tuy Hòa 05km về phía Nam, cảng hàng không Tuy Hòa với quy mô hiện đại được xây dựng trên diện tích gần 4000km
2
, khai thác 02 đường bay: thành phố Hồ Chí Minh – Tuy Hòa – thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội – Tuy Hòa – Hà Nội, công suất hoạt động đạt khoảng 100.00 khách/năm… đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội thành phố Tuy Hòa nói riêng, tỉnh Phú Yên nói chung.
Thành phố Tuy Hòa có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng hữu tình với đường bờ biển dài trên 30km mang vẻ đẹp nguyên sơ, dòng sông Đà Rằng gối đầu lên thượng nguồn Tây Nguyên, đuôi uốn lượn giữa lòng thành phố và những cánh đồng màu mỡ. Bên cạnh đó, Tháp Nhạn, núi Chóp Chài hiện hữu như chứng tích huyền thoại về một mảnh đất Tuy Hòa trọng nghĩa, trọng tình. Với thế mạnh tự nhiên sẵn có cùng nhiều danh lam thắng cảnh nằm trong và lân cận địa bàn thành phố như: bãi biển Long Thủy, đầm Ô Loan, gành Đá Đĩa…, các khu du lịch cao cấp, khu đô thị mới nằm ở các cửa ngõ thành phố: khu du lịch Đồi Thơm (phía Bắc), Khách sạn CenDeluxe và khu du lịch sinh thái Thuận Thảo (phía Tây), khu đô thị mới Nam sông Đà Rằng (phía Nam), thành phố Tuy Hòa có tiềm năng rất lớn để trở thành một thành phố du lịch, dịch vụ hấp dẫn.
Bên cạnh sự ưu đãi của thiên nhiên, thành phố Tuy Hòa, thành phố Tuy Hòa còn là địa bàn có số lượng di tích văn hóa – lịch sử phong phú, lưu giữ nét đặc sắc văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, phản ánh thời kỳ người Việt và người Hoa đến định cư, sinh sống… Trong đó, di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Nhạn (Phường 1) đã được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (1996). Một số di tích tiêu biểu khác như: di tích khảo cố bia Chợ Dinh (Phường 1), di tích lịch sử – văn hóa nhà số 17 Phan Đình Phùng (Phường 1), di tích Chùa Bảo Tịnh (Phường 3), di tích đình và lẫm Phú Lâm (Phường Phú Lâm), Hội quán người Hoa (Phương 1), di tích Đình Ngọc Lãng (Xã Bình Ngọc)… Về lễ hội, đặc sắc nhất là Hội Bài chòi thường được nhân dân tổ chức vào dịp tết Nguyên Đán và lễ cúng Cầu Ngư (Phường 6) gắn liền với tín ngưỡng nghề biển, cầu mưa thuận gió hòa, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn và ngư dân được mùa đánh bắt bội thu.
Ngày 11/3/2013, thành phố Tuy Hòa vinh dự được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Phú Yên. Đây là dấu mốc có ý nghĩa quan trọng, ghi nhận những chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế – xã hội, hạ tầng đô thị của thành phố sau hơn 10 năm được công nhận là đô thị loại III. Trên cơ sở phát huy nội lực, tận dụng triệt để mọi nguồn lực huy động từ bên ngoài, thành phố Tuy Hòa đã đẩy nhanh phát triển kinh tế, chú trọng công tác quy hoạch và chỉnh trang đô thị sinh thái bền vững. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ổn định, GDP bình quân đầu người ngày càng tăng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó Thương mai – Dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Tuy Hòa trong tương lai. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh được ưu tiên chú trọng đầu tư xây dựng. Sự hình thành và phát triển các đô thị mới khang trang, nhà biệt thự dọc đại lộ Hùng Vương đã tạo dấu ấn riêng cho một không gian đô thị văn minh, hiện đại. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện tốt các chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, về y tế,giáo dục… đã góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Là trung tâm giáo dục – đào tạo của tỉnh Phú Yên, hiện nay, trên địa bàn thành phố Tuy Hòa có 02 trường Đại học, 03 trường Cao đẳng, 01 Học viện, 01 trường THPT chuyên và hơn 70 trường học từ mần non đến bậc phổ thông. Xác định việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ trọng tâm và lâu dài, trong những năm qua, thành phố Tuy Hòa luôn dành sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng cho sự nghiệp giáo dục của địa phương. Hiện nay, 16/16 phường, xã trên địa bàn thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; hoàn thành và giữ vững phổ cập giáo dục Tiểu học, THCS, THPT.
Định hướng phát triển trong thời gian đến, thành phố Tuy Hòa tập trung phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị; kết hợp hài hòa, chặt chẽ và linh hoạt các nguồn lực; khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của địa phương về nông nghiệp, nuôi trồng và chế biến thủy sản, du lịch… Gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác quốc phòng – an ninh, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất và đời sống. Đồng thời, chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ thành phố đến cơ sở; tiếp tục thực hiện tốt chính sách thu hút trí thức trẻ, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Minh bạch và đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo môi trường đầu tư thông thoáng, tạo sức hút đối với các nhà đầu tư. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy cao tinh thần dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đến năm 2025 đưa thành phố Tuy Hòa tiến lên đô thị loại I trực thuộc tỉnh Phú Yên.
Thành phố Tuy Hòa đã và đang đứng trước những cơ hội mới, thách thức mới. Với truyền thống cần cù, sáng tạo, tự lực tự cường, với khát vọng, nhiệt huyết của một đô thị trẻ, thành phố Tuy Hòa sẽ ngày càng phát triển giàu đẹp, trù phú, khẳng định được vị thế của mình và vươn lên mạnh mẽ để hợp thành hệ thống đô thị hiện đại trong khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, trở thành cửa ngõ quan trọng hướng ra phía Đông cho khu vực Tây Nguyên.
Di Tích
Tháp Nhạn – Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia
Chóp Chài núi Nhạn sông Đà
Thiên thời địa lợi Tuy Hòa Phú Yên
|
Giới thiệu khái quát thành phố Tuy Hòa
Trong lịch sử hình thành và phát triển
tỉnh Phú Yên
, Tuy Hòa không chỉ được biết đến với vị thế là trung tâm tỉnh lỵ mà còn đây là địa danh gắn liền vói công cuộc khai hoang, lập ấp, mở mang bờ cõi dân tộc về phía Nam dưới thời chua Nguyễn Hoàng, hình thành những cộng đồng dân cư đầu tiên của vùng đất Phú Yên. Trải qua nhiều lần sát nhập, chia tách, mở rộng địa giới hành chính và được chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh.. Tuy Hòa từ một thị xã nhỏ bé, lạc hậu nằm trên hạ lưu sông Đà Rằng đã vươn lên thành một thành phố trẻ, văn minh, năng động với những bước chuyển mình mạnh mẽ hòa nhập chuỗi đô thị hiện đại Duyên hải Nam Trung Bộ.
Thành phố Tuy Hòa có diện tích tự nhiên khoảng 107,3km
2
, dân số khoảng 202.030 người và 16 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 12 phường, 04 xã). Thành phố giáp huyện Tuy An ở phía Bắc, giáp huyện Phú Hòa và Sơn Hòa ở phía Tây, giáp huyện Đông Hòa ở phía Nam và giáp biển Đông ở phía Đông. Các tuyến giao thông huyết mạch Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, Quốc lộ 25, ĐT 645 nối liền thành phố Tuy Hòa với các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, khu vực Tây Nguyên, Bắc Bộ và Nam Bộ, tạo mối quan hệ kinh tế – xã hội bền chặt giữa thành phố với các tỉnh, thành phố trong khu vực trên cả nước. Cách trung tâm thành phố Tuy Hòa 05km về phía Nam, cảng hàng không Tuy Hòa với quy mô hiện đại được xây dựng trên diện tích gần 4000km
2
, khai thác 02 đường bay: thành phố Hồ Chí Minh – Tuy Hòa – thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội – Tuy Hòa – Hà Nội, công suất hoạt động đạt khoảng 100.00 khách/năm… đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội thành phố Tuy Hòa nói riêng, tỉnh Phú Yên nói chung.
Thành phố Tuy Hòa có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng hữu tình với đường bờ biển dài trên 30km mang vẻ đẹp nguyên sơ, dòng sông Đà Rằng gối đầu lên thượng nguồn Tây Nguyên, đuôi uốn lượn giữa lòng thành phố và những cánh đồng màu mỡ. Bên cạnh đó, Tháp Nhạn, núi Chóp Chài hiện hữu như chứng tích huyền thoại về một mảnh đất Tuy Hòa trọng nghĩa, trọng tình. Với thế mạnh tự nhiên sẵn có cùng nhiều danh lam thắng cảnh nằm trong và lân cận địa bàn thành phố như: bãi biển Long Thủy, đầm Ô Loan, gành Đá Đĩa…, các khu du lịch cao cấp, khu đô thị mới nằm ở các cửa ngõ thành phố: khu du lịch Đồi Thơm (phía Bắc), Khách sạn CenDeluxe và khu du lịch sinh thái Thuận Thảo (phía Tây), khu đô thị mới Nam sông Đà Rằng (phía Nam), thành phố Tuy Hòa có tiềm năng rất lớn để trở thành một thành phố du lịch, dịch vụ hấp dẫn.
Bên cạnh sự ưu đãi của thiên nhiên, thành phố Tuy Hòa, thành phố Tuy Hòa còn là địa bàn có số lượng di tích văn hóa – lịch sử phong phú, lưu giữ nét đặc sắc văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, phản ánh thời kỳ người Việt và người Hoa đến định cư, sinh sống… Trong đó, di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Nhạn (Phường 1) đã được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (1996). Một số di tích tiêu biểu khác như: di tích khảo cố bia Chợ Dinh (Phường 1), di tích lịch sử – văn hóa nhà số 17 Phan Đình Phùng (Phường 1), di tích Chùa Bảo Tịnh (Phường 3), di tích đình và lẫm Phú Lâm (Phường Phú Lâm), Hội quán người Hoa (Phương 1), di tích Đình Ngọc Lãng (Xã Bình Ngọc)… Về lễ hội, đặc sắc nhất là Hội Bài chòi thường được nhân dân tổ chức vào dịp tết Nguyên Đán và lễ cúng Cầu Ngư (Phường 6) gắn liền với tín ngưỡng nghề biển, cầu mưa thuận gió hòa, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn và ngư dân được mùa đánh bắt bội thu.
Ngày 11/3/2013, thành phố Tuy Hòa vinh dự được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Phú Yên. Đây là dấu mốc có ý nghĩa quan trọng, ghi nhận những chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế – xã hội, hạ tầng đô thị của thành phố sau hơn 10 năm được công nhận là đô thị loại III. Trên cơ sở phát huy nội lực, tận dụng triệt để mọi nguồn lực huy động từ bên ngoài, thành phố Tuy Hòa đã đẩy nhanh phát triển kinh tế, chú trọng công tác quy hoạch và chỉnh trang đô thị sinh thái bền vững. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ổn định, GDP bình quân đầu người ngày càng tăng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó Thương mai – Dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Tuy Hòa trong tương lai. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh được ưu tiên chú trọng đầu tư xây dựng. Sự hình thành và phát triển các đô thị mới khang trang, nhà biệt thự dọc đại lộ Hùng Vương đã tạo dấu ấn riêng cho một không gian đô thị văn minh, hiện đại. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện tốt các chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, về y tế,giáo dục… đã góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Là trung tâm giáo dục – đào tạo của tỉnh Phú Yên, hiện nay, trên địa bàn thành phố Tuy Hòa có 02 trường Đại học, 03 trường Cao đẳng, 01 Học viện, 01 trường THPT chuyên và hơn 70 trường học từ mần non đến bậc phổ thông. Xác định việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ trọng tâm và lâu dài, trong những năm qua, thành phố Tuy Hòa luôn dành sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng cho sự nghiệp giáo dục của địa phương. Hiện nay, 16/16 phường, xã trên địa bàn thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; hoàn thành và giữ vững phổ cập giáo dục Tiểu học, THCS, THPT.
Định hướng phát triển trong thời gian đến, thành phố Tuy Hòa tập trung phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị; kết hợp hài hòa, chặt chẽ và linh hoạt các nguồn lực; khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của địa phương về nông nghiệp, nuôi trồng và chế biến thủy sản, du lịch… Gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác quốc phòng – an ninh, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất và đời sống. Đồng thời, chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ thành phố đến cơ sở; tiếp tục thực hiện tốt chính sách thu hút trí thức trẻ, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Minh bạch và đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo môi trường đầu tư thông thoáng, tạo sức hút đối với các nhà đầu tư. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy cao tinh thần dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đến năm 2025 đưa thành phố Tuy Hòa tiến lên đô thị loại I trực thuộc tỉnh Phú Yên.
Thành phố Tuy Hòa đã và đang đứng trước những cơ hội mới, thách thức mới. Với truyền thống cần cù, sáng tạo, tự lực tự cường, với khát vọng, nhiệt huyết của một đô thị trẻ, thành phố Tuy Hòa sẽ ngày càng phát triển giàu đẹp, trù phú, khẳng định được vị thế của mình và vươn lên mạnh mẽ để hợp thành hệ thống đô thị hiện đại trong khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, trở thành cửa ngõ quan trọng hướng ra phía Đông cho khu vực Tây Nguyên.
Di Tích
Tháp Nhạn – Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia
Chóp Chài núi Nhạn sông Đà
Thiên thời địa lợi Tuy Hòa Phú Yên
|
Giới thiệu khái quát thành phố Nha Trang
Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch của
tỉnh Khánh Hòa
, Việt Nam. Trước khi trở thành phần đất của Việt Nam, Nha Trang thuộc về Chiêm Thành. Các di tích của người Chăm vẫn còn tại nhiều nơi ở Nha Trang. Nha Trang được mệnh danh là hòn ngọc của biển Đông, Viên ngọc xanh vì giá trị thiên nhiên, sắc đẹp cũng như khí hậu của nó.
Thành phố Nha Trang nằm ở vị trí trung tâm tỉnh Khánh Hòa. Phía Bắc giáp huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp thành phố Cam Ranh, phía Tây giáp huyện Diên Khánh, phía Đông tiếp giáp với biển. Thành phố Nha Trang có tổng diện tích đất tự nhiên là 252,6km2, với 27 đơn vị hành chính cơ sở: 19 phường và 08 xã với dân số trên 417.474 người ( số liệu năm 2016).
Nha Trang có nhiều lợi thế về địa lý, thuận tiện về đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển trong nước và quốc tế, là cửa ngõ Nam Trung bộ và Tây Nguyên nên Nha Trang có nhiều điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu và phát triển.
Nha Trang cách thủ đô Hà Nội 1.280km, cách thành phố Hồ Chí Minh 448km, cố đô Huế 630km, Phan Rang 105km, Phan Thiết 260km, Cần Thơ 620km.
Nha Trang có nhiều trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, các trường cao đẳng, trường dạy nghề, các trung tâm triển khai các tiến bộ kỹ thuật chuyên ngành tương đối đồng bộ. Chính vì vậy, thành phố Nha Trang đã trở thành một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh Khánh hòa và của vùng Nam Trung bộ.
Địa hình Nha Trang khá phức tạp có độ cao trải dài từ 0 đến 900m so với mặt nước biển được chia thành 3 vùng địa hình. Vùng đồng bằng duyên hải và ven sông Cái có diện tích khoảng 81,3km², chiếm 32,33% diện tích toàn thành phố; vùng chuyển tiếp và các đồi thấp có độ dốc từ 30 đến 150 chủ yếu nằm ở phía Tây và Đông Nam hoặc trên các đảo nhỏ chiếm 36,24% diện tích, vùng núi có địa hình dốc trên 150 phân bố ở hai đầu Bắc – Nam thành phố, trên đảo Hòn Tre và một số đảo đá chiếm 31,43% diện tích toàn thành phố.
Nha Trang có khí hậu nhiết đới xavan chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Khí hậu Nha Trang tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm là 26,3
o
C. Có mùa đông ít lạnh và mùa khô kéo dài. Mùa mưa lệch về mùa đông bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 12 dương lịch, lượng mưa chiếm gần 80% lượng mưa cả năm (1.025mm). Khoảng 10 đến 20% số năm mùa mưa bắt đầu từ tháng 7, 8 và kết thúc sớm vào tháng 11. So với các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, Nha Trang là vùng có điều kiện khí hậu thời tiết khá thuận lợi để khai thác du lịch hầu như quanh năm. Những đặc trưng chủ yếu của khí hậu Nha Trang là: nhiệt độ ôn hòa quanh năm (25
o
C – 26
o
C), tổng tích ôn lớn (> 9.500
o
C), sự phân mùa khá rõ rệt (mùa mưa và mùa khô) và ít bị ảnh hưởng của bão.
Lịch sử hình thành
Vịnh Nha Trang được biết đến với hệ thống các đảo lớn nhỏ, là một trong những điểm hấp dẫn, thu hút du khách đến với Nha Trang. Vịnh Nha Trang, với diện tích trên 500km2, có 19 hòn đảo lớn, nhỏ nằm rải rác xa, gần tạo nên cảnh quan vừa kỳ vĩ, vừa thơ mộng.
Đảo lớn nhất là Hòn Tre rộng 36km
2
nằm che chắn phía đông nên vịnh Nha Trang kín gió và êm sóng. Trên đảo có những bãi tắm đẹp như Bãi Trũ, Bãi Tre. Đảo Hòn tre cách đất liền hơn 3km, có chiều dài hơn 10km, chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 6km, nhìn xa như một con cá sấu khổng lồ đang trườn giữa hồ nước mênh mông, xanh thẳm. Những năm gần đây hòn đảo này nổi lên như một điểm sáng cho du lịch biển, đảo của Nha Trang, với sự ra đời của Khu du lịch sinh thái Hòn Ngọc Việt (Vinpearl Resort and Spa), đẳng cấp 5 sao, được khai trương vào cuối năm 2003, sau khi ra đời khu du lịch này sớm nổi tiếng với nhiều vẻ đẹp hấp dẫn của nó.
Chính sự đa dạng về địa hình giữa đồng bằng, đồi núi, các đảo đã tạo cho Nha Trang những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp như Hòn Chồng, Hòn Đỏ, Hòn Tằm, Hòn Mun, Đảo Yến…
Hệ thống các đảo nhỏ trong vịnh Nha Trang rất đa dạng, với nhiều đảo lớn nhỏ như Hòn Mun, Hòn Tre, Hòn Tằm, Hòn Miễu, Hòn Hố, Hòn Đụn, Hòn Một. Đây là những hòn đảo không chỉ có những cảnh đẹp trên bờ mà còn có những cảnh đẹp dưới nước. Những hòn đảo này cũng là nơi cư trú và làm tổ của loài chim yến, tổ của loài chim Yến là một đặc sản nổi tiếng của Nha Trang nói riêng và Khánh Hòa nói chung, rất bổ dưỡng cho sức khỏe, có giá trị kinh tế rất cao. Yến Sào Nha Trang, Khánh Hòa là một món quà vô cùng ý nghĩa, rất được du khách ưu chuộng.
Đảo Hòn Mun là nơi thiết lập khu bảo tồn biển đầu tiên ở Việt Nam có những rạn san hô với một quần thể sinh vật biển còn nguyên sơ, gần như độc nhất vô nhị không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Đông Nam Á.
Trong quá trình phát triển, các thế hệ người dân Nha Trang, Khánh Hòa đã sáng tạo di sản văn hóa vật thể vô cùng quý giá, đó là các công trình kiến trúc độc đáo, những di tích lịch sử văn hóa có giá trị với hệ thống các đình, đền, chùa, tháp, miếu… vẫn còn tồn tại đến ngày nay như: Tháp Bà Ponagar, Đình Phương Sài, Đình Phú Vinh, Đền Hùng Vương, Đền Trần Hưng Đạo, Chùa Long Sơn, Nhà thờ Chánh tòa Nha Trang (nhà thờ Núi)…
Khu tháp cổ thờ bà mẹ xứ sở Ponagar (còn gọi là khu Tháp Bà Ponagar Nha Trang) nằm trên đỉnh hòn Cù Lao thuộc phường Vĩnh Phước, thành phố Nha trang là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thuộc loại lớn nhất trong hệ thống đến tháp Chăm tại Việt Nam. Khu di tích Tháp Ponagar được xây dựng trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XII, tọa lạc trên hai mặt bằng. Mặt bằng thứ nhất ở độ cao khoảng 10m so với mực nước biển, là một quần thể kiến trúc tiền đình. Mặt bằng thứ hai, có một cụm gồm 04 tháp bố trí theo hình thước thợ, cả 04 tháp được xây dựng bằng gạch nung, được xếp chồng lên nhau thật vững chãi. Đây là di tích lịch sử độc đáo, công trình tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của dân tộc Chăm, đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia vào năm 1979. Hiện tọa lạc tại đường 2/4, phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang.
Song song đó là những di sản văn hóa phi vật thể rất đặc sắc, thể hiện tâm tư, nguyện vọng, tính cách, lối sống của con người Nha Trang. Đó là những lễ hội dân gian, mà tiêu biểu là Lễ hội Tháp Bà, lễ hội cầu ngư của các ngư dân, lễ hội cúng đình.
Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài sản phong phú về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cùng sự quan tâm trong việc xây dựng chính sách phát triển đầu tư cho du lịch, hiện nay thành phố Nha Trang là một điểm sáng trong ngành du lịch Việt Nam, trở thành một trong những trung tâm du lịch của cả nước và đang vươn lên xứng tầm quốc tế.
Nha Trang có rất nhiều điểm tham quan vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng hấp dẫn như Vinpear land, Hòn Tằm, Hòn Mun, Hòn Miễu, Hòn Chồng, Hòn Đỏ, Tháp bà Ponagar, Viện Hải dương học, Khu bảo tồn làng Bảo Đại … nhiều khu Spa Resot nổi tiếng như: Khu Du lịch Vinpear land, Khu Du lịch và giải trí Diamond Bay, Trung tâm Du lịch suối khoáng nóng Tháp Bà Nha Trang, Khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng I-Resort Nha Trang, Khu Du lịch tắm khoáng bùn Trăm Trứng và các trung tâm mua sắm như: Chợ Đầm, Nha Trang Center, Siêu thị Maximark, Coop.mark. Siêu thị Metro, Siêu thị Big C, Siêu thị Lotte Mart Nha Trang..
Các danh lam thắng cảnh, các điểm tham quan vui chơi, giải tri, mua sắm nằm tương đối gần nhau, rất thuận tiện cho việc di chuyển và có thể di chuyển bằng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe đạp, xe buýt, ô tô, ca-nô… Chính vì vậy, Nha Trang được biết đến như là một thiên đường để tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Nha Trang
Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch của
tỉnh Khánh Hòa
, Việt Nam. Trước khi trở thành phần đất của Việt Nam, Nha Trang thuộc về Chiêm Thành. Các di tích của người Chăm vẫn còn tại nhiều nơi ở Nha Trang. Nha Trang được mệnh danh là hòn ngọc của biển Đông, Viên ngọc xanh vì giá trị thiên nhiên, sắc đẹp cũng như khí hậu của nó.
Thành phố Nha Trang nằm ở vị trí trung tâm tỉnh Khánh Hòa. Phía Bắc giáp huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp thành phố Cam Ranh, phía Tây giáp huyện Diên Khánh, phía Đông tiếp giáp với biển. Thành phố Nha Trang có tổng diện tích đất tự nhiên là 252,6km2, với 27 đơn vị hành chính cơ sở: 19 phường và 08 xã với dân số trên 417.474 người ( số liệu năm 2016).
Nha Trang có nhiều lợi thế về địa lý, thuận tiện về đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển trong nước và quốc tế, là cửa ngõ Nam Trung bộ và Tây Nguyên nên Nha Trang có nhiều điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu và phát triển.
Nha Trang cách thủ đô Hà Nội 1.280km, cách thành phố Hồ Chí Minh 448km, cố đô Huế 630km, Phan Rang 105km, Phan Thiết 260km, Cần Thơ 620km.
Nha Trang có nhiều trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, các trường cao đẳng, trường dạy nghề, các trung tâm triển khai các tiến bộ kỹ thuật chuyên ngành tương đối đồng bộ. Chính vì vậy, thành phố Nha Trang đã trở thành một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh Khánh hòa và của vùng Nam Trung bộ.
Địa hình Nha Trang khá phức tạp có độ cao trải dài từ 0 đến 900m so với mặt nước biển được chia thành 3 vùng địa hình. Vùng đồng bằng duyên hải và ven sông Cái có diện tích khoảng 81,3km², chiếm 32,33% diện tích toàn thành phố; vùng chuyển tiếp và các đồi thấp có độ dốc từ 30 đến 150 chủ yếu nằm ở phía Tây và Đông Nam hoặc trên các đảo nhỏ chiếm 36,24% diện tích, vùng núi có địa hình dốc trên 150 phân bố ở hai đầu Bắc – Nam thành phố, trên đảo Hòn Tre và một số đảo đá chiếm 31,43% diện tích toàn thành phố.
Nha Trang có khí hậu nhiết đới xavan chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Khí hậu Nha Trang tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm là 26,3
o
C. Có mùa đông ít lạnh và mùa khô kéo dài. Mùa mưa lệch về mùa đông bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 12 dương lịch, lượng mưa chiếm gần 80% lượng mưa cả năm (1.025mm). Khoảng 10 đến 20% số năm mùa mưa bắt đầu từ tháng 7, 8 và kết thúc sớm vào tháng 11. So với các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, Nha Trang là vùng có điều kiện khí hậu thời tiết khá thuận lợi để khai thác du lịch hầu như quanh năm. Những đặc trưng chủ yếu của khí hậu Nha Trang là: nhiệt độ ôn hòa quanh năm (25
o
C – 26
o
C), tổng tích ôn lớn (> 9.500
o
C), sự phân mùa khá rõ rệt (mùa mưa và mùa khô) và ít bị ảnh hưởng của bão.
Lịch sử hình thành
Vịnh Nha Trang được biết đến với hệ thống các đảo lớn nhỏ, là một trong những điểm hấp dẫn, thu hút du khách đến với Nha Trang. Vịnh Nha Trang, với diện tích trên 500km2, có 19 hòn đảo lớn, nhỏ nằm rải rác xa, gần tạo nên cảnh quan vừa kỳ vĩ, vừa thơ mộng.
Đảo lớn nhất là Hòn Tre rộng 36km
2
nằm che chắn phía đông nên vịnh Nha Trang kín gió và êm sóng. Trên đảo có những bãi tắm đẹp như Bãi Trũ, Bãi Tre. Đảo Hòn tre cách đất liền hơn 3km, có chiều dài hơn 10km, chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 6km, nhìn xa như một con cá sấu khổng lồ đang trườn giữa hồ nước mênh mông, xanh thẳm. Những năm gần đây hòn đảo này nổi lên như một điểm sáng cho du lịch biển, đảo của Nha Trang, với sự ra đời của Khu du lịch sinh thái Hòn Ngọc Việt (Vinpearl Resort and Spa), đẳng cấp 5 sao, được khai trương vào cuối năm 2003, sau khi ra đời khu du lịch này sớm nổi tiếng với nhiều vẻ đẹp hấp dẫn của nó.
Chính sự đa dạng về địa hình giữa đồng bằng, đồi núi, các đảo đã tạo cho Nha Trang những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp như Hòn Chồng, Hòn Đỏ, Hòn Tằm, Hòn Mun, Đảo Yến…
Hệ thống các đảo nhỏ trong vịnh Nha Trang rất đa dạng, với nhiều đảo lớn nhỏ như Hòn Mun, Hòn Tre, Hòn Tằm, Hòn Miễu, Hòn Hố, Hòn Đụn, Hòn Một. Đây là những hòn đảo không chỉ có những cảnh đẹp trên bờ mà còn có những cảnh đẹp dưới nước. Những hòn đảo này cũng là nơi cư trú và làm tổ của loài chim yến, tổ của loài chim Yến là một đặc sản nổi tiếng của Nha Trang nói riêng và Khánh Hòa nói chung, rất bổ dưỡng cho sức khỏe, có giá trị kinh tế rất cao. Yến Sào Nha Trang, Khánh Hòa là một món quà vô cùng ý nghĩa, rất được du khách ưu chuộng.
Đảo Hòn Mun là nơi thiết lập khu bảo tồn biển đầu tiên ở Việt Nam có những rạn san hô với một quần thể sinh vật biển còn nguyên sơ, gần như độc nhất vô nhị không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Đông Nam Á.
Trong quá trình phát triển, các thế hệ người dân Nha Trang, Khánh Hòa đã sáng tạo di sản văn hóa vật thể vô cùng quý giá, đó là các công trình kiến trúc độc đáo, những di tích lịch sử văn hóa có giá trị với hệ thống các đình, đền, chùa, tháp, miếu… vẫn còn tồn tại đến ngày nay như: Tháp Bà Ponagar, Đình Phương Sài, Đình Phú Vinh, Đền Hùng Vương, Đền Trần Hưng Đạo, Chùa Long Sơn, Nhà thờ Chánh tòa Nha Trang (nhà thờ Núi)…
Khu tháp cổ thờ bà mẹ xứ sở Ponagar (còn gọi là khu Tháp Bà Ponagar Nha Trang) nằm trên đỉnh hòn Cù Lao thuộc phường Vĩnh Phước, thành phố Nha trang là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thuộc loại lớn nhất trong hệ thống đến tháp Chăm tại Việt Nam. Khu di tích Tháp Ponagar được xây dựng trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XII, tọa lạc trên hai mặt bằng. Mặt bằng thứ nhất ở độ cao khoảng 10m so với mực nước biển, là một quần thể kiến trúc tiền đình. Mặt bằng thứ hai, có một cụm gồm 04 tháp bố trí theo hình thước thợ, cả 04 tháp được xây dựng bằng gạch nung, được xếp chồng lên nhau thật vững chãi. Đây là di tích lịch sử độc đáo, công trình tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của dân tộc Chăm, đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia vào năm 1979. Hiện tọa lạc tại đường 2/4, phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang.
Song song đó là những di sản văn hóa phi vật thể rất đặc sắc, thể hiện tâm tư, nguyện vọng, tính cách, lối sống của con người Nha Trang. Đó là những lễ hội dân gian, mà tiêu biểu là Lễ hội Tháp Bà, lễ hội cầu ngư của các ngư dân, lễ hội cúng đình.
Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài sản phong phú về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cùng sự quan tâm trong việc xây dựng chính sách phát triển đầu tư cho du lịch, hiện nay thành phố Nha Trang là một điểm sáng trong ngành du lịch Việt Nam, trở thành một trong những trung tâm du lịch của cả nước và đang vươn lên xứng tầm quốc tế.
Nha Trang có rất nhiều điểm tham quan vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng hấp dẫn như Vinpear land, Hòn Tằm, Hòn Mun, Hòn Miễu, Hòn Chồng, Hòn Đỏ, Tháp bà Ponagar, Viện Hải dương học, Khu bảo tồn làng Bảo Đại … nhiều khu Spa Resot nổi tiếng như: Khu Du lịch Vinpear land, Khu Du lịch và giải trí Diamond Bay, Trung tâm Du lịch suối khoáng nóng Tháp Bà Nha Trang, Khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng I-Resort Nha Trang, Khu Du lịch tắm khoáng bùn Trăm Trứng và các trung tâm mua sắm như: Chợ Đầm, Nha Trang Center, Siêu thị Maximark, Coop.mark. Siêu thị Metro, Siêu thị Big C, Siêu thị Lotte Mart Nha Trang..
Các danh lam thắng cảnh, các điểm tham quan vui chơi, giải tri, mua sắm nằm tương đối gần nhau, rất thuận tiện cho việc di chuyển và có thể di chuyển bằng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe đạp, xe buýt, ô tô, ca-nô… Chính vì vậy, Nha Trang được biết đến như là một thiên đường để tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Cam Ranh
Thành phố Cam Ranh tọa lạc ở đầu phía Nam tỉnh Khánh Hòa, đây cũng là thành phố lớn thứ hai của tỉnh ngay sau thành phố biển Nha Trang.
Thành phố Cam Ranh
nằm về phía Nam của tỉnh
Khánh Hòa
, phía Tây giáp với huyện Khánh Sơn, phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Nam giáp thành phố Nha Trang và Diên Khánh, phía Đông của thành phố là
Vịnh Cam Ranh
– đây được xem là vịnh biển tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á, không những vậy nó còn là nơi hết sức thuận lợi để phát triển dịch vụ du lịch cũng như dịch vụ cảng biển.
Nhắc đến
Cam Ranh
là người ta nghĩ ngay đến “nước ngọt” vì Cam Ranh tuy nằm bên bờ biển xanh, nước mặn nhưng nơi đây lại được thiên nhiên ưu ái ban cho một trữ lượng nước ngọt rất lớn trong lòng đất. Tương truyền rằng khi mà Nguyễn Ánh từ trong Nam đem quân tiến đánh thành Quy Nhơn do tướng Tây Sơn trấn giữ thì thuyền gặp bão lớn phải dạt vào Cam Ranh để tránh bão. Vào đến nơi rồi thì mới phát hiện ra ở đây không có nước ngọt để dùng vì vậy Nguyễn Ánh đã lập đàn tế trời, sau lễ tế ông đã cho quân đào cát để tìm nước, ngay lập tức mạch nước ngọt hiện ra. Chính vì lí do này, Nguyễn Ánh quyết định đặt tên vùng đất là
Cam Linh
. Trong Hán Việt không có chữ “R” nên từ “Ranh” trong tiếng Nôm, Hán đọc là “Linh” – vì thế Cam Ranh là phiên âm từ Cam Linh. Ngày nay, thành phố Cam Ranh có một phường tên là Cam Linh.
Diện tích của thành phố là 325,011 km², dân số 125,11 người, Cam Ranh phân chia hành chính thành 15 xã phường trong đó có 9 phường là: Ba Ngòi, Cam Thuận, Cam Lộc, Cam Lợi, Cam Nghĩa, Cam Phú, Cam Phúc Nam, Cam Phúc Bắc, Cam Linh và 6 xã là: Cam Thịnh Tây, Cam Thịnh Đông, Cam Thành Nam, Cam Phước Đông, Cam Bình, Cam Lập.
Cam Ranh cách thành phố Nha Trang về phía Nam 60km, cách Phan Rang về phía Bắc 40km. Thành phố còn có hệ thống giao thông đường bộ vô cùng thuận lợi như: Quốc lộ 1A đi qua thành phố, tỉnh lộ 9 nối thành phố với thị trấn Tô Hạp, huyện Khánh Sơn. Đại lộ Nguyễn Tất Thành là cầu nối giữa thành phố Nha Trang với sân bay Cam Ranh. Tại bến xe Cam Ranh còn phục vụ gần như đầy đủ các chuyến liên tỉnh cũng như nội tỉnh.
Bên cạnh
sân bay Cam Ranh
đang rất phát triển thì thành phố còn nằm trên trục giao thông huyết mạch của cả nước đó là Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt thống nhất Bắc Nam – việc này vô cùng thuận lợi trong việc xây dựng trung tâm tiếp nhận, làm ga trung chuyển cho khách du lịch và liên kết các tỉnh thành phố còn lại của Việt Nam. Nhưng tại thành phố lại chỉ có một nhà ga nhỏ là
ga Ngã Ba
– đây là một ga cũ từng bị bỏ hoang, mãi đến năm 2007 nó mới được khôi phục để đón khách. Hiện nay, các tàu Thống Nhất đi qua thành phố Cam Ranh nhưng không dừng tại ga Ngã Ba mà ga chỉ đón khách của các chuyến tàu SN1 – 2, SN3 -4 chạy tuyến
Sài Gòn – Nha Trang
. Trong tương lai, ga sẽ là điểm dừng của tàu Thống Nhất.
Cam Ranh có
sân bay Quốc Tế Cam Ranh
– nó là đầu mối giao thông quan trọng không chỉ của tỉnh Khánh Hòa mà còn là của cả khu vực Nam Trung Bộ. Tính theo số lượng khách thông quan thì đây là sân bay lớn thứ 4 tại Việt Nam.
Nằm về phía Đông và phía Nam thành phố là vịnh Cam Ranh, vũng Bình Ba là nơi nước sâu, kín sóng kín gió nên rất thuận tiện cho việc xây dựng cảng để tàu thuyền neo đậu tránh gió bão. Thêm vào đó, Cam Ranh nằm gần đường hàng hải quốc tế rất quan trọng của biển Đông, đồng thời cảng Ba Ngòi đang được nâng cấp thành cảng quan trọng trong hệ thống cảng biển vùng Nam Trung Bộ, điều này vô cùng thuận lợi để phát triển thêm về kinh tế và giao lưu quốc tế.
Với tài nguyên biển và ven bờ đa dạng, phong phú, Cam Ranh là khu vực có nhiều tiềm năng phát triển các ngành kinh tế liên quan đến biển như: xây dựng hệ thống cảng tiếp nhận, đánh bắt chế biến thủy hải sản, công nghiệp muối, công nghiệp đóng tàu… Chính nhờ sự phát triển mạnh mẽ này mà nó sẽ kéo theo nhiều ngành khác cùng phát triển theo cũng như giải quyết được nhu cầu việc làm của người dân.
Ngành kinh tế chủ lực và là động lực chính để phát triển nền kinh tế của Cam Ranh là ngành Công nghiệp. Thành phố tập trung vào lĩnh vực đóng tàu, chế biến nông thủy sản và sản xuất xi măng. Thành phố có hai khu công nghiệp đa ngành là Bắc và Nam Cam Ranh. Đi đôi với việc phát triển công nghiệp là phát triển kinh tế thương mại – dịch vụ và du lịch với mức tăng trưởng là 12,1%. Ngành nông nghiệp của thành phố đang ngày càng chuyển dịch theo hướng nâng cao ngành chăn nuôi, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, vật nuôi, đa dạng các loại cây trồng.
Mặc dù ngành du lịch ở Cam Ranh khá phát triển nhưng cảnh quan ở thành phố vẫn giữ được nét hoang sơ, bình dị của mình. Nếu có đến thành phố này, bạn nhớ ghé qua những điểm tham quan nổi tiếng như: đảo Bình Ba, đảo Bình Hưng,
chùa Từ Vân
, vườn Quốc gia Núi Chúa….
|
Overview of Cam Ranh city
Cam Ranh city is located at the southern tip of Khanh Hoa province, this is also the second largest city of the province right after the coastal city of Nha Trang.
Cam Ranh City
located in the south of the province
Khanh Hoa
, the West borders Khanh Son district, the South borders Ninh Thuan province, the South borders Nha Trang and Dien Khanh cities, the East of the city is
Cam Ranh Bay
- This is considered the best natural bay in Southeast Asia, not only that, it is also a very convenient place to develop tourism services as well as seaport services.
Mentioned
Orange line
People immediately think of "fresh water" because although Cam Ranh is located on the shore of a blue sea with salty water, this place is blessed by nature with a very large reserve of fresh water underground. Legend has it that when Nguyen Anh from the South led his army to attack Quy Nhon citadel guarded by General Tay Son, the boat encountered a big storm and had to drift to Cam Ranh to avoid the storm. Upon arriving, he discovered there was no fresh water to use, so Nguyen Anh set up an altar to worship the heavens. After the ceremony, he ordered his troops to dig in the sand to find water, and immediately a spring of fresh water appeared. For this reason, Nguyen Anh decided to name the land
Cam Linh
. In Sino-Vietnamese there is no letter "R", so the word "Ranh" in Nom and Chinese is read as "Linh" - so Cam Ranh is a transliteration of Cam Linh. Today, Cam Ranh city has a ward named Cam Linh.
The city's area is 325,011 km², population 125.11 people, Cam Ranh is administratively divided into 15 communes and wards, of which 9 wards are: Ba Ngoi, Cam Thuan, Cam Loc, Cam Loi, Cam Nghia, Cam Phu , Cam Phuc Nam, Cam Phuoc Bac, Cam Linh and 6 communes: Cam Thinh Tay, Cam Thinh Dong, Cam Thanh Nam, Cam Phuoc Dong, Cam Binh, Cam Lap.
Cam Ranh is 60km south of Nha Trang city, 40km north of Phan Rang. The city also has an extremely convenient road transportation system such as: National Highway 1A passing through the city, Provincial Road 9 connecting the city with To Hap town, Khanh Son district. Nguyen Tat Thanh Avenue is a bridge connecting Nha Trang city with Cam Ranh airport. Cam Ranh bus station also serves almost all inter-provincial and intra-provincial trips.
Next to
Cam Ranh airport
While being very developed, the city is also located on the main traffic axis of the country, which is National Highway 1A, the North-South unified railway - this is extremely convenient in building a reception center and a central station. transfer to tourists and link the remaining provinces and cities of Vietnam. But in the city there is only one small station
Nga Ba station
- This is an old station that was abandoned, it was not until 2007 that it was restored to welcome passengers. Currently, Thong Nhat trains pass through Cam Ranh city but do not stop at Nga Ba station, the station only picks up passengers from trains SN1 - 2, SN3 -4 running on the route.
Saigon – Nha Trang
. In the future, the station will be a stop for the Thong Nhat train.
Cam Ranh has it
Cam Ranh International Airport
– it is an important traffic hub not only for Khanh Hoa province but also for the entire South Central region. Based on the number of passengers clearing customs, this is the 4th largest airport in Vietnam.
Located to the East and South of the city is Cam Ranh Bay, Binh Ba Bay is a place with deep water, sheltered from waves and wind, so it is very convenient for building ports for ships to anchor to avoid storms. In addition, Cam Ranh is located near the very important international maritime route of the East Sea, and at the same time, Ba Ngoi port is being upgraded to become an important port in the seaport system of the South Central region, which is extremely convenient for further economic development and international exchanges.
With diverse and abundant marine and coastal resources, Cam Ranh is an area with great potential for developing economic sectors related to the sea such as: building a system of receiving ports, fishing and processing seafood, salt industry, shipbuilding industry... Thanks to this strong development, it will lead to many other industries developing as well as solving the employment needs of the people.
The key economic sector and the main driving force for Cam Ranh's economic development is the Industry sector. The city focuses on shipbuilding, agricultural and aquatic product processing and cement production. The city has two multi-industry industrial parks: North and South Cam Ranh. Along with industrial development is economic development of trade - services and tourism with a growth rate of 12.1%. The city's agricultural sector is increasingly shifting towards improving the livestock industry, developing agriculture towards producing goods, livestock, and diversifying crops.
Although the tourism industry in Cam Ranh is quite developed, the landscape in the city still retains its wild and idyllic features. If you come to this city, remember to visit famous attractions such as: Binh Ba Island, Binh Hung Island,
Tu Van Pagoda
, Nui Chua National Park….
|
Giới thiệu khái quát huyện Vạn Ninh
1. Địa lý tự nhiên
Huyện Vạn Ninh là huyện đồng bằng ven biển nằm về phía Bắc
tỉnh Khánh Hòa
, trên tọa độ từ 12
o
45’-12
o
52’15” độ vĩ Bắc và 108
o
52’- 109
o
27’55” độ kinh đông, tổng diện tích tự nhiên của huyện là 550 km
2
, với trên 3/4 là đất rừng núi, đất nông nghiệp khoảng 9.000 hecta.
Phía Bắc và Tây Bắc của huyện tiếp giáp với tỉnh Phú Yên, phía Nam và Tây Nam tiếp giáp Thị xã Ninh Hòa, phía Đông giáp biển Đông.
Đặc điểm địa lý
: Huyện Vạn Ninh có hình dạng thon, cao ở phía Bắc, rộng thấp dần ở phía Nam. Địa hình có ba vùng rõ rệt: Vùng rừng đồi, núi; vùng đồng bằng và vùng hải đảo. Đặc điểm mỗi vùng có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội và các hoạt động khác của huyện.
Bờ biển Vạn Ninh dài khoảng 60km, có nơi núi lan ra sát biển; nhiều hồ, đập nước như Hoa Sơn, Suối Sung, Đồng Điền, Hải Triều… và 2 con sông chính là sông Đồng Điền và sông Hiền Lương.
Khí hậu
: Vạn Ninh nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, mang đặc trưng của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hòa. Nhiệt độ trung bình là 25
o
C, lượng mưa bình quân hàng năm là 1.399mm, quanh năm trời nắng ấm.
Khoáng sản:
Có cao lanh Xuân Tự, cát trắng Đầm Môn, sa khoáng imenit Vĩnh Yên – Hòn Gốm, đá granit Tân Dân, vàng Xuân Sơn…. trong đó cát trắng Đầm Môn và đá Granit Tân Dân có trữ lượng khá lớn.
Giao thông
: Hệ thống giao thông thuận lợi, có tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua các ga Đãi Lãnh, Tu Bông, Vạn Giã; có các tuyến đường liên thôn, liên xã và tuyến đường chạy dọc bán đảo Hòn Gốm tạo thành hệ thống giao thông liên hoàn nối các vùng trong huyện…Về giao thông thủy, có tuyến đường biển ra đảo Hòn Lớn và các cảng biển có vị trí hết sức thuận lợi, rất gần với đường hàng hải quốc tế.
2. Dân cư:
Lịch sử hình thành và phát triển dân cư từ rất sớm. Tổng dân số là 128.290 người (tính đến năm 2011), mật độ dân số 229 người/ km
2
. Có thể nói, sự phát triển dân số ở đây chủ yếu là người Kinh di dân từ các địa phương phía Bắc vào. Địa bàn cư trú của họ phần lớn là ở vùng đồng bằng, ven biển và sống thành cộng đồng làng xã ổn định.
3
.
Hành chính
: Huyện có 12 xã và 1 thị trấn gồm: xã Đại Lãnh, Vạn Thọ, Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Khánh, Vạn Thắng, Vạn Bình, Vạn Phú, Vạn Lương, Vạn Hưng, Xuân Sơn, Vạn Thạnh và thị trấn Vạn Giã. Vùng đất thị trấn Vạn Giã là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện Vạn Ninh.
4. Du lịch:
Vạn Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh, nổi tiếng nhất là bãi biển Đại Lãnh, được vua Minh Mạng chọn làm biểu tượng khắc vào 1 trong 9 đỉnh đồng đặt trước Thế Miếu (năm 1836). Phía Nam Đại Lãnh có một vùng non nước kỳ thú, được Hiệp hội du lịch thế giới (WTO) và chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đánh giá là khu du lịch nhiệt đới phức hợp với bãi tắm đẹp nhất, một trong những thắng cảnh quyến rũ nhất trong khu vực Châu Á và Viễn Đông: Vịnh Vân Phong, nơi có phần đất vươn ra biển Đông xa nhất nước, có đặc thù của vùng vịnh kín gió, có độ sâu trung bình 20-27 mét, gần đường hàng hải quốc tế đã tạo ra khả năng lớn để khai thác kinh tế cảng biển, cảng chuyển tải quốc tế, dịch vụ thương mại và trong tương lai sẽ hình thành Đặc khu kinh tế.
5. Lịch sử:
Huyện Vạn Ninh trước kia là huyện Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang, được thành lập năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), đến năm 1690, phủ Thái Khang đổi thành phủ Bình Khang gồm 2 huyện Quảng Phước và Tân Định. Năm Gia Long thứ hai (1803) phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Năm Minh Mạng thứ mười hai (1831), phủ Bình Hòa lại đổi thành phủ Ninh Hòa, gồm các tổng: Phước Tường Ngoại, Phước Tường Nội, Phước Thiện, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại, Phước Khiêm.
Sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Pháp đã mở đường 21, nối liền Buôn Ma Thuột với huyện Tân Định và cảng Hòn Khói, nền kinh tế Tân Định trở nên phồn thịnh. Pháp lại đổi tên huyện Tân Định thành phủ Ninh Hòa, cắt 3 tổng của huyện Quảng Phước là Phước Khiêm, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại nhập vào phủ Ninh Hòa (thị xã Ninh Hòa ngày nay). Phủ Ninh Hòa cũ đổi thành huyện Vạn Ninh.
Từ năm 1945 trở về trước, huyện Vạn Ninh có 3 tổng: Phước Tường Nội, Phước Tường Ngoại, Phước Thiện.
Đầu năm 1946, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương thành lập đơn vị hành chính cấp xã, huyện Vạn Ninh thành lập được 8 xã. Phước Thiện có 3 xã: Phước Đông, Phước Trung, Phước Tây; Phước Tường Nội có 3 xã: Đồng Xuân, Đồng Tiến, Đồng Hòa; Phước Tường Ngoại có 2 xã: Liên Hưng, Liên Hiệp.
Đến năm 1956, chính quyền Việt Nam cộng hòa cắt tổng Phước Thiện nhập vào huyện Ninh Hòa.
Năm 1976, Vạn Ninh và Ninh Hòa hợp nhất thành huyện Khánh Ninh. Ngày 23-10-1978, Chính phủ ra Quyết định số 268-CP thành lập thị trấn Vạn Giã. Năm 1979, Khánh Ninh lại được tách ra làm 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh cho đến ngày nay. Tháng 12-1993, Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa IX điều chỉnh ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, thôn Vũng Rô (thuộc xã Đại Lãnh) được tách ra khỏi huyện Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hoà) để sáp nhập vào xã Hoà Xuân, huyện Đông Hòa (tỉnh Phú Yên)
6. Tình hình kinh tế và văn hóa, xã hội
(Số liệu tính đến năm 2012)
Về kinh tế
: Dân cư sống chủ yếu bằng nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp.
Nông nghiệp
: Tổng diện tích gieo trồng hàng năm khoảng 9.338 ha. Tổng sản lượng lương thực ước đạt 54.487 tấn.
Ngư nghiệp
: Sản lượng đánh bắt hàng năm từ 7000 – 7.500 tấn thủy hải sản các loại. Nuôi trồng thủy sản khá phát triển với các loài hải sản có giá trị kinh tế cao như: tôm hùm, cá bóp, cá mú, tôm sú, tôm thẻ chân trắng, ốc hương…
Lâm nghiệp
: Rừng có nhiều gỗ quý cùng các lâm sản khác như gỗ hương, chò, gõ, huỳnh đàn… đặc biệt là Kỳ Nam. Vạn Ninh còn là nơi có nghề truyền thống khai thác trầm kỳ mà dân gian gọi là “đi điệu”..
Công nghiệp – TTCN
: Giá trị sản xuất công nghiệp – TTCN 123,8 tỷ đồng, trong đó sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh 112,3 tỷ đồng.
Tài chính ngân sách
: Tổng thu ngân sách năm 2012 là 55.731 triệu đồng.
Về văn hóa, xã hội:
Vạn Ninh có 99 di tích văn hóa, lịch sử gồm đình làng, chùa, lăng, miếu…Trong đó, có di tích quốc gia như Đình Phú Cang (Vạn Phú), Mũi Đôi – Hòn Đầu.
Về văn hóa dân gian,
hàng năm vào tháng 3 Âm lịch, người dân Vạn Ninh có các lễ hội cúng đình làng cầu cho quốc thái, dân an; lễ hội cầu ngư ở các lăng ông trình diễn nhiều tác phẩm dân ca đậm đà bản sắc văn hóa quê hương như Hò bá trạo, múa dâng bông, múa lục cúng….
7. NHỮNG NHÂN VẬT QUẢNG PHƯỚC ĐƯỢC LƯU DANH TRONG SÁCH ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ – TỈNH KHÁNH HÒA
NGUYỄN XUÂN THỤC
Tự là Diệu Thụy hiệu là Trung Lương, sinh năm 1763 (Quý Mùi) thuộc Tổng Phước Hòa, huyện Quảng Phước, nay là thôn Phước Đa, huyện Ninh Hòa. Có công theo Nguyễn Ánh. Ngay từ năm Gia Long thứ nhất ( 1802), ông đã làm Tham Hiệp Nghệ An, rồi đến Cai Bạ Vĩnh Thạnh, ít lâu sau, được thăng Tham tri Bộ Binh, rồi bổ làm Hiệp trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) được triệu tập về kinh sung chức Phó sứ sơn lăng, chuyển sang hữu Tham tri Bộ Hộ. Sau đó, được điều về Gia Định giữ công việc Bộ Hộ và Bộ Công. Một thời gian, ông về kinh được thăng chức Thượng thư Bộ Binh rồi sang Thượng thư Bộ Lễ. Khi chết, nhà vua rất lấy làm thương tiếc. Năm Tự Đức thứ 12 (1859, được liệt vào thờ đền Hiền Lương.
Hiện nay, con cháu của Ông ở Phước Đa – Ninh Hòa, còn lưu giữ được sắc phong của vua Minh Mạng cử Ông làm Đề Điệu trường thi hương Gia Định, Thừa Thiên, Chánh chủ khảo khoa thi Hội dưới thời vua Minh Mạng.
PHẠM VĂN CHƯ
Người huyện Quảng Phước, có công dưới thời Nguyễn Ánh, làm đến chức Cai Cơ. Năm Tân Dậu (1801), Ông mất ở thành Quy Nhơn, được tặng chức Chưởng Cơ và được thờ ở đền Chiêu Trung.
NGUYỄN VĂN CỐNG
Người huyện Quảng Phước, thời Nguyễn Ánh, lập được nhiều chiến công, khi mất, được tặng Chưởng Cơ và được thờ vào miếu Công thần.
LIỆT NỮ HUỲNH THỊ NGHĨA
Người huyện Quảng Phước sống vào thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) và Thiệu Trị (1841 – 1847). Năm Thiệu Trị thứ tư (1844), Bà được vua khen là người đàn bà can đảm, ít có trên đời và ban thưởng vàng bạc, lụa là cho bà vì đã có công đuổi cọp, cứu chồng.
8. NHỮNG NHÂN VẬT VẠN NINH TRỌNG TỰ ĐIỂN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tổng trấn TRẦN ĐƯỜNG:
Ông Trần Đường – nhà yêu nước chống Pháp sinh năm 1839 tại xã Vạn Lương, huyện Quảng Phước nay là Vạn Ninh. Ông làm quan vào cuối triều Tự Đức. Khi Pháp đánh phá miền Bắc (1873 – 1882). Ông liên hiệp với nhóm Cần Vương ở Khánh Hòa để chống Pháp. Tôn Thất Thuyết biết tiếng ông, rất khen ngợi phong Ông làm Tổng trấn Vạn Ninh cùng với Trịnh Phong lấy địa điểm Dốc Thị (thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng), phía Nam quận lỵ Vạn Ninh 5 cây số, trên đường Quốc lộ 1A, Ông trấn đóng tại đây để chống quân Pháp từ Nha Trang lấn chiếm ra.
Năm 1884, giặc Pháp tiến công mạnh, Vạn Ninh thất thủ, Ông rút lui, cầm cự được ít lâu, thì sa vào tay giặc. Ngày 01/8/1885 (10/6 năm Ất Dậu), Ông bị chém tại Nha Trang, hưởng dương 46 tuổi.
Tham trấn PHẠM CHÁNH:
Ông người làng Hội Khánh, xã Vạn Khánh. Tương truyền Ông học rất giỏi, nhưng không đi thi. Tham gia hưởng ứng phong trào Cần Vương, ông được cử giữ chức Tham trấn trong hàng ngũ đạo quân của Tổng trấn Trần Đường ở quân khu Bắc. Ông anh dũng chiến đấu và hy sinh năm Bính Tuất (1886).
Nhiếp binh PHẠM LONG:
Còn có tên Luông. Ông là con trai trưởng của Phạm Chánh. Tuổi trẻ có chí khí hơn người và lòng dũng cảm, luôn sát cánh bên cha chiến đấu trong hàng ngũ của đội quân Trần Đường.
Hiệp trấn NGUYỄN SUM:
Người làng Hội Khánh, cùng một quê với cha con ông Phạm Chánh. Tính tình trung thực, khẳng khái.
Cả ba ông Phạm Chánh, Phạm Long và Nguyễn Sum được người đời tôn vinh là “Quảng Phước tam hùng”.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vạn Ninh
1. Địa lý tự nhiên
Huyện Vạn Ninh là huyện đồng bằng ven biển nằm về phía Bắc
tỉnh Khánh Hòa
, trên tọa độ từ 12
o
45’-12
o
52’15” độ vĩ Bắc và 108
o
52’- 109
o
27’55” độ kinh đông, tổng diện tích tự nhiên của huyện là 550 km
2
, với trên 3/4 là đất rừng núi, đất nông nghiệp khoảng 9.000 hecta.
Phía Bắc và Tây Bắc của huyện tiếp giáp với tỉnh Phú Yên, phía Nam và Tây Nam tiếp giáp Thị xã Ninh Hòa, phía Đông giáp biển Đông.
Đặc điểm địa lý
: Huyện Vạn Ninh có hình dạng thon, cao ở phía Bắc, rộng thấp dần ở phía Nam. Địa hình có ba vùng rõ rệt: Vùng rừng đồi, núi; vùng đồng bằng và vùng hải đảo. Đặc điểm mỗi vùng có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội và các hoạt động khác của huyện.
Bờ biển Vạn Ninh dài khoảng 60km, có nơi núi lan ra sát biển; nhiều hồ, đập nước như Hoa Sơn, Suối Sung, Đồng Điền, Hải Triều… và 2 con sông chính là sông Đồng Điền và sông Hiền Lương.
Khí hậu
: Vạn Ninh nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, mang đặc trưng của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hòa. Nhiệt độ trung bình là 25
o
C, lượng mưa bình quân hàng năm là 1.399mm, quanh năm trời nắng ấm.
Khoáng sản:
Có cao lanh Xuân Tự, cát trắng Đầm Môn, sa khoáng imenit Vĩnh Yên – Hòn Gốm, đá granit Tân Dân, vàng Xuân Sơn…. trong đó cát trắng Đầm Môn và đá Granit Tân Dân có trữ lượng khá lớn.
Giao thông
: Hệ thống giao thông thuận lợi, có tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua các ga Đãi Lãnh, Tu Bông, Vạn Giã; có các tuyến đường liên thôn, liên xã và tuyến đường chạy dọc bán đảo Hòn Gốm tạo thành hệ thống giao thông liên hoàn nối các vùng trong huyện…Về giao thông thủy, có tuyến đường biển ra đảo Hòn Lớn và các cảng biển có vị trí hết sức thuận lợi, rất gần với đường hàng hải quốc tế.
2. Dân cư:
Lịch sử hình thành và phát triển dân cư từ rất sớm. Tổng dân số là 128.290 người (tính đến năm 2011), mật độ dân số 229 người/ km
2
. Có thể nói, sự phát triển dân số ở đây chủ yếu là người Kinh di dân từ các địa phương phía Bắc vào. Địa bàn cư trú của họ phần lớn là ở vùng đồng bằng, ven biển và sống thành cộng đồng làng xã ổn định.
3
.
Hành chính
: Huyện có 12 xã và 1 thị trấn gồm: xã Đại Lãnh, Vạn Thọ, Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Khánh, Vạn Thắng, Vạn Bình, Vạn Phú, Vạn Lương, Vạn Hưng, Xuân Sơn, Vạn Thạnh và thị trấn Vạn Giã. Vùng đất thị trấn Vạn Giã là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện Vạn Ninh.
4. Du lịch:
Vạn Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh, nổi tiếng nhất là bãi biển Đại Lãnh, được vua Minh Mạng chọn làm biểu tượng khắc vào 1 trong 9 đỉnh đồng đặt trước Thế Miếu (năm 1836). Phía Nam Đại Lãnh có một vùng non nước kỳ thú, được Hiệp hội du lịch thế giới (WTO) và chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đánh giá là khu du lịch nhiệt đới phức hợp với bãi tắm đẹp nhất, một trong những thắng cảnh quyến rũ nhất trong khu vực Châu Á và Viễn Đông: Vịnh Vân Phong, nơi có phần đất vươn ra biển Đông xa nhất nước, có đặc thù của vùng vịnh kín gió, có độ sâu trung bình 20-27 mét, gần đường hàng hải quốc tế đã tạo ra khả năng lớn để khai thác kinh tế cảng biển, cảng chuyển tải quốc tế, dịch vụ thương mại và trong tương lai sẽ hình thành Đặc khu kinh tế.
5. Lịch sử:
Huyện Vạn Ninh trước kia là huyện Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang, được thành lập năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), đến năm 1690, phủ Thái Khang đổi thành phủ Bình Khang gồm 2 huyện Quảng Phước và Tân Định. Năm Gia Long thứ hai (1803) phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Năm Minh Mạng thứ mười hai (1831), phủ Bình Hòa lại đổi thành phủ Ninh Hòa, gồm các tổng: Phước Tường Ngoại, Phước Tường Nội, Phước Thiện, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại, Phước Khiêm.
Sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Pháp đã mở đường 21, nối liền Buôn Ma Thuột với huyện Tân Định và cảng Hòn Khói, nền kinh tế Tân Định trở nên phồn thịnh. Pháp lại đổi tên huyện Tân Định thành phủ Ninh Hòa, cắt 3 tổng của huyện Quảng Phước là Phước Khiêm, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại nhập vào phủ Ninh Hòa (thị xã Ninh Hòa ngày nay). Phủ Ninh Hòa cũ đổi thành huyện Vạn Ninh.
Từ năm 1945 trở về trước, huyện Vạn Ninh có 3 tổng: Phước Tường Nội, Phước Tường Ngoại, Phước Thiện.
Đầu năm 1946, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương thành lập đơn vị hành chính cấp xã, huyện Vạn Ninh thành lập được 8 xã. Phước Thiện có 3 xã: Phước Đông, Phước Trung, Phước Tây; Phước Tường Nội có 3 xã: Đồng Xuân, Đồng Tiến, Đồng Hòa; Phước Tường Ngoại có 2 xã: Liên Hưng, Liên Hiệp.
Đến năm 1956, chính quyền Việt Nam cộng hòa cắt tổng Phước Thiện nhập vào huyện Ninh Hòa.
Năm 1976, Vạn Ninh và Ninh Hòa hợp nhất thành huyện Khánh Ninh. Ngày 23-10-1978, Chính phủ ra Quyết định số 268-CP thành lập thị trấn Vạn Giã. Năm 1979, Khánh Ninh lại được tách ra làm 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh cho đến ngày nay. Tháng 12-1993, Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa IX điều chỉnh ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, thôn Vũng Rô (thuộc xã Đại Lãnh) được tách ra khỏi huyện Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hoà) để sáp nhập vào xã Hoà Xuân, huyện Đông Hòa (tỉnh Phú Yên)
6. Tình hình kinh tế và văn hóa, xã hội
(Số liệu tính đến năm 2012)
Về kinh tế
: Dân cư sống chủ yếu bằng nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp.
Nông nghiệp
: Tổng diện tích gieo trồng hàng năm khoảng 9.338 ha. Tổng sản lượng lương thực ước đạt 54.487 tấn.
Ngư nghiệp
: Sản lượng đánh bắt hàng năm từ 7000 – 7.500 tấn thủy hải sản các loại. Nuôi trồng thủy sản khá phát triển với các loài hải sản có giá trị kinh tế cao như: tôm hùm, cá bóp, cá mú, tôm sú, tôm thẻ chân trắng, ốc hương…
Lâm nghiệp
: Rừng có nhiều gỗ quý cùng các lâm sản khác như gỗ hương, chò, gõ, huỳnh đàn… đặc biệt là Kỳ Nam. Vạn Ninh còn là nơi có nghề truyền thống khai thác trầm kỳ mà dân gian gọi là “đi điệu”..
Công nghiệp – TTCN
: Giá trị sản xuất công nghiệp – TTCN 123,8 tỷ đồng, trong đó sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh 112,3 tỷ đồng.
Tài chính ngân sách
: Tổng thu ngân sách năm 2012 là 55.731 triệu đồng.
Về văn hóa, xã hội:
Vạn Ninh có 99 di tích văn hóa, lịch sử gồm đình làng, chùa, lăng, miếu…Trong đó, có di tích quốc gia như Đình Phú Cang (Vạn Phú), Mũi Đôi – Hòn Đầu.
Về văn hóa dân gian,
hàng năm vào tháng 3 Âm lịch, người dân Vạn Ninh có các lễ hội cúng đình làng cầu cho quốc thái, dân an; lễ hội cầu ngư ở các lăng ông trình diễn nhiều tác phẩm dân ca đậm đà bản sắc văn hóa quê hương như Hò bá trạo, múa dâng bông, múa lục cúng….
7. NHỮNG NHÂN VẬT QUẢNG PHƯỚC ĐƯỢC LƯU DANH TRONG SÁCH ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ – TỈNH KHÁNH HÒA
NGUYỄN XUÂN THỤC
Tự là Diệu Thụy hiệu là Trung Lương, sinh năm 1763 (Quý Mùi) thuộc Tổng Phước Hòa, huyện Quảng Phước, nay là thôn Phước Đa, huyện Ninh Hòa. Có công theo Nguyễn Ánh. Ngay từ năm Gia Long thứ nhất ( 1802), ông đã làm Tham Hiệp Nghệ An, rồi đến Cai Bạ Vĩnh Thạnh, ít lâu sau, được thăng Tham tri Bộ Binh, rồi bổ làm Hiệp trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) được triệu tập về kinh sung chức Phó sứ sơn lăng, chuyển sang hữu Tham tri Bộ Hộ. Sau đó, được điều về Gia Định giữ công việc Bộ Hộ và Bộ Công. Một thời gian, ông về kinh được thăng chức Thượng thư Bộ Binh rồi sang Thượng thư Bộ Lễ. Khi chết, nhà vua rất lấy làm thương tiếc. Năm Tự Đức thứ 12 (1859, được liệt vào thờ đền Hiền Lương.
Hiện nay, con cháu của Ông ở Phước Đa – Ninh Hòa, còn lưu giữ được sắc phong của vua Minh Mạng cử Ông làm Đề Điệu trường thi hương Gia Định, Thừa Thiên, Chánh chủ khảo khoa thi Hội dưới thời vua Minh Mạng.
PHẠM VĂN CHƯ
Người huyện Quảng Phước, có công dưới thời Nguyễn Ánh, làm đến chức Cai Cơ. Năm Tân Dậu (1801), Ông mất ở thành Quy Nhơn, được tặng chức Chưởng Cơ và được thờ ở đền Chiêu Trung.
NGUYỄN VĂN CỐNG
Người huyện Quảng Phước, thời Nguyễn Ánh, lập được nhiều chiến công, khi mất, được tặng Chưởng Cơ và được thờ vào miếu Công thần.
LIỆT NỮ HUỲNH THỊ NGHĨA
Người huyện Quảng Phước sống vào thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) và Thiệu Trị (1841 – 1847). Năm Thiệu Trị thứ tư (1844), Bà được vua khen là người đàn bà can đảm, ít có trên đời và ban thưởng vàng bạc, lụa là cho bà vì đã có công đuổi cọp, cứu chồng.
8. NHỮNG NHÂN VẬT VẠN NINH TRỌNG TỰ ĐIỂN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tổng trấn TRẦN ĐƯỜNG:
Ông Trần Đường – nhà yêu nước chống Pháp sinh năm 1839 tại xã Vạn Lương, huyện Quảng Phước nay là Vạn Ninh. Ông làm quan vào cuối triều Tự Đức. Khi Pháp đánh phá miền Bắc (1873 – 1882). Ông liên hiệp với nhóm Cần Vương ở Khánh Hòa để chống Pháp. Tôn Thất Thuyết biết tiếng ông, rất khen ngợi phong Ông làm Tổng trấn Vạn Ninh cùng với Trịnh Phong lấy địa điểm Dốc Thị (thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng), phía Nam quận lỵ Vạn Ninh 5 cây số, trên đường Quốc lộ 1A, Ông trấn đóng tại đây để chống quân Pháp từ Nha Trang lấn chiếm ra.
Năm 1884, giặc Pháp tiến công mạnh, Vạn Ninh thất thủ, Ông rút lui, cầm cự được ít lâu, thì sa vào tay giặc. Ngày 01/8/1885 (10/6 năm Ất Dậu), Ông bị chém tại Nha Trang, hưởng dương 46 tuổi.
