vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Ngày mới là một trong nhiều tác phẩm của bộ "Việt Nam danh tác". Ảnh: N.N.
Chàng thanh niên trẻ nghĩ rằng tiền bạc, giàu sang chỉ như như giấc mộng phù du. Khi trở thành trụ cột gia đình, người đàn ông ấy nhận ra mình đã quá ngây thơ.
“Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” câu thơ ấy của Nguyễn Du không chỉ đúng với nàng Kiều, mà còn đúng với cả Thạch Lam. Ông rời xa nhân thế khi mới 32 tuổi và tài năng đang còn nhiều hứa hẹn. Bởi thế, khi nhắc tới Thạch Lam, trong lòng hậu thế không chỉ ngưỡng mộ mà còn đầy tiếc nuối. Ông để lại cho đời thứ văn chương hào hoa, tinh tế, đầy nhân văn và duy mỹ.
Thạch Lam
đã dùng ngòi bút để đào sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, phơi bày những buồn đau, chán nản mà người ta không muốn giấu đi. Khả năng miêu tả nội tâm của Thạch Lam được thể hiện qua nhiều truyện ngắn, nhưng phải đến truyện dài
Ngày mới
, độc giả mới thấy hết được cái tài tình của ông khi khai phá những tầng sâu câm lặng nơi tâm hồn.
Đọc
Ngày mới
, độc giả đi qua nhiều cung bậc cảm xúc phức tạp cùng nhân vật Trường, một anh học trò vừa mới thi đỗ Thành chung. Trước kia, bố của Trường là một ông phán, trong nhà cũng có chút của ăn của để, được nở mày nở mặt với họ hàng. Thế nhưng, từ khi cha cậu chết, cảnh nhà sa sút, mẹ Trường phải gồng gánh gia đình cũng chẳng dễ dàng gì.
Tuy là con trưởng, nhưng cậu Xuân anh của Trường lại ham ăn biếng làm, lương chỉ ba cọc ba đồng, nên gia đình luôn lâm vào cảnh túng thiếu. Chuyện tình cảm của hai vợ chồng Xuân và Dung cũng chẳng êm đẹp. Thế nên, bao nhiêu hy vọng của bà phán đều được đặt lên người cậu con trai thứ là Trường.
Ngày Trường thi đỗ, bà phán mừng lắm. Bà tưởng tượng ra cảnh con học lên cao đẳng, rồi có một công việc đàng hoàng, lương cao. Nhờ đó, gia đình bà lại được họ hàng nể nang như xưa. Mẹ Trường còn có ý ướm hỏi cô Hảo, con gái của nhà bà Hai có tiếng khá giả trong vùng cho cậu con thứ. Chuyện tốt mà thành cả đôi thì người phụ nữ ấy không mong ước gì hơn.
Có điều, Trường không nghĩ giống mẹ chàng, với công danh và cô gái xuất thân giàu có kia chàng đều dửng dưng. Cậu thanh niên ấy chỉ muốn sống một đời an nhàn, tự do tự tại.
Trong lần về quê nhà ở An Lâm, Trường đã gặp Trinh, một cô gái hiền lành, nết na. Họ đã phải lòng nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chàng trai cãi lời mẹ, quyết định cưới Trinh về làm vợ.
Trường phải bỏ dở việc học cao đẳng, tìm việc làm để nuôi gia đình nhỏ. Đồng lương bèo bọt, nhưng phải gánh trên vai chuyện cơm áo của vợ con ,Trường nhận áp lực cuộc sống của người đàn ông trưởng thành lớn tới mức nào.
Tiền bạc không buông tha chàng dù chỉ một giây, một phút. Lương thấp, lại thêm con nhỏ hay ốm đau, hai vợ chồng lúc nào cũng rơi vào cảnh túng thiếu, phải vay mượn khắp nơi.
Tình cờ ra phố bắt gặp Hảo đang sánh bước cùng chồng vào cửa hiệu, quần là áo lượt, Trường thấy giận chính mình. Giây phút ấy, anh có cảm giác như đang đối diện với quá khứ, nhìn lại cơ hội mà mình đã bỏ lỡ. Nếu ngày ấy Trường đồng ý cưới Hảo, cuộc đời chàng đã khác rồi.
Mẹ của Trường đã vẽ ra một tương lai tươi sáng nếu cậu con thứ cưới một cô gái nhà khá giả như cô Hảo. Nhưng chàng trai hai mươi còn nông nổi thì bỏ qua chuyện đó, một lòng đi theo tiếng gọi của tình yêu. Vài năm trôi qua, gánh nặng cơm áo thúc bách con người, tình yêu kia chỉ còn lại bao thất vọng và mâu thuẫn.
Tiếng khóc của đứa con đang ốm đã thức tỉnh Trường. Người đàn ông, bỗng nhận ra mình đã cư xử tệ với vợ con. Cô Trinh vợ chàng đâu làm gì nên tội. Thân gái yếu đuối, Trinh luôn mong Trường trở thành chỗ dựa, che chở cho hai mẹ con nàng. Từ trước tới giờ, người vợ ấy đâu có trách chồng kém cỏi, để cả nhà túng thiếu. Nàng vẫn âm thầm chịu đựng, cư xử dịu dàng và ân cần với chồng.
Thế nhưng Trường lại mang tất cả thất vọng, chán nản của bản thân đổ lên người vợ, bắt nàng phải chịu những cơn giận vô cớ, làm vậy chẳng phải ích kỷ lắm sao? Con người ta không thể thoát khỏi túng quẫn trong ngày một ngày hai, nhưng có thể dùng thái độ lạc quan hơn để đối diện với nó.
Câu chuyện của Trường trong
Ngày mới
đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Thời đại nào cũng vậy, cuộc sống luôn đầy rẫy áp lực, học cách lấy lại sự cân bằng trong tâm trí, để gạt bỏ phiền não, lấy lại tinh thần lạc quan không phải là điều dễ dàng.
Rời khỏi văn phòng sau một ngày làm việc mệt mỏi, chúng ta chợt nhận ra mình đã quá viễn vông khi mơ tưởng tới một cuộc sống thư thái, an nhàn, không màng tới tiền bạc như Trường đã từng mơ. Cuộc đời vốn là một cuộc đua, vất vả và mệt mỏi là không thể tránh, ai cũng phải cố gắng không ngừng.
Nhưng cũng đừng vì thế mà để tiền bạc ám ảnh tâm trí, hãy tìm tới những niềm vui nhỏ nhoi, như ngắm một nụ hồng mới nở sớm mai để cho tâm hồn được nghỉ ngơi. Bởi sống ở đời, ngoài tiền bạc, con người luôn cần niềm vui.
|
New Day is one of many works in the series "Vietnamese masterpieces". Photo: N.N.
The young man thought that money and wealth were just like a fleeting dream. When he became the breadwinner, that man realized he had been too naive.
"There is no such thing as ingenuity that makes heaven and earth jealous" that poem by Nguyen Du is not only true for Kieu, but also true for Thach Lam. He left this world when he was only 32 years old and his talent was still very promising. Therefore, when mentioning Thach Lam, posterity is not only filled with admiration but also with regret. He left behind a splendid, sophisticated, humane and aesthetically pleasing literature.
Heather
used his pen to dig deep into the character's inner world, revealing the sadness and depression that people do not want to hide. Thach Lam's ability to describe his inner thoughts is shown through many short stories, but not long stories
New Day
, readers can fully see his ingenuity when exploring the silent depths of the soul.
Read
New Day
, readers go through many complex emotions with the character Truong, a student who has just passed the Thanh Chung exam. Previously, Truong's father was a judge. The family also had some food and wealth, and was able to show off to relatives. However, since his father died, the family situation has deteriorated, and Truong's mother has had to support the family, which is not easy.
Although he is the eldest son, Truong's older brother, Xuan, is lazy and lazy, his salary is only three dong or three dong, so the family is always in poverty. The love story between Xuan and Dung is not smooth either. Therefore, all of her hopes were placed on her younger son, Truong.
The day Truong passed the exam, she was very happy. She imagined her child going to college and then having a decent, high-paying job. Thanks to that, her family was respected by relatives again like before. Truong's mother also intended to ask Ms. Hao, the daughter of Mrs. Hai's family, who was well-off in the area, to give her her second son. If a good thing becomes a couple, that woman wants nothing more.
However, Truong did not think the same way as his mother. He was indifferent to her reputation and the girl from a rich background. That young man just wanted to live a comfortable, free life.
While returning home to An Lam, Truong met Trinh, a gentle and modest girl. They fell in love at first sight. The boy disobeyed his mother and decided to marry Trinh.
I had to give up my college studies and find a job to support my small family. With a low salary, but having to shoulder the burden of food and clothing for his wife and children, Truong realizes how great the pressure of life is for an adult man.
Money does not let him go even for a second or a minute. With low wages, coupled with young children who are often sick, the couple is always in need and has to borrow from everywhere.
By chance, on the street, she saw Hao walking side by side with her husband into the store, ironing her clothes, and Truong felt angry with herself. At that moment, he felt like he was facing the past, looking back at the opportunity he had missed. If Truong had agreed to marry Hao that day, his life would have been different.
Truong's mother painted a bright future if her middle son married a girl from a well-off family like Ms. Hao. But the boy in his twenties, still impulsive, ignored that and wholeheartedly followed the call of love. A few years passed, the burden of food and clothing pushed people, that love left only disappointment and contradictions.
The cry of the sick child awakened Truong. The man suddenly realized that he had behaved badly towards his wife and children. Miss Trinh, his wife, did nothing to deserve her crime. As a weak girl, Trinh always hoped that Truong would become a support and protection for her and her mother. Up until now, that wife has never blamed her husband for being incompetent and leaving the whole family in need. She still endured silently, behaving gently and considerately with her husband.
However, Truong brought all his disappointment and frustration onto his wife, forcing her to suffer unjustified anger. Isn't that very selfish? People cannot escape poverty in a day or two, but they can use a more optimistic attitude to face it.
The story of Truong in
New Day
still remains valid today. As in any era, life is always full of pressure, learning how to regain balance in the mind, to get rid of troubles, and regain optimism is not easy.
Leaving the office after a tiring day of work, we suddenly realize that we have been too unrealistic when dreaming of a relaxing, leisurely life, not caring about money like Truong once dreamed. Life is inherently a race, hardship and fatigue are inevitable, everyone has to keep trying.
But don't let money haunt your mind, look for small joys, like looking at a new rose bud blooming early in the morning to give your soul a rest. Because in life, in addition to money, people always need joy.
|
Thế giới văn chương rộng lớn đến mức vô cùng, vô tận và cũng như thế giới mà chúng ta đang sống, còn rất nhiều việc để làm, phải làm. Tất cả luôn là một hành trình tới đích. Đích đến ấy có thể là chân trời. Và trong văn chương, nói một cách chung nhất, ý nghĩa nhất – ấy là chân trời sáng tạo. Tôi đã từng cho là vậy và từng viết:
Chúng ta đi về phía chân trời/ Chân trời không ở đấy/ Nhưng vẫn phải đi, đi mãi không thôi/ Vì tin, chân trời khác vẫn còn ở đấy
.
Đối với người cầm bút, nhiều việc “để làm” và “phải làm” ấy là phải “để tiếng” qua văn chương. Muốn “để tiếng” trong văn chương, người viết phải có kiểu, có cách. Rồi nhờ kiểu và cách cộng với tài năng phần nhiều do thiên bẩm, mà tạo dựng được phong cách. Rốt cục, tác phẩm chính là kết quả và thước đo cuối cùng. Riêng đối với thơ, đơn vị thơ, theo tôi là rất quan trọng. Một một bài thơ, nhiều khi “đứng” được là nhờ nương vào một đơn vị thơ. Có khi một bài thơ đứng được là nhờ nương vào một câu thơ, một câu thơ đứng được là nhờ nương vào một từ, một chữ đặt đúng chỗ, sử dụng một cách linh hoạt. Có lẽ vì thế mà lúc sinh thời, nhà thơ Lê Đạt từng nói:
Chữ bầu lên nhà thơ
chăng?
Tôi đã nghĩ như thế về nhà thơ Ngô Thế Trường khi đọc những tập thơ:
Sóng mặn
,
Mùa sương muối biển
,
Mặt trời đáy bể
,
Thơ biển
,
Những lỗ vuông
của ông được xuất bản qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn vào các năm: 2012, 2013, 2014, 2016 và phát triển theo hướng ấy. Và cũng chẳng khó khăn gì, tôi đã tìm ra
chữ bầu lên nhà thơ
của Ngô Thế Trường theo tạng người và tạng thơ ông.
Một ngư dân uống rượu
là một tứ thơ giản dị ngỡ khó giản dị hơn, thế tục khó thế tục hơn, nhi nhiên khó nhiên hơn. Tác giả cứ lấy chuyện một ngư dân uống rượu ra mà kể: Nhỏ thì là thằng cu hay sờ ti mẹ trên mui thuyền, đói thì là kẻ ăn ăn vụng cơm dành cho vợ, thích thì vỗ trộm mông người đàn bà bạc hạ… nhưng khi chèo thuyền thì là thằng bơi mạn mũi, xuống biển thì thích lặn sâu, khi bực dọc điên điên thì cho vợ xuống biển… Rồi ngư dân tự nhận:
Nhưng chưa bao giờ tôi là người đàn ông xảo trá
Dễ quên những đêm nằm trên bụng vợ
Mụ đàn bà đã sinh cho tôi mấy đứa con…
Và đáng kể nhất là:
Tôi chỉ là ngư dân
Thích ra khơi đánh được nhiều cá
Gió ngược, tôi đè con nước…
Như vậy, ngư dân ấy đã sống thực với mình, bộc lộ hết bản chất của mình và là người đàn ông tử tế. Sự hết lòng của ngư dân thể hiện ở những câu:
Khi chèo tôi là thằng bơi mạn mũi/ Xuống biển tôi là thằng thích lặn dưới đáy biển sâu; Thích ra khơi đánh được nhiều cá
… Ngư dân ấy cũng không quên
những đêm nằm trên bụng vợ.
Dường như động từ đè được cất kỹ trong câu:
Nằm trên bụng vợ
. Nhưng chữ đè ở câu kết mới đắt:
Gió ngược, tôi đè con nước
…
Thơ ấy là thơ viết như không vậy!
Một ví dụ khác: Bài
Quy Nhơn
. Từ sự khởi động của:
Nắng ươm vàng Quy Nhơn
Biển liếm xanh Quy Nhơn
Núi dướn nghìn vú đất
Lay phay mấy tháp Chàm
rồi:
Ô Loan chợt thương cảm
Đã lịm vào tóc mây
mà dẫn đến như một tất nhiên:
Núi như người tình lớn
Đè nghiêng chiều Quy Nhơn.
Ở đây, động từ
đè
được đặt trong một không gian khác và xuất hiện bất ngờ, vừa rộng lớn, vừa khốc liệt, vừa khác thường, vừa ước lệ, mang một vẻ đẹp tình yêu và khát vọng thuộc về tự nhiên.
Thơ ấy là thơ viết mà như bắt được vậy!
Một ví dụ khác nữa:
Những hạt sương trên cánh đồng
. Bài thơ có câu:
Cánh đồng như người đàn bà nằm im hứng chịu
. Một
người đàn bà phải nằm im hứng chịu,
dứt khoát là bị cưỡng bức. Còn cả cánh đồng mà cũng như thế thì cũng là đang bị đè ngửa ra để người ta ra sức bóc lột tài nguyên không ngừng, không nghỉ. Sự bóc lột không từ đời này sang đời khác ấy khiến:
Giọt nước mắt đêm nào cũng nhỏ
Tội chi đêm khóc thầm
Tội chi dòng sông nghẹn nấc
Cánh đồng như người đàn bà nằm im hứng chịu…
Đó cũng là sự bóc lột mang tình truyền kiếp và sự hành xử quen thuộc của con người trước thiên nhiên.
Còn trong
Nhai lại cỏ
để
Cỏ thành máu/ Thành cơ đỏ/ Thành sữa thơm/ Thành những cuộn tinh trùng khoái lạc/ Sinh chú bê có đôi gót nhỏ
… Để rồi
Ưỡn mùa tung tẩy xanh
. Mấy từ
Ưỡn mùa tung tẩy xanh
vừa rất động và cũng rất gợi, trong đó
tung tẩy xanh
là một chi tiết đắt.
Trong những tập thơ đã công bố, độc giả còn bắt gặp nhiều câu thơ tình tứ cho thấy sự gặp gỡ nhau, tiếp xúc nhau nhiều chiều, trong nhiều tình huống, trạng thái ở nhiều mức độ khác nhau, tầng nấc khác nhau. Có thể thống kê mà không cần nói thêm. Đó là:
Trời đất giao nhau cũng nghẹn mùa
trong
Vắng
. Đó là:
Biển trải cánh đồng ươm đẻ/ Đàn dugong tung tăng gọi bạn/ Sục sôi mùa sinh
trong
Tiếng gọi dugong
. Đó là:
Con sông cong chảy từ ruột phố/ Chảy từ tình yêu mỗi con người/ Sông đắm mình ôm phố ngàn năm
trong
Tam Bạc
. Đó là:
Trời vẫn xanh tận cùng trong suốt đáy/ Biển mênh mông thăm thẳm cũng một màu/ Thái Bình Dương xoắn lõm từ vũ trụ/ Mỗi mùa thu xúc ổ lại xoay mùa
trong
Mùa bão đẻ
. Đó là:
Sông Đà ùn lên Ba Vì/ Mấy núm vú của trời cong biếc/ Sữa mây trôi nắng vắt xa
trong
Những người đội đá chiều sông Đà
. Đó là:
Lý Sơn nghiêng năm hòn đảo chắn/ Biển cũng giao tình! Ta nợ một đêm trăng
trong
Nợ một đêm trăng
. Đó là:
Nắng thả vàng lấp lánh trên cao/ Tháp Rùa run giống em trong áo mỏng/ Hôn muốn cháy đôi lá bàng chín mọng/ Mưa chợt về đọng ướt mấy vì sao
trong
Hồ Gươm
. Đó là:
Giao phối cùng đất đai tràn nước/ Sẽ úa vàng đêm trở dạ heo may
trong
Cỏ
… Đó là
Một Phú Quốc cởi trần trên sóng/ Núi Trường Sơn dằng dặc đến đây nằm
trong
Phú Quốc
…
Theo tôi, chỉ có người có xuất phát điểm:
Va chạm kinh hoàng si mê tình ái
cùng với
Chúng ta yêu nhau cuồn cuộn bão từ/ Va chạm mở thiên hà sinh nở
(Va chạm) và
Anh biết mình đang ôm cả một thời xa lắc/ Và một thời đang đến mai sau
(Hạt quắc) mới sở hữu được những câu thơ như thế! Xa xưa, các cụ nhà ta dạy
Nước nào thì sông ấy/ Cây nào thì rừng ấy
… quả không sai!
Xét cho cùng, những câu thơ trên thiên về tính dục, mang dáng dấp tính dục. Tính dục ở đây là ham muốn, là hướng tới, là động lực hấp dẫn nhau từ hai phía âm – dương, có sắc màu và vẻ đẹp của sự nảy nở, sinh sôi.
Kinh Phật
Thủ lăng nghiêm
viết: “Vọng sinh dục, dục sinh thập nhị nhân duyên”. Có thể hiểu: Thập nhị nhân duyên là mười hai căn nguyên dẫn đến cái khổ ải của loài người. Khi đọc những dòng này, sinh thời, nhà thơ Phạm Tiến Duật có bàn thêm: “Về đời người thì lại là chuyện khác, nhưng với thơ, tôi nghĩ rằng: Chính vọng sinh dục, rồi dục lại sinh thi ca. Không có lòng ham muốn, không có sự ấm nóng trong lòng người viết, sẽ không có thơ”.
Vậy thì
dục
trong thơ Ngô Thế Trường cũng sinh từ
vọng
vậy và cũng nhờ
dục
mà mới có thơ!
Nhưng thơ Ngô Thế Trường không chỉ có thế! Ông tự nhận
bất ngờ mình là người của biển/ Biển ở trong mình, trong máu chảy, mồ hôi
/
là con tàu thả chiếc neo yêu
và
Máu trong ta có muối khơi xa
(Đêm Rạch Giá). Và phải trải nghiệm như thế nào, Ngô Thế Trường có một phát hiện thật sâu sắc về cõi người, cõi đời như thế này:
Mặt đất đo chính xác người nằm
(Màu đêm). Và nhiều, nhiều nữa… Tôi sẽ trở lại với thơ Ngô Thế Trường ở những mảng đáng kể, ấn tượng khác, nhưng không ở trong phạm vi bài viết này.
Tôi đã từng viết: “Thơ Ngô Thế Trường vạm vỡ với những va chạm, đứt gẫy, chuyển động, vừa đột khởi, vừa dữ dằn”, nay lại viết thêm: “Thơ Ngô Thế Trường như những viên đá luôn va đập vào nhau, tạo ra ngồn ngộn hình ảnh, tạo ra những luồng lạch âm thanh trong một nhịp điệu khác lạ, khiến người ta hình dung ra những khám phá cũng rất khác lạ và mới mẻ của một cây bút có cá tính.
|
Thế giới văn chương rộng lớn đến mức vô cùng, vô tận và cũng như thế giới mà chúng ta đang sống, còn rất nhiều việc để làm, phải làm. Tất cả luôn là một hành trình tới đích. Đích đến ấy có thể là chân trời. Và trong văn chương, nói một cách chung nhất, ý nghĩa nhất – ấy là chân trời sáng tạo. Tôi đã từng cho là vậy và từng viết:
Chúng ta đi về phía chân trời/ Chân trời không ở đấy/ Nhưng vẫn phải đi, đi mãi không thôi/ Vì tin, chân trời khác vẫn còn ở đấy
.
Đối với người cầm bút, nhiều việc “để làm” và “phải làm” ấy là phải “để tiếng” qua văn chương. Muốn “để tiếng” trong văn chương, người viết phải có kiểu, có cách. Rồi nhờ kiểu và cách cộng với tài năng phần nhiều do thiên bẩm, mà tạo dựng được phong cách. Rốt cục, tác phẩm chính là kết quả và thước đo cuối cùng. Riêng đối với thơ, đơn vị thơ, theo tôi là rất quan trọng. Một một bài thơ, nhiều khi “đứng” được là nhờ nương vào một đơn vị thơ. Có khi một bài thơ đứng được là nhờ nương vào một câu thơ, một câu thơ đứng được là nhờ nương vào một từ, một chữ đặt đúng chỗ, sử dụng một cách linh hoạt. Có lẽ vì thế mà lúc sinh thời, nhà thơ Lê Đạt từng nói:
Chữ bầu lên nhà thơ
chăng?
Tôi đã nghĩ như thế về nhà thơ Ngô Thế Trường khi đọc những tập thơ:
Sóng mặn
,
Mùa sương muối biển
,
Mặt trời đáy bể
,
Thơ biển
,
Những lỗ vuông
của ông được xuất bản qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn vào các năm: 2012, 2013, 2014, 2016 và phát triển theo hướng ấy. Và cũng chẳng khó khăn gì, tôi đã tìm ra
chữ bầu lên nhà thơ
của Ngô Thế Trường theo tạng người và tạng thơ ông.
Một ngư dân uống rượu
là một tứ thơ giản dị ngỡ khó giản dị hơn, thế tục khó thế tục hơn, nhi nhiên khó nhiên hơn. Tác giả cứ lấy chuyện một ngư dân uống rượu ra mà kể: Nhỏ thì là thằng cu hay sờ ti mẹ trên mui thuyền, đói thì là kẻ ăn ăn vụng cơm dành cho vợ, thích thì vỗ trộm mông người đàn bà bạc hạ… nhưng khi chèo thuyền thì là thằng bơi mạn mũi, xuống biển thì thích lặn sâu, khi bực dọc điên điên thì cho vợ xuống biển… Rồi ngư dân tự nhận:
Nhưng chưa bao giờ tôi là người đàn ông xảo trá
Dễ quên những đêm nằm trên bụng vợ
Mụ đàn bà đã sinh cho tôi mấy đứa con…
Và đáng kể nhất là:
Tôi chỉ là ngư dân
Thích ra khơi đánh được nhiều cá
Gió ngược, tôi đè con nước…
Như vậy, ngư dân ấy đã sống thực với mình, bộc lộ hết bản chất của mình và là người đàn ông tử tế. Sự hết lòng của ngư dân thể hiện ở những câu:
Khi chèo tôi là thằng bơi mạn mũi/ Xuống biển tôi là thằng thích lặn dưới đáy biển sâu; Thích ra khơi đánh được nhiều cá
… Ngư dân ấy cũng không quên
những đêm nằm trên bụng vợ.
Dường như động từ đè được cất kỹ trong câu:
Nằm trên bụng vợ
. Nhưng chữ đè ở câu kết mới đắt:
Gió ngược, tôi đè con nước
…
Thơ ấy là thơ viết như không vậy!
Một ví dụ khác: Bài
Quy Nhơn
. Từ sự khởi động của:
Nắng ươm vàng Quy Nhơn
Biển liếm xanh Quy Nhơn
Núi dướn nghìn vú đất
Lay phay mấy tháp Chàm
rồi:
Ô Loan chợt thương cảm
Đã lịm vào tóc mây
mà dẫn đến như một tất nhiên:
Núi như người tình lớn
Đè nghiêng chiều Quy Nhơn.
Ở đây, động từ
đè
được đặt trong một không gian khác và xuất hiện bất ngờ, vừa rộng lớn, vừa khốc liệt, vừa khác thường, vừa ước lệ, mang một vẻ đẹp tình yêu và khát vọng thuộc về tự nhiên.
Thơ ấy là thơ viết mà như bắt được vậy!
Một ví dụ khác nữa:
Những hạt sương trên cánh đồng
. Bài thơ có câu:
Cánh đồng như người đàn bà nằm im hứng chịu
. Một
người đàn bà phải nằm im hứng chịu,
dứt khoát là bị cưỡng bức. Còn cả cánh đồng mà cũng như thế thì cũng là đang bị đè ngửa ra để người ta ra sức bóc lột tài nguyên không ngừng, không nghỉ. Sự bóc lột không từ đời này sang đời khác ấy khiến:
Giọt nước mắt đêm nào cũng nhỏ
Tội chi đêm khóc thầm
Tội chi dòng sông nghẹn nấc
Cánh đồng như người đàn bà nằm im hứng chịu…
Đó cũng là sự bóc lột mang tình truyền kiếp và sự hành xử quen thuộc của con người trước thiên nhiên.
Còn trong
Nhai lại cỏ
để
Cỏ thành máu/ Thành cơ đỏ/ Thành sữa thơm/ Thành những cuộn tinh trùng khoái lạc/ Sinh chú bê có đôi gót nhỏ
… Để rồi
Ưỡn mùa tung tẩy xanh
. Mấy từ
Ưỡn mùa tung tẩy xanh
vừa rất động và cũng rất gợi, trong đó
tung tẩy xanh
là một chi tiết đắt.
Trong những tập thơ đã công bố, độc giả còn bắt gặp nhiều câu thơ tình tứ cho thấy sự gặp gỡ nhau, tiếp xúc nhau nhiều chiều, trong nhiều tình huống, trạng thái ở nhiều mức độ khác nhau, tầng nấc khác nhau. Có thể thống kê mà không cần nói thêm. Đó là:
Trời đất giao nhau cũng nghẹn mùa
trong
Vắng
. Đó là:
Biển trải cánh đồng ươm đẻ/ Đàn dugong tung tăng gọi bạn/ Sục sôi mùa sinh
trong
Tiếng gọi dugong
. Đó là:
Con sông cong chảy từ ruột phố/ Chảy từ tình yêu mỗi con người/ Sông đắm mình ôm phố ngàn năm
trong
Tam Bạc
. Đó là:
Trời vẫn xanh tận cùng trong suốt đáy/ Biển mênh mông thăm thẳm cũng một màu/ Thái Bình Dương xoắn lõm từ vũ trụ/ Mỗi mùa thu xúc ổ lại xoay mùa
trong
Mùa bão đẻ
. Đó là:
Sông Đà ùn lên Ba Vì/ Mấy núm vú của trời cong biếc/ Sữa mây trôi nắng vắt xa
trong
Những người đội đá chiều sông Đà
. Đó là:
Lý Sơn nghiêng năm hòn đảo chắn/ Biển cũng giao tình! Ta nợ một đêm trăng
trong
Nợ một đêm trăng
. Đó là:
Nắng thả vàng lấp lánh trên cao/ Tháp Rùa run giống em trong áo mỏng/ Hôn muốn cháy đôi lá bàng chín mọng/ Mưa chợt về đọng ướt mấy vì sao
trong
Hồ Gươm
. Đó là:
Giao phối cùng đất đai tràn nước/ Sẽ úa vàng đêm trở dạ heo may
trong
Cỏ
… Đó là
Một Phú Quốc cởi trần trên sóng/ Núi Trường Sơn dằng dặc đến đây nằm
trong
Phú Quốc
…
Theo tôi, chỉ có người có xuất phát điểm:
Va chạm kinh hoàng si mê tình ái
cùng với
Chúng ta yêu nhau cuồn cuộn bão từ/ Va chạm mở thiên hà sinh nở
(Va chạm) và
Anh biết mình đang ôm cả một thời xa lắc/ Và một thời đang đến mai sau
(Hạt quắc) mới sở hữu được những câu thơ như thế! Xa xưa, các cụ nhà ta dạy
Nước nào thì sông ấy/ Cây nào thì rừng ấy
… quả không sai!
Xét cho cùng, những câu thơ trên thiên về tính dục, mang dáng dấp tính dục. Tính dục ở đây là ham muốn, là hướng tới, là động lực hấp dẫn nhau từ hai phía âm – dương, có sắc màu và vẻ đẹp của sự nảy nở, sinh sôi.
Kinh Phật
Thủ lăng nghiêm
viết: “Vọng sinh dục, dục sinh thập nhị nhân duyên”. Có thể hiểu: Thập nhị nhân duyên là mười hai căn nguyên dẫn đến cái khổ ải của loài người. Khi đọc những dòng này, sinh thời, nhà thơ Phạm Tiến Duật có bàn thêm: “Về đời người thì lại là chuyện khác, nhưng với thơ, tôi nghĩ rằng: Chính vọng sinh dục, rồi dục lại sinh thi ca. Không có lòng ham muốn, không có sự ấm nóng trong lòng người viết, sẽ không có thơ”.
Vậy thì
dục
trong thơ Ngô Thế Trường cũng sinh từ
vọng
vậy và cũng nhờ
dục
mà mới có thơ!
Nhưng thơ Ngô Thế Trường không chỉ có thế! Ông tự nhận
bất ngờ mình là người của biển/ Biển ở trong mình, trong máu chảy, mồ hôi
/
là con tàu thả chiếc neo yêu
và
Máu trong ta có muối khơi xa
(Đêm Rạch Giá). Và phải trải nghiệm như thế nào, Ngô Thế Trường có một phát hiện thật sâu sắc về cõi người, cõi đời như thế này:
Mặt đất đo chính xác người nằm
(Màu đêm). Và nhiều, nhiều nữa… Tôi sẽ trở lại với thơ Ngô Thế Trường ở những mảng đáng kể, ấn tượng khác, nhưng không ở trong phạm vi bài viết này.
Tôi đã từng viết: “Thơ Ngô Thế Trường vạm vỡ với những va chạm, đứt gẫy, chuyển động, vừa đột khởi, vừa dữ dằn”, nay lại viết thêm: “Thơ Ngô Thế Trường như những viên đá luôn va đập vào nhau, tạo ra ngồn ngộn hình ảnh, tạo ra những luồng lạch âm thanh trong một nhịp điệu khác lạ, khiến người ta hình dung ra những khám phá cũng rất khác lạ và mới mẻ của một cây bút có cá tính.
|
Công tác tái thiết sau động đất ở
Thổ Nhĩ Kỳ
đang đối mặt nhiều thách thức do tình trạng thiếu lao động trầm trọng, đặc biệt khi số lượng công trình xây dựng tăng mạnh sau thảm họa.
Cảnh đổ nát sau trận động đất tại Adiyaman, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 23/2/2023. (Ảnh: THX/TTXVN).
Hơn 2 tháng sau trận động đất kinh hoàng ở miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ, chính phủ nước này đang gấp rút cho xây dựng hàng chục nghìn dự án nhà ở và cơ sở hạ tầng trong khu vực bị ảnh hưởng để kịp mục tiêu hoàn thành trong vòng 1 năm.
Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu này như cam kết của Tổng thống Recep Tayyip Erdogan đang đối mặt nhiều thách thức do tình trạng thiếu lao động trầm trọng trong những năm gần đây, đặc biệt khi số lượng công trình xây dựng tăng mạnh sau thảm họa.
Theo Cơ quan Quản lý thảm họa và tình trạng khẩn cấp (AFAD) của Thổ Nhĩ Kỳ, trận động đất ngày 6/2 ảnh hưởng đến hơn 13 triệu người sinh sống ở 11 tỉnh của nước này và rất nhiều người hiện vẫn chưa có nhà ở. AFAD cho biết sẽ xây dựng 650.000 nhà ở mới có khả năng chống chịu động đất tại các thành phố chịu thiệt hại do trận động đất trên.
Tuần trước, Bộ trưởng Môi trường, Đô thị hóa và Biến đổi khí hậu Thổ Nhĩ Kỳ Murat Kurum cho biết chính phủ nước này đặt mục tiêu hoàn thiện 319.000 nhà ở vào cuối tháng 5 tới.
Tuy nhiên, các chuyên gia xây dựng ở Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng quy mô lực lượng lao động không đủ để đáp ứng khối lượng công việc khổng lồ của rất nhiều dự án. Các chuyên gia kêu gọi sớm giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nước này thông qua đào tạo nguồn nhân lực mới và cải thiện điều kiện làm việc.
Ông Hasan Kirlangic, Chủ tịch Nghiệp đoàn công nhân xây dựng ở
Thổ Nhĩ Kỳ
, cho biết, năm 2018, nước này có gần 2,3 triệu công nhân xây dựng. Tuy nhiên, con số này đã giảm mạnh xuống còn gần 1,5 triệu người sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát.
Ông Kirlangic giải thích: “Xây dựng là công việc nặng nhọc và lực lượng lao động giảm do mức lương tương đối thấp. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu công nhân mới là do thiếu đào tạo.”
Ông cảnh báo tình trạng thiếu lao động ngành xây dựng trở nên trầm trọng hơn sau thảm họa động đất hồi tháng 2 và số lượng công nhân xây dựng hiện tại không đủ để đáp ứng mục tiêu xây hơn 600.000 nhà ở mới.
Do đó, ông Kirlangic kêu gọi chính phủ thực hiện các biện pháp khẩn cấp cải thiện vấn đề lương và điều kiện làm việc cho công nhân xây dựng để có thể khôi phục số lượng lao động trong ngành này.
Đầu tháng này, phát biểu trước ủy ban điều tra của Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ, Chủ tịch Hiệp hội các nhà thầu Thổ Nhĩ Kỳ – ông Erdal Eren, cũng nhấn mạnh tình trạng không có đủ lực lượng lao động để xây dựng nhà ở trong vùng động đất theo thời hạn do chính phủ đặt ra.
Ông Eren cho biết ngành xây dựng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm người lao động, do đó cần tăng số lượng trường đào tạo, dạy nghề trong lĩnh vực này.
Trước đó, Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 20/3 cho biết các trận động đất kinh hoàng hồi tháng Hai vừa qua sẽ khiến Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế của Syria giảm 5,5% trong năm 2023 và nước này cần 7,9 tỷ USD trong 3 năm để tái thiết.
Trước đó, WB đã dự báo GDP trong năm 2023 của Syria sẽ giảm 3,2% do xung đột vũ trang tiếp diễn, giá năng lượng và lương thực tăng cao cũng như tình trạng hạn hán dẫn đến mất mùa.
Các tác động tiêu cực của động đất khiến GDP của Syria thu hẹp thêm 2,3% nữa, theo đó giảm 5,5% trong năm nay, khiến tình hình nước này tồi tệ hơn nữa sau 12 năm xung đột.
Theo báo cáo Đánh giá nhanh về thiệt hại và nhu cầu của WB, thảm họa động đất vừa qua khiến
Syria
thiệt hại tổng cộng 5,2 tỷ USD, bao gồm 3,7 tỷ USD về hạ tầng và 1,5 tỷ USD về các vấn đề kinh tế liên quan khác.
Các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là nhà ở, giao thông, môi trường và nông nghiệp. Theo WB, trong số 7,9 tỷ USD ước tính cần để tái thiết, cần dùng 3,7 tỷ USD trong năm đầu tiên và 4,2 tỷ USD sử dụng 2 năm tiếp theo. Trong số đó, ngành nông nghiệp có nhu cầu lớn nhất (27%), tiếp theo là nhà ở (18%), bảo trợ xã hội (16%) và giao thông (12%)./.
|
Reconstruction work after the earthquake
Türkiye
are facing many challenges due to severe labor shortages, especially when the number of construction projects increases sharply after the disaster.
Scene of destruction after the earthquake in Adiyaman, Türkiye, February 23, 2023. (Photo: THX/TTXVN).
More than 2 months after the devastating earthquake in southern Türkiye, the government is rushing to build tens of thousands of housing and infrastructure projects in the affected area to meet the completion target. within 1 year.
However, achieving this goal as committed by President Recep Tayyip Erdogan is facing many challenges due to serious labor shortages in recent years, especially when the number of construction projects increased sharply after disaster.
According to Türkiye's Disaster and Emergency Management Agency (AFAD), the February 6 earthquake affected more than 13 million people living in 11 provinces of the country and many people are still homeless. House. AFAD said it will build 650,000 new earthquake-resistant housing in cities damaged by the above earthquake.
Last week, Turkish Minister of Environment, Urbanization and Climate Change Murat Kurum said the government aims to complete 319,000 houses by the end of May.
However, construction experts in Türkiye say that the size of the workforce is not enough to meet the huge workload of many projects. Experts call for quickly resolving the labor shortage in the country through training new human resources and improving working conditions.
Mr. Hasan Kirlangic, Chairman of the Construction Workers Union
Türkiye
, said that in 2018, this country had nearly 2.3 million construction workers. However, this number dropped sharply to nearly 1.5 million people after the COVID-19 pandemic broke out.
“Construction is hard work and the workforce is reduced due to relatively low wages,” Mr. Kirlangic explains. Besides, the shortage of new workers is due to lack of training.”
He warned that the labor shortage in the construction industry became more serious after the earthquake disaster in February and that the current number of construction workers was not enough to meet the target of building more than 600,000 new houses.
Therefore, Mr. Kirlangic called on the government to take urgent measures to improve wages and working conditions for construction workers to restore the number of workers in this industry.
Earlier this month, speaking before the Turkish Parliament's investigative committee, President of the Turkish Contractors Association - Mr. Erdal Eren, also emphasized the situation of not having enough labor force to build housing. in the earthquake zone according to the deadline set by the government.
Mr. Eren said the construction industry has difficulty finding workers, so it is necessary to increase the number of training and vocational schools in this field.
Previously, the World Bank (WB) said on March 20 that the devastating earthquakes in February would cause Syria's real Gross Domestic Product (GDP) to decrease by 5.5% in 2023 and The country needs 7.9 billion USD in 3 years to rebuild.
Previously, the World Bank predicted that Syria's GDP in 2023 would decrease by 3.2% due to continued armed conflict, rising energy and food prices as well as drought leading to crop failures.
The negative effects of the earthquake caused Syria's GDP to shrink by another 2.3%, down 5.5% this year, making the country's situation even worse after 12 years of conflict.
According to the World Bank's Rapid Assessment of Damage and Needs report, the recent earthquake disaster caused...
Syria
Total damage was 5.2 billion USD, including 3.7 billion USD in infrastructure and 1.5 billion USD in other related economic issues.
The most affected sectors are housing, transport, environment and agriculture. According to the World Bank, of the estimated $7.9 billion needed for reconstruction, $3.7 billion is needed in the first year and $4.2 billion is needed in the next two years. Among them, the agricultural sector has the greatest need (27%), followed by housing (18%), social protection (16%) and transportation (12%)./.
|
Ngày 25/4, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, Ngoại thương và Tôn giáo Argentina ở thủ đô Buenos Aires, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dự lễ kỷ niệm ’50 năm quan hệ ngoại giao
Việt Nam
–
Argentina
: Hiện tại và tương lai’.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dự lễ kỷ niệm “50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Argentina: Hiện tại và tương lai”. Ảnh: TTXVN.
Giám đốc Học viện Ngoại giao, Đại sứ Eduardo Lionel Demayo
nhấn mạnh Argentina coi Việt Nam là đối tác quan trọng ở khu vực châu Á và tin rằng còn rất nhiều cơ hội hợp tác và bổ trợ cho nhau giữa hai nước.
Hai nước thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện vào năm 2010 và đã mở rộng nhiều lĩnh vực hợp tác. Argentina mong muốn việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược trong một số lĩnh vực sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, đặc biệt là trong lĩnh vực lương thực và thực phẩm.
Đại sứ Eduardi Lionel Demayo cũng chia sẻ về quan điểm chính sách đối ngoại của Argentina hiện nay, cho biết hai nước đã cùng chia sẻ những quan điểm tương đồng tại một số diễn đàn quốc tế.
Đại sứ Eduardo Lionel Demayo cho rằng, để tiếp tục duy trì đối thoại chính trị, hai bên đã thiết lập cơ chế tham khảo chính trị giữa Bộ Ngoại giao hai nước, nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu…
Đại sứ Eduardo Lionel Demayo cho biết Argentina đã chuyển giao công nghệ cho Việt Nam trong xác định danh tính của các liệt sỹ; trong lĩnh vực nông nghiệp như chăn nuôi gia cầm, sản phẩm sữa, hỗ trợ phát triển phát triển giống gạo chống ngập mặn, hạt giống đậu tương; trong khoa học công nghệ, chuyển đổi số, truyền thông, đào tạo.
Đại sứ cho rằng còn rất nhiều lĩnh vực nữa tiếp tục được hai nước tăng cường hợp tác như văn hóa, giao lưu nhân dân, các vấn đề quốc tế hai bên cùng quan tâm. Chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội cho thấy mong muốn cũng như nỗ lực làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác hai nước trong thời gian tới.
Toàn cảnh lễ kỷ niệm. Ảnh: TTXVN.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
cho rằng, trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, trên phương diện hợp tác phát triển kinh tế, hai nước càng cần bổ sung, hỗ trợ cho nhau theo cơ chế hợp tác Nam – Nam nhằm đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, gắn kết chuỗi cung ứng, chế biến, chế tạo, nông nghiệp, công nghiệp, kết nối đường biển, hàng không, hậu cần hai bên và các bên.
Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi với khu vực Mỹ Latinh.
Với dự báo và tầm nhìn 10 năm tới, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, Đông Nam Á và Mỹ Latinh có tiềm năng to lớn và hoàn toàn có thể trở thành hiện thực để trở thành những cực tăng trưởng mới của thế giới. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, hai khu vực Đông Nam Á và Mỹ Latinh cần tăng cường liên kết để hiện thực hóa tiềm năng nói trên.
Việt Nam sẵn sàng thảo luận với các nước thành viên Mercosur về việc sớm xây dựng một hiệp định thương mại tự do, tạo cơ hội mới để tăng cường thương mại, đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mở rộng hợp tác giữa Việt Nam và các nước khu vực Nam Mỹ.
Đồng thời với tiến trình đó, Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong ASEAN, nỗ lực là đầu tầu, cửa ngõ, cầu nối hợp tác giữa ASEAN và Mercosur, đặc biệt trên các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và có khả năng bổ trợ cho nhau.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác toàn diện với Argentina. Năm 2023 là mốc son trong mối quan hệ giữa hai nước kỷ niệm 50 năm xây dựng và vun đắp quan hệ hữu nghị.
Chủ tịch Quốc hội cho rằng, mối quan hệ hai nước đang có xung lực mạnh mẽ để bước sang giai đoạn phát triển mới với tầm nhìn 50 năm tới, với 3 phương diện căn bản.
Trước hết, về chính trị – ngoại giao, cần tiếp tục tăng cường xây dựng quan hệ giữa lãnh đạo hai nước, qua các chuyến thăm cấp cao và tiếp xúc tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; phát huy mạnh mẽ vai trò của kênh Nghị viện hai nước, các chính đảng
Về kinh tế, thương mại, cần phát huy tối đa vai trò của Ủy ban Liên Chính phủ, hoàn thiện khung pháp lý, nhất là các hiệp định tránh đánh thuế trùng, kiểm dịch động thực vật, dịch vụ hàng không, mở cửa thị trường thuận lợi nhất cho hàng hóa của nhau.
Thúc đẩy hợp tác kỹ thuật nông nghiệp, chế biến nông sản; hợp tác khai thác lithium, công nghệ sản xuất khí hydro xanh; kết nối cộng đồng doanh nghiệp hai nước và khuyến khích đầu tư sang thị trường của nhau.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình huệ phát biểu tại lễ kỷ niệm. Ảnh: TTXVN.
Xem xét, xúc tiến mở đường bay thẳng Hà Nội, TP HCM với Buenos Aires; đẩy mạnh hợp tác, kết nối giữa các địa phương và giao lưu nhân dân hai nước; tăng cường hợp tác du lịch, giao lưu nhân dân.
Hai nước cần tận dụng các khuôn khổ và hiệp định tự do thương mại, đặc biệt là Mercosur, CPTPP…, đồng thời hướng tới FTA giữa Việt Nam và Mercosur; nắm bắt cơ hội phát triển xanh, sạch, bền vững, đổi mới và sáng tạo mà hai nước có thế mạnh có thể bổ sung cho nhau.
Về văn hóa, giáo dục, du lịch, cần tăng cường hợp tác về giáo dục, đào tạo giữa các trường đại học, trung tâm nghiên cứu. Chủ tịch Quốc hội đề nghị Argentina cấp học bổng học tiếng Tây Ban Nha cho sinh viên Việt Nam.
Thúc đẩy trao đổi đoàn và hợp tác về thể thao, đặc biệt là hợp tác giữa liên đoàn bóng đá hai nước và một số hợp tác cụ thể như mở trung tâm đào tạo bóng đá trẻ, đấu giao hữu. Thúc đẩy hợp tác xúc tiến du lịch, trao đổi kinh nghiệm quản lý và phát triển du lịch.
Trong phát biểu tại sự kiện,
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Argentina Eduardo Valdés
cho biết, 50 năm qua, mối quan hệ Việt Nam và Argentina đã đạt được nhiều thành tựu trên 13 kênh hợp tác quan trọng. Việt Nam là đối tác quan trọng, chiến lược về thương mại của Argentina trên thế giới và quan hệ thương mại song phương phát triển mạnh mẽ.
Trong một thập kỷ qua, kim ngạch thương mại hai nước đã tăng 600%, vượt mốc hơn 4 tỷ USD. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 6 của Argentina.
Ông Eduardo Valdés nhấn mạnh, chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội là dấu mốc quan trọng để hai bên có thể cụ thể hóa quan hệ hợp tác vì lợi ích của nhân dân hai nước; tin rằng hai bên có thể thiết lập cơ chế để tiếp tục thúc đẩy những cuộc đàm phán về những lĩnh vực như công nghệ lưu trữ giống các loại hoa quả, thịt, mặt hàng thuốc… để có thể thâm nhập vào thị trường của nhau.
Hai bên đã thành lập nhóm nghị sỹ hữu nghị giữa hai nước. Nhóm nghị sỹ sẽ là những cơ chế quan trọng để tăng cường hơn nữa quan hệ nghị viện. Ngoài ra, thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam, Hạ viện Argentina đạt được trong chuyến thăm là một bước nhảy vọt trong hợp tác nghị viện song phương và tạo ra cơ chế đối thoại trao đổi thông tin, kinh nghiệm lĩnh vực lập pháp mà hai bên cùng quan tâm…
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chứng kiến Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Ngoại giao, Ngoại thương và Tôn giáo Argentina. Ảnh: TTXVN.
Sáng cùng ngày, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các đại biểu hai nước đã chứng kiến lễ ký kết các văn kiện hợp tác hai nước, gồm Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự; Hiệp định dẫn độ; Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù; Thỏa thuận hợp tác nghiệp vụ giữa Thông tấn xã Việt Nam và Hãng thông tấn quốc gia Argentina (Telam); Bản ghi nhớ về xúc tiến hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
|
Ngày 25/4, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, Ngoại thương và Tôn giáo Argentina ở thủ đô Buenos Aires, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dự lễ kỷ niệm ’50 năm quan hệ ngoại giao
Việt Nam
–
Argentina
: Hiện tại và tương lai’.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dự lễ kỷ niệm “50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Argentina: Hiện tại và tương lai”. Ảnh: TTXVN.
Giám đốc Học viện Ngoại giao, Đại sứ Eduardo Lionel Demayo
nhấn mạnh Argentina coi Việt Nam là đối tác quan trọng ở khu vực châu Á và tin rằng còn rất nhiều cơ hội hợp tác và bổ trợ cho nhau giữa hai nước.
Hai nước thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện vào năm 2010 và đã mở rộng nhiều lĩnh vực hợp tác. Argentina mong muốn việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược trong một số lĩnh vực sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, đặc biệt là trong lĩnh vực lương thực và thực phẩm.
Đại sứ Eduardi Lionel Demayo cũng chia sẻ về quan điểm chính sách đối ngoại của Argentina hiện nay, cho biết hai nước đã cùng chia sẻ những quan điểm tương đồng tại một số diễn đàn quốc tế.
Đại sứ Eduardo Lionel Demayo cho rằng, để tiếp tục duy trì đối thoại chính trị, hai bên đã thiết lập cơ chế tham khảo chính trị giữa Bộ Ngoại giao hai nước, nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu…
Đại sứ Eduardo Lionel Demayo cho biết Argentina đã chuyển giao công nghệ cho Việt Nam trong xác định danh tính của các liệt sỹ; trong lĩnh vực nông nghiệp như chăn nuôi gia cầm, sản phẩm sữa, hỗ trợ phát triển phát triển giống gạo chống ngập mặn, hạt giống đậu tương; trong khoa học công nghệ, chuyển đổi số, truyền thông, đào tạo.
Đại sứ cho rằng còn rất nhiều lĩnh vực nữa tiếp tục được hai nước tăng cường hợp tác như văn hóa, giao lưu nhân dân, các vấn đề quốc tế hai bên cùng quan tâm. Chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội cho thấy mong muốn cũng như nỗ lực làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác hai nước trong thời gian tới.
Toàn cảnh lễ kỷ niệm. Ảnh: TTXVN.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
cho rằng, trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, trên phương diện hợp tác phát triển kinh tế, hai nước càng cần bổ sung, hỗ trợ cho nhau theo cơ chế hợp tác Nam – Nam nhằm đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, gắn kết chuỗi cung ứng, chế biến, chế tạo, nông nghiệp, công nghiệp, kết nối đường biển, hàng không, hậu cần hai bên và các bên.
Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi với khu vực Mỹ Latinh.
Với dự báo và tầm nhìn 10 năm tới, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, Đông Nam Á và Mỹ Latinh có tiềm năng to lớn và hoàn toàn có thể trở thành hiện thực để trở thành những cực tăng trưởng mới của thế giới. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, hai khu vực Đông Nam Á và Mỹ Latinh cần tăng cường liên kết để hiện thực hóa tiềm năng nói trên.
Việt Nam sẵn sàng thảo luận với các nước thành viên Mercosur về việc sớm xây dựng một hiệp định thương mại tự do, tạo cơ hội mới để tăng cường thương mại, đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mở rộng hợp tác giữa Việt Nam và các nước khu vực Nam Mỹ.
Đồng thời với tiến trình đó, Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong ASEAN, nỗ lực là đầu tầu, cửa ngõ, cầu nối hợp tác giữa ASEAN và Mercosur, đặc biệt trên các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và có khả năng bổ trợ cho nhau.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác toàn diện với Argentina. Năm 2023 là mốc son trong mối quan hệ giữa hai nước kỷ niệm 50 năm xây dựng và vun đắp quan hệ hữu nghị.
Chủ tịch Quốc hội cho rằng, mối quan hệ hai nước đang có xung lực mạnh mẽ để bước sang giai đoạn phát triển mới với tầm nhìn 50 năm tới, với 3 phương diện căn bản.
Trước hết, về chính trị – ngoại giao, cần tiếp tục tăng cường xây dựng quan hệ giữa lãnh đạo hai nước, qua các chuyến thăm cấp cao và tiếp xúc tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; phát huy mạnh mẽ vai trò của kênh Nghị viện hai nước, các chính đảng
Về kinh tế, thương mại, cần phát huy tối đa vai trò của Ủy ban Liên Chính phủ, hoàn thiện khung pháp lý, nhất là các hiệp định tránh đánh thuế trùng, kiểm dịch động thực vật, dịch vụ hàng không, mở cửa thị trường thuận lợi nhất cho hàng hóa của nhau.
Thúc đẩy hợp tác kỹ thuật nông nghiệp, chế biến nông sản; hợp tác khai thác lithium, công nghệ sản xuất khí hydro xanh; kết nối cộng đồng doanh nghiệp hai nước và khuyến khích đầu tư sang thị trường của nhau.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình huệ phát biểu tại lễ kỷ niệm. Ảnh: TTXVN.
Xem xét, xúc tiến mở đường bay thẳng Hà Nội, TP HCM với Buenos Aires; đẩy mạnh hợp tác, kết nối giữa các địa phương và giao lưu nhân dân hai nước; tăng cường hợp tác du lịch, giao lưu nhân dân.
Hai nước cần tận dụng các khuôn khổ và hiệp định tự do thương mại, đặc biệt là Mercosur, CPTPP…, đồng thời hướng tới FTA giữa Việt Nam và Mercosur; nắm bắt cơ hội phát triển xanh, sạch, bền vững, đổi mới và sáng tạo mà hai nước có thế mạnh có thể bổ sung cho nhau.
Về văn hóa, giáo dục, du lịch, cần tăng cường hợp tác về giáo dục, đào tạo giữa các trường đại học, trung tâm nghiên cứu. Chủ tịch Quốc hội đề nghị Argentina cấp học bổng học tiếng Tây Ban Nha cho sinh viên Việt Nam.
Thúc đẩy trao đổi đoàn và hợp tác về thể thao, đặc biệt là hợp tác giữa liên đoàn bóng đá hai nước và một số hợp tác cụ thể như mở trung tâm đào tạo bóng đá trẻ, đấu giao hữu. Thúc đẩy hợp tác xúc tiến du lịch, trao đổi kinh nghiệm quản lý và phát triển du lịch.
Trong phát biểu tại sự kiện,
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Argentina Eduardo Valdés
cho biết, 50 năm qua, mối quan hệ Việt Nam và Argentina đã đạt được nhiều thành tựu trên 13 kênh hợp tác quan trọng. Việt Nam là đối tác quan trọng, chiến lược về thương mại của Argentina trên thế giới và quan hệ thương mại song phương phát triển mạnh mẽ.
Trong một thập kỷ qua, kim ngạch thương mại hai nước đã tăng 600%, vượt mốc hơn 4 tỷ USD. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 6 của Argentina.
Ông Eduardo Valdés nhấn mạnh, chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội là dấu mốc quan trọng để hai bên có thể cụ thể hóa quan hệ hợp tác vì lợi ích của nhân dân hai nước; tin rằng hai bên có thể thiết lập cơ chế để tiếp tục thúc đẩy những cuộc đàm phán về những lĩnh vực như công nghệ lưu trữ giống các loại hoa quả, thịt, mặt hàng thuốc… để có thể thâm nhập vào thị trường của nhau.
Hai bên đã thành lập nhóm nghị sỹ hữu nghị giữa hai nước. Nhóm nghị sỹ sẽ là những cơ chế quan trọng để tăng cường hơn nữa quan hệ nghị viện. Ngoài ra, thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam, Hạ viện Argentina đạt được trong chuyến thăm là một bước nhảy vọt trong hợp tác nghị viện song phương và tạo ra cơ chế đối thoại trao đổi thông tin, kinh nghiệm lĩnh vực lập pháp mà hai bên cùng quan tâm…
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chứng kiến Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Ngoại giao, Ngoại thương và Tôn giáo Argentina. Ảnh: TTXVN.
Sáng cùng ngày, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các đại biểu hai nước đã chứng kiến lễ ký kết các văn kiện hợp tác hai nước, gồm Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự; Hiệp định dẫn độ; Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù; Thỏa thuận hợp tác nghiệp vụ giữa Thông tấn xã Việt Nam và Hãng thông tấn quốc gia Argentina (Telam); Bản ghi nhớ về xúc tiến hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
|
Chiều 25/4, tại Phủ Chủ tịch, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước tiếp đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước và Đoàn công tác đang có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam.
Phát biểu tại buổi tiếp, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng bày tỏ vui mừng được đón tiếp đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune và gặp lại những người đồng chí, người anh em thân thiết của đất nước và nhân dân Việt Nam.
Nhắc lại ấn tượng sâu sắc và thành công tốt đẹp trong chuyến thăm chính thức Lào, trong đó có cuộc gặp đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune mới đây, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chân thành cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu, chân tình và trọng thị của các đồng chí Lào dành cho Chủ tịch nước và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng bày tỏ vui mừng gặp lại đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune và những người đồng chí, anh em.
Chủ tịch nước cho rằng, chuyến thăm Việt Nam lần này của đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune cùng Đoàn Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước cũng như chuyến thăm chính thức Lào mới đây của Chủ tịch nước cùng diễn ra vào thời điểm đặc biệt, nhân dân Lào vui đón Tết Cổ truyền Bun pi may đầm ấm, vui tươi; trong bối cảnh quan hệ hai Đảng, hai Nhà nước đang tiến triển hết sức tốt đẹp. Chủ tịch nước tin tưởng chuyến thăm lần này của Đoàn sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết và hợp tác toàn diện
Việt Nam
–
Lào
; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác với Trung ương MTTQ Việt Nam thêm gắn bó, hiệu quả.
Chủ tịch Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước Sinlavong Khoutphaythoune trân trọng cảm ơn Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dành thời gian tiếp; trân trọng chuyển lời chúc tốt đẹp của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith tới Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng.
Đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune cảm ơn Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thời gian qua đã thường xuyên hỗ trợ, hợp tác chặt chẽ với Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước trong nhiều lĩnh vực công tác; đồng thời cho biết chuyến thăm lần này của Đoàn nhằm đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan; chia sẻ các công tác chuyên môn phù hợp với đặc thù mỗi cơ quan, mỗi nước; góp phần triển khai hiệu quả thỏa thuận của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước.
Vui mừng thông báo với Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng về kết quả tốt đẹp của cuộc hội đàm với Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến, đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune cho biết, hai bên cùng thống nhất tăng cường hợp tác toàn diện; chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động kiểm tra, giám sát, công tác mặt trận; kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, công tác dân vận…
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước và Đoàn công tác.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đánh giá cao kết quả hội đàm giữa đồng chí Sinlavong Khoutphaythoune với Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến. Hai bên thống nhất tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm công tác trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, công tác dân tộc, tập hợp kiều bào. Đây đều là những vấn đề quan trọng trong tiến trình phát triển của mỗi nước.
Nhấn mạnh đến quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Chủ tịch nước cho rằng, trên nền tảng quan trọng đó, hai bên cần thường xuyên trao đổi thông tin, chia sẻ những khó khăn, kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển đất nước không chỉ ở cấp trung ương mà cả ở địa phương; trong đó có công tác mặt trận, bởi hai nước có nhiều điểm tương đồng.
Chủ tịch nước mong muốn Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thực hiện hiệu quả các thỏa thuận hợp tác hai cơ quan; tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực chuyên môn mặt trận, đào tạo nguồn nhân lực, dân vận, tôn giáo, dân tộc, qua đó góp phần vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào ngày càng phát triển tốt đẹp, bền vững./.
|
On the afternoon of April 25, at the Presidential Palace, comrade Vo Van Thuong, member of the Politburo, the President received comrade Sinlavong Khoutphaythoune, member of the Politburo of the Lao People's Revolutionary Party, Chairman of the Central Committee of the Lao People's Revolutionary Party. Laos battle to build the country and the delegation is on a working visit to Vietnam.
Speaking at the reception, President Vo Van Thuong expressed his joy to welcome comrade Sinlavong Khoutphaythoune and meet again close comrades and brothers of the country and people of Vietnam.
Recalling the deep impression and great success during his official visit to Laos, including the recent meeting with comrade Sinlavong Khoutphaythoune, President Vo Van Thuong sincerely thanked the warm, sincere and respectful welcome. directive from Lao comrades to the President and the high-ranking delegation of Vietnam.
President Vo Van Thuong expressed his joy to meet comrade Sinlavong Khoutphaythoune and his comrades and brothers again.
The President said that this visit to Vietnam by comrade Sinlavong Khoutphaythoune and the Central Delegation of the Lao Front to build the country as well as the President's recent official visit to Laos took place at a special time. Lao people happily celebrate the traditional Bun pi may warm and joyful festival; In the context that the relationship between the two Parties and the two States is progressing very well. The President believes that this visit of the Delegation will contribute to further deepening the great friendship, solidarity and comprehensive cooperation relationship.
Vietnam
–
Laos
; At the same time, strongly promote the cooperative relationship with the Vietnam Fatherland Front Central Committee to become more close and effective.
Chairman of the Central Lao Front for National Construction Sinlavong Khoutphaythoune respectfully thanked President Vo Van Thuong for taking the time to receive him; respectfully conveyed the good wishes of General Secretary and President of Laos Thongloun Sisoulith to President Vo Van Thuong.
Comrade Sinlavong Khoutphaythoune thanked the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front in recent times for regularly supporting and closely cooperating with the Central Lao Front to build the country in many areas of work; At the same time, he said that this visit of the delegation aims to promote cooperation between the two agencies; share professional work suitable to the characteristics of each agency and each country; contributing to the effective implementation of the agreement between senior leaders of the two Parties and two States.
Pleased to inform President Vo Van Thuong about the good results of the talks with President of the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front Do Van Chien, comrade Sinlavong Khoutphaythoune said that the two sides agreed to strengthen cooperation. overview; share experiences in inspection, supervision and front work activities; experience in carrying out the task of building great national unity, mass mobilization work...
President Vo Van Thuong received comrade Sinlavong Khoutphaythoune, Chairman of the Central Committee of the Lao Front for National Construction and the Working Group.
President Vo Van Thuong highly appreciated the results of the talks between comrade Sinlavong Khoutphaythoune and Chairman of the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front Do Van Chien. The two sides agreed to increase the exchange of information and work experience in all fields, especially in building the great national unity bloc, ethnic work, and gathering overseas Vietnamese. These are all important issues in the development process of each country.
Emphasizing the great friendship, solidarity and comprehensive cooperation between Vietnam and Laos, the President said that on that important foundation, the two sides need to regularly exchange information and share difficulties. , experience in building and developing the country not only at the central level but also at the local level; including front work, because the two countries have many similarities.
The President hopes that the Central Committee of the Lao Front for National Construction will continue to coordinate closely with the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front to effectively implement cooperation agreements between the two agencies; Actively deploy cooperation in the fields of front expertise, human resource training, mass mobilization, religion, and ethnicity, thereby contributing to cultivating great friendship, special solidarity, and cooperation. Comprehensive cooperation between Vietnam and Laos is increasingly developing well and sustainably./.
|
Trong số 11 cuốn sách cổ triều Nguyễn được trưng bày, ngoài cuốn Nghi thức thuyết giới Bồ tát tại gia là bản photocopy, 10 tác phẩm còn lại đều là hiện vật gốc, rất có giá trị.
Trong chuỗi sự kiện Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ hai, năm 2023, những ngày qua, tại Điện Long An, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã trưng bày nhiều sách cổ quý hiếm triều Nguyễn và giới thiệu tác phẩm
Ngự chế minh văn cổ khí đồ
thời vua Minh Mạng.
Hàng loạt tác phẩm là sách cổ triều Nguyễn được giới thiệu đến công chúng.
Theo lãnh đạo Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, từ năm 1923, khi thành lập Bảo tàng Khải Định, nhà vua đã ban dụ kêu gọi các cá nhân trong nước đóng góp cổ vật nhằm tạo nguồn hiện vật đa dạng.
Truyền thống đó được tiếp tục khơi gợi và nhận sự ủng hộ của những người quan tâm trong khoảng 20 năm trở lại đây.
Trong đợt trưng bày này, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế giới thiệu đến công chúng 11 cuốn sách cổ quý hiếm đã được ông Hoàng Việt Trung trao tặng vào năm 2021 và năm 2023 gồm:
Ngự chế minh văn cổ khí đồ; Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca
(Quyển 7);
Tự Đức thánh chế thi tam tập
(với các quyển tổng mục và quyển tập hợp 1,2,3,4,8,9,10);
Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ
(Quyển 69);
Giao tự đại lễ;
Nghi thức thuyết giới Bồ tát tại gia; Điền tô sai dư thuế lệ; Truyện thơ nôm Phan Trần; Chinh Phụ Ngâm
cùng 01 tập sách ảnh đầu thế kỷ 20.
Loạt sách cổ được ông Hoàng Việt Trung hiến tặng, lần đầu ra mắt công chúng.
Ngoài cuốn
Nghi thức thuyết giới Bồ tát tại gia
là bản photocopy, 10 cuốn sách còn lại đều là hiện vật gốc, rất có giá trị.
Cuốn Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ (Quyển 69).
Về tác phẩm
Ngự chế minh văn cổ khí đồ
của vua Minh Mạng được xem là sách cổ quý hiếm. Năm 1938, nhà vua đã cho đúc 33 món đồ đồng phỏng theo hình dáng đồ vật của các triều đại Thương, Chu, tới Hán, gọi là “bác cổ đồ”.
Cuốn Ngự chế minh văn cổ khí đồ.
Đến năm 1939, vua Minh Mạng đổi tên gọi là “cổ khí đồ” và 33 món cổ khí được đúc này chủ yếu là các vật đựng như: đỉnh, lịch, đôn, quỹ, tôn, dữu, cô, hòa, giả, di, bôi và xa.
Việc đúc 33 đồ cổ khí thể hiện hùng tâm của Minh Mạng muốn xây dựng Đại Nam thành một quốc gia cường thịnh, thái hòa như các triều đại thịnh trị trong lịch sử phong kiến.
Sau đó, nhà vua đã cho Bộ Công vẽ những hình cổ khí, kèm theo là các bài minh văn của vua khắc trên từng cổ khí đó.
Những bài minh văn cùng hình vẽ đã được tập hợp, san định lại, khắc trên mộc bản và in thành sách
Ngự chế minh văn cổ khí đồ
. Hiện nay, mộc bản cuốn sách này vẫn còn được lưu ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại
Đà Lạt
.
Các cuốn sách cổ thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu và độc giả.
Ngoài ra, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế cũng giới thiệu đến cộng đồng và du khách nhiều sách cổ, công văn, sắc bằng thời Nguyễn do một số cá nhân khác hiến tặng từ năm 2008 đến nay.
Sách cổ được in trên lụa – một trong những hiện vật có giá trị cao được bảo tàng lưu giữ.
Trong đó, có sách
Thánh chế thi lục tập
tập hợp 39 bài thơ của vua Minh Mạng do ông bà Andue de Cuozet ở Marseille (Pháp) hiến tặng; cuốn
Kỹ thuật của người An Nam
do bà Bùi Cẩm Hà Lê Thái (Việt kiều Pháp) tặng; bộ sách
Trung hoa từ điển
(6 tập) và sách
Tường đính Cổ văn bình chú
do ông Trần Đức Anh Sơn trao tặng; cùng nhiều sắc bằng, công văn, địa bạ dưới thời Nguyễn được các nhà sưu tầm gửi đến.
Nhiều khách nước ngoài chăm chú ngắm nhìn các hiện vật.
Ông Nguyễn Phước Hải Trung – Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cho biết, 11 cuốn sách cổ được hiến tặng là bộ sưu tập sách có giá trị trong kho tàng của Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Trong đó, cuốn
Ngự chế minh văn cổ khí đồ
dù tồn tại dưới dạng bản in nhưng đây là cổ thư hiếm còn lưu trữ.
Hiện nay có 2 bản được biết đến, một bản in lưu trữ ở thư viện tại Pháp và một bản lưu tại Viện Hán Nôm. Bản gốc sách in
Ngự chế minh văn cổ khí đồ
được hiến tặng cho Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế chính là bản thứ 3 được biết đến.
“Nhân Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 2 năm 2023, hy vọng đợt trưng bày sách cổ hiến tặng và giới thiệu về tác phẩm
Ngự chế minh văn cổ khí đồ
sẽ tạo được hiệu ứng lan tỏa về văn hóa Huế liên quan đến câu chuyện sách vở của người xưa”, ông Nguyễn Phước Hải Trung nói.
|
Among the 11 ancient books of the Nguyen Dynasty on display, in addition to the book The Ritual for Preaching the Bodhisattva Precepts at Home, which is a photocopy, the remaining 10 works are all original and very valuable artifacts.
In the series of events on the second Vietnam Book and Reading Culture Day in 2023, in recent days, at Long An Palace, the Hue Monuments Conservation Center has displayed many rare ancient books of the Nguyen Dynasty and introduced them. work
Controlling ancient inscriptions and artifacts
during the reign of King Minh Mang.
A series of ancient books of the Nguyen Dynasty were introduced to the public.
According to the leader of the Hue Monuments Conservation Center, since 1923, when the Khai Dinh Museum was established, the king issued an edict calling on domestic individuals to contribute antiquities to create a diverse source of artifacts.
That tradition has continued to inspire and receive support from interested people over the past 20 years.
In this exhibition, the Hue Museum of Royal Antiquities introduces to the public 11 rare ancient books awarded by Mr. Hoang Viet Trung in 2021 and 2023 including:
Control ancient inscriptions and graphs; Tu Duc Thanh Tri taught himself to explain the song's meaning
(Vol. 7);
Tu Duc Thanh wrote three volumes of poetry
(with catalogs and collections 1,2,3,4,8,9,10);
Dai Nam Thuc Luc Chinh Bien 4th century
(Vol. 69);
Great ceremony;
Ritual for preaching the Bodhisattva precepts at home; Incorrectly filled in tax balance; Phan Tran's poetry story; Chinh Phu Ngam
along with a photo book of the early 20th century.
A series of ancient books donated by Mr. Hoang Viet Trung, presented to the public for the first time.
Outside the book
Ritual for preaching the Bodhisattva precepts at home
are photocopies, the remaining 10 books are all original artifacts, very valuable.
The fourth century book Dai Nam Thuc Luc Chinh Bien (Volume 69).
About the work
Controlling ancient inscriptions and artifacts
by King Minh Mang is considered a rare ancient book. In 1938, the king had 33 bronze objects cast in imitation of the shapes of objects from the Shang, Zhou, and Han dynasties, called "ancient objects".
The book Imperial Inscriptions and Ancient Graphs.
In 1939, King Minh Mang changed the name to "ancient objects" and these 33 cast ancient objects were mainly containers such as: top, calendar, pedestal, fund, ton, duu, co, hoa, fake, move, apply and distance.
The casting of 33 antiques demonstrates Minh Mang's determination to build Dai Nam into a prosperous and peaceful country like the prosperous dynasties in feudal history.
After that, the king had the Ministry of Public Works draw images of ancient artifacts, accompanied by the king's inscriptions engraved on each ancient artifact.
The inscriptions and drawings were collected, leveled, engraved on woodblocks and printed into books
Controlling ancient inscriptions and artifacts
. Currently, the woodblock of this book is still kept at the National Archives Center IV at
Da Lat
.
Ancient books attract a lot of attention from researchers and readers.
In addition, the Hue Museum of Royal Antiquities also introduces to the community and tourists many ancient books, official documents, and diplomas of the Nguyen Dynasty donated by a number of other individuals from 2008 to present.
Ancient books printed on silk - one of the highly valuable artifacts kept by the museum.
In it, there are books
Holy regimen of six volumes of examination
collection of 39 poems by King Minh Mang donated by Mr. and Mrs. Andue de Cuozet in Marseille (France); coil
Techniques of the An Nam people
donated by Ms. Bui Cam Ha Le Thai (Vietnamese overseas in France); books
Chinese Dictionary
(6 volumes) and books
The wall is decorated with Ancient texts and notes
awarded by Mr. Tran Duc Anh Son; along with many diplomas, official dispatches, and land records from the Nguyen Dynasty sent by collectors.
Many foreign visitors attentively look at the artifacts.
Mr. Nguyen Phuoc Hai Trung - Deputy Director of the Hue Monuments Conservation Center, said that the 11 donated ancient books are a valuable book collection in the treasury of the Hue Museum of Royal Antiquities. In it, roll
Controlling ancient inscriptions and artifacts
Although it exists in printed form, this is a rare ancient book still preserved.
Currently there are 2 known copies, one printed copy stored in a library in France and one copy stored at the Han Nom Institute. Original printed book
Controlling ancient inscriptions and artifacts
donated to the Hue Museum of Royal Antiquities is the third known copy.
“On the occasion of the 2nd Vietnam Day of Books and Reading Culture in 2023, we hope to display donated ancient books and introduce works
Controlling ancient inscriptions and artifacts
will create a spillover effect on Hue culture related to the stories of ancient books," said Mr. Nguyen Phuoc Hai Trung.
|
Ngày 25-4, Thành ủy TP HCM tổ chức họp mặt kỷ niệm 48 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 – 30.4.2023).
Dự buổi họp mặt có nguyên lãnh đạo Đảng, nhà nước, MTTQ Việt Nam; lãnh đạo, nguyên lãnh đạo TP HCM.
Phát biểu tại buổi họp mặt, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên cho hay 48 năm từ sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố luôn tiếp nối mạch nguồn truyền thống cách mạng. Từ phát huy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã vượt qua nhiều thử thách, chung tay xây dựng và phát triển thành phố đạt những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên trao đổi với đại biểu.
Thời gian tới, ông Nguyễn Văn Nên cho biết thành phố chủ động chuẩn bị mọi kế hoạch, phương án phòng, chống đại dịch COVID-19 và các dịch bệnh khác. Bên cạnh đó, chủ động phối hợp với các cơ quan của Chính phủ để chuẩn bị trình Quốc hội thông qua nghị quyết thay thế cho Nghị quyết số 54 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP HCM tại kỳ họp của Quốc hội tháng 5-2023 tới. Đồng thời, chuẩn bị các đề án, kế hoạch, chính sách để trình HĐND thành phố ban hành, triển khai ngay sau khi được Quốc hội thông qua…
Đối với một số nhiệm vụ trọng tâm, trung và dài hạn, theo Bí thư Thành ủy TP HCM, thành phố sẽ tập trung triển khai 3 chương trình hành động lớn. Đó là thực hiện Nghị quyết số 29, Nghị quyết số 24 và Nghị quyết số 31 của Bộ Chính trị về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đông Nam Bộ và Nghị quyết về phát triển
TP HCM
giai đoạn 2030-2045…
|
On April 25, the Ho Chi Minh City Party Committee held a meeting to celebrate the 48th anniversary of the Liberation of the South and reunification of the country (April 30, 1975 - April 30, 2023).
Attending the meeting were former leaders of the Party, State, and Vietnam Fatherland Front; leader, former leader of Ho Chi Minh City.
Speaking at the meeting, Politburo member, Secretary of Ho Chi Minh City Party Committee Nguyen Van Nen said that 48 years after the day of peace and unification of the country, the Party Committee, government and people of the city have always continued Revolutionary traditional source circuit. From strongly promoting the spirit of solidarity, dynamism, and creativity, the Party Committee, government and people of the city have overcome many challenges, joining hands to build and develop the city, achieving great achievements, contributing to the development of the city. an important part in the cause of building and protecting the Fatherland.
Politburo member, Secretary of Ho Chi Minh City Party Committee Nguyen Van Nen discussed with delegates.
In the coming time, Mr. Nguyen Van Nen said the city will proactively prepare all plans and options to prevent and combat the COVID-19 pandemic and other epidemics. In addition, proactively coordinate with Government agencies to prepare to submit to the National Assembly for approval a resolution to replace Resolution Không. 54 on piloting a number of specific mechanisms and policies to develop Ho Chi Minh City at the current term. meeting of the National Assembly in May 2023. At the same time, prepare projects, plans and policies to submit to the City People's Council for promulgation and implementation immediately after being approved by the National Assembly...
For a number of key, medium and long-term tasks, according to the Secretary of the Ho Chi Minh City Party Committee, the city will focus on implementing 3 major action programs. That is to implement Resolution Không. 29, Resolution Không. 24 and Resolution Không. 31 of the Politburo on industrialization, modernization, socio-economic development, national defense and security in the southern key economic region. , Southeast and Development Resolution
Ho Chi Minh City
period 2030-2045…
|
TP. Buôn Ma Thuột
sẽ trở thành đô thị trung tâm vùng Tây Nguyên, phát triển theo hướng xanh, sinh thái, thông minh, mang bản sắc riêng.
Hội nghị thẩm định Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. (Ảnh: Đức Trung).
Ngày 25/4, Hội đồng thẩm định quy hoạch tỉnh đã tiến hành thẩm định Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đắk Lắk cho biết, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh và UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt và sát sao, đặt kỳ vọng rất lớn và đặt ra yêu cầu dự thảo Quy hoạch tỉnh phải đề xuất các phương án phát triển để tỉnh khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh, tạo bước đột phá trong phát triển, đạt được mục tiêu “xây dựng tỉnh Đắk Lắk giàu đẹp, văn minh, bản sắc, từng bước xứng đáng vị trí trung tâm Vùng Tây Nguyên; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân đạt mức trung bình của cả nước vào năm 2025”.
“Một bản quy hoạch tỉnh tốt sẽ là nền tảng, là kim chỉ nam cho sự phát triển của tỉnh, đồng thời đảm bảo quá trình triển khai thực hiện đạt kết quả cao nhất”, ông Trung nhấn mạnh.
Theo đại diện tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk nằm ở vị trí trung tâm của vùng Tây Nguyên, có quỹ đất phát triển nông nghiệp lớn, giàu tiềm năng về du lịch, năng lượng tái tạo, dân cư và lao động trên địa bàn mang đặc điểm của nhiều vùng miền khác nhau.
Với những tiềm năng, lợi thế sẵn có, cùng những vấn đề cần giải quyết, Đắk Lắk đề ra triết lý quy hoạch đảm bảo phát triển dựa trên 3 trụ cột: Môi trường – Xã hội – Kinh tế trên nền tảng ổn định về sinh thái môi trường, bảo tồn các giá trị di sản văn hóa, giá trị nhân văn, định hướng lựa chọn các hoạt động kinh tế phù hợp với các yếu tố nền tảng đặc trưng là (1) Sinh thái Đất – Nước – Rừng; (2) Bản sắc văn hóa Tây Nguyên; (3) Nền kinh tế xanh, tuần hoàn.
Mục tiêu đến năm 2030, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của Nhân dân đạt mức trung bình khá của cả nước, trên cơ sở: phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; bản sắc văn hóa các dân tộc; Đắk Lắk trở thành điểm đến đặc sắc, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế; Buôn Ma Thuột là cực phát triển của vùng Tây Nguyên, hội nhập và liên kết theo hướng mở với khu vực và quốc tế.
Tiếp tục duy trì tốc độ đầu tư tích lũy cao cho nền kinh tế; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tăng tính bền vững trong phát triển; đổi mới mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Kết hợp giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân hàng năm thời kỳ 2021 – 2030 dự kiến đạt 11%, trong đó giai đoạn 2021-2025 là 10%/năm, giai đoạn 2026 – 2030 tăng 12%/năm.
Đắk Lắk đề ra triết lý quy hoạch đảm bảo phát triển dựa trên 3 trụ cột: Môi trường – Xã hội – Kinh tế.
Tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh Đắk Lắk trở thành tỉnh có Không gian sinh thái – Bản sắc – Kết nối sáng tạo, lấy con người là trung tâm của mọi quá trình phát triển, người dân tỉnh Đắk Lắk cùng nhau thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển, sinh thái tự nhiên được phục hồi và gìn giữ; bản sắc văn hóa được bảo tồn trên hệ giá trị nhân văn độc đáo, riêng có của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; nơi nuôi dưỡng và ươm mầm sáng tạo vùng Tây Nguyên, kết nối và hội nhập quốc tế… Người dân Đắk Lắk Văn minh – Thân thiện – Hội nhập, có đời sống khá giả, thụ hưởng môi trường sống xanh, sạch, hòa mình vào thiên nhiên và đời sống văn hóa tinh thần phong phú trong không gian sáng tạo đặc trưng Tây Nguyên…
Để làm được điều này, Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk xác định 5 đột phá phát triển là chính sách, liên kết phát triển, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, tạo đột phá căn bản, toàn diện về phát triển giáo dục – đào tạo và y tế và phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Về tổ chức không gian phát triển, Đắk Lắk định hướng phát triển hệ thống đô thị theo mô hình “Ba cực, đa trung tâm”, chức năng chia sẻ, kết nối thông suốt, hình thành các dải xanh, vành đai xanh, các mảng không gian xanh giữa các đô thị.
Theo đó, phát triển TP. Buôn Ma Thuột trở thành đô thị trung tâm vùng Tây Nguyên, phát triển theo hướng xanh, sinh thái, thông minh, mang bản sắc riêng. Phát triển thị xã Buôn Hồ: Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch vùng phía Bắc của tỉnh. Phát triển thị xã Ea Kar: Là đô thị trung tâm tiểu vùng phía Đông của tỉnh, là đô thị động lực thứ ba sau Buôn Ma Thuột và Buôn Hồ, là hạt nhân thu hút nguồn lực xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế – xã hội của tiểu vùng và của tỉnh.
Ghi nhận và đánh giá cao công tác lập quy hoạch của địa phương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chủ tịch Hội đồng thẩm định quy hoạch tỉnh cho rằng, nội dung bản Quy hoạch thể hiện tương đối rõ nét về tính liên kết, định hướng phát triển, không gian phát triển, các nguồn lực của tỉnh Đắk Lắk. Quy hoạch cũng thể hiện sự chủ động, khát vọng vươn lên khi khai thác các lợi thế theo hướng tích cực, đặt mục tiêu cao.
Bộ trưởng khẳng định, nội dung Quy hoạch đã đáp ứng yêu cầu theo quy định của Luật Quy hoạch, Báo cáo DMC (đánh giá môi trường chiến lược) cơ bản đảm bảo theo yêu cầu quy định luật về bảo vệ môi trường.
“Nghị quyết 23 đã xác định Đắk Lắk có vị trí rất chiến lược, quan trọng về quốc phòng an ninh, văn hóa, là trung tâm, cực tăng trưởng của vùng Tây Nguyên. Có 2 sứ mệnh lớn đặt lên vai Đắk Lắk, đó là phát triển kinh tế hài hòa với văn hóa, xã hội, môi trường và là bệ đỡ cho cả vùng Tây Nguyên”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Tỉnh Đắk Lắk
là đầu tàu lôi kéo, lan tỏa của vùng, do đó Bộ trưởng lưu ý, cần kết nối tốt với vùng duyên hải miền trung để tạo lợi thế lớn cho Đắk Lắk.
|
City. Buon Ma Thuot
will become the central urban area of the Central Highlands, developing in a green, ecological, smart direction, with its own identity.
Conference to appraise Dak Lak Provincial Planning for the period 2021-2030, vision to 2050. (Photo: Duc Trung).
On April 25, the Provincial Planning Appraisal Council conducted an appraisal of Dak Lak Provincial Planning for the period 2021-2030, with a vision to 2050.
Speaking at the Conference, Mr. Nguyen Dinh Trung, Member of the Party Central Committee, Secretary of the Dak Lak Provincial Party Committee, said that the Provincial Party Committee, Provincial People's Council and Provincial People's Committee have directed drastically and closely, setting great expectations and sets out the requirement that the draft Provincial Plan must propose development plans for the province to effectively exploit its potentials and strengths, create a breakthrough in development, and achieve the goal of "building Dak Lak province to be rich and beautiful." , civilization, identity, gradually worthy of the central position in the Central Highlands Region; ensuring that the people's material and spiritual lives reach the national average by 2025".
"A good provincial planning will be the foundation and guideline for the province's development, while ensuring the implementation process achieves the highest results," Mr. Trung emphasized.
According to the representative of Dak Lak province, Dak Lak province is located in the center of the Central Highlands region, has a large land fund for agricultural development, and is rich in potential for tourism, renewable energy, population and labor in the area. has characteristics of many different regions.
With existing potentials, advantages, and problems that need to be resolved, Dak Lak proposes a planning philosophy to ensure development based on 3 pillars: Environment - Society - Economy on a stable foundation. environmental ecology, preserving cultural heritage values, humanistic values, orienting the selection of economic activities in accordance with the typical fundamental factors of (1) Land - Water - Forest Ecology ; (2) Central Highlands cultural identity; (3) Green, circular economy.
The goal by 2030 is to improve the material, cultural and spiritual life of the people to reach the national average, on the basis of: rapid and sustainable socio-economic development based on a green economy. , cyclic; cultural identities of ethnic groups; Dak Lak becomes a unique destination, attractive to domestic and international tourists; Buon Ma Thuot is the pole of development of the Central Highlands region, integrating and connecting in an open direction with the region and the world.
Continue to maintain a high cumulative investment rate for the economy; promote economic restructuring towards progress, increasing sustainability in development; Strongly innovate science and technology, significantly improve the quality of education and training, develop human resources and health, culture, and sports. Combining economic development with ensuring social security, protecting the ecological environment, promoting the strength of ethnic solidarity, building a strong political system, and ensuring national defense and security.
Regarding the economy, the average annual GRDP growth rate in the period 2021 - 2030 is expected to reach 11%, of which the period 2021-2025 is 10%/year, the period 2026 - 2030 increases 12%/year.
Dak Lak proposes a planning philosophy to ensure development based on 3 pillars: Environment - Society - Economy.
Vision to 2050, Dak Lak province becomes a province with Ecological Space - Identity - Creative Connection, taking people as the center of all development processes, the people of Dak Lak province enjoy the results together. of the development process, natural ecology is restored and preserved; Cultural identity is preserved based on the unique and unique humanistic value system of ethnic minorities in the Central Highlands; a place to nurture and incubate creativity in the Central Highlands, connect and integrate internationally... Dak Lak people are civilized - friendly - integrated, have a well-off life, enjoy a green, clean, and harmonious living environment into nature and rich cultural and spiritual life in the typical creative space of the Central Highlands...
To do this, Dak Lak Provincial Planning identifies 5 development breakthroughs: policy, development linkage, application of science and technology in production, creating a basic and comprehensive breakthrough in educational development. – training and healthcare and synchronous and modern infrastructure development.
Regarding the organization of development space, Dak Lak orients to develop the urban system according to the "Tripole, multi-center" model, sharing functions, connecting smoothly, forming green strips, green belts, green spaces between urban areas.
Accordingly, developing the city. Buon Ma Thuot becomes a central urban area in the Central Highlands, developing in a green, ecological, smart direction, with its own identity. Development of Buon Ho town: As the center of politics, economics, culture, science and technology and tourism in the northern region of the province. Ea Kar town development: Is the central urban area in the Eastern sub-region of the province, is the third driving force city after Buon Ma Thuot and Buon Ho, is the nucleus to attract social resources, and transform labor structure. , economic structure, socio-economic development of the sub-region and the province.
Noting and appreciating the local planning work, Minister of Planning and Investment Nguyen Chi Dung, Chairman of the Provincial Planning Appraisal Council, said that the content of the Planning is relatively clear. about connectivity, development orientation, development space, and resources of Dak Lak province. Planning also shows initiative and the desire to rise up by exploiting advantages in a positive way and setting high goals.
The Minister affirmed that the Planning content has met the requirements according to the provisions of the Planning Law, and the DMC Report (strategic environmental assessment) basically meets the requirements of the law on environmental protection.
“Resolution 23 has determined that Dak Lak has a very strategic position, important in terms of national defense, security, culture, and is the center and growth pole of the Central Highlands region. There are two great missions placed on the shoulders of Dak Lak, which is to develop the economy in harmony with culture, society, and environment and to be a foundation for the entire Central Highlands region", Minister Nguyen Chi Dung emphasized.
Dak Lak Province
is the engine that attracts and spreads the region, so the Minister noted that it is necessary to connect well with the central coastal region to create great advantages for Dak Lak.
|
Khi có quy định chi tiết về dịch vụ hấp thụ carbon sẽ thúc đẩy thị trường giao dịch, trao đổi mua bán tín chỉ carbon và kết quả giảm phát thải…
Thị trường carbon toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt được thúc đẩy bởi Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (
COP26
). Mặc dù vậy, tại Việt Nam thị trường carbon còn khá mới mẻ cả về thông tin, kiến thức cũng như thiếu hành lang pháp lý cho các chủ thể đủ điều kiện, sẵn sàng tham gia giao dịch.
Làm rõ hơn về thị trường carbon, ông Nguyễn Thành Công, Phó Trưởng phòng Kinh tế và Thông tin Biến đổi khí hậu – Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT cho biết, thị trường carbon có 2 loại hàng hóa giao dịch. Đầu tiên là hạn ngạch phát thải khí nhà kính. Chính phủ sẽ phân bổ hạn ngạch cho DN có quyền phát thải trong hạn ngạch mình sở hữu. Nếu phát thải thêm sẽ phải mua hạn ngạch từ các DN khác, vì thế giá hạn ngạch ở thị trường lâu đời như liên minh châu Âu, hay Mỹ rất cao.
Ngành Lâm nghiệp Việt Nam đang nắm giữ một lượng tín chỉ carbon khổng lồ.
Loại thứ 2 là tín chỉ carbon mang tính chất tự nguyện. Khi DN đầu tư vào công nghệ giảm phát thải, ví dụ như trồng rừng sẽ được các cơ quan quản lý phê duyệt, thẩm định lượng giảm phát thải và cấp tín chỉ. Tín chỉ đó vì mang tính tự nguyện nên giá dao động từ rất rẻ, ngưỡng 1 USD/tấn, cũng có thể rất cao, ngưỡng 15 USD/tấn, tùy vào loại hình công nghệ và mức đầu tư.
“Hiện đã có nhiều đơn vị quan tâm đến mua bán tín chỉ carbon, không chỉ cấp Chính phủ mà cả tư nhân. Nhưng thị trường sau này hướng đến bắt buộc, nên phải đợi sự phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở phát thải khí nhà kính, đó là những cơ sở có phát thải rất lớn. Chính phủ cũng đã có danh mục các cơ sở, lĩnh vực phải thực hiện giảm phát thải khí nhà kính. DN phát thải trên 3.000 tấn CO2/năm phải thực hiện giảm phát thải”, ông Nguyễn Thành Công cho biết thêm.