Tham trấn PHẠM CHÁNH:
Ông người làng Hội Khánh, xã Vạn Khánh. Tương truyền Ông học rất giỏi, nhưng không đi thi. Tham gia hưởng ứng phong trào Cần Vương, ông được cử giữ chức Tham trấn trong hàng ngũ đạo quân của Tổng trấn Trần Đường ở quân khu Bắc. Ông anh dũng chiến đấu và hy sinh năm Bính Tuất (1886).
Nhiếp binh PHẠM LONG:
Còn có tên Luông. Ông là con trai trưởng của Phạm Chánh. Tuổi trẻ có chí khí hơn người và lòng dũng cảm, luôn sát cánh bên cha chiến đấu trong hàng ngũ của đội quân Trần Đường.
Hiệp trấn NGUYỄN SUM:
Người làng Hội Khánh, cùng một quê với cha con ông Phạm Chánh. Tính tình trung thực, khẳng khái.
Cả ba ông Phạm Chánh, Phạm Long và Nguyễn Sum được người đời tôn vinh là “Quảng Phước tam hùng”.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tân Hồng
Tên gọi Tân Hồng gợi chúng ta nhớ 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Hồng Ngự
(bao gồm Tân Hồng) ghép với Tân Châu thành huyện Tân Hồng, thuộc tỉnh Long Châu Sa được thành lập vào tháng 6 năm 1951.
Huyện Tân Hồng hiện nay, tương đương với vùng 4 (vùng Tứ Tân) tức vùng sâu Đồng Tháp Mười, vùng biên giới phía bắc của huyện Hồng Ngự cũ, dân cư thưa thớt. Đất đai bị nhiễm phèn nặng, thích hợp cho phát triển cây lúa mùa nổi, đồng cỏ tự nhiên và một phần cây công nghiệp, cây lương thực ngắn ngày. Giao thông chủ yếu bằng đường thủy, mạng lưới giáo dục, y tế rất eo hẹp; đời sống kinh tế- văn hóa của nhân dân còn thấp .
Năm 1989 huyện Tân Hồng chính thức được thành lập, tách ra từ huyện Hồng Ngự. Với 5 xã: Tân Công Chí, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành, An Phước; 5 nông trường quốc doanh và một phần phía Đông xã Bình Thạnh… điều chỉnh thành 8 xã và một thị trấn: Tân Công Chí, Bình Phú, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành A, Tân Thành B, An Phước, Tân Phước và thị trấn Sa Rài.
Diện tích tự nhiên 311km
2
(diện tích canh tác 25.345 ha), dân số 80.832 người. Mật độ 260 người/km
2
[1]
– Đông giáp
tỉnh Long An
– Tây giáp huyện Hồng Ngự (kinh Thống Nhất)
– Nam giáp huyện Tam Nông.
– Bắc giáp Campuchia với đường biên giới chung 19 km.
Đây là vùng tiếp giáp giữa hai loại đất phù sa cổ và phù sa mới. Thế đết thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Trong đó có nhiều giồng cao xuất hiện với độ cao từ 3,5 – 4,3m.
Có thể gọi Tân Hồng là xứ gò. Huyện lỵ đóng ngay trên gò Sa Rài, một gò lớn và trở thành tên chung trong vùng. Gò nổng liền khoảnh phân bố hai chuỗi đông, tây kinh Sa Rài (bưng Sa Rài cũ) chạy suốt từ sông Sở Hạ xuống kinh Hồng Ngự – Vĩnh Hưng. Nếu chận hai đầu bưng Sa Rài sẽ trở thành hồ chứa nước, còn lại rải rác các gò ở phía nam sông Sở Hạ.
Tân Hồng vừa là huyện biên giới vừa là huyện vùng sâu Đồng Tháp Mười: cư dân tại chỗ đa số nghèo vì qua nhiều thời kỳ chiến tranh. Tập quán làm ăn nhàn rỗi từ lâu đời (cây lúa sạ và con cá thiên nhiên), dẫn đến thiếu kinh nghiệm làm lúa 2 vụ.
Các tuyến kinh mới cư dân thưa thớt, thiếu lao động. Hầu hết dân các nơi đến sản xuất vào thời vụ rồi về, chỉ còn số dân nghèo cất chòi, trại lập nghiệp. Nền sản xuất chưa ổn định và hình thành 3 vùng :
– Đất chuyển vụ vừa xong,
– Đất phèn còn hoang hóa,
– Đất phù sa cổ.
Nguồn thu ngân sách chính là thuế nông nghiệp (trước 1989, các xã vùng này còn phải bao cấp). Cơ sở vật chất không đáng kể, chủ yếu có thủy lợi tạo nguồn. Giao thông thủy đóng vai trò quan trọng.
Từ khi tách huyện (1989), Tân Hồng đã chú ý đến các mặt then chốt:
– Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 8,63%/năm; GDP bình quân đầu người đạt 5,24 triệu đồng (gấp 1,41 lần so với năm 2000).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: Khu vực I xuống còn 59%/năm; khu vực II tăng lên 3,31%/năm; khu vực III tăng lên 14,1%/năm.Thế mạnh của huyện là cây lúa, từ đó huyện tập trung lãnh chỉ đạo khai hoang, phục hóa, chuyển vụ, tăng vụ; có chủ trương thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các dịch vụ làm đường nước nội đồng, cung ứng vật tư, làm bờ bao… đã có tác động tích cực đến việc phát triển sản xuất. Cụ thể: Diện tích gieo trồng hàng năm tăng bình quân 3.000 – 4.000 ha; chuyển xong 6.000 ha lúa sóc – lúa mùa (1993); khai hoang 2.100 ha và phục hóa 2.500 ha (1995). Tổng diện tích gieo trồng lúa năm 2005 là 47.510 ha (tăng 4.200ha so với năm 2000), đáng chú ý là diện tích lúa 3 vụ và diện tích lúa chất lượng cao tăng lên; sản lượng đạt 280.013 tấn, nâng lương thực bình quân đầu người lên 3464kg.
– Hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày: 1200 ha (năm1995 chỉ có trên 100 ha), bao gồm mè, bắp lai, dưa hấu, kiệu, mía, nấm rơm… chủ yếu là rau muống lấy hạt, khoai lang và các loại đậu.
– Chăn nuôi: Trâu, bò, heo, gà, vịt, tôm đăng quầng… Đàn trâu chựng lại do đồng cỏ bị thu hẹp và cơ giới đang thay thế dần. Gần đây cá bè, cá hầm (bống tượng, cá lóc)… phát triển mạnh. Cụ thể, trâu: 546 con, bò: 10.000 con (gấp 10 lần năm 2000), heo: 40.000 con (gấp 2,6 lần năm 2000), thuỷ sản: 8.272 tấn (gần gấp 2 lần năm 2000).
– Việc trồng cây tập trung ở biên giới được chú ý và có kết quả, nhưng diện tích còn ít. Những năm lũ liên tiếp (1991,1994,1995,1996 và 2000) làm thiệt hại trên 60% (phải trồng lại). Đến năm 2005 có 40 ha rừng tập trung và.11 triệu cây phân tán ở tuyến lộ, tuyến kinh.
– Tiểu thủ công nghiệp: có 605 cơ sở (tăng 112 cơ sở so với năm 2000), giải quyết việc làm cho 1.520 lao động. Một số ngành nghề truyền thống đ
ư
ợc khôi phục như: nghề làm khô, mắm, bánh đa, mộc gia dụng… Đồng thời, một số nghề mới đ
ư
ợc hình thành: dệt chiếu, đan thảm lục bình, thắt võng, thêu rua…
– Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đổi mới bộ mặt nông thôn và bộ mặt biên giới quốc gia như đào kinh kết hợp với giao thông và gắn liền với bố trí cư dân, kéo điện, phát triển thông tin liên lạc. Nhiều công trình quan trọng như: hoàn thành 29 cụm, tuyến dân cư (đã bố trí được 5.304 hộ/5.525 nền, đạt 96% kế hoạch);dự án sông Sở Hạ, cửa khẩu Dinh Bà; dự án kinh tế-quốc phòng; kiên cố hoá trường, lớp, giao thông nông thôn…Có 7/9 xã đi lại bằng xe 4 bánh trong mùa khô, xe 2 bánh đi đến các xã, ấp. Với 8/9 xã có lưới điện quốc gia kéo đến phục vụ cho việc sản xuất và sinh hoạt. Thông tin bảo đảm liên lạc từ huyện đến xã và phát triển ra hộ dân (đạt 5,25 máy/1000 dân).
– Thương mại-dịch vụ: Khởi đầu, chủ yếu là phát triển cửa hàng ăn uống, dịch vụ văn hóa…, nay theo hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nhân dân, đồng thời có tính đến việc trao đổi hàng hoá qua cửa khẩu biên giới quốc gia. Vì vậy, cửa khẩu Dinh Bà được khai thông: các chợ trung tâm huyện, xã được nâng cấp. Đến nay có 3.695 cơ sở kinh doanh (tăng 1.949 cơ sở so với năm 2000).
– Các thành phần kinh tế hợp tác, tổ hợp tác sản xuất tiếp tục được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động. Toàn huyện có 18 HTX, 183 tổ HTSX, 7 trang trại chăn nuôi và sản xuất lúa.
– Về văn hóa-xã hội:
+ Giáo dục: Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập được đầu tư xây dựng mới (209 phòng học), đắp đường vào trường học nên mùa lũ năm 2004 không có học sinh nghỉ học. Hàng năm, huy động trẻ em vào lớp 1 đạt trên 97
%
, vào lớp 6 đạt 95
%
; tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt từ 67,5
%
(riêng năm học 2004-2005, đạt 41,27
%
); đạt chỉ tiêu xét tuyển vào trung học cơ sở. Tân Hồng được tỉnh công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và duy trì hàng năm; có 2 xã được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở và 2 trường đạt chuẩn quốc gia.
+ Y tế: Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục được duy trì, chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt, 100
%
trạm y tế có bác sĩ phục vụ. Đã đưa vào sử dụng thuyền y tế, máy siêu âm, X quang và có nhiều y cụ khác trị giá hàng tỷ đồng.. Công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc bảo vệ trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên từ 2,13
%
(1995) xuống còn 1,18
%
(2005) và tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em là 20
%
.
– Các hoạt động văn hoá-văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng phong phú, hình thành nhiều mô hình vui chơi giải trí lành mạnh, phục vụ tốt nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần nhân dân. Năm 2005, có 14
%
số người tham gia thể dục thường xuyên và có trên 5
%
số hộ gia đình thể thao. Hàng năm, có trên 80
%
số hộ và 90
%
công sở được công nhận đạt tiêu chuẩn văn hoá.
Các hoạt động văn hóa-văn nghệ, thể dục thể thao… rất sôi nổi. Tuy vậy, nhìn chung đời sống văn hóa nông thôn còn thấp, nếp sống văn hóa chuyển biến chậm.
– Chính sách xã hội: Từ năm 2001- 2005, cất được 279 căn nhà tình nghĩa, 559 căn nhà tình thương, xoá 1.976 căn nhà tạm bợ. Tỉ lệ hộ nghèo từ 22,37
%
(2000) xuống còn 3,05
%
(2005) và có 3 xã thoát nghèo.
Dạy nghề phổ thông cho hơn 1.800 người, giải quyết việc làm cho 1.500 lượt người, xuất khẩu lao động 292 người, đi lao động ngoài huyện trên 1000 lượt người/ năm.
Toàn huyện có trên 80,5
%
số hộ sử dụng nước sạch và 92,37
%
số hộ sử dụng nước sinh hoạt.
Từ đặc điểm tự nhiên và bài học lịch sử để lại, Tân Hồng biết kết hợp các mặt: văn hóa-xã hội, kinh tế-quốc phòng…để trở thành huyện mạnh toàn diện ở tuyến đầu của tỉnh Đồng Tháp.
– Huyện có một số nhân vật – di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh:
Trong kháng chiến chống Mỹ có anh hùng Nguyễn Văn Bảnh (xã Tân Thành A).
Xã Tân Hộ Cơ (được thành lập năm 1947) ghép từ chữ Tân Hộ (khu vực dân cư mới) và tên của ông Nguyễn Văn Cơ (người có công mộ dân khai phá đất vùng này).
Xã Tân Công Chí ghép từ chữ Tân (tên đầu của xã gốc Tân Hộ Cơ) ghép với tên hai chiến sỹ cách mạng trong chống Mỹ là Sáu Tấn Công và Huỳnh Văn Chí (tên thật là Trí)
[2]
Tân Hồng có khá nhiều di tích lịch sử và danh thắng, có di tích mang ý nghĩa nhiều mặt. Những nơi tiêu biểu như: Gò Tàu, gò Công-Ét, gò Tám Ấu (với Phước Hưng Tự), gò Chùa (với Phước Thiên Tự), Thủ cũ Thông Bình, miếu Thiên Địa Hội (xã Thông Bình), miếu Ông Cả Huy (xã Tân Thành A), Giồng Thị Đam, sông Sở Hạ, rạch Cái Cỏ, bào Dông, cầu 72 nhịp, v.v…
|
Giới thiệu khái quát huyện Tân Hồng
Tên gọi Tân Hồng gợi chúng ta nhớ 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Hồng Ngự
(bao gồm Tân Hồng) ghép với Tân Châu thành huyện Tân Hồng, thuộc tỉnh Long Châu Sa được thành lập vào tháng 6 năm 1951.
Huyện Tân Hồng hiện nay, tương đương với vùng 4 (vùng Tứ Tân) tức vùng sâu Đồng Tháp Mười, vùng biên giới phía bắc của huyện Hồng Ngự cũ, dân cư thưa thớt. Đất đai bị nhiễm phèn nặng, thích hợp cho phát triển cây lúa mùa nổi, đồng cỏ tự nhiên và một phần cây công nghiệp, cây lương thực ngắn ngày. Giao thông chủ yếu bằng đường thủy, mạng lưới giáo dục, y tế rất eo hẹp; đời sống kinh tế- văn hóa của nhân dân còn thấp .
Năm 1989 huyện Tân Hồng chính thức được thành lập, tách ra từ huyện Hồng Ngự. Với 5 xã: Tân Công Chí, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành, An Phước; 5 nông trường quốc doanh và một phần phía Đông xã Bình Thạnh… điều chỉnh thành 8 xã và một thị trấn: Tân Công Chí, Bình Phú, Tân Hộ Cơ, Thông Bình, Tân Thành A, Tân Thành B, An Phước, Tân Phước và thị trấn Sa Rài.
Diện tích tự nhiên 311km
2
(diện tích canh tác 25.345 ha), dân số 80.832 người. Mật độ 260 người/km
2
[1]
– Đông giáp
tỉnh Long An
– Tây giáp huyện Hồng Ngự (kinh Thống Nhất)
– Nam giáp huyện Tam Nông.
– Bắc giáp Campuchia với đường biên giới chung 19 km.
Đây là vùng tiếp giáp giữa hai loại đất phù sa cổ và phù sa mới. Thế đết thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Trong đó có nhiều giồng cao xuất hiện với độ cao từ 3,5 – 4,3m.
Có thể gọi Tân Hồng là xứ gò. Huyện lỵ đóng ngay trên gò Sa Rài, một gò lớn và trở thành tên chung trong vùng. Gò nổng liền khoảnh phân bố hai chuỗi đông, tây kinh Sa Rài (bưng Sa Rài cũ) chạy suốt từ sông Sở Hạ xuống kinh Hồng Ngự – Vĩnh Hưng. Nếu chận hai đầu bưng Sa Rài sẽ trở thành hồ chứa nước, còn lại rải rác các gò ở phía nam sông Sở Hạ.
Tân Hồng vừa là huyện biên giới vừa là huyện vùng sâu Đồng Tháp Mười: cư dân tại chỗ đa số nghèo vì qua nhiều thời kỳ chiến tranh. Tập quán làm ăn nhàn rỗi từ lâu đời (cây lúa sạ và con cá thiên nhiên), dẫn đến thiếu kinh nghiệm làm lúa 2 vụ.
Các tuyến kinh mới cư dân thưa thớt, thiếu lao động. Hầu hết dân các nơi đến sản xuất vào thời vụ rồi về, chỉ còn số dân nghèo cất chòi, trại lập nghiệp. Nền sản xuất chưa ổn định và hình thành 3 vùng :
– Đất chuyển vụ vừa xong,
– Đất phèn còn hoang hóa,
– Đất phù sa cổ.
Nguồn thu ngân sách chính là thuế nông nghiệp (trước 1989, các xã vùng này còn phải bao cấp). Cơ sở vật chất không đáng kể, chủ yếu có thủy lợi tạo nguồn. Giao thông thủy đóng vai trò quan trọng.
Từ khi tách huyện (1989), Tân Hồng đã chú ý đến các mặt then chốt:
– Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 8,63%/năm; GDP bình quân đầu người đạt 5,24 triệu đồng (gấp 1,41 lần so với năm 2000).
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: Khu vực I xuống còn 59%/năm; khu vực II tăng lên 3,31%/năm; khu vực III tăng lên 14,1%/năm.Thế mạnh của huyện là cây lúa, từ đó huyện tập trung lãnh chỉ đạo khai hoang, phục hóa, chuyển vụ, tăng vụ; có chủ trương thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các dịch vụ làm đường nước nội đồng, cung ứng vật tư, làm bờ bao… đã có tác động tích cực đến việc phát triển sản xuất. Cụ thể: Diện tích gieo trồng hàng năm tăng bình quân 3.000 – 4.000 ha; chuyển xong 6.000 ha lúa sóc – lúa mùa (1993); khai hoang 2.100 ha và phục hóa 2.500 ha (1995). Tổng diện tích gieo trồng lúa năm 2005 là 47.510 ha (tăng 4.200ha so với năm 2000), đáng chú ý là diện tích lúa 3 vụ và diện tích lúa chất lượng cao tăng lên; sản lượng đạt 280.013 tấn, nâng lương thực bình quân đầu người lên 3464kg.
– Hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày: 1200 ha (năm1995 chỉ có trên 100 ha), bao gồm mè, bắp lai, dưa hấu, kiệu, mía, nấm rơm… chủ yếu là rau muống lấy hạt, khoai lang và các loại đậu.
– Chăn nuôi: Trâu, bò, heo, gà, vịt, tôm đăng quầng… Đàn trâu chựng lại do đồng cỏ bị thu hẹp và cơ giới đang thay thế dần. Gần đây cá bè, cá hầm (bống tượng, cá lóc)… phát triển mạnh. Cụ thể, trâu: 546 con, bò: 10.000 con (gấp 10 lần năm 2000), heo: 40.000 con (gấp 2,6 lần năm 2000), thuỷ sản: 8.272 tấn (gần gấp 2 lần năm 2000).
– Việc trồng cây tập trung ở biên giới được chú ý và có kết quả, nhưng diện tích còn ít. Những năm lũ liên tiếp (1991,1994,1995,1996 và 2000) làm thiệt hại trên 60% (phải trồng lại). Đến năm 2005 có 40 ha rừng tập trung và.11 triệu cây phân tán ở tuyến lộ, tuyến kinh.
– Tiểu thủ công nghiệp: có 605 cơ sở (tăng 112 cơ sở so với năm 2000), giải quyết việc làm cho 1.520 lao động. Một số ngành nghề truyền thống đ
ư
ợc khôi phục như: nghề làm khô, mắm, bánh đa, mộc gia dụng… Đồng thời, một số nghề mới đ
ư
ợc hình thành: dệt chiếu, đan thảm lục bình, thắt võng, thêu rua…
– Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đổi mới bộ mặt nông thôn và bộ mặt biên giới quốc gia như đào kinh kết hợp với giao thông và gắn liền với bố trí cư dân, kéo điện, phát triển thông tin liên lạc. Nhiều công trình quan trọng như: hoàn thành 29 cụm, tuyến dân cư (đã bố trí được 5.304 hộ/5.525 nền, đạt 96% kế hoạch);dự án sông Sở Hạ, cửa khẩu Dinh Bà; dự án kinh tế-quốc phòng; kiên cố hoá trường, lớp, giao thông nông thôn…Có 7/9 xã đi lại bằng xe 4 bánh trong mùa khô, xe 2 bánh đi đến các xã, ấp. Với 8/9 xã có lưới điện quốc gia kéo đến phục vụ cho việc sản xuất và sinh hoạt. Thông tin bảo đảm liên lạc từ huyện đến xã và phát triển ra hộ dân (đạt 5,25 máy/1000 dân).
– Thương mại-dịch vụ: Khởi đầu, chủ yếu là phát triển cửa hàng ăn uống, dịch vụ văn hóa…, nay theo hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nhân dân, đồng thời có tính đến việc trao đổi hàng hoá qua cửa khẩu biên giới quốc gia. Vì vậy, cửa khẩu Dinh Bà được khai thông: các chợ trung tâm huyện, xã được nâng cấp. Đến nay có 3.695 cơ sở kinh doanh (tăng 1.949 cơ sở so với năm 2000).
– Các thành phần kinh tế hợp tác, tổ hợp tác sản xuất tiếp tục được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động. Toàn huyện có 18 HTX, 183 tổ HTSX, 7 trang trại chăn nuôi và sản xuất lúa.
– Về văn hóa-xã hội:
+ Giáo dục: Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập được đầu tư xây dựng mới (209 phòng học), đắp đường vào trường học nên mùa lũ năm 2004 không có học sinh nghỉ học. Hàng năm, huy động trẻ em vào lớp 1 đạt trên 97
%
, vào lớp 6 đạt 95
%
; tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt từ 67,5
%
(riêng năm học 2004-2005, đạt 41,27
%
); đạt chỉ tiêu xét tuyển vào trung học cơ sở. Tân Hồng được tỉnh công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và duy trì hàng năm; có 2 xã được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở và 2 trường đạt chuẩn quốc gia.
+ Y tế: Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục được duy trì, chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt, 100
%
trạm y tế có bác sĩ phục vụ. Đã đưa vào sử dụng thuyền y tế, máy siêu âm, X quang và có nhiều y cụ khác trị giá hàng tỷ đồng.. Công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc bảo vệ trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên từ 2,13
%
(1995) xuống còn 1,18
%
(2005) và tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em là 20
%
.
– Các hoạt động văn hoá-văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng phong phú, hình thành nhiều mô hình vui chơi giải trí lành mạnh, phục vụ tốt nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần nhân dân. Năm 2005, có 14
%
số người tham gia thể dục thường xuyên và có trên 5
%
số hộ gia đình thể thao. Hàng năm, có trên 80
%
số hộ và 90
%
công sở được công nhận đạt tiêu chuẩn văn hoá.
Các hoạt động văn hóa-văn nghệ, thể dục thể thao… rất sôi nổi. Tuy vậy, nhìn chung đời sống văn hóa nông thôn còn thấp, nếp sống văn hóa chuyển biến chậm.
– Chính sách xã hội: Từ năm 2001- 2005, cất được 279 căn nhà tình nghĩa, 559 căn nhà tình thương, xoá 1.976 căn nhà tạm bợ. Tỉ lệ hộ nghèo từ 22,37
%
(2000) xuống còn 3,05
%
(2005) và có 3 xã thoát nghèo.
Dạy nghề phổ thông cho hơn 1.800 người, giải quyết việc làm cho 1.500 lượt người, xuất khẩu lao động 292 người, đi lao động ngoài huyện trên 1000 lượt người/ năm.
Toàn huyện có trên 80,5
%
số hộ sử dụng nước sạch và 92,37
%
số hộ sử dụng nước sinh hoạt.
Từ đặc điểm tự nhiên và bài học lịch sử để lại, Tân Hồng biết kết hợp các mặt: văn hóa-xã hội, kinh tế-quốc phòng…để trở thành huyện mạnh toàn diện ở tuyến đầu của tỉnh Đồng Tháp.
– Huyện có một số nhân vật – di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh:
Trong kháng chiến chống Mỹ có anh hùng Nguyễn Văn Bảnh (xã Tân Thành A).
Xã Tân Hộ Cơ (được thành lập năm 1947) ghép từ chữ Tân Hộ (khu vực dân cư mới) và tên của ông Nguyễn Văn Cơ (người có công mộ dân khai phá đất vùng này).
Xã Tân Công Chí ghép từ chữ Tân (tên đầu của xã gốc Tân Hộ Cơ) ghép với tên hai chiến sỹ cách mạng trong chống Mỹ là Sáu Tấn Công và Huỳnh Văn Chí (tên thật là Trí)
[2]
Tân Hồng có khá nhiều di tích lịch sử và danh thắng, có di tích mang ý nghĩa nhiều mặt. Những nơi tiêu biểu như: Gò Tàu, gò Công-Ét, gò Tám Ấu (với Phước Hưng Tự), gò Chùa (với Phước Thiên Tự), Thủ cũ Thông Bình, miếu Thiên Địa Hội (xã Thông Bình), miếu Ông Cả Huy (xã Tân Thành A), Giồng Thị Đam, sông Sở Hạ, rạch Cái Cỏ, bào Dông, cầu 72 nhịp, v.v…
|
TRẦN ÁI NGHĨA
Trần Ái Nghĩa tên thật : Trần Danh, quê Quảng Nam, sinh ngày 21.12.1954 tại Hội An. Quê nội Gò Nổi (Điện Bàn). Quê ngoại Aí Nghĩa ( Đại Lộc).
Cựu học sinh trường Đại Lộc, Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Trước năm 1975 sinh viên Đại Học Văn Khoa Huế, tham gia phong trào ca hát Học sinh – sinh viên, đặc biệt là phong trào “ Hát cho đồng bào tôi nghe” tại Huế.
Năm 1975 công tác tại Đoàn Văn Công Quảng Đà. Được dự trại Sáng tác Âm Nhạc Miền Trung Trung Bộ (Trại sáng tác Âm nhạc đầu tiên sau ngày miền Nam giải phóng). Năm 1980 được điều động về thành phố Đà Nẵng làm chuyên viên theo dõi phong trào Âm nhạc và Văn nghệ quần chúng.
Uỷ viên Ban chấp hành Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật thành phố Đà Nẵng các nhiệm kỳ Chủ tịch Hội Âm Nhạc Đà Nẵng (Nhiệm kỳ 2013-2018).Chi hội trưởng Nhạc sĩ Việt Nam tại Đà Nẵng (Nhiệm kỳ 2014-2019)
Tốt nghiệp Đại Học Âm Nhạc chuyên ngành Sáng tác( Học viện Âm nhạc Huế). Tốt nghiệp Đại Học Văn Hóa (Trường Đại Học Văn Hoá Hà Nội).
Được kết nạp vào Hội Nhạc sĩ Việt Nam năm 1991.
Đại hội IX Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Nhiệm kỳ 2015-2020) được Đại hội bầu vào Ủy viên ban chấp hành Hội Nhạc sỹ Việt Nam.
Địa chỉ nhà riêng hiện nay: 132 Nguyễn Đăng Đạo, thành phố Đà Nẵng.
Điện thoại: 0834.373.212 – 0911.239.729
Email:
,
Website:
Tác phẩm Ca khúc tiêu biểu
Người con gái Quảng Nam (1975), Phú Ninh hò hẹn mới (1978), Tình xuân (1979), Sông Hàn giọng hát hò khoan (1981), Hát với biển khơi (1985), Nhịp điệu thành phố (1985), Hoa Quỳnh (1986), Biển hát (1991), Đại Lộc quê mình (1995), Tam Kỳ khúc hát yêu thương (1998), Mênh mang sông Hàn (1999), Cung trầm Hội An (2001), Tình yêu Đà Nẵng (2002), Nồng nàn Tây Nguyên (2004), Hình bóng (2005), Hoàng hôn Mỹ Sơn ( Thơ: Hải Nguyên 2006) Ngẫu hứng Măng Đen (Thơ Đặng Ngọc Khoa – 2008), v.v
Tác phẩm khí nhạc tiêu biểu
Giao hưởng thơ: Chuyện tình chim Hải Âu, nội dung dựa theo “Bài thơ tình về chim Hải Âu” của nhà thơ Lưu Trùng Dương. Dàn nhạc giao hưởng Đài Tiếng Nói Việt Nam và Giao Hưởng Viêt Nam phối hợp thu thanh, Chỉ huy NS Lê Đình Lực. 5 Biến tấu cho đàn Piano trên chủ đề Lý Thương nhau ( Dân ca Quảng Nam). Fugue “ Hồi tưởng”và một số Prélud…
Giải thưởng Âm Nhạc Thành phố và Tỉnh
Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 10 năm 1975-1985 tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng.
Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 10 năm 1985-1995 tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng.
Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật lần I (1997-2005) thành phố Đà Nẵng.
Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật lần II (2006-2011)thành phố Đà nẵng.
Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật lần III (2010-2014)thành phố Đà nẵng.
Và một số giải thưởng khác của các ngành, địa phương trong và ngoài TP.
Giải thưởng Hội Nhạc Sĩ Việt Nam
Khúc hát bạn bè 1987 (giải khuyến khích).
Biển hát 1996 (giải ba).
Hương từ biển 1997 (giải tư) Lời phỏng thơ Ngân Vịnh.
Mênh mang sông Hàn 1999 (giải tư) .
Trường Sa nhớ ! 2002 (giải tư) Phổ thơ Hồng Hà.
Cung trầm Hội An 2003 (giải ba).
Hoàng hôn Mỹ Sơn 2007(giải khuyến khích) Thơ Hải Nguyên.
Ngẫu hứng Măng Đen 2009 (giải Khuyến khích) Thơ Đặng Ngọc Khoa.
Hạnh phúc thầm lặng 2010 (giải khuyến khích) Hội NSVN & Bộ CA
Bên này- Bên kia núi 2014 ( Giải khuyến khích) Lời thơ viết cùng Trần Trình Lãm
Đà Nẵng là bài hát hay 2015 ( Giải C )
Giải thưởng Liên Hiệp VHNT Việt Nam & Bộ Văn Hoá T.Tin
Nỗi nhớ trước biển 2002 (giải C) Phổ thơ Hồng Hà.
Đà Lạt có em 2003 (giải B).
Nồng Nàn Tây Nguyên 2005 (giải C 2005). í thơ Trần Trúc Tâm.
Giải thưởng các ngành khác:
Đồng đội tôi 2008 (giải 3) Tập đoàn Dầu Khí Vietsovpetro) Thơ: Đặng Xuân Mộc.
Đồng đội tôi 2008 (giải 3) Tổng Liên Đoàn Lao Động VN.
Bài ca Bảo Việt 2008 (giải kk) Tổng Liên Đoàn LĐ VN.
Bài ca tình đất – tình người 2014 ( Giải nhất ) Tập đoàn Công nghiệp Cao su VN )
Huy chương & Tặng thưởng khác
Huy chương vì sự nghiệp Văn Hoá Thông Tin (Bộ VHTT tặng 2001).
Huy chương vì sự nghiệp Âm Nhạc (Hội Nhạc Sĩ Việt Nam tặng 2004).
Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn Hoá Tư Tưởng (Ban Văn Hoá Tư Tưởng Trung Ương tặng 2006).
Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Văn học –Nghệ thuật Việt Nam ( 2016)
Xuân nghĩa tình – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa
2. Allbum Trần Ái Nghĩa ( 22 ca khúc )
3. Vu Gia gõ mạn thuyền ta hát – Nhạc: Trần Ái Nghĩa , Thơ : Bùi Xuân
• VIDEO
1. Tiếng chuông – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, tác giả trình bày
2. Đại Lộc quê mình – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ca sĩ Quỳnh Nga
3. Hình bóng – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, tác giả trình bày.
4.Mênh mang sông Hàn – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ( Karaoke)
5. Tình yêu Đà Nẵng – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa ( Karaoke)
6. Tình yêu Đà nẵng – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ca sĩ Nguyễn Ngọc Anh
7. Tình yêu Đà Nẵng – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ca sĩ Huyền Trang
8. Tình yêu Đà Nẵng – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa (Karaoke)
9. Mẹ ơi ! – Nhạc: Trần Ái Nghĩa, Thơ: Nguyễn Công Khế , ca sĩ Phương Thanh
10. Đưa em về Chiêm Hóa – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ca sĩ Thanh Yên
11. Biển thiên thần của em, Nhạc: Trần Ái Nghĩa, Thơ: Nguyễn Thị Phượng, ca sĩ : Thùy Dung
12. Phú Ninh, ngày trở lại – Sáng tác & trình bày: Trần Ái Nghĩa
13. Đà Nẵng của tôi – Nhạc Trần Ái Nghĩa, thơ: Nguyễn Thị Phượng, ca sĩ Thanh Yên.
14. Hòa Vang một chấm son , Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ca sĩ Mỹ Nương
15. Em có về Đà Nẵng cùng anh – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa ( Karaoke)
16. Tam Kỳ khúc hát yêu thương – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa ( Karaoke)
17. Nguồn sáng Vĩnh Hà – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, cs Thanh Yên, Mỹ Phượng
18. Ngẫu hứng Măng Đen – Nhạc: Trần Ái Nghĩa, Thơ: Đặng Ngọc Khoa (Karaoke)
19. Nhịp điệu thành phố – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, CS Hồ Quỳnh Hương, ( Karaoke)
20. Cảm xúc Tam Kỳ – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa – CS Lan Phương
21. Nồng nàn Tây Nguyên – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, ý thơ: Trúc Tâm
22. Sắc màu Đà Nẵng – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, Mỹ Linh
23. Đêm Trường Sa nhớ ! Nhạc: Trần Ái Nghĩa, thơ: Nguyễn Thị Phượng, CS Trọng Tấn, Đăng Dương, Việt Hoàn
24. Đà Lạt có em – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa, CS Thanh Nga
25. Hoàng hôn Mỹ Sơn – Nhạc Trần Ái Nghĩa, thơ: Hải Nguyên, CS Mỹ Nương
26. Tam Kỳ khúc hát yêu thương – Sáng tác Trần Ái Nghĩa, CS Thu Hiền
27. Vân vi đàn cầm – Nhạc : Trần Ái Nghĩa, thơ: Đặng Ngọc Khoa, tác giả hát
28. Giới thiệu tác phẩm mới Hoàng hôn Mỹ Sơn – Trần Ái Nghĩa + Hải Nguyên
29. Tam Kỳ khúc hát yêu thương – Sáng tác: Trần Ái Nghĩa – CS Thanh Trà
30. Hải Phòng yêu thương – Nhạc : Trần Ái Nghĩa, thơ: Nguyễn Thị Phượng, CS NSUT Lương Huy.
31. Chuyện tình bà Chúa Tằm Tang _ Sáng tác : Trần Ái Nghĩa, Ca sỹ Vân Khánh + Quốc Đại, Phối khí : Vy Nhật Tảo
32. Giao hưởng thơ : Chuyện tình chim hải âu
Nhạc sĩ
Trần Ái Nghĩa
Ủy viên BCH Hội Nhạc sĩ Việt Nam
Chi hội trưởng Nhạc sĩ Việt Nam tại TP Đà Nẵng
|
TRAN AI NGHIA
Tran Ai Nghia real name: Tran Danh, from Quang Nam, born on December 21, 1954 in Hoi An. His hometown is Go Noi (Dien Ban). Ai Nghia's maternal hometown (Dai Loc).
Former student of Dai Loc School, Phan Chau Trinh School, Da Nang. Before 1975, students of Hue University of Literature participated in the Student singing movement, especially the "Sing for my people" movement in Hue.
In 1975, he worked at Doan Van Cong Quang Da. Attended the Central Region Music Composition Camp (The first Music Composition Camp after the liberation of the South). In 1980, he was transferred to Da Nang city to work as a specialist in monitoring the mass music and arts movement.
Member of the Executive Committee of the Union of Literary and Arts Associations of Da Nang city for the term of President of the Da Nang Music Association (Term 2013-2018). Head of the Vietnamese Musicians Association in Da Nang (Term 2014- 2019)
Graduated from the University of Music, majoring in Composition (Hue Academy of Music). Graduated from University of Culture (Hanoi University of Culture).
Admitted to the Vietnam Musicians Association in 1991.
The 9th Congress of the Vietnam Musicians Association (Term 2015-2020) was elected by the Congress to be a member of the Executive Committee of the Vietnam Musicians Association.
Current home address: 132 Nguyen Dang Dao, Da Nang city.
Phone: 0834.373.212 – 0911.239.729
Email:
,
Website:
Featured Song Works
The Girl of Quang Nam (1975), Phu Ninh New Date (1978), Spring Love (1979), Song Han with a Drill Voice (1981), Singing with the Sea (1985), Rhythm of the City (1985), Hoa Quynh (1986), Singing Sea (1991), Dai Loc, My Hometown (1995), Tam Ky Khuc Loving Song (1998), The vast Han River (1999), Hoi An Agarwood Palace (2001), Da Nang Love (2002), Central Highlands Passion (2004), Silhouette (2005), My Son Sunset (Poetry: Hai Nguyen 2006) Impromptu Mang Den (Poetry Dang Ngoc Khoa – 2008), etc.
Typical instrumental works
Poetry Symphony: Love Story of the Seagull, content based on "Love poem about the Seagull" by poet Luu Trung Duong. The Voice of Vietnam Symphony Orchestra and the Vietnam Philharmonic coordinated the recording, conducted by Artist Le Dinh Luc. 5 Variations for piano on the theme Ly Thuong Nhu (Quang Nam folk song). Fugue “Flashback” and some Prélud…
City and Provincial Music Awards
10-year Literature and Art Award 1975-1985, Quang Nam Da Nang province.
10-year Literature and Arts Award 1985-1995, Quang Nam Da Nang province.
First Literature and Art Award (1997-2005) Da Nang city.
Second Literature and Art Award (2006-2011) in Da Nang city.
Third Literature and Arts Award (2010-2014) in Da Nang city.
And a number of other awards from industries and localities inside and outside the city.
Vietnam Musicians Association Award
Friends song 1987 (consolation prize).
Singing Sea 1996 (third prize).
Perfume from the sea 1997 (fourth prize) Interview with Ngan Vinh's poetry.
The vast Han River 1999 (fourth prize).
Remember Truong Sa! 2002 (fourth prize) Hong Ha poetry collection.
Hoi An Agarwood Palace 2003 (third prize).
My Son Sunset 2007 (consolation prize) Hai Nguyen's poetry.
Impromptu Mang Den 2009 (Encouragement award) Dang Ngoc Khoa's poetry.
Silent Happiness 2010 (consolation prize) Vietnam Artists' Association & Ministry of Public Security
This side - That side of the mountain 2014 (Encouragement award) Poem written with Tran Trinh Lam
Da Nang is a good song of 2015 (Award C)
Vietnam Federation of Culture and Arts Award & Ministry of Culture T.News
Nostalgia before the sea 2002 (C prize) Hong Ha poetry collection.
Da Lat had me in 2003 (B prize).
Passionate Central Highlands 2005 (Award C 2005). Tran Truc Tam's poetry.
Other industry awards:
My teammate 2008 (3rd prize) Vietsovpetro Oil and Gas Group) Poetry: Dang Xuan Moc.
My teammate 2008 (3rd prize) Vietnam General Confederation of Labor.
Bao Viet Song 2008 (kk prize) Vietnam General Confederation of Labor.
Song of land love - love of people 2014 (First prize) Vietnam Rubber Industry Group)
Medals & Other Awards
Medal for the cause of Culture and Information (awarded by the Ministry of Culture and Information in 2001).
Medal for the cause of Music (awarded by the Vietnam Musicians Association in 2004).
Medal for the cause of Culture and Thought (awarded by the Central Committee for Culture and Ideology in 2006).
Medal for the cause of Vietnamese Literature and Arts (2016)
Spring of love - Composer: Tran Ai Nghia
2. Album Tran Ai Nghia (22 songs)
3. Vu Gia knocks on the side of the boat and we sing - Music: Tran Ai Nghia, Poetry: Bui Xuan
• VIDEO
1. Bell sound - Composed by: Tran Ai Nghia, presenting author
2. My hometown Dai Loc - Composer: Tran Ai Nghia, singer Quynh Nga
3. Silhouette - Composed by: Tran Ai Nghia, presenting author.
4. The immense Han River – Composer: Tran Ai Nghia, (Karaoke)
5. Love from Da Nang – Composer: Tran Ai Nghia (Karaoke)
6. Da Nang Love – Composer: Tran Ai Nghia, singer Nguyen Ngoc Anh
7. Love from Da Nang – Composer: Tran Ai Nghia, singer Huyen Trang
8. Love from Da Nang – Composer: Tran Ai Nghia (Karaoke)
9. Mom! – Music: Tran Ai Nghia, Poetry: Nguyen Cong Khe, singer Phuong Thanh
10. Take me back to Chiem Hoa - Composer: Tran Ai Nghia, singer Thanh Yen
11. My Sea of Angels, Music: Tran Ai Nghia, Poetry: Nguyen Thi Phuong, singer: Thuy Dung
12. Phu Ninh, the day of return – Composed & performed by: Tran Ai Nghia
13. My Da Nang – Music by Tran Ai Nghia, poetry: Nguyen Thi Phuong, singer Thanh Yen.
14. Hoa Vang a Dot of Lipstick, Composer: Tran Ai Nghia, singer My Nuong
15. I went back to Da Nang with you – Composer: Tran Ai Nghia (Karaoke)
16. Tam Ky song of love – Composer: Tran Ai Nghia (Karaoke)
17. Vinh Ha light source - Composed by: Tran Ai Nghia, collaborator Thanh Yen, My Phuong
18. Impromptu Mang Den – Music: Tran Ai Nghia, Poetry: Dang Ngoc Khoa (Karaoke)
19. Rhythm of the City – Composed by: Tran Ai Nghia, CS Ho Quynh Huong, (Karaoke)
20. Tam Ky Emotions – Composer: Tran Ai Nghia – CS Lan Phuong
21. Passionate Central Highlands – Author: Tran Ai Nghia, poetic intention: Truc Tam
22. Colors of Da Nang – Composed by: Tran Ai Nghia, My Linh
23. Remember Truong Sa night! Music: Tran Ai Nghia, poetry: Nguyen Thi Phuong, communist Trong Tan, Dang Duong, Viet Hoan
24. Da Lat has you - Composed by: Tran Ai Nghia, CS Thanh Nga
25. My Son Sunset - Music by Tran Ai Nghia, poetry: Hai Nguyen, Communist My Nuong
26. Tam Ky song of love - Composed by Tran Ai Nghia, Communist Thu Hien
27. Van vi harp – Music: Tran Ai Nghia, poetry: Dang Ngoc Khoa, sung by the author
28. Introducing the new work My Son Sunset – Tran Ai Nghia + Hai Nguyen
29. Tam Ky song of love - Composer: Tran Ai Nghia - Communist Thanh Tra
30. Loving Hai Phong – Music: Tran Ai Nghia, poetry: Nguyen Thi Phuong, Artist Luong Huy.
31. Love Story of the Silkworm Lord _ Composer: Tran Ai Nghia, Singer Van Khanh + Quoc Dai, Arrangement: Vy Nhat Tao
32. Symphony of poems: Seagull love story
Musician
Tran Ai Nghia
Member of the Executive Committee of the Vietnam Musicians Association
Head of the Vietnamese Musicians Association in Da Nang City
|
VŨ DƯƠNG
Năm sinh / Date of birth: 1948
Quê quán / Home town: Thừa Thiên Huế
Địa chỉ: 235 Huỳnh Tấn Phát, Quận Hải Châu, Tp Đà Năng. Address: 235 Huynh Tan Phat St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 510 3222 Email:
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Phó tổng Thư ký – Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2002-2007.
Triển lãm:
– 4 lần triển lãm mỹ thuật cá nhân tại: Tp Đà Nẵng và Tp Hồ Chí Minh.
– Tham gia thường xuyên triển lãm mỹ thuật Toàn quốc,triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên.
– Đã triển lãm nước ngoài: Đan Mạch, Pháp, Hồng Kong, Philipin, Singapore.
Khen thưởng:
– Được tặng nhiều giải thưởng của Hội Mỹ thuật Việt Nam và của Tp Đà Nẵng.
– Được trao tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiêp Mỹ thuật Việt Nam và Kỷ niệm chương Vi sự nghiêp VHNT Việt Nam.
Sưu tập: Có tranh sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Viêt Nam;
Hội Mỹ thuật Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng.
Vũ Dương
Khát vọng xanh / Green aspiration.
2017
Sơn dầu / Oil on canvas
240cm x 120cm
Vũ Dương
Cảng biển II / Seaport II.
2015 Sơn dầu / Oil on canvas
120cm x 250cm
Vũ Dương
Ngựa và biển / Horses and sea
. 2008 Sơn dầu / Oil on canvas
80cm x 120cm
Tranh sưu tập Hội Mỹ thuật Việt Nam
|
VU DUONG
Date of birth: 1948
Hometown / Home town: Thua Thien Hue
Address: 235 Huynh Tan Phat, Hai Chau District, Da Nang City. Address: 235 Huynh Tan Phat St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 510 3222 Email:
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Deputy General Secretary – Chairman of the Art Council of Da Nang Fine Arts Association, term 2002-2007.
Exhibition:
– 4 individual art exhibitions in: Da Nang City and Ho Chi Minh City.
– Regularly participate in national art exhibitions, regional art exhibitions in the South Central region and Central Highlands.
– Has exhibited abroad: Denmark, France, Hong Kong, Philippines, Singapore.
Bonus:
– Received many awards from the Vietnam Fine Arts Association and Da Nang City.
– Awarded the Medal for the cause of Vietnamese fine arts and the medal for the cause of Vietnamese culture and art.
Collection: There are paintings collected at the Vietnam Fine Arts Museum;
Vietnam Fine Arts Association and Da Nang Fine Arts Museum.
Vu Duong
Green aspiration / Green aspiration.
2017
Oil paint / Oil on canvas
240cm x 120cm
Vu Duong
Seaport II / Seaport II.
2015 Oil painting / Oil on canvas
120cm x 250cm
Vu Duong
Horses and sea / Horses and sea
. 2008 Oil on canvas
80cm x 120cm
Painting collected from the Vietnam Fine Arts Association
|
HOÀNG ĐẶNG
(Hoàng Công Văn)
Năm sinh / Date of birth: 1951
Quê quán / Home town: Huế
Địa chỉ: 54/12 Ông Ích Khiêm, thành phố Đà Nẵng. Address: 54/12 Ong Ich Khiem St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 351 0648 Email:
– Đã từng học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế (nay là Trường Đại học Nghệ thuật Huế).
Graduated from Hue College of Arts.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Ủy viên Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2014-2018.
Triển lãm:
– Tham gia triển lãm mỹ thuật Toàn quốc; triển lãm khu vực Nam Miền Trung và Tây nguyên.
– Triển lãm cá nhân tại Đà Nẵng 1987.
– Triển lãm cá nhân tại Ireland 2006.
– Triển lãm cá nhân tại Hoa Kỳ 2009.
Sưu tập:
– Có tác phẩm sưu tập trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam; Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng.
Hoàng Đặng
Nắng thu bên sông Hàn /
Sơn dầu / Oil on canvas
100cm x 120cm Sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng – 2014
Hoàng Đặng
Mỹ Sơn / My Son.
2016 Sơn dầu / Oil on canvas 100cm x 140cm
Sưu tập riêng của tác giả
Hoàng Đặng
Đồng muối bạc / White salt field
Sơn dầu / Oil on canvas
100cm x 140cm Giải II – Giải thưởng VHNT Đà Nẵng – 2013
Sưu tập riêng của tác giả
|
HOANG DANG
(Hoang Cong Van)
Date of birth: 1951
Hometown / Home town: Hue
Address: 54/12 Ong Ich Khiem, Da Nang city. Address: 54/12 Ong Ich Khiem St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 351 0648 Email:
– Studied at Hue College of Fine Arts (now Hue University of Arts).
Graduated from Hue College of Arts.
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Member of the Arts Council of Da Nang Fine Arts Association, term 2014-2018.
Exhibition:
– Participate in national art exhibitions; exhibition for the South Central and Central Highlands regions.
– Personal exhibition in Da Nang 1987.
– Solo exhibition in Ireland 2006.
– Solo exhibition in the United States 2009.
Collect:
– Has works collected in the Vietnam Fine Arts Museum; Da Nang Museum of Fine Arts.
Hoang Dang
Autumn sunshine on the Han River /
Oil paint / Oil on canvas
100cm x 120cm Collected at Da Nang Museum of Fine Arts – 2014
Hoang Dang
My Son / My Son.
2016 Oil painting / Oil on canvas 100cm x 140cm
Author's private collection
Hoang Dang
Silver salt field / White salt field
Oil paint / Oil on canvas
100cm x 140cm Prize II – Danang Cultural and Arts Award – 2013
Author's private collection
|
THÂN TRỌNG DŨNG
Năm sinh / Date of birth: 1968
Quê quán / Home town: Điện Bàn, Quảng Nam. Địa chỉ: 216 Phan Trọng Tuệ, thành phố Đà Nẵng. Address: 216 Phan Trọng Tue St., Da Nang City.
Điện thoại / Tel: 090 646 0005 Email:
– Tốt nghiệp Đại học Nghệ thuật Huế năm 1992.
Graduated from Hue College of Arts in 1992.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Hội viên Hội Mỹ thuật Đà Nẵng.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Ủy viên Ban kiểm tra Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2007-2012.
– Ủy viên Hội đồng Nghệ thuật Hội Mỹ thuật Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2014-2018.
Triển lãm và giải thưởng:
– Tham gia triển lãm mỹ thuật toàn quốc; triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên; triển lãm mỹ thuật do Hội mỹ thuật Đà Nẵng tổ chức.
– Có giải thưởng mỹ thuật khu vực và địa phương.
Sưu tập: Có tranh sưu tập tại Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng và các nhà sưu tập trong và ngoài nước.
Thân Trọng Dũng
Chuyện của biển / The story of the sea
. 2016
Sơn dầu / Oil on canvas
120cm x 100cm
Thân Trọng Dũng
Ký ức Trường Sa / Memory of Truongsa.
2015
Sơn dầu / Oil on canvas
145cm x 155cm Tặng thưởng – Triển lãm mỹ thuật khu vực Nam Miền Trung và Tây Nguyên – 2015
Thân Trọng Dũng
Trái tim Việt / Vietnamese hearts
. 2017 Sơn dầu / Oil on canvas
155cm x 145cm
|
DEAR COURAGE
Date of birth: 1968
Hometown / Home town: Dien Ban, Quang Nam. Address: 216 Phan Trong Tue, Da Nang city. Address: 216 Phan Trong Tue St., Da Nang City.
Phone / Tel: 090 646 0005 Email:
– Graduated from Hue University of Arts in 1992.
Graduated from Hue College of Arts in 1992.
– Member of Vietnam Fine Arts Association.
Member of Vietnam Fine Arts Association.
– Member of Da Nang Fine Arts Association.
Member of Danang Fine Arts Association.
– Member of the Inspection Committee of the Da Nang Fine Arts Association, term 2007-2012.
– Member of the Arts Council of Da Nang Fine Arts Association, term 2014-2018.
Exhibitions and awards:
– Participate in national art exhibitions; art exhibition of the South Central and Central Highlands regions; Art exhibition organized by Da Nang Fine Arts Association.
– There are regional and local art awards.
Collection: There are paintings collected at the Da Nang Museum of Fine Arts and domestic and foreign collectors.
Than Trong Dung
The story of the sea / The story of the sea
. 2016
Oil paint / Oil on canvas
120cm x 100cm
Than Trong Dung
Memory of Truong Sa / Memory of Truongsa.
2015
Oil paint / Oil on canvas
145cm x 155cm Award – Fine art exhibition in the South Central and Central Highlands region – 2015
Than Trong Dung
Vietnamese hearts / Vietnamese hearts
. 2017 Oil painting / Oil on canvas
155cm x 145cm
|
Đã xác định danh mục gần 12.000 loài sinh vật biển Việt Nam
Việt Nam có dải bờ biển trên 3.260 km, diện tích trên 1 triệu km2, hằng năm đem lại nguồn lợi trên 2 triệu tấn trong số hơn 90 triệu tấn hải sản của thế giới, đồng thời cũng là hệ sinh thái rất đặc thù và được đánh giá là một trong 16 trung tâm đa dạng sinh học cao của thế giới.
Theo PGS.TS. Đỗ Công Thung, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, trải qua 3 giai đoạn phát triển (trước năm 1954, từ năm 1954-1975 và từ năm 1976 đến nay), công tác điều tra, nghiên cứu biển Việt Nam đã không ngừng gặt hái được những thành quả đáng kể.
Việt Nam đã xác định được danh mục gần 12.000 loài sinh vật biển.
Đặc biệt là giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất, tình hình nghiên cứu biển nói chung và nguồn lợi sinh vật biển nói riêng đã có những bước tiến khá mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu tổng thể về hệ sinh thái biển đã xây dựng bức tranh có hệ thống về đặc điểm điều kiện tự nhiên của dải ven biển, cung cấp khá hoàn chỉnh những quy luật cơ bản về vật lý biển và hóa học biển, phân bố và biến động của các hệ sinh thái cơ bản biển Việt Nam như hệ sinh thái cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá, rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi triều lầy ven biển… Đây là cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chính trị-ngoại giao và an ninh-quốc phòng vùng biển, đặc biệt là kế hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái và bảo tồn biển ở các tỉnh ven biển Việt Nam.
Cùng với các nghiên cứu tổng thể về hệ sinh biển, các nhà khoa học cũng đã có những nghiên cứu cơ bản về tiềm năng tài nguyên sinh vật biển. Kết quả đáng chú ý là đã xác định được danh mục gần 12.000 loài sinh vật biển Việt Nam, bao gồm cả động và thực vật. Các nghiên cứu đã chứng minh nguồn lợi hải sản Việt Nam phong phú đa dạng bao gồm khoảng trên 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy, 653 loài tảo, 5 loài rùa, 12 loài rắn biển…
Trong đó, có một số nhóm sinh vật biển có giá trị kinh tế quan trọng như cá, tôm, mực… đã được xác định khu vực phân bố, trữ lượng và khả năng khai thác. Trữ lượng cá đáy và cá nổi khoảng 3-3,5 triệu tấn với khả năng khai thác khoảng 1,5-1,7 triệu tấn.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đa dạng hóa về sản phẩm biển đang là hướng đi rất tích cực, nhằm giảm bớt áp lực lên các đối tượng khai thác truyền thống. Ngoài ra, việc thường xuyên nghiên cứu, biên tập Sách Đỏ Việt Nam cũng góp phần đáng kể vào việc bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển.
Đặc biệt, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học biển bảo vệ tài nguyên biển đã đạt được những kết quả khả quan. Một số biện pháp sử dụng các loài sinh vật có ích để bảo vệ môi trường cho từng khu vực hẹp đã bắt đầu có hiệu lực.
Các nhà nghiên cứu cũng thường xuyên chú ý đến việc đánh giá mức suy giảm nguồn lợi ven bờ và các nguy cơ đe dọa đến tài nguyên sinh vật, hủy hoại các hệ sinh thái biển Việt Nam…
Trên cơ sở điều tra, nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra những đề xuất nhằm bảo tồn đa dạng nguồn tài nguyên biển. Năm 2010 Chính phủ đã chính thức phê duyệt 16 khu bảo tồn biển là: Đảo Trần, đảo Cô Tô, đảo Cát Bà, đảo Bạch Long Vỹ, hòn Mê, đảo Cồn Cỏ, Hải Vân – Sơn Trà, Cù Lao Chàm, đảo Lý Sơn, Nam Yết, vịnh Nha Trang, núi Chúa, hòn Cau, đảo Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc. Đây là minh chứng cho sự kết hợp giữa khoa học và quản lý đã mang lại những lợi ích thiết thực.
Đánh giá chính xác tổng trữ lượng nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam
Đề cập về định hướng nghiên cứu sinh vật biển Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020, PGS.TS. Đỗ Công Thung cho rằng, các kết quả nghiên cứu hệ sinh thái, tài nguyên sinh vật biển trong thời gian qua đã và đang khẳng định ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Đó là cơ sở khoa học phục vụ cho việc hoạch định khai thác, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch sinh thái, bảo tồn biển và an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh hải Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển trong nhiều năm qua cũng còn một số tồn tại cần khắc phục như: Định hướng nghiên cứu mới chỉ tập trung vào vùng nước ven bờ mà ít có những nghiên cứu vùng biển xa bờ; phần lớn các nghiên cứu mang tính cục bộ cho từng khu vực và chưa đồng bộ…
Với mục tiêu phấn đấu trong 5 năm tới có thể vươn ra nghiên cứu đại dương, 10 năm tới đạt trình độ nghiên cứu sinh học biển ngang tầm khu vực và có những chuyên ngành ngang tầm các nước tiên tiến, các nhà khoa học Việt Nam hiện đang nỗ lực tăng cường đội ngũ cán bộ, mở rộng hợp tác quốc tế, đầu tư trang thiết bị, tập trung hướng đến nghiên cứu toàn diện các vùng biển lớn.
Trong đó, công tác điều tra, nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển phải đi trước một bước. Quan trọng nhất là đánh giá đầy đủ, chính xác tổng trữ lượng nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam, chú trọng đến nguồn lợi sinh vật vùng biển xa bờ như Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ, vịnh Bắc Bộ… và chú trọng bổ sung nhằm đa dạng hóa nguồn tài nguyên biển như tài nguyên sinh vật có giá trị dược liệu, tài nguyên sinh vật ở các vùng biển sâu, tài nguyên sinh vật có giá trị kinh tế cao như thân mềm, giáp xác, da gai…
Đó là cơ sở để các nhà khoa học nghiên cứu xây dựng bản đồ ngư trường đánh bắt thủy sản theo mùa và quy hoạch, quản lý tài nguyên biển theo vùng lãnh thổ, phục vụ hoạch định chiến lược khai thác tài nguyên biển.
Đồng thời, việc đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học vào bảo vệ tài nguyên và môi trường biển như xây dựng các khu bảo tồn biển, các mô hình phục hồi các hệ sinh thái, mô hình bảo vệ nguồn lợi… cũng là một việc làm quan trọng cần quan tâm thỏa đáng.
Trên cơ sở các thành quả đã đạt được trong những năm qua, ngành nghiên cứu tài nguyên môi trường biển hiện đang tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành liên quan đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm khắc phục những hạn chế, thiết thực góp phần vào việc khai thác, sử dụng hợp lý, bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá do vị trí địa chính trị, địa kinh tế vô cùng quan trọng của Biển Đông mang lại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế-xã hội đất nước.
|
Nearly 12,000 Vietnamese marine species have been identified
Vietnam has a coastline of over 3,260 km, an area of over 1 million square kilometers, annually bringing in over 2 million tons of the world's more than 90 million tons of seafood, and is also a very unique ecosystem. is considered one of the 16 centers of high biodiversity in the world.
According to Associate Professor, PhD. Do Cong Thung, Institute of Marine Resources and Environment, through 3 stages of development (before 1954, from 1954-1975 and from 1976 to present), the investigation and research of Vietnam's sea has not stopped. reaped significant results.
Vietnam has identified nearly 12,000 marine species.
Especially in the period since the country's reunification, the situation of marine research in general and marine biological resources in particular has made quite strong progress in both quantity and quality.
Comprehensive research on marine ecosystems has built a systematic picture of the natural condition characteristics of the coastal strip, providing quite complete basic laws of marine physics and marine chemistry, distribution and fluctuations in basic Vietnamese marine ecosystems such as estuarine ecosystems, mangrove forests, lagoons, coral reefs, seagrass beds, coastal tidal flats... This is an important basis for establishing Socio-economic, political-diplomatic and security-defense development plans for coastal areas, especially plans to develop aquaculture, eco-tourism and marine conservation in Vietnam's coastal provinces Male.
Along with comprehensive research on marine life systems, scientists have also conducted basic research on the potential of marine biological resources. The remarkable result is that nearly 12,000 species of Vietnamese marine life have been identified, including both animals and plants. Studies have proven that Vietnam's seafood resources are rich and diverse, including over 2,000 species of fish, nearly 6,000 species of benthic animals, 653 species of algae, 5 species of turtles, 12 species of sea snakes...
Among them, there are a number of groups of marine organisms with important economic value such as fish, shrimp, squid... whose distribution areas, reserves and exploitation capabilities have been determined. Reserves of bottom and pelagic fish are about 3-3.5 million tons with exploitation capacity of about 1.5-1.7 million tons.
In addition, research into diversification of marine products is a very positive direction, to reduce pressure on traditional exploiters. In addition, regularly researching and editing the Vietnam Red Book also contributes significantly to protecting marine resources.
In particular, research into the application of marine biotechnology to protect marine resources has achieved positive results. A number of measures to use beneficial species to protect the environment for each narrow area have begun to take effect.
Researchers also regularly pay attention to assessing the decline in coastal resources and threats to biological resources and destruction of Vietnam's marine ecosystems...
Based on investigation and research, scientists have made proposals to conserve a variety of marine resources. In 2010, the Government officially approved 16 marine protected areas: Tran Island, Co To Island, Cat Ba Island, Bach Long Vy Island, Hon Me, Con Co Island, Hai Van – Son Tra, Cu Lao Cham, Ly Son, Nam Yet, Nha Trang Bay, Chua Mountain, Cau Island, Phu Quy Island, Con Dao, Phu Quoc. This is proof that the combination of science and management has brought practical benefits.
Accurately assess the total reserves of Vietnam's marine resources
Mentioning the orientation of marine biology research in Vietnam with a vision to 2020, Associate Professor, PhD. Do Cong Thung said that the results of research on ecosystems and marine resources in recent times have been affirming their scientific and practical significance. It is the scientific basis for planning exploitation, aquaculture, eco-tourism development, marine conservation and national defense and security, and protecting Vietnam's territorial waters.
However, research on marine biological resources over the years still has some shortcomings that need to be overcome such as: New research orientation only focuses on coastal waters with little research on offshore waters. ; Most of the research is local to each region and not synchronized...
With the goal of striving in the next 5 years to be able to expand ocean research, in the next 10 years to reach a marine biology research level on par with the region and have majors on par with advanced countries, Vietnamese scientists Nam is currently making efforts to strengthen its staff, expand international cooperation, invest in equipment, and focus on comprehensive research in major sea areas.
In particular, the investigation and research of marine biological resources must be one step ahead. The most important thing is to fully and accurately assess the total reserves of Vietnam's marine biological resources, focusing on biological resources in offshore areas such as the Southwest, Southeast, Gulf of Tonkin... and focusing on supplementing marine resources. supplement to diversify marine resources such as biological resources with medicinal value, biological resources in deep sea areas, biological resources with high economic value such as molluscs, crustaceans, echinoderms...
That is the basis for scientists to research and build maps of seasonal fishing grounds and to plan and manage marine resources by territory, serving to plan strategies for exploiting marine resources.
At the same time, promoting research and application of biotechnology to protect marine resources and environment such as building marine protected areas, models to restore ecosystems, models to protect resources... is also is an important job that requires adequate attention.
Based on the achievements achieved in recent years, the marine environmental resources research industry is continuing to coordinate closely with relevant levels and sectors to promote scientific and technological research to overcome the problem. practical limitations that contribute to the exploitation, rational use, and conservation of valuable natural resources brought about by the extremely important geopolitical and geo-economic location of the East Sea, meeting the requirements of the East Sea. demand for sustainable socio-economic development of the country.
|
Phù Nam – Quốc gia cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á
Kỳ 2: Đem quân chinh phạt và sự sụp đổ của một vương triều
Giàu lên nhanh chóng, cường quốc thương nghiệp – đế quốc Phù Nam có thừa tiền bạc để xây dựng quân đội hùng mạnh nhằm bảo vệ kinh đô, quản lý trật tự xã hội và giữ yên bờ cõi.
Như đã nói ở trên, quân đội Phù Nam có đủ các loại thủy – tượng – bộ binh, trong đó thủy binh được xem là đội quân tinh nhuệ nhất mang tầm chiến lược của quốc gia cổ đại này. Hàng chục chiến thuyền được đầu tư đóng to, trang bị vũ khí đầy đủ. Trong tập ký sự “Chuyện lạ ở phương Nam” của hai sứ thần Trung Hoa là Chu Ứng và Khang Thái đã mô tả những con tàu Phù Nam đủ lớn để chở 600-700 người với 40-50 mái chèo. Tàu dài 20 bộ (48m), nổi cao lên mặt nước khoảng 3 bộ, có 4 cột buồm với các cánh buồm nằm nghiêng rộng khoảng 10 bộ. Với sức mạnh của thủy binh, Vương quốc Phù Nam đã bành trướng thương nghiệp biển và lãnh thổ. Thực tế các chiến thuyền của Phù Nam đã Nam chinh, Tây phạt bắt hơn 10 vương quốc thần phục làm chư hầu, phải cống nạp thuế hàng năm dưới sự bảo hộ của vua Phù Nam. Từ địa bàn chính là đồng bằng sông Cửu Long, sau khi chinh phạt thu phục 10 nước chư hầu, Vương quốc Phù Nam kiểm soát một vùng rộng lớn từ Nha Trang đến thung lũng Mê Nam, gồm một phần đảo Mã Lai và vùng ven vịnh Thái Lan. Từ giữa thế kỷ thứ III – IV, Phù Nam chinh phục quân sự vùng Bắc bán đảo Mã Lai nhằm đảm bảo kiểm soát giao thương trên biển Đông – Ấn Độ Dương, trong số hơn chục nước chư hầu bị Phù Nam thuần phục có cả Chân Lạp (Khơ me cổ hay Campuchia ngày nay). Đây chính là một mầm mống, một thế lực có ảnh hưởng lớn đến sự suy vong của Vương quốc Phù Nam sau này.
Khu di tích Óc Eo
Với vai trò nổi bật trở thành trung tâm thương mại sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á, Vương quốc Phù Nam mặc sức lấn át các tiểu quốc phụ thuộc vào kinh tế, thậm chí bắt các nước phải thần phục làm chư hầu. Song, cho đến giữa thế kỷ thứ VI, châu thổ này bị thu hẹp bởi đỉnh cao của các đợt hải xâm (biển lấn), đã dẫn đến các cuộc nổi dậy về kinh tế và chính trị của một số nước chư hầu. Và một tiến trình “vương quốc hóa” của các quốc gia trong vùng bắt đầu nhen nhóm. Đầu thế kỷ thứ VII ưu thế thương mại của Phù Nam giảm đi nhanh chóng. Đã có sự dịch chuyển hoạt động thương mại từ trọng tâm là thương cảng Óc Eo ven bờ biển Tây Nam cổ xuống khu vực Malacca và Xumatơra (Inđônêxia). Người ta nhận ra rằng từ khi xuất hiện nhà nước Srivigiaya (một phần đất thuộc Mã lai và đảo Java xưa kia) và nhất là khi nó đóng vai trò đế chế hải thương của cả khu vực thì tên tuổi Phù Nam bị lu mờ và biến mất. Triều đại cuối cùng của Phù Nam không chăm lo phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu nguồn hàng cũng như củng cố hệ thống cảng biển, trong khi các đế vương, tiểu quốc trên quần đảo In đô nê xia rất thành công trong lĩnh vực này. Sự chuyển hướng buôn bán, giao thương của hai thị trường lớn là Trung Quốc và Ấn Độ cũng góp phần tạo nên biến đổi trên. Theo thư tịch cổ của Trung Quốc thì sự chuyển dịch này đã bắt đầu diễn ra từ nửa sau thế kỷ II và cho đến cuối thế kỷ III. Cùng với vai trò mới nổi của một số tiểu quốc như Java, Xumatơra… đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự chuyển hướng địa bàn buôn bán. Thương cảng có tên Koying (Inđônêxia) được nhắc đến như một hải cảng trung chuyển hàng hóa của quốc gia này ở đường bờ biển Đông Nam Xumatơra. Khi đó, Vương quốc Phù Nam vẫn là một quốc gia hùng mạnh với thế lực kinh tế mang tầm khu vực, liên châu lục nên đã phớt lờ và chủ quan với những thế lực kinh tế mới quanh mình. Chính tư tưởng trọng thương và bành trướng lãnh thổ một thời đã đưa Vương quốc Phù Nam trở thành đế chế thương mại biển, một đế quốc hùng mạnh nhất Đông Nam Á, song cũng chính điều này làm nên sự suy yếu về kinh tế và đẩy quốc gia cổ đại này đến con đường diệt vong.