Tại Việt Nam hiện nay mới có 2 dự án bán tín chỉ carbon ra quốc tế là dự án ở Bắc Trung bộ giá khoảng 6 USD/tín chỉ; dự án ở Quảng Nam giá 10 USD/tín chỉ. Tuy nhiên, mức giá của dự án sẽ còn phụ thuộc vào các lợi ích khác cho cộng đồng, giá bán sẽ cao hơn khi những DN tự nguyện mua.
Theo ông Phạm Hồng Lượng, Chánh Văn phòng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), ngành lâm nghiệp đang nắm giữ một lượng tín chỉ carbon khổng lồ. Việt Nam có tỷ lệ che phủ rừng khá cao so với thế giới, khoảng hơn 42%, trong khi trung bình thế giới khoảng 31%.
Với tiềm năng đó, vừa qua Bộ NN&PTNT đã phối hợp với các Bộ, ngành, dưới sự hỗ trợ của tổ chức quốc tế như GIZ tham mưu trình Chính phủ về Luật lâm nghiệp. Đây là luật đầu tiên đưa nội dung dịch vụ hấp thụ carbon vào trong khuôn khổ pháp lý cao nhất. Sau đó là các nghị định quy định rất chi tiết về dịch vụ hấp thụ carbon, để làm sao đó thúc đẩy thị trường giao dịch, trao đổi mua bán tín chỉ carbon và kết quả giảm phát thải.
Thông tin từ Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT cho biết, từ năm 2025, Việt Nam sẽ thí điểm thị trường carbon và đến năm 2028 thị trường này chính thức vận hành. Vì vậy, Chính phủ cũng như các Bộ, ngành đang tích cực làm việc với các quốc gia khác quan tâm mua tín chỉ như Hàn Quốc, Singapore…hoặc các đối tác tư nhân muốn đầu tư vào tín chỉ để thực hiện cam kết giảm phát thải tại quốc gia của mình.
Khẳng định tiềm năng rất lớn của thị trường carbon tại Việt Nam, Chuyên gia Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia cho hay, tín chỉ carbon ngày càng khan hiếm vì quốc gia có rừng trên thế giới không nhiều.
“Ở Việt Nam có 3/4 đất rừng. Lâu nay chúng ta bỏ nhiều diện tích đất trồng rừng để trồng sắn, cà phê và nhiều loại cây khác, như keo, tràm… cho bình quân thu nhập tương đương hơn 3.000 USD/năm. Nhưng nếu làm giảm phát thải carbon có thể đạt 150 tấn carbon/ha, tương đương 6.000 USD/ha/năm”, ông Nghĩa tính toán.
Tín chỉ carbon ngày càng khan hiếm vì quốc gia có rừng trên thế giới không nhiều.
Ông Vũ Chí Công, Trưởng phòng Cấp cao về ESG của Vinacapital lưu ý, phát thải tại Việt Nam cao hơn nhiều nước trên thế giới, nhưng tiềm năng giảm phát thải, hấp thụ carbon ở Việt Nam cũng rất cao. Vì thế cần có cơ chế để đảm bảo hài hòa loại ích, doanh thu cho nhà đầu tư, phân chia nguồn doanh thu cho các bên liên quan để theo kịp thị trường quốc tế. Nhất là trong tương lai, định hướng của tín chỉ carbon sẽ tập trung nhiều hơn về các nguồn năng lượng tái tạo cũng như các dự án tiết kiệm năng lượng.
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia, để thí điểm thị trường
carbon
mới như ở Việt Nam sẽ cần chuẩn bị nhiều về mặt chính sách, các cơ chế thẩm định kỹ thuật, kiểm kê và nhất là định chế tài chính. Quan trọng hơn vẫn là nâng cao nhận thức của nhà quản lý và DN trước những cơ hội cùng thách thức của thị trường, từ đó mới tạo lập được hành lang pháp lý cần thiết cũng như có lộ trình phù hợp trong hợp tác quốc tế./.
|
When there are detailed regulations on carbon absorption services, it will promote the trading market, exchange and purchase of carbon credits and result in emission reduction...
The global carbon market is forecast to continue to grow strongly, especially driven by the 26th Conference of the Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change (
COP26
). However, in Vietnam the carbon market is still quite new in terms of information, knowledge as well as lack of legal corridor for qualified entities willing to participate in transactions.
Clarifying more about the carbon market, Mr. Nguyen Thanh Cong, Deputy Head of the Department of Economics and Climate Change Information - Department of Climate Change, Ministry of Natural Resources and Environment, said that the carbon market has two types of traded goods. The first is greenhouse gas emission quotas. The Government will allocate quotas to businesses that have the right to emit emissions within the quota they own. If we emit more emissions, we will have to buy quotas from other businesses, so the quota price in established markets like the European Union or the US is very high.
Vietnam's forestry industry holds a huge amount of carbon credits.
The second type is voluntary carbon credits. When businesses invest in emission reduction technology, such as afforestation, they will be approved by management agencies, appraise the amount of emission reduction, and issue credits. Because that credit is voluntary, the price ranges from very cheap, the threshold of 1 USD/ton, to very high, the threshold of 15 USD/ton, depending on the type of technology and level of investment.
“There are currently many entities interested in buying and selling carbon credits, not only at the Government level but also at the private level. But the market later aims to be mandatory, so we must wait for the allocation of quotas for greenhouse gas emission establishments, which are establishments with very large emissions. The Government also has a list of establishments and fields that must reduce greenhouse gas emissions. Enterprises that emit more than 3,000 tons of CO2/year must reduce emissions," Mr. Nguyen Thanh Cong added.
In Vietnam, there are currently only 2 projects selling carbon credits internationally: the project in the North Central region costs about 6 USD/credit; Project in Quang Nam costs 10 USD/credit. However, the price of the project will also depend on other benefits for the community, the selling price will be higher when businesses voluntarily buy.
According to Mr. Pham Hong Luong, Chief of Office of the General Department of Forestry (Ministry of Agriculture and Rural Development), the forestry industry holds a huge amount of carbon credits. Vietnam has a fairly high forest coverage rate compared to the world, about more than 42%, while the world average is about 31%.
With that potential, the Ministry of Agriculture and Rural Development recently coordinated with ministries and branches, with the support of international organizations such as GIZ, to advise and submit to the Government on the Forestry Law. This is the first law to include carbon absorption services in the highest legal framework. Then there are decrees that regulate carbon absorption services in great detail, to somehow promote the trading market, exchange and purchase of carbon credits and result in emission reduction.
Information from the Department of Climate Change, Ministry of Natural Resources and Environment, said that from 2025, Vietnam will pilot a carbon market and by 2028 this market will officially operate. Therefore, the Government as well as ministries and branches are actively working with other countries interested in buying credits such as Korea, Singapore... or private partners who want to invest in credits to fulfill their commitment to reduce credit. emissions in your country.
Confirming the huge potential of the carbon market in Vietnam, Expert Le Xuan Nghia, former Vice Chairman of the National Financial Supervisory Commission, said that carbon credits are increasingly scarce because the country has the most forests in the world. not much.
“In Vietnam, there are 3/4 forest lands. For a long time, we have used a lot of forest land to grow cassava, coffee and many other plants, such as acacia, melaleuca... giving an average income equivalent to more than 3,000 USD/year. But if we reduce carbon emissions, it can reach 150 tons of carbon/ha, equivalent to 6,000 USD/ha/year," Mr. Nghia calculated.
Carbon credits are increasingly scarce because there are not many countries with forests in the world.
Mr. Vu Chi Cong, Senior Head of ESG Department of Vinacapital noted that emissions in Vietnam are higher than many countries in the world, but the potential to reduce emissions and absorb carbon in Vietnam is also very high. Therefore, there needs to be a mechanism to ensure harmony in benefits and revenue for investors, and divide revenue sources among related parties to keep up with the international market. Especially in the future, the direction of carbon credits will focus more on renewable energy sources as well as energy saving projects.
In the opinion of many experts, to test the market
carbon
new technology like in Vietnam will require a lot of preparation in terms of policies, technical appraisal mechanisms, inventory and especially financial institutions. More importantly, it is still important to raise awareness of managers and businesses about the opportunities and challenges of the market, thereby creating the necessary legal corridor as well as having a suitable roadmap for international cooperation. ./.
|
Chiều 24/5, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia đã phát bản tin dự báo thời tiết dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5 (từ ngày 29/4 – 3/5/2023).
Thời tiết khu vực Bắc Bộ
Từ ngày 29-30/4: ngày 29/4 có mưa rào và dông, cục bộ có nơi mưa vừa, mưa to; ngày 30/4 có mưa rào và dông rải rác.
Từ ngày 01-03/5: chiều tối và đêm có mưa vài nơi; ngày trời nắng, phía Tây Bắc Bộ có nắng nóng cục bộ.
Khu vực Trung Bộ
Từ ngày 29-30/4: khu vực từ Thanh Hóa-Thừa Thiên Huế có mưa rào và dông rải rác, cục bộ có mưa vừa, mưa to; khu vực từ Đà Nẵng đến Bình Thuận phổ biến ít mưa, ngày nắng.
Từ ngày 01-03/5: chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi, ngày trời nắng, riêng khu vực vùng núi phía Tây các tỉnh từ Thanh Hóa-Thừa Thiên Huế ngày 02-03/5 có khả năng xảy ra nắng nóng.
Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ:
Từ ngày 29/4-03/5: chiều tối và đêm có mưa rào và dông vài nơi, ngày trời nắng, có nơi có nắng nóng; miền Đông Nam Bộ có nắng nóng diện rộng.
Khu vực Hà Nội
Từ ngày 29-30/4: ngày 29/4 có mưa rào và dông, có khả năng có mưa vừa, có nơi mưa to; ngày 30/4 có lúc có mưa, mưa rào.
Từ ngày 01-03/5: đêm không mưa, ngày trời nắng; ít khả năng xảy ra nắng nóng.
Khu vực thành phố Hồ Chí Minh
Từ ngày 29/4-03/5: phổ biến ít mưa, ngày nắng, trưa và chiều trời nắng nóng.
Cảnh báo: thời tiết chuyển mùa, trong cơn dông có khả năng xảy ra lốc, sét, mưa đá và gió giật mạnh.
Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông dịp lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, 30/4-1/5 và nghỉ hè 2023
Ngày 20/4/2023, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang vừa ký ban hành Công điện số 281/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ ngành, địa phương bảo đảm trật tự, an toàn giao thông phục vụ nhu cầu đi lại của Nhân dân dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, lễ 30/4-01/5 và cao điểm du lịch hè 2023.
Công điện nêu: Để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và tạo thuận lợi cho Nhân dân đi lại trong dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, lễ 30/4-01/5 (từ ngày 29/4 đến hết ngày 03/5/2023) và cao điểm du lịch hè năm 2023, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Bộ Công an chỉ đạo tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, như người điều khiển phương tiện vi phạm quy định nồng độ cồn, ma túy, chở quá tải trọng, quá số người quy định; phương tiện kinh doanh vận tải vi phạm quy định về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường…
Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tụ tập gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép; cương quyết xử lý, trấn áp những đối tượng có hành vi chống người thi hành công vụ;
Có phương án điều tiết, phân luồng hợp lý, hướng dẫn lưu thông an toàn, thông suốt, nhất là trên các tuyến đường, các khu vực được dự báo sẽ có lưu lượng phương tiện tham gia giao thông tăng cao trong dịp nghỉ lễ
Giỗ Tổ Hùng Vương
, lễ 30/4-01/5 và nghỉ hè 2023.
Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các cơ quan trực thuộc Bộ, các Sở Giao thông vận tải và các đơn vị kinh doanh vận tải xây dựng phương án tổ chức vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, bảo đảm an toàn giao thông, giảm ùn tắc giao thông và thực hiện nghiêm các quy định về phòng chống dịch COVID-19;
Chỉnh trang, bảo đảm điều kiện an toàn của kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là các tuyến giao thông chính, các đầu mối giao thông quan trọng tại các đô thị lớn và địa bàn thu hút đông khách du lịch;
Khẩn trương xử lý các điểm đen tai nạn giao thông mới phát sinh; rà soát, bổ sung hệ thống báo hiệu, biển chỉ dẫn bảo đảm dễ nhận biết, tạo thuận lợi cho người tham gia giao thông;
Kiểm tra việc thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn giao thông đối với hoạt động kinh doanh vận tải, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; tổ chức các điểm dừng nghỉ tạm thời dọc các tuyến cao tốc mới đưa vào khai thác.
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn báo chí tăng cường thời lượng và nội dung tuyên truyền về trật tự, an toàn giao thông trong dịp cao điểm nghỉ lễ và du lịch hè 2023.
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các cơ quan thông tấn báo chí và các tổ chức chính trị – xã hội tổ chức tuyên truyền các bài học kinh nghiệm từ các vụ tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông đã từng xảy ra trong dịp cao điểm nghỉ lễ 30/4-01/5 và cao điểm du lịch hè những năm trước;
Cảnh báo về các hành vi, các địa bàn và những tình huống về thời tiết, môi trường có nguy cơ cao xảy ra tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông;
Hướng dẫn người dân lựa chọn thời điểm, phương tiện, tuyến đường tham gia giao thông để giảm thiểu nguy cơ tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông; thực hiện nghiêm quy định về phòng, chống dịch COVID-19.
Bộ Y tế chỉ đạo các Sở Y tế và cơ sở khám, chữa bệnh trong cả nước xây dựng phương án dự báo những khu vực và thời điểm có nguy cơ cao xảy ra tai nạn giao thông theo kinh nghiệm những năm trước đây để có phương án bố trí lực lượng (đặc biệt là các trung tâm cấp cứu 115 trên toàn quốc), phương tiện, trang thiết bị y tế, thuốc chữa bệnh và máu để bảo đảm khả năng cao nhất trong việc cứu chữa nạn nhân tai nạn giao thông, giảm thiểu thiệt hại về người trong trường hợp xảy ra tai nạn giao thông.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan trực thuộc, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Du lịch yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan đưa nội dung bảo đảm an toàn giao thông vào công tác tổ chức các hoạt động du lịch trên toàn quốc, đặc biệt là bảo đảm các điều kiện an toàn về phương tiện, kết cấu hạ tầng giao thông kết nối đến các địa bàn thu hút khách du lịch, điểm đỗ và trông giữ phương tiện phục vụ khách du lịch.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các sở, ngành, lực lượng chức năng tăng cường tuyên truyền, vận động Nhân dân, du khách chấp hành các quy định về trật tự, an toàn giao thông gắn với phòng, chống dịch COVID-19;
Tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự, an toàn giao thông; tổ chức hoạt động vận tải và bảo đảm kết cấu hạ tầng giao thông, cấp cứu nạn nhân tai nạn giao thông;
Công bố số điện thoại đường dây nóng về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông nhằm tiếp nhận, kịp thời xử lý các phản ánh của người dân về tình hình trật tự, an toàn giao thông trong dịp nghỉ Lễ trên địa bàn.
Các bộ, ngành, địa phương tổ chức trực theo chế độ 24/7 và báo cáo tình hình bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong 05 ngày nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, lễ 30/4-01/5 (báo cáo nhanh hàng ngày, gửi trước 14h00; báo cáo tổng hợp 05 ngày, gửi trước 14h30′ ngày 03/5/2023), gửi Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.
|
On the afternoon of May 24, the National Center for Hydrometeorological Forecasting issued a weather forecast for the holiday of April 30 and May 1 (from April 29 to May 3, 2023).
Weather in the Northern region
From April 29-30: On April 29 there will be showers and thunderstorms, locally with moderate to heavy rain; On April 30 there will be scattered showers and thunderstorms.
From May 1 to 3: some rain in the evening and night; The day is sunny, the Northwest has local heat.
Central region
From April 29-30: the area from Thanh Hoa to Thua Thien Hue will have scattered showers and thunderstorms, locally there will be moderate and heavy rain; The area from Da Nang to Binh Thuan is popular with little rain and sunny days.
From May 1-3: In the evening and at night there will be showers and thunderstorms in some places, sunny days, especially in the western mountainous areas of the provinces from Thanh Hoa - Thua Thien Hue on May 2-3. out in the hot sun.
Central Highlands and Southern regions:
From April 29 to May 3: showers and thunderstorms in some places in the evening and night, sunny days, hot in some places; The Southeast region has widespread hot weather.
Hanoi area
From April 29-30: On April 29 there will be showers and thunderstorms, with the possibility of moderate rain and heavy rain in some places; On April 30 there will be rain and showers at times.
From May 1 to 3: no rain at night, sunny days; Less likely to have hot weather.
Ho Chi Minh City area
From April 29 to May 3: little rain, sunny days, hot noon and afternoon.
Warning: the weather changes, during thunderstorms there is a possibility of tornadoes, lightning, hail and strong winds.
Ensuring order and traffic safety on the occasion of the Hung King's Commemoration Day, April 30 - May 1 and summer vacation 2023
On April 20, 2023, Deputy Prime Minister Tran Luu Quang just signed and issued Official Telegram Không. 281/CD-TTg of the Prime Minister requesting ministries, branches and localities to ensure traffic order and safety to serve the needs of the Prime Minister. People's travel bridge during the Hung King's Commemoration holiday, April 30-May 1 and the 2023 summer tourism peak.
The dispatch stated: To ensure order, traffic safety and facilitate people's travel during the Hung King Commemoration holiday, April 30 - May 1 (from April 29 to the end of April 3). /May 2023) and the summer tourism peak in 2023, the Prime Minister requests:
The Ministry of Public Security directs to strengthen patrols, control, and strictly handle violations of traffic order and safety on roads, railways, and waterways, such as vehicle drivers violating traffic regulations. alcohol, drugs, overloading, exceeding the prescribed number of people; Transport business vehicles violate regulations on technical safety and environmental protection...
Proactively prevent, stop and strictly handle acts of gathering that disrupt public order and illegal racing; Resolutely handle and suppress those who commit acts against officials on duty;
Have a plan to properly regulate and divide traffic flows, guide safe and smooth circulation, especially on roads and areas that are forecast to have increased traffic during the holidays.
Hero King's death anniversary
, holiday April 30 - May 1 and summer vacation 2023.
The Ministry of Transport directs agencies under the Ministry, Departments of Transport and transport business units to develop transport organization plans to meet people's travel needs and ensure safety. traffic, reduce traffic congestion and strictly implement regulations on COVID-19 epidemic prevention;
Renovate and ensure safe conditions of traffic infrastructure, especially main traffic routes, important traffic hubs in large urban areas and areas that attract many tourists;
Urgently handle newly arising traffic accident black spots; Review and supplement the signaling system and signage to ensure easy recognition and create convenience for traffic participants;
Check the implementation of regulations on ensuring traffic safety for transport business activities, strictly handle violations; Organize temporary rest stops along newly put into operation highways.
The Ministry of Information and Communications directs news agencies to increase the time and content of propaganda on traffic order and safety during the peak holidays and summer tourism in 2023.
Vietnam Television, Voice of Vietnam, Vietnam News Agency, press agencies and socio-political organizations organize to propagate lessons learned from traffic accidents. and traffic congestion has occurred during the peak holiday period of April 30-May 1 and the summer tourism peak in previous years;
Warning about behaviors, areas and weather and environmental situations with high risk of traffic accidents and traffic jams;
Instruct people to choose times, means, and routes to participate in traffic to minimize the risk of traffic accidents and traffic congestion; Strictly implement regulations on COVID-19 epidemic prevention and control.
The Ministry of Health directs Departments of Health and medical examination and treatment facilities throughout the country to develop plans to forecast areas and times with high risk of traffic accidents based on experience in previous years to have plans to arrange forces (especially 115 emergency centers nationwide), vehicles, medical equipment, medicines and blood to ensure the highest ability to treat accident victims traffic, minimizing human damage in case of traffic accidents.
The Ministry of Culture, Sports and Tourism, the People's Committees of provinces and centrally run cities direct affiliated agencies, the Department of Culture, Sports and Tourism, and the Department of Tourism to request organizations, Relevant individuals include ensuring traffic safety in the organization of tourism activities nationwide, especially ensuring safety conditions for vehicles and connecting traffic infrastructure. to tourist attraction areas, parking spots and vehicle maintenance to serve tourists.
The People's Committees of provinces and centrally run cities direct departments, branches and functional forces to strengthen propaganda and mobilize people and tourists to comply with regulations on traffic order and safety. with COVID-19 epidemic prevention and control;
Patrolling, controlling and handling violations of traffic order and safety; organize transportation activities and ensure traffic infrastructure, provide first aid to traffic accident victims;
Announcing the hotline number for ensuring traffic order and safety to receive and promptly handle people's feedback on traffic order and safety during the holidays in the area.
Ministries, branches and localities organize 24/7 duty and report on the situation of ensuring order and traffic safety during the 5-day holiday of the Hung King's Commemoration Day, April 30-May 1 (newspaper). Daily quick report, sent before 2:00 p.m.; 5-day summary report, sent before 2:30 p.m. on May 3, 2023), sent to the National Traffic Safety Committee for synthesis and reporting to the Prime Minister./.
|
Nước là khởi nguồn của sự sống, mọi biến động về nguồn nước sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố môi trường và sự sống. Tuy nhiên, tài nguyên nước đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, như: Thiếu nước; phân bố nước không đều theo không gian, thời gian; tác động của biến đổi khí hậu; ô nhiễm nguồn nước…
Trong đó, điều đáng quan tâm hơn cả là nguồn nước đang đối mặt với những mức độ ô nhiễm khác nhau. Cụ thể là nước mặt sông, suối, ao hồ… bị ô nhiễm bởi rác thải, nước sinh hoạt và sản xuất công nghiệp, nông nghiệp chưa qua xử lý đổ vào. Nước ngầm cũng trong tình cảnh ô nhiễm và thiếu trầm trọng do bị khai thác quá mức. Còn nước mưa thì đối mặt nguy cơ bị ô nhiễm do một số nguyên nhân như không khí ô nhiễm…
Lâu nay, nhiều người vẫn lầm tưởng “nước là vô tận” nên sử dụng lãng phí. Thực tế, nếu tính riêng lượng tài nguyên mặt nước sản sinh trên lãnh thổ, thì tổng lượng nước bình quân trên đầu người ở nước ta hiện chỉ đạt 3.280m3/người/năm, thấp hơn so với trung bình của khu vực Đông Nam Á là 4.900m3/người/năm.
Như vậy có thể thấy,
Việt Nam
là quốc gia gặp nhiều thách thức về tài nguyên nước trong tương lai gần.
Hiện nay, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước đã được xây dựng khá toàn diện. Vấn đề còn lại là phải tập trung triển khai trên thực tế để đưa các chính sách đi vào cuộc sống, bảo đảm quản lý tài nguyên nước có hiệu quả, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng là các bộ, ngành, địa phương cần tập trung thực hiện hiệu quả Kết luận số 36-KL/TƯ (ngày 23-6-2022) của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Riêng với
Thủ đô Hà Nội
, các ban, ngành, quận, huyện, thị xã cần cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ bám sát theo Chương trình hành động số 27-CTr/TU ngày 20-4-2023 của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Kết luận số 36-KL/TƯ của Bộ Chính trị.
Mục tiêu quan trọng là phải bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận, sử dụng nước công bằng, hợp lý.
Để hiện thực hóa những mục tiêu, nhiệm vụ, các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ về bảo đảm an ninh nguồn nước là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài, liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước.
Cùng với đó, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thủy lợi, tài nguyên nước và điều tra cơ bản, đánh giá trữ lượng nguồn nước. Đặc biệt, cần xây dựng kịch bản phát triển, giải quyết các tác động cực đoan về hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt, ô nhiễm, suy thoái nguồn nước, bảo vệ môi trường nước; tăng cường công tác quy hoạch, điều tra cơ bản, giám sát, kiểm kê, đánh giá trữ lượng nguồn nước, phục vụ hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nguồn nước trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số, bảo đảm sự kết nối, chia sẻ hiệu quả giữa các cấp, bộ, ngành, địa phương; kiểm soát, giám sát chặt chẽ các nguồn thải, chất thải xả vào nguồn nước, nhất là nước thải sinh hoạt, công nghiệp.
Mỗi tổ chức, cá nhân cần nâng cao ý thức, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, bởi nước là tài nguyên quý giá, bảo vệ tài nguyên nước là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
|
Water is the source of life, any changes in water sources will affect environmental factors and life. However, water resources are facing many major challenges, such as: Water shortage; Water distribution is uneven in space and time; impacts of climate change; water pollution…
The most concerning thing is that water sources are facing different levels of pollution. Specifically, surface water of rivers, streams, ponds and lakes... is polluted by waste, untreated domestic water, industrial and agricultural production. Groundwater is also seriously polluted and lacking due to over-exploitation. Rainwater faces the risk of being polluted due to a number of reasons such as polluted air...
For a long time, many people still mistakenly believe that "water is endless" so they use it wastefully. In fact, if we consider the amount of surface water resources produced in the territory alone, the total average amount of water per capita in our country currently only reaches 3,280m3/person/year, lower than the average of the Southeast region. Asia is 4,900m3/person/year.
Thus it can be seen,
Vietnam
is a country facing many challenges regarding water resources in the near future.
Currently, the legal system on water resources protection has been built quite comprehensively. The remaining issue is to focus on practical implementation to bring policies into life, ensuring effective water resource management, aiming at the goal of sustainable development of the country. In particular, the important task is that ministries, branches and localities need to focus on effectively implementing Conclusion Không. 36-KL/TU (June 23, 2022) of the Politburo on ensuring water security and safety. dam and reservoir safety until 2030, vision to 2045. Particularly with
Ha Noi capital
, departments, branches, districts, and towns need to specify goals and tasks closely following Action Program Không. 27-CTr/TU dated April 20, 2023 of the Standing Committee of the City Party Committee on implementing the Conclusion Discussion Không. 36-KL/TU of the Politburo.
The important goal is to ensure the quantity and quality of water to serve people in all situations; meet the water use needs for production and business of industries and fields, especially important and essential economic sectors; All people and all subjects can access and use water fairly and reasonably.
To realize the goals and tasks, ministries, branches and localities need to strengthen propaganda and education so that officials, party members and people are properly and fully aware of ensuring water security. This is an important task, both urgent and long-term, directly related to people's lives, socio-economic development, and ensuring national defense and security of the country.
Along with that, improve the quality of irrigation planning, water resources and basic investigation and assessment of water resources. In particular, it is necessary to build development scenarios, address extreme impacts of drought, water shortage, saltwater intrusion, floods, inundation, pollution, water resource degradation, and protect the water environment; Strengthen planning, basic investigation, monitoring, inventory, and evaluation of water resources to effectively serve management, direction, and administration; Build and operate a national database system on water resources on the basis of promoting the application of science and technology, digital transformation, ensuring effective connection and sharing between levels, ministries and branches. , local; Strictly control and monitor waste sources and waste discharged into water sources, especially domestic and industrial wastewater.
Every organization and individual needs to raise awareness and use water economically and effectively, because water is a precious resource, protecting water resources is protecting our own lives.
|
Nghệ thuật ngôn từ độc đáo và niềm tin rằng con người sẽ vượt lên cái ác đã làm nên sức hút của nhà văn đoạt giải Nobel William Faulkner.
(Từ trái sang) Nhà văn Nhật Chiêu, dịch giả Quế Sơn, nhà văn Huỳnh Trọng Khang. Ảnh: Thanh Trần.
Dù được đánh giá là một tác phẩm phức tạp và khó đọc,
Nắng tháng tám
của nhà văn đoạt giải Nobel William Faulkner vẫn cho thấy sức hút bất ngờ tại thị trường Việt Nam trong 10 năm qua. Với
nhà văn Nhật Chiêu
, tác phẩm là một trong những trường hợp đặc biệt đáp ứng được cho cả giới nghiên cứu và độc giả thông thường.
Nhân dịp kỷ niệm 10 ra mắt bản dịch
Nắng tháng tám
,
dịch giả Quế Sơn – người chuyển ngữ tác phẩm sang tiếng Việt – và nhà văn Nhật Chiêu đã có buổi giao lưu tại Hội sách Ngày Sách và Văn hóa đọc 2023 ngày 23/4 nhằm giúp độc giả hiểu hơn về vẻ đẹp cũng như những ẩn ý nghệ thuật trong tác phẩm.
William Faulkner (1897-1962) được xem là một trong những nhà văn Mỹ quan trọng nhất thế kỷ 20. Với những kiệt tác như
Âm thanh và cuồng nộ
(1929),
Khi tôi nằm chết
(1930),
Nắng tháng tám
(1932) và
Absalom, Absalom!
(1936)… Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1949 vì “đóng góp mạnh mẽ và độc đáo về mặt nghệ thuật của ông cho tiểu thuyết Mỹ hiện đại” và hai giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1955 và 1963.
Nắng tháng tám
là một trong những tác phẩm nổi bật của ông, lấy bối cảnh từ vùng Nam Mỹ vào những năm 1930. Câu chuyện xoay quanh vụ án mưu sát một người phụ nữ tên Joanna Burden, người địa chủ bị hầu hết người dân trong vùng khinh ghét vì quá khứ gia đình. Thông qua quá trình kể câu chuyện này, bí mật của những nhân vật khác cũng dần được tiết lộ.
Tác phẩm Nắng tháng tám được chuyển ngữ và xuất bản tại Việt Nam. Ảnh: Thanh Trần.
Với nhà văn Huỳnh Trọng Khang, đây là một tác phẩm không dễ đọc: dày, cấu trúc không chặt chẽ, lỏng lẻo và đòi hỏi người đọc phải có sự tập trung nhất định. Tuy vậy, ở tác phẩm vẫn toát lên một sức hút khó hiểu.
“Sở dĩ người đọc có cảm giác nội dung lỏng lẻo là vì trong tác phẩm có 3 tuyến truyện đan xen với nhau. Nếu nắm được 3 tuyến truyện này sẽ cảm thấy việc đọc tác phẩm này rất dễ dàng”,
nhà văn Nhật Chiêu
giải thích.
Đó là Lena Grove bụng mang dạ chửa đi từ Alabama đến Jefferson trong gần một tháng trời để tìm người đàn ông mị tình đã hứa hẹn với nàng. Đó là Joe Christmas, một người không rõ sắc chủng, có thể là nửa trắng nửa đen, nhiều lần thừa nhận mình là da đen một cách quyết liệt, ngạo mạn và cay đắng. Bên cạnh đó còn có Gail Hightower, một mục sư bị phế bỏ.
“Ba cuộc đời ấy đi theo những hướng khác biệt, nhưng trải qua mười một ngày đầy biến động của tháng tám ở Jefferson thuộc Mississippi, dường như đời sống họ tương chiếu nhau tạo nên cái nhất quán đầy uy lực và bất ngờ của truyện”, nhà văn Nhật Chiêu nhận xét.
Nhà văn Faulkner nổi tiếng về nhiều phương diện, trong đó nổi tiếng hơn cả là những đề tài viết về cái ác như loạn luân, bạo lực, sát nhân… Việc tác phẩm của ông thường xuyên chứa đựng những tội ác như thế làm nảy ra một câu hỏi: Liệu ông có phải nhà văn của cái ác?
“Những đề tài như vậy không tốt không xấu, bởi vì đề tài của nghệ thuật chỉ là đề tài. Vấn đề là ta đối trị đề tài đó như thế nào và nhà văn xử lý như thế nào. Nhiều người cho rằng ông là nhà văn của cái ác, nhưng cũng giống
Tội ác và hình phạt
hay
A
nh anh em nhà Karamazov
của Dostoyevsky, toàn bộ tâm thế của nhà văn khi viết về đề tài ấy để hướng đến cái gì mới là quan trọng”, nhà văn Nhật Chiêu khẳng định.
Với tài năng của một bậc thầy dòng văn học ý thức, William Faulkner đã tạo nên một
Nắng tháng tám
với những đối thoại đa thanh, những đối truyện đa thể, những độc thoại nội tâm đa đoan và vô số suy tưởng đa nghĩa.
Ngay cả nhan đề của tác phẩm cũng được ông thay đổi từ
Dark House
(căn nhà tối) sang
Light in August
(Nắng tháng tám). Theo dịch giả Quế Sơn,
Light in August
trong phương ngữ vùng Mississippi – quê hương tác giả – chỉ trạng thái hoài thai. Do đó,
Nắng tháng tám
còn là ánh sáng của sự sinh nở, sáng tạo, là va chạm và tương tác liên tục giữa ánh sáng và bóng tối qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, vừa rực rỡ vừa thâm u.
Với câu nói nổi tiếng “Tôi không tin vào sự cùng tận của con người” trong diễn từ Nobel năm 1949, nhà văn Nhật Chiêu cho rằng Faulkner đã nêu lên tuyên ngôn nghệ thuật của chính mình, đó là tin rằng con người vượt lên cái ác chứ không bị lụi bại bởi cái ác.
|
The unique art of words and the belief that humans will overcome evil have made Nobel Prize-winning writer William Faulkner attractive.
(From left to right) Writer Nhat Chieu, translator Que Son, writer Huynh Trong Khang. Photo: Thanh Tran.
Although considered a complex and difficult work to read,
August sunshine
by Nobel Prize-winning writer William Faulkner has still shown surprising appeal in the Vietnamese market over the past 10 years. With
writer Nhat Chieu
, the work is one of the special cases that satisfies both researchers and ordinary readers.
On the occasion of the 10th anniversary of the translation launch
August sunshine
,
Translator Que Son - who translated the work into Vietnamese - and writer Nhat Chieu had an exchange at the 2023 Book and Reading Culture Day Book Fair on April 23 to help readers better understand the beauty as well as the artistic hidden meaning in the work.
William Faulkner (1897-1962) is considered one of the most important American writers of the 20th century. With masterpieces such as
Sound and fury
(1929),
As I lay dead
(1930),
August sunshine
(1932) et
Absalom, Absalom!
(1936)… He was awarded the Nobel Prize in Literature in 1949 for “his strong and original artistic contribution to the modern American novel” and two Pulitzer Prizes for fiction in 1955 and 1963.
August sunshine
is one of his outstanding works, set in South America in the 1930s. The story revolves around the attempted murder of a woman named Joanna Burden, a landowner who was despised by most people in the area. hate because of family past. Through the process of telling this story, the secrets of other characters are gradually revealed.
The work August Sunshine was translated and published in Vietnam. Photo: Thanh Tran.
For writer Huynh Trong Khang, this is a work that is not easy to read: thick, loosely structured, loose and requires the reader to have a certain concentration. However, the work still exudes an incomprehensible charm.
“The reason readers have a feeling that the content is loose is because in the work there are 3 story lines intertwined with each other. If you understand these three story lines, you will find reading this work very easy."
writer Nhat Chieu
explain.
That was a pregnant Lena Grove who traveled from Alabama to Jefferson for nearly a month to find the charming man who had promised her. That is Joe Christmas, a man of unknown race, possibly half white and half black, who repeatedly admits that he is black in a fierce, arrogant and bitter way. Besides, there is also Gail Hightower, an abandoned pastor.
“Those three lives went in different directions, but through eleven tumultuous days of August in Jefferson, Mississippi, their lives seemed to mirror each other, creating the powerful and surprising consistency of the story. ”, writer Nhat Chieu commented.
Writer Faulkner is famous in many aspects, most famous of which are writing about evil topics such as incest, violence, murder... The fact that his works often contain such crimes raises the issue. raises a question: Is he a writer of evil?
“Such topics are neither good nor bad, because the topic of art is just a topic. The problem is how we treat that topic and how the writer handles it. Many people believe that he is a writer of evil, but it is the same
Crime and punishment
nice
A
The Karamazov brothers
Dostoyevsky's work, the writer's entire mindset when writing about that topic is what is important," writer Nhat Chieu affirmed.
With the talent of a master of conscious literature, William Faulkner created one
August sunshine
with multi-voice dialogues, multi-narratives, multi-faceted inner monologues and countless multi-meaning thoughts.
Even the title of the work was changed by him
Dark House
(dark house) luxurious
Light in August
(August sunshine). According to translator Que Son,
Light in August
In the dialect of Mississippi - the author's hometown - refers to the state of conception. Therefore,
August sunshine
It is also the light of birth and creation, the constant collision and interaction between light and darkness through language rich in images, both brilliant and dark.
With the famous quote "I do not believe in the end of man" in his Nobel speech in 1949, writer Nhat Chieu said that Faulkner stated his own artistic statement, which is to believe that man will transcend evil, not destroyed by evil.
|
Hội hoa trượng (trò kéo chữ) trong lễ hội Phủ Dày, xã Kim Thái,
huyện Vụ Bản
,
tỉnh Nam Định
, là một trong những nét đẹp văn hóa lâu đời, nhắc nhở con người về truyền thống uống nước nhớ nguồn.
Cùng với thực hành tín ngưỡng, những sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo, hội hoa trượng góp phần làm phong phú không gian lễ hội, đưa Phủ Dày trở thành điểm du lịch tâm linh hấp dẫn với du khách.
Đông đảo người dân và du khách thập phương tham quan, trẩy hội Phủ Dầy năm 2023. Ảnh minh họa: Ảnh: Công Luật/TTXVN.
“Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ” ý chỉ tính theo lịch âm, tháng 8 có lễ hội Đền Trần, tháng 3 có lễ hội Phủ Dày. Đây là câu nói mỗi người dân Nam Định nhắc nhở nhau về truyền thống quê hương. Bởi vậy, cứ đầu tháng 3 âm lịch, du khách khắp nơi lại tấp nập trẩy hội Phủ Dày, thành kính tri ân công đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh, người được dân gian suy tôn là Mẫu nghi thiên hạ.
Lễ hội Phủ Dày được tổ chức từ ngày mùng 3 đến ngày mùng 8 tháng 3 âm lịch hằng năm. Bên cạnh các lễ nghi theo tín ngưỡng thờ Mẫu, điểm đặc trưng của lễ hội là những hình thức sinh hoạt văn hóa, tâm linh phong phú như hội hoa trượng, lễ rước thỉnh kinh, rước đuốc, đấu vật, đấu lân sư…
Hội hoa trượng nghĩa là trò kéo chữ, được người dân đưa vào, trở thành một phần mở rộng của lễ hội Phủ Dày gắn liền với công lao của Vương phi Trần Thị Ngọc Đài (1577-1669), người thôn Thông Khê, tổng Đồng Đội, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng nay là thôn Thông Khê, xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản.
Theo các cụ cao niên trong làng Tiên Hương, xã Kim Thái, trong một lần chúa Trịnh huy động người dân về kinh thành đắp đê ngăn lũ, khi cùng Chúa đi giám sát việc đắp đê, Vương phi Trần Thị Ngọc Đài thấy những người dân nghèo khổ, bà đã xin chúa Trịnh miễn cho dân Thiên Bản không phải đi lao dịch đắp đê ở kinh thành. Nhớ lời bà dặn khi về qua Phủ Dày làm lễ tạ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, người dân xếp cuốc xẻng thành chữ “Cung tạ”, tạ ơn Mẫu đã che chở cho dân. Từ đó, “Hoa trượng hội” đã trở thành một hoạt động tiêu biểu trong lễ hội Phủ Dày, được cộng đồng địa phương duy trì và phát triển đến ngày nay.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, đã có thời gian lễ hội phủ Dày không được tổ chức. Từ năm 1995 trở lại đây, khi lễ hội được mở lại, hội hoa trượng được tổ chức vào ngày mùng Bảy tại phủ Vân Cát, ngày mùng Tám tại phủ Tiên Hương, xã Kim Thái. Tham dự hội hoa trượng là các trai tráng có sức khỏe; tổng cờ (người chỉ huy xếp chữ) và lão trượng (người kiểm duyệt chữ) là những người được cộng đồng tín nhiệm, thường phải là người cao tuổi, thành tâm, am hiểu hoa trượng hội, có sức khỏe, gia đình nền nếp.
Để thực hiện hoa trượng hội cần có hàng trăm người tham gia. Thông lệ xưa kia, mỗi làng sẽ chọn ra những thanh niên khỏe mạnh tham gia kéo chữ gọi là phu cờ. Vào buổi sáng ngày kéo chữ, các phu cờ mặc áo cánh vàng, quần trắng, thắt lưng vải đỏ thắt múi đầu rìu, đầu buộc khăn lụa, thả trễ một bên tai, xếp hàng đôi tiến vào sân rộng các phủ Vân Cát và Tiên Hương. Các hàng, còn gọi là dây, mỗi hàng khoảng từ 40-50 quân, do các Tổng cờ chỉ huy. Khi xếp, trên tay phu cờ cầm một hoa trượng. Hoa trượng là gậy tre dài chừng 4m, một đầu có trang trí ngù lông gà, thân gậy được trang trí nhiều khoang xanh, đỏ, vàng.
Sau khi làm lễ bái lạy, dưới sự chỉ huy của tổng cờ, các hàng phu cờ nhịp nhàng di chuyển vào các vị trí đã định, ngồi xuống, hạ gậy để tạo thành các nét chữ cần xếp. Tổng cờ trình với lão trượng đi xem và duyệt chữ. Lão trượng, mặc trang phục võ quan màu đỏ, tay cầm cờ, có lọng che, đi từ trên xuống dưới kiểm tra, duyệt các nét chữ. Khi đã duyệt các nét chữ xong, tổng cờ dẫn phu cờ đi theo chỉ dẫn, vòng qua giếng phủ rồi tụ hợp về sân diễn như lúc ban đầu. Cứ như thế, theo nhịp trống, các tổng cờ điều khiển các phu cờ xếp các chữ tiếp theo. Các chữ Hán thường xếp là Mẫu nghi thiên hạ, Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình. Khi đã xếp xong các chữ, phu hội chạy một vòng hồ rồi vào sân phủ lễ tạ.
Ông Trần Cương, 85 tuổi ở làng Tiên Hương cho hay, trong hội hoa trượng xưa kia, những gia đình nào có con, cháu được tuyển chọn làm phu cờ là một vinh dự lớn cho gia đình, dòng họ để phục vụ Thánh Mẫu. Trước khi tổ chức xếp chữ phu hội phải rước kiệu lên Chùa – phủ Thông, xã Trung Thành (nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và vương phi Trần Thị Ngọc Đài) làm lễ xin chữ sau đó mới tiến hành tổ chức. Sau hội, người dân xin ngù hoa trên các gậy hội đem về nhà xem như lộc của Thánh Mẫu.
Ngày nay, nghi lễ xin chữ tổ chức hội hoa trượng được tổ chức đơn giản, không tiến hành tại Chùa – phủ Thông do di tích không còn. Các chữ được xếp hàng năm do Ban Tổ chức và thủ nhang cùng đại diện dân làng thống nhất, sau đó tổ chức làm lễ tại hai phủ Tiên Hương và Vân Cát. Người tham gia xếp chữ do các bản hội, đệ tử mong muốn được tham gia, phục vụ tiệc Mẫu đến thực hiện.
Ông Nguyễn Văn Thư, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Nam Định – nhà nghiên cứu văn hóa Nam Định khẳng định, hội hoa trượng không chỉ mang ý nghĩa thể hiện sự biết ơn của người dân với những công đức của Thánh Mẫu Liễu Hạnh – một trong ba vị Tam Tòa Thánh Mẫu, một vị thần quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, mà còn thể hiện mong ước, gửi gắm vào đó những ước vọng về sự che chở trong cuộc sống, phản ánh tư duy của cư dân nông nghiệp lúa nước sống hòa đồng, coi trọng và bảo vệ thiên nhiên, môi trường sống.
Hội hoa trượng cũng phản ánh phong tục tập quán, nghệ thuật trình diễn dân gian, thẩm mỹ của cộng đồng, thể hiện sự đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời giáo dục con cháu truyền thống hiếu thuận, uống nước nhớ nguồn.
|
Scepter flower festival (word pulling game) in Phu Day festival, Kim Thai commune,
Vu Ban district
,
Nam Dinh
, is one of the long-standing cultural beauties, reminding people of the tradition of remembering its source when drinking water.
Along with religious practices and unique folk cultural activities, the flower festival contributes to enriching the festival space, making Phu Day an attractive spiritual tourist destination for tourists.
A large number of people and tourists from all over visit and participate in the Phu Day festival in 2023. Illustration: Photo: Cong Luat/TTXVN.
"In August, the father's death anniversary, in March, the mother's death anniversary" refers to the lunar calendar, in August there is the Tran Temple festival, in March there is the Phu Day festival. This is a saying that every Nam Dinh person reminds each other about their homeland's traditions. Therefore, at the beginning of the third lunar month, tourists from all over flock to the Phu Day festival to pay their respects to the merits of Holy Mother Lieu Hanh, who is revered by the people as the Mother of the World.
Phu Day Festival is held from the 3rd to the 8th of the third lunar month every year. In addition to the rituals according to the Mother Goddess belief, the festival's distinctive features are rich forms of cultural and spiritual activities such as the flower and staff festival, the prayer-requesting procession, the torch relay, wrestling, and lion fighting...
The flower-scepter festival means word drawing game, and was introduced by the people, becoming an extension of the Phu Day festival associated with the merits of Queen Tran Thi Ngoc Dai (1577-1669), a native of Thong Khe village, general Dong Doi, Thien Ban district, Nghia Hung district is now Thong Khe village, Cong Hoa commune, Vu Ban district.
According to the elders in Tien Huong village, Kim Thai commune, one time Lord Trinh mobilized people to go to the capital to build dikes to prevent floods. When accompanying the Lord to supervise the building of dikes, Princess Tran Thi Ngoc Dai saw people Poor people, she asked Lord Trinh to exempt Thien Ban people from having to work to build dikes in the capital. Remembering what she told them, when they returned to Phu Day to pay their respects to Holy Mother Lieu Hanh, people arranged their shovels and hoes to form the word "Give thanks", thanking the Mother for protecting the people. Since then, "Flower Scepter Festival" has become a typical activity in the Phu Day festival, maintained and developed by the local community to this day.
Through the ups and downs of history, there was a time when the Phu Day festival was not held. From 1995 onwards, when the festival was reopened, the flower festival was held on the seventh day in Van Cat district, on the eighth day in Tien Huong district, Kim Thai commune. Attending the flower festival are healthy young men; The chess master (the person who commands the typewriting) and the old staff (the person who censors the words) are people who are trusted by the community, usually must be elderly, sincere, knowledgeable about flower and staff, and have good health and a good family background. sticky.
To carry out the flower festival, hundreds of people need to participate. In the old days, each village would choose healthy young men to participate in drawing the characters, called flag bearers. On the morning of the drawing day, the flag bearers wore yellow blouses, white pants, red cloth belts tied with ax heads, and silk scarves on their heads, hanging down on one ear, lined up in double rows to enter the large courtyards of Van Cat and Van Cat palaces. Tien Huong. The rows, also called strings, each have about 40-50 troops, commanded by the Chessmasters. When arranging, the flagman holds a flower staff in his hand. The flower staff is a bamboo stick about 4 meters long, one end is decorated with chicken feathers, the body of the stick is decorated with many green, red, and yellow slots.
After the bowing ceremony, under the command of the flag master, the rows of flagbearers rhythmically move into designated positions, sit down, and lower their sticks to form the strokes that need to be arranged. The chess master presented it to the senior staff to review and approve the lettering. The old man, wearing a red military uniform, holding a flag in his hand, covered with a parasol, walked from top to bottom checking and approving the handwriting. Once he has finished reviewing the handwriting, the chess master leads the flagman as directed, around the well and then gathers back to the stage as at the beginning. Just like that, following the beat of the drum, the chess masters control the chessmen to arrange the next letters. The Chinese characters are often classified as Mau Nghi Thien Ha, Quoc Thai Dan An, and Thien Ha Peace. Once the letters were arranged, the husband ran around the lake and then entered the courtyard to pay his respects.
Mr. Tran Cuong, 85 years old in Tien Huong village, said that in the old flower festival, families with children and grandchildren were selected to be flag bearers, which was a great honor for the family and clan to serve the Holy Mother. . Before organizing the letter formation, the bride and groom must carry a palanquin to the Thong Pagoda, Trung Thanh commune (where the Holy Mother Lieu Hanh and Queen Tran Thi Ngoc Dai are worshiped) to perform the ceremony to ask for letters, then proceed with the organization. After the festival, people ask for flowers on festival sticks to take home as blessings from the Holy Mother.
Nowadays, the ceremony of asking for letters to organize the flower and staff festival is held simply and is not carried out at Chua - Thong palace because the relic no longer exists. The letters are arranged every year by the Organizing Committee and incense burners and village representatives, then the ceremony is held at Tien Huong and Van Cat palaces. The participants formed the letters by the associations and disciples who wished to participate and serve the Mother's party.
Mr. Nguyen Van Thu, Director of Nam Dinh Provincial Museum - Nam Dinh cultural researcher affirmed that the flower festival not only means to express people's gratitude for the merits of Holy Mother Lieu Hanh - a saint. of the three Holy Mother Goddesses, an important deity in the Vietnamese Mother Goddess belief, but also represents wishes and wishes for protection in life, reflecting the thinking of residents. Rice farmers live in harmony, respect and protect nature and the living environment.
The Scepter Flower Festival also reflects the customs, folk performing arts, and aesthetics of the community, demonstrating solidarity of all classes of people, while educating children and grandchildren about the tradition of filial piety, remembering the source when drinking water. .
|
Giới thiệu khái quát thành phố Bạc Liêu
Thành phố Bạc Liêu với vị trí là trung tâm hành chính – chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – kỹ thuật, dịch vụ, an ninh – quốc phòng của tỉnh Bạc Liêu, là đầu mối giao thương với các tỉnh.
Thành phố Bạc Liêu nằm ở vị trí địa lý từ 9
0
16
’
5
’’
vĩ độ Bắc 105
0
45
’
6
’’
kinh độ Đông. Địa giới hành chính của thành phố Bạc Liêu: phía Đông giáp huyện Vĩnh Châu – tỉnh Sóc Trăng, phía Tây giáp huyện Hòa Bình, phía Nam giáp Biển Đông, phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Vĩnh Lợi, có diện tích tự nhiên là 17.538,19 ha. Cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km Cách thành phố; cách thành phố Cà Mau 67 km về phía Tây Bắc; cách thành phố Cần Thơ 110km về phía Nam (theo Quốc lộ 1A). Dân số của thành phố là 155.519 người (có 03 dân tộc chính: Kinh, Hoa, Khmer); với 10 đơn vị hành chính cấp xã (07 phường, 03 xã) được chia thành 67 khóm, ấp. Với vị trí là trung tâm hành chính – chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – kỹ thuật, dịch vụ, an ninh quốc phòng của tỉnh, là đầu mối giao thương với các tỉnh. Thành phố Bạc Liêu có đầy đủ những ưu thế để phát triển kinh tế và văn hóa xã hội. Nét đặc trưng và cũng là niềm tự hào của nhân dân thành phố Bạc Liêu là nơi sinh ra bài “Dạ cổ Hoài lang”, với các giai thoại về Công tử Bạc Liêu; về gốc xoài có niên đại 300 năm tuổi đã được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây Di sản, đồng hồ Thái Dương (hay còn gọi là đồng hồ đá), khu du lịch sinh thái sân chim, vườn nhãn, công trình nhà máy điện gió, khu du lịch tâm linh Quán âm phật đài…
Trong thời gian qua, cùng với sự nổ lực quyết tâm của các cấp, các ngành từ đó tình hình kinh tế – xã hội của thành phố Bạc Liêu luôn được duy trì và phát triển ổn định, an sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm, an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn thành đạt được nhiều kết quả nổi bật: Kinh tế thành phố hàng năm luôn ổn định và tiếp tục tăng trưởng khá; lạm phát từng bước được kiểm soát; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được khống chế kịp thời; sản suất công nghiệp tiếp tục được giữ vững; hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch phát triển mạnh. Đặc biệt, vào ngày 16 tháng 4 năm 2014, thành phố Bạc Liêu vinh dự được chính phủ ra Quyết định số 537/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 4 năm 2014 của Thủ tướng chính phủ về việc công nhận thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bạc Liêu và được tổ chức Lễ công bố quyết định một cách trọng thể vào dịp Festival Đờn ca tài tử Quốc gia Bạc Liêu năm 2014. Để đạt được thành tụ trên Đảng bộ và nhân dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu, không ngừng vươn lên tạo ra những bước đột phá về phát triển đô thị, công trình hạ tầng cơ sở đã được cải thiện đáng kể, góp phần thay đổi diện mạo của thành phố.
Mạng lưới chiếu sáng đô thị của thành phố được mở rộng và phủ kín địa bàn. Hệ thống cấp nước sinh hoạt hiện có 02 nhà máy nước với công suất khai bình quân 138 lít/người/ngày. Vào Ngày 17 tháng 01 năm 2016 nhà máy điện gió Bạc Liêu chính thức được khánh thành, đưa vào hoạt động 62 turbine gió có tổng công suất 99,2 MW, điện năng sản xuất khoảng 320 triệu KWh/năm. Tính từ trụ turbine gió đầu tiên được hòa vào lưới điện quốc gia từ tháng 5-2013 đến thời điểm khánh thành dự án tổng sản lượng điện hòa vào lưới điện quốc gia là 130 triệu KWh, doanh thu từ bán điện 150 tỷ đồng, đóng góp ngân sách 15 tỷ đồng.
Sau khi được công nhận là đô thị loại II, Thương mại – du lịch có bước phát triển mạnh mẽ tổng mức bán lẻ thương mại – dịch vụ ước cả năm 7.486 tỷ 819 triệu đồng, tăng 17% so với năm 2014 thành phố hiện có 4600 cở sở kinh doanh thương mại, dịch vụ với 15.802.100 đồng, bước đầu đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ của thành phố. Nhiều khu di tích văn hóa – lịch sử, danh lam thắng cảnh được đầu tư, tôn tạo và nâng cấp, như: Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và Nhạc sỹ Cao Văn Lầu, khu du lịch Nhà Mát, khu du lịch sinh thái sân chim Bạc Liêu, khu du lịch vườn nhãn, khu du lịch nhà Công tử Bạc Liêu, Khu du lịch Quán Âm Phật Đài, Nhà máy Điện gió, chùa Xiêm Cán, khu du lịch sinh thái Hồ Nam, các nhà hàng, khách sạn, khu ẩm thực… Mạng lưới chợ trung tâm, chợ phường được nâng cấp cải tạo, các khu phố chợ, chợ khu vực cũng được chỉnh trang đầu tư nâng cấp. Hiện thành phố có 05 trung tâm thương mại: Chợ Bạc Liêu , siêu thị Vinmart, siêu thị Co.opmart, siêu thị điện máy xanh, siêu thị điện máy Chợ lớn.
Những thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng của thành phố đã từng bước cải thiện diện mạo đô thị, tạo ra nền tảng để thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư vào thành phố, nhằm khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của thành phố về phát triển kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ. Hiện trên địa bàn thành phố đã và đang được các nhà đầu tư vào khai thác như: Nhà máy Bia Sài Gòn, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng thương mại, du lịch Công Lý, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Phát, Công ty Địa ốc, Công ty cổ phần Minh Thắng và nhiều nhà đầu tư khác…
Nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản khá ổn định. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng, tổng giá trị sản xuất tăng bình quân 19,38%; trong đó, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 18,56%, xây dựng tăng bình quân 21,03%. Hiện nay thành phố đã được đầu tư phát triển khu phức hợp sản xuất nuôi tôm chất lượng cao, mô hình nuôi tôm siêu thâm canh của tập đoàn Việt Úc tại xã Hiệp Thành với tổng diện tích 315 ha. Riêng về đánh bắt thủy sản, có 305 phương tiện đang hoạt động với 2.306 lao động. Tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác đánh bắt thủy sản đạt 38.545 tấn trong đó sản lượng NTTS là 19.895 tấn, sản lượng đánh bắt hải sản là 18.650 tấn.
Về nông ngiệp: Tổng đàn gai súc, gia cầm trên địa bàn thành phố phát triển tương đối ổn định: Ước tính, tổng đàn gia súc 16.626 con, gia cầm 26.672 con. Ngoài ra thành phố còn có một số mô hình nuôi động vật hoang dã (cá sấu, nhiếm, heo rừng, đà điểu…..) đang phát triển với số lượng 36.179 con.
Về kinh tế hợp tác Hợp tác xã, thành phố hiện có 10 hợp tác xã, 113 tổ hợp tác, 68 trang trại. Nhìn chung tình hình kinh tế của thành phố phát triển ổn định tốc độ tăng trưởng GRDP ước năm 2015 đạt 16,63%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ. GRDP bình quân đầu người ước đạt 55,10 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, vấn đề an sinh xã hội tiếp tục được đảm bảo. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2015 chỉ còn 0,9% hộ; hơn 94% hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa, 67 khóm, ấp đều đạt chuẩn văn hóa, 1 xã đạt chuẩn xã Văn hóa Nông thôn mới, 3 phường đạt chuẩn Phường Văn minh đô thị. Chất lượng giáo dục – đào tạo ngày càng được nâng cao, nhiều năm liền là một trong những đơn vị dẫn đầu của ngành giáo dục – đào tạo tỉnh Bạc Liêu; thành phố đã được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số, gia đình và trẻ em cũng được thực hiện khá tốt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ổn định ở mức 0,9 %/năm.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội được tăng cường; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Bạc Liêu
Thành phố Bạc Liêu với vị trí là trung tâm hành chính – chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – kỹ thuật, dịch vụ, an ninh – quốc phòng của tỉnh Bạc Liêu, là đầu mối giao thương với các tỉnh.
Thành phố Bạc Liêu nằm ở vị trí địa lý từ 9
0
16
’
5
’’
vĩ độ Bắc 105
0
45
’
6
’’
kinh độ Đông. Địa giới hành chính của thành phố Bạc Liêu: phía Đông giáp huyện Vĩnh Châu – tỉnh Sóc Trăng, phía Tây giáp huyện Hòa Bình, phía Nam giáp Biển Đông, phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Vĩnh Lợi, có diện tích tự nhiên là 17.538,19 ha. Cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km Cách thành phố; cách thành phố Cà Mau 67 km về phía Tây Bắc; cách thành phố Cần Thơ 110km về phía Nam (theo Quốc lộ 1A). Dân số của thành phố là 155.519 người (có 03 dân tộc chính: Kinh, Hoa, Khmer); với 10 đơn vị hành chính cấp xã (07 phường, 03 xã) được chia thành 67 khóm, ấp. Với vị trí là trung tâm hành chính – chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – kỹ thuật, dịch vụ, an ninh quốc phòng của tỉnh, là đầu mối giao thương với các tỉnh. Thành phố Bạc Liêu có đầy đủ những ưu thế để phát triển kinh tế và văn hóa xã hội. Nét đặc trưng và cũng là niềm tự hào của nhân dân thành phố Bạc Liêu là nơi sinh ra bài “Dạ cổ Hoài lang”, với các giai thoại về Công tử Bạc Liêu; về gốc xoài có niên đại 300 năm tuổi đã được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây Di sản, đồng hồ Thái Dương (hay còn gọi là đồng hồ đá), khu du lịch sinh thái sân chim, vườn nhãn, công trình nhà máy điện gió, khu du lịch tâm linh Quán âm phật đài…
Trong thời gian qua, cùng với sự nổ lực quyết tâm của các cấp, các ngành từ đó tình hình kinh tế – xã hội của thành phố Bạc Liêu luôn được duy trì và phát triển ổn định, an sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm, an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn thành đạt được nhiều kết quả nổi bật: Kinh tế thành phố hàng năm luôn ổn định và tiếp tục tăng trưởng khá; lạm phát từng bước được kiểm soát; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được khống chế kịp thời; sản suất công nghiệp tiếp tục được giữ vững; hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch phát triển mạnh. Đặc biệt, vào ngày 16 tháng 4 năm 2014, thành phố Bạc Liêu vinh dự được chính phủ ra Quyết định số 537/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 4 năm 2014 của Thủ tướng chính phủ về việc công nhận thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bạc Liêu và được tổ chức Lễ công bố quyết định một cách trọng thể vào dịp Festival Đờn ca tài tử Quốc gia Bạc Liêu năm 2014. Để đạt được thành tụ trên Đảng bộ và nhân dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu, không ngừng vươn lên tạo ra những bước đột phá về phát triển đô thị, công trình hạ tầng cơ sở đã được cải thiện đáng kể, góp phần thay đổi diện mạo của thành phố.
Mạng lưới chiếu sáng đô thị của thành phố được mở rộng và phủ kín địa bàn. Hệ thống cấp nước sinh hoạt hiện có 02 nhà máy nước với công suất khai bình quân 138 lít/người/ngày. Vào Ngày 17 tháng 01 năm 2016 nhà máy điện gió Bạc Liêu chính thức được khánh thành, đưa vào hoạt động 62 turbine gió có tổng công suất 99,2 MW, điện năng sản xuất khoảng 320 triệu KWh/năm. Tính từ trụ turbine gió đầu tiên được hòa vào lưới điện quốc gia từ tháng 5-2013 đến thời điểm khánh thành dự án tổng sản lượng điện hòa vào lưới điện quốc gia là 130 triệu KWh, doanh thu từ bán điện 150 tỷ đồng, đóng góp ngân sách 15 tỷ đồng.
Sau khi được công nhận là đô thị loại II, Thương mại – du lịch có bước phát triển mạnh mẽ tổng mức bán lẻ thương mại – dịch vụ ước cả năm 7.486 tỷ 819 triệu đồng, tăng 17% so với năm 2014 thành phố hiện có 4600 cở sở kinh doanh thương mại, dịch vụ với 15.802.100 đồng, bước đầu đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ của thành phố. Nhiều khu di tích văn hóa – lịch sử, danh lam thắng cảnh được đầu tư, tôn tạo và nâng cấp, như: Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và Nhạc sỹ Cao Văn Lầu, khu du lịch Nhà Mát, khu du lịch sinh thái sân chim Bạc Liêu, khu du lịch vườn nhãn, khu du lịch nhà Công tử Bạc Liêu, Khu du lịch Quán Âm Phật Đài, Nhà máy Điện gió, chùa Xiêm Cán, khu du lịch sinh thái Hồ Nam, các nhà hàng, khách sạn, khu ẩm thực… Mạng lưới chợ trung tâm, chợ phường được nâng cấp cải tạo, các khu phố chợ, chợ khu vực cũng được chỉnh trang đầu tư nâng cấp. Hiện thành phố có 05 trung tâm thương mại: Chợ Bạc Liêu , siêu thị Vinmart, siêu thị Co.opmart, siêu thị điện máy xanh, siêu thị điện máy Chợ lớn.
Những thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng của thành phố đã từng bước cải thiện diện mạo đô thị, tạo ra nền tảng để thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư vào thành phố, nhằm khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của thành phố về phát triển kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ. Hiện trên địa bàn thành phố đã và đang được các nhà đầu tư vào khai thác như: Nhà máy Bia Sài Gòn, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng thương mại, du lịch Công Lý, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Phát, Công ty Địa ốc, Công ty cổ phần Minh Thắng và nhiều nhà đầu tư khác…
Nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản khá ổn định. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng, tổng giá trị sản xuất tăng bình quân 19,38%; trong đó, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 18,56%, xây dựng tăng bình quân 21,03%. Hiện nay thành phố đã được đầu tư phát triển khu phức hợp sản xuất nuôi tôm chất lượng cao, mô hình nuôi tôm siêu thâm canh của tập đoàn Việt Úc tại xã Hiệp Thành với tổng diện tích 315 ha. Riêng về đánh bắt thủy sản, có 305 phương tiện đang hoạt động với 2.306 lao động. Tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác đánh bắt thủy sản đạt 38.545 tấn trong đó sản lượng NTTS là 19.895 tấn, sản lượng đánh bắt hải sản là 18.650 tấn.
Về nông ngiệp: Tổng đàn gai súc, gia cầm trên địa bàn thành phố phát triển tương đối ổn định: Ước tính, tổng đàn gia súc 16.626 con, gia cầm 26.672 con. Ngoài ra thành phố còn có một số mô hình nuôi động vật hoang dã (cá sấu, nhiếm, heo rừng, đà điểu…..) đang phát triển với số lượng 36.179 con.
Về kinh tế hợp tác Hợp tác xã, thành phố hiện có 10 hợp tác xã, 113 tổ hợp tác, 68 trang trại. Nhìn chung tình hình kinh tế của thành phố phát triển ổn định tốc độ tăng trưởng GRDP ước năm 2015 đạt 16,63%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ. GRDP bình quân đầu người ước đạt 55,10 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, vấn đề an sinh xã hội tiếp tục được đảm bảo. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2015 chỉ còn 0,9% hộ; hơn 94% hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa, 67 khóm, ấp đều đạt chuẩn văn hóa, 1 xã đạt chuẩn xã Văn hóa Nông thôn mới, 3 phường đạt chuẩn Phường Văn minh đô thị. Chất lượng giáo dục – đào tạo ngày càng được nâng cao, nhiều năm liền là một trong những đơn vị dẫn đầu của ngành giáo dục – đào tạo tỉnh Bạc Liêu; thành phố đã được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số, gia đình và trẻ em cũng được thực hiện khá tốt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ổn định ở mức 0,9 %/năm.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội được tăng cường; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thuận Thành
Vị trí
Thuận Thành là huyện nằm ở bờ Nam sông Đuống của tỉnh Bắc Ninh. Bắc giáp các huyện Tiên Du và Quế Võ, ranh giới là con sông Đuống. Nam giáp huyện Văn Lâm của tỉnh Hưng Yên. Tây giáp huyện Gia Lâm của thành phố Hà Nội. Đông giáp các huyện Gia Bình và Lương Tài.
Thông tin sơ lược
Diện tích: 116km
2
Dân số: 136.600 người 2004
Mật độ: 1.172 người/km
2
Huyện lỵ: thị trấn Hồ.
Bao gồm thị trấn Hồ và 17 xã là: An Bình, Đại Đồng Thành, Đình Tổ, Gia Đông, Hà Mãn, Hoài Thượng, Mão Điền, Nghĩa Đạo, Ngũ Thái, Nguyệt Đức, Ninh Xá, Song Hồ, Song Liễu, Thanh Khương, Trạm Lộ, Trí Quả, Xuân Lâm.
Thuận Thành xưa là tên phủ ở tỉnh Bắc Ninh, kiêm lý huyện Siêu Loại, sau năm 1945 là huyện của tỉnh Bắc Ninh.
Vùng đất văn hoá
Đây là vùng đất cổ có truyền thống văn hoá lâu đời. Từ năm 187-226, chùa Dâu đã được xây dựng. Năm 580, thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi người Ấn Độ đã đến đây để truyền bá thiền tông, khai sáng phái thiền Tì-ni-đa-lưu-chi. Thời Bắc thuộc, Thuận Thành là nơi đặt quận trị của quận Giao Chỉ, di tích còn lại là thành cổ Luy Lâu. Thuận Thành còn là quê của Ỷ Lan, Đoàn Tấn Hoà, Nguyễn Quỳnh, Lê Quýnh, Lý Đạo Thành, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Cử, Vũ Duệ.
Điều kiện tự nhiên
Về mặt địa lý, Thuận Thành là huyện đồng bằng, được phù sa sông Đuống bồi đắp quanh năm. Khí hậu mang tính chất gió mùa đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, lắm nắng nhiều mưa. Nhiệt độ trung bình 27-28
o
C. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp của huyện. Bên cạnh đó, huyện cũng có những làng nghề thủ công truyền thống như nuôi tằm ươm tơ, dệt in hoa trên vải, thêu ren xuất khẩu….cũng góp phần mang lại thu nhập đáng kể.
Giao thông
Về giao thông, huyện có tuyến quốc lộ 38, đi thành phố Bắc Ninh và tỉnh Hưng Yên. Đường tỉnh 282, đi Hà Nội và các huyện lân cận. Đường tỉnh 280 nối liền thị trấn Hồ của huyện Thuận Thành với thị trấn Gia Bình, huyện Gia Bình và thị trấn Thứa, huyện Lương Tài. Ngoài ra, tuyến đường thuỷ sông Đuống có thể đi Hà Nội hay Hải Dương.
Du lịch
Những năm gần đây, huyện đang chú trọng đến phát triển du lịch. Lợi thế đặc biệt của Thuận Thành trong phát triển du lịch là tiềm năng văn hoá nhân văn phong phú và đa dạng với nhiều loại hình khác nhau. Vốn nổi tiếng từ xưa với làng tranh Đông Hồ và hệ thống các di tích lịch sử văn hoá như chùa Dâu, chùa Bút Tháp, thành cổ Luy Lâu, nhất là di tích lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Những địa danh này đang là những địa điểm thu hút ngày càng nhiều du khách khắp nơi đến tham quan, du lịch.
|
General introduction of Thuan Thanh district
Location
Thuan Thanh is a district located on the southern bank of the Duong River in Bac Ninh province. The North borders Tien Du and Que Vo districts, the boundary is the Duong river. The south borders Van Lam district of Hung Yen province. The West borders Gia Lam district of Hanoi city. The East borders Gia Binh and Luong Tai districts.
Brief information
Area: 116km
2
Population: 136,600 people 2004
Density: 1,172 people/km
2
District capital: Ho town.
Including Ho town and 17 communes: An Binh, Dai Dong Thanh, Dinh To, Gia Dong, Ha Man, Hoai Thuong, Mao Dien, Nghia Dao, Ngu Thai, Nguyet Duc, Ninh Xa, Song Ho, Song Lieu, Thanh Khuong, Tram Lo, Tri Qua, Xuan Lam.
Thuan Thanh was formerly the name of the district in Bac Ninh province, concurrently managing Sieu Loai district, after 1945 it was a district of Bac Ninh province.
Cultural land
This is an ancient land with a long cultural tradition. From 187-226, Dau Pagoda was built. In 580, the Indian Zen master Tini-da-luu-chi came here to spread Zen Buddhism, founding the Tini-da-luu-chi Zen sect. During the Northern domination, Thuan Thanh was the place where the district administration of Giao Chi district was located, the remaining relic is the ancient citadel of Luy Lau. Thuan Thanh is also the hometown of Y Lan, Doan Tan Hoa, Nguyen Quynh, Le Quynh, Ly Dao Thanh, Nguyen Gia Thieu, Doan Cu, and Vu Due.
Natural condition
Geographically, Thuan Thanh is a delta district, covered by Duong River alluvium all year round. The climate is typical of the monsoon region of the Northern Delta, with lots of sunshine and lots of rain. Average temperature 27-28
o
C. These are favorable conditions for agricultural development in the district. Besides, the district also has traditional handicraft villages such as raising silkworms, weaving and printing flowers on fabric, embroidering for export... which also contribute to bringing in significant income.
Traffic
Regarding transportation, the district has National Highway 38, going to Bac Ninh city and Hung Yen province. Provincial Road 282, going to Hanoi and neighboring districts. Provincial Road 280 connects Ho town of Thuan Thanh district with Gia Binh town, Gia Binh district and Thua town, Luong Tai district. In addition, the Duong River waterway can go to Hanoi or Hai Duong.
Tourism
In recent years, the district has been focusing on tourism development. Thuan Thanh's special advantage in tourism development is its rich and diverse cultural and humanistic potential with many different types. Famous since ancient times for Dong Ho painting village and a system of historical and cultural relics such as Dau pagoda, But Thap pagoda, Luy Lau ancient citadel, especially the tombs and temples of Kinh Duong Vuong, Lac Long Quan, Au Co. These landmarks are attracting more and more tourists from all over to visit and travel.
|
Giới thiệu khái quát huyện Lương Tài
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Địa giới hành chính:
Lương Tài là một huyện chiêm trũng của tỉnh Bắc Ninh, cách tỉnh lỵ khoảng 30 Km
– Phía Bắc giáp huyện Gia Bình
– Phía Nam giáp huyện Cẩm Giàng (Hải Dương)
– Phía Đông giáp huyện Nam Sách (Hải Dương)
– Phía Tây giáp huyện Thuận Thành.
– Lương Tài có các trục giao thông huyết mạch nhằm phát triển kinh tế xã hội là tỉnh lộ 280, 281, 284, 285 nối Lương Tài với Gia Bình, Thuận Thành( Bắc Ninh), Lương Tài với Cẩm Giàng (Hải Dương).
Hành chính:
Lương Tài có 14 đơn vị hành chính gồm
1 thị trấn Thứa
13 xã: An Thịnh, Quảng Phú, Phú Lương, Minh Tân, Mỹ Hương, Bình Định, An Thịnh, Trừng Xá, Tân Lãng, Lâm Thao, Trung Chính, Phú Hòa, Trung Kênh, Lai Hạ
Có 102 thôn, trên 29.000 hộ và 105.000 nhân khẩu.
Lương Tài vốn là vùng đất sình lầy do phù xa của các con sông thuộc hệ thống sông Thái Bình bồi đắp.
Thời Trần (1225-1400) Lương Tài có tên là Thiện Tài; thời Lê Trang Hưng có tên là Lang Tài, theo dư địa chí Việt Nam (1886 Vương triều Nguyễn) huyện Lang Tài có 9 tổng 70 xã thôn.
Đến tháng 10/1950 huyện Lang Tài và Gia Bình hợp nhất thành huyện Gia Lương. Tháng 9/1999 huyện Lương Tài được tái lập với 13 xã 1 thị trấn, dân số 101.000 nghìn, diện tích tự nhiên 10.116 ha (Đảng bộ huyện Lương Tài với 4.000 đảng viên sinh hoạt ở 49 tổ chức cơ sở đảng). Sau 15 năm tái lập huyện, Đảng bộ huyện Lương Tài với 50 tổ chức cơ sở đảng, 5.084 đảng viên, phát huy truyền thống quê hương Lương Tài, Đảng bộ và nhân dân huyện Lương Tài đã đoàn kết thống nhất một lòng thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, lãnh chỉ đạo của Tỉnh ủy, xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy nâng cao năng lực điều hành của chính quyền các cấp, tập trung phát triển kinh tế xã hội theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, phát huy lợi thế trong nông nghiệp hình thành các vùng sản xuất chuyên canh đưa cây trồng có giá trị kinh tế cao nâng giá trị trên 1 đơn vị diện tích canh tác. Cùng với sự nỗ lực cố gắng của cấp ủy chính quyền các cấp, sự tập trung của cả hệ thống chính trị trong toàn huyện, sự đồng thuận của nhân dân và quan tâm hỗ trợ của tỉnh mặc dù còn nhiều khó khăn song Lương Tài đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực
|
General introduction of Luong Tai district
NATURAL CONDITION
Administrative boundaries:
Luong Tai is a low-lying district of Bac Ninh province, about 30 km from the provincial capital
– The North borders Gia Binh district
– The South borders Cam Giang district (Hai Duong)
– The East borders Nam Sach district (Hai Duong)
– The West borders Thuan Thanh district.
– Luong Tai has vital traffic axes for socio-economic development such as provincial roads 280, 281, 284, 285 connecting Luong Tai with Gia Binh, Thuan Thanh (Bac Ninh), Luong Tai with Cam Giang (Hai Duong). .
Administration:
Luong Tai has 14 administrative units including:
1 Thua town
13 communes: An Thinh, Quang Phu, Phu Luong, Minh Tan, My Huong, Binh Dinh, An Thinh, Trung Xa, Tan Lang, Lam Thao, Trung Chinh, Phu Hoa, Trung Kenh, Lai Ha
There are 102 villages, over 29,000 households and 105,000 people.
Luong Tai was originally a swampy land deposited by silt from the rivers of the Thai Binh river system.
During the Tran Dynasty (1225-1400), Luong Tai was named Thien Tai; During the reign of Le Trang Hung, the name was Lang Tai. According to the Vietnamese geographical journal (1886, Nguyen Dynasty), Lang Tai district had 9 total communes and villages.
In October 1950, Lang Tai and Gia Binh districts merged into Gia Luong district. In September 1999, Luong Tai district was re-established with 13 communes and 1 town, population of 101,000 thousand, natural area of 10,116 hectares (Luong Tai district Party Committee with 4,000 party members living in 49 grassroots party organizations). After 15 years of re-establishing the district, the Party Committee of Luong Tai district with 50 grassroots party organizations and 5,084 party members, promoting the traditions of Luong Tai's hometown, the Party Committee and people of Luong Tai district have united and unified in implementing The Party's innovation policy, the Provincial Party Committee's leadership, building and strengthening the Party's grassroots organization, consolidating the organizational apparatus to improve the operating capacity of governments at all levels, focusing on socio-economic development in the direction of reducing the proportion of agriculture, increasing the proportion of industry and services, promoting advantages in agriculture to form specialized production areas to bring crops with high economic value to increase the value per unit of area. culture. Along with the efforts of government committees at all levels, the concentration of the entire political system throughout the district, the consensus of the people and the support of the province, although there are still many difficulties, Luong Tai has achieved encouraging results in many fields
|
Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Phú
Quá trình hình thành và phát triển
Nền kinh tế chính của tỉnh là sản xuất nông nghiệp với cây chủ lực là cây lúa nước. Từ thị trấn ngược lên Đại Điền, Phú Khánh là những cánh đồng lúa bao la. Từ thị trấn đi về phía biển, diện tích đồng lúa bị thu hẹp dần lại, nhường chỗ cho các đầm nuôi tôm, đưa lại thu nhập cao gấp nhiều lần trồng lúa. Người dân ở vùng này, còn có nghề rừng, đánh bắt và chế biến hải sản.
Trên những giồng đất, nhân dân thường trồng hoa màu, thuốc lá, dưa hấu. Trong những năm 40, nghề trồng bông vải từ phía Ba Tri lan sang đây, phát triển khá mạnh trên các giồng, tận ven biển. Mạng lưới sông ngòi chằng chịt và biển khơi là nguồn thủy hải sản dồi dào, hàng năm cung cấp cho Thạnh Phú hàng ngàn tấn tôm, cua, cá các loại. Con nghêu, một đặc sản của vùng biển Thạnh Phong, Thạnh Hải cũng là nguồn lợi quan trọng, nuôi sống hàng ngàn dân ven biển. Nằm trên một địa bàn thuận lợi như vậy, đã từ lâu, người dân Thạnh Phú đã dùng thuyền to để vận chuyển, đi lại mua bán với các tỉnh miền Tây, lên phía Đồng Tháp Mười và ra tận miền Trung.
Trong khoảng 10 năm cuối của thế kỷ (1990 – 2000) qua một quá trình thể nghiệm, điều chỉnh nhiều lần, đến nay huyện Thạnh Phú đã hình thành rõ nét 3 tiểu vùng:
Là một huyện nằm ở cuối dòng sông Cửu Long, đất đai phần lớn bị nhiễm mặn, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, việc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của dân gặp không ít khó khăn. Hằng ngày, tỉnh thường phải tổ chức cứu trợ cho một số hộ nghèo, nhưng từ năm 1995 thì bắt đầu chấm dứt hẳn. Tuy nhiên, việc làm ăn khấm khá diễn ra không đều. Vùng nuôi thủy sản phát triển nhanh nhất nhờ con tôm. Nhiều gia đình nghèo khổ nay đã trở thành triệu phú, thậm chí có bạc tỷ. Một nét đẹp đáng biểu dương là có những người nghèo nay làm ăn phát đạt, vì thấm thía nỗi khổ mà mình đã trải, nên đã bỏ ra hàng đôi ba trăm triệu đồng cho bà con mượn làm vốn sản xuất, không lấy lãi và có khi không cần kỳ hạn, nếu những người đó làm ăn gặp phải khó khăn, chưa vượt qua được. Ở xã Giao Thạnh, có gia đình điển hình cho mượn vốn tương trợ, giúp đỡ nhau vượt nghèo, vượt khó không lấy lãi.
Dự án ngọt hóa vùng Quới Điền với hệ thống kênh, đê, cống có tổng chiều dài 25 km là công trình thủy lợi lớn nhất ở vùng bắc Thạnh Phú trong những năm qua, đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Lịch sử hình thành huyện Thạnh Phú
Ngược dòng lịch sử, thời chúa Nguyễn (1757), vùng đất Thạnh Phú thuộc tổng Tân An, châu Định Viễn,
phủ Gia Định
. Năm 1808, tổng Tân An thăng thành phủ Tân An, thuộc châu Định Viễn, Gia Định thành, đến năm 1823, đổi thành phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh gồm 2 huyện: Bảo An (cù lao Bảo) và Tân Minh (cù lao Minh). Năm 1867, thực dân Pháp chiếm miền Tây Nam Bộ, chúng thành lập tỉnh Bến Tre gồm 2 cù lao Bảo và Minh. Huyện Thanh Phú nằm trên cù lao Minh, gồm phần lớn đất đai huyện Duy Minh cũ. Thạnh Phú có tên trên bản đồ từ đó.
Thời Pháp thuộc, huyện Thạnh Phú gồm 2 tổng Minh Phú và Minh Trị với 11 làng, Phú Khánh, Đại Điền, Thới Thạnh, Quới Điền, Thạnh Phú, An Thuận,An Thạnh, An Qui, An Nhơn, Giao Thạnh và Thạnh Phong.
Trong Kháng chiến chống Pháp, năm 1948, do việc đi lại khó khăn,tỉnh Bến Tre quyết định lập thêm 3 xã Giang Hà, Phan Nhứt Tánh và Thạnh Phú 2. Năm 1951, 3 xã trên được giải thể và trở về nguyên trạng, hai xã An Qui, An Nhơn nhập lại thành xã Qui Nhơn cho đến sau ngày hiệp định Genève (20-7-1954) mới tách ra làm đôi như cũ.
Sau ngày 30-4-1975, hai xã An Nhơn và An Qui Đại Điền và Phú Khánh được nhập lại(Qui Nhơn),(Khánh Điền), (nhưng chỉ trong vòng một năm thì lại tách ra. Sau đó một thời gian xã Đại Điền, Quới Điền, Thạnh Phong, do diện tích quá rộng đã được chia làm đôi để lập thêm 3 xã mới: Tân Phong, Hòa Lợi và Thạnh Hải. Xã Thạnh Phú được chia thành 3: Thạnh Phú, Mỹ Hưng và Bình Thạnh.
Trước Cách mạng tháng Tám-1945, đất đai của Thạnh Phú, đặc biệt những vùng ruộng lúa, phần lớn nằm trong tay những địa chủ như Nguyễn Duy Hinh (Phủ Kiển), Hương Liêm, Phó Hoài ở xã Đại Điền, Cai Thì ở xã An Nhơn, Ngô Quang Dung (Chủ Quới) ở xã Giao Thạnh, Ban Phan ở xã An Thạnh…
Ngày nay, toàn bộ giai cấp bóc lột đã bị truất phế, nhưng những chứng tích như nhà cửa, lăng mộ đồ sộ, nguy nga xây dựng bằng mồ hôi, nước mắt của nông dân vẫn còn đó như một biểu tượng của sự bóc lột, chiếm đoạt tàn ác
Nhân dân Thạnh Phú có truyền thống yêu nước chống xâm lược khá vẻ vang. Nhiều người dân Thạnh Phú đã có mặt trong các đội nghĩa quân chống Pháp của Bến Tre từ những ngày đầu chúng đặt chân đến vùng đất cù lao này. Mảnh đất Thạnh Phú, năm 1946 được mang vinh dự là nơi xuất phát của chuyến vượt biển đầu tiên của đoàn đại biểu Bến Tre ra miền Bắc gặp Bác Hồ và Trung ương Đảng, mở đường chi viện của Trung ương cho miền Nam. Tiểu đoàn 307 nổi tiếng là đơn vị “đánh đâu được đấy, oai hùng biết mấy” của thời 9 năm Kháng chiến chống Pháp đã làm lễ xuất quân đầu tiên trên đất Đại Điền, Thạnh Phú.
|
General introduction of Thanh Phu district
The process of formation and development
The province's main economy is agricultural production with the main crop being wet rice. From the town up to Dai Dien, Phu Khanh are vast rice fields. From the town towards the sea, the area of rice fields gradually shrinks, giving way to shrimp ponds, bringing income many times higher than growing rice. People in this area also work in forestry, fishing and seafood processing.
On the fields of land, people often grow crops, tobacco, and watermelons. In the 1940s, cotton farming spread from Ba Tri to here, developing quite strongly in the fields and along the coast. The intricate network of rivers and seas is a rich source of seafood, annually providing Thanh Phu with thousands of tons of shrimp, crabs, and fish of all kinds. Clams, a specialty of the coastal areas of Thanh Phong and Thanh Hai, are also an important resource, feeding thousands of coastal people. Located in such a favorable area, for a long time, Thanh Phu people have used big boats to transport, travel and trade with the Western provinces, up to Dong Thap Muoi and out to the Central region.
During the last 10 years of the century (1990 - 2000), through a process of experimentation and adjustment many times, up to now Thanh Phu district has clearly formed 3 sub-regions:
As a district located at the end of the Mekong River, the land is largely saline and has been severely damaged by war. Developing production and improving people's lives faces many difficulties. Every day, the province often has to organize relief for a number of poor households, but since 1995, this has completely stopped. However, good business is not happening consistently. The fastest growing aquaculture region is thanks to shrimp. Many poor families have now become millionaires, even billions. A beauty worth praising is that there are poor people who are now doing well. Because they deeply understand the suffering they have gone through, they have spent several hundred million dong to lend to people as capital for production, without interest and profit. Sometimes there is no need for a term, if those people encounter difficulties in business and cannot overcome them. In Giao Thanh commune, there is a typical family that lends capital to each other to help each other overcome poverty and difficulties without taking interest.
The Quoi Dien area freshening project with a system of canals, dykes, and culverts with a total length of 25 km is the largest irrigation project in the northern Thanh Phu region in recent years, and has brought about clear economic efficiency.
History of Thanh Phu district formation
Back in history, during the reign of Lord Nguyen (1757), Thanh Phu land belonged to Tan An canton, Dinh Vien district,
Gia Dinh government
. In 1808, Tan An district was promoted to Tan An district, belonging to Dinh Vien district, Gia Dinh city, and in 1823, it was changed to Hoang An district, Vinh Thanh town including 2 districts: Bao An (Bao island) and Tan Minh (Bao island). Lao Minh). In 1867, the French colonialists occupied the Southwest region and established Ben Tre province, including two islands, Bao and Minh. Thanh Phu district is located on Minh island, including most of the land of the old Duy Minh district. Thanh Phu has been on the map since then.
During the French colonial period, Thanh Phu district included 2 cantons Minh Phu and Minh Tri with 11 villages, Phu Khanh, Dai Dien, Thoi Thanh, Quoi Dien, Thanh Phu, An Thuan, An Thanh, An Qui, An Nhon, Giao Thanh and Thanh Wind.
During the Resistance War against the French, in 1948, due to travel difficulties, Ben Tre province decided to establish 3 more communes, Giang Ha, Phan Nhut Tanh and Thanh Phu 2. In 1951, the above 3 communes were dissolved and returned to their original state. , the two communes An Qui and An Nhon merged to form Qui Nhon commune until after the Geneva Agreement (July 20, 1954) they split into two as before.
After April 30, 1975, the two communes An Nhon and An Qui Dai Dien and Phu Khanh were merged (Qui Nhon), (Khanh Dien), (but within just one year they separated again. After a while Dai Dien, Quoi Dien, Thanh Phong communes, due to their large area, were divided in half to create 3 new communes: Tan Phong, Hoa Loi and Thanh Hai. Thanh Phu communes were divided into 3: Thanh Phu, My Hung and Binh Thanh.
Before the August Revolution of 1945, Thanh Phu's land, especially the rice fields, was largely in the hands of landlords such as Nguyen Duy Hinh (Phu Kien), Huong Liem, Pho Hoai in Dai Dien and Cai Thi communes. in An Nhon commune, Ngo Quang Dung (Chu Quoi) in Giao Thanh commune, Ban Phan in An Thanh commune...
Today, the entire exploiting class has been deposed, but evidence such as houses and massive, magnificent mausoleums built with the sweat and tears of farmers still remain as a symbol of exploitation. cruel exploitation and appropriation
The people of Thanh Phu have a glorious tradition of patriotism and resistance to invasion. Many Thanh Phu people were present in Ben Tre's anti-French insurgents from the first days they set foot on this island. The land of Thanh Phu, in 1946, had the honor of being the starting place of the first sea crossing of the Ben Tre delegation to the North to meet Uncle Ho and the Party Central Committee, opening the way for Central aid to the South. Battalion 307, famous for being a unit that "can't fight like that, how heroic" it was during the 9-year Resistance War against the French, held its first military deployment ceremony on Dai Dien, Thanh Phu.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Bắc Ninh
1. Vị trí địa lý, dân số
Thành phố Bắc Ninh nằm ở phía Nam sông Cầu, phía Đông Bắc của tỉnh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 30km về phía Nam, cách thành phố Bắc Giang 20km về phía Bắc. Thành phố có 19 đơn vị hành chính gồm 16 phường và 3 xã.
+ Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang;
+ Phía Nam giáp huyện Tiên Du, huyện Quế Võ;
+ Phía Đông giáp huyện Quế Võ;
+ Phía Tây giáp huyện Tiên Du, huyện Yên Phong.
– Dân số: 196.000 người (T5/ 2017)
– Diện tích: 82,60 km
2
2. Đơn vị hành chính:
Thành phố Bắc Ninh gồm 19 đơn vị hành chính. Trong đó có
16 phường
: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Ninh Xá, Tiền An, Vệ An, Vạn An, Kinh Bắc, Đại Phúc, Võ Cường, Vân Dương, Hạp Lĩnh, Phong Khê, Khúc Xuyên, Khắc Niệm và
3 xã
: Hòa Long, , Kim Chân, Nam Sơn.
II. Đặc điểm tài nguyên- thiên nhiên
1. Địa hình, khí hậu
– Thành phố Bắc Ninh địa hình của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, tương đối bằng phẳng, gồm địa hình đồng bằng và địa hình chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du. Hướng dốc chính của địa hình theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.
– Đặc điểm khí hậu:
Thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 23,3oC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất 28,9oC (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8oC (tháng 1). Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1oC.
– Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1.400 – 1.600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
– Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.530 – 1.776 giờ, trong đó tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng là tháng 1.
– Hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau; gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm, gây mưa rào.
2. Đặc điểm thủy văn.
Thành phố có chế độ thủy văn thuộc hệ thống lưu vực Sông Cầu (bắt nguồn từ tỉnh miền núi Bắc Cạn), đoạn chảy qua thành phố dài đến 30km (chiếm khoảng 1/4 tổng chiều dài qua địa bàn tỉnh Bắc Ninh), lòng sông mùa khô rộng (60 – 80m), mùa mưa rộng (100 – 120m). số liệu đo mực nước tại Đáp Cầu: mực nước lớn nhất là 8,09m (năm 1971), lưu lượng tối đa 1780m3/s, mực nước nhỏ nhất – 0,17m (năm 1960), lưu lượng tối thiểu 4,3m3/s. Mực nước báo động cấp 1 là 3,8m; mực nước báo động cấp 3 là 5,8m. Trên địa bàn thành phố còn có các nhánh nhỏ của sông Cầu như: sông Ngũ Huyện Khê, đoạn chảy qua địa bàn từ xã Phong Khê đến xã Hòa Long dài khoảng 15km; sông Tào Khê, từ xã Kim Chân – Cầu Ngà dài khoảng 9km. Ngoài ra, có các tuyến kênh mương, ao hồ chính như: kênh Nam dài 8,8km; kênh Tào Khê dài 9,4km; hồ nước Đồng Trầm (diện tích khoảng 40ha, mực nước mùa kiệt 1 – 1,5m); hồ Thành Cổ (diện tích khoảng trên 8,0ha, mực nước mùa kiệt 0,5m).