Cổ vật Óc Eo
Cùng với việc mất vị trí về thương cảng, hai nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công nghiệp có dấu hiệu suy sụp thì một yếu tố mang tính quan trọng làm cho vương quốc Phù Nam sụp đổ là các cuộc tranh ngôi trong vương triều của các hoàng thân dẫn đến triều đình Trung ương bị chia rẽ suy yếu, bỏ mặc nền kinh tế đang trên đà tuột dốc. Chính nguyên nhân này cùng với sự lớn mạnh của các nước chư hầu xung quanh cũng là yếu tố tiên quyết làm suy vong nhanh vương quốc này. Trong số các tiểu quốc chư hầu đó, Chân Lạp (hay Khơ me cổ, Cămpuchia ngày nay) đã trở nên vô cùng nguy hiểm vì vốn đã có mầm mống muốn lật đổ triều đình trung ương Phù Nam từ lâu. Chân Lạp ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ V, đầu thế kỷ thứ VI. Chân Lạp nằm ở phía Tây Nam nước Lâm Ấp (Chiêm Thành – tiền thân của Chăm Pa). Thủ đô của Chân Lạp có tên là Linkiapơpơ hay Lingaparvata. Chân Lạp được hình thành như một tiểu quốc chư hầu mới nhất của Vương quốc Phù Nam ở cuối thế kỷ thứ V, được vua Phù Nam tin tưởng giao cho một hoàng thân cai trị. Một trong những nhân vật làm nên cuộc biến loạn và làm suy vong Vương quốc Phù Nam là Bhavavarman – vốn là một trong những người thuộc Hoàng tộc của Phù Nam. Vào thế kỷ VI (khoảng năm 540- 550) vua Chân Lạp đem quân đánh chiếm vương quốc Phù Nam. Vua Phù Nam Rudruvarman (vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của vương quốc Phù Nam) thất bại chạy về Na Phất Na (một kinh thành cổ nằm tại vùng Óc Eo – Ba Thê) và định đô ở đó một thời gian. Mặc dù đã cử nhiều đoàn sứ thần đi sứ sang Trung Quốc cầu cứu nhưng Phù Nam chỉ nhận được sự thờ ơ của Hoàng đế Trung Hoa và sự quay lưng của các nước có thế lực xung quanh. Cho đến năm 627, dưới triều đại của vua Chân Lạp mới là Isanavarman thì việc thôn tính vương quốc Phù Nam cơ bản hoàn thành. Phù Nam bị sáp nhập hoàn toàn vào Chân Lạp. Do không quen với cuộc sống sông nước và thậm chí không cần cuộc sống sông nước nên người Chân lạp đã tàn phá hải cảng Óc Eo. Sau đó, Chân Lạp chuyển kinh đô lên vùng đất cao Angko Borei (Cămpuchia ngày nay). Vì thế kinh thành và thương cảng Óc Eo rơi vào cảnh đìu hiu, hoang tàn. Không chỉ tàn phá cuộc sống vùng sông nước mà Chân Lạp còn hủy diệt hoàn toàn những vùng cao khác thuộc Vương quốc Phù Nam. Chính vì khả năng thích ứng kém của cư dân Khơ Me cổ đã đẩy Vương quốc Phù Nam đến cảnh hủy diệt và biến mất hoàn toàn sau những đợt sóng biển dâng trào. Ngày nay, những đền đài, thành phố, kinh đô xưa của Phù Nam chỉ còn là phế tích nằm trong lòng đất ở khắp đồng bằng và những triền núi cao ở miền Tây Nam Bộ.
Đồng tiền vàng La Mã
Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỷ, trải qua liên tục 13 đời vua, thời gian của nó có thể sánh với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á những thế kỷ tiếp sau đó. Trong suốt quá trình tồn tại, với những thành quả xây dựng được về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, Phù Nam đã khẳng định vị trí quan trọng của mình như là đầu mối buôn bán Đông – Tây, giữ vững sự ổn định trong các mối quan hệ quốc tế, xứng đáng là một “Trung tâm liên kết thế giới” như lời nhận xét của một học giả Nhật Bản. “Với những thành tựu, biểu hiện đó, quốc gia Phù Nam đã vượt qua trình độ cơ sở để trở thành một vương quốc phát triển cao nhất Đông Nam Á về mọi mặt trong thiên niên kỷ và nó xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới” ( Lương Ninh- Nhà nước Phù Nam. NXB ĐHQG T/p Hồ Chí Minh, tr. 31).
Kỳ 1: Sự hình thành và phát triển cực thịnh
Hoàng Ngọc Chính
(Tổng hợp)
|
Phù Nam – Quốc gia cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á
Kỳ 2: Đem quân chinh phạt và sự sụp đổ của một vương triều
Giàu lên nhanh chóng, cường quốc thương nghiệp – đế quốc Phù Nam có thừa tiền bạc để xây dựng quân đội hùng mạnh nhằm bảo vệ kinh đô, quản lý trật tự xã hội và giữ yên bờ cõi.
Như đã nói ở trên, quân đội Phù Nam có đủ các loại thủy – tượng – bộ binh, trong đó thủy binh được xem là đội quân tinh nhuệ nhất mang tầm chiến lược của quốc gia cổ đại này. Hàng chục chiến thuyền được đầu tư đóng to, trang bị vũ khí đầy đủ. Trong tập ký sự “Chuyện lạ ở phương Nam” của hai sứ thần Trung Hoa là Chu Ứng và Khang Thái đã mô tả những con tàu Phù Nam đủ lớn để chở 600-700 người với 40-50 mái chèo. Tàu dài 20 bộ (48m), nổi cao lên mặt nước khoảng 3 bộ, có 4 cột buồm với các cánh buồm nằm nghiêng rộng khoảng 10 bộ. Với sức mạnh của thủy binh, Vương quốc Phù Nam đã bành trướng thương nghiệp biển và lãnh thổ. Thực tế các chiến thuyền của Phù Nam đã Nam chinh, Tây phạt bắt hơn 10 vương quốc thần phục làm chư hầu, phải cống nạp thuế hàng năm dưới sự bảo hộ của vua Phù Nam. Từ địa bàn chính là đồng bằng sông Cửu Long, sau khi chinh phạt thu phục 10 nước chư hầu, Vương quốc Phù Nam kiểm soát một vùng rộng lớn từ Nha Trang đến thung lũng Mê Nam, gồm một phần đảo Mã Lai và vùng ven vịnh Thái Lan. Từ giữa thế kỷ thứ III – IV, Phù Nam chinh phục quân sự vùng Bắc bán đảo Mã Lai nhằm đảm bảo kiểm soát giao thương trên biển Đông – Ấn Độ Dương, trong số hơn chục nước chư hầu bị Phù Nam thuần phục có cả Chân Lạp (Khơ me cổ hay Campuchia ngày nay). Đây chính là một mầm mống, một thế lực có ảnh hưởng lớn đến sự suy vong của Vương quốc Phù Nam sau này.
Khu di tích Óc Eo
Với vai trò nổi bật trở thành trung tâm thương mại sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á, Vương quốc Phù Nam mặc sức lấn át các tiểu quốc phụ thuộc vào kinh tế, thậm chí bắt các nước phải thần phục làm chư hầu. Song, cho đến giữa thế kỷ thứ VI, châu thổ này bị thu hẹp bởi đỉnh cao của các đợt hải xâm (biển lấn), đã dẫn đến các cuộc nổi dậy về kinh tế và chính trị của một số nước chư hầu. Và một tiến trình “vương quốc hóa” của các quốc gia trong vùng bắt đầu nhen nhóm. Đầu thế kỷ thứ VII ưu thế thương mại của Phù Nam giảm đi nhanh chóng. Đã có sự dịch chuyển hoạt động thương mại từ trọng tâm là thương cảng Óc Eo ven bờ biển Tây Nam cổ xuống khu vực Malacca và Xumatơra (Inđônêxia). Người ta nhận ra rằng từ khi xuất hiện nhà nước Srivigiaya (một phần đất thuộc Mã lai và đảo Java xưa kia) và nhất là khi nó đóng vai trò đế chế hải thương của cả khu vực thì tên tuổi Phù Nam bị lu mờ và biến mất. Triều đại cuối cùng của Phù Nam không chăm lo phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu nguồn hàng cũng như củng cố hệ thống cảng biển, trong khi các đế vương, tiểu quốc trên quần đảo In đô nê xia rất thành công trong lĩnh vực này. Sự chuyển hướng buôn bán, giao thương của hai thị trường lớn là Trung Quốc và Ấn Độ cũng góp phần tạo nên biến đổi trên. Theo thư tịch cổ của Trung Quốc thì sự chuyển dịch này đã bắt đầu diễn ra từ nửa sau thế kỷ II và cho đến cuối thế kỷ III. Cùng với vai trò mới nổi của một số tiểu quốc như Java, Xumatơra… đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự chuyển hướng địa bàn buôn bán. Thương cảng có tên Koying (Inđônêxia) được nhắc đến như một hải cảng trung chuyển hàng hóa của quốc gia này ở đường bờ biển Đông Nam Xumatơra. Khi đó, Vương quốc Phù Nam vẫn là một quốc gia hùng mạnh với thế lực kinh tế mang tầm khu vực, liên châu lục nên đã phớt lờ và chủ quan với những thế lực kinh tế mới quanh mình. Chính tư tưởng trọng thương và bành trướng lãnh thổ một thời đã đưa Vương quốc Phù Nam trở thành đế chế thương mại biển, một đế quốc hùng mạnh nhất Đông Nam Á, song cũng chính điều này làm nên sự suy yếu về kinh tế và đẩy quốc gia cổ đại này đến con đường diệt vong.
Cổ vật Óc Eo
Cùng với việc mất vị trí về thương cảng, hai nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công nghiệp có dấu hiệu suy sụp thì một yếu tố mang tính quan trọng làm cho vương quốc Phù Nam sụp đổ là các cuộc tranh ngôi trong vương triều của các hoàng thân dẫn đến triều đình Trung ương bị chia rẽ suy yếu, bỏ mặc nền kinh tế đang trên đà tuột dốc. Chính nguyên nhân này cùng với sự lớn mạnh của các nước chư hầu xung quanh cũng là yếu tố tiên quyết làm suy vong nhanh vương quốc này. Trong số các tiểu quốc chư hầu đó, Chân Lạp (hay Khơ me cổ, Cămpuchia ngày nay) đã trở nên vô cùng nguy hiểm vì vốn đã có mầm mống muốn lật đổ triều đình trung ương Phù Nam từ lâu. Chân Lạp ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ V, đầu thế kỷ thứ VI. Chân Lạp nằm ở phía Tây Nam nước Lâm Ấp (Chiêm Thành – tiền thân của Chăm Pa). Thủ đô của Chân Lạp có tên là Linkiapơpơ hay Lingaparvata. Chân Lạp được hình thành như một tiểu quốc chư hầu mới nhất của Vương quốc Phù Nam ở cuối thế kỷ thứ V, được vua Phù Nam tin tưởng giao cho một hoàng thân cai trị. Một trong những nhân vật làm nên cuộc biến loạn và làm suy vong Vương quốc Phù Nam là Bhavavarman – vốn là một trong những người thuộc Hoàng tộc của Phù Nam. Vào thế kỷ VI (khoảng năm 540- 550) vua Chân Lạp đem quân đánh chiếm vương quốc Phù Nam. Vua Phù Nam Rudruvarman (vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của vương quốc Phù Nam) thất bại chạy về Na Phất Na (một kinh thành cổ nằm tại vùng Óc Eo – Ba Thê) và định đô ở đó một thời gian. Mặc dù đã cử nhiều đoàn sứ thần đi sứ sang Trung Quốc cầu cứu nhưng Phù Nam chỉ nhận được sự thờ ơ của Hoàng đế Trung Hoa và sự quay lưng của các nước có thế lực xung quanh. Cho đến năm 627, dưới triều đại của vua Chân Lạp mới là Isanavarman thì việc thôn tính vương quốc Phù Nam cơ bản hoàn thành. Phù Nam bị sáp nhập hoàn toàn vào Chân Lạp. Do không quen với cuộc sống sông nước và thậm chí không cần cuộc sống sông nước nên người Chân lạp đã tàn phá hải cảng Óc Eo. Sau đó, Chân Lạp chuyển kinh đô lên vùng đất cao Angko Borei (Cămpuchia ngày nay). Vì thế kinh thành và thương cảng Óc Eo rơi vào cảnh đìu hiu, hoang tàn. Không chỉ tàn phá cuộc sống vùng sông nước mà Chân Lạp còn hủy diệt hoàn toàn những vùng cao khác thuộc Vương quốc Phù Nam. Chính vì khả năng thích ứng kém của cư dân Khơ Me cổ đã đẩy Vương quốc Phù Nam đến cảnh hủy diệt và biến mất hoàn toàn sau những đợt sóng biển dâng trào. Ngày nay, những đền đài, thành phố, kinh đô xưa của Phù Nam chỉ còn là phế tích nằm trong lòng đất ở khắp đồng bằng và những triền núi cao ở miền Tây Nam Bộ.
Đồng tiền vàng La Mã
Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỷ, trải qua liên tục 13 đời vua, thời gian của nó có thể sánh với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á những thế kỷ tiếp sau đó. Trong suốt quá trình tồn tại, với những thành quả xây dựng được về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, Phù Nam đã khẳng định vị trí quan trọng của mình như là đầu mối buôn bán Đông – Tây, giữ vững sự ổn định trong các mối quan hệ quốc tế, xứng đáng là một “Trung tâm liên kết thế giới” như lời nhận xét của một học giả Nhật Bản. “Với những thành tựu, biểu hiện đó, quốc gia Phù Nam đã vượt qua trình độ cơ sở để trở thành một vương quốc phát triển cao nhất Đông Nam Á về mọi mặt trong thiên niên kỷ và nó xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới” ( Lương Ninh- Nhà nước Phù Nam. NXB ĐHQG T/p Hồ Chí Minh, tr. 31).
Kỳ 1: Sự hình thành và phát triển cực thịnh
Hoàng Ngọc Chính
(Tổng hợp)
|
Nhà thơ Hữu Thỉnh
Nhà thơ Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942, trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ông còn có bút danh Vũ Hữu.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách như: Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần), đồng thời kiêm nhiệm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá X).
Hiện nay, ông là Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.
Giải thưởng văn học
• Giải ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ với bài Mùa xuân đi đón năm 1973.
• Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
• Giải A cuộc thi thơ báo Văn nghệ với bài Chuyến đò đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất năm 1975-1976.
• Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2013.
• Giải xuất sắc Bộ Quốc phòng với Trường ca biển năm 1994.
• Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với trường ca Đường tới thành phố và năm 1995 với tập thơ Thư mùa đông năm 1980.
• Giải thưởng Văn học ASEAN.
Các tác phẩm tiêu biểu
• Âm vang chiến hào
• Thương lượng thời gian
• Từ chiến hào tới thành phố
• Trường ca biển;
• Thư mùa đông
• Đường tới thành phố
• Khi bé Hoa ra đời
|
Poet Huu Thinh
Poet Huu Thinh's real name is Nguyen Huu Thinh, born on February 15, 1942, in a farmer family with a Confucian tradition in Tam Dao, Vinh Phuc. He also has the pen name Vu Huu.
Poet Huu Thinh has successively held positions such as: Permanent Deputy General Secretary of the Vietnam Writers' Association (now Vice President of the Vietnam Writers' Association), General Secretary of the Vietnam Writers' Association (3 times). , concurrently holds the position of Standing Member of the Party Committee of the Central Cultural Ideological Bloc, Secretary of the Party Committee of the Vietnam Writers' Association, and Secretary of the Party Committee of the Vietnam Writers' Association. Delegate to the National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam (term X).
Currently, he is Chairman of the Vietnam Union of Literature and Arts Associations, Chairman of the Vietnam Writers Association.
Literary award
• Third prize in the Literature and Arts newspaper poetry contest with the song Spring Comes in 1973.
• State Award for Literature and Arts.
• Prize A in the Arts newspaper poetry contest with the poem Bordering Night Ferry and the epic The Endurance of the Land in 1975-1976.
• Ho Chi Minh Prize for Literature and Arts in 2013.
• Ministry of Defense Excellence Award for Sea Song in 1994.
• Vietnam Writers Association Award with the epic poem Road to the City and in 1995 with the poetry collection Winter Letters in 1980.
• ASEAN Literature Award.
Outstanding works
• The echoes of the trenches
• Negotiate time
• From the trenches to the city
• Song of the sea;
• Winter mail
• Road to the city
• When baby Hoa was born
|
NGHIÊN CỨU MỸ HỌC – NGHỆ THUẬT HỌC
Marx nói về cái khó giải thích trong nghệ thuật
Chú dẫn: đây là bài thứ 3, trích từ cuốn sách
Văn học nghệ thuật và chức năng
(sắp xuất bản) của tác giả Lâm Vinh, phần nói về những đặc trưng của loại
Nghệ thuật thuần túy – đơn tính.
vansudia.net
“Cái khó” là ở tâm lý sáng tạo:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
(Truyện Kiều)
Tính toàn vẹn của một tác phẩm nghệ thuật đích thực cũng công phu không khác những cuộc vuông tròn đại sự của con người. Dò tìm được
ngọn nguồn của tư duy nghệ thuật
sẽ có dữ liệu so sánh một cách hữu hiệu sáng tác thuần nghệ thuật với những hình thức phi nghệ thuật và tiền nghệ thuật.
Những bước phát triển thăng trầm của nghệ thuật, sự xuất hiện những đỉnh cao nghệ thuật không hoàn toàn ăn khớp với sự phát triển xã hội. Nghệ thuật là hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội nhưng không theo quy luật quyết định chi phối trực tiếp của hạ tầng cơ sở. Điều đó đã được Marx khẳng định từ lâu. Những suy luận duy vật về lịch sử (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc, thời đại lớn có những biến đổi kinh tế chính trị xã hội sẽ có những thành quả lớn về sáng tạo tinh thần…) rất ít thích hợp với hiện tượng nghệ thuật. Marx đã nhận xét điều này, và cho đó là
cái khó
giải thích:
“Đối với nghệ thuật thì những thời kì phồn vinh nhất định tuyệt nhiên không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, và do đó cũng tuyệt nhiên không tương ứng với cơ sở vật chất, với xương cốt của tổ chức xã hội, nếu có thể nói như thế được. Ví dụ người Hy Lạp so với người thời nay, hay lại ví dụ như Shakespeare chẳng hạn”.
Marx đã chỉ ra cái khó giải thích khi nền nghệ thuật Hy Lạp cho đến hai nghìn năm sau vẫn còn gây hứng thú và vẫn còn là mẫu mực chưa thể vượt qua được đối với con người hiện đại:
“Nhưng khó khăn không phải là ở chổ hiểu được rằng nghệ thuật Hy Lạp và anh hùng ca gắn liền với những hình thức nào của sự phát triển xã hội. Mà khó khăn là ở chổ hiểu được rằng hai cái đó còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mỹ và trên một vài phương diện nào đó, được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được.”
Hai đoạn văn này của Marx thường được trích để minh họa cho những lập luận về tính đặc thù của sự phát triển văn học nghệ thuật, về một quy luật riêng nào đó của văn nghệ, cũng là sự chứng minh cho tính mềm dẻo của chủ nghĩa Marx. Vì sao Iliat và Odyssey của thi sĩ kiêm ca sĩ mù Homer, sáng tác cách đây gần ba nghìn năm, và những vở bi kịch của Shakespeare sáng tác cách đây bốn trăm năm, rồi thi phẩm của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và cả “thơ mới” trước năm 1945, cho đến hôm nay vẫn là mẫu mực, là những đỉnh cao nghệ thuật.
“Cái khó” giải thích là ở đâu?
“
Cái khó” chính là ở đây: ở tâm lý sáng tạo nghệ thuật với những bí ẩn và phức tạp của nó.
Nghiên cứu tư duy sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật là đối tượng thuộc Tâm lý học nghệ thuật
. Đây chính là phần phong phú và phức tạp nhất trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật, cũng chính là chỗ Marx đã cho là “cái khó” nói trên, và Vugodski đã dẫn lời Marx về hiện tượng nghệ thuật Hy Lạp để mở đầu cho công trình
Tâm lý học nghệ thuật
của mình. Về câu:
“Mà khó là ở chổ hiểu được rằng hai cái đó còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mỹ và trên một vài phương diện nào đó, được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được.”
Vugodski đã nhận xét
: “Đấy là một cách đặt vấn đề tâm lý nghệ thuật hoàn toàn chính xác”
[1]
“Trong điêu khắc người da đen có thể trắng, cũng như trong thơ trữ tình một cảm xúc u buồn có thể thể hiện bằng corê. Nhưng hoàn toàn không đúng rằng cả hai sự kiện đều cần có một sự giải thích đặc biệt và sự giải thích này chỉ tâm lý nghệ thuật mới có thể làm được mà thôi.”
Thí dụ trên của Vugodski làm ta liên tưởng đến thí dụ của Aristotle về việc nghệ thuật có thể tả con ngựa phi cùng một lúc cất hai chân bên phải hay tả con hươu cái không có sừng. Và Vugodski đã khẳng định:
“… Thiếu đi một công trình nghiên cứu tâm lý chuyên đề chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi, những quy luật nào đang điều khiển các cảm xúc trong tác phẩm nghệ thuật, và chúng ta có thể bất cứ lúc nào, sa vào những sai lầm thô bạo nhất.”
Đặc trưng nghệ thuật không thể là một khái niệm, phạm trù, dù khái niệm phạm trù quan trọng cỡ nào, nó phải có một cơ chế, như một guồng máy chuyển động không ngừng, có nhiều bộ phận liên kết thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó thể hiện rõ trong cơ chế của tư duy nghệ thuật. Tư duy nghệ thuật bao gồm cả sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật; do đó ở đây cần nói riêng về tư duy sáng tạo. Đây là một loại hình tư duy được phân biệt với đối xứng của hai bán cầu đại não và lý thuyết về hai kiểu loại nhân cách (đã nói ở chương 2).
Cuối cùng, những cái khó khăn khi lý giải đặc trưng nghệ thuật đều quy về những vấn đề tâm lý nghệ thuật,quy về nơi ngọn nguồn đầy phức tạp và bí ẩn của sự sống con người.
Tư duy sáng tạo nghệ thuật, là tư duy của người nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ biểu diễn. Không phải ai cầm cọ cầm bút sáng tác, ai làm diễn viên đều là đối tượng của việc nghiên cứu này, mà sự nghiên cứu bao giờ cũng hướng vào những nghệ thuật đích thực, những tài năng thực thụ, vì nghiên cứu khoa học bao giờ cũng tìm đến những điển hình,
Có thể hình dung tư duy sáng tạo là cả một guồng máy, bao gồm một hệ thống khái niệm, phạm trù tâm lý sáng tác. Đây là sự trình bày hệ thống theo quy trình: từ ngọn nguồn, sinh thành, nơi xuất phát, là chủ thể, đến một cấu trúc phức tạp của tâm lý, sự thực hành sáng tao qua thao tác tưởng tượng – hư cấu, để cuối cùng một hình tượng ra đời.
Chỉ một câu của Hegel, từ thế kỷ XIX, mà trong đó có đủ những khái niệm cần thiết để thành lập một hệ thống khái niệm cho tư duy sáng tạo nghệ thuật, hơn nữa, đây là những khái niệm đúng như tâm lý hoc hiện đại đang sử dụng
[2]
:
tình cảm, cảm giác, trực giác và tưởng tượng, tự do sáng tạo; có cả phân biệt với tư duy khoa học:
“Cái đẹp trong nghệ thuật là nhằm hướng về tình cảm, cảm giác, trực giác và tưởng tượng. Lĩnh vực của cái đẹp khac lĩnh vực tư tưởng, và việc lí giải hoạt động nghệ thuật và các sản phẩm của hoạt động ấy đòi hỏi một chức năng khác tư duy khoa học. Không những thế, cái chúng ta thưởng thức trong cái đẹp nghệ thuật đó là tính chất tự do của các sáng tác và các hình thức hình tượng”.
Guồng máy sáng tạo nghệ thuật hoạt động có
tính quy luật
[3]
. Nói cách khác, không qua những quy luật trong guồng máy ấy, nhất thiết không thể trở thành tác phẩm nghệ thuật đích thực.Những tác phẩm tiền nghệ thuật có thể đi bên ngoài, hoặc chỉ đi từng chặng nào đó trong guồng máy đó.
Có một hệ thống phạm trù, khái niệm về tâm lý sáng tạo nghệ thuật, thì cũng có một hệ thống quy luật, lớn và nhỏ, cơ bản và phụ thuộc. Quy luật 1 (
chủ thể hóa
) hoạt động phải có
quy luật 2
(
tình cảm – cảm xúc
) quy luật 2 hoạt động chuyển thành
quy luật 3
(
tưởng tượng – hư cấu
). Trong lòng mỗi quy luật có các quy luật cụ thể hơn, đó cũng là những khái niệm tâm lý học.Tất cả đều liên hệ, chuyển hóa, tác động lẫn nhau như một guồng máy thực sự.
“Hiện tượng phong phú hơn quy luật”
. Mệnh đề của Lenin, cả câu thơ Goethe
“Cây đời mãi mãi xanh tươi”
, đúng hơn hết khi nói đến lý luận về nghệ thuật, khi thứ lí luận này mong muốn quy luật hóa tất cả thực tế muôn màu của nghệ thuật. Nhưng nghĩa vụ của lý luận là phải tìm cách khái quát hóa, quy luật hóa từ muôn ngàn hiện tượng, nhưng phải cố gắng giữ lại được “màu xanh”.
LV
[1]
Vugodski: nhà tâm lý học Marxist lỗi lạc, người đầu tiên đưa quan điểm hoạt động về ý thức của Marx vào tâm lý học, mở đầu ngành TLH Marxist, tác giả của hơn một trăm công trình nghiên cứu.
“Tâm lý học nghệ thuật”
ra đời từ năm 1924 nhưng thực sự được phổ biến từ những năm 60.Ông mất năm 38 tuổi (1896 – 1934).
Tâm lý học xã hội khách quan mác xít, khoa học di truyền và thực nghiệm mà người xây dựng nền móng là
Vugodski, đã xây dựng nên cơ sở phương pháp luận cho lý luận chung về nghệ thuật.
[2]
Hiện nay, các thuật ngữ nói về ý thức nghệ thuật trong mỹ học và lý luận văn học chưa thật thống nhất và phù hợp với cách dùng trong tâm lý học và triết học.Cảm giác và cảm xúc, tình cảm và cảm tính, tình cảm và cảm xúc, sự phân biệt không thật rõ rệt, có khi dùng lẫn lộn, không như cách dùng thuật ngữ khoa học. Đặc biệt cụm từ “tư duy nghệ thuật” được dùng nhiều trong lý luận của Liên Xô và Việt Nam, nếu hiểu đó là một cách nói mang tính qui ước riêng của lý luận mỹ học và nghệ thuật, là có thể chấp nhận, nhưng nếu hiểu khái niệm tư duy như triết học và tâm lý học thì không đúng, vì tư duy chỉ cấp độ nhận thức lý luận trừu tượng (khái niệm, phán đoán, suy lý, lý luận), không phù hợp với đặc điểm của ý thức nghệ thuật là thiên về nhận thức cảm tính.
Mục từ
“Tư duy nghệ thuật”
(TDNT) trong
“Từ điển thuật ngữ văn học”
(tr.260) viết:
TDNT là dạng hoạt động trí tụê của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật” “Cơ sở của nó là tình cảm” “Điểm xuất phát TDNT vẫn là lý tính, là trí tuệ có kinh nghiệm, biết nghiền ngẫm và hệ thống hóa các kết quả nhận thức”.
Với cách định nghĩa đó thì TDNT và tư duy khoa học không có gì khác nhau.
[3]
Một nhà lãnh đạo rất ít bàn về lĩnh vực nghệ thuật, nhưng là người đầu tiên ở Việt Nam dùng khái niệm “quy luật tình cảm” trong nghệ thuật, đó là Lê Duẫn:
“Nghệ thuật đi theo quy luật tình cảm”.
|
NGHIÊN CỨU MỸ HỌC – NGHỆ THUẬT HỌC
Marx nói về cái khó giải thích trong nghệ thuật
Chú dẫn: đây là bài thứ 3, trích từ cuốn sách
Văn học nghệ thuật và chức năng
(sắp xuất bản) của tác giả Lâm Vinh, phần nói về những đặc trưng của loại
Nghệ thuật thuần túy – đơn tính.
vansudia.net
“Cái khó” là ở tâm lý sáng tạo:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
(Truyện Kiều)
Tính toàn vẹn của một tác phẩm nghệ thuật đích thực cũng công phu không khác những cuộc vuông tròn đại sự của con người. Dò tìm được
ngọn nguồn của tư duy nghệ thuật
sẽ có dữ liệu so sánh một cách hữu hiệu sáng tác thuần nghệ thuật với những hình thức phi nghệ thuật và tiền nghệ thuật.
Những bước phát triển thăng trầm của nghệ thuật, sự xuất hiện những đỉnh cao nghệ thuật không hoàn toàn ăn khớp với sự phát triển xã hội. Nghệ thuật là hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội nhưng không theo quy luật quyết định chi phối trực tiếp của hạ tầng cơ sở. Điều đó đã được Marx khẳng định từ lâu. Những suy luận duy vật về lịch sử (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc, thời đại lớn có những biến đổi kinh tế chính trị xã hội sẽ có những thành quả lớn về sáng tạo tinh thần…) rất ít thích hợp với hiện tượng nghệ thuật. Marx đã nhận xét điều này, và cho đó là
cái khó
giải thích:
“Đối với nghệ thuật thì những thời kì phồn vinh nhất định tuyệt nhiên không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, và do đó cũng tuyệt nhiên không tương ứng với cơ sở vật chất, với xương cốt của tổ chức xã hội, nếu có thể nói như thế được. Ví dụ người Hy Lạp so với người thời nay, hay lại ví dụ như Shakespeare chẳng hạn”.
Marx đã chỉ ra cái khó giải thích khi nền nghệ thuật Hy Lạp cho đến hai nghìn năm sau vẫn còn gây hứng thú và vẫn còn là mẫu mực chưa thể vượt qua được đối với con người hiện đại:
“Nhưng khó khăn không phải là ở chổ hiểu được rằng nghệ thuật Hy Lạp và anh hùng ca gắn liền với những hình thức nào của sự phát triển xã hội. Mà khó khăn là ở chổ hiểu được rằng hai cái đó còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mỹ và trên một vài phương diện nào đó, được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được.”
Hai đoạn văn này của Marx thường được trích để minh họa cho những lập luận về tính đặc thù của sự phát triển văn học nghệ thuật, về một quy luật riêng nào đó của văn nghệ, cũng là sự chứng minh cho tính mềm dẻo của chủ nghĩa Marx. Vì sao Iliat và Odyssey của thi sĩ kiêm ca sĩ mù Homer, sáng tác cách đây gần ba nghìn năm, và những vở bi kịch của Shakespeare sáng tác cách đây bốn trăm năm, rồi thi phẩm của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và cả “thơ mới” trước năm 1945, cho đến hôm nay vẫn là mẫu mực, là những đỉnh cao nghệ thuật.
“Cái khó” giải thích là ở đâu?
“
Cái khó” chính là ở đây: ở tâm lý sáng tạo nghệ thuật với những bí ẩn và phức tạp của nó.
Nghiên cứu tư duy sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật là đối tượng thuộc Tâm lý học nghệ thuật
. Đây chính là phần phong phú và phức tạp nhất trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật, cũng chính là chỗ Marx đã cho là “cái khó” nói trên, và Vugodski đã dẫn lời Marx về hiện tượng nghệ thuật Hy Lạp để mở đầu cho công trình
Tâm lý học nghệ thuật
của mình. Về câu:
“Mà khó là ở chổ hiểu được rằng hai cái đó còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mỹ và trên một vài phương diện nào đó, được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được.”
Vugodski đã nhận xét
: “Đấy là một cách đặt vấn đề tâm lý nghệ thuật hoàn toàn chính xác”
[1]
“Trong điêu khắc người da đen có thể trắng, cũng như trong thơ trữ tình một cảm xúc u buồn có thể thể hiện bằng corê. Nhưng hoàn toàn không đúng rằng cả hai sự kiện đều cần có một sự giải thích đặc biệt và sự giải thích này chỉ tâm lý nghệ thuật mới có thể làm được mà thôi.”
Thí dụ trên của Vugodski làm ta liên tưởng đến thí dụ của Aristotle về việc nghệ thuật có thể tả con ngựa phi cùng một lúc cất hai chân bên phải hay tả con hươu cái không có sừng. Và Vugodski đã khẳng định:
“… Thiếu đi một công trình nghiên cứu tâm lý chuyên đề chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi, những quy luật nào đang điều khiển các cảm xúc trong tác phẩm nghệ thuật, và chúng ta có thể bất cứ lúc nào, sa vào những sai lầm thô bạo nhất.”
Đặc trưng nghệ thuật không thể là một khái niệm, phạm trù, dù khái niệm phạm trù quan trọng cỡ nào, nó phải có một cơ chế, như một guồng máy chuyển động không ngừng, có nhiều bộ phận liên kết thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó thể hiện rõ trong cơ chế của tư duy nghệ thuật. Tư duy nghệ thuật bao gồm cả sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật; do đó ở đây cần nói riêng về tư duy sáng tạo. Đây là một loại hình tư duy được phân biệt với đối xứng của hai bán cầu đại não và lý thuyết về hai kiểu loại nhân cách (đã nói ở chương 2).
Cuối cùng, những cái khó khăn khi lý giải đặc trưng nghệ thuật đều quy về những vấn đề tâm lý nghệ thuật,quy về nơi ngọn nguồn đầy phức tạp và bí ẩn của sự sống con người.
Tư duy sáng tạo nghệ thuật, là tư duy của người nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ biểu diễn. Không phải ai cầm cọ cầm bút sáng tác, ai làm diễn viên đều là đối tượng của việc nghiên cứu này, mà sự nghiên cứu bao giờ cũng hướng vào những nghệ thuật đích thực, những tài năng thực thụ, vì nghiên cứu khoa học bao giờ cũng tìm đến những điển hình,
Có thể hình dung tư duy sáng tạo là cả một guồng máy, bao gồm một hệ thống khái niệm, phạm trù tâm lý sáng tác. Đây là sự trình bày hệ thống theo quy trình: từ ngọn nguồn, sinh thành, nơi xuất phát, là chủ thể, đến một cấu trúc phức tạp của tâm lý, sự thực hành sáng tao qua thao tác tưởng tượng – hư cấu, để cuối cùng một hình tượng ra đời.
Chỉ một câu của Hegel, từ thế kỷ XIX, mà trong đó có đủ những khái niệm cần thiết để thành lập một hệ thống khái niệm cho tư duy sáng tạo nghệ thuật, hơn nữa, đây là những khái niệm đúng như tâm lý hoc hiện đại đang sử dụng
[2]
:
tình cảm, cảm giác, trực giác và tưởng tượng, tự do sáng tạo; có cả phân biệt với tư duy khoa học:
“Cái đẹp trong nghệ thuật là nhằm hướng về tình cảm, cảm giác, trực giác và tưởng tượng. Lĩnh vực của cái đẹp khac lĩnh vực tư tưởng, và việc lí giải hoạt động nghệ thuật và các sản phẩm của hoạt động ấy đòi hỏi một chức năng khác tư duy khoa học. Không những thế, cái chúng ta thưởng thức trong cái đẹp nghệ thuật đó là tính chất tự do của các sáng tác và các hình thức hình tượng”.
Guồng máy sáng tạo nghệ thuật hoạt động có
tính quy luật
[3]
. Nói cách khác, không qua những quy luật trong guồng máy ấy, nhất thiết không thể trở thành tác phẩm nghệ thuật đích thực.Những tác phẩm tiền nghệ thuật có thể đi bên ngoài, hoặc chỉ đi từng chặng nào đó trong guồng máy đó.
Có một hệ thống phạm trù, khái niệm về tâm lý sáng tạo nghệ thuật, thì cũng có một hệ thống quy luật, lớn và nhỏ, cơ bản và phụ thuộc. Quy luật 1 (
chủ thể hóa
) hoạt động phải có
quy luật 2
(
tình cảm – cảm xúc
) quy luật 2 hoạt động chuyển thành
quy luật 3
(
tưởng tượng – hư cấu
). Trong lòng mỗi quy luật có các quy luật cụ thể hơn, đó cũng là những khái niệm tâm lý học.Tất cả đều liên hệ, chuyển hóa, tác động lẫn nhau như một guồng máy thực sự.
“Hiện tượng phong phú hơn quy luật”
. Mệnh đề của Lenin, cả câu thơ Goethe
“Cây đời mãi mãi xanh tươi”
, đúng hơn hết khi nói đến lý luận về nghệ thuật, khi thứ lí luận này mong muốn quy luật hóa tất cả thực tế muôn màu của nghệ thuật. Nhưng nghĩa vụ của lý luận là phải tìm cách khái quát hóa, quy luật hóa từ muôn ngàn hiện tượng, nhưng phải cố gắng giữ lại được “màu xanh”.
LV
[1]
Vugodski: nhà tâm lý học Marxist lỗi lạc, người đầu tiên đưa quan điểm hoạt động về ý thức của Marx vào tâm lý học, mở đầu ngành TLH Marxist, tác giả của hơn một trăm công trình nghiên cứu.
“Tâm lý học nghệ thuật”
ra đời từ năm 1924 nhưng thực sự được phổ biến từ những năm 60.Ông mất năm 38 tuổi (1896 – 1934).
Tâm lý học xã hội khách quan mác xít, khoa học di truyền và thực nghiệm mà người xây dựng nền móng là
Vugodski, đã xây dựng nên cơ sở phương pháp luận cho lý luận chung về nghệ thuật.
[2]
Hiện nay, các thuật ngữ nói về ý thức nghệ thuật trong mỹ học và lý luận văn học chưa thật thống nhất và phù hợp với cách dùng trong tâm lý học và triết học.Cảm giác và cảm xúc, tình cảm và cảm tính, tình cảm và cảm xúc, sự phân biệt không thật rõ rệt, có khi dùng lẫn lộn, không như cách dùng thuật ngữ khoa học. Đặc biệt cụm từ “tư duy nghệ thuật” được dùng nhiều trong lý luận của Liên Xô và Việt Nam, nếu hiểu đó là một cách nói mang tính qui ước riêng của lý luận mỹ học và nghệ thuật, là có thể chấp nhận, nhưng nếu hiểu khái niệm tư duy như triết học và tâm lý học thì không đúng, vì tư duy chỉ cấp độ nhận thức lý luận trừu tượng (khái niệm, phán đoán, suy lý, lý luận), không phù hợp với đặc điểm của ý thức nghệ thuật là thiên về nhận thức cảm tính.
Mục từ
“Tư duy nghệ thuật”
(TDNT) trong
“Từ điển thuật ngữ văn học”
(tr.260) viết:
TDNT là dạng hoạt động trí tụê của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật” “Cơ sở của nó là tình cảm” “Điểm xuất phát TDNT vẫn là lý tính, là trí tuệ có kinh nghiệm, biết nghiền ngẫm và hệ thống hóa các kết quả nhận thức”.
Với cách định nghĩa đó thì TDNT và tư duy khoa học không có gì khác nhau.
[3]
Một nhà lãnh đạo rất ít bàn về lĩnh vực nghệ thuật, nhưng là người đầu tiên ở Việt Nam dùng khái niệm “quy luật tình cảm” trong nghệ thuật, đó là Lê Duẫn:
“Nghệ thuật đi theo quy luật tình cảm”.
|
Nhà thơ Bằng Việt
Nhà thơ Bằng Việt (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941) là một nhà thơ Việt Nam. Ông đã từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và đang là Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội.
Tiểu sử
Nhà thơ Bằng Việt tên thật là
Nguyễn Việt Bằng
, nguyên quán xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây nhưng ông sinh tại thành phố Huế và học trung học tại Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý, Đại học Tổng hợp Kiev vào năm 1965, Bằng Việt về Việt Nam, công tác tại Viện Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến năm 1969, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1970, ông tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn. Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Sau khi về Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (gọi tắt là Hội Văn nghệ Hà Nội) năm 1983, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1983-1989) và là một trong những người sáng lập tờ báo văn nghệ
Người Hà Nội
(xuất bản từ 1985).
Sau đó được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, làm tổng biên tập tờ tạp chí
Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam
(1989-1991).
Năm 2001, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội và được bầu lại làm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2006 – 2010.
Tại Ðại hội lần thứ VII Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (tháng 9 năm 2005), Bằng Việt được bầu làm một trong 5 Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Ông cũng từng làm Thư ký thường trực, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội (1991-2000).
Sau Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII, Bằng Việt đã đệ đơn lên Ban Chấp hành xin từ chức sau khi đã giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng Thơ suốt hai nhiệm kỳ với lý do công việc.
Hiện nay, Ông là Chủ tịch Hội đồng văn học dịch nhiệm kỳ 2019 – 2021 của Hội Nhà văn Việt Nam, theo quyết định của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa IX, nhiệm kỳ 2015 – 2020)
Sự nghiệp
Nhà thơ Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi nhưng bài thơ đầu tiên được công bố là bài
Qua Trường Sa
viết năm 1961. Ông đã thể nghiệm nhiều loại thơ không vần, xuống thang rồi bắc thang, tất cả những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới. Tập thơ đầu tay
Hương cây – Bếp lửa
của ông và Lưu Quang Vũ xuất bản lần đầu năm 1968 và mới được tái bản sau 37 năm.
Ông còn dịch thơ của các nhà thơ Yannis Ritsos (Hy Lạp), Pablo Neruda (Chile); các nhà thơ Nga cổ điển và hiện đại: A. Pushkin, M. Lermontov, S. Esenin, E. Evtushenko, O. Berggoltz, M. Aliger, A. Tvardovsky, M. Dudin, A. Akhmatova, R. Gamzatov…; các nhà thơ Pháp: G. Apollinaire, P. Eluard, J. Prévert và tham gia biên soạn một số từ điển văn học.
Ông cũng từng theo nghề luật cho đến khi thôi nhiệm kỳ cuối cùng ở Hội đồng Nhân dân thành phố (năm 2000).
Tác phẩm
Sáng tác
Hương cây – Bếp lửa
, (Tập thơ; 1968, 2005), đồng tác giả với Lưu Quang Vũ.
Trong tập này có bài
Bếp lửa
(
Household warm
) sau này được in trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam.
…Giờ cháu đã đi xa
Có ngọn khói trăm tàu
Có niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Dịch thuật
Biên soạn
Giải thưởng
|
Poet Bang Viet
Poet Bang Viet (born June 15, 1941) is a Vietnamese poet. He was once Chairman of the Poetry Council of the Vietnam Writers' Association and is currently Chairman of the Hanoi Union of Literature and Arts.
Story
Poet Bang Viet's real name is
Nguyen Viet Bang
, originally from Chang Son commune, Thach That district, Ha Tay province, but he was born in Hue city and attended high school in Hanoi. After graduating from the Faculty of Law, Kiev University in 1965, he returned to Vietnam and worked at the Institute of Law under the Vietnam Social Sciences Committee. In 1969, he moved to work at the Vietnam Writers Association. In 1970, he worked at the Binh Tri Thien battlefield as a war correspondent and worked at the Traditional Museum for the Truong Son delegation. In 1975, he worked at New Works Publishing House.
After joining the Hanoi Literature and Arts Association (Hanoi Arts Association for short) in 1983, he was elected General Secretary of the Hanoi Literature and Arts Association (1983-1989) and was one of the founders. arts newspaper
Hanoi people
(published since 1985).
Then he was elected a member of the National Committee of the Union of Vietnamese Literature and Arts Associations, and editor-in-chief of the magazine.
Vietnam Arts Forum
(1989-1991).
In 2001, he was elected Chairman of the Hanoi Union of Literature and Arts and was re-elected Chairman of the Association for the term 2006 - 2010.
At the 7th Congress of the Vietnam Union of Literature and Arts Associations (September 2005), Bang Viet was elected as one of the five Vice Presidents of the Vietnam Union of Literature and Arts Associations.
He also worked as Permanent Secretary, then Vice Chairman of the Hanoi People's Council (1991-2000).
After the 7th Congress of the Vietnam Writers' Association, Bang Viet submitted a letter to the Executive Committee to resign after serving as Chairman of the Poetry Council for two terms for work reasons.
Currently, he is the Chairman of the Translated Literature Council for the 2019 - 2021 term of the Vietnam Writers' Association, according to the decision of the Executive Committee of the Vietnam Writers' Association (term IX, term 2015 - 2020).
Career
Poet Bang Viet has been writing poetry since he was 13 years old, but his first poem was published
Through Truong Sa
written in 1961. He experimented with many types of rhymed, descending and ascending poetry, all forms that exist in Vietnamese and world poetry. First poetry collection
Tree incense – Fire stove
by him and Luu Quang Vu was first published in 1968 and was recently republished after 37 years.
He also translated poetry by poets Yannis Ritsos (Greece), Pablo Neruda (Chile); Classical and modern Russian poets: A. Pushkin, M. Lermontov, S. Esenin, E. Evtushenko, O. Berggoltz, M. Aliger, A. Tvardovsky, M. Dudin, A. Akhmatova, R. Gamzatov… ; French poets: G. Apollinaire, P. Eluard, J. Prévert and participated in compiling a number of literary dictionaries.
He also practiced law until retiring from his final term at the City People's Council (in 2000).
Work
Composed
Tree incense – Fire stove
, (Poem collection; 1968, 2005), co-authored with Luu Quang Vu.
In this volume there are articles
Fire stove
(
Household warm
) was later printed in high school textbooks in Vietnam.
…Now you're gone
There is the smoke of a hundred ships
There is joy in all directions
But still never forget to remind
Have you turned on the stove tomorrow?
Translation
Compilation
Prize
|
Phát hiện khảo cổ học tại Đà Nẵng và mối liên hệ với văn bản cổ Ấn Độ
Nhà nghiên cứu Võ Văn Thắng
Đà Nẵng là một thành phố cảng ở miền Trung Việt Nam. Vị trí địa lý đặc biệt của Đà Nẵng đã làm cho nơi đây trở thành một nơi giao lưu, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa từ các châu lục. Cửa biển của Đà Nẵng có bán đảo Sơn Trà che chắn, là nơi dừng chân bình yên cho các tàu bè đi ngang qua biển Đông và cũng là nơi trung chuyển các lâm thổ sản từ vùng rừng núi phía tây để trao đổi với các thương thuyền khắp nơi. Từ hơn một ngàn năm trước trong thời kỳ của vương quốc Champa, khu vực Đà Nẵng đã là một cửa ngõ giao thương buôn bán và ngoại giao. Các văn khắc chữ Sanskrit tìm thấy tại Hóa Quê – nay thuộc thành phố Đà Nẵng – cho biết nơi đây đã có những đền tháp, tu viện và là nơi cư trú của tầng lớp tinh hoa, quý tộc của Champa. Vị trí thuận lợi của Đà Nẵng cũng biến nơi đây trở thành tâm điểm của những cuộc xung đột trong lịch sử, những công trình kiến trúc liên tục bị tàn phá trong những cuộc chiến tranh. Các kiến trúc của Champa cũng không ngoại lệ, trong khi ở một số tỉnh lân cận ngày nay còn nhìn thấy một số đền tháp từ thời Champa vẫn còn đứng vững thì ở địa bàn Đà Nẵng những gì còn lại từ thời Champa chỉ là những nền móng kiến trúc dưới mặt đất và những hiện vật thu thập về bảo tàng.
Mặc dù những công trình kiến trúc đã không còn được nhìn thấy, nhưng qua công tác khảo cổ, người ta đã phát hiện những chứng tích về sự phát triển của vùng đất Đà Nẵng từ thời kỳ xa xưa trong lịch sử, trong đó có sự giao lưu tiếp nhận nền văn minh từ lục địa Ấn Độ.
Trong các năm 2011, 2012, Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng đã tiến hành khai quật khảo cổ tại di tích Chăm tại Phong Lệ (nay thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng) và tại Cấm Mít (nay thuộc huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng). Tại hai di tích này, các nhà khảo cổ đã phát lộ cấu trúc nền móng các ngôi tháp Chăm được xây dựng cách đây khoảng 1000 năm.
[1]
Điều quan trọng là đã phát hiện ở các góc móng tháp trong lòng đất sâu có những mẩu kim loại vàng, được đặt một các có chủ đích ở những vị trí giống nhau ở tất cả các móng tháp được phát hiện. Ở trung tâm nền móng tháp Cấm Mít còn tìm thấy những viên ngọc. Ở một số địa điểm khảo cổ khác, người ta đã tìm thấy những hộp đựng các vật phẩm bằng vàng bạc và đá quý, nhưng ở di tích Phong Lệ, Cấm Mít các hộp này đã biến mất chỉ để lại dấu vết đào bới trước đây.
[2]
Ảnh 1 &2: Các hốc đặt mẩu vàng và đá quý ở móng tháp Chăm tại Phong Lệ
Ảnh 3: Tám mẩu vàng đặt trong các hốc ở móng tháp Chăm Phong Lệ.
Ảnh 4. Các miếng vàng cắt hình voi tìm thấy ở di tích Chăm tại Cấm Mít.
Có thể tìm thấy lời giải thích cho cấu trúc nền móng tháp Champa ở các văn bản cổ của Ấn Độ về xây dựng. Một cuốn sách về nghệ thuật kiến trúc được các nhà nghiên cứu nhắc đến có tên là
Kāśyapaśilpa
được biên soạn vào khoảng thế kỷ 11, 12. Ba chương quan trọng trong sách
Kāśyapaśilpa
là
Prathameṣṭakā-nyāsa
(Đặt viên gạch đầu tiên),
Garbha-nyāsa
(Đặt vật phẩm trong lòng tháp) và
Mūrdeheṣṭakā-nyāsa
(Đặt chóp tháp).
Nghi thức
Garbha-nyāsa
là đặt các vật phẩm “ký cúng” cho thần linh để nhận sự bảo hộ và ban phước của thần:
|
prâsâdaä
||
[1]
(Ngôi tháp được xem như một cơ thể.
Vật phẩm ký cúng đặt trong đó chính là mầm sống)
Những vật phẩm bằng vàng bạc, đá quý tìm thấy trong lòng các ngôi tháp Chăm và các hốc nhỏ với những miếng vàng đặt bên trong được phát hiện trong móng tháp Chăm ở Phong Lệ và Cấm Mít tại Đà Nẵng ắt hẳn có liên quan đến nghi lễ xây dựng đền tháp và nghi thức đặt những vật phẩm “ký cúng” như được nói đến trong các cuốn sách
Kāśyapaśilpa
,
Vastu Shilpa Shastra
và các tài liệucổ về kiến trúc đền tháp ở Ấn Độ.
V.V.T
ARCHEOLOGICAL DISCOVERY OF ANCIENT INDIAN TEXTS IN ĐÀ NẴNG
Võ Văn Thắng
Đà Nẵng is the major port city of Central Việt Nam -protected from storms by the Sơn Trà peninsula. It has historically been a haven for merchant ships plying the busy East Sea. It was particularly important to the lumber trade, exporting products from the western mountains. Its special geographical location made it a trading hub and a lively place for cultural exchanges.
Over a thousand years ago, during the period of the Champa Kingdom, Đà Nẵng became a gateway for a rich trade and for diplomacy. Sanskrit inscriptions found in Hóa Quê -now part of Đà Nẵng City, list its many temples, monasteries, and the residences of Champa nobility in the area.
The strategic position of Đà Nẵng also made it a center for conflict. Its buildings were often destroyed in the continuous wars -the Champa architecture suffered particularly. While some Cham temples still exist in neighboring provinces, what survives from the Champa era in Đà Nẵng are only the remains of foundations, and artifacts collected and conserved in museums.
Although the architectural works of the Champa are no longer visible, archaeological excavations have helped discover evidence of the development of the Đà Nẵng region. These discoveries include evidence of ancient contacts with civilizations on the Indian sub-continent.
In the 2011-12 season, the Đà Nẵng Museum of Cham Sculpture conducted archaeological excavations at the ancient Champa locations in Phong Lệ (now in Cẩm Lệ District of Đà Nẵng city) and in Cấm Mít (now in the Hòa Vang District of Đà Nẵng City). At these two sites, archaeologists have unearthed the structures of Cham towers, built around 1000 years ago.
[2]
An important find in their foundations were gold plates, placed intentionally at each of the towers’ corners. It has been reported that in other sites, caskets of gold and gemstones have been found in the center of Cham foundations.
[3]
In the Phong Lệ and Cấm Mít cases, any valuable caskets are lost. Only a few tiny gems remained in the sand -and evidence of previous digging.
Photo 1& 2: The corners of the temple foundation where the pieces of gold were place under the round pebbles.
Photo 3. Eight pieces of gold found in the foundation corners of Phong Le temple
Interpretations of the structure of the Champa temples can be found in ancient Indian texts describing the rituals of construction of a Hindu temple. One of these books is
Kāśyapaśilpa,
composed in the 11th and 12th centuries. Three important chapters in
Kāśyapaśilpa
are
Prathameṣṭakā-nyāsa
(“The placing of the first bricks”),
Garbha-nyāsa
(“The placing of the consecration deposit”) and
Mūrdeheṣṭakā-nyāsa
(“The placing of the crowning bricks”).
A crucial part of the ritual of
Garbha-nyāsa
is the offering of objects as a “consecration deposit” to the gods, to ensure their protection and blessing.
|
prâsâdaä
||
the consecrationdeposit,its “life-breath”)
[4]
The objects found in the holy pit of Cham temples, and the pieces of gold discovered in the foundations of the Phong Lệ and Cấm Mít remains, must have been the “deposit”, as described in the
Kāśyapaśilpa, Vastu Shilpa Shastra
and other Indian ancient texts directing the construction ritual for Hindu temples.
[1]
Anna A. Slaczka,
Temple consecration rituals in ancient India: text and archaeology (Nghi lễ cúng đền tháp Ấn Độ cổ: Văn bản và Khảo cổ) ,
Leiden, Brill, 2007.
[2]
Võ Văn Thắng, ed.,
Di tích Chăm ở Đà Nẵng – Những phát hiện mới
(
Cham Vestiges in Đà Nẵng – the new dicoveries
), Đà Nẵng publishing house, 2014.
[3]
Henri Parmentier,
Découverte d’un nouveau dépôt dans le temple de Pô Nagar de Nha-trang
, BEFEO 1909, tr 347-351. L.
A
urousseau,
Nouvelles fouilles de Đại-hữu
, BEFEO, 1926, pp 359 -362.
[4]
Anna A. Slaczka,
Temple consecration rituals in ancient India: text and archaeology,
Leiden, Brill, 2007.
[1]
Võ Văn Thắng (chủ biên),
Di tích Chăm tại thành phố Đà Nẵng- Những phát hiện mới
, Nxb Đà Nẵng 2014.
[2]
Henri Parmentier,
Découverte d’un nouveau dépôt dans le temple de Pô Nagar de Nha-trang (Khám phá một kho chứa mới trong tháp Po Nagar Nha Trang)
, BEFEO 1909, tr 347-351. L.
A
urousseau,
Nouvelles fouilles de Đại-hữu (Các cuộc khai quật mới ở Đại Hữu)
, BEFEO, 1926, tr 359 -362.
|
Archaeological discoveries in Da Nang and the relationship with ancient Indian texts
Researcher Vo Van Thang
Da Nang is a port city in Central Vietnam. The special geographical location of Da Nang has made it a place of exchange and contact with many cultures from all continents. Da Nang's seaport is shielded by the Son Tra peninsula, which is a peaceful stopping place for ships passing through the East Sea and is also a place for transshipment of forest and native products from the western mountainous areas to exchange with traders. boats everywhere. More than a thousand years ago during the period of the Champa kingdom, the Da Nang area was a gateway for trade and diplomacy. Sanskrit inscriptions found in Hoa Que - now in Da Nang city - show that this place had temples, monasteries and was the residence of the elite and aristocratic class of Champa. Da Nang's favorable location also makes this place the epicenter of historical conflicts, with architectural works constantly being destroyed during wars. The architecture of Champa is no exception, while in some neighboring provinces today we can still see some temples and towers from the Champa period still standing, in Da Nang area what remains from the Champa period are only the underground architectural foundations and artifacts collected in the museum.
Although the architectural works are no longer visible, through archaeological work, people have discovered evidence of the development of the land of Da Nang from ancient times in history, including exchange and reception of civilization from the Indian continent.
In 2011 and 2012, the Da Nang Museum of Cham Sculpture conducted archaeological excavations at Cham relics at Phong Le (now in Cam Le district, Da Nang city) and at Cam Mit (now in Hoa Vang district). , Da Nang city). At these two relics, archaeologists have revealed the foundation structure of Cham towers built about 1,000 years ago.
[first]
The important thing is that in the corners of the tower foundations deep underground, there were pieces of gold metal, intentionally placed in the same positions in all discovered tower foundations. In the center of the foundation of Cam Mit tower, gems were also found. In some other archaeological sites, people have found boxes containing items made of gold, silver and precious stones, but at Phong Le and Cam Mit relics, these boxes have disappeared, leaving only traces of previous digging. This.
[2]
Photos 1 & 2: Niches for placing pieces of gold and precious stones at the foundation of the Cham tower at Phong Le
Photo 3: Eight pieces of gold placed in niches at the foundation of Phong Le Cham tower.
Photo 4. Elephant-shaped gold pieces found at Cham relics at Cam Mit.
The explanation for the Champa tower's foundation structure can be found in ancient Indian texts on construction. A book about architectural art mentioned by researchers is called
Kāśyapaśilpa
compiled around the 11th and 12th centuries. Three important chapters in the book
Kāśyapaśilpa
To be
Prathameṣṭakā-nyāsa
(Laying the first brick),
Garbha-nyāsa
(Place the item inside the tower) and
Mūrdeheṣṭakā-nyāsa
(Place the top of the tower).
Ceremony
Garbha-nyāsa
is to place "offering" items to the gods to receive their protection and blessings:
|
prâsâdaä
||
[first]
(The tower is considered a body.
The offerings placed therein are the seeds of life.)
The gold, silver, and precious stone items found in the hearts of Cham towers and small niches with pieces of gold placed inside discovered in the foundations of Cham towers in Phong Le and Cam Mit in Da Nang must be related to The ritual of building temples and towers and the ritual of placing "offering" items as mentioned in the books
Kāśyapaśilpa
,
Vastu Shilpa Shastra
and ancient documents on temple architecture in India.
V.V.T
ARCHEOLOGICAL DISCOVERY OF ANCIENT INDIAN TEXTS IN DA NANG
Vo Van Thang
Da Nang is the major port city of Central Vietnam -protected from storms by the Son Tra peninsula. It has historically been a haven for merchant ships plying the busy East Sea. It was particularly important to the lumber trade, exporting products from the western mountains. Its special geographical location makes it a trading hub and a lively place for cultural exchanges.
Over a thousand years ago, during the period of the Champa Kingdom, Da Nang became a gateway for a rich trade and for diplomacy. Sanskrit inscriptions found in Hoa Que -now part of Da Nang City, list its many temples, monasteries, and the residences of Champa nobility in the area.
The strategic position of Da Nang also makes it a center for conflict. Its buildings were often destroyed in the continuous wars -the Champa architecture suffered particularly. While some Cham temples still exist in neighboring provinces, what survives from the Champa era in Da Nang are only the remains of foundations, and artifacts collected and conserved in museums.
Although the architectural works of the Champa are no longer visible, archaeological excavations have helped discover evidence of the development of the Da Nang region. These discoveries include evidence of ancient contacts with civilizations on the Indian sub-continent.
In the 2011-12 season, the Da Nang Museum of Cham Sculpture conducted archaeological excavations at the ancient Champa locations in Phong Le (now in Cam Le District of Da Nang city) and in Cam Mit (now in the Hoa Vang District of Da Nang City). At these two sites, archaeologists have unearthed the structures of Cham towers, built around 1000 years ago.
[2]
An important find in their foundations were gold plates, placed intentionally at each of the towers' corners. It has been reported that in other sites, caskets of gold and gemstones have been found in the center of Cham foundations.
[3]
In the Phong Le and Cam Mit cases, any valuable caskets are lost. Only a few tiny gems remain in the sand -and evidence of previous digging.
Photo 1& 2: The corners of the temple foundation where the pieces of gold were place under the round pebbles.
Photo 3. Eight pieces of gold found in the foundation corners of Phong Le temple
Interpretations of the structure of the Champa temples can be found in ancient Indian texts describing the rituals of construction of a Hindu temple. One of these books is
Kāśyapaśilpa,
composed in the 11th and 12th centuries. Three important chapters in
Kāśyapaśilpa
are
Prathameṣṭakā-nyāsa
(“The placing of the first bricks”),
Garbha-nyāsa
(“The placing of the consecration deposit”) and
Mūrdeheṣṭakā-nyāsa
(“The placing of the crowning bricks”).
A crucial part of the ritual of
Garbha-nyāsa
is the offering of objects as a “consecration deposit” to the gods, to ensure their protection and blessing.
|
prâsâdaä
||
the consecrationdeposit,its “life-breath”)
[4]
The objects found in the holy pit of Cham temples, and the pieces of gold discovered in the foundations of the Phong Le and Cam Mit remains, must have been the “deposit”, as described in the
Kāśyapaśilpa, Vastu Shilpa Shastra
and other Indian ancient texts directing the construction ritual for Hindu temples.
[first]
Anna A. Slaczka,
Temple consecration rituals in ancient India: text and archaeology,
Leiden, Brill, 2007.
[2]
Vo Van Thang, ed.,
Cham relics in Da Nang - New discoveries
(
Cham Vestiges in Da Nang – the new dicoveries
), Da Nang publishing house, 2014.
[3]
Henri Parmentier,
Découverte d'un nouveau depot dans le temple de Po Nagar de Nha-trang
, BEFEO 1909, pp. 347-351. L.
A
urousseau,
Nouvelles fouilles de Great-existence
, BEFEO, 1926, pp. 359 -362.
[4]
Anna A. Slaczka,
Temple consecration rituals in ancient India: text and archaeology,
Leiden, Brill, 2007.
[first]
Vo Van Thang (editor),
Cham relics in Da Nang city - New discoveries
, Danang Publishing House 2014.
[2]
Henri Parmentier,
Découverte d'un nouveau deôt dans le temple de Po Nagar de Nha Trang (Discover a new warehouse in Po Nagar Nha Trang tower)
, BEFEO 1909, pp. 347-351. L.
A
urousseau,
Nouvelles fouilles de Dai-huu (New excavations at Dai-huu)
, BEFEO, 1926, pp. 359 -362.
|
LỊCH SỬ
CĂN CỨ LÕM CÁCH MẠNG B1 HỒNG PHƯỚC
(1960 – 1975)
Biên soạn: Bùi Xuân
LỜI NÓI ĐẦU
Theo
Từ điển bách khoa Việt Nam
, căn cứ địa là “vùng được chọn để làm bàn đạp xây dựng và phát triển phong trào cách mạng ra các vùng khác. Căn cứ địa cách mạng phải có khả năng tạo được những cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội và địa lý thuận lợi cho đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng”
[1]
. Còn theo
Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam
, “Căn cứ địa cách mạng là vùng lãnh thổ và dân cư do lực lượng cách mạng làm chủ, tương đối an toàn (có thể là vùng tự do hoặc căn cứ du kích đã được xây dựng, củng cố vững chắc); nơi đứng chân và làm chỗ dựa để lực lượng cách mạng chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa hoặc chiến tranh cách mạng. Theo đơn vị hành chính, có căn cứ địa cách mạng: Trung ương, địa phương, cơ sở; theo địa hình và vùng lãnh thổ, có căn cứ địa cách mạng: ở đồng bằng, vùng núi, đô thị; ngoài ra còn có căn cứ địa ngay trong vùng địch kiểm soát gọi là căn cứ lõm”
[2]
.
Thực tế, các quan chức và tướng tá Mỹ trực tiếp dính líu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã không thể nào đánh giá hết được tinh thần yêu nước của người Việt Nam, không thể hiểu được là bằng những công cụ hết sức thô sơ như cuốc, thuổng, người Việt Nam đã đào được những địa đạo nằm sâu trong lòng đất như Củ Chi, Vĩnh Mốc; không thể hiểu được một ngôi làng nhỏ như thôn Hồng Phước với những bãi cát trắng nằm lọt hẳn trong khu căn cứ quân sự và hậu cần của quân Mỹ ở vùng ven phía Tây thành phố Đà Nẵng lại là một căn cứ lõm của cách mạng. Nhiều gia đình ở Hồng Phước, với lòng trung thành và quyết tâm bảo vệ cách mạng, đã đào 46 căn hầm bí mật ở trong nhà, ngoài vườn, có nhà đào đến 6 hoặc 7 căn hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ, bộ đội, du kích, cơ sở, hoặc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Căn cứ lõm cách mạng B1 Hồng Phước được xây dựng từ năm 1960, sau khi Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ra đời và phát triển mạnh mẽ vào những năm 1965, 1966, 1967, là căn cứ quan trọng của Quận Nhì – Đà Nẵng trong 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 và mùa Xuân năm 1975, là điểm đến an toàn, là bàn đạp tiến công địch của các lực lượng cách mạng, là nơi quân ta tiến và lùi đều có dân nuôi giấu, che chở, chỉ đường. Căn cứ lõm cách mạng B1 Hồng Phước là căn cứ của lòng dân.
Trong những năm tháng khó nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, căn cứ lõm cách mạng B1 Hồng Phước vẫn bảo đảm là địa bàn đón được nhiều đồng chí lãnh đạo của Đặc khu ủy Quảng Đà, Khu ủy Khu I – Hòa Vang, Quận ủy Quận Nhì – Đà Nẵng, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Quảng Đà, Hòa Vang… về đứng chân hoạt động. Sở dĩ được như thế là vì nơi đây hội tụ được các yếu tố về thiên thời, địa lợi, nhân hòa, lại được sự giúp đỡ, chia lửa của các địa phương lân cận, đặc biệt là các thôn Xuân Thiều, Thủy Tú, Thổ Trại, Kim Liên… nên đã vượt qua được nhiều thử thách, tồn tại cho đến ngày toàn thắng. Quân Mỹ, quân ngụy đã không thể ngờ tới, ở một nơi là căn cứ quân sự và hậu cần của chúng lại là căn cứ địa của ta, là nơi xuất phát những trận tiến công tiêu diệt các căn cứ lớn của chúng như trận địa pháo Thanh Vinh, căn cứ hậu cần Bàu Mạc, căn cứ Hoa Lưu, tỉnh đường Quảng Trị “lưu vong”… và nhiều đồn bót lớn nhỏ khác.
Xuất phát từ yêu cầu về giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, nhân dịp Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà Đảng và Nhà nước đã ghi nhận và tuyên dương về những đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân căn cứ lõm cách mạng Hồng Phước vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời trên cơ sở tập sách “
B1- Hồng Phước, một thời nhớ mãi”
đã xuất bản, Quận ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Liên Chiểu và quận Thanh Khê đã phối hợp tổ chức chỉ đạo biên soạn và xuất bản tập sách
“Lịch sử căn cứ lõm cách mạng B1 Hồng Phước (1960 – 1975)”
nhằm ghi lại một cách cơ bản, đầy đủ về quá trình hình thành, phát triển của Căn cứ lõm cách mạng B1 Hồng Phước từ buổi đầu xây dựng căn cứ cho đến sau ngày đất nước thống nhất, nhằm làm tài liệu chính thức tuyên truyền về “địa chỉ đỏ” này.