3. Tài nguyên đất:
Theo số liệu thống kê đất đai, diện tích tự nhiên của thành phố có 8.260,88ha. Trong đó: đất nông nghiệp 3.745,16ha, đất phi nông nghiệp 4.459,76ha và đất chưa sử dụng 55,96ha. Về đặc tính đất đai được xác định qua việc phân tích thổ nhưỡng đất thể hiện trên bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ 1/25.000 toàn tỉnh Bắc Ninh do Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp xây dựng năm 2000, bao gồm có các loại đất chính sau:
+ Đất loang lổ, diện tích 296,46ha.
+ Đất phù sa loang lổ, diện tích 481,74ha.
+ Đất xám feralit, diện tích 234,42ha.
+ Đất gley chua, diện tích 667,03ha.
+ Đất phù sa chua, diện tích 1.297,14ha.
+ Đất xám loang lổ, diện tích 963,35ha.
4. Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt: với lợi thế nằm cạnh sông Cầu về phía Bắc thuộc vùng trung hạ lưu của hệ thống sông Cầu, có sông nhánh Ngũ Huyện Khê nằm tại khu vực phía Tây và sông Tào Khê nằm tại khu vực phía Đông của thành phố. Các dòng chảy đã cung cấp nước mặt phong phú cho các hoạt động sản xuất, giữ vai trò quan trọng về công tác thủy lợi của địa phương mà còn tạo giá trị kinh tế cao về giao thông đường thủy: cảng sông Đáp Cầu chuyên phục vụ bốc xếp vật tư, nguyên liệu cho nhà máy Kính cùng nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng trên địa bàn. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố có hệ thống hồ, ao phân bố rải rác trong các khu vực cùng với hệ thống kênh mương thủy lợi đảm nhận chức năng điều tiết, lưu chuyển lượng nước mặt cho thành phố và tạo cảnh quan, không gian môi trường sinh thái.
Nguồn nước ngầm: theo kết quả điều tra địa chất thủy văn thì vùng Bắc Ninh có nguồn nước ngầm mạch nông, chiều dày tầng trung bình 10 – 12m và là tầng chứa nước có áp, lưu lượng nước khá phong phú (3,5 – 10,6l/s.m). Vùng phía Bắc có trữ lượng khá lớn, khả năng khai thác với trữ lượng cao và chất lượng đảm bảo: khu vực làng Hữu Chấp, Đẩu Hàn thuộc xã Hòa Long với trữ lượng khoảng 13.000 m3/ngày.đêm. Khu vực phía Đông Nam thành phố có trữ lượng nước dồi dào song chất lượng không đảm bảo.
III. Đặc điểm kinh tế
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn thành phố đạt 11,9%; Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng thương mại – dịch vụ, công nghiệp – xây dựng đạt trên 97%. Thành phố Bắc Ninh đẩy mạnh thu hút đầu tư, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) lớn như: KCN Quế Võ (650 ha), KCN Hạp Lĩnh – Nam Sơn (300ha) và 05 cụm công nghiệp làng nghề, thu hút gần 2.000 doanh nghiệp và hàng trăm cơ sở, hợp tác xã sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động hiệu quả. Công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị- nông thôn được triển khai tích cực, bộ mặt đô thị ngày càng được đổi mới, nhiều tuyến đường giao thông kết nối nội ngoại thành, các tuyến đường trung tâm được xây dựng mới và nâng cấp; nhiều dự án khu đô thị với quy mô lớn được đầu tư và đưa vào sử dụng như: Vũ Ninh – Kinh Bắc, Hòa Long – Kinh Bắc, Hồ Ngọc Lân III; Khu đô thị mới đường Lê Thái Tổ (khu HUD); Khu đô thị mới Bắc đường Kinh Dương Vương (phường Vũ Ninh); Khu đô thị mới Nam Võ Cường (phường Võ Cường)…
– Hoạt động thương mại- dịch vụ của thành phố cũng phát triển mạnh với chuỗi trung tâm thương mại, siêu thị như: Him Lam Plaza, Dabaco mart, Media mart…; hệ thống khách sạn, nhà hàng cao cấp như: Mường Thanh Hotel, L’Indochina Hotel, Phượng Hoàng Hotel, Khách sạn Hoàng Gia, Khách sạn Đông Đô, World Hotel….
– Lĩnh vực văn hóa, xã hội của thành phố ngày càng được quan tâm và có bước phát triển mới. Hiện nay, thành phố Bắc Ninh có 192 di tích lịch sử, văn hóa, trong đó có 87 di tích được xếp hạng (41 di tích cấp Quốc gia, 47 di tích cấp Tỉnh); Công tác an sinh xã hội được quan tâm chú trọng, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm còn 10%, tỷ lệ hộ nghèo còn 2,22%. Hàng năm giải quyết việc làm cho trên 5000 lao động. Sự nghiệp giáo dục- đào tạo của thành phố Bắc Ninh phát triển toàn diện, ổn định và luôn dẫn đầu phong trào giáo dục- đào tạo toàn tỉnh.
Với sự phát triển toàn diện như vậy, ngày 25/12/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 2088/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Bắc Ninh là đô thị loại I, trực thuộc tỉnh Bắc Ninh
|
Giới thiệu khái quát thành phố Bắc Ninh
1. Vị trí địa lý, dân số
Thành phố Bắc Ninh nằm ở phía Nam sông Cầu, phía Đông Bắc của tỉnh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 30km về phía Nam, cách thành phố Bắc Giang 20km về phía Bắc. Thành phố có 19 đơn vị hành chính gồm 16 phường và 3 xã.
+ Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang;
+ Phía Nam giáp huyện Tiên Du, huyện Quế Võ;
+ Phía Đông giáp huyện Quế Võ;
+ Phía Tây giáp huyện Tiên Du, huyện Yên Phong.
– Dân số: 196.000 người (T5/ 2017)
– Diện tích: 82,60 km
2
2. Đơn vị hành chính:
Thành phố Bắc Ninh gồm 19 đơn vị hành chính. Trong đó có
16 phường
: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Ninh Xá, Tiền An, Vệ An, Vạn An, Kinh Bắc, Đại Phúc, Võ Cường, Vân Dương, Hạp Lĩnh, Phong Khê, Khúc Xuyên, Khắc Niệm và
3 xã
: Hòa Long, , Kim Chân, Nam Sơn.
II. Đặc điểm tài nguyên- thiên nhiên
1. Địa hình, khí hậu
– Thành phố Bắc Ninh địa hình của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, tương đối bằng phẳng, gồm địa hình đồng bằng và địa hình chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du. Hướng dốc chính của địa hình theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.
– Đặc điểm khí hậu:
Thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 23,3oC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất 28,9oC (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8oC (tháng 1). Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1oC.
– Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1.400 – 1.600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
– Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.530 – 1.776 giờ, trong đó tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng là tháng 1.
– Hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau; gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm, gây mưa rào.
2. Đặc điểm thủy văn.
Thành phố có chế độ thủy văn thuộc hệ thống lưu vực Sông Cầu (bắt nguồn từ tỉnh miền núi Bắc Cạn), đoạn chảy qua thành phố dài đến 30km (chiếm khoảng 1/4 tổng chiều dài qua địa bàn tỉnh Bắc Ninh), lòng sông mùa khô rộng (60 – 80m), mùa mưa rộng (100 – 120m). số liệu đo mực nước tại Đáp Cầu: mực nước lớn nhất là 8,09m (năm 1971), lưu lượng tối đa 1780m3/s, mực nước nhỏ nhất – 0,17m (năm 1960), lưu lượng tối thiểu 4,3m3/s. Mực nước báo động cấp 1 là 3,8m; mực nước báo động cấp 3 là 5,8m. Trên địa bàn thành phố còn có các nhánh nhỏ của sông Cầu như: sông Ngũ Huyện Khê, đoạn chảy qua địa bàn từ xã Phong Khê đến xã Hòa Long dài khoảng 15km; sông Tào Khê, từ xã Kim Chân – Cầu Ngà dài khoảng 9km. Ngoài ra, có các tuyến kênh mương, ao hồ chính như: kênh Nam dài 8,8km; kênh Tào Khê dài 9,4km; hồ nước Đồng Trầm (diện tích khoảng 40ha, mực nước mùa kiệt 1 – 1,5m); hồ Thành Cổ (diện tích khoảng trên 8,0ha, mực nước mùa kiệt 0,5m).
3. Tài nguyên đất:
Theo số liệu thống kê đất đai, diện tích tự nhiên của thành phố có 8.260,88ha. Trong đó: đất nông nghiệp 3.745,16ha, đất phi nông nghiệp 4.459,76ha và đất chưa sử dụng 55,96ha. Về đặc tính đất đai được xác định qua việc phân tích thổ nhưỡng đất thể hiện trên bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ 1/25.000 toàn tỉnh Bắc Ninh do Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp xây dựng năm 2000, bao gồm có các loại đất chính sau:
+ Đất loang lổ, diện tích 296,46ha.
+ Đất phù sa loang lổ, diện tích 481,74ha.
+ Đất xám feralit, diện tích 234,42ha.
+ Đất gley chua, diện tích 667,03ha.
+ Đất phù sa chua, diện tích 1.297,14ha.
+ Đất xám loang lổ, diện tích 963,35ha.
4. Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt: với lợi thế nằm cạnh sông Cầu về phía Bắc thuộc vùng trung hạ lưu của hệ thống sông Cầu, có sông nhánh Ngũ Huyện Khê nằm tại khu vực phía Tây và sông Tào Khê nằm tại khu vực phía Đông của thành phố. Các dòng chảy đã cung cấp nước mặt phong phú cho các hoạt động sản xuất, giữ vai trò quan trọng về công tác thủy lợi của địa phương mà còn tạo giá trị kinh tế cao về giao thông đường thủy: cảng sông Đáp Cầu chuyên phục vụ bốc xếp vật tư, nguyên liệu cho nhà máy Kính cùng nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng trên địa bàn. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố có hệ thống hồ, ao phân bố rải rác trong các khu vực cùng với hệ thống kênh mương thủy lợi đảm nhận chức năng điều tiết, lưu chuyển lượng nước mặt cho thành phố và tạo cảnh quan, không gian môi trường sinh thái.
Nguồn nước ngầm: theo kết quả điều tra địa chất thủy văn thì vùng Bắc Ninh có nguồn nước ngầm mạch nông, chiều dày tầng trung bình 10 – 12m và là tầng chứa nước có áp, lưu lượng nước khá phong phú (3,5 – 10,6l/s.m). Vùng phía Bắc có trữ lượng khá lớn, khả năng khai thác với trữ lượng cao và chất lượng đảm bảo: khu vực làng Hữu Chấp, Đẩu Hàn thuộc xã Hòa Long với trữ lượng khoảng 13.000 m3/ngày.đêm. Khu vực phía Đông Nam thành phố có trữ lượng nước dồi dào song chất lượng không đảm bảo.
III. Đặc điểm kinh tế
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn thành phố đạt 11,9%; Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng thương mại – dịch vụ, công nghiệp – xây dựng đạt trên 97%. Thành phố Bắc Ninh đẩy mạnh thu hút đầu tư, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) lớn như: KCN Quế Võ (650 ha), KCN Hạp Lĩnh – Nam Sơn (300ha) và 05 cụm công nghiệp làng nghề, thu hút gần 2.000 doanh nghiệp và hàng trăm cơ sở, hợp tác xã sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động hiệu quả. Công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị- nông thôn được triển khai tích cực, bộ mặt đô thị ngày càng được đổi mới, nhiều tuyến đường giao thông kết nối nội ngoại thành, các tuyến đường trung tâm được xây dựng mới và nâng cấp; nhiều dự án khu đô thị với quy mô lớn được đầu tư và đưa vào sử dụng như: Vũ Ninh – Kinh Bắc, Hòa Long – Kinh Bắc, Hồ Ngọc Lân III; Khu đô thị mới đường Lê Thái Tổ (khu HUD); Khu đô thị mới Bắc đường Kinh Dương Vương (phường Vũ Ninh); Khu đô thị mới Nam Võ Cường (phường Võ Cường)…
– Hoạt động thương mại- dịch vụ của thành phố cũng phát triển mạnh với chuỗi trung tâm thương mại, siêu thị như: Him Lam Plaza, Dabaco mart, Media mart…; hệ thống khách sạn, nhà hàng cao cấp như: Mường Thanh Hotel, L’Indochina Hotel, Phượng Hoàng Hotel, Khách sạn Hoàng Gia, Khách sạn Đông Đô, World Hotel….
– Lĩnh vực văn hóa, xã hội của thành phố ngày càng được quan tâm và có bước phát triển mới. Hiện nay, thành phố Bắc Ninh có 192 di tích lịch sử, văn hóa, trong đó có 87 di tích được xếp hạng (41 di tích cấp Quốc gia, 47 di tích cấp Tỉnh); Công tác an sinh xã hội được quan tâm chú trọng, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm còn 10%, tỷ lệ hộ nghèo còn 2,22%. Hàng năm giải quyết việc làm cho trên 5000 lao động. Sự nghiệp giáo dục- đào tạo của thành phố Bắc Ninh phát triển toàn diện, ổn định và luôn dẫn đầu phong trào giáo dục- đào tạo toàn tỉnh.
Với sự phát triển toàn diện như vậy, ngày 25/12/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 2088/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Bắc Ninh là đô thị loại I, trực thuộc tỉnh Bắc Ninh
|
Giới thiệu khái quát huyện Giồng Trôm
* VỊ TRÍ, ĐỊA LÝ
Giồng Trôm được xuất hiện trên đất Bến Tre đã lâu, địa danh Giồng Trôm được cấu tạo theo đặc điểm của đất với thực vật, một con giồng và cây trôm mọc. Nhưng với tư cách là một đơn vị hành chính cấp huyện phải kể từ năm 1956. Trước đó, tháng 11 năm 1945, chính quyền cách mạnh đã tách một số làng của quận Châu Thành, một số làng của quận Ba Tri để lập quận mới lấy tên là quận Tán kế. Quận Tán Kế là tiền thân của huyện Giồng Trôm ngày nay.
Giồng Trôm nằm giữa cù lao Bảo. Phía Bắc Giồng Trôm giáp huyện Bình Đại, phân ranh bởi sông Ba Lai; Nam giáp huyện Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc có ranh gới chung là con sông Hàm Luông; Đông giáp huyện Ba Tri; Tây giáp thành phố Bến Tre và huyện Châu Thành. Diện tích tự nhiên: 31.141,68 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 25.000ha, còn lại là đường sá, sông ngòi và thổ cư. Đất đai nơi đây được cấu tạo từ phù sa của hai con sông lớn Ba Lai và Hàm Luông do vậy mà Giồng Trôm có thế mạnh của một nền kinh tế nông nghiệp đa dạng, có diện tích vườn dừa đứng hàng thứ nhất của tỉnh.
* ĐƠN VỊ HÁNH CHÍNH
Giồng Trôm có 22 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn:
1. Mỹ Thạnh 12. Thị Trấn
2. Lương Hòa, 13. Tân Hào
3. Lương Quới, 14. Long Mỹ
4. Phong Nẫm, 15. Tân Lợi Thanh
5. Phong Mỹ, 16. Thạnh Phú Đông
6. Châu Hòa, 17. Hưng Lễ
7. Bình Hòa, 18. Phước Long
8. Bình Thành 19. Hưng Phong
9. Châu Bình, 20. Sơn Phú
10. Tân Thanh, 21. Thuận Điền
11. Hưng Nhượng, 22. Lương Phú
* LỊCH SỬ
Giồng Trôm có nhiều sông, rạch. Sông Ba Lai và sông Hàm Luông là hai sông lớn chảy qua huyện. Các nhánh sông Ba Lai gồm: kênh Chẹt Sậy, kênh Bình Khương. Các nhánh sông Hàm Luông có: rạch Thủ Cửu, rạch Tài Phú, rạch Cái Mít, rạch Cái Sơn, rạch Hương Điểm, rạch Sơn Đốc… các sông rạch này đã mang lại phù sa màu mỡ, tưới tiêu cho ruộng vườn và tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông đường thủy.
Về giao thông đường bộ huyện có tỉnh lộ 885, khởi đầu từ Thành phố Bến Tre đến xã Tân Thủy huyện Ba Tri dài 45km; tỉnh lộ 887 và lộ 173. Ngày nai phần lớn lộ giao thông nông thôn đã được bê tông hoặc nhựa hóa tạo sự đi lại thuận lợi cho nhân dân. Các cầu khỉ thay bằng cầu bê tông, cầu dây văng chắc chắn đã góp phần thay đổ diện mạo nông thôn.
Nguồn gốc người dân Giồng Trôm là những người nông dân nghèo ở miền Bắc, miền Trung không chịu nổi cảnh áp bức bóc lột của chế độ phong kiến vào vùng đất phương Nam sinh sống. Một số bộ phận khác là những người có tiền có quyền thế chiêu mộ những người nghèo đai vào phương Nam khai khẩn đất hoang theo chính sách dinh điền của nhà Nguyễn. Ngoài ra , còn một số tù tội, lưu đài, binh lính được triều Nguyễn sai phái vào Nam lập đồn điền, vừa bảo vệ cương thổ vừa mở mang đất đai.
Những thế hệ tiên phong đi mở đất ấy đã đến khu vực Giồng Trôm chọn những con giồng, những nơi đất cao ráo ven sông rạch để cư trú, sống quần tụ với nhau để khai phá rừng hoang, khia cơ, dựng nghiệp. Lịch sử khai hoang của người dân Giồng Trôm gắn liền với truyền thuyết dân gian về đánh cọp, trị heo rừng, bắt cá sấu,… chính là cái có thật trong đời sống hiện thực của lớp người đai mở đất.
Người Giồng Trôm chẳng những cât lực lo mở đất, trồng cây mà biết chăm lo đến sự nghiệp trồng người. Trong 20 khoa thi Hương do triều Nguyễn mở tại trường thi Gia Định, từ năm 1813-1864, toàn tỉnh Vĩnh Long có 56 người đỗ cử nhân; trong đó Bến Tre có 31 người, mảnh đất Giồng trôm có 6/31 người của Bến Tre.
Đất Giồng Trôm cũng là nơi sinh ra nhiều võ tướng như: Phan Văn Triệu – Tiền dinh Đô Thống chế, năm Gia Long thứ hai – 1803; Long Vân hầu – Trương Tấn Bửu và Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng và nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị – nhà thơ lớn của dân tộc ở thế kỷ XIX.
Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ, 12 vị tướng tài ba, người con của đất Giồng Trôm đã làm rạng đã làm rạng rỡ trang sử vẻ vang của Tổ quốc Việt Nam như: Nữ tướng Nguyễn Thị Định, Trung tướng Đồng Văn Cống,…; 22 anh hùng lực lượng vũ trang tiêu biểu như: Hoàng Lam, Đoàn Thị E, Má Trần Thị Kế…,
Tự hào hơn nữa là ngôi nhà Ông Nguyễn Văn Trác tọa lạc tại ấp Cái Da xã Hung Lễ, là nơi của Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẫn đã ở và làm việc để chỉ đạo phong trào Cách mạng miền Nam, đó là những giá trị tinh thần của nhân dân Giồng Trôm. Hiện nay trên địa bàn huyện có 4 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia: Mộ và đền thờ Lãnh Binh Nguyễn Ngọc Thăng, tọa lạc tại ấp Căn Cứ, xã Mỹ Thạnh; Các chứng tích về cuộc thảm sát 286 người dân tội do thực dân Pháp tiến hành năm 1947, tọa lạc ấp Cầu Hòa xã Phong Nẫm; Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Bình Hòa, tọa lạc ấp 5, Thị Trấn Giồng Trôm; Ngôi nhà Ông Nguyễn Văn Trác (nơi ở và làm việc của đồng chí Lê Duẩn tháng 11/1955 – 3/1956), tọa lạc ấp Cái Da xã Hưng Lễ; và 4 di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh: Trường Trung học Tư thục Bình Hòa, tọa lạc ấp 5, Thị trấn Giồng Trôm (trường nơi đào tạo nhân tài của tỉnh): Đền thờ Trung tướng Đồng Văn Cống, tọa lạc ấp Tân Thị xã Tân Hào; Đền thờ nhà thơ Phan Văn Trị, tọa lạc ấp 1 xã Thạnh Phú Đông; Đền thờ Tán kế- Lê Quang Quan, tọa lạc tại xã Châu Hòa.
Ngoài ra, toàn huyện có 5 làng nghề truyền thống được tỉnh công nhận gồm: làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, làng nghề bánh phồng Sơn Đốc, làng nghề kiềm kéo Mỹ Thạnh, 2 làng nghề đan giỏ cọng dừa tại xã Phước Long và Hưng Phong. Các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường xuyên làm sản phẩm theo đơn đặt hàng của các tỉnh, góp phần phát triển kinh tế tại địa phương.
|
General introduction to Giong Trom district
* GEOGRAPHICAL LOCATION
Giong Trom appeared on Ben Tre land for a long time, the place name Giong Trom is structured according to the characteristics of the land with plants, a goong and a Trom tree growing. But as a district-level administrative unit since 1956. Before that, in November 1945, the revolutionary government separated some villages of Chau Thanh district and some villages of Ba Tri district to form the district. The new name was Tan Ke district. Tan Ke district is the predecessor of today's Giong Trom district.
Giong Trom is located in the middle of Bao island. The North of Giong Trom borders Binh Dai district, demarcated by Ba Lai river; The South borders Mo Cay Nam and Mo Cay Bac districts with a common boundary being the Ham Luong river; East borders Ba Tri district; The West borders Ben Tre city and Chau Thanh district. Natural area: 31,141.68 hectares, of which agricultural land accounts for 25,000 hectares, the rest is roads, rivers and residential areas. The land here is made up of alluvium from two large rivers Ba Lai and Ham Luong, so Giong Trom has the strength of a diverse agricultural economy, with the first coconut garden area in the province.
* MAIN HANDLING UNIT
Giong Trom has 22 commune and town level administrative units:
1. My Thanh 12. Town
2. Luong Hoa, 13. Tan Hao
3. Luong Quoi, 14. Long My
4. Phong Nam, 15. Tan Loi Thanh
5. Phong My, 16. Thanh Phu Dong
6. Chau Hoa, 17. Hung Le
7. Binh Hoa, 18. Phuoc Long
8. Binh Thanh 19. Hung Phong
9. Chau Binh, 20. Son Phu
10. Tan Thanh, 21. Thuan Dien
11. Hung Nhuong, 22. Luong Phu
* HISTORY
Giong Trom has many rivers and canals. Ba Lai River and Ham Luong River are two large rivers flowing through the district. Ba Lai river tributaries include: Chet Say canal and Binh Khuong canal. Ham Luong river branches include: Thu Cuu canal, Tai Phu canal, Cai Mit canal, Cai Son canal, Huong Diem canal, Son Doc canal... these rivers and canals have brought fertile alluvium, irrigated fields and gardens and created Favorable conditions for waterway transportation.
Regarding road traffic, the district has provincial road 885, starting from Ben Tre City to Tan Thuy commune, Ba Tri district, 45km long; Provincial road 887 and road 173. Nowadays, most rural roads have been concreted or asphalted to create convenient travel for people. Monkey bridges replaced by concrete bridges and cable-stayed bridges have certainly contributed to changing the appearance of the countryside.
The origin of the Giong Trom people are poor farmers in the North and Central regions who could not bear the oppression and exploitation of the feudal regime in the southern lands where they lived. Some other groups were those with money and power who recruited poor people to go to the South to reclaim wasteland according to the Nguyen dynasty's manorial policy. In addition, there were a number of prisoners, exiles, and soldiers sent by the Nguyen Dynasty to the South to establish plantations, both protecting the territory and expanding the land.
Those generations of pioneers who opened the land came to the Giong Trom area to choose rice fields and high land along rivers and canals to reside, living together in groups to clear wild forests, build businesses, and build businesses. The reclamation history of the Giong Trom people is associated with folk legends about fighting tigers, fighting wild boars, catching crocodiles, etc., which are true in the real life of the land-opening class.
Giong Trom people not only work hard to open land and plant trees, but also care about the cause of growing people. Of the 20 Huong exam departments opened by the Nguyen Dynasty at Gia Dinh exam school, from 1813-1864, the entire Vinh Long province had 56 people passing bachelor's degrees; Of which Ben Tre has 31 people, Giong Trom land has 6/31 people of Ben Tre.
Giong Trom Land is also the birthplace of many martial generals such as: Phan Van Trieu - Marshal's Palace, the second year of Gia Long - 1803; Marquis Long Van - Truong Tan Buu and General Nguyen Ngoc Thang and patriotic poet Phan Van Tri - great national poets in the 19th century.
Through two resistance wars against the French and the American imperialists, 12 talented generals and sons of Giong Trom land have brightened the glorious history of the Vietnamese Fatherland such as: Female General Nguyen Thi Dinh, Lieutenant General Dong Van Cong,...; 22 typical armed forces heroes such as: Hoang Lam, Doan Thi E, Mother Tran Thi Ke...,
Even more proud is Mr. Nguyen Van Trac's house located in Cai Da hamlet, Hung Le commune, where Secretary of the Southern Party Committee Le Duan lived and worked to direct the Southern Revolutionary movement. spiritual values of Giong Trom people. Currently in the district there are 4 national historical and cultural relics: Tomb and temple of General Nguyen Ngoc Thang, located in Can Cu hamlet, My Thanh commune; Evidence of the massacre of 286 criminals carried out by the French colonialists in 1947, located in Cau Hoa hamlet, Phong Nam commune; The architectural and artistic relic of Binh Hoa Communal House, located in Hamlet 5, Giong Trom Town; Mr. Nguyen Van Trac's house (comrade Le Duan's living and working place from November 1955 to March 1956), located in Cai Da hamlet, Hung Le commune; and 4 provincial-level historical and cultural relics: Binh Hoa Private High School, located in hamlet 5, Giong Trom Town (the school where the province's talents are trained): Temple of Lieutenant General Dong Van Cong, located in hamlet Tan Hao Town; The temple worships poet Phan Van Tri, located in hamlet 1, Thanh Phu Dong commune; Tan Ke Temple - Le Quang Quan, located in Chau Hoa commune.
In addition, the whole district has 5 traditional craft villages recognized by the province including: My Long rice paper craft village, Son Doc puff pastry craft village, My Thanh scissors craft village, 2 coconut stem basket weaving craft villages in Phuoc Long and Phuoc Long communes. Hung Phong. Handicraft production establishments regularly make products according to orders from the provinces, contributing to local economic development.
|
Giới thiệu khái quát huyện Phù Cát
Phù Cát là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định, nằm trên tọa độ 13054’ – 14032’ vĩ Bắc và 108055’ – 109005’ kinh Đông. Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Phù Mỹ và Hoài Ân. Phía Nam giáp thị xã An Nhơn, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Vĩnh Thạnh và Tây Sơn. Phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 35 km và chếch về phía Đông Nam giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn.
Theo thống kê, huyện Phù Cát có diện tích là 680,49 Km2, dân số trung bình 190.000 người, trong đó nữ chiếm 97.000 người; mật độ dân số 279 người/Km2.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có các dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó chủ yếu là người Kinh và một số ít là người Bana gồm 26 hộ, 91 nhân khẩu nằm rải rác tại các xã Cát Sơn, Cát Lâm.
Về
tôn giáo,
có các đạo Phật giáo,
Thiên Chúa giáo,
Cao Đài,...
với
nhiều
cơ sở thờ tự lâu đời và
nổi
tiếng trên địa
bàn huyện.
Phù Cát có 18 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 17 xã là Cát Sơn, Cát Lâm, Cát Hiệp, Cát Hanh, Cát Tài, Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải, Cát Tiến, Cát Chánh, Cát Thắng, Cát Hưng, Cát Nhơn, Cát Tường, Cát Trinh, Cát Tân và 01 thị trấn là Thị trấn Ngô Mây. Dưới xã - thị trấn được phân chia thành 117 thôn và khu phố.
Địa hình Phù Cát đa dạng, gồm có đồng bằng chuyên trồng lúa nước, tập trung ở các xã ven sông Côn và sông La Tinh; vùng núi thấp – gò đồi trồng các loại cây trồng cạn, cây lâm nghiệp; ngoài ra còn có các vùng đầm ven biển thuộc Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành.
Về núi non, có các dãy núi Trường Sơn đâm xuống nửa phần phía Tây huyện và dãy núi Bà vươn ra sát biển.
Về sông ngòi, đáng kể nhất là sông Đại An (thuộc hệ sông Côn) nối từ Cát Tường-Cát Nhơn đến Cát Chánh rồi đổ ra Đầm Thị Nại. Sông La Tinh bắt nguồn từ Hội Sơn, đổ ra đầm Đề Gi, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Phù Cát với huyện Phù Mỹ.
Về đầm nước lợ có đầm Đạm Thủy với diện tích 1600 ha, tại đây có hệ sinh thái đầm phá ven biển tiêu biểu. Đầm Đạm Thủy nối thông biển qua cửa Đề Gi, tạo nên cảng biển có giá trị.
Danh thắng của Phù Cát rất đa dạng, trong đó phải kể đến các suối nước khoáng Hội Vân (xã Cát Hiệp), suối khoáng Chánh Thắng (xã Cát Thành). Dãy núi Bà là danh lam thắng cảnh nằm ở phía Đông Nam của huyện với nhiều hang động ẩn trong lòng núi, có Hòn Vọng phu, Hòn Chuông. Rải dọc theo dãy núi Bà có nhiều ngôi chùa cổ như chùa Tịnh Lâm, chùa Linh Phong, Tân phủ Càn Dương,…
Các bãi biển chạy dài từ xã Cát Chánh đến Cát Khánh, với các bãi Trung Lương, Vĩnh Hội, Tân Thắng, Chánh Oai, Đề Gi,…
Ngoài ra, Phù Cát cũng là nơi hình thành và phát triển nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như: làng dệt chiếu thôn Phú Hậu xã Cát Tiến và thôn Chánh Hậu – xã Cát Chánh, làng bánh tráng và nón ngựa thôn Phú Gia – xã Cát Tường, làng bún bánh thôn An Phong – TT Ngô Mây, làng nhang thôn Xuân Quang – xã Cát Tường, làng đan lát thôn Phú Hiệp – xã Cát Tài và thôn Trung Chánh – xã Cát Minh. Sản phẩm của làng nghề được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu có sẵn trong khu vực nhưng lại có những nét đặc trưng riêng mang đậm bản sắc vùng miền nơi đây, với các sản phẩm nổi tiếng một thời như: nón ngựa Phú Gia, bánh tráng nước dừa, võng, chiếu, bún hủ tiếu, …
Do đặc điểm của địa hình mà nơi đây cũng tập trung nhiều nguồn khoáng sản lớn và phong phú, trong đó phải kể đến: mỏ titan (Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải), các nguồn cát trắng, cao lanh; nước khoáng, đá ong, đá granite, ….
Hệ thống giao thông Phù Cát đa dạng, rải khắp toàn huyện, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
Về đường bộ, có Quốc lộ 1 đi ngang qua trung tâm huyện; các tuyến đường Tây tỉnh, tuyến ven biển ĐT 639, các tuyến ĐT 633, 634 và 635 nối thông các xã từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, kết nối hệ thống đường liên xã, liên thôn. Tuyến đường sắt với 2 ga chính là ga Phù Cát và Khánh Phước.
Đường hàng hải, với cảng biển neo đậu tàu thuyền Đề Gi, đây chính là nơi giao thương trong và ngoài nước của huyện.
Đường hàng không có sân bay Phù Cát, cách huyện lỵ 6 km, là một trong những sân bay lớn của cả nước với Cảng Hàng không dân dụng phục vụ các lượt khách đến và đi.
Nhìn lại quá khứ thì trước năm 1470, Phù Cát thuộc đất Chăm pa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn mở rộng bờ cõi đến tận đèo Cù Mông, lập phủ Hoài Nhơn lệ vào thừa tuyên Quảng Nam. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Phù Cát thuộc huyện Phù Ly. Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi Hoài Nhơn thành Quy Nhơn. Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, Phù Ly chia thành huyện Phù Mỹ và Phù Cát, lấy sông La Tinh làm ranh giới, tên Phù Cát có từ đó. Huyện lỵ đầu tiên ở Xuân Hội, sau dời về Hòa Hội (1865) rồi vào An Hành (Thị trấn Ngô Mây ngày nay). Cuối thế kỷ XIX, Phù Cát có 4 tổng và 127 làng. Qua nhiều thời kỳ sáp nhập, chia tách, đến năm 1937 toàn huyện có 6 tổng và 114 làng. Khoảng năm 1946 đến tháng 3 năm 1948, bỏ cấp tổng, 2 lần sáp nhập làng xã, còn lại 13 xã, lấy chữ “Cát” làm tên đầu cho các xã mới: Cát Khánh, Cát Minh, Cát Tài, Cát Hanh, Cát Sơn, Cát Hiệp, Cát Trinh, Cát Nhơn, Cát Tường, Cát Thắng, Cát Xương và Hoành Sơn. Trước năm 1975 tiếp tục sáp nhập một số làng cho huyện Phù Mỹ, Tuy Phước, Vĩnh Thạnh. Sau năm 1975 đến nay, một số xã đã tách và thành lập đơn vị cấp xã mới gồm các xã Cát Lâm, Cát Tân, Cát Hưng, Cát Tiến, Cát Hải, Cát Thành và Thị trấn Ngô Mây.
Phù Cát là một huyện đông dân của tỉnh Bình Định. Dân số giữa đời Tự Đức khoảng 39.000 người. Năm 1932 lên đến 81.000 người. Năm 1953 hơn 102.971 người. Năm 1960 có 106.055 người. Năm 1989 tăng lên 154.958 người. Năm 2013 lên đến 190.000 người. Người Phù Cát vừa mang những nét chung của Bình Định và Việt Nam, vừa có các sắc thái đậm đà tính cách địa phương.
Lớp dân cư Việt Nam đầu tiên của Phù Cát, ngoài “tội đồ” bị lưu đày “viễn châu” của nhà Lê và lớp “tù binh” của chúa Nguyễn thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672), phần lớn là lưu dân vùng Thanh – Nghệ - Tĩnh, tức những lớp người dưới đáy của xã hội phong kiến loạn lạc. Trên đất mới, họ sớm hòa hợp, xen cư với người Chăm và Bana bản địa, để đối phó với thiên tai và khí hậu khắc nghiệt, cùng nhau khai phá, tô điểm và bảo vệ từng thước đất quê hương. Chính những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội đó tạo cho người Phù Cát có những nét riêng, mà các sử gia nhà Nguyễn trong Đồng Khánh địa chí đã nhận xét: “đôn phác, giản dị, chuyên học, nhiều người thật thà, nhã hậu”.
Đời sống tuy rất chật vật, song Phù Cát là đất hiếu học. Về Nho học, từng sản sinh nhiều nhà khoa bảng tài cao, học rộng, liêm khiết và thân dân. Dương Định Quốc nổi tiếng thần đồng, 23 tuổi thi đỗ khoa Minh Kinh, tri huyện Tuy Viễn thời Tây Sơn. Huỳnh Văn Minh (Phú Hội, Cát Tài) đỗ cử nhân khoa Canh Tỵ (1821), khai khoa cử nhân của Bình Định. Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển (Vĩnh Ân, Cát Hanh), Hội nguyên khao Đinh Mão (1847) lúc mới 20 tuổi, từng là Đốc học tỉnh Bình Định, tác giả cuốn “Đồ bàn thành ký”. Qua các thời kỳ, Phù Cát có nhiều người thành đạt và nổi tiếng trên hầu hết các lĩnh vực.
Về
kinh tế
: trước đây, phần lớn cư dân chuyên trồng lúa nước, một ít khai thác hải sản gần bờ. Trong vài chục năm nay, kinh tế Phù Cát vẫn tập trung phát triển nông nghiệp là chính: trồng trọt, chăn nuôi; khai thác thủy - hải sản, trồng rừng. Đồng thời chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Đến năm 2013, về cơ cấu kinh tế, ngành nông nghiệp huyện chiếm 34,2%, ngành công nghiệp – dịch vụ chiếm 64,8%. Tổng giá trị sản xuất (giá trị cố định 1994), đạt 2.404 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm.
Cây trồng chính gồm:
+ Lúa: với diện tích gieo trồng cả năm 15.400 ha, năng suất 56,9 tạ/ha, sản lượng 87.800 tấn.
+ Đậu phộng: 3.800 ha.
+ Sắn: 2.600 ha.
Về chăn nuôi: đàn bò có 46.500 con, đàn heo 87.600 con. Diện tích rừng khoanh nuôi, bảo vệ là 9.400 ha, độ che phủ rừng chiếm 34,5% diện tích toàn huyện.
Về khai thác nuôi trồng thủy – hải sản: Tàu thuyền có 1063 chiếc với tổng công suất 95.900 CV, sản lượng khai thác 30.000 tấn; diện tích nuôi trồng thủy sản 617 ha, sản lượng 700 tấn. Diện tích sản xuất muối 83 ha, sản lượng bình quân hàng năm 10.000 tấn.
Về phương tiện vận tải: hiện có 420 chiếc.
Về văn hóa – xã hội: ngành giáo dục có 22 trường mẫu giáo; Tiểu học 31 trường; Trung học cơ sở 18 trường; Trung học phổ thông 6 trường. Tổng số học sinh các cấp học là 46.000 em.
Về y tế: có 01 bệnh viện đa khoa, 01 phòng khám khu vực, 01 bệnh viện điều dưỡng và 18 trạm y tế xã – thị trấn; tổng số giường bệnh 190 giường.
Phù Cát hội tụ nhiều điều kiện để phát triển. Trước hết là phát triển nền sản xuất nông nghiệp đa dạng từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác thủy – hải sản, trồng rừng; phát triển sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp với mặt bằng rộng rãi, nguyên vật liệu phong phú; phát triển về thương mại, du lịch, các loại dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp, hệ thống giao thông thuận tiện; phát triển mạnh về nguồn nhân lực vì nơi đây sản sinh ra nhiều người học hành giỏi giang, thành đạt, nổi tiếng. Thiên thời – địa lợi – nhân hòa, là những yếu tố mà Phù Cát có đủ. Vấn đề còn lại là làm như thế nào để các yếu tố đó tạo nên sự phát triển và thịnh vượng. Muốn vậy, mọi người dân Phù Cát, dù đang sinh sống hay sống xa quê hương cần chung lòng, chung sức kiến tạo cho mảnh đất thân yêu của mình ngày càng giàu đẹp.
|
Giới thiệu khái quát huyện Phù Cát
Phù Cát là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định, nằm trên tọa độ 13054’ – 14032’ vĩ Bắc và 108055’ – 109005’ kinh Đông. Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Phù Mỹ và Hoài Ân. Phía Nam giáp thị xã An Nhơn, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Vĩnh Thạnh và Tây Sơn. Phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 35 km và chếch về phía Đông Nam giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn.
Theo thống kê, huyện Phù Cát có diện tích là 680,49 Km2, dân số trung bình 190.000 người, trong đó nữ chiếm 97.000 người; mật độ dân số 279 người/Km2.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có các dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó chủ yếu là người Kinh và một số ít là người Bana gồm 26 hộ, 91 nhân khẩu nằm rải rác tại các xã Cát Sơn, Cát Lâm.
Về
tôn giáo,
có các đạo Phật giáo,
Thiên Chúa giáo,
Cao Đài,...
với
nhiều
cơ sở thờ tự lâu đời và
nổi
tiếng trên địa
bàn huyện.
Phù Cát có 18 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 17 xã là Cát Sơn, Cát Lâm, Cát Hiệp, Cát Hanh, Cát Tài, Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải, Cát Tiến, Cát Chánh, Cát Thắng, Cát Hưng, Cát Nhơn, Cát Tường, Cát Trinh, Cát Tân và 01 thị trấn là Thị trấn Ngô Mây. Dưới xã - thị trấn được phân chia thành 117 thôn và khu phố.
Địa hình Phù Cát đa dạng, gồm có đồng bằng chuyên trồng lúa nước, tập trung ở các xã ven sông Côn và sông La Tinh; vùng núi thấp – gò đồi trồng các loại cây trồng cạn, cây lâm nghiệp; ngoài ra còn có các vùng đầm ven biển thuộc Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành.
Về núi non, có các dãy núi Trường Sơn đâm xuống nửa phần phía Tây huyện và dãy núi Bà vươn ra sát biển.
Về sông ngòi, đáng kể nhất là sông Đại An (thuộc hệ sông Côn) nối từ Cát Tường-Cát Nhơn đến Cát Chánh rồi đổ ra Đầm Thị Nại. Sông La Tinh bắt nguồn từ Hội Sơn, đổ ra đầm Đề Gi, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Phù Cát với huyện Phù Mỹ.
Về đầm nước lợ có đầm Đạm Thủy với diện tích 1600 ha, tại đây có hệ sinh thái đầm phá ven biển tiêu biểu. Đầm Đạm Thủy nối thông biển qua cửa Đề Gi, tạo nên cảng biển có giá trị.
Danh thắng của Phù Cát rất đa dạng, trong đó phải kể đến các suối nước khoáng Hội Vân (xã Cát Hiệp), suối khoáng Chánh Thắng (xã Cát Thành). Dãy núi Bà là danh lam thắng cảnh nằm ở phía Đông Nam của huyện với nhiều hang động ẩn trong lòng núi, có Hòn Vọng phu, Hòn Chuông. Rải dọc theo dãy núi Bà có nhiều ngôi chùa cổ như chùa Tịnh Lâm, chùa Linh Phong, Tân phủ Càn Dương,…
Các bãi biển chạy dài từ xã Cát Chánh đến Cát Khánh, với các bãi Trung Lương, Vĩnh Hội, Tân Thắng, Chánh Oai, Đề Gi,…
Ngoài ra, Phù Cát cũng là nơi hình thành và phát triển nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như: làng dệt chiếu thôn Phú Hậu xã Cát Tiến và thôn Chánh Hậu – xã Cát Chánh, làng bánh tráng và nón ngựa thôn Phú Gia – xã Cát Tường, làng bún bánh thôn An Phong – TT Ngô Mây, làng nhang thôn Xuân Quang – xã Cát Tường, làng đan lát thôn Phú Hiệp – xã Cát Tài và thôn Trung Chánh – xã Cát Minh. Sản phẩm của làng nghề được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu có sẵn trong khu vực nhưng lại có những nét đặc trưng riêng mang đậm bản sắc vùng miền nơi đây, với các sản phẩm nổi tiếng một thời như: nón ngựa Phú Gia, bánh tráng nước dừa, võng, chiếu, bún hủ tiếu, …
Do đặc điểm của địa hình mà nơi đây cũng tập trung nhiều nguồn khoáng sản lớn và phong phú, trong đó phải kể đến: mỏ titan (Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải), các nguồn cát trắng, cao lanh; nước khoáng, đá ong, đá granite, ….
Hệ thống giao thông Phù Cát đa dạng, rải khắp toàn huyện, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
Về đường bộ, có Quốc lộ 1 đi ngang qua trung tâm huyện; các tuyến đường Tây tỉnh, tuyến ven biển ĐT 639, các tuyến ĐT 633, 634 và 635 nối thông các xã từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, kết nối hệ thống đường liên xã, liên thôn. Tuyến đường sắt với 2 ga chính là ga Phù Cát và Khánh Phước.
Đường hàng hải, với cảng biển neo đậu tàu thuyền Đề Gi, đây chính là nơi giao thương trong và ngoài nước của huyện.
Đường hàng không có sân bay Phù Cát, cách huyện lỵ 6 km, là một trong những sân bay lớn của cả nước với Cảng Hàng không dân dụng phục vụ các lượt khách đến và đi.
Nhìn lại quá khứ thì trước năm 1470, Phù Cát thuộc đất Chăm pa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn mở rộng bờ cõi đến tận đèo Cù Mông, lập phủ Hoài Nhơn lệ vào thừa tuyên Quảng Nam. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Phù Cát thuộc huyện Phù Ly. Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi Hoài Nhơn thành Quy Nhơn. Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, Phù Ly chia thành huyện Phù Mỹ và Phù Cát, lấy sông La Tinh làm ranh giới, tên Phù Cát có từ đó. Huyện lỵ đầu tiên ở Xuân Hội, sau dời về Hòa Hội (1865) rồi vào An Hành (Thị trấn Ngô Mây ngày nay). Cuối thế kỷ XIX, Phù Cát có 4 tổng và 127 làng. Qua nhiều thời kỳ sáp nhập, chia tách, đến năm 1937 toàn huyện có 6 tổng và 114 làng. Khoảng năm 1946 đến tháng 3 năm 1948, bỏ cấp tổng, 2 lần sáp nhập làng xã, còn lại 13 xã, lấy chữ “Cát” làm tên đầu cho các xã mới: Cát Khánh, Cát Minh, Cát Tài, Cát Hanh, Cát Sơn, Cát Hiệp, Cát Trinh, Cát Nhơn, Cát Tường, Cát Thắng, Cát Xương và Hoành Sơn. Trước năm 1975 tiếp tục sáp nhập một số làng cho huyện Phù Mỹ, Tuy Phước, Vĩnh Thạnh. Sau năm 1975 đến nay, một số xã đã tách và thành lập đơn vị cấp xã mới gồm các xã Cát Lâm, Cát Tân, Cát Hưng, Cát Tiến, Cát Hải, Cát Thành và Thị trấn Ngô Mây.
Phù Cát là một huyện đông dân của tỉnh Bình Định. Dân số giữa đời Tự Đức khoảng 39.000 người. Năm 1932 lên đến 81.000 người. Năm 1953 hơn 102.971 người. Năm 1960 có 106.055 người. Năm 1989 tăng lên 154.958 người. Năm 2013 lên đến 190.000 người. Người Phù Cát vừa mang những nét chung của Bình Định và Việt Nam, vừa có các sắc thái đậm đà tính cách địa phương.
Lớp dân cư Việt Nam đầu tiên của Phù Cát, ngoài “tội đồ” bị lưu đày “viễn châu” của nhà Lê và lớp “tù binh” của chúa Nguyễn thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672), phần lớn là lưu dân vùng Thanh – Nghệ - Tĩnh, tức những lớp người dưới đáy của xã hội phong kiến loạn lạc. Trên đất mới, họ sớm hòa hợp, xen cư với người Chăm và Bana bản địa, để đối phó với thiên tai và khí hậu khắc nghiệt, cùng nhau khai phá, tô điểm và bảo vệ từng thước đất quê hương. Chính những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội đó tạo cho người Phù Cát có những nét riêng, mà các sử gia nhà Nguyễn trong Đồng Khánh địa chí đã nhận xét: “đôn phác, giản dị, chuyên học, nhiều người thật thà, nhã hậu”.
Đời sống tuy rất chật vật, song Phù Cát là đất hiếu học. Về Nho học, từng sản sinh nhiều nhà khoa bảng tài cao, học rộng, liêm khiết và thân dân. Dương Định Quốc nổi tiếng thần đồng, 23 tuổi thi đỗ khoa Minh Kinh, tri huyện Tuy Viễn thời Tây Sơn. Huỳnh Văn Minh (Phú Hội, Cát Tài) đỗ cử nhân khoa Canh Tỵ (1821), khai khoa cử nhân của Bình Định. Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển (Vĩnh Ân, Cát Hanh), Hội nguyên khao Đinh Mão (1847) lúc mới 20 tuổi, từng là Đốc học tỉnh Bình Định, tác giả cuốn “Đồ bàn thành ký”. Qua các thời kỳ, Phù Cát có nhiều người thành đạt và nổi tiếng trên hầu hết các lĩnh vực.
Về
kinh tế
: trước đây, phần lớn cư dân chuyên trồng lúa nước, một ít khai thác hải sản gần bờ. Trong vài chục năm nay, kinh tế Phù Cát vẫn tập trung phát triển nông nghiệp là chính: trồng trọt, chăn nuôi; khai thác thủy - hải sản, trồng rừng. Đồng thời chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Đến năm 2013, về cơ cấu kinh tế, ngành nông nghiệp huyện chiếm 34,2%, ngành công nghiệp – dịch vụ chiếm 64,8%. Tổng giá trị sản xuất (giá trị cố định 1994), đạt 2.404 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm.
Cây trồng chính gồm:
+ Lúa: với diện tích gieo trồng cả năm 15.400 ha, năng suất 56,9 tạ/ha, sản lượng 87.800 tấn.
+ Đậu phộng: 3.800 ha.
+ Sắn: 2.600 ha.
Về chăn nuôi: đàn bò có 46.500 con, đàn heo 87.600 con. Diện tích rừng khoanh nuôi, bảo vệ là 9.400 ha, độ che phủ rừng chiếm 34,5% diện tích toàn huyện.
Về khai thác nuôi trồng thủy – hải sản: Tàu thuyền có 1063 chiếc với tổng công suất 95.900 CV, sản lượng khai thác 30.000 tấn; diện tích nuôi trồng thủy sản 617 ha, sản lượng 700 tấn. Diện tích sản xuất muối 83 ha, sản lượng bình quân hàng năm 10.000 tấn.
Về phương tiện vận tải: hiện có 420 chiếc.
Về văn hóa – xã hội: ngành giáo dục có 22 trường mẫu giáo; Tiểu học 31 trường; Trung học cơ sở 18 trường; Trung học phổ thông 6 trường. Tổng số học sinh các cấp học là 46.000 em.
Về y tế: có 01 bệnh viện đa khoa, 01 phòng khám khu vực, 01 bệnh viện điều dưỡng và 18 trạm y tế xã – thị trấn; tổng số giường bệnh 190 giường.
Phù Cát hội tụ nhiều điều kiện để phát triển. Trước hết là phát triển nền sản xuất nông nghiệp đa dạng từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác thủy – hải sản, trồng rừng; phát triển sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp với mặt bằng rộng rãi, nguyên vật liệu phong phú; phát triển về thương mại, du lịch, các loại dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp, hệ thống giao thông thuận tiện; phát triển mạnh về nguồn nhân lực vì nơi đây sản sinh ra nhiều người học hành giỏi giang, thành đạt, nổi tiếng. Thiên thời – địa lợi – nhân hòa, là những yếu tố mà Phù Cát có đủ. Vấn đề còn lại là làm như thế nào để các yếu tố đó tạo nên sự phát triển và thịnh vượng. Muốn vậy, mọi người dân Phù Cát, dù đang sinh sống hay sống xa quê hương cần chung lòng, chung sức kiến tạo cho mảnh đất thân yêu của mình ngày càng giàu đẹp.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tây Sơn
Huyện Tây Sơn nằm phía Tây Nam tỉnh Bình Định. Bắc giáp huyện Phù Cát, Nam giáp huyện Vân Canh, Tây giáp huyện Vĩnh Thạnh và thị xã An Khê (tỉnh Gia Lai), Đông giáp thị xã An Nhơn.
Tây Sơn xưa kia là vùng đất thuộc huyện Tượng Lâm, địa bàn cư trú của người Chăm, thuộc vương quốc Chămpa cổ. Năm 1471, nhà Lê lập phủ Hoài Nhân (tức Hoài Nhơn) gồm ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam. Bình Khê thuộc huyện Tuy Viễn. Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân (Qui Nhơn). Sau nhiều lần đổi tên, năm 1832 nhà Nguyễn đổi tên phủ Hoài Nhơn (cũng là phủ Qui Nhơn) thành tỉnh Bình Định. Qua các lần đổi tên này (phủ, dinh, trấn, tỉnh) Bình Khê vẫn thuộc huyện Tuy Viễn. Tháng 5 năm 1877, sau khi di dân khai phá, lập thêm 28 làng phía tây và đông sông Ba, Nhà Nguyễn thành lập ba tổng Thuận Đức, Tân Phong và An Khê thuộc Nha Kinh lý An Khê. Tháng 9 năm 1888, Nhà Nguyễn cắt 18 làng thuộc hai tổng Phú Phong và Mỹ Thuận (thuộc Tuy Viễn) nhập vào nha Kinh lý An Khê thành lập huyện Bình Khê gồm 3 tổng: Phú Phong, Mỹ Thuận, Vĩnh Thạnh. Khoảng năm 1937 lập tổng Trường Định. Từ đó Bình Khê có 4 tổng: Vĩnh Thạnh, Phú Phong, Trường Định và Thuận Truyền với 47 làng. Đầu năm 1946 do có sự điều chỉnh địa giới giữa An Nhơn và Bình Khê nên có thêm 3 làng: Bính Đức, Mỹ Đức, Nhơn Thuận, tổng cộng Bình Khê có 50 làng.
Sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945, tổng Phú Phong được gọi là tổng Tây Sơn, tổng Trường Định gọi là tổng Hương Sơn, tổng Thuận Truyền gọi là tổng Võ Cự Công, tổng Vĩnh Thạnh giữ nguyên tên. Cuối năm 1945, bỏ cấp tổng, thành lập cấp
Tháng 3 năm 1946, Bình Định nhập xã lần thứ nhất. Huyện Bình Khê từ 50 làng hợp thành 21 xã.
Tháng 4 năm 1947, Bình Định lập 4 huyện miền núi: An Lão, Kim Sơn, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Đầu năm 1948, Bình Khê nhập xã lần thứ hai, còn 10 xã.
Từ cuối năm 1955 đến đầu 1958, ngụy quyền Sài Gòn lập Nha hành chính ở các huyện miền núi, đổi tên xã Bình Quang (nguyên thuộc huyện Bình Khê) thành xã Vĩnh Quang nhập vào Nha Vĩnh Thạnh; tháng 5 năm 1958 cải biến nha hành chính Vĩnh Thạnh thành quận Vĩnh Thạnh.
Tháng 7 năm 1963, ngụy quyền Sài Gòn lập xã Phùng Thiện thuộc quận Vĩnh Thạnh gồm các thôn Tiên Thuận, Thượng Sơn (nguyên thuộc xã Bình Giang, quận Bình Khê), một phần xã Vĩnh An (thuộc quận Vĩnh Thạnh), 2 thôn Định Quang, Định Bình (thuộc xã Vĩnh Quang, quận Vĩnh Thạnh), phần còn lại của xã Vĩnh An nhập vào xã Bình Giang (thuộc Bình Khê); xã Vĩnh Bình (nguyên thuộc quận Vĩnh Thạnh) nhập vào xã Bình Tường (thuộc quận Bình Khê).
Từ tháng 4 năm 1965 đến tháng 6 năm 1970, ngụy quyền Sài Gòn cải biến quận Vĩnh Thạnh thành cơ sở phái viên hành chính Vĩnh Thạnh trực thuộc quận Bình Khê, rồi bãi bỏ, lại tái lập rồi bãi bỏ cơ sở phái viên hành chính, đặt các xã của huyện Vĩnh Thạnh trực thuộc huyện Bình Khê.
Sau ngày thống nhất đất nước, quận đổi thành huyện. Tháng 11 năm 1975, Bình Khê và Vĩnh Thạnh hợp nhất thành huyện Tây Sơn. Tháng 8 năm 1981, huyện Vĩnh Thạnh tách khỏi Tây Sơn. Tháng 2 năm 1986 chia xã Bình Hiệp thành hai xã Bình Tân và Bình Thuận. Tháng 8 năm 1987, chia xã Bình An thành 3 xã: Tây Bình, Tây Vinh, Tây An; xã Bình Phú thành 2 xã: Tây Phú và Tây Xuân; xã Bình Giang thành 2 xã: Tây Thuận, Tây Giang. Hiện nay, Tây Sơn có 14 xã và một thị trấn, huyện lỵ đặt tại thị trấn Phú Phong.
Với diện tích tự nhiên 692,96 km
2
, Tây Sơn có địa hình khá hiểm trở, dãy núi Kình Sơn gồm các ngọn Kiền Kiền, Bạch Thạch, Càn Dương, Ca Ca, Trà Ly, Hắc Sơn …cao hơn 400m cùng với các ngọn Hội Sơn, Độc Nhũ, Lỗ Tây…hình thành một bức tường tự nhiên từ Đông Bắc đến Tây Nam, tạo cho Tây Sơn có vị trí chiến lược khá quan trọng, là cửa ngõ nối liền đồng bằng ven biển miền Trung với Tây Nguyên trù phú bằng con đường độc đạo từ Qui Nhơn lên.
Về giao thông, trước đây chủ yếu dựa vào sông Kôn và con đường chạy ven sông về Phủ cũ (Bình Định). Sông Kôn chia Tây Sơn thành hai mảng: phía Bắc và phía Nam, vừa là nguồn thủy lợi, vừa là mạch máu giao thông quan trọng; cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp trước đây ở An Vinh, Kiên Mỹ, Phú Phong thuận lợi giao lưu với các vùng. Bến Cây me (Kiên Mỹ), còn gọi là bến Trường Trầu, thời cụ thân sinh ba anh em Tây Sơn là nơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp giữa miền xuôi và miền ngược. Sông Kôn còn là nơi ghi dấu ấn lịch sử trong thời kỳ kháng chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí, bộ đội lên chiến trường Tây Nguyên.
Trong những năm 1923-1925, để phục vụ cho mục đích quân sự và khai thác tài nguyên của các tỉnh Tây nguyên, thực dân Pháp đã xây dựng đường 19 nối liền cảng Qui Nhơn với Tây nguyên dài trên 200km xuyên qua Tây Sơn. Thời Mỹ – ngụy đường 19 được mở rộng nâng cấp và được xem là một trong những con đường chiến lược quan trọng nhất ở Miền Nam. Ngoài ra để phục vụ cho việc giao lưu, nhân dân địa phương đã xây dựng các con đường đất nối liền các làng với Phú Phong như: Gò Găng – Kiên Mỹ, Cây Dừa – Phú Phong.
Với địa thế như trên, trải qua các thời kỳ kháng chiến Tây Sơn được xem là địa bàn chiến lược quan trọng của tỉnh Bình Định.
Cuộc đổi đời lịch sử sau Cách mạng Tháng Tám (1945) đã tạo cho nhân dân Tây Sơn cũng như đồng bào trong tỉnh và cả nước một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ, tinh thần phấn khởi và khí thế cách mạng của người làm chủ đất nước.
một huyện vừa là hậu phương, vừa là tiến tuyến, suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tây Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, động viên nhân tài, vật lực phục vụ tiền tuyến, đồng thời sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ quê hương.
Ngày 31.3.1975 được ghi vào lịch sử Tây Sơn là ngày giải phòng hoàn toàn huyện nhà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
Sau khi giải phóng huyện nhà; quân dân Tây Sơn cùng quân dân trong tỉnh đã tích cực góp phần phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam (30/4/1975).
Đối với Đảng bộ và nhân dân Tây Sơn, hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ là thời kỳ đầy gian khổ, hy sinh và ác liệt nhất từ trước đến nay, đồng thời đây cũng là giai đoạn thu nhiều thắng lợi vẻ vang.
Từ chiến tranh một phía
với chính sách phát xít
“tố cộng, diệt cộng”
cực kỳ tàn bạo,
chiến tranh đặc biệt
với
“quốc sách ấp chiến lược đạp lên oán hờn”
, đến
chiến tranh cục bộ
, nấc thang cao nhất của Mỹ và
Việt Nam hóa chiến tranh
, bất chấp đầu rơi máu chảy, mưa bom bão đạn, ở đâu, lúc nào, nhân dân Tây Sơn cũng kiên cường bám trụ, hết lòng cưu mang, đùm bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ lực lượng Cách mạng và hăng hái tham gia các phong trào do Đảng chủ trương và lãnh đạo. Sôi động nhất, quyết liệt nhất là các phong trào đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử, chống “tố cộng”; phong trào tấn công và nổi dậy diệt ác, phá kèm, đốt phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ từng phần; cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân 1968, các cao trào tranh thủ thời cơ, giải phóng đại bộ phận nông thôn, đồng bằng, tiến lên giải phóng toàn huyện.
“
Lửa thử vàng, gian nan thử sức”
, qua hơn hai mươi năm lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ Tây Sơn được tôi luyện và ngày càng trưởng thành. Từ việc vận dụng đường lối cách mạng bạo lực, phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi giáp công trên khắp cả ba vùng chiến lược, về tư tưởng cách mạng tiến công, liên tục tấn công và nổi dậy, nổi dậy và tấn công đánh đổ địch từng bước, giành thắng lợi từng phần tiến tới, tạo thế, tạo lực, đón thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn v.v… Đảng bộ Tây Sơn đã quán triệt sâu sắc tư tưởng cách mạng tấn công và phương châm lấy dân làm gốc.
Qua các phong trào cách mạng của nhân dân, Đảng bộ ngày càng phát triển, chất lượng đảng viên ngày càng nâng cao, Đảng bộ với nhân dân gắn bó nhau như cá với nước. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp cho Đảng bộ vững vàng hơn trong công cuộc lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ quê hương trong thời kỳ mới.
Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Tây Sơn đã được Nhà nước phong tặng 2.180 Huân, Huy chương các loại. Trong đó:Huân chương độc lập:
Hạng nhất: 01, Hạng nhì: 09, Hạng ba: 16;
Huân chương kháng chiến:
Hạng nhất: 483, Hạng nhì: 333, Hạng ba: 382;
Huychương kháng chiến:
Hạng nhất: 476, Hạng nhì: 525
, 86 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Anh hùng lực lượng vũ trang: Võ Lai, Nguyễn Thị Hồng Bông.
Huyện Tây Sơn và 14 xã, thị trấn (Bình Thuận, Tây Giang, Vĩnh An, Bình Tường, Tây Phú, Tây Xuân, Bình Thành, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận, Tây An, Tây Bình, Tây Vinh và thị trấn Phú Phong) được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tây Sơn
Huyện Tây Sơn nằm phía Tây Nam tỉnh Bình Định. Bắc giáp huyện Phù Cát, Nam giáp huyện Vân Canh, Tây giáp huyện Vĩnh Thạnh và thị xã An Khê (tỉnh Gia Lai), Đông giáp thị xã An Nhơn.
Tây Sơn xưa kia là vùng đất thuộc huyện Tượng Lâm, địa bàn cư trú của người Chăm, thuộc vương quốc Chămpa cổ. Năm 1471, nhà Lê lập phủ Hoài Nhân (tức Hoài Nhơn) gồm ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam. Bình Khê thuộc huyện Tuy Viễn. Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân (Qui Nhơn). Sau nhiều lần đổi tên, năm 1832 nhà Nguyễn đổi tên phủ Hoài Nhơn (cũng là phủ Qui Nhơn) thành tỉnh Bình Định. Qua các lần đổi tên này (phủ, dinh, trấn, tỉnh) Bình Khê vẫn thuộc huyện Tuy Viễn. Tháng 5 năm 1877, sau khi di dân khai phá, lập thêm 28 làng phía tây và đông sông Ba, Nhà Nguyễn thành lập ba tổng Thuận Đức, Tân Phong và An Khê thuộc Nha Kinh lý An Khê. Tháng 9 năm 1888, Nhà Nguyễn cắt 18 làng thuộc hai tổng Phú Phong và Mỹ Thuận (thuộc Tuy Viễn) nhập vào nha Kinh lý An Khê thành lập huyện Bình Khê gồm 3 tổng: Phú Phong, Mỹ Thuận, Vĩnh Thạnh. Khoảng năm 1937 lập tổng Trường Định. Từ đó Bình Khê có 4 tổng: Vĩnh Thạnh, Phú Phong, Trường Định và Thuận Truyền với 47 làng. Đầu năm 1946 do có sự điều chỉnh địa giới giữa An Nhơn và Bình Khê nên có thêm 3 làng: Bính Đức, Mỹ Đức, Nhơn Thuận, tổng cộng Bình Khê có 50 làng.
Sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945, tổng Phú Phong được gọi là tổng Tây Sơn, tổng Trường Định gọi là tổng Hương Sơn, tổng Thuận Truyền gọi là tổng Võ Cự Công, tổng Vĩnh Thạnh giữ nguyên tên. Cuối năm 1945, bỏ cấp tổng, thành lập cấp
Tháng 3 năm 1946, Bình Định nhập xã lần thứ nhất. Huyện Bình Khê từ 50 làng hợp thành 21 xã.
Tháng 4 năm 1947, Bình Định lập 4 huyện miền núi: An Lão, Kim Sơn, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Đầu năm 1948, Bình Khê nhập xã lần thứ hai, còn 10 xã.
Từ cuối năm 1955 đến đầu 1958, ngụy quyền Sài Gòn lập Nha hành chính ở các huyện miền núi, đổi tên xã Bình Quang (nguyên thuộc huyện Bình Khê) thành xã Vĩnh Quang nhập vào Nha Vĩnh Thạnh; tháng 5 năm 1958 cải biến nha hành chính Vĩnh Thạnh thành quận Vĩnh Thạnh.
Tháng 7 năm 1963, ngụy quyền Sài Gòn lập xã Phùng Thiện thuộc quận Vĩnh Thạnh gồm các thôn Tiên Thuận, Thượng Sơn (nguyên thuộc xã Bình Giang, quận Bình Khê), một phần xã Vĩnh An (thuộc quận Vĩnh Thạnh), 2 thôn Định Quang, Định Bình (thuộc xã Vĩnh Quang, quận Vĩnh Thạnh), phần còn lại của xã Vĩnh An nhập vào xã Bình Giang (thuộc Bình Khê); xã Vĩnh Bình (nguyên thuộc quận Vĩnh Thạnh) nhập vào xã Bình Tường (thuộc quận Bình Khê).
Từ tháng 4 năm 1965 đến tháng 6 năm 1970, ngụy quyền Sài Gòn cải biến quận Vĩnh Thạnh thành cơ sở phái viên hành chính Vĩnh Thạnh trực thuộc quận Bình Khê, rồi bãi bỏ, lại tái lập rồi bãi bỏ cơ sở phái viên hành chính, đặt các xã của huyện Vĩnh Thạnh trực thuộc huyện Bình Khê.
Sau ngày thống nhất đất nước, quận đổi thành huyện. Tháng 11 năm 1975, Bình Khê và Vĩnh Thạnh hợp nhất thành huyện Tây Sơn. Tháng 8 năm 1981, huyện Vĩnh Thạnh tách khỏi Tây Sơn. Tháng 2 năm 1986 chia xã Bình Hiệp thành hai xã Bình Tân và Bình Thuận. Tháng 8 năm 1987, chia xã Bình An thành 3 xã: Tây Bình, Tây Vinh, Tây An; xã Bình Phú thành 2 xã: Tây Phú và Tây Xuân; xã Bình Giang thành 2 xã: Tây Thuận, Tây Giang. Hiện nay, Tây Sơn có 14 xã và một thị trấn, huyện lỵ đặt tại thị trấn Phú Phong.
Với diện tích tự nhiên 692,96 km
2
, Tây Sơn có địa hình khá hiểm trở, dãy núi Kình Sơn gồm các ngọn Kiền Kiền, Bạch Thạch, Càn Dương, Ca Ca, Trà Ly, Hắc Sơn …cao hơn 400m cùng với các ngọn Hội Sơn, Độc Nhũ, Lỗ Tây…hình thành một bức tường tự nhiên từ Đông Bắc đến Tây Nam, tạo cho Tây Sơn có vị trí chiến lược khá quan trọng, là cửa ngõ nối liền đồng bằng ven biển miền Trung với Tây Nguyên trù phú bằng con đường độc đạo từ Qui Nhơn lên.
Về giao thông, trước đây chủ yếu dựa vào sông Kôn và con đường chạy ven sông về Phủ cũ (Bình Định). Sông Kôn chia Tây Sơn thành hai mảng: phía Bắc và phía Nam, vừa là nguồn thủy lợi, vừa là mạch máu giao thông quan trọng; cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp trước đây ở An Vinh, Kiên Mỹ, Phú Phong thuận lợi giao lưu với các vùng. Bến Cây me (Kiên Mỹ), còn gọi là bến Trường Trầu, thời cụ thân sinh ba anh em Tây Sơn là nơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp giữa miền xuôi và miền ngược. Sông Kôn còn là nơi ghi dấu ấn lịch sử trong thời kỳ kháng chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí, bộ đội lên chiến trường Tây Nguyên.
Trong những năm 1923-1925, để phục vụ cho mục đích quân sự và khai thác tài nguyên của các tỉnh Tây nguyên, thực dân Pháp đã xây dựng đường 19 nối liền cảng Qui Nhơn với Tây nguyên dài trên 200km xuyên qua Tây Sơn. Thời Mỹ – ngụy đường 19 được mở rộng nâng cấp và được xem là một trong những con đường chiến lược quan trọng nhất ở Miền Nam. Ngoài ra để phục vụ cho việc giao lưu, nhân dân địa phương đã xây dựng các con đường đất nối liền các làng với Phú Phong như: Gò Găng – Kiên Mỹ, Cây Dừa – Phú Phong.
Với địa thế như trên, trải qua các thời kỳ kháng chiến Tây Sơn được xem là địa bàn chiến lược quan trọng của tỉnh Bình Định.
Cuộc đổi đời lịch sử sau Cách mạng Tháng Tám (1945) đã tạo cho nhân dân Tây Sơn cũng như đồng bào trong tỉnh và cả nước một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ, tinh thần phấn khởi và khí thế cách mạng của người làm chủ đất nước.
một huyện vừa là hậu phương, vừa là tiến tuyến, suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tây Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, động viên nhân tài, vật lực phục vụ tiền tuyến, đồng thời sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ quê hương.
Ngày 31.3.1975 được ghi vào lịch sử Tây Sơn là ngày giải phòng hoàn toàn huyện nhà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
Sau khi giải phóng huyện nhà; quân dân Tây Sơn cùng quân dân trong tỉnh đã tích cực góp phần phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam (30/4/1975).
Đối với Đảng bộ và nhân dân Tây Sơn, hơn hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ là thời kỳ đầy gian khổ, hy sinh và ác liệt nhất từ trước đến nay, đồng thời đây cũng là giai đoạn thu nhiều thắng lợi vẻ vang.
Từ chiến tranh một phía
với chính sách phát xít
“tố cộng, diệt cộng”
cực kỳ tàn bạo,
chiến tranh đặc biệt
với
“quốc sách ấp chiến lược đạp lên oán hờn”
, đến
chiến tranh cục bộ
, nấc thang cao nhất của Mỹ và
Việt Nam hóa chiến tranh
, bất chấp đầu rơi máu chảy, mưa bom bão đạn, ở đâu, lúc nào, nhân dân Tây Sơn cũng kiên cường bám trụ, hết lòng cưu mang, đùm bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ lực lượng Cách mạng và hăng hái tham gia các phong trào do Đảng chủ trương và lãnh đạo. Sôi động nhất, quyết liệt nhất là các phong trào đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử, chống “tố cộng”; phong trào tấn công và nổi dậy diệt ác, phá kèm, đốt phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ từng phần; cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân 1968, các cao trào tranh thủ thời cơ, giải phóng đại bộ phận nông thôn, đồng bằng, tiến lên giải phóng toàn huyện.
“
Lửa thử vàng, gian nan thử sức”
, qua hơn hai mươi năm lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ Tây Sơn được tôi luyện và ngày càng trưởng thành. Từ việc vận dụng đường lối cách mạng bạo lực, phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi giáp công trên khắp cả ba vùng chiến lược, về tư tưởng cách mạng tiến công, liên tục tấn công và nổi dậy, nổi dậy và tấn công đánh đổ địch từng bước, giành thắng lợi từng phần tiến tới, tạo thế, tạo lực, đón thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn v.v… Đảng bộ Tây Sơn đã quán triệt sâu sắc tư tưởng cách mạng tấn công và phương châm lấy dân làm gốc.
Qua các phong trào cách mạng của nhân dân, Đảng bộ ngày càng phát triển, chất lượng đảng viên ngày càng nâng cao, Đảng bộ với nhân dân gắn bó nhau như cá với nước. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp cho Đảng bộ vững vàng hơn trong công cuộc lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ quê hương trong thời kỳ mới.
Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Tây Sơn đã được Nhà nước phong tặng 2.180 Huân, Huy chương các loại. Trong đó:Huân chương độc lập:
Hạng nhất: 01, Hạng nhì: 09, Hạng ba: 16;
Huân chương kháng chiến:
Hạng nhất: 483, Hạng nhì: 333, Hạng ba: 382;
Huychương kháng chiến:
Hạng nhất: 476, Hạng nhì: 525
, 86 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Anh hùng lực lượng vũ trang: Võ Lai, Nguyễn Thị Hồng Bông.
Huyện Tây Sơn và 14 xã, thị trấn (Bình Thuận, Tây Giang, Vĩnh An, Bình Tường, Tây Phú, Tây Xuân, Bình Thành, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận, Tây An, Tây Bình, Tây Vinh và thị trấn Phú Phong) được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vân Canh
Vân Canh là một huyện miền núi, nằm ở phía tây nam của tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 30 km, dựa lưng vào những khối đá núi kết tinh đồ sộ của cao nguyên Gia Lai – KonTum.
Với diện tích đất tự nhiên 79.797 ha, Vân Canh hiện có 6 xã và 1 thị trấn; trong đó có 3 xã đặc biệt khó khăn là Canh Hòa, Canh Hiệp, Canh Liên và 2 xã nghèo của tỉnh là Canh Hiển và Canh Thuận.
Vân Canh có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Nam giáp huyện Đồng Xuân (Phú Yên), bắc giáp hai huyện An Nhơn và Tây Sơn, tây giáp huyện Kông Chơro (Gia Lai), và phía đông là huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn. Do vậy, Vân Canh cùng với Vĩnh Thạnh, tựa như một hành lang lớn giữa bắc Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ án ngữ đèo An Khê.
Vân Canh cách không xa Quốc lộ 1A, gần ga Diêu Trì. Từ Vân Canh, xuống Cảng Quy Nhơn, hoặc ngược lên đường 19, đến vùng đất Tây Nguyên đều rất thuận tiện. Đặc biệt, từ thị trấn Diêu Trì (huyện Tuy Phước) lên Vân Canh có thể đi thẳng tới tỉnh Phú Yên. Hàng hóa từ Vân Canh ra Bắc, vào Nam, hay ngược lên Tây Nguyên đều thuận lợi và ngược lại.
Sông Hà Thanh dài 48km, cùng với các ngọn núi: hòn Ông, hòn Bà, hòn Chuông, hòn Nắm… và các con suối nhỏ chảy quanh co, vừa tạo cho Vân Canh cảnh quan đẹp, có nét hùng vĩ và thơ mộng riêng; đồng thời, cũng chia khu vực này thành ba thung lũng nhỏ: nằm giữa có sông Hà Thanh là vùng đất cày trong tâm niệm của đồng bào Chăm H’roi; phía đông có suối Đá Lót, Đá Lộc xã Canh Giao nhiều dầu rái; phía tây là vùng An Tượng với sông An Trường, suối Khe Cành, suối Lao… Các làng canh tác dọc theo các thung lũng với các vùng: vùng ruộng nước ở An Tượng, đất rừng nà thổ ở vùng đất cày và vùng rừng dầu rái ở vùng Canh Giao.
Đặc biệt, núi Ông và núi Bà với độ cao hơn 1.000m không chỉ là góp vào cảnh quan Vân Canh một vóc dáng hùng vĩ, nên thơ mà thật sự đã đi vào tâm thức đồng bào với một kho chuyện kể thấm đẫm triết lý và đan xen lịch sử, huyền thoại.
Trong công cuộc đổi mới, Vân Canh có những chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội. Nền kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng và phát triển; sản xuất nông nghiệp được mùa; công nghiệp, thương mại – dịch vụ tiếp tục có bước tăng trưởng khá; các hoạt động trên lĩnh vực văn hoá xã hội tiếp tục có tiến bộ; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được tập trung chỉ đạo; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được tăng cường. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Hệ thống quản lý hành chính nhà nước từng bước được xây dựng vững mạnh, đáp ứng tốt các nhu cầu của tổ chức và nhân dân.
Danh Thắng
SUỐI MỘT
Cách ga Vân Canh chừng hơn 3km, nằm dưới chân núi Hòn Bà thuộc địa phận làng Đăkđâm – Thị trấn Vân Canh là Suối Một, thuộc hạ lưu Suối Phường, nơi có nhiều cảnh đẹp đang thu hút khách thập phương đến tham quan.
Thiên nhiên kiến tạo bởi đá, nước và cây rừng làm nên vẻ đẹp tự nhiên cho Suối Một. Không ít người chú ý đến nơi này thường đến đây thư giãn, nghỉ ngơi. Cho đến nay suối Một vẫn nguyên hình, nguyên dạng cảnh thiên nhiên, chưa hề có sự tôn tạo từ bàn tay con người, vì thế nó là nguồn cảm hứng cho những ai thích về nguồn, gần gũi với thiên nhiên hoang dã. Đến với Suối Một, ngồi bên dòng nước róc rách chảy, thả hồn theo muôn điệu chim ca hoà với tiếng suối reo thành một bản giao hưởng tràn đầy không gian, bạn sẽ cảm nhận được nét đẹp phóng khoáng, thi vị và đầy hấp dẫn của miền rừng Vân Canh. Lần theo những bậc đá xếp chìm, xếp nổi, bất ngờ mở ra trước mắt bạn những hồ nước rộng 30 – 40m
2
, phía trên là những thác nước dựng đứng tung bọt trắng xoá, có sẵn những cầu tuột và vách đá phẳng nghiêng xuôi về hồ… đủ cho cuộc tắm mát đầy thoả thích. Suốt cuộc hành trình trên dòng suối mát, bạn còn bắt gặp nhiều hang đá tạo bỡi những tảng đá lớn với thế chênh vênh nhô ra từ sườn núi, những “cối đá” tự nhiên, lõm tròn đều tạo bởi nước xoáy đổ trên mặt đá thời gian, nhiều loài tầm gửi lướt thướt buông mình lả lơi đùa với gió, hàng chục loài phong lan rừng lơ lửng đu bám trên thân cây, vách đá đua nhau khoe những sắc màu thanh nhã…
Ngược lên là Suối Hai, Suối Ba, … nối nhau, có nhiều vẻ đẹp riêng không kém phần hấp dẫn, ngại nỗi đường lên không tiện lắm.
Suối Một đã có từ lâu đời, nhưng mới thu hút khách về được những năm gần đây, vào dịp hè hay lễ tết, Suối Một càng thêm nhộn nhịp đông vui hơn.
Chỉ một ngày nghỉ thôi, về với miền núi Vân Canh , đi chơi Suối Một, thưởng thức hương vị rượu cần cùng nguồn đặc sản chim xanh, chim ngói thì cũng thú vị lắm đấy.
ĐỒI ĐÁ HUÊ
Đá Huê là một khu đồi nằm độc lập ở Làng Hòn Mẻ xã Canh thuận, cạnh bên Quốc lộ 19C, cách lề đường 10m, cách đường sắt Bắc – Nam 20m, ngọn đồi có chiều dài khoảng 50m, chiều rộng 30m, cao 63m so với mực nước biển, với diện tích 1.500m
2
. Trên đồi đá hoa cương nằm chồng chất lên nhau, trên đỉnh là mỏm đá trắng ngã vàng sọc xen lẫn với cây rừng tự nhiên. Mặt phía Tây giáp với đường Quốc lộ là những tản đá bao quanh che chắn, chiều cao của lớp đá này khoảng 10m, phía đông là những triền đồi chạy giáp với sông Hà Thanh.
Cách Đồi Đá Huê về phía Nam 1km là nơi diễn ra trận đánh đoàn tàu quân sự của địch năm 1961 của lực lượng vũ trang huyện và bộ đội chủ lực. Trận đánh này bộ phận chỉ huy đóng tại phía Tây – Nam Đồi Đá Huê. Đúng 16 giờ ngày 06/10/1961 ta xuất quân, chỉ đánh tại phía Tây – Nam Đồi Đá Huê, còn lực lượng chủ công bố trí phía Tây đường sắt. Một bộ phận chặn đánh quân tiếp viện từ Vân Canh vào, cách Đồi Đá Huê 1km. Lực lượng chủ lực của ta được bố trí ở phía Tây đường sắt dùng dây giật đường ray lật đổ đoàn tàu của địch lúc 23 giờ 30 phút, Bộ đội ta nổ súng nhanh chóng chiếm lĩnh đoàn tàu quân sự gồm 23 toa chở vũ khí, phương tiện chiến tranh và binh lính từ Sài Gòn ra tăng viện chiến trường Quân khu V. Sau 3 giờ chiến đấu ta tiêu diệt 117 tên, bắt 10 tên, phá hủy 01 đầu máy, 03 toa tàu cùng nhiều quân trang, quân dụng. Ngay hôm sau (07/10) địch cho 1 tiểu đoàn gồm 300 tên có phi cơ yểm trợ, chúng càng quét các xã Canh Sơn (Canh Thuận), Canh Lãnh, Canh Thành (Canh Hòa) tàn phá tài sản và hoa màu của nhân dân suốt 3 ngày liền mới rút quân.
Chiến thắng Đá Huê thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang huyện Vân Canh và bộ đội chủ lực tỉnh nhằm tiêu diệt một lực lượng lớn, gây cho địch hoang mang, dao động. Chiến thắng Đá Huê góp phần làm thất bại “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Nhưng với bản chất phản động, bọn Mỹ Diệm vẫn ráo riết tiếp tục thực hiện kế hoạch “ấp chiến lược” nhằm dồn dân lập ấp, chia cắt nhân dân với cách mạng.
Ngày 27/01/1973 Hiệp định Pari ký kết, chấm dứt hoàn thoàn sự hiện diện của quân đội Mỹ và chư hầu tại miền Nam Việt Nam. Nhưng bọn xâm lược vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” sử dụng chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Pari ngay từ khi ký kết.
Tại Vân Canh chúng tăng cường quân đội và bộ máy kèm kẹp, tiếp tục mở nhiều đợt càn quét, giành dân lấn đất. Chiến thắng Đá Huê năm 1973 thể hiện lòng quyết tâm đánh địch của quân và nhân dân Vân Canh dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Mặt trận dân tộc giải phóng và chính phủ cách mạng lâm thời Công hòa miền Nam Việt Nam, buộc địch phải rút về tử thủ tại chi khu quận lỵ, chấp hành mệnh lệnh tổng tiến công, tông khởi nghĩa giải phóng toàn tỉnh ngày 31/3/1975, huyện Vân Canh cũng đồng loạt giải phóng khỏi ách thống trị, đàn áp của Mỹ ngụy.
Trải qua 21 năm chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Vân Canh đã vượt qua sự gian khổ đầy hy sinh, thách thức trong từng chặn đường lịch sử, đồng lòng, quyết tâm đánh đuổi Mỹ ngụy tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Đồi Đá Huê đã minh chứng nhiều chiến công oai hùng của các dân tộc huyện Vân Canh trong suốt chặn đường kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ những năm 1954-1975. Một di tích đặc biệt chất chứa toàn những tình cảm thân thương của các đồng chí tiền bối vì Đảng vì dân, bất chấp sự hy sinh gian khổ, quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Chúng ta thế hệ hôm nay những người có trách nhiệm với tiền nhân cần phải gìn giữ, bảo vệ di tích này thể hiện lòng biết ơn sâu sắc những anh hùng liệt sĩ đã xả thân vì nước, đồng thời góp phần bảo vệ vững chắc và tăng cường công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, luôn đoàn kết yêu thương con người và cuộc sống, xây dựng thành công tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm cho quê hương, đất nước ta ngày càng giàu đẹp như sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng mong muốn.
Đồi Đá Huê được UBND tỉnh Bình Định xếp hạng di tích lịch sử vào ngày 09/11/2012 theo quyết định số 619/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh: Di tích lịch sử Đồi Đá Huê, thuộc xã Canh Thuận, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định.
Đây là niềm tự hào lớn lao của Đảng bộ, chính quyền, dân và quân huyện nhà về truyền thống đấu tranh kiên cường anh dũng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, giành lấy độc lập, tự do cho quê hương, đất nước, đồng thời là niềm vinh dự cao quý, được UBND tỉnh công nhận, xếp hạng di tích góp phần thiết thực có hiệu quả trong việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vân Canh
Vân Canh là một huyện miền núi, nằm ở phía tây nam của tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 30 km, dựa lưng vào những khối đá núi kết tinh đồ sộ của cao nguyên Gia Lai – KonTum.
Với diện tích đất tự nhiên 79.797 ha, Vân Canh hiện có 6 xã và 1 thị trấn; trong đó có 3 xã đặc biệt khó khăn là Canh Hòa, Canh Hiệp, Canh Liên và 2 xã nghèo của tỉnh là Canh Hiển và Canh Thuận.
Vân Canh có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Nam giáp huyện Đồng Xuân (Phú Yên), bắc giáp hai huyện An Nhơn và Tây Sơn, tây giáp huyện Kông Chơro (Gia Lai), và phía đông là huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn. Do vậy, Vân Canh cùng với Vĩnh Thạnh, tựa như một hành lang lớn giữa bắc Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ án ngữ đèo An Khê.
Vân Canh cách không xa Quốc lộ 1A, gần ga Diêu Trì. Từ Vân Canh, xuống Cảng Quy Nhơn, hoặc ngược lên đường 19, đến vùng đất Tây Nguyên đều rất thuận tiện. Đặc biệt, từ thị trấn Diêu Trì (huyện Tuy Phước) lên Vân Canh có thể đi thẳng tới tỉnh Phú Yên. Hàng hóa từ Vân Canh ra Bắc, vào Nam, hay ngược lên Tây Nguyên đều thuận lợi và ngược lại.
Sông Hà Thanh dài 48km, cùng với các ngọn núi: hòn Ông, hòn Bà, hòn Chuông, hòn Nắm… và các con suối nhỏ chảy quanh co, vừa tạo cho Vân Canh cảnh quan đẹp, có nét hùng vĩ và thơ mộng riêng; đồng thời, cũng chia khu vực này thành ba thung lũng nhỏ: nằm giữa có sông Hà Thanh là vùng đất cày trong tâm niệm của đồng bào Chăm H’roi; phía đông có suối Đá Lót, Đá Lộc xã Canh Giao nhiều dầu rái; phía tây là vùng An Tượng với sông An Trường, suối Khe Cành, suối Lao… Các làng canh tác dọc theo các thung lũng với các vùng: vùng ruộng nước ở An Tượng, đất rừng nà thổ ở vùng đất cày và vùng rừng dầu rái ở vùng Canh Giao.
Đặc biệt, núi Ông và núi Bà với độ cao hơn 1.000m không chỉ là góp vào cảnh quan Vân Canh một vóc dáng hùng vĩ, nên thơ mà thật sự đã đi vào tâm thức đồng bào với một kho chuyện kể thấm đẫm triết lý và đan xen lịch sử, huyền thoại.
Trong công cuộc đổi mới, Vân Canh có những chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội. Nền kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng và phát triển; sản xuất nông nghiệp được mùa; công nghiệp, thương mại – dịch vụ tiếp tục có bước tăng trưởng khá; các hoạt động trên lĩnh vực văn hoá xã hội tiếp tục có tiến bộ; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được tập trung chỉ đạo; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được tăng cường. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Hệ thống quản lý hành chính nhà nước từng bước được xây dựng vững mạnh, đáp ứng tốt các nhu cầu của tổ chức và nhân dân.
Danh Thắng
SUỐI MỘT
Cách ga Vân Canh chừng hơn 3km, nằm dưới chân núi Hòn Bà thuộc địa phận làng Đăkđâm – Thị trấn Vân Canh là Suối Một, thuộc hạ lưu Suối Phường, nơi có nhiều cảnh đẹp đang thu hút khách thập phương đến tham quan.
Thiên nhiên kiến tạo bởi đá, nước và cây rừng làm nên vẻ đẹp tự nhiên cho Suối Một. Không ít người chú ý đến nơi này thường đến đây thư giãn, nghỉ ngơi. Cho đến nay suối Một vẫn nguyên hình, nguyên dạng cảnh thiên nhiên, chưa hề có sự tôn tạo từ bàn tay con người, vì thế nó là nguồn cảm hứng cho những ai thích về nguồn, gần gũi với thiên nhiên hoang dã. Đến với Suối Một, ngồi bên dòng nước róc rách chảy, thả hồn theo muôn điệu chim ca hoà với tiếng suối reo thành một bản giao hưởng tràn đầy không gian, bạn sẽ cảm nhận được nét đẹp phóng khoáng, thi vị và đầy hấp dẫn của miền rừng Vân Canh. Lần theo những bậc đá xếp chìm, xếp nổi, bất ngờ mở ra trước mắt bạn những hồ nước rộng 30 – 40m
2
, phía trên là những thác nước dựng đứng tung bọt trắng xoá, có sẵn những cầu tuột và vách đá phẳng nghiêng xuôi về hồ… đủ cho cuộc tắm mát đầy thoả thích. Suốt cuộc hành trình trên dòng suối mát, bạn còn bắt gặp nhiều hang đá tạo bỡi những tảng đá lớn với thế chênh vênh nhô ra từ sườn núi, những “cối đá” tự nhiên, lõm tròn đều tạo bởi nước xoáy đổ trên mặt đá thời gian, nhiều loài tầm gửi lướt thướt buông mình lả lơi đùa với gió, hàng chục loài phong lan rừng lơ lửng đu bám trên thân cây, vách đá đua nhau khoe những sắc màu thanh nhã…
Ngược lên là Suối Hai, Suối Ba, … nối nhau, có nhiều vẻ đẹp riêng không kém phần hấp dẫn, ngại nỗi đường lên không tiện lắm.
Suối Một đã có từ lâu đời, nhưng mới thu hút khách về được những năm gần đây, vào dịp hè hay lễ tết, Suối Một càng thêm nhộn nhịp đông vui hơn.
Chỉ một ngày nghỉ thôi, về với miền núi Vân Canh , đi chơi Suối Một, thưởng thức hương vị rượu cần cùng nguồn đặc sản chim xanh, chim ngói thì cũng thú vị lắm đấy.
ĐỒI ĐÁ HUÊ
Đá Huê là một khu đồi nằm độc lập ở Làng Hòn Mẻ xã Canh thuận, cạnh bên Quốc lộ 19C, cách lề đường 10m, cách đường sắt Bắc – Nam 20m, ngọn đồi có chiều dài khoảng 50m, chiều rộng 30m, cao 63m so với mực nước biển, với diện tích 1.500m
2
. Trên đồi đá hoa cương nằm chồng chất lên nhau, trên đỉnh là mỏm đá trắng ngã vàng sọc xen lẫn với cây rừng tự nhiên. Mặt phía Tây giáp với đường Quốc lộ là những tản đá bao quanh che chắn, chiều cao của lớp đá này khoảng 10m, phía đông là những triền đồi chạy giáp với sông Hà Thanh.
Cách Đồi Đá Huê về phía Nam 1km là nơi diễn ra trận đánh đoàn tàu quân sự của địch năm 1961 của lực lượng vũ trang huyện và bộ đội chủ lực. Trận đánh này bộ phận chỉ huy đóng tại phía Tây – Nam Đồi Đá Huê. Đúng 16 giờ ngày 06/10/1961 ta xuất quân, chỉ đánh tại phía Tây – Nam Đồi Đá Huê, còn lực lượng chủ công bố trí phía Tây đường sắt. Một bộ phận chặn đánh quân tiếp viện từ Vân Canh vào, cách Đồi Đá Huê 1km. Lực lượng chủ lực của ta được bố trí ở phía Tây đường sắt dùng dây giật đường ray lật đổ đoàn tàu của địch lúc 23 giờ 30 phút, Bộ đội ta nổ súng nhanh chóng chiếm lĩnh đoàn tàu quân sự gồm 23 toa chở vũ khí, phương tiện chiến tranh và binh lính từ Sài Gòn ra tăng viện chiến trường Quân khu V. Sau 3 giờ chiến đấu ta tiêu diệt 117 tên, bắt 10 tên, phá hủy 01 đầu máy, 03 toa tàu cùng nhiều quân trang, quân dụng. Ngay hôm sau (07/10) địch cho 1 tiểu đoàn gồm 300 tên có phi cơ yểm trợ, chúng càng quét các xã Canh Sơn (Canh Thuận), Canh Lãnh, Canh Thành (Canh Hòa) tàn phá tài sản và hoa màu của nhân dân suốt 3 ngày liền mới rút quân.
Chiến thắng Đá Huê thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang huyện Vân Canh và bộ đội chủ lực tỉnh nhằm tiêu diệt một lực lượng lớn, gây cho địch hoang mang, dao động. Chiến thắng Đá Huê góp phần làm thất bại “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Nhưng với bản chất phản động, bọn Mỹ Diệm vẫn ráo riết tiếp tục thực hiện kế hoạch “ấp chiến lược” nhằm dồn dân lập ấp, chia cắt nhân dân với cách mạng.
Ngày 27/01/1973 Hiệp định Pari ký kết, chấm dứt hoàn thoàn sự hiện diện của quân đội Mỹ và chư hầu tại miền Nam Việt Nam. Nhưng bọn xâm lược vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” sử dụng chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Pari ngay từ khi ký kết.
Tại Vân Canh chúng tăng cường quân đội và bộ máy kèm kẹp, tiếp tục mở nhiều đợt càn quét, giành dân lấn đất. Chiến thắng Đá Huê năm 1973 thể hiện lòng quyết tâm đánh địch của quân và nhân dân Vân Canh dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Mặt trận dân tộc giải phóng và chính phủ cách mạng lâm thời Công hòa miền Nam Việt Nam, buộc địch phải rút về tử thủ tại chi khu quận lỵ, chấp hành mệnh lệnh tổng tiến công, tông khởi nghĩa giải phóng toàn tỉnh ngày 31/3/1975, huyện Vân Canh cũng đồng loạt giải phóng khỏi ách thống trị, đàn áp của Mỹ ngụy.
Trải qua 21 năm chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Vân Canh đã vượt qua sự gian khổ đầy hy sinh, thách thức trong từng chặn đường lịch sử, đồng lòng, quyết tâm đánh đuổi Mỹ ngụy tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Đồi Đá Huê đã minh chứng nhiều chiến công oai hùng của các dân tộc huyện Vân Canh trong suốt chặn đường kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ những năm 1954-1975. Một di tích đặc biệt chất chứa toàn những tình cảm thân thương của các đồng chí tiền bối vì Đảng vì dân, bất chấp sự hy sinh gian khổ, quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Chúng ta thế hệ hôm nay những người có trách nhiệm với tiền nhân cần phải gìn giữ, bảo vệ di tích này thể hiện lòng biết ơn sâu sắc những anh hùng liệt sĩ đã xả thân vì nước, đồng thời góp phần bảo vệ vững chắc và tăng cường công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, luôn đoàn kết yêu thương con người và cuộc sống, xây dựng thành công tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm cho quê hương, đất nước ta ngày càng giàu đẹp như sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng mong muốn.
Đồi Đá Huê được UBND tỉnh Bình Định xếp hạng di tích lịch sử vào ngày 09/11/2012 theo quyết định số 619/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh: Di tích lịch sử Đồi Đá Huê, thuộc xã Canh Thuận, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định.
Đây là niềm tự hào lớn lao của Đảng bộ, chính quyền, dân và quân huyện nhà về truyền thống đấu tranh kiên cường anh dũng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, giành lấy độc lập, tự do cho quê hương, đất nước, đồng thời là niềm vinh dự cao quý, được UBND tỉnh công nhận, xếp hạng di tích góp phần thiết thực có hiệu quả trong việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau./.
|
Giới thiệu khái quát thị xã An Nhơn
. Vị trí địa lý:
Thị xã An Nhơn ở phía nam của tỉnh Bình Định, có toạ độ địa lý 13
0
42 đến 13
0
49 vĩ độ bắc và 109
0
00 đến 109
0
11 kinh độ đông; phía bắc giáp huyện Phù Cát; phía nam giáp huyện Vân Canh và Tuy Phước; phía tây giáp các huyện Tây Sơn và Vân Canh; phía đông giáp huyện Tuy Phước.
2. Đặc điểm khí hậu:
An nhơn thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, được chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 01 đến tháng 8, chịu ảnh hưởng của gió tây và gió tây nam. Từ tháng 5 đến tháng 8 có gió nam khô, nóng. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc. Hằng năm, thường có mưa nhiều vào tháng 10, tháng 11. Tổng số ngày mưa trong năm là 130 ngày, độ ẩm tương đối trung bình 81%. Số giờ nắng trung bình trong năm là 2500 giờ. Số giờ nắng trung bình ngày từ 6-8 giờ. Nhiệt độ trung bình trong năm là 26,8
0
C.
3. Đặc điểm địa hình – thuỷ văn:
Thị xã thuộc vùng đồng bằng của tỉnh Bình Định có xu hướng nghiêng từ tây sang đông với độ dốc không đáng kể, độ cao trung bình là 20m so với mực nước biển. Mạng lưới thuỷ văn tự nhiên phân bố khá đều với mật độ cao. Hệ thống hạ lưu sông Kôn chia thành hai nhánh Nam phái và Bắc phái, tiếp với sông An Tượng chia thành năm nhánh phân bố đều trên địa bàn thị xã, cùng với Hồ Núi Một và mạng lưới kênh mương nhân tạo đã tạo nên cảnh quan đa dạng, thuận lợi cho quy hoạch đầu tư xây dựng và phát triển toàn diện đô thị.
1. Giai đoạn cổ đại:
Từ kết quả nghiên cứu khảo cổ học của Viện khảo cổ học và theo Đại Nam nhất thống chí, Bình Định nói chung và An Nhơn nói riêng thuộc đất Việt Thường Thị được hình thành sớm, tương đương với thời Tam Hoàng, Ngũ Đế của Trung Hoa. Vào đời Tần, đất An Nhơn thuộc Tượng quận, đời Hán đặt huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, đời Tuỳ đổi thành quận Lâm Ấp. Năm 803, An Nhơn là đất của hai thành Chà Bàn và Thị Nại thuộc nước Chiêm Thành.
Năm 938 đến năm 1470, nơi đây là vùng Kinh đô của Vương quốc ChămPa, có thành Đồ Bàn tồn tại 5 thế kỷ, từ thế kỷ XI đến XV. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tháng 4 chiếm thành Đồ Bàn, tháng 7 lập phủ Hoài Nhơn lệ vào Thừa tuyên Quảng Nam. Phủ Hoài Nhơn khi đó có ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. An Nhơn thuộc huyện Tuy Viễn.
2. Giai đoạn phong kiến:
Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn. Phủ thành Quy Nhơn đóng tại thôn Châu Thành, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn ngày nay.
Năm 1778, sau khi giải phóng các vùng đất từ Quản Nam đến Ninh Thuận, nhà Tây Sơn định đô ở An Nhơn, cải tạo và mở rộng thành Đồ Bàn, xây dựng thành Hoàng Đế. An Nhơn trở thành trung tâm chính trị của nhà Tây Sơn khi vua Thái Đức- Nguyễn Nhạc xây dựng thành Hoàng Đế.
Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm thành Hoàng Đế, đổi tên thành là Bình Định. Vua Gia Long lấy thành Bình Định làm trị sở của dinh Bình Định. Năm 1832, vua Minh Mạng lập phủ An Nhơn gồm các huyện Tuy Phước và Tuy Viễn, phủ lỵ An Nhơn đặt tại Hoà Cư, Nhơn Hưng, An Nhơn, đến năm 1852 phủ lỵ dời về An Thái – Nhơn Phúc.
Qua nhiều lần điều chỉnh địa giới và đơn vị hành chính, vào năm 1865, phủ An Nhơn có 4 tổng: Mỹ Đức(19 làng), An Ngãi(26 làng), Nhơn Nghĩa(28 làng), Háo Đức(35 làng). Năm 1939, phủ An Nhơn lập thêm 2 tổng mới, tách tổng Nhơn Nghĩa thành Nhơn Nghĩa Thượng và Nhơn Nghĩa Hạ, tách tổng Háo Đức thành Háo Đức Thượng và Háo Đức Hạ, phủ lỵ An Nhơn di chuyển về phường Bình Định ngày nay.
Trong suốt giai đoạn phong kiến, đất An Nhơn là nơi chứng kiến, ghi dấu ấn sâu sắc của nhiều sự kiện lịch sử, văn hoá lớn của đất nước nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng.
3. Giai đoạn dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược:
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ An Nhơn đổi tên là phủ Nguyễn Trọng Trì, đến tháng 02 năm 1946, đổi phủ thành huyện, bỏ cấp tổng, sáp nhập 108 làng thành 31 xã. Đến tháng 4 năm 1947, huyện An Nhơn được sắp xếp lại thành 12 xã. Năm 1950, tách một phần phía Đông Bắc xã Nhơn Hậu thành lập thêm một đơn vị hành chính là xã Đập Đá.
Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi huyện An Nhơn thành quận An Nhơn có 13 đơn vị hành chính gồm các xã: Đập Đá, Nhơn An, Nhơn Hạnh, Nhơn Phong, Nhơn Hậu, Nhơn Hoà, Nhơn Hưng, Nhơn Khánh, Nhơn Phúc, Nhơn Lộc, Nhơn Mỹ, Nhơn Thành, Nhơn Thọ.
4. Giai đoạn từ 1975 đến nay:
Sau năm 1975, tỉnh Nghĩa Bình được thành lập, quận An Nhơn được đổi thành huyện An Nhơn có 13 xã. Ngày 24/3/1979, Chính phủ có Quyết định số 127-CP thành lập thị trấn Bình Định trên cơ sở tách một phần diện tích xã Nhơn Hưng. Ngày 19/02/1986, Hội đồng Bộ trưởng( này là Chính phủ) có quyết định số 15-HĐBT thành lập xã Nhơn Tân trên cơ sở sáp nhập một phần diện tích của xã Nhơn Thọ và một phần diện tích của xã Nhơn Lộc. Ngày 26/12/1997, Chính phủ có Nghị định số 118/1997/NĐ-CP thành lập thị trấn Đập Đá trên cơ sở xã Đập Đá. Ngày 28/11/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 101/NQ-CP thành lập thị xã An Nhơn và thành lập 5 phường thuộc thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định với tổng diện tích tự nhiên 24.264,36ha, 5 phường thuộc thị xã An Nhơn gồm: Bình Định, Nhơn Hưng, Đập Đá, Nhơn Thành, Nhơn Hoà. Hiện nay, thị xã An Nhơn có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 5 phường nêu trên và 10 xã: Nhơn An, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Khánh, Nhơn Phúc, Nhơn Lộc, Nhơn Tân, Nhơn Thọ.
Qua các thời kỳ lịch sử, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội, dân số thị xã An Nhơn ngày càng đông, mật độ dân cư ngày càng cao. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, An Nhơn chỉ có hơn 70.000 dân; năm 1970, có 117.628 dân; năm 1975, có 133.300 dân, mật độ dân số 611 người/km
2
. Sau hơn 35 năm xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, thị xã An Nhơn có tốc độ đô thị hóa nhanh, dân số hiện nay 178.724 người.
Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế của thị xã liên tục tăng trưởng và phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. cơ sở hạ tầng kỹ thuật – xã hội của thị xã được quan tâm đầu tư. Quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, tạo sự thay đổi tích cực cho bộ mặt đô thị và nông thôn của thị xã. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. Quốc phòng được củng cố, an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Cùng với sự phát triển của cả nước, nhiều năm qua được sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và sự phối hợp giúp đỡ của các Sở, ban, ngành tỉnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã An Nhơn đã phát huy truyền thống tốt đẹp của đất kinh xưa, tinh thần yêu nước và cách mạng, tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế, huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung chỉnh trang đô thị, phát triển kinh tế – xã hội, tạo bộ mặt thị xã An Nhơn mang dáng dấp của một đô thị đang phát triển.
|
General introduction of An Nhon town
. Geographical location:
An Nhon town is in the south of Binh Dinh province, with geographical coordinates 13
0
42 to 13
0
49 north latitude and 109
0
00 to 109
0
11 east longitude; The north borders Phu Cat district; The south borders Van Canh and Tuy Phuoc districts; the west borders Tay Son and Van Canh districts; The east borders Tuy Phuoc district.
2. Climate characteristics:
An Nhon belongs to the tropical climate zone, divided into two distinct seasons. The dry season is from January to August, influenced by west and southwest winds. From May to August there is hot, dry south wind. The rainy season from September to December is influenced by the northeast monsoon. Every year, there is usually a lot of rain in October and November. The total number of rainy days in the year is 130 days, the average relative humidity is 81%. The average number of sunshine hours in a year is 2500 hours. The average number of sunshine hours per day is 6-8 hours. The average temperature during the year is 26.8
0
C.
3. Topographic and hydrological characteristics:
The town in the delta of Binh Dinh province tends to tilt from west to east with a negligible slope, with an average height of 20m above sea level. The natural hydrological network is quite evenly distributed with high density. The Kon River downstream system is divided into two branches, the Southern and Northern branches, followed by the An Tuong River divided into five branches evenly distributed throughout the town, along with Nui Mot Lake and a network of artificial canals that have created a beautiful landscape. Diverse landscapes, favorable for construction investment planning and comprehensive urban development.
1. Ancient period:
From the archaeological research results of the Institute of Archeology and according to Dai Nam Nhat Thong Chi, Binh Dinh in general and An Nhon in particular belonged to Viet Thuong Thi land, which was formed early, equivalent to the period of the Three Emperors and Five Emperors of Chinese. During the Qin dynasty, An Nhon land belonged to Tuong district, the Han dynasty placed Tuong Lam district under Nhat Nam district, and the Tuy dynasty changed it to Lam Ap district. In 803, An Nhon was the land of two citadels: Cha Ban and Thi Nai in Champa country.
From 938 to 1470, this place was the capital of the Champa Kingdom, with Do Ban citadel that existed for 5 centuries, from the 11th to 15th centuries. In 1471, King Le Thanh Tong occupied Do Ban citadel in April and established Hoai Nhon Le palace in Thua Tuyen Quang Nam in July. Hoai Nhon Phu at that time had three districts: Bong Son, Phu Ly and Tuy Vien. An Nhon belongs to Tuy Vien district.
2. Feudal period:
In 1602, Lord Nguyen Hoang changed Hoai Nhon palace into Quy Nhon palace. Quy Nhon citadel was located in Chau Thanh village, Nhon Thanh ward, An Nhon town today.
In 1778, after liberating the lands from Quan Nam to Ninh Thuan, the Tay Son dynasty settled the capital in An Nhon, renovated and expanded Do Ban citadel, and built Hoang De citadel. An Nhon became the political center of the Tay Son Dynasty when King Thai Duc - Nguyen Nhac built the Emperor Citadel.
In 1799, Nguyen Anh captured Hoang De citadel and renamed it Binh Dinh. King Gia Long took Binh Dinh citadel as the headquarters of Binh Dinh palace. In 1832, King Minh Mang established An Nhon palace including Tuy Phuoc and Tuy Vien districts. An Nhon palace was located in Hoa Cu, Nhon Hung, An Nhon. In 1852, the palace moved to An Thai - Nhon Phuc.
Through many adjustments of boundaries and administrative units, in 1865, An Nhon district had 4 communes: My Duc (19 villages), An Ngai (26 villages), Nhon Nghia (28 villages), Hao Duc (35 villages). ). In 1939, An Nhon district established two new cantons, separating Nhon Nghia canton into Nhon Nghia Thuong and Nhon Nghia Ha, separating Hao Duc canton into Hao Duc Thuong and Hao Duc Ha, An Nhon prefecture moved to present-day Binh Dinh ward. .
During the feudal period, An Nhon land was the place to witness and deeply mark many major historical and cultural events of the country in general and Binh Dinh province in particular.
3. Period under the French colonial regime and American imperialist invasion:
After the August Revolution of 1945, An Nhon government was renamed Nguyen Trong Tri government. In February 1946, the government was changed to a district, abolished the general level, and merged 108 villages into 31 communes. By April 1947, An Nhon district was rearranged into 12 communes. In 1950, a part of the Northeast of Nhon Hau commune was separated to establish an additional administrative unit, Dap Da commune.
After 1954, the Ngo Dinh Diem government changed An Nhon district into An Nhon district with 13 administrative units including communes: Dap Da, Nhon An, Nhon Hanh, Nhon Phong, Nhon Hau, Nhon Hoa, Nhon Hung, Nhon Khanh , Nhon Phuc, Nhon Loc, Nhon My, Nhon Thanh, Nhon Tho.
4. Period from 1975 to present:
After 1975, Nghia Binh province was established, An Nhon district was changed to An Nhon district with 13 communes. On March 24, 1979, the Government issued Decision Không. 127-CP to establish Binh Dinh town on the basis of separating part of the area of Nhon Hung commune. On February 19, 1986, the Council of Ministers (this is the Government) issued Decision Không. 15-HDBT to establish Nhon Tan commune on the basis of merging part of the area of Nhon Tho commune and part of the area of Nhon commune. Loc. On December 26, 1997, the Government issued Decree Không. 118/1997/ND-CP establishing Dap Da town on the basis of Dap Da commune. On November 28, 2011, the Government issued Resolution Không. 101/NQ-CP establishing An Nhon town and establishing 5 wards in An Nhon town, Binh Dinh province with a total natural area of 24,264.36 hectares. Wards of An Nhon town include: Binh Dinh, Nhon Hung, Dap Da, Nhon Thanh, Nhon Hoa. Currently, An Nhon town has 15 administrative units, including the 5 wards mentioned above and 10 communes: Nhon An, Nhon Phong, Nhon Hanh, Nhon Hau, Nhon My, Nhon Khanh, Nhon Phuc, Nhon Loc, Nhon Tan, Nhon Tho.
Through historical periods, along with socio-economic development, the population of An Nhon town is increasingly large and the population density is increasingly high. Before the August Revolution of 1945, An Nhon had just over 70,000 residents; in 1970, there were 117,628 people; In 1975, there were 133,300 inhabitants, population density of 611 people/km
2
. After more than 35 years of construction and socio-economic development, An Nhon town has a rapid urbanization rate, with a current population of 178,724 people.
After more than 25 years of implementing the country's renovation, the town's economy has continuously grown and developed, the economic structure has shifted in a positive direction. The town's technical and social infrastructure receives investment attention. The urbanization process is taking place strongly, creating positive changes for the urban and rural appearance of the town. The material and spiritual life of the people is constantly improving. National defense is strengthened, security - politics, social order and safety are maintained.
Along with the development of the whole country, over the years, we have received the attention of the Government, ministries, central branches, Provincial Party Committee, People's Council, Provincial People's Committee and the coordination and help of provincial departments, branches, branches, and the Party. The Ministry, government and people of An Nhon town have promoted the fine traditions of the ancient capital, the spirit of patriotism and revolution, focused on exploiting potentials and advantages, mobilizing all resources, promoting construction. Build infrastructure, focus on urban embellishment, socio-economic development, creating the appearance of An Nhon town with the appearance of a developing urban area.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tuy Phước
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Điều kiện tự nhiên:
Tuy Phước là huyện đồng bằng lớn ở phía nam tỉnh Bình Định, có diện tích 217,12 km
2
, dân số 180.382 người. Về địa hình, phía bắc và tây bắc Tuy Phước giáp huyện Phù Cát, An Nhơn; Đông giáp biển; nam giáp TP.Quy Nhơn; Tây giáp huyện Vân Canh. Cuối năm 1975, Vân Canh và Tuy Phước hợp thành huyện Phước Vân, đến tháng 8-1981 thì tách trở lại như cũ. Trước năm 1975, Tuy Phước có 12 xã, sau nhiều lần thay đổi, hiện nay có 11 xã và 02 thị trấn là: xã Phước Nghĩa, Phước Hòa, Phước Thắng, Phước Quang, Phước Hưng, Phước Hiệp, Phước Thuận, Phước Sơn, Phước Lộc, Phước An, Phước Thành, thị trấn Tuy Phước (trước đây thuộc Phước Nghĩa), thị trấn Diêu Trì (trước đây là xã Phước Long). Nằm bên đầm Thị Nại, có sông Kôn, sông Hà Thanh chảy qua, có quốc lộ 1A, QL 19, đường sắt Bắc – Nam chạy ngang qua, Tuy Phước có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
Địa hình Tuy Phước chia thành 3 khu vực rõ rệt: các xã phía Tây Nam (gồm Phước Thành, Phước An) có tiềm năng rất lớn về đất sản xuất cây công nghiệp, song chưa được khai thác hết; các xã khu Đông (Phước Hòa, Phước Thắng, Phước Thuận, Phước Sơn) với thế mạnh về cây lúa và thủy sản, là khu vực đầy tiềm năng kinh tế của huyện; và các xã còn lại là vùng chuyên canh cây lúa.
Truyền thống cách mạng:
Tuy Phước là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nhân dân Tuy Phước sớm có mặt trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Từ phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX cho đến các phong trào đòi dân sinh, dân chủ những năm 1936-1939, phong trào chống Nhật, Pháp và giành chính quyền 1939-1945, Tuy Phước đã đóng góp vào công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm của dân tộc với những tên tuổi như: Đào Doãn Địch, Lê Tuyên, Võ Trứ… Đặc biệt, sự ra đời của chi bộ Đềpô Diêu Trì vào tháng 9-1939 – chi bộ cộng sản đầu tiên của công nhân Diêu Trì cũng như toàn ngành đường sắt Bình Định do đồng chí Nguyễn Đình Thụ làm bí thư – đã đánh dấu bước trưởng thành của phong trào công nhân xe lửa Diêu Trì và ghi nhận sự phát triển vượt bậc phong trào cách mạng của nhân dân Tuy Phước.
Trong kháng chiến chống Mỹ, với điều kiện của vùng ven đô, bất chấp máy chém và bom đạn tàn khốc, biết bao khó khăn và tổn thất tưởng chừng không gượng nổi, Tuy Phước từ tay không vùng lên diệt ác phá ấp chiến lược, không chỉ dẫn đầu trong phong trào Đồng Khởi mở màn ở đồng bằng Bình Định mà còn đi đầu trong cuộc đọ sức quyết liệt với quân Mỹ và chư hầu. Khu Đông Tuy Phước là căn cứ địa vững chắc, là nơi xuất phát những đội trinh sát, đặc công hoạt động ở nội thành Quy Nhơn. Trong thời kỳ này đã xuất hiện những tấm gương chiến đấu ngoan cường và lập công xuất sắc, đó là các liệt sĩ: Đào Thị Hoa, Nguyễn Thị Danh, Lê Đình Long…
Và bây giờ, khi chiến tranh lùi xa, Tuy Phước đã và đang trong cuộc hành trình tiến về phía trước với rất nhiều cơ hội và thử thách
Vùng đất văn hóa – Lịch sử:
Không chỉ được biết đến với những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, huyện Tuy phước còn là mảnh đất lưu giữ nhiều giá trị văn hoá – lịch sử vô cùng quý giá. Đây là vùng đất khoa cử, nơi sinh dưỡng nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng học rộng tài cao và đức độ, như Lê Công Miễn (nhà Tây Sơn); Đào Doãn Dịch, Lê Tuyên, Võ Trứ (phong trào Cần Vương)… và cũng là nơi sinh thành của nhiều nhà văn hoá lớn, như nhà thơ Xuân Diệu, danh nhân văn hoá Đào Tấn.
Đến nay những di tích văn hoá – lịch sử còn lại trên đất Tuy Phước khá đa dạng, phong phú, từ tháp Bình Lâm, tháp Bánh ít, thành Thị Nại, di tích Đô Thị Nước Mặn… đến những điệu dân ca bài chòi, những vở tuồng cổ. Sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá Chămpa đặc sắc với nền văn hoá hiện đại đã tạo nên vẻ đẹp thâm trầm mà quyến rủ cho mảnh đất này. Với những lợi thế trên, tuy Phước chủ trương giữ gìn và khôi phục những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, không chỉ cho các thế hệ con cháu mai sau mà còn góp phần thúc đấy sự phát triển của ngành du lịch, mở ra hướng đi đầy tiềm năng cho địa phương.
|
General introduction of Tuy Phuoc district
DEVELOPMENT HISTORY
Natural condition:
Tuy Phuoc is a large delta district in the south of Binh Dinh province, with an area of 217.12 km2
2
, population 180,382 people. In terms of terrain, the north and northwest of Tuy Phuoc borders Phu Cat and An Nhon districts; East borders the sea; The south borders Quy Nhon City; The West borders Van Canh district. At the end of 1975, Van Canh and Tuy Phuoc merged to form Phuoc Van district, and in August 1981, they separated again. Before 1975, Tuy Phuoc had 12 communes, after many changes, now there are 11 communes and 02 towns: Phuoc Nghia, Phuoc Hoa, Phuoc Thang, Phuoc Quang, Phuoc Hung, Phuoc Hiep, Phuoc Thuan, Phuoc communes. Son, Phuoc Loc, Phuoc An, Phuoc Thanh, Tuy Phuoc town (formerly belonging to Phuoc Nghia), Dieu Tri town (formerly Phuoc Long commune). Located next to Thi Nai lagoon, with the Kon River and Ha Thanh River flowing through, National Highway 1A, Highway 19, and the North-South railway running across, Tuy Phuoc has favorable conditions for economic development.
Tuy Phuoc's terrain is divided into 3 distinct areas: the southwest communes (including Phuoc Thanh and Phuoc An) have great potential for land for industrial crop production, but have not been fully exploited; Eastern communes (Phuoc Hoa, Phuoc Thang, Phuoc Thuan, Phuoc Son) with strengths in rice and fisheries, are areas full of economic potential of the district; and the remaining communes are areas specializing in rice cultivation.
Revolutionary tradition:
Although Phuoc is a land rich in revolutionary tradition, the people of Tuy Phuoc were soon present in the struggle against the French colonialists. From the Can Vuong movement at the end of the 19th century to the movements demanding people's livelihood and democracy in the years 1936-1939, and the movement against Japan and France and seizing power in 1939-1945, Tuy Phuoc contributed to the process of expelling foreign invaders of the nation with names such as: Dao Doan Dich, Le Tuyen, Vo Tru... In particular, the birth of Depo Dieu Tri cell in September 1939 - the first communist cell of Dieu workers Tri as well as the entire Binh Dinh railway industry with comrade Nguyen Dinh Thu as secretary - marked the maturity of the Dieu Tri train workers' movement and recorded the outstanding development of the revolutionary movement of the Tuy people. Phuoc.
During the resistance war against the US, with the conditions of the peri-urban area, despite the guillotines and devastating bombs, countless difficulties and losses that seemed unbearable, Tuy Phuoc rose from nothing to destroy the evil and destroy the strategic hamlet. , not only took the lead in the Dong Khoi movement that opened in the Binh Dinh Delta but also took the lead in the fierce confrontation with the American army and vassals. The Eastern Tuy Phuoc area is a solid base, the starting point for reconnaissance and special forces teams operating in the inner city of Quy Nhon. During this period, examples of tenacious fighting and outstanding achievements appeared, such as martyrs: Dao Thi Hoa, Nguyen Thi Danh, Le Dinh Long...
And now, as the war recedes, Tuy Phuoc has been on a journey forward with many opportunities and challenges.
Land of culture and history:
Not only known for its rice fields, Tuy Phuoc district is also a land that preserves many extremely valuable cultural and historical values. This is the land of academics, where many famous academicians of great learning, talent and virtue are nurtured, such as Le Cong Mien (Tay Son dynasty); Dao Doan Dich, Le Tuyen, Vo Tru (Can Vuong movement)... and is also the birthplace of many great cultural figures, such as poet Xuan Dieu, cultural celebrity Dao Tan.
Up to now, the remaining cultural and historical relics on Tuy Phuoc land are quite diverse and rich, from Binh Lam tower, Banh It tower, Thi Nai citadel, Nuoc Man Urban relics... to Bai Choi folk songs. , ancient operas. The harmonious combination between the unique Champa culture and modern culture has created a profound and captivating beauty for this land. With the above advantages, Phuoc advocates preserving and restoring tangible and intangible cultural heritage, not only for future generations but also to contribute to promoting the development of the tourism industry. , opening up potential directions for the locality.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Quy Nhơn
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Thành phố Quy Nhơn nằm ở phía đông nam của tỉnh Bình Định, phía đông là biển Đông, phía tây giáp huyện Tuy Phước, phía bắc giáp huyện Tuy Phước và huyện Phù Cát, phía nam giáp thị xã Sông Cầu của tỉnh Phú Yên
Quy Nhơn nằm trong phạm vi tọa độ từ 13°36′ đến 13°54′ vĩ Bắc, từ 109°06′ đến 109°22′ kinh Đông, cách Hà Nội 1.065 km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 400 dặm về phía Nam,cách thành phố Pleiku (Tây Nguyên) 105 dặm.Cách Đà Nẵng 195 dặm,cách Huế 247 dặm ,cách Nha Trang 130 dặm ,cách Tuy Hòa 62 dặm và cách Quảng Ngãi 109 dặm.
TỰ NHIÊN – THIÊN NHIÊN
Địa hình – Khí hậu
Địa hình: Quy Nhơn có nhiều thế đất khác nhau, đa dạng về cảnh quan địa lí như núi rừng, gò đồi, đồng ruộng, ruộng muối, bãi, đầm, hồ, sông ngòi, biển, bán đảo và đảo. Bờ biển Quy Nhơn dài 42 km, diện tích đầm, hồ nước lợ lớn, tài nguyên sinh vật biển phong phú, có nhiều loại đặc sản quý, có giá trị kinh tế cao… Các ngành kinh tế chính của thành phố gồm công nghiệp, thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ cảng biển, nuôi và khai thác thuỷ hải sản, du lịch. Vừa mở thêm khu kinh tế Nhơn Hội.
Khí hậu: Quy Nhơn có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 3 – 9, mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau; nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 24,5 độ C. Có diện tích tự nhiên 216km 2 .
Tài nguyên thiên nhiên
Quy Nhơn được biết đến như một thành phố giàu tài nguyên thiên nhiên: về tài nguyên đất có bán đảo Phương Mai với diện tích 100km, đầm Thị Nại 50km (trong đó: Quy Nhơn 30km, huyện Tuy Phước 20km), có trên 20.000ha rừng. Khoáng sản quặng titan (xã Nhơn Lý), đá granít (Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân), có ngư trường rộng, đa loài và nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao; đặc sản có yến sào (sản lượng đứng sau tỉnh Khánh Hòa). Nguồn nước ngầm với trữ lượng khá lớn (dọc lưu vực sông Hà Thanh và bán đảo Phương Mai) bảo đảm cung cấp nước sạch cho thành phố
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN
Quy Nhơn được hình thành từ rất sớm thuộc vùng đất đàng trong xứ Thuận Quảng: cách đây trên 400 năm đã xuất hiện phủ Quy Nhơn. Do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội và tác động của sự phát triển nền công nghiệp phương Tây vào thế kỷ 19 làm cho diện mạo Quy Nhơn có nhiều thay đổi. Ngày 20/10/1898, vua Thành Thái ra Chỉ dụ thành lập thị xã Quy Nhơn, đô thị tỉnh lỵ, là một trong những đô thị có hoạt động thương mại với nước ngoài khá sầm uất lúc bây giờ.
Trước thế kỷ X, nơi đây là vùng đất của cư dân cổ thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh và Đông Sơn nổi tiếng và sau đó là đất đế đô của Vương quốc Chăm pa. Theo dòng biến đổi của lịch sử, năm 1471 vua Lê Thánh Tông đã cho thành lập phủ Hoài Nhơn bao gồm ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó trở đi, đây là nơi gặp gỡ nhiều thời kỳ di dân của người Việt theo chân các chúa Nguyễn đi mở mang, khai phá bờ cõi và tụ cư sinh sống ở phía Nam, trong đó vùng đất của thành phố Quy Nhơn ngày nay, người Việt cũng đã đến định cư, lập nên các làng Chánh Thành, Cẩm Thượng, Hưng Thạnh, Xuân Quang, Quy Hòa…và thành lập thôn Vĩnh Khánh có địa giới giáp đến chân núi Cù Mông. Đến năm 1602, cách đây 406 năm, lần đầu tiên trong lịch sử, địa danh Quy Nhơn xuất hiện khi chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn và coi đây là đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Tên gọi mới này có ý nghĩa mong muốn quy tụ về đây những con người hiền tài, nhân nghĩa. Qua 5 lần thay đổi tên gọi khác nhau, năm 1832 vua Minh Mạng đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành tỉnh Bình Định cho đến ngày nay. Ngày 20 tháng 10 năm 1898, Viện Cơ mật Triều đình Huế trình vua Thành Thái ra Chỉ dụ thành lập thị xã Quy Nhơn. Như vậy, thành phố Quy Nhơn ngày nay đã có hơn 110 năm với tư cách là đô thị tỉnh lỵ – trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Định.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều công trình mới được mọc lên như: trường học, bệnh viện, khách sạn, công sở, nhà hát, toà giám mục, hệ thống giao thông đường sắt, nhà ga… Do đó, trong 3 thập niên đầu của thế kỷ XX, Quy Nhơn nhanh chóng được đô thị hóa và trở thành một đô thị lớn ở khu vực. Ngày 30/4/1930, toàn quyền Đông Dương Pas-ki-ơ đã ra Nghị định nâng cấp thị xã Quy Nhơn lên thành phố cấp 3. Đây là một trong những đô thị ở nước ta thời bấy giờ đạt tiêu chuẩn cả về phương diện hành chính lẫn kinh tế, văn hóa.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ngày 03/9/1945 Quy Nhơn được tổ chức theo quy chế thị xã, lấy tên là thị xã Nguyễn Huệ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Quy Nhơn là hậu phương của chiến trường Khu V và Tây Nguyên. Năm 1954 Quy Nhơn đã từng là điểm tập kết 300 ngày đêm, tiễn đưa bộ đội, cán bộ thuộc nhiều vùng ở miền Nam và con em của mình tập kết ra miền Bắc; là nơi bàn giao cuối cùng giữa ta và Pháp. Thời kỳ 1954 – 1975, Quy Nhơn thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ngày 30/9/1970, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa ra Sắc lệnh thành lập thị xã Quy Nhơn từ xã Quy Nhơn thuộc quận Tuy Phước và các phần đất phụ cận (ngoại vi xã Phước Hậu, Phước Hải, Phước Lý), hình thành 2 quận là Nhơn Bình và Nhơn Định.
Sau ngày đất nước thống nhất, tháng 02/1976 hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi hợp nhất thành Nghĩa Bình, thị xã Quy Nhơn trở thành tỉnh lỵ tỉnh Nghĩa Bình. Ngày 18/6/1986 Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định mở rộng và nâng cấp Thị xã lên Thành phố thuộc tỉnh, khi đó thành phố Quy Nhơn có 8 phường, 7 xã, với diện tích 212 km² và dân số 174.076 người. Năm 1989, tỉnh Bình Định được tái lập, lấy thành phố Quy Nhơn làm tỉnh lỵ.
Ngày 4/7/1998, thành phố Quy Nhơn được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II theo Quyết định số 558/QĐ-TTG.
Ngày 25/01/2010, thành phố Quy Nhơn được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định theo Quyết định số 159/QĐ-TTG
|
General introduction to Quy Nhon city
GEOGRAPHICAL LOCATION
Quy Nhon city is located in the southeast of Binh Dinh province, to the east is the East Sea, to the west is Tuy Phuoc district, to the north is Tuy Phuoc district and Phu Cat district, to the south is Song Cau town of Phu Yen province.
Quy Nhon is located within the coordinate range from 13°36′ to 13°54′ North latitude, from 109°06′ to 109°22′ East longitude, 1,065 km north of Hanoi, 400 km from Ho Chi Minh City. miles south, 105 miles from Pleiku city (Central Highlands). 195 miles from Da Nang, 247 miles from Hue, 130 miles from Nha Trang, 62 miles from Tuy Hoa and 109 miles from Quang Ngai.
NATURAL – NATURE
Terrain – Climate
Terrain: Quy Nhon has many different landforms, diverse geographical landscapes such as mountains, forests, hills, fields, salt fields, beaches, lagoons, lakes, rivers, seas, peninsulas and islands. Quy Nhon's coastline is 42 km long, with a large area of lagoons and brackish lakes, rich marine resources, and many types of precious specialties with high economic value... The city's main economic sectors include industry. , trade, import and export, seaport services, seafood farming and exploitation, tourism. Just opened Nhon Hoi economic zone.
Climate: Quy Nhon has 2 distinct seasons: dry season from March to September, rainy season from October to February of the following year; The average annual temperature is about 24.5 degrees Celsius. It has a natural area of 216km2.
Natural resources
Quy Nhon is known as a city rich in natural resources: in terms of land resources, there is Phuong Mai peninsula with an area of 100km2, Thi Nai lagoon of 50km (of which: Quy Nhon 30km, Tuy Phuoc district 20km), with over 20,000 hectares of forest. Titanium ore minerals (Nhon Ly commune), granite (Tran Quang Dieu, Bui Thi Xuan), large fishing grounds, multi-species and many types of seafood with high economic value; Specialties include bird's nest (output second to Khanh Hoa province). Underground water sources with large reserves (along the Ha Thanh river basin and Phuong Mai peninsula) ensure clean water supply for the city.
HISTORY OF FORMATION & DEVELOPMENT
Quy Nhon was formed very early in the land of Thuan Quang: over 400 years ago, Quy Nhon palace appeared. Due to its geographical location, natural and social conditions and the impact of the development of Western industry in the 19th century, the appearance of Quy Nhon has many changes. On October 20, 1898, King Thanh Thai issued an Edict to establish Quy Nhon town, the provincial capital, which is one of the urban areas with quite busy foreign trade activities at present.
Before the 10th century, this place was the land of ancient residents of the famous Sa Huynh and Dong Son cultures and later was the imperial capital of the Champa Kingdom. Following the changes of history, in 1471 King Le Thanh Tong established Hoai Nhon government including three districts: Bong Son, Phu Ly and Tuy Vien. From then on, this was the meeting place for many periods of Vietnamese migration following the Nguyen lords to expand, explore the territory and settle in the South, in which the land of Quy Nhon city today Nowadays, Vietnamese people have also settled down, establishing the villages of Chanh Thanh, Cam Thuong, Hung Thanh, Xuan Quang, Quy Hoa... and establishing Vinh Khanh village with boundaries bordering the foot of Cu Mong mountain. In 1602, 406 years ago, for the first time in history, the name Quy Nhon appeared when Lord Nguyen Hoang changed the name of Hoai Nhon government to Quy Nhon government and considered it a provincial administrative unit.
This new name means the desire to gather here talented and benevolent people. Through 5 different name changes, in 1832 King Minh Mang changed the name of Quy Nhon district to Binh Dinh province until today. On October 20, 1898, the Hue Court Privy Council presented King Thanh Thai with an Edict establishing Quy Nhon town. Thus, Quy Nhon city today has had more than 110 years as the provincial capital - the political, economic, cultural, scientific and technical center of Binh Dinh province.
At the beginning of the 20th century, many new projects sprung up such as schools, hospitals, hotels, offices, theaters, bishop's palaces, railway transportation systems, stations... Therefore, in 3 decades In the early twentieth century, Quy Nhon was quickly urbanized and became a large city in the region. On April 30, 1930, the Governor-General of Indochina Paskie issued a Decree upgrading Quy Nhon town to a level 3 city. This was one of the urban areas in our country at that time that met standards in both terms and conditions. administrative, economic and cultural aspects.
After the August Revolution of 1945, on September 3, 1945, Quy Nhon was organized according to town regulations, named Nguyen Hue town. During the resistance war against the French colonialists, Quy Nhon was the rear of the battlefields of Region V and the Central Highlands. In 1954, Quy Nhon was a gathering point for 300 days and nights, sending off soldiers and officers from many regions in the South and their children to the North; is the final handover place between us and France. During the period 1954 - 1975, Quy Nhon was under the control of the Republic of Vietnam government. On September 30, 1970, the Prime Minister of the Republic of Vietnam issued a Decree establishing Quy Nhon town from Quy Nhon commune of Tuy Phuoc district and neighboring lands (periphery of Phuoc Hau, Phuoc Hai, Phuoc Ly communes), forming 2 districts: Nhon Binh and Nhon Dinh.
After the country's unification, in February 1976, the two provinces of Binh Dinh and Quang Ngai merged to form Nghia Binh, Quy Nhon town became the provincial capital of Nghia Binh province. On June 18, 1986, the Council of Ministers decided to expand and upgrade the Town to a Provincial City. At that time, Quy Nhon city had 8 wards and 7 communes, with an area of 212 km² and a population of 174,076 people. . In 1989, Binh Dinh province was re-established, taking Quy Nhon city as the provincial capital.
On July 4, 1998, Quy Nhon city was recognized by the Prime Minister as a class II urban area according to Decision Không. 558/QD-TTG.
On January 25, 2010, Quy Nhon city was recognized by the Prime Minister as a class I urban area under Binh Dinh province according to Decision Không. 159/QD-TTG
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Giáo
Phú Giáo là một huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bình Dương, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70km. Phía Đông giáp huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Bến Cát (Bình Dương), phía Nam giáp huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương), phía Bắc giáp huyện Đồng Phú (Bình Phước).
Thuở xa xưa, vùng đất có tên gọi Phú Giáo ngày nay là một nơi hoang vu thuộc xứ Đồng Nai. Trong suốt chặng đường lịch sử, tổ chức hành chính của huyện Phú Giáo thường xuyên có nhiều biến động. Cho đến ngày 20 tháng 8 năm 1999, Chính Phủ quyết định tái lập huyện Phú Giáo với diện tích tự nhiên 53,861 km
2
, dân số 58.505 người, với nhiều thành phần dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Mường, Thái … đông nhất là dân tộc Khơme.
Với điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi, nằm trên địa hình đồi thoải lượn sóng và các dải đất hẹp ven Sông Bé, đất có độ cao trung bình thấp và tương đối bằng phẳng. Đất Phú Giáo chủ yếu là đất bazan xám rất thích hợp cho các cây công nghiệp như: cao su, điều, tiêu và các loại cây ăn quả. Riêng dải đất ven Sông Bé là đất phù xa mới, trồng lúa và các loại rau đậu tốt. Khí hậu Phú Giáo ôn hòa, mỗi năm có 2 mùa, 6 tháng mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4) và 6 tháng mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10). Nhiệt độ trung bình tử 26°C đến 34°C. Lượng mưa trung bình trên địa bàn huyện là 1947,7 mm. Số ngày mưa trung bình là 163 ngày trong năm. Không khí có độ ẩm cao.
Nhìn chung, đất đai, khí hậu và sông suối của huyện Phú Giáo rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp và ngành này đang trở thành một thế mạnh của huyện. Tính đến nay, toàn huyện có hơn 500 trang trại chăn nuôi, trồng trọt, tạo lợi thế đưa nền nông nghiệp của huyện đi lên theo hướng sản xuất lớn.
Đặc biệt với tuyến đường giao thông ĐT 741 nối thành phố Thủ Dầu Một (Bình Dương) với thị xã Đồng Xoài (Bình Phước) tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của địa phương. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 12,44%, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đúng hướng, trong đó ngành nông nghiệp – lâm nghiệp chiếm 40%; công nghiệp – xây dựng 31,9%; thương mại dịch vụ 28,1%. Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2014 đạt 34,5 triệu đồng/ người/năm. Lưới điện quốc gia phủ kín 70/70 khu, ấp với tỷ hộ sử dụng điện đạt 99,8%, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh đạt 100%. Toàn huyện có 31/37 trường công lập các bậc học đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ kệ 83,8%.
Vùng đất Phú Giáo mặc dù là vùng sâu vùng xa của tỉnh Bình Dương nhưng từ khi thành lập đến nay Chính quyền và nhân dân huyện Phú Giáo không ngừng nỗ lực phấn đấu về mọi mặt. Nhìn lại chặng đường đã đi qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Phú Giáo có quyền tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất. Luôn sáng tạo trong cả thời chiến cũng như thời bình góp phần quan trọng cho sự phát triển của tỉnh Bình Dương và Phú Giáo cũng đang từng bước đi lên xây dựng quê hương trong thời kỳ mới, thời kỳ cùng cả nước mở cửa hội nhập khu vực và thế giới.
Phú Giáo là một huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bình Dương, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70km. Phía Đông giáp huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Bến Cát (Bình Dương), phía Nam giáp huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương), phía Bắc giáp huyện Đồng Phú (Bình Phước).
Thuở xa xưa, vùng đất có tên gọi Phú Giáo ngày nay là một nơi hoang vu thuộc xứ Đồng Nai “rừng rậm hàng nghìn dặm” (theo Lê Qúy Đôn – Phủ biên tạp lục). Cuối thế kỷ XVII nhà Nguyễn cử quan lại vào tổ chức chính quyền phân chia vùng đất mới thành các phiên, trấn. Đất Phú Giáo lúc đó nằm trong trấn Biên Hòa, sau đổi thành tỉnh Biên Hòa. Năm 1858 Pháp xâm lược Việt Nam, chia Biên Hòa thành 3 tỉnh, Phú Giáo khi ấy thuộc huyện Tân Uyên tỉnh Biên Hòa. Đến năm 1954, Mỹ thay chân Pháp chiếm Miền Nam Việt Nam, Mỹ tiến hành phân nhỏ các tỉnh và Biên Hòa lại được chia thành 3 tỉnh: Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long. Vùng đất Phú Giáo nằm trong các huyện Tân Uyên và Đôn Luân (tức Đồng Xoài) của 2 tỉnh Biên Hòa và Phước Long.
Năm 1959, phong trào đấu tranh chống Mỹ và chế độ ngụy quyền phát triển mạnh. Tháng 11/1959, ngụy quyền cắt một phần đất Tân Uyên (Biên Hòa) lập thành một tỉnh mới mang tên Phước Thành. Tỉnh Phước Thành gồm 3 quận: Tân Uyên, Phú Giáo, Hiếu Liêm. Đến lúc này cái tên Phú Giáo mới bắt đầu xuất hiện. Khi đó Phú Giáo chỉ có 5 xã: Phước Hòa, Bình Mỹ, Tân Bình, Vĩnh Hòa, Vĩnh Tân. Sau trận tấn công tỉnh lỵ Phước Thành ngụy quyền ngày càng trở nên rệu rã, năm 1965 ngụy quyền đã giải thể tỉnh Phước Thành. Quận Phú Giáo được đưa trở lại quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa.
Về phía cách mạng, trước năm 1951, tổ chức hành chính các tỉnh, huyện được phân chia tương ứng với tổ chức hành chính của chính quyền thực dân Pháp. Tuy vậy, vùng đất Phú Giáo vẫn có một số thay đổi. Sau tháng 5 năm 1951, Uỷ Ban kháng chiến hành chính Nam Bộ thành lập những tỉnh mới trên cơ sở sát nhập một số tỉnh. Vùng đất Phú Giáo thuộc tỉnh Thủ Biên (gồm Thủ Dầu Một và Biên Hòa). Tháng 7 năm 1951, tỉnh Thủ Biên thành lập huyện mới lấy tên là Đồng Nai, các xã của huyện Phú Giáo thuộc huyện Đồng Nai. Năm 1955, để phù hợp với tình hình đấu tranh sau Hiệp định Giơnevơ, xứ ủy Nam Bộ tách tỉnh Thủ Biên thành hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa, vùng đất Phú Giáo thuộc tỉnh Biên Hòa.
Đến năm 1959, Phú Giáo chuyển về tỉnh Thủ Dầu Một. Năm 1961 Trung ương cục thành lập tỉnh Phước Thành gồm 2 huyện Tân Uyên 1 và Tân Uyên 2, sau đổi thành Phú Giáo và Tân Uyên. Huyện Phú Giáo gồm 8 xã: An Linh, An Long, Phước Sang, Phước Hòa Sở, Phước Hòa xã, Phước Vĩnh, Tân Bình và Lai Uyên.
Tháng 11/1966 do nhu cầu tập trung lực lượng đối phó với “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, Trung ương Cục quyết định giải thể tỉnh Phước Thành. Huyện Phú Giáo trực thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Năm 1968 Phú Giáo sát nhập trở lại huyện Tân Uyên. Đến năm 1969, Phú Giáo lại tách ra khỏi Tân Uyên để trở thành một huyện riêng.
Ngày 1/9/1973, sau Hiệp định Pari, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền Nam thành lập một tỉnh căn cứ lớn phía Bắc Sài Gòn, lấy tên là Tân Phú. Tỉnh Tân Phú gồm: Phú Giáo và Tân Uyên. Huyện Phú Giáo được tái lập gồm 9 xã (Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa, Phước Vĩnh, Lai Uyên, An Long, An Linh, Vĩnh Hòa, Phước Sang).
Sau ngày giải phóng, toàn huyện có 14 xã và thị trấn gồm: Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa, Tân Hưng 1, Tân Hưng 2, An Bình, Tân Long, Hưng Hòa, Lai Uyên, An Long, An Linh, Tân Hiệp, Phước Sang và Phước Vĩnh.
Do yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, quốc phòng, ngày 2/7/1976, các xã phía bắc Sông Bé thuộc huyện Phú Giáo được sát nhập về Đồng Xoài (sau đổi thành huyện Đồng Phú). Các xã Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa và Tân Hưng II của Phú Giáo thuộc huyện Tân Châu (Tân Uyên và Châu Thành). Các xã Tân Hưng 1, Lai Uyên phía Tây của Phú Giáo chuyển về Bến Cát.
Ngày 20/8/1999 Chính Phủ quyết định tái lập huyện Phú Giáo lần thứ hai. Lúc này Phú Giáo gồm 8 xã và một thị trấn gồm: An Bình, An Linh, An Long, Tân Long, Tân Hiệp, Phước Sang, Phước Hòa, Vĩnh Hòa và Thị trấn Phước Vĩnh. Năm 2004, xã Vĩnh Hòa được tách ra một phần, thành lập xã mới có tên là Tam Lập. Năm 2005 thêm một xã mới ra đời là An Thái, tách ra từ xã An Linh. Đến năm 2015 huyện Phú Giáo có 10 xã và một thị trấn.
Như vậy, trong suốt chặng đường dài lịch sử, tổ chức hành chính của huyện thường xuyên biến động, đặc biệt từ sau 1954 cho đến những năm gần đây. Tuy nhiên, từ khi tái lập huyện Phú Giáo vào năm 1999 đến nay, với những điều kiện tổ chức quản lý thuận lợi hơn, nên các mặt kinh tế, xã hội của huyện tiếp tục phát triển mạnh. Từ một vùng đất vùng sâu, vùng xa kém phát triển, với nền sản xuất nhỏ, nặng về tự túc, tự cấp nay Phú Giáo đã trở thành một huyện có kinh tế khá phát triển, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp với sự phát triển của các công ty cao su và sự ra đời của của hàng trăm trang trại tư nhân. Kinh tế Phú Giáo đã bắt đầu chuyển lên thành nền kinh tế hàng hóa theo hướng sản xuất lớn. Đó là một thành tựu to lớn của địa phương trên bước đường xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, văn minh, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của tỉnh Bình Dương và của cả nước.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Giáo giai đoạn 1930 – 2005
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Giáo
Phú Giáo là một huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bình Dương, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70km. Phía Đông giáp huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Bến Cát (Bình Dương), phía Nam giáp huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương), phía Bắc giáp huyện Đồng Phú (Bình Phước).
Thuở xa xưa, vùng đất có tên gọi Phú Giáo ngày nay là một nơi hoang vu thuộc xứ Đồng Nai. Trong suốt chặng đường lịch sử, tổ chức hành chính của huyện Phú Giáo thường xuyên có nhiều biến động. Cho đến ngày 20 tháng 8 năm 1999, Chính Phủ quyết định tái lập huyện Phú Giáo với diện tích tự nhiên 53,861 km
2
, dân số 58.505 người, với nhiều thành phần dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Mường, Thái … đông nhất là dân tộc Khơme.
Với điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi, nằm trên địa hình đồi thoải lượn sóng và các dải đất hẹp ven Sông Bé, đất có độ cao trung bình thấp và tương đối bằng phẳng. Đất Phú Giáo chủ yếu là đất bazan xám rất thích hợp cho các cây công nghiệp như: cao su, điều, tiêu và các loại cây ăn quả. Riêng dải đất ven Sông Bé là đất phù xa mới, trồng lúa và các loại rau đậu tốt. Khí hậu Phú Giáo ôn hòa, mỗi năm có 2 mùa, 6 tháng mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4) và 6 tháng mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10). Nhiệt độ trung bình tử 26°C đến 34°C. Lượng mưa trung bình trên địa bàn huyện là 1947,7 mm. Số ngày mưa trung bình là 163 ngày trong năm. Không khí có độ ẩm cao.
Nhìn chung, đất đai, khí hậu và sông suối của huyện Phú Giáo rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp và ngành này đang trở thành một thế mạnh của huyện. Tính đến nay, toàn huyện có hơn 500 trang trại chăn nuôi, trồng trọt, tạo lợi thế đưa nền nông nghiệp của huyện đi lên theo hướng sản xuất lớn.
Đặc biệt với tuyến đường giao thông ĐT 741 nối thành phố Thủ Dầu Một (Bình Dương) với thị xã Đồng Xoài (Bình Phước) tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của địa phương. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 12,44%, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đúng hướng, trong đó ngành nông nghiệp – lâm nghiệp chiếm 40%; công nghiệp – xây dựng 31,9%; thương mại dịch vụ 28,1%. Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2014 đạt 34,5 triệu đồng/ người/năm. Lưới điện quốc gia phủ kín 70/70 khu, ấp với tỷ hộ sử dụng điện đạt 99,8%, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh đạt 100%. Toàn huyện có 31/37 trường công lập các bậc học đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ kệ 83,8%.
Vùng đất Phú Giáo mặc dù là vùng sâu vùng xa của tỉnh Bình Dương nhưng từ khi thành lập đến nay Chính quyền và nhân dân huyện Phú Giáo không ngừng nỗ lực phấn đấu về mọi mặt. Nhìn lại chặng đường đã đi qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Phú Giáo có quyền tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất. Luôn sáng tạo trong cả thời chiến cũng như thời bình góp phần quan trọng cho sự phát triển của tỉnh Bình Dương và Phú Giáo cũng đang từng bước đi lên xây dựng quê hương trong thời kỳ mới, thời kỳ cùng cả nước mở cửa hội nhập khu vực và thế giới.
Phú Giáo là một huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bình Dương, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70km. Phía Đông giáp huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Bến Cát (Bình Dương), phía Nam giáp huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương), phía Bắc giáp huyện Đồng Phú (Bình Phước).
Thuở xa xưa, vùng đất có tên gọi Phú Giáo ngày nay là một nơi hoang vu thuộc xứ Đồng Nai “rừng rậm hàng nghìn dặm” (theo Lê Qúy Đôn – Phủ biên tạp lục). Cuối thế kỷ XVII nhà Nguyễn cử quan lại vào tổ chức chính quyền phân chia vùng đất mới thành các phiên, trấn. Đất Phú Giáo lúc đó nằm trong trấn Biên Hòa, sau đổi thành tỉnh Biên Hòa. Năm 1858 Pháp xâm lược Việt Nam, chia Biên Hòa thành 3 tỉnh, Phú Giáo khi ấy thuộc huyện Tân Uyên tỉnh Biên Hòa. Đến năm 1954, Mỹ thay chân Pháp chiếm Miền Nam Việt Nam, Mỹ tiến hành phân nhỏ các tỉnh và Biên Hòa lại được chia thành 3 tỉnh: Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long. Vùng đất Phú Giáo nằm trong các huyện Tân Uyên và Đôn Luân (tức Đồng Xoài) của 2 tỉnh Biên Hòa và Phước Long.
Năm 1959, phong trào đấu tranh chống Mỹ và chế độ ngụy quyền phát triển mạnh. Tháng 11/1959, ngụy quyền cắt một phần đất Tân Uyên (Biên Hòa) lập thành một tỉnh mới mang tên Phước Thành. Tỉnh Phước Thành gồm 3 quận: Tân Uyên, Phú Giáo, Hiếu Liêm. Đến lúc này cái tên Phú Giáo mới bắt đầu xuất hiện. Khi đó Phú Giáo chỉ có 5 xã: Phước Hòa, Bình Mỹ, Tân Bình, Vĩnh Hòa, Vĩnh Tân. Sau trận tấn công tỉnh lỵ Phước Thành ngụy quyền ngày càng trở nên rệu rã, năm 1965 ngụy quyền đã giải thể tỉnh Phước Thành. Quận Phú Giáo được đưa trở lại quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa.
Về phía cách mạng, trước năm 1951, tổ chức hành chính các tỉnh, huyện được phân chia tương ứng với tổ chức hành chính của chính quyền thực dân Pháp. Tuy vậy, vùng đất Phú Giáo vẫn có một số thay đổi. Sau tháng 5 năm 1951, Uỷ Ban kháng chiến hành chính Nam Bộ thành lập những tỉnh mới trên cơ sở sát nhập một số tỉnh. Vùng đất Phú Giáo thuộc tỉnh Thủ Biên (gồm Thủ Dầu Một và Biên Hòa). Tháng 7 năm 1951, tỉnh Thủ Biên thành lập huyện mới lấy tên là Đồng Nai, các xã của huyện Phú Giáo thuộc huyện Đồng Nai. Năm 1955, để phù hợp với tình hình đấu tranh sau Hiệp định Giơnevơ, xứ ủy Nam Bộ tách tỉnh Thủ Biên thành hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa, vùng đất Phú Giáo thuộc tỉnh Biên Hòa.
Đến năm 1959, Phú Giáo chuyển về tỉnh Thủ Dầu Một. Năm 1961 Trung ương cục thành lập tỉnh Phước Thành gồm 2 huyện Tân Uyên 1 và Tân Uyên 2, sau đổi thành Phú Giáo và Tân Uyên. Huyện Phú Giáo gồm 8 xã: An Linh, An Long, Phước Sang, Phước Hòa Sở, Phước Hòa xã, Phước Vĩnh, Tân Bình và Lai Uyên.
Tháng 11/1966 do nhu cầu tập trung lực lượng đối phó với “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, Trung ương Cục quyết định giải thể tỉnh Phước Thành. Huyện Phú Giáo trực thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Năm 1968 Phú Giáo sát nhập trở lại huyện Tân Uyên. Đến năm 1969, Phú Giáo lại tách ra khỏi Tân Uyên để trở thành một huyện riêng.
Ngày 1/9/1973, sau Hiệp định Pari, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền Nam thành lập một tỉnh căn cứ lớn phía Bắc Sài Gòn, lấy tên là Tân Phú. Tỉnh Tân Phú gồm: Phú Giáo và Tân Uyên. Huyện Phú Giáo được tái lập gồm 9 xã (Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa, Phước Vĩnh, Lai Uyên, An Long, An Linh, Vĩnh Hòa, Phước Sang).
Sau ngày giải phóng, toàn huyện có 14 xã và thị trấn gồm: Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa, Tân Hưng 1, Tân Hưng 2, An Bình, Tân Long, Hưng Hòa, Lai Uyên, An Long, An Linh, Tân Hiệp, Phước Sang và Phước Vĩnh.
Do yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, quốc phòng, ngày 2/7/1976, các xã phía bắc Sông Bé thuộc huyện Phú Giáo được sát nhập về Đồng Xoài (sau đổi thành huyện Đồng Phú). Các xã Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa và Tân Hưng II của Phú Giáo thuộc huyện Tân Châu (Tân Uyên và Châu Thành). Các xã Tân Hưng 1, Lai Uyên phía Tây của Phú Giáo chuyển về Bến Cát.
Ngày 20/8/1999 Chính Phủ quyết định tái lập huyện Phú Giáo lần thứ hai. Lúc này Phú Giáo gồm 8 xã và một thị trấn gồm: An Bình, An Linh, An Long, Tân Long, Tân Hiệp, Phước Sang, Phước Hòa, Vĩnh Hòa và Thị trấn Phước Vĩnh. Năm 2004, xã Vĩnh Hòa được tách ra một phần, thành lập xã mới có tên là Tam Lập. Năm 2005 thêm một xã mới ra đời là An Thái, tách ra từ xã An Linh. Đến năm 2015 huyện Phú Giáo có 10 xã và một thị trấn.
Như vậy, trong suốt chặng đường dài lịch sử, tổ chức hành chính của huyện thường xuyên biến động, đặc biệt từ sau 1954 cho đến những năm gần đây. Tuy nhiên, từ khi tái lập huyện Phú Giáo vào năm 1999 đến nay, với những điều kiện tổ chức quản lý thuận lợi hơn, nên các mặt kinh tế, xã hội của huyện tiếp tục phát triển mạnh. Từ một vùng đất vùng sâu, vùng xa kém phát triển, với nền sản xuất nhỏ, nặng về tự túc, tự cấp nay Phú Giáo đã trở thành một huyện có kinh tế khá phát triển, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp với sự phát triển của các công ty cao su và sự ra đời của của hàng trăm trang trại tư nhân. Kinh tế Phú Giáo đã bắt đầu chuyển lên thành nền kinh tế hàng hóa theo hướng sản xuất lớn. Đó là một thành tựu to lớn của địa phương trên bước đường xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, văn minh, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của tỉnh Bình Dương và của cả nước.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Giáo giai đoạn 1930 – 2005
|
Giới thiệu khái quát thị xã Bến Cát
Thị xã Bến Cát được thành lập theo Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ, cách trung tâm tỉnh lỵ khoảng 19km;
– Phía Bắc giáp huyện Dầu Tiếng và huyện Bàu Bàng
– Phía Nam giáp thành phố Thủ Dầu Một
– Phía Đông giáp thị xã Tân Uyên và huyện Bàu Bàng
– Phía Tây giáp huyện Củ Chi – Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổng diện tích tự nhiên là 23.442,24 ha, trong đó đất nông nghiệp là 14.809,18 ha
(chiếm 63,17%)
, đất phi nông nghiệp là 8.633,06 ha
(chiếm 36,83%)
Gồm 08 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó có 05 phường, 03 xã với 44 khu, ấp). Tính đến cuối năm 2018, dân số toàn thị xã là 269.988 người.
Di tích địa đạo Tam Giác Sắt (Địa đạo Tây Nam Bến Cát)
Di tích địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát: Niềm tự hào của quân và dân Bình Dương
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vùng đất 3 xã Tây Nam Bến Cát sớm được nổi danh với Chiến khu An Thành. Thuở đó, An Thành đã từng là nơi dừng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến Khu bộ miền Đông, Xứ ủy Nam bộ, Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định… nhờ đó mà người dân địa phương sớm được giác ngộ cách mạng và đã từng đương đầu với biết bao thử thách ác liệt nhất trong suốt 2 cuộc kháng chiến cứu nước đầy gian khổ và hy sinh của nhân dân ta.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù đã nhiều lần càn đi xát lại nhưng chúng không khuất phục nổi lòng người dân ở đây. Đến khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp chiến đấu ở miền Nam, năm 1967 bằng đủ loại binh hùng tướng mạnh và những phương tiện giết người hiện đại nhất, chúng mở trận càn Xê-đa-phôn với quy mô lớn gồm 30.000 quân, 400 xe tăng, 80 tàu chiến, 100 đại bác và nhiều loại máy bay ném bom, kể cả máy bay B.52 hòng hủy diệt mục tiêu quan trọng này. Nhưng dựa vào hệ thống địa đạo quanh co, chằng chịt, quân và dân ta lúc ẩn, lúc hiện bí mật bất ngờ mở đợt chống càn quyết liệt. Cuối cùng, giặc Mỹ phải rút lui. Với sự thất bại thảm hại, 3.200 tên Mỹ – ngụy bị diệt, 149 xe tăng và xe bọc thép bị phá hủy, 28 máy bay bị bắn rơi hoặc bị thương, 2 tàu chiến bị bắn chìm, bắn cháy… Sau những thất bại liên tiếp, kẻ thù đành bất lực, chúng phải gọi vùng này là vùng “Tam giác sắt” (địa đạo Tây Nam Bến Cát).
Di tích địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát là biểu tượng cho cách mạng, cho kháng chiến. Với phương tiện thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ky xúc đất bằng tre, quân và dân 3 xã Tây Nam đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm con đường hầm ngang dọc trong lòng đất, nối liền các xã với nhau. Với hệ thống địa đạo dài gần 100km, khoảng 50 ô ụ chiến đấu và nhiều hầm để trú ẩn, cứu chữa thương binh, dự trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm… địa đạo Tây Nam là căn cứ địa của nhiều cơ quan và tổ chức kháng chiến, đây còn là chiến trường tiêu diệt địch tại chỗ. Từ căn cứ này, nhiều lực lượng vũ trang chủ lực làm bàn đạp xuất phát tiến công vào sào huyệt kẻ thù trong những trận đánh lớn, chiến dịch lớn. Đó là chiến dịch Lê Hồng Phong (1950); những trận phục kích đánh giao thông trên đường 14; đánh các trận càn “Phong hỏa”, “Át-tăng-bơ-rơ”, “Xê-đa-phôn”…
Địa đạo Tây Nam Bến Cát đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, nhất là trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong suốt 20 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, địa đạo 3 xã Tây Nam đã phát huy tác dụng của một địa đạo chiến đấu. Dựa vào hệ thống địa đạo, quân dân ở đây đã chiến đấu chôn vùi hàng ngàn tên giặc; bắn cháy và phá hủy hàng trăm xe tăng và xe bọc thép… Đặc biệt trong chiến dịch Mậu Thân 1968 và mùa xuân năm 1975, địa đạo Tây Nam là nơi nhiều cánh quân lớn tập kết từ đây tiến đánh vào Sài Gòn, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến thắng lợi của quân dân cả nước năm 1975…
Di tích địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 18-3-1996. Theo dự án trùng tu tôn tạo được thực hiện từ năm 2004 đến nay, khu di tích đã và đang được xây dựng khu trung tâm quần thể tượng đài diện tích 23 ha, gồm: tượng đài, phù điêu, tượng bà mẹ Việt Nam anh hùng, tượng anh du kích, tượng sinh hoạt chiến đấu của quân và dân 3 xã Tây Nam Bến Cát; các hạng mục công trình như: nhà lưu niệm, nhà điều hành, nhà văn bia, sân hành lễ, sân mô hình địa đạo, nhà trưng bày, khu cây xanh, vườn hoa…
|
General introduction to Ben Cat town
Ben Cat Town was established according to Resolution Không. 136/NQ-CP dated December 29, 2013 of the Government, about 19km from the provincial center;
– The North borders Dau Tieng district and Bau Bang district
– The South borders Thu Dau Mot city
– The East borders Tan Uyen town and Bau Bang district
– The West borders Cu Chi district – Ho Chi Minh City.
The total natural area is 23,442.24 hectares, of which agricultural land is 14,809.18 hectares
(accounting for 63.17%)
, non-agricultural land is 8,633.06 hectares
(accounting for 36.83%)
Including 08 commune-level administrative units (including 05 wards, 03 communes with 44 zones and hamlets). As of the end of 2018, the town's population was 269,988 people.
Iron Triangle Tunnel Relics (Southwest Ben Cat Tunnels)
Relics of the Iron Triangle Tunnels Southwest of Ben Cat: The pride of the soldiers and people of Binh Duong
During the resistance war against the French colonialists, the land of 3 southwest communes of Ben Cat soon became famous for the An Thanh War Zone. At that time, An Thanh was once a stopping place for the resistance headquarters of the Eastern Region, the Southern Party Committee, the Saigon - Gia Dinh Special Region Party Committee... thanks to which the local people were soon enlightened about how to fight. lives and has faced many of the most fierce challenges during the two resistance wars for national salvation full of hardship and sacrifice of our people.
During the resistance war against the US, the enemy attacked again and again but they could not conquer the hearts of the people here. When the American imperialists massively sent expeditionary troops to directly fight in the South, in 1967, using all kinds of powerful soldiers and the most modern killing means, they opened the battle to invade Xedaphon with a large scale. large scale including 30,000 troops, 400 tanks, 80 warships, 100 cannons and many types of bombers, including B.52 aircraft to destroy this important target. But thanks to the winding and interlaced tunnel system, our army and people sometimes hide and sometimes appear secretly, suddenly launching a fierce counter-attack. In the end, the American enemy had to retreat. With the disastrous failure, 3,200 Americans and puppets were killed, 149 tanks and armored vehicles were destroyed, 28 aircraft were shot down or injured, 2 warships were sunk, burned... After the failures continuously, the enemy was helpless, they had to call this area the "Iron Triangle" area (Southwest Ben Cat Tunnels).
The Iron Triangle Tunnel relic southwest of Ben Cat is a symbol of revolution and resistance. With the rudimentary means of a hoe blade and a bamboo shovel, the soldiers and people of the three Southwest communes created a massive project with hundreds of horizontal and vertical tunnels underground, connecting the communes with each other. With a tunnel system nearly 100km long, about 50 fighting emplacements and many tunnels for shelter, treating wounded soldiers, storing weapons, food, food... the Southwest Tunnels are the base of many agencies. and organize resistance, this is also a battlefield to destroy the enemy on the spot. From this base, many main armed forces act as a springboard to attack the enemy's lair in major battles and major campaigns. That was the Le Hong Phong campaign (1950); ambushes against traffic on Route 14; fought the battles of “Phong Hoa”, “At-tan-b-r”, “Zeda-phon”…
The Southwest Ben Cat Tunnels played a particularly important role in the two resistance wars, especially during the period against the Americans to save the country. During the 20-year war against the US imperialist invasion, the tunnels in the 3 Southwest communes promoted the effect of a combat tunnel. Relying on the tunnel system, the army and people here fought and buried thousands of enemies; burned and destroyed hundreds of tanks and armored vehicles... Especially during the 1968 Mau Than campaign and the spring of 1975, the Southwest Tunnels were where many large armies gathered from here to attack Saigon, contributing to in the victorious resistance cause of the country's army and people in 1975...
The Iron Triangle Tunnel relic southwest of Ben Cat was recognized as a national historical relic on March 18, 1996. According to the restoration project carried out from 2004 to present, the relic has been building a central monument complex with an area of 23 hectares, including: monuments, reliefs, and statues of Vietnamese mothers. heroes, statues of guerrillas, statues of fighting activities of the army and people of 3 southwest communes of Ben Cat; Construction items such as: memorial house, administration house, stele house, ceremony yard, tunnel model yard, exhibition house, green area, flower garden...
|
Giới thiệu khái quát thị xã Thuận An
Thị xã Thuận An có diện tích tự nhiên 8.426ha, nằm ở phía Nam của tỉnh Bình Dương; phía Đông giáp thị xã Dĩ An, phía Bắc giáp thành phố Thủ Dầu Một và huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, phía Tây giáp quận 12, phía Nam giáp quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh;
Trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Thuận An là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, đã xây dựng Chiến khu Thuận An Hòa là một trong những căn cứ cách mạng lớn của tỉnh, là nơi tổ chức, chỉ huy, xây dựng và phát triển lực lượng chiến đấu của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh góp phần quan trọng vào các thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Mậu Thân 1968, chiến dịch Nguyễn Huệ 1972 và nhất là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, Thuận An đã không ngừng thay đổi, vươn lên cùng với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Huyện được biết đến là vùng đất giàu tiềm năng về các loại cây ăn trái đặc sản và phát triển mạnh với ngành nghề gốm sứ, điêu khắc gỗ truyền thống.
Tháng 8/1999, thực hiện Nghị định số 58/1999/NĐ-CP của Chính phủ, huyện được chia tách thành huyện Thuận An và huyện Dĩ An, trong đó, huyện Thuận An có 10 đơn vị hành chính (08 xã và 02 thị trấn), 56 khu phố – ấp, dân số toàn huyện tại thời điểm này là 361.604 người.
Ngày 13/01/2011, thực hiện Nghị quyết số 04/NQ-CP của Chính phủ, huyện được nâng lên thành thị xã với 10 đơn vị hành chính (07 phường và 03 xã), diện tích tự nhiên 8.426ha, dân số 382.034 người.
Đến cuối năm 2013, xã Bình Nhâm và xã Hưng Định được nâng cấp lên phường theo Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29/12/2013 của Chính phủ. Hiện nay thị xã Thuận An có 09 phường và 01 xã.
Trong những năm qua, thị xã Thuận An luôn là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bình Dương. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thị xã luôn ở mức cao, GDP tăng bình quân khoảng 18,5 %/năm. Lĩnh vực kinh tế chuyển biến tích cực theo cơ cấu công nghiệp, dịch vụ- thương mại, nông nghiệp; năm 2011, tỷ lệ công nghiệp 73,35%, dịch vụ 26,29% và nông lâm nghiệp 0,36%.
Toàn thị xã hiện có 03 khu công nghiệp và 02 cụm công nghiệp tập trung, thu hút 2.368 doanh nghiệp trong và ngoài nước; trong đó, số doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp và cụm công nghiệp là 400 doanh nghiệp.
Các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa xã hội đều có những chuyển biến tích cực theo định hướng, hài hòa với phát triển kinh tế. Tổ chức tốt các hoạt động chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm, tết Nguyên đán và các sự kiện của địa phương. Công tác giảm nghèo và chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, xã hội được quan tâm thường xuyên. Công tác khám chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh và các chương trình mục tiêu y tế quốc gia được duy trì thường xuyên. Công tác xã hội hóa trên lĩnh vục giáo dục, y tế được thực hiện có hiệu quả đáp ứng nhu cầu học tập và khám chữa bệnh của nhân dân. Cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị y tế và các thiết chế văn hóa thể thao tiếp tục được đầu tư xây dựng phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi giải trí ngày càng tăng của nhân dân. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Phát huy các điều kiện thuận lợi về điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế – xã hội và các thành tựu đã đạt được, trong thời gian tới, Thuận An sẽ tiếp tục phấn đấu để giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế theo hướng ổn định và bền vững, phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh chính trị, quyết tâm xây dựng thị xã trở thành đô thị loại III vào năm 2015 và trở thành đô thị loại II vào năm 2020 theo đúng định hướng quy hoạch của tỉnh Bình Dương./.
|
General introduction of Thuan An town
Thuan An town has a natural area of 8,426 hectares, located in the south of Binh Duong province; The East borders Di An town, the North borders Thu Dau Mot city and Tan Uyen district, Binh Duong province, the West borders District 12, the South borders Thu Duc district, Ho Chi Minh City;
During the two wars against the French colonialists and the American imperialists, Thuan An was a land rich in revolutionary tradition. Thuan An Hoa War Zone was built as one of the province's major revolutionary bases, where it was organized. Organizing, commanding, building and developing the fighting forces of agencies and units inside and outside the province, making an important contribution to the victories of our army and people in the 1968 Mau Than campaign and the 1972 Nguyen Hue campaign. and especially the historic Ho Chi Minh campaign in 1975 to completely liberate the South and unify the country.
After 1975, Thuan An has continuously changed and risen along with the cause of construction and general socio-economic development of the country. The district is known as a land rich in potential for specialty fruit trees and thrives in traditional ceramics and wood carving industries.
In August 1999, implementing Decree Không. 58/1999/ND-CP of the Government, the district was divided into Thuan An district and Di An district, of which Thuan An district has 10 administrative units (08 communes and 02 towns), 56 neighborhoods - hamlets, the district's population at this time is 361,604 people.
On January 13, 2011, implementing Resolution Không. 04/NQ-CP of the Government, the district was upgraded to a town with 10 administrative units (07 wards and 03 communes), natural area of 8,426 hectares, population number 382,034 people.
By the end of 2013, Binh Nham commune and Hung Dinh commune were upgraded to wards according to Resolution Không. 136/NQ-CP dated December 29, 2013 of the Government. Currently, Thuan An town has 09 wards and 01 commune.
In recent years, Thuan An town has always been one of the leading localities in the industrialization and modernization of Binh Duong province. The town's economic growth rate is always high, with an average GDP increase of about 18.5%/year. The economic sector has changed positively according to the structure of industry, service-commerce, and agriculture; In 2011, the rate of industry was 73.35%, services 26.29% and agriculture and forestry 0.36%.
The entire town currently has 03 industrial parks and 02 concentrated industrial clusters, attracting 2,368 domestic and foreign enterprises; Of which, the number of enterprises operating in industrial parks and industrial clusters is 400 enterprises.
Activities in the socio-cultural field have positive changes in direction, in harmony with economic development. Well organize activities to celebrate holidays, anniversaries, Lunar New Year and local events. Poverty reduction and caring for the lives of policy and social beneficiaries receive regular attention. Medical examination and treatment, disease prevention and national health target programs are maintained regularly. Socialization work in the fields of education and health is carried out effectively to meet the learning and medical examination and treatment needs of the people. School facilities, medical equipment and cultural and sports institutions continue to be invested in and built to serve the growing learning and entertainment needs of the people. The political security situation and social order and safety are maintained.
Promoting favorable natural conditions, socio-economic potential and achieved achievements, in the coming time, Thuan An will continue to strive to maintain the pace of economic growth according to the direction of stability and sustainability, economic development associated with good resolution of social issues, environmental protection, maintaining political security, determination to build the town into a class III urban area by 2015 and become a class II urban area by 2020 in accordance with the planning orientation of Binh Duong province./.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Dĩ An
Công nghiệp
Do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế và những khó khăn chung về thị trường nên hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn thị xã gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, với chính sách miễn, giảm, giãn nộp các loại thuế của Chính phủ; sự hỗ trợ kịp thời của chính quyền các cấp và sự nổ lực của các nhà doanh nghiệp nên số đông doanh nghiệp đã duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định việc làm và thu nhập cho người lao động.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện 52.284 tỷ đồng, tăng 15,35% so với năm 2013 và bằng 99,44% kế hoạch (52.580 tỷ đồng), trong đó: khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 58,98%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 40,86%, khu vực quốc doanh chiếm 0,16%.
Về điện: sản lượng điện phục vụ cho sản xuất tăng và tương đối ổn định. Điện thương phẩm đạt 1.091 triệu Kwh, tăng 10,04% so năm 2013. Chương trình tiết kiệm điện tiếp tục được đẩy mạnh, tiết giảm được 29,197 triệu Kwh, tương ứng với số tiền 44 tỷ đồng. Trong năm, ngành điện đã lắp đặt mới 3.918 điện kế, nâng tổng số điện kế đang vận hành lên 62.494 cái, đảm bảo 100% hộ dân được sử dụng điện.
Nông nghiệp
Tài nguyên – môi trường
Thu, chi ngân sách
|
General introduction to Di An town
Industry
Due to the impact of the economic downturn and general market difficulties, production and business activities of many enterprises in the town face many difficulties. However, with the Government's policy of exemption, reduction, and delay in payment of taxes; With the timely support of governments at all levels and the efforts of entrepreneurs, the majority of businesses have been able to maintain production and business activities, stabilizing jobs and income for workers.
Industrial production value is estimated at 52,284 billion VND, an increase of 15.35% compared to 2013 and equal to 99.44% of the plan (52,580 billion VND), of which: foreign investment sector accounts for 58,000 billion VND. 98%, the non-state sector accounts for 40.86%, the state-owned sector accounts for 0.16%.
Regarding electricity: electricity output for production increased and was relatively stable. Commercial electricity reached 1,091 million kWh, an increase of 10.04% compared to 2013. The electricity saving program continued to be promoted, saving 29.197 million kWh, equivalent to an amount of 44 billion VND. During the year, the electricity industry installed 3,918 new galvanometers, bringing the total number of operating galvanometers to 62,494, ensuring 100% of households have access to electricity.
Agriculture
Resources – environment
Budget revenue and expenditure
|
Giới thiệu khái quát huyện Chơn Thành
1/ Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
a/ Vị trí địa lý:
Huyện Chơn Thành nằm ở phía Tây của tỉnh Bình Phước, phía Bắc giáp huyện Hớn Quản, phía Nam giáp huyện Bến Cát, Phú Giáo (tỉnh Bình Dương), phía Đông giáp huyện Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài, phía Tây giáp huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương).
Chơn Thành án ngữ Phía Nam Tây Nguyên và Đông Bắc Sài Gòn, nơi có hai tuyến quốc lộ 13 và 14 đi qua, đồng thời tuyến đường Hồ Chí Minh cũng đang trong giai đoạn thi công sắp hoàn chỉnh; những đường giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chạy qua và giao nhau ở trung tâm thị trấn của huyện, đồng thời là huyết mạch nối liền các tỉnh biên giới miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài hai trục đường chính, Chơn Thành còn có nhiều đường liên xã, hình thành một mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa trong và ngoài huyện.
b/ Điều kiện tự nhiên:
Diện tích tự nhiên của huyện là 38,357.8 ha với tổng dân số 74.158 nhân khẩu với 20.993 hộ.
Là huyện trung du, địa hình Chơn Thành thoai thoải, độ cao trung bình từ 50 đến 55m. Vùng đất đỏ bazan ở phía Đông Bắc, vùng tiếp giáp với địa hình đồi núi lượn sóng của huyện Hớn Quản có độ cao 70m. Còn lại là vùng đất xám phát triển trên phù sa cổ có địa hình thấp, độ cao so với mực nước biển khoảng 50m, thấp nhất là 45m. Đất xám chiếm hơn 87% diện tích, đất đỏ 10%, đất dốc tụ và đất sông suối ao hồ chiếm phần còn lại.
Nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt ở Chơn Thành được cung cấp bởi nguồn nước ngầm và hàng chục dòng suối lớn nhỏ chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam thuận tiện cho việc sản xuất, canh tác và chăn nuôi.
Chơn Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ với hai mùa mưa và khô rõ rệt (mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau). Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao từ 2.000 – 3.000 mm/năm. Hướng gió chính là hướng Đông Bắc vào mùa khô và hướng Tây Nam vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình khoảng 26
o
C, nhưng có sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm từ 7 – 9
o
C. Biên độ chênh lệch này thuận lợi cho việc tăng năng suất cây trồng, vật nuôi trên địa bàn.
2/ Dân tộc, tôn giáo:
Cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện Chơn Thành gồm 15 dân tộc anh em như: Kinh, STiêng, Khơme, Tàmun, Châu Ro, Hoa… trong có các dân tộc thiểu số chiếm khoảng hơn 7,6% dân số.
Trên địa bàn huyện có hơn 30 cơ sở thờ tự, có ba tôn giáo chính là Công giáo (chiếm hơn 10% dân số), Phật giáo (chiếm khoảng 3% dân số), Tin Lành (chiếm khoảng gần 4% dân số). Ngoài ra còn một số ít người theo các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo Hồi …
3/ Chơn Thành qua các thời kỳ lịch sử:
Truyện kể rằng: một lần trong tình thế khó khăn khi chạy đến địa phận Chơn Thành ngày nay, Nguyễn Ánh đã được nhân dân địa phương giúp đỡ lương thực và che chở. Sau này khi lên ngôi, Gia Long nhớ đến và đặt tên cho vùng đất có những người chân tình, thành thật ấy là Chân Thành (đọc trại là Chơn Thành) để ghi ơn cưu mang của người dân nơi đây.
Đến thế kỷ XIX, nhà Nguyễn chia vùng đất Nam Bộ thành 6 tỉnh (còn gọi miền lục tỉnh); địa bàn Chơn Thành và toàn bộ vùng Đồng Nai, Sông Bé lúc đó thuộc tỉnh Biên Hòa.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và chia Nam Kỳ thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xắc, trong đó khu vực Sài Gòn lại được chia thành các tiểu khu; vùng đất phía Tây và Nam sông Sài Gòn (trong đó có Chơn Thành) thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một (năm 1889, thực dân Pháp đổi tiểu khu Thủ Dầu Một thành tỉnh Thủ Dầu Một).
Đầu thế kỷ XX, vùng đất Chơn Thành nằm trong quận Hớn Quản tỉnh Thủ Dầu Một. Chơn Thành lúc này có 4 làng người Kinh (gồm Tân Lập Phú, Tân Quan, Tân Khai, Tân Thạnh nằm trong tổng Tân Minh do tổng Hiển làm Tổng trưởng) và một số phum, sóc dân tộc thiểu số (nằm trong tổng Lâm Can ở phía Tây do tổng Mé làm Tổng trưởng). Địa giới hành chính này duy trì đến sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và thời kỳ đầu chính quyền Ngô Đình Nhiệm.
Về phía cách mạng, năm 1951, sát nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên, Chơn Thành thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Biên.
Tháng 10-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm cho tách một số vùng ở phía Bắc của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa để lập hai tỉnh mới là Bình Long và Phước Long. Tỉnh Bình Long được thành lập theo Sắc lệnh số 143/NV (ngày 22-10-1956) gồm ba quận: An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành. Như vậy, với việc thành lập tỉnh Bình Long, địa danh Chơn Thành xuất hiện với quy mô hành chính cấp quận (tuy nhiên, đến ngày 27-1-1964, quận Chơn Thành mới chính thức được ra đời).
Tháng 10-1961, để phù hợp với tình hình chỉ đạo địa bàn hoạt động tương ứng với phân chia hành chính của chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam cho tách Bình Long khỏi tỉnh Thủ Biên để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Bình Long gồm 3 quận có phiên hiệu theo số là: C45 – Chơn Thành, C55 – Hớn Quản và C65 – Lộc Ninh.
Ngày 30-1-1971, do yêu cầu chỉ đạo kháng chiến, Trung ương Cục giải thể khu 10, thành lập Phân khu Bình Phước gồm hai tỉnh Bình Long và Phước Long. Cuối năm 1972, lại giải thể Phân khu Bình Phước và thành lập tỉnh Bình Phước. Quận Chơn Thành (C45) thuộc phân khu Bình Phước (từ 1972 là tỉnh Bình Phước), gồm các xã cũ là Hưng Long, Minh Thạnh, Minh Hòa, Nha Bích, Tân Quan, Tân Khai…
Sau ngày giải phóng miền Nam, địa giới hành chính cũ được duy trì. Nhưng đến đầu năm 1977, theo Nghị định 55/CP ký ngày 11-3-1977 về việc hợp nhất 3 quận An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành thành huyện Bình Long. Chơn Thành trở thành một phần của huyện Bình Long, một huyện khá lớn nằm sát biên giới, ở phía Bắc tỉnh Sông Bé.
Tháng 3-1978, theo Nghị định 34/CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký ngày 9-2-1978, lại tách thị trấn Lộc Ninh và một số xã phía Bắc sát biên giới để thành lập huyện Lộc Ninh. Huyện Bình Long còn lại (trong đó có Chơn Thành) vẫn là huyện lớn của tỉnh Sông Bé, gồm 19 xã và 02 thị trấn (Chơn Thành và An Lộc).
Đầu năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2003/NĐ-CP ngày 20-2-2003, về việc thành lập huyện Chơn Thành và Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước. Theo Nghị định này, huyện Chơn Thành mới được thành lập (Lễ công bố ngày 2-5-2003) gồm 7 xã (Minh Long, Minh Thành, Tân Quan, Nha Bích, Minh Lập, Minh Thắng, Minh Hưng) và thị trấn Chơn Thành.
Giữa năm 2005, theo Nghị định số 60/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Thành Tâm (tách ra từ thị trấn Chơn Thành).
Ngày 10/4/2009, Chính phủ đã ban hành nghị định số 14/NĐ-CP, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Quang Minh (được tách ra từ xã Tân Quan nay thuộc huyện Hớn Quản). Hiện nay, huyện Chơn Thành có 8 xã và 1 thị trấn.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Chơn Thành từ một vùng đất hoang vu, được khai phá và trở thành nơi có những lớp người đến sinh sống, hình thành cộng đồng xã hội, có những truyền thuyết thấm đượm tình người.
Sự hình thành đơn vị hành chính và những thay đổi địa giới hành chính qua các thời kỳ, chứng tỏ Chơn Thành có vị trí quan trọng trong kháng chiến, cũng như trong quá trình thực hiện những chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ an ninh đất nước trong thời kỳ hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
|
Giới thiệu khái quát huyện Chơn Thành
1/ Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
a/ Vị trí địa lý:
Huyện Chơn Thành nằm ở phía Tây của tỉnh Bình Phước, phía Bắc giáp huyện Hớn Quản, phía Nam giáp huyện Bến Cát, Phú Giáo (tỉnh Bình Dương), phía Đông giáp huyện Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài, phía Tây giáp huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương).
Chơn Thành án ngữ Phía Nam Tây Nguyên và Đông Bắc Sài Gòn, nơi có hai tuyến quốc lộ 13 và 14 đi qua, đồng thời tuyến đường Hồ Chí Minh cũng đang trong giai đoạn thi công sắp hoàn chỉnh; những đường giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chạy qua và giao nhau ở trung tâm thị trấn của huyện, đồng thời là huyết mạch nối liền các tỉnh biên giới miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài hai trục đường chính, Chơn Thành còn có nhiều đường liên xã, hình thành một mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa trong và ngoài huyện.
b/ Điều kiện tự nhiên:
Diện tích tự nhiên của huyện là 38,357.8 ha với tổng dân số 74.158 nhân khẩu với 20.993 hộ.