Để triển khai biên soạn tập sách, Quận ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Liên Chiểu và quận Thanh Khê đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo biên soạn và Ban biên soạn, chỉ đạo cho Ban Tuyên giáo Quận ủy và Phòng Văn hóa – Thông tin của Ủy ban Nhân dân 2 quận cùng với Ban biên soạn trực tiếp triển khai công tác sưu tầm, bổ sung tư liệu, hình ảnh, tổ chức các cuộc gặp mặt nhân chứng, hội thảo, tọa đàm, xây dựng đề cương và biên soạn công trình. Tuy có rất nhiều cố gắng, song do hạn chế về thời gian và tài liệu, nhiều nhân chứng đã qua đời, ốm đau, hoặc do cao niên nên trí nhớ không còn được như xưa, vì vậy, tập sách này chắc hẳn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong đồng bào, đồng chí và bạn đọc góp ý, bổ sung tư liệu và chỉnh lý để lần tái bản sẽ được hoàn chỉnh hơn.
QUẬN ỦY, HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN DÂN,
ỦY BAN MẶTTRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
QUẬN LIÊN CHIỂU VÀ QUẬN THANH KHÊ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
[1]
Trung tâm Từ điển bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách k hoa , Hà Nội, 2005, tr 371.
[2]
Bộ Quốc phòng – Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr127.
|
HISTORY
B1 REVOLUTIONARY BASE HONG PHUOC
(1960 – 1975)
Editor: Bui Xuan
PREFACE
According to
Vietnamese encyclopedia
, a base is "an area chosen to serve as a springboard for building and developing the revolutionary movement to other regions. Revolutionary bases must be able to create political, military, economic, social and geographical foundations favorable for revolutionary struggle and revolutionary war.
[first]
. Still following
Vietnam military encyclopedia
, “A revolutionary base is a territory and population owned by revolutionary forces and relatively safe (it can be a free zone or a guerrilla base that has been built and firmly fortified); a place to stand and support the revolutionary forces in preparing all aspects for an uprising or revolutionary war. According to administrative units, there are revolutionary bases: Central, local, grassroots; According to terrain and territory, there are revolutionary bases: in the plains, mountains, and urban areas; In addition, there are also bases right in the enemy's controlled area called recessed bases.
[2]
.
In fact, American officials and generals directly involved in the war in Vietnam were unable to fully appreciate the patriotism of the Vietnamese people, and could not understand it with extremely crude tools. As simple as hoes and spades, Vietnamese people have dug tunnels deep underground such as Cu Chi and Vinh Moc; It is impossible to understand that a small village like Hong Phuoc village with white sand beaches located completely within the American military and logistics base on the western outskirts of Da Nang city is a hidden base of the revolution. . Many families in Hong Phuoc, with their loyalty and determination to protect the revolution, dug 46 secret bunkers in their homes and gardens. Some families dug up to 6 or 7 secret bunkers to hide cadres. soldiers, guerrillas, facilities, or taking care of wounded and sick soldiers. B1 Hong Phuoc revolutionary base was built in 1960, after Resolution 15 of the Party Central Committee (term II) was born and developed strongly in 1965, 1966, 1967, as a base. important role of District II - Da Nang during the two General Offensives and Uprisings of the Tet Offensive in 1968 and the Spring of 1975, as a safe destination, a springboard to attack the enemy of revolutionary forces, and a place where soldiers When we advance and retreat, there are people who feed us, protect us, and show us the way. B1 Hong Phuoc revolutionary base is the base of the people's hearts.
During the most difficult years of the resistance war against the US to save the country, the B1 Hong Phuoc revolutionary base still guaranteed to be the place to welcome many leaders of the Quang Da Special Region Party Committee and the Party Committee of Zone I - Hoa. Vang, District Party Committee of Second District - Da Nang, main army units, local soldiers of Quang Da, Hoa Vang... returned to stand and operate. The reason for this is because this place converges the elements of favorable weather, favorable terrain, harmony of people, and receives the help and sharing of fire from neighboring localities, especially the villages of Xuan Thieu and Thuy Tu. , Tho Trai, Kim Lien... so they overcame many challenges and survived until the day of complete victory. The American and puppet troops could not have imagined that in a place that was their military and logistics base, it would also be our base, the starting point of attacks to destroy their large bases like the battle Thanh Vinh artillery base, Bau Mac logistics base, Hoa Luu base, "exiled" Quang Tri province... and many other large and small posts.
Stemming from the requirement of educating revolutionary traditions for cadres, party members and people, especially the young generation, on the occasion of the ceremony to receive the title of Hero of the People's Armed Forces that the Party and State recognized and commended the contributions of cadres, party members and people based on the Hong Phuoc revolution to the revolutionary cause of the Party and the nation, and at the same time on the basis of the booklet "
B1- Hong Phuoc, a time to remember forever"
published, the District Party Committee, People's Council, People's Committee and Vietnam Fatherland Front Committee of Lien Chieu and Thanh Khe districts have coordinated to organize and direct the compilation and publication of the booklet.
“History of B1 Hong Phuoc revolutionary base (1960 – 1975)”
In order to basically and completely record the process of formation and development of the B1 Hong Phuoc Revolutionary Base from the beginning of the base's construction until after the country's reunification, in order to make an official document declaring transmitted to this "red address".
To compile the booklet, the District Party Committee, People's Council, People's Committee and Vietnam Fatherland Front Committee of Lien Chieu and Thanh Khe districts decided to establish a Steering Committee and Editorial Committee. , directed the District Party Committee Propaganda Department and the Culture and Information Department of the People's Committees of the two districts along with the Editorial Board to directly carry out the work of collecting and supplementing documents and images, and organizing meetings. witnesses, seminars, discussions, outline development and project compilation. Although there have been many efforts, due to limitations in time and documents, many witnesses have passed away, are sick, or due to old age, their memory is no longer the same as before, so this booklet is probably not the best. avoid limitations and shortcomings. We hope that our compatriots, comrades and readers will give comments, supplement documents and make corrections so that the next edition will be more complete.
DISTRICT COMMITTEE, PEOPLE'S COUNCIL, PEOPLE'S COMMITTEE,
VIETNAM FATHERLAND FRONT COMMITTEE
LIEN CHIEU DISTRICT AND THANH KHE DISTRICT,
DA NANG CITY
[first]
Vietnam Encyclopedia Center: Vietnam Encyclopedia, Encyclopedia Publishing House, Hanoi, 2005, page 371.
[2]
Ministry of National Defense - Military Encyclopedia Center: Vietnam Military Encyclopedia, People's Army Publishing House, Hanoi, 2005, p127.
|
HỒNG PHƯỚC, MỘT THỜI KHÔNG QUÊN
Trung tướng NGUYỄN THANH TUẤN
Hôm nay tôi trở lại với Hồng Phước sau khi nhận quyết định nghỉ chờ hưu của cấp trên. Đứng trên mảnh đất mà một thời sống chết gắn bó nay tôi vẫn cảm thấy hình như có một điều gì đó chưa trọn, mình chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Hôm rồi tôi đến Thư viện Quân khu 5 để tìm hiểu về một địa danh, một xóm nhỏ, thôn nhỏ có tên là Hồng Phước (Hường Phước), nay thuộc phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiêu, thành phố Đà Nẵng. Cô thủ thư mang ra cho tôi hơn một chục cuốn sách nói về Đà Nẵng, cả về địa lý, lịch sử, truyền thống… Nhưng tôi chỉ tìm ra được một vài câu nói về Hồng Phước, về cái địa chỉ đỏ mà tôi đã có một thời ăn cơm do dân nấu, ngủ hầm bí mật do dân đào, cùng với con em cơ sở đi đánh cá trên Bàu Tràm, tiếp cơ sở nội thành hoặc đón cơ sở đưa về căn cứ để nắm tình hình, bồi dưỡng chính trị, huấn luyện quân sự, lên phương án và tổ chức đánh địch… Và cho đến cái ngày 29 tháng 3 lịch sử anh em trong đội đặc công biệt động chúng tôi cùng các đơn vị của thành phố, Tinh đội, Quân khu và Bộ về giải phóng Đà Nẵng.
Vừa rồi theo đề nghị của Quận ủy Liên Chiểu tôi có quay trở lại Hồng Phước, nơi đây đang nằm trong vùng quy hoạch khu đô thị, khu công nghiệp của thành phố. Anh Dương Thành Thị, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND quận có nói với tôi rằng quận đang làm tờ trình đề nghị thành phố cho phép quận xây dựng một điểm di tích lưu dấu lại địa chỉ đỏ anh hùng này, nếu không ngày mai đây khi đã hoàn thành việc đô thị hóa thì sẽ chẳng tìm đâu ra dấu vết của một làng nhỏ ven đô một thời là căn cứ lõm của cách mạng. Tôi rất mừng và ủng hộ chủ trương này vì đây là một chủ trương đúng, hợp lòng dân, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn đồng thời cũng là một trong nhiều địa điểm văn hóa giáo dục truyền thống cho các thế hệ người Đà Nẵng hôm nay và mai sau.
Xóm nhỏ Hồng Phước nằm cách trung tâm Đà Nẵng chưa đầy 10 cây số đường chim bay, suốt trong thời kỳ chống Mỹ, địch kèm kẹp, đánh phá, lùng sục để thực hiện mục tiêu “tát nước bắt cá” với nhiều thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, nguy hiểm để loại lực lượng cách mạng ra khỏi thành phố. Thế nhưng Hồng Phước vẫn kiên trung trụ vững, cả xóm hơn 60 gia đình, hầu như tất cả đều gắn bó với cách mạng, gần 100% đều là gia đình cơ sở của Quận ủy Quận Nhì – Đà Nẵng, của Khu ủy Khu 1 – Hòa Vang, mỗi nhà đều có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ, có gia (tình đã đào 7 căn hầm bí mật. Hình tượng ngọn đèn đứng gác, với tôi, Hồng Phước là một nhân chứng sống, ở đây nhà mẹ Dĩ và một số mẹ khác đã đêm đêm
thắp sáng ngọn đèn để chỉ lối cho chúng tôi về, cứ thấy ánh đèn le lói sáng trong đêm là lòng anh em chúng tôi như ấm lại. Đó là tín hiệu báo chúng tôi lại về cùng Hồng Phước an toàn, để từ đây sẽ có tin từ nội thành ra, gặp cơ sở để nắm tình hình, huấn luyện cấp tốc kỹ thuật, cách đánh cho đội viên biệt động, hướng dẫn những vấn đề cần thiết khác…
Nhớ lại khi ấy là tháng 8 năm 1973 tôi từ trường đặc công Quân khu về lại Quảng Đà công tác với nhiệm vụ nghiên cứu thực tế hoạt động chiến đấu của biệt động thành nhằm có thực tiễn đề xuất công tác huấn luyện biệt động của trường. Về đến nơi tôi được Bộ tư lệnh Mặt trận giao nhiệm vụ về Quận Nhì tham gia huấn luyện, xây dựng lực lượng biệt động của quận, từ đó tôi đã gắn bó với làng quê nhỏ này.
Hồng Phước có lúc người lớn tuổi ở đây còn gọi là Hường Phước, có nghĩa là phước lớn. Không biết Hồng Phước khai thiên, lập địa từ lúc nào? Song khi về đây tôi cảm nhận một điều là người dân ở đây đã đem “phước lớn” về cho cách mạng, đã biến nơi đây thành một căn cứ lõm để lãnh đạo thành phố, quận về đây hoạt động. Từ đây những chủ trương, chính sách của Đảng đã thâm nhập về nội thành, cán bộ của ta cũng từ đây mà đi vào thành phố và cơ sở của ta ngược từ thành phố về đây. Từ đây, bộ đội ta đi điều nghiên
[1]
các căn cứ Thanh Vinh, Bàu Mạc, tổng hành dinh Sư đoàn 3 ngụy, sân bay Xuân Thiều… để từ đó nhiều trận đánh với hiệu suất cao đã nổ ra làm cho Mỹ, ngụy kinh hoàng khiếp đảm, góp phần cùng quân dân Quảng Đà nói riêng và cả nước nói chung đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc địch xuống thang chiến tranh ký kết Hiệp định Paris, Mỹ cút và tất yếu dẫn đến mùa Xuân tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 ngụy phải nhào, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống hai tên đế quốc to là Pháp và Mỹ cả nước có rất nhiều những căn cứ lõm như Hồng Phước, thậm chí có nơi quy mô và lực lượng lớn hơn nhiều, nhưng Hồng Phước vẫn là nơi mà với tôi đây là một địa chỉ đỏ khó có thể lý giải đầy đủ sức mạnh của lòng dân. Một làng quê nghèo quanh năm chỉ trồng đậu trồng mè, sản xuất rau màu, đốn củi, đốt than để sống đã vượt qua cám dỗ của sự mua chuộc, sự đàn áp dã man, sự kìm kẹp quản lý tưởng chừng không một con muỗi nào có thể chui lọt lại là một vùng đất cách mạng mà ban ngày là địch, ban đêm là ta ngay sát nách thành phố mấy chục năm trường qua mắt cả một hệ thống dày đặc thám báo mật vụ, tình báo gián điệp và hệ thống cảnh sát chính quyền từ liên gia, ấp, xã đến quận, thành phố… Phải chăng lòng yêu nước và niềm tin vào cách mạng, vào những cán bộ, đảng viên, những người luôn đi trước để làng nước theo sau, sẵn sàng hy sinh thân mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước, bằng hành động của mình họ đã lôi cuốn được người dân nơi đây tin tưởng noi theo.
Với vị trí của mình, Hồng Phước đã tạo nên một điểm đứng chân thuận lợi cho các lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng vũ trang. Từ đây các đơn vị của quận, của Mặt trận 4 đã tổ chức các trận đánh vào sâu trong nội thành Đà Nẵng và các đơn vị hậu cần công binh, pháo binh Mỹ, ngụy… Cũng từ nơi đây các chủ trương của ta đã được chuyển vào cơ sở nội thành thông qua hệ thống giao liên hợp pháp và đón cơ sở từ thành phố ra để đưa về căn cứ huấn luyện, bồi dưỡng chính trị, gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo của quận, của đặc khu nghe quán triệt các nhiệm vụ quan trọng trong từng giai đoạn cách mạng. Cứ thế người dân Hồng Phước đã thầm lặng kiên gan gắn bó cùng cách mạng cho đến ngày Đà Nẵng giải phóng. Nhớ lại những ngày gian khổ ấy dân một lòng theo Đảng, sức mạnh lòng dân đã làm nên chiến thắng. Với tôi, những ngày được sống công tác và chiến đấu trong những năm chống Mỹ, được gắn bó cùng bà con Hồng Phước là một thời tôi mãi không quên.
Chỉ còn mấy tháng nữa là tròn 40 năm ngày giải phóng Đà Nẵng, với tôi có thể khẳng định rằng ngày ấy mãi mãi không bao giờ quên trong ký ức. Thế mà gần 40 năm qua ít có sách báo nào nói về cái địa chỉ này, mặc dù năm 2005, tôi đã gặp các anh lãnh đạo thành phố và nói về vùng đất này, mong quan tâm đến hơn 60 gia đình cơ sở cách mạng của Hồng Phước đang gặp nhiều vấn đề về đời sống, về sự đền ơn, trả nghĩa, về công ăn việc làm với con em của họ… ở một làng quê đã từng là căn cứ lõm của Quận Nhì, của Khu ủy 1 – Hòa Vang trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Với bài viết này tôi mong các cấp Đảng, chính quyền thành phố Đà Nẵng hãy quan tâm nhiều hơn đến các đối tượng chính sách, quan tâm nhiều hơn đến những vùng căn cứ lõm của cách mạng trên địa bàn thành phố như K20, Thanh Khê, Thạc Gián và Hồng Phước. Tôi tin và mong Thành ủy, UBND thành phố sẽ đồng ý để quận Liên Chiểu xây dựng một điểm di tích cách mạng tại làng Hồng Phước để giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau, để mỗi chúng ta khi nhớ về quê hương luôn tự hào Đà Nẵng có nhiều địa chỉ đỏ anh hùng.
Đà Nẵng, cuối năm 2014
N.T.T
[1]
Điều nghiên là điều tra và nghiên cứu, ví dụ: điều nghiên tổ chức trận đánh, điều nghiên các tình tiết tội phạm…Chú thích của Người biên soạn tập sách.
|
HỒNG PHƯỚC, MỘT THỜI KHÔNG QUÊN
Trung tướng NGUYỄN THANH TUẤN
Hôm nay tôi trở lại với Hồng Phước sau khi nhận quyết định nghỉ chờ hưu của cấp trên. Đứng trên mảnh đất mà một thời sống chết gắn bó nay tôi vẫn cảm thấy hình như có một điều gì đó chưa trọn, mình chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Hôm rồi tôi đến Thư viện Quân khu 5 để tìm hiểu về một địa danh, một xóm nhỏ, thôn nhỏ có tên là Hồng Phước (Hường Phước), nay thuộc phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiêu, thành phố Đà Nẵng. Cô thủ thư mang ra cho tôi hơn một chục cuốn sách nói về Đà Nẵng, cả về địa lý, lịch sử, truyền thống… Nhưng tôi chỉ tìm ra được một vài câu nói về Hồng Phước, về cái địa chỉ đỏ mà tôi đã có một thời ăn cơm do dân nấu, ngủ hầm bí mật do dân đào, cùng với con em cơ sở đi đánh cá trên Bàu Tràm, tiếp cơ sở nội thành hoặc đón cơ sở đưa về căn cứ để nắm tình hình, bồi dưỡng chính trị, huấn luyện quân sự, lên phương án và tổ chức đánh địch… Và cho đến cái ngày 29 tháng 3 lịch sử anh em trong đội đặc công biệt động chúng tôi cùng các đơn vị của thành phố, Tinh đội, Quân khu và Bộ về giải phóng Đà Nẵng.
Vừa rồi theo đề nghị của Quận ủy Liên Chiểu tôi có quay trở lại Hồng Phước, nơi đây đang nằm trong vùng quy hoạch khu đô thị, khu công nghiệp của thành phố. Anh Dương Thành Thị, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND quận có nói với tôi rằng quận đang làm tờ trình đề nghị thành phố cho phép quận xây dựng một điểm di tích lưu dấu lại địa chỉ đỏ anh hùng này, nếu không ngày mai đây khi đã hoàn thành việc đô thị hóa thì sẽ chẳng tìm đâu ra dấu vết của một làng nhỏ ven đô một thời là căn cứ lõm của cách mạng. Tôi rất mừng và ủng hộ chủ trương này vì đây là một chủ trương đúng, hợp lòng dân, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn đồng thời cũng là một trong nhiều địa điểm văn hóa giáo dục truyền thống cho các thế hệ người Đà Nẵng hôm nay và mai sau.
Xóm nhỏ Hồng Phước nằm cách trung tâm Đà Nẵng chưa đầy 10 cây số đường chim bay, suốt trong thời kỳ chống Mỹ, địch kèm kẹp, đánh phá, lùng sục để thực hiện mục tiêu “tát nước bắt cá” với nhiều thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, nguy hiểm để loại lực lượng cách mạng ra khỏi thành phố. Thế nhưng Hồng Phước vẫn kiên trung trụ vững, cả xóm hơn 60 gia đình, hầu như tất cả đều gắn bó với cách mạng, gần 100% đều là gia đình cơ sở của Quận ủy Quận Nhì – Đà Nẵng, của Khu ủy Khu 1 – Hòa Vang, mỗi nhà đều có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ, có gia (tình đã đào 7 căn hầm bí mật. Hình tượng ngọn đèn đứng gác, với tôi, Hồng Phước là một nhân chứng sống, ở đây nhà mẹ Dĩ và một số mẹ khác đã đêm đêm
thắp sáng ngọn đèn để chỉ lối cho chúng tôi về, cứ thấy ánh đèn le lói sáng trong đêm là lòng anh em chúng tôi như ấm lại. Đó là tín hiệu báo chúng tôi lại về cùng Hồng Phước an toàn, để từ đây sẽ có tin từ nội thành ra, gặp cơ sở để nắm tình hình, huấn luyện cấp tốc kỹ thuật, cách đánh cho đội viên biệt động, hướng dẫn những vấn đề cần thiết khác…
Nhớ lại khi ấy là tháng 8 năm 1973 tôi từ trường đặc công Quân khu về lại Quảng Đà công tác với nhiệm vụ nghiên cứu thực tế hoạt động chiến đấu của biệt động thành nhằm có thực tiễn đề xuất công tác huấn luyện biệt động của trường. Về đến nơi tôi được Bộ tư lệnh Mặt trận giao nhiệm vụ về Quận Nhì tham gia huấn luyện, xây dựng lực lượng biệt động của quận, từ đó tôi đã gắn bó với làng quê nhỏ này.
Hồng Phước có lúc người lớn tuổi ở đây còn gọi là Hường Phước, có nghĩa là phước lớn. Không biết Hồng Phước khai thiên, lập địa từ lúc nào? Song khi về đây tôi cảm nhận một điều là người dân ở đây đã đem “phước lớn” về cho cách mạng, đã biến nơi đây thành một căn cứ lõm để lãnh đạo thành phố, quận về đây hoạt động. Từ đây những chủ trương, chính sách của Đảng đã thâm nhập về nội thành, cán bộ của ta cũng từ đây mà đi vào thành phố và cơ sở của ta ngược từ thành phố về đây. Từ đây, bộ đội ta đi điều nghiên
[1]
các căn cứ Thanh Vinh, Bàu Mạc, tổng hành dinh Sư đoàn 3 ngụy, sân bay Xuân Thiều… để từ đó nhiều trận đánh với hiệu suất cao đã nổ ra làm cho Mỹ, ngụy kinh hoàng khiếp đảm, góp phần cùng quân dân Quảng Đà nói riêng và cả nước nói chung đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc địch xuống thang chiến tranh ký kết Hiệp định Paris, Mỹ cút và tất yếu dẫn đến mùa Xuân tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 ngụy phải nhào, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống hai tên đế quốc to là Pháp và Mỹ cả nước có rất nhiều những căn cứ lõm như Hồng Phước, thậm chí có nơi quy mô và lực lượng lớn hơn nhiều, nhưng Hồng Phước vẫn là nơi mà với tôi đây là một địa chỉ đỏ khó có thể lý giải đầy đủ sức mạnh của lòng dân. Một làng quê nghèo quanh năm chỉ trồng đậu trồng mè, sản xuất rau màu, đốn củi, đốt than để sống đã vượt qua cám dỗ của sự mua chuộc, sự đàn áp dã man, sự kìm kẹp quản lý tưởng chừng không một con muỗi nào có thể chui lọt lại là một vùng đất cách mạng mà ban ngày là địch, ban đêm là ta ngay sát nách thành phố mấy chục năm trường qua mắt cả một hệ thống dày đặc thám báo mật vụ, tình báo gián điệp và hệ thống cảnh sát chính quyền từ liên gia, ấp, xã đến quận, thành phố… Phải chăng lòng yêu nước và niềm tin vào cách mạng, vào những cán bộ, đảng viên, những người luôn đi trước để làng nước theo sau, sẵn sàng hy sinh thân mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước, bằng hành động của mình họ đã lôi cuốn được người dân nơi đây tin tưởng noi theo.
Với vị trí của mình, Hồng Phước đã tạo nên một điểm đứng chân thuận lợi cho các lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng vũ trang. Từ đây các đơn vị của quận, của Mặt trận 4 đã tổ chức các trận đánh vào sâu trong nội thành Đà Nẵng và các đơn vị hậu cần công binh, pháo binh Mỹ, ngụy… Cũng từ nơi đây các chủ trương của ta đã được chuyển vào cơ sở nội thành thông qua hệ thống giao liên hợp pháp và đón cơ sở từ thành phố ra để đưa về căn cứ huấn luyện, bồi dưỡng chính trị, gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo của quận, của đặc khu nghe quán triệt các nhiệm vụ quan trọng trong từng giai đoạn cách mạng. Cứ thế người dân Hồng Phước đã thầm lặng kiên gan gắn bó cùng cách mạng cho đến ngày Đà Nẵng giải phóng. Nhớ lại những ngày gian khổ ấy dân một lòng theo Đảng, sức mạnh lòng dân đã làm nên chiến thắng. Với tôi, những ngày được sống công tác và chiến đấu trong những năm chống Mỹ, được gắn bó cùng bà con Hồng Phước là một thời tôi mãi không quên.
Chỉ còn mấy tháng nữa là tròn 40 năm ngày giải phóng Đà Nẵng, với tôi có thể khẳng định rằng ngày ấy mãi mãi không bao giờ quên trong ký ức. Thế mà gần 40 năm qua ít có sách báo nào nói về cái địa chỉ này, mặc dù năm 2005, tôi đã gặp các anh lãnh đạo thành phố và nói về vùng đất này, mong quan tâm đến hơn 60 gia đình cơ sở cách mạng của Hồng Phước đang gặp nhiều vấn đề về đời sống, về sự đền ơn, trả nghĩa, về công ăn việc làm với con em của họ… ở một làng quê đã từng là căn cứ lõm của Quận Nhì, của Khu ủy 1 – Hòa Vang trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Với bài viết này tôi mong các cấp Đảng, chính quyền thành phố Đà Nẵng hãy quan tâm nhiều hơn đến các đối tượng chính sách, quan tâm nhiều hơn đến những vùng căn cứ lõm của cách mạng trên địa bàn thành phố như K20, Thanh Khê, Thạc Gián và Hồng Phước. Tôi tin và mong Thành ủy, UBND thành phố sẽ đồng ý để quận Liên Chiểu xây dựng một điểm di tích cách mạng tại làng Hồng Phước để giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau, để mỗi chúng ta khi nhớ về quê hương luôn tự hào Đà Nẵng có nhiều địa chỉ đỏ anh hùng.
Đà Nẵng, cuối năm 2014
N.T.T
[1]
Điều nghiên là điều tra và nghiên cứu, ví dụ: điều nghiên tổ chức trận đánh, điều nghiên các tình tiết tội phạm…Chú thích của Người biên soạn tập sách.
|
Văn hóa Hòa Bình
Văn hóa Hòa Bình
được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới. Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Nhưng thời gian gần đây, hoạt động của các nhà khảo cổ học trong suốt từ năm 1975 lại đây đã cho thấy một hướng mới về quan niệm khác về thời đại cũng như không gian của Văn hóa Hòa Bình.
Cơ sở tổng quát
Văn hóa Hoà Bình thuộc thời Đồ đá cũ sang Đồ đá mới (cách ngày nay 34.100 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.
Dựa vào các di chỉ tìm thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành ba thời kỳ nối tiếp nhau
* Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN).
* Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TrCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN).
* Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn – 1541/I).
Lịch sử khám phá
Năm 1923, bà Madeleine Colani cùng những người hướng dẫn địa phương khám phá ra một số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa Bình. Trong mấy năm liền sau đó, bà liên tục khám phá thêm mười hai hang động trong vùng Hòa Bình, khai quật được một số lượng di vật hiếm thấy. Sau khi phân tích chúng và so sánh liên hệ với đồ đá tìm thấy trong vùng núi Bắc Sơn, bà đề nghị xem toàn thể những di vật đặc biệt bằng đá cuội, với đặc điểm là chỉ được đẽo ở lưỡi hay rìa, là của cùng một nền văn hóa, văn hóa Hòa Bình hay Hoabinhien.
Thời gian kể từ khi phát hiện các dụng cụ bằng đá và bằng xương tại di chỉ thuộc tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ còn phát hiện ở rất nhiều địa điểm khắp các quốc gia trong vùng như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra… cũng có những di tích có các công cụ cùng một ký thuật chế tác. Người ta còn tìm thấy các dụng cụ bằng đá cùng một văn hóa sinh sống ở những nơi xa hơn như, Nhật Bản, Đài Loan, Australia… Tại hội nghị “60 năm sau Hoabinhian” tổ chức tại Hà Nội, các nhà khảo cổ học thống nhất quan điểm về thuật ngữ Văn hóa Hòa Bình được xem như một khái niệm để chỉ một nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc.
Các di vật Văn hóa Hòa Bình
Vào thời kỳ đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học thực sự chưa khám phá đủ số lượng cần thiết và nhiều địa điểm chưa được khám phá, dựa trên các dụng cụ thô sơ chỉ đẽo một mặt nên việc đánh giá các di vật này chưa được chính xác với tầm quan trọng của Văn hóa Hòa Bình. Nhưng đến thập niên 1960 các khám phá khảo cổ gây sự chú ý các nhà khảo cổ học thế giới tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, các đảo nam Thái Bình Dương khiến các nhà tiền sử học đặt lại vấn đề người tiền sử tại Đông Nam Á. Trước hết, nhà khảo cổ người Úc Gorman tìm thấy tại hang Ma của Thái Lan những dấu hiệu cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình đã bắt đầu trồng trọt bầu bí sớm hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Những năm gần đây, các nhà khảo cổ học đã có những khám phá mang tính đột phá khi quan niệm mới về sự tiện dụng trong vùng Đông Nam Á nhiệt đới cổ xưa không cần hoàn toàn dựa vào các công cụ sinh hoạt và kiếm ăn bằng đá cuội, khi quan sát các bộ lạc còn sót lại và bị biệt lập tại các đảo trong quần đảo Indonesia và tập quán dùng đồ tre, nứa, và các loại mũi tên tẩm độc để săn bắn các con thú lớn, cũng như tập tục ăn sò, ốc biển, ốc nước ngọt, các loại cá sắn có trong các làn nước ấm. Luận điểm so sánh với các dụng cụ khác ở phương Tây đang được nhiều nhà khoa học xem xét lại.
Các di vật chính của thời kỳ Văn hóa Hòa Bình chính (niên đại sớm 12.000 năm cách ngày nay) tại tỉnh Hòa Bình và các tỉnh từ Quảng Bình đến Thái Nguyên là các dụng cụ bằng đá cuội ghè đẽo một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi; các mảnh gốm không có hình thù do kỹ thuật nung chưa đạt nhiệt độ cao, đây là di tích đồ gốm xưa nhất của cư dân Văn hóa Hòa Bình cho đến nay đã tìm thấy; các dụng cụ đào bới có cán tra, các vòng trang sức bằng vỏ ốc. Thời kỳ này các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy di cốt người ở vài địa điểm.
Di chỉ muộn của Văn hóa Hòa Bình được tìm thấy ở Bắc Sơn (niên đại sớm 5.000 TCN, thuộc Lạng Sơn. Các dụng cụ bằng đá ở đây đã có một trình độ chế tác cao hơn nhiều, lưỡi đá đã được mài sắc, khảo cổ học gọi là “rìu Bắc Sơn”. Đồ gốm đã có tiến bộ, kỹ thuật được làm thủ công, cư dân ở đây nặn các dải đất dài, rồi cuộn tròn từ đáy lên miệng và miết kín khe hở, nung gốm bằng chất củi đốt xung quanh. Đồ trang sức bằng đất nung có dùi lỗ và xâu thành chuỗi.
Đánh giá
Các bằng chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Đông Nam Á đã làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ 20. Người tiên phong trong việc đề xuất hướng mới cho nguồn gốc loài người là ông Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii. Năm 1967, Solhiem II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau…
Sau Solheim II, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Kông, Higham ở New Zealand, Pookajorn ở Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á- Nam Đảo. Và mới đây, Oppenheimer còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương Tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà – Trung Đông, mang theo kinh nghiện trồng trọt, làm đồ gồm và sự tích Đại hồng thủy.
|
Hoa Binh Culture
Hoa Binh Culture
Officially recognized by archaeologists since January 30, 1932, due to the proposal of Madeleine Colani, after being approved by the Congress of Far Eastern Prehistorians meeting in Hanoi. Initially, this phrase was used to refer to the pebble culture that was carved all over the pebble perimeter to create tools from the Paleolithic to the Neolithic. Over time, of course, this phrase has been proposed to take on different names and have different meanings. But recently, the activities of archaeologists since 1975 have shown a new direction and a different concept of the era and space of Hoa Binh Culture.
General basis
Hoa Binh culture belongs to the Paleolithic to Neolithic period (34,100 years ago, lasting until 2,000 BC). On the land mixed with limestone mountains, west of the three major river deltas of Northern Vietnam, and with a large space, typical of both Southeast Asia and Southern China.
Based on the relics found and their dates, archaeologists divide the Hoa Binh Culture into three consecutive periods.
* Early Hoa Binh, or Pre-Hoa Binh, has typical dates such as Tham Khuyen site (32,100 ± 150 BC), Da Dieu Roof, Da Ngam Roof (23,100 ± 300 BC).
* Middle Hoa Binh, or official Hoa Binh, is typified by the sites of Xom Trai (18,000 ± 150 BC), Vanh Village (16,470 ± 80 BC).
* Late Hoa Binh, typified by sites at Tham Hoi (10,875 ± 175), Sung Sam (11,365 ± 80 BP, BLn – 1541/I).
History of discovery
In 1923, Madeleine Colani and local guides discovered a large number of human remains and stone tools in a limestone cave in Hoa Binh province. Over the next few years, she continuously explored twelve more caves in the Hoa Binh area, unearthing a number of rare relics. After analyzing them and comparing them with the stone objects found in the Bac Son mountains, she proposed to consider all the special relics made of pebbles, with the characteristic of being carved only at the tongue or edge, as belonging to same culture, Hoa Binh or Hoabinhien culture.
Since the discovery of stone and bone tools at the site in Hoa Binh province, archaeologists have also discovered them in many locations throughout the region such as Thailand, Burma, Laos, Cambodia, Malaysia, Sumatra... also have relics with tools and the same manufacturing technique. People also found stone tools of the same culture living in further places such as Japan, Taiwan, Australia... At the conference "60 years after Hoabinhian" held in Hanoi, archaeologists Scholars have unified views on the term Hoa Binh Culture, which is seen as a concept to refer to a culture with the same manufacturing technique without considering it as an origin.
Hoa Binh Cultural relics
At the beginning of the 20th century, archaeologists had not really discovered the necessary quantity and many sites were unexplored, relying on rudimentary tools that only carved one side, so the evaluation of relics was difficult. This is not accurate with the importance of Hoa Binh Culture. But in the 1960s, archaeological discoveries attracted the attention of world archaeologists in Thailand, Malaysia, Indonesia, the Philippines, and the South Pacific islands, causing prehistoric people to re-pose the problem of prehistoric people. in Southeast Asia. First of all, Australian archaeologist Gorman found in Thailand's Ma Cave signs that people of the Hoa Binh culture began cultivating gourds earlier than anywhere else in the world.
In recent years, archaeologists have made groundbreaking discoveries in new concepts of utility in ancient tropical Southeast Asia that did not need to rely entirely on living and foraging tools. with pebbles, when observing the remaining and isolated tribes on the islands of the Indonesian archipelago and their practice of using bamboo utensils and poisoned arrows to hunt large animals, as well as The custom of eating oysters, sea snails, freshwater snails, and fish found in warm water. The argument for comparison with other instruments in the West is being reconsidered by many scientists.
The main relics of the main Hoa Binh Culture period (dating as early as 12,000 years ago) in Hoa Binh province and provinces from Quang Binh to Thai Nguyen are pebble tools carved on one side, or only part of them. tongue; The pottery pieces have no shape because the firing technique has not reached high temperatures. This is the oldest pottery relic of Hoa Binh Culture residents that has been found so far; Digging tools with handles, shell jewelry. During this period, archaeologists also found human remains in several locations.
Late relics of the Hoa Binh Culture were found in Bac Son (early date 5,000 BC, in Lang Son. The stone tools here had a much higher level of craftsmanship, the stone blades were sharpened, Archeology calls it "Bac Son ax". Pottery has advanced, techniques are made by hand, residents here mold long strips of soil, then roll them from the bottom to the mouth and close the gaps, firing the pottery. with firewood piled around. Terracotta jewelry with holes punched and strung on strings.
Evaluate
The growing evidence of a Southeast Asian civilization has shaken many prehistoric theories that stood firm for decades in the 20th century. The pioneer in proposing a new direction for human origins was Solheim II. , professor at the University of Hawaii. In 1967, Solhiem II published many documents about the early birth of farming, pottery making, boat building, brass casting...
After Solheim II, a number of other archaeologists such as Meacham in Hong Kong, Higham in New Zealand, Pookajorn in Thailand all agreed on the opinion that Southeast Asia, from Thailand to Indonesia through the Indochina peninsula, is the Cradle of South Asian civilization - Austronesian. And recently, Oppenheimer went even further, theorizing that Southeast Asian civilization is the origin of Western civilization, that when the inhabitants of the Sunda shelf evacuated to avoid rising seas, they came to Mesopotamia - China. Dong, bringing with him experience in farming, making rice and the story of the Great Flood.
|
Qua các đợt khai quật, nhiều loại hình di tích và hàng ngàn hiện vật đã được tìm thấy như: đồ gốm; công cụ sản xuất; vũ khí; đồ trang sức; đồ dùng sinh hoạt bằng đá, bằng đồng; xương sừng; tượng hình tròn, hình động vật được nặn bằng đất nung… Ngoài ra còn phát hiện có nhiều hạt lúa gạo cháy thuộc từ lớp văn hóa Phùng Nguyên – chứng tỏ nghề trồng lúa nước và chăn nuôi đã có từ rất sớm ở buổi đầu dựng nước của các Vua Hùng.
Đợt I
:
Từ tháng 11 năm 1965 đến tháng 3 năm 1966, Viện khảo cổ học đã tiến hành khai quật lần thứ nhất tại di tích Đồng Đậu. Đợt khai quật này được thực hiện với hai mục đích. Thứ nhất là để tìm hiểu về diễn biến địa tầng, tính chất, niên đại, chủ nhân, đặc trưng của di tích. Thứ hai, kết quả khai quật sẽ góp phần vào nghiên cứu giai đoạn hậu kỳ thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng và sơ kỳ thời đại đồ sắt.
Trong tầng văn hóa dày từ 2,6 – 3,2m, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích như: bếp, nền đất đắp, mộ cổ, hố đào…Đặc biệt là đã thu được một sưu tập di vật gồm trên 800 hiện vật. Trong đó, đồ đá có: rìu, bôn, đục, dao, chày, bàn nghiền, bàn đập, bàn mài, vòng trang sức, hạt chuỗi,; đồ đồng có: rìu, đục, dùi, cán dao, mũi tên, lưỡi câu, dây, kim cùng nhiều sỉ đồng; đồ gốm có: nồi, vò, chậu, bát, bình, chân chạc, dọi se chỉ; bi, tượng động vật bằng đất nung… Ngoài ra còn phát hiện những mảnh gốm mang những đặc trưng văn hóa khác nhau.
Qua diễn biến của tầng văn hóa và các hiện vật khai quật được, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầng văn hóa có những diễn biến khác nhau, hiện vật trong lớp văn hóa cũng có những sự khác biệt. Nhưng đáng chú ý là đồ gốm ở đây (từ loại hình đến hoa văn) đều có quan hệ với nhau, đồ gốm của lớp văn hóa trên giống đồ gốm lớp văn hóa dưới, gốm lớp trên là sự phát triển của gốm lớp dưới.
Kết quả của đợt khai quật lần thứ nhất này đã giúp chúng ta hiểu được bước đầu về di tích này, đồng thời đóng góp một khối tư liệu quan trọng để nghiên cứu về thời đại kim khí.
Đợt II: Do ông Lưu Trần Tiêu và ông Phạm Văn Kỉnh – cán bộ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) tiến hành, cuộc khai quật được diễn ra từ cuối tháng 4 tới tháng 6 năm 1967. Khai quật đợt này cho thấy: Trong tầng văn hóa “rất dày” đã phát hiện được nhiều hiện vật và các dấu tích hoạt động khác của con người. Đặc biệt là lần đầu tiên thấy dấu vết lò đúc đồng, bên cạnh đó là 3 khuôn đúc rìu còn khá nguyên vẹn. Hiện vật thu được cũng rất phong phú. Đồ đá có rìu, bôn, qua, dao, hạt chuỗi và vòng. Đồ xương có mũi nhọn, dao. Đồ đồng có đục, dùi, mũi tên. Đồ gốm có dọi xe chỉ và nhiều mảnh đồ gốm các loại.
Đợt khai quật lần thứ hai này đã phát hiện thêm một số di tích, di vật mới như: vết tích lò nấu đồng, qua đá, dao đá…
Đợt III: Tháng 12 năm 1968 đến tháng 5 năm 1969, Viện khảo cổ học trở lại khai quật di tích Đồng Đậu với mục đích làm rõ hơn các vấn đề khoa học được nêu ra trong đợt khai quật lần trước về sự phân bố các lớp đất, các tầng văn hóa, về sự phát triển của các di vật cũng như mối quan hệ từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên đến giai đoạn văn hóa Gò Mun. Đây là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất. Trong quá trình khai quật đã có nhiều cán bộ văn hóa, khoa học, giáo dục, hoạt động chính trị đến hiện trường tham quan, nghiên cứu. Đặc biệt là thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đến tham quan.
Trong đợt khai quật này, đã phát hiện được rất nhiều di tích như nền đất sét vàng, bếp, hố đào và lần đầu tiên phát hiện ra mộ táng tại di tích Đồng Đậu. Mộ được chôn trong khu vực cư trú, sát bề mặt sinh thổ. Di vật phát hiện được không chỉ nhiều về số lượng mà còn rất phong phú, đa dạng về chất liệu và loại hình.
Qua những lớp đất từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn, qua các di tích và di vật, các nhà nghiên cứu khảo cổ đã xác định rõ ràng sự phát triển liên tục của 3 tổ hợp văn hóa, khởi đầu từ Phùng Nguyên qua Đồng Đậu đến Gò Mun. Nhờ những phát hiện này chúng ta có thêm những căn cứ chắc chắn chứng minh cho nền văn hóa dân tộc ta là nền văn minh có nguồn gốc từ lâu đời và mang tính bản địa.
Đợt IV: Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1984, Ban kim khí thuộc Viện khảo cổ học và ông Nguyễn Anh Tuấn – cán bộ Bảo tàng Phú Thọ đã tiến hành khai quật. Với mục đích để thu thập thêm tư liệu nhằm làm sáng tỏ những mặt cơ bản của nền văn minh Việt cổ thời dựng nước.
Kết quả khai quật cho thấy sự định cư của cư dân Đồng Đậu là liên tục và khá lâu dài. Trong tầng văn hóa đã phát hiện được nhiều di tích hố cột, nền nhà, hố đào, bếp lò, lò đúc đồng và phát hiện được 2 ngôi mộ, một ngôi thuộc giai đoạn Gò Mun, một mộ thuộc giai đoạn Đông Sơn. Mộ thuộc giai đoạn Gò Mun được chôn trên nền đất sét vàng nện khá chặt, cẩn thận. Đặc biệt là khu chế tạo đồ đồng riêng với khu sinh hoạt, bếp lửa. Di vật trong tầng văn hóa cũng khá phong phú. Ngoài ra cũng đã tìm thấy một số vết tích của nghề luyện kim ở lớp văn hóa Phùng Nguyên. Qua những tư liệu thu thập, qua đợt khai quật này và các đợt khai quật trước đó đã chứng minh thuyết phục là nghề luyện kim thực sự mang tính bản địa. Ngoài ra còn tìm thấy chững tích xác thực của nghề nông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi và nghề làm vườn với những hạt thóc cháy, xương động vật và hạt các loại cây ăn quả.
Đợt V: Tháng 3 năm 1987, Bộ môn Khảo cổ học, thuộc Khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp (nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) phối hợp với sở Văn hóa Thông tin, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành khai quật. Đợt khai quật này đã làm rõ hơn diễn biến tầng văn hóa ở Đồng Đậu. Kết quả phân tích tài liệu gốm của đợt khai quật này đã cho thấy 2 lớp trung gian chuyển tiếp từ văn hóa Phùng Nguyên sang văn hóa Đồng Đậu và từ văn hóa Đồng Đậu sang văn hóa Gò Mun. Ngoài ra đợt khai quật này đã cung cấp thêm bằng chứng cho thấy nghề đúc đồng đã xuất hiện từ lớp văn hóa sớm nhất.
Đợt VI: Ngày 12 tháng 11 đến 30 tháng 12 năm 1999. Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam ( nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) đã phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành khai quật. Với mục đích tìm hiểu sâu hơn về di tích văn hóa Đồng Đậu nhằm hoàn thiện hồ sơ tiến tới đề nghị Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Quốc gia cho di tích Đồng Đậu và bổ sung thêm sưu tập hiện vật cho công tác trưng bày của Bảo tàng.
Kết quả khai quật và thám sát cho thấy kết cấu địa tầng của các hố ở Gò Đồng Đậu khá giống nhau về quá trình hình thành và nội dung văn hóa. Đặc biệt trong lớp văn hóa sát sinh lớp sinh thổ đã phát hiện 2 mộ táng, trong đó một mộ di cốt còn khá nguyên vẹn. Di vật thu được ở đây cũng rất phong phú. Đồ đá có rìu, bôn, đục, dao, bàn đập, bàn mài, mảnh khuôn đúc, mũi tên, hòn kê, vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, mảnh tước, lỗi vòng. Đồ đồng có 6 đồng tiền niên hiệu “Khai nguyên thông bảo” được phát hiện trong hố thám sát, ngoài ra cón có mũi dùi, mũi tên, lao, lưới câu, chuôi…Đồ xương có mũi tên, lao, mũi nhọn, mảnh vòng, bùa, vật sừng hình chữ Y. Đồ gốm có nồi, bát, bình, dọi se chỉ, bàn dập hoa văn, bi gốm, tượng động vật, lõi khuôn, chạc gốm và các mảnh gốm vỡ. Dấu tích động thực vật phát hiện được trong đợt khai quật này rất đa dạng về chủng loại.
Có thể nói kết quả khai quật lần thứ sáu này đã giúp chúng ta hiểu toàn diện hơn về di tích khảo cổ học Đồng Đậu. Diễn biến địa tầng với các lớp văn hóa sớm muộn kế tiếp nhau chứa đựng các dấu tích của người xưa cùng với các loại hình hiện vật càng khẳng định di tích Đồng Đậu là một di tích tiền Đông Sơn rất quan trọng, là nơi cư trú lâu dài và liên tục của người Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun. Đặc biệt, việc phát hiện, nghiên cứu những mộ táng, các dấu tích động thực vật, cũng như việc xác định niên đại đã làm rõ hơn các vấn đề về chủ nhân, môi trường sống và niên đại của di tích. Niên đại của văn hóa Đồng Đậu được các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng trong khoảng 3500 – 3000 năm cách ngày nay.
Di tích Đồng Đậu đã phát hiện và nghiên cứu cho ta thấy, tuy diện tích khai quật còn nhỏ so với qui mô diện tích. Nhưng nguồn tư liệu thu thập từ các đợt khai quật, thám sát rất đồ sộ và phong phú. Nguồn tư liệu đã giúp chúng ta từng bước phác họa bức tranh đa diện, sinh động về một làng cổ thời Hùng Vương. Đặc biệt nhờ khối tư liệu thu thập được ở di tích Đồng Đậu, các nhà khoa học đã phục dựng được chân thực, khách quan, khoa học con đường phát triển của các nền văn hóa tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.
|
Qua các đợt khai quật, nhiều loại hình di tích và hàng ngàn hiện vật đã được tìm thấy như: đồ gốm; công cụ sản xuất; vũ khí; đồ trang sức; đồ dùng sinh hoạt bằng đá, bằng đồng; xương sừng; tượng hình tròn, hình động vật được nặn bằng đất nung… Ngoài ra còn phát hiện có nhiều hạt lúa gạo cháy thuộc từ lớp văn hóa Phùng Nguyên – chứng tỏ nghề trồng lúa nước và chăn nuôi đã có từ rất sớm ở buổi đầu dựng nước của các Vua Hùng.
Đợt I
:
Từ tháng 11 năm 1965 đến tháng 3 năm 1966, Viện khảo cổ học đã tiến hành khai quật lần thứ nhất tại di tích Đồng Đậu. Đợt khai quật này được thực hiện với hai mục đích. Thứ nhất là để tìm hiểu về diễn biến địa tầng, tính chất, niên đại, chủ nhân, đặc trưng của di tích. Thứ hai, kết quả khai quật sẽ góp phần vào nghiên cứu giai đoạn hậu kỳ thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng và sơ kỳ thời đại đồ sắt.
Trong tầng văn hóa dày từ 2,6 – 3,2m, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích như: bếp, nền đất đắp, mộ cổ, hố đào…Đặc biệt là đã thu được một sưu tập di vật gồm trên 800 hiện vật. Trong đó, đồ đá có: rìu, bôn, đục, dao, chày, bàn nghiền, bàn đập, bàn mài, vòng trang sức, hạt chuỗi,; đồ đồng có: rìu, đục, dùi, cán dao, mũi tên, lưỡi câu, dây, kim cùng nhiều sỉ đồng; đồ gốm có: nồi, vò, chậu, bát, bình, chân chạc, dọi se chỉ; bi, tượng động vật bằng đất nung… Ngoài ra còn phát hiện những mảnh gốm mang những đặc trưng văn hóa khác nhau.
Qua diễn biến của tầng văn hóa và các hiện vật khai quật được, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầng văn hóa có những diễn biến khác nhau, hiện vật trong lớp văn hóa cũng có những sự khác biệt. Nhưng đáng chú ý là đồ gốm ở đây (từ loại hình đến hoa văn) đều có quan hệ với nhau, đồ gốm của lớp văn hóa trên giống đồ gốm lớp văn hóa dưới, gốm lớp trên là sự phát triển của gốm lớp dưới.
Kết quả của đợt khai quật lần thứ nhất này đã giúp chúng ta hiểu được bước đầu về di tích này, đồng thời đóng góp một khối tư liệu quan trọng để nghiên cứu về thời đại kim khí.
Đợt II: Do ông Lưu Trần Tiêu và ông Phạm Văn Kỉnh – cán bộ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) tiến hành, cuộc khai quật được diễn ra từ cuối tháng 4 tới tháng 6 năm 1967. Khai quật đợt này cho thấy: Trong tầng văn hóa “rất dày” đã phát hiện được nhiều hiện vật và các dấu tích hoạt động khác của con người. Đặc biệt là lần đầu tiên thấy dấu vết lò đúc đồng, bên cạnh đó là 3 khuôn đúc rìu còn khá nguyên vẹn. Hiện vật thu được cũng rất phong phú. Đồ đá có rìu, bôn, qua, dao, hạt chuỗi và vòng. Đồ xương có mũi nhọn, dao. Đồ đồng có đục, dùi, mũi tên. Đồ gốm có dọi xe chỉ và nhiều mảnh đồ gốm các loại.
Đợt khai quật lần thứ hai này đã phát hiện thêm một số di tích, di vật mới như: vết tích lò nấu đồng, qua đá, dao đá…
Đợt III: Tháng 12 năm 1968 đến tháng 5 năm 1969, Viện khảo cổ học trở lại khai quật di tích Đồng Đậu với mục đích làm rõ hơn các vấn đề khoa học được nêu ra trong đợt khai quật lần trước về sự phân bố các lớp đất, các tầng văn hóa, về sự phát triển của các di vật cũng như mối quan hệ từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên đến giai đoạn văn hóa Gò Mun. Đây là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất. Trong quá trình khai quật đã có nhiều cán bộ văn hóa, khoa học, giáo dục, hoạt động chính trị đến hiện trường tham quan, nghiên cứu. Đặc biệt là thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đến tham quan.
Trong đợt khai quật này, đã phát hiện được rất nhiều di tích như nền đất sét vàng, bếp, hố đào và lần đầu tiên phát hiện ra mộ táng tại di tích Đồng Đậu. Mộ được chôn trong khu vực cư trú, sát bề mặt sinh thổ. Di vật phát hiện được không chỉ nhiều về số lượng mà còn rất phong phú, đa dạng về chất liệu và loại hình.
Qua những lớp đất từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn, qua các di tích và di vật, các nhà nghiên cứu khảo cổ đã xác định rõ ràng sự phát triển liên tục của 3 tổ hợp văn hóa, khởi đầu từ Phùng Nguyên qua Đồng Đậu đến Gò Mun. Nhờ những phát hiện này chúng ta có thêm những căn cứ chắc chắn chứng minh cho nền văn hóa dân tộc ta là nền văn minh có nguồn gốc từ lâu đời và mang tính bản địa.
Đợt IV: Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1984, Ban kim khí thuộc Viện khảo cổ học và ông Nguyễn Anh Tuấn – cán bộ Bảo tàng Phú Thọ đã tiến hành khai quật. Với mục đích để thu thập thêm tư liệu nhằm làm sáng tỏ những mặt cơ bản của nền văn minh Việt cổ thời dựng nước.
Kết quả khai quật cho thấy sự định cư của cư dân Đồng Đậu là liên tục và khá lâu dài. Trong tầng văn hóa đã phát hiện được nhiều di tích hố cột, nền nhà, hố đào, bếp lò, lò đúc đồng và phát hiện được 2 ngôi mộ, một ngôi thuộc giai đoạn Gò Mun, một mộ thuộc giai đoạn Đông Sơn. Mộ thuộc giai đoạn Gò Mun được chôn trên nền đất sét vàng nện khá chặt, cẩn thận. Đặc biệt là khu chế tạo đồ đồng riêng với khu sinh hoạt, bếp lửa. Di vật trong tầng văn hóa cũng khá phong phú. Ngoài ra cũng đã tìm thấy một số vết tích của nghề luyện kim ở lớp văn hóa Phùng Nguyên. Qua những tư liệu thu thập, qua đợt khai quật này và các đợt khai quật trước đó đã chứng minh thuyết phục là nghề luyện kim thực sự mang tính bản địa. Ngoài ra còn tìm thấy chững tích xác thực của nghề nông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi và nghề làm vườn với những hạt thóc cháy, xương động vật và hạt các loại cây ăn quả.
Đợt V: Tháng 3 năm 1987, Bộ môn Khảo cổ học, thuộc Khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp (nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) phối hợp với sở Văn hóa Thông tin, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành khai quật. Đợt khai quật này đã làm rõ hơn diễn biến tầng văn hóa ở Đồng Đậu. Kết quả phân tích tài liệu gốm của đợt khai quật này đã cho thấy 2 lớp trung gian chuyển tiếp từ văn hóa Phùng Nguyên sang văn hóa Đồng Đậu và từ văn hóa Đồng Đậu sang văn hóa Gò Mun. Ngoài ra đợt khai quật này đã cung cấp thêm bằng chứng cho thấy nghề đúc đồng đã xuất hiện từ lớp văn hóa sớm nhất.
Đợt VI: Ngày 12 tháng 11 đến 30 tháng 12 năm 1999. Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam ( nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) đã phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành khai quật. Với mục đích tìm hiểu sâu hơn về di tích văn hóa Đồng Đậu nhằm hoàn thiện hồ sơ tiến tới đề nghị Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Quốc gia cho di tích Đồng Đậu và bổ sung thêm sưu tập hiện vật cho công tác trưng bày của Bảo tàng.
Kết quả khai quật và thám sát cho thấy kết cấu địa tầng của các hố ở Gò Đồng Đậu khá giống nhau về quá trình hình thành và nội dung văn hóa. Đặc biệt trong lớp văn hóa sát sinh lớp sinh thổ đã phát hiện 2 mộ táng, trong đó một mộ di cốt còn khá nguyên vẹn. Di vật thu được ở đây cũng rất phong phú. Đồ đá có rìu, bôn, đục, dao, bàn đập, bàn mài, mảnh khuôn đúc, mũi tên, hòn kê, vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, mảnh tước, lỗi vòng. Đồ đồng có 6 đồng tiền niên hiệu “Khai nguyên thông bảo” được phát hiện trong hố thám sát, ngoài ra cón có mũi dùi, mũi tên, lao, lưới câu, chuôi…Đồ xương có mũi tên, lao, mũi nhọn, mảnh vòng, bùa, vật sừng hình chữ Y. Đồ gốm có nồi, bát, bình, dọi se chỉ, bàn dập hoa văn, bi gốm, tượng động vật, lõi khuôn, chạc gốm và các mảnh gốm vỡ. Dấu tích động thực vật phát hiện được trong đợt khai quật này rất đa dạng về chủng loại.
Có thể nói kết quả khai quật lần thứ sáu này đã giúp chúng ta hiểu toàn diện hơn về di tích khảo cổ học Đồng Đậu. Diễn biến địa tầng với các lớp văn hóa sớm muộn kế tiếp nhau chứa đựng các dấu tích của người xưa cùng với các loại hình hiện vật càng khẳng định di tích Đồng Đậu là một di tích tiền Đông Sơn rất quan trọng, là nơi cư trú lâu dài và liên tục của người Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun. Đặc biệt, việc phát hiện, nghiên cứu những mộ táng, các dấu tích động thực vật, cũng như việc xác định niên đại đã làm rõ hơn các vấn đề về chủ nhân, môi trường sống và niên đại của di tích. Niên đại của văn hóa Đồng Đậu được các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng trong khoảng 3500 – 3000 năm cách ngày nay.
Di tích Đồng Đậu đã phát hiện và nghiên cứu cho ta thấy, tuy diện tích khai quật còn nhỏ so với qui mô diện tích. Nhưng nguồn tư liệu thu thập từ các đợt khai quật, thám sát rất đồ sộ và phong phú. Nguồn tư liệu đã giúp chúng ta từng bước phác họa bức tranh đa diện, sinh động về một làng cổ thời Hùng Vương. Đặc biệt nhờ khối tư liệu thu thập được ở di tích Đồng Đậu, các nhà khoa học đã phục dựng được chân thực, khách quan, khoa học con đường phát triển của các nền văn hóa tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.
|
CHỬ ĐỒNG TỬ – VỊ THÁNH TỔ CỦA DOANH THƯƠNG
Nguyễn Hùng Vĩ
Tài liệu xưa nhất có ba chữ “Tứ bất tử” là ghi chép của Nguyễn Tông Quai (1692 – 1767) khi ông chú thích cho tác phẩm
Dư địa chí
của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau:
“Người đời Thanh nói: Tản Viên đại vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng thiên vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng Tử nhà họ Chử gậy nón lên trời, Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An nam tứ bất tử vậy”.
Câu chuyện Chử Đồng Tử sớm được ghi lại trong một tác phẩm quan trọng của văn học Việt Nam là
Lĩnh Nam chích quái
(thế kỉ XIV). Chử Đồng Tử được nhân dân ta thờ phụng, hương khói từ bao đời nay. Vũ Quỳnh (1453 – 1516) khi viết lời tựa cho tác phẩm, bình luận rằng:
“Chử Đồng Tử tình cờ mà lấy Tiên Dung, Thôi Vĩ không hẹn mà gặp tiên khách, qua đó thấy
âm đức của việc thiện
”.
Chúng ta đến với hình tượng Chử Đồng Tử hôm nay cũng thấm đẫm tinh thần “âm đức của việc thiện”.
Truyền thuyết về Chử Đồng Tử đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa giải mã những lớp ý nghĩa tiềm ẩn của nó.
Các cách “đọc” khác nhau cho chúng ta thấy:
– Ý nghĩa về về một câu chuyện tình yêu vượt mọi lễ giáo phong kiến.
– Ý nghĩa về nghề ngư nghiệp sông nước
– Ý nghĩa về sự truyền bá Phật giáo.
– Ý nghĩa về việc nối kết không gian vùng núi – đồng bằng- miền biển buổi đầu dựng nước…
Về ý nghĩa gắn với nghề buôn cũng đã được GS Trần Quốc Vượng trước đây và nhà nghiên cứu Phan Duy Kha nói tới thích thảng trong bài viết của hai ông.
Về ý nghĩa này, chúng tôi cũng đã có sự quan tâm riêng của mình từ trước. Nay trình bày lại qua việc khảo sát ngữ văn và tiếp cận văn hóa hiện tượng này.
Về tên riêng
:
Kinh nghiệm đọc những văn bản văn xuôi, thần tích thần phả thời trung đại cho chúng tôi thấy có một xu hướng đặt tên riêng theo chữ Hán nhưng đó là các danh từ phiếm chỉ, mang một ý nghĩa chung,
dù viết dưới hình thức tự dạng nào
. Nó tồn tại như một ẩn ngữ của nghệ thuật ngôn từ trung đại và cần được nhìn nhận theo xu hướng là một diễn ngôn quá khứ. Có thể dẫn ra không ít ví dụ:
Thần tích
Tản Viên sơn thần
cho ta các tên như: Mẹ Tản Viên là bà Đinh Thị Đen (viết Điên đọc Đen), thì chữ Điên có nghĩa là
ngọn cao nhất
(
điên lĩnh
là ngọn núi,
điên thụ
là ngọn cây), họ Đinh là họ đầu làm lang của người Mường, cư dân chủ thể ở đó trước đây. Em Tản Viên là Cao Sơn, nghĩa là
núi cao
. Em nữa là Quý Minh có nghĩa là
cao rông mênh mông
. Người nuôi Tản Viên là Ma thị, tức là có nghĩa
bà Dì
.
Truyện
Trầu Cau
có ông bố họ Cao tức âm gần âm
Cau
, con là Tân và Lang, đều có nghĩa chỉ
cây cau
. Đạo sĩ nuôi hai anh em có tên Lưu Huyền. Lưu là viết tắt chữ Phù lưu nghĩa là
Trầu
, Huyền cũng có nghĩa là
Không
, hợp lại ta có thể khẳng định: Lưu Huyền là
Trầu Không
. Con gái đạo sĩ là Thị Liên, tức là
liền trầu
. Chữ
Liền
của tiếng Kinh vốn từ chữ Liên của âm Hán Việt mà ra.
Truyện
Ông đầu rau
có nhân vật Thị Nhi, thì chữ Nhi có nghĩa là
nhừ, nấu nhừ
. Chồng Thị Nhi là Trọng Cao, thì chữ Cao có nghĩa là
bột ngũ cốc
,
bánh bột ngũ cốc
. Ở đây có nghĩa là
Cơm
. Vậy Cơm là rất trọng. Chồng sau có tên là Phạm Lang, thì chữ Lang còn đọc là
Canh
, có nghĩa là thức ăn có rau và nấu rất nhiều nước. Ta tái lập được
Cơm – Canh – Nấu chín
. Sự tích cái bếp được kí tải như vậy.
Còn trong nhiều địa danh là tên riêng chúng ta cũng thấy trường hợp chuyển ngữ như vậy: Nhật Lệ (Quán Hàu), Dũng Quyết (Trộ Đó), Đại Tứ (Trập Buông)…
Vậy, trong truyện Chử Đồng Tử, chúng ta nếu theo con đường đó thì sẽ thấy:
– Họ Chử
: Chữ Chử có nghĩa là
bãi sông
. Bãi sông đó có bến và người ta trao đổi, giao lưu hàng hóa. Tiếng Hán có từ
Chử Phố
. Phố cũng là bãi sông, bến nước vốn có giao thương, buôn bán, và từ đó chữ Phố có nghĩa là Chợ ở bến sông. Từ
Chử Phố
biến âm ở người Kinh ta có từ
Chợ Búa
. Như vậy ngoài nghĩa bãi sông, chữ
Chử
còn có nghĩa là
Chợ
, không gian trao đổi hàng hóa, không gian buôn bán.
–
Đồng Tử
: Trước nay, các nhà dịch thuật đều dịch là chú bé. Đó chỉ là một nghĩa mà thôi. Nếu tra
Phật Quang đại từ điển
, chúng ta thấy những nghĩa khác phù hợp với vị thế của vị Thánh này hơn.
Mục Đồng Tử trong từ điển này ghi rõ:
“
Đồng tử
.
Phạm, Pali: Kumara. Dịch âm: Cưu ma la. I. Đồng tử: Con trai 4 tuổi hoặc 8 tuổi trở lên, chưa cạo tóc, chưa thụ giới, gọi là đồng tử. II. Đồng tử: Chỉ cho Bồ tát, Bồ tát là vương tử của Như lai, ví như trẻ con thế gian không có ý niệm dâm dục nên gọi Bồ tát là Đồng tử. III. Đồng tử: Những vị theo hầu đức Phật, Bồ tát và chư thiên cũng gọi là Đồng tử. Như tám đại đồng tử: Thỉnh Triệu, Kế thiết ni, Cứu hộ tuệ, Ô ba kế thiết ni, Quang Võng, Địa Tuệ chàng, Vô Cẩu quang và Bất Tư nghị tuệ theo hầu Bồ tát Văn Thù
”.
Như vậy, nếu dịch theo nghĩa I ta thấy không ổn. So với sự tu luyện theo Phật của Chử Đồng Tử như trong truyện đã viết thì ta thấy nghĩa hai là nghĩa Bồ tát mới hợp với nhân vật này. Và như vậy, Chử Đồng Tử mới ngang đẳng cấp với Thánh trong tín ngưỡng giàu yếu tố đạo giáo
–
Chử Cù Vân
: Là tên của bố Chử Đồng Tử. Còn có văn bản chép là Chử Vi Vân. Tra chữ
Vân
ở
Từ điển Hán Việt trích dẫn
ta gặp ngay một chữ có nghĩa đáng lưu ý:
lộn xộn, rối loạn, bối rối
. Chữ
Cù
có nghĩa là
nhọc nhằn, lao khổ
(trong
Cù lao
). Tra tiếp chữ
Vi
ta gặp một nghĩa tương tự là
đen
đủi,suy yếu, tàn tạ (trong Hàn vi, Suy vi). Như vậy, qua tên gọi, người xưa kí tải vào đó một nhân vật nghèo khổ, suy vi, tàn tạ như bản thân hình tượng này.
– Bùi Thị Gia
: Mẹ Chử Đồng Tử. Chữ Bùi cũng cùng một trường nghĩa như trên. Từ điển cung cấp một nghĩa đáng lưu ý: Bùi, còn đọc là Phôi trong Phôi pha, lại đồng âm với Hoại và là cách viết giản thể của Hoại với nghĩa Hư nát, mục nát.
Như vậy, từ việc giải mã âm đọc so với nghĩa, ta thấy các tác giả đã kí tải cho chúng ta thấy một gia cảnh khốn khó xuất thân Chử Đồng Tử. Đây là những người cực kì nghèo khổ.
Tất cả các tên gọi đó đều ẩn tàng một lớp nghĩa tương tự dù được các cụ mĩ hóa bằng các cách ghi với tự dạng khác nhau.
Về nội dung câu truyện
.
Theo dõi câu truyện được kể trên văn bản của
Lĩnh Nam chích quái
, ta thấy câu chuyện có kết cấu như sau:
Đoạn 1: Xuất thân của Tiên Dung. Đoạn 2: Xuất thân và gia cảnh Chử Đồng Tử. Đoạn 3: Thiên duyên Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Đoạn 4: Vợ chồng mở phố chợ, bán hàng, gặp gỡ thương nhân nước ngoài và bày cách vượt bể đi buôn. Đoạn 5: Chử Đồng Tử theo tu Phật và được vật thiêng giúp cho việc xây dựng cơ nghiệp. Từ cây gậy và chiếc nón trở thành dinh cơ, lâu đài. Đoạn 6: Vua Hùng Vương bắt tội và tất cả đều biến hóa. Đoạn 7: Âm phù hỗ trợ Triệu Quang Phục.
Trong cấu trúc trên ta thấy Đoạn 4 và Đoạn 5 không những nằm ở trung tâm câu chuyện mà còn chiếm dung lượng số chữ nhiều nhất. Vậy, theo chúng tôi, chủ điểm chính của câu chuyện chính là việc phong thần cho một
hình tượng doanh thương
, mở đầu việc mở chợ buôn bán và nhờ doanh thương mà xây dựng được sự nghiệp từ một hoàn cảnh nghèo khổ đến không còn nổi một chiếc khố, phải xin ăn ở bến sông. Với việc tu luyện Phật pháp thì chỉ cần
cây gậy chiếc nón
(vật dụng của kẻ hành khất, và cũng là vật dụng của nhà sư đi khất thực) cũng có thể làm nên sự nghiệp kinh tế lớn lao.
Trong sự nghiệp doanh thương, vai trò người vợ, người phụ nữ là vô cùng lớn lao. Điều này những ghi chép của các nhà buôn phương tây thế kỉ XVII đến Việt Nam cho ta thấy rõ hơn.
Việc doanh thương đi kèm với tín ngưỡng, ở đây là đạo Phật, là vô cùng quan trọng, là một yếu tố tạo niềm tin cho thương nhân. Việc quan hệ với thương nhân nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm của họ là rất cần thiết.
Câu chuyện còn chỉ ra mối quan hệ giữa thương mại và chính trị. Chỉ cần vua cha theo lời sàm tấu nên hiểu nhầm thì sự nghiệp buôn bán cũng vì thế mà có thể bị tiêu tan.
Trong sự giao thoa các tín ngưỡng, trước khi được nhân dân phong thánh theo tinh thần Đạo giáo, Chử Đồng Tử, như khái niệm Đồng Tử đã nói ở trên, qua quy chiếu Phật giáo, chính là một vị Bồ Tát của nghề thương mại.
Thánh Chử xứng đáng là một vị Bồ tát, vị Đạo tổ, là Thánh khởi nguyên của doanh thương Việt Nam.
Hà Nội 16 tháng 10 năm 2015.
|
CHỬ ĐỒNG TỬ – VỊ THÁNH TỔ CỦA DOANH THƯƠNG
Nguyễn Hùng Vĩ
Tài liệu xưa nhất có ba chữ “Tứ bất tử” là ghi chép của Nguyễn Tông Quai (1692 – 1767) khi ông chú thích cho tác phẩm
Dư địa chí
của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau:
“Người đời Thanh nói: Tản Viên đại vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng thiên vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng Tử nhà họ Chử gậy nón lên trời, Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An nam tứ bất tử vậy”.
Câu chuyện Chử Đồng Tử sớm được ghi lại trong một tác phẩm quan trọng của văn học Việt Nam là
Lĩnh Nam chích quái
(thế kỉ XIV). Chử Đồng Tử được nhân dân ta thờ phụng, hương khói từ bao đời nay. Vũ Quỳnh (1453 – 1516) khi viết lời tựa cho tác phẩm, bình luận rằng:
“Chử Đồng Tử tình cờ mà lấy Tiên Dung, Thôi Vĩ không hẹn mà gặp tiên khách, qua đó thấy
âm đức của việc thiện
”.
Chúng ta đến với hình tượng Chử Đồng Tử hôm nay cũng thấm đẫm tinh thần “âm đức của việc thiện”.
Truyền thuyết về Chử Đồng Tử đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa giải mã những lớp ý nghĩa tiềm ẩn của nó.
Các cách “đọc” khác nhau cho chúng ta thấy:
– Ý nghĩa về về một câu chuyện tình yêu vượt mọi lễ giáo phong kiến.
– Ý nghĩa về nghề ngư nghiệp sông nước
– Ý nghĩa về sự truyền bá Phật giáo.
– Ý nghĩa về việc nối kết không gian vùng núi – đồng bằng- miền biển buổi đầu dựng nước…
Về ý nghĩa gắn với nghề buôn cũng đã được GS Trần Quốc Vượng trước đây và nhà nghiên cứu Phan Duy Kha nói tới thích thảng trong bài viết của hai ông.
Về ý nghĩa này, chúng tôi cũng đã có sự quan tâm riêng của mình từ trước. Nay trình bày lại qua việc khảo sát ngữ văn và tiếp cận văn hóa hiện tượng này.
Về tên riêng
:
Kinh nghiệm đọc những văn bản văn xuôi, thần tích thần phả thời trung đại cho chúng tôi thấy có một xu hướng đặt tên riêng theo chữ Hán nhưng đó là các danh từ phiếm chỉ, mang một ý nghĩa chung,
dù viết dưới hình thức tự dạng nào
. Nó tồn tại như một ẩn ngữ của nghệ thuật ngôn từ trung đại và cần được nhìn nhận theo xu hướng là một diễn ngôn quá khứ. Có thể dẫn ra không ít ví dụ:
Thần tích
Tản Viên sơn thần
cho ta các tên như: Mẹ Tản Viên là bà Đinh Thị Đen (viết Điên đọc Đen), thì chữ Điên có nghĩa là
ngọn cao nhất
(
điên lĩnh
là ngọn núi,
điên thụ
là ngọn cây), họ Đinh là họ đầu làm lang của người Mường, cư dân chủ thể ở đó trước đây. Em Tản Viên là Cao Sơn, nghĩa là
núi cao
. Em nữa là Quý Minh có nghĩa là
cao rông mênh mông
. Người nuôi Tản Viên là Ma thị, tức là có nghĩa
bà Dì
.
Truyện
Trầu Cau
có ông bố họ Cao tức âm gần âm
Cau
, con là Tân và Lang, đều có nghĩa chỉ
cây cau
. Đạo sĩ nuôi hai anh em có tên Lưu Huyền. Lưu là viết tắt chữ Phù lưu nghĩa là
Trầu
, Huyền cũng có nghĩa là
Không
, hợp lại ta có thể khẳng định: Lưu Huyền là
Trầu Không
. Con gái đạo sĩ là Thị Liên, tức là
liền trầu
. Chữ
Liền
của tiếng Kinh vốn từ chữ Liên của âm Hán Việt mà ra.
Truyện
Ông đầu rau
có nhân vật Thị Nhi, thì chữ Nhi có nghĩa là
nhừ, nấu nhừ
. Chồng Thị Nhi là Trọng Cao, thì chữ Cao có nghĩa là
bột ngũ cốc
,
bánh bột ngũ cốc
. Ở đây có nghĩa là
Cơm
. Vậy Cơm là rất trọng. Chồng sau có tên là Phạm Lang, thì chữ Lang còn đọc là
Canh
, có nghĩa là thức ăn có rau và nấu rất nhiều nước. Ta tái lập được
Cơm – Canh – Nấu chín
. Sự tích cái bếp được kí tải như vậy.
Còn trong nhiều địa danh là tên riêng chúng ta cũng thấy trường hợp chuyển ngữ như vậy: Nhật Lệ (Quán Hàu), Dũng Quyết (Trộ Đó), Đại Tứ (Trập Buông)…
Vậy, trong truyện Chử Đồng Tử, chúng ta nếu theo con đường đó thì sẽ thấy:
– Họ Chử
: Chữ Chử có nghĩa là
bãi sông
. Bãi sông đó có bến và người ta trao đổi, giao lưu hàng hóa. Tiếng Hán có từ
Chử Phố
. Phố cũng là bãi sông, bến nước vốn có giao thương, buôn bán, và từ đó chữ Phố có nghĩa là Chợ ở bến sông. Từ
Chử Phố
biến âm ở người Kinh ta có từ
Chợ Búa
. Như vậy ngoài nghĩa bãi sông, chữ
Chử
còn có nghĩa là
Chợ
, không gian trao đổi hàng hóa, không gian buôn bán.
–
Đồng Tử
: Trước nay, các nhà dịch thuật đều dịch là chú bé. Đó chỉ là một nghĩa mà thôi. Nếu tra
Phật Quang đại từ điển
, chúng ta thấy những nghĩa khác phù hợp với vị thế của vị Thánh này hơn.
Mục Đồng Tử trong từ điển này ghi rõ:
“
Đồng tử
.
Phạm, Pali: Kumara. Dịch âm: Cưu ma la. I. Đồng tử: Con trai 4 tuổi hoặc 8 tuổi trở lên, chưa cạo tóc, chưa thụ giới, gọi là đồng tử. II. Đồng tử: Chỉ cho Bồ tát, Bồ tát là vương tử của Như lai, ví như trẻ con thế gian không có ý niệm dâm dục nên gọi Bồ tát là Đồng tử. III. Đồng tử: Những vị theo hầu đức Phật, Bồ tát và chư thiên cũng gọi là Đồng tử. Như tám đại đồng tử: Thỉnh Triệu, Kế thiết ni, Cứu hộ tuệ, Ô ba kế thiết ni, Quang Võng, Địa Tuệ chàng, Vô Cẩu quang và Bất Tư nghị tuệ theo hầu Bồ tát Văn Thù
”.
Như vậy, nếu dịch theo nghĩa I ta thấy không ổn. So với sự tu luyện theo Phật của Chử Đồng Tử như trong truyện đã viết thì ta thấy nghĩa hai là nghĩa Bồ tát mới hợp với nhân vật này. Và như vậy, Chử Đồng Tử mới ngang đẳng cấp với Thánh trong tín ngưỡng giàu yếu tố đạo giáo
–
Chử Cù Vân
: Là tên của bố Chử Đồng Tử. Còn có văn bản chép là Chử Vi Vân. Tra chữ
Vân
ở
Từ điển Hán Việt trích dẫn
ta gặp ngay một chữ có nghĩa đáng lưu ý:
lộn xộn, rối loạn, bối rối
. Chữ
Cù
có nghĩa là
nhọc nhằn, lao khổ
(trong
Cù lao
). Tra tiếp chữ
Vi
ta gặp một nghĩa tương tự là
đen
đủi,suy yếu, tàn tạ (trong Hàn vi, Suy vi). Như vậy, qua tên gọi, người xưa kí tải vào đó một nhân vật nghèo khổ, suy vi, tàn tạ như bản thân hình tượng này.
– Bùi Thị Gia
: Mẹ Chử Đồng Tử. Chữ Bùi cũng cùng một trường nghĩa như trên. Từ điển cung cấp một nghĩa đáng lưu ý: Bùi, còn đọc là Phôi trong Phôi pha, lại đồng âm với Hoại và là cách viết giản thể của Hoại với nghĩa Hư nát, mục nát.
Như vậy, từ việc giải mã âm đọc so với nghĩa, ta thấy các tác giả đã kí tải cho chúng ta thấy một gia cảnh khốn khó xuất thân Chử Đồng Tử. Đây là những người cực kì nghèo khổ.
Tất cả các tên gọi đó đều ẩn tàng một lớp nghĩa tương tự dù được các cụ mĩ hóa bằng các cách ghi với tự dạng khác nhau.
Về nội dung câu truyện
.
Theo dõi câu truyện được kể trên văn bản của
Lĩnh Nam chích quái
, ta thấy câu chuyện có kết cấu như sau:
Đoạn 1: Xuất thân của Tiên Dung. Đoạn 2: Xuất thân và gia cảnh Chử Đồng Tử. Đoạn 3: Thiên duyên Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Đoạn 4: Vợ chồng mở phố chợ, bán hàng, gặp gỡ thương nhân nước ngoài và bày cách vượt bể đi buôn. Đoạn 5: Chử Đồng Tử theo tu Phật và được vật thiêng giúp cho việc xây dựng cơ nghiệp. Từ cây gậy và chiếc nón trở thành dinh cơ, lâu đài. Đoạn 6: Vua Hùng Vương bắt tội và tất cả đều biến hóa. Đoạn 7: Âm phù hỗ trợ Triệu Quang Phục.
Trong cấu trúc trên ta thấy Đoạn 4 và Đoạn 5 không những nằm ở trung tâm câu chuyện mà còn chiếm dung lượng số chữ nhiều nhất. Vậy, theo chúng tôi, chủ điểm chính của câu chuyện chính là việc phong thần cho một
hình tượng doanh thương
, mở đầu việc mở chợ buôn bán và nhờ doanh thương mà xây dựng được sự nghiệp từ một hoàn cảnh nghèo khổ đến không còn nổi một chiếc khố, phải xin ăn ở bến sông. Với việc tu luyện Phật pháp thì chỉ cần
cây gậy chiếc nón
(vật dụng của kẻ hành khất, và cũng là vật dụng của nhà sư đi khất thực) cũng có thể làm nên sự nghiệp kinh tế lớn lao.
Trong sự nghiệp doanh thương, vai trò người vợ, người phụ nữ là vô cùng lớn lao. Điều này những ghi chép của các nhà buôn phương tây thế kỉ XVII đến Việt Nam cho ta thấy rõ hơn.
Việc doanh thương đi kèm với tín ngưỡng, ở đây là đạo Phật, là vô cùng quan trọng, là một yếu tố tạo niềm tin cho thương nhân. Việc quan hệ với thương nhân nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm của họ là rất cần thiết.
Câu chuyện còn chỉ ra mối quan hệ giữa thương mại và chính trị. Chỉ cần vua cha theo lời sàm tấu nên hiểu nhầm thì sự nghiệp buôn bán cũng vì thế mà có thể bị tiêu tan.
Trong sự giao thoa các tín ngưỡng, trước khi được nhân dân phong thánh theo tinh thần Đạo giáo, Chử Đồng Tử, như khái niệm Đồng Tử đã nói ở trên, qua quy chiếu Phật giáo, chính là một vị Bồ Tát của nghề thương mại.
Thánh Chử xứng đáng là một vị Bồ tát, vị Đạo tổ, là Thánh khởi nguyên của doanh thương Việt Nam.
Hà Nội 16 tháng 10 năm 2015.
|
Nghĩ thêm về truyện cổ tích Chử Đồng Tử
Việc phân tích truyện cổ tích Chử Đồng Tử phải dựa trên tinh thần văn bản hiện lưu hành. Do đó, các khía cạnh chủ đề của truyện cũng vì thế mà mở rộng thêm ra, phong phú và hấp dẫn hơn nhiều. Chúng tôi xin trình bày đôi điều nghĩ thêm về truyện cổ tích đặc sắc này, để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Các nhà nghiên cứu cho rằng truyện Chử Đồng Tử có nguồn gốc từ một truyền thuyết dân gian về thời Hùng Vương. Truyền thuyết ấy tôn vinh công trạng khai khẩn đất hoang, nhiều sình lầy, góp phần làm cho dân gian được no ấm của Chử Đồng Tử, một trong những chàng rể của Hùng Vương, sau trở thành một trong những vị phúc thần tối linh, được người đời ghi nhớ công ơn, lưu truyền mãi đến ngày nay. Và khi truyền thuyết ấy trở thành truyện cổ tích như ta đã thấy, hơn nữa, cũng theo phán đoán của các nhà nghiên cứu, có thể người đời sau đã thêm thắt vào phần cuối, có thêm nhiều yếu tố kỳ ảo thì truyện cổ tích Chử Đồng Tử đã trở thành truyện cổ tích thần kỳ.
Đương nhiên, việc phân tích truyện cổ tích Chử Đồng Tử phải dựa trên tinh thần văn bản hiện lưu hành. Do đó, các khía cạnh chủ đề của truyện cũng vì thế mà mở rộng thêm ra, phong phú và hấp dẫn hơn nhiều. Chúng tôi xin trình bày đôi điều nghĩ thêm về truyện cổ tích đặc sắc này, để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Truyện Chử Đồng Tử ra đời vào thời điểm nào ? Có thể nhận biết được điều này, căn cứ vào nội dung của truyện. Đó chính là xã hội phong kiến. Đã thấy có sự đối lập giàu nghèo quá rõ. Vua quan thì giàu sang phú quý, còn tầng lớp lao động thì quá nghèo, thậm chí, không thể nghèo hơn được nữa, như cha con Chử Đồng Tử trong truyện cổ tích này. Nho giáo hình như đã ảnh hưởng sâu sắc đến cộng đồng xã hôi, kể cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Có thể thấy một số khía cạnh chủ đề sau đây của truyện cổ tích Chử Đồng Tử:
1. Chủ đề PHỤ TỪ, TỬ HIẾU
Chuyện rằng: “… Chử Đồng Tử nhà nghèo, lại mồ côi mẹ. Cha con làm nghề đánh cá ven sông. Gia cảnh nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một chiếc khố che thân. Cù Vân (cha Chử Đồng Tử) ốm nặng. Khi sắp chết dặn lại con rằng:
– Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lại mà dùng !…
Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn…”
Như thế, người cha biết mình sắp chết còn nghĩ đến con, nghĩ đến cuộc sống còn rất khốn khó của người dương thế. Thương con đến như vậy, người cha ấy tất phải là người cha hiền. Hình ảnh người cha, chỉ được kể bằng vài chi tiết loáng thoáng thế thôi, nhưng ngẫm cho kỹ, đó lại là một chi tiết rất quan trọng, mà trước hết, nó góp phần khắc họa tính cách của người cha, làm tỏa sáng phẩm chất đáng kính của người cha, tuy nghèo hèn nhưng tấm lòng vô cùng đôn hậu, bao dung. Cha hiền, tất sinh con có hiếu. Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng mà về bên kia thế giới. Anh quyết định lấy khố đóng vào cho cha rồi mới chôn, mặc dù anh biết rằng cái khố ấy cũng sẽ mục nát ra, còn anh thì không có gì để mặc trong lúc này. Tấm lòng nhân hậu của người cha và hành động của người con chí hiếu, dường như đã cảm động đến cả quỷ thần. Người đọc, người nghe có thể bỏ qua tính chất cường điệu của sự miêu tả, mà trái tim rung lên với dạt dào cảm thương xót xa cho số phận những con người bất hạnh.
Một chi tiết khác, ở cuối truyện, có giá trị hoàn thiện thêm phẩm chất người con chí hiếu. Chử Đồng Tử, do cần cù chịu khó làm ăn, lại được Thần Tiên giúp đỡ, anh đã gây dựng được thế lực ngang ngửa với vua cha, thậm chí, anh còn mạnh hơn thế lực của nhà vua, bởi vì anh còn có cả phép Tiên phi phàm. Nhưng nhà vua (cha công chúa Tiên Dung vợ Chử Đồng Tử) vì thiển cận, hẹp hòi, cố chấp, lại còn ganh ghét, đưa quân tướng đến đánh đuổi vợ chồng Chử Đồng Tử, như thể đánh đuổi kẻ thù. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử đã quyết định không giao chiến với cha vợ (mặc dù anh là con rể không được vua cha thừa nhận) mà anh chủ động “nhổ” toàn bộ cơ nghiệp, gồm tất cả lâu đài nguy nga tráng lệ, để bay về trời. Bởi một lẽ đơn giản, anh là phận tôi con. Chống lại vua cha phẳng phải là một hành động được xem là bất hiếu hay sao ? Thế nên anh hành động như thế, là để thực hiện vẹn tròn chữ hiếu. Đúng hơn là hành động của anh cho thấy anh trước sau vẫn là một người con hiếu thảo. Sự nhân nhượng ấy giúp Chử Đồng Tử cùng một lúc thoát khỏi hai tội lớn là BẤT HIẾU và BẤT TRUNG. Bởi thế, bay về trời, chính là một giải pháp tối ưu, phù hợp với mong muốn của dân gian. Chi tiết này góp phần tô đậm thêm phẩm chất tốt đẹp của Chử Đồng Tử.
Ở đây, cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng, một trong những đặc sắc của nghệ thuật truyện cổ tích là ngôn ngữ rất giản dị. chi tiết không rườm rà, lời kể không để lộ cảm xúc của người kể chuyện. Chi tiết tự nó tạo vang ngân, trực tiếp tác động vào tri giác và nhận thức của người đọc, người nghe. Chi tiết “Phụ từ, tử hiếu”, theo chúng tôi, cần phải được xem là khía cạnh chủ đề quan trọng bậc nhất của truyện cổ tích Chử Đồng Tử.
2. Chủ đề thứ hai là KHÁT VỌNG BÌNH ĐẲNG, ƯỚC MƠ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC Ở ĐỈNH CAO
Như trên đã nói, Chử Đồng Tử xuất thân nghèo hèn, đến mức không thể nghèo hơn được nữa. Khi cha anh chết, anh không còn mảnh khố che thân. Người kể chuyện không phải nhẫu nhiên mà “bảo” anh nghèo đến thế. Tác giả truyện cổ tích muốn dựng lên một sự đối lập đến cực điểm của sự giàu nghèo giữa tầng lớp thống trị với tầng lớp dân đen, cuối cùng, tạo ra quan hệ Nhân-Quả theo quan niệm Phật giáo.
Người lao động dù nghèo, nhưng chịu thương chịu khó, ăn ở hiền lành, lại chí hiếu như Chử Đồng Tử, ắt phải được lấy con gái nhà vua lá ngọc cành vàng làm vợ. Họ sống hòa thuận, hạnh phúc. Hơn thế nữa, lại được Tiên truyền phép, cho cả điện ngọc nguy nga, lầu son gác tía, địa vị cao sang. Đó chẳng phải là ước mơ đẹp đẽ, chân chính của người bình dân trong xã hội phong kiến quá nhiều bất công hay sao ? Chi tiết này nằm trong môtip truyền thống của văn học dân gian, chẳng những ở nước ta, mà còn có ở khắp mọi nơi trên thế gian đầy rẫy bất công và khổ đau này. Ví như truyện TẤM CÁM ở nước ta, hay truyện CÔ GÁI LỌ LEM ở nước khác chẳng hạn. Ý nghĩa triết học và ý nghĩa nhân văn của chi tiết này thật là sâu sắc. Do vậy, không nên lấy quan điểm hiện đại mà phê phán việc Chử Đồng Tử trở thành giàu sang phú quý là thế này thế khác. Ví như cũng không nên lấy quan điểm của con người ngày nay mà phê phán cô Tấm trong truyện cổ tích TẤM CÁM. Lấy quan điểm hiện đại để phê phán truyện cổ tích là một việc làm ngây thơ, không thấu tình đạt lý !
Ngoài ra, với nhân vật Tiên Dung, việc nàng kiên quyết từ chối những lời cầu hôn của các công tử con nhà danh giá, vui vẻ và chủ động kết hôn với Chử Đồng Tử, sống cuộc đời bình dị của người lao động giữa thiên nhiên đất trời phóng khoáng, theo quan niệm của người xưa, đó chính là sự sắp đặt của số phận, của duyên trời. Nghĩa là nó có sự sắp đặt của đấng siêu nhiên. Nàng có đủ lý trí để nhận biết đó là một mối lương duyên trời định. Tiên Dung không đưa Chử Đồng Tử về cung, một phần, hay đúng hơn là nàng thừa biết vua cha không bao giờ chấp nhận, lại có thể sẽ bị trừng phạt rất nặng nề, cho thấy sức mạnh của Nho giáo đã tỏa chiết tinh thần con người thời đại ấy đến mức nào.
Tuy nhiên, chi tiết này, theo thiển ý của chúng tôi, nó không phải là chi tiết có thể tạo ra một khía cạnh chủ đề quan trọng, mà nó chỉ có thể tạo ra ý tưởng về ước mơ cuộc sống bình đẳng, dung hòa sự đối cực giai cấp, trong thực tế là vô cùng gay gắt.
Hạnh phúc ở đỉnh cao mà Chử Đồng Tử có được về sau này, phải chăng, chính là sự đền bù xứng đáng của siêu nhiên cho những con người nghèo hèn nhưng tốt bụng. Xét về tổng thể, đây cũng là một kiểu kết cấu NHÂN-QUẢ, có hậu, một trong những môtip chủ yếu của truyện cổ tích.
Truyện cổ tích CHỬ ĐỒNG TỬ, suy cho cùng, cũng chỉ là truyện cổ tích mà thôi. Người xưa làm ra truyện cổ tích là để thỏa mãn những khát khao cháy bỏng của người bình dân về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng. Mà khi con người còn dám mơ ước, khát khao tin tưởng vào những điều tốt lành, thánh thiện, thì đó chính là cái hồn nhân văn nguyên thủy đang còn bay bổng, giúp con người có đủ niềm tin và nghị lực đứng vững ở cõi thế gian đầy bất trắc này!
|
Nghĩ thêm về truyện cổ tích Chử Đồng Tử
Việc phân tích truyện cổ tích Chử Đồng Tử phải dựa trên tinh thần văn bản hiện lưu hành. Do đó, các khía cạnh chủ đề của truyện cũng vì thế mà mở rộng thêm ra, phong phú và hấp dẫn hơn nhiều. Chúng tôi xin trình bày đôi điều nghĩ thêm về truyện cổ tích đặc sắc này, để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Các nhà nghiên cứu cho rằng truyện Chử Đồng Tử có nguồn gốc từ một truyền thuyết dân gian về thời Hùng Vương. Truyền thuyết ấy tôn vinh công trạng khai khẩn đất hoang, nhiều sình lầy, góp phần làm cho dân gian được no ấm của Chử Đồng Tử, một trong những chàng rể của Hùng Vương, sau trở thành một trong những vị phúc thần tối linh, được người đời ghi nhớ công ơn, lưu truyền mãi đến ngày nay. Và khi truyền thuyết ấy trở thành truyện cổ tích như ta đã thấy, hơn nữa, cũng theo phán đoán của các nhà nghiên cứu, có thể người đời sau đã thêm thắt vào phần cuối, có thêm nhiều yếu tố kỳ ảo thì truyện cổ tích Chử Đồng Tử đã trở thành truyện cổ tích thần kỳ.
Đương nhiên, việc phân tích truyện cổ tích Chử Đồng Tử phải dựa trên tinh thần văn bản hiện lưu hành. Do đó, các khía cạnh chủ đề của truyện cũng vì thế mà mở rộng thêm ra, phong phú và hấp dẫn hơn nhiều. Chúng tôi xin trình bày đôi điều nghĩ thêm về truyện cổ tích đặc sắc này, để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Truyện Chử Đồng Tử ra đời vào thời điểm nào ? Có thể nhận biết được điều này, căn cứ vào nội dung của truyện. Đó chính là xã hội phong kiến. Đã thấy có sự đối lập giàu nghèo quá rõ. Vua quan thì giàu sang phú quý, còn tầng lớp lao động thì quá nghèo, thậm chí, không thể nghèo hơn được nữa, như cha con Chử Đồng Tử trong truyện cổ tích này. Nho giáo hình như đã ảnh hưởng sâu sắc đến cộng đồng xã hôi, kể cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Có thể thấy một số khía cạnh chủ đề sau đây của truyện cổ tích Chử Đồng Tử:
1. Chủ đề PHỤ TỪ, TỬ HIẾU
Chuyện rằng: “… Chử Đồng Tử nhà nghèo, lại mồ côi mẹ. Cha con làm nghề đánh cá ven sông. Gia cảnh nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một chiếc khố che thân. Cù Vân (cha Chử Đồng Tử) ốm nặng. Khi sắp chết dặn lại con rằng:
– Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lại mà dùng !…
Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn…”
Như thế, người cha biết mình sắp chết còn nghĩ đến con, nghĩ đến cuộc sống còn rất khốn khó của người dương thế. Thương con đến như vậy, người cha ấy tất phải là người cha hiền. Hình ảnh người cha, chỉ được kể bằng vài chi tiết loáng thoáng thế thôi, nhưng ngẫm cho kỹ, đó lại là một chi tiết rất quan trọng, mà trước hết, nó góp phần khắc họa tính cách của người cha, làm tỏa sáng phẩm chất đáng kính của người cha, tuy nghèo hèn nhưng tấm lòng vô cùng đôn hậu, bao dung. Cha hiền, tất sinh con có hiếu. Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng mà về bên kia thế giới. Anh quyết định lấy khố đóng vào cho cha rồi mới chôn, mặc dù anh biết rằng cái khố ấy cũng sẽ mục nát ra, còn anh thì không có gì để mặc trong lúc này. Tấm lòng nhân hậu của người cha và hành động của người con chí hiếu, dường như đã cảm động đến cả quỷ thần. Người đọc, người nghe có thể bỏ qua tính chất cường điệu của sự miêu tả, mà trái tim rung lên với dạt dào cảm thương xót xa cho số phận những con người bất hạnh.
Một chi tiết khác, ở cuối truyện, có giá trị hoàn thiện thêm phẩm chất người con chí hiếu. Chử Đồng Tử, do cần cù chịu khó làm ăn, lại được Thần Tiên giúp đỡ, anh đã gây dựng được thế lực ngang ngửa với vua cha, thậm chí, anh còn mạnh hơn thế lực của nhà vua, bởi vì anh còn có cả phép Tiên phi phàm. Nhưng nhà vua (cha công chúa Tiên Dung vợ Chử Đồng Tử) vì thiển cận, hẹp hòi, cố chấp, lại còn ganh ghét, đưa quân tướng đến đánh đuổi vợ chồng Chử Đồng Tử, như thể đánh đuổi kẻ thù. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử đã quyết định không giao chiến với cha vợ (mặc dù anh là con rể không được vua cha thừa nhận) mà anh chủ động “nhổ” toàn bộ cơ nghiệp, gồm tất cả lâu đài nguy nga tráng lệ, để bay về trời. Bởi một lẽ đơn giản, anh là phận tôi con. Chống lại vua cha phẳng phải là một hành động được xem là bất hiếu hay sao ? Thế nên anh hành động như thế, là để thực hiện vẹn tròn chữ hiếu. Đúng hơn là hành động của anh cho thấy anh trước sau vẫn là một người con hiếu thảo. Sự nhân nhượng ấy giúp Chử Đồng Tử cùng một lúc thoát khỏi hai tội lớn là BẤT HIẾU và BẤT TRUNG. Bởi thế, bay về trời, chính là một giải pháp tối ưu, phù hợp với mong muốn của dân gian. Chi tiết này góp phần tô đậm thêm phẩm chất tốt đẹp của Chử Đồng Tử.
Ở đây, cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng, một trong những đặc sắc của nghệ thuật truyện cổ tích là ngôn ngữ rất giản dị. chi tiết không rườm rà, lời kể không để lộ cảm xúc của người kể chuyện. Chi tiết tự nó tạo vang ngân, trực tiếp tác động vào tri giác và nhận thức của người đọc, người nghe. Chi tiết “Phụ từ, tử hiếu”, theo chúng tôi, cần phải được xem là khía cạnh chủ đề quan trọng bậc nhất của truyện cổ tích Chử Đồng Tử.
2. Chủ đề thứ hai là KHÁT VỌNG BÌNH ĐẲNG, ƯỚC MƠ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC Ở ĐỈNH CAO
Như trên đã nói, Chử Đồng Tử xuất thân nghèo hèn, đến mức không thể nghèo hơn được nữa. Khi cha anh chết, anh không còn mảnh khố che thân. Người kể chuyện không phải nhẫu nhiên mà “bảo” anh nghèo đến thế. Tác giả truyện cổ tích muốn dựng lên một sự đối lập đến cực điểm của sự giàu nghèo giữa tầng lớp thống trị với tầng lớp dân đen, cuối cùng, tạo ra quan hệ Nhân-Quả theo quan niệm Phật giáo.
Người lao động dù nghèo, nhưng chịu thương chịu khó, ăn ở hiền lành, lại chí hiếu như Chử Đồng Tử, ắt phải được lấy con gái nhà vua lá ngọc cành vàng làm vợ. Họ sống hòa thuận, hạnh phúc. Hơn thế nữa, lại được Tiên truyền phép, cho cả điện ngọc nguy nga, lầu son gác tía, địa vị cao sang. Đó chẳng phải là ước mơ đẹp đẽ, chân chính của người bình dân trong xã hội phong kiến quá nhiều bất công hay sao ? Chi tiết này nằm trong môtip truyền thống của văn học dân gian, chẳng những ở nước ta, mà còn có ở khắp mọi nơi trên thế gian đầy rẫy bất công và khổ đau này. Ví như truyện TẤM CÁM ở nước ta, hay truyện CÔ GÁI LỌ LEM ở nước khác chẳng hạn. Ý nghĩa triết học và ý nghĩa nhân văn của chi tiết này thật là sâu sắc. Do vậy, không nên lấy quan điểm hiện đại mà phê phán việc Chử Đồng Tử trở thành giàu sang phú quý là thế này thế khác. Ví như cũng không nên lấy quan điểm của con người ngày nay mà phê phán cô Tấm trong truyện cổ tích TẤM CÁM. Lấy quan điểm hiện đại để phê phán truyện cổ tích là một việc làm ngây thơ, không thấu tình đạt lý !
Ngoài ra, với nhân vật Tiên Dung, việc nàng kiên quyết từ chối những lời cầu hôn của các công tử con nhà danh giá, vui vẻ và chủ động kết hôn với Chử Đồng Tử, sống cuộc đời bình dị của người lao động giữa thiên nhiên đất trời phóng khoáng, theo quan niệm của người xưa, đó chính là sự sắp đặt của số phận, của duyên trời. Nghĩa là nó có sự sắp đặt của đấng siêu nhiên. Nàng có đủ lý trí để nhận biết đó là một mối lương duyên trời định. Tiên Dung không đưa Chử Đồng Tử về cung, một phần, hay đúng hơn là nàng thừa biết vua cha không bao giờ chấp nhận, lại có thể sẽ bị trừng phạt rất nặng nề, cho thấy sức mạnh của Nho giáo đã tỏa chiết tinh thần con người thời đại ấy đến mức nào.
Tuy nhiên, chi tiết này, theo thiển ý của chúng tôi, nó không phải là chi tiết có thể tạo ra một khía cạnh chủ đề quan trọng, mà nó chỉ có thể tạo ra ý tưởng về ước mơ cuộc sống bình đẳng, dung hòa sự đối cực giai cấp, trong thực tế là vô cùng gay gắt.
Hạnh phúc ở đỉnh cao mà Chử Đồng Tử có được về sau này, phải chăng, chính là sự đền bù xứng đáng của siêu nhiên cho những con người nghèo hèn nhưng tốt bụng. Xét về tổng thể, đây cũng là một kiểu kết cấu NHÂN-QUẢ, có hậu, một trong những môtip chủ yếu của truyện cổ tích.
Truyện cổ tích CHỬ ĐỒNG TỬ, suy cho cùng, cũng chỉ là truyện cổ tích mà thôi. Người xưa làm ra truyện cổ tích là để thỏa mãn những khát khao cháy bỏng của người bình dân về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng. Mà khi con người còn dám mơ ước, khát khao tin tưởng vào những điều tốt lành, thánh thiện, thì đó chính là cái hồn nhân văn nguyên thủy đang còn bay bổng, giúp con người có đủ niềm tin và nghị lực đứng vững ở cõi thế gian đầy bất trắc này!
|
Dấu triện son thời Sơn Tây
Cho đến nay, di sản văn hoá vật chất thời Tây Sơn (1788-1802) tuy còn lại không nhiều nhưng đã được các nhà nghiên cứu sử học và bảo tàng tập hợp, công bố ở nhiều nơi (Nguyễn Đình Chiến, 2011: tr. 14-17). Trong bài này chúng tôi tập trung giới thiệu về các dấu triện son thời Tây Sơn với các niên hiệu Quang Trung, Cảnh Thịnh và Bảo Hưng..
Các dấu triện son đời Quang Trung (1788-1802) hiện còn chủ yếu là các loại ấn của Võ quan trong tướng lĩnh quân đội như một số ấn đồng hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, ký hiệu LSb 2535. Ấn này tìm thấy tại Nam Định, cao 4,5 cm, cạnh vuông 8,3 cm. Ấn có quai hình chuôi vồ, mặt ấn đúc nổi10 chữ Hán theo thể Triện thư:
Suất trung lương nhị vệ tam hiệu trung lang tướng.
Đây là dấu của viên Trung lang tướng ở Hiệu quân thứ 3, Vệ thứ 2, Suất trung lương (
Hội đồng biên soạn, 2003 : tr.99)
. Chiếc ấn khác có kiểu dáng tương tự mặt ấn khắc 9 chữ Hán:
Suất hùng cự khai vệ ngũ hiệu Đô ty.
Đây là ấn của viên tướng chức Đô ty ở Hiệu quân thứ 5, Vệ tiên phong, Suất hùng cự. Trên mặt hai ấn chỉ ghi năm tạo ấn là năm Tân Hợi (1791). Trong sách
Ấn chương Việt Nam
từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX
Nguyễn Công Việt còn giới thiệu tài liệu về chiếc ấn:
Tây Kỳ phủ Trung Tín nhất Vệ hộ quân
sứ Vinh Hoa hầu.
Đây là ấn của viên tướng Vinh Hoa hầu chức Hộ quân sứ thuộc Vệ thứ nhất Trung Tín phủ Tây Kỳ. Một quả ấn khác có dấu hình chữ nhật kích thước 9,8 x 6,6cm. Mặt ấn đúc 5 chữ triện nổi
Bằng Tuyền huyện quản lý
. Đây là dấu ấn của chức quản lý huyện Bằng Tuyền. Trên các ấn đồng này đều khắc dòng chữ
Tân Hợi niên tạo
, là năm Quang Trung thứ 4 (1791). Việc khảo cứu của Nguyễn Công Việt đã chứng minh thời gian đúc của các quả ấn đúc năm Tân Hợi trên đây là 1791.
Các quả ấn của Vua tức là các Kim bảo dưới thời Tây Sơn, đến nay đều không còn và không rõ được đúc bằng chất liệu gì, nhưng chúng ta được biết nhiều hình dấu triện son đóng trên các bản sắc phong, chiếu chỉ, truyền. Hình dấu triện son đều có hình vuông, bên trong đúc/ khắc 4 chữ hay 5 chữ theo kiểu triện Thư. Khảo sát các bản sắc phong thần hiện còn lưu giữ tại các bảo tàng và di tích đình, đền, miếu thờ, chúng tôi thấy một số dấu triện son như sau:
Dấu triện son
Quảng vận chi bảo
, hình vuông, kích thước 11,5 x 11,5cm, đóng trên Tờ chiếu chỉ, niên hiệu Quang Trung năm thứ 5 (1792). Nội dung bản chiếu của vua Quang Trung khen ngợi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp về việc dịch sách
Kinh thi.
Tờ chiếu hình chữ nhật dài 50cm, rộng 40cm, ký hiệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, số LSb.21965. Dòng niên đại ghi
Quang Trung ngũ niên nhật nguyệt sơ nhị. N
ghĩa là ngày mùng 2 tháng 6 năm Quang Trung thứ 5 (1792). Theo khảo cứu của Nguyễn Công Việt, dấu
Quảng vận chi bảo
thường sử dụng trên các công văn sai, truyền. Dấu
Quảng vận chi bảo
đã thấy trong các văn bản niên hiệu Quang Trung năm thứ 2 (1789); Quang Trung năm thứ 4 (1791), Quang Trung năm thứ 5 (1792). (
Nguyễn Công Việt, 2005: tr.252-255)
Tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia còn lưu giữ Tờ lệnh chỉ, ký hiệu LSb 21973, dài 49,3 cm, rộng 38,7 cm. Ngoài các dấu triện son nhỏ còn có một dấu triện son lớn với 5 chữ theo kiểu triện Thư :
Hoàng Thái tử chi bảo (Hội đồng biên soạn, 2003 : tr.178
).
Dấu triện son
Triều đường chi ấn,
hình vuông, kích thước 11,3 x 11,3 cm. Đây là ấn của Triều đình. Dấu ấn này đã thấy trên văn bản, tờ truyền niên hiệu Quang Trung năm thứ 5, ngày 14 tháng 4 nhuận năm 1792.
Triều Đường chi ấn
có chức năng tương tự như ấn
Đình thần chi ấn, Công đồng chi ấn
của thời Nguyễn sau đó. Dấu
Triều đường chi ấn
còn thấy trên tờ Truyền ngày mùng 4 tháng 6 năm Quang Trung thứ 5 (1792). Theo Nguyễn Công Việt dấu này được dùng vào những văn bản hành chính quan trọng dưới chiếu, chỉ, dụ, cáo, sắc phong của Hoàng đế.
Dấu triện son
Sắc mệnh chi bảo
dùng trên các văn bản sắc phong cho người có công dưới thời Tây Sơn. Theo tài liệu của cụ Hoa Bằng sao lại cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ghi lại ngày 11 tháng 12 năm 1949. Bản này in lại trong sách
Ấn chương Việt Nam
(
Nguyễn Công Việt, 2005: tr.267
). Đây là bản sắc phong của vua Quang Trung ban cho Phan Huy Ích chức
Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Thị trung Ngự sử, tước Thuỵ Nham hầu
. Niên đại của Sắc phong này ghi ngày 18 tháng 4 nhuận năm Quang Trung thứ 5 (1792).
Thông tin trên báo
Văn hoá
ngày 3 tháng 4 năm 2010, cho biết về việc phát hiện 3 sắc phong thời Tây Sơn tại Hà Tĩnh. Trong đó đạo sắc phong vua Quang Trung ban cho ông Trương Bao với tước hiệu
Tráng tiết Tướng quân Võ uý Bao Đức Nam
. Sắc phong ngày 25 tháng 10 năm Quang Trung thứ 5 (1792). Mặc dù tờ sắc bị mòn, rách nhưng dấu triện son trên góc trái còn rõ:
Sắc mệnh chi bảo.
Cũng theo thông tin trên, 2 tờ sắc Cảnh Thịnh năm thứ 8 (1800) cũng đều có nội dung gia phong tước
hầu
và tước
bá
cho người có công đánh giặc dưới thời Tây Sơn.
Ở Bảo tàng Quang Trung, Bình Định còn giữ được một số tài liệu thời Tây Sơn trong đó có các sắc phong cho tướng lĩnh. Bản sắc phong vào ngày 24 tháng 2 năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1795), phong cho viên quan chỉ huy Vệ thứ 3 đạo Hổ dực là Nguyễn Đăng Lâm làm chức
Hộ quân sứ tước sứ, Phú Nhuận hầu
. Trên sắc có dấu chữ triện
Sắc mệnh chi bảo
(
Nguyễn Công Việt, 2005: tr. 275-276
).
Thật tiếc cho đến nay không còn một đạo sắc nào nguyên vẹn để truy cứu so sánh. Nhưng xem hình dấu, chúng tôi thấy khác hẳn với tự dạng trên dấu triện
Sắc mệnh chi bảo
thời Lê. Chữ
Sắc mệnh
kiểu Triện thư, với chữ
mệnh
nhô hẳn lên chữ
Sắc
. Nhưng 2 chữ
chi bảo
lại giống dấu
Hòa nhu chi bảo
. Chữ
chi
có uốn gấp khúc , cân đối..
Dấu triện son
Hoà nhu chi bảo
hay
Tiên nhu chi bảo.
Theo Nguyễn Công Việt, dấu triện
Hòa nhu chi bảo,
chỉ dùng dưới thời Tây Sơn
.
Dấu triện có cạnh 15,2cm x 15,2cm, viền ngoài đậm 2,2cm. Ý nghĩa của dấu triện này là các vị thần phù trợ cho mưa thuận gió hòa, mầm lúa mọc tươi tốt. Chúng tôi cũng thấy, dấu triện son
Hòa nhu chi bảo
được sử dụng phổ biến trên các đạo sắc phong thần thời Tây Sơn , kể từ niên hiệu Quang Trung cho đến Cảnh Thịnh và Bảo Hưng. Các dòng chữ chỉ ngày tháng sau niên hiệu đều dùng theo kiểu chữ giản thể.
Dấu triện son này thấy đóng trên nhiều sắc phong thần cho các Thành hoàng làng như trên bản sắc phong cho Thành hoàng đình Yên Việt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Dấu đóng ở dòng ghi niên hiệu, ngày mùng 2 tháng 10 năm Quang Trung thứ 3 (1790). Đây có lẽ là sắc phong sớm nhất mang dấu triện son
Hòa nhu chi bảo
trong niên hiệu Quang Trung.
Trong một sưu tập tư nhân ở Hà Nội, chúng tôi đã gặp các bản sắc đóng dấu triện son
Hòa nhu chi bảo
như đạo sắc phong ngày 10 tháng 5 năm Quang Trung 4 (1791).
Các bản sắc phong gia phong mỹ tự cho các vị Thành hoàng thờ ở đình làng Bát Tràng vào ngày 29 tháng 3 năm Quang Trung thứ 5 (1792). Đạo sắc phong ngày 5 tháng 5 năm Quang Trung thứ 5 (1792) ở miếu Cầu Vương thôn Thuận Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm.
Dưới niên hiệu Cảnh Thịnh (1793-1801) có 2 đạo sắc phong ngày 21 tháng 5 năm Cảnh Thịnh 4 (1796) trong sưu tập tư nhân ở Hà Nội.
và 1 đạo sắc phong khác cùng ngày ở đền thờ Bùi Tá Hán tại Quảng Ngãi…
|
Son Tay period seal
Up to now, although not much remains of the material cultural heritage of the Tay Son period (1788-1802), it has been gathered and published by historians and museums in many places (Nguyen Dinh Chien, 2011: pp. 14-17). In this article, we focus on introducing the seals of the Tay Son period with the era names Quang Trung, Canh Thinh and Bao Hung.
The remaining seals of the Quang Trung Dynasty (1788-1802) are mainly the seals of military officers and generals, such as some bronze seals currently kept at the National History Museum, symbol LSb 2535. Seals Found in Nam Dinh, 4.5 cm high, 8.3 cm square edge. The seal has a mallet-shaped handle and the seal's face is embossed with 10 Chinese characters in the form of Seal:
The capacity of the middle salary, the second guard, the third title of the middle lang general.
This is the mark of the Lieutenant General in the 3rd Quartermaster, 2nd Guard, Lieutenant Luong (
Editorial Council, 2003: p.99)
. The other seal has a similar design and the face is engraved with 9 Chinese characters:
Heroic and heroic guard of the fifth rank of Do Company.
This is the seal of the General of the Do Company in the 5th Military Command, Ve Tien Phong, Suat Hung Cu. On the surface of the two seals, only the year of creation of the seal is written, which is the year of Tan Hoi (1791). In the book
Vietnamese seal
from the 15th century to the end of the 19th century
Nguyen Cong Viet also introduced documents about the seal:
Tay Ky Palace is most loyal to the Guardian Army
Envoy Vinh Hoa Marquis.
This is the seal of General Vinh Hoa, serving as Military Protector of the First Guard of the Central Government of Tay Ky. Another seal has a rectangular mark measuring 9.8 x 6.6cm. The stamped surface has 5 embossed seal letters
Bang Tuyen district is managed
. This is the mark of Bang Tuyen district management position. These bronze seals are engraved with words
New Year of the Pig
, was the 4th year of Quang Trung (1791). Nguyen Cong Viet's research has proven that the casting time of the seals cast in the year of Tan Hoi above is 1791.
The King's seals, i.e. the Golden Treasures under the Tay Son Dynasty, are no longer available and it is unclear what material they were cast from, but we know of many red seals stamped on ordinations, decrees, and decrees. transmit. The lipstick seals are all square in shape, with 4 or 5 letters cast/engraved inside in the style of the Thu seal. Surveying the deified identities still preserved in museums and relics of communal houses, temples, and shrines, we see some red seal marks as follows:
Lipstick seal
The treasure of advertising and fortune
, square, size 11.5 x 11.5cm, stamped on the decree, dated Quang Trung year 5 (1792). The content of King Quang Trung's slide praising La Son's husband Nguyen Thiep for translating the book
Exam scriptures.
Rectangular mat 50cm long, 40cm wide, symbol of the National Museum of History, number LSb.21965. The chronology reads
Quang Trung was five years old, the first day, the second year. N
That means the 2nd day of the 6th month of the 5th year of Quang Trung (1792). According to research by Nguyen Cong Viet, mark
The treasure of advertising and fortune
often used on erroneous or transmitted official dispatches. Sign
The treasure of advertising and fortune
seen in documents dated Quang Trung year 2 (1789); Quang Trung in the 4th year (1791), Quang Trung in the 5th year (1792). (
Nguyen Cong Viet, 2005: pp.252-255)
At the National Museum of History, the order sheet, symbol LSb 21973, is 49.3 cm long and 38.7 cm wide. In addition to the small red seals, there is also a large red seal with 5 letters in the Thu seal style:
The Crown Prince's treasure (Editor's Council, 2003: p.178
).
Lipstick seal
The seal of the dynasty,
Square shape, size 11.3 x 11.3 cm. This is the royal seal. This imprint was seen on documents and sheets of Quang Trung's 5th year, April 14, 1792.
The seal of the Tang Dynasty
has the same function as pressing
The seal of the Divine Court, the seal of the Council
of the Nguyen Dynasty afterward. Sign
The seal of the dynasty
Also seen in Truyen newspaper dated June 4th, Quang Trung's 5th year (1792). According to Nguyen Cong Viet, this seal is used in important administrative documents under the Emperor's edicts, edicts, proclamations, and ordinations.
Lipstick seal
The treasure of destiny
used on documents ordaining people with meritorious services during the Tay Son dynasty. According to documents Mr. Hoa Bang copied for the Han Nom Research Institute, recorded on December 11, 1949. This copy is reprinted in the book
Vietnamese seal
(
Nguyen Cong Viet, 2005: p.267
). This is the decree granted by King Quang Trung to Phan Huy Ich
Special promotion of Kim Tu Vinh Loc Dai Phu, Thi Trung Ngu Su, title of Thuy Nham Marquis
. The date of this Ordination is recorded on April 18, the leap year of Quang Trung's 5th year (1792).
Information in newspapers
Culture
April 3, 2010, reported on the discovery of 3 Tay Son dynasty ordinations in Ha Tinh. In which, King Quang Trung was ordained and gave Mr. Truong Bao the title
Respectful General, Martial Lieutenant Bao Duc Nam
. Ordained on October 25, the 5th year of Quang Trung (1792). Although the identity sheet is worn and torn, the red seal mark on the left corner is still clear:
The treasure of destiny.
Also according to the above information, the two Canh Thinh decrees of the 8th year (1800) also had the content of conferment and title.
almost
and deprivation
uncle
for those who had meritorious service in fighting the enemy during the Tay Son period.
At the Quang Trung Museum, Binh Dinh still preserves a number of documents from the Tay Son period, including ordinations for generals. The decree of conferment on February 24, the 4th year of Canh Thinh (1795), appointed the 3rd Guard commander of the Ho Duc sect, Nguyen Dang Lam, to the position.
Military household envoy, Marquis of Phu Nhuan
. There are seal marks on the color
The treasure of destiny
(
Nguyen Cong Viet, 2005: p. 275-276
).
It's a pity that up to now, there is no longer any intact form to study and compare. But looking at the image of the seal, we see that it is completely different from the lettering on the seal
The treasure of destiny
Le Dynasty. Letter
Destiny
Seal style, with text
fate
The letters stand out
Sharp
. But 2 words
Chi Bao
looks like a mark
Peace and harmony
. Letter
spend
There are curves and balance..
Lipstick seal
Peace and harmony
nice
Tien Nhu Chi Bao.
According to Nguyen Cong Viet, seal mark
Peace and harmony,
Only used during the Tay Son period
.
The seal has an edge of 15.2cm x 15.2cm, with a dark outer border of 2.2cm. The meaning of this seal is that the gods support favorable weather and good rice growth. We also see the red seal
Peace and harmony
It was commonly used in the ordinations of gods during the Tay Son period, from the reign of Quang Trung to Canh Thinh and Bao Hung. The lines indicating the date and month after the era name are all in simplified font.
This vermilion seal is seen on many proclamations conferring deities on village tutelary gods such as on the proclamation conferring on the tutelary deity of Yen Viet communal house, Thanh Tri district, Hanoi. The stamp is on the line recording the era name, October 2nd, the 3rd year of Quang Trung (1790). This is probably the earliest ordination bearing the vermilion seal
Peace and harmony
in the reign of Quang Trung.
In a private collection in Hanoi, we encountered identities stamped with red seals
Peace and harmony
as ordained on May 10, Quang Trung year 4 (1791).
The identities conferred beautiful titles on the tutelary deities worshiping at Bat Trang village communal house on March 29, the 5th year of Quang Trung (1792). The priest was ordained on May 5, the 5th year of Quang Trung (1792) at Cau Vuong temple, Thuan Ton village, Da Ton commune, Gia Lam district.
Under the reign of Canh Thinh (1793-1801), there are two ordinations dated May 21, year Canh Thinh 4 (1796) in a private collection in Hanoi.
and another ordination on the same day at Bui Ta Han temple in Quang Ngai...
|
TRUYỀN THỐNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
Triết học là một bộ phận không thể tách rời của truyền thống Ấn Độ, nó phản ánh sinh động một trong những đặc điểm căn bản của truyền thống này là: sự thống nhất trong đa dạng. Vào thế kỷ thứ 6 (TCN), khi thái tử Siddhartha, người sáng lập đạo Phật, rời bỏ cung điện của mình đi tìm chân lý, Người được biết rằng đã có 48 trường phái triết học khác nhau, từ chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên tới chủ nghĩa thần bí thuần túy nhất. Từ triết học trong tiếng Phạn (tiếng Sanskrit) là
darshana
, nghĩa đen là “chiêm ngưỡng”, là “nhìn thấy”. Chân lý chỉ có một, nhưng chân lý lại đa diện và tự ta có thể nhìn thấy chân lý từ những góc độ khác nhau. Vì vậy, các
darshana
hay các trường phái triết học khác nhau chẳng những không đối lập nhau mà còn bổ sung cho nhau. Điều đó có nghĩa là: có sự khoan dung về mặt trí tuệ.
Một trong những nhân tố thống nhất và làm cho các trường phái triết học nhích lại gần nhau là niềm tin cho rằng: tri thức triết học không phải là mục đích tự thân, mà nó chỉ là một phương tiện để chuyển hóa nội tâm nhằm đạt tới giải thoát tức
mukti
hay
nirvana
(Niết bàn). Ngay những người sáng lập ra những hệ thống triết học trừu tượng nhất cũng đều thừa nhận mục đích chung này. Mục đích ấy coi trí thức triết học chỉ là một trong những khía cạnh của sự thông thái cao nhất. Trong đó còn có sự trong sạch về đạo đức của người hiền và sự nhạy cảm của người thi sĩ, nghệ sĩ. Các nhà triết học Ấn Độ (trừ các nhà duy tâm triệt để nhất) còn thống nhất với nhau ở một điểm nữa là cho rằng không thể đạt tới sự giải thoát – tức là mục đích của tri thức – bằng một ngoại lực, chẳng hạn như “số mệnh”, mà bằng sự tu thân tích đức của mọi con người
(karma)
qua các kiếp luân hồi.
Trường phái triết học Jaina thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại thực thể
(dravya)
, trong đó có những thực thể vô sinh
(pudgala)
và những thực thể hữu sinh
(jiva).
Mọi sinh vật đều có linh hồn, kể từ những hình thức sơ đẳng nhất, những sinh vật hoàn thiện
(tirthankara)
đã vượt qua được những thuộc tính có hạn chế để đạt tới tri thức tuyệt đối
(kaivalya).
Những
tirthankara
ấy là thực tại tối cao, bởi trong thế giới quan của triết học Jaina không có chỗ cho Thượng đế.
Ít nhất là ở trong buổi sơ khai, đạo Phật chủ yếu là một quan điểm đạo lý, bởi vì đức Phật đã cố tránh đề cập đến vấn đề siêu hình để tập trung vào vấn đề “khổ”. Nhưng khi đức Phật nhấn mạnh đến tính phổ biến của luật nhân quả và tính vô thường của mọi sự vật và hiện tượng trên đời là đức Phật đã mở đường cho siêu hình học, nhất là sau khi xuất hiện tông phái Đại thừa
(Mahayana).
Nagarjuna (Long Thọ) (150 – 250 TCN) người vĩ đại nhất trong các nhà triết học Phật giáo, là tác giả học thuyết “Chân không –
Shunyavada
”, thuyết cho rằng: muốn hiểu được bản chất cơ bản nhất của thực tại thì phải “làm cho rỗng hết” mọi khái niệm và thuộc tính có hạn.
Nhưng trong cả tư tưởng của Hindi nữa, ở những bài thánh ca đầu tiên trong kinh Veda (khoảng 1500 – 1200 TCN) cũng đã thể hiện khuynh hướng nhất nguyên luận, khuynh hướng sau đó thống trị toàn bộ tư tưởng Ấn Độ: đằng sau mọi cái đa dạng có một thực tại duy nhất được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Nhiều thế kỷ sau, các tập kinh Upanishad lại hướng vào nội tâm và khẳng định rằng: cái tinh thần phổ biến ở trong mỗi con người (
atman
– tiểu ngã) với cái thực tại tối cao (
brahman
– đại ngã), căn nguyên của Vũ trụ, chỉ là một. Sau nữa, thi phẩm
Bhagavadgita
(Bài ca của Đấng tối cao) ra đời khoảng 200 năm TCN đã cố tổng hợp quan điểm triết học và tôn giáo khác nhau thành “Sáu học phái”.
Sáu trào lưu lớn này trong triết học Hindi xưa nay được xếp thành ba cặp: Samkhya và Yoga; Nyaya và Vaisheshika; Mimansa và Vedanta. Mặc dù có sự khác nhau căn bản giữa các trào lưu đó, song về mặt hình thức thì tất cả đều thừa nhận uy thế của tập kinh
Veda, Upannishad
và
Bhagavadgita
.
Trường phái Samkhya là một hệ thống nhị nguyên, thừa nhận hai thực thể độc lập là Tinh thần (Purusha) va Tự nhiên (Prakriti). Tinh thần là ý thức thuần túy, Tự nhiên là nguồn gốc của mọi tiềm năng sinh lực. Tinh thần và Tự nhiên không bao giờ gặp nhau, nhưng hoạt động của Tinh thần có thể thúc đẩy hoạt động của Tự nhiên. Sự cân bằng giữa ba yếu tố của Tự nhiên bị phá vỡ làm cho Vũ trụ tiến hóa. Trường phái Yoga chấp nhận cơ sở triết học của Samkhya và vận dụng nó vào mặt thực hành của việc tự nhận thức mình. Mục đích của Yoga là loại trừ những lệch lạc, méo mó do ý thức gây ra để tìm về với bản chất chân thực của Tinh thần. Phương thức để đạt tới là sự suy tưởng, một điều cần nhiều sự rèn luyện và chuẩn bị về thể xác và tâm thức.
Trường phái Nyaya (Phân tích) quan tâm đến logic và các thuyết ngụy biện, và nghiên cứu về nguồn gốc tri thức con người. Trường phái Vaisheshika lại bàn tới những phạm trù khác nhau của thực thể, khẳng định rằng: mọi thực thể đều hợp thành bởi 4 nguyên tử bất diệt và không thể chia nhỏ.
Trường phái Mimansa (Nghiên cứu) quan tâm đến nguyên lý nhân quả để dẫn ra một cơ sở triết học biện minh cho uy lực của kinh
Veda
và nghi lễ Veda. Sau cùng, trường phái Vedanta (Sự hoàn thành của Veda) là sự hoàn thiện của triết học cổ điển Ấn Độ, là đỉnh cao của truyền thống Veda. Vedanta có nhiều phái; có nhiều ảnh hưởng nhất là phái Nhất nguyên, tức “Phi nhị nguyên” (Advaita). Ramanuja (mất 1137) khẳng định rằng: “Thế giới và mỗi người đều bắt nguồn từ cái Tổng thế siêu phàm, mặc dù không đồng nhất với Thượng đế”. Nhà triết học vĩ đại Shankara (780 – 820) còn theo thuyết nhất nguyên triệt để hơn nữa vì ông cho rằng: “thực tại duy nhất là brahman hay cái Tuyệt đối. Bản ngã (java) đồng nhất với cái Đại ngã (brahman) còn thế giới (jagat) chỉ là bề ngoài. Nếu như ta thấy cái tôi và thế giới tách rời nhau, thành những thực thể riêng biệt, thì đó chỉ là do một quyền năng vũ trụ bí ẩn (maya, tức ảo ảnh) gây ra sự ngu dốt.”
Thuyết Advaita Vedanta của Shankara đã thống trị tư tưởng Ấn Độ từ 12 thế kỷ nay. Ta có thể đánh giá được uy tín của nó qua câu ngạn ngữ dân gian nói rằng: “không có trường phái triết học nào chọi được với Advaita, cũng như mọi sinh linh trong rừng đều im bặt khi sư tử cất tiếng gầm”.
|
INDIAN PHILOSOPHICAL TRADITION
Philosophy is an inseparable part of Indian tradition, it vividly reflects one of the basic characteristics of this tradition: unity in diversity. In the 6th century (BC), when Prince Siddhartha, the founder of Buddhism, left his palace to search for truth, he learned that there were 48 different philosophical schools, from realism to and naturalism to the purest mysticism. The word philosophy in Sanskrit is
darshana
, literally means “to admire”, “to see”. There is only one truth, but truth is multifaceted and we can see the truth from different angles. So the
darshana
or different schools of philosophy not only do not oppose each other but also complement each other. That means: having intellectual tolerance.
One of the factors that unifies and brings philosophical schools closer together is the belief that philosophical knowledge is not an end in itself, but is only a means for inner transformation in order to achieve liberation
mukti
nice
nirvana
(Nirvana). Even the founders of the most abstract philosophical systems acknowledged this common purpose. That purpose considers philosophical knowledge as just one aspect of the highest wisdom. There is also the moral purity of a sage and the sensitivity of a poet and artist. Indian philosophers (except the most radical idealists) also agree on one more point: that it is impossible to achieve liberation - that is, the goal of knowledge - by an external force, such as "fate", but by the self-cultivation and virtue of every human being
(karma)
through reincarnations.
The Jaina school of philosophy acknowledges the existence of many types of entities
(dravya)
, including inanimate entities
(pudgala)
and living entities
(jiva).
All living things have a soul, from the most elementary forms, the perfected beings
(tirthankara)
has overcome limited attributes to reach absolute knowledge
(kaivalya).
These
tirthankara
That is the ultimate reality, because in the worldview of Jain philosophy there is no place for God.
At least in its beginnings, Buddhism was primarily an ethical perspective, because the Buddha tried to avoid metaphysical issues to focus on the issue of “suffering.” But when the Buddha emphasized the universality of the law of cause and effect and the impermanence of all things and phenomena in the world, the Buddha paved the way for metaphysics, especially after the emergence of the Mahayana sect.
(Mahayana).
Nagarjuna (Nagarjuna) (150 - 250 BC), the greatest of the Buddhist philosophers, is the author of the doctrine "Void -
Shunyavada
", the theory says that if you want to understand the most basic nature of reality, you must "empty" all limited concepts and attributes.
But in Hindi thought too, the first hymns in the Vedas (about 1500 - 1200 BC) also expressed the monistic tendency, a tendency that later dominated all Indian thought: behind behind all diversity there is a single reality called by many different names. Centuries later, the Upanishads turned inward and affirmed that: the spirit is universal in every human being (
atman
– small self) with the supreme reality (
brahman
– the great self), the origin of the Universe, is only one. Next, poetry
Bhagavadgita
(Song of the Supreme Being) was born around 200 BC and tried to synthesize different philosophical and religious views into the "Six Sects".
These six great trends in Hindi philosophy have traditionally been classified into three pairs: Samkhya and Yoga; Nyaya and Vaisheshika; Mimansa and Vedanta. Although there are fundamental differences between these trends, in terms of form they all acknowledge the authority of the sutras.
Vedas, Upanishads
and
Bhagavadgita
.
The Samkhya school is a dualistic system, recognizing two independent entities, Spirit (Purusha) and Nature (Prakriti). Spirit is pure consciousness, Nature is the source of all life force potential. Spirit and Nature never meet, but the activity of Spirit can promote the activity of Nature. The balance between the three elements of Nature is broken, causing the Universe to evolve. The Yoga school accepts the philosophical basis of Samkhya and applies it to the practical side of self-realization. The purpose of Yoga is to eliminate distortions and distortions caused by consciousness to return to the true nature of Spirit. The way to achieve it is contemplation, which requires a lot of physical and mental training and preparation.
The Nyaya (Analytical) school was concerned with logic and sophisms, and the study of the origins of human knowledge. The Vaisheshika school discusses different categories of entities, asserting that all entities are composed of four immortal and indivisible atoms.
The Mimansa (Research) school is concerned with the principle of cause and effect to provide a philosophical basis to justify the power of scripture.
Veda
and Vedic rituals. Ultimately, the school of Vedanta (Completion of the Vedas) is the completion of classical Indian philosophy, the pinnacle of the Vedantic tradition. Vedanta has many sects; The most influential is the Monistic sect, that is, "Non-duality" (Advaita). Ramanuja (died 1137) affirmed that: "The world and each person originate from the sublime Whole, although not identical with God." The great philosopher Shankara (780 – 820) was an even more radical monist because he believed: “the only reality is brahman or the Absolute. The ego (java) is identical with the Great Self (brahman) and the world (jagat) is only an appearance. If we see the self and the world as separate, separate entities, it is only due to a mysterious cosmic power (maya, or illusion) that causes ignorance.”
Shankara's Advaita Vedanta theory has dominated Indian thought for 12 centuries. We can evaluate its prestige through the folk proverb that says: "There is no school of philosophy that can compete with Advaita, just as all creatures in the forest are silent when the lion roars".
|
NHỮNG SẮC PHONG ĐI CÙNG NĂM THÁNG
ThS
.
Đinh Thị Toan
Nhà Trưng bày Hoàng Sa
Sắc phong nhân vật là một tư liệu Hán Nôm có giá trị, “là tư liệu quý của gia đình, họ tộc, cung cấp chi tiết về tiền bối cho hậu thế, về nhân vật cho các nhà sử học”
[1]
. Đây là sự ghi nhận của triều đình về công lao của người được phong sắc. Có hai loại sắc phong: sắc phong thần và sắc phong nhân vật. Về sắc phong thần, chúng tôi đã có dịp bàn đến trong bài viết
Khảo sát sắc phong ở Đà Nẵng
trên tạp chí Khoa học và phát triển Đà Nẵng số 170+171 năm 2012 và phiên dịch khá đầy đủ trong sách Sắc phong ở Đà Nẵng
[2]
. Riêng sắc phong nhân vật, chúng tôi chưa có điều kiện sưu tầm đầy đủ. Quá trình điền dã cho thấy loại sắc phong này hiện còn bảo lưu trong dân gian khá nhiều, nhưng ít được biết đến.
Trong một dịp may mắn, chúng tôi có điều kiện tiếp xúc với một số sắc phong tại Tân Thái (phường Mân Thái, quận Sơn Trà). Đây là những sắc phong ban cho ông Lê Cúc (còn có tên là Lê Văn Cúc), quê ở làng Tân An, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay là khối phố Tân Thái, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Bài viết này xin giới thiệu sơ lược về những đạo sắc ấy để phần nào thấy được giá trị sử liệu mà loại tư liệu Hán Nôm này mang lại.
Trước hết, xin được nói đôi điều về hình thức của các sắc phong. Trong số sáu sắc phong hiện còn tại đây, chỉ có 1 đạo sắc được in trên giấy vàng, với họa tiết rồng mây nhũ bạc ở viền, giữa không có họa tiết đi kèm. Điều này khác biệt với các đạo sắc phong thần. Đạo sắc này hiện trong tình trạng bị rách và thủng lỗ chỗ. Mép lề dưới rách vào phía trong khoảng 10 cm, đoạn giữa gần mép lề trên cũng bị rách với chiều dài tương tự. Năm đạo sắc còn lại được viết trên giấy dó khổ lớn và còn nguyên vẹn. Niên đại của các đạo sắc nằm trong khoảng từ thời Thiệu Trị đến Tự Đức.
Về nội dung, các sắc phong ban cấp chuẩn cho ông Lê Cúc được giữ các chức vụ khác nhau. Theo như sổ đinh của xã Tân An, ông sinh năm Mậu Thìn (1808), là người họ Lê, một trong những dòng họ tiền hiền của làng Tân An xưa. Do địa thế nằm ven biển, dân cư làng này, trong đó có gia đình ông Lê Cúc mưu sinh bằng nghề biển. Đây có thể xem là cơ duyên giúp ông có được sức khỏe và kinh nghiệm đi lại trên biển cả, nơi ẩn chứa nhiều nguy hiểm mà không phải ai cũng có bản lĩnh vượt qua. Đó cũng là cơ hội để khi triều đình tuyển chọn trai tráng các làng ven biển gia nhập thủy quân, ông đã được lựa chọn. Nơi ông này làm việc là Hữu thủy vệ Quảng Nam.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
cho biết lực lượng quân phòng tại tỉnh Quảng Nam những năm đầu thời Nguyễn có 1 vệ và 2 Thủy vệ, ngoài ra có các cơ và đội khác. Riêng Thủy vệ,
Minh Mạng năm thứ 15, xuống Dụ: “Các cửa bể ở địa phận hạt Quảng Nam, đều có thuyền tàu ra vào, nên đặt lính thủy sư. Tỉnh hạt ấy, xét xem 2 đội Thanh khê, Hà khê có từ trước và cơ Điện hải hiện còn thực số bao nhiêu, cho hợp lại làm một. Lại xem dân ở các xã ven bể hoặc dân ngoại tịch đã chiêu mộ, trích ra để lựa chọn, cốt đủ 10 đội, mỗi đội 50 tên, đặt làm Quảng Nam thủy cơ. Kính cẩn vâng làm”.