Là huyện trung du, địa hình Chơn Thành thoai thoải, độ cao trung bình từ 50 đến 55m. Vùng đất đỏ bazan ở phía Đông Bắc, vùng tiếp giáp với địa hình đồi núi lượn sóng của huyện Hớn Quản có độ cao 70m. Còn lại là vùng đất xám phát triển trên phù sa cổ có địa hình thấp, độ cao so với mực nước biển khoảng 50m, thấp nhất là 45m. Đất xám chiếm hơn 87% diện tích, đất đỏ 10%, đất dốc tụ và đất sông suối ao hồ chiếm phần còn lại.
Nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt ở Chơn Thành được cung cấp bởi nguồn nước ngầm và hàng chục dòng suối lớn nhỏ chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam thuận tiện cho việc sản xuất, canh tác và chăn nuôi.
Chơn Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ với hai mùa mưa và khô rõ rệt (mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau). Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao từ 2.000 – 3.000 mm/năm. Hướng gió chính là hướng Đông Bắc vào mùa khô và hướng Tây Nam vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình khoảng 26
o
C, nhưng có sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm từ 7 – 9
o
C. Biên độ chênh lệch này thuận lợi cho việc tăng năng suất cây trồng, vật nuôi trên địa bàn.
2/ Dân tộc, tôn giáo:
Cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện Chơn Thành gồm 15 dân tộc anh em như: Kinh, STiêng, Khơme, Tàmun, Châu Ro, Hoa… trong có các dân tộc thiểu số chiếm khoảng hơn 7,6% dân số.
Trên địa bàn huyện có hơn 30 cơ sở thờ tự, có ba tôn giáo chính là Công giáo (chiếm hơn 10% dân số), Phật giáo (chiếm khoảng 3% dân số), Tin Lành (chiếm khoảng gần 4% dân số). Ngoài ra còn một số ít người theo các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo Hồi …
3/ Chơn Thành qua các thời kỳ lịch sử:
Truyện kể rằng: một lần trong tình thế khó khăn khi chạy đến địa phận Chơn Thành ngày nay, Nguyễn Ánh đã được nhân dân địa phương giúp đỡ lương thực và che chở. Sau này khi lên ngôi, Gia Long nhớ đến và đặt tên cho vùng đất có những người chân tình, thành thật ấy là Chân Thành (đọc trại là Chơn Thành) để ghi ơn cưu mang của người dân nơi đây.
Đến thế kỷ XIX, nhà Nguyễn chia vùng đất Nam Bộ thành 6 tỉnh (còn gọi miền lục tỉnh); địa bàn Chơn Thành và toàn bộ vùng Đồng Nai, Sông Bé lúc đó thuộc tỉnh Biên Hòa.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và chia Nam Kỳ thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xắc, trong đó khu vực Sài Gòn lại được chia thành các tiểu khu; vùng đất phía Tây và Nam sông Sài Gòn (trong đó có Chơn Thành) thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một (năm 1889, thực dân Pháp đổi tiểu khu Thủ Dầu Một thành tỉnh Thủ Dầu Một).
Đầu thế kỷ XX, vùng đất Chơn Thành nằm trong quận Hớn Quản tỉnh Thủ Dầu Một. Chơn Thành lúc này có 4 làng người Kinh (gồm Tân Lập Phú, Tân Quan, Tân Khai, Tân Thạnh nằm trong tổng Tân Minh do tổng Hiển làm Tổng trưởng) và một số phum, sóc dân tộc thiểu số (nằm trong tổng Lâm Can ở phía Tây do tổng Mé làm Tổng trưởng). Địa giới hành chính này duy trì đến sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và thời kỳ đầu chính quyền Ngô Đình Nhiệm.
Về phía cách mạng, năm 1951, sát nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên, Chơn Thành thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Biên.
Tháng 10-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm cho tách một số vùng ở phía Bắc của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa để lập hai tỉnh mới là Bình Long và Phước Long. Tỉnh Bình Long được thành lập theo Sắc lệnh số 143/NV (ngày 22-10-1956) gồm ba quận: An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành. Như vậy, với việc thành lập tỉnh Bình Long, địa danh Chơn Thành xuất hiện với quy mô hành chính cấp quận (tuy nhiên, đến ngày 27-1-1964, quận Chơn Thành mới chính thức được ra đời).
Tháng 10-1961, để phù hợp với tình hình chỉ đạo địa bàn hoạt động tương ứng với phân chia hành chính của chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam cho tách Bình Long khỏi tỉnh Thủ Biên để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Bình Long gồm 3 quận có phiên hiệu theo số là: C45 – Chơn Thành, C55 – Hớn Quản và C65 – Lộc Ninh.
Ngày 30-1-1971, do yêu cầu chỉ đạo kháng chiến, Trung ương Cục giải thể khu 10, thành lập Phân khu Bình Phước gồm hai tỉnh Bình Long và Phước Long. Cuối năm 1972, lại giải thể Phân khu Bình Phước và thành lập tỉnh Bình Phước. Quận Chơn Thành (C45) thuộc phân khu Bình Phước (từ 1972 là tỉnh Bình Phước), gồm các xã cũ là Hưng Long, Minh Thạnh, Minh Hòa, Nha Bích, Tân Quan, Tân Khai…
Sau ngày giải phóng miền Nam, địa giới hành chính cũ được duy trì. Nhưng đến đầu năm 1977, theo Nghị định 55/CP ký ngày 11-3-1977 về việc hợp nhất 3 quận An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành thành huyện Bình Long. Chơn Thành trở thành một phần của huyện Bình Long, một huyện khá lớn nằm sát biên giới, ở phía Bắc tỉnh Sông Bé.
Tháng 3-1978, theo Nghị định 34/CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký ngày 9-2-1978, lại tách thị trấn Lộc Ninh và một số xã phía Bắc sát biên giới để thành lập huyện Lộc Ninh. Huyện Bình Long còn lại (trong đó có Chơn Thành) vẫn là huyện lớn của tỉnh Sông Bé, gồm 19 xã và 02 thị trấn (Chơn Thành và An Lộc).
Đầu năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2003/NĐ-CP ngày 20-2-2003, về việc thành lập huyện Chơn Thành và Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước. Theo Nghị định này, huyện Chơn Thành mới được thành lập (Lễ công bố ngày 2-5-2003) gồm 7 xã (Minh Long, Minh Thành, Tân Quan, Nha Bích, Minh Lập, Minh Thắng, Minh Hưng) và thị trấn Chơn Thành.
Giữa năm 2005, theo Nghị định số 60/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Thành Tâm (tách ra từ thị trấn Chơn Thành).
Ngày 10/4/2009, Chính phủ đã ban hành nghị định số 14/NĐ-CP, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Quang Minh (được tách ra từ xã Tân Quan nay thuộc huyện Hớn Quản). Hiện nay, huyện Chơn Thành có 8 xã và 1 thị trấn.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Chơn Thành từ một vùng đất hoang vu, được khai phá và trở thành nơi có những lớp người đến sinh sống, hình thành cộng đồng xã hội, có những truyền thuyết thấm đượm tình người.
Sự hình thành đơn vị hành chính và những thay đổi địa giới hành chính qua các thời kỳ, chứng tỏ Chơn Thành có vị trí quan trọng trong kháng chiến, cũng như trong quá trình thực hiện những chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ an ninh đất nước trong thời kỳ hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Thủ Dầu Một
Thành phố Thủ Dầu Một là thành phố trực thuộc tỉnh Bình Dương, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí tương đối thuận lợi cho việc giao lưu với các huyện, thị trong tỉnh và cả nước qua quốc lộ 13, cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km.
Ngày 02 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP thành lập thành phố Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Thủ Dầu Một đồng thời chính thức hoạt động vào ngày 01 tháng 7 năm 2012. Hiện Thủ Dầu Một đang là đô thị loại II.
– Vị trí địa lý của thành phố:
· Phía Đông giáp thị xã Tân Uyên
· Phía Tây giáp huyện Củ Chi thuộc thành phố Hồ Chí Minh.
· Phía Nam giáp thị xã Thuận An.
· Phía Bắc giáp thị xã Bến Cát.
– Thành phố Thủ Dầu Một có diện tích tự nhiên 118,67 km² và 293.349 người (thống kê đến ngày 31/12/2015), trong đó có 14 đơn vị hành chính, gồm 14 phường
[3]
:
· Phường Hiệp Thành.
· Phường Chánh Nghĩa.
· Phường Phú Thọ.
· Phường Phú Hòa.
· Phường Phú Lợi.
· Phường Hiệp An.
· Phường Phú Mỹ.
· Phường Hòa Phú.
· Phường Phú Tân.
· Phường Chánh Mỹ.
· Phường Tương Bình Hiệp.
· Phường Tân An.
Thành phố Thủ Dầu Một hiện có 05 di tích, lịch sử được công nhận ở cấp Quốc gia, 06 di tích, lịch sử được công nhận ở cấp tỉnh.
I. DI TÍCH LỊCH SỬ
1. Di tích cấp Quốc gia:
2. Di tích cấp tỉnh:
Danh Lam Thắng Cảnh
Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với diện tích xây dựng 1.211m
2
. Năm 2007 chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27 mét và tái tạo lại Phật tích “Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni (nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng (nơi Phật hành đạo), Vườn Lộc Uyển (nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ (đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp.
Hiện chợ Thủ Dầu Một tọa lạc trên một vị trí tương đối bằng phẳng, nằm sát sông Gài Gòn và các con đường bao quanh chợ; phía Bắc giáp với đường Nguyễn Thái Học, phía Nam giáp đường Bạch Đằng, phía Tây giáp đường Đoàn Trần Nghiệp, Đông giáp đường Trần Hưng Đạo. Chợ là trung tâm có vị trí khá thuận lợi cho việc trao đổi và buôn bán.
Phú Cường – tên gọi khởi nguồn của chợ Thủ Dầu Một
Khi Nguyễn Hữu Kính vào kinh lược đất Gia Định năm 1698. Khu vực Phú Cường ngày nay, cư dân hội tụ có phần muộn hơn so với Lái Thiêu, Thị Tính nhưng lại tập trung đông và nhanh hơn do vị trí hình thành lỵ sở của tổng Bình Điền, huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa lúc đó.
Bến đò chợ cá Thủ Dầu Một năm 1950
Chợ Thủ Dầu Một – lối kiến trúc kiểu Pháp nặng về mô tuýp châu Âu
Sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ lục tỉnh. Trong đó, có tỉnh Biên Hòa (huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa), người Pháp đã tiến hành phục hồi và biến đổi hoàn toàn chợ Phú Cường với cổng lát đá và đắp đường cao bên trong. Theo “địa phương chí Bình Dương” viết vào năm 1888, nhà cầm quyền Pháp cho lấp con rạch Phú Cường ăn thông với sông Sài Gòn và đã hoàn thành công việc này vào năm 1890.
Đến năm 1935, người Pháp nhận thấy việc đầu tư vào chợ có lợi lớn, họ đã tiến hành phục hồi và biến đổi hoàn toàn chợ Phú Cường mô phỏng theo kiểu các ngôi chợ xưa ở Pháp có cấu trúc gần giống chợ Nam Vang (Campuchia) và chợ Bến Thành (Sài Gòn). Điểm đặc biệt của mô hình trên là họ vẫn tôn trọng, giữ nguyên vị trí cũ. Năm 1938, chợ Thủ được khánh thành với mô hình mới, kiến trúc phóng khoáng, trang nhã, vào thời đó và có lợi thế hơn nhiều nơi khác.
Chợ Thủ Dầu Một trước năm 1975
Chợ được phân thành bảy khu lớn nhỏ và được xây dựng theo kiểu hình chữ nhật gồm ba căn nhà tách biệt nhau. Từ đường Trần Hưng Đạo đi vào, ta bắt gặp căn nhà dài một lầu, một trệt nhà còn gọi là (khu Thương Xá) xây dựng và bố trí phân theo từng phân khu nhỏ dân gian vẫn thường gọi là “sạp chợ” để bày bán các mặt hàng hóa. Sau khu Thương Xá là căn nhà ngang (khu ăn uống), xây dựng giữa khu Thương Xá và khu Đồng hồ, được bài trí thành ba gian chính để phục vụ việc ăn uống. Phía sau là căn nhà dài – nhà dãy chợ (hay khu chợ Đồng Hồ) cũng được xây xựng và bài trí theo từng phân khu nhỏ kể cả ngay dưới chân Tháp Đồng Hồ chợ.
Nhà dãy chợ là căn đầu tiên thực dân Pháp xây dựng vào năm 1935, với lối kiến trúc tạo dáng hình con tàu mà đỉnh tháp là chiếc đồng hồ nặng về mô típ Châu Âu, do ông Bonnemain kiến trúc sư người Pháp thiết kế và khánh thành năm 1938. Dãy nhà xây dựng theo kiến trúc nhà dài, có diện tích 2.590m
2
, có hai mái chia thành hai tầng, chiều cao từ nền đến đỉnh là 10.3m. Nhà có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển của chợ Thủ.>Tháp Đồng hồ chợ được xây dựng theo kiểu hình lục giác gắn liền với nhà dãy chợ, có chiều cao 23.72m, gồm bốn lầu. Lầu trệt từ nền tới trần có chiều cao 6,5m được đổ bằng bê tông, cốt thép, có bậc thang lên xuống làm bằng sắt và được gắn ở phía trong của tháp. Ngoài lát đá và ghép gạch bông ở mặt phía Đông và Tây của tháp. Từ lầu hai trở lên tháp được đắp đường cao bên trong thành tám cột trụ ở các cạnh hình lục giác. Tháp được xây dựng theo kiểu tam cấp càng lên cao càng thu hẹp. Lên đến lầu ba tháp được đổ tấm đan bê tông và xây cao chừng một mét để làm nền cho mặt đồng hồ cũng là nơi để gắn Đồng hồ. Trên nền của mặt đồng hồ được làm bằng nền màu trắng, con số màu xanh và kim chỉ đồng hồ được sơn màu đen. Trên đồng hồ được đổ bốn tấm đan bê tông gắn phía trên đồng hồ để che nắng mưa. Trên đỉnh tháp được gắn 4 chiếc đồng hồ. Chính từ những chiếc đồng hồ được bố trí theo Đông – Tây – Nam – Bắc, đã tạo nên một dấu ấn đặc sắc, hình thành tình cảm quên thuộc, sâu sắc của người dân Bình Dương.
>Hình ảnh tháp chợ Đồng hồ là nhịp sống trái tim và là biểu tượng đã trải bao lần thịnh suy trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất này.
Chợ Thủ Dầu Một luôn giữ vị trí là một trung tâm thương mại tiêu biểu của Bình Dương, đồng thời cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cũng chính vì thế, chợ Bình Dương không chỉ là nơi mua bán mà còn là một biểu trưng văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của Bình Dương và Nam Bộ.
|
General introduction to Thu Dau Mot city
Thu Dau Mot City is a city under Binh Duong province, located in the southern key economic region, with a relatively convenient location for exchanges with districts and towns in the province and the whole country via Highway 13, 30 km from Ho Chi Minh City.
On May 2, 2012, the Government issued Resolution Không. 11/NQ-CP to establish Thu Dau Mot city in Binh Duong province, on the basis of the entire natural area, population and direct administrative units. belongs to Thu Dau Mot town and officially operated on July 1, 2012. Currently, Thu Dau Mot is a class II urban area.
– Geographical location of the city:
· The East borders Tan Uyen town
· The West borders Cu Chi district of Ho Chi Minh City.
· The South borders Thuan An town.
· The North borders Ben Cat town.
– Thu Dau Mot city has a natural area of 118.67 km² and 293,349 people (statistics as of December 31, 2015), including 14 administrative units, including 14 wards.
[3]
:
· Hiep Thanh Ward.
· Chanh Nghia Ward.
· Phu Tho Ward.
· Phu Hoa Ward.
· Phu Loi Ward.
· Hiep An Ward.
· Phu My Ward.
· Hoa Phu Ward.
· Phu Tan Ward.
· Chanh My Ward.
· Tuong Binh Hiep Ward.
· Tan An Ward.
Thu Dau Mot City currently has 05 historical relics and relics recognized at the national level, 06 historical relics and relics recognized at the provincial level.
I. HISTORICAL RELICS
1. National relics:
2. Provincial-level relics:
Scenic Landscapes
The pagoda was built in the 18th century (1741). In 1861, the pagoda was destroyed by the French invaders. In 1868, the pagoda was rebuilt at its current location with a construction area of 1,211 square meters.
2
. In 2007, the pagoda built a 7-storey tower 27 meters high and recreated the "Four Hearts" Buddhist site, including: Lumbini Garden (where Buddha was born), Bodhi Dai Trang (where Buddha practiced Buddhism), Deer Park (the place where Buddha first preached) and Ta La Song Tho (Buddha's nirvana) have profound meanings about the Dharma.
Currently, Thu Dau Mot market is located on a relatively flat location, close to the Saigon River and the roads surrounding the market; The North borders Nguyen Thai Hoc Street, the South borders Bach Dang Street, the West borders Doan Tran Nghiep Street, the East borders Tran Hung Dao Street. The market is a center with a convenient location for exchange and trade.
Phu Cuong - the original name of Thu Dau Mot market
When Nguyen Huu Kinh invaded Gia Dinh capital in 1698. In today's Phu Cuong area, residents gathered somewhat later than Lai Thieu and Thi Tinh, but gathered in large numbers and faster due to the location of the capital. of Binh Dien district, Binh An district, Bien Hoa province at that time.
Thu Dau Mot fish market wharf in 1950
Thu Dau Mot Market - French-style architecture heavy on European motifs
After the French occupied the six provinces of Cochinchina. Among them, in Bien Hoa province (Binh An district in Bien Hoa province), the French restored and completely transformed Phu Cuong market with a paved gate and a high road inside. According to "Binh Duong Local Journal" written in 1888, the French authorities filled the Phu Cuong canal connecting with the Saigon River and completed this work in 1890.
By 1935, the French realized that investing in the market had great benefits, they restored and completely transformed Phu Cuong market to simulate the style of ancient markets in France with a structure similar to Nam Vang market ( Cambodia) and Ben Thanh market (Saigon). The special feature of the above model is that they still respect and maintain the old position. In 1938, Thu Market was inaugurated with a new model, liberal and elegant architecture, which at that time had an advantage over many other places.
Thu Dau Mot Market before 1975
The market is divided into seven large and small areas and is built in a rectangular style with three separate houses. Entering from Tran Hung Dao street, we come across a long house with one floor and one ground floor, also known as (Thuong Xa area), built and arranged into small subdivisions that folk often call "market stalls" to display and sell goods. Behind the Trade Center area is a horizontal house (dining area), built between the Trade Center area and the Clock area, arranged into three main rooms to serve dining. Behind is the long house - the market row house (or Dong Ho market) also built and arranged in small subdivisions, including right at the foot of the market Clock Tower.
The market row house was the first house built by the French colonialists in 1935, with an architectural style shaped like a ship and the top of the tower is a clock with a heavy European motif, designed by Mr. Bonnemain, a French architect. inaugurated in 1938. The row of houses was built according to long house architecture, with an area of 2,590 square meters.
2
, has two roofs divided into two floors, the height from base to top is 10.3m. The house has a very important meaning in the formation and development of the Thu market.>The Market Clock Tower is built in a hexagonal style attached to the market row house, with a height of 23.72m, including four floors. The ground floor from floor to ceiling has a height of 6.5m, poured with concrete and reinforced steel, with up and down stairs made of iron and mounted on the inside of the tower. In addition to stone paving and encaustic tiles on the East and West sides of the tower. From the second floor upwards, the tower is built high inside into eight pillars on the hexagonal edges. The tower is built in a three-step style, the higher it goes, the narrower it becomes. Up to the third floor, the tower was poured with concrete panels and built about one meter high to serve as the foundation for the clock face and also the place to mount the clock. On the background of the watch face is made of white background, blue numbers and clock hands are painted black. Four concrete panels were poured on top of the clock to protect it from sun and rain. At the top of the tower are mounted 4 clocks. It is from the clocks arranged in East - West - South - North that a unique mark has been created, forming the familiar and deep feelings of the people of Binh Duong.
>Image of the market tower The clock is the heartbeat and a symbol that has gone through many ups and downs in the history of formation and development of this land.
Thu Dau Mot Market has always maintained its position as a typical commercial center of Binh Duong, and is also the place to witness many important historical events in the struggle for national liberation. That's why Binh Duong market is not only a place to buy and sell but also a cultural symbol associated with the development history of Binh Duong and the South.
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Riềng
Đặc điểm điều kiện tự nhiên
Tỉnh Bình Phước nói chung và huyện Phú Riềng nói riêng nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo gió mùa với 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
Nhiệt độ không khí
Nhiệt độ bình quân trong năm cao đều và ổn định từ 25,8 – 26,20C. Nhìn chung sự thay đổi nhiệt độ qua các tháng không lớn, song chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm thì khá lớn, khoảng 7 – 9
O
C nhất là vào các tháng mùa khô.
– Nhiệt độ trung bình: 26,10C/năm
– Nhiệt độ tháng cao nhất: 27,40C (tháng 5)
– Nhiệt độ tháng thấp nhất: 24,70C (tháng 11)
– Nhiệt độ cao tuyệt đối: 35,20C
– Nhiệt độ thấp tuyệt đối: 17,90C.
Đất ở huyện Phú Riềng
chủ yếu là đất đỏ Bazan rất màu mỡ, có khả năng thích nghi đối với nhiều loại cây trồng đặc biệt là các loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê, điều và tiêu là vựa cao su, cây điều lớn nhất của tỉnh Bình Phước.
Chính trị
Đảng bộ huyện Phú Riềng được thành lập theo quyết định số 1664-QĐ/TU, ngày 1/7/2015 và chính thức đi vào hoạt độngtừ ngày 01/8/2015; Tính đến tháng 10/2016, toàn huyện có 43 chi, đảng bộ trực thuộc và 2.006 đảng viên.
Ban Chấp hành đảng bộ Huyện có 30 đồng chí, Ban Thường vụ huyện ủy có 11 đồng chí, trong đó đồng chí Trần Văn Lân giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện; đồng chí Bùi Quốc Minh giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Hoàng Hùng giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện.
Văn hóa, xã hội
Trên địa bàn huyện hiện có 01 bệnh viện đa khoa thuộc công ty TNHH MTV Cao su Phú Riềng; có 45 trường học, trong đó có 15 trường mầm non, 17 trường tiểu học, 09 trường trung học cơ sở, 01 trường TH&THCS, 03 trường trung học phổ thông.
Đơn vị hành chính
Dân tộc, tôn giáo
|
General introduction to Phu Rieng district
Characteristics of natural conditions
Binh Phuoc province in general and Phu Rieng district in particular are located in a region characterized by a tropical sub-equatorial monsoon climate with two distinct seasons: rainy season and dry season.
Air temperature
The average temperature throughout the year is consistently high and stable from 25.8 - 26.20C. In general, the change in temperature over the months is not large, but the temperature difference between day and night is quite large, about 7 - 9 degrees.
O
C especially in the dry season months.
– Average temperature: 26.10C/year
– Highest monthly temperature: 27.40C (May)
– Lowest monthly temperature: 24.70C (November)
– Absolute high temperature: 35.20C
– Absolute low temperature: 17.90C.
Land in Phu Rieng district
Mainly Basalt red soil is very fertile, able to adapt to many types of crops, especially industrial crops such as rubber, coffee, cashew and pepper. This is the largest rubber and cashew tree in the country. Binh Phuoc.
Politics
Phu Rieng District Party Committee was established under Decision Không. 1664-QD/TU, dated July 1, 2015 and officially came into operation from August 1, 2015; As of October 2016, the entire district has 43 affiliated party branches and committees and 2,006 party members.
The District Party Executive Committee has 30 comrades, the District Party Standing Committee has 11 comrades, of which comrade Tran Van Lan holds the position of Secretary of the District Party Committee, Chairman of the District People's Council; Comrade Bui Quoc Minh holds the position of Permanent Deputy Secretary of the District Party Committee; Comrade Nguyen Hoang Hung holds the position of Deputy Secretary of the District Party Committee, Chairman of the District People's Committee.
Sociocultural
In the district, there is currently 01 general hospital belonging to Phu Rieng Rubber Company Limited; There are 45 schools, including 15 kindergartens, 17 elementary schools, 09 junior high schools, 01 middle and high school, 03 high schools.
Administrative units
Religious nation
|
Giới thiệu khái quát huyện Bù Gia Mập
Vị trí địa lý, diện tích dân số:
Huyện Bù Gia Mập gần như bao quanh Thị xã Phước Long, các tuyến đường ĐT chạy qua, cách thị xã Đồng Xoài 65 km
,
mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện khá hoàn chỉnh nối liền từ trung tâm huyện đến các xã đều được trải nhựa và nối liền với các huyện trong tỉnh. Trong đó có một số trục giao thông quan trọng là tỉnh lộ ĐT741 nối liền với trung tâm tỉnh lỵ
Ranh giới của huyện như sau:
– Phía Đông giáp huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông và huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước;
– Phía Tây giáp huyện Hớn Quản, huyện Lộc Ninh và huyện Bù Đốp;
– Phía Nam giáp huyện Phú Riềng và Thị xã Phước Long;
– Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài hơn 60km
– Huyện có 106.428,15 ha diện tích tự nhiên và dân số trung bình (năm 2015) là 75.208 người (trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số có 27.122 người) và có 08 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các xã: Đắk Ơ, Bù Gia Mập, Bình Thắng, Đức Hạnh, Phú Văn, Phú Nghĩa, Đa Kia và Phước Minh.
Huyện Bù Gia Mập nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi cao nguyên và vùng đồng bằng, có vị trí chiếm lược vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng.
Đặc điểm điều kiện tự nhiên
Tỉnh Bình Phước nói chung và huyện Bù Gia Mập nói riêng nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo gió mùa với 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
Nhiệt độ không khí
Nhiệt độ bình quân trong năm cao đều và ổn định từ 25,8 – 26,2
0
C. Nhìn chung sự thay đổi nhiệt độ qua các tháng không lớn, song chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm thì khá lớn, khoảng 7 – 9
0
C nhất là vào các tháng mùa khô.
– Nhiệt độ trung bình: 26,1
0
C/năm
– Nhiệt độ tháng cao nhất: 27,4
0
C (tháng 5)
– Nhiệt độ tháng thấp nhất: 24,7
0
C (tháng 11)
– Nhiệt độ cao tuyệt đối: 35,2
0
C
– Nhiệt độ thấp tuyệt đối: 17,9
0
C.
Đất ở huyện Bù Gia Mập chủ yếu là đất đỏ Bazan rất màu mỡ, có khả năng thích nghi đối với nhiều loại cây trồng đặc biệt là các loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê, điều và tiêu là vựa cao su, cây điều lớn nhất của tỉnh Bình Phước.
Huyện Bù Gia Mập có vườn Quốc gia Bù Gia Mập
với diện tích rừng và đất rừng khá lớn, khoảng 26.032 ha(trong đó rừng tự nhiên là 21.376 ha) nên hệ động, thực vật rừng rất đa dạng phong phú, là nơi bảo tồn hệ động, thực vật hoang dã, nguồn dược liệu quý hiếm(724 loài thực vật, 278 giống cây dược liệu, 437 loài động vật hoang dã), các nguồn gen quý hiếm của hệ động, thực vật, các mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới – thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, núi thấp có độ cao dưới 1.000m đặc trưng cho sự chuyển tiếp từ vùng Tây Nguyên xuống đồng bằng Nam Bộ. Bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn cho các hồ chứa nước của các công trình thuỷ điện như Thác Mơ, Cần Đơn..Ngoài ra còn phục vụ cho nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và phát triển du lịch sinh thái.
Trên địa bàn huyện có Sông Bé chảy qua theo hướng Bắc Nam, lưu vực rộng khoảng 4.000 km
2
Với 3 chi lưu chính: Suối Đăk Huýt dài 80 km, Suối Đắk Lung dài 50 km, suối Đắk Lap dài 9 km lưu lượng dòng chảy trung bình đạt khoảng 100m
3
/s. Trên Sông Bé quy hoạch 4 công trình thủy lợi, thủy điện lớn theo 4 bậc thang : Thủy điện Thác Mơ, Cần Đơn, Sóc Phú Miêng, và Phú Hòa.
Dân tộc, tôn giáo:
Bù Gia Mập có nhiều thành phần dân tộc khác nhau sinh sống với 23 dân tộc anh em. Đồng bào dân tộc ít người chiếm khoảng 36%, đa số là người S’tiêng, một số ít người Hoa, Khmer, Nùng, Tày,…vì thế Bù Gia Mập có nhiều nét văn hóa của đồng bào dân tộc Xtiêng.
Riêng đối với đồng bào dân tộc S’tiêng là dân tộc bản địa trên địa bàn huyện có nét văn hóa riêng và còn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống.
Trong nội bộ cộng đồng người S’tiêng thường phân biệt nhau theo nhóm dân cư địa phương, trước đây được chia thành 4 nhóm chính: Bulơ, Budek, Bulap và Bu biet, sau này họ chỉ phân thành 2 nhóm: Bulơ và Budek. Nơi cư trú chủ yếu của bà con người S’tiêng trên địa bàn huyện Bù Gia Mập là các xã Đắk Ơ, Bù Gia Mập, Phú Nghĩa, Phước Minh, Đa Kia…Trước đây, đa số đồng bào S’tiêng ở Bù Gia Mập nói chung đều có cuộc sống khó khăn, lương thực cũng chỉ đủ dùng trong 6 đến 8 tháng, thực phẩm thì lại rất thiếu, bữa ăn trong gia đình rất sơ sài, có khi cũng chỉ có mỗi một món canh mướp rừng. Nguyên nhân của sự thiếu đói lương thực là do cây trồng ít được chăm sóc một cách kỹ lưỡng bằng phân bón cũng như các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh, việc tuỳ ý chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tập quán sinh hoạt, sản xuất, trình độ dân trí thấp… Được sự quan tâm của Đảng, chính quyền các cấp ở địa phương thông qua các chính sách hỗ trợ, các biện pháp tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân, các nguyên nhân trên đang từng bước được khắc phục. Hiện nay, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đã từng bước được cải thiện rõ rệt. Nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế gia đình ổn định có của ăn, của để, xây nhà, mua sắm xe ô tô, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất và sinh hoạt gia đình, đầu tư cho con cái học tập, tích lũy tài sản…Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hộ rất nghèo(hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số là 1.398 hộ, chiếm 38,2% tổng số hộ nghèo toàn huyện, chiếm 52% tổng số hộ đồng bào dân tộc thiểu số của toàn huyện), vẫn còn tình trạng đói giáp hạt vào tháng 9 đến tháng 12. Do đó, để giải quyết bài toán thoát nghèo cũng vẫn là vấn đề nan giải, lâu dài, cần sự chung sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân huyện nhà.
Trên địa bàn huyện có khoảng 30 cơ sở tôn giáo, có ba tôn giáo chính là Công giáo, Phật giáo và Tin Lành. Ngoài ra còn một số ít người theo các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo Hồi …
|
General introduction of Bu Gia Map district
Geographic location, population area:
Bu Gia Map district almost surrounds Phuoc Long town, the main roads run through it, 65 km from Dong Xoai town.
,
The transportation network in the district is quite complete, connecting from the district center to the communes, which are all paved and connected to districts in the province. Some important traffic axes include provincial road DT741 connecting with the provincial center
The district boundaries are as follows:
– The East borders Tuy Duc district, Dak Nong province and Bu Dang district, Binh Phuoc province;
– The West borders Hon Quan district, Loc Ninh district and Bu Dop district;
– The South borders Phu Rieng district and Phuoc Long Town;
– The North borders Cambodia with a border more than 60km long
– The district has 106,428.15 hectares of natural area and an average population (in 2015) of 75,208 people (of which, ethnic minorities have 27,122 people) and has 08 affiliated administrative units, including the following: Communes: Dak O, Bu Gia Map, Binh Thang, Duc Hanh, Phu Van, Phu Nghia, Da Kia and Phuoc Minh.
Bu Gia Map district is located in the transition zone between the mountainous plateau and the delta, occupying an extremely important strategic position in terms of economics, politics and national security and defense.
Characteristics of natural conditions
Binh Phuoc province in general and Bu Gia Map district in particular are located in a region characterized by a sub-equatorial tropical monsoon climate with two distinct seasons: rainy season and dry season.
Air temperature
The average temperature throughout the year is consistently high and stable from 25.8 to 26.2
0
C. In general, the change in temperature over the months is not large, but the temperature difference between day and night is quite large, about 7 - 9 degrees
0
C especially in the dry season months.
– Average temperature: 26.1
0
C/year
– Highest monthly temperature: 27.4
0
C (May)
– Lowest monthly temperature: 24.7
0
C (November)
– Absolute high temperature: 35.2
0
C
– Absolute low temperature: 17.9
0
C.
The soil in Bu Gia Map district is mainly Basalt red soil, which is very fertile and has the ability to adapt to many types of crops, especially industrial crops such as rubber, coffee, cashew and pepper. , the largest cashew tree in Binh Phuoc province.
Bu Gia Map district has Bu Gia Map National Park
With a fairly large area of forests and forest land, about 26,032 hectares (of which natural forests are 21,376 hectares), the forest flora and fauna are very diverse and rich, serving as a place to preserve wild flora and fauna and medicinal sources. rare materials (724 plant species, 278 medicinal plant varieties, 437 wild animal species), rare genetic resources of flora and fauna, standard samples of tropical humid deciduous forest ecosystems - Evergreen tropical humid rain, low mountains with an altitude of less than 1,000m characterize the transition from the Central Highlands to the Southern Delta. Protecting watershed protection forests for reservoirs of hydroelectric projects such as Thac Mo, Can Don... In addition, it also serves scientific research, environmental education and eco-tourism development.
In the district, the Be River flows through the North-South direction, the basin is about 4,000 km wide
2
With 3 main tributaries: Dak Huyt Stream 80 km long, Dak Lung Stream 50 km long, Dak Lap Stream 9 km long the average flow is about 100m
3
/S. On Song Be, 4 large irrigation and hydropower projects are planned in 4 steps: Thac Mo, Can Don, Soc Phu Mieng, and Phu Hoa hydropower plants.
Religious nation:
Bu Gia Map has many different ethnic groups living with 23 ethnic groups. Ethnic minorities account for about 36%, the majority are S'tieng people, a small number of Chinese, Khmer, Nung, Tay,...so Bu Gia Map has many cultural features of the Xtieng ethnic people.
Particularly for the S'tieng ethnic group, the indigenous people in the district have their own culture and still retain many traditional cultural features.
Within the S'tieng community, they are often differentiated according to local population groups. Previously, they were divided into 4 main groups: Buleu, Budek, Bulap and Bu biet, later they were only divided into 2 groups: Buleu and Budek. . The main residence of the S'tieng people in Bu Gia Map district is the communes of Dak O, Bu Gia Map, Phu Nghia, Phuoc Minh, Da Kia... Previously, the majority of the S'tieng people lived in Bu Gia Map in general have a difficult life, food is only enough for 6 to 8 months, food is very lacking, family meals are very meager, sometimes there is only one wild melon soup. . The cause of food shortage is that crops are less carefully cared for with fertilizers and pesticides, and arbitrary changes in crop structure, living and production practices. , low educational level... With the attention of the Party and local authorities at all levels through supportive policies and propaganda measures to raise people's awareness, the above causes are gradually being resolved. fix. Currently, the lives of ethnic minorities have gradually improved significantly. Many ethnic minority households develop production, build a stable family economy, have food and shelter, build houses, buy cars, machinery, and equipment to serve production and family activities. family, investing in children's education, accumulating assets... However, there are still some very poor households (poor ethnic minority households are 1,398 households, accounting for 38.2% of the total number of households). poverty in the entire district, accounting for 52% of the total number of ethnic minority households in the entire district), there is still a state of hunger in the districts from September to December. Therefore, solving the problem of escaping poverty is still a problem. difficult, long-term, requiring the joint efforts of the entire Party, the entire army, and the entire people of the district.
There are about 30 religious establishments in the district, with three main religions being Catholicism, Buddhism and Protestantism. There are also a few people who follow other religions such as Cao Dai, Hoa Hao, Islam...
|
Giới thiệu khái quát huyện Lộc Ninh
Huyện Lộc Ninh là huyện miền núi biên giới phía Tây – Bắc của tỉnh Bình Phước, có đường biên giới dài hơn 100k tiếp giáp với huyện Sanuol tỉnh Kratie và Mimot, tỉnh Congpongcham của Campuchia. Có 01 cửa khẩu quốc tế Hoa Lư. Huyện Lộc Ninh nay là phần còn lại của huyện Lộc Ninh cũ sau khi tách 5 xã phía Đông – Bắc để thành lập huyện Bù Đốp theo Nghị định số 17/NĐ-CP ngày 20/2/2003 của Chính Phủ. Vị trí địa lý được xác định bởi tọa độ sau: – Vĩ độ Bắc: 11o29’33” – 12o05’00”. – Kinh độ Đông: 106o24’57”. Về ranh giới: – Phía Tây và phaí Bắc giáp Cămpuchia. – Một phần nhỏ ranh giới phía Tây – Nam giáp tỉnh Tây Ninh. – Phía Đông giáp huyện Bù Đốp và huyện Phước Long. – Phía Nam giáp với huyện Bình Long. Diện tích tự nhiên: 86.297,52 ha, chiếm 12,6% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số năm 2006 là: 113.312 người, trong đó dân tộc chiếm khoảng 18% dân số toàn huyện. Ranh giới huyện Lộc Ninh được hình thành bởi 15 xã và 1 thị trấn, bao gồm: Thị trấn Lộc Ninh và các xã Lộc Quang, Lộc Phú, Lộc Hiệp, Lộc An, Lộc Hòa, Lộc Thạnh, Lộc Tấn, Lộc Thiện, Lộc Thành, Lộc Thái, Lộc Điền, Lộc Thuận, Lộc Khánh. Lộc Hưng, Lộc Thịnh. Có QL 13 đi qua trung tâm huyện nối liền với Campuchia thông qua cửa khẩu Hoa Lư và sắp tới có đường sắt xuyên Á đi qua, đây chính là lợi thế trong phát triển KTXH trong tương lai với các nước. Lộc Ninh có địa hình cao từ phía Bắc, thấp dần về phía Nam, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lộc Ninh có tổng diện tích tự nhiên là 86.297,52ha, trong đó đất rừng chiếm 68.714 ha, còn lại là đất nông nghiệp với phần lớn là đất đỏ bazan có độ phì nhiêu cao, phù hợp các loại cây trồng có thu nhập cao như: cà phê, điều, hồ tiêu, cao su. Lộc Ninh có 2 con sông lớn chay qua là sông Măng tạo thành biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Cămpuchia, sông bé tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Lộc Ninh với huyện Phước Long. Ngoài ra còn có Suối Cần Lê là ranh giới giữa huyện Lộc Ninh với huyện Bình Long và trên 20 con suối lớn nhỏ trên địa bàn huyện.
Từ 2500 cho đến 3000 trước (tương ứng với các đời vua Hùng dựng nước), mảnh đất Lộc Ninh đã có người cư trú. Đó là vài nhóm thuộc người Indonesien cổ nói tiếng Môn-Khmer, tổ tiên của người S’tiêng, Mạ, M’nông, Khome hiện nay. Đến đầu thế kỷ XIX, Lộc Ninh chỉ có dân cư của các nhóm địa phương khác nhau thuộc các bộ tộc S’tiêng, Mạ, M’nông, Khome… cư trú rải rác từ năm 1801, triều Nguyễn bắt đầu cho thiết lập cơ cấu hành chính và hệ thống đồn ải để quản lý dân cư và lãnh thổ. Những năm 20,30 đầu thế kỷ XIX, người Việt, trước tiên là binh lính đồn trú và gia đình họ, bắt đầu có mặt tại Lộc Ninh. Lúc bấy giờ, vùng Lộc Ninh thuộc huyện Phước Long, thị trấn Biên Hoà (sau đổi thành tỉnh Biên Hoà). Tháng 12/1861, sau khi chiếm tỉnh thành Biên Hoà, thực dân Pháp đưa quân tiến chiếm Lộc Ninh. Đến năm 1889, Lộc Ninh trở thành một tổng của Phủ Phước Long, tỉnh Biên Hoà và đến năm 1893 Lộc Ninh là một quận Cần Lê. Cư dân người Việt sinh sống tại đây tăng lên khá nhanh chóng. Bước sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp lần lượt lập nên ở vùng Lộc Ninh – Hớn Quản các đại lý hành chính và đồn binh như đại lý hành chính Hớn Quản (1906), đôn binh Bù Đốp (1906) để xiết chặt ách kiểm soát. Năm 1912, tỉnh Thủ Dầu Một được hình thành từ một phần tỉnh Biên Hoà và một phần của tỉnh Gia Định. Đến đây Lộc Ninh là một trong 12 tổng của Tỉnh Thủ Dầu Một. Cũng vào thời điểm này, tư bản Pháp đổ xô vào chiếm đất lập đồn điền cao su. Năm 1911, Công ty cao su Xét Xô ra đời, đặt trụ sở tai Lộc Ninh. Nguồn nhân công tại chỗ không đáp ứng đủ nhu cầu nên bọn địa chủ tư bản đã cấu kết cùng chính quyền thực dân sử dụng lực lượng cai mộ phu thực hiện các thủ đoạn lừa mỵ, mua chuộc và cưỡng bức nông dân miền Bắc, miền Trung vào làm công nhân trong các đồn điền. Từ năm 1917 đến năm 1928 hàng ngàn người các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam bị lùa vào vùng Lộc Ninh, Bù Đốp. Cho đến năm 1943, đã có hơn 20.000 đồng bào miền bắc, miền trung vào 8.000 đồng bào dân tộc làm công nhân cho đồn điền cao su ở Lộc Ninh. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giới tư bản áp bức bóc lột công nhân cao su và đồng bào cư ngụ trong vùng, thực dân Pháp giao bộ máy hành chính địa phương cho bọn chủ đồn điền quản lý. Đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ. Từ năm 1927, Lộc Ninh trở thành một xã của quận Bù Đốp, tỉnh Thủ Dầu Một, ngồm 11 làng và một số phum sóc đồng bào dân tộc. Cơ cấu hành chính này giữ nguyên cho đến năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, theo hệ thống tổ chức của cách mạng từ năm 1946 đến năm 1951, Lộc Ninh là một xã thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Dầu Một. Sau hiệp định Geneve (20/7/1954), đế quốc Mỹ nhảy vào Miền Nam lập nên chế độ tay sai Ngô Đình Diệm. Chính quyền Diệm dùng những biện pháp lừa mỵ và cưỡng ép đồng bào Thiên chúa giáo di cư vào Nam, cải tổ việc bố trí dân cư và tổ chức bộ máy hành chính nhằm tạo lá chắn bảo vệ thủ đô Sài Gòn từ xa. đồng thời để tạo bàn đạp cơ động tấn công các căn cứ kháng chiến, tách dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng. Đồng bào Thiên chúa giáo ở xứ đạo Bùi Chu, Phát Diệm bị đẩy lên đây đã xây dựng các đồn điền Chu Ninh, 1,2,3 ở Thiện Hưng, Tích Thiện, ở Lộc Khánh… Tiếp đó, nhiều gia đình vốn là dân vùng căn cứ kháng chiến khu 5, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng bị lùa vào đình cư ở Lộc Ninh, tại những khu trọng điểm trong kế hoạch quân sự địa phương của Mỹ – Diệm. Tháng 10/1956 chính quyền Ngô Đình Diệm tách một số quận Bắc của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hoà để thành lập hai tỉnh mới tỉnh Bình Long và Phước Long. Từ tháng 10/1957, theo cơ cấu hành chính của tỉnh Lộc Ninh là một đơn vị hành chính cấp Quận thuộc tỉnh Bình Long. Tháng 4/1972 Lộc Ninh hoàn toàn giải phóng và vinh dự trở thành nơi đặt cơ quan lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam và bộ chỉ huy Miền, là trung tâm chính trị của Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Liền sau đó, Lộc Ninh là nơi tiếp nhận hàng vạn Việt kiều từ Campuchia chạy về tránh sự khủngbố, giết hại của bọn phản đọng Lon Nol đang cầm quyền. Dân số Lộc Ninh tiếp tục tăng đáng kể. Trong khoảng thời gian từ năm 1972 đến cuối năm 1975, theo hệ thống tổ chức của nước ta, hai tỉnh Bình Long và Phước Long được hợp nhất thành tỉnh Bình Phước (sau đó tỉnh Bình Phước lại hợp nhất với tỉnh Thủ Dầu Một thành tỉnh Bình Thủ). Tháng 10 năm 1976 theo quyết đình của Quốc hội khoá IV nước Cộng Hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, tỉnh Sông Bé được thành lập rên cơ sở các tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước trước đây, bao gồm 9 huyện, thị. Ba huyện Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn thành hợp nhất thành huyện Bình Long, thuộc tỉnh Sông Bé. Đến tháng 3/1978, Chính Phủ nước Cộng Hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định tách huyện Lộc Ninh ra khỏi huyện Bình Long và Bù Đốp ra khỏi huyện Phước Long để thành lập huyện Lộc Ninh mới. Trong khoảng thưòi gian này, hưởng ứng chủ trương của Đảng về việc phân bố lại dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới, dân nhiều địa phương thuộc Hà Sơn Bình, bình Trị Thiên, TP HCM đến Lộc Ninh làm ăn sinh sống ngày càng nhiều. Đến năm 1997 tỉnh Sông Bé cắt các huyện Lộc Ninh, Chơn Thành, Đồng Phú, Phước Long, Bù Đăng, Bình Long để thành lập tỉnh Bình Phước. Thực hiện Nghị Định 17/NĐ-CP ngày 20/2/2003 về việc thành lập huyện Bù Đốp, từ ngày 01/5/2003 huyện Lộc Ninh được tách ra thành 2 huyện Bù Đốp và Lộc Ninh. Sau khi chia tách, huyện Lộc Ninh còn lại tổng diện tích tự nhiên là 86.297,52 ha gồm 12 xã và 1 thị trấn đến năm 2008 thành lập thêm 3 xã mới nâng lên tổng số xã là 15 và 1 thị trấn.
|
Giới thiệu khái quát huyện Lộc Ninh
Huyện Lộc Ninh là huyện miền núi biên giới phía Tây – Bắc của tỉnh Bình Phước, có đường biên giới dài hơn 100k tiếp giáp với huyện Sanuol tỉnh Kratie và Mimot, tỉnh Congpongcham của Campuchia. Có 01 cửa khẩu quốc tế Hoa Lư. Huyện Lộc Ninh nay là phần còn lại của huyện Lộc Ninh cũ sau khi tách 5 xã phía Đông – Bắc để thành lập huyện Bù Đốp theo Nghị định số 17/NĐ-CP ngày 20/2/2003 của Chính Phủ. Vị trí địa lý được xác định bởi tọa độ sau: – Vĩ độ Bắc: 11o29’33” – 12o05’00”. – Kinh độ Đông: 106o24’57”. Về ranh giới: – Phía Tây và phaí Bắc giáp Cămpuchia. – Một phần nhỏ ranh giới phía Tây – Nam giáp tỉnh Tây Ninh. – Phía Đông giáp huyện Bù Đốp và huyện Phước Long. – Phía Nam giáp với huyện Bình Long. Diện tích tự nhiên: 86.297,52 ha, chiếm 12,6% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số năm 2006 là: 113.312 người, trong đó dân tộc chiếm khoảng 18% dân số toàn huyện. Ranh giới huyện Lộc Ninh được hình thành bởi 15 xã và 1 thị trấn, bao gồm: Thị trấn Lộc Ninh và các xã Lộc Quang, Lộc Phú, Lộc Hiệp, Lộc An, Lộc Hòa, Lộc Thạnh, Lộc Tấn, Lộc Thiện, Lộc Thành, Lộc Thái, Lộc Điền, Lộc Thuận, Lộc Khánh. Lộc Hưng, Lộc Thịnh. Có QL 13 đi qua trung tâm huyện nối liền với Campuchia thông qua cửa khẩu Hoa Lư và sắp tới có đường sắt xuyên Á đi qua, đây chính là lợi thế trong phát triển KTXH trong tương lai với các nước. Lộc Ninh có địa hình cao từ phía Bắc, thấp dần về phía Nam, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lộc Ninh có tổng diện tích tự nhiên là 86.297,52ha, trong đó đất rừng chiếm 68.714 ha, còn lại là đất nông nghiệp với phần lớn là đất đỏ bazan có độ phì nhiêu cao, phù hợp các loại cây trồng có thu nhập cao như: cà phê, điều, hồ tiêu, cao su. Lộc Ninh có 2 con sông lớn chay qua là sông Măng tạo thành biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Cămpuchia, sông bé tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Lộc Ninh với huyện Phước Long. Ngoài ra còn có Suối Cần Lê là ranh giới giữa huyện Lộc Ninh với huyện Bình Long và trên 20 con suối lớn nhỏ trên địa bàn huyện.
Từ 2500 cho đến 3000 trước (tương ứng với các đời vua Hùng dựng nước), mảnh đất Lộc Ninh đã có người cư trú. Đó là vài nhóm thuộc người Indonesien cổ nói tiếng Môn-Khmer, tổ tiên của người S’tiêng, Mạ, M’nông, Khome hiện nay. Đến đầu thế kỷ XIX, Lộc Ninh chỉ có dân cư của các nhóm địa phương khác nhau thuộc các bộ tộc S’tiêng, Mạ, M’nông, Khome… cư trú rải rác từ năm 1801, triều Nguyễn bắt đầu cho thiết lập cơ cấu hành chính và hệ thống đồn ải để quản lý dân cư và lãnh thổ. Những năm 20,30 đầu thế kỷ XIX, người Việt, trước tiên là binh lính đồn trú và gia đình họ, bắt đầu có mặt tại Lộc Ninh. Lúc bấy giờ, vùng Lộc Ninh thuộc huyện Phước Long, thị trấn Biên Hoà (sau đổi thành tỉnh Biên Hoà). Tháng 12/1861, sau khi chiếm tỉnh thành Biên Hoà, thực dân Pháp đưa quân tiến chiếm Lộc Ninh. Đến năm 1889, Lộc Ninh trở thành một tổng của Phủ Phước Long, tỉnh Biên Hoà và đến năm 1893 Lộc Ninh là một quận Cần Lê. Cư dân người Việt sinh sống tại đây tăng lên khá nhanh chóng. Bước sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp lần lượt lập nên ở vùng Lộc Ninh – Hớn Quản các đại lý hành chính và đồn binh như đại lý hành chính Hớn Quản (1906), đôn binh Bù Đốp (1906) để xiết chặt ách kiểm soát. Năm 1912, tỉnh Thủ Dầu Một được hình thành từ một phần tỉnh Biên Hoà và một phần của tỉnh Gia Định. Đến đây Lộc Ninh là một trong 12 tổng của Tỉnh Thủ Dầu Một. Cũng vào thời điểm này, tư bản Pháp đổ xô vào chiếm đất lập đồn điền cao su. Năm 1911, Công ty cao su Xét Xô ra đời, đặt trụ sở tai Lộc Ninh. Nguồn nhân công tại chỗ không đáp ứng đủ nhu cầu nên bọn địa chủ tư bản đã cấu kết cùng chính quyền thực dân sử dụng lực lượng cai mộ phu thực hiện các thủ đoạn lừa mỵ, mua chuộc và cưỡng bức nông dân miền Bắc, miền Trung vào làm công nhân trong các đồn điền. Từ năm 1917 đến năm 1928 hàng ngàn người các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam bị lùa vào vùng Lộc Ninh, Bù Đốp. Cho đến năm 1943, đã có hơn 20.000 đồng bào miền bắc, miền trung vào 8.000 đồng bào dân tộc làm công nhân cho đồn điền cao su ở Lộc Ninh. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giới tư bản áp bức bóc lột công nhân cao su và đồng bào cư ngụ trong vùng, thực dân Pháp giao bộ máy hành chính địa phương cho bọn chủ đồn điền quản lý. Đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ. Từ năm 1927, Lộc Ninh trở thành một xã của quận Bù Đốp, tỉnh Thủ Dầu Một, ngồm 11 làng và một số phum sóc đồng bào dân tộc. Cơ cấu hành chính này giữ nguyên cho đến năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, theo hệ thống tổ chức của cách mạng từ năm 1946 đến năm 1951, Lộc Ninh là một xã thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Dầu Một. Sau hiệp định Geneve (20/7/1954), đế quốc Mỹ nhảy vào Miền Nam lập nên chế độ tay sai Ngô Đình Diệm. Chính quyền Diệm dùng những biện pháp lừa mỵ và cưỡng ép đồng bào Thiên chúa giáo di cư vào Nam, cải tổ việc bố trí dân cư và tổ chức bộ máy hành chính nhằm tạo lá chắn bảo vệ thủ đô Sài Gòn từ xa. đồng thời để tạo bàn đạp cơ động tấn công các căn cứ kháng chiến, tách dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng. Đồng bào Thiên chúa giáo ở xứ đạo Bùi Chu, Phát Diệm bị đẩy lên đây đã xây dựng các đồn điền Chu Ninh, 1,2,3 ở Thiện Hưng, Tích Thiện, ở Lộc Khánh… Tiếp đó, nhiều gia đình vốn là dân vùng căn cứ kháng chiến khu 5, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng bị lùa vào đình cư ở Lộc Ninh, tại những khu trọng điểm trong kế hoạch quân sự địa phương của Mỹ – Diệm. Tháng 10/1956 chính quyền Ngô Đình Diệm tách một số quận Bắc của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hoà để thành lập hai tỉnh mới tỉnh Bình Long và Phước Long. Từ tháng 10/1957, theo cơ cấu hành chính của tỉnh Lộc Ninh là một đơn vị hành chính cấp Quận thuộc tỉnh Bình Long. Tháng 4/1972 Lộc Ninh hoàn toàn giải phóng và vinh dự trở thành nơi đặt cơ quan lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam và bộ chỉ huy Miền, là trung tâm chính trị của Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Liền sau đó, Lộc Ninh là nơi tiếp nhận hàng vạn Việt kiều từ Campuchia chạy về tránh sự khủngbố, giết hại của bọn phản đọng Lon Nol đang cầm quyền. Dân số Lộc Ninh tiếp tục tăng đáng kể. Trong khoảng thời gian từ năm 1972 đến cuối năm 1975, theo hệ thống tổ chức của nước ta, hai tỉnh Bình Long và Phước Long được hợp nhất thành tỉnh Bình Phước (sau đó tỉnh Bình Phước lại hợp nhất với tỉnh Thủ Dầu Một thành tỉnh Bình Thủ). Tháng 10 năm 1976 theo quyết đình của Quốc hội khoá IV nước Cộng Hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, tỉnh Sông Bé được thành lập rên cơ sở các tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước trước đây, bao gồm 9 huyện, thị. Ba huyện Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn thành hợp nhất thành huyện Bình Long, thuộc tỉnh Sông Bé. Đến tháng 3/1978, Chính Phủ nước Cộng Hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định tách huyện Lộc Ninh ra khỏi huyện Bình Long và Bù Đốp ra khỏi huyện Phước Long để thành lập huyện Lộc Ninh mới. Trong khoảng thưòi gian này, hưởng ứng chủ trương của Đảng về việc phân bố lại dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới, dân nhiều địa phương thuộc Hà Sơn Bình, bình Trị Thiên, TP HCM đến Lộc Ninh làm ăn sinh sống ngày càng nhiều. Đến năm 1997 tỉnh Sông Bé cắt các huyện Lộc Ninh, Chơn Thành, Đồng Phú, Phước Long, Bù Đăng, Bình Long để thành lập tỉnh Bình Phước. Thực hiện Nghị Định 17/NĐ-CP ngày 20/2/2003 về việc thành lập huyện Bù Đốp, từ ngày 01/5/2003 huyện Lộc Ninh được tách ra thành 2 huyện Bù Đốp và Lộc Ninh. Sau khi chia tách, huyện Lộc Ninh còn lại tổng diện tích tự nhiên là 86.297,52 ha gồm 12 xã và 1 thị trấn đến năm 2008 thành lập thêm 3 xã mới nâng lên tổng số xã là 15 và 1 thị trấn.
|
Giới thiệu khái quát huyện Đồng Phú
I. Đặc điểm tự nhiên
Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, cả nước bước sang một thời kỳ mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội và xây dựng đất nước sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta chủ trương kiện toàn một bước về mặt tổ chức bộ máy hành chính ở cơ sở. Tỉnh Sông Bé được thành lập bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước (cũ). Đồng Phú là một trong 7 huyện, thị của tỉnh. Tên gọi Đồng Phú được bắt nguồn từ “Đồng Xoài” và “Phú Giáo”, là hai huyện sáp nhập lại vào tháng 10 năm 1976.
Huyện Đồng Phú nằm ở phía đông bắc tỉnh Sông Bé, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía tây giáp huyện Bình Long, phía nam giáp huyện Tân Uyên, phía bắc giáp huyện Phước Long và Bù Đăng, khi mới thành lập gồm 17 xã, thị trấn với tổng diện tích tự nhiên là 164.650 ha, trong đó có khoảng 100.000 ha đất rừng, còn lại là đất sản xuất nông nghiệp, trồng cây công nghiệp và các loại đất khác.
Nằm ở độ cao trung bình so với mặt nước biển khoảng 100 đến 120 mét. Đất đai chủ yếu là đất đỏ bazan, feralit nâu đỏ và một ít đất xám, rất phù hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày như cao su, hồ tiêu, điều, cà phê, mía… Khí hậu điều hòa, mỗi năm có 2 mùa rõ rệt; thời tiết nóng ấm quanh năm với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27,8oC; độ ẩm không khí cao và đều, rất ít khi chịu ảnh hưởng của gió bão thích hợp cho cây trồng và vật nuôi phát triển.
Địa bàn Đồng Phú được bao quanh bởi hai con sông lớn (Sông Bé và sông Đồng Nai) cùng với nhiều suối chảy qua như: suối Rạt, suối Nước Trong, suối Giai, suối Lam, suối Mã Đà và nhiều suối nhỏ với lưu lượng ít, rải rác ở khắp vùng trong Huyện, đây là nguồn cung cấp nước rất quan trọng cho nhân dân sản xuất và sinh hoạt.
Rừng đồng phú có nhiều loại gỗ quý hiếm như Sao, Gõ đỏ, Giáng hương, Bằng lăng, Cẩm lai, và các loại lâm sản khác như lồ ô, tre, nứa soong, mây, các loại dược liệu. Trong kháng chiến, rừng vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa quân sự rất lớn, là nơi cung cấp thực phẩm cho bộ đội, nơi che chở bộ đội, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, vừa là nơi vây hãm, kìm bước quân thù.
Là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có đường Quốc lộ 14, đường liên tỉnh ĐT.741 đi qua, đây là những con đường giao thông huyết mạch nối liền Đồng Phú với Tây Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh và nước bạn Cam-pu-chia. Bên cạnh đó còn có hàng trăm kilômét đường liên xã và đường 322 (nay là ĐT.753) nối liền với các xã trong Huyện với nhau, rất thuận tiện cho việc giao thương, đi lại.
Hiện nay, Đồng Phú là huyện nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có thế mạnh về đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực, tiềm năng kinh tế đã và đang được khơi dậy, hứa hẹn sẽ có những thành tựu đáng kể trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. Truyền Thống Văn hóa
Đồng Phú có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống (bao gồm 14 dân tộc anh em), dân cư tập trung từ mọi miền đất nước nên bản sắc văn hoá rất phong phú, đa dạng với nhiều loại hình văn hoá đặc sắc như: múa cồng chiêng, đi cà kheo (của người S`tiêng), lễ hội té nước (của người Khơme), hát quan họ, hát chèo, đờn ca tài tử (của người Kinh)… Nhưng truyền thống văn hoá lâu đời nhất ở Đồng Phú thuộc về đồng bào S`tiêng. Họ đã sống ở đây từ khoảng thế kỷ XVII, sống thành từng sóc nhỏ bên cạnh các con suối, mỗi sóc từ 5 đến 7 nhà, sống bằng nghề làm rẫy, làm ruộng và săn bắn, hái lượm. Họ thường sống trong các ngôi nhà dài đơn sơ được làm bằng gỗ, tranh tre và lồ ô, mỗi nhà chỉ có một cầu thang ở giữa để lên xuống; các loại dụng cụ sinh hoạt gia đình, công cụ sản xuất, vũ khí săn bắn… phần lớn đều làm từ cây rừng.
Người S’tiêng có hai ngày lễ lớn, đó là lễ cúng rẫy vào đầu năm và lễ mừng lúa mới vào cuối năm. Hằng năm, cứ đến độ tháng ba, tháng tư âm lịch là mùa phát rẫy, làm nương, đồng bào thường tổ chức lễ “cúng rẫy” cầu xin Giàng (trời) ban cho một vụ mùa bội thu, cầu cho mọi người được khoẻ mạnh, dân trong sóc được ấm no, vui vẻ. Đến khoảng tháng 10 âm lịch, khi mọi người gặt hái, rước lúa về sóc, kết thúc một năm làm lụng vất vả, đồng bào S’tiêng lại tổ chức lễ “cúng lúa”, đây là lễ hội lớn nhất trong năm. Vào dịp lễ hội, mọi người đều nghỉ ngơi, giết heo, đâm trâu, bò lấy đầu làm vật phẩm cúng tế trời, còn thịt thì xẻ ra cùng nhau ăn uống, nhảy múa, vui chơi ca hát và chúc tụng nhau. Trong lễ hội, người S’tiêng thường sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc như đờn đinh được làm bằng thân cây lồ ô và trái bầu, cồng, chiêng… trong ăn uống, vui chơi mọi người đều bình đẳng.
Trong đời sống tâm linh của người S’tiêng, “Trời” là biểu tượng của mọi uy quyền và sức mạnh, là đấng tối cao; mỗi khi có thiên tai, địch hoạ, bệnh tật họ đều cầu xin ông trời phù hộ, cứu giúp mình vượt qua hoạn nạn. Bản chất của người S’tiêng rất thật thà, chất phác, cần cù, thích tự do, sống có tình nghĩa, thuỷ chung, ghét sự dối trá, trộm cắp. Người S’tiêng cũng rất khéo tay và giàu óc sáng tạo, thể hiện rõ nét trong kỹ thuật đan lát, đẽo gọt và nhất là trong nghề dệt cổ truyền của người phụ nữ.
III. Đặc điểm dân cư và những biến đổi hành chính.
1. Đặc điểm dân cư
Năm 1976, dân số của Đồng Phú mới chỉ có khoảng 10.000 người sống phân tán trên một vùng rộng lớn, chủ yếu là đồng bào các dân tộc như: S’tiêng, M’nông, Khơme cùng với những gia đình công nhân thời Pháp thuộc và những người kháng chiến ở lại xây dựng quê hương. Thực hiện chủ trương của Đảng nhằm phân bổ lại dân cư, thành lập vùng kinh tế mới, Đồng Phú là nơi đất rộng người thưa, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa nên nhân dân từ khắp mọi miền đất nước tấp nập đến để xây dựng cuộc sống mới, chỉ riêng năm 1977 huyện đã tiếp nhận 25.000 dân từ Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Bắc đến lập nghiệp, nâng tổng số dân của huyện lên 43.000 người; đến năm 2005 dân số toàn huyện là 78.839 người.
Về tín ngưỡng, Đồng Phú có 6 tôn giáo lớn với 16.778 chức sắc, tín đồ, phật tử, chiếm 21,44% dân số của huyện.
Nhân dân Đồng Phú có truyền thống cần cù lao động sáng tạo, chịu thương chịu khó, khắc phục khó khăn gian khổ, đoàn kết, các dân tộc yêu thương giúp đỡ lẫn nhau luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, cùng nhân dân cả nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Những biến đổi về địa giới hành chính
Tháng 10 năm 1976, Huyện Đồng Phú được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 huyện Đồng Xoài và Phú Giáo, gồm 17 xã, trung tâm của Huyện là xã Tân Phú (nay thuộc Thị xã Đồng Xoài). Là một vùng rộng lớn, kéo dài trên 50km dọc theo đường ĐT.741, từ cầu Sông Bé tới tận xã Phú Riềng của huyện Phước Long (xã Phú Riềng trước đây thuộc huyện Đồng Phú, năm 1988, nhập xã Phú Riềng vào huyện Phước Long).Do nhu cầu phát triển xã hội, Quốc hội khoá IX – kỳ họp thứ 10 ngày 6/11/1996 đã quyết định tách tỉnh Sông Bé thành 2 tỉnh Bình Phước và Bình Dương, Đồng Phú trở thành trung tâm của tỉnh Bình Phước. Sau khi thực hiện chia tách tỉnh, Đồng Phú đã bàn giao 5 xã và 1 thị trấn với tổng diện tích đất tự nhiên là 109.863 ha, dân số 19.889 hộ với 92.959 khẩu về huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương.
Thực hiện Nghị định 90/1999/NĐ-CP, ngày 01/9/1999 của Chính phủ về việc “Thành lập thị xã Đồng Xoài và các phường, xã thuộc thị xã trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Đồng Phú”, Đồng Phú lại được điều chỉnh địa giới hành chính một lần nữa. Lúc này, diện tích tự nhiên của huyện còn 92.906,5 ha; dân số toàn huyện là 12.085 hộ, 59.220 khẩu, trung tâm của Huyện là xã Tân Lợi (nay là thị trấn Tân Phú).
Sau khi thực hiện việc điều chỉnh địa giới hành chính theo bản đồ số 364, đến năm 2005 diện tích tự nhiên của Huyện là 93.542,53 ha; dân số 78.839 người. Huyện có 10 xã và 01 thị trấn.
Được sự quan tâm giúp đỡ của Tỉnh và Trung ương cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Đồng Phú đã và đang từng bước vươn lên tự khẳng định mình, ra sức phấn đấu trở thành một Huyện giàu về kinh tế, ổn định về chính trị – xã hội, đẹp về văn hoá, vững mạnh về quốc phòng – an ninh, cùng cả nước đi lên thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ủy ban nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Diện tích tự nhiên: 935,42 km²
Dân số: 88.093 người (năm 2013).
Địa chỉ lên hệ: Khu phố Tân An, thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Điện thoại: 06513 832007.
Fax: 06513.832085.
|
Giới thiệu khái quát huyện Đồng Phú
I. Đặc điểm tự nhiên
Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, cả nước bước sang một thời kỳ mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội và xây dựng đất nước sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta chủ trương kiện toàn một bước về mặt tổ chức bộ máy hành chính ở cơ sở. Tỉnh Sông Bé được thành lập bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước (cũ). Đồng Phú là một trong 7 huyện, thị của tỉnh. Tên gọi Đồng Phú được bắt nguồn từ “Đồng Xoài” và “Phú Giáo”, là hai huyện sáp nhập lại vào tháng 10 năm 1976.
Huyện Đồng Phú nằm ở phía đông bắc tỉnh Sông Bé, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía tây giáp huyện Bình Long, phía nam giáp huyện Tân Uyên, phía bắc giáp huyện Phước Long và Bù Đăng, khi mới thành lập gồm 17 xã, thị trấn với tổng diện tích tự nhiên là 164.650 ha, trong đó có khoảng 100.000 ha đất rừng, còn lại là đất sản xuất nông nghiệp, trồng cây công nghiệp và các loại đất khác.
Nằm ở độ cao trung bình so với mặt nước biển khoảng 100 đến 120 mét. Đất đai chủ yếu là đất đỏ bazan, feralit nâu đỏ và một ít đất xám, rất phù hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày như cao su, hồ tiêu, điều, cà phê, mía… Khí hậu điều hòa, mỗi năm có 2 mùa rõ rệt; thời tiết nóng ấm quanh năm với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27,8oC; độ ẩm không khí cao và đều, rất ít khi chịu ảnh hưởng của gió bão thích hợp cho cây trồng và vật nuôi phát triển.
Địa bàn Đồng Phú được bao quanh bởi hai con sông lớn (Sông Bé và sông Đồng Nai) cùng với nhiều suối chảy qua như: suối Rạt, suối Nước Trong, suối Giai, suối Lam, suối Mã Đà và nhiều suối nhỏ với lưu lượng ít, rải rác ở khắp vùng trong Huyện, đây là nguồn cung cấp nước rất quan trọng cho nhân dân sản xuất và sinh hoạt.
Rừng đồng phú có nhiều loại gỗ quý hiếm như Sao, Gõ đỏ, Giáng hương, Bằng lăng, Cẩm lai, và các loại lâm sản khác như lồ ô, tre, nứa soong, mây, các loại dược liệu. Trong kháng chiến, rừng vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa quân sự rất lớn, là nơi cung cấp thực phẩm cho bộ đội, nơi che chở bộ đội, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, vừa là nơi vây hãm, kìm bước quân thù.
Là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có đường Quốc lộ 14, đường liên tỉnh ĐT.741 đi qua, đây là những con đường giao thông huyết mạch nối liền Đồng Phú với Tây Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh và nước bạn Cam-pu-chia. Bên cạnh đó còn có hàng trăm kilômét đường liên xã và đường 322 (nay là ĐT.753) nối liền với các xã trong Huyện với nhau, rất thuận tiện cho việc giao thương, đi lại.
Hiện nay, Đồng Phú là huyện nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có thế mạnh về đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực, tiềm năng kinh tế đã và đang được khơi dậy, hứa hẹn sẽ có những thành tựu đáng kể trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. Truyền Thống Văn hóa
Đồng Phú có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống (bao gồm 14 dân tộc anh em), dân cư tập trung từ mọi miền đất nước nên bản sắc văn hoá rất phong phú, đa dạng với nhiều loại hình văn hoá đặc sắc như: múa cồng chiêng, đi cà kheo (của người S`tiêng), lễ hội té nước (của người Khơme), hát quan họ, hát chèo, đờn ca tài tử (của người Kinh)… Nhưng truyền thống văn hoá lâu đời nhất ở Đồng Phú thuộc về đồng bào S`tiêng. Họ đã sống ở đây từ khoảng thế kỷ XVII, sống thành từng sóc nhỏ bên cạnh các con suối, mỗi sóc từ 5 đến 7 nhà, sống bằng nghề làm rẫy, làm ruộng và săn bắn, hái lượm. Họ thường sống trong các ngôi nhà dài đơn sơ được làm bằng gỗ, tranh tre và lồ ô, mỗi nhà chỉ có một cầu thang ở giữa để lên xuống; các loại dụng cụ sinh hoạt gia đình, công cụ sản xuất, vũ khí săn bắn… phần lớn đều làm từ cây rừng.
Người S’tiêng có hai ngày lễ lớn, đó là lễ cúng rẫy vào đầu năm và lễ mừng lúa mới vào cuối năm. Hằng năm, cứ đến độ tháng ba, tháng tư âm lịch là mùa phát rẫy, làm nương, đồng bào thường tổ chức lễ “cúng rẫy” cầu xin Giàng (trời) ban cho một vụ mùa bội thu, cầu cho mọi người được khoẻ mạnh, dân trong sóc được ấm no, vui vẻ. Đến khoảng tháng 10 âm lịch, khi mọi người gặt hái, rước lúa về sóc, kết thúc một năm làm lụng vất vả, đồng bào S’tiêng lại tổ chức lễ “cúng lúa”, đây là lễ hội lớn nhất trong năm. Vào dịp lễ hội, mọi người đều nghỉ ngơi, giết heo, đâm trâu, bò lấy đầu làm vật phẩm cúng tế trời, còn thịt thì xẻ ra cùng nhau ăn uống, nhảy múa, vui chơi ca hát và chúc tụng nhau. Trong lễ hội, người S’tiêng thường sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc như đờn đinh được làm bằng thân cây lồ ô và trái bầu, cồng, chiêng… trong ăn uống, vui chơi mọi người đều bình đẳng.
Trong đời sống tâm linh của người S’tiêng, “Trời” là biểu tượng của mọi uy quyền và sức mạnh, là đấng tối cao; mỗi khi có thiên tai, địch hoạ, bệnh tật họ đều cầu xin ông trời phù hộ, cứu giúp mình vượt qua hoạn nạn. Bản chất của người S’tiêng rất thật thà, chất phác, cần cù, thích tự do, sống có tình nghĩa, thuỷ chung, ghét sự dối trá, trộm cắp. Người S’tiêng cũng rất khéo tay và giàu óc sáng tạo, thể hiện rõ nét trong kỹ thuật đan lát, đẽo gọt và nhất là trong nghề dệt cổ truyền của người phụ nữ.
III. Đặc điểm dân cư và những biến đổi hành chính.
1. Đặc điểm dân cư
Năm 1976, dân số của Đồng Phú mới chỉ có khoảng 10.000 người sống phân tán trên một vùng rộng lớn, chủ yếu là đồng bào các dân tộc như: S’tiêng, M’nông, Khơme cùng với những gia đình công nhân thời Pháp thuộc và những người kháng chiến ở lại xây dựng quê hương. Thực hiện chủ trương của Đảng nhằm phân bổ lại dân cư, thành lập vùng kinh tế mới, Đồng Phú là nơi đất rộng người thưa, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa nên nhân dân từ khắp mọi miền đất nước tấp nập đến để xây dựng cuộc sống mới, chỉ riêng năm 1977 huyện đã tiếp nhận 25.000 dân từ Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Bắc đến lập nghiệp, nâng tổng số dân của huyện lên 43.000 người; đến năm 2005 dân số toàn huyện là 78.839 người.
Về tín ngưỡng, Đồng Phú có 6 tôn giáo lớn với 16.778 chức sắc, tín đồ, phật tử, chiếm 21,44% dân số của huyện.
Nhân dân Đồng Phú có truyền thống cần cù lao động sáng tạo, chịu thương chịu khó, khắc phục khó khăn gian khổ, đoàn kết, các dân tộc yêu thương giúp đỡ lẫn nhau luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, cùng nhân dân cả nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Những biến đổi về địa giới hành chính
Tháng 10 năm 1976, Huyện Đồng Phú được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 huyện Đồng Xoài và Phú Giáo, gồm 17 xã, trung tâm của Huyện là xã Tân Phú (nay thuộc Thị xã Đồng Xoài). Là một vùng rộng lớn, kéo dài trên 50km dọc theo đường ĐT.741, từ cầu Sông Bé tới tận xã Phú Riềng của huyện Phước Long (xã Phú Riềng trước đây thuộc huyện Đồng Phú, năm 1988, nhập xã Phú Riềng vào huyện Phước Long).Do nhu cầu phát triển xã hội, Quốc hội khoá IX – kỳ họp thứ 10 ngày 6/11/1996 đã quyết định tách tỉnh Sông Bé thành 2 tỉnh Bình Phước và Bình Dương, Đồng Phú trở thành trung tâm của tỉnh Bình Phước. Sau khi thực hiện chia tách tỉnh, Đồng Phú đã bàn giao 5 xã và 1 thị trấn với tổng diện tích đất tự nhiên là 109.863 ha, dân số 19.889 hộ với 92.959 khẩu về huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương.
Thực hiện Nghị định 90/1999/NĐ-CP, ngày 01/9/1999 của Chính phủ về việc “Thành lập thị xã Đồng Xoài và các phường, xã thuộc thị xã trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Đồng Phú”, Đồng Phú lại được điều chỉnh địa giới hành chính một lần nữa. Lúc này, diện tích tự nhiên của huyện còn 92.906,5 ha; dân số toàn huyện là 12.085 hộ, 59.220 khẩu, trung tâm của Huyện là xã Tân Lợi (nay là thị trấn Tân Phú).
Sau khi thực hiện việc điều chỉnh địa giới hành chính theo bản đồ số 364, đến năm 2005 diện tích tự nhiên của Huyện là 93.542,53 ha; dân số 78.839 người. Huyện có 10 xã và 01 thị trấn.
Được sự quan tâm giúp đỡ của Tỉnh và Trung ương cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Đồng Phú đã và đang từng bước vươn lên tự khẳng định mình, ra sức phấn đấu trở thành một Huyện giàu về kinh tế, ổn định về chính trị – xã hội, đẹp về văn hoá, vững mạnh về quốc phòng – an ninh, cùng cả nước đi lên thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ủy ban nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Diện tích tự nhiên: 935,42 km²
Dân số: 88.093 người (năm 2013).
Địa chỉ lên hệ: Khu phố Tân An, thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Điện thoại: 06513 832007.
Fax: 06513.832085.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Đồng Xoài
Nằm ở độ cao trung bình là 88,63 m so với mặt nước biển, có thể xếp Đồng Xoài vào vùng cao nguyên dạng địa hình đồi, thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam với hai dạng địa hình chủ yếu. Dạng địa hình đồi thấp lượn sóng, phân bố hầu hết trên địa bàn thị xã, chủ yếu là đất đỏ phát triển trên đất đá bazan và đất xám phát triển trên phù sa cổ. Dạng địa hình bưng bàu thấp trũng, nằm xen kẽ với dạng địa hình đồi thấp lượn sóng, thổ nhưỡng thường gặp trên dạng địa hình này là đất dốc tụ, mùn glây… Khí hậu Đồng Xoài chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kéo dài đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.598 ml rải đều trong các tháng. Vào những tháng cuối mùa mưa đầu mùa khô thời tiết thường se lạnh vào đêm. Mùa khô nhiệt độ ban ngày thường cao nhất cả nước, tuy nhiên nhiệt độ cao chỉ kéo dài trong khoảng một tháng rồi giảm dần. Nhìn chung, khí hậu Đồng Xoài nắng ấm quanh năm nhiệt độ trung bình khoảng 26,7 0 C, với nền nhiệt độ cao quanh năm, độ ẩm cao và nguồn ánh sáng dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Khí hậu Đồng Xoài tương đối hiền hoà, ít thiên tai bão, lụt… Về tài nguyên thiên nhiên, Đồng Xoài có nguồn tài nguyên đất đai giàu có, với tổng diện tích tự nhiên là 168,48 km2, trong đó, đất có chất lượng trung bình trở lên thích hợp cho sản xuất nông – lâm nghiệp là 40.627 ha, chiếm 27,59 % diện tích; đất có độ phì cao chiếm 11.894 ha, đất đỏ bazan chiếm 3.343 ha , đất kém chất lượng chỉ có 2.128 ha. Nhìn chung đất đai của Đồng Xoài có tầng phong hoá khá dày, thích hợp với việc trồng các cây công nghiệp, nhất là cây cao su và cây điều. Trên địa bàn Đồng Xoài có 315 ha rừng trồng (xã Tân Thành có 270 ha; xã Tiến Hưng có 45ha), không có rừng tự nhiên. Trong lòng đất Đồng Xoài có một số loại khoáng sản phi kim có trữ lượng lớn. Ở ba xã Tân Thành, Tiến Thành và Tiến Hưng có khoáng sản phún sỏi đỏ với trữ lượng khoảng 3,6 triệu m3; đá xây dựng có trữ lượng khoảng 40 triệu m3; Ở phường Tân Xuân và xã Tiến Thành có khoáng sản đất sét với trữ lượng 8 triệu m3…Các loại khoáng sản là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp xây dựng phát triển. Tài nguyên nước Đồng Xoài gồm nước ngầm và nước mặt. Nước ngầm tập trung ở khu vực phía Nam thị xã, nguồn nước ngầm có 03 tầng trữ nước với chất lượng tốt. Độ sâu trung bình của nguồn nước ngầm từ 60-100 m. Lưu lượng nước ngầm từ 5-9 lít/giây, ở vùng trũng có thể từ 9-12 lít/giây. Nguồn nước mặt trên địa bàn Thị xã có diện tích khoảng 101,35 ha các sông, hồ, đập lớn như: Sông Bé chạy theo ranh giới phía Tây thị xã khoảng 10-12 km; Suối Rạt chạy theo ranh giới phía Đông Nam thị xã; Suối Cam, Suối Sông Rinh, Suối Sam Bring, Suối Dríp, hồ Tà Môn (Tân Thành), Đập Phước Hòa (xã Tiến Hưng)… là nguồn nước chủ yếu để phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt.
Khi mới giải phóng (26/12/1974), dân số của Đồng Xoài mới chỉ có 4.370 người sống tập trung ở một số khu vực, đồng bào dân tộc người S’Tiêng sống ở khu vực xã Đồng Tâm, người Khmer sống ở khu vực xã Tân Phước và người Kinh sống ở khu vực xã Tân Phú, Đồng Tiến và Thuận Lợi. Thực hiện chủ trương của Đảng về việc phân bổ dân cư, thành lập vùng kinh tế mới, trong 02 năm 1975-1976 huyện Đồng Xoài tiếp nhận 6 đợt dân từ thành phố Hồ Chí Minh với 25.000 người đi xây dựng kinh tế mới. Khi tiếp nhận dân cư, huyện bố trí sống dọc theo hai trục lộ đường quốc lộ 14 và đường số 2 (nay là đường ĐT.741) để thành lập các xã kinh tế mới là: xã Tân Hưng, Tân Lợi, Tân Hòa, Tân Lập và Tân Thành. Đầu năm 1978, huyện Đồng Phú tiếp nhận 823 người dân huyện Thái Thụy-tỉnh Thái Bình đi xây dựng kinh tế mới huyện đã phân bổ số dân cư này thành lập 02 hợp tác xã Thái Nguyên, Thái Thọ. Đến tháng 3/1978, Đồng Phú lại tiếp nhận thêm 50 hộ với 300 người dân huyện Thái Thụy – tỉnh Thái Bình đi xây dựng kinh tế mới, huyện tổ chức để số dân cư này sống xen kẽ tại xã Tân Hưng. Ngoài việc tiếp nhận dân cư đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của Đảng, trong thời gian cuối năm 1976- đầu năm 1977 huyện Đồng Phú còn tiếp nhận thêm 5.588 người dân tự di chuyển từ các nơi khác trong cả nước đến sinh sống trên địa bàn (trong đó có các xã thuộc khu vực Đồng Xoài ngày nay). Theo thời gian, dân cư từ các nơi đến lập nghiệp ở Đồng Xoài ngày càng trở nên đông đúc, trong số đó có cả đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc di dân tự do đến Đồng Xoài – Bình Phước đã làm cho số lượng các thành phần dân tộc ở Đồng Xoài tăng lên rõ rệt và tạo nên sự phong phú, đa dạng trong sinh hoạt văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam ở Đồng Xoài. Từ chỗ dân số Đồng Xoài chỉ có hơn 4 ngàn người khi mới giải phóng nhưng đến nay dân số của thị xã đã trên 82 ngàn người, mật độ trung bình 485 người/km2, cao nhất trong toàn tỉnh. Hiện ở Đồng Xoài có 20 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, bao gồm: Khơme; Tày, Nùng, S’tiêng, Mường, Thái, Dao, Sán chay, MNông, Giarai, Hmông, Mnông, Choro, Giáy, Cơlao, Dao… Các dân tộc thiểu số sống đan xen với nhau, với người Kinh trong tất cả các xã-phường của thị xã. Trên địa bàn Đồng Xoài có 03 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Tin lành với 10.003 tín đồ, chiếm 12,24% tổng dân số. Trong đó, Phật giáo 4.877 tín đồ (chiếm 6,2% dân số), Công giáo 4.704 tín đồ (chiếm 5,98% dân số), Tin lành 350 tín đồ (chiếm 0,44% dân số), các tôn giáo khác 72 tín đồ đang sinh hoạt tại 02 giáo xứ (Đồng Xoài, Tiến Hưng), 01 giáo họ (Tân Thành), 02 chùa (Quang Minh; Thanh Quang), 05 điểm nhóm đạo Tin lành và ở một vài điểm thờ tự khác như: Tịnh thất Vạn Phát (Tân Xuân), Tịnh xá Hoàng Mai (Tân Thành), cơ sở thờ tự Đức thánh Trần Hưng Đạo (Tân Phú)… Phần lớn các tôn giáo hoạt động trước năm 1975. Trong những năm qua, các tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Đồng bào có đạo đã tích cực hưởng ứng tham gia các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thành phố Đồng Xoài được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2000; cùng với hai thành phố Phước Long, Bình Long và 8 huyện Đồng Phú, Bù Đăng, Lộc Ninh,Chơn Thành, Bù Đốp, Bù Gia Mập và Hớn Quản hợp thành đơn vị hành chính tỉnh Bình Phước. Đồng Xoài là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, địa danh Đồng Xoài đã đi vào lịch sử với mốc son chói lọi “Đồng Xoài rực lửa chiến công”(09/6/1965)- là biểu hiện tinh thần anh dũng, ý chí quyết thắng của nhân dân Đồng Xoài nói riêng và miền Đông Nam bộ nói chung. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Đồng Xoài đã một lòng một dạ sắt son theo Đảng, đoàn kết đấu tranh chống áp bức, bóc lột của phong kiến,thực dân, đế quốc và tay sai, Đồng Xoài đã cùng cả nước giành thắng lợi trong cách mạng Tháng Tám 1945, rồi tiếp nối 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng bộ và nhân dân Đồng Xoài rất đỗi tự hào đã cùng toàn đảng, toàn quân, toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh,đóng góp xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Từ sau ngày quê hương được giải phóng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đồng Xoài lại tiếp tục bước vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh vững chắc, đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu xây dựng quê hương Đồng Xoài văn minh giàu đẹp, để xứng đáng với truyền thống của vùng đất anh hùng. Đồng Xoài nằm ở phía Đông Nam tỉnh Bình Phước, phía Bắc, phía Đông, phía Nam giáp huyện Đồng Phú; phía Tây giáp huyện Chơn Thành và tỉnh Bình Dương. Thành phố có 6 phường là phường Tân Bình, Tân Đồng, Tân Phú, Tân Xuân, Tân Thiện, Tiến Thành và 2 xã gồm: Tiến Hưng và Tân Thành với tổng diện tích tự nhiên 168,48 km2. Đồng Xoài cách thành phố Hồ Chí Minh 110 km, cách đường biên giới Camphuchia 110 km. Đồng Xoài có các đường giao thông quan trọng là quốc lộ 14,đường liên tỉnh ĐT.741 là những con đường huyết mạch nối liền Tây Nguyên với Thành phố Hồ Chí Minh và nước bạn Campuchia. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có đường Lê Qúi Đôn (đường ĐT.753) đi ra tỉnh Đồng Nai. Trong tương lai sẽ có tuyến đường sắt từ tỉnh Đắc Nông đi qua Đồng Xoài đến cảng Thị Vải tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Đó là những lợi thế của Đồng Xoài để tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư phát triển kinh tế-xã hội trong tương lai.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Đồng Xoài
Nằm ở độ cao trung bình là 88,63 m so với mặt nước biển, có thể xếp Đồng Xoài vào vùng cao nguyên dạng địa hình đồi, thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam với hai dạng địa hình chủ yếu. Dạng địa hình đồi thấp lượn sóng, phân bố hầu hết trên địa bàn thị xã, chủ yếu là đất đỏ phát triển trên đất đá bazan và đất xám phát triển trên phù sa cổ. Dạng địa hình bưng bàu thấp trũng, nằm xen kẽ với dạng địa hình đồi thấp lượn sóng, thổ nhưỡng thường gặp trên dạng địa hình này là đất dốc tụ, mùn glây… Khí hậu Đồng Xoài chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kéo dài đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.598 ml rải đều trong các tháng. Vào những tháng cuối mùa mưa đầu mùa khô thời tiết thường se lạnh vào đêm. Mùa khô nhiệt độ ban ngày thường cao nhất cả nước, tuy nhiên nhiệt độ cao chỉ kéo dài trong khoảng một tháng rồi giảm dần. Nhìn chung, khí hậu Đồng Xoài nắng ấm quanh năm nhiệt độ trung bình khoảng 26,7 0 C, với nền nhiệt độ cao quanh năm, độ ẩm cao và nguồn ánh sáng dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Khí hậu Đồng Xoài tương đối hiền hoà, ít thiên tai bão, lụt… Về tài nguyên thiên nhiên, Đồng Xoài có nguồn tài nguyên đất đai giàu có, với tổng diện tích tự nhiên là 168,48 km2, trong đó, đất có chất lượng trung bình trở lên thích hợp cho sản xuất nông – lâm nghiệp là 40.627 ha, chiếm 27,59 % diện tích; đất có độ phì cao chiếm 11.894 ha, đất đỏ bazan chiếm 3.343 ha , đất kém chất lượng chỉ có 2.128 ha. Nhìn chung đất đai của Đồng Xoài có tầng phong hoá khá dày, thích hợp với việc trồng các cây công nghiệp, nhất là cây cao su và cây điều. Trên địa bàn Đồng Xoài có 315 ha rừng trồng (xã Tân Thành có 270 ha; xã Tiến Hưng có 45ha), không có rừng tự nhiên. Trong lòng đất Đồng Xoài có một số loại khoáng sản phi kim có trữ lượng lớn. Ở ba xã Tân Thành, Tiến Thành và Tiến Hưng có khoáng sản phún sỏi đỏ với trữ lượng khoảng 3,6 triệu m3; đá xây dựng có trữ lượng khoảng 40 triệu m3; Ở phường Tân Xuân và xã Tiến Thành có khoáng sản đất sét với trữ lượng 8 triệu m3…Các loại khoáng sản là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp xây dựng phát triển. Tài nguyên nước Đồng Xoài gồm nước ngầm và nước mặt. Nước ngầm tập trung ở khu vực phía Nam thị xã, nguồn nước ngầm có 03 tầng trữ nước với chất lượng tốt. Độ sâu trung bình của nguồn nước ngầm từ 60-100 m. Lưu lượng nước ngầm từ 5-9 lít/giây, ở vùng trũng có thể từ 9-12 lít/giây. Nguồn nước mặt trên địa bàn Thị xã có diện tích khoảng 101,35 ha các sông, hồ, đập lớn như: Sông Bé chạy theo ranh giới phía Tây thị xã khoảng 10-12 km; Suối Rạt chạy theo ranh giới phía Đông Nam thị xã; Suối Cam, Suối Sông Rinh, Suối Sam Bring, Suối Dríp, hồ Tà Môn (Tân Thành), Đập Phước Hòa (xã Tiến Hưng)… là nguồn nước chủ yếu để phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt.