Theo đó, nên lựa lấy dân các xã và dân thuyền thợ ở ven bể 190 tên, gộp cùng 2 đội Thanh khê, Hà khê, với binh đội Cường tráng, binh cơ Điện hải cộng 500 tên, dồn thành 10 đội, gọi là Quảng Nam thủy vệ.
Năm thứ 17
[niên hiệu Minh Mạng-ĐTT]
, lại tuyển lính trích lấy lính thủy Quảng Nam đã lựa trước và lính mới tuyển, dồn bổ làm Quảng Nam, Tả, Hữu thủy vệ, mỗi vệ 10 đội
.
[3]
Không rõ ông Lê Cúc gia nhập lực lượng thủy quân này vào thời gian nào, nhưng qua các trát sức, tờ tư cùng những sắc, bằng còn lưu giữ tại nhà hậu duệ của ông này cho thấy, ông ở trong quân ngũ từ thời Minh Mạng. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ông đã là Ngoại ủy đội trưởng đội 8 Hữu thủy vệ Quảng Nam.
Đến năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ông được chọn bổ giữ chức Đội trưởng của đội này. Năm 1843, triều đình tổ chức một cuộc khảo hạch các đà công (tức lái thuyền) để đánh giá xếp loại, ông Cúc xếp hạng bình
[4]
, được bộ Binh tuân theo chỉ vua cấp bằng bổ thụ chức Đội trưởng. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), ông chính thức được sắc chuẩn giữ chức này.
Cũng trong năm này, ông chuyển sang Đội 5 Hữu thủy vệ Quảng Nam. Lúc này ông là Thí sai chánh đội trưởng Suất đội. Ba năm sau, tức năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), ông nhận được sắc chuẩn bổ thụ cho chức vụ này. Sắc phong viết:
Sắc Quảng Nam Hữu thủy vệ ngũ đội Thí sai chánh đội trưởng Suất đội Lê Cúc. Tư kì mãn kinh, Quảng Nam tỉnh viên thính thỉnh cụ đề gia ân chuẩn nhĩ bổ thụ y đội chánh đội trưởng, suất nội đội biền binh, tòng cai quản viên phân phái công vụ. Nhược quyết chức phất kiền, hữu quân chính tại. Khâm tai!
Thiệu Trị thất niên thập nhất nguyệt sơ tứ nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc ban cho Lê Cúc, Thí sai chánh đội trưởng Suất đội đội 5 Hữu thủy vệ tỉnh Quảng Nam. Nay đã hết kì hạn thử việc, nghe theo lời thỉnh cầu của các viên tỉnh Quảng Nam gia ân cho ngươi bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng đội ấy, đốc suất các biền binh trong đội, nghe theo sự phân phái công vụ của viên cai quản. Nếu làm việc không siêng năng thì sẽ có phép quân trị tội. Hãy kính đấy!
Ngày mồng 4 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 7.
Dưới thời Tự Đức, ông Lê Cúc vẫn làm việc tại Thủy vệ Quảng Nam. Trong các lần vận tải tài vật lên kinh phụng nạp hoặc vận chuyển đi các tỉnh khác, ông được tín nhiệm cử làm chỉ huy thuyền quân. Năm Tự Đức thứ 5, với sự trọng dụng của cấp trên, ông được chuẩn thăng thụ chức Cai đội. Điều này thể hiện sự trọng thị lớn, bởi Cai đội cai quản dưới quyền từ 30-50 người, trật tòng ngũ phẩm.
Không dừng lại ở đó, đến năm Tự Đức thứ 10 (1857) ông được phong tặng thêm. Đạo sắc ban ra ngày 22 tháng 8 năm đó như sau:
Sắc Quảng Nam Hữu thủy vệ ngũ đội Cai đội Lê Cúc, cửu lịch nhung hành, phả nhàn sư luật. Tư chuẩn nhĩ thăng thụ Cấm binh Cai đội, quyền sung Hà Nội Thủy vệ Hiệp quản, suất y vệ biền binh. Phàm chư công vụ y lệ phụng hành. Nhược quyết chức phất kiền, minh chương cụ tại. Khâm tai!
Dịch nghĩa:
Sắc ban cho Lê Cúc, Cai đội đội 5 Hữu thủy vệ Quảng Nam, theo việc quân đã lâu, khá giỏi việc binh. Nay chuẩn cho ngươi thăng thụ Cai đội cấm binh, quyền sung Hiệp quản Thủy vệ Hà Nội, đốc suất các biền binh trong vệ ấy. Phàm chư công vụ, cứ theo lệ mà làm. Nếu giữ chức mà không siêng năng thì sẽ có phép nước trị tội. Hãy kính đấy!
Thủy vệ Hà Nội vốn là cơ Thủy sư Sơn Nam, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia đặt tỉnh hạt, đem cơ này nguyên lệ thuộc tỉnh Sơn Nam đổi làm Thủy cơ tỉnh Hà Nội. Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), thăng làm Thủy vệ Hà Nội
[5]
. Vệ này lúc mới thành lập có 521 người, không rõ dưới thời Tự Đức số lượng tăng giảm như thế nào. Vốn là đất kinh kì, có địa thế quan trọng, nên việc được chuyển bổ làm việc tại đây chứng tỏ triều đình kì vọng năng lực của người được bổ nhiệm, không kể việc ông được kiêm nhiệm vừa là Cai đội cấm binh, vừa chức Hiệp quản Thủy vệ.
Sáu năm sau, năm Tự Đức thứ 16 (1863), ông được vua ban tiếp một đạo sắc, chuẩn bổ thụ làm Phó Quản cơ sung Hiệp quản Thủy vệ Hà Nội.
Không bao lâu sau, ông tiếp tục được khen thưởng, thăng làm Thự Quản cơ. Tại chức được một thời gian, đến tháng 9 năm Tự Đức thứ 18 (1865), ông bị bệnh mất. Vua chuẩn lời nghị của bộ Binh, tháng 11 năm ấy, cho truy thực thụ chức Quản cơ để an ủi vong linh người đã khuất.
Những đạo sắc phong ban cho ông Lê Cúc được lưu giữ tại làng Tân Thái chỉ là một số ít trong rất nhiều sắc phong nhân vật hiện còn tại các tư gia trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Việc sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu những tài liệu này sẽ cho biết nhiều hơn về những con người có đóng góp cho lịch sử văn hóa tỉnh nhà, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa và đưa công chúng đến gần hơn với những giá trị hiện hữu.
Đ.T.T
Tài liệu tham khảo
:
1.Huỳnh Công Bá (chủ biên, 2014),
Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885)
, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Bảo tàng văn hóa dân gian Huế (2008),
Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
Đinh Thị Toan (2012),
Khảo sát sắc phong ở Đà Nẵng,
tạp chí Khoa học và phát triển Đà Nẵng, số 170+171/2012, tr.52-54.
Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan (2014),
Sắc phong ở Đà Nẵng
, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Nội các triều Nguyễn (1993),
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, tập 3, q.18, 19.
Nội các triều Nguyễn (1993),
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, tập 9, q.139, 144, 145, 147.
[1]
Bảo tàng văn hóa dân gian Huế (2008),
Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.154.
[2]
Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan (2014),
Sắc phong ở Đà Nẵng
, Nxb Đà Nẵng.
[3]
Nội các triều Nguyễn (1993),
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, tập 9, tr.235.
[4]
Có 4 thứ hạng: ưu, bình, thứ, liệt. Hạng ưu nghĩa là giỏi, bình có thể được xem là khá, thứ là bình thường và liệt là yếu kém, có thể bị thải hồi.
[5]
Nội các triều Nguyễn (1993), tlđd, tr.279.
|
NHỮNG SẮC PHONG ĐI CÙNG NĂM THÁNG
ThS
.
Đinh Thị Toan
Nhà Trưng bày Hoàng Sa
Sắc phong nhân vật là một tư liệu Hán Nôm có giá trị, “là tư liệu quý của gia đình, họ tộc, cung cấp chi tiết về tiền bối cho hậu thế, về nhân vật cho các nhà sử học”
[1]
. Đây là sự ghi nhận của triều đình về công lao của người được phong sắc. Có hai loại sắc phong: sắc phong thần và sắc phong nhân vật. Về sắc phong thần, chúng tôi đã có dịp bàn đến trong bài viết
Khảo sát sắc phong ở Đà Nẵng
trên tạp chí Khoa học và phát triển Đà Nẵng số 170+171 năm 2012 và phiên dịch khá đầy đủ trong sách Sắc phong ở Đà Nẵng
[2]
. Riêng sắc phong nhân vật, chúng tôi chưa có điều kiện sưu tầm đầy đủ. Quá trình điền dã cho thấy loại sắc phong này hiện còn bảo lưu trong dân gian khá nhiều, nhưng ít được biết đến.
Trong một dịp may mắn, chúng tôi có điều kiện tiếp xúc với một số sắc phong tại Tân Thái (phường Mân Thái, quận Sơn Trà). Đây là những sắc phong ban cho ông Lê Cúc (còn có tên là Lê Văn Cúc), quê ở làng Tân An, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay là khối phố Tân Thái, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Bài viết này xin giới thiệu sơ lược về những đạo sắc ấy để phần nào thấy được giá trị sử liệu mà loại tư liệu Hán Nôm này mang lại.
Trước hết, xin được nói đôi điều về hình thức của các sắc phong. Trong số sáu sắc phong hiện còn tại đây, chỉ có 1 đạo sắc được in trên giấy vàng, với họa tiết rồng mây nhũ bạc ở viền, giữa không có họa tiết đi kèm. Điều này khác biệt với các đạo sắc phong thần. Đạo sắc này hiện trong tình trạng bị rách và thủng lỗ chỗ. Mép lề dưới rách vào phía trong khoảng 10 cm, đoạn giữa gần mép lề trên cũng bị rách với chiều dài tương tự. Năm đạo sắc còn lại được viết trên giấy dó khổ lớn và còn nguyên vẹn. Niên đại của các đạo sắc nằm trong khoảng từ thời Thiệu Trị đến Tự Đức.
Về nội dung, các sắc phong ban cấp chuẩn cho ông Lê Cúc được giữ các chức vụ khác nhau. Theo như sổ đinh của xã Tân An, ông sinh năm Mậu Thìn (1808), là người họ Lê, một trong những dòng họ tiền hiền của làng Tân An xưa. Do địa thế nằm ven biển, dân cư làng này, trong đó có gia đình ông Lê Cúc mưu sinh bằng nghề biển. Đây có thể xem là cơ duyên giúp ông có được sức khỏe và kinh nghiệm đi lại trên biển cả, nơi ẩn chứa nhiều nguy hiểm mà không phải ai cũng có bản lĩnh vượt qua. Đó cũng là cơ hội để khi triều đình tuyển chọn trai tráng các làng ven biển gia nhập thủy quân, ông đã được lựa chọn. Nơi ông này làm việc là Hữu thủy vệ Quảng Nam.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
cho biết lực lượng quân phòng tại tỉnh Quảng Nam những năm đầu thời Nguyễn có 1 vệ và 2 Thủy vệ, ngoài ra có các cơ và đội khác. Riêng Thủy vệ,
Minh Mạng năm thứ 15, xuống Dụ: “Các cửa bể ở địa phận hạt Quảng Nam, đều có thuyền tàu ra vào, nên đặt lính thủy sư. Tỉnh hạt ấy, xét xem 2 đội Thanh khê, Hà khê có từ trước và cơ Điện hải hiện còn thực số bao nhiêu, cho hợp lại làm một. Lại xem dân ở các xã ven bể hoặc dân ngoại tịch đã chiêu mộ, trích ra để lựa chọn, cốt đủ 10 đội, mỗi đội 50 tên, đặt làm Quảng Nam thủy cơ. Kính cẩn vâng làm”.
Theo đó, nên lựa lấy dân các xã và dân thuyền thợ ở ven bể 190 tên, gộp cùng 2 đội Thanh khê, Hà khê, với binh đội Cường tráng, binh cơ Điện hải cộng 500 tên, dồn thành 10 đội, gọi là Quảng Nam thủy vệ.
Năm thứ 17
[niên hiệu Minh Mạng-ĐTT]
, lại tuyển lính trích lấy lính thủy Quảng Nam đã lựa trước và lính mới tuyển, dồn bổ làm Quảng Nam, Tả, Hữu thủy vệ, mỗi vệ 10 đội
.
[3]
Không rõ ông Lê Cúc gia nhập lực lượng thủy quân này vào thời gian nào, nhưng qua các trát sức, tờ tư cùng những sắc, bằng còn lưu giữ tại nhà hậu duệ của ông này cho thấy, ông ở trong quân ngũ từ thời Minh Mạng. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ông đã là Ngoại ủy đội trưởng đội 8 Hữu thủy vệ Quảng Nam.
Đến năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ông được chọn bổ giữ chức Đội trưởng của đội này. Năm 1843, triều đình tổ chức một cuộc khảo hạch các đà công (tức lái thuyền) để đánh giá xếp loại, ông Cúc xếp hạng bình
[4]
, được bộ Binh tuân theo chỉ vua cấp bằng bổ thụ chức Đội trưởng. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), ông chính thức được sắc chuẩn giữ chức này.
Cũng trong năm này, ông chuyển sang Đội 5 Hữu thủy vệ Quảng Nam. Lúc này ông là Thí sai chánh đội trưởng Suất đội. Ba năm sau, tức năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), ông nhận được sắc chuẩn bổ thụ cho chức vụ này. Sắc phong viết:
Sắc Quảng Nam Hữu thủy vệ ngũ đội Thí sai chánh đội trưởng Suất đội Lê Cúc. Tư kì mãn kinh, Quảng Nam tỉnh viên thính thỉnh cụ đề gia ân chuẩn nhĩ bổ thụ y đội chánh đội trưởng, suất nội đội biền binh, tòng cai quản viên phân phái công vụ. Nhược quyết chức phất kiền, hữu quân chính tại. Khâm tai!
Thiệu Trị thất niên thập nhất nguyệt sơ tứ nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc ban cho Lê Cúc, Thí sai chánh đội trưởng Suất đội đội 5 Hữu thủy vệ tỉnh Quảng Nam. Nay đã hết kì hạn thử việc, nghe theo lời thỉnh cầu của các viên tỉnh Quảng Nam gia ân cho ngươi bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng đội ấy, đốc suất các biền binh trong đội, nghe theo sự phân phái công vụ của viên cai quản. Nếu làm việc không siêng năng thì sẽ có phép quân trị tội. Hãy kính đấy!
Ngày mồng 4 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 7.
Dưới thời Tự Đức, ông Lê Cúc vẫn làm việc tại Thủy vệ Quảng Nam. Trong các lần vận tải tài vật lên kinh phụng nạp hoặc vận chuyển đi các tỉnh khác, ông được tín nhiệm cử làm chỉ huy thuyền quân. Năm Tự Đức thứ 5, với sự trọng dụng của cấp trên, ông được chuẩn thăng thụ chức Cai đội. Điều này thể hiện sự trọng thị lớn, bởi Cai đội cai quản dưới quyền từ 30-50 người, trật tòng ngũ phẩm.
Không dừng lại ở đó, đến năm Tự Đức thứ 10 (1857) ông được phong tặng thêm. Đạo sắc ban ra ngày 22 tháng 8 năm đó như sau:
Sắc Quảng Nam Hữu thủy vệ ngũ đội Cai đội Lê Cúc, cửu lịch nhung hành, phả nhàn sư luật. Tư chuẩn nhĩ thăng thụ Cấm binh Cai đội, quyền sung Hà Nội Thủy vệ Hiệp quản, suất y vệ biền binh. Phàm chư công vụ y lệ phụng hành. Nhược quyết chức phất kiền, minh chương cụ tại. Khâm tai!
Dịch nghĩa:
Sắc ban cho Lê Cúc, Cai đội đội 5 Hữu thủy vệ Quảng Nam, theo việc quân đã lâu, khá giỏi việc binh. Nay chuẩn cho ngươi thăng thụ Cai đội cấm binh, quyền sung Hiệp quản Thủy vệ Hà Nội, đốc suất các biền binh trong vệ ấy. Phàm chư công vụ, cứ theo lệ mà làm. Nếu giữ chức mà không siêng năng thì sẽ có phép nước trị tội. Hãy kính đấy!
Thủy vệ Hà Nội vốn là cơ Thủy sư Sơn Nam, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia đặt tỉnh hạt, đem cơ này nguyên lệ thuộc tỉnh Sơn Nam đổi làm Thủy cơ tỉnh Hà Nội. Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), thăng làm Thủy vệ Hà Nội
[5]
. Vệ này lúc mới thành lập có 521 người, không rõ dưới thời Tự Đức số lượng tăng giảm như thế nào. Vốn là đất kinh kì, có địa thế quan trọng, nên việc được chuyển bổ làm việc tại đây chứng tỏ triều đình kì vọng năng lực của người được bổ nhiệm, không kể việc ông được kiêm nhiệm vừa là Cai đội cấm binh, vừa chức Hiệp quản Thủy vệ.
Sáu năm sau, năm Tự Đức thứ 16 (1863), ông được vua ban tiếp một đạo sắc, chuẩn bổ thụ làm Phó Quản cơ sung Hiệp quản Thủy vệ Hà Nội.
Không bao lâu sau, ông tiếp tục được khen thưởng, thăng làm Thự Quản cơ. Tại chức được một thời gian, đến tháng 9 năm Tự Đức thứ 18 (1865), ông bị bệnh mất. Vua chuẩn lời nghị của bộ Binh, tháng 11 năm ấy, cho truy thực thụ chức Quản cơ để an ủi vong linh người đã khuất.
Những đạo sắc phong ban cho ông Lê Cúc được lưu giữ tại làng Tân Thái chỉ là một số ít trong rất nhiều sắc phong nhân vật hiện còn tại các tư gia trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Việc sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu những tài liệu này sẽ cho biết nhiều hơn về những con người có đóng góp cho lịch sử văn hóa tỉnh nhà, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa và đưa công chúng đến gần hơn với những giá trị hiện hữu.
Đ.T.T
Tài liệu tham khảo
:
1.Huỳnh Công Bá (chủ biên, 2014),
Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885)
, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Bảo tàng văn hóa dân gian Huế (2008),
Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
Đinh Thị Toan (2012),
Khảo sát sắc phong ở Đà Nẵng,
tạp chí Khoa học và phát triển Đà Nẵng, số 170+171/2012, tr.52-54.
Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan (2014),
Sắc phong ở Đà Nẵng
, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Nội các triều Nguyễn (1993),
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, tập 3, q.18, 19.
Nội các triều Nguyễn (1993),
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, tập 9, q.139, 144, 145, 147.
[1]
Bảo tàng văn hóa dân gian Huế (2008),
Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.154.
[2]
Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan (2014),
Sắc phong ở Đà Nẵng
, Nxb Đà Nẵng.
[3]
Nội các triều Nguyễn (1993),
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, tập 9, tr.235.
[4]
Có 4 thứ hạng: ưu, bình, thứ, liệt. Hạng ưu nghĩa là giỏi, bình có thể được xem là khá, thứ là bình thường và liệt là yếu kém, có thể bị thải hồi.
[5]
Nội các triều Nguyễn (1993), tlđd, tr.279.
|
Phù điêu Krishna-Govardhana Khương Mỹ
Một tác phẩm điêu khắc độc đáo của nghệ thuật Champa
Thần Krishna là hóa thân thứ tám của thần Bảo tồn Vũ trụ Vishnu; Krishna được tôn thờ không chỉ như một vị thần mà nổi bật là một vị anh hùng trẻ tuổi. Trong Ấn Độ giáo/Bà-la-môn giáo, Krishna được sùng bái nhất bởi tính cách anh hùng của thần, được lan truyền qua bao câu chuyện đầy sinh động và thú vị.
Hành động anh hùng của Krishna được thể hiện thông qua bức phù điêu bằng sa thạch tìm thấy tại khu tháp Khương Mỹ, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Trên bức chạm này, các nhà điêu khắc Champa đã thể hiện Krishna là một vị anh hùng dựa theo những chi tiết trong thần thoại Ấn Độ giáo nhưng nó lại được diễn tả bằng ngôn ngữ tạo hình riêng của nghệ thuật Champa so với những tác phẩm điêu khắc có cùng đề tài của nghệ thuật Ấn Độ và của Đông Nam Á. Vẻ đẹp độc đáo của bức phù điêu Khương Mỹ, hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, đã tạo nên dấu ấn riêng trong nền điêu khắc Champa mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Câu chuyện sinh động về Krishna bắt đầu từ ngôi làng trù phú Brindavan, nơi có cuộc sống an bình gắn bó với thiên nhiên. Hàng năm, để tạ ơn thần Sấm sét Indra, vị thần mà dân làng tin rằng đã mang đến cho họ cơn mưa để tắm mát những cánh đồng trù phú; dân làng quét dọn và trang trí khắp làng với đầy đèn nến và hoa, cùng với những mâm lễ vật cao đầy. Chàng trai trẻ Krishna vốn không để tâm đến chuyện này, cho đến khi thấy dân làng náo nức chuẩn bị buổi lễ tạ ơn thần Indra, Krishna mới hỏi cha của mình để biết rõ nguyên nhân và rồi Krishna đã tỏ ra bất bình sau khi tìm hiểu và biết được sự thật. Krishna quả quyết với dân làng rằng những cơn mưa không phải do thần Indra mang đến mà chính ngọn núi Govardhana mới là người bạn thật sự của họ, vì vậy chúng ta nên tạ ơn ngọn núi ấy.
Lời giải thích của Krishna không những chỉ thu hút toàn bộ dân làng mà còn làm nảy sinh vô số thắc mắc “Làm thế nào một ngọn núi có thể mang đến sự trù phú cho cuộc sống của dân làng mà không phải là thần Indra, trong khi ngọn núi ấy không hề động đậy”. Krishna đáp rằng “Núi Govardhana đã gởi tín hiệu lên trời và liên kết những cụm mây để đem mưa đến cho làng Brindavan. Ngọn núi còn cung cấp nhiều loại thảo mộc kỳ diệu để chữa cho dân làng khỏi những căn bệnh hiểm nghèo. Ngọn núi ấy không chỉ làm sạch không khí từ trên cao, mà còn làm sạch nước mưa khi nó chạm vào đất và thêm vào đó nhiều khoáng chất.Ngọn núi ấy cũng đem đến những đồng cỏ tươi xanh cho đàn gia súc để dân làng có được nguồn sữa nhiều dinh dưỡng”.Câu trả lời của thần Krishna thỏa mãn mọi thắc mắc của dân làng và họ yên tâm trở về nhà, gác lại kế hoạch chuẩn bị buổi lễ tế thần Indra.
Nhưng những điều Krishna nói với dân làng lại khiến Nanda, cha của Krishna, không khỏi lo lắng.Ông lo rằng thần Indra sẽ nổi giận và mang đến nguy hại cho dân làng. Sự lo lắng của Nanda đã trở thành sự thật khi Indra biết được sự việc. Ông đã gom những đám mây lại che kín làng Brindavan, mây dày đặc đến nỗi không gian của làng bỗng tối đen như mực dù đang giữa ban ngày. Tiếp theo là những cơn mưa dữ dội trút không ngớt xuống làng Brindavan. Chỉ trong hai ngày, nước dâng cao bao phủ khắp cả làng đe dọa cuộc sống của mọi người và đàn gia súc.
Lúc này, Krishna đã kịp trấn an dân làng, đưa họ đến gần ngọn núi Govardhana; bằng sức mạnh phi thường của một vị thần, chàng trai trẻ Krishna đã nhấc bổng ngọn núi bằng ngón tay nhỏ của mình, Krishna giữ ngọn núi để che mưa cho toàn thể dân làng và đàn gia súc của họ. Nhờ vậy, dân làng và đàn gia súc đã được bình an trong suốt bảy ngày mưa lũ dữ dội.
Tận mắt chứng kiến một người trẻ tuổi nâng bổng ngọn núi để che chở cho dân làng, trong trí thần Indra đã nảy sinh bao hoài nghi. Và chính thần Sáng tạo Vũ trụ Brahma đã giải đáp cho Indra những nghi vấn đó. Sau khi biết được rằng Krishna chính là hóa thân của thần Bảo tồn Vũ trụ Vishnu, Indra đã xua tan những đám mây làm ngưng những trận mưa dữ dội, đồng thời đến gặp Krishna để nhận lỗi và mong được tha thứ. Sau bảy ngày đối mặt với sự giận dữ của thần Indra, dân làng trở lại với cuộc sống thanh bình vốn có; từ đó, biết ơn và tôn thờ Krishna không chỉ như một vị thần mà còn như một vị anh hùng cứu giúp nhân loại.
Trên bức phù điêu Krishna-Govardhana Khương Mỹ, câu chuyện thần thoại trên đã được diễn tả sinh động bằng ngôn ngữ điêu khắc riêng của nghệ nhân Champa. Hình tượng ngọn núi Govardhana được Krishna nâng lên cao để che chở cho dân làng Brindavan và đàn gia súc của họ. Bức phù điêu Krishna-Govardhana của điêu khắc Champa được thể hiện chi tiết trong một bố cục hình vòng cung dùng làm mi cửa (tympan) trên – cửa chính của một ngôi đền. Bức phù điêu Krishna có chiều cao 90cm, chất liệu bằng sa thạch, được chế tác vào khoảng đầu thế kỷ thứ X.
Ảnh: Lý Hòa Bình
Trên bức chạm độc đáo này, các nhà điêu khắc Chăm đã mô tả hình tượng Krishna ở vị trí trung tâm trong thế đứng trụ vững chắc – một tư thế phổ biến trong thuật
yoga
. Ở đây, dáng đứng của Krishna được diễn tả chính xác và tỉ mỉ theo tư thế
yoga-
u
tkata
k
onasana
như: đầu gối hạ thấp, hai chân dang rộng dọc theo thân, toàn bộ cơ thể đứng trụ trên những đầu ngón chân, một tư thế vững chãi và sinh động. Tay phải của Krishna giơ cao nâng đỡ ngọn núi Govardhana; tay trái oai vệ đặt ngang hông (akimbo). Tác phẩm được khéo léo bố cục thành ba phần:
(1) Phần trên hình vòm cung, tượng trưng như ngọn núi Govardhana. Trên đó xuất hiện các loài vật sinh sống trong rừng như hươu, nai, các loại cây cỏ được diễn tả xen kẻ nhau trên đỉnh của ngọn núi; kế bên là hình ảnh con người hướng nhìn lên đỉnh núi. Cách diễn đạt này dựa theo quy ước tả thực vì muông thú sống ở rừng sâu và cao trên đỉnh núi; còn con người sinh sống quanh chân núi.
Ảnh: Lý Hòa Bình
(2) Phần giữa thể hiện dân làng và đàn gia súc quây quần hai bên Krishna, khép nép dưới vòm ngọn núi Govardhana trong sự che chở của thần để tránh cơn mưa lũ của thần Indra gây ra trong cơn thịnh nộ. Dưới sự bảo vệ an toàn tuyệt đối của Krishna, những bó đuốc vẫn cháy và đàn gia súc nằm im chiêm ngưỡng sức mạnh vô song của vị thần trẻ tuổi.
Ảnh: Lý Hòa Bình
(3) Phần dưới thể hiện những con bò nằm kề bên Krishna vì ngài là thần mục đồng, thường ca hát thổi sáo rong chơi trên những cánh đồng bát ngát.
Bức phù điêu Krishna-Govardhana Khương Mỹ là tác phẩm duy nhất xuất hiện trong điêu khắc Champa. Nghệ thuật diễn đạt của bức phù điêu hoàn toàn khác biệt các tác phẩm điêu khắc khác cùng thể hiện đề tài này trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như Đông Nam Á, trong đó, nổi bật là tư thế đứng trụ hai chân (utkata konasana) của Krishna và bố cục đăng đối của tác phẩm.
Phù điêu thần Krishna-Govardhana của ngôi đền Mahabalipuram, thế kỷ thứ VII, tại Nam Ấn Độ. Ảnh: Wikipedia
Về tư thế của Krishna trong điêu khắc Ấn Độ và Campuchia thường được diễn tả với tư thế đứng nghiêng hông (
tribhanga
-dáng đứng tôn quý), một tay nâng ngọn núi Govardhana còn tay kia đặt ngang hông. Dáng đứng nghiêng hông phổ biến trong thủ pháp tạo hình Ấn Độ giáo khi diễn tả các vị thần ở tư thế đứng. Vì vậy, có thể xem bức phù điêu Krishna Khương Mỹ là một sáng tạo độc đáo của nền điêu khắc Champa qua cách diễn đạt và bố cục tác phẩm.
Phù điêu thần Krishna-Govardhana thể hiện trên ngôi đền Angkor Vat, thế kỷ XI – XII, Campuchia. Ảnh: Trần Kỳ Phương
Phù điêu thần Krishna-Govardhana tại Prasat Srikrob Leak, Robang Romeas, Kambong Thom, Campuchia. Thế kỷ 11. Ảnh: Lý Hòa Bình
Về mặt tín ngưỡng, bức phù điêu Krishna Govardhana Khương Mỹ đã tuyển chọn và thể hiện phần sinh động, nổi bật nhất của truyền thuyết về thần Krishna; ngài được tôn thờ không chỉ là một vị thần như bao vị thần khác nhưng chính là một vị anh hùng đầy nhân tính xuất hiện để cứu giúp con người yếu đuối luôn bị dọa nạt bởi mê tín thần linh.
Về mặt nghệ thuật, các nhà điêu khắc Champa đã thể hiện tài năng sáng tạo của mình khi diễn đạt tính anh hùng của Krishna bằng thủ pháp tạo hình độc đáo để phát triển các yếu tố Ấn Độ giáo; tác phẩm bộc lộ sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ tạo hình mang truyền thống Ấn giáo với cá tính thẩm mỹ của nghệ nhân Champa để tạo nên một tác phẩm mang đậm bản sắc điêu khắc của vương quốc này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhattacharya. S. K. 1996.
Krishna-Cult in Indian Art.
New Delhi: M D Publications Pvt Ltd.
2. Boisselier, J. 1963.
La Statuaire du Champà: recherches sur les cultes et l’iconographgie.
Publications de l’École Française d’Extrême-Orient 54. Paris: École Française d’Extrême-Orient.
4. Kalpana S. Desai. 1973.
Iconography of Visnu (In Northern India, up to the Mediaeval period)
. New Delhi: Abhinav Publications.
5. Roveda, Vittorio. 2005.
Images of the Gods: Khmer Mythology in Cambodia, Laos and Thailand.
Bangkok: River Books.
6. Trần Kỳ Phương. 1987.
Museum of Cham Sculpture – Danang.
Hanoi: Foreign Languages Publishing House.
Tác giả: Trần Kỳ Phương, Nguyễn Tú Anh
|
Phù điêu Krishna-Govardhana Khương Mỹ
Một tác phẩm điêu khắc độc đáo của nghệ thuật Champa
Thần Krishna là hóa thân thứ tám của thần Bảo tồn Vũ trụ Vishnu; Krishna được tôn thờ không chỉ như một vị thần mà nổi bật là một vị anh hùng trẻ tuổi. Trong Ấn Độ giáo/Bà-la-môn giáo, Krishna được sùng bái nhất bởi tính cách anh hùng của thần, được lan truyền qua bao câu chuyện đầy sinh động và thú vị.
Hành động anh hùng của Krishna được thể hiện thông qua bức phù điêu bằng sa thạch tìm thấy tại khu tháp Khương Mỹ, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Trên bức chạm này, các nhà điêu khắc Champa đã thể hiện Krishna là một vị anh hùng dựa theo những chi tiết trong thần thoại Ấn Độ giáo nhưng nó lại được diễn tả bằng ngôn ngữ tạo hình riêng của nghệ thuật Champa so với những tác phẩm điêu khắc có cùng đề tài của nghệ thuật Ấn Độ và của Đông Nam Á. Vẻ đẹp độc đáo của bức phù điêu Khương Mỹ, hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, đã tạo nên dấu ấn riêng trong nền điêu khắc Champa mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Câu chuyện sinh động về Krishna bắt đầu từ ngôi làng trù phú Brindavan, nơi có cuộc sống an bình gắn bó với thiên nhiên. Hàng năm, để tạ ơn thần Sấm sét Indra, vị thần mà dân làng tin rằng đã mang đến cho họ cơn mưa để tắm mát những cánh đồng trù phú; dân làng quét dọn và trang trí khắp làng với đầy đèn nến và hoa, cùng với những mâm lễ vật cao đầy. Chàng trai trẻ Krishna vốn không để tâm đến chuyện này, cho đến khi thấy dân làng náo nức chuẩn bị buổi lễ tạ ơn thần Indra, Krishna mới hỏi cha của mình để biết rõ nguyên nhân và rồi Krishna đã tỏ ra bất bình sau khi tìm hiểu và biết được sự thật. Krishna quả quyết với dân làng rằng những cơn mưa không phải do thần Indra mang đến mà chính ngọn núi Govardhana mới là người bạn thật sự của họ, vì vậy chúng ta nên tạ ơn ngọn núi ấy.
Lời giải thích của Krishna không những chỉ thu hút toàn bộ dân làng mà còn làm nảy sinh vô số thắc mắc “Làm thế nào một ngọn núi có thể mang đến sự trù phú cho cuộc sống của dân làng mà không phải là thần Indra, trong khi ngọn núi ấy không hề động đậy”. Krishna đáp rằng “Núi Govardhana đã gởi tín hiệu lên trời và liên kết những cụm mây để đem mưa đến cho làng Brindavan. Ngọn núi còn cung cấp nhiều loại thảo mộc kỳ diệu để chữa cho dân làng khỏi những căn bệnh hiểm nghèo. Ngọn núi ấy không chỉ làm sạch không khí từ trên cao, mà còn làm sạch nước mưa khi nó chạm vào đất và thêm vào đó nhiều khoáng chất.Ngọn núi ấy cũng đem đến những đồng cỏ tươi xanh cho đàn gia súc để dân làng có được nguồn sữa nhiều dinh dưỡng”.Câu trả lời của thần Krishna thỏa mãn mọi thắc mắc của dân làng và họ yên tâm trở về nhà, gác lại kế hoạch chuẩn bị buổi lễ tế thần Indra.
Nhưng những điều Krishna nói với dân làng lại khiến Nanda, cha của Krishna, không khỏi lo lắng.Ông lo rằng thần Indra sẽ nổi giận và mang đến nguy hại cho dân làng. Sự lo lắng của Nanda đã trở thành sự thật khi Indra biết được sự việc. Ông đã gom những đám mây lại che kín làng Brindavan, mây dày đặc đến nỗi không gian của làng bỗng tối đen như mực dù đang giữa ban ngày. Tiếp theo là những cơn mưa dữ dội trút không ngớt xuống làng Brindavan. Chỉ trong hai ngày, nước dâng cao bao phủ khắp cả làng đe dọa cuộc sống của mọi người và đàn gia súc.
Lúc này, Krishna đã kịp trấn an dân làng, đưa họ đến gần ngọn núi Govardhana; bằng sức mạnh phi thường của một vị thần, chàng trai trẻ Krishna đã nhấc bổng ngọn núi bằng ngón tay nhỏ của mình, Krishna giữ ngọn núi để che mưa cho toàn thể dân làng và đàn gia súc của họ. Nhờ vậy, dân làng và đàn gia súc đã được bình an trong suốt bảy ngày mưa lũ dữ dội.
Tận mắt chứng kiến một người trẻ tuổi nâng bổng ngọn núi để che chở cho dân làng, trong trí thần Indra đã nảy sinh bao hoài nghi. Và chính thần Sáng tạo Vũ trụ Brahma đã giải đáp cho Indra những nghi vấn đó. Sau khi biết được rằng Krishna chính là hóa thân của thần Bảo tồn Vũ trụ Vishnu, Indra đã xua tan những đám mây làm ngưng những trận mưa dữ dội, đồng thời đến gặp Krishna để nhận lỗi và mong được tha thứ. Sau bảy ngày đối mặt với sự giận dữ của thần Indra, dân làng trở lại với cuộc sống thanh bình vốn có; từ đó, biết ơn và tôn thờ Krishna không chỉ như một vị thần mà còn như một vị anh hùng cứu giúp nhân loại.
Trên bức phù điêu Krishna-Govardhana Khương Mỹ, câu chuyện thần thoại trên đã được diễn tả sinh động bằng ngôn ngữ điêu khắc riêng của nghệ nhân Champa. Hình tượng ngọn núi Govardhana được Krishna nâng lên cao để che chở cho dân làng Brindavan và đàn gia súc của họ. Bức phù điêu Krishna-Govardhana của điêu khắc Champa được thể hiện chi tiết trong một bố cục hình vòng cung dùng làm mi cửa (tympan) trên – cửa chính của một ngôi đền. Bức phù điêu Krishna có chiều cao 90cm, chất liệu bằng sa thạch, được chế tác vào khoảng đầu thế kỷ thứ X.
Ảnh: Lý Hòa Bình
Trên bức chạm độc đáo này, các nhà điêu khắc Chăm đã mô tả hình tượng Krishna ở vị trí trung tâm trong thế đứng trụ vững chắc – một tư thế phổ biến trong thuật
yoga
. Ở đây, dáng đứng của Krishna được diễn tả chính xác và tỉ mỉ theo tư thế
yoga-
u
tkata
k
onasana
như: đầu gối hạ thấp, hai chân dang rộng dọc theo thân, toàn bộ cơ thể đứng trụ trên những đầu ngón chân, một tư thế vững chãi và sinh động. Tay phải của Krishna giơ cao nâng đỡ ngọn núi Govardhana; tay trái oai vệ đặt ngang hông (akimbo). Tác phẩm được khéo léo bố cục thành ba phần:
(1) Phần trên hình vòm cung, tượng trưng như ngọn núi Govardhana. Trên đó xuất hiện các loài vật sinh sống trong rừng như hươu, nai, các loại cây cỏ được diễn tả xen kẻ nhau trên đỉnh của ngọn núi; kế bên là hình ảnh con người hướng nhìn lên đỉnh núi. Cách diễn đạt này dựa theo quy ước tả thực vì muông thú sống ở rừng sâu và cao trên đỉnh núi; còn con người sinh sống quanh chân núi.
Ảnh: Lý Hòa Bình
(2) Phần giữa thể hiện dân làng và đàn gia súc quây quần hai bên Krishna, khép nép dưới vòm ngọn núi Govardhana trong sự che chở của thần để tránh cơn mưa lũ của thần Indra gây ra trong cơn thịnh nộ. Dưới sự bảo vệ an toàn tuyệt đối của Krishna, những bó đuốc vẫn cháy và đàn gia súc nằm im chiêm ngưỡng sức mạnh vô song của vị thần trẻ tuổi.
Ảnh: Lý Hòa Bình
(3) Phần dưới thể hiện những con bò nằm kề bên Krishna vì ngài là thần mục đồng, thường ca hát thổi sáo rong chơi trên những cánh đồng bát ngát.
Bức phù điêu Krishna-Govardhana Khương Mỹ là tác phẩm duy nhất xuất hiện trong điêu khắc Champa. Nghệ thuật diễn đạt của bức phù điêu hoàn toàn khác biệt các tác phẩm điêu khắc khác cùng thể hiện đề tài này trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như Đông Nam Á, trong đó, nổi bật là tư thế đứng trụ hai chân (utkata konasana) của Krishna và bố cục đăng đối của tác phẩm.
Phù điêu thần Krishna-Govardhana của ngôi đền Mahabalipuram, thế kỷ thứ VII, tại Nam Ấn Độ. Ảnh: Wikipedia
Về tư thế của Krishna trong điêu khắc Ấn Độ và Campuchia thường được diễn tả với tư thế đứng nghiêng hông (
tribhanga
-dáng đứng tôn quý), một tay nâng ngọn núi Govardhana còn tay kia đặt ngang hông. Dáng đứng nghiêng hông phổ biến trong thủ pháp tạo hình Ấn Độ giáo khi diễn tả các vị thần ở tư thế đứng. Vì vậy, có thể xem bức phù điêu Krishna Khương Mỹ là một sáng tạo độc đáo của nền điêu khắc Champa qua cách diễn đạt và bố cục tác phẩm.
Phù điêu thần Krishna-Govardhana thể hiện trên ngôi đền Angkor Vat, thế kỷ XI – XII, Campuchia. Ảnh: Trần Kỳ Phương
Phù điêu thần Krishna-Govardhana tại Prasat Srikrob Leak, Robang Romeas, Kambong Thom, Campuchia. Thế kỷ 11. Ảnh: Lý Hòa Bình
Về mặt tín ngưỡng, bức phù điêu Krishna Govardhana Khương Mỹ đã tuyển chọn và thể hiện phần sinh động, nổi bật nhất của truyền thuyết về thần Krishna; ngài được tôn thờ không chỉ là một vị thần như bao vị thần khác nhưng chính là một vị anh hùng đầy nhân tính xuất hiện để cứu giúp con người yếu đuối luôn bị dọa nạt bởi mê tín thần linh.
Về mặt nghệ thuật, các nhà điêu khắc Champa đã thể hiện tài năng sáng tạo của mình khi diễn đạt tính anh hùng của Krishna bằng thủ pháp tạo hình độc đáo để phát triển các yếu tố Ấn Độ giáo; tác phẩm bộc lộ sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ tạo hình mang truyền thống Ấn giáo với cá tính thẩm mỹ của nghệ nhân Champa để tạo nên một tác phẩm mang đậm bản sắc điêu khắc của vương quốc này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhattacharya. S. K. 1996.
Krishna-Cult in Indian Art.
New Delhi: M D Publications Pvt Ltd.
2. Boisselier, J. 1963.
La Statuaire du Champà: recherches sur les cultes et l’iconographgie.
Publications de l’École Française d’Extrême-Orient 54. Paris: École Française d’Extrême-Orient.
4. Kalpana S. Desai. 1973.
Iconography of Visnu (In Northern India, up to the Mediaeval period)
. New Delhi: Abhinav Publications.
5. Roveda, Vittorio. 2005.
Images of the Gods: Khmer Mythology in Cambodia, Laos and Thailand.
Bangkok: River Books.
6. Trần Kỳ Phương. 1987.
Museum of Cham Sculpture – Danang.
Hanoi: Foreign Languages Publishing House.
Tác giả: Trần Kỳ Phương, Nguyễn Tú Anh
|
Biển trong chúng ta – The Ocean within us
Kỳ 5: Thiên tai biển động
Disasters and rough sea
Thiên tai biển động
Lâu nay, các sáng tác nhiếp ảnh về biển thường chú ý đến việc khai thác những vẻ đẹp thiên nhiên và con người, không nhiều người chú ý đến một góc khác của biển: khi thiên tai, biển động… Là cuốn sách tập hợp những bức ảnh riêng về biển, Mỹ Dũng đã dành hẳn cho nội dung này một phần riêng biệt…
Khi các cây dù được xếp lại, các con thuyền được kéo lên bờ và phủ bạt, những ngư dân trở về cố thủ trong những căn nhà… đấy là lúc mà mối quan hệ giữa biển cả và con người trở nên tệ hại nhất. Không ra khơi được, chạy trốn những cơn sóng dữ, ngồi bó gối chờ lúc lộng khơi yên lặng… mùa biển động là mùa nặng nề nhất ở các vạn chài. Các bức ảnh tĩnh lặng, không có hoạt động gì đáng kể như một ám ảnh về sự lệ thuộc của con người trước tự nhiên bao đời gây cho người xem những ấn tượng thật sự mạnh mẽ ở phần này…
Và sau những mùa biển động, sau một vòng đời lênh đênh trên biển, những chiếc thuyền hư hỏng, cũ nát nằm vùi đâu đó trên các bãi cát như những tiếng thở dài về những thăng trầm nghề biển.
Biển trắng
với hình ảnh con thuyền phủ bạt trắng như một chiếc khăn tẩm liệm thật ám ảnh,
Bè tử, Thiên táng, Địa táng, Hỏa táng, Mộ lưới
… lại là những ám ảnh khác về những cái chết lặng thầm, bị quên lãng dọc theo các làng chài Việt… Một số hình ảnh biển và bờ biển xơ xác sau những trận thiên tai cũng được Mỹ Dũng ghi lại như một lời nhắc nhở về những biến động thời tiết khắc nghiệt mà nguyên nhân của nó một phần do chính còn người tạo ra…
Một cảm giác khó tả có phần tiếc nuối và nhiều hoài niệm về những con tàu dọc ngang trên biển khiến phần này gây ấn tượng với người xem ảnh. “Ý tại ngôn ngoại”, những điều ẩn phía sau các bức ảnh lại có sức gợi mạnh mẽ hơn những gì đang phô bày cho ta thấy rất nhiều…
Disasters and rough sea
For a long time, photographic work with the sea often focused solely on exploiting natural and human beauty. Not many photographers are interested in another side of the sea – disaster and rough waters. As a picture book dedicated to the ocean, My Dung provides a space for this content.
Umbrellas are folded, boats are pulled ashore and covered, fishermen return to their houses. At this moment the relationship between humans and the sea becomes worst. They will not go offshore to face violent waves, but stay, waiting for peaceful seas. Rough sea season is the heaviest time of year in fishing villages. Silent pictures without consideration of the activities which seem to be the obsession of human’s dependence on nature give viewers strong impressions.
After rough seas and the continuation of the floating life cycle of the sea, wrecked boats lying on the sand seem to sigh about the ups and downs of fishing for a living.
White
sea
, with image of the boat covered in white canvas as a haunting burying cloth,
Be tu
(a dead boat),
Thien tang
(sky burial),
Dia tang
(natural burial),
Hoa tang
(cremation),
Mo
luoi
(a tomb made of fishing-net) are different obsessions of silent deaths forgotten along the Vietnamese fishing villages. Some images of the desolated sea and coastline after disasters are recorded by My Dung as a reminder of rough seas, the harsh weather partly caused by human activities.
A nondescript feeling of both regret and nostalgia about various boats anywhere on the sea makes this part more impressive for viewers. To “read between the lines” means the implied meanings of the pictures are more evocative than what is shown.
Nam Thọ
,
phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, Đà Nẵng – Bão 2005
Nam Tho
,
Tho Quang ward, Son Tra district, Da Nang city – Hurricane 2005
Xâm thực
Xã Diễn Hải, huyện Diễn Châu, Nghệ An
Corrasion
Dien Hai commune, Dien Chau district, Nghe An province
Sau bão
Xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu, Nghệ An
After the storm
Dien Ngoc commune, Dien Chau district, Nghe An province
Những chiêc ô
Mỹ Khê, Đà Nẵng
Umbrellas
My Khe beach, Da Nang city
Biển động
Phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Rough sea
Ky Phuong ward, Ky Anh town, Ha Tinh province
Biển trắng
Phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Dead sea
Ky Phuong ward, Ky Anh town, Ha Tinh province
Con cá không cắn câu, nghĩ rằng con cá dại
Vác cần về rồi, nghĩ lại con cá khôn.
Người sống về gạo, cá bạo về nước.
At first I thought it was a silly fish that didn’t take the bait.
Having brought the fishing rod home, I rethink the fish is really wise.
Man live on food, fish live on water.
Xả bản
Làng Nam Ô, Đà Nẵng
No more occupation
Nam O village, Da Nang city
Xả bản 2
Xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình
No more occupation 2
Hai Ninh commune, Quang Ninh district, Quang Binh province
Bè tử
Xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Dead raft
Hoang Truong commune, Hoang Hoa district, Thanh Hoa province
Biển động 2
Phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Rough sea 2
Ky Phuong ward, Ky Anh town, Ha Tinh province
Thiên táng
Bãi biển Mỹ Thuỷ, Quảng Trị
Sky burial
My Thuy beach,Quang Tri province
Địa táng
Xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình
Natural burial
Hai Ninh commune, Quang Ninh district, Quang Binh province
Thủy táng
Hòn Rớ, TP.Nha Trang, Khánh Hòa
Burial at sea
Hon Ro, Nha Trang city, Khanh Hoa province
Hỏa táng
Nam Thọ, phường Thọ Quang, Sơn Trà, Đà Nẵng
Cremation
Nam Tho, Tho Quang commune, Son Tra district, Da Nang city
Rác táng
Huyện Diễn Châu, Nghệ An
Waste burial
Dien Chau district, Nghe An province
Mộ lưới
Cửa Tùng, Quảng Trị
Tomb of nets
Cua Tung estuary, Quang Tri province
Xả bản 3
Quần Mục, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng
No more occupation 3
Quan Muc, Kien Thuy district, Hai Phong city
|
The Ocean within us – The Ocean within us
Part 5: Natural disasters at sea
Disasters and rough sea
Natural disaster at sea
For a long time, photography works about the sea have often paid attention to exploiting the beauty of nature and people, not many people have paid attention to another corner of the sea: when natural disasters, rough seas... This is a book that collects For separate photos of the sea, My Dung has devoted a separate section to this content...
When the umbrellas were folded, the boats were pulled ashore and covered with tarpaulins, the fishermen returned to hole up in their houses... that was when the relationship between the sea and people became the worst. Not being able to go out to sea, running away from the fierce waves, sitting on my hands and knees waiting for a quiet moment... the rough sea season is the heaviest season for fishing boats. The still photos, with no significant activities, are a haunting reminder of human dependence on nature for many generations, giving viewers really strong impressions in this part...
And after rough sea seasons, after a lifetime of floating at sea, damaged and old boats lie buried somewhere on the sandy beaches like sighs about the ups and downs of the marine profession.
White sea
with the haunting image of a boat covered with white tarpaulin like a shroud,
Death, Heavenly Burial, Earthly Burial, Cremation, Net Grave
... are other hauntings of silent, forgotten deaths along Vietnamese fishing villages... Some images of seas and beaches ragged after natural disasters were also recorded by My Dung as a reminder. about extreme weather fluctuations that are partly caused by humans...
An indescribable feeling of regret and nostalgia about the ships sailing across the sea make this part impress photo viewers. "The meaning is in the language", the things hidden behind the photos are much more evocative than what is being shown to us...
Disasters and rough sea
For a long time, photographic work with the sea often focuses solely on exploiting natural and human beauty. Not many photographers are interested in another side of the sea – disaster and rough waters. As a picture book dedicated to the ocean, My Dung provides a space for this content.
Umbrellas are folded, boats are pulled ashore and covered, fishermen return to their houses. At this moment the relationship between humans and the sea becomes worst. They will not go offshore to face violent waves, but stay, waiting for peaceful seas. Rough sea season is the heaviest time of year in fishing villages. Silent pictures without consideration of the activities which seem to be the obsession of human's dependence on nature give viewers strong impressions.
After rough seas and the continuation of the floating life cycle of the sea, wrecked boats lying on the sand seem to sigh about the ups and downs of fishing for a living.
White
sea
, with image of the boat covered in white canvas as a haunting burying cloth,
Be tu
(a dead boat),
Thien tang
(sky burial),
Dia funeral
(natural burial),
Funeral flowers
(cremation),
Mo
luoi
(a tomb made of fishing-net) are different obsessions of silent deaths forgotten along the Vietnamese fishing villages. Some images of the desolate sea and coastline after disasters are recorded by My Dung as a reminder of rough seas, the harsh weather partly caused by human activities.
A nondescript feeling of both regret and nostalgia about various boats anywhere on the sea makes this part more impressive for viewers. To “read between the lines” means the implied meanings of the pictures are more evocative than what is shown.
Nam Tho
,
Tho Quang ward, Son Tra district, Da Nang – Bao 2005
Nam Tho
,
Tho Quang ward, Son Tra district, Da Nang city – Hurricane 2005
Cavitation
Dien Hai commune, Dien Chau district, Nghe An
Corrasion
Dien Hai commune, Dien Chau district, Nghe An province
After the storm
Dien Ngoc commune, Dien Chau district, Nghe An
After the storm
Dien Ngoc commune, Dien Chau district, Nghe An province
Umbrellas
My Khe, Da Nang
Umbrellas
My Khe beach, Da Nang city
Rough sea
Ky Phuong Ward, Ky Anh Town, Ha Tinh
Rough sea
Ky Phuong ward, Ky Anh town, Ha Tinh province
White sea
Ky Phuong Ward, Ky Anh Town, Ha Tinh
Dead sea
Ky Phuong ward, Ky Anh town, Ha Tinh province
The fish didn't take the bait, thinking it was wild
After carrying the rod back, think again about the clever fish.
People live about rice, fish return to water.
At first I thought it was a silly fish that didn't take the bait.
Having brought the fishing rod home, I rethink the fish is really wise.
Man lives on food, fish lives on water.
Discharge
Nam O Village, Da Nang
No more occupations
Nam O village, Da Nang city
Release version 2
Hai Ninh commune, Quang Ninh district, Quang Binh
No more occupation 2
Hai Ninh commune, Quang Ninh district, Quang Binh province
Death friend
Hoang Truong commune, Hoang Hoa district, Thanh Hoa
Dead raft
Hoang Truong commune, Hoang Hoa district, Thanh Hoa province
Rough sea 2
Ky Phuong Ward, Ky Anh Town, Ha Tinh
Rough sea 2
Ky Phuong ward, Ky Anh town, Ha Tinh province
Heavenly burial
My Thuy Beach, Quang Tri
Sky burial
My Thuy beach, Quang Tri province
Burial ground
Hai Ninh commune, Quang Ninh district, Quang Binh
Natural burial
Hai Ninh commune, Quang Ninh district, Quang Binh province
Water burial
Hon Ro, Nha Trang City, Khanh Hoa
Burial at sea
Hon Ro, Nha Trang city, Khanh Hoa province
Cremation
Nam Tho, Tho Quang ward, Son Tra, Da Nang
Cremation
Nam Tho, Tho Quang commune, Son Tra district, Da Nang city
Burial trash
Dien Chau District, Nghe An
Waste burial
Dien Chau district, Nghe An province
Net grave
Cua Tung, Quang Tri
Tomb of nets
Cua Tung estuary, Quang Tri province
Discharge version 3
Quan Muc, Kien Thuy district, Hai Phong
No more occupations 3
Quan Muc, Kien Thuy district, Hai Phong city
|
Những bảo vật quốc gia
Nhiều bảo vật có niên đại hơn 1.000 năm tuổi, được lưu trữ chủ yếu tại bảo tàng Lịch sử.
Tại khu trưng bày văn hóa Chămpa, nổi bật là bức tượng đồng Avalokitesvara (môt dạng của Bồ Tát Quan âm), phát hiện những năm đầu thế kỷ 20 tại Quảng Bình.
Tượng nặng 35 kg, cao 52 cm, tóc búi cao có miện chạm hình tượng Phật ngồi, mang nhiều trang sức. Tượng có bốn tay, hai tay trước đưa ra cầm nụ sen và bình nước cam lồ.
Bức tượng phản ánh trình độ đúc đồng cao và tình hình phát triển Phật giáo đương thời của Chămpa, vương quốc một thời phát triển ở miền trung Việt Nam.
Tượng Phật Đồng Dương được một người Pháp tìm thấy ở
Quảng Nam
năm 1911, có tuổi đời khoảng 1.200 năm, thuộc nền văn hóa Chămpa. Tượng làm bằng đồng thau, cao 120 cm, nặng 120 kg, thể hiện đức Phật đứng thuyết pháp.
Tượng liên quan đến một giai đoạn Phật giáo ở Chămpa phát triển hưng thịnh, đó là thời kỳ thuộc triều Indravarman II, còn gọi là “Vương triều Đồng Dương” hay “Vương triều Phật giáo”.
Tượng từng trưng bày ở nhiều nước. Trong triển lãm cổ vật Đông Nam Á ở Pháp, tượng được mua bảo hiểm 5 triệu USD. Đây là mức bảo hiểm cao nhất cho một pho tượng của Việt Nam trưng bày tại nước ngoài.
Đồng Dương là trung tâm Phật giáo của Chămpa, nằm ở vùng đồng bằng, huyện Thăng Bình, Quảng Nam.
Tượng bán thân nữ thần Devi được phát hiện năm 1911 tại làng Hương Quế (Quảng Nam) trong một đền thờ nhỏ. Tượng cao 38,5 cm, rộng 21,6 cm và nặng 20 kg, có niên đại thế kỷ thứ 10.
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu, đây là chân dung hiếm thấy của một nữ thần Ấn Độ được “Chămpa hóa”. Bức tượng làm bằng đá sa thạch, có lông mày dài, cong liền nhau, mắt to, miệng hơi nở nụ cười, tóc kết thành cuộn búi cao kiểu hình tháp, phía trước có hình vầng trăng lưỡi liềm. Bức tượng này được nhiều nước trên thế giới lựa chọn để trưng bày giới thiệu về nền Văn hóa Chămpa.
Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni được người dân tìm thấy tại làng Lợi Mỹ, tỉnh Đồng Tháp, năm 1937. Tượng có tuổi đời khoảng 1.500 năm trước.
Cao 2 m, nặng 100 kg, tượng được chạm khắc từ cây gỗ trai nguyên khối. Tượng có mắt nhắm, mắt mở, mặc áo choàng dài phủ đến chân tạo thành hình vòng cung.
Với tính tính thẩm mỹ cao, tượng thể hiện nghệ thuật điêu khắc của nền văn hóa Óc Eo, vương quốc cổ Phù Nam từng tồn tại ở Nam Bộ.
Bức tượng Phật nhỏ được tìm thấy ở làng Bình Hòa (Long An) năm 1947, có niên đại thế kỷ thứ 3 – 4. Tượng bằng gỗ bằng lăng, cao 113 cm, nặng 73 kg, tạc vị Phật có dáng dứng thanh mảnh, mặc áo choàng hở vai.
Bức tượng lớn làm bằng gỗ sao, có niên đại thế kỷ thứ 4, tìm thấy ở Đồng Tháp năm 1943. Tượng cao 268 cm, nặng 100 kg, tạc vị Phật đứng trên tòa sen.
Cả hai bảo vật đều thuộc những bức tượng gỗ cổ xưa nhất được tìm thấy tại Đông Nam Á, cho thấy Phật giáo đã lan tỏa khá sớm. Hai bức tượng tiêu biểu cho nghệ thuật tạc tượng Phật bằng gỗ trong văn hóa Óc Eo.
Tượng Phật Sơn Thọ được tìm thấy tại ngôi chùa cùng tên ở Trà Vinh, do cư dân Phù Nam chế tác khoảng thế kỷ thứ 6 – 7.
Cao 59 cm và nặng 80 kg, tượng được làm bằng đá sa thạch, thể hiện Đức Phật ngồi theo tư thế hai chân buông thõng trước ngai.
Tượng Bồ Tát Quan Thế Âm (Avalokitesvara) có niên đại thế kỷ thứ 7, được tìm thấy ở Trà Vinh năm 1937. Tượng làm bằng đá sa thạch, cao 90 cm, có 4 tay. Hai tay sau đưa lên ngang vai cầm tràng hạt và nụ sen, hai tay trước nắm lại, thân trên ở trần, thân dưới mặc sampot. Đây là tượng nguyên gốc, độc bản, tiêu biểu cho loại hình điêu khắc tượng Avalokitesvara của nền văn hóa Óc Eo.
Được tìm thấy năm 1936 tại Kiên Giang, tượng thần Vishnu có niên đại khoảng thế kỷ 3 – 5. Tượng là tác phẩm hội tụ các đặc điểm điển hình cho kỹ thuật đúc đồng của văn hóa Óc Eo.
Tượng cao 23 cm được tạo hình cân đối, mỗi tay cầm một đồ vật. Vishnu là thần bảo tồn, một trong 3 vị thần chính của Ấn Độ giáo (Siva,Vishnu và Brama). Thần bảo vệ cuộc sống, diệt trừ loài quỷ dữ. Vì vậy, cư dân Phù Nam thường thờ cúng thần Vishnu.
Tượng Nữ Thần Durga tạc từ thế kỷ 7, được tìm thấy năm 1902 tại Trà Vinh. Đây là vị nữ thần có dấu ấn sâu đậm trong đời sống tinh thần của các tín đồ Hindu giáo của văn hóa Óc Eo.
Bảo vật bằng đá sa thạch, cao 75 cm và nặng 75 kg. Tượng đứng trên đầu một con trâu, là hình ảnh tượng trưng cho Quỷ trâu (ngưu ma vương) bị nữ thần Durga khuất phục, giúp loài người thoát khỏi những tai ương.
Tượng có bốn tay. Ngực thần Durga để trần, mặc sà rông có nhiều nếp gấp nhấp nhô hình sóng nước.
Tượng thần mặt trời Surya bằng sa thạch có tuổi đời khoảng 1.500 năm, được tìm thấy năm 1928 tại An Giang. Pho tượng tạc vị nam thần trong tư thế đứng, chiều cao 90 cm, nặng 80 kg.
Tượng tạo hình với mũ trụ, hai tai đều đeo khuyên dài xuống chạm vai, hai tay đang cầm hai nụ hoa sen đưa lên trước ngực. Bức tượng này điển hình cho nghệ thuật chạm khắc của nền văn hóa Óc Eo.
Bức tranh sơn mài “Vườn xuân Trung Nam Bắc” của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, lưu giữ tại bảo tàng Mỹ thuật TP HCM, được công nhận “bảo vật quốc gia” năm 2013. Đây là tác phẩm được họa sĩ sáng tác lâu nhất, từ năm 1969 đến 1989 mới hoàn thành, có kích thước lớn 200 x 540 cm.
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908-1993) cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn tạo thành bộ tứ họa sĩ nổi tiếng thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam (người đời thường gọi nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn).
Tại bảo tàng còn trưng bày bức tranh “Thanh niên thành đồng” của họa sĩ Nguyễn Sáng, được công nhận bảo vật quốc gia năm 2017.
Bảo vật quốc gia là những hiện vật có giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử được nhà nước bảo vệ và bảo quản theo chế độ riêng. Đã có bảy đợt công nhận với 164 hiện vật, nhóm hiện vật đã được công nhận là bảo vật quốc gia.
|
National treasures
Many treasures are more than 1,000 years old, stored mainly at the History museum.
At the Champa culture exhibition area, the highlight is the bronze statue of Avalokitesvara (a form of Bodhisattva Avalokiteshvara), discovered in the early 20th century in Quang Binh.
The statue weighs 35 kg, is 52 cm tall, has high bun hair, a crown carved with a sitting Buddha image, and wears many jewelry. The statue has four arms, the two front hands are held out to hold lotus buds and a vase of nectar.
The statue reflects the high level of bronze casting and the contemporary development of Buddhism in Champa, a once-developed kingdom in central Vietnam.
Dong Duong Buddha statue was found by a Frenchman
Quang Nam
dated 1911, about 1,200 years old, belonging to the Champa culture. The statue is made of brass, 120 cm high, weighs 120 kg, representing the Buddha standing and preaching.
The statue is related to a period when Buddhism in Champa flourished, which was the period of the Indravarman II dynasty, also known as the "Dong Duong Dynasty" or "Buddhist Dynasty".
The statue has been displayed in many countries. In the exhibition of Southeast Asian antiquities in France, the statue was insured for 5 million USD. This is the highest insurance level for a Vietnamese statue displayed abroad.
Dong Duong is the Buddhist center of Champa, located in the delta, Thang Binh district, Quang Nam.
The bust of goddess Devi was discovered in 1911 in Huong Que village (Quang Nam) in a small temple. The statue is 38.5 cm high, 21.6 cm wide and weighs 20 kg, dating to the 10th century.
According to researchers' documents, this is a rare portrait of an Indian goddess "Champaized". The statue is made of sandstone, has long, curved eyebrows, big eyes, a slightly smiling mouth, hair tied into a high tower-shaped bun, with a crescent moon in front. This statue is chosen by many countries around the world to display and introduce Champa Culture.
Shakyamuni Buddha statue was found by people in Loi My village, Dong Thap province, in 1937. The statue is about 1,500 years old.
2 m high, weighing 100 kg, the statue is carved from solid pearl wood. The statue has open and closed eyes, wearing a long robe that covers the feet, forming an arc.
With high aesthetics, the statue represents the sculptural art of the Oc Eo culture, the ancient kingdom of Funan that once existed in the South.
The small Buddha statue was found in Binh Hoa village (Long An) in 1947, dating from the 3rd - 4th centuries. The statue is made of mahogany wood, 113 cm high, weighs 73 kg, carved with a slender Buddha. , wearing an off-the-shoulder gown.
Large statue made of star wood, dated to the 4th century, found in Dong Thap in 1943. The statue is 268 cm high, weighs 100 kg, depicting Buddha standing on a lotus.
Both treasures are among the oldest wooden statues found in Southeast Asia, showing that Buddhism spread quite early. The two statues represent the art of carving wooden Buddha statues in the Oc Eo culture.
The Buddha Son Tho statue was found at the pagoda of the same name in Tra Vinh, crafted by Funan residents around the 6th - 7th centuries.
59 cm high and weighing 80 kg, the statue is made of sandstone, showing the Buddha sitting in a posture with his legs hanging down in front of the throne.
The statue of Bodhisattva Avalokiteshvara (Avalokitesvara) dates back to the 7th century and was found in Tra Vinh in 1937. The statue is made of sandstone, 90 cm high, with 4 arms. The two back hands are raised to shoulder level holding the rosary and lotus buds, the two front hands are clasped, the upper body is bare, the lower body is wearing sampot. This is an original, unique statue, typical of the Avalokitesvara sculpture type of the Oc Eo culture.
Found in 1936 in Kien Giang, the statue of Vishnu dates back to the 3rd - 5th centuries. The statue is a work that converges typical features of the bronze casting technique of the Oc Eo culture.
The statue is 23 cm tall and has a balanced shape, holding an object in each hand. Vishnu is the god of preservation, one of the three main gods of Hinduism (Siva, Vishnu and Brama). God protects life and eliminates demons. Therefore, Funan residents often worship god Vishnu.
Statue of Goddess Durga carved in the 7th century, found in 1902 in Tra Vinh. This is a goddess who has a deep impression in the spiritual life of Hindu followers of Oc Eo culture.
The treasure is made of sandstone, 75 cm high and weighs 75 kg. The statue stands on the head of a buffalo, symbolizing the Demonic Buffalo (Demon King) subdued by the goddess Durga, helping humanity escape disasters.
The statue has four arms. Goddess Durga's chest is bare, wearing a sarong with many undulating folds shaped like water waves.
The sandstone statue of the sun god Surya is about 1,500 years old and was found in 1928 in An Giang. The statue of the male god in a standing position is 90 cm tall and weighs 80 kg.
The statue is shaped like a helmet, both ears have earrings that reach down to the shoulders, and both hands are holding two lotus buds in front of the chest. This statue is typical of the carving art of the Oc Eo culture.
The lacquer painting "Spring Garden between North and South" by artist Nguyen Gia Tri, kept at the Ho Chi Minh City Museum of Fine Arts, was recognized as a "national treasure" in 2013. This is a work created by the artist for a long time. The first one, completed from 1969 to 1989, has a large size of 200 x 540 cm.
Painter Nguyen Gia Tri (1908-1993) along with To Ngoc Van, Nguyen Tuong Lan, and Tran Van Can formed a quartet of famous artists in the early period of Vietnamese fine arts (people often call first Tri, second Van , three Lan, four Can).