Khi mới giải phóng (26/12/1974), dân số của Đồng Xoài mới chỉ có 4.370 người sống tập trung ở một số khu vực, đồng bào dân tộc người S’Tiêng sống ở khu vực xã Đồng Tâm, người Khmer sống ở khu vực xã Tân Phước và người Kinh sống ở khu vực xã Tân Phú, Đồng Tiến và Thuận Lợi. Thực hiện chủ trương của Đảng về việc phân bổ dân cư, thành lập vùng kinh tế mới, trong 02 năm 1975-1976 huyện Đồng Xoài tiếp nhận 6 đợt dân từ thành phố Hồ Chí Minh với 25.000 người đi xây dựng kinh tế mới. Khi tiếp nhận dân cư, huyện bố trí sống dọc theo hai trục lộ đường quốc lộ 14 và đường số 2 (nay là đường ĐT.741) để thành lập các xã kinh tế mới là: xã Tân Hưng, Tân Lợi, Tân Hòa, Tân Lập và Tân Thành. Đầu năm 1978, huyện Đồng Phú tiếp nhận 823 người dân huyện Thái Thụy-tỉnh Thái Bình đi xây dựng kinh tế mới huyện đã phân bổ số dân cư này thành lập 02 hợp tác xã Thái Nguyên, Thái Thọ. Đến tháng 3/1978, Đồng Phú lại tiếp nhận thêm 50 hộ với 300 người dân huyện Thái Thụy – tỉnh Thái Bình đi xây dựng kinh tế mới, huyện tổ chức để số dân cư này sống xen kẽ tại xã Tân Hưng. Ngoài việc tiếp nhận dân cư đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của Đảng, trong thời gian cuối năm 1976- đầu năm 1977 huyện Đồng Phú còn tiếp nhận thêm 5.588 người dân tự di chuyển từ các nơi khác trong cả nước đến sinh sống trên địa bàn (trong đó có các xã thuộc khu vực Đồng Xoài ngày nay). Theo thời gian, dân cư từ các nơi đến lập nghiệp ở Đồng Xoài ngày càng trở nên đông đúc, trong số đó có cả đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc di dân tự do đến Đồng Xoài – Bình Phước đã làm cho số lượng các thành phần dân tộc ở Đồng Xoài tăng lên rõ rệt và tạo nên sự phong phú, đa dạng trong sinh hoạt văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam ở Đồng Xoài. Từ chỗ dân số Đồng Xoài chỉ có hơn 4 ngàn người khi mới giải phóng nhưng đến nay dân số của thị xã đã trên 82 ngàn người, mật độ trung bình 485 người/km2, cao nhất trong toàn tỉnh. Hiện ở Đồng Xoài có 20 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, bao gồm: Khơme; Tày, Nùng, S’tiêng, Mường, Thái, Dao, Sán chay, MNông, Giarai, Hmông, Mnông, Choro, Giáy, Cơlao, Dao… Các dân tộc thiểu số sống đan xen với nhau, với người Kinh trong tất cả các xã-phường của thị xã. Trên địa bàn Đồng Xoài có 03 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Tin lành với 10.003 tín đồ, chiếm 12,24% tổng dân số. Trong đó, Phật giáo 4.877 tín đồ (chiếm 6,2% dân số), Công giáo 4.704 tín đồ (chiếm 5,98% dân số), Tin lành 350 tín đồ (chiếm 0,44% dân số), các tôn giáo khác 72 tín đồ đang sinh hoạt tại 02 giáo xứ (Đồng Xoài, Tiến Hưng), 01 giáo họ (Tân Thành), 02 chùa (Quang Minh; Thanh Quang), 05 điểm nhóm đạo Tin lành và ở một vài điểm thờ tự khác như: Tịnh thất Vạn Phát (Tân Xuân), Tịnh xá Hoàng Mai (Tân Thành), cơ sở thờ tự Đức thánh Trần Hưng Đạo (Tân Phú)… Phần lớn các tôn giáo hoạt động trước năm 1975. Trong những năm qua, các tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Đồng bào có đạo đã tích cực hưởng ứng tham gia các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thành phố Đồng Xoài được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2000; cùng với hai thành phố Phước Long, Bình Long và 8 huyện Đồng Phú, Bù Đăng, Lộc Ninh,Chơn Thành, Bù Đốp, Bù Gia Mập và Hớn Quản hợp thành đơn vị hành chính tỉnh Bình Phước. Đồng Xoài là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, địa danh Đồng Xoài đã đi vào lịch sử với mốc son chói lọi “Đồng Xoài rực lửa chiến công”(09/6/1965)- là biểu hiện tinh thần anh dũng, ý chí quyết thắng của nhân dân Đồng Xoài nói riêng và miền Đông Nam bộ nói chung. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Đồng Xoài đã một lòng một dạ sắt son theo Đảng, đoàn kết đấu tranh chống áp bức, bóc lột của phong kiến,thực dân, đế quốc và tay sai, Đồng Xoài đã cùng cả nước giành thắng lợi trong cách mạng Tháng Tám 1945, rồi tiếp nối 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng bộ và nhân dân Đồng Xoài rất đỗi tự hào đã cùng toàn đảng, toàn quân, toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh,đóng góp xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Từ sau ngày quê hương được giải phóng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đồng Xoài lại tiếp tục bước vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh vững chắc, đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu xây dựng quê hương Đồng Xoài văn minh giàu đẹp, để xứng đáng với truyền thống của vùng đất anh hùng. Đồng Xoài nằm ở phía Đông Nam tỉnh Bình Phước, phía Bắc, phía Đông, phía Nam giáp huyện Đồng Phú; phía Tây giáp huyện Chơn Thành và tỉnh Bình Dương. Thành phố có 6 phường là phường Tân Bình, Tân Đồng, Tân Phú, Tân Xuân, Tân Thiện, Tiến Thành và 2 xã gồm: Tiến Hưng và Tân Thành với tổng diện tích tự nhiên 168,48 km2. Đồng Xoài cách thành phố Hồ Chí Minh 110 km, cách đường biên giới Camphuchia 110 km. Đồng Xoài có các đường giao thông quan trọng là quốc lộ 14,đường liên tỉnh ĐT.741 là những con đường huyết mạch nối liền Tây Nguyên với Thành phố Hồ Chí Minh và nước bạn Campuchia. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có đường Lê Qúi Đôn (đường ĐT.753) đi ra tỉnh Đồng Nai. Trong tương lai sẽ có tuyến đường sắt từ tỉnh Đắc Nông đi qua Đồng Xoài đến cảng Thị Vải tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Đó là những lợi thế của Đồng Xoài để tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư phát triển kinh tế-xã hội trong tương lai.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ngọc Hiển
Ngọc Hiển, là huyện cực nam của Tổ quốc, diện tích nuôi trồng thủy sản chiếm trên 32% diện tích tự nhiên, 98km bờ biển trải theo ba phía Đông, Tây, Nam, với ngư trường biển rộng trên 15.000 km
2
, đa dạng chủng loại thủy sản có giá trị kinh tế cao, huyện Ngọc Hiển được biết đến như vùng đất “hứa” trong phát triển kinh tế thủy sản. Cho đến nay, kinh tế thủy sản được xem như thế “độc tôn” trong bài toán phát triển của huyện, đóng góp phần lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tự nhiên tạo ra lợi thế
Huyện Ngọc Hiển là điểm cuối của tuyến đường hành lang ven biển phía Nam, có điều kiện thuận lợi phát triển đa dạng các loại hình kinh tế về rừng, nuôi trồng thủy sản nước mặn, khai thác thủy sản và cung cấp dịch vụ hậu cần thủy sản. Đáng chú ý, cụm đảo Hòn Khoai được đánh giá là tiềm năng để xây dựng cảng trung chuyển thuộc nhóm cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí chiến lược về kinh tế và quốc phòng. Ngoài ra, phía Tây còn có bãi bồi, biển cạn với diện tích trên 240km
2
thuận lợi cho các loài thủy hải sản trú ngụ, sinh sôi phát triển. Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Cà Mau xác định địa bàn Ngọc Hiển là một trong những vùng trọng điểm về kinh tế thủy sản, phát triển rừng ngập mặn (rừng ngập thuộc Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, huyện Ngọc Hiển được công nhận là Khu Sinh quyển, Khu Ramsar thế giới) và là động lực phát triển kinh tế du lịch của tỉnh, quy hoạch khu sản xuất giống thủy sản tập trung tại huyện Ngọc Hiển, hình thành quy hoạch cụm du lịch sinh thái Đất Mũi (kết hợp rừng, biển). Dọc theo các tuyến sông, rạch, ven biển, tiềm năng về giống thủy sản như cá kèo, cua, ốc len, nghêu, sò huyết… được đánh giá phong phú, số lượng khá nhiều. Số lượng các cơ sở sản xuất giống cũng hình thành và không ngừng tăng lên qua từng năm, lượng tôm giống xuất trại bình quân hàng năm trên một tỷ post, có nhiều cơ sở sản xuất tôm giống uy tín, chất lượng con giống cao cung cấp cho thị trường nuôi trong và ngoài huyện. Bên cạnh đó, huyện tập trung chuyển đổi mô hình sản xuất từ nuôi tôm quảng canh truyền thống năng suất thấp sang nuôi tôm quảng canh cải tiến năng suất cao với diện tích phát triển hiện nay trên 1.500ha, năng suất bình quân 500 – 700kg/ha/năm. Vùng bãi bồi với nhiều loài giống thủy sản trú ngụ và phát triển, đặc biệt nguồn lợi nghêu giống và nghêu thương phẩm mang lại giá trị kinh tế cao, dần được hình thành theo quy hoạch với diện tích khoảng 431ha. Vận dụng sáng tạo từ tự nhiên ban tặng, gần đây hộ nuôi trồng thủy sản còn đặc biệt quan tâm phát triển mô hình nuôi hàu lồng trên sông, nuôi sò huyết mang lại giá trị làm lợi hàng trăm triệu đồng cho hộ nuôi. Kết hợp với việc phát triển khu vực nội địa, tại khu vực biển, các phương tiện khai thác thủy sản cũng tăng cường khai thác hợp lý các nguồn lợi thủy sản từ biển theo chủ trương của huyện, đóng góp ngày càng nhiều vào trữ lượng thủy sản với đa dạng các loài hải sản. Để phục vụ cho sự phát triển này, các dịch vụ hậu cần thủy sản, mà nhất là hậu cần khai thác biển có sự phát triển liên tục. Trong đó, một số loại hình dịch vụ hậu cần nghề cá, các dụng cụ phục vụ đánh bắt biển, doanh nghiệp thu mua thủy sản…không ngừng phát triển, tạo ra nhiều sự lựa chọn cho người dân, môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng hơn.
Tiềm năng đầu tư và phát triển bền vững
Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ X xác định: “Tập trung phát triển mạnh kinh tế thủy sản, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, du lịch sinh thái” là khâu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của giai đoạn 2010-2015 và thời gian tiếp theo, trong đó kinh tế thủy sản vẫn là chủ đạo trong phát triển kinh tế. Xác định tầm quan trọng này, nên thời gian qua huyện đã tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh có trọng tâm, trọng điểm. Chủ trương phát triển kinh tế thủy sản đúng hướng nhằm phát huy tối đa nội lực và ngoại lực dần đạt được những kết quả quan trọng, song vẫn còn nhiều khó khăn nhất định. Những năm qua, huyện thực hiện nhiều chủ trương khuyến khích đầu tư và phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh trên lĩnh vực thủy sản, đa phần hộ dân nuôi trồng và khai thác thủy sản biển còn nhiều khó khăn về vốn, khả năng tái sản xuất cũng như tự mở hoặc liên kết mở các cơ sở sản xuất kinh doanh quy mô lớn còn rất khó khăn, nhiều phương tiện đánh bắt thủy sản công suất nhỏ, thô sơ; trên địa bàn huyện chưa hình thành được các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung, các dịch vụ hậu cần nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản nên lượng hàng hóa thủy sản xuất ra bên ngoài huyện thường đi theo đường tiểu thương nên giá cả không được cao, ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của nhân dân; hiện nay đội tàu khai thác biển xa bờ của huyện chưa nhiều, hơn nữa đa phần các thành phần kinh tế ngoài huyện rất ngại đầu tư vào huyện, nguyên nhân chủ yếu là huyện chưa có trục giao thông đường bộ liên kết từ huyện đến các địa phương khác trong và ngoài tỉnh.
Về hướng đầu tư và phát triển trên lĩnh vực thủy sản trong thời gian tới, lợi thế kinh tế thủy sản của huyện đã được khẳng định nhiều năm qua, hiện nay, khó khăn chính trong phát triển kinh tế thủy sản vẫn là nguồn lực thu hút đầu tư từ bên ngoài vì nguồn nội lực và huy động trong dân trên địa bàn huyện vẫn chưa đáp ứng, kết cấu hạ tầng còn thấp kém, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn ở mức cao, chưa có đường ô tô lưu thông ra bên ngoài huyện để phục vụ cho các hoạt động giao thương… Để dần tháo gỡ khó khăn này, huyện được Trung ương và tỉnh Cà Mau đầu tư xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh (đoạn Năm Căn – Đất Mũi) và các tuyến đường ô tô đến trung tâm xã (quy mô cấp VI đồng bằng), xây dựng cầu bắt qua sông Cửa Lớn nối liền 02 huyện Năm Căn và huyện Ngọc Hiển, dự kiến các dự án, công trình hoàn thành vào năm 2014-2015. Để tiếp tục tạo điều kiện cho việc thu hút đầu tư, phát triển, hiện nay huyện đang xúc tiến các bước quy hoạch cụ thể các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống, cụm kinh tế biển, dịch vụ hậu cần nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản, chọn quỹ đất sạch để thu hút đầu tư, thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính. Đồng thời, chúng tôi luôn kêu gọi và sẵn sàng hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế trong và ngoài huyện tìm kiếm cơ hội đầu tư và phát triển bền vững các lĩnh vực trên địa bàn huyện Ngọc Hiển”
|
General introduction to Ngoc Hien district
Ngoc Hien, is the southernmost district of the country, aquaculture area accounts for over 32% of the natural area, 98km of coastline spreads in three directions, East, West, and South, with marine fishing grounds over 15,000 km2 wide.
2
, diverse types of aquatic products with high economic value, Ngoc Hien district is known as a "promised" land in the development of aquaculture economy. Up to now, the fisheries economy is considered "unique" in the district's development problem, contributing largely to the economic growth rate.
Nature creates advantages
Ngoc Hien district is the end point of the southern coastal corridor, with favorable conditions for developing a variety of economic types in forests, saltwater aquaculture, fisheries exploitation and providing logistics services. need seafood. Notably, the Hon Khoai island cluster is considered to have potential for building a transshipment port in the group of seaports in the Mekong Delta region, with a strategic economic and defense position. In addition, the West also has mudflats and shallow seas with an area of over 240km2
2
Convenient for aquatic species to reside, reproduce and develop. In the master plan for socio-economic development of Ca Mau province, Ngoc Hien area is identified as one of the key areas for fisheries economy and mangrove forest development (mangrove forests belong to Ca Mau Cape National Park, Ngoc Hien district is recognized as a Biosphere Area, a World Ramsar Site) and is a driving force for tourism economic development of the province, planning a concentrated aquatic seed production area in Ngoc Hien district, forming a tourism cluster planning. Dat Mui ecological calendar (combining forest and sea). Along rivers, canals, and coastal areas, the potential for aquatic species such as goby fish, crabs, snails, clams, blood cockles... is assessed to be abundant and in quite large quantities. The number of hatchery production facilities has also been established and is constantly increasing each year. The average annual output of shrimp seed is over one billion posts. There are many reputable shrimp seed production facilities with high quality seed. supply to farming markets inside and outside the district. In addition, the district focuses on converting the production model from traditional low-yield extensive shrimp farming to high-yield improved extensive shrimp farming with the current development area of over 1,500 hectares, average productivity of 500 - 700kg/ha/year. The mudflat area with many aquatic species residing and growing, especially the clam seed resources and commercial clams that bring high economic value, is gradually formed according to planning with an area of about 431 hectares. Using creativity from nature, recently aquaculture households have paid special attention to developing the model of raising oysters in cages on rivers and raising blood cockles, bringing hundreds of millions of dong in profits to farming households. Combined with the development of the inland area, in the marine area, fishing means also increase the reasonable exploitation of aquatic resources from the sea according to the district's policy, contributing more and more to the reserve. seafood with a variety of seafood species. To serve this development, fisheries logistics services, especially marine exploitation logistics, are continuously developing. In particular, a number of types of fisheries logistics services, tools for marine fishing, seafood purchasing businesses... are constantly developing, creating many choices for people and a favorable business environment. More convenient and airy.
Investment potential and sustainable development
The 10th District Party Resolution determined: "Focusing on strongly developing the fisheries economy, developing socio-economic infrastructure, and eco-tourism" is a strategic step for socio-economic development. of the period 2010-2015 and the following period, in which the fisheries economy is still the main force in economic development. Determining this importance, in recent times the district has focused on exploiting potentials and strengths with focus and focus. The policy of developing the fisheries economy in the right direction to maximize internal and external resources has gradually achieved important results, but there are still certain difficulties. In recent years, the district has implemented many policies to encourage investment and development, but they are not commensurate with the potential and strengths in the fisheries sector. Most households raising and exploiting marine products still have many difficulties. capital, the ability to reproduce as well as open or jointly open large-scale production and business establishments is still very difficult, many fishing means have small capacity and are rudimentary; The district has not yet established industrial parks, concentrated handicrafts, and logistics services for exploitation and aquaculture, so the amount of aquatic goods produced outside the district often goes via small traders. So prices are not high, greatly affecting people's income; Currently, the district's offshore fishing fleet is not large, and most economic sectors outside the district are reluctant to invest in the district. The main reason is that the district does not have a road transport axis connecting the district to the district. other localities inside and outside the province.
Regarding investment and development in the field of fisheries in the coming time, the district's economic advantages in fisheries have been confirmed for many years. Currently, the main difficulty in developing the fisheries economy is still resources. attract investment from outside because the internal resources and mobilization of people in the district have not yet met, the infrastructure is still poor, the rate of poor and near-poor households is still high, and there is no motorway. traffic outside the district to serve trade activities... To gradually overcome this difficulty, the district was invested in by the Central Government and Ca Mau province to build the Ho Chi Minh route (Nam Can - Dat Mui section). and car routes to the commune center (level VI delta scale), building a bridge across Cua Lon river connecting 02 districts of Nam Can and Ngoc Hien district, projects and works are expected to be completed in 2019. 2014-2015. To continue to create conditions for attracting investment and development, the district is currently promoting specific planning steps for industrial clusters, handicrafts, traditional craft villages, marine economic clusters, and services. logistics for mining and aquaculture, choosing clean land funds to attract investment, and implementing administrative procedure reform well. At the same time, we always call for and are ready to cooperate and create favorable conditions for economic sectors inside and outside the district to seek investment opportunities and sustainable development of fields in Ngoc Hien district."
|
Giới thiệu khái quát huyện Đầm Dơi
Đầm Dơi là huyện ven biển, cách trung tâm tỉnh Cà Mau khoảng 30 km về hướng Đông Nam, phía Bắc giáp thành phố Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu, phía Nam giáp huyện Ngọc Hiển, phía Tây giáp huyện Cái Nước, phía Đông giáp biển Đông. Tổng diện tích tự nhiên 82.288 ha, dân số 41.032 hộ, với 183.300 người; địa bàn huyện có 8 dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer, Tày, Êđê, Chăm, Mường, Thái cùng sinh sống; địa giới hành chính được chia thành 15 xã, 01 thị trấn, với 139 ấp – khóm; có 03 xã ven biển (Nguyễn Huân, Tân Tiến, Tân Thuận). Là huyện trọng điểm của tỉnh Cà Mau về nuôi trồng thủy sản, với diện tích 65.559 ha; trong đó, nuôi tôm quảng canh cải tiến 32.000 ha, rừng – tôm kết hợp 3.500 ha, quảng canh truyền thống 27.000 ha.
Từ việc quy hoạch đúng về tiềm năng và lợi thế, kết hợp sự ưu đải về tự nhiên góp phần tăng năng suất và sản lượng thủy sản. Trong năm 2015, tổng sản lượng thủy sản đạt 106.100 tấn, (tăng 28,14% so với năm 2011); huyện có 26 Hợp tác xã, với 277 thành viên; trong đó có 15 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, với 211 thành viên; 119 tổ hợp tác, với 2.319 tổ viên. Các Hợp tác xã và Tổ hợp tác nuôi tôm công nghiệp hoạt động có hiệu quả như Hợp tác xã Đoàn Kết ấp Tân Long, xã Tân Duyệt, Tổ hợp tác Nhị Nguyệt xã Trần Phán, Tổ hợp tác Thành Công xã Tân Dân…, các Hợp tác xã và Tổ hợp tác làm ăn có hiệu quả góp phần tăng diện tích nuôi tôm công nghiệp của huyện. Trong những năm qua tình hình phát triển nuôi tôm công nghiệp trên địa bàn huyện đã có bước phát triển nhanh, đúng hướng và đạt hiệu quả khá cao. Diện tích nuôi tôm công nghiệp từ năm 2010 đến nay đã đạt trên 2.931 ha, tăng 1.922,2 ha, là huyện có diện tích nuôi tôm công nghiệp và sản lượng thủy sản cao trong tỉnh Cà Mau.
Nhiều năm qua, tranh thủ từ nguồn hỗ trợ của Trung ương, địa phương và nhân dân đóng góp, Đầm Dơi đã đầu tư xây dựng lộ giao thông nông thôn rộng khắp địa bàn, nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội cho địa phương. Trong giai đoạn 2016-2020 huyện sẽ mở rộng đầu tư xây dựng các trục giao thông ấp, khóm, liên ấp theo tiêu chuẩn của Bộ giao thông vận tải; xây dựng mở rộng đường ngõ, xóm sạch không lầy lội vào mừa mưa nhằm làm nâng cao hơn nữa đời sống của người dân đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội.
Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới theo chủ trương của Chính phủ, đến nay huyện có 2 xã hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới được cấp trên công nhận. Phấn đấu các địa phương còn lại sẽ hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong thời gian sớm nhất.
Từ tiềm năng và lợi thế trên, Đầm Dơi mong muốn nhận được sự ủng hộ đầu tư từ các nhà doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân, để cùng nhân dân Đầm Dơi phát triển về kinh tế, nâng cao lợi nhuận cho người dân và doanh nghiệp, góp phần cùng Đảng và Nhà nước thực hiện tốt chủ trương “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
|
General introduction to Dam Doi district
Dam Doi is a coastal district, about 30 km southeast of the center of Ca Mau province, to the north it borders Ca Mau city and Bac Lieu province, to the south it borders Ngoc Hien district, to the west it borders Cai Nuoc district, to the east it borders East Sea. Total natural area is 82,288 hectares, population is 41,032 households, with 183,300 people; The district has 8 ethnic groups: Kinh, Chinese, Khmer, Tay, Ede, Cham, Muong, and Thai living together; The administrative boundaries are divided into 15 communes, 01 town, with 139 hamlets and hamlets; There are 03 coastal communes (Nguyen Huan, Tan Tien, Tan Thuan). Is a key district of Ca Mau province for aquaculture, with an area of 65,559 hectares; Of which, improved extensive shrimp farming covers 32,000 hectares, combined forest-shrimp farming covers 3,500 hectares, and traditional extensive farming covers 27,000 hectares.
From proper planning of potentials and advantages, combining natural advantages contributes to increasing productivity and aquatic output. In 2015, total seafood production reached 106,100 tons, (an increase of 28.14% compared to 2011); The district has 26 Cooperatives, with 277 members; including 15 cooperatives operating in the manufacturing sector, with 211 members; 119 cooperative groups, with 2,319 members. Industrial shrimp farming cooperatives and cooperative groups operate effectively such as Doan Ket Cooperative in Tan Long hamlet, Tan Duyet commune, Nhi Nguyet cooperative group in Tran Phan commune, Thanh Cong cooperative group in Tan Dan commune..., Effective cooperatives and cooperative groups contribute to increasing the area of industrial shrimp farming in the district. In recent years, the development of industrial shrimp farming in the district has developed rapidly, in the right direction and achieved quite high efficiency. The area of industrial shrimp farming since 2010 has reached over 2,931 hectares, an increase of 1,922.2 hectares, making it a district with high industrial shrimp farming area and high seafood output in Ca Mau province.
Over the years, taking advantage of support from the Central, local and people's contributions, Dam Doi has invested in building rural roads throughout the area, to meet the travel needs of people and people. socio-economic development for the locality. In the period 2016-2020, the district will expand investment in construction of hamlet, hamlet and inter-hamlet traffic axes according to standards of the Ministry of Transport; Build and expand clean alleys and hamlets that are not muddy during the rainy season to further improve people's lives to meet the development needs of society.
In the process of building new rural areas according to the Government's policy, up to now the district has 2 communes that have completed the criteria for building new rural areas recognized by superiors. Strive that the remaining localities will complete the criteria for building new rural areas as soon as possible.
From the above potential and advantages, Dam Doi hopes to receive investment support from businesses, organizations and individuals to develop economically with the people of Dam Doi and increase profits for the people. and businesses, contributing to the Party and State well implementing the policy "Rich people, strong country, fair, democratic and civilized society".
|
Giới thiệu khái quát huyện Quảng Uyên
Quảng Uyên nằm ở phần Đông Bắc của tỉnh Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng 37 km theo quốc lộ 3. Đông giáp huyện Hạ Lang; Tây giáp các huyện Hòa An, Trà Lĩnh; Nam giáp huyện Phục Hòa; Bắc giáp các huyện Trùng Khánh, Trà Lĩnh.
Huyện Quảng Uyên có diện tích đất tự nhiên 384.9 km² với dân số 42.604 người.
Lễ hội Pháo hoa ở Quảng Uyên
Lễ hội pháo hoa ở huyện Quảng Uyên là nét văn hóa đặc sắc, gắn liền với sự linh thiêng của miếu Bách Linh ở huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Miếu Bách Linh là di tích lịch sử, văn hóa có từ lâu đời, thờ 100 điều linh thiêng, đứng đầu là con rồng một trong tứ linh “ Long, Ly, Quy, Phượng ”. Từ bao đời nay, miếu Bách linh đã đi sâu vào tâm linh của người dân địa phương. Không ai còn nhớ rõ miếu được xây dựng vào năm nào. Qua nghiên cứu và khỏa sát thực tại thì miếu có hiện trạng ban đầu bằng gỗ, đến năm Khải Định thứ sáu (1912) miếu được tu sửa và xây lại hoàn toàn bằng gạch, do tri châu Quảng Uyên người Thái Bình đứng ra xây dựng và thợ dưới xuôi lên xây nên kiến trúc có dáng dấp như một ngôi chùa ở dưới xuôi gồm: tam quan, sân, tiền đường và hậu cung, nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là “Chùa Bách Linh”.
Miếu bách Linh gắn liền với Lễ hội pháo hoa – một lễ hội lớn, đông vui nhất của tỉnh Cao Bằng. Hội được tổ chức vào mùng 1 – 2 tháng 2 âm lịch hàng năm. Chính vì ý nghĩa đó, Miếu Bách Linh thị trấn Quảng Uyên đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 02 tháng 12 năm 2013.
|
General introduction to Quang Uyen district
Quang Uyen is located in the Northeast part of Cao Bang province, 37 km from Cao Bang city along National Highway 3. East borders Ha Lang district; The West borders Hoa An and Tra Linh districts; The South borders Phuc Hoa district; The North borders Trung Khanh and Tra Linh districts.
Quang Uyen district has a natural land area of 384.9 km² with a population of 42,604 people.
Fireworks Festival in Quang Uyen
Fireworks festival in Quang Uyen district is a unique cultural feature, associated with the sacredness of Bach Linh temple in Quang Uyen district, Cao Bang province. Bach Linh Temple is a long-standing historical and cultural relic, worshiping 100 sacred things, headed by the dragon, one of the four sacred spirits "Long, Ly, Quy, Phuong". For many generations, Bach Linh Temple has penetrated deeply into the spirituality of local people. No one remembers exactly what year the temple was built. Through research and observation of reality, the temple's original state was made of wood. By the sixth year of Khai Dinh (1912), the temple was repaired and rebuilt entirely with bricks, built by the Tri Chau Quang Uyen from Thai Binh. The builders and workers from below built an architecture that looks like a downstream pagoda, including: three gates, courtyard, front hall, and harem, so people here still call it "Bach Linh Pagoda".
Bach Linh Temple is associated with the Fireworks Festival - the largest and most crowded festival of Cao Bang province. The festival is held on the 1st - 2nd day of the second lunar month every year. Because of that meaning, Bach Linh Temple in Quang Uyen town was recognized by the People's Committee of Cao Bang province as a provincial-level historical and cultural relic on December 2, 2013.
|
Giới thiệu khái quát huyện Trà Lĩnh
Địa hình huyện Trà Lĩnh chủ yếu là đồi núi, chiếm 88% diện tích tự nhiên toàn huyện, độ cao thấp dần từ phía tây bắc xuống đông nam. Độ cao trung bình từ 12 650 m-700 m so với mặt nước biển, nhiều ngọn núi cao trên 1.000 m như ngọn núi ở Bản Tám (xã Cô Mười) cao 1.200 m.
Địa hình tự nhiên hình thành hai vùng chính. Vùng núi đá vôi gồm các xã phía tây của huyện: Cô Mười, Lưu Ngọc, Quang Vinh. Vùng núi đá xen núi đất gồm các xã: Quốc Toản, Cao Chương, Quang Hán, Xuân Nội, Quang Trung, Tri Phương và thị trấn Hùng Quốc. Xen giữa các vùng núi đá, núi đất là những cánh đồng ven sông, suối, thung lũng bằng phẳng như Phiêng Ra (xã Tri Phương), Lũng Tung (xã Xuân Nội), Lũng Pán (xã Lưu Ngọc),…
Về khí hậu:
Huyện Trà Lĩnh chịu ảnh hưởng của khí hậu á nhiệt đới gió mùa, hình thành hai mùa nóng – lạnh rõ rệt.
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa Đông Nam nên thường nóng gắt về ban ngày, mát mẻ về ban đêm, nhiệt độ trung bình là 19,70C, nhiệt độ cao nhất là 36,30C. Mưa nhiều, lượng mưa trung bình đo được từ 1.700 mm-1.800 mm, nhất là vào các tháng 6, 7, 8 thường xảy ra lũ lụt, làm xói mòn đất ven sông. Độ ẩm cao chiếm tới 87%.
Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên khí hậu khô hanh, độ ẩm thấp. Mưa ít, lượng mưa trung bình khoảng 900 mm, thấp nhất là 605 mm. Thường xảy ra sương muối từ 3 đến 5 ngày, có năm kéo dài 15-20 ngày. Những tháng giao mùa từ mùa lạnh sang mùa nóng (khoảng cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 âm lịch) thường xảy ra mưa đá ở một số vùng, gây thiệt hại về hoa màu, nhà cửa.
Hệ thống sông ngòi gồm ba con sông chính: sông Bắc Vọng, sông Cô Mười và sông Trà Lĩnh.
Sông Bắc Vọng bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua địa phận các xã Tri Phương, Quang Trung trong huyện (dài khoảng 9 km), và chảy về xã Trung Phúc (huyện Trùng Khánh). Mùa nóng mưa nhiều, nước đục chảy xiết, lưu lượng dòng chảy 500 m3 /giây. Mùa lạnh ít mưa, dòng chảy nhỏ khoảng 0,86 m3 /giây.
Sông Cô Mười dài khoảng 12 km bắt nguồn từ bản Bó Ý – Kéo Láo (xã Cô Mười) chảy qua các bản: Co Tố, Cô Mười, Bản Tám (xã Cô Mười), Bản Mặc, Bản Niếng Nưa (xã Quang Hán), đến Pò Khao (thị trấn Hùng Quốc) hợp lưu với sông Trà Lĩnh.
Sông Trà Lĩnh bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua địa phận thị trấn Hùng Quốc, qua ngườm Rù Sặp xã Cao Chương (dài khoảng 18 km), xuyên núi đá vôi đổ xuống phía sau tạo thành thác Nặm Chá có độ cao khoảng 20 m, sau đó chảy về vùng hồ Thăng Hen.
Ngoài ba con sông kể trên, huyện Trà Lĩnh có khoảng 12 con suối nhỏ cung cấp nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương. Thiên nhiên đã ưu ái dành cho huyện Trà Lĩnh vùng hồ Thăng Hen – một phong cảnh đẹp hùng vĩ và thơ mộng. Vùng hồ Thăng Hen thuộc xã Quốc Toản, tiếp giáp với các xã Cao Chương, Lưu Ngọc của huyện và các xã Nguyễn Huệ, Ngũ Lão (huyện Hòa An). Vùng hồ Thăng Hen gồm những hồ to, nhỏ nối tiếp nhau thành một chuỗi 36 hồ, trong đó có 7 hồ lớn như: Thăng Hen, Thăng Ghị Rằng, Thăng Loỏng, Thăng Luông, Nặm Chá, Thăng Ghiều, Thăng Hoi, v.v.. Hồ Thăng Hen là hồ chính và lớn nhất trong các hồ, ở độ cao khoảng 500-600 m so với mặt nước biển, sâu khoảng 90 m, quanh năm nước xanh biếc. Mùa khô ít nước, mùa mưa nước dâng cao nối liền các hồ thành một chuỗi dài, thuyền, bè có thể đi lại dễ dàng khắp mặt hồ để khám phá các hang động với nhiều kiểu dáng kỳ thú. Vùng hồ Thăng Hen không chỉ là một thắng cảnh đẹp, địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh mà còn là nguồn cung cấp thực phẩm phong phú như: cá, tôm, cua, ốc,… đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong huyện và cung ứng cho các khu vực lân cận như huyện Hòa An, Quảng Uyên và thành phố Cao Bằng.
Rừng và đất rừng có khoảng 20.000 ha, chiếm tới 83,1% diện tích toàn huyện. Rừng trước kia có nhiều loại gỗ quý như: nghiến, lát, thông. Hiện nay, huyện có khoảng 987 ha rừng, trữ lượng gỗ ước tính còn 4.500 m3 các loại. Từ năm 1995 đến nay, thực hiện chương trình phát triển kinh tế nông – lâm kết hợp, trên địa bàn huyện đã trồng được 1.000 ha rừng hồi, 23 ha rừng vầu thuộc sở hữu của người dân.
Diện tích đất canh tác của huyện khoảng 4.064 ha, trong đó đất ruộng chiếm hơn 2.000 ha, gồm các cánh đồng chạy dài dọc sông Bắc Vọng, sông Trà Lĩnh, sông Cô Mười.
Về động vật
: Trước kia huyện Trà Lĩnh có nhiều loài động vật quý hiếm như hổ, báo, hươu, nai, gấu, khỉ, lợn rừng, sơn dương, nhím, cày hương, hoạ mi, trĩ, gà lôi,…; các loại lâm thổ sản như: sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, măng trúc, măng mai,…
Ngày nay, trên địa bàn huyện chỉ còn một số loài động vật quý hiếm như: cày hương, nhím, khỉ, nai, chim trĩ, gà lôi; các loại lâm thổ sản như: mộc nhĩ, nấm hương, măng các loại,… Huyện Trà Lĩnh có nguồn khoáng sản trữ lượng lớn là măng gan, ước tính khoảng 3 triệu tấn, là tài nguyên quý giá cho sự phát triển ngành công nghiệp khai khoáng của huyện.
Hệ thống giao thông của huyện từng bước được củng cố và mở rộng. Hiện nay, 10/10 xã, thị trấn trong huyện đã có đường ôtô đến trụ sở xã, thị trấn; tuyến đường 211 từ huyện Trà Lĩnh đi huyện Trùng Khánh dài 26 km; tuyến đường 210 từ huyện Trà Lĩnh đi huyện Hà Quảng dài 40 km; quốc lộ 34 bắt đầu từ đỉnh đèo Mã Phục (xã Quốc Toản) đến cửa khẩu Trà Lĩnh dài khoảng 20 km. Mạng lưới giao thông phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội, quốc phòng, an ninh.
Huyện Trà Lĩnh có nhiều dân tộc cùng cư trú như Tày, Nùng, Mông, Kinh, Hoa,…; mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng. Các dân tộc có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau tạo thành một khối cộng đồng vững chắc. Truyền thống tốt đẹp đó luôn được gìn giữ và phát huy. Dân tộc Tày, Nùng cư trú xen kẽ với một số dân tộc khác, đa số cư trú ở vùng đồng, tập trung theo từng làng, bản. Nhà ở của người Tày, Nùng chủ yếu là nhà sàn, ngày nay cơ bản đã xây dựng theo kiến trúc mới (nhà cấp bốn, nhà kiên cố,…). Dân tộc Mông sống chủ yếu ở sườn đồi, thung lũng núi đá, lương thực chủ yếu là cây ngô, đỗ tương,… Dân tộc Hoa, Kinh tập trung ở phố chợ, làm nghề buôn bán, kinh doanh, dịch vụ,…
Nghề trồng trọt
: Ở vùng thấp, hoạt động kinh tế chính của đồng bào là cấy lúa, trồng ngô và các loại cây hoa màu khác như mạch ba góc, các loại đỗ, lạc, cây lấy củ, các loại rau,… Do điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi, huyện Trà Lĩnh có nhiều cây ăn quả như: cam, quýt, mận, lê, đào,…, đặc biệt quýt là đặc sản thơm ngon, mọng nước, ngọt có tiếng trong tỉnh. Ở vùng cao, diện tích đất ruộng ít, người dân khai phá đất đồi để làm nương rẫy, trồng lúa nương, ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ các loại.
Nghề chăn nuôi
: trâu, bò, ngựa được người dân Trà Lĩnh coi là tài sản quý vì đây là nguồn sức kéo chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài trâu, bò, ngựa còn có lợn, dê, nhím và các loại gia cầm như gà, vịt, ngỗng,…
Huyện Trà Lĩnh có hai chợ phiên: chợ Trà Lĩnh và Bản Ngắn (nay là chợ Mỏ Quang Trung). Từ trước Cách 18 mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, chợ Trà Lĩnh luôn là trung tâm của huyện. Chợ được phân chia thành các khu vực buôn bán riêng như: trâu, bò, lợn, gà, vịt, lương thực, thực phẩm và rau quả các loại,… thuận tiện cho việc mua bán. Đặc biệt, cửa khẩu Trà Lĩnh (Việt Nam) sang Long Bang (Trung Quốc) tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa, góp phần tăng ngân sách và phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Nền văn hoá của các dân tộc trong huyện phong phú, đa dạng, thể hiện đậm nét bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc, phản ánh sinh động các hoạt động lao động sản xuất, học tập, tình cảm gia đình, làng bản. Người Tày có làn điệu lượn then, đàn tính, phong Slư; người Nùng có làn điệu Hà lều; nhóm Nùng Giang có làn điệu Sli giang; người Mông có múa khèn, kèn môi và gầu tào1 ,… Lễ hội: Hằng năm ở huyện Trà Lĩnh diễn ra các lễ hội như: lễ hội Lồng Tồng (xã Tri Phương) ngày Rằm tháng Giêng; hội Thanh Minh (xã Quang Trung), hội chọi bò (xã Quang Hán) ngày 12 tháng 2 âm lịch; hội Háng Tán (thị trấn Hùng Quốc) ngày 14 tháng 2 âm lịch. Lễ hội chia thành hai phần: phần lễ được tổ chức trang trọng theo truyền thống; phần hội diễn ra nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao sôi nổi như múa kỳ lân, trình diễn võ thuật cổ truyền, biểu diễn các làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc trong huyện.
|
Giới thiệu khái quát huyện Trà Lĩnh
Địa hình huyện Trà Lĩnh chủ yếu là đồi núi, chiếm 88% diện tích tự nhiên toàn huyện, độ cao thấp dần từ phía tây bắc xuống đông nam. Độ cao trung bình từ 12 650 m-700 m so với mặt nước biển, nhiều ngọn núi cao trên 1.000 m như ngọn núi ở Bản Tám (xã Cô Mười) cao 1.200 m.
Địa hình tự nhiên hình thành hai vùng chính. Vùng núi đá vôi gồm các xã phía tây của huyện: Cô Mười, Lưu Ngọc, Quang Vinh. Vùng núi đá xen núi đất gồm các xã: Quốc Toản, Cao Chương, Quang Hán, Xuân Nội, Quang Trung, Tri Phương và thị trấn Hùng Quốc. Xen giữa các vùng núi đá, núi đất là những cánh đồng ven sông, suối, thung lũng bằng phẳng như Phiêng Ra (xã Tri Phương), Lũng Tung (xã Xuân Nội), Lũng Pán (xã Lưu Ngọc),…
Về khí hậu:
Huyện Trà Lĩnh chịu ảnh hưởng của khí hậu á nhiệt đới gió mùa, hình thành hai mùa nóng – lạnh rõ rệt.
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa Đông Nam nên thường nóng gắt về ban ngày, mát mẻ về ban đêm, nhiệt độ trung bình là 19,70C, nhiệt độ cao nhất là 36,30C. Mưa nhiều, lượng mưa trung bình đo được từ 1.700 mm-1.800 mm, nhất là vào các tháng 6, 7, 8 thường xảy ra lũ lụt, làm xói mòn đất ven sông. Độ ẩm cao chiếm tới 87%.
Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên khí hậu khô hanh, độ ẩm thấp. Mưa ít, lượng mưa trung bình khoảng 900 mm, thấp nhất là 605 mm. Thường xảy ra sương muối từ 3 đến 5 ngày, có năm kéo dài 15-20 ngày. Những tháng giao mùa từ mùa lạnh sang mùa nóng (khoảng cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 âm lịch) thường xảy ra mưa đá ở một số vùng, gây thiệt hại về hoa màu, nhà cửa.
Hệ thống sông ngòi gồm ba con sông chính: sông Bắc Vọng, sông Cô Mười và sông Trà Lĩnh.
Sông Bắc Vọng bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua địa phận các xã Tri Phương, Quang Trung trong huyện (dài khoảng 9 km), và chảy về xã Trung Phúc (huyện Trùng Khánh). Mùa nóng mưa nhiều, nước đục chảy xiết, lưu lượng dòng chảy 500 m3 /giây. Mùa lạnh ít mưa, dòng chảy nhỏ khoảng 0,86 m3 /giây.
Sông Cô Mười dài khoảng 12 km bắt nguồn từ bản Bó Ý – Kéo Láo (xã Cô Mười) chảy qua các bản: Co Tố, Cô Mười, Bản Tám (xã Cô Mười), Bản Mặc, Bản Niếng Nưa (xã Quang Hán), đến Pò Khao (thị trấn Hùng Quốc) hợp lưu với sông Trà Lĩnh.
Sông Trà Lĩnh bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua địa phận thị trấn Hùng Quốc, qua ngườm Rù Sặp xã Cao Chương (dài khoảng 18 km), xuyên núi đá vôi đổ xuống phía sau tạo thành thác Nặm Chá có độ cao khoảng 20 m, sau đó chảy về vùng hồ Thăng Hen.
Ngoài ba con sông kể trên, huyện Trà Lĩnh có khoảng 12 con suối nhỏ cung cấp nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương. Thiên nhiên đã ưu ái dành cho huyện Trà Lĩnh vùng hồ Thăng Hen – một phong cảnh đẹp hùng vĩ và thơ mộng. Vùng hồ Thăng Hen thuộc xã Quốc Toản, tiếp giáp với các xã Cao Chương, Lưu Ngọc của huyện và các xã Nguyễn Huệ, Ngũ Lão (huyện Hòa An). Vùng hồ Thăng Hen gồm những hồ to, nhỏ nối tiếp nhau thành một chuỗi 36 hồ, trong đó có 7 hồ lớn như: Thăng Hen, Thăng Ghị Rằng, Thăng Loỏng, Thăng Luông, Nặm Chá, Thăng Ghiều, Thăng Hoi, v.v.. Hồ Thăng Hen là hồ chính và lớn nhất trong các hồ, ở độ cao khoảng 500-600 m so với mặt nước biển, sâu khoảng 90 m, quanh năm nước xanh biếc. Mùa khô ít nước, mùa mưa nước dâng cao nối liền các hồ thành một chuỗi dài, thuyền, bè có thể đi lại dễ dàng khắp mặt hồ để khám phá các hang động với nhiều kiểu dáng kỳ thú. Vùng hồ Thăng Hen không chỉ là một thắng cảnh đẹp, địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh mà còn là nguồn cung cấp thực phẩm phong phú như: cá, tôm, cua, ốc,… đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong huyện và cung ứng cho các khu vực lân cận như huyện Hòa An, Quảng Uyên và thành phố Cao Bằng.
Rừng và đất rừng có khoảng 20.000 ha, chiếm tới 83,1% diện tích toàn huyện. Rừng trước kia có nhiều loại gỗ quý như: nghiến, lát, thông. Hiện nay, huyện có khoảng 987 ha rừng, trữ lượng gỗ ước tính còn 4.500 m3 các loại. Từ năm 1995 đến nay, thực hiện chương trình phát triển kinh tế nông – lâm kết hợp, trên địa bàn huyện đã trồng được 1.000 ha rừng hồi, 23 ha rừng vầu thuộc sở hữu của người dân.
Diện tích đất canh tác của huyện khoảng 4.064 ha, trong đó đất ruộng chiếm hơn 2.000 ha, gồm các cánh đồng chạy dài dọc sông Bắc Vọng, sông Trà Lĩnh, sông Cô Mười.
Về động vật
: Trước kia huyện Trà Lĩnh có nhiều loài động vật quý hiếm như hổ, báo, hươu, nai, gấu, khỉ, lợn rừng, sơn dương, nhím, cày hương, hoạ mi, trĩ, gà lôi,…; các loại lâm thổ sản như: sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, măng trúc, măng mai,…
Ngày nay, trên địa bàn huyện chỉ còn một số loài động vật quý hiếm như: cày hương, nhím, khỉ, nai, chim trĩ, gà lôi; các loại lâm thổ sản như: mộc nhĩ, nấm hương, măng các loại,… Huyện Trà Lĩnh có nguồn khoáng sản trữ lượng lớn là măng gan, ước tính khoảng 3 triệu tấn, là tài nguyên quý giá cho sự phát triển ngành công nghiệp khai khoáng của huyện.
Hệ thống giao thông của huyện từng bước được củng cố và mở rộng. Hiện nay, 10/10 xã, thị trấn trong huyện đã có đường ôtô đến trụ sở xã, thị trấn; tuyến đường 211 từ huyện Trà Lĩnh đi huyện Trùng Khánh dài 26 km; tuyến đường 210 từ huyện Trà Lĩnh đi huyện Hà Quảng dài 40 km; quốc lộ 34 bắt đầu từ đỉnh đèo Mã Phục (xã Quốc Toản) đến cửa khẩu Trà Lĩnh dài khoảng 20 km. Mạng lưới giao thông phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội, quốc phòng, an ninh.
Huyện Trà Lĩnh có nhiều dân tộc cùng cư trú như Tày, Nùng, Mông, Kinh, Hoa,…; mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng. Các dân tộc có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau tạo thành một khối cộng đồng vững chắc. Truyền thống tốt đẹp đó luôn được gìn giữ và phát huy. Dân tộc Tày, Nùng cư trú xen kẽ với một số dân tộc khác, đa số cư trú ở vùng đồng, tập trung theo từng làng, bản. Nhà ở của người Tày, Nùng chủ yếu là nhà sàn, ngày nay cơ bản đã xây dựng theo kiến trúc mới (nhà cấp bốn, nhà kiên cố,…). Dân tộc Mông sống chủ yếu ở sườn đồi, thung lũng núi đá, lương thực chủ yếu là cây ngô, đỗ tương,… Dân tộc Hoa, Kinh tập trung ở phố chợ, làm nghề buôn bán, kinh doanh, dịch vụ,…
Nghề trồng trọt
: Ở vùng thấp, hoạt động kinh tế chính của đồng bào là cấy lúa, trồng ngô và các loại cây hoa màu khác như mạch ba góc, các loại đỗ, lạc, cây lấy củ, các loại rau,… Do điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi, huyện Trà Lĩnh có nhiều cây ăn quả như: cam, quýt, mận, lê, đào,…, đặc biệt quýt là đặc sản thơm ngon, mọng nước, ngọt có tiếng trong tỉnh. Ở vùng cao, diện tích đất ruộng ít, người dân khai phá đất đồi để làm nương rẫy, trồng lúa nương, ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ các loại.
Nghề chăn nuôi
: trâu, bò, ngựa được người dân Trà Lĩnh coi là tài sản quý vì đây là nguồn sức kéo chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài trâu, bò, ngựa còn có lợn, dê, nhím và các loại gia cầm như gà, vịt, ngỗng,…
Huyện Trà Lĩnh có hai chợ phiên: chợ Trà Lĩnh và Bản Ngắn (nay là chợ Mỏ Quang Trung). Từ trước Cách 18 mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, chợ Trà Lĩnh luôn là trung tâm của huyện. Chợ được phân chia thành các khu vực buôn bán riêng như: trâu, bò, lợn, gà, vịt, lương thực, thực phẩm và rau quả các loại,… thuận tiện cho việc mua bán. Đặc biệt, cửa khẩu Trà Lĩnh (Việt Nam) sang Long Bang (Trung Quốc) tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa, góp phần tăng ngân sách và phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Nền văn hoá của các dân tộc trong huyện phong phú, đa dạng, thể hiện đậm nét bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc, phản ánh sinh động các hoạt động lao động sản xuất, học tập, tình cảm gia đình, làng bản. Người Tày có làn điệu lượn then, đàn tính, phong Slư; người Nùng có làn điệu Hà lều; nhóm Nùng Giang có làn điệu Sli giang; người Mông có múa khèn, kèn môi và gầu tào1 ,… Lễ hội: Hằng năm ở huyện Trà Lĩnh diễn ra các lễ hội như: lễ hội Lồng Tồng (xã Tri Phương) ngày Rằm tháng Giêng; hội Thanh Minh (xã Quang Trung), hội chọi bò (xã Quang Hán) ngày 12 tháng 2 âm lịch; hội Háng Tán (thị trấn Hùng Quốc) ngày 14 tháng 2 âm lịch. Lễ hội chia thành hai phần: phần lễ được tổ chức trang trọng theo truyền thống; phần hội diễn ra nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao sôi nổi như múa kỳ lân, trình diễn võ thuật cổ truyền, biểu diễn các làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc trong huyện.
|
Giới thiệu khái quát huyện Trần Văn Thời
Huyện Trần Văn Thời cách trung tâm tỉnh lỵ Cà Mau 30km về hướng Tây-Bắc. Diện tích tự nhiên 70.023 km2, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 60.947,48 ha. Có bờ biển dài 34 km, có con sông Ông Đốc dài hơn 40km chảy dọc từ Đông sang Tây; bờ Nam sông Ông Đốc là vùng sản xuất luân canh một vụ lúa, một vụ tôm; bờ Bắc sông Ông Đốc là vùng ngọt hoá chủ yếu sản xuất lúa, các loại rau màu và nuôi thuỷ sản nước ngọt, với hệ thống sông rạch chằng chịt nối liền với rừng tràm U Minh Hạ.
Về dân số: toàn huyện có 46.251 hộ, với 193.140 khẩu.
Về dân tộc thiểu số: 2.468 hộ, với 10.760 khẩu gồm dân tộc Khmer, Hoa Chăm, Mường, Nùng, Tày, Thái, Lào.
Toàn huyện có 13 đơn vị hành chính gồm 11 xã, 02 thị trấn; 157 ấp, khóm. Thị trấn Trần Văn Thời là trung tâm huyện lỵ, thị trấn Sông Đốc nằm sát cửa sông Ông Đốc với nghề khai thác đánh bắt thuỷ sản trên biển và các dịch vụ hậu cần nghề khai thác biển, là trung tâm phát triển kinh tế thuỷ sản của huyện; tại đây đã hình thành cụm công nghiệp với diện tích 200 ha, huyện đang tích cực mời gọi đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào các khu công nghiệp này.
Thế mạnh của huyện là nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác thủy sản biển. Năm 2013, sản lượng lúa của huyện đạt 285.000 tấn; nuôi trồng và khai thác thủy sản được 135.000 tấn. Toàn huyện có trên 1.300 tàu khai thác thủy sản trên biển; cửa Sông Đốc là cửa sông thông ra biển Tây lớn nhất khu vực ĐBSCL.
Kết cấu hạ tầng của huyện tương đối hoàn chỉnh, toàn huyện có 13/13 đơn vị xã có đường ô tô đến trung tâm xã; lộ GTNT bằng bê tông cơ bản nối liền với các ấp, khóm trên địa bàn huyện.
Hiện nay toàn huyện có 2.879 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 6,28 %) và 1.777 hộ cận nghèo (chiếm tỷ lệ 3,88%).
Huyện Trần Văn Thời là một trong những địa phương có tiềm năng du lịch của tỉnh Cà Mau, là điểm đến hấp dẫn của miền Nam Tổ Quốc. Huyện có những điểm du lịch cuốn hút du khách như Hòn Đá Bạc, Vườn Quốc gia U Minh Hạ, Sông Đốc, Đầm Thị Tường… và những làng nghề như ép chuối khô, nuôi cá đồng, trồng rau màu, làm cá khô,… Trong năm 2013, lượng khách đến tham quan, du lịch, mua sắm tại 3 điểm du lịch: Khu du lịch Hòn Đá Bạc thuộc xã Khánh Bình Tây, Vườn Quốc gia U Minh hạ, xã Trần Hợi và thị trấn Sông Đốc, doanh thu đạt gần 60 tỷ đồng.
Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc điểm đến lý thú của du khách
Sau những ngày làm việc căng thẳng, bộn bề vất vã với những tính toán lo toan, ai cũng muốn được nghỉ ngơi, tham quan du lịch để thư giản tinh thần sau những ngày lao động mệt nhọc. Tìm đến điểm du lịch nào để được đáp ứng các nhu cầu của du khách luôn là vấn đề thời sự của khách du lịch và các nhà đầu tư cho du lịch.
Su hướng hiện nay, đa số khách du lịch đều muốn tìm đến không khí trong lành ở các điểm du lịch sinh thái và tín ngưỡng dân gian truyền thống; ở đó du khách được chiêm ngưỡng vẽ đẹp của thiên nhiên ban tặng, ở đó có không gian yên bình để chiêm nghiệm; ở đó không có sự ồn ào, náo nhiệt, không có các công trình chọc trời…nên có thể trãi lòng với thiên nhiên, hòa quyện với đất trời “âm dương đồng nhất lý”, dễ dàng tìm về quá khứ tuổi thơ hồn nhiên trong trắng.
Về quê hương Trần Văn Thời, du khách thường tìm đến các địa danh như: thị trấn Sông Đốc sầm uất đầy ắp cá tôm; Hòn Đá Bạc in dấu chân Tiên gắn liền với chiến công vang vội CM12, phá tan âm mưu lật đỗ chính quyền của thế lực thù địch; Đầm Thị Tường ở xã Phong Điền được ví như túi đựng hải sản của các dòng sông thuộc 3 huyện: Trần Văn Thời, Cái Nước, Phú Tân; rừng đặc dụng Vồ Dơi, một phần Vườn quốc gia U Minh hạ nằm trong Khu dự trữ sinh quyển của thế giới; hay các địa điểm gắn liền với sự kiện văn hóa tín ngưỡng dân gian như Lễ hội Nghinh Ông ở thị trấn Sông Đốc; huyền thoại về nghệ nhân văn hóa dân gian Nguyễn Long Phi (Bác Ba Phi) ở xã Khánh Hải… tất cả đã đi vào tiềm thức của biết bao người, dẫu xa hay gần, chỉ một lần đến thì không thể nào quên.
Một trong các điểm du lịch sinh thái tín ngưỡng dân gian của vùng sông nước ở Cà Mau thu hút đông đảo nhiều du khách nhất đó là vào dịp Lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc đã được lưu truyền, giữ gìn và phát huy hơn 90 năm qua.
Theo truyền thuyết, vào ngày 15/7/1925, sau một đêm bão tố mịt mùng, một xác cá Ông (cá Voi) dài 20,3 mét trôi dạt vào Vàm Xoáy được các ngư dân cao niên như: cụ Nguyễn Hữu Định, cụ Nguyễn Văn Học, cụ Mai Văn Lầu, cụ Huỳnh Văn Dỏng, cụ Nguyễn Văn Tiền, cụ Võ Văn Trí, cụ Phan Văn Vị đã thỉnh xác cá Ông về vàm Rạch Ruộng cất Lăng thờ cúng vị Ân ngư (người bạn đường của ngư phủ trên biển cả).
Đến năm 1943, tàu Pháp tuần tiễu bắn đạn pháo vào làm cháy Lăng Ông, ngư dân Sông Đốc đã liều mình trong lửa đỏ để cứu hài cốt của cá Ông, nhưng đã bị cháy gần hết chỉ còn 2 xương cạnh hàm của cá Ông. Phần hài cốt đó cháy sém nên ngư dân đã quấn vải đỏ và lập Lăng mới tại vàm Sông Đốc để tiếp tục thờ cúng cá Ông; ngư dân đã thành lập Vạn Lăng Ông để cùng nhau đoàn kết trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt cộng đồng mà đặc biệt là những ngư dân làm nghề biển, các ngư phủ yêu nghề biển cùng các thương nhân kinh doanh, chế biến hải sản và các tiểu thương làm dịch vụ nghề cá cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau về vốn và kinh nghiệm ngư nghiệp. Hiện nay, để thực hiện tốt việc thờ cúng và Lễ hội tại Lăng Ông, “Vạn dân” đã bầu ra Ban Trị Sự Lăng Ông để đại diện ngư dân nơi đây phụ trách công việc trị sự và đối ngoại.
Với sự giúp đỡ của ngư dân thập phương, sự quan tâm quản lý điều hành của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh Cà Mau và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, Lăng Ông đã được tôn tạo, trùng tu và nâng cấp nhiều lần, trở thành một di tích lịch sử văn hóa tôn kính, một biểu tượng tinh thần cao đẹp của ngư dân và ngành ngư nghiệp tỉnh Cà Mau.
Hàng năm, vào trung tuần tháng 2 âm lịch, cửa biển sông Ông Đốc sôi động hẳn lên bởi hàng chục ngàn du khách thập phương hội tụ về đây hòa mình vào lễ hội Nghinh Ông. Đến với Lễ hội, du khách dễ dàng ra khơi cùng đoàn tàu rước cá Ông (ngày 15/02 âm lịch). Khi đó du khách sẽ được hòa mình vào biển cả bao la; đến với bầu trời vào xuân trong veo, từng cánh hải âu tung bay trong không gian cao vút; hàng ngàn con tàu đánh bắt thủy sản cùng đồng hành với hàng chục ngàn du khách tiến xa ra biển đón linh hồn cá Ông về với Lăng Ông. Vào các ngày diễn ra lễ hội, ngư dân có dịp tỏ lòng tri ân đối với vị “Thần cá” đã từng chống chọi với bảo tố giữa biển khơi bao la, liều mình cứu lấy sinh linh của ngư dân gặp nạn, thực hư thế nào chưa rỏ nhưng đây là truyền thuyết mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Đồng hành cùng với lễ hội năm nay Ủy ban nhân dân thị trấn Sông Đốc tổ chức Đại hội Thể dục thể thao cấp cơ sở và các trò chơi dân gian; Đoàn cải lương Hương Tràm về kết hợp với Trung tâm Văn hóa – Thể thao huyện tổ chức biểu diễn phục vụ Nhân dân trong 03 đêm diễn ra Lễ hội.
Đến với Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc, du khách tha hồ thưởng thức hoặc dùng làm quà biếu từ các món ăn đặt sản của vùng biển Tây nam như: Tôm, cua, mực tươi, mực khô, cá biển tươi, cá biển khô các loại.
Hiện nay, Lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc và các điểm du lịch ở huyện Trần Văn Thời đang được quan tâm đầu tư để đánh thức hơn nữa tiềm năng lợi thế của địa phương; quan tâm phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho du lịch…để ngành công nghiệp không khói nơi đây phát triển bền vững, luôn là điểm đến lý tưởng của du khách gần xa.
|
Giới thiệu khái quát huyện Trần Văn Thời
Huyện Trần Văn Thời cách trung tâm tỉnh lỵ Cà Mau 30km về hướng Tây-Bắc. Diện tích tự nhiên 70.023 km2, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 60.947,48 ha. Có bờ biển dài 34 km, có con sông Ông Đốc dài hơn 40km chảy dọc từ Đông sang Tây; bờ Nam sông Ông Đốc là vùng sản xuất luân canh một vụ lúa, một vụ tôm; bờ Bắc sông Ông Đốc là vùng ngọt hoá chủ yếu sản xuất lúa, các loại rau màu và nuôi thuỷ sản nước ngọt, với hệ thống sông rạch chằng chịt nối liền với rừng tràm U Minh Hạ.
Về dân số: toàn huyện có 46.251 hộ, với 193.140 khẩu.
Về dân tộc thiểu số: 2.468 hộ, với 10.760 khẩu gồm dân tộc Khmer, Hoa Chăm, Mường, Nùng, Tày, Thái, Lào.
Toàn huyện có 13 đơn vị hành chính gồm 11 xã, 02 thị trấn; 157 ấp, khóm. Thị trấn Trần Văn Thời là trung tâm huyện lỵ, thị trấn Sông Đốc nằm sát cửa sông Ông Đốc với nghề khai thác đánh bắt thuỷ sản trên biển và các dịch vụ hậu cần nghề khai thác biển, là trung tâm phát triển kinh tế thuỷ sản của huyện; tại đây đã hình thành cụm công nghiệp với diện tích 200 ha, huyện đang tích cực mời gọi đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào các khu công nghiệp này.
Thế mạnh của huyện là nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác thủy sản biển. Năm 2013, sản lượng lúa của huyện đạt 285.000 tấn; nuôi trồng và khai thác thủy sản được 135.000 tấn. Toàn huyện có trên 1.300 tàu khai thác thủy sản trên biển; cửa Sông Đốc là cửa sông thông ra biển Tây lớn nhất khu vực ĐBSCL.
Kết cấu hạ tầng của huyện tương đối hoàn chỉnh, toàn huyện có 13/13 đơn vị xã có đường ô tô đến trung tâm xã; lộ GTNT bằng bê tông cơ bản nối liền với các ấp, khóm trên địa bàn huyện.
Hiện nay toàn huyện có 2.879 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 6,28 %) và 1.777 hộ cận nghèo (chiếm tỷ lệ 3,88%).
Huyện Trần Văn Thời là một trong những địa phương có tiềm năng du lịch của tỉnh Cà Mau, là điểm đến hấp dẫn của miền Nam Tổ Quốc. Huyện có những điểm du lịch cuốn hút du khách như Hòn Đá Bạc, Vườn Quốc gia U Minh Hạ, Sông Đốc, Đầm Thị Tường… và những làng nghề như ép chuối khô, nuôi cá đồng, trồng rau màu, làm cá khô,… Trong năm 2013, lượng khách đến tham quan, du lịch, mua sắm tại 3 điểm du lịch: Khu du lịch Hòn Đá Bạc thuộc xã Khánh Bình Tây, Vườn Quốc gia U Minh hạ, xã Trần Hợi và thị trấn Sông Đốc, doanh thu đạt gần 60 tỷ đồng.
Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc điểm đến lý thú của du khách
Sau những ngày làm việc căng thẳng, bộn bề vất vã với những tính toán lo toan, ai cũng muốn được nghỉ ngơi, tham quan du lịch để thư giản tinh thần sau những ngày lao động mệt nhọc. Tìm đến điểm du lịch nào để được đáp ứng các nhu cầu của du khách luôn là vấn đề thời sự của khách du lịch và các nhà đầu tư cho du lịch.
Su hướng hiện nay, đa số khách du lịch đều muốn tìm đến không khí trong lành ở các điểm du lịch sinh thái và tín ngưỡng dân gian truyền thống; ở đó du khách được chiêm ngưỡng vẽ đẹp của thiên nhiên ban tặng, ở đó có không gian yên bình để chiêm nghiệm; ở đó không có sự ồn ào, náo nhiệt, không có các công trình chọc trời…nên có thể trãi lòng với thiên nhiên, hòa quyện với đất trời “âm dương đồng nhất lý”, dễ dàng tìm về quá khứ tuổi thơ hồn nhiên trong trắng.
Về quê hương Trần Văn Thời, du khách thường tìm đến các địa danh như: thị trấn Sông Đốc sầm uất đầy ắp cá tôm; Hòn Đá Bạc in dấu chân Tiên gắn liền với chiến công vang vội CM12, phá tan âm mưu lật đỗ chính quyền của thế lực thù địch; Đầm Thị Tường ở xã Phong Điền được ví như túi đựng hải sản của các dòng sông thuộc 3 huyện: Trần Văn Thời, Cái Nước, Phú Tân; rừng đặc dụng Vồ Dơi, một phần Vườn quốc gia U Minh hạ nằm trong Khu dự trữ sinh quyển của thế giới; hay các địa điểm gắn liền với sự kiện văn hóa tín ngưỡng dân gian như Lễ hội Nghinh Ông ở thị trấn Sông Đốc; huyền thoại về nghệ nhân văn hóa dân gian Nguyễn Long Phi (Bác Ba Phi) ở xã Khánh Hải… tất cả đã đi vào tiềm thức của biết bao người, dẫu xa hay gần, chỉ một lần đến thì không thể nào quên.
Một trong các điểm du lịch sinh thái tín ngưỡng dân gian của vùng sông nước ở Cà Mau thu hút đông đảo nhiều du khách nhất đó là vào dịp Lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc đã được lưu truyền, giữ gìn và phát huy hơn 90 năm qua.
Theo truyền thuyết, vào ngày 15/7/1925, sau một đêm bão tố mịt mùng, một xác cá Ông (cá Voi) dài 20,3 mét trôi dạt vào Vàm Xoáy được các ngư dân cao niên như: cụ Nguyễn Hữu Định, cụ Nguyễn Văn Học, cụ Mai Văn Lầu, cụ Huỳnh Văn Dỏng, cụ Nguyễn Văn Tiền, cụ Võ Văn Trí, cụ Phan Văn Vị đã thỉnh xác cá Ông về vàm Rạch Ruộng cất Lăng thờ cúng vị Ân ngư (người bạn đường của ngư phủ trên biển cả).
Đến năm 1943, tàu Pháp tuần tiễu bắn đạn pháo vào làm cháy Lăng Ông, ngư dân Sông Đốc đã liều mình trong lửa đỏ để cứu hài cốt của cá Ông, nhưng đã bị cháy gần hết chỉ còn 2 xương cạnh hàm của cá Ông. Phần hài cốt đó cháy sém nên ngư dân đã quấn vải đỏ và lập Lăng mới tại vàm Sông Đốc để tiếp tục thờ cúng cá Ông; ngư dân đã thành lập Vạn Lăng Ông để cùng nhau đoàn kết trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt cộng đồng mà đặc biệt là những ngư dân làm nghề biển, các ngư phủ yêu nghề biển cùng các thương nhân kinh doanh, chế biến hải sản và các tiểu thương làm dịch vụ nghề cá cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau về vốn và kinh nghiệm ngư nghiệp. Hiện nay, để thực hiện tốt việc thờ cúng và Lễ hội tại Lăng Ông, “Vạn dân” đã bầu ra Ban Trị Sự Lăng Ông để đại diện ngư dân nơi đây phụ trách công việc trị sự và đối ngoại.
Với sự giúp đỡ của ngư dân thập phương, sự quan tâm quản lý điều hành của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh Cà Mau và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, Lăng Ông đã được tôn tạo, trùng tu và nâng cấp nhiều lần, trở thành một di tích lịch sử văn hóa tôn kính, một biểu tượng tinh thần cao đẹp của ngư dân và ngành ngư nghiệp tỉnh Cà Mau.
Hàng năm, vào trung tuần tháng 2 âm lịch, cửa biển sông Ông Đốc sôi động hẳn lên bởi hàng chục ngàn du khách thập phương hội tụ về đây hòa mình vào lễ hội Nghinh Ông. Đến với Lễ hội, du khách dễ dàng ra khơi cùng đoàn tàu rước cá Ông (ngày 15/02 âm lịch). Khi đó du khách sẽ được hòa mình vào biển cả bao la; đến với bầu trời vào xuân trong veo, từng cánh hải âu tung bay trong không gian cao vút; hàng ngàn con tàu đánh bắt thủy sản cùng đồng hành với hàng chục ngàn du khách tiến xa ra biển đón linh hồn cá Ông về với Lăng Ông. Vào các ngày diễn ra lễ hội, ngư dân có dịp tỏ lòng tri ân đối với vị “Thần cá” đã từng chống chọi với bảo tố giữa biển khơi bao la, liều mình cứu lấy sinh linh của ngư dân gặp nạn, thực hư thế nào chưa rỏ nhưng đây là truyền thuyết mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Đồng hành cùng với lễ hội năm nay Ủy ban nhân dân thị trấn Sông Đốc tổ chức Đại hội Thể dục thể thao cấp cơ sở và các trò chơi dân gian; Đoàn cải lương Hương Tràm về kết hợp với Trung tâm Văn hóa – Thể thao huyện tổ chức biểu diễn phục vụ Nhân dân trong 03 đêm diễn ra Lễ hội.
Đến với Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc, du khách tha hồ thưởng thức hoặc dùng làm quà biếu từ các món ăn đặt sản của vùng biển Tây nam như: Tôm, cua, mực tươi, mực khô, cá biển tươi, cá biển khô các loại.
Hiện nay, Lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc và các điểm du lịch ở huyện Trần Văn Thời đang được quan tâm đầu tư để đánh thức hơn nữa tiềm năng lợi thế của địa phương; quan tâm phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho du lịch…để ngành công nghiệp không khói nơi đây phát triển bền vững, luôn là điểm đến lý tưởng của du khách gần xa.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thạch An
1. Đặc điểm, tình hình kinh tế – xã hội.
Huyện Thạch An nằm ở phía đông nam của tỉnh Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng 39 km, phía bắc giáp huyện Hòa An, Thành phố Cao Bằng; Phía đông nam giáp huyện Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn); Phía tây giáp huyện Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn); Phía đông giáp huyện Long Châu (tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc). Huyện có đường biên giới Việt – Trung dài 5,5 km, Diện tích tự nhiên của huyện là 690,79 km
2
; do kiến tạo của địa chất, địa hình của huyện khá phức tạp, thấp dần từ tây sang đông, có nhiều nếp gấp tạo nên những khe sâu và được hình thành 3 vùng rõ rệt: Vùng núi đá, vùng núi đất và thung lũng trong đó rừng và đất rừng chiếm trên 90% diện tích canh tác toàn huyện. Dưới lòng đất có nhiều loại khoáng sản quý, hiện nay chưa có điều kiện thăm dò, khai thác xác định trữ lượng. Khí hậu huyện Thạch An mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa vùng núi, chia thành hai mùa rõ rệt, mùa đông lạnh có sương muối; mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều nước lũ dâng cao, chảy xiết. Ngoài các con sông chính Thạch An còn có nhiều suối mạch nước ngầm chảy qua các dãy núi đá vôi đảm bảo nguồn nước tưới tiêu và nước sinh hoạt của nhân dân.
Với 16 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn và 15 xã. Thạch An có vị trí khá thuận lợi so với các huyện khác của tỉnh Cao Bằng, là điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật với trung tâm thành phố Cao Bằng và các huyện trong tỉnh, lưu thông với các tỉnh bạn (Lạng Sơn, Bắc Kạn) và nước bạn Trung Quốc qua lối mở Nà Lạn – Đức Long, huyện có một hệ thống đường giao thông tương đối hoàn chỉnh gồm tỉnh lộ, huyện lộ và đường liên xã, liên thôn; có đường Quốc lộ 4A đi qua đây là con đường chiến lược về kinh tế – quốc phòng. Đồng thời là tuyến đường quan trọng để thông thương giao lưu kinh tế – văn hóa, xã hội với cả nước và phát triển kinh tế – xã hội.
Dân số toàn huyện khoảng 30.850 người, gồm 06 dân tộc chính cùng sinh sống đó là các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa. Đồng bào các dân tộc sống xen canh, xen cư ở tất cả các xã, thị trấn nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng của mình. Nhân dân các dân tộc có truyền thống đoàn kết giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng quê hương đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái, bản sắc văn hoá riêng góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nên văn hoá Việt Nam thống nhất. Các dân tộc chủ yếu sống ở vùng nông thôn (chiếm trên 90%) lao động chủ yếu là nông nghiệp, các dân tộc trồng lúa nước kết hợp sản xuất trên khô để trồng lúa nương, trồng ngô, bước đầu trồng các cây công nghiệp lâu năm (cây hồi, cây quế…), thay thế cho rừng tự nhiên. Sống trên những nếp nhà sàn, mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô típ hoa văn mô phỏng hoa rừng, thú rừng. Đồng bào có tục uống rượu bằng men lá tự nấu thể hiện tình cảm cộng đồng sâu sắc. Người uống ngây ngất bởi hơi men và đắm say bởi tình người..
2. Truyền thống văn hoá lịch sử.
Đến với Thạch An mọi người sẽ có cơ hội tham gia, hưởng thụ và khám phá các nét văn hoá đa dạng và phong phú như: múa chầu, phong slư, sli nùng, lượn slương, nàng ới, hoa tình, hát then, đàn tính cùng các lễ hội truyền thống như Hội pháo hoa (ngày 02 tháng 02 âm lịch) hàng năm được tổ chức tại thị trấn Đông Khê, Lễ Hội Nàng Hai tại thôn Chu Lăng xã Kim Đồng. Đồng thời được tham quan các di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia là: Khu di tích lịch sử Chiến thắng Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới 1950 tại thị trấn Đông Khê; Đài quan sát của Bộ chỉ huy Chiến dịch Biên giới 1950 nơi Bác trực tiếp quan sát mặt trận Đông Khê (xã Đức Long, huyện Thạch An); Các di tích lịch sử cấp tỉnh như: Hang Nà Mẹc (xã Vân Trình) nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên huyện Thạch An, Hang Cốc Đứa (xã Đức Long) nơi đặt sở Chỉ huy tiền phương của Chiến dịch Biên giới 1950, Đồn Nà Lạn (xã Đức Long), Địa điểm Cốc xả – Điểm cao 477 (xã Trọng Con), … Ngoài ra còn có thể đến thăm các nghề Đan cót (Tẹm slát) tại xã Quang Trọng, Minh Khai.
Sau khi tham quan và tham gia các hoạt động quý khách quay về thị trấn Đông Khê lưu tại các nhà nghỉ như: Thiên Việt, Yến Oanh, Mai Hiến, Bảo Vân để ngắm cảnh và thưởng thức các món ẩm thực truyền thống đặc sắc của địa phương gồm: Ba chỉ rán, Khau nhục (Nằm khau), Vịt quay, Lợn quay, Hoa chuối rừng, … được chế biến từ các sản phẩm do nhân dân địa phương cung cấp của các nhà hàng Tân Dân, Nguyên Cúc, Bảo Vân, Hải Yến để thấy được cái vị ngọt ngào của quê hương Thạch An.
3. Tiềm năng và định hướng phát triển.
Phát huy những kết quả đã đạt được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Thạch An quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức đưa nền kinh tế huyện nhà tiếp tục phát triển. Đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu và các cây trồng thế mạnh của huyện, ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên của địa phương. Khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng quê hương. Đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế. Kêu gọi thu hút đầu tư hạ tầng giao thông, chợ lối mở Nà Lạn, Đức Long để thúc đẩy giao lưu hàng hoá với nước bạn, đẩy mạnh phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch. Khai thác tốt khu di tích Đức Long … Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên của huyện, nâng cao năng xuất chất lượng và hiệu quả kinh tế nông nghiệp, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển nông – lâm theo hướng sản xuất hàng hoá. Đẩy mạnh công tác chuyển giao tiến bộ Khoa học kỹ thuật và ứng dụng vào sản xuất cho nhân dân, nâng cao hiệu quả canh tác; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng bền vững, đảm bảo kiểm soát dịch bệnh và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Huy động và phát huy hiệu quả các nguồn lực, xây dựng Thạch An ngày càng phát triển.
|
General introduction of Thach An district
1. Characteristics and socio-economic situation.
Thach An district is located in the southeast of Cao Bang province, 39 km from Cao Bang city, to the north it borders Hoa An district, Cao Bang city; The southeast borders Trang Dinh district (Lang Son province); The west borders Ngan Son district (Bac Kan province); The east borders Long Chau district (Guangxi province - China). The district has a 5.5 km long Vietnam-China border, the natural area of the district is 690.79 km
2
; Due to geological tectonics, the district's terrain is quite complex, gradually lowering from west to east, with many folds creating deep crevices and forming 3 distinct regions: Rocky mountain area, dirt mountain area and valley. in which forests and forest land account for over 90% of the cultivated area of the entire district. There are many types of precious minerals underground, but currently there are no conditions for exploration and exploitation to determine the reserves. Thach An district's climate has tropical monsoon characteristics in mountainous areas, divided into two distinct seasons, cold winters with frost; Summer is hot and humid, with lots of rain and floodwaters rise and flow rapidly. In addition to the main rivers, Thach An also has many underground springs flowing through limestone mountains, ensuring water for irrigation and daily life of the people.
With 16 administrative units, including 01 town and 15 communes. Thach An has a quite favorable location compared to other districts of Cao Bang province, providing favorable conditions for economic and scientific and technical development exchanges with Cao Bang city center and districts in the province. Connecting with neighboring provinces (Lang Son, Bac Kan) and neighboring China through the Na Lan - Duc Long opening, the district has a relatively complete road system including provincial roads, district roads and inter-commune and inter-communal roads. village; National Highway 4A passes through here, which is a strategic economic and defense road. At the same time, it is an important route for economic, cultural and social exchange and trade with the whole country and socio-economic development.
The district's population is about 30,850 people, including 6 main ethnic groups living together: Tay, Nung, Mong, Dao, Kinh, and Hoa. Ethnic people live inter-crop and live in all communes and towns but still retain their own cultural identity. People of all ethnic groups have a tradition of uniting to help each other in productive labor, fighting foreign invaders, controlling nature, overcoming natural disasters and building the homeland. Each ethnic group has its own nuance and cultural identity, contributing to the diversity and richness of a unified Vietnamese culture. Ethnic groups mainly live in rural areas (accounting for over 90%) and work mainly in agriculture. Ethnic groups grow wet rice combined with dry production to grow upland rice, grow corn, and initially grow industrial crops. perennial crops (anise, cinnamon...), replacing natural forests. Living on stilt houses, wearing indigo pants, skirts, and shirts with many motifs imitating wild flowers and wild animals. People have the custom of drinking wine with home-cooked leaf yeast, expressing their deep community feelings. The drinker is ecstatic by the alcohol and captivated by human love..
2. Historical and cultural traditions.
Coming to Thach An, everyone will have the opportunity to participate, enjoy and explore diverse and rich cultural features such as: adoration dance, phong slu, sli nung, luon sluong, nang oi, love flowers, then singing, Dan Tinh along with traditional festivals such as the annual Fireworks Festival (February 2 of the lunar calendar) held in Dong Khe town, Nang Hai Festival in Chu Lang village, Kim Dong commune. At the same time, you can visit national historical and cultural relics: Dong Khe Victory historical relic site in the 1950 Border Campaign in Dong Khe town; The observatory of the 1950 Border Campaign Command where Uncle Ho directly observed the Dong Khe front (Duc Long commune, Thach An district); Provincial historical relics such as: Na Mec Cave (Van Trinh commune) where the first Party Cell of Thach An district was established, Coc Duc Cave (Duc Long commune) where the forward command post of the 1950 Border Campaign was located , Na Lan Fort (Duc Long commune), Coc Xa location - High point 477 ( Trong Con commune), ... You can also visit the knitting craft (Tem slat) in Quang Trong and Minh Khai communes.
After visiting and participating in activities, you will return to Dong Khe town and stay at motels such as: Thien Viet, Yen Oanh, Mai Hien, Bao Van to admire the scenery and enjoy unique traditional cuisine. Local products include: Fried pork belly, Khau hum (Lay khau), Roasted duck, Roasted pig, Wild banana flowers, ... made from products provided by local people from Tan Dan and Nguyen Cuc restaurants. , Bao Van, Hai Yen to see the sweet taste of Thach An's homeland.
3. Potential and development orientation.
Promoting the results achieved, the Party Committee, government and people of all ethnic groups in Thach An district are determined to overcome difficulties and challenges to help the district's economy continue to develop. Promote the development of raw material areas and strong crops of the district, prioritize the development of industry and services, and effectively exploit and use local resources. Encourage businesses and cooperatives to invest and develop production and business, actively contributing to the cause of building the homeland. Promote socialization in the fields of education, training and health. Calling for investment in transport infrastructure and open markets in Na Lan and Duc Long to promote goods exchange with neighboring countries and promote the development of trade, services and tourism. Exploit well the Duc Long relic area... Implement the restructuring of crops and livestock in accordance with the characteristics and natural conditions of the district, improve productivity, quality and agricultural economic efficiency, creating a transition Strong changes in agricultural and forestry development towards commodity production. Promote the transfer of scientific and technical advances and applications in production to the people, improving farming efficiency; Developing livestock and poultry farming in a sustainable manner, ensuring disease control and environmental pollution control. Mobilize and effectively promote resources, building Thach An to increasingly develop.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Cà Mau
Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức ghi lại rằng, thành phố Cà Mau được mở mang cách đây 300 năm. Vào thế kỷ 17, một số lưu dân người Việt vì không chịu nổi cảnh áp bức bóc lột của chế độ phong kiến đã rời bỏ quê hương nơi cư trú đến làm ăn sinh sống tại đây, dựng thành một xã với tên gọi “xã Cà Mau”.
Ngoài di tích chùa chiền, thành phố Cà Mau còn có những khu phố cổ, với những cái tên khá nổi tiếng: Khu Hoàng Gia, Hồng Anh Thư Quán và quán cơm – cà phê Tâm Đồng (Nằm trên đường Phạm Văn Ký, Phường 2). Đây là các di tích của thập niên 20 với ngành nghề thương mại dịch vụ phát triển cực thịnh đã tạo nên. Và chính nơi này quy tụ các sĩ phu yêu nước, nơi in ấn, phát hành các tài liệu cách mạng. Tiếp theo là sự ra đời của Nhà dây Thép (trên đường Lê Lợi, kế Chùa Bà Mã Châu)…từng một thời nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau. Chưa hết, nếu bạn là người thích tìm hiểu truyền thống đấu tranh cách mạng của vùng đất này, xin hãy ghé thăm tượng đài mười liệt sì khởi nghìa Hòn Khoai (phường 2), và nghìa trang liệt sĩ 10 người tại phường 9, đứng đầu là nhà giáo, nhà báo, người chiến sĩ cách mạng kiên cường Phan Ngọc Hiển. Tại sân vận động (cũ) thành phố (một góc phía trái đường Ngô Quyền từ dốc Cầu Mới đổ về Kinh 16 ngày nay), vào ngày 12/7/1941, thực dân Pháp đã đưa các anh ra pháp trường hành quyết. Trước sự kiện này nhà báo Nguyễn Mai chứng kiến và mô tả: “Mưa đổ xuống Cà Mau trắng phố. Đoàn xe chở thi thể 10 người cộng sản lò dò trên các con đường ngập nước chạy ra phía ngoại ô. Đồng bào đội nón, che dù, mặc áo mưa, hoặc dầm mình đứng đón dài từ trường Pháp-Việt tới nhà giảng Tin Lành”. Nếu sự hy sinh của 10 liệt sĩ Hòn Khoai làm cho người tham quan xúc động và cảm phục, thì tinh thần chiến đấu dũng cảm của anh hùng – liệt sĩ lực lượng vũ trang Lý Văn Lâm, Hồ Thị Kỷ càng làm cho bạn cảm thấy tự hào về truyền thống đấu tranh của người dân Cà Mau. Lý Văn Lâm chẳng những đánh giỏi,bắn giặc giỏi ở dưới đất,mà giặc “trên trời” anh cũng bắn chính xác không kém. Có lần chỉ bằng 5 viên đạn, súng trường “bá đỏ”, anh đã hạ một máy bay trinh sát L19 của địch, khiến bọn chúng hết sức bàng hoàng kinh ngạc. Hay tiếng mìn của chị Hồ Thị Kỷ đầu thập niên 1970 đã đi vào lịch sử, góp phần nâng cao tầm vóc của người phụ nữ Việt Nam. Ngày 3/4/1970, với bước đi nhẹ nhàng thanh thản, tay xách “giỏ quà” tiến thẳng đến đoàn xe của địch xin đi “nhờ”. Một tiếng nổ kinh hoàng làm chấn động thành phố lúc ban mai, khói phụt lên phủ đầu quân giặc, 18 tên cướp nước và bán nước đền tội, 9 tên khác bị thương và một số xe hư hỏng nặng. Cảm phục trươc tinh thần dũng cảm của Hồ Thị Kỷ, Nhà báo – Nghệ sĩ nguyễn Hải Tùng trong bài thơ ca ngợi chị có đoạn viết:
… “Từ trái tim em bừng tiếng nổ,
Cuối trời Tổ quốc lửa dâng cao.
Từ trái tim em nung thép đỏ,
Chảy vào mạch sống vạn đời sau”
Ông Đoàn Thanh Vị, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải thì phát biểu: “Chưa ở đâu trên Tổ quốc ta, lại có người con gái như Hồ Thị Kỷ, từ trái tim em đã làm ra tiếng nổ diệt Mỹ đời đời vang mãi”…
Sang đầu thế kỷ 18,vùng đất này thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn.Năm1714, xã Cà Mau có tên trên bản đồ nước Việt Nam.Dưới thời Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) trực thuộc trấn Hà Tiên, đạo Long Xuyên. Đến năm 1808, dưới thời Gia Long, Minh Mạng, xã Cà Mau được nâng lên thành huyện Long Xuyên thuộc tỉnh Hà Tiên. Sau khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, vùng đất Cà Mau nhập vào hạt Rạch Giá và tháng 6 năm 1871 tách ra khỏi Rạch Giá, nhập vào tỉnh Sóc Trăng. Ngày 18/12 /1882 vùng Cà Mau nhập với Bạc Liêu lập thành tỉnh Bạc Liêu. Đây là tỉnh thứ 21 Nam Kỳ thuộc địa được thành lập gồm 4 quận: Cà Mau, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và thị xã Bạc Liêu. Theo sắc lệnh số 32/NV đề ngày 25/10/1955, chính quyền Sài Gòn tách tỉnh Cà Mau thành lập tỉnh mới gọi là tỉnh An Xuyên. Năm 1964, nguỵ quyền lập lại tỉnh Bạc Liêu, còn về phía chính quyền cách mạng thì thành lập hai tỉnh Cà Mau – Bạc Liêu dựa theo sự phân biệt địa giới hành chính của địch để thuận tiện cho việc lãnh đạo phong trào cách mạng ở mỗi nơi. Sau ngày 30/4/ 1975,Đảng, Nhà nước ta hợp nhất hai tỉnh Cà Mau- Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải; đến ngày1/1/1977, được tách ra thành hai tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu.
Qua hơn 300 năm mở mang và khai phá với nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, sự thay đổi tên gọi khác nhau cũng như trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, người Cà Mau đã tạo nên dấu son tô thắm thêm truyền thống dựng nước và giữ nước của người dân nước Việt.
Là trung tâm tỉnh lỵ, thành phố Cà Mau cách thành phố Hồ Chí Minh 349 km, cách thủ đô Hà Nội 2.085km. Với dân số khoảng 181.000 người, được chia làm 8 phường và 7 xã. Trong đó có hơn 300 hộ người Khmer và 400 hộ người Hoa sinh sống chủ yếu ở thành thị, cùng với người Kinh, những cộng đồng dân tộc này đã tạo ra cho Cà Mau một bản sắc văn hoá hêt sức riêng biệt, không thể lẫn vào bất cứ nơi nào của đất nước.Nếu đi du lịch đến thành phố Cà Mau, bạn đừng quên ghé thăm ngôi chùa Monivonsabophram, một biểu tượng đặc trưng của người Khmer nằm tại phường 1, TP Cà Mau. Nếu người Khmer đón không khí tết của mình trong nghi lễ thả đèn gió trang trọng và không kém phần thiêng liêng thì đến rằm tháng giêng, người Kinh từ khắp nơi lại lũ lượt đổ về chùa Phật Tổ ( còn gọi là Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự), nằm tại phường 4, TP Cà Mau để dự và cúng rằm Thượng Nguyên. Cũng tại đây vào ngày rằm tháng bảy, bà con Cà Mau rủ nhau vào chùa làm lễ xá tội vong nhân (cúng cô hồn). Đây cũng là dịp làm lễ báo hiếu (lễ Vu Lan). Còn trong tháng ba âm lịch, bạn bè về với đồng bào người Hoa ở TP Cà Mau để cùng nhau vui đón ngày vía Bà Thiên Hậu, đây là một ngôi chùa được người Hoa xây dựng từ năm 1882, tại phường 2 TP Cà Mau.
Đến tham quan du lịch TP Cà Mau bạn đừng quên đi chợ nổi trên sông, đây là nét văn hoá mang đậm dấu ấn của người dân vùng sông nước Cà Mau. Nếu muốn tìm cảm giác thư thái, bạn nên ghé vào Công viên văn hoá nằm ngay trong lòng thành phố. Nơi đây được xem như một Cà Mau thu nhỏ, có cả vườn chim giữa lòng thành phố. Với một hệ sinh thái tự nhiên hết sức độc đáo, mang nét văn hoá rất riêng mà chỉ thành phố Cà Mau mới có được.
Bạn cũng đừng lo lắng nếu muốn tìm chỗ nghỉ ngơi, tại thành phố Cà Mau có hệ thống nhà hàng, khách sạn với đầy đủ tiện nghi phục vụ quí khách. Ngoài ra, các dịch vụ du lịch sẽ đưa bạn đi du lịch hoang dã, hoặc thăm viếng, tìm hiểu các sân chim, vườn chim,rừng tràm, rừng đước…Tất cả những nơi bạn đến sẽ là một hình ảnh đẹp, sinh động, tạo ấn tượng về vùng đất chót mũi này. Thành phố Cà Mau sẽ là nơi đón bạn, và chắc rằng khi xa rồi bạn sẽ còn lưu luyến mãi và không bao giờ quên. (Chí Bắc).
|
General introduction to Ca Mau city
According to the book Gia Dinh Thanh Thong Chi by Trinh Hoai Duc, it is recorded that Ca Mau city was opened 300 years ago. In the 17th century, a number of Vietnamese immigrants, unable to endure the oppression and exploitation of the feudal regime, left their homeland to work and live here, forming a commune called "Commune". Ca Mau".
In addition to pagoda relics, Ca Mau city also has old quarters, with quite famous names: Royal Area, Hong Anh Thu Quan and Tam Dong rice and coffee shop (Located on Pham Van Ky Street, Ward 2). These are relics of the 1920s that created a thriving trade and service industry. And this is where patriotic scholars gathered, where revolutionary documents were printed and distributed. Next was the birth of the Steel Wire House (on Le Loi Street, next to Ba Ma Chau Pagoda)... once famous during the two resistance wars of the Party Committee and the people of Ca Mau. And yet, if you are someone who likes to learn about the revolutionary struggle traditions of this land, please visit the monument of ten martyrs of the Hon Khoai rebellion (ward 2), and the cemetery of 10 martyrs in ward 9, headed by teacher, journalist, and resilient revolutionary soldier Phan Ngoc Hien. At the (old) city stadium (a corner on the left side of Ngo Quyen street from Cau Moi slope to Kinh 16 today), on July 12, 1941, the French colonialists took them to the execution ground. Before this event, journalist Nguyen Mai witnessed and described: "Rain poured down on the white city of Ca Mau. The convoy carrying the bodies of 10 communists found their way through flooded roads to the suburbs. People put on hats, umbrellas, raincoats, or stood up to welcome the long line from the French-Vietnamese school to preach the Gospel." If the sacrifices of 10 Hon Khoai martyrs make visitors moved and admired, then the brave fighting spirit of heroes - martyrs of the armed forces Ly Van Lam and Ho Thi Ky makes you feel even more impressed. feel proud of the fighting tradition of the people of Ca Mau. Not only was Ly Van Lam good at fighting and shooting at the enemy on the ground, but he also shot the enemy "in the sky" equally accurately. One time, with just 5 bullets and a "red bull" rifle, he brought down an enemy L19 reconnaissance plane, leaving them extremely shocked and surprised. Or Ho Thi Ky's landmine sound in the early 1970s has gone down in history, contributing to raising the stature of Vietnamese women. On April 3, 1970, with a gentle and serene step, carrying a "gift basket" in hand, he headed straight to the enemy convoy to ask for a ride. A terrible explosion shook the city at dawn, smoke rose above the enemy's heads, 18 people robbed and sold water to pay for their sins, 9 others were injured and a number of vehicles were seriously damaged. Admiring Ho Thi Ky's courageous spirit, Journalist - Artist Nguyen Hai Tung wrote in a poem praising her:
… “From my heart comes an explosion,
At the end of the sky, the fire of the Fatherland rose high.
From my heart burning red steel,
Flowing into the veins of life for thousands of generations to come.”
Mr. Doan Thanh Vi, former Secretary of the Minh Hai Provincial Party Committee, said: "Nowhere in our country has there been a girl like Ho Thi Ky. From her heart, the explosion that destroyed America can be heard forever." ”…
In the early 18th century, this land was under the management of Lord Nguyen. In 1714, Ca Mau commune was named on the map of Vietnam. Under the reign of Hien Tong Nguyen Phuc Chu (1691-1725), Ha Tien town, religion Long Xuyen. By 1808, under the reigns of Gia Long and Minh Mang, Ca Mau commune was upgraded to Long Xuyen district in Ha Tien province. After the French colonialists occupied the three western provinces, Ca Mau land merged into Rach Gia county and in June 1871 separated from Rach Gia and joined Soc Trang province. On December 18, 1882, Ca Mau region merged with Bac Lieu to form Bac Lieu province. This is the 21st province of colonial Cochinchina established with 4 districts: Ca Mau, Vinh Loi, Vinh Chau and Bac Lieu town. According to Decree Không. 32/NV dated October 25, 1955, the Saigon government separated Ca Mau province to establish a new province called An Xuyen province. In 1964, the puppet government re-established Bac Lieu province, and on the revolutionary government's side, two provinces of Ca Mau and Bac Lieu were established based on the enemy's administrative boundaries to facilitate the leadership of the revolutionary movement. in every place. After April 30, 1975, our Party and State merged the two provinces of Ca Mau and Bac Lieu into Minh Hai province; On January 1, 1977, it was separated into two provinces: Ca Mau and Bac Lieu.
Through more than 300 years of expansion and exploration with many ups and downs of history, different name changes as well as two long resistance wars of the nation, Ca Mau people have created a mark that deepens. the tradition of building and defending the country of the Vietnamese people.
As the provincial center, Ca Mau city is 349 km from Ho Chi Minh City, 2,085 km from Hanoi capital. With a population of about 181,000 people, divided into 8 wards and 7 communes. Among them, there are more than 300 Khmer households and 400 Chinese households living mainly in urban areas. Together with the Kinh people, these ethnic communities have created for Ca Mau a very unique and unique cultural identity. anywhere in the country. If you travel to Ca Mau city, don't forget to visit Monivonsabophram pagoda, a typical symbol of the Khmer people located in Ward 1, Ca Mau City. If Khmer people welcome their Tet atmosphere in the solemn and equally sacred ceremony of releasing wind lanterns, then on the full moon day of the first month, Kinh people from all over flock to Phat To Pagoda (also known as Sac Tu Quan Am). Co Tu), located in Ward 4, Ca Mau City to attend and worship the full moon day of Thuong Nguyen. Also here, on the full moon day of the seventh lunar month, Ca Mau people invite each other to go to the pagoda to hold a ceremony to forgive the sins of the dead (worshiping the soul). This is also an opportunity to hold a filial piety ceremony (Vu Lan ceremony). In the third lunar month, friends return to the Chinese people in Ca Mau City to celebrate together the day of worshiping Ba Thien Hau, this is a temple built by the Chinese in 1882, in Ward 2, Ca Mau City. .
When visiting Ca Mau City, don't forget to go to the floating market on the river, this is a cultural feature bearing the mark of the people of Ca Mau river region. If you want to find a feeling of relaxation, you should visit the Cultural Park located right in the heart of the city. This place is considered a miniature Ca Mau, with a bird garden in the heart of the city. With a very unique natural ecosystem, it has a very unique culture that only Ca Mau city can have.
Don't worry if you want to find a place to rest, in Ca Mau city there is a system of restaurants and hotels with full amenities to serve you. In addition, travel services will take you on wild trips, or visit and learn about bird sanctuaries, bird gardens, melaleuca forests, mangrove forests... All the places you go will be a beautiful, lively image. moving, creating an impression of the land at the tip of this cape. Ca Mau city will be the place to welcome you, and I'm sure that when you're gone, you'll still linger forever and never forget. (Chi Bac).
|
Giới thiệu khái quát huyện Hạ Lang
Hạ Lang là huyện vùng cao biên giới, vùng sâu, vùng xa nằm ở phía đông tỉnh Cao Bằng, có vị trí chiến lược trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huyện cách trung tâm thành phố Cao Bằng hơn 73 km theo tỉnh lộ 207. Ba mặt phía đông, đông – bắc, nam giáp hai huyện Đại Tân và Long Châu, Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung quốc. Phía tây bắc giáp huyện Trùng Khánh, phía tây giáp huyện quảng Uyên và Phục Hòa.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 45.651,54 ha xấp xỉ 456,515 km
2
, trong đó:
– Đất nông lâm nghiệp là 42.992,16 ha, chiếm 94,17% diện tích tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp chiếm khoảng 13%.
– Đất phi nông nghiệp là 1.967,04 ha, chiếm 4,31% diện tích tự nhiên.
– Đất chưa sử dụng là 692,34 ha, chiếm 1,52% diện tích tự nhiên.
Dân số của huyện là 25.641 người, mật độ dân số là 56 người/km
2
, trong đó người Nùng chiếm 53,44%, người Tày chiếm 45,28%, dân tộc Kinh và dân tộc khác chiếm 1,28%.
Hạ Lang hiện nay được chia thành 14 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm: thị trấn Thanh Nhật và các xã Quang Long, Việt Chu, Thái Đức, Thị Hoa, Cô Ngân, Vinh Quý, An Lạc, Kim Loan, Đức Quang, Thắng Lợi, Đồng Loan, Lý Quốc, Minh Long). Do kiến tạo địa chất, địa hình huyện Hạ Lang phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông, núi cao, hiểm trở, chia cắt mạnh, có nhiều nếp gãy khổng lồ tạo nên những khe sâu, hang động đèo dốc, điển hình là đèo Khau Mòn tiếp giáp với huyện Quảng Uyên, đèo Khau Ren tiếp giáp với huyện Trùng Khánh, Khau Noóc từ Đức Quang vắt qua Thắng Lợi, Khau Ruông (Việt Chu), dốc Keng Ca (An Lạc), … Địa hình của huyện không phân chia thành từng vùng rõ rệt. Hầu hết các xã vừa có núi đá, vừa có núi đất và vừa có thung lũng tương đối bằng phẳng.
Dân số của huyện hơn 25.000 người, thành phần gồm 3 dân tộc: Tày, Nùng, Kinh, trong đó người Tày, Nùng là chủ yếu, chiếm khoảng 95%; cư trú xen kẽ bên nhau thành làng, bản, khu dân cư, tạo nên một bức tranh đa dạng, thống nhất về văn hóa đặc sắc giữa các dân tộc cũng như từng dân tộc riêng biệt.
Về các lễ hội, lễ Tết truyền thống: Hàng năm, nhân dân các dân tộc huyện Hạ Lang tổ chức những ngày hội vào dịp mừng xuân mới, thường là những tháng đầu năm mới Âm lịch, sau Tết nguyên đán.
– Hội Lồng tồng (hội xuống đồng) của người Tày, Nùng diễn ra đầu năm với cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu: Bản Thừng (Minh Long) ngày 4 tháng Giêng, Bằng Ca ngày 6 tháng Giêng, Bản Bang (Lý Quốc), Bản Thuộc (Đồng Loan) vào ngày Dậu tháng Giêng, Bản Răng (An Lạc) ngày 7 tháng Giêng, Bản Tao (Kim Loan) ngày 8 tháng Giêng, Nà Ran (Đức Quang) ngày 9 tháng Giêng, Bản Rạc, Bản Nhôn, Bản Khúa, Bản Nha (Cô Ngân) ngày 10,11,12,13 tháng Giêng, Pò Nà (Việt Chu, Thị Hoa) ngày 14 tháng Giêng
– Lễ hội Chùa Sùng phúc – lễ hội truyền thống lớn nhất của người dân Hạ Lang trong năm, được tổ chức vào ngày 15,16 tháng Giêng hàng năm trong sự đan xen, hòa quyện giữa những nghi lễ trang trọng và các hoạt động văn hóa dân gian sôi nổi, đặc sắc như lượn giao duyên đối đáp, điệu sli …
– Các ngày lễ Tết gắn với truyền thống cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và đạo lý uống nước nhớ nguồn của cư dân Việt cổ được tổ chức trong các tháng Âm lịch trong năm: Tết thanh minh (3/3), Tết đoan ngọ (5/5), Tết khoăn nà (trả công ơn trâu bò sau vụ cày bừa) (6/6), sờ nèn (tục đi tái, trả ơn công lao bố mẹ bên nhà vợ) (14,15/7), Tết trung thu (15/8), kin kháu mơ (mừng lúa mới, mừng vụ mùa bội thu) (9/9, 2/10, 11/11).
– Ngoài ra, trên địa bàn huyện có hội giao duyên Thang Nà, Bản Kiểng xã Quang Long diễn ra vào ngày 16/4 Âm lịch (hội mới được khôi phục từ năm 2014), chợ Phai Làng (Thắng Lợi) ngày 30 và 01 tháng Giêng, chợ hội vùng Bằng Ca vào tháng Giêng, tháng 3, tháng 7 Âm lịch.
Về văn hóa ẩm thực, sản vật địa phương: ngoài các sản vật, món ăn phong phú mang đậm chất núi rừng Cao Bằng, Hạ Lang có đặc sản nổi tiếng được du khách thập phương biết đến đó là: sản phẩm bún khô Hạ Lang, bánh khảo tàu dùng tại trung tâm phố huyện, sản phẩm đường phên tại xóm Lũng Đốn, Thị trấn Thanh Nhật.
Về văn hóa dân tộc: dân tộc Tày có làn điệu lượn then, phong slư. Dân tộc Nùng có làn điều hà lều ở An Lạc, Vinh Quý, Quang Long, Kim Loan; Thị Hoa, Thái Đức có làn điều Nài Sli … Các làn điệu nói trên đa dạng và phong phú, thể hiện được bản sắc của từng dân tộc, có tính giáo lý và tính giáo dục cao; là hình thức để mọi người giao lưu ở các ngày cưới xin, hội chợ, chợ phiên, mừng vào nhà mới, mừng thọ …
|
General introduction to Ha Lang district
Ha Lang is a border, remote and highland district located in the east of Cao Bang province, with a strategic position in the process of building and protecting the Fatherland. The district is more than 73 km from Cao Bang city center along provincial road 207. The east, north-east, and south sides border Dai Tan and Long Chau districts, Zhuang Autonomous Region, Guangxi, China. The northwest borders Trung Khanh district, the west borders Quang Uyen and Phuc Hoa districts.
The total natural area of the district is 45,651.54 hectares, approximately 456,515 km2.
2
, in there:
– Agricultural and forestry land is 42,992.16 hectares, accounting for 94.17% of the natural area, of which agricultural land accounts for about 13%.
– Non-agricultural land is 1,967.04 hectares, accounting for 4.31% of the natural area.
– Unused land is 692.34 hectares, accounting for 1.52% of the natural area.
The district's population is 25,641 people, population density is 56 people/km
2
, of which the Nung people account for 53.44%, the Tay people account for 45.28%, the Kinh people and other ethnic groups account for 1.28%.
Ha Lang is currently divided into 14 commune-level administrative units, including: Thanh Nhat town and the communes of Quang Long, Viet Chu, Thai Duc, Thi Hoa, Co Ngan, Vinh Quy, An Lac, Kim Loan, Duc Quang, Thang Loi, Dong Loan, Ly Quoc, Minh Long). Due to geological tectonics, the terrain of Ha Lang district is complex, gradually lowering from West to East, the mountains are high, rugged, strongly divided, with many giant faults creating deep ravines and caves in steep passes, typically Khau Mon pass is adjacent to Quang Uyen district, Khau Ren pass is adjacent to Trung Khanh district, Khau Nooc from Duc Quang across Thang Loi, Khau Ruong (Viet Chu), Keng Ca slope (An Lac), ... Topography of The district is not divided into distinct regions. Most communes have both rocky mountains, dirt mountains, and relatively flat valleys.
The district's population is more than 25,000 people, consisting of 3 ethnic groups: Tay, Nung, Kinh, of which the Tay and Nung are the main people, accounting for about 95%; residing side by side in villages, hamlets, and residential areas, creating a diverse and unified picture of unique culture between ethnic groups as well as each individual ethnic group.
Regarding traditional festivals and Tet holidays: Every year, people of all ethnic groups in Ha Lang district organize festivals to celebrate the new spring, usually in the first months of the lunar new year, after the Lunar New Year.
– Long Tong festival (field festival) of the Tay and Nung people takes place at the beginning of the year with the hope of a year of favorable weather, good harvests, and bountiful harvests: Ban Thung (Minh Long) on January 4, Bang Ca on January 4 January 6, Ban Bang (Ly Quoc), Ban Thuoc (Dong Loan) on January Rooster, Ban Rang (An Lac) on January 7, Ban Tao (Kim Loan) on January 8, Na Ran (Duc Quang) ) January 9, Ban Rac, Ban Nhon, Ban Khua, Ban Nha (Co Ngan) January 10, 11, 12, 13, Po Na (Viet Chu, Thi Hoa) January 14
– Sung Phuc Pagoda Festival – the biggest traditional festival of Ha Lang people of the year, held on January 15 and 16 every year in a mixture of formal rituals and activities. Vibrant and unique folk culture such as love exchanges, sli dances...
– Tet holidays associated with the tradition of agricultural residents growing wet rice and the ancient Vietnamese ethic of remembering the source when drinking water are held during the lunar months of the year: Tet Thanh Minh (March 3), Tet Doan Ngo Nhan (May 5), Tet An Na (paying thanks to cows and buffaloes after plowing and harrowing) (June 6), Da Nen (the custom of going back and forth, repaying the wife's parents for their hard work) (July 14 and 15). ), Mid-Autumn Festival (August 15), kin khau mo (celebration of new rice, happy harvest) (September 9, October 2, November 11).
- In addition, in the district, there are Thang Na and Ban Kieng lovemaking festivals in Quang Long commune taking place on the 16th day of the 4th lunar month (the festival has just been restored since 2014), Phai Lang market (Thang Loi) on the 30th and January 1st, fair in Bang Ca region in January, March, and 7th lunar month.
Regarding culinary culture and local products: in addition to the rich products and dishes imbued with the mountains and forests of Cao Bang, Ha Lang has a famous specialty known to tourists from all over: Ha dry vermicelli products. Lang, banh kha tau used in the district town center, cane sugar products in Lung Don hamlet, Thanh Nhat Town.
Regarding national culture: the Tay people have luon then and phong slu melodies. The Nung ethnic group has tents in An Lac, Vinh Quy, Quang Long, Kim Loan; Thi Hoa, Thai Duc have Nai Sli tunes... The above mentioned tunes are diverse and rich, expressing the identity of each nation, and have high doctrinal and educational properties; is a form for people to interact at weddings, fairs, bazaars, celebrating entering a new home, celebrating longevity...
|
Giới thiệu khái quát huyện Phục Hòa
Phục Hòa là một huyện vùng cao biên giới, nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm Thành phố Cao Bằng 60km theo quốc lộ 3.
Phía Bắc giáp huyện Quảng Uyên, phía Đông giáp huyện Hạ Lang, phía Nam giáp huyện Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc), phía Tây giáp huyện Thạch An và huyện Hòa An.
Tổng diện tích tự nhiên 250,045km
2
, dân số trên 25 nghìn người, gồm các dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Hoa, Mông.
Huyện Phục Hòa được chia thành 9 đơn vị hành chính, gồm 2 thị trấn và 7 xã đó là: Thị trấn Tà Lùng, thị trấn Hòa Thuận, xa Cánh Linh, xã Hồng Đại, xã Triệu Ẩu, xã Đại Sơn, xã Lương Thiện, xã Tiên Thành, xã Mỹ Hưng.
Lịch sử hình thành và phát triển:
Phục hòa là miền đất đã trường tồn hàng nghìn năm lịch sử dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Núi non Phục Hòa hiểm trở, hình dáng muôn vẻ, phong cảnh đẹp nên thơ, tù xa xưa là cái nôi sinh thành, lớn lên của khối cộng đồng dân tộc nơi đây.
Phục Hòa là huyện miền núi biên giới có vị trí địa bàn chiến lược quan trọng nằm ở phía Bắc của tổ quốc Việt Nam. Phục Hòa có Cửa khẩu Quốc tế Tà Lùng là nơi giao lưu, nơi thông thương quốc tế góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho huyện, tỉnh và cả nước.
– Địa danh Phục Hòa xuất hiện từ xưa. Thành Phục Hòa xây cùng thời với thành Nà Lữ ( Hòa Ân), Thành Đại La ( Hà Nội) và thành (Lạng Sơn) năm 864.
– Đầu thời Nguyễn năm 1802 Cao Bằng có 4 châu, Tổng Phục Hòa thuộc châu Thạch Lâm.
– Năm 1935 châu Thạch Lâm được chia ra làm hai huyện Thạch Lâm và Thạch An, tổng Phục Hòa thuộc huyện Thạch An.
– Năm 1928 tỉnh Cao Bằng gồm 1 phủ, 8 châu, 33 tổng.
* Châu Phục Hòa gồm 2 tổng, 17 xã:
– Tổng Cách Linh: 8 xã, Cách Linh, Giao Tế, Làng Hoài, Phất Mê, Phia Chì, Sơn Nông, Vinh Vọng, Vĩnh Lai.
– Tổng Phục Hòa: 9 xã gồm Bút Phong, Cần Phán, Hưng Long, Phục Hòa, Sầm Xuyên, Tà Lùng, Tiên Giao, Tục Mỹ, Xuân Quang.
– Từ năm 1926 đến 1929 tỉnh Cao Bằng còn 8 châu. Châu Phục Hòa gồm 2 tổng, 17 xã và 163 thôn, bản.
Tháng 8 năm 1936 bị thực dân pháp đánh chiếm và đã chia địa giới hành chính để dễ bề cai trị. Tổng Phục Hòa được tách ra khỏi châu Thạch An.
– Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, châu Phục Hòa đổi tên thành Huyện Phục Hòa bao gồm các xã: Hồng Đại, Triệu Ẩu, Cách Linh, Lương Thiện, Tiên Thành, Đà Sơn, Đại Tiến, Mỹ Hưng, Quy Thuận.
– Từ sau năm 1954, Nhà nước có điều chỉnh chia tách và sát nhập một số đơn vị hành chính: Do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng. Thực hiện Nghị định số 27/NĐ-CP ngày 8/3/1967 của Chính phủ hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên được thành huyện
Quảng Hòa
.
Huyện Quảng Hòa tồn tại cho đến năm 2002 thì lại tách ra thành hai huyện là Phục Hòa (nửa phía Nam) và Quảng Uyên, theo Nghị định 96/2001/NĐ-CP của Chính phủ.
Nguyên nhân thành lập lại huyện Phục Hòa là:
Do các xã ở xa trung tâm huyện lỵ, vùng sâu, vùng xa, biên giới, giao thông chưa phát triển nên ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và trao đổi hàng hóa của nhân dân. Việc tuyên truyền vận động nhân dân về chuyển dịch cơ cấu gặp nhiều khó khăn.
Tình hình an ninh trật tự ở các xã, các xóm vùng sâu vùng xa, vùng biên giới còn nhiều phức tạp, mặt bằng dân trí thấp, nhiều hủ tục lạc hậu chưa được xóa bỏ, nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế, do các xã ở xa trung tâm huyện nên nhiều vụ việc xảy ra, báo cáo không kịp thời.
Trước tình hình đó ngày 29-01-2002, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cao Bằng có Quyết định số 492-QĐ/TU về thành lập Đảnh bộ huyện Phục Hòa.
Sau khi tái lập huyện, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Phục Hòa đã nhanh chóng khắc phục những khó khăn, phát huy tiềm năng và thế mạnh đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh.
|
General introduction of Phuc Hoa district
Phuc Hoa is a border highland district, located in the Southeast of Cao Bang province, 60km from Cao Bang City center along Highway 3.
The North borders Quang Uyen district, the East borders Ha Lang district, the South borders Long Chau district (Guangxi, China), the West borders Thach An district and Hoa An district.
Total natural area is 250,045km
2
, population of over 25 thousand people, including Tay, Nung, Kinh, Hoa, Mong ethnic groups.
Phuc Hoa district is divided into 9 administrative units, including 2 towns and 7 communes: Ta Lung town, Hoa Thuan town, Canh Linh commune, Hong Dai commune, Trieu Au commune, Dai Son commune, Luong commune. Thien, Tien Thanh commune, My Hung commune.
History of formation and development:
Phuc Hoa is a land that has existed for thousands of years in the history of the Vietnamese people in the cause of building and defending the country. The rugged Phuc Hoa mountains, with diverse shapes and poetic landscapes, have long been the cradle of birth and growth of the ethnic community here.
Phuc Hoa is a mountainous border district with an important strategic location in the North of Vietnam. Phuc Hoa has Ta Lung International Border Gate which is a place of exchange and international trade, contributing to the socio-economic development of the district, province and the whole country.
– The place name Phuc Hoa appeared long ago. Phuc Hoa citadel was built at the same time as Na Lu citadel (Hoa An), Dai La citadel (Hanoi) and citadel (Lang Son) in 864.
– At the beginning of the Nguyen Dynasty in 1802, Cao Bang had 4 continents, General Phuc Hoa belonged to Thach Lam province.
– In 1935, Thach Lam district was divided into two districts, Thach Lam and Thach An, Phuc Hoa district belonged to Thach An district.
– In 1928, Cao Bang province included 1 government, 8 continents, and 33 provinces.
* Chau Phuc Hoa includes 2 cantons and 17 communes:
– Cach Linh total: 8 communes, Cach Linh, Giao Te, Lang Hoai, Phat Me, Phia Chi, Son Nong, Vinh Vong, Vinh Lai.
– Total Phuc Hoa: 9 communes including But Phong, Can Phan, Hung Long, Phuc Hoa, Sam Xuyen, Ta Lung, Tien Giao, Tuc My, Xuan Quang.
– From 1926 to 1929, Cao Bang province had 8 continents. Chau Phuc Hoa includes 2 cantons, 17 communes and 163 villages and hamlets.
In August 1936, it was occupied by the French colonialists and the administrative boundaries were divided to make it easier to rule. General Phuc Hoa was separated from Thach An province.
– After the August 1945 revolution, Phuc Hoa district changed its name to Phuc Hoa District including communes: Hong Dai, Trieu Au, Cach Linh, Luong Thien, Tien Thanh, Da Son, Dai Tien, My Hung, Quy Thuan.
– Since 1954, the State has adjusted the separation and merger of a number of administrative units: Due to the need for socio-economic development, security and defense consolidation. Implementing Decree Không. 27/ND-CP dated March 8, 1967 of the Government, Phuc Hoa and Quang Uyen districts were transformed into districts.
Quang Hoa
.
Quang Hoa district existed until 2002, then split into two districts, Phuc Hoa (southern half) and Quang Uyen, according to Decree 96/2001/ND-CP of the Government.
The reasons for re-establishing Phuc Hoa district are:
Because the communes are far from the district center, remote areas, border areas, and traffic is not yet developed, it affects the economic development and exchange of goods of the people. Propagating and mobilizing people about structural transformation faces many difficulties.
The security and order situation in communes, remote hamlets, and border areas is still complicated, people's level of education is low, many outdated customs have not been eliminated, and awareness of the law is still limited. , because the communes are far from the district center, many incidents occur and are not reported promptly.
Faced with that situation, on January 29, 2002, the Standing Committee of the Cao Bang Provincial Party Committee issued Decision Không. 492-QD/TU on establishing the Phuc Hoa District Embassy.
After re-establishing the district, the Party Committee and people of all ethnic groups in Phuc Hoa district quickly overcame difficulties, promoted potentials and strengths, and won many important achievements in building economic and cultural development. culture, society, and strengthening national defense and security.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thông Nông
Thông Nông là một huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm Thành phố Cao Bằng 49 km, tiếp giáp với các huyện: Hòa An, Hà Quảng, Bảo Lạc, Nguyên Bình của tỉnh Cao Bằng và huyện Nà Po, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; có đường biên giới giáp với Trung Quốc dài gần 14 km.
Về diện tích tự nhiên 35.729 ha, trong đó: Đất nông nghiệp 5.217 ha, đất lâm nghiệp 28.374 ha; đất khác 2.138 ha.
Về địa hình của huyện, cơ bản là đồi, núi và bị chia cắt mạnh với độ dốc lớn. Vùng núi đá vôi có nhiều hang động, còn lại là vùng lòng máng tương đối bằng phẳng nhưng nhỏ hẹp, nằm ven chân núi. Toàn huyện chia thành 2 vùng:
+ Vùng rẻo cao
,
lưng chừng núi
: Nằm ở phía Đông và phía Tây, chiếm phần lớn diện tích của huyện, canh tác chủ yếu là trồng ngô, đỗ tương, lạc, cây ăn quả.
+ Vùng lòng máng
: Chủ yếu ở 5 xã (Cần yên, Lương Thông, Đa Thông, Lương Can và thị trấn Thông Nông) là vùng khá bằng phẳng nằm ven chân núi, có vị thế rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Có nhiều sông suối, đất canh tác chủ yếu là trồng lúa nước, ngô, đỗ tương, thuốc lá.
– Về Khí hậu, thủy văn: Là huyện nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa và có đủ 4 mùa trong năm. Nhiệt độ trung bình từ 22
0
c đến 24
0
c, tối đa cao tới 39
0
c và tối thiểu là 0
0
c. Về sông, suối, đáng kể nhất là sông Dẻ Rào dài hơn 36 km, bắt nguồn từ vùng biên giới Việt – Trung, chảy qua các xã vùng lòng máng ra huyện Hòa An.
– Tài nguyên đất: Huyện có tổng diện tích nông – lâm nghiệp khoảng 33.591 ha.
– Tài nguyên khoáng sản: Đáng kể nhất là quặng Bô xít là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, trữ lượng 22 triệu tấn, chất lượng tốt.
– Tài nguyên rừng huyện Thông Nông đang dần dần được phục hồi và phát triển, đến năm 2013 tổng diện tích rừng của toàn huyện là 28.374,08 ha chiếm 83,38% tổng diện tích đất toàn huyện. Tuy nhiên, do nhiều năm khai thác không có kế hoạch nên tài nguyên rừng bị khai thác vượt mức so với tốc độ phát triển, rừng núi đá phục hồi chậm, diện tích rừng năm 2013 giảm 4,4% so với năm 2009. Diện tích che phủ rừng là 47,7%.
Lịch sử và quá trình phát triển của Huyện.
Đất Thông Nông xưa kia là một tổng của châu Thạch Lâm, trấn Cao Bằng. Đầu thể kỷ thứ XIX, tổng Thông Nông thời phong kiến có 9 xã, thôn. Thông Nông, Thông Sơn, Lạng Năng, Đa Năng, Lạng Y, Trùng Khôn, An Dương, Lương Can, Thôn Cáp Ná và xã Bình Lãng. Đến năm 1894 – 1895, thực dân Pháp tách tổng Tràng An, Phù Dúng, Trà An, Hà Quảng và châu Thạch Lâm thành lập châu Hà Quảng.
Sau Cách mạng tháng tám năm 1945. Châu Hà Quảng đổi thành huyện Hà Quảng, các xã cũng bỏ tên cũ, mang tên mới như hiện nay. Năm 1966 huyện Hà Quảng chia thành hai huyện: Hà Quảng và Thông Nông theo Quyết định số 67-CP của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 7/4/1966. Huyện Thông Nông gồm có 8 xã: Đa Thông, Lương Thông, Cần Yên, Lương Can, Ngọc Động, Thanh Long, Bình Lãng, Yên Sơn. Đến năm 1981 xã Cần Yên tách thành hai xã: Cần Yên và Vị Quang.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, năm 1998 Thị Trấn Thông Nông được thành lập trên cơ sở tách từ một bộ phận của xã Đa Thông. Năm 2008 xã Cần Yên được tách thành hai xã Cần Yên và Cần Nông. Đến nay huyện có 11 đơn vị hành chính gồm Thị trấn Thông Nông và 10 xã: Đa Thông, Lương Thông, Cần Yên, Lương Can, Ngọc Động, Thanh Long, Bình Lãng, Yên Sơn, Cần Nông, Vị Quang.
|
General introduction of Thong Nong district
Thong Nong is a border highland district located in the northwest of Cao Bang province, 49 km from the center of Cao Bang City, adjacent to the districts: Hoa An, Ha Quang, Bao Lac, Nguyen Binh of Cao Bang province. and Na Po district, Guangxi province, China; The border with China is nearly 14 km long.
The natural area is 35,729 hectares, of which: Agricultural land is 5,217 hectares, forestry land is 28,374 hectares; Other land 2,138 hectares.
Regarding the district's terrain, it is basically hills and mountains and is strongly divided with steep slopes. The limestone mountain area has many caves, the rest is a relatively flat but narrow trough area, located along the foot of the mountain. The whole district is divided into 2 regions:
+ High altitude area
,
halfway up the mountain
: Located in the East and West, accounting for most of the district's area, cultivation is mainly corn, soybeans, peanuts, and fruit trees.
+ Trough area
: Mainly in 5 communes (Can Yen, Luong Thong, Da Thong, Luong Can and Thong Nong town) which is a fairly flat area located at the foot of the mountain, with a very important position in economic development. There are many rivers and streams, and the main cultivated land is rice, corn, soybeans, and tobacco.
- Regarding climate and hydrology: This district is located in the tropical monsoon climate area and has 4 seasons a year. Average temperature from 22
0
c to 24
0
c, maximum as high as 39
0
c and minimum is 0
0
c. Regarding rivers and streams, the most notable is the De Rao River, which is more than 36 km long, originating from the Vietnam-China border area, flowing through the trough communes to Hoa An district.
– Land resources: The district has a total agricultural and forestry area of about 33,591 hectares.
– Mineral resources: Most notably, bauxite ore is the most important resource, with reserves of 22 million tons, good quality.
– Thong Nong district's forest resources are gradually being restored and developed. By 2013, the total forest area of the entire district was 28,374.08 hectares, accounting for 83.38% of the total land area of the district. However, due to many years of unplanned exploitation, forest resources were exploited beyond the speed of development, rocky mountain forests recovered slowly, and the forest area in 2013 decreased by 4.4% compared to 2009. Forest cover area is 47.7%.
History and development of the District.
Thong Nong Land was formerly a district of Thach Lam district, Cao Bang town. In the early 19th century, Thong Nong Commune during feudal times had 9 communes and villages. Thong Nong, Thong Son, Lang Nang, Da Nang, Lang Y, Trung Khon, An Duong, Luong Can, Cap Na Village and Binh Lang commune. In 1894 - 1895, the French colonialists separated Trang An, Phu Dung, Tra An, Ha Quang and Thach Lam districts to form Ha Quang district.
After the August Revolution of 1945, Chau Ha Quang was changed to Ha Quang district, the communes also abandoned their old names and took on new names like today. In 1966, Ha Quang district was divided into two districts: Ha Quang and Thong Nong according to Decision Không. 67-CP of the Government Council of the Democratic Republic of Vietnam dated April 7, 1966. Thong Nong district includes 8 communes: Da Thong, Luong Thong, Can Yen, Luong Can, Ngoc Dong, Thanh Long, Binh Lang, Yen Son. In 1981, Can Yen commune split into two communes: Can Yen and Vi Quang.
Faced with the need for socio-economic development, in 1998 Thong Nong Town was established on the basis of separating from a part of Da Thong commune. In 2008, Can Yen commune was split into two communes: Can Yen and Can Nong. Up to now, the district has 11 administrative units including Thong Nong Town and 10 communes: Da Thong, Luong Thong, Can Yen, Luong Can, Ngoc Dong, Thanh Long, Binh Lang, Yen Son, Can Nong, Vi Quang.
|
Giới thiệu khái quát huyện Hà Quảng
Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí
Hà Quảng là huyện miền núi nằm ở phía bắc tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm Cao Bằng 40 km về hướng bắc, có tọa độ địa lý từ 22
o
47’23’’ đến 23
o
00’00’’ vĩ bắc (từ Làng Mòn – Hạ Thôn đến Nặm Sấn – Lũng Nặm), từ 105
o
57’14’’ đến 106
o
15’50’’ kinh đông (từ Lũng Pươi – Sóc Hà đến Ngườn Luông – Tổng Cọt). Diện tích tự nhiên 453,67 km
2
, dân số trên 33.000 người.
Phía bắc giáp huyện Nà Po và huyện Tịnh Tây (thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc)
Phía nam giáp huyện Hòa An;
Phía đồng giáp huyện Trà Lĩnh;
Phía tây giáp huyện Thông Nông;
2. Hành chính
Huyện có 19 đơn vị hành chính, gồm 18 xã và 01 thị trấn, có các xã: Đào Ngạn, Phù Ngọc, Sóc Hà, Trường Hà, Nà Sác, Quý Quân, Kéo Yên, Lũng Nặm, Vân An, Cải Viên, Nội Thôn, Tổng Cọt, Sỹ Hai, Hồng Sỹ, Mã Ba, Hạ Thôn, Thượng Thôn, Vần Dính (năm 2007 tách từ xã Xuân Hòa) và thị trấn Xuân Hòa.
Huyện Hà Quảng có 9 xã biên giới giáp biên với Trung Quốc, với tổng chiều dài đường biên giới là 61,7 km, bao gồm các xã: Sóc Hà, Trường Hà, Nà Sác, Kéo Yên, Lũng Nặm, Vân An, Cải Viên, Nội Thôn, Tổng Cọt. Huyện có cửa khẩu Sóc Giang (thuộc xã Sóc Hà) và nhiều đường mòn dân sinh đi lại trao đổi hàng hóa, văn hóa ….
3. Địa hình
Huyện Hà Quảng có địa hình phức tạp do kiến tạo địa chất, do đó Huyện phân thành hai tiểu vùng chủ yếu: tiểu vùng thấp và tiểu vùng cao.
Tiểu vùng thấp có 06 xã và 01 thị trấn, gồm các xã: Trường Hà, Nà Sác, Sóc Hà, Quý Quân, Đào Ngạn, Phù Ngọc và thị trấn Xuân Hòa. Đây là tiểu vùng có các thung lũng tương đối bằng phẳng, đất canh tác chủ yếu là đất trồng lúa, có hệ thống sông suối cơ bản đáp ứng được nhu càu về nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Tiểu vùng cao có 12 xã, gồm các xã: Kéo Yên, Lũng Nặm, Vân An, Cải Viên, Nội Thôn, Tổng Cọt, Sỹ Hai, Hồng Sỹ, Mã Ba, Hạ Thôn, Thượng Thôn, Vần Dính. Đây là tiểu vùng hầu như không có sông suối, không đủ nước cho sinh hoạt và sản xuất, đất canh tác chủ yếu là đất trồng hoa màu, kết cấu hạ tầng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại, lưu thông hàng hóa của nhân dân.
4. Dân cư
Dân số Huyện trên 33.000 người, gồm 5 dân tộc anh em cùng sinh sống: Tày, Nùng, Mông, Dao và Kinh.
|
General introduction to Ha Quang district
Natural condition
1. Location
Ha Quang is a mountainous district located in the north of Cao Bang province, 40 km north of Cao Bang center, with geographical coordinates from 22
o
47'23'' to 23
o
00'00'' north latitude (from Lang Mon - Ha Thon to Nam San - Lung Nam), from 105
o
57'14'' to 106
o
15'50'' east longitude (from Lung Puoi - Soc Ha to Nguong Luong - Tong Cot). Natural area 453.67 km2
2
, population over 33,000 people.
The north borders Na Po district and Tinh Tay district (in Guangxi province, China)
The south borders Hoa An district;
The field side borders Tra Linh district;
The west borders Thong Nong district;
2. Administration
The district has 19 administrative units, including 18 communes and 01 town, including communes: Dao Ngan, Phu Ngoc, Soc Ha, Truong Ha, Na Sac, Quy Quan, Keo Yen, Lung Nam, Van An, Cai Vien, Noi Thon, Tong Cot, Sy Hai, Hong Sy, Ma Ba, Ha Thon, Thuong Thon, Van Dinh (separated from Xuan Hoa commune in 2007) and Xuan Hoa town.
Ha Quang district has 9 border communes bordering China, with a total border length of 61.7 km, including communes: Soc Ha, Truong Ha, Na Sac, Keo Yen, Lung Nam, Van An, Cai Vien, Inner Village, Tong Cot. The district has Soc Giang border gate (in Soc Ha commune) and many trails for people to travel and exchange goods and culture...
3. Terrain
Ha Quang district has complex terrain due to geological tectonics, so the district is divided into two main sub-regions: low sub-region and high sub-region.
The lowland sub-region has 06 communes and 01 town, including communes: Truong Ha, Na Sac, Soc Ha, Quy Quan, Dao Ngan, Phu Ngoc and Xuan Hoa town. This is a sub-region with relatively flat valleys, mainly rice-growing land, and a basic river and stream system that meets the people's needs for water for production and daily life.
The highland sub-region has 12 communes, including: Keo Yen, Lung Nam, Van An, Cai Vien, Noi Thon, Tong Cot, Sy Hai, Hong Sy, Ma Ba, Ha Thon, Thuong Thon, Van Dinh. This is a sub-region with almost no rivers or streams, not enough water for living and production, arable land is mainly land for growing crops, and infrastructure cannot meet the needs of travel and goods circulation. of the people.
4. Population
The District's population is over 33,000 people, including 5 ethnic groups living together: Tay, Nung, Mong, Dao and Kinh.
|
Giới thiệu khái quát huyện Krông Năng
I. Điều kiện tự nhiên.
1. Vị trí địa lý, diện tích, dân cư, đơn vị hành chính.
Krông Năng là một huyện nằm ở phía Đông bắc tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 50 km theo đường Quốc lộ 29 và Quốc lộ 14. Trung tâm huyện có tuyến đường Quốc lộ 29 và đường tỉnh lộ 3 đi qua (Krông Năng – EaKar).
Có đường địa giới hành chính tiếp giáp như sau:
+ Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Krông Buk và Thị xã Buôn Hồ
+ Phía Bắc giáp huyện Ea H’Leo.
+ Phía Đông giáp huyện Sông Hinh- tỉnh Phú Yên.
+ Phía Đông Bắc giáp tỉnh Gia Lai.
+ Phía Nam và Đông Nam giáp huyện Ea Kar.
Krông Năng có diện tích tự nhiên 614,61 km2, dân số toàn huyện tính đến 31/12/2017 đạt 126.860 người, mật độ dân số bình quân khoảng 206 người/km2. Dân số huyện phân bố không đều trên địa bàn các huyện, tập trung chủ yếu ở thị trấn Krông Năng ven các trục Quốc lộ 29, tỉnh lộ 3 chạy qua các xã như Tam Giang, Phú Xuân, Ea Hồ và các xã như Phú Lộc, Ea Tóh. Các xã có mật độ dân số thấp chủ yếu là các huyện đặc biệt khó khăn như Ea Dắh, Cư Klông, Ea Púk…
Trên địa bàn huyện, ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông khác dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến sinh cơ lập nghiệp.Trong những năm gần đây, dân số của có biến động do tăng cơ học, chủ yếu là di dân tự do, điều này đã gây nên sức ép lớn cho huyện về giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an ninh trật tự và môi trường sinh thái.
Huyện có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có những nét đẹp văn hoá riêng. Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Ê Đê, Tày… ; kiến trúc nhà sàn, nhà rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như các bộ cồng chiêng… là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể quý giá. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa của huyện Krông Năng.
Huyện Krông Năng có 12 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 1 thị trấn và 11 xã
Danh sách các đơn vị trực thuộc huyện Krông Năng
01. Thị trấn Krông Năng.
02. Xã Ea Tam.
03. Xã Tam Giang.
04. Xã Ea Hồ.
05. Xã Phú Xuân.
06. Xã Ea Tóh.
07. Xã Dliêya.
08. Xã Phú Lộc.
09. Xã Ea Tân.
10. Xã Cư Klông.
11. Xã Ea Dắh.
12. Xã Ea Púk.
2. Địa hình.
Địa hình của Krông Năng là địa hình cao nguyên tương đối bằng phẳng, xen kẽ những đồi thấp lượn sóng, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp; đất đai, khí hậu, thời tiết khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hoá, phát triển dịch vụ, du lịch, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành sản xuất kinh doanh.
3. Khí hậu.
Có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. Khí hậu khác nhau giữa các dạng địa hình và giảm dần theo độ cao: vùng dưới 300 m quanh năm nắng nóng, từ 400 – 800 m khí hậu nóng ẩm và trên 800 m khí hậu mát. Tuy nhiên, chế độ mưa theo mùa là một hạn chế đối với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.
Khí hậu có 02 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
II. Tài nguyên thiên nhiên.
1. Về tài nguyên khoáng sản.
Đá xây dựng: Bao gồm có đá bazan và đá granite; đá bazan đã được khai thác ở khá nhiều điểm, song việc điều tra, quản lý còn nhiều hạn chế, đây là nguồn tài nguyên khá phong phú trên địa bàn.
Đá granite có rất nhiều ở phía Bắc và Đông bắc tuy vậy điều kiện khai thác còn khó khăn về giao thông, nhu cầu hiện tại không lớn nên chưa đầu tư khai thác. Sét làm gạch ngói cũng đã có những kết luận ban đầu về trữ lượng và chất lượng ở một số điểm nhưng chưa được nghiên cứu đánh giá về giá trị công nghiệp và khả năng khai thác sử dụng.
Ngoài ra, huyện Krông Năng còn có vàng sa khoáng liên quan đến các trầm tích hiện đại ở thượng nguồn các suối lớn, tuy nhiên nhìn chung đây là huyện có tiềm năng khoáng sản không lớn, trên thực tế không phải là thế mạnh trong tương lai của Krông Năng. Riêng đá xây dựng có thể quy hoạch, quản lý khai thác đáp ứng nhu cầu xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn.
2. Về tài nguyên rừng.
So với các huyện khác của tỉnh Đắk Lắk, diện tích đất lâm nghiệp huyện Krông Năng không lớn, tính đến 31/12/2017 có 7.639 ha, trong đó: rừng tự nhiên 5.550 ha, rừng trồng 2.088 ha. Độ che phủ rừng đạt 13% tổng diện tích tự nhiên của huyện.
III. Hệ thống các ngành dịch vụ.
1. Ngân hàng.
* Hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn huyện gồm:
– Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
– Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
– Ngân hàng Chính sách Xã hội.
– Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.
– Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt.
– Ngân hàng Ngân hàng Seabank.
-Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Vietcombank.
Hiện nay các ngân hàng luôn tích cực thực hiện đổi mới và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế đảm bảo an toàn và hiệu quả.
2. Thương mại.
Với vị trí nằm ở phía Bắc tỉnh Đắk Lắk thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá có tuyến Quốc lộ 29, Tỉnh lộ 3 và các tuyến đường liên xã. Hệ thống các chợ trên địa bàn huyện cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu mua sắm cho nhân dân và du khách đến tham quan và đầu tư tại huyện
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của huyện cuối năm 2018: Cà phê với sản lượng 70.046 tấn, cao su 3.067 tấn, hồ tiêu 10.642 tấn. Bên cạnh các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như trên huyện còn có thế mạnh trong các lĩnh vực sản phẩm nội thất; thổ cẩm,…
3. Du lịch:
Huyện Krông Năng có nhiều phong cảnh đẹp, hồ đập, nhiều loại động thực vật, cảnh quan núi rừng tự nhiên phong phú và hấp dẫn là một ưu thế to lớn để phát triển du lịch sinh thái.
Khu du lịch Thác Thuỷ Tiên – xã EaPúk, huyện Krông Năng đẹp và độc đáo: Dòng thác trải dài, vừa khúc khuỷu, ẩn hiện. Có những bãi đá, nước cạn có thể tắm mà không nguy hiểm, lại có những đoạn vách đá dựng đứng cheo leo, cạnh đó là rừng nguyên sinh còn nguyên nét hoang sơ, hùng vĩ là nơi có thể làm cho du khách vừa ngạc nhiên vừa thích thú.
Khu rừng Trấp K’sơ (xã Ea Hồ): sẽ là nơi mà du khách sẽ tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp và lạ của cây Thuỷ Tùng một loài thực vật vào loài quý hiếm trên thế giới.
Khu du lịch Đông Hồ – thị trấn Krông Năng, với mặt nước rộng đến 10 ha, vốn là một công trình thuỷ lợi cung cấp nước tưới cho 250 ha đất nông nghiệp, nhưng với vị thế đẹp ngay tại trung tâm thị trấn, ba mặt hồ tiếp giáp với rừng cao su xanh tốt như là một “lá phổ xanh” của thị trấn Krông Năng có thể làm nơi nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hàng ngày cho nhân dân quanh vùng sau những giờ làm việc bằng những hình thức trò chơi, dạo mát quanh hồ hoặc câu cá, du thuyền.
Diễn tấu Cồng chiêng, dệt thổ cẩm của đồng bào dân tộc Êđê buôn Wiâo, thị trấn Krông Năng. Ngoài ra, trên địa bàn huyện Krông Năng có 223 nghệ nhân biết diễn tấu cồng chiêng, 72 bộ cồng chiêng quý có thời gian từ 100 năm trở lên, 90 bộ cồng chiêng đầy đủ cả bộ, 20 bến nước và chủ bến nước, 17 nghệ nhân biết tạc tượng, 66 nghệ nhân biết dệt thổ cẩm.
Mặt khác, với nhiều dân tộc sinh sống trên địa bàn, có nhiều phong tục tập quán khác nhau, mở ra khả năng khai thác lợi thế này để phát triển du lịch, dự án Chợ Tình (Lễ hội văn hoá dân gian Việt Bắc) ở xã Ea Tam với nét đặc biệt riêng có của đồng bào dân tộc ít người phía Bắc sẽ tô thêm nét phong phú về văn hoá các dân tộc trên địa bàn.
IV. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
1 Về mạng lưới giao thông.
Hệ thống mạng lưới đường bộ của huyện phân bố khá đều và hợp lý, tạo được sự liên kết giữa trung tâm huyện với các xã.
– Tuyến đường tỉnh:
– Tỉnh lộ 3 (Krông Năng – Ea Kar) dài 26 km là tuyến giao lưu kinh tế của huyện nối với các huyện Krông Búk và Ea Kar và hòa vào mạng lưới giao thông quốc lộ 14 và 26 đến các tỉnh trong nước.
– Tuyến quốc lộ 29 (đường liên tỉnh Buôn Hồ – Phú Yên) đi qua trung tâm huyện, là điều kiện thuận lợi cho việc giao thông hàng hoá giữa tỉnh Phú Yên, Đắk Lắk nói riêng và toàn vùng nói chung.
– Tuyến đường huyện: có 2 tuyến đường huyện dài 44 km, trong đó có 22 km láng nhựa, 15km cấp phối và 7 km đường đất. – Đường xã: Có 176,8 km đường liên xã, trong đó láng nhựa 32 km, cấp phối 22km và 122,8 km đường đất; 410,5 km đường liên thôn và 99,4 km đường chuyên dùng đã nối liền từ trung tâm huyện đến trung tâm các xã, những năm gần đây được sự đầu tư của tỉnh từng bước nhựa hoá các trục đường giao thông chủ yếu, nên giao thông của huyện có bước phát triển tốt (hiện có 12/12 xã, thị trấn có đường nhựa đến trung tâm).
2. Hệ thống điện.
Mạng lưới cung cấp điện của huyện ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống lưới điện trên địa bàn huyện gồm: đường dây 110kV, 35kV, 22kV, 10kV, 0,4kV. Toàn huyện có gần 260 km đường dây trung áp, hơn 440 km đường dây hạ áp, 398 TBA với dung lượng 43.550 kVA.
3. Hệ thống Bưu chính viễn thông.
Trong những năm qua, hệ thống bưu chính, viễn thông của huyện đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin liên lạc trong huyện, trong tỉnh, trong nước và quốc tế.
Hiện nay, có 12/12 xã, thị trấn có điện thoại, đạt tỉ lệ 100%; mạng di động đã phủ sóng 12/12 xã, thị trấn. Tốc độ phát triển máy điện thoại hàng năm tăng nhanh, đến hết năm 2013, tổng thuê bao điện thoại là 110.199 thuê bao (Cố định là 2.933 thuê bao, Di động là 107.266 thuê bao) đạt mật độ 86,7 thuê bao/100 dân.
|
Giới thiệu khái quát huyện Krông Năng
I. Điều kiện tự nhiên.
1. Vị trí địa lý, diện tích, dân cư, đơn vị hành chính.
Krông Năng là một huyện nằm ở phía Đông bắc tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 50 km theo đường Quốc lộ 29 và Quốc lộ 14. Trung tâm huyện có tuyến đường Quốc lộ 29 và đường tỉnh lộ 3 đi qua (Krông Năng – EaKar).
Có đường địa giới hành chính tiếp giáp như sau:
+ Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Krông Buk và Thị xã Buôn Hồ
+ Phía Bắc giáp huyện Ea H’Leo.
+ Phía Đông giáp huyện Sông Hinh- tỉnh Phú Yên.
+ Phía Đông Bắc giáp tỉnh Gia Lai.
+ Phía Nam và Đông Nam giáp huyện Ea Kar.
Krông Năng có diện tích tự nhiên 614,61 km2, dân số toàn huyện tính đến 31/12/2017 đạt 126.860 người, mật độ dân số bình quân khoảng 206 người/km2. Dân số huyện phân bố không đều trên địa bàn các huyện, tập trung chủ yếu ở thị trấn Krông Năng ven các trục Quốc lộ 29, tỉnh lộ 3 chạy qua các xã như Tam Giang, Phú Xuân, Ea Hồ và các xã như Phú Lộc, Ea Tóh. Các xã có mật độ dân số thấp chủ yếu là các huyện đặc biệt khó khăn như Ea Dắh, Cư Klông, Ea Púk…
Trên địa bàn huyện, ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông khác dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến sinh cơ lập nghiệp.Trong những năm gần đây, dân số của có biến động do tăng cơ học, chủ yếu là di dân tự do, điều này đã gây nên sức ép lớn cho huyện về giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an ninh trật tự và môi trường sinh thái.
Huyện có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có những nét đẹp văn hoá riêng. Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Ê Đê, Tày… ; kiến trúc nhà sàn, nhà rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như các bộ cồng chiêng… là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể quý giá. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa của huyện Krông Năng.
Huyện Krông Năng có 12 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 1 thị trấn và 11 xã
Danh sách các đơn vị trực thuộc huyện Krông Năng
01. Thị trấn Krông Năng.
02. Xã Ea Tam.
03. Xã Tam Giang.
04. Xã Ea Hồ.
05. Xã Phú Xuân.
06. Xã Ea Tóh.
07. Xã Dliêya.
08. Xã Phú Lộc.
09. Xã Ea Tân.
10. Xã Cư Klông.
11. Xã Ea Dắh.
12. Xã Ea Púk.
2. Địa hình.
Địa hình của Krông Năng là địa hình cao nguyên tương đối bằng phẳng, xen kẽ những đồi thấp lượn sóng, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp; đất đai, khí hậu, thời tiết khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hoá, phát triển dịch vụ, du lịch, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành sản xuất kinh doanh.
3. Khí hậu.
Có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. Khí hậu khác nhau giữa các dạng địa hình và giảm dần theo độ cao: vùng dưới 300 m quanh năm nắng nóng, từ 400 – 800 m khí hậu nóng ẩm và trên 800 m khí hậu mát. Tuy nhiên, chế độ mưa theo mùa là một hạn chế đối với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.
Khí hậu có 02 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
II. Tài nguyên thiên nhiên.
1. Về tài nguyên khoáng sản.
Đá xây dựng: Bao gồm có đá bazan và đá granite; đá bazan đã được khai thác ở khá nhiều điểm, song việc điều tra, quản lý còn nhiều hạn chế, đây là nguồn tài nguyên khá phong phú trên địa bàn.
Đá granite có rất nhiều ở phía Bắc và Đông bắc tuy vậy điều kiện khai thác còn khó khăn về giao thông, nhu cầu hiện tại không lớn nên chưa đầu tư khai thác. Sét làm gạch ngói cũng đã có những kết luận ban đầu về trữ lượng và chất lượng ở một số điểm nhưng chưa được nghiên cứu đánh giá về giá trị công nghiệp và khả năng khai thác sử dụng.
Ngoài ra, huyện Krông Năng còn có vàng sa khoáng liên quan đến các trầm tích hiện đại ở thượng nguồn các suối lớn, tuy nhiên nhìn chung đây là huyện có tiềm năng khoáng sản không lớn, trên thực tế không phải là thế mạnh trong tương lai của Krông Năng. Riêng đá xây dựng có thể quy hoạch, quản lý khai thác đáp ứng nhu cầu xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn.
2. Về tài nguyên rừng.
So với các huyện khác của tỉnh Đắk Lắk, diện tích đất lâm nghiệp huyện Krông Năng không lớn, tính đến 31/12/2017 có 7.639 ha, trong đó: rừng tự nhiên 5.550 ha, rừng trồng 2.088 ha. Độ che phủ rừng đạt 13% tổng diện tích tự nhiên của huyện.
III. Hệ thống các ngành dịch vụ.
1. Ngân hàng.
* Hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn huyện gồm:
– Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
– Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
– Ngân hàng Chính sách Xã hội.
– Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.
– Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt.
– Ngân hàng Ngân hàng Seabank.
-Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Vietcombank.
Hiện nay các ngân hàng luôn tích cực thực hiện đổi mới và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế đảm bảo an toàn và hiệu quả.
2. Thương mại.
Với vị trí nằm ở phía Bắc tỉnh Đắk Lắk thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá có tuyến Quốc lộ 29, Tỉnh lộ 3 và các tuyến đường liên xã. Hệ thống các chợ trên địa bàn huyện cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu mua sắm cho nhân dân và du khách đến tham quan và đầu tư tại huyện
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của huyện cuối năm 2018: Cà phê với sản lượng 70.046 tấn, cao su 3.067 tấn, hồ tiêu 10.642 tấn. Bên cạnh các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như trên huyện còn có thế mạnh trong các lĩnh vực sản phẩm nội thất; thổ cẩm,…
3. Du lịch:
Huyện Krông Năng có nhiều phong cảnh đẹp, hồ đập, nhiều loại động thực vật, cảnh quan núi rừng tự nhiên phong phú và hấp dẫn là một ưu thế to lớn để phát triển du lịch sinh thái.
Khu du lịch Thác Thuỷ Tiên – xã EaPúk, huyện Krông Năng đẹp và độc đáo: Dòng thác trải dài, vừa khúc khuỷu, ẩn hiện. Có những bãi đá, nước cạn có thể tắm mà không nguy hiểm, lại có những đoạn vách đá dựng đứng cheo leo, cạnh đó là rừng nguyên sinh còn nguyên nét hoang sơ, hùng vĩ là nơi có thể làm cho du khách vừa ngạc nhiên vừa thích thú.
Khu rừng Trấp K’sơ (xã Ea Hồ): sẽ là nơi mà du khách sẽ tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp và lạ của cây Thuỷ Tùng một loài thực vật vào loài quý hiếm trên thế giới.
Khu du lịch Đông Hồ – thị trấn Krông Năng, với mặt nước rộng đến 10 ha, vốn là một công trình thuỷ lợi cung cấp nước tưới cho 250 ha đất nông nghiệp, nhưng với vị thế đẹp ngay tại trung tâm thị trấn, ba mặt hồ tiếp giáp với rừng cao su xanh tốt như là một “lá phổ xanh” của thị trấn Krông Năng có thể làm nơi nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hàng ngày cho nhân dân quanh vùng sau những giờ làm việc bằng những hình thức trò chơi, dạo mát quanh hồ hoặc câu cá, du thuyền.
Diễn tấu Cồng chiêng, dệt thổ cẩm của đồng bào dân tộc Êđê buôn Wiâo, thị trấn Krông Năng. Ngoài ra, trên địa bàn huyện Krông Năng có 223 nghệ nhân biết diễn tấu cồng chiêng, 72 bộ cồng chiêng quý có thời gian từ 100 năm trở lên, 90 bộ cồng chiêng đầy đủ cả bộ, 20 bến nước và chủ bến nước, 17 nghệ nhân biết tạc tượng, 66 nghệ nhân biết dệt thổ cẩm.
Mặt khác, với nhiều dân tộc sinh sống trên địa bàn, có nhiều phong tục tập quán khác nhau, mở ra khả năng khai thác lợi thế này để phát triển du lịch, dự án Chợ Tình (Lễ hội văn hoá dân gian Việt Bắc) ở xã Ea Tam với nét đặc biệt riêng có của đồng bào dân tộc ít người phía Bắc sẽ tô thêm nét phong phú về văn hoá các dân tộc trên địa bàn.
IV. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
1 Về mạng lưới giao thông.
Hệ thống mạng lưới đường bộ của huyện phân bố khá đều và hợp lý, tạo được sự liên kết giữa trung tâm huyện với các xã.
– Tuyến đường tỉnh:
– Tỉnh lộ 3 (Krông Năng – Ea Kar) dài 26 km là tuyến giao lưu kinh tế của huyện nối với các huyện Krông Búk và Ea Kar và hòa vào mạng lưới giao thông quốc lộ 14 và 26 đến các tỉnh trong nước.
– Tuyến quốc lộ 29 (đường liên tỉnh Buôn Hồ – Phú Yên) đi qua trung tâm huyện, là điều kiện thuận lợi cho việc giao thông hàng hoá giữa tỉnh Phú Yên, Đắk Lắk nói riêng và toàn vùng nói chung.
– Tuyến đường huyện: có 2 tuyến đường huyện dài 44 km, trong đó có 22 km láng nhựa, 15km cấp phối và 7 km đường đất. – Đường xã: Có 176,8 km đường liên xã, trong đó láng nhựa 32 km, cấp phối 22km và 122,8 km đường đất; 410,5 km đường liên thôn và 99,4 km đường chuyên dùng đã nối liền từ trung tâm huyện đến trung tâm các xã, những năm gần đây được sự đầu tư của tỉnh từng bước nhựa hoá các trục đường giao thông chủ yếu, nên giao thông của huyện có bước phát triển tốt (hiện có 12/12 xã, thị trấn có đường nhựa đến trung tâm).
2. Hệ thống điện.
Mạng lưới cung cấp điện của huyện ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống lưới điện trên địa bàn huyện gồm: đường dây 110kV, 35kV, 22kV, 10kV, 0,4kV. Toàn huyện có gần 260 km đường dây trung áp, hơn 440 km đường dây hạ áp, 398 TBA với dung lượng 43.550 kVA.
3. Hệ thống Bưu chính viễn thông.
Trong những năm qua, hệ thống bưu chính, viễn thông của huyện đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin liên lạc trong huyện, trong tỉnh, trong nước và quốc tế.
Hiện nay, có 12/12 xã, thị trấn có điện thoại, đạt tỉ lệ 100%; mạng di động đã phủ sóng 12/12 xã, thị trấn. Tốc độ phát triển máy điện thoại hàng năm tăng nhanh, đến hết năm 2013, tổng thuê bao điện thoại là 110.199 thuê bao (Cố định là 2.933 thuê bao, Di động là 107.266 thuê bao) đạt mật độ 86,7 thuê bao/100 dân.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ea H’Leo
Ea H’Leo là huyện cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột hơn 80 km, được thành lập theo Quyết định Số 110/QĐ-HĐBT, ngày 08/4/1980 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Búk. Diện tích tự nhiên 133.409 ha, dân số khoảng trên 134.000 người, với 26 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 41%. Toàn huyện có 11 xã và 01 thị trấn với 197 thôn, buôn, tổ dân phố, trong đó có 53 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Ea H’Leo là vùng đất có nền văn hóa đa dạng, phong phú; có thế mạnh về tài nguyên đất, rừng, khoáng sản… Đặc biệt, có quần thể thủy tùng (thông nước, loài cây có từ thời tiền sử) tại xã Ea Răl, huyện Ea H’Leo còn duy nhất trên thế giới.
Huyện Ea H’Leo có truyền thống cách mạng lâu đời, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc trong huyện đã lập lên những chiến công hiển hách, góp phần vào thắng lợi chung của toàn dân tộc. Tiêu biểu như trận đánh tại Đèo Cư Drê, ngày 17/7/1954, chấm dứt sự tồn tại của Binh đoàn cơ động 100 của Pháp. Đây là trận đánh lớn và cuối cùng, góp phần vào thắng lợi vẻ vang, ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chiến thắng Cẩm Ga – Thuần Mẫn ngày 8/3/1975, mở màn cho chiến thắng Buôn Ma Thuột 10/3/1975 và chiến dịch Tây Nguyên lịch sử.
Sau giải phóng, dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ VI, huyện Ea H’Leo đã có những chuyển biến mạnh mẽ, trở thành huyện hàng đầu của tỉnh về phát triển kinh tế. Mức tăng trưởng hàng năm liên tục đạt mức cao trên 10%; Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại-dịch vụ không ngừng tăng lên; giảm tỷ trọng nôn,g lâm nghiệp.Thu nhập bình quân đầu người hiện nay đạt 29,97 triệu đồng/năm. Cây công nghiệp phát triển mạnh về diện tích, sản lượng và chất lượng, toàn huyện có 31.000 ha cà phê, hơn 14.000 ha cao su; trên 2.450 ha hồ tiêu, gần 6.650 ha cây điều…, hàng năm sản lượng cây công nghiệp đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa – xã hội đạt được nhiều tiến bộ. Đến nay, toàn huyện có 21 Trường học đạt chuẩn quốc gia; có 12/12 xã, thị trấn đạt Tiêu chí quốc gia về y tế; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn dưới 7% theo chuẩn nghèo mới năm 2015. Công tác quốc phòng – an ninh không ngừng được tăng cường và củng cố, góp phần làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực.
Trên chặng đường 36 năm xây dựng và phát triển quê hương, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc huyện Ea H’Leo đã vinh dự được trao tặng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý: Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho quân và dân huyện Ea H’Leo, xã Ea Khăl, xã Ea Hiao; Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1984, hạng Nhì năm 2009 và hạng Nhất năm 2015. Hiện nay, huyện Ea H’Leo đã được Bộ Xây dựng ban hành Quyết định công nhận Thị trấn Ea Drăng là đô thị loại IV.
Phấn đấu trở thành vùng kinh tế động lực phía Bắc của tỉnh
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X đã xác định đến năm 2020, quyết tâm xây dựng huyện Ea H’Leo trở thành
vùng kinh tế động lực phía Bắc của tỉnh Đắk Lắk
.
Theo đó, những chỉ tiêu chính được đề ra là: Tốc độ tăng trưởng bình quân 11-12%. Cơ cấu kinh tế: Nông, Lâm nghiệp, Thủy sản 45 – 46%; Công nghiệp – Xây dựng 29- 30%; Thương mại – Dịch vụ 25 – 26%. Tổng giá trị sản xuất đạt 10.778 tỷ đồng
.
Thu nhập bình quân đầu người đạt 48 – 49 triệu đồng/người/năm. Thu ngân sách bình quân hàng năm tăng 10-11%. Có 06/11 xã đạt 19/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, số còn lại đạt từ 12 tiêu chí trở lên.Phấn đấu 50% trường học đạt Chuẩn quốc gia; 100% xã, thị trấn đạt Chuẩn quốc gia về y tế. Hàng năm, số hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa trên 80%; số thôn, buôn, TDP, cơ quan, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa trên 70%. Có 80% tổ chức Đảng đạt trong sạch, vững mạnh.
Phát huy truyền thống anh hùng, Đảng bộ và nhân dân huyện Ea H’Leo quyết tâm đoàn kết, đưa huyện nhà ngày càng phát triển vững mạnh, toàn diện và bền vững.
LỊCH SỬ VĂN HÓA
Trước 1975 gọi là quận Thuần Mẫn thuộc tỉnh
Phú Bổn
. Sau 1975 vùng phía nam quận Thuần Mẫn được chia sang tỉnh Đắk Lắk, gọi là huyện Krông Buk. Ngày 3-4-1980, Hội đồng chính phủ ra nghị quyết số 110-CP về chia huyện Krông Buk thành 2 huyện Krông Buk và huyện mới Ea Hleo. Huyện Ea H’leo khi đó gồm có 4 xã: Dliê Yang, Ea H’leo, Ea Khăl, Ea Sol.
Ngày 17-9-1981, thành lập hai xã mới lấy tên là xã Ea Wy và xã Cư Mốt.
Ngày 17-1-1984, chia xã Ea Khăl thành 2 xã lấy tên là xã Ea Khăl và xã Ea Ral; chia xã Ea Soi thành 2 xã lấy tên là xã Ea Sol và xã Ea Hiao.
Năm 1993, thành lập xã Ea Nam trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Ea Khăl và Dliê Yang.
Ngày 9-1-1998, thành lập thị trấn Ea Drăng, thị trấn huyện lỵ huyện Ea H’leo trên cơ sở 1.688 ha diện tích tự nhiên và 12.275 nhân khẩu của xã Ea Khăl.
Ngày 16-5-2006, thành lập xã Cư A Mung thuộc huyện Ea H’Leo trên cơ sở 7.435 ha diện tích tự nhiên và 3.491 nhân khẩu của xã Ea Wy.
Ngày 27-8-2007, thành lập xã Ea Tir trên cơ sở điều chỉnh 9.802 ha diện tích tự nhiên và 3.239 nhân khẩu của xã Ea Nam.
|
General introduction to Ea H'Leo district
Ea H'Leo is the northern gateway district of Dak Lak province, more than 80 km from Buon Ma Thuot city center, established under Decision Không. 110/QD-HDBT, April 8, 1980 of the Council of Ministers. Head (now the Government), on the basis of separation from Krong Buk district. Natural area of 133,409 hectares, population of over 134,000 people, with 26 ethnic groups living together, of which ethnic minorities account for about 41%. The whole district has 11 communes and 01 town with 197 villages, hamlets and residential groups, including 53 local ethnic minority villages. Ea H'Leo is a land with a rich and diverse culture; has strengths in land, forest, mineral resources... In particular, there is a population of yew (water pine, a prehistoric tree species) in Ea Răl commune, Ea H'Leo district that is the only one in the world.
Ea H'Leo district has a long revolutionary tradition. During the resistance war against the French and the Americans, the Party Committee and People of all ethnic groups in the district accomplished glorious victories, contributing to the overall victory of the country. entire nation. Typically, the battle at Cu Dre Pass, July 17, 1954, ended the existence of the French 100th Mobile Army. This was the major and final battle, contributing to the glorious victory, signing the Geneva Accords, ending our people's resistance war against the French colonial invasion. In the resistance war against the US, the Cam Ga - Thuan Man victory on March 8, 1975, opened the door to the Buon Ma Thuot victory on March 10, 1975 and the historic Central Highlands campaign.
After liberation, in the light of the 6th Party Congress, Ea H'Leo district had strong changes, becoming the province's leading district in economic development. The annual growth rate continuously reaches a high level of over 10%; The economic structure is shifting in a positive direction, the proportion of industry - construction and trade - services is constantly increasing; reduce the proportion of agriculture and forestry. Current average income per capita reaches 29.97 million VND/year. Industrial crops grow strongly in area, output and quality. The whole district has 31,000 hectares of coffee and more than 14,000 hectares of rubber; Over 2,450 hectares of pepper, nearly 6,650 hectares of cashew trees..., every year the output of industrial crops meets and exceeds the set targets.
Along with economic development, the cultural and social fields have achieved much progress. To date, the entire district has 21 schools meeting national standards; There are 12/12 communes and towns meeting the National Health Criteria; The poverty rate decreased to less than 7% according to the new poverty line in 2015. National defense and security work was constantly strengthened and consolidated, contributing to the failure of the "Peaceful Evolution" plot and the overthrow of the downfall of hostile forces. The work of building the Party and building the political system has had many positive changes.
On the 36-year journey of building and developing the homeland, the Party Committee and People of all ethnic groups in Ea H'Leo district were honored to be awarded many noble titles and awards: The State conferred the title of Hero of the Forces. arming the army and people of Ea H'Leo district, Ea Khal commune, Ea Hiao commune; The President awarded the Labor Medal third class in 1984, second class in 2009 and first class in 2015. Currently, Ea H'Leo district has been issued a Decision by the Ministry of Construction to recognize Ea Drang Town as a class urban area. IV.
Strive to become the driving economic region in the North of the province
The 10th District Party Congress determined that by 2020, it is determined to build Ea H'Leo district into a
Northern dynamic economic region of Dak Lak province
.
Accordingly, the main targets set are: Average growth rate of 11-12%. Economic structure: Agriculture, Forestry, Fisheries 45 - 46%; Industry – Construction 29- 30%; Trade – Services 25 – 26%. Total production value reached 10,778 billion VND
.
Average income per capita reaches 48 - 49 million VND/person/year. Average annual budget revenue increased by 10-11%. There are 06/11 communes achieving 19/19 criteria for new rural construction, the remaining achieve 12 criteria or more. Strive for 50% of schools to meet National Standards; 100% of communes and towns meet national health standards. Every year, the number of households meeting cultural family standards is over 80%; The number of villages, hamlets, TDPs, agencies and businesses meeting cultural standards is over 70%. 80% of Party organizations are clean and strong.
Promoting the heroic tradition, the Party Committee and people of Ea H'Leo district are determined to unite and bring the district to increasingly strong, comprehensive and sustainable development.
CULTURAL HISTORY
Before 1975, it was called Thuan Man district of the province
Phu Bon
. After 1975, the southern region of Thuan Man district was divided into Dak Lak province, called Krong Buk district. On April 3, 1980, the Government Council issued resolution Không. 110-CP to divide Krong Buk district into two districts: Krong Buk and new district Ea Hleo. Ea H'leo district at that time consisted of 4 communes: Dlie Yang, Ea H'leo, Ea Khal, Ea Sol.
On September 17, 1981, two new communes were established, named Ea Wy commune and Cu Mot commune.
On January 17, 1984, Ea Khal commune was divided into 2 communes named Ea Khal commune and Ea Ral commune; Divide Ea Soi commune into 2 communes named Ea Sol commune and Ea Hiao commune.
In 1993, Ea Nam commune was established based on part of the area and population of Ea Khăl and Dlie Yang communes.
On January 9, 1998, Ea Drang town was established, the district capital of Ea H'leo district on the basis of 1,688 hectares of natural area and 12,275 people of Ea Khal commune.
On May 16, 2006, Cu A Mung commune was established in Ea H'Leo district on the basis of 7,435 hectares of natural area and 3,491 people of Ea Wy commune.
On August 27, 2007, Ea Tir commune was established on the basis of adjusting 9,802 hectares of natural area and 3,239 people of Ea Nam commune.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ea Súp
1
.
Vị trí địa lý
Ea Súp nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 70 km theo tỉnh lộ 1, có tọa độ địa lý: từ 13
0
5′ – 13
0
25′ vĩ độ bắc và từ 107
0
01′ – 108
0
03′ kinh độ đông. Huyện có địa giới hành chính: phía Đông giáp hai huyện Ea H’Leo, Cư M’gar, phía Tây giáp nước Cam Pu Chia, phía Nam giáp huyện Buôn Đôn, phía Bắc giáp huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
2.
Địa hình
Địa hình khu vực tương đối bằng phẳng tạo nên vùng bán bình nguyên rộng lớn nằm kẹp giữa hai cao nguyên: Buôn Ma Thuột ở phía Đông, Đắk Nông – Đắk Min ở phía Nam.
Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 170-180m và nghiêng dần từ Đông sang Tây. Độ dốc trung bình từ 0-8
0
.
Địa hình trên địa bàn có các dạng chính sau:
Bắc bán bình nguyên Ea Súp: địa hình bằng phẳng thoải dần về phía Tây bắc, tạo nên bán bình nguyên rộng, là toàn bộ lưu vực suối Ea Súp và sông Ea H’Leo.
Nam bán bình nguyên Ea Súp: vùng giáp Buôn Đôn địa hình bằng thoải, có núi xen kẽ tạo nên những bán bình nguyên hẹp, địa hình thấp dần theo hướng tây nam.
3. Thổ nhưỡng
Nhìn chung, đất đai trên địa bàn được hình thành trên đá phiến sét, đá cát kết, phù sa cổ và phù sa mới hình thành. Thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ đến trung bình, độ phì đất thấp nên thường bị nén chặt khi khô hạn và lầy thụt khi ngập nước, khả năng ngậm nước và giữ nước kém. Bên cạnh đó tình trạng kết vón đá ong đáy và đá lộ đầu xuất hiện khá nhiều.
Trên địa bàn có 4 nhóm đất ứng với 6 loại đất như sau:
Nhóm đất đỏ vàng:
Đất đỏ vàng trên đá granit (fa): diện tích 1.755 ha, chiếm 4,42 % tổng diện tích nhóm đất và 0,99% tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất vàng nhạt trên đá cát (fq): diện tích 22.247 ha, chiếm 56,07% diện tích nhóm đất đỏ vàng và 12,71% tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất đỏ vàng trên đá phiến sét (fs): đất được hình thành trên sản phẩm phong hóa của đá phiến sét. Diện tích 15.675 ha, chiếm 39,51% diện tích nhóm đất và 8,88% tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất phù sa:
Đất phù sa ngoài suối (py): diện tích 8.328 ha, chiếm 4,76% tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất xám bạc màu:
Đất xám trên đá cát và granit (xa): đây là loại đất có diện tích lớn nhất 98.323 ha, chiếm 84,59% tổng diện tích nhóm đất, 53,19% tổng diện tích tự nhiên.
Đất xám trên phù sa cổ (x): diện tích 17.913 ha chiếm 15,41% trong nhóm đất và 10,24% tổng diện tích tự nhiên.
Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (E)
:
diện tích 5.687 ha, chiếm 3,25% tổng diện tích tự nhiên.
4. Khí hậu
Huyện Ea Súp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có tiểu vùng khí hậu cá biệt, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới lục địa cao nguyên, nhiệt độ cao, nắng nóng. Tổng tích ôn vào loại nhất tây nguyên, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình:
Tổng lượng mưa trung bình 1.420 mm/năm. Đây là vùng có lượng mưa trên năm nhỏ so với các vùng khác trong tỉnh.
Mưa nhiều nhất từ tháng 8 đến tháng 10, lượng mưa tập trung đến 93,5% lượng mưa cả năm.
Lượng mưa mùa khô không đáng kể và thường bị khô hạn vào cuối mùa, tháng 1; 2 và 3 hầu như không có mưa.
Độ ẩm:
Độ ẩm trung bình năm là 78,7%, độ ẩm trung bình cao nhất là 91,5%, độ ẩm trung bình thấp nhất là 46,4%.
Nhiệt độ:
Nhiệt độ trung bình năm là 24
0
C
,
nhiệt độ trung bình cao nhất 33,3
0
C
,
nhiệt độ trung bình thấp nhất 18,2
0
C.
5. Thủy văn, sông suối
Nằm trên khu vực hạ lưu của hệ thống sông Sêrêpốk, Ea Súp có mạng lưới sông suối với mật độ dày, khoảng 0,4-0,6 km/ km
2
, nhưng hầu hết chỉ có nước vào mùa mưa.
Các sông suối trong vùng hầu hết được bắt nguồn từ phía Đông – Đông bắc, một số suối nhỏ từ Tây nam đổ vào hệ thống sông Sêrêpốk trên đất Cam Pu Chia (gồm sông Ea H’leo, suối Ea Súp, Ea Đrăng, Ea Mơ, Ya Lốp, Ea Khal…). Đây là nguồn cung cấp nước cho hoạt động sản suất nông nghiệp, nước sinh hoạt, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản.
Sự chênh lệch lưu lượng nước giữa mùa lũ và mùa cạn khá lớn do lượng mưa phân bố không đều trong năm, gây nên tình trạng thiếu nước vào mùa khô nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn của huyện.
6. Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Ea Súp còn là nơi có nguồn tài nguyên rừng tự nhiên khá phong phú, tổng diện tích đất rừng trên địa bàn là 124.664,93 ha, độ che phủ rừng đạt 73%. Trong đó, rừng tự nhiên sản xuất 103.843,76 ha, rừng tự nhiên phòng hộ 6.359,11 ha, rừng tự nhiên đặc dụng 14.462,06 ha.
Tài nguyên thực vật
: Tổng trữ lượng gỗ ước tính trên 9 triệu m
3
, trên địa bàn có hai dạng rừng chính là:
Rừng nhiệt đới bán thường xanh: là loại rừng có diện tích nhỏ, phân bố chủ yếu ở ven sông Ea H’leo với các loài ưu thế như: bằng lăng, căm xe, dầu rái… một số loài quí hiếm thuộc gỗ nhóm I như cẩm lai, hương, cà te.
Rừng khộp chiếm phần lớn: đây là kiểu rừng thưa, cây lá rộng thường có một tầng duy nhất, cây ít cành và ít lá, tầng mặt cỏ vẫn phát triển được.
Tài nguyên động vật:
Địa bàn huyện Ea Súp hiện nay có thể được coi như thủ phủ của đàn voi rừng. Theo phán đoán của các ngành chức năng, hiện đàn voi khu vực này còn trên 30 con, chia ra nhiều nhóm nhỏ, lẻ 3-5 con. Chúng tập trung chủ yếu tại vùng rừng núi các xã Ia Lốp, Ia Lơi, Ia Rvê sát biên giới Việt Nam – Cam Pu Chia.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Trước năm 1975 huyện thuộc quận Buôn Hồ, sau năm 1975 mang tên huyện Krông Búk.
Ngày 30-8-1977 huyện Krông Búk tách ra thành hai huyện Ea Súp và Krông Búk. Huyện Ea Súp khi đó gồm có 8 xã: Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea H’đinh, Ea Pốk, Ea Súp, Ea Tul, Krông Na, Quảng Phú.
Ngày 3-4-1980, thành lập hai xã mới lấy tên là xã Ea Tar và xã Cư M’gar.
Ngày 17-1-1984, chia xã Ea Súp thành 3 xã lấy tên là xã Ea Lê, Ea Bung, xã Ea Súp. Từ đó, huyện Ea Súp có 12 xã: Cư M’gar, Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea Bung, Ea H’đinh, Ea Lê, Ea Pốk, Ea Súp, Ea Tar, Ea Tul, Krông Na, Quảng Phú.
Ngày 23-1-1984, theo Nghị định số 15-HĐBT (nay là Chính phủ) chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Cư M’gar. Huyện Ea Súp còn lại 4 xã: Ea Bung, Ea Lê, Ea Súp, Krông Na.
Năm 1990, chia xã Ea Lê thành 2 xã lấy tên là xã Ea Lê và xã Ea Rốk.
Năm 1993, thành lập 2 xã Ea Huar và Ea Wer trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Krông Na.
Ngày 21-1-1995, chuyển 3 xã Cuôr Knia, Ea Nuôl, Ea Bar của thành phố Buôn Ma Thuột về huyện Ea Súp quản lý. Từ đó, huyện Ea Súp có 10 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Bung, Ea Huar, Ea Lê, Ea Nuôl, Ea Rốk, Ea Súp, Ea Wer, Krông Na.
Ngày 7-10-1995, chia xã Ea Bung thuộc huyện Ea Súp thành 2 xã: Ea Bung và Ya Tờ Mốt; cùng thời điểm này, tách 6 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Huar, Ea Nuôl, Ea Wer, Krông Na để thành lập huyện
Buôn Đôn
. Huyện Ea Súp còn lại 5 xã: Ea Bung, Ea Lê, Ea Rốk, Ea Súp, Ya Tờ Mốt.
Ngày 24-8-1998, thành lập xã Cư Kbang trên cơ sở 8.060 ha diện tích tự nhiên và 2.435 nhân khẩu của xã Ea Lê; chia xã Ea Súp thành thị trấn Ea Súp và xã Cư Mlan; thành lập xã Ia Lốp trên cơ sở 46.573 ha diện tích tự nhiên và 2.256 nhân khẩu của xã Ea Rốk.
Ngày 16-5-2006, thành lập xã Ia Jlơi trên cơ sở 27.320 ha diện tích tự nhiên và 5.789 nhân khẩu của xã Ia Lốp; thành lập xã Ia Rvê trên cơ sở 11.316 ha diện tích tự nhiên và 1.082 nhân khẩu của xã Ea Bung, 11.398 ha diện tích tự nhiên và 2.201 nhân khẩu của xã Ya Tờ Mốt.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ea Súp
1
.
Vị trí địa lý
Ea Súp nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 70 km theo tỉnh lộ 1, có tọa độ địa lý: từ 13
0
5′ – 13
0
25′ vĩ độ bắc và từ 107
0
01′ – 108
0
03′ kinh độ đông. Huyện có địa giới hành chính: phía Đông giáp hai huyện Ea H’Leo, Cư M’gar, phía Tây giáp nước Cam Pu Chia, phía Nam giáp huyện Buôn Đôn, phía Bắc giáp huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
2.
Địa hình
Địa hình khu vực tương đối bằng phẳng tạo nên vùng bán bình nguyên rộng lớn nằm kẹp giữa hai cao nguyên: Buôn Ma Thuột ở phía Đông, Đắk Nông – Đắk Min ở phía Nam.
Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 170-180m và nghiêng dần từ Đông sang Tây. Độ dốc trung bình từ 0-8
0
.
Địa hình trên địa bàn có các dạng chính sau:
Bắc bán bình nguyên Ea Súp: địa hình bằng phẳng thoải dần về phía Tây bắc, tạo nên bán bình nguyên rộng, là toàn bộ lưu vực suối Ea Súp và sông Ea H’Leo.
Nam bán bình nguyên Ea Súp: vùng giáp Buôn Đôn địa hình bằng thoải, có núi xen kẽ tạo nên những bán bình nguyên hẹp, địa hình thấp dần theo hướng tây nam.
3. Thổ nhưỡng
Nhìn chung, đất đai trên địa bàn được hình thành trên đá phiến sét, đá cát kết, phù sa cổ và phù sa mới hình thành. Thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ đến trung bình, độ phì đất thấp nên thường bị nén chặt khi khô hạn và lầy thụt khi ngập nước, khả năng ngậm nước và giữ nước kém. Bên cạnh đó tình trạng kết vón đá ong đáy và đá lộ đầu xuất hiện khá nhiều.
Trên địa bàn có 4 nhóm đất ứng với 6 loại đất như sau:
Nhóm đất đỏ vàng:
Đất đỏ vàng trên đá granit (fa): diện tích 1.755 ha, chiếm 4,42 % tổng diện tích nhóm đất và 0,99% tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất vàng nhạt trên đá cát (fq): diện tích 22.247 ha, chiếm 56,07% diện tích nhóm đất đỏ vàng và 12,71% tổng diện tích đất tự nhiên.
Đất đỏ vàng trên đá phiến sét (fs): đất được hình thành trên sản phẩm phong hóa của đá phiến sét. Diện tích 15.675 ha, chiếm 39,51% diện tích nhóm đất và 8,88% tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất phù sa:
Đất phù sa ngoài suối (py): diện tích 8.328 ha, chiếm 4,76% tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất xám bạc màu:
Đất xám trên đá cát và granit (xa): đây là loại đất có diện tích lớn nhất 98.323 ha, chiếm 84,59% tổng diện tích nhóm đất, 53,19% tổng diện tích tự nhiên.
Đất xám trên phù sa cổ (x): diện tích 17.913 ha chiếm 15,41% trong nhóm đất và 10,24% tổng diện tích tự nhiên.
Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (E)
:
diện tích 5.687 ha, chiếm 3,25% tổng diện tích tự nhiên.
4. Khí hậu
Huyện Ea Súp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có tiểu vùng khí hậu cá biệt, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới lục địa cao nguyên, nhiệt độ cao, nắng nóng. Tổng tích ôn vào loại nhất tây nguyên, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình:
Tổng lượng mưa trung bình 1.420 mm/năm. Đây là vùng có lượng mưa trên năm nhỏ so với các vùng khác trong tỉnh.
Mưa nhiều nhất từ tháng 8 đến tháng 10, lượng mưa tập trung đến 93,5% lượng mưa cả năm.
Lượng mưa mùa khô không đáng kể và thường bị khô hạn vào cuối mùa, tháng 1; 2 và 3 hầu như không có mưa.
Độ ẩm:
Độ ẩm trung bình năm là 78,7%, độ ẩm trung bình cao nhất là 91,5%, độ ẩm trung bình thấp nhất là 46,4%.
Nhiệt độ:
Nhiệt độ trung bình năm là 24
0
C
,
nhiệt độ trung bình cao nhất 33,3
0
C
,
nhiệt độ trung bình thấp nhất 18,2
0
C.
5. Thủy văn, sông suối
Nằm trên khu vực hạ lưu của hệ thống sông Sêrêpốk, Ea Súp có mạng lưới sông suối với mật độ dày, khoảng 0,4-0,6 km/ km
2
, nhưng hầu hết chỉ có nước vào mùa mưa.
Các sông suối trong vùng hầu hết được bắt nguồn từ phía Đông – Đông bắc, một số suối nhỏ từ Tây nam đổ vào hệ thống sông Sêrêpốk trên đất Cam Pu Chia (gồm sông Ea H’leo, suối Ea Súp, Ea Đrăng, Ea Mơ, Ya Lốp, Ea Khal…). Đây là nguồn cung cấp nước cho hoạt động sản suất nông nghiệp, nước sinh hoạt, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản.
Sự chênh lệch lưu lượng nước giữa mùa lũ và mùa cạn khá lớn do lượng mưa phân bố không đều trong năm, gây nên tình trạng thiếu nước vào mùa khô nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn của huyện.
6. Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Ea Súp còn là nơi có nguồn tài nguyên rừng tự nhiên khá phong phú, tổng diện tích đất rừng trên địa bàn là 124.664,93 ha, độ che phủ rừng đạt 73%. Trong đó, rừng tự nhiên sản xuất 103.843,76 ha, rừng tự nhiên phòng hộ 6.359,11 ha, rừng tự nhiên đặc dụng 14.462,06 ha.
Tài nguyên thực vật
: Tổng trữ lượng gỗ ước tính trên 9 triệu m
3
, trên địa bàn có hai dạng rừng chính là:
Rừng nhiệt đới bán thường xanh: là loại rừng có diện tích nhỏ, phân bố chủ yếu ở ven sông Ea H’leo với các loài ưu thế như: bằng lăng, căm xe, dầu rái… một số loài quí hiếm thuộc gỗ nhóm I như cẩm lai, hương, cà te.
Rừng khộp chiếm phần lớn: đây là kiểu rừng thưa, cây lá rộng thường có một tầng duy nhất, cây ít cành và ít lá, tầng mặt cỏ vẫn phát triển được.
Tài nguyên động vật:
Địa bàn huyện Ea Súp hiện nay có thể được coi như thủ phủ của đàn voi rừng. Theo phán đoán của các ngành chức năng, hiện đàn voi khu vực này còn trên 30 con, chia ra nhiều nhóm nhỏ, lẻ 3-5 con. Chúng tập trung chủ yếu tại vùng rừng núi các xã Ia Lốp, Ia Lơi, Ia Rvê sát biên giới Việt Nam – Cam Pu Chia.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Trước năm 1975 huyện thuộc quận Buôn Hồ, sau năm 1975 mang tên huyện Krông Búk.
Ngày 30-8-1977 huyện Krông Búk tách ra thành hai huyện Ea Súp và Krông Búk. Huyện Ea Súp khi đó gồm có 8 xã: Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea H’đinh, Ea Pốk, Ea Súp, Ea Tul, Krông Na, Quảng Phú.
Ngày 3-4-1980, thành lập hai xã mới lấy tên là xã Ea Tar và xã Cư M’gar.
Ngày 17-1-1984, chia xã Ea Súp thành 3 xã lấy tên là xã Ea Lê, Ea Bung, xã Ea Súp. Từ đó, huyện Ea Súp có 12 xã: Cư M’gar, Cư Suê, Cuôr Đăng, Ea Bung, Ea H’đinh, Ea Lê, Ea Pốk, Ea Súp, Ea Tar, Ea Tul, Krông Na, Quảng Phú.
Ngày 23-1-1984, theo Nghị định số 15-HĐBT (nay là Chính phủ) chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Cư M’gar. Huyện Ea Súp còn lại 4 xã: Ea Bung, Ea Lê, Ea Súp, Krông Na.
Năm 1990, chia xã Ea Lê thành 2 xã lấy tên là xã Ea Lê và xã Ea Rốk.
Năm 1993, thành lập 2 xã Ea Huar và Ea Wer trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Krông Na.
Ngày 21-1-1995, chuyển 3 xã Cuôr Knia, Ea Nuôl, Ea Bar của thành phố Buôn Ma Thuột về huyện Ea Súp quản lý. Từ đó, huyện Ea Súp có 10 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Bung, Ea Huar, Ea Lê, Ea Nuôl, Ea Rốk, Ea Súp, Ea Wer, Krông Na.