The museum also displays the painting "Youth in the Field" by artist Nguyen Sang, recognized as a national treasure in 2017.
National treasures are artifacts of special cultural and historical value that are protected and preserved by the state according to its own regime. There have been seven rounds of recognition with 164 artifacts, a group of artifacts that have been recognized as national treasures.
|
Trên mâm cỗ của người Nhật, các món ăn vô cùng phong phú, được bày trí tỉ mỉ, đẹp mắt. Giống như ngày Tết của Việt Nam, người Nhật vẫn lưu giữ tục lệ mừng tuổi cho trẻ em hoặc tặng quà giữa những người thân trong gia đình hay trong dòng họ, bạn bè sau lễ đón Giao thừa.
Anh
Ở Anh, bài hát được bật lên vào thời khắc giao thừa không phải là “Happy New Year” mà là “Auld Lang Syne” (nghĩa là thời gian trôi qua). “Auld Lang Syne” mang thông điệp nhắc nhở mọi người hãy yêu thương, quý trọng gia đình, người thân xung quanh mình, hãy luôn để những người thân yêu ấy trong tim cho dù họ có ra đi mãi mãi.
Đối với người dân Anh, cây tầm gửi biểu trưng cho sự thịnh vượng và những điều may mắn. Chính vì vậy mà trong những bữa tiệc mừng năm mới người Anh thường tặng nhau những cành tầm gửi nhỏ để chúc nhau thành công và may mắn.
Pháp
Người Pháp dùng rượu để đón năm mới. Từ đêm giao thừa cho đến ngày 3/1, người Pháp mở tiệc, uống rượu say sưa. Theo quan điểm của người Pháp, uống cạn rượu sẽ đem lại may mắn cho họ vào năm mới; nếu không uống hết thì trong năm mới sẽ gặp điều xui xẻo.
Ai Cập
|
On the Japanese feast tray, the dishes are extremely rich, meticulously and beautifully arranged. Like Vietnamese New Year, Japanese people still maintain the custom of celebrating children's birthdays or giving gifts between family members, clans, and friends after the New Year's Eve celebration.
Older brother
In England, the song played on New Year's Eve is not "Happy New Year" but "Auld Lang Syne" (meaning time passes). “Auld Lang Syne” carries the message of reminding everyone to love and cherish their family and loved ones around them, and always keep those loved ones in their hearts even if they are gone forever.
For British people, mistletoe symbolizes prosperity and good luck. That's why at New Year's parties, British people often give each other small branches of mistletoe to wish each other success and luck.
France
The French use wine to welcome the new year. From New Year's Eve until January 3, the French hold parties and drink heavily. According to the French view, drinking enough wine will bring them luck in the new year; If you don't drink it all, you will have bad luck in the new year.
Egypt
|
Lục lại những bài viết cũ, Nhà thơ, Dịch giả, Nhà nghiên cứu lịch sử Bùi Xuân vui vui tìm lại được một mẩu chuyện nhỏ xíu về chú Chuột… viết đã lâu lắm rồi. Nay, trong những ngày áp Tết Canh Tý 2020,
vansudia.net
xin đăng tải để mua vui bạn đọc một chút tí tì ti…
vansudia.net
Tiểu phẩm vui:
Khá… khá lắm!
Bùi Xuân
Ngày tôi đến cơ quan nhận việc, Người nhìn tôi từ đầu tới chân mà rằng: “Chuột sa chỉnh nếp thì thế nào?”. Tôi thưa: “ Dạ, sướng mê người”. Lại hỏi:” Ngộ nhở rơi vào miệng mèo?”. Tôi lại thưa: “ Dạ, tàn đời”. Người rung đùi tỏ vẻ hài lòng và phân cho tôi cái chân gác cổng. Hai năm sau tôi sa vào chỉnh nếp nhà Người (cô con gái rượu của Người nay đã là bà xã của tôi), liền được Người cất nhắc lên thủ kho, thủ quỹ, trưởng phòng hành chính quản trị… rồi đề bạt trợ lý giám đốc.
Bố vợ và chàng rể, tức là Người và tôi, rất “ăn ý” nhau. Này nhé, Người hỏi:“Cái khoản sửa chữa nhỏ cơ quan ta được bao nhiêu?”. Tôi liền thưa: “Phần bố tệ lắm cũng dăm ba vé ”. Người lại hỏi: “Thế còn cái khoản….”. Tôi lại thưa: “Bố xây cái nhà hai tầng vẫn còn thừa chút ít”. Khuôn mặt Người những lúc ấy rạng rỡ hẵn lên và giọng Người trở nên “chít chít”, à quên, rối rít: “Khá …khá lắm!”.
Được Người khen, tôi lấy làm sung sướng. Nhưng, dường như sau mỗi lần phát ra mấy tiếng “khá …khá lắm” là người lại nhớ đến mấy ngài Tý. Người “dịch hạch”, à lại quên, “sát hạch” tôi: “Họ nhà chuột thuộc loài gì?”. Tôi thưa: “Loài gặm nhấm”. Người lại hỏi: “Vậy bài học đáng giá ngàn vàng của họ nhà chuột là gì?”. Tôi quen bài bản cũ: “Lấy gặm nhấm làm kế sách, lấy gặm nhấm nữa, gặm nhấm mãi làm phương châm và để được gặm nhấm, có cái mà gặm nhấm thì phải biết “mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo”. Thế là Người lại rung đùi, tỏ vẻ hài lòng: “Khá…khá lắm!”.
Bùi Xuân
|
Looking back through old articles, Poet, Translator, and Historical Researcher Bui Xuan was happy to find a small story about Mouse... written a long time ago. Now, in the days leading up to Tet Canh Ty 2020,
vansudia.net
Please post it to entertain readers a little bit...
vansudia.net
Funny skit:
Pretty… pretty good!
Bui Xuan
The day I arrived at the office to get a job, he looked at me from head to toe and said: "What's it like when a mouse is in shape?". I said: "Yes, I'm so happy." Asked again: "Did the cat fall into the cat's mouth?". I said again: "Yes, life is over." The person shook his thighs and expressed satisfaction and assigned me the position of gatekeeper. Two years later, I fell into the routine of His house (His daughter is now my wife), and was immediately promoted to storekeeper, treasurer, head of administrative department... and then promoted to assistant. manager.
The father-in-law and the son-in-law, that is, he and I, "get along" very well. Hey, he asked: "How much does our agency get for small repairs?". I immediately said: "Dad's part is at worst a few tickets." Another person asked: "What about the account...". I said again: "Dad built a two-story house and still has a little left over." His face at that moment brightened up and His voice became "squeaky", forgetful, confused: "Pretty...quite!".
When He praises me, I feel happy. But, it seems that after every time the words "quite...quite" are made, people remember the Rats. The "plague" person, oh I forgot, "examined" me: "What species does the rat family belong to?". I said: "Rodents". Another person asked: "So what is the valuable lesson of the mouse family?". I'm familiar with the old lesson: "Use rodents as a strategy, use rodents again, keep gnawing as the motto and to be gnawed, to have something to gnaw, you must know "buy fish sauce, buy salt to celebrate the cat's father's death anniversary". So he shook his thighs again, looking satisfied: "Pretty...quite!".
Bui Xuan
|
Hội làng là hồn cốt của văn hóa Việt Nam
PGS Nguyễn Văn Huy khuyên khách trẩy hội đầu xuân nên tìm đến hội làng ở các làng quê để thấy được hồn cốt văn hóa Việt Nam.
Chia sẻ về nét đẹp của lễ hội đầu xuân, PGS Nguyễn Văn Huy, cựu Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học, cho rằng hội làng ở khắp các vùng quê Việt Nam vẫn còn giữ được nét đặc sắc truyền thống.
– Lễ hội ở Việt Nam có nguồn gốc từ khi nào, thưa ông?
– Các lễ hội ở Việt Nam ra đời từ xa xưa, thủa ban đầu gắn với những lễ mừng lúa chín. Với người Việt cổ, mùa thu hay còn gọi là “mùa cơm mới” là mùa quan trọng nhất, bởi đây là thời điểm lúa chín để thu hoạch. Sau đó, mọi nhà đều làm lễ mừng cơm mới.
Vì vậy, mùa thu với người Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các lễ hội trước đây cũng ra đời gắn liền với mùa thu. Tập tục này còn lưu giữ đến ngày nay khi nhiều làng quê vẫn mở các lễ hội mùa thu.
PGS Nguyễn Văn Huy. Ảnh:
Viết Tuân
Sau đó, người Việt biết dùng Âm lịch (lịch Trung Hoa) thay cho cách tính mùa lúa chín. Người Việt biết ăn Tết Nguyên đán vào đầu mùa xuân. Các nghi lễ thờ cúng quan trọng nhất trong năm dần chuyển từ mùa thu sang mùa xuân, kéo theo sự chuyển dịch các lễ hội. Mùa xuân được quan niệm là khởi đầu cho một năm mới, nên các lễ hội ngày càng nở rộ.
Lễ hội thủa sơ khai chỉ là những hoạt động cúng lễ của từng gia đình. Sau khi làm lễ, mọi người cùng uống rượu, vui chơi, ca hát. Dần dần, nhiều gia đình cùng tổ chức cúng lễ, vui chơi chung, tạo ra hoạt động của cả xóm làng.
Khi đình làng ra đời, trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa chung của cộng đồng cũng là lúc có tục thờ thành hoàng làng, thì những hoạt động cúng lễ, vui chơi diễn ra thường xuyên hơn. Đặc biệt, từ thời nhà Lê, nhà nước phong kiến muốn nâng cao sự gắn kết của cộng đồng dân cư trong làng xã nên đã đưa ra các quy định về nghi thức, nghi lễ cho các lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ. Cũng từ đó, các hội làng được tổ chức bài bản hơn và có phần giống nhau.
– Hội làng có vai trò ra sao trong đời sống tinh thần người Việt?
– Từ xa xưa, các hội làng có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần người Việt. Ý nghĩa rất lớn của lễ hội là gắn kết cộng đồng cư dân trong một làng, xã, thôn, bản. Vì các hội làng thường gắn với tục thờ cúng vị thành hoàng làng nên trong quá trình thực hiện nghi lễ và các hoạt động vui chơi, người dân sẽ gắn bó, ràng buộc với nhau hơn về tinh thần. Đồng thời, ý thức, trách nhiệm về một cộng đồng cư dân cũng được củng cố.
Điệu múa “Con đĩ đánh bồng” ở hội làng Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội) được duy trì hàng trăm năm nay. Ảnh:
Giang Huy
Từ các hội làng sau này hình thành nên lễ hội của một vùng, cùng thờ chung một vị thần, với quy mô lớn hơn và tục cúng rước, vui chơi cũng được tổ chức quy củ hơn, tạo ra sự đoàn kết trong các vùng miền khắp đất nước.
Trải qua hàng nghìn năm, lễ hội được duy trì thường xuyên vào dịp nhất định trong năm, không chỉ hình thành các ý niệm chung của cộng đồng mà còn làm tươi mới các mối quan hệ trong xã hội. Sau một năm lao động, làm việc vất vả, cộng đồng lại được gặp nhau, cùng cầu mong sự an lành cho làng xóm, mùa màng tốt tươi, được các vị thành hoàng, thánh thần trợ giúp. Tâm thức mong muốn cho một tương lai cộng đồng tốt đẹp ngày càng được củng cố.
– Lễ hội ở Việt Nam đã thay đổi ra sao từ xưa đến nay?
– Trải qua hàng nghìn năm, lễ hội hiện nay đã có nhiều biến đổi, nhưng vẫn giữ được những cốt cách chủ yếu. Điều bất biến trong hội làng là sự tôn thờ các vị thành hoàng làng. Hầu hết làng đều giữ nguyên vị thành hoàng qua hàng nghìn năm, chỉ một số rất ít nơi thay đổi.
Làng Lai Xá (huyện Hoài Đức, Hà Nội) – nơi tôi sinh ra, trước đây thờ một vị vua. Nhưng sau đó, tương truyền ông Trần Liễu đến làng nên người dân quyết định chuyển sang thờ ông ấy. Nhưng sự thay đổi các vị thần linh trong hội làng như vậy không nhiều.
Hơn nữa, dù thay đổi vị thành hoàng làng, các nghi lễ cúng tế, đón rước, tập tục trước đây vẫn được trao truyền và gìn giữ, nên rất ít biến đổi.
Bên cạnh đó, nhiều yếu tố của hội làng ngày nay đã khác xưa. Trước đây, hội thường kéo dài từ nửa tháng đến một vài tháng. Bởi khi đó, đời sống nông nghiệp lúa nước nên người dân có nhiều thời gian rảnh rỗi sau mùa thu hoạch.
Nhưng bây giờ, hầu hết hội làng được rút ngắn chỉ còn một đến hai ngày, chỉ giữ lại những nghi lễ cơ bản, còn lại đều đã được lược bỏ. Hội được cô đọng hết mức có thể, để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Chẳng hạn, trước đây vào ngày lễ hội, các làng thường cắt cử thanh niên tráng kiện nhất để khiêng kiệu rước. Nhưng bây giờ thanh niên làng quê đều đi làm ăn xa, nên nhiều nơi dùng xe kéo hoặc ôtô để rước.
– Điều gì trong các hội làng hiện nay khiến ông lo ngại nhất?
– Điều tôi lo ngại nhất là người dân đang mất niềm tin vào lễ hội, bởi nhiều nơi có sự nhầm lẫn giữa niềm tin tín ngưỡng và mê tín. Dù nguy cơ này chưa đến mức báo động, chúng ta cần đặt ra để giáo dục thế hệ trẻ.
Niềm tin tín ngưỡng là điều thiêng liêng, khi người dân gửi gắm tình cảm, hy vọng đến một vị thần linh nào đó, để cầu mong cuộc sống ấm no, sung túc, ở hiền gặp lành. Nhưng hiện nay, rất nhiều người tham dự lễ hội đã vượt qua ranh giới tín ngưỡng, trở thành mê tín. Điển hình nhất là câu chuyện chen lấn, xô đẩy để xin ấn đền Tức Mặc (đền Trần Nam Định), đánh nhau vì cướp lộc…
Ranh giới giữa niềm tin tín ngưỡng về cuồng tín rất mong manh, phụ thuộc vào nhận thức của mỗi người. Tuy nhiên, có nguyên nhân quan trọng là việc giáo dục tín ngưỡng cho người dân đang bị bỏ ngỏ. Vì vậy, nhiều người du xuân trẩy hội nhưng không có kiến thức, không tìm hiểu về những lễ hội mình tham dự, đến đâu cũng vái lạy, thắp hương, nhét tiền lẻ vào tay tượng nhưng đều không hiểu được ý nghĩa và nguồn gốc ra sao.
– Ông có lời khuyên nào cho mọi người khi hành hương trẩy hội mùa xuân?
– Hiện nay, nhiều lễ hội đã được chính quyền địa phương “nâng cấp” không ngừng, từ hội làng thành những hội vùng, quốc gia… nhằm khuếch trương danh tiếng và thúc đẩy phát triển du lịch. Thậm chí, nhiều lễ hội đã bị đứt đoạn suốt mấy chục năm, nhưng đến khi khôi phục thì phục dựng sai lệch, làm mới tất cả nghi thức. Những tiêu cực như sự cuồng tín, đánh nhau, xô xát… chủ yếu xảy ra trong những lễ hội được nâng cấp này.
Còn các hội làng trên cả nước, do cộng đồng đứng ra tổ chức vẫn được làm bài bản, diễn ra rất nghiêm chỉnh và thanh bình. Người dự hội không phải tranh giành lộc, ấn đến nỗi đánh nhau mà ai cũng vui vẻ, hồ hởi để mong chờ những điều tốt đẹp.
Vì vậy, tôi rất mong mọi người trẩy hội đầu xuân hãy tìm đến những hội làng nho nhỏ. Đến với hội làng, mỗi người sẽ cảm nhận được rất rõ nét đẹp của hồn cốt văn hoá Việt Nam vẫn được nuôi dưỡng, gìn giữ qua hàng nghìn đời nay.
Viết Tuân
|
Hội làng là hồn cốt của văn hóa Việt Nam
PGS Nguyễn Văn Huy khuyên khách trẩy hội đầu xuân nên tìm đến hội làng ở các làng quê để thấy được hồn cốt văn hóa Việt Nam.
Chia sẻ về nét đẹp của lễ hội đầu xuân, PGS Nguyễn Văn Huy, cựu Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học, cho rằng hội làng ở khắp các vùng quê Việt Nam vẫn còn giữ được nét đặc sắc truyền thống.
– Lễ hội ở Việt Nam có nguồn gốc từ khi nào, thưa ông?
– Các lễ hội ở Việt Nam ra đời từ xa xưa, thủa ban đầu gắn với những lễ mừng lúa chín. Với người Việt cổ, mùa thu hay còn gọi là “mùa cơm mới” là mùa quan trọng nhất, bởi đây là thời điểm lúa chín để thu hoạch. Sau đó, mọi nhà đều làm lễ mừng cơm mới.
Vì vậy, mùa thu với người Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các lễ hội trước đây cũng ra đời gắn liền với mùa thu. Tập tục này còn lưu giữ đến ngày nay khi nhiều làng quê vẫn mở các lễ hội mùa thu.
PGS Nguyễn Văn Huy. Ảnh:
Viết Tuân
Sau đó, người Việt biết dùng Âm lịch (lịch Trung Hoa) thay cho cách tính mùa lúa chín. Người Việt biết ăn Tết Nguyên đán vào đầu mùa xuân. Các nghi lễ thờ cúng quan trọng nhất trong năm dần chuyển từ mùa thu sang mùa xuân, kéo theo sự chuyển dịch các lễ hội. Mùa xuân được quan niệm là khởi đầu cho một năm mới, nên các lễ hội ngày càng nở rộ.
Lễ hội thủa sơ khai chỉ là những hoạt động cúng lễ của từng gia đình. Sau khi làm lễ, mọi người cùng uống rượu, vui chơi, ca hát. Dần dần, nhiều gia đình cùng tổ chức cúng lễ, vui chơi chung, tạo ra hoạt động của cả xóm làng.
Khi đình làng ra đời, trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa chung của cộng đồng cũng là lúc có tục thờ thành hoàng làng, thì những hoạt động cúng lễ, vui chơi diễn ra thường xuyên hơn. Đặc biệt, từ thời nhà Lê, nhà nước phong kiến muốn nâng cao sự gắn kết của cộng đồng dân cư trong làng xã nên đã đưa ra các quy định về nghi thức, nghi lễ cho các lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ. Cũng từ đó, các hội làng được tổ chức bài bản hơn và có phần giống nhau.
– Hội làng có vai trò ra sao trong đời sống tinh thần người Việt?
– Từ xa xưa, các hội làng có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần người Việt. Ý nghĩa rất lớn của lễ hội là gắn kết cộng đồng cư dân trong một làng, xã, thôn, bản. Vì các hội làng thường gắn với tục thờ cúng vị thành hoàng làng nên trong quá trình thực hiện nghi lễ và các hoạt động vui chơi, người dân sẽ gắn bó, ràng buộc với nhau hơn về tinh thần. Đồng thời, ý thức, trách nhiệm về một cộng đồng cư dân cũng được củng cố.
Điệu múa “Con đĩ đánh bồng” ở hội làng Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội) được duy trì hàng trăm năm nay. Ảnh:
Giang Huy
Từ các hội làng sau này hình thành nên lễ hội của một vùng, cùng thờ chung một vị thần, với quy mô lớn hơn và tục cúng rước, vui chơi cũng được tổ chức quy củ hơn, tạo ra sự đoàn kết trong các vùng miền khắp đất nước.
Trải qua hàng nghìn năm, lễ hội được duy trì thường xuyên vào dịp nhất định trong năm, không chỉ hình thành các ý niệm chung của cộng đồng mà còn làm tươi mới các mối quan hệ trong xã hội. Sau một năm lao động, làm việc vất vả, cộng đồng lại được gặp nhau, cùng cầu mong sự an lành cho làng xóm, mùa màng tốt tươi, được các vị thành hoàng, thánh thần trợ giúp. Tâm thức mong muốn cho một tương lai cộng đồng tốt đẹp ngày càng được củng cố.
– Lễ hội ở Việt Nam đã thay đổi ra sao từ xưa đến nay?
– Trải qua hàng nghìn năm, lễ hội hiện nay đã có nhiều biến đổi, nhưng vẫn giữ được những cốt cách chủ yếu. Điều bất biến trong hội làng là sự tôn thờ các vị thành hoàng làng. Hầu hết làng đều giữ nguyên vị thành hoàng qua hàng nghìn năm, chỉ một số rất ít nơi thay đổi.
Làng Lai Xá (huyện Hoài Đức, Hà Nội) – nơi tôi sinh ra, trước đây thờ một vị vua. Nhưng sau đó, tương truyền ông Trần Liễu đến làng nên người dân quyết định chuyển sang thờ ông ấy. Nhưng sự thay đổi các vị thần linh trong hội làng như vậy không nhiều.
Hơn nữa, dù thay đổi vị thành hoàng làng, các nghi lễ cúng tế, đón rước, tập tục trước đây vẫn được trao truyền và gìn giữ, nên rất ít biến đổi.
Bên cạnh đó, nhiều yếu tố của hội làng ngày nay đã khác xưa. Trước đây, hội thường kéo dài từ nửa tháng đến một vài tháng. Bởi khi đó, đời sống nông nghiệp lúa nước nên người dân có nhiều thời gian rảnh rỗi sau mùa thu hoạch.
Nhưng bây giờ, hầu hết hội làng được rút ngắn chỉ còn một đến hai ngày, chỉ giữ lại những nghi lễ cơ bản, còn lại đều đã được lược bỏ. Hội được cô đọng hết mức có thể, để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Chẳng hạn, trước đây vào ngày lễ hội, các làng thường cắt cử thanh niên tráng kiện nhất để khiêng kiệu rước. Nhưng bây giờ thanh niên làng quê đều đi làm ăn xa, nên nhiều nơi dùng xe kéo hoặc ôtô để rước.
– Điều gì trong các hội làng hiện nay khiến ông lo ngại nhất?
– Điều tôi lo ngại nhất là người dân đang mất niềm tin vào lễ hội, bởi nhiều nơi có sự nhầm lẫn giữa niềm tin tín ngưỡng và mê tín. Dù nguy cơ này chưa đến mức báo động, chúng ta cần đặt ra để giáo dục thế hệ trẻ.
Niềm tin tín ngưỡng là điều thiêng liêng, khi người dân gửi gắm tình cảm, hy vọng đến một vị thần linh nào đó, để cầu mong cuộc sống ấm no, sung túc, ở hiền gặp lành. Nhưng hiện nay, rất nhiều người tham dự lễ hội đã vượt qua ranh giới tín ngưỡng, trở thành mê tín. Điển hình nhất là câu chuyện chen lấn, xô đẩy để xin ấn đền Tức Mặc (đền Trần Nam Định), đánh nhau vì cướp lộc…
Ranh giới giữa niềm tin tín ngưỡng về cuồng tín rất mong manh, phụ thuộc vào nhận thức của mỗi người. Tuy nhiên, có nguyên nhân quan trọng là việc giáo dục tín ngưỡng cho người dân đang bị bỏ ngỏ. Vì vậy, nhiều người du xuân trẩy hội nhưng không có kiến thức, không tìm hiểu về những lễ hội mình tham dự, đến đâu cũng vái lạy, thắp hương, nhét tiền lẻ vào tay tượng nhưng đều không hiểu được ý nghĩa và nguồn gốc ra sao.
– Ông có lời khuyên nào cho mọi người khi hành hương trẩy hội mùa xuân?
– Hiện nay, nhiều lễ hội đã được chính quyền địa phương “nâng cấp” không ngừng, từ hội làng thành những hội vùng, quốc gia… nhằm khuếch trương danh tiếng và thúc đẩy phát triển du lịch. Thậm chí, nhiều lễ hội đã bị đứt đoạn suốt mấy chục năm, nhưng đến khi khôi phục thì phục dựng sai lệch, làm mới tất cả nghi thức. Những tiêu cực như sự cuồng tín, đánh nhau, xô xát… chủ yếu xảy ra trong những lễ hội được nâng cấp này.
Còn các hội làng trên cả nước, do cộng đồng đứng ra tổ chức vẫn được làm bài bản, diễn ra rất nghiêm chỉnh và thanh bình. Người dự hội không phải tranh giành lộc, ấn đến nỗi đánh nhau mà ai cũng vui vẻ, hồ hởi để mong chờ những điều tốt đẹp.
Vì vậy, tôi rất mong mọi người trẩy hội đầu xuân hãy tìm đến những hội làng nho nhỏ. Đến với hội làng, mỗi người sẽ cảm nhận được rất rõ nét đẹp của hồn cốt văn hoá Việt Nam vẫn được nuôi dưỡng, gìn giữ qua hàng nghìn đời nay.
Viết Tuân
|
Phật giáo thời Lý
Tác giả
:
Trúc Phương
Phật giáo Việt Nam thời kỳ nhà Lý phát triển trở thành quốc giáo – Một tôn giáo dân tộc với giáo lý, các thiền phái riêng, hướng phát triển gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng quá trình xây dựng, phát triển nước Đại Việt.
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, tiếp thu từ phật giáo của Ấn Độ, phật giáo của Trung Quốc, các tư tưởng của Nho giáo, các lễ thức của Đạo giáo hình thành nên một tôn giáo của dân tộc – Phật giáo Việt Nam. Thời Đinh – Tiền Lê, nước ta thoát khỏi ách đô hộ của phương Bắc bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ, phật giáo có điều kiện để phát triển hơn, nhưng phải đến thời nhà Lý, Phật giáo mới phát triển cao nhất và được xem như quốc giáo của quốc gia Đại Việt.
Thời nhà Lý, Phật giáo có sự tồn tại, phát triển của nhiều thiền phái đã có từ các thời kỳ trước như:
Tỳ Ni Đa Lưu Chi
,
Vô Ngôn Thông
và hình thành thiền phái mới – thiền phái
Thảo Đường (1)
đạt đến độ hưng thịnh và ảnh hướng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống đất nước
:
Về chính trị
: “
Ở thời kỳ này, lực lượng phật giáo rất lớn, càng về sau càng phát triển. Phật giáo đã đông người lại có ruộng đất riêng” (2)
. Sở hữu ruộng đất thời kỳ phong kiến là do nhà nước quản lý, cũng có ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân, do sự phát triển, vai trò lớn của mình, nhà chùa đã sở hữu một phần ruộng đất khá lớn trên cả nước. Hệ thống tổ chức tăng quan phát triển cả về số lượng và quyền lực chính trị. Một số tăng sĩ có đạo cao, học vấn uyên bác được các vua trọng dụng. Có người là được làm thầy dạy của vua, được trọng dụng và phong hiệu Quốc sư như: Sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. Vai trò chủ yếu của các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý đạo Phật, khi cần, còn cố vấn cho vua những vấn đề quản lý, an ninh của đất nước, các đại sư được trọng dụng đồng thời cũng hưởng nhiều phong thưởng, đặc quyền như: “
Trường hợp sư Giác Hải khi chết được vua Lý Nhân Tông miễn thuế cho 30 hộ để hương đèn thờ phụng; sư Mãn Giác khi được phong là Hoài Tín đại sư, giao chức nhập nội đạo tràng Tử y đại sa môn thì được triều đình cấp 50 hộ; Thiền sư Giới Không năm 1135 có công cứu sống hàng ngàn người bị bệnh dịch được vua Lý Thần Tông cấp “10 hộ được miễn tô thuế để thờ phụng”
” (3).
Về văn hóa – giáo dục
: Cùng với Nho giáo, những tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã được truyền dạy trong giới quý tộc, quan chức, nho sĩ và là niềm tin tâm linh xoa dịu đời sống của nhân dân. Chùa chiền được xây dựng nhiều với mục đích không chỉ phổ biến kinh sách đạo Phật mà còn là thiền viện, diễn đàn của tầng lớp Nho sĩ, nhiều nhà sư là thầy dạy học cho các thái tử, là thầy thuốc chữa bệnh cho nhân dân và sáng tác các tác phẩm văn học. Văn hóa – giáo dục thời kỳ này đạt nhiều thành tựu lớn như: mở khoa thi đầu tiên ở Việt Nam để chọn nhân tài (năm 1075), mở trường đại học đầu tiên (Quốc Tử Giám) để đào tạo nhân tài cho nước nhà, nhiều tác phẩm có giá trị lớn như: Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Thiền Uyển Tập Anh…
Bản dập Mộc bản sách “
Đại Việt sử ký toàn thư
” chép: năm Tân Mùi (1031) vua Lý Thái Tông ban chiếu cho xây dựng 950 chùa, quán ở các hương ấp.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm Canh Tuất 1010. Mộc bản sách “
Đại Việt Sử ký toàn thư
“, quyển 2, mặt khắc 2.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Lược dịch Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm Canh Tuất 1010. Mộc bản sách “
Đại Việt Sử ký toàn thư
“, quyển 2, mặt khắc 2.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Về Tôn giáo
: Phật giáo thực sự trở thành quốc giáo. Các vua thời Lý rất sùng đạo, một số vua được tôn là tổ của các phái thiền. Vua Lý Thái Tông là vị Tổ thuộc thế hệ thứ bảy phái Thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai Thiền phái Thảo Đường (4). Đối với người dân lao động, đạo Phật tuy không cao siêu như là Thiền học hay Phật học, mà được đời thường hóa, dân gian hóa và gắn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của nhân dân nên thu hút được đông đảo dân chúng tin theo “
dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền
” (5), phát triển thành tôn giáo truyền thống của dân tộc cho đến nay.
Về điêu khắc – kiến trúc
: Đã có nhiều công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao in sâu triết lý phật giáo. Tiêu biểu nhất cho nền mỹ thuật Phật giáo thời này là bốn công trình được gọi là An Nam tứ đại khí: tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, đỉnh Phổ Minh, chuông Quy Điền. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nổi tiếng khác như chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột), tháp Sùng Thiện Diên Linh, tháp Chương Sơn….
Chùa Một Cột năm 1939.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản, SLT 34 -493.
Phật giáo phát triển cực thịnh ở thời kỳ nhà Lý do nhiều nguyên nhân có thể do được sự ủng hộ từ phía chính quyền, bản thân vua Lý Thái Tổ thuở nhỏ từng là con nuôi của sư Lý Khánh Vân, đệ tử thụ giáo của sư Vạn Hạnh, lên ngôi vua nhờ được thế lực Phật giáo của sư Vạn Hạnh và các triều thần ủng hộ, nhiều vua sau này là tổ của các phái thiền. Các nhà sư được vua và triều đình trọng dụng, phật giáo có ảnh hưởng lớn trong xã hội nhưng giáo lý vẫn chú tâm hướng con người đến cái thiện, các Quốc sư tư vấn giúp vua cai trị đất nước quốc thái, dân an, tham gia và sát cánh với quá trình bảo vệ độc lập đất nước. Giáo lý có sự tiếp thu từ các tôn giáo ngoại lai (Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung quốc) nhưng có sự kết hợp với các tín ngưỡng, phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc tạo một cách hài hòa và gắn liền với đời sống nhân dân.
Bản dập Mộc bản sách “
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên
” chép: việc vua Lý Thái Tổ khi còn nhỏ được
sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Triều Lý – triều đại mở đầu cho nền văn minh Đại Việt đã để lại những dấu ấn đậm nét trên lĩnh vực về chính trị, quân sự trong hơn 200 năm tồn tại của mình. Phật giáo thời nhà Lý được xem là giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất trong các triều đại phong kiến, tạo nên những nền tảng cơ bản về cả giáo lý, kiến trúc, văn hóa, đi sâu vào trong đời sống nhân dân và có ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau của Phật giáo thời nhà Trần, đặc biệt là sự ra đời của Thiền phái Trúc lâm Yên Tử. Với những thành tựu để lại, có thể nói, Phật giáo Việt Nam thời kỳ nhà Lý đã khẳng định được vai trò của một tôn gáo dân tộc với giáo lý, các thiền phái riêng, hướng phát triển gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng quá trình xây dựng, phát triển nước Đại Việt.
Trúc Phương
Chú thích:
1. Theo tác giả Hoàng Thị Thơ trong bài “Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy người Việt”: Thảo Đường là thiền phái thứ ba của Việt Nam, ra đời trong thời Lý Thánh Tông, do sư Thảo Đường sáng lập và truyền đạo cho vua Lý Thánh Tông (thế hệ thứ nhất), vua Lý Anh Tông (thế hệ thứ năm). Dòng thiền này chủ yếu phát triển trong Hoàng gia và giới quý tộc có thế lực thời đó. Do vậy, nó đã có sự tác động trực tiếp đến tư duy của họ trong đường lối trị nước.
2&3&5. Theo sách Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007, tập 1, Tr 140-141.
4. Th.S. Lê Thị Cúc, Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự phát triển văn minh Đại Việt, phatgiao.org.vn, 30/06/2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Thị Thơ, Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy người Việt, 08/09/2011.
2. Mai Thục, Vua Lý Thánh Tông và Thiền phái Thảo Đường, vanhoaphatgiaovietnam.net, 31/10/2016.
3. Ths.Lê Thị Cúc, Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự phát triển văn minh Đại Việt, phatgiao.org.vn, 30/06/2018.
4. Nguyễn Công Lý, Góp phần tìm hiểu văn học Phật giáo Việt Nam trước
thời Lý – Trần
, 14/06/2009.
5. Anh Vũ, Văn học thời Lý – mở đầu cho những truyền thống lớn của văn học viết nước ta, 22/06/205.
6. Đỗ Hoàng Anh, Phật giáo ở Việt Nam: Góc nhìn từ tài liệu lưu trữ, Luutruquocgia1.org.vn, 25/04/2019.
7.
8.
9.
.
|
Phật giáo thời Lý
Tác giả
:
Trúc Phương
Phật giáo Việt Nam thời kỳ nhà Lý phát triển trở thành quốc giáo – Một tôn giáo dân tộc với giáo lý, các thiền phái riêng, hướng phát triển gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng quá trình xây dựng, phát triển nước Đại Việt.
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, tiếp thu từ phật giáo của Ấn Độ, phật giáo của Trung Quốc, các tư tưởng của Nho giáo, các lễ thức của Đạo giáo hình thành nên một tôn giáo của dân tộc – Phật giáo Việt Nam. Thời Đinh – Tiền Lê, nước ta thoát khỏi ách đô hộ của phương Bắc bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ, phật giáo có điều kiện để phát triển hơn, nhưng phải đến thời nhà Lý, Phật giáo mới phát triển cao nhất và được xem như quốc giáo của quốc gia Đại Việt.
Thời nhà Lý, Phật giáo có sự tồn tại, phát triển của nhiều thiền phái đã có từ các thời kỳ trước như:
Tỳ Ni Đa Lưu Chi
,
Vô Ngôn Thông
và hình thành thiền phái mới – thiền phái
Thảo Đường (1)
đạt đến độ hưng thịnh và ảnh hướng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống đất nước
:
Về chính trị
: “
Ở thời kỳ này, lực lượng phật giáo rất lớn, càng về sau càng phát triển. Phật giáo đã đông người lại có ruộng đất riêng” (2)
. Sở hữu ruộng đất thời kỳ phong kiến là do nhà nước quản lý, cũng có ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân, do sự phát triển, vai trò lớn của mình, nhà chùa đã sở hữu một phần ruộng đất khá lớn trên cả nước. Hệ thống tổ chức tăng quan phát triển cả về số lượng và quyền lực chính trị. Một số tăng sĩ có đạo cao, học vấn uyên bác được các vua trọng dụng. Có người là được làm thầy dạy của vua, được trọng dụng và phong hiệu Quốc sư như: Sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. Vai trò chủ yếu của các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý đạo Phật, khi cần, còn cố vấn cho vua những vấn đề quản lý, an ninh của đất nước, các đại sư được trọng dụng đồng thời cũng hưởng nhiều phong thưởng, đặc quyền như: “
Trường hợp sư Giác Hải khi chết được vua Lý Nhân Tông miễn thuế cho 30 hộ để hương đèn thờ phụng; sư Mãn Giác khi được phong là Hoài Tín đại sư, giao chức nhập nội đạo tràng Tử y đại sa môn thì được triều đình cấp 50 hộ; Thiền sư Giới Không năm 1135 có công cứu sống hàng ngàn người bị bệnh dịch được vua Lý Thần Tông cấp “10 hộ được miễn tô thuế để thờ phụng”
” (3).
Về văn hóa – giáo dục
: Cùng với Nho giáo, những tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã được truyền dạy trong giới quý tộc, quan chức, nho sĩ và là niềm tin tâm linh xoa dịu đời sống của nhân dân. Chùa chiền được xây dựng nhiều với mục đích không chỉ phổ biến kinh sách đạo Phật mà còn là thiền viện, diễn đàn của tầng lớp Nho sĩ, nhiều nhà sư là thầy dạy học cho các thái tử, là thầy thuốc chữa bệnh cho nhân dân và sáng tác các tác phẩm văn học. Văn hóa – giáo dục thời kỳ này đạt nhiều thành tựu lớn như: mở khoa thi đầu tiên ở Việt Nam để chọn nhân tài (năm 1075), mở trường đại học đầu tiên (Quốc Tử Giám) để đào tạo nhân tài cho nước nhà, nhiều tác phẩm có giá trị lớn như: Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Thiền Uyển Tập Anh…
Bản dập Mộc bản sách “
Đại Việt sử ký toàn thư
” chép: năm Tân Mùi (1031) vua Lý Thái Tông ban chiếu cho xây dựng 950 chùa, quán ở các hương ấp.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm Canh Tuất 1010. Mộc bản sách “
Đại Việt Sử ký toàn thư
“, quyển 2, mặt khắc 2.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Lược dịch Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm Canh Tuất 1010. Mộc bản sách “
Đại Việt Sử ký toàn thư
“, quyển 2, mặt khắc 2.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Về Tôn giáo
: Phật giáo thực sự trở thành quốc giáo. Các vua thời Lý rất sùng đạo, một số vua được tôn là tổ của các phái thiền. Vua Lý Thái Tông là vị Tổ thuộc thế hệ thứ bảy phái Thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai Thiền phái Thảo Đường (4). Đối với người dân lao động, đạo Phật tuy không cao siêu như là Thiền học hay Phật học, mà được đời thường hóa, dân gian hóa và gắn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của nhân dân nên thu hút được đông đảo dân chúng tin theo “
dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền
” (5), phát triển thành tôn giáo truyền thống của dân tộc cho đến nay.
Về điêu khắc – kiến trúc
: Đã có nhiều công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao in sâu triết lý phật giáo. Tiêu biểu nhất cho nền mỹ thuật Phật giáo thời này là bốn công trình được gọi là An Nam tứ đại khí: tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, đỉnh Phổ Minh, chuông Quy Điền. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nổi tiếng khác như chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột), tháp Sùng Thiện Diên Linh, tháp Chương Sơn….
Chùa Một Cột năm 1939.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản, SLT 34 -493.
Phật giáo phát triển cực thịnh ở thời kỳ nhà Lý do nhiều nguyên nhân có thể do được sự ủng hộ từ phía chính quyền, bản thân vua Lý Thái Tổ thuở nhỏ từng là con nuôi của sư Lý Khánh Vân, đệ tử thụ giáo của sư Vạn Hạnh, lên ngôi vua nhờ được thế lực Phật giáo của sư Vạn Hạnh và các triều thần ủng hộ, nhiều vua sau này là tổ của các phái thiền. Các nhà sư được vua và triều đình trọng dụng, phật giáo có ảnh hưởng lớn trong xã hội nhưng giáo lý vẫn chú tâm hướng con người đến cái thiện, các Quốc sư tư vấn giúp vua cai trị đất nước quốc thái, dân an, tham gia và sát cánh với quá trình bảo vệ độc lập đất nước. Giáo lý có sự tiếp thu từ các tôn giáo ngoại lai (Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung quốc) nhưng có sự kết hợp với các tín ngưỡng, phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc tạo một cách hài hòa và gắn liền với đời sống nhân dân.
Bản dập Mộc bản sách “
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên
” chép: việc vua Lý Thái Tổ khi còn nhỏ được
sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Triều Lý – triều đại mở đầu cho nền văn minh Đại Việt đã để lại những dấu ấn đậm nét trên lĩnh vực về chính trị, quân sự trong hơn 200 năm tồn tại của mình. Phật giáo thời nhà Lý được xem là giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất trong các triều đại phong kiến, tạo nên những nền tảng cơ bản về cả giáo lý, kiến trúc, văn hóa, đi sâu vào trong đời sống nhân dân và có ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau của Phật giáo thời nhà Trần, đặc biệt là sự ra đời của Thiền phái Trúc lâm Yên Tử. Với những thành tựu để lại, có thể nói, Phật giáo Việt Nam thời kỳ nhà Lý đã khẳng định được vai trò của một tôn gáo dân tộc với giáo lý, các thiền phái riêng, hướng phát triển gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng quá trình xây dựng, phát triển nước Đại Việt.
Trúc Phương
Chú thích:
1. Theo tác giả Hoàng Thị Thơ trong bài “Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy người Việt”: Thảo Đường là thiền phái thứ ba của Việt Nam, ra đời trong thời Lý Thánh Tông, do sư Thảo Đường sáng lập và truyền đạo cho vua Lý Thánh Tông (thế hệ thứ nhất), vua Lý Anh Tông (thế hệ thứ năm). Dòng thiền này chủ yếu phát triển trong Hoàng gia và giới quý tộc có thế lực thời đó. Do vậy, nó đã có sự tác động trực tiếp đến tư duy của họ trong đường lối trị nước.
2&3&5. Theo sách Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007, tập 1, Tr 140-141.
4. Th.S. Lê Thị Cúc, Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự phát triển văn minh Đại Việt, phatgiao.org.vn, 30/06/2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Thị Thơ, Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy người Việt, 08/09/2011.
2. Mai Thục, Vua Lý Thánh Tông và Thiền phái Thảo Đường, vanhoaphatgiaovietnam.net, 31/10/2016.
3. Ths.Lê Thị Cúc, Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự phát triển văn minh Đại Việt, phatgiao.org.vn, 30/06/2018.
4. Nguyễn Công Lý, Góp phần tìm hiểu văn học Phật giáo Việt Nam trước
thời Lý – Trần
, 14/06/2009.
5. Anh Vũ, Văn học thời Lý – mở đầu cho những truyền thống lớn của văn học viết nước ta, 22/06/205.
6. Đỗ Hoàng Anh, Phật giáo ở Việt Nam: Góc nhìn từ tài liệu lưu trữ, Luutruquocgia1.org.vn, 25/04/2019.
7.
8.
9.
.
|
Hình tượng khỉ trong nền điêu khắc Champa
và khỉ thần Hanuman của sử thi Ramayana
Trong nghệ thuật Champa, hình tượng khỉ được gợi ý từ sử thi Ramayana, một thiên tình sử của Ấn Độ giáo thu hút mọi tầng lớp nhân dân qua nhiều thế kỷ. Nội dung chính của Ramayana là ca ngợi đức hiếu hạnh và lòng can đảm của công chúa Sita cũng như lòng quả cảm, sức mạnh và tài năng của hoàng tử Rama. Đặc biệt trong sử thi này nổi bật hình tượng khỉ thần Hanuman là người đã bảo vệ mối tình đầy sóng gió của Sita và Rama.
Sử thi Ramayana được truyền tụng khắp vùng Nam Á và Đông Nam Á. Nhiều học giả cho rằng hình tượng Tôn Ngộ Không của Ngô Thừa Ân dựng lên trong bộ Tề Thiên Đại Thánh chính là một sao chép của hình tượng Hanuman nhưng theo tinh thần và thẩm mỹ truyền thống Trung Hoa.
Khỉ thần Hanuman và công chúa Sita của sử thi Ramayana
Theo truyền thuyết, sử thi Ramayana được viết bởi đạo sư Valmiki vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Trải qua nhiều thế hệ kế thừa và phát triển, Ramayana đã có rất nhiều biến thể, cốt chuyện sau đây là nội dung cơ bản của sử thi này: công chúa Sita nổi tiếng với sắc đẹp thùy mị, đức tính thông minh, nhân hậu và can đảm. Nàng là con gái của nữ thần Đất Bhumi và là con nuôi của đức vua nhân từ Janaka cai quản kinh thành Mithila. Khi Sita đến tuổi cập kê, đức vua Janaka tổ chức lễ cầu hôn cho nàng; ngài tuyên bố vị hoàng tử nào nâng và kéo được cây cung thần Pinaka của thần Siva sẽ cưới được công chúa Sita. Trong số các hoàng tử tham dự lễ cầu hôn, hoàng tử Rama của kinh thành Ayodhya là người dũng mãnh nhất. Chàng chẳng những đã nâng được cây cung thần Pinaka mà còn kéo gãy nó làm đôi trước sự kinh ngạc của đức vua Janaka và quần thần. Vua Janaka vui mững vì đã chọn được người chồng xứng đáng với vẻ đẹp và đức hạnh của Sita. Lễ cưới được tổ chức trọng thể tại kinh thành Mithila giữa Sita với Rama và ba người em gái họ của Sita với ba người em trai của Rama.
Nhưng niềm vui của đôi tân hôn chưa được bao lâu thì Rama và Sita cùng với người em trai trung thành là Laksmana bị lưu đày. Trong khi lưu đày, nhân lúc Rama đi vắng, Sita bị một con nai vàng mê hoặc chạy lạc vào rừng sâu. Con nai vàng này là hóa thân của Quỷ vương Ravana – mười đầu. Vì vậy, Sita đã bị Ravana bắt cóc đem giam ở vườn Ashoka trên đảo Sri Lanka. Sau đó, Rama và Laksmana được Tướng khỉ Hanuman trợ lực đã đánh thắng Ravana, cứu được Sita về lại kinh thành Ayodhya nơi Rama được phong làm quốc vương và Sita được phong làm hoàng hậu.
Nhưng giông tố lại nổi lên khi Rama nghi ngờ sự trinh bạch của Sita trong khi bị bắt cóc và giam cầm bởi Ravana tại đảo Sri Lanka. Để chứng minh sự trinh bạch của mình, Sita đã nhảy vào lửa. Ngọn lửa thiêng của thần lửa Agni đã chứng minh sự trinh bạch và lòng chung thủy của Sita khi chính thần Agni hiện ra trao Sita tận tay Rama; và ngài tuyên bố rằng, công chúa Sita bị Ravana bắt cóc chỉ là một Sita – ảo tướng. Lòng nghi ngờ đã tan biến nên từ đó đôi lứa chung sống tràn đầy hạnh phúc và cai quản vương quốc Ayodhya ngày càng thịnh vượng.
Trong Ramayana, hình tượng khỉ Hanuman nổi bật với đức tính thông minh, đảm lược và trung thành. Hanuman là con trai thần Gió Vayu và mẹ là Anjana, một thiên nữ
apsara
, cho nên Hanuman còn được gọi là Pavan-suta (con trai của gió). Vì thế, mặc nhiên Hanumansở hữu được támphép thần thông, đó là: (1)
Anima
: khả năng thu nhỏ kích thước của vạn vật; (2)
Mahima
:khả năng tăng kích cỡ vạn vật; (3)
Lagima
: khả năng biến vạn vật trở nên không trọng lượng; (4)
Garima
:khả năng tăng trọng lượng của vạn vật; (5)
Brapti
:khả năng đi đến bất cứ nơi nào và có được bất cứ điều gì; (6)
Parakamya
: khả năng điều khiển ý chí mà vật khác không thể cưỡng lại; (7)
Vastiva
: khả năng làm chủ vạn vật; (8)
Istiva
:khả năng biến hình thành một vị thần với sức mạnh sáng tạo và hủy diệt.
1
Với những khả năng phi thường đó, khỉ Hanuman đóng vai trò quyết định trong chiến thắng của Rama đánh bại Quỷ vương Ravana; là người tham gia bảo vệ mối tình của Rama và Sita. Vì thế, hình tượng khỉ Hanuman đã nổi bật trong Ramayana cùng với Rama và Sita trở thành ba nhân vật chính của bộ sử thi này.
Một trong những chương hấp dẫn nhất trong Ramayana là cảnh Hanuman chỉ huy đoàn quân khỉ xây một cây cầu bằng đá nối liền đại lục Ấn Độ với đảo Lanka (Sri Lanka) để đánh bại Ravana, cứu được Sita về cho Rama.
Hình tượng khỉ trong nghệ thuật điêu khắc Champa
Trong nghệ thuật điêu khắc Champa, chủ đề “Lễ cưới công chúa Sita và hoàng tử Rama” đã được thể hiện trên một đài thờ phát hiện tại Trà Kiệu hay Kinh thành Sử tử (Simhapura) vào nửa sau thế kỷ thứ VII (657 – 687). Bằng một thủ pháp tạo hình sinh động và tài hoa, các nghệ sĩ Champa đương thời đã thể hiện bốn cảnh của đài thờ này với sự miêu tả 61 nhân vật xuất hiện trong các phân cảnh của một đám cưới hoàng gia. Tất cả những nhân vật này đều được trang điểm bằng đồ trang sức và y phục lộng lẫy và sống động trong từng tư thế và cử điệu riêng biệt. Trong đó, nổi bật với cảnh Rama kéo gẫy cây cung thần Pinika trước mặt đức vua Janaka và cưới được Sita. Với vẻ đẹp hiếm có và nội dung độc đáo, đài thờ Trà Kiệu đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia đợt 1 vào năm 2012. (Hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm – Đà Nẵng)
Tuy nhiên, hình tượng khỉ trong Ramayana chỉ được thể hiện sinh động tại nhóm ba tháp Khương Mỹ thuộc xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Qua các cuộc khai quật tại đây vào năm 2001 và 2007, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một hệ thống đế – tháp (foundation – base) bằng sa thạch chạm trổ các chủ đề thuộc Ramayana thiên về các cảnh ‘Con nai vàng quyến rũ Sita’, ‘Sita bị bắt cóc và bị lưu đày trên đảo Lanka’; đoàn quân khỉ của Hanuman tổ chức xây cầu đá bắc qua đảo Lanka để đánh bại Ravana – mười đầu và cứu được Sita.
Cảnh Công chúa Sita chống đối Quỷ vương Ravana-mười đầu tại vườn Ashoka. Di tích Khương Mỹ, thế kỷ XI – XII. (Bảo tàng Quảng Nam). Ảnh: Nguyễn Hồng Kiên.
Riêng cảnh Sita chống đối Ravana tại vườn Ashoka (nằm trong quyển thứ năm tựa đề Sundarakanda của bộ sử thi), thể hiện tại nhóm tháp Khương Mỹ, đã được các nhà lịch sử nghệ thuật chuyên nghiên cứu về Ramayana cho rằng đây là tác phẩm điêu khắc duy nhất thể hiện chủ đề này trong toàn bộ các nền nghệ thuật tạo hình ở Đông Nam Á cũng như Nam Á. Những bức chạm này đã chỉ ra mối quan hệ nghệ thuật sâu sắc giữa nghệ thuật Champa với nghệ thuật Java ở Indonesia, và, đặc biệt với nghệ thuật Chola ở Nam Ấn.
2
Niên đại của các bức chạm Khương Mỹ được xác định vào khoảng thế kỷ X – XII, chúng được chế tác trong những lần trùng tu nhóm đền – tháp này bởi các vương triều Champa.
Hình tượng khỉ trên các phù điêu đế – tháp của Khương Mỹ được diễn tả bằng một thủ pháp linh hoạt, hài hước, đầy kịch tính; sinh động và tinh nghịch trong các kiểu dáng đa đạng. Đó là các chú khỉ vác đá trĩu nặng trên vai, sử dụng các loại nhạc khí như trống, xập xỏa, kèn… động viên nhau trong công việc nặng nề và khẩn cấp để xây cho được cây cầu đá bắc ngang qua eo biển. Đặc biệt, tác giả của các bức chạm này đã nhấn mạnh đến tính hài hước của chủ đề khi tinh nghịch thể hiện hình tượng các chú khỉ bị rùa cắn vào dương vật trong lúc vượt biển xây cầu đến Lanka.
Đoàn quân khỉ của Hanuman khiêng đá xây cầu qua đảo Lanka. Di tích Khương Mỹ, sa thạch, thế kỷ XI – XII. Ảnh: Phương Anh.
Hình tượng khỉ Hanuman có trái tim nóng bỏng nhiệt tình, khát vọng chiến thắng cái ác, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân đã song hành cùng với câu chuyện tình bi tráng của Sita và Rama thu hút hàng triệu trái tim qua bao thế hệ. Vì thế, những nhân vật trong Ramayana đã được các nghệ sĩ khắc họa sinh động trong từng chi tiết trên những đền đài lộng lẫy của Ấn Độ giáo được xây dựng qua nhiều thế kỷ từ Nam Á cho đến Đông Nam Á.
Trong đó, những bức phù điêu hoàn chỉnh của nhóm tháp Khương Mỹ đã góp một tiếng nói riêng vào nền điêu khắc Hindu của Châu Á bằng việc chọn những chủ đề sáng tạo độc đáo và bằng một thủ pháp điêu khắc ấn tượng đã thể hiện hình tượng Hanuman và đoàn quân khỉ sống động trong ngôn ngữ tạo hình đầy cá tính của nghệ thuật Champa.
3
Người viết: Trần Kỳ Phương
[1] Đây là một khả năng quen thuộc mà chúng ta có thể nhận biết qua hình tượng Tôn Ngộ Không trong Tề Thiên ĐạiThánh của Ngô Thừa Ân; điều này cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của Ramayana đến tác phẩm này.
[2] Cecialia Levin, “Recasting the Sacred Heroes: A New Discovery of Sculptural Epic Narration from Ancient Champa”, trong
Interpreting Southeast Asia’s Past: Monument, Image and Text,
(E. Bacus, I. Glover &P. Sharrock, biên tập), tr. 85-99, NUS Press, Singapore 2008.
[3] Một phần các bức chạm ở đế – tháp của nhóm Khương Mỹ hiện vẫn được bảo quản và trưng bày tại chỗ.
* Bài đã đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội TP. Đà Nẵng, số 73 năm 2016
|
Hình tượng khỉ trong nền điêu khắc Champa
và khỉ thần Hanuman của sử thi Ramayana
Trong nghệ thuật Champa, hình tượng khỉ được gợi ý từ sử thi Ramayana, một thiên tình sử của Ấn Độ giáo thu hút mọi tầng lớp nhân dân qua nhiều thế kỷ. Nội dung chính của Ramayana là ca ngợi đức hiếu hạnh và lòng can đảm của công chúa Sita cũng như lòng quả cảm, sức mạnh và tài năng của hoàng tử Rama. Đặc biệt trong sử thi này nổi bật hình tượng khỉ thần Hanuman là người đã bảo vệ mối tình đầy sóng gió của Sita và Rama.
Sử thi Ramayana được truyền tụng khắp vùng Nam Á và Đông Nam Á. Nhiều học giả cho rằng hình tượng Tôn Ngộ Không của Ngô Thừa Ân dựng lên trong bộ Tề Thiên Đại Thánh chính là một sao chép của hình tượng Hanuman nhưng theo tinh thần và thẩm mỹ truyền thống Trung Hoa.
Khỉ thần Hanuman và công chúa Sita của sử thi Ramayana
Theo truyền thuyết, sử thi Ramayana được viết bởi đạo sư Valmiki vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Trải qua nhiều thế hệ kế thừa và phát triển, Ramayana đã có rất nhiều biến thể, cốt chuyện sau đây là nội dung cơ bản của sử thi này: công chúa Sita nổi tiếng với sắc đẹp thùy mị, đức tính thông minh, nhân hậu và can đảm. Nàng là con gái của nữ thần Đất Bhumi và là con nuôi của đức vua nhân từ Janaka cai quản kinh thành Mithila. Khi Sita đến tuổi cập kê, đức vua Janaka tổ chức lễ cầu hôn cho nàng; ngài tuyên bố vị hoàng tử nào nâng và kéo được cây cung thần Pinaka của thần Siva sẽ cưới được công chúa Sita. Trong số các hoàng tử tham dự lễ cầu hôn, hoàng tử Rama của kinh thành Ayodhya là người dũng mãnh nhất. Chàng chẳng những đã nâng được cây cung thần Pinaka mà còn kéo gãy nó làm đôi trước sự kinh ngạc của đức vua Janaka và quần thần. Vua Janaka vui mững vì đã chọn được người chồng xứng đáng với vẻ đẹp và đức hạnh của Sita. Lễ cưới được tổ chức trọng thể tại kinh thành Mithila giữa Sita với Rama và ba người em gái họ của Sita với ba người em trai của Rama.
Nhưng niềm vui của đôi tân hôn chưa được bao lâu thì Rama và Sita cùng với người em trai trung thành là Laksmana bị lưu đày. Trong khi lưu đày, nhân lúc Rama đi vắng, Sita bị một con nai vàng mê hoặc chạy lạc vào rừng sâu. Con nai vàng này là hóa thân của Quỷ vương Ravana – mười đầu. Vì vậy, Sita đã bị Ravana bắt cóc đem giam ở vườn Ashoka trên đảo Sri Lanka. Sau đó, Rama và Laksmana được Tướng khỉ Hanuman trợ lực đã đánh thắng Ravana, cứu được Sita về lại kinh thành Ayodhya nơi Rama được phong làm quốc vương và Sita được phong làm hoàng hậu.
Nhưng giông tố lại nổi lên khi Rama nghi ngờ sự trinh bạch của Sita trong khi bị bắt cóc và giam cầm bởi Ravana tại đảo Sri Lanka. Để chứng minh sự trinh bạch của mình, Sita đã nhảy vào lửa. Ngọn lửa thiêng của thần lửa Agni đã chứng minh sự trinh bạch và lòng chung thủy của Sita khi chính thần Agni hiện ra trao Sita tận tay Rama; và ngài tuyên bố rằng, công chúa Sita bị Ravana bắt cóc chỉ là một Sita – ảo tướng. Lòng nghi ngờ đã tan biến nên từ đó đôi lứa chung sống tràn đầy hạnh phúc và cai quản vương quốc Ayodhya ngày càng thịnh vượng.
Trong Ramayana, hình tượng khỉ Hanuman nổi bật với đức tính thông minh, đảm lược và trung thành. Hanuman là con trai thần Gió Vayu và mẹ là Anjana, một thiên nữ
apsara
, cho nên Hanuman còn được gọi là Pavan-suta (con trai của gió). Vì thế, mặc nhiên Hanumansở hữu được támphép thần thông, đó là: (1)
Anima
: khả năng thu nhỏ kích thước của vạn vật; (2)
Mahima
:khả năng tăng kích cỡ vạn vật; (3)
Lagima
: khả năng biến vạn vật trở nên không trọng lượng; (4)
Garima
:khả năng tăng trọng lượng của vạn vật; (5)
Brapti
:khả năng đi đến bất cứ nơi nào và có được bất cứ điều gì; (6)
Parakamya
: khả năng điều khiển ý chí mà vật khác không thể cưỡng lại; (7)
Vastiva
: khả năng làm chủ vạn vật; (8)
Istiva
:khả năng biến hình thành một vị thần với sức mạnh sáng tạo và hủy diệt.
1
Với những khả năng phi thường đó, khỉ Hanuman đóng vai trò quyết định trong chiến thắng của Rama đánh bại Quỷ vương Ravana; là người tham gia bảo vệ mối tình của Rama và Sita. Vì thế, hình tượng khỉ Hanuman đã nổi bật trong Ramayana cùng với Rama và Sita trở thành ba nhân vật chính của bộ sử thi này.
Một trong những chương hấp dẫn nhất trong Ramayana là cảnh Hanuman chỉ huy đoàn quân khỉ xây một cây cầu bằng đá nối liền đại lục Ấn Độ với đảo Lanka (Sri Lanka) để đánh bại Ravana, cứu được Sita về cho Rama.
Hình tượng khỉ trong nghệ thuật điêu khắc Champa
Trong nghệ thuật điêu khắc Champa, chủ đề “Lễ cưới công chúa Sita và hoàng tử Rama” đã được thể hiện trên một đài thờ phát hiện tại Trà Kiệu hay Kinh thành Sử tử (Simhapura) vào nửa sau thế kỷ thứ VII (657 – 687). Bằng một thủ pháp tạo hình sinh động và tài hoa, các nghệ sĩ Champa đương thời đã thể hiện bốn cảnh của đài thờ này với sự miêu tả 61 nhân vật xuất hiện trong các phân cảnh của một đám cưới hoàng gia. Tất cả những nhân vật này đều được trang điểm bằng đồ trang sức và y phục lộng lẫy và sống động trong từng tư thế và cử điệu riêng biệt. Trong đó, nổi bật với cảnh Rama kéo gẫy cây cung thần Pinika trước mặt đức vua Janaka và cưới được Sita. Với vẻ đẹp hiếm có và nội dung độc đáo, đài thờ Trà Kiệu đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia đợt 1 vào năm 2012. (Hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm – Đà Nẵng)
Tuy nhiên, hình tượng khỉ trong Ramayana chỉ được thể hiện sinh động tại nhóm ba tháp Khương Mỹ thuộc xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Qua các cuộc khai quật tại đây vào năm 2001 và 2007, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một hệ thống đế – tháp (foundation – base) bằng sa thạch chạm trổ các chủ đề thuộc Ramayana thiên về các cảnh ‘Con nai vàng quyến rũ Sita’, ‘Sita bị bắt cóc và bị lưu đày trên đảo Lanka’; đoàn quân khỉ của Hanuman tổ chức xây cầu đá bắc qua đảo Lanka để đánh bại Ravana – mười đầu và cứu được Sita.
Cảnh Công chúa Sita chống đối Quỷ vương Ravana-mười đầu tại vườn Ashoka. Di tích Khương Mỹ, thế kỷ XI – XII. (Bảo tàng Quảng Nam). Ảnh: Nguyễn Hồng Kiên.
Riêng cảnh Sita chống đối Ravana tại vườn Ashoka (nằm trong quyển thứ năm tựa đề Sundarakanda của bộ sử thi), thể hiện tại nhóm tháp Khương Mỹ, đã được các nhà lịch sử nghệ thuật chuyên nghiên cứu về Ramayana cho rằng đây là tác phẩm điêu khắc duy nhất thể hiện chủ đề này trong toàn bộ các nền nghệ thuật tạo hình ở Đông Nam Á cũng như Nam Á. Những bức chạm này đã chỉ ra mối quan hệ nghệ thuật sâu sắc giữa nghệ thuật Champa với nghệ thuật Java ở Indonesia, và, đặc biệt với nghệ thuật Chola ở Nam Ấn.
2
Niên đại của các bức chạm Khương Mỹ được xác định vào khoảng thế kỷ X – XII, chúng được chế tác trong những lần trùng tu nhóm đền – tháp này bởi các vương triều Champa.
Hình tượng khỉ trên các phù điêu đế – tháp của Khương Mỹ được diễn tả bằng một thủ pháp linh hoạt, hài hước, đầy kịch tính; sinh động và tinh nghịch trong các kiểu dáng đa đạng. Đó là các chú khỉ vác đá trĩu nặng trên vai, sử dụng các loại nhạc khí như trống, xập xỏa, kèn… động viên nhau trong công việc nặng nề và khẩn cấp để xây cho được cây cầu đá bắc ngang qua eo biển. Đặc biệt, tác giả của các bức chạm này đã nhấn mạnh đến tính hài hước của chủ đề khi tinh nghịch thể hiện hình tượng các chú khỉ bị rùa cắn vào dương vật trong lúc vượt biển xây cầu đến Lanka.
Đoàn quân khỉ của Hanuman khiêng đá xây cầu qua đảo Lanka. Di tích Khương Mỹ, sa thạch, thế kỷ XI – XII. Ảnh: Phương Anh.
Hình tượng khỉ Hanuman có trái tim nóng bỏng nhiệt tình, khát vọng chiến thắng cái ác, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân đã song hành cùng với câu chuyện tình bi tráng của Sita và Rama thu hút hàng triệu trái tim qua bao thế hệ. Vì thế, những nhân vật trong Ramayana đã được các nghệ sĩ khắc họa sinh động trong từng chi tiết trên những đền đài lộng lẫy của Ấn Độ giáo được xây dựng qua nhiều thế kỷ từ Nam Á cho đến Đông Nam Á.
Trong đó, những bức phù điêu hoàn chỉnh của nhóm tháp Khương Mỹ đã góp một tiếng nói riêng vào nền điêu khắc Hindu của Châu Á bằng việc chọn những chủ đề sáng tạo độc đáo và bằng một thủ pháp điêu khắc ấn tượng đã thể hiện hình tượng Hanuman và đoàn quân khỉ sống động trong ngôn ngữ tạo hình đầy cá tính của nghệ thuật Champa.
3
Người viết: Trần Kỳ Phương
[1] Đây là một khả năng quen thuộc mà chúng ta có thể nhận biết qua hình tượng Tôn Ngộ Không trong Tề Thiên ĐạiThánh của Ngô Thừa Ân; điều này cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của Ramayana đến tác phẩm này.
[2] Cecialia Levin, “Recasting the Sacred Heroes: A New Discovery of Sculptural Epic Narration from Ancient Champa”, trong
Interpreting Southeast Asia’s Past: Monument, Image and Text,
(E. Bacus, I. Glover &P. Sharrock, biên tập), tr. 85-99, NUS Press, Singapore 2008.
[3] Một phần các bức chạm ở đế – tháp của nhóm Khương Mỹ hiện vẫn được bảo quản và trưng bày tại chỗ.
* Bài đã đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội TP. Đà Nẵng, số 73 năm 2016
|
Giới thiệu khái quát huyện An Minh
Huyện An Minh được thành lập ngày 13 tháng 01 năm 1986, theo Quyết định số 07/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) trên cơ sở tách ra từ huyện
An Biên
. Là huyện thuộc vùng U Minh Thượng, nằm cách xa trung tâm của tỉnh; có diện tích tự nhiên là 59.055 ha. Dân số toàn huyện là 130.664 người, mật độ dân số 221 người/km2, có 03 dân tộc chính là: Kinh, Hoa và Khmer,… Trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số. Dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 78.011 người.
Vị trí địa lý:
– Phía Nam giáp
huyện U Minh
, huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau.
– Phía Bắc giáp huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
– Phía Đông giáp huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
– Phía Tây giáp với vịnh Thái Lan.
Huyện có 11 xã, thị trấn, gồm các xã: Đông Hưng, Đông Hưng A, Đông Hưng B, Vân Khánh, Vân Khánh Đông, Vân Khánh Tây, Tân Thạnh, Thuận Hòa, Đông Hòa, Đông Thạnh và thị trấn Thứ 11; trong đó có 06 xã bãi ngang ven biển là: Đông Hưng A, Vân Khánh, Vân Khánh Đông, Vân Khánh Tây, Tân Thạnh và Thuận Hòa. Toàn huyện có 74 ấp và 04 khu phố với 854 tổ nhân dân tự quản. Trung tâm hành chính của huyện đặt tại Khu phố 3, thị trấn Thứ 11.
Về kinh tế, huyện chỉ đạo tập trung huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất kinh doanh trên địa bàn; tiếp tục thực hiện tốt Kế hoạch thực hiện Đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh theo hướng nâng cao giá trị và khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện. Hiện tại huyện đang thực hiện việc bố trí lại sản xuất cho phù hợp, hiệu quả hơn trên từng tiểu vùng sản xuất. Tùy vào điều kiện đất đai, đặc điểm thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước, thủy lợi…, xác định có vùng phù hợp để chuyên nuôi trồng các loài thủy sản (v
ùng chuyên nuôi trồng thủy sản –
từ đê Quốc phòng đến kênh Chống Mỹ trên địa bàn 06 xã ven biển với diện tích 7.311 ha); có vùng phù hợp với nuôi sò huyết, hến, nghêu, lụa, vẹm xanh kết hợp với khai thác hiệu quả các loại giống thủy sản ven bờ, nhất là sò huyết giống (
Vùng mặt nước bãi bồi ven biển
với chiều dài 37 km); có vùng lại có thế mạnh để nuôi sò huyết xen canh với nuôi tôm, cua, ba khía, ghẹ bông, cá các loại (
Khu vực rừng phòng hộ
– Diện tích 2.560 ha); bên cạnh đó, huyện duy trì vận động nhân dân gieo cấy lúa lấp lại vụ lúa trên nền đất nuôi tôm theo mô hình tôm – lúa, kết hợp nuôi tôm càng xanh hoặc cua biển,… chọn các giống lúa chất lượng, bao tiêu sản phẩm, với diện tích gần 40.000 ha (
Vùng tôm – lúa
, từ kênh Chống Mỹ đến kênh xáng Xẻo Rô và từ kênh xáng Xẻo Rô đến kênh KT5).