Ngày 7-10-1995, chia xã Ea Bung thuộc huyện Ea Súp thành 2 xã: Ea Bung và Ya Tờ Mốt; cùng thời điểm này, tách 6 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Huar, Ea Nuôl, Ea Wer, Krông Na để thành lập huyện
Buôn Đôn
. Huyện Ea Súp còn lại 5 xã: Ea Bung, Ea Lê, Ea Rốk, Ea Súp, Ya Tờ Mốt.
Ngày 24-8-1998, thành lập xã Cư Kbang trên cơ sở 8.060 ha diện tích tự nhiên và 2.435 nhân khẩu của xã Ea Lê; chia xã Ea Súp thành thị trấn Ea Súp và xã Cư Mlan; thành lập xã Ia Lốp trên cơ sở 46.573 ha diện tích tự nhiên và 2.256 nhân khẩu của xã Ea Rốk.
Ngày 16-5-2006, thành lập xã Ia Jlơi trên cơ sở 27.320 ha diện tích tự nhiên và 5.789 nhân khẩu của xã Ia Lốp; thành lập xã Ia Rvê trên cơ sở 11.316 ha diện tích tự nhiên và 1.082 nhân khẩu của xã Ea Bung, 11.398 ha diện tích tự nhiên và 2.201 nhân khẩu của xã Ya Tờ Mốt.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cư M’gar
Cư M’gar là một huyện của tỉnh Đăk Lăk, trung tâm huyện cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 20km. Phía Đông giáp huyện Krông Búk, phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Ea Súp và Buôn Đôn, phía Nam giáp Thành phố Buôn Ma Thuột, phía Bắc giáp huyện Ea HLeo.
Cư M’gar là một huyện của tỉnh Đăk Lăk, phía Đông giáp huyện Krông Búk, phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Ea Súp và Buôn Đôn, phía Nam giáp Thành phố Buôn Ma Thuột, phía Bắc giáp huyện Ea HLeo.
Đồi Cư M’gar – Nguồn: Internet
Cư M’gar có bề dày truyền thống đấu tranh các mạng kiên cường, bất khuất. Từ những năm đầu của thế kỷ XX đã xuất hiện những cuộc đấu tranh của người dân chống lại âm mưu chiếm đất, lập đồn điền của thực dân Pháp tại Mê Wal, Cư H’Lâm, San Tơ Ly,… Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945) Cư M’gar là vùng đất nối liền với Buôn Ma Thuột, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ phong trào đấu tranh của nhân dân Buôn Ma Thuột.
Do hoàn cảnh lịch sử, vùng đất Cư M’gar có nhiều tên gọi hành chính khác nhau. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945 là một vùng đất thuộc quận Buôn Ma Thuột. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng có nhiều mật danh khác nhau: có giai đoạn là bộ phận của K61; có khi là L66; có giai đoạn là H5. Sau này Đăk Lăk giải phóng, H4 và H5 hợp nhất thành huyện Buôn Hồ, tháng 8-1975 Cư M’gar thuộc huyện Buôn Hồ. Tháng 7-1977, huyện Buôn Hồ tách ra thành hai huyện Krông Buk và Ea Súp, CưM’gar lại thuộc về huyện Ea Súp.
Thác Dray Dlông (tiếng Ê-đê nghĩa là “thác trên cao”)
nằm giáp ranh giữa 2 xã Quảng Hiệp và Ea M’dróh, huyện Cư M’gar
–
Nguồn: Internet
Cư M’gar là tên theo tiếng Êđê là cách gọi của bà con với ngọn núi lửa đã tắt từ lâu. Đây là ngọn núi nằm tại trung tâm huyện. Huyện Cư M’gar được thành lập ngày 23/01/1984 theo Quyết định số 15-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), tách ra từ huyện Ea Súp, Nằm ở phía bắc tỉnh Đắk Lắk, có vị trí quan trọng; giàu tiềm năng lợi thế để phát triển kinh tế xã hội, với tổng diện tích tự nhiên là 82.443 ha. Đặc điểm địa hình bằng phẳng, màu mỡ, có hệ thống suối trải đều khắp địa bàn và với hơn 70% diện tích là đất đỏ bazan, thích hợp cho việc sản xuất các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung chuyên canh.
Khi mới thành lập dân số toàn huyện chỉ có 41.176 người, gồm 3 dân tộc anh em sinh sống ở 8 xã. Với 210 người/km2, Cư M’gar là một huyện có mật độ dân số thuộc loại đông của tỉnh, trong đó dân tộc Kinh chiếm 53,9%, Ê Đê: 36,42%, các dân tộc khác10%. Đến nay, dân số toàn huyện trên 173.000 người, 25 dân tộc anh em với nhiều nền văn hóa phong phú, đa dạng sinh sống ở 17 xã, thị trấn.
|
General introduction to Cu M'gar district
Cu M'gar is a district of Dak Lak province, the district center is about 20km from Buon Ma Thuot city center. The East borders Krong Buk district, the West and Northwest borders Ea Sup and Buon Don districts, the South borders Buon Ma Thuot City, the North borders Ea HLeo district.
Cu M'gar is a district of Dak Lak province, bordering Krong Buk district to the East, Ea Sup and Buon Don districts to the West and Northwest, Buon Ma Thuot City to the South, Ea HLeo district to the North.
Cu M'gar Hill - Source: Internet
Cu M'gar has a long tradition of fighting for lives that is resilient and indomitable. Since the early years of the 20th century, there have been struggles of the people against the French colonialists' plots to seize land and establish plantations in Me Wal, Cu H'Lam, San To Ly, etc. National Liberation Network (1939-1945) Cu M'gar is a land connected to Buon Ma Thuot, directly influenced by the struggle movement of the people of Buon Ma Thuot.
Due to historical circumstances, Cu M'gar land has many different administrative names. Before the August Revolution of 1945, it was a land in Buon Ma Thuot district. During the resistance war against the US, there were also many different code names: at one stage it was part of K61; sometimes L66; stage is H5. Later, Dak Lak was liberated, H4 and H5 merged into Buon Ho district, in August 1975 Cu M'gar belonged to Buon Ho district. In July 1977, Buon Ho district split into two districts Krong Buk and Ea Sup, CuM'gar belonged to Ea Sup district.
Dray Dlong Waterfall (Ede language means "high waterfall")
Located on the border between Quang Hiep and Ea M'dróh communes, Cu M'gar district
–
Source: Internet
Cu M'gar is the name in the Ede language, the way people call the long-extinct volcano. This is a mountain located in the center of the district. Cu M'gar district was established on January 23, 1984 under Decision Không. 15-HDBT of the Council of Ministers (now the Government), separated from Ea Sup district, located in the north of Dak Lak province, located in important intelligence; rich in potential advantages for socio-economic development, with a total natural area of 82,443 hectares. The terrain is flat, fertile, with a stream system spread evenly throughout the area and with more than 70% of the area being basalt red soil, suitable for the production of industrial crops with high economic value towards commodity production, focusing on specialized farming.
When first established, the district's population was only 41,176 people, including 3 ethnic groups living in 8 communes. With 210 people/km2, Cu M'gar is a district with the highest population density of the province, of which the Kinh ethnic group accounts for 53.9%, Ede: 36.42%, other ethnic groups 10%. To date, the district's population is over 173,000 people, 25 ethnic groups with many rich and diverse cultures live in 17 communes and towns.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ea Kar
Huyện Ea Kar nằm về phía Đông – Nam của Tỉnh Đắk Lắk, được thành lập ngày 13/9/1986 theo Quyết định số 108/1986/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), trung tâm huyện cách thành phố Buôn Ma Thuột 52 km theo Quốc lộ 26; Tổng diện tích tự nhiên là 1.037,47 km
2
với 143.506 nhân khẩu gồm 19 dân tộc anh em cùng chung sống; mật độ dân số 138,32 người/km
2
. Huyện Ea Kar có 16 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Ea Kar, Ea Knốp và 14 xã: Xuân Phú, Cư Huê, Ea Đar, Ea Kmút, Cư Ni, Ea Tíh, Ea Păl, Cư Yang, Ea Ô, Ea Sô, Ea Sar, Cư Bông, Cư Elang và Cư Prông. Đất đai, khí hậu khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hoá, phát triển du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và phát triển kinh tế trang trại nông lâm kết hợp.
Ranh giới:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, và tỉnh Gia Lai;
+ Phía Tây giáp huyện Krông Pắc – Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk;
+ Phía Nam giáp huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk;
+ Phía Đông giáp huyện M’Đăk, tỉnh Đắk Lắk.
Huyện Ea Kar nằm trên trục QL26, là cửa ngõ phía Đông nối tỉnh Đắk Lắk với các tỉnh miền Trung, đặc biệt là Phú Yên và Khánh Hoà, có vị trí chiến lược an ninh quốc phòng quan trọng, đồng thời có nhiều thuận lợi để thu hút đầu tư hình thành một khu vực phát triển. Hệ thống giao thông phát triển tương đối hoàn chỉnh, Quốc lộ 26, Quốc lộ 29, tỉnh lộ 11, tỉnh lộ 19 đi qua huyện có vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế văn hoá trong và ngoài huyện cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Những điều kiện trên là cơ sở tạo ra cho huyện phát triển kinh tế xã hội theo hướng Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá với tốc độ cao, có cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ;
Huyện Ea Kar chịu ảnh hưởng hai loại khí hậu: Nhiệt đới gió mùa và khí hậu cao nguyên mát dịu; trong năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa trong vùng thường đến sớm (giữa tháng 4) và kết thúc muộn (cuối tháng 11), chiếm 90% lượng mưa hàng năm; Mùa khô từ cuối tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ bình quân năm 23,7
0
C, biên độ nhiệt ngày đêm chênh lệch khoảng 10
0
C; Hệ thống sông, suối trên địa bàn huyện phân bố khá đều, nhìn chung, với tiềm năng đất, nước, thời tiết, khí hậu… đây là một vùng đất trù phú, có nhiều yếu tố thuận lợi thích hợp cho nhiều loại cây trồng, có lợi thế trong phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp trồng trọt và chăn nuôi.
Tổng diện tích có rừng của huyện Ea Kar là 37.682,54 ha, trong đó: Đất rừng phòng hộ: 872,97 ha; đất rừng đặc dụng: 21.137,30 ha; đất rừng sản xuất: 15.672,27 ha. Nằm trong vùng có điều kiện khí hậu, địa hình khá thuận lợi nên tài nguyên rừng trên địa bàn huyện khá phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều chủng loại khác nhau. Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện phân bố chủ yếu ở Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, chiếm tỷ lệ 57,30% tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn huyện, trong đó đất trừng đặc dụng với diện tích 21.692,72 ha/26.926 ha chiếm 80,56% ha tổng diện tích Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô. T
hảm thực vật rừng huyện Ea Kar rất phong phú về số lượng loài và số lượng cá thể trong loài đặc trưng cho rừng nhiệt đới, bao gồm 139 họ với 709 loài thực vật.
Hệ động vật rừng có 44 loài thú thuộc 22 họ và 17 bộ, trong đó có 17 loài thuộc diện quý hiếm có trong sách đỏ Việt Nam; 158 loài chim thuộc 51 họ và 15 bộ, trong đó có 9 loài trong sách đỏ Việt Nam; 23 loài lưỡng cư bò sát thuộc 11 họ và 3 bộ, vv…
Tiềm năng khoáng sản khá phong phú, có nhiều mỏ đá xây dựng với trữ lượng khá lớn đang khai thác phục vụ cho xây dựng dân dụng và giao thông; Cát xây dựng ở Ea Ô, Cư Yang, Ea Sô; Quặng Penspat ở Ea Sô, Ea Sar; Mỏ Sét sản xuất gạch ngói ở xã Ea Ô, Cư Prông, Cư Huê… Ngoài ra còn có mỏ Đồng ở Thị trấn Ea Knốp, vàng sa khoáng, đá quý và bán đá quý phân bố tại thôn 9 xã Cư Yang.
Huyện Ea Kar là nơi hội tụ của nhiều dân tộc trong cả nước, trong đó người kinh chiếm đa số; dân tộc bản địa chủ yếu là người Ê Đê; các dân tộc từ nơi khác chuyển đến gồm có: Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái, Sán chỉ, Vân kiều, Xê Đăng..; Các nhóm cộng đồng dân tộc này đã hình thành lên những cụm dân cư sinh sống rải rác trên khắp các xã, thi trấn trên địa bàn huyện. Cộng đồng các dân tộc với những truyền thống riêng, đã hình thành nên một nền văn hoá đa dạng, phong phú và có những nét độc đáo, trong đó nổi lên bản sắc văn hoá truyền thống của người Ê Đê và một số dân tộc khác. Bên cạnh đó, Ea Kar còn là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, những năm chiến tranh, nơi đây có những căn cứ kháng chiến, điển hình là Buôn Trưng, xã Cư Bông là một căn cứ cách mạng nổi tiếng thời chống Mỹ, cần được giữ gìn và xây dựng thành khu văn hoá lịch sử, những yếu tố đó cấu thành tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (giá so sánh 94) tăng 14-15%; công nghiệp xây dựng 23-24%; dịch vụ 20-21%; Thu nhập bình quân đầu người khoảng 34-35 triệu đồng (Theo giá hiện hành). Thu ngân sách bình quân hàng năm đạt 11% GDP (Theo giá hiện hành); Giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 11,29% toàn tỉnh; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ đứng thứ 04 toàn tỉnh; Sản lượng lương thực có hạt đứng đầu tỉnh, trong đó sản lượng lúa đứng thứ 03 tỉnh, chiếm 12,1%; Sản lượng ngô đứng đầu tỉnh, chiếm 16,4%; Sản lượng các loại cây đáp ứng nhu cầu nguyên liệu công nghiệp chế biến chủ yếu như sắn, mía, điều tương ứng đứng thứ nhất, thứ hai so với các huyện trong tỉnh. Ngoài ra sản lượng các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, bưởi, nhãn, vải cũng đứng đầu so với các huyện trong toàn tỉnh. Chăn nuôi cũng là một trong những ngành chiếm ưu thế của huyện với số lượng Trâu đứng đầu tỉnh, chiếm 17,3% quy mô đàn trâu toàn tỉnh; đàn bò đứng thứ 06, chiếm 7,76%. Đặc biệt, với điều kiện ưu đãi về nguồn nước sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của huyện đứng đầu tỉnh, chiếm 21,2% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh. Sự phát triển kinh tế huyện Ea Kar ngày càng đóng góp lớn vào phát triển kinh tế chung của tỉnh Đắk Lắk. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng trưởng của tỉnh.
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ đã và đang có chiều hướng phát triển mạnh. Cụm Công nghiệp Ea Đar được hình thành và đi vào hoạt động, hiện nay đã có 12 doanh nghiệp hoạt động hiệu quả như Công ty cổ phần CP, Công ty Việt Thắng …và rất nhiều các công ty, nhà máy trên địa bàn như: Công ty Cổ phần Mía – Đường 333, Công ty Thiên Long Phát, Nhà máy chế biến tinh bột sắn và hàng chục công ty, nhà máy, cơ sở chế biến lương thực, thực phẩm, nông sản … làm ăn có hiệu quả cao góp phần cho mục tiêu phát triển kinh tế chung của huyện và tạo công ăn việc làm, ổn định thu nhập và ngày càng nâng cao đời sống nhân dân. Thương mại, dịch vụ phát triển mạnh mẽ với hệ thống Ngân hàng, Siêu thị, Khu thương mại, vui chơi, giải trí, hệ thống nhà hàng, khách sạn phát triển đáp ứng mọi điều kiện của người dân và du khách trong và ngoài nước.
Hệ thống y tế phát triển với 01 Bệnh viện khu vực và Bệnh viện đa khoa huyện với quy mô 280 giường bệnh và 16 Trạm y tế tuyến xã với 64 giường bệnh; Đội ngũ cán bộ y tế đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh trên địa bàn. Hệ thống giáo dục phát triển mạnh mẽ cả về quy mô trường lớp và chất lượng đội ngũ, chất lượng đào tạo. Đến năm 2013, toàn huyện có 81 trường học gồm: 04 trường THPT, 18 trường THCS, 37 trường Tiểu học, 22 trường Mầm non, trong đó có 29 trường đạt chuẩn Quốc gia. Bưu chính, viễn thông phát triển, hệ thống thông tin liên lạc, Internet được phủ sóng trên toàn huyện.
Với tiềm năng thiên nhiên ưu đãi, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội thương mại, dịch vụ, giao thông phát triển thuận lợi; sự đa dạng nền văn hóa các dân tộc và sự thân thiện của con người Ea Kar; cùng với sự phong phú về thảm thực vật hệ động vật rừng và vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ của Khu Bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, Thác Dray Kpơ, với vẻ đẹp thơ mộng của Hồ Ea Kar – Đồi Cư Cúc, vẻ đẹp hùng vỹ của Đập chứa nước và Công trình thủy lợi Krông Pách Thượng hứa hẹn tiềm năng vô cùng thuận lợi cho phát triển du lịch.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ea Kar
Huyện Ea Kar nằm về phía Đông – Nam của Tỉnh Đắk Lắk, được thành lập ngày 13/9/1986 theo Quyết định số 108/1986/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), trung tâm huyện cách thành phố Buôn Ma Thuột 52 km theo Quốc lộ 26; Tổng diện tích tự nhiên là 1.037,47 km
2
với 143.506 nhân khẩu gồm 19 dân tộc anh em cùng chung sống; mật độ dân số 138,32 người/km
2
. Huyện Ea Kar có 16 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Ea Kar, Ea Knốp và 14 xã: Xuân Phú, Cư Huê, Ea Đar, Ea Kmút, Cư Ni, Ea Tíh, Ea Păl, Cư Yang, Ea Ô, Ea Sô, Ea Sar, Cư Bông, Cư Elang và Cư Prông. Đất đai, khí hậu khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hoá, phát triển du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và phát triển kinh tế trang trại nông lâm kết hợp.
Ranh giới:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, và tỉnh Gia Lai;
+ Phía Tây giáp huyện Krông Pắc – Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk;
+ Phía Nam giáp huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk;
+ Phía Đông giáp huyện M’Đăk, tỉnh Đắk Lắk.
Huyện Ea Kar nằm trên trục QL26, là cửa ngõ phía Đông nối tỉnh Đắk Lắk với các tỉnh miền Trung, đặc biệt là Phú Yên và Khánh Hoà, có vị trí chiến lược an ninh quốc phòng quan trọng, đồng thời có nhiều thuận lợi để thu hút đầu tư hình thành một khu vực phát triển. Hệ thống giao thông phát triển tương đối hoàn chỉnh, Quốc lộ 26, Quốc lộ 29, tỉnh lộ 11, tỉnh lộ 19 đi qua huyện có vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế văn hoá trong và ngoài huyện cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Những điều kiện trên là cơ sở tạo ra cho huyện phát triển kinh tế xã hội theo hướng Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá với tốc độ cao, có cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ;
Huyện Ea Kar chịu ảnh hưởng hai loại khí hậu: Nhiệt đới gió mùa và khí hậu cao nguyên mát dịu; trong năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa trong vùng thường đến sớm (giữa tháng 4) và kết thúc muộn (cuối tháng 11), chiếm 90% lượng mưa hàng năm; Mùa khô từ cuối tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ bình quân năm 23,7
0
C, biên độ nhiệt ngày đêm chênh lệch khoảng 10
0
C; Hệ thống sông, suối trên địa bàn huyện phân bố khá đều, nhìn chung, với tiềm năng đất, nước, thời tiết, khí hậu… đây là một vùng đất trù phú, có nhiều yếu tố thuận lợi thích hợp cho nhiều loại cây trồng, có lợi thế trong phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp trồng trọt và chăn nuôi.
Tổng diện tích có rừng của huyện Ea Kar là 37.682,54 ha, trong đó: Đất rừng phòng hộ: 872,97 ha; đất rừng đặc dụng: 21.137,30 ha; đất rừng sản xuất: 15.672,27 ha. Nằm trong vùng có điều kiện khí hậu, địa hình khá thuận lợi nên tài nguyên rừng trên địa bàn huyện khá phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều chủng loại khác nhau. Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện phân bố chủ yếu ở Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, chiếm tỷ lệ 57,30% tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn huyện, trong đó đất trừng đặc dụng với diện tích 21.692,72 ha/26.926 ha chiếm 80,56% ha tổng diện tích Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô. T
hảm thực vật rừng huyện Ea Kar rất phong phú về số lượng loài và số lượng cá thể trong loài đặc trưng cho rừng nhiệt đới, bao gồm 139 họ với 709 loài thực vật.
Hệ động vật rừng có 44 loài thú thuộc 22 họ và 17 bộ, trong đó có 17 loài thuộc diện quý hiếm có trong sách đỏ Việt Nam; 158 loài chim thuộc 51 họ và 15 bộ, trong đó có 9 loài trong sách đỏ Việt Nam; 23 loài lưỡng cư bò sát thuộc 11 họ và 3 bộ, vv…
Tiềm năng khoáng sản khá phong phú, có nhiều mỏ đá xây dựng với trữ lượng khá lớn đang khai thác phục vụ cho xây dựng dân dụng và giao thông; Cát xây dựng ở Ea Ô, Cư Yang, Ea Sô; Quặng Penspat ở Ea Sô, Ea Sar; Mỏ Sét sản xuất gạch ngói ở xã Ea Ô, Cư Prông, Cư Huê… Ngoài ra còn có mỏ Đồng ở Thị trấn Ea Knốp, vàng sa khoáng, đá quý và bán đá quý phân bố tại thôn 9 xã Cư Yang.
Huyện Ea Kar là nơi hội tụ của nhiều dân tộc trong cả nước, trong đó người kinh chiếm đa số; dân tộc bản địa chủ yếu là người Ê Đê; các dân tộc từ nơi khác chuyển đến gồm có: Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái, Sán chỉ, Vân kiều, Xê Đăng..; Các nhóm cộng đồng dân tộc này đã hình thành lên những cụm dân cư sinh sống rải rác trên khắp các xã, thi trấn trên địa bàn huyện. Cộng đồng các dân tộc với những truyền thống riêng, đã hình thành nên một nền văn hoá đa dạng, phong phú và có những nét độc đáo, trong đó nổi lên bản sắc văn hoá truyền thống của người Ê Đê và một số dân tộc khác. Bên cạnh đó, Ea Kar còn là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, những năm chiến tranh, nơi đây có những căn cứ kháng chiến, điển hình là Buôn Trưng, xã Cư Bông là một căn cứ cách mạng nổi tiếng thời chống Mỹ, cần được giữ gìn và xây dựng thành khu văn hoá lịch sử, những yếu tố đó cấu thành tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (giá so sánh 94) tăng 14-15%; công nghiệp xây dựng 23-24%; dịch vụ 20-21%; Thu nhập bình quân đầu người khoảng 34-35 triệu đồng (Theo giá hiện hành). Thu ngân sách bình quân hàng năm đạt 11% GDP (Theo giá hiện hành); Giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 11,29% toàn tỉnh; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ đứng thứ 04 toàn tỉnh; Sản lượng lương thực có hạt đứng đầu tỉnh, trong đó sản lượng lúa đứng thứ 03 tỉnh, chiếm 12,1%; Sản lượng ngô đứng đầu tỉnh, chiếm 16,4%; Sản lượng các loại cây đáp ứng nhu cầu nguyên liệu công nghiệp chế biến chủ yếu như sắn, mía, điều tương ứng đứng thứ nhất, thứ hai so với các huyện trong tỉnh. Ngoài ra sản lượng các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, bưởi, nhãn, vải cũng đứng đầu so với các huyện trong toàn tỉnh. Chăn nuôi cũng là một trong những ngành chiếm ưu thế của huyện với số lượng Trâu đứng đầu tỉnh, chiếm 17,3% quy mô đàn trâu toàn tỉnh; đàn bò đứng thứ 06, chiếm 7,76%. Đặc biệt, với điều kiện ưu đãi về nguồn nước sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của huyện đứng đầu tỉnh, chiếm 21,2% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh. Sự phát triển kinh tế huyện Ea Kar ngày càng đóng góp lớn vào phát triển kinh tế chung của tỉnh Đắk Lắk. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng trưởng của tỉnh.
Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ đã và đang có chiều hướng phát triển mạnh. Cụm Công nghiệp Ea Đar được hình thành và đi vào hoạt động, hiện nay đã có 12 doanh nghiệp hoạt động hiệu quả như Công ty cổ phần CP, Công ty Việt Thắng …và rất nhiều các công ty, nhà máy trên địa bàn như: Công ty Cổ phần Mía – Đường 333, Công ty Thiên Long Phát, Nhà máy chế biến tinh bột sắn và hàng chục công ty, nhà máy, cơ sở chế biến lương thực, thực phẩm, nông sản … làm ăn có hiệu quả cao góp phần cho mục tiêu phát triển kinh tế chung của huyện và tạo công ăn việc làm, ổn định thu nhập và ngày càng nâng cao đời sống nhân dân. Thương mại, dịch vụ phát triển mạnh mẽ với hệ thống Ngân hàng, Siêu thị, Khu thương mại, vui chơi, giải trí, hệ thống nhà hàng, khách sạn phát triển đáp ứng mọi điều kiện của người dân và du khách trong và ngoài nước.
Hệ thống y tế phát triển với 01 Bệnh viện khu vực và Bệnh viện đa khoa huyện với quy mô 280 giường bệnh và 16 Trạm y tế tuyến xã với 64 giường bệnh; Đội ngũ cán bộ y tế đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh trên địa bàn. Hệ thống giáo dục phát triển mạnh mẽ cả về quy mô trường lớp và chất lượng đội ngũ, chất lượng đào tạo. Đến năm 2013, toàn huyện có 81 trường học gồm: 04 trường THPT, 18 trường THCS, 37 trường Tiểu học, 22 trường Mầm non, trong đó có 29 trường đạt chuẩn Quốc gia. Bưu chính, viễn thông phát triển, hệ thống thông tin liên lạc, Internet được phủ sóng trên toàn huyện.
Với tiềm năng thiên nhiên ưu đãi, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội thương mại, dịch vụ, giao thông phát triển thuận lợi; sự đa dạng nền văn hóa các dân tộc và sự thân thiện của con người Ea Kar; cùng với sự phong phú về thảm thực vật hệ động vật rừng và vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ của Khu Bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, Thác Dray Kpơ, với vẻ đẹp thơ mộng của Hồ Ea Kar – Đồi Cư Cúc, vẻ đẹp hùng vỹ của Đập chứa nước và Công trình thủy lợi Krông Pách Thượng hứa hẹn tiềm năng vô cùng thuận lợi cho phát triển du lịch.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cư Kuin
Cư Kuin là một huyện của Việt Nam, thuộc tỉnh
Đắk Lắk
, cách trung tâm Thành phố Buôn Ma Thuột 19 km. Phía Đông giáp huyện Krông Pak và Krông Bông, phía Tây Nam giáp huyện Krông Ana và huyện Lắk, phía Bắc giáp thành phố Buôn Ma Thuột. Huyện được thành lập theo Nghị định số 137/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ Việt Nam về việc điều chỉnh địa giới hành chính
Vùng này trước đây Các buôn đồng bào người dân tộc Êđê sống du canh du cư. Đất bằng phẳng với rừng đại ngàn cổ thụ cao lớn. Địa hình khá hiểm trở, thú rừng chim chóc phong phú. Có một dãy đồi lớn trong đó có đỉnh Cư Kuin, thực vật nguyên sinh rất nhiều. Việc đi lại chủ yếu dùng voi và đi bộ tính khoảng cách bằng ngày đường.Cư Kuin là một huyện của Việt Nam, thuộc tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm Thành phố Buôn Ma Thuột 19 km. Phía Đông giáp huyện Krông Pak và Krông Bông, phía Tây Nam giáp huyện Krông Ana và huyện Lắk, phía Bắc giáp thành phố Buôn Ma Thuột. Huyện được thành lập theo Nghị định số 137/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ Việt Nam về việc điều chỉnh địa giới hành chính
Khoảng 1954-1956 một số hộ di dân từ miền Bắc vào hình thành dần các ngôi làng, sống láng giềng với các buôn người Êđê. Họ khai hoang núi rùng phát nương làm rẩy, làm ruộng nơi trũng. Đồng bào dân tộc tại chỗ cũng ổn định định cư cùng người kinh. Phần khai hoang chỉ canh tác vào mùa mưa, vào khô bắt đầu có các thảo nguyên cỏ tranh, cỏ gấu, cây bớp bớp. Dân số trước và sau năm 1975 dần được tăng lên chủ yếu tăng theo cơ học. Các đồn điền cao su, cà phê bắt đầu được trồng trên diện tích rộng. Quanh các đồn điền này có các dãy nhà công nhân lao động, bảo quản đồn điền. Phần còn lại vẫn rừng núi, rừng cổ thụ, suối nước, hồ rộng. Đất đai hoang sơ nhiều tre, nứa, lồ ô, một số ít đất quảng canh làm lúa rẩy của đồng bào Êđê và các đồn điền Cà phê, cao su. Năm 1974 chính quyền miền Nam thành lập xã Cư Bua trực thuộc quận Phước An, xã Ea Tiêu thuộc thị xã Buôn Ma Thuột. Sau 1975 thực hiện kế hoạch đi kinh tế mới, người dân di cư vào lập các nông trường quốc doanh cao su và cà phê. Thời kỳ đầu đang còn nhiều khó khăn, vì phải khai hoang gần như mới hoàn toàn diện tích. Săn bắn, xẻ gỗ đã trở thành một nghề của một số người. Công nhân của các nông trường làm việc tập trung theo chế độ bao cấp, trồng mới được nhiều diện tích cà phê, số ít điện tích được tiếp quản và phát triển từ các đồn điền cà phê cũ.
Thành lập huyện Krông Ana năm 1981
Huyện này thành lập từ các vùng TP.Buôn Ma Thuột, Lắk, Krông Bông, Cư Jút, Krông Pak. Chia làm hai cánh Nam và cánh Bắc, ngăn cách bởi đèo Ea Na. Cánh bắc nhờ được sự giúp đỡ các chuyên gia CHDC Đức (Đông Đức cũ) về con người và các thiết bị trong sản xuất nông nghiệp. Trong khoảng thời gian ngắn đã có nhiều thay đổi diện tích trồng mới phát triển liên tục, giao thông thủy lợi được mở rộng. Hình thành được 6 nông trường Việt Đức, đơn vị quản lý Xí nghiệp liên hiệp cà phê Việt Đức, quản lý phần diện tích rộng lớn chiếm 65% điện tích của huyện hiện tại. Sau đó chuyên gia Đức về nước, các nông trường được quản lý độc lập trực thuộc tổng công ty cà phê Việt nam. Sau thời kỳ bao cấp các doanh nghiệp quốc doanh khoán vườn cây lại cho công nhân và người dân làm liên kết. Sau khi các nông trường quốc doanh giao khoán, người dân đã phát triển vườn cây trong rẫy nông nghiệp của mình, trong khoãng thời gian ngắn cây cà phê được trồng xen lẫn với cây nông nghiệp. Lúc đầu mang tính thử nghiệm, nhưng với sự lao động người dân, cây cà phê ở các xã vùng sâu đạt được những bước phát triển nhất định. Nông trường cao su 19/8 được thành lập thuộc tổng công ty cao su Đắk Lắk tiếp quản đồn điền Lệ Xuân (Trần Lệ Xuân), nông trường này được tách từ Nông trường Ea Tiêu, phát triển trồng mới thêm cao su. Nhờ diện tích rộng địa hình bằng phẳng do khai hoang chưa sử dụng hết người dân gia tăng chăn nuôi, bò, trâu, lợn, gà v.v… Lúa rẫy, các loại cây họ đậu được gieo trồng theo mùa của Tây Nguyên. Trong thập niên 80 thế kỷ 20 huyện đã trở thành một nơi Xuất khẩu cà phê, cao su của tỉnh Đắk Lắk.
Các xã phía đông nam vẫn là núi rừng mênh mông. Dân di cư từ các vùng miền đông dần, tỉnh phải tiến hành thành lập xã mới. Cây trồng chủ yếu lúa nước và các cây lương thực ngắn ngày, sản lượng lương thực theo kiểu tự cung tự cấp. Cây công nghiệp thích hợp với cây điều nhiều hơn, các cây khác diện tích chiếm khá ít. Về công nghiệp chỉ mang tính sản xuất thô sơ gạch ngói thủ công, khai thác cát cho TP. Buôn Ma Thuột và các vùng xung quanh.
Hàng năm huyện cứ tiếp thêm một lượng di cư dân tự do của miền Bắc chủ yếu là các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Huế, Thái Bình v.v…, tạo sự hình thành nhiều vùng dân cư mới. Sự thay đổi dân số về cơ học và tự nhiên đã làm thay đổi cho huyện đáng kể về nguồn lực cho lao động. Các nghành nghề thay đổi chuyển biến, cơ giới hóa về sản xuất nông nghiệp tạo sự gia tăng về sản lượng. đầu tư của người dân tăng đáng kể cho nông nghiệp.
Thành lập huyện Cư Kuin năm 2007
Do địa hình phức tại đi lại khó khăn cách trở, huyện cũ được chia thành hai cách Nam và cánh Bắc, quản lý về mặt nhà nước khó khăn. Khoảng cách gần như độc lập giữa hai cánh, việc thành lập mới là điều tất yếu, trong quản lý hai cách gần như độc lập với nhau. Về các phần kinh tế, giao thông, điện, đường, trường, trạm gần như hoạt động độc lập.
Kinh tế hai cánh thay đổi các dịch vụ mới để cung ứng phát triển theo, cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Giáo dục và y tế được người dân và chính quyền quan tâm hơn. Từ khoãng thập niên 90 thế kỷ 20, lượng lao động trẻ đổ ra Thành phố ngày một nhiều, mặc dù kinh tế phát triển đều nhưng vẫn là huyện thuần nông. Cơ sở hạ tầng phát triển điện, đường, trường, trạm. Huyện có điều kiện quản lý tốt hơn.
Ngày nay nếu ta lấy ví dụ một người đi xa 28 năm, khi quay lại đây thì phải ngạc nhiên vì sự thay đổi lớn hoàn toàn bộ mặt. Hiện tại kinh tế chủ đạo của huyện vẫn là cây công nghiệp dài ngày cà phê, cao su, cây điều. Người dân tự chủ đầu tư cho vườn cây của mình. Lượng di dân có kế hoạch hay tự do hiện đã dừng lại, người dân ngày càng tìm kiếm thêm nhiều diện tích đất, cho mình hơn để mở rộng nông nghiệp cho gia đình.
|
General introduction to Cu Kuin district
Cu Kuin is a district of Vietnam, part of the province
Dak Lak
, 19 km from Buon Ma Thuot City center. The East borders Krong Pak and Krong Bong districts, the Southwest borders Krong Ana district and Lak district, the North borders Buon Ma Thuot city. The district was established under Decree Không. 137/2007/ND-CP dated August 27, 2007 of the Government of Vietnam on adjusting administrative boundaries
In the past, this area was filled with villages of Ede ethnic people who lived nomadic farming. The land is flat with thousands of tall, ancient forests. The terrain is quite rugged, with rich wild animals and birds. There is a large range of hills including Cu Kuin peak, with a lot of primary plants. Travel mainly uses elephants and walking, the distance is calculated in days of travel. Cu Kuin is a district of Vietnam, in Dak Lak province, 19 km from the center of Buon Ma Thuot City. The East borders Krong Pak and Krong Bong districts, the Southwest borders Krong Ana district and Lak district, the North borders Buon Ma Thuot city. The district was established under Decree Không. 137/2007/ND-CP dated August 27, 2007 of the Government of Vietnam on adjusting administrative boundaries
Around 1954-1956, a number of immigrant households from the North gradually formed villages, living next door to the Ede human traffickers. They reclaimed the mountains and cleared the fields for farming and farming in the lowlands. Local ethnic minorities also settled stably with the Kinh people. The reclaimed part is only cultivated in the rainy season. In the dry season, there are grasslands, bear grass, and bamboo trees. The population before and after 1975 gradually increased, mainly mechanically. Rubber and coffee plantations began to be planted on large areas. Around these plantations, there are rows of houses for workers working and maintaining the plantations. The rest is still mountains, ancient forests, streams, and large lakes. Pristine land with lots of bamboo, bamboo, a small amount of extensive rice cultivation land of the Ede people and coffee and rubber plantations. In 1974, the Southern government established Cu Bua commune under Phuoc An district, Ea Tieu commune under Buon Ma Thuot town. After 1975, when the new economic plan was implemented, people migrated to establish state-owned rubber and coffee farms. The first period was still difficult, because the area had to be reclaimed almost completely. Hunting and sawing wood have become a profession for some people. Workers of the farms work centrally under a subsidized regime, planting new coffee areas, a few areas are taken over and developed from old coffee plantations.
Krong Ana district was established in 1981
This district was established from the areas of Buon Ma Thuot, Lak, Krong Bong, Cu Jut, and Krong Pak. Divided into two wings, South and North, separated by Ea Na Pass. The northern wing thanks to the help of experts from the German Democratic Republic (former East Germany) in terms of people and equipment in agricultural production. In a short period of time, there have been many changes in new planting areas, continuous development, and irrigation traffic has been expanded. Six Viet Duc farms were formed, the management unit of the Viet Duc Coffee Union Enterprise, managing a large area accounting for 65% of the current district. After that, the German experts returned home and the farms were managed independently under the Vietnam Coffee Corporation. After the subsidy period, state-owned enterprises contracted orchards to workers and people as associates. After being contracted by state-owned farms, people developed gardens in their agricultural fields, and within a short period of time coffee trees were grown mixed with agricultural crops. At first it was experimental, but with the labor of the people, coffee trees in remote communes achieved certain developments. 19/8 Rubber Farm was established under Dak Lak Rubber Corporation to take over Le Xuan plantation (Tran Le Xuan), this farm was separated from Ea Tieu Farm, to develop new rubber plantations. Thanks to the large area of flat terrain due to unused land reclamation, people increased livestock raising, including cows, buffaloes, pigs, chickens, etc. Upland rice and legumes are grown seasonally in the Central Highlands. In the 80s of the 20th century, the district became a place for exporting coffee and rubber in Dak Lak province.
The southeast communes are still vast mountains and forests. As people migrated from the eastern regions gradually, the province had to establish new communes. The main crops grown are wet rice and short-term food crops, and food production is self-sufficient. Industrial crops are more suitable for cashew trees, other trees take up quite a small area. In terms of industry, it only involves rudimentary production of handmade bricks and tiles and sand mining for the city. Buon Ma Thuot and surrounding areas.
Every year, the district continues to receive a large number of free migrants from the North, mainly from the provinces of Nghe An, Ha Tinh, Thanh Hoa, Hue, Thai Binh, etc., creating the formation of many new residential areas. Mechanical and natural population changes have significantly changed the district's labor resources. Industry changes, mechanization of agricultural production creates an increase in output. People's investment increased significantly in agriculture.
Cu Kuin district was established in 2007
Due to the complex terrain and difficulty in traveling, the old district was divided into North and South, making state management difficult. The distance between the two wings is almost independent, the establishment of a new one is inevitable, in management the two ways are almost independent of each other. Regarding the economic part, transportation, electricity, roads, schools, and stations operate almost independently.
The two-wing economy changes new services to provide and develop according to people's consumption needs. Education and health are given more attention by the people and the government. Since the 90s of the 20th century, the number of young workers flocking to the City has increased. Although the economy has developed steadily, it is still a purely agricultural district. Infrastructure development: electricity, roads, schools, stations. The district has better management conditions.
Nowadays, if we take the example of a person who has been away for 28 years, when he comes back here, he is surprised by the complete change in his appearance. Currently, the district's main economy is still the long-term industrial crops of coffee, rubber, and cashew trees. People independently invest in their gardens. The amount of planned or free migration has now stopped, people are increasingly looking for more land for themselves to expand agriculture for their families.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tuy Đức
Huyện Tuy Đức năm ở phía Tây của tỉnh Đăk Nông với tổng diện tích tự nhiên là 111.924 ha, chiếm 17,2% diện tích toàn tỉnh; dân số trên 52 nghìn người, phân bố trên địa bàn 06 xã. Địa giới hành chính: phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia; phía Đông Nam giáp huyện Đăk R’ Lấp; phía Đông Bắc giáp huyện Đăk Song;phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước.
Là huyện biên giới, cách trung tâm tỉnh lỵ Gia Nghĩa, Đăk Nông khoảng 50km, có Quốc lộ 14C, Tỉnh lộ 686, 681 chạy qua, có cửa khẩu Buk Prăng tiếp giáp với biên giới Campuchia,…là những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là thương mại và du lịch.
Cũng như các vùng lân cận, địa hình của Tuy Đức nhìn chung khá phức tạp, có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 800 đến 1.200m và bị chia cắt mạnh, thấp dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và chia thành 3 dạng địa hình chính gồm:
Dạng cao nguyên Bazan,
Phân bố ở khu vực phía Bắc và Tây Bắc của huyện, có độ cao từ 700m-900m thuộc địa bàn các xã Quảng Trực, Quảng Tân, Đăk Buk So, Quảng Tâm, Đăk R’Tih. Phần đỉnh cao nguyên tương đối ít dốc, song phần sường rất dốc và chia cách mạnh. Thảm thực vật chủ yếu là thảm cỏ, cây bụi, rừng lồ ô, tre nữa,…;
Dạng gò, đồi núi thấp,
phân bố ở phía Nam và Tây Nam của huyện, thuộc phần còn lại của xã Quảng Trực và toàn bộ xã Đăk Ngo. Độ cao trung bình từ 400m – 700m, độ dốc dưới 1.500m. Thảm thực vật chủ yếu là cây lâu năm, lúa nước, rừng trồng xen lẫn các trảng cỏ.
Dạng thung lũng bồi tụ:
phân bố ven các dòng song suối nhỏ hẹp, với độ dốc từ 0 – 80, được hình thành chủ yếu do quá trình bồi tụ mẫu chất phù sa, dốc tụ. Thảm thực vật chủ yếu cây nông nghiệp ngắn ngày.
Về khí hậu, Tuy Đức nằm trong vùng ảnh hưởng của gió mua Tây Nam và mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm với 2 mùa rõ rệt trong năm là mùa mưa và mùa khô; mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, tập trung tới 90% lượng mưa hang năm, mùa khô từ tháng 11 đến cuối tháng 3 năm sau, có lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình năm là 22
o
C, tháng cao nhất 35,5
o
C (tháng 4), tháng thấp nhất 14,0
o
C(tháng 2) thuận lợi cho phát triển các loại cây trồng nhiệt đới. Số giờ nắng trung bình dao động từ 1.600 – 2.300 giờ/năm, độ ẩm trung bình hang năm khoảng 86,0%. Tuy Đức chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính là gió mua Tây Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 10 và gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhìn chung, đặc điểm điều kiện khí hậu của huyện khá thuận lợi cho phát triển đa dạng các loại cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là các loại cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày và cây thực phẩm có giá trị kinh. Tuy nhiên, do lượng mưa phân bố theo mùa, nhiều nắng và gió, địa hình dốc, lượng bốc hơi cao, thiếu nước nghiêm trọng vào mua khô đã ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
* Tóm lược quá trình hình thành phát triển Cơ quan, địa phương:
Sau 10 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư, hỗ trợ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và của Trung ương, sự phối hợp, giúp đỡ của các sở, ban, ngành của tỉnh và sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn vươn lên của toàn Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Tuy Đức trong giai đoạn 2007 – 2016 đã được những thành quả quan trọng trên tất cả lĩnh vực.
Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội, Đảng bộ, chính quyền huyện thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn theo định hướng “xây dựng và phát triển nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, bài trừ các hủ tục lạc hậu, tạo môi trường văn hóa, tinh thần lành mạnh cho người dân, xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở. Phong trào thể dục thể thao có bước phát triển khá; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được đẩy mạnh và phát triển, giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, đặc biệt là văn hóa truyền thống của dân tộc M’Nông…cùng nhiều lễ hội văn hóa, văn nghệ dân gian và cồng chiêng, nhạc cụ dân tộc.
Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân huyện Tuy Đức tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc trong toàn huyện; quyết tâm phấn đấu, tập trung thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về kinh tế – xã hội – an ninh quốc phòng mà Đại hội Đảng bộ huyện Tuy Đức lần thứ III, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra.
* LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG, VĂN HÓA, DI TÍCH, THẮNG CẢNH:
Trải qua bao thế hệ với lịch sử đấu tranh, văn hóa, di tích, thắng cảnh, truyền thống cách mạng và trong công cuộc xây dựng , bảo vệ Tổ quốc, mảnh đất Tuy Đức đã ssanr sinh và nuôi dưỡng dường người con ưu tú viết nên trang sử quê hương rạng rỡ với truyền thống văn hóa đặc sắc gắn liền với truyền thống anh dũng, kiên cường trong đấu tranh cách mạng. Ngày nay trên địa bàn huyện còn để lại nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như: khu di tích lịch sử Anh hung dân tộc M’Nông N’Trang Lơng; di tích đồn Bu Meerra và Bia tưởng niệm Henry Maitre (Hăngrimet) do thực dân Pháp xây dựng; làng Bu Nơr A, Bu Nơr B quê hương của nghĩa quân, cũng là nơi Hăngrimet bị nghĩa quân tiêu diệt vào năm 1917,…
Cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện gồm 20 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm đa số còn lại là người dân tộc thiểu số như: người M’Nông, Tày, Ê đê, Nùng, Dao, Thái…chung sống đoàn kết gắn bó, cần cù chịu khó, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, với những nét phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, tập quán sinh hoạt, văn hóa đặc sắc riêng…làm đa dạng và phòng phú đời sống văn hóa sinh hoạt cộng đồng, cùng những thành tưu đạt dược trong lao động, sản xuất,…đã đánh dấu sự nỗ lực vươn lên không ngừng của người dân nên mảnh đất này
Khu di tích lịch sử Anh hùng dân tộc M’Nông N’Trang Lơng: hiện đang triển khai xây dựng dự án phục dựng di tích này gồm các hạng mục như: Nhà bảo tàng trưng bày những hiện vật, hình ảnh của nghĩa quân và cuộc kháng chiến; Di tích đồn Bu Mêra, Bia tưởng niệm Hăngrimet do thực dân Pháp xây dựng 1935 tại ngã 3 biên giới; làng Bu Nơr, quê hương của nghĩa quân, cũng là nơi Hăngrimet bị nghĩa quân tiêu diệt năm 1914. Bon Bu Nơr A và khu di tích Bon Bu Nơr B sẽ được phục dựng theo nguyên mẫu làng cổ M’Nông. Khi hoàn thiện và đưa vào sử dụng sẽ là điểm du lịch tham quan hấp dẫn, đồng thời là địa điểm giáo dục truyền thống, bảo tồn lưu giữ những giá trị vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy Đức có tiềm năng rất lớn cho phát triển du lịch với những cánh rừng già hoang sơ, núi non hùng vĩ, thác nước nên thơ, khí hậu lại ôn hòa, mát mẻ. Ngoài các tiềm năng di lịch tự nhiên, huyện còn có tiềm năng rất lớn trong du lịch văn hóa, lịch sử với một nền văn hóa cổ truyền phong phú và đa dạng của nhiều dân tộc an hem sinh sống lâu đời trên địa bàn. Mặt khác, trên địa bàn huyện có cửa khẩu Bu Prăng rất thuận lợi cho việc giao lưu quốc tế. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ đang từng bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp đáp ứng tốt nhu cầu lưu trú của khách du lịch. Các điểm du lịch tiềm năng có thể đầu tư khai thác trong giai đoạn tới, gồm:
Trên địa bàn huyện hiện có 61 bộ chiêng, 1 nghệ nhân chỉnh chiêng, 24 nghệ nhân truyền dạy đánh chiêng, 72 nghệ nhân diễn tấu cồng chiêng, 8 đội văn nghệ dân gian. Các giá trị văn hóa phí vật thể của đồng bào cũng được khôi phục như: lễ mừng mùa, lễ phát rẫy, lễ sum họp cộng đồng, lễ căm nêu cũng lúa, hát sử thi, dân ca M’Nông. Cùng với các hoạt động lễ hội là trang phục truyền thống, ẩm thực, cồng chiêng, nghệ thuật diễn xướng mang đậm bản sắc văn hóa được trình diễn, giữu gìn và phát huy.
|
Giới thiệu khái quát huyện Tuy Đức
Huyện Tuy Đức năm ở phía Tây của tỉnh Đăk Nông với tổng diện tích tự nhiên là 111.924 ha, chiếm 17,2% diện tích toàn tỉnh; dân số trên 52 nghìn người, phân bố trên địa bàn 06 xã. Địa giới hành chính: phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia; phía Đông Nam giáp huyện Đăk R’ Lấp; phía Đông Bắc giáp huyện Đăk Song;phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước.
Là huyện biên giới, cách trung tâm tỉnh lỵ Gia Nghĩa, Đăk Nông khoảng 50km, có Quốc lộ 14C, Tỉnh lộ 686, 681 chạy qua, có cửa khẩu Buk Prăng tiếp giáp với biên giới Campuchia,…là những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là thương mại và du lịch.
Cũng như các vùng lân cận, địa hình của Tuy Đức nhìn chung khá phức tạp, có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 800 đến 1.200m và bị chia cắt mạnh, thấp dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và chia thành 3 dạng địa hình chính gồm:
Dạng cao nguyên Bazan,
Phân bố ở khu vực phía Bắc và Tây Bắc của huyện, có độ cao từ 700m-900m thuộc địa bàn các xã Quảng Trực, Quảng Tân, Đăk Buk So, Quảng Tâm, Đăk R’Tih. Phần đỉnh cao nguyên tương đối ít dốc, song phần sường rất dốc và chia cách mạnh. Thảm thực vật chủ yếu là thảm cỏ, cây bụi, rừng lồ ô, tre nữa,…;
Dạng gò, đồi núi thấp,
phân bố ở phía Nam và Tây Nam của huyện, thuộc phần còn lại của xã Quảng Trực và toàn bộ xã Đăk Ngo. Độ cao trung bình từ 400m – 700m, độ dốc dưới 1.500m. Thảm thực vật chủ yếu là cây lâu năm, lúa nước, rừng trồng xen lẫn các trảng cỏ.
Dạng thung lũng bồi tụ:
phân bố ven các dòng song suối nhỏ hẹp, với độ dốc từ 0 – 80, được hình thành chủ yếu do quá trình bồi tụ mẫu chất phù sa, dốc tụ. Thảm thực vật chủ yếu cây nông nghiệp ngắn ngày.
Về khí hậu, Tuy Đức nằm trong vùng ảnh hưởng của gió mua Tây Nam và mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm với 2 mùa rõ rệt trong năm là mùa mưa và mùa khô; mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, tập trung tới 90% lượng mưa hang năm, mùa khô từ tháng 11 đến cuối tháng 3 năm sau, có lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình năm là 22
o
C, tháng cao nhất 35,5
o
C (tháng 4), tháng thấp nhất 14,0
o
C(tháng 2) thuận lợi cho phát triển các loại cây trồng nhiệt đới. Số giờ nắng trung bình dao động từ 1.600 – 2.300 giờ/năm, độ ẩm trung bình hang năm khoảng 86,0%. Tuy Đức chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính là gió mua Tây Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 10 và gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhìn chung, đặc điểm điều kiện khí hậu của huyện khá thuận lợi cho phát triển đa dạng các loại cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là các loại cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày và cây thực phẩm có giá trị kinh. Tuy nhiên, do lượng mưa phân bố theo mùa, nhiều nắng và gió, địa hình dốc, lượng bốc hơi cao, thiếu nước nghiêm trọng vào mua khô đã ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
* Tóm lược quá trình hình thành phát triển Cơ quan, địa phương:
Sau 10 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư, hỗ trợ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và của Trung ương, sự phối hợp, giúp đỡ của các sở, ban, ngành của tỉnh và sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn vươn lên của toàn Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Tuy Đức trong giai đoạn 2007 – 2016 đã được những thành quả quan trọng trên tất cả lĩnh vực.
Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội, Đảng bộ, chính quyền huyện thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn theo định hướng “xây dựng và phát triển nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, bài trừ các hủ tục lạc hậu, tạo môi trường văn hóa, tinh thần lành mạnh cho người dân, xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở. Phong trào thể dục thể thao có bước phát triển khá; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được đẩy mạnh và phát triển, giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, đặc biệt là văn hóa truyền thống của dân tộc M’Nông…cùng nhiều lễ hội văn hóa, văn nghệ dân gian và cồng chiêng, nhạc cụ dân tộc.
Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân huyện Tuy Đức tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc trong toàn huyện; quyết tâm phấn đấu, tập trung thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về kinh tế – xã hội – an ninh quốc phòng mà Đại hội Đảng bộ huyện Tuy Đức lần thứ III, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra.
* LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG, VĂN HÓA, DI TÍCH, THẮNG CẢNH:
Trải qua bao thế hệ với lịch sử đấu tranh, văn hóa, di tích, thắng cảnh, truyền thống cách mạng và trong công cuộc xây dựng , bảo vệ Tổ quốc, mảnh đất Tuy Đức đã ssanr sinh và nuôi dưỡng dường người con ưu tú viết nên trang sử quê hương rạng rỡ với truyền thống văn hóa đặc sắc gắn liền với truyền thống anh dũng, kiên cường trong đấu tranh cách mạng. Ngày nay trên địa bàn huyện còn để lại nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như: khu di tích lịch sử Anh hung dân tộc M’Nông N’Trang Lơng; di tích đồn Bu Meerra và Bia tưởng niệm Henry Maitre (Hăngrimet) do thực dân Pháp xây dựng; làng Bu Nơr A, Bu Nơr B quê hương của nghĩa quân, cũng là nơi Hăngrimet bị nghĩa quân tiêu diệt vào năm 1917,…
Cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện gồm 20 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm đa số còn lại là người dân tộc thiểu số như: người M’Nông, Tày, Ê đê, Nùng, Dao, Thái…chung sống đoàn kết gắn bó, cần cù chịu khó, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, với những nét phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, tập quán sinh hoạt, văn hóa đặc sắc riêng…làm đa dạng và phòng phú đời sống văn hóa sinh hoạt cộng đồng, cùng những thành tưu đạt dược trong lao động, sản xuất,…đã đánh dấu sự nỗ lực vươn lên không ngừng của người dân nên mảnh đất này
Khu di tích lịch sử Anh hùng dân tộc M’Nông N’Trang Lơng: hiện đang triển khai xây dựng dự án phục dựng di tích này gồm các hạng mục như: Nhà bảo tàng trưng bày những hiện vật, hình ảnh của nghĩa quân và cuộc kháng chiến; Di tích đồn Bu Mêra, Bia tưởng niệm Hăngrimet do thực dân Pháp xây dựng 1935 tại ngã 3 biên giới; làng Bu Nơr, quê hương của nghĩa quân, cũng là nơi Hăngrimet bị nghĩa quân tiêu diệt năm 1914. Bon Bu Nơr A và khu di tích Bon Bu Nơr B sẽ được phục dựng theo nguyên mẫu làng cổ M’Nông. Khi hoàn thiện và đưa vào sử dụng sẽ là điểm du lịch tham quan hấp dẫn, đồng thời là địa điểm giáo dục truyền thống, bảo tồn lưu giữ những giá trị vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy Đức có tiềm năng rất lớn cho phát triển du lịch với những cánh rừng già hoang sơ, núi non hùng vĩ, thác nước nên thơ, khí hậu lại ôn hòa, mát mẻ. Ngoài các tiềm năng di lịch tự nhiên, huyện còn có tiềm năng rất lớn trong du lịch văn hóa, lịch sử với một nền văn hóa cổ truyền phong phú và đa dạng của nhiều dân tộc an hem sinh sống lâu đời trên địa bàn. Mặt khác, trên địa bàn huyện có cửa khẩu Bu Prăng rất thuận lợi cho việc giao lưu quốc tế. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ đang từng bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp đáp ứng tốt nhu cầu lưu trú của khách du lịch. Các điểm du lịch tiềm năng có thể đầu tư khai thác trong giai đoạn tới, gồm:
Trên địa bàn huyện hiện có 61 bộ chiêng, 1 nghệ nhân chỉnh chiêng, 24 nghệ nhân truyền dạy đánh chiêng, 72 nghệ nhân diễn tấu cồng chiêng, 8 đội văn nghệ dân gian. Các giá trị văn hóa phí vật thể của đồng bào cũng được khôi phục như: lễ mừng mùa, lễ phát rẫy, lễ sum họp cộng đồng, lễ căm nêu cũng lúa, hát sử thi, dân ca M’Nông. Cùng với các hoạt động lễ hội là trang phục truyền thống, ẩm thực, cồng chiêng, nghệ thuật diễn xướng mang đậm bản sắc văn hóa được trình diễn, giữu gìn và phát huy.
|
Giới thiệu khái quát huyện Krông Nô
Cuối thế kỷ XIX, Krông nô còn là một vùng đất sâu, hẻo lánh, dân cư thưa thớt của đồng bào M’nông. Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng nhanh chóng đưa quân lên Tây Nguyên, xây dựng đồn bốt và thiết lập bộ máy cai trị thực dân lên vùng đất này trong đó có vùng đất Krông Nô ngày nay.
Sau năm 1975, huyện Krông Nô thuộc tỉnh Đắk Lắk, gồm 4 xã: Đắk Mâm, Nam Ka, Nam Nung, Quảng Phú.
Ngày 20-4-1978, thành lập xã Nam Đà.
Ngày 17-1-1984, chia xã Nam Nung thành 2 xã lấy tên là xã Nam Nung và xã Đắk Rồ.
Ngày 10-9-1986, chia xã Quảng Phú thành 2 xã lấy tên là xã Quảng Phú và xã Đức Xuyên.
Ngày 25-5-1992, chia xã Nam Ka thành 2 xã lấy tên là xã Nam Ka và Ea R’bin; thành lập xã Đắk Nang từ một phần các xã Quảng Phú, Đức Xuyên.
Ngày 29-8-1994, thành lập xã Đắk Sôr trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Nam Đà.
Ngày 18-11-1996, thành lập xã Buôn Choah trên cơ sở 5.250 ha diện tích tự nhiên và 2.450 nhân khẩu của xã Nam Đà.
Ngày 27-7-1999, chuyển xã Đắk Mâm thành thị trấn Đắk Mâm.
Ngày 29-8-2003, chia xã Nam Nung thành 2 xã: Nâm Nung và Nâm N’Đir.
Từ đó, huyện Krông Nô có thị trấn Đắk Mâm và 11 xã: Buôn Choah, Đắk Nang, Đắk Rồ, Đắk Sôr, Đức Xuyên, Ea R’bin, Nam Đà, Nam Ka, Mâm N’Đir, Nâm Nung, Quảng Phú.
Ngày 26-11-2003, tỉnh Đắk Nông được tái lập, huyện Krông Nô thuộc tỉnh Đắk Nông; đồng thời chuyển 2 xã Ea R’bin và Nam Ka về huyện Lắk của tỉnh Đắk Lắk quản lý.
Ngày 6-6-2005, chia xã Đắk Rồ thành 2 xã: Tân Thành và Đắk Drô.
Ngày 18-10-2007, thành lập xã Nam Xuân trên cơ sở điều chỉnh 2.394 ha diện tích tự nhiên và 6.687 nhân khẩu của xã Đắk Sôr; 619 ha diện tích tự nhiên của xã Nam Đà.
Cuối năm 2010, huyện Krông Nô có thị trấn Đắk Mâm và 11 xã: Buôn Choah, Đắk Drô, Đắk Nang, Đắk Sôr, Đức Xuyên, Nam Đà, Mâm N’Đir, Nâm Nung, Nam Xuân, Quảng Phú, Tân Thành.
|
General introduction to Krong No district
At the end of the 19th century, Krong No was still a deep, remote, sparsely populated area of the M'nong people. After the French colonialists invaded our country, they quickly sent troops to the Central Highlands, built posts and established a colonial governance apparatus on this land, including today's Krong No land.
After 1975, Krong No district belonged to Dak Lak province, including 4 communes: Dak Mam, Nam Ka, Nam Nung, Quang Phu.
On April 20, 1978, Nam Da commune was established.
On January 17, 1984, Nam Nung commune was divided into two communes named Nam Nung commune and Dak Ro commune.
On September 10, 1986, Quang Phu commune was divided into two communes named Quang Phu commune and Duc Xuyen commune.
On May 25, 1992, Nam Ka commune was divided into two communes named Nam Ka and Ea R'bin communes; Established Dak Nang commune from part of Quang Phu and Duc Xuyen communes.
On August 29, 1994, Dak Sor commune was established based on part of the area and population of Nam Da commune.
On November 18, 1996, Buon Choah commune was established on the basis of 5,250 hectares of natural area and 2,450 people of Nam Da commune.
On July 27, 1999, Dak Mam commune was converted into Dak Mam town.
On August 29, 2003, Nam Nung commune was divided into two communes: Nam Nung and Nam N'Dir.
Since then, Krong No district has Dak Mam town and 11 communes: Buon Choah, Dak Nang, Dak Ro, Dak Sor, Duc Xuyen, Ea R'bin, Nam Da, Nam Ka, Mam N'Dir, Nam Nung, Quang Phu.
On November 26, 2003, Dak Nong province was re-established, Krong No district belonged to Dak Nong province; At the same time, two communes Ea R'bin and Nam Ka were transferred to Lak district of Dak Lak province for management.
On June 6, 2005, Dak Ro commune was divided into two communes: Tan Thanh and Dak Dro.
On October 18, 2007, Nam Xuan commune was established on the basis of adjusting 2,394 hectares of natural area and 6,687 people of Dak Sor commune; 619 hectares of natural area of Nam Da commune.
At the end of 2010, Krong No district had Dak Mam town and 11 communes: Buon Choah, Dak Dro, Dak Nang, Dak Sor, Duc Xuyen, Nam Da, Mam N'Dir, Nam Nung, Nam Xuan, Quang Phu, Tan Thanh .
|
Giới thiệu khái quát huyện Đăk Glong
Vị trí địa lý:
Đăk Glong nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Đăk Nông, có tổng diện tích tự nhiên là 144.875,46 ha (số liệu đã được đo đạc lại trên thực địa do sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu và UBND tỉnh Đăk Nông ra quyết định số 846/QĐ-UBND, ngày 4/6/2009 về việc phê duyệt thông kê, kiểm kê dất đai nă,m 2008 của tỉnh Đăk Nông), giáp với các huyện Lăk ở phía Đông Bắc, Đam Rông ở phía Đông, Lâm Hà ở phía Đông Nam, Di Linh và Bảo Lâm ở phía Nam, Đăk R’lấp và thị xã Gia Nghĩa ở phía Tây Nam, Đăk Song ở phía Tây và Krông Nô ở phía Bắc.
Địa hình:
Huyện Đăk Glong có địa hình đa dạng và phong phú, xen kẽ là các thung lũng; độ cao trung bình trên 800m.Đây là khu vực có đất bazan là chủ yếu, rất thích hợp với phát triển cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, điều, tiêu và chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Khí hậu:
Đăk Glong vừa mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến hết tháng 11 tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21-220C, nhiệt độ cao nhất 330C, tháng nóng nhất là tháng 4, nhiệt độ thấp nhất là 140C; tháng lạnh nhất vào tháng 12. Lượng mưa trung mình năm khoảng 2200 – 2400 mm, lượng mưa cao nhất 3000mm. tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8,9; mưa ít nhất vào tháng 1,2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô 14,6 – 15,7 mm/ngày.
Tiềm năng thủy điện:
Là huyện giáp ranh với tỉnh Lâm đồng được ngăn cách bởi thượng nguồn của sông Đồng Nai, do địa hình nhiều núi cao, rất thích hợp cho việc phát triển thủy điện. Ngoài ra, trên địa bàn còn rất nhiều những con suối nhỏ thích hợp cho việc xây dựng các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ. Hiện nay trên địa bàn huyện có 4 nhà máy thủy điện đã đi vào hoạt động là: Nhà máy thủy điện Đồng Nai 3, Nhà máy thủy điện Đồng Nai 4, Nhà máy thủy điện TuSa và Đăk Nten.
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên lớn nhất của huyện là rừng tự nhiên, với diện tích 125.793,2 ha, độ che phủ 65%. Diện tích đất nông nghiệp 16.673 ha chiếm 11,56%, hệ thống sông suối đa dạng, có sông Đồng Nai chảy qua ở phía Nam và nhiều suối lớn. Đường giao thông thuận lợi, có Quốc lộ 28 đi Lâm Đồng, Bình Thuận và Tỉnh lộ 4. Nguồn nước mặt do mưa cung cấp tương đối dồi dào, thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bản toàn huyện. Song vào mùa khô mưa ít, nắng nóng kèo dài làm khô hạn, nhiều lúc thiếu nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt của dân cư.
Nguồn nước ngầm, phân bổ ở hầu hết trên địa bàn trong huyện, có trữ lượng lớn ở độ sâu 60-90m. Đây là nguồn cung cấp nước bổ sung cho sản xuất và sinh hoạt vào mừa khô, được sử dụng phổ biến cho sinh hoạt, làm kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Tuy nhiên trên một số nơi trong vùng nguồn nước ngầm hạn chế. Nước ngầm được khai thác chủ yếu thông qua các giếng khoan, giếng đào, nhưng do nguồn nước nằm ở tầng sâu nên muốn khai thác cần có đầu tư lớn và pahir có nguồn năng lượng.
Tài nguyên khoáng sản dồi dào, theo số liệu điều tra sơ bộ cho thấy trên đại bàn huyện có một số loại khoáng sản là: mỏ vàng, Volflam, thiếc, antimony, bauxite, sét cao lanh làm gốm sứ cao cấp. Trên bề mặt của mỏ quặng có lớp đất Bazan tốt, phù hợp cho trồng rừng hoặc cây công nghiệp dài ngày. Khó khăn cho việc khai thác hiện nay là chưa có đường giao thông, thiếu năng lượng, nguồn nước để rửa quặng và vốn đầu tư.
Tài nguyên du lịch:
Trên địa bàn huyện đã có và trong tương lai có nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp như: các khu rừng nguyên sinh Tà Đùng (28000 ha), Thác Gấu xã Quảng Sơn, lòng hồ thủy điện Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Thủy điện Buôn TuSa, Đăk Nten, các hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo rất thích hợp cho du lịch sinh thái và đã ngoại. các buôn, làng, đồng bào dân tộc ít người với những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống độc đáo như : lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm trâu,… là những tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa, nhân văn. Đặc biệt là dân tộc M’Nông có truyền thống văn hóa độc đáo, giàu bản sắc dân tộc có các sử thi, các lễ hội, đây là yếu tố có thể khai thác phát triển du lịch. Những tiềm năng đa dạng cho phát triển du lịch như: Du lịch sinh thái tham quan thác, suối, hồ, đập, vườn, rừng; du lịch vui chơi giải trí như: leo núi, săn bắn, đua ngựa; du lịch văn hóa: tham gia các lễ hội của các đồng bào dân tộc, lễ hội cồng chiêng, lễ hội ăn trâu,…
Những tiềm năng trên là điều kiện để hình thành các cụm du lịch, tour du lịch của huyện nếu được gắn kết với các tuyến du lịch Bình thuận, Lâm Đồng, TP. Hồ Chí Minh sẽ tạo nên hành trình du lịch hấp dẫn đối với du khách.
|
General introduction to Dak Glong district
Geographical location:
Dak Glong is located in the Southeast of Dak Nong province, with a total natural area of 144,875.46 hectares (data has been re-measured in the field advised by the Department of Natural Resources and Environment and decided by the People's Committee of Dak Nong province). Decree Không. 846/QD-UBND, dated June 4, 2009 on approving land statistics and inventory in 2008 of Dak Nong province), bordering Lak districts in the Northeast, Dam Rong in the East , Lam Ha in the Southeast, Di Linh and Bao Lam in the South, Dak R'lap and Gia Nghia town in the Southwest, Dak Song in the West and Krong No in the North.
Topographic:
Dak Glong district has a diverse and rich terrain, interspersed with valleys; The average altitude is over 800m. This is an area with mainly basalt soil, very suitable for developing perennial industrial crops such as coffee, rubber, cashew, pepper and raising livestock and poultry.
Climate:
Dak Glong has both a humid tropical highland climate and is influenced by the hot, dry southwest monsoon. The climate has two distinct seasons: the rainy season and the dry season. The rainy season starts from April to the end of November and concentrates 90% of the annual rainfall. The dry season is from November to April of the following year, with insignificant rainfall.
The average annual temperature is about 21-220C, the highest temperature is 330C, the hottest month is April, the lowest temperature is 140C; The coldest month is December. The average annual rainfall is about 2200 - 2400 mm, the highest rainfall is 3000mm. The rainiest month is August and September; The least rain is in January and February. Average air humidity is 84%. Evaporation in the dry season is 14.6 - 15.7 mm/day.
Hydropower potential:
It is a district bordering Lam Dong province, separated by the upstream of the Dong Nai River. Due to its high mountainous terrain, it is very suitable for hydroelectric development. In addition, there are many small streams in the area suitable for the construction of small and medium hydroelectric plants. Currently in the district there are 4 hydroelectric plants in operation: Dong Nai 3 Hydroelectric Plant, Dong Nai 4 Hydroelectric Plant, TuSa and Dak Nten Hydroelectric Plant.
Natural resources:
The district's largest natural resource is natural forest, with an area of 125,793.2 hectares, coverage of 65%. The agricultural land area is 16,673 hectares, accounting for 11.56%, and the river and stream system is diverse, with the Dong Nai river flowing through the south and many large streams. Convenient traffic roads, with National Highway 28 to Lam Dong, Binh Thuan and Provincial Road 4. Surface water provided by rain is relatively abundant, convenient for production and residential activities throughout the district. However, in the dry season there is little rain, long periods of hot weather cause drought, and sometimes water shortages have a significant impact on agricultural production and people's daily life.
Groundwater sources, distributed in most areas of the district, have large reserves at a depth of 60-90m. This is an additional source of water supply for production and daily life in the dry season, commonly used for daily life, garden economy, and farm economy. However, in some places in the region, groundwater resources are limited. Groundwater is exploited mainly through drilled wells and dug wells, but because the water source is located at a deep layer, exploitation requires large investments and a source of energy.
Mineral resources are abundant. According to preliminary investigation data, there are several types of minerals in the district: gold mine, Volflam, tin, antimony, bauxite, kaolin clay to make high-quality ceramics. On the surface of the ore mine there is a good layer of basalt soil, suitable for planting forests or long-term industrial crops. Difficulties for current mining are the lack of roads, lack of energy, water sources to wash ore and investment capital.
Travel resources:
In the district, there have been and in the future many beautiful natural landscapes such as: Ta Dung primeval forests (28,000 hectares), Gau Waterfall in Quang Son commune, Dong Nai 3 and Dong Nai 4 hydropower reservoirs, Thuy Thuy. Buon TuSa, Dak Nten, natural and artificial water reservoirs are very suitable for eco-tourism and foreign tourism. hamlets, villages, and ethnic minorities with unique traditional cultural activities such as gong festivals, drinking can wine, buffalo stabbing festivals, etc. are potential for cultural tourism development. , Humanities. Especially the M'Nong ethnic group has a unique cultural tradition, rich in national identity with epics and festivals, this is a factor that can be exploited for tourism development. Diverse potentials for tourism development such as: Ecotourism to visit waterfalls, streams, lakes, dams, gardens, forests; Entertainment tourism such as mountain climbing, hunting, horse racing; Cultural tourism: participating in ethnic festivals, gong festival, buffalo eating festival,...
The above potentials are conditions for forming tourism clusters and tours of the district if linked with tourist routes of Binh Thuan, Lam Dong, and City. Ho Chi Minh will create an attractive travel itinerary for tourists.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cư Jut
Cư Jút là một huyện của tỉnh Đăk Nông. Huyện nằm trên trục đường Quốc lộ 14, cách trung tâm Buôn Ma Thuột khoảng 20 km về phía Tây nam và cách thị xã Gia Nghĩa khoảng 110 km, có đường biên giới dài 20 km giáp với huyện Pechr Chenda – tỉnh Mondulkiri, vương quốc Campuchia
Phía Đông của Cư Jút giáp với thành phố Buôn Ma Thuột, phía Nam giáp huyện ĐăkMil, phía Tây giáp huyện Pê Chơ Chênh Đa, Mondulkiri, Vương quốc Campuchia và phía Bắc giáp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk
LỊCH SỬ VĂN HÓA
Chẳng rõ từ bao giờ, vùng đất cao nguyên tươi đẹp này mang tên Cư Jut. Chỉ biết rằng theo tiếng Ê Đê, chữ “Cư” nghĩa là núi và “Jút” là Trúc, vùng núi này có nhiều cây Trúc nên có lẽ đồng bào Ê Đê đặt tên cho vùng đất quê hương mình là Cư Jut. Để lớn mạnh như ngày nay, Cư Jut đã trải qua quá trình phát triển lâu dài.
Từ xa xưa, Cư Jut là một vùng đất của Tây Nguyên; chủ nhân là đồng bào các bộ tộc Ê Đê và M’Nông chung sống yên bình. Mỗi bộ tộc tạm cư trên một vùng rừng núi nhất định, nếu điều kiện sống thay đổi, hay vì lý do nào đó, họ có thể di cư tới một vùng đất khác. Cuộc sống như vậy cứ mãi trôi theo năm tháng.
Đến thời Pháp thuộc, mọi việc đã khác trước. Riêng về địa giới hành chính vùng Cư Jut gồm 2 tổng : Đắk Lô và Đắk Đam thuộc quận Đắk Song, tỉnh Đắk Lăk. Tổng Đắk Lô gồm: buôn Buôr, buôn Nui, buôn Ea Pô, buôn Trum, buôn Diêr, buôn U, buôn Dút, buôn Băng So, buôn Tăng Wil; tổng Đắk Đam gồm: buôn Đắk Tun, buôn Năng Côn, buôn Đắk Drông, buôn Ta Vét, buôn Dân Rầm lớn, buôn Dân Rầm nhỏ, buôn Đắk Kênh, buôn Đắk Dam và buôn Tân Drot.
Năm 1959, chính quyền Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh thành lập tỉnh Quảng Đức, cắt toàn bộ huyện Đắk Mil của Đăk Lắk từ phía nam cầu 14, giáp thị xã Buôn Ma Thuột vào ngã ba Đắk Song, đặt tên là quận Đức Lập. Cư Jut lúc này trở thành một xã của quận Đức Lập.
Đối với ta, tháng 12/1960, Trung ương quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức, thuộc liên tỉnh IV, do liên khu V chỉ đạo. Đến giữa năm 1961, Khu VI được thành lập, tỉnh Quảng Đức trực thuộc Khu VI. Tuy vậy, thời gian này, quận Đức Lập (bao gồm Đắk Mil và Cư Jut ngày nay) và Krông Nô mang mật danh K63, thuộc B6 của tỉnh Đắk Lăk. Đến tháng 6 năm 1963, B6 giải thể, K63 giao cho B5. Đến đầu năm 1965, sau một số lần giải thể, tỉnh Quảng Đức được tái lập, Đắk Mil (trong đó có Cư Jut) là một trong 4 huyện của tỉnh Quảng Đức. Cư Jut lúc này thuộc khu vực mang mật danh X70.
Năm 1965 – 1966, Khu X được tái lập, tỉnh Quảng Đức được chia thành hai khu vực: Tiền Phương A và Tiền phương B. Hai huyện Đắk Mil và Đức Xuyên trực thuộc Tiền phương A (trong đó có Cư Jut). Hai huyện Khiêm Đức và Kiên Đức trực thuộc Tiền Phương B. Đầu tháng 1/1967, hai Tiền phương A và B sáp nhập lại thành tỉnh Quảng Đức như cũ. Thời gian này, Cư Jut thuộc địa bàn mang mật danh K62.
Tháng 5/1971, Trung ương giải thể tỉnh Quảng Đức và Khu X, giao hai huyện Khiêm Đức, Kiến Đức về Lâm Đồng trực thuộc sự chỉ đạo của Khu VI; hai huyện Đức Xuyên, Đắk Mil về tỉnh Đắk Lăk thuộc Khu V chỉ đạo. Địa bàn Cư Jut những năm này mang mật danh C300 cho đến ngày giải phóng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 5/1975, Trung ương tái lập tỉnh Quảng Đức. Cư Jut lúc này là một xã của huyện Đức Lập. Tháng 11/1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lăk, huyện Đức Lập đổi tên thành huyện Đắk Mil; cùng lúc, xã Cư Jut tách khỏi Đắk Mil nhập về thị xã Buôn Ma Thuột.
Ngày 26/01/1989 Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 09/QĐ-HĐBT ( nay là Chính phủ) về thành lập xã Nam donh và xã EaPo trên cơ sở diện tích tự nhiên của xã Cư Jút. Thời điểm này trên vùng Cư Jút có 3 xã( Cư Jút, Nam dong, EaPo) trực thuộc thị xã Buôn ma thuột).
Ngày 19/06/1990 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam ban hành Quyết định số 227/HĐBT ngày 19/06/1990 về việc thành lập Huyện Cư Jút thuộc tỉnh Đăk lăk trên cơ sở tách 5 xã (EaT’Linh, Tâm Thắng, Trúc Sơn, Ea Pô, Nam Dong) của thị xã Buôn Ma Thuột, gồm 36.400 ha diện tích tự nhiên với 18.379 nhân khẩu và 35.100 ha diện tích tự nhiên (toàn bộ là đất lâm nghiệp) của xã Đắk Lao (huyện Đắk Mil). Khi thành lập huyện Cư Jut thuộc tỉnh Đắk Lăk, gồm 5 xã: Ea T’Linh, Tâm Thắng, Trúc Sơn, Ea Pô, Nam Dong với 71.500 ha diện tích tự nhiên và 18.379 nhân khẩu.
Tháng 5/1992, thực hiện Quyết định số 313/TCCP của Bộ trưởng – Trưởng ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ ( ngày 26/5/1992), huyện Cư Jut có sự điều chỉnh địa giới hành chính của các xã. Nam Dong được tách thành 2 xã mới là Nam Dong và Đắk Drông; trong đó xã Nam Dong (mới) có 3.951 ha diện tích tự nhiên và 5.066 nhân khẩu, gồm 4 thôn (thôn 1, thôn 2, thôn 3, thôn 4); xã Đắk Drông có 6.300ha diện tích tự nhiên và 3.222 nhân khẩu gồm 2 thôn (thôn 5, thôn 6) và 2 buôn (buôn Dier, buôn U). Thành lập thị trấn Ea T’Linh trên cơ sở 1.200 ha diện tích tự nhiên với toàn bộ dân số của xã Ea T’Linh; sáp nhập phần diện tích tự nhiên còn lại của xã Ea T’Linh (2.010) vào xã Trúc Sơn quản lý.
Như vậy, sau đợt điều chỉnh địa giới hành chính (5/1992), huyện Cư Jut có 6 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 1 thị trấn (Ea T’Linh – huyện lị) và 5 xã (Tâm Thắng, Trúc Sơn, Ea Pô, Nam Dong, Đắk Drông).
Đến năm 1995, theo Nghị định số 08/CP ngày 21/01/1995 của Chính phủ, 3 xã Hòa Phú, Hòa Xuân, Hòa Khánh của thành phố Buôn Ma Thuột được cắt chuyển về huyện Cư Jut với tổng diện tích tự nhiên la 10.932ha và 24.271 nhân khẩu. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Cư Jut có 82.432ha diện tích tự nhiên và 62.433 nhân khẩu gồm 1 thị trấn và 8 xã.
Thực hiện Nghị định sô 49/2001/NĐ-CP ngày 15/8/2001 của Chính phủ, huyện Cư Jut thành lập 2 xã mới là Cư Knia và Đắk Wil. Xã Cư Knia dược thành lập trên cơ sở 2.987ha diện tích tự nhiên và 3.278 nhân khẩu của xã Trúc Sơn. Xã Đắk Wil được thành lập trên cơ sở 42.140ha diện tích tự nhiên và 5.159 nhân khẩu của xã Ea Pô. Lúc này, huyện Cư Jut gồm 1 thị trấn và 10 xã.
Ngày 01/01/2004 tỉnh Đăk Nông được thành lập, theo Nghị quyết số 22/2003 của Quốc hội (khóa XI) ngày 28/11/2003, trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đăk Lăk, theo sự phân chia mới, huyện Cư Jut là một trong 6 đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Nông. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, tách 3 xã Hoà Phú, Hoà Khánh, Hoà Xuân về Thành phố Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk), diện tích tự nhiên của huyện còn 72.025 ha, đơn vị hành chính gồm thị trấn EaTling và 7 xã ( Tâm thắng, Nam dong, EaPo, Trúc sơn, Đăk Drông, Cư Knia, Đăk Wil) như hiện nay.
|
General introduction to Cu Jut district
Cu Jut is a district of Dak Nong province. The district is located on National Highway 14, about 20 km southwest of Buon Ma Thuot center and about 110 km from Gia Nghia town, with a 20 km long border with Pechr Chenda district - Mondulkiri province, kingdom. Cambodia
The East of Cu Jut borders Buon Ma Thuot city, the South borders DakMil district, the West borders Pe Cho Chenh Da district, Mondulkiri, Kingdom of Cambodia and the North borders Buon Don district, Dak Lak province
CULTURAL HISTORY
It is unclear when this beautiful highland land was named Cu Jut. We only know that in the Ede language, the word "Cu" means mountain and "Jut" means Bamboo. This mountainous area has many Bamboo trees, so perhaps the Ede people named their homeland Cu Jut. To grow as strong as it is today, Cu Jut has gone through a long development process.
Since ancient times, Cu Jut was a land of the Central Highlands; The owner is the Ede and M'Nong tribes living together peacefully. Each tribe temporarily resides in a certain mountainous area. If living conditions change, or for some reason, they can migrate to another land. Life like this goes on and on over the years.
During the French colonial period, things were different from before. As for the administrative boundaries of Cu Jut region, it includes 2 districts: Dak Lo and Dak Dam in Dak Song district, Dak Lak province. Total Dak Lo includes: Buor village, Nui village, Ea Po village, Trum village, Dier village, U village, Dut village, Bang So village, Tang Wil village; Dak Dam district includes: Dak Tun village, Nang Con village, Dak Drong village, Ta Vet village, big Dan Ram village, small Dan Ram village, Dak Kenh village, Dak Dam village and Tan Drot village.
In 1959, the Ngo Dinh Diem government decreed the establishment of Quang Duc province, cutting off the entire Dak Mil district of Dak Lak from the south of bridge 14, bordering Buon Ma Thuot town to Dak Song junction, naming it Duc Lap district. . Cu Jut now became a commune of Duc Lap district.
For us, in December 1960, the Central Committee decided to establish Quang Duc province, belonging to inter-province IV, directed by inter-region V. By mid-1961, Zone VI was established, Quang Duc province belonged to Zone VI. However, at this time, Duc Lap district (including today's Dak Mil and Cu Jut) and Krong No were codenamed K63, belonging to B6 of Dak Lak province. By June 1963, B6 was dissolved, K63 was assigned to B5. By early 1965, after several dissolutions, Quang Duc province was re-established, Dak Mil (including Cu Jut) was one of four districts of Quang Duc province. Cu Jut at this time belonged to an area codenamed X70.
In 1965 - 1966, Area The two districts Khiem Duc and Kien Duc belong to Tien Phuong B. In early January 1967, Tien Phuong A and B merged to form Quang Duc province as before. During this time, Cu Jut belonged to an area codenamed K62.
In May 1971, the Central Government dissolved Quang Duc province and Zone X, assigning Khiem Duc and Kien Duc districts to Lam Dong under the direction of Zone VI; Duc Xuyen and Dak Mil districts returned to Dak Lak province under Zone V for direction. The Cu Jut area during these years was codenamed C300 until the day of liberation.
After the complete liberation of the South, in May 1975, the Central Government re-established Quang Duc province. Cu Jut at this time was a commune of Duc Lap district. In November 1975, Quang Duc province merged into Dak Lak province, Duc Lap district was renamed Dak Mil district; At the same time, Cu Jut commune separated from Dak Mil and joined Buon Ma Thuot town.
On January 26, 1989, the Council of Ministers issued Decision Không. 09/QD-HDBT (now the Government) on establishing Nam Donh commune and EaPo commune on the basis of the natural area of Cu Jut commune. At this time, in the Cu Jut area, there are 3 communes (Cu Jut, Nam Dong, EaPo) directly under Buon Ma Thuot town).
On June 19, 1990, the Council of Ministers (now the Government) of the Socialist Republic of Vietnam issued Decision Không. 227/HDBT dated June 19, 1990 on the establishment of Cu Jut District in Dak Lak province. on the basis of separating 5 communes (EaT'Linh, Tam Thang, Truc Son, Ea Po, Nam Dong) of Buon Ma Thuot town, including 36,400 hectares of natural area with 18,379 people and 35,100 hectares of natural area (total forestry land) of Dak Lao commune (Dak Mil district). When establishing Cu Jut district in Dak Lak province, it included 5 communes: Ea T'Linh, Tam Thang, Truc Son, Ea Po, Nam Dong with 71,500 hectares of natural area and 18,379 people.
In May 1992, implementing Decision Không. 313/TCCP of the Minister - Head of the Government Organization and Personnel Committee (May 26, 1992), Cu Jut district adjusted the administrative boundaries of the communes. Nam Dong was split into two new communes, Nam Dong and Dak Drong; in which Nam Dong commune (new) has 3,951 hectares of natural area and 5,066 people, including 4 villages (village 1, village 2, village 3, village 4); Dak Drong commune has 6,300 hectares of natural area and 3,222 people including 2 villages (village 5, village 6) and 2 villages (Dier village, U village). Establishing Ea T'Linh town on the basis of 1,200 hectares of natural area with the entire population of Ea T'Linh commune; Merge the remaining natural area of Ea T'Linh commune (2,010) into the management of Truc Son commune.
Thus, after the administrative boundary adjustment (May 1992), Cu Jut district has 6 commune-level administrative units, including 1 town (Ea T'Linh - district capital) and 5 communes (Tam Thang, Truc Son, Ea Po, Nam Dong, Dak Drong).
By 1995, according to Decree Không. 08/CP dated January 21, 1995 of the Government, 3 communes Hoa Phu, Hoa Xuan, Hoa Khanh of Buon Ma Thuot city were transferred to Cu Jut district with a total natural area. la 10,932 hectares and 24,271 people. After adjusting the administrative boundaries, Cu Jut district has 82,432 hectares of natural area and 62,433 people, including 1 town and 8 communes.
Implementing Decree Không. 49/2001/ND-CP dated August 15, 2001 of the Government, Cu Jut district established two new communes, Cu Knia and Dak Wil. Cu Knia commune was established on the basis of 2,987 hectares of natural area and 3,278 people of Truc Son commune. Dak Wil commune was established on the basis of 42,140 hectares of natural area and 5,159 people of Ea Po commune. At this time, Cu Jut district included 1 town and 10 communes.
On January 1, 2004, Dak Nong province was established, according to Resolution Không. 22/2003 of the National Assembly (term XI) dated November 28, 2003, on the basis of separation from Dak Lak province, according to the new division, Cu Jut district is one of 6 administrative units of Dak Nong province. After adjusting the administrative boundaries, separating 3 communes of Hoa Phu, Hoa Khanh, Hoa Xuan into Buon Ma Thuot City (Dak Lak), the natural area of the district remains 72,025 hectares, the administrative units include EaTling town and 7 communes (Tam Thang, Nam Dong, EaPo, Truc Son, Dak Drong, Cu Knia, Dak Wil) as at present.
|
Giới thiệu khái quát huyện Đắk Song
Đắk Song có địa hình cao nguyên núi lửa, có mức độ chia cắt mạnh, tạo thành những dãy đồi dạng bát úp, độ dốc trung bình 100- 200 có nơi trên 200, có độ cao trung bình so với mặt nước biển là 700m – 800m, đây là một trong những vùng có độ dốc lớn và được chia làm 3 dạng địa hình chính sau.
– Dạng địa hình thung lũng hẹp.
– Dạng địa hình đồi núi thấp, đến trung bình.
– Dạng địa hình đồi núi cao chia cắt mạnh.
Thống kê diện tích đất theo địa hình
3-80
8-150
15-200
20-250
>250
Sông suối, ao hồ
Tổng diện tích
7.957
29.538
26.486
5.025
8.205
1.999
80.803,77
9,85
36,55
32,78
6,22
10,15
2,47
100
(Nguồn: Từ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đắk Song)
Khí hậu
Chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và mang đặc điểm chung của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm nên khí hậu có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
Lượng mưa trung bình năm
Thị Trấn Đức An –Xã Nam Bình–X.Thuận Hạnh
Xã Nâm N’rang – Xã Trường Xuân
Xã Đăk N’Drung – Xã Thuận Hà
2000-2200mm
2200-2400mm
>2400mm
(Nguồn từ trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Đăk Nông)
Thủy văn
Hệ thống các nhánh suối phân bố tương đối đồng đều trên địa bàn. Lưu lượng nước của các suối đều ảnh hưởng theo mùa. Mùa mưa nước lớn dâng nhanh, dòng chảy mạnh. Mùa khô lượng nước rút nhanh, lưu lượng nước giảm đáng kể, có những nơi bị cạn kiệt ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp vì vậy ngoài việc khai thác các nguồn nước tự nhiên thì việc sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào ao hồ nhân tạo.
Các loại tài nguyên, thiên nhiên
Tài nguyên đất
Theo số liệu điều tra thổ nhưỡng huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông có 4 nhóm đất chính, gồm:
– Đất đỏ
– Đất nâu trên đá Bazan
– Đất dốc tụ
– Đất mùn Alits trên núi cao
Trong 4 nhóm đất trên thì nhóm đất đỏ chiếm phần lớn với 75.408 ha chiếm 93,32% tổng diện tích đất tự nhiên và là nhóm đất rất thuận lợi cho việc sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, trong đó cà phê và tiêu là hai loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho người dân nơi đây.
Tài nguyên nước
– Nước mặt
Với lưu lượng nước trung bình hàng năm trên dưới 2.000 mm cùng với mạng lưới sông suối dày đặc, độ che phủ rừng cao đã tạo cho huyện nguồn nước mặt dồi dào. Tuy nhiên do mưa theo mùa và phân bố không đồng đều đã dẫn đến tình trạng ngập úng cục bộ vào mùa mưa và nhiều vùng thiếu nước vào mùa khô.
– Nước ngầm
Có trữ lượng, chất lượng tốt, là khe nứt trong