Trong giai đoạn 2016-2020, huyện đẩy mạnh kêu gọi đầu tư phát triển Cụm công nghiệp Thạnh Phú (xã Đông Thạnh) cụ thể gồm các ngành nghề như: Chế biến thủy sản, nước đá và cơ khí…; đồng thời tranh thủ với tỉnh hỗ trợ phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có thế mạnh trên địa bàn như cơ khí, gỗ, mộc… Đồng thời, chủ động phối hợp với các sở, ngành có liên quan sớm triển khai Dự án Đường KT1 với tổng chiều dài trên 25km (theo quy hoạch đường huyện) kết nối với huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau và huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang tạo điều kiện thuận lợi trong giao thương hàng hóa. Tiếp tục kêu gọi đầu tư vào các chợ như: Chợ Mười Quang (xã Đông Thạnh); Chợ Kim Quy (xã Vân Khánh); đồng thời; hỗ trợ Nhà đầu tư sớm hoàn thành Dự án Khu dân cư và Thương mại Trường Phát; Dự án Khu Dân cư – Khu hành chính tập trung huyện An Minh gắn với phát triển thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của huyện. Ngoài ra, địa bàn huyện còn có tiềm năng để phát triển một số loại hình du lịch như: Du lịch sinh thái; du lịch kết hợp với nghiên cứu khoa học, tìm hiểu văn hóa lịch sử vùng sông nước Miệt Thứ, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến….
Bên cạnh phát triển kinh tế, huyện thường xuyên quan tâm thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cho các gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo và cận nghèo (hiện toàn huyện có 2.573 hộ nghèo, tỷ lệ 8,21%; có 1.557 hộ cận nghèo, tỷ lệ 4,97%). Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, tuyên truyền chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng. Tiếp tục đầu tư, sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục, tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi đến trường luôn đạt kế hoạch đề ra. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được quan tâm, các dịch bệnh nguy hiểm được kiểm soát chặt chẽ. Tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 91,64% dân số. Quốc phòng an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định, tai nạn giao thông được kiềm chế, kéo giảm. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh được tăng cường; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giải quyết kịp thời các vấn đề mới phát sinh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trên địa bàn./.
|
General introduction to An Minh district
An Minh district was established on January 13, 1986, according to Decision Không. 07/HDBT of the Council of Ministers (now the Government) on the basis of separation from the district.
An Bien
. It is a district in the U Minh Thuong region, far from the center of the province; has a natural area of 59,055 hectares. The district's population is 130,664 people, population density is 221 people/km2, there are 3 main ethnic groups: Kinh, Chinese and Khmer,... Of which, the Kinh people make up the majority. The working age population is about 78,011 people.
Geographical location:
– Bordered to the South
U Minh district
, Thoi Binh district, Ca Mau province.
– The North borders An Bien district, Kien Giang province.
– The East borders U Minh Thuong district, Kien Giang province.
– The West borders the Gulf of Thailand.
The district has 11 communes and towns, including communes: Dong Hung, Dong Hung A, Dong Hung B, Van Khanh, Van Khanh Dong, Van Khanh Tay, Tan Thanh, Thuan Hoa, Dong Hoa, Dong Thanh and Thu 11 town. ; including 06 coastal communes: Dong Hung A, Van Khanh, Van Khanh Dong, Van Khanh Tay, Tan Thanh and Thuan Hoa. The whole district has 74 hamlets and 04 neighborhoods with 854 self-governing people's groups. The district's administrative center is located in Quarter 3, Thu 11 Town.
Regarding the economy, the district directed to focus on mobilizing investment resources to build infrastructure, production and business in the area; Continue to well implement the Plan to implement the Project to restructure the agricultural sector, promote the development of production and business in the direction of enhancing value and effectively exploiting the potential and strengths of the district. Currently, the district is rearranging production to make it more appropriate and effective in each production sub-region. Depending on land conditions, soil characteristics, climate, water sources, irrigation..., determine whether there are suitable areas to specialize in aquaculture (v.
specializing in aquaculture –
from the National Defense dyke to the Chong My canal in 06 coastal communes with an area of 7,311 hectares); There are areas suitable for raising blood cockles, mussels, clams, silk, and green mussels combined with effective exploitation of coastal aquatic species, especially blood cockles (
Coastal alluvial water surface area
with a length of 37 km); Some areas have the strength to grow cockles intercropped with shrimp, crab, crab, cotton crab, and all kinds of fish (
Protection forest area
– Area 2,560 hectares); In addition, the district continues to mobilize people to cultivate rice to cover the rice crop on land for shrimp farming according to the shrimp-rice model, combined with raising giant freshwater shrimp or mud crabs,... choosing quality rice varieties and underwriting. products, with an area of nearly 40,000 hectares (
Shrimp - rice area
, from Anti My canal to Xeo Ro canal and from Xeo Ro canal to KT5 canal).
In the period 2016-2020, the district promoted calling for investment in developing Thanh Phu Industrial Cluster (Dong Thanh commune), specifically including industries such as: Seafood processing, ice and mechanical engineering...; At the same time, take advantage of the province to support the development of strong handicraft industries in the area such as mechanics, wood, carpentry... At the same time, proactively coordinate with relevant departments and branches to soon deploy the Project. KT1 Road project with a total length of over 25km (according to district road planning) connecting with Thoi Binh district, Ca Mau province and An Bien district, Kien Giang province, creating favorable conditions for goods trade. Continue to call for investment in markets such as: Muoi Quang Market (Dong Thanh commune); Kim Quy Market (Van Khanh commune); simultaneously; Support investors to soon complete Truong Phat Residential and Commercial Area Project; The Residential Area - Centralized Administrative Area project of An Minh district is associated with trade and service development, contributing to promoting the district's socio-economic development. In addition, the district also has potential to develop some types of tourism such as: Ecotourism; Tourism combined with scientific research, learning about culture and history of Miet Thu river region, revolutionary base, resistance war...
In addition to economic development, the district regularly pays attention to implementing social security policies well, taking care of policy families, people with meritorious services, poor and near-poor households (currently the entire district has 2,573 poor households, rate of 8.21%; there are 1,557 near-poor households, rate of 4.97%). Well organize cultural, artistic, physical training, sports activities, propaganda to celebrate major holidays and important political events. Continuing to invest and repair facilities to serve educational work, the rate of mobilization of school-age children always meets the set plan. Primary health care for the people is paid attention to, dangerous epidemics are strictly controlled. The health insurance coverage rate reached 91.64% of the population. Defence and security is maintained; Social order and safety are basically stable, traffic accidents are controlled and reduced. The work of Party building and building a strong and clean political system has been strengthened; contributing to improving the effectiveness and efficiency of state management, promptly resolving newly arising problems; Promote reform of administrative procedures, create favorable conditions to attract investment and development, and gradually improve the material and spiritual life of people in the area./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Thuận
Vĩnh Thuận là huyện đất liền nằm ở phía đông nam tỉnh Kiên Giang (trước đó là tỉnh Rạch Giá). Bắc giáp huyện Gò Quao; Tây giáp
huyện U Minh Thượng
; Đông giáp huyện Hồng Dân của tỉnh Bạc Liêu; Nam giáp huyện Thới Bình của tỉnh Cà Mau. Diện tích 394,8 km². Huyện Vĩnh Thuận gồm 1 thị trấn và 7 xã. Địa hình đồng bằng châu thổ, là vùng đất phèn nhiễm mặn, khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu vào khoảng tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 11. Vùng này ít có hiện tượng bão lụt. Hướng gió chủ yếu là hướng tây nam đông bắc. Kênh Sông Trẹm hay còn gọi là kênh sông Trèm Trẹm, là tuyến giao thông đường thủy quan trọng nối liền các tỉnh trong khu vực với tỉnh Cà Mau, con kênh này do người Pháp khởi tạo, ngoài ra còn có kênh Canh Điền, sông Cái Lớn chảy qua.
* Lịch sử:
Trước năm 1976 – Việt Nam Cộng hòa
Khoảng năm 1960, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho thành lập quận Kiên Long thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở tách đất từ quận Kiên An (trước năm 1957 là quận An Biên) cùng tỉnh. Quận lỵ đặt tại xã Vĩnh Thuận. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, quận Kiên Long được giao về cho tỉnh Chương Thiện mới được thành lập. Năm 1961, quận Kiên Long (không có cấp tổng) gồm 6 xã: Vĩnh An, Vĩnh Bình, Vĩnh Hòa, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận, Vĩnh Tuy.
Ngày 18 tháng 4 năm 1963, sau khi đã giao xã Vĩnh Tuy về cho quận Kiên Hưng (trước năm 1957 là quận Gò Quao), quận Kiên Long còn lại 5 xã: Vĩnh An, Vĩnh Bình, Vĩnh Hòa, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận. Cho đến năm 1975, quận Kiên Long vẫn gồm 5 xã trực thuộc như cũ.
Chính quyền cách mạng:
Năm 1964, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) cho thành lập huyện Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá trên cơ sở tách ra từ huyện An Biên. Huyện Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá có địa giới hành chính trùng với quận Kiên Long thuộc tỉnh Kiên Giang (sau năm 1961 thuộc tỉnh Chương Thiện) của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam của tỉnh Rạch Giá lúc bấy giờ vẫn đặt huyện Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá cho đến đầu năm 1976.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, Vĩnh Thuận là huyện của tỉnh Kiên Giang. Huyện lỵ là thị trấn Vĩnh Thuận, được thành lập do tách đất từ xã Vĩnh Thuận. Huyện Vĩnh Thuận ban đầu gồm thị trấn Vĩnh Thuận và 4 xã: Vĩnh Hoà, Vĩnh Bình, Vĩnh Thuận, Vĩnh Phong. Về sau, tách đất xã Vĩnh Bình, lập thêm xã Vĩnh Bình Nam.
Ngày 10 tháng 10 năm 1981, tách đất xã Vĩnh Hoà lập 2 xã Hoà Chánh, Hoà Tiến; chia xã Vĩnh Bình thành 2 xã Vĩnh Bình Bắc, Mai Thành Tâm; tách đất xã Vĩnh Bình Nam lập 3 xã Bình Thành, Bình Điền, Bình Minh; tách đất xã Vĩnh Thuận lập thêm 3 xã: Thuận Bắc, Thuận Nam, Thuận Tây; tách đất xã Vĩnh Phong lập thêm 2 xã Phong Đông, Phong Tây. Lúc này, huyện gồm thị trấn Vĩnh Thuận và 15 xã là: Vĩnh Phong, Phong Đông, Phong Tây, Vĩnh Thuận, Thuận Bắc, Thuận Nam, Thuận Tây, Vĩnh Bình Nam, Vĩnh Bình Bắc, Bình Thành, Bình Minh, Mai Thành Tâm, Vĩnh Hoà, Hoà Tiến, Hoà Chánh.
Ngày 24 tháng 5 năm 1988, tách 1 ấp của xã Thuận Tây hợp với nửa nông trường Vĩnh Thuận lập xã Minh Thuận Nam; tách 1 ấp của xã Hoà Tiến hợp với nửa còn lại của nông trường Vĩnh Thuận, lập xã Minh Thuận Đông; nhập xã Hoà Chánh vào xã Vĩnh Hoà; nhập xã Mai Thành Tâm vào xã Vĩnh Bình Bắc; tách 1 ấp của xã Bình Điền và toàn bộ xã Bình Thành nhập vào xã Vĩnh Bình Nam; nhập 2 xã Phong Đông, Phong Tây vào xã Vĩnh Phong; nhập 6 ấp còn lại của xã Thuận Tây với xã Thuận Nam thành xã Vĩnh Thuận; tách 3 ấp của xã Vĩnh Thuận cũ hợp với xã Thuận Bắc và 2 ấp của xã Bình Điền thành xã Tân Thuận; nhập 6 ấp còn lại của xã Hoà Tiến, toàn bộ xã Vĩnh Thái, 2 ấp còn lại của xã Bình Điền vào xã Bình Minh; nhập 1 ấp còn lại của xã Vĩnh Thuận cũ vào thị trấn Vĩnh Thuận.
Ngày 31 tháng 5 năm 1991, giải thể xã Tân Thuận, nhập một phần vào xã Vĩnh Thuận, phần còn lại hợp với xã Minh Thuận Đông và Minh Thuận Nam thành xã Minh Thuận; giải thể xã Bình Minh, nhập một phần vào xã Vĩnh Hoà, một phần vào xã Vĩnh Bình Nam, một phần vào xã Vĩnh Bình Bắc. Huyện Vĩnh Thuận lúc này bao gồm thị trấn Vĩnh Thuận và 6 xã: Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận, Minh Thuận, Vĩnh Hoà, Vĩnh Bình Nam, Vĩnh Bình Bắc.
Ngày 18 tháng 3 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 23/1997/NĐ – CP, thành lập xã Tân Thuận trên cơ sở 4.033 ha diện tích tư nhiên và 10.164 nhân khẩu của xã Vĩnh Thuận. Xã Vĩnh Thuận sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có 5.091 ha diện tích tự nhiên và 11.986 nhân khẩu.
Ngày 11 tháng 2 năm 2003, Chính phủ Việt Nam lại ban hành Nghị định 10/2003/NĐ – CP, thành lập xã Hòa Chánh trên cơ sở 4.255,3 ha diện tích tự nhiên và 10.195 nhân khẩu của xã Vĩnh Hoà. Sau khi thành lập xã Hoà Chánh, xã Vĩnh Hoà còn lại 3.027,7 ha diện tích tự nhiên và 9.286 nhân khẩu. Cuối năm 2004, huyện Vĩnh Thuận có 9 đơn vị hành chánh, bao gồm thị trấn Vĩnh Thuận và 8 xã: Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận, Minh Thuận, Vĩnh Hoà, Vĩnh Bình Nam, Vĩnh Bình Bắc, Tân Thuận, Hoà Chánh.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 58/2007/NĐ – CP, tách các xã Minh Thuận, Vĩnh Hoà, Hoà Chánh của huyện Vĩnh Thuận hợp với các xã của huyện An Biên và huyện An Minh thành lập huyện U Minh Thượng; thành lập xã Phong Đông thuộc huyện Vĩnh Thuận trên cơ sở điều chỉnh 2.557 ha diện tích tự nhiên và 5.949 nhân khẩu của xã Vĩnh Phong. Sau khi điều chỉnh, huyện Vĩnh Thuận có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Vĩnh Thuận, Vĩnh Bình Bắc, Tân Thuận, Vĩnh Phong, Phong Đông, Vĩnh Bình Nam và thị trấn Vĩnh Thuận.
Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết 29/NQ – CP, thành lập xã Bình Minh trên cơ sở điều chỉnh 3.095,54 ha diện tích tự nhiên và 6.400 nhân khẩu của xã Vĩnh Bình Nam.
* Hành chính
Huyện Vĩnh Thuận được chia làm 8 đơn vị hành chính gồm 1 thị trấn Vĩnh Thuận và 7 xã: Bình Minh, Phong Đông, Tân Thuận, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Bình Nam, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận.
* Giao thông
Quốc lộ 63,lộ liên xã Vĩnh Phong nối với Bạc Liêu, lộ liên xã Tân Thuận nối với huyện U Minh Thương và An Minh. Lộ liên xã Vĩnh Bình Bắc nối với Gò Quao. tỉnh lộ 691 (xã Phong Đông) đi Cần Thơ, tương lai là đường Hồ Chí Minh nối với quốc lộ 63 xuống TT.Thới Bình và TP.Cà Mau, đường thuỷ trên sông tuyến đường huyết mạch từ Cần Thơ qua Vĩnh Thuận đến Cà Mau được nâng cấp năm 2003 với tên gọi là s
ông trẹm
.
|
General introduction of Vinh Thuan district
Vinh Thuan is a mainland district located in the southeast of Kien Giang province (formerly Rach Gia province). The North borders Go Quao district; Bordering the West
U Minh Thuong district
; East borders Hong Dan district of Bac Lieu province; The south borders Thoi Binh district of Ca Mau province. Area 394.8 km². Vinh Thuan district includes 1 town and 7 communes. The delta's terrain is a saline alum land, with a typical tropical monsoon climate with two distinct rainy and sunny seasons. The rainy season starts around May and ends in early November. This area rarely has storms and floods. The main wind direction is southwest northeast. Trem River Canal, also known as Trem Trem River Canal, is an important waterway route connecting the provinces in the region with Ca Mau province. This canal was created by the French, in addition there is Canh Dien canal, Canh Dien river. The Big flows through.
* History:
Before 1976 – Republic of Vietnam
Around 1960, the government of the Republic of Vietnam established Kien Long district in Kien Giang province on the basis of separating land from Kien An district (before 1957, An Bien district) in the same province. The district capital is located in Vinh Thuan commune. On December 24, 1961, Kien Long district was assigned to the newly established Chuong Thien province. In 1961, Kien Long district (no general level) included 6 communes: Vinh An, Vinh Binh, Vinh Hoa, Vinh Phong, Vinh Thuan, Vinh Tuy.
On April 18, 1963, after handing over Vinh Tuy commune to Kien Hung district (before 1957, it was Go Quao district), Kien Long district had 5 remaining communes: Vinh An, Vinh Binh, Vinh Hoa, Vinh Phong, Vinh Thuan. Until 1975, Kien Long district still included the same 5 affiliated communes.
Revolutionary government:
In 1964, the government of the National Liberation Front of South Vietnam (later the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam) established Vinh Thuan district in Rach Gia province on the basis of separating from An district. Record. Vinh Thuan district in Rach Gia province has an administrative boundary that overlaps with Kien Long district in Kien Giang province (after 1961, Chuong Thien province) of the Republic of Vietnam government.
After April 30, 1975, the military government of the Republic of South Vietnam of Rach Gia province at that time still placed Vinh Thuan district in Rach Gia province until early 1976.
From 1976 to present
In February 1976, Vinh Thuan was a district of Kien Giang province. The district capital is Vinh Thuan town, established by separating land from Vinh Thuan commune. Vinh Thuan district initially included Vinh Thuan town and 4 communes: Vinh Hoa, Vinh Binh, Vinh Thuan, Vinh Phong. Later, the land of Vinh Binh commune was separated and Vinh Binh Nam commune was established.
On October 10, 1981, the land of Vinh Hoa commune was divided into two communes, Hoa Chanh and Hoa Tien; Divide Vinh Binh commune into two communes: Vinh Binh Bac and Mai Thanh Tam; Separating land from Vinh Binh Nam commune to establish 3 communes: Binh Thanh, Binh Dien, Binh Minh; Separating land from Vinh Thuan commune to establish 3 more communes: Thuan Bac, Thuan Nam, Thuan Tay; Separating land from Vinh Phong commune to establish two more communes, Phong Dong and Phong Tay. At this time, the district included Vinh Thuan town and 15 communes: Vinh Phong, Phong Dong, Phong Tay, Vinh Thuan, Thuan Bac, Thuan Nam, Thuan Tay, Vinh Binh Nam, Vinh Binh Bac, Binh Thanh, Binh Minh, Mai Thanh Tam, Vinh Hoa, Hoa Tien, Hoa Chanh.
On May 24, 1988, a hamlet of Thuan Tay commune was separated and merged with half of Vinh Thuan farm to form Minh Thuan Nam commune; Split 1 hamlet of Hoa Tien commune and combine it with the other half of Vinh Thuan farm, establishing Minh Thuan Dong commune; Merge Hoa Chanh commune into Vinh Hoa commune; merge Mai Thanh Tam commune into Vinh Binh Bac commune; Split 1 hamlet of Binh Dien commune and the entire Binh Thanh commune into Vinh Binh Nam commune; merge 2 communes Phong Dong and Phong Tay into Vinh Phong commune; merge the remaining 6 hamlets of Thuan Tay commune with Thuan Nam commune into Vinh Thuan commune; Split 3 hamlets of old Vinh Thuan commune into Thuan Bac commune and 2 hamlets of Binh Dien commune into Tan Thuan commune; merge the remaining 6 hamlets of Hoa Tien commune, the entire Vinh Thai commune, and the remaining 2 hamlets of Binh Dien commune into Binh Minh commune; Merge the remaining hamlet of the old Vinh Thuan commune into Vinh Thuan town.
On May 31, 1991, Tan Thuan commune was dissolved, part of it merged into Vinh Thuan commune, the remaining part merged with Minh Thuan Dong and Minh Thuan Nam communes to form Minh Thuan commune; dissolved Binh Minh commune, merged part into Vinh Hoa commune, part into Vinh Binh Nam commune, part into Vinh Binh Bac commune. Vinh Thuan district at this time included Vinh Thuan town and 6 communes: Vinh Phong, Vinh Thuan, Minh Thuan, Vinh Hoa, Vinh Binh Nam, Vinh Binh Bac.
On March 18, 1997, the Government of Vietnam issued Decree Không. 23/1997/ND - CP, establishing Tan Thuan commune on the basis of 4,033 hectares of natural area and 10,164 people of Vinh Thuan commune. Vinh Thuan commune, after adjusting its administrative boundaries, has 5,091 hectares of natural area and 11,986 people.
On February 11, 2003, the Government of Vietnam issued Decree 10/2003/ND - CP, establishing Hoa Chanh commune on the basis of 4,255.3 hectares of natural area and 10,195 people of Vinh Hoa commune. After establishing Hoa Chanh commune, Vinh Hoa commune has 3,027.7 hectares of natural area and 9,286 people remaining. At the end of 2004, Vinh Thuan district had 9 administrative units, including Vinh Thuan town and 8 communes: Vinh Phong, Vinh Thuan, Minh Thuan, Vinh Hoa, Vinh Binh Nam, Vinh Binh Bac, Tan Thuan, Hoa Chanh.
On April 6, 2007, the Government of Vietnam issued Decree 58/2007/ND - CP, separating Minh Thuan, Vinh Hoa, Hoa Chanh communes of Vinh Thuan district from communes of An Bien and An Minh districts. established U Minh Thuong district; Established Phong Dong commune in Vinh Thuan district on the basis of adjusting 2,557 hectares of natural area and 5,949 people of Vinh Phong commune. After adjustment, Vinh Thuan district has 7 administrative units, including communes: Vinh Thuan, Vinh Binh Bac, Tan Thuan, Vinh Phong, Phong Dong, Vinh Binh Nam and Vinh Thuan town.
On June 29, 2009, the Government of Vietnam issued Resolution 29/NQ - CP, establishing Binh Minh commune on the basis of adjusting 3,095.54 hectares of natural area and 6,400 people of Vinh Binh Nam commune.
* Administration
Vinh Thuan district is divided into 8 administrative units including 1 Vinh Thuan town and 7 communes: Binh Minh, Phong Dong, Tan Thuan, Vinh Binh Bac, Vinh Binh Nam, Vinh Phong, Vinh Thuan.
* Traffic
National Highway 63, Vinh Phong inter-commune road connecting with Bac Lieu, Tan Thuan inter-commune road connecting with U Minh Thuong and An Minh districts. Vinh Binh Bac inter-commune road connects with Go Quao. Provincial road 691 (Phong Dong commune) to Can Tho, the future is Ho Chi Minh road connecting with national highway 63 to Thoi Binh town and Ca Mau city, waterway on the river is the main route from Can Tho through Vinh Thuan to Ca Mau was upgraded in 2003 with the name s
Mr. Trem
.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Long Mỹ
Thị xã Long Mỹ và các phường thuộc thị xã Long Mỹ được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 2015 theo Nghị quyết 933/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, trên cơ sở tách 2 thị trấn: Long Mỹ, Trà Lồng và 5 xã: Long Bình, Long Phú, Long Trị, Long Trị A, Tân Phú thuộc huyện Long Mỹ (cũ).
Giao thông thuỷ bộ thuận lợi với Quốc lộ 61, 61B, Đường Quản Lộ- Phụng Hiệp kết nối dễ dàng với các tỉnh vùng tây sông Hậu, đường tỉnh 926, 928B. Có sông Cái Lớn, kênh Nàng Mau, kênh Hậu Giang 3, rất thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá, nông thuỷ sản bằng đường thuỷ. Những năm gần đây, Long Mỹ là một trong những huyện có tốc độ tăng trưởng bình quân dẫn đầu tỉnh đạt 14,28%/năm. Trong quá trình phát triển
kinh tế
– xã hội và đô thị hoá ngày càng cao, Long Mỹ đã hình thành 2 vùng kinh tế rõ rệt.
Thị xã Long Mỹ nằm hoàn toàn trong khoảng giữa vùng Tây
sông Hậu
, địa hình thấp và bằng phẳng, có hệ thống kênh rạch chằng chịt.
– Bắc giáp huyện Vị Thủy.
– Nam giáp huyện Mỹ Tú và thị xã Ngã Năm của tỉnh Sóc Trăng.
– Tây giáp huyện Long Mỹ.
– Đông giáp huyện Phụng Hiệp.
Thị xã Long Mỹ có 14.400 ha diện tích tự nhiên và khoảng 73.000 nhân khẩu, thị xã Long Mỹ có 9 đơn vị hành chính bao gồm 4 phường: Bình Thạnh, Thuận An, Trà Lồng, Vĩnh Tường và 5 xã: Long Bình, Long Phú, Long Trị, Long Trị A, Tân Phú.
– Phường Bình Thạnh được thành lập trên cơ sở điều chỉnh toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của ấp 1 thị trấn Long Mỹ, ấp Bình Thạnh, Bình An và một phần ấp Bình Hòa, Bình Hiếu xã Long Bình.
– Phường Thuận An được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của ấp 2, 3, 4, 5, 6 thị trấn Long Mỹ.
– Thành lập phường Trà Lồng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của thị trấn Trà Lồng và điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Tân Phú.
– Thành lập phường Vĩnh Tường được thành lập trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của ấp Bình Tân, Bình Hòa, Bình Hiếu xã Long Bình.
Thị xã Long Mỹ có 1 tuyến
Quốc lộ 61B
từ ngã ba Vĩnh Tường (phường Vĩnh Tường) đi qua thị xã Long Mỹ đến thị xã Ngã Năm,
tỉnh Sóc Trăng
tới thị trấn Phú Lộc thuộc huyện Thạnh Trị tỉnh
Sóc Trăng
và đổ ra
Quốc lộ 1A
. Nội ô thị xã với các tuyến đường chính như: Trần Hưng Đạo, Cách Mạng Tháng Tám, Ba Tháng Hai, 30 Tháng Tư, Nguyễn Huệ…
Vùng phía Đông (khu vực thành lập Thị xã mới Long Mỹ hiện nay) gồm 2 thị trấn và 5 xã của huyện với gần 14.448 ha và 72.957 nhân khẩu, tốc độ tăng trưởng nhanh bình quân trên 17%, tổng vốn
đầu tư
phát triển kinh tế đạt gần 300 tỷ đồng, tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố đạt 100%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp đạt 80%. Kinh tế vùng này đang chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng thương mại – dịch vụ, du lịch và công nghiệp, hệ thống công trình hạ tầng đô thị từng bước đầu tư theo hướng đồng bộ, tốc độ đô thị hoá nhanh và đô thị Long Mỹ đã được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV từ năm 2010.
Ở Vùng phía Tây gồm 8 xã của huyện với trên 25.399 ha và 85.622 nhân khẩu, có nhiều lợi thế hơn về phát triển nông nghiệp và thuỷ sản. Khu vực này đang triển khai
Dự án
Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao quy mô 415 ha, phục vụ phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp của tỉnh và vùng bán đảo Cà Mau theo Quyết định 1152/2012/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Xuất phát từ thực trạng phát triển của huyện Long Mỹ thời gian qua, đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trên địa bàn đang trong quá trình đô thị hoá nhanh, phát triển tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới, phù hợp với Quyết định 445/2009/QĐ-TTg về điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến 2050, đồng thời cũng phù hợp với định hướng phát triển của Bộ ngành và địa phương trong quy hoạch phát triển đô thị Long Mỹ, ngày 15/05/2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết 933/2015/NQ-UBTVQH về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Mỹ, để thành lập Thị xã Long Mỹ và 4 phường thuộc Thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
Sau khi điều chỉnh về địa giới hành chính, Long Mỹ cơ bản đáp ứng các điều kiện và tiêu chí của Chính phủ quy định, bao gồm: Thị xã mới Long Mỹ với 14.448 ha và 72.957 nhân khẩu, có 09 đơn vị hành chính cấp xã, với 04 phường mới: Thuận An, Bình Thạnh, Vĩnh Tường, Trà Lồng và 05 xã: Long Bình, Long Trị, Long Trị A, Long Phú và Tân Phú.
Huyện Long Mỹ còn lại có diện tích 25.399,07ha, với 85.622 nhân khẩu, gồm 08 xã: Thuận Hoà, Thuận Hưng, Vĩnh Thuận Đông, Vĩnh Viễn, Vĩnh Viễn A, Xà Phiên, Lương Tâm và Lương Nghĩa.
Chính từ dấu mốc này, sẽ tạo động lưc mạnh mẽ, thu hút các nguồn vốn đầu tư để khai thác tiềm năng, thế mạnh của đô thị, lợi thế của địa phương, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, thương mại, đảm bảo quốc phòng an ninh, đưa Thị xã Long Mỹ chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng đô thị. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của sự điều chỉnh này, đã tạo sự đồng thuận nhất trí cao của tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị địa phương và các tầng lớp nhân dân, kết quả lấy ý kiến Hội đồng Nhân dân từ xã đến tỉnh và qua việc lấy ý kiến cử tri, tuyệt đại đa số nhất trí đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Mỹ để thành lập Thị xã Long Mỹ và 04 phường thuộc Thị xã Long Mỹ, đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị trong giai đoạn mới và nguyện vọng của nhân dân trên địa bàn.
Thị xã Long Mỹ sẽ gắn kết hài hoà giữa phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường, kết hợp hài hoà với quá trình xây dựng xã nông thôn mới. Chính quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi để áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào cải tạo xây dựng đô thị, phát triển đô thị mang tính đặc trưng riêng của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long, thân thiện với môi trường và vùng kháng chiến, căn cứ cách mạng, theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp với đặc điểm truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá riêng vùng sông nước miền tây.
Thị xã Long Mỹ sẽ lấy trọng tâm Quốc lộ 61, 61B, đường tỉnh 928 B, 930 và sông Cái Lớn, sông Trà Ban làm định hướng chính cho mở rộng và phát triển đô thị một cách hài hoà trong xu thế liên kết vùng và liên kết đô thị.
Công tác quy hoạch đô thị sẽ được tập trung ưu tiên để đảm bảo tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo và chỉnh trang đô thị, đồng thời quản lý xây dựng chặt chẽ sau quy hoạch, gắn quy hoạch đô thị với phát triển nông thôn. Chú trọng các đô thị vừa và nhỏ, huy động các nguồn vốn, nhằm từng bước xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng đô thị, gắn với phát triển các khu dân cư, trung tâm thương mại, bệnh viện, trường học, mạng lưới giao thông, hạ tầng kỹ thuật, viễn thông, điện chiếu sáng, cây xanh, hệ thống cấp nước sinh hoạt, thoát nước và xử lý chất thải các đô thị. Trên cơ sở đó, thời gian tới, Thị xã Long Mỹ sẽ triển khai các dự án mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, bám sát tiêu chí “Xanh – Sạch – Đẹp – Văn minh”, làm cơ sở cho mọi quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch xây dựng, kêu gọi vốn đầu tư phát triển vào các khu đô thị, khu công nghiệp, tập trung đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiệu quả, chất lượng và bền vững.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Long Mỹ
Thị xã Long Mỹ và các phường thuộc thị xã Long Mỹ được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 2015 theo Nghị quyết 933/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, trên cơ sở tách 2 thị trấn: Long Mỹ, Trà Lồng và 5 xã: Long Bình, Long Phú, Long Trị, Long Trị A, Tân Phú thuộc huyện Long Mỹ (cũ).
Giao thông thuỷ bộ thuận lợi với Quốc lộ 61, 61B, Đường Quản Lộ- Phụng Hiệp kết nối dễ dàng với các tỉnh vùng tây sông Hậu, đường tỉnh 926, 928B. Có sông Cái Lớn, kênh Nàng Mau, kênh Hậu Giang 3, rất thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá, nông thuỷ sản bằng đường thuỷ. Những năm gần đây, Long Mỹ là một trong những huyện có tốc độ tăng trưởng bình quân dẫn đầu tỉnh đạt 14,28%/năm. Trong quá trình phát triển
kinh tế
– xã hội và đô thị hoá ngày càng cao, Long Mỹ đã hình thành 2 vùng kinh tế rõ rệt.
Thị xã Long Mỹ nằm hoàn toàn trong khoảng giữa vùng Tây
sông Hậu
, địa hình thấp và bằng phẳng, có hệ thống kênh rạch chằng chịt.
– Bắc giáp huyện Vị Thủy.
– Nam giáp huyện Mỹ Tú và thị xã Ngã Năm của tỉnh Sóc Trăng.
– Tây giáp huyện Long Mỹ.
– Đông giáp huyện Phụng Hiệp.
Thị xã Long Mỹ có 14.400 ha diện tích tự nhiên và khoảng 73.000 nhân khẩu, thị xã Long Mỹ có 9 đơn vị hành chính bao gồm 4 phường: Bình Thạnh, Thuận An, Trà Lồng, Vĩnh Tường và 5 xã: Long Bình, Long Phú, Long Trị, Long Trị A, Tân Phú.
– Phường Bình Thạnh được thành lập trên cơ sở điều chỉnh toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của ấp 1 thị trấn Long Mỹ, ấp Bình Thạnh, Bình An và một phần ấp Bình Hòa, Bình Hiếu xã Long Bình.
– Phường Thuận An được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của ấp 2, 3, 4, 5, 6 thị trấn Long Mỹ.
– Thành lập phường Trà Lồng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của thị trấn Trà Lồng và điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Tân Phú.
– Thành lập phường Vĩnh Tường được thành lập trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của ấp Bình Tân, Bình Hòa, Bình Hiếu xã Long Bình.
Thị xã Long Mỹ có 1 tuyến
Quốc lộ 61B
từ ngã ba Vĩnh Tường (phường Vĩnh Tường) đi qua thị xã Long Mỹ đến thị xã Ngã Năm,
tỉnh Sóc Trăng
tới thị trấn Phú Lộc thuộc huyện Thạnh Trị tỉnh
Sóc Trăng
và đổ ra
Quốc lộ 1A
. Nội ô thị xã với các tuyến đường chính như: Trần Hưng Đạo, Cách Mạng Tháng Tám, Ba Tháng Hai, 30 Tháng Tư, Nguyễn Huệ…
Vùng phía Đông (khu vực thành lập Thị xã mới Long Mỹ hiện nay) gồm 2 thị trấn và 5 xã của huyện với gần 14.448 ha và 72.957 nhân khẩu, tốc độ tăng trưởng nhanh bình quân trên 17%, tổng vốn
đầu tư
phát triển kinh tế đạt gần 300 tỷ đồng, tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố đạt 100%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp đạt 80%. Kinh tế vùng này đang chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng thương mại – dịch vụ, du lịch và công nghiệp, hệ thống công trình hạ tầng đô thị từng bước đầu tư theo hướng đồng bộ, tốc độ đô thị hoá nhanh và đô thị Long Mỹ đã được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV từ năm 2010.
Ở Vùng phía Tây gồm 8 xã của huyện với trên 25.399 ha và 85.622 nhân khẩu, có nhiều lợi thế hơn về phát triển nông nghiệp và thuỷ sản. Khu vực này đang triển khai
Dự án
Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao quy mô 415 ha, phục vụ phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp của tỉnh và vùng bán đảo Cà Mau theo Quyết định 1152/2012/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Xuất phát từ thực trạng phát triển của huyện Long Mỹ thời gian qua, đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trên địa bàn đang trong quá trình đô thị hoá nhanh, phát triển tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới, phù hợp với Quyết định 445/2009/QĐ-TTg về điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến 2050, đồng thời cũng phù hợp với định hướng phát triển của Bộ ngành và địa phương trong quy hoạch phát triển đô thị Long Mỹ, ngày 15/05/2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết 933/2015/NQ-UBTVQH về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Mỹ, để thành lập Thị xã Long Mỹ và 4 phường thuộc Thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
Sau khi điều chỉnh về địa giới hành chính, Long Mỹ cơ bản đáp ứng các điều kiện và tiêu chí của Chính phủ quy định, bao gồm: Thị xã mới Long Mỹ với 14.448 ha và 72.957 nhân khẩu, có 09 đơn vị hành chính cấp xã, với 04 phường mới: Thuận An, Bình Thạnh, Vĩnh Tường, Trà Lồng và 05 xã: Long Bình, Long Trị, Long Trị A, Long Phú và Tân Phú.
Huyện Long Mỹ còn lại có diện tích 25.399,07ha, với 85.622 nhân khẩu, gồm 08 xã: Thuận Hoà, Thuận Hưng, Vĩnh Thuận Đông, Vĩnh Viễn, Vĩnh Viễn A, Xà Phiên, Lương Tâm và Lương Nghĩa.
Chính từ dấu mốc này, sẽ tạo động lưc mạnh mẽ, thu hút các nguồn vốn đầu tư để khai thác tiềm năng, thế mạnh của đô thị, lợi thế của địa phương, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, thương mại, đảm bảo quốc phòng an ninh, đưa Thị xã Long Mỹ chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng đô thị. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của sự điều chỉnh này, đã tạo sự đồng thuận nhất trí cao của tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị địa phương và các tầng lớp nhân dân, kết quả lấy ý kiến Hội đồng Nhân dân từ xã đến tỉnh và qua việc lấy ý kiến cử tri, tuyệt đại đa số nhất trí đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Mỹ để thành lập Thị xã Long Mỹ và 04 phường thuộc Thị xã Long Mỹ, đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị trong giai đoạn mới và nguyện vọng của nhân dân trên địa bàn.
Thị xã Long Mỹ sẽ gắn kết hài hoà giữa phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường, kết hợp hài hoà với quá trình xây dựng xã nông thôn mới. Chính quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi để áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào cải tạo xây dựng đô thị, phát triển đô thị mang tính đặc trưng riêng của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long, thân thiện với môi trường và vùng kháng chiến, căn cứ cách mạng, theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp với đặc điểm truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá riêng vùng sông nước miền tây.
Thị xã Long Mỹ sẽ lấy trọng tâm Quốc lộ 61, 61B, đường tỉnh 928 B, 930 và sông Cái Lớn, sông Trà Ban làm định hướng chính cho mở rộng và phát triển đô thị một cách hài hoà trong xu thế liên kết vùng và liên kết đô thị.
Công tác quy hoạch đô thị sẽ được tập trung ưu tiên để đảm bảo tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo và chỉnh trang đô thị, đồng thời quản lý xây dựng chặt chẽ sau quy hoạch, gắn quy hoạch đô thị với phát triển nông thôn. Chú trọng các đô thị vừa và nhỏ, huy động các nguồn vốn, nhằm từng bước xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng đô thị, gắn với phát triển các khu dân cư, trung tâm thương mại, bệnh viện, trường học, mạng lưới giao thông, hạ tầng kỹ thuật, viễn thông, điện chiếu sáng, cây xanh, hệ thống cấp nước sinh hoạt, thoát nước và xử lý chất thải các đô thị. Trên cơ sở đó, thời gian tới, Thị xã Long Mỹ sẽ triển khai các dự án mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, bám sát tiêu chí “Xanh – Sạch – Đẹp – Văn minh”, làm cơ sở cho mọi quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch xây dựng, kêu gọi vốn đầu tư phát triển vào các khu đô thị, khu công nghiệp, tập trung đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiệu quả, chất lượng và bền vững.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Vũng Tàu
Vị trí địa lý thành phố Vũng Tàu
Thành phố Vũng Tàu nằm ở phía Nam tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ; Có 4 mặt giáp biển và sông rạch; Phía Đông và phía Nam giáp Biển Đông ; Phía Tây giáp Vịnh Gành Rái ; Phía Bắc giáp thành phố Bà Rịa, huyện Tân Thành và huyện Long Điền, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh đi theo hướng cao tốc Long Thành-TP
Hồ Chí Minh
là 100km và cách thành phố Biên Hoà 95km.
Thành phố Vũng Tàu có diện tích đất tự nhiên là 14.442 ha; Có 17 đơn vị hành chính cơ sở : 16 phường và 1 xã. Dân số thành phố tính đến đầu năm 2016 trên 327 ngàn người
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và do chịu ảnh hưởng của biển, Vũng Tàu có khí hậu ôn hoà, ít gió bão, nhiệt độ trung bình từ 25oC đến 27oC, lượng mưa trung bình từ 1.300mm đến 1.700mm, có từ 2.300 đến 2.800 giờ nắng trong năm. Thiên nhiên thành phố Vũng Tàu tươi đẹp, kỳ thú đem lại tiềm năng lớn về Du Lịch
Lịch sử hình thành và phát triển của Thành phố Vũng Tàu.
Vũng Tàu được biết đến từ năm 1296 với tên gọi là trấn Chân Bồ.
– Năm 1658 Chúa Nguyễn Phúc Tần đưa 2.000 quân đi chinh phục trấn Chân Bồ, lập 3 làng đầu tiên ở Vũng Tàu là Thắng Nhất, Thắng Nhì và Thắng Tam nên được gọi là Tam Thắng sau đổi thành Phước Thắng thuộc phủ Phước Tuy.
– Năm 1775 tàu thuyền của Bồ Đào Nha và Pháp đã ra vào Vũng Tàu để buôn bán và người Pháp gọi Vũng Tàu là Sainjacques.
– Năm 1859. 12 chiến hạm của Pháp nổ súng tấn công Phước Thắng mở đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta.
– Năm 1864 Pháp chia 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ thành 7 tiểu khu; Vũng Tàu thuộc tiểu khu Bà Rịa.
– Năm 1895 Toàn quyền Đông Dương tách Vũng Tàu khỏi Bà Rịa để thành lập thành phố Vũng Tàu – Thành phố du lịch, nghỉ dưỡng đầu tiên của Việt Nam.
– 20/1/1899 Toàn quyền Đông Dương ra quyết định hợp nhất Bà Rịa với Vũng Tàu để thành lập một đơn vị hành chính mới mang tên Pháp : Cap Sainjacques và bắt đầu xây dựng con đường bộ nối Sài Gòn với Vũng Tàu. Bà Rịa – Vũng Tàu.
Trong khoảng thời gian từ 1895- 1900 Pháp đã xây dựng nhiều bến cảng, nhà máy nhiệt điện; đường dây điện tín và khách sạn cao cấp biến Vũng Tàu thành thành phố cảng, du lịch, nghỉ mát lớn nhất của Nam Bộ và trung tâm đánh bắt hải sản lớn.
– 5/7/1928 Thống đốc Nam Kỳ tách Vũng Tàu khỏi Bà Rịa, hợp nhất với làng Long Sơn và tổng Cần Giờ để thành lập
tỉnh Cap Sainjacques
.
– 28/8/1945 Nhân dân Vũng Tàu vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
– Tháng 12/1945 Xứ uỷ Nam Kỳ quyết định sáp nhập Vũng Tàu với tỉnh Bà Rịa.
– 9/2/1948 Pháp quay lại chiếm Bà Rịa – Vũng Tàu.
– 3/1/1957 Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tái lập tỉnh Phước Tuy, trong đó Vũng Tàu là một quận.
– Tháng 12/1960 Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa – Long Khánh
– 8/9/1964 Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đổi quận Vũng Tàu thành thị xã Vũng Tàu.
– 8/4/1975 Trung ương cục Miền Nam quyết định tách thị xã Vũng Tàu khỏi tỉnh Bà Rịa – Long Khánh để thành lập thành phố Vũng Tàu.
– 30/4/1975 Thành phố Vũng Tàu hoàn toàn được giải phóng.
– 1/1976 Thành phố Vũng Tàu đổi thành thị xã Vũng Tàu thuộc tỉnh Đồng Nai.
– 3/5/1979 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ra quyết định thành lập đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo trực thuộc Trung ương.
– 3/6/1984 Liên doanh dầu khí Vietxopetro tìm thấy dòng dầu công nghiệp đầu tiên tại thềm lục địa Vũng Tàu – Côn Đảo. Vũng tàu trở thành trung tâm dầu khí quốc gia.
– 26/3/1985 Hội đồng nhà nước trao tặng huân chương sao vàng cho nhân dân, chiến sỹ đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo vì đã có thành tích to lớn trong 40 năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
– 18/2/1991 Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII ra nghị quyết thành lập tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Vũng Tàu.
– 30/10/1994 Chủ tịch nước tặng thưởng nhân dân và cán bộ thành phố Vũng Tàu huân chương lao động hạng III.
– 28/8/1998 Chủ tịch nước tặng thưởng nhân dân và lực lượng vũ trang thành phố Vũng Tàu danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
– 16/9/1999 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 186/ 1999/QĐ- TTg công nhận thành phố Vũng Tàu là đô thị loại II thuộc tỉnh và xác định thành phố Vũng Tàu là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Trung tâm khai thác dầu khí, du lịch quốc gia; trung tâm giao dịch quốc tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực phía Nam tổ quốc.
– 23/4/2013 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 612/QĐ-TTg công nhận thành phố Vũng Tàu là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngày 24/8/2013 thành phố Vũng Tàu đã tổ chức lễ công bố Quyết định công nhận thành phố Vũng Tàu là đô thị loại I.
Xác định đúng tiềm năng và lợi thế, trong những năm qua, thành phố đã tập trung đầu tư, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển các nghành kinh tế trọng điểm:
– Khai thác, chế biến và dịch vụ dầu khí
– Du lịch biển đảo
– Đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu hải sản
– Cảng biển và dịch vụ hàng hải
Thành phố cùng chú trọng đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường và chỉnh trang đô thị nên diện mạo của thành phố ngày càng khang trang, hiện đại, Xanh – Sạch – Đẹp, có sức thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Là trung tâm dầu khí, trung tâm du lịch quốc gia thành phố Vũng Tàu có tầm quan trọng đặc biệt về an ninh, quốc phòng, nhất là việc bảo vệ giữ vững chủ quyền biển, đảo phía Nam Tổ quốc.; Là thành phố nằm trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế khu vực phía Nam; Là cửa ngõ thông thương ra biển của các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, là trung tâm kinh tế, du lịch, văn hoá, xã hội, khoa học, y tế, giáo dục của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Trung ương, sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Đảng bộ chính quyền và nhân dân thành phố Vũng Tàu đã liên tục phấn đấu và đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện trong phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng ký thuật, hạ tầng xã hội và chỉnh trang đô thị ngày một khang trang hiện đại.
|
General introduction to Vung Tau city
Geographical location of Vung Tau city
Vung Tau city is located in the south of Ba Ria - Vung Tau province; There are 4 sides bordering the sea and rivers and canals; The East and South border the East Sea; The West borders Ganh Rai Bay; The North borders Ba Ria city, Tan Thanh district and Long Dien district, away from Ho Chi Minh city center along the Long Thanh-TP highway.
Ho Chi Minh
is 100km and 95km from Bien Hoa city.
Vung Tau city has a natural land area of 14,442 hectares; There are 17 basic administrative units: 16 wards and 1 commune. The city's population as of early 2016 was over 327 thousand people
Located in the tropical monsoon region and influenced by the sea, Vung Tau has a temperate climate, few storms, average temperature from 25oC to 27oC, average rainfall from 1,300mm to 1,700mm, with from 2,300 up to 2,800 hours of sunshine a year. The beautiful and interesting nature of Vung Tau city brings great potential for tourism
History of formation and development of Vung Tau City.
Vung Tau has been known since 1296 as Chan Bo town.
– In 1658, Lord Nguyen Phuc Tan sent 2,000 troops to conquer Chan Bo town, establishing the first 3 villages in Vung Tau: Thang Nhat, Thang Nhi and Thang Tam, so they were called Tam Thang and later changed to Phuoc Thang under Phuoc Tuy district.
– In 1775 Portuguese and French ships entered and left Vung Tau to trade and the French called Vung Tau Sainjacques.
– Year 1859. 12 French warships opened fire to attack Phuoc Thang, opening the French colonial invasion of our country.
– In 1864, France divided the 3 Southeast provinces into 7 sub-regions; Vung Tau belongs to Ba Ria sub-region.
– In 1895, the Governor General of Indochina separated Vung Tau from Ba Ria to establish Vung Tau city - the first tourist and resort city of Vietnam.
– January 20, 1899 The Governor General of Indochina decided to merge Ba Ria with Vung Tau to establish a new administrative unit with the French name: Cap Sainjacques and began building a road connecting Saigon with Vung Tau. BA Ria Vung Tau.
During the period from 1895 to 1900, France built many ports and thermal power plants; Telegraph lines and high-class hotels turned Vung Tau into the largest port, tourist and resort city in the South and a major seafood fishing center.
– July 5, 1928, Governor of Cochinchina separated Vung Tau from Ba Ria, merged with Long Son village and Can Gio canton to establish
Cap Sainjacques province
.
– August 28, 1945 The people of Vung Tau rose up in rebellion to take power back to the people.
– In December 1945, the Southern Party Committee decided to merge Vung Tau with Ba Ria province.
– February 9, 1948 France returned to occupy Ba Ria – Vung Tau.
– January 3, 1957 The Government of the Republic of Vietnam re-established Phuoc Tuy province, of which Vung Tau was a district.
– December 1960 Vung Tau belongs to Ba Ria – Long Khanh province
– September 8, 1964 The Government of the Republic of Vietnam changed Vung Tau district to Vung Tau town.
– April 8, 1975 The Southern Department Central Committee decided to separate Vung Tau town from Ba Ria - Long Khanh province to establish Vung Tau city.
– April 30, 1975 Vung Tau City was completely liberated.
– January 1976 Vung Tau city changed to Vung Tau town in Dong Nai province.
– May 3, 1979 The National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam decided to establish the Vung Tau - Con Dao special zone directly under the Central Government.
– June 3, 1984 Vietxopetro oil and gas joint venture found the first industrial oil flow on the Vung Tau - Con Dao continental shelf. Vung Tau becomes a national oil and gas center.
– March 26, 1985 The State Council awarded the gold star medal to the people and soldiers of Vung Tau - Con Dao special zone for their great achievements in 40 years of fighting against foreign invaders, building and preserving defend the fatherland.
– February 18, 1991 The 9th session of the VIII National Assembly issued a resolution to establish Ba Ria Vung Tau province and Vung Tau city.
– October 30, 1994 The President awarded the people and officials of Vung Tau city with the III class labor medal.
– August 28, 1998, the President awarded the people and armed forces of Vung Tau city the title of Hero of the People's Armed Forces.
– September 16, 1999, the Prime Minister signed Decision Không. 186/1999/QD-TTg recognizing Vung Tau city as a class II urban area of the province and determining Vung Tau city as an economic, cultural, and economic center. society of Ba Ria - Vung Tau province; National Oil and Gas Exploitation and Tourism Center; The international trading center plays a role in promoting economic development in the southern region of the country.
– April 23, 2013, the Prime Minister signed Decision 612/QD-TTg recognizing Vung Tau city as a class I urban area under Ba Ria-Vung Tau province. On August 24, 2013, Vung Tau city held a ceremony to announce the Decision recognizing Vung Tau city as a class I urban area.
Correctly identifying potential and advantages, in recent years, the city has focused on investing and mobilizing domestic and foreign resources to develop key economic sectors:
– Oil and gas exploitation, processing and services
- Island Tourism
– Catching, farming, processing and exporting seafood
– Seaport and maritime services
The city also focuses on investing in construction and development of technical infrastructure, social infrastructure, environmental protection and urban beautification, so the appearance of the city is increasingly spacious, modern, Green - Clean. – Beautiful, attractive to domestic and foreign tourists.
As an oil and gas center, Vung Tau city's national tourism center has special importance in terms of security and defense, especially in protecting and maintaining sovereignty over the southern seas and islands of the country.; Is a city located in the key economic development region of the Southern region; It is the gateway to the sea for the Southeast and Central Highlands provinces, and is the economic, tourist, cultural, social, scientific, medical and educational center of Ba Ria - Vung Tau province.
In recent years, with the attention of the Central Government, the direct leadership of the Provincial Party Committee, People's Council, People's Committee of Ba Ria - Vung Tau province, the government Party Committee and people of Vung Tau city have continuously strived and achieved success. achieve great and comprehensive achievements in socio-economic development and improve people's lives; Construction and development of technical infrastructure, social infrastructure and urban embellishment to become more spacious and modern.
|
Giới thiệu khái quát huyện Bù Đăng
Bù Đăng là địa phương có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh với 1.501km². Huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 1 thị trấn, dân số trên 150 ngàn người, gồm 34 dân tộc anh em cùng sinh sống, lập nghiệp. Bù Đăng là vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng, truyền thống đoàn kết các dân tộc, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần phong phú và đa dạng. Khí hậu và thổ nhưỡng Bù Đăng rất thích hợp phát triển nhiều loại cây công nghiệp, chăn nuôi và kinh doanh tổng hợp nông – lâm nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với tiềm năng thuận lợi này đã tạo điều kiện cho Bù Đăng phát triển ngành nông nghiệp bền vững, là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn huyện. Toàn huyện hiện có 59.600 ha điều, 31.170 ha cao su, 10.200 ha cà phê, 1.370 ha hồ tiêu, 980 ha cây ăn trái…
Huyện Bù Đăng thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là cửa ngõ của vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên, có các tuyến đường giao thông như: Quốc lộ 14, ĐT760, ĐT755 và đường Sao Bọng – Đăng Hà đã được đầu tư nâng cấp. Đây là những tuyến giao thông huyết mạch vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh của huyện, tạo thuận lợi cho Bù Đăng giao thương kinh tế với các tỉnh miền Đông Nam bộ và các tỉnh Tây Nguyên; giúp huyện gần hơn với các đô thị và khu dân cư thuộc vùng trọng điểm kinh tế phía Nam. Mạng lưới đường nhựa đã tới tất cả xã, thị trấn; đường liên xã, liên thôn ngày càng được nhựa hóa, bê tông hóa nhiều, tạo thuận lợi trong sản xuất, vận chuyển hàng hóa, nông sản của nhân dân.
Huyện Bù Đăng gần Nhà máy thủy điện Thác Mơ và trên địa bàn huyện còn có Nhà máy thủy điện Đắk Glun II, Thủy điện Đắk Ka, Thủy điện ĐaM’lo, Thủy điện Trường Sơn (Thống Nhất) đang triển khai xây dựng sẽ là nguồn cung cấp điện vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế. Ngoài tài nguyên đất và nước, địa bàn huyện còn có nhiều loại tài nguyên khoáng sản với trữ lượng khá lớn như cát, sỏi, đá, gạch, bôxít… phục vụ xây dựng. Với quy mô và cơ cấu sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng như hiện nay, ước tính giá trị tăng bình quân 13-14%/năm. Bù Đăng tập trung phát triển ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, sản xuất và chế biến các sản phẩm nông – lâm nghiệp như: cao su, cà phê, hồ tiêu, điều; sản xuất phân bón, thức ăn gia súc để tạo giá trị tăng thêm cho mặt hàng nông sản. Đây là chiến lược hết sức quan trọng, là một “nắm đấm” để tạo động lực cho sự phát triển nhanh và vững chắc ngắn hạn cũng như trong dài hạn…
Bên cạnh lợi thế về phát triển nông nghiệp và công nghiệp, Bù Đăng còn có tiềm năng về du lịch rất lớn. Do trong khu vực có nhiều sông suối, hồ đập, với quần thể thực vật phong phú, có cảnh quan thiên nhiên tương đối đa dạng, lại có 34 dân tộc anh em sinh sống, đặc biệt có cộng đồng người S’tiêng, Mơnông sinh sống lâu đời, trải qua nhiều thế hệ đã hình thành những giá trị văn hóa truyền thống vô cùng đặc sắc như: cồng chiêng, thổ cẩm, ẩm thực và các lễ hội dân gian, nhất là truyền thống yêu nước gắn với địa danh sóc Bom Bo đã đi vào huyền thoại đánh Mỹ trong cả nước, đã được tỉnh Bình Phước đầu tư xây dựng hoàn thành giai đoạn 1. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 2 di tích lịch sử (chùa Đức Bổn A Lan Nhã, Đồi Chi khu); 1 di tích khảo cổ (Di chỉ Dốc năm cây); 2 danh lam thắng cảnh (thác Voi, thác Bù Xa); 3 di tích danh lam thắng cảnh (trảng cỏ Bù Lạch, thác Đứng, thác Pan Toong); 1 di tích ghi dấu sự kiện (Căn cứ Nửa Lon)… Đây là những tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái và du lịch văn hóa của huyện.
Bù Đăng có nguồn nhân lực rất dồi dào, với 93.727 người trong độ tuổi lao động, chiếm 64,05% số dân toàn huyện. Nhân dân có truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động sản xuất, chịu khó khắc phục khó khăn, gian khổ. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; các dân tộc luôn đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Những điều kiện tự nhiên – xã hội này là tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội của huyện trong những năm tới. Vì vậy, huyện đã đề ra một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đó là: Phấn đấu xây dựng Bù Đăng phát triển bền vững, hài hòa giữa khu vực đô thị và nông thôn, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, Đức Phong đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV. Phát triển các trung tâm hành chính xã trở thành đô thị vệ tinh, hệ thống hạ tầng hoàn thiện để thu hút các loại hình dịch vụ chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh.Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng; tạo bước đột phá thúc đẩy phát triển dịch vụ; chú trọng phát triển nông nghiệp chất lượng cao, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển đô thị; cải cách hành chính, giải quyết tốt vấn đề môi trường; nâng cao chất lượng GD-ĐT; giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…
Để khai thác, phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và thực hiện được các chỉ tiêu đó, trong thời gian tới huyện Bù Đăng sẽ tập trung thực hiện một số giải pháp, định hướng phát triển như sau:
Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả thu nhập trên một đơn vị diện tích, có cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp điều kiện tự nhiên của huyện, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Khuyến khích chăn nuôi theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp, mô hình trang trại gắn với phát triển kinh tế vườn, đồi; khuyến khích phát triển các loại hình hợp tác xã; đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Tăng cường liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tạo điều kiện để thu hút tối đa mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn. Chú trọng công nghiệp chế biến nông sản, vật liệu xây dựng, các dự án cung cấp các dịch vụ xã hội, công nghệ sinh học. Quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng từ 1-2 cụm công nghiệp đã quy hoạch và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, rà soát điều chỉnh các cụm công nghiệp cho phù hợp với sự phát triển của địa phương. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội, nhất là các công trình trọng điểm, cấp thiết. Tiếp tục thực hiện tốt xã hội hóa làm đường giao thông nông thôn. Quản lý và sử dụng hiệu quả các tuyến đường hiện có.
Đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại đã được quy hoạch. Khai thác hiệu quả bến xe khách, đẩy mạnh lưu chuyển hàng hóa, phục vụ việc đi lại của nhân dân. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống hàng giả, hàng lậu, gian lận thương mại. Khuyến khích phát triển các loại hình du lịch, chú trọng đầu tư các loại hình du lịch, thương mại – dịch vụ gắn với du lịch làng nghề, kết nối Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo và trảng cỏ Bù Lạch với các điểm du lịch của tỉnh và các tỉnh, thành dọc tuyến quốc lộ 14.
Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất đai. Đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện tốt việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhân dân yên tâm đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Công khai minh bạch thủ tục hành chính, thời gian giải quyết trên trang thông tin điện tử của huyện và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan, đơn vị. Bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức có năng lực, trách nhiệm trong hướng dẫn chuẩn bị hồ sơ, tiếp nhận, xử lý các thủ tục hành chính.
Tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học bảo đảm công tác giảng dạy. Tập trung phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của huyện, đáp ứng mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động.
|
Giới thiệu khái quát huyện Bù Đăng
Bù Đăng là địa phương có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh với 1.501km². Huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 1 thị trấn, dân số trên 150 ngàn người, gồm 34 dân tộc anh em cùng sinh sống, lập nghiệp. Bù Đăng là vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng, truyền thống đoàn kết các dân tộc, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần phong phú và đa dạng. Khí hậu và thổ nhưỡng Bù Đăng rất thích hợp phát triển nhiều loại cây công nghiệp, chăn nuôi và kinh doanh tổng hợp nông – lâm nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với tiềm năng thuận lợi này đã tạo điều kiện cho Bù Đăng phát triển ngành nông nghiệp bền vững, là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn huyện. Toàn huyện hiện có 59.600 ha điều, 31.170 ha cao su, 10.200 ha cà phê, 1.370 ha hồ tiêu, 980 ha cây ăn trái…
Huyện Bù Đăng thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là cửa ngõ của vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên, có các tuyến đường giao thông như: Quốc lộ 14, ĐT760, ĐT755 và đường Sao Bọng – Đăng Hà đã được đầu tư nâng cấp. Đây là những tuyến giao thông huyết mạch vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh của huyện, tạo thuận lợi cho Bù Đăng giao thương kinh tế với các tỉnh miền Đông Nam bộ và các tỉnh Tây Nguyên; giúp huyện gần hơn với các đô thị và khu dân cư thuộc vùng trọng điểm kinh tế phía Nam. Mạng lưới đường nhựa đã tới tất cả xã, thị trấn; đường liên xã, liên thôn ngày càng được nhựa hóa, bê tông hóa nhiều, tạo thuận lợi trong sản xuất, vận chuyển hàng hóa, nông sản của nhân dân.
Huyện Bù Đăng gần Nhà máy thủy điện Thác Mơ và trên địa bàn huyện còn có Nhà máy thủy điện Đắk Glun II, Thủy điện Đắk Ka, Thủy điện ĐaM’lo, Thủy điện Trường Sơn (Thống Nhất) đang triển khai xây dựng sẽ là nguồn cung cấp điện vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế. Ngoài tài nguyên đất và nước, địa bàn huyện còn có nhiều loại tài nguyên khoáng sản với trữ lượng khá lớn như cát, sỏi, đá, gạch, bôxít… phục vụ xây dựng. Với quy mô và cơ cấu sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng như hiện nay, ước tính giá trị tăng bình quân 13-14%/năm. Bù Đăng tập trung phát triển ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, sản xuất và chế biến các sản phẩm nông – lâm nghiệp như: cao su, cà phê, hồ tiêu, điều; sản xuất phân bón, thức ăn gia súc để tạo giá trị tăng thêm cho mặt hàng nông sản. Đây là chiến lược hết sức quan trọng, là một “nắm đấm” để tạo động lực cho sự phát triển nhanh và vững chắc ngắn hạn cũng như trong dài hạn…
Bên cạnh lợi thế về phát triển nông nghiệp và công nghiệp, Bù Đăng còn có tiềm năng về du lịch rất lớn. Do trong khu vực có nhiều sông suối, hồ đập, với quần thể thực vật phong phú, có cảnh quan thiên nhiên tương đối đa dạng, lại có 34 dân tộc anh em sinh sống, đặc biệt có cộng đồng người S’tiêng, Mơnông sinh sống lâu đời, trải qua nhiều thế hệ đã hình thành những giá trị văn hóa truyền thống vô cùng đặc sắc như: cồng chiêng, thổ cẩm, ẩm thực và các lễ hội dân gian, nhất là truyền thống yêu nước gắn với địa danh sóc Bom Bo đã đi vào huyền thoại đánh Mỹ trong cả nước, đã được tỉnh Bình Phước đầu tư xây dựng hoàn thành giai đoạn 1. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 2 di tích lịch sử (chùa Đức Bổn A Lan Nhã, Đồi Chi khu); 1 di tích khảo cổ (Di chỉ Dốc năm cây); 2 danh lam thắng cảnh (thác Voi, thác Bù Xa); 3 di tích danh lam thắng cảnh (trảng cỏ Bù Lạch, thác Đứng, thác Pan Toong); 1 di tích ghi dấu sự kiện (Căn cứ Nửa Lon)… Đây là những tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái và du lịch văn hóa của huyện.
Bù Đăng có nguồn nhân lực rất dồi dào, với 93.727 người trong độ tuổi lao động, chiếm 64,05% số dân toàn huyện. Nhân dân có truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động sản xuất, chịu khó khắc phục khó khăn, gian khổ. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; các dân tộc luôn đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Những điều kiện tự nhiên – xã hội này là tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội của huyện trong những năm tới. Vì vậy, huyện đã đề ra một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đó là: Phấn đấu xây dựng Bù Đăng phát triển bền vững, hài hòa giữa khu vực đô thị và nông thôn, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, Đức Phong đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV. Phát triển các trung tâm hành chính xã trở thành đô thị vệ tinh, hệ thống hạ tầng hoàn thiện để thu hút các loại hình dịch vụ chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh.Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng; tạo bước đột phá thúc đẩy phát triển dịch vụ; chú trọng phát triển nông nghiệp chất lượng cao, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển đô thị; cải cách hành chính, giải quyết tốt vấn đề môi trường; nâng cao chất lượng GD-ĐT; giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…
Để khai thác, phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và thực hiện được các chỉ tiêu đó, trong thời gian tới huyện Bù Đăng sẽ tập trung thực hiện một số giải pháp, định hướng phát triển như sau:
Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả thu nhập trên một đơn vị diện tích, có cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp điều kiện tự nhiên của huyện, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Khuyến khích chăn nuôi theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp, mô hình trang trại gắn với phát triển kinh tế vườn, đồi; khuyến khích phát triển các loại hình hợp tác xã; đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Tăng cường liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tạo điều kiện để thu hút tối đa mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn. Chú trọng công nghiệp chế biến nông sản, vật liệu xây dựng, các dự án cung cấp các dịch vụ xã hội, công nghệ sinh học. Quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng từ 1-2 cụm công nghiệp đã quy hoạch và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, rà soát điều chỉnh các cụm công nghiệp cho phù hợp với sự phát triển của địa phương. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội, nhất là các công trình trọng điểm, cấp thiết. Tiếp tục thực hiện tốt xã hội hóa làm đường giao thông nông thôn. Quản lý và sử dụng hiệu quả các tuyến đường hiện có.
Đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại đã được quy hoạch. Khai thác hiệu quả bến xe khách, đẩy mạnh lưu chuyển hàng hóa, phục vụ việc đi lại của nhân dân. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống hàng giả, hàng lậu, gian lận thương mại. Khuyến khích phát triển các loại hình du lịch, chú trọng đầu tư các loại hình du lịch, thương mại – dịch vụ gắn với du lịch làng nghề, kết nối Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo và trảng cỏ Bù Lạch với các điểm du lịch của tỉnh và các tỉnh, thành dọc tuyến quốc lộ 14.
Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất đai. Đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện tốt việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhân dân yên tâm đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Công khai minh bạch thủ tục hành chính, thời gian giải quyết trên trang thông tin điện tử của huyện và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan, đơn vị. Bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức có năng lực, trách nhiệm trong hướng dẫn chuẩn bị hồ sơ, tiếp nhận, xử lý các thủ tục hành chính.
Tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học bảo đảm công tác giảng dạy. Tập trung phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của huyện, đáp ứng mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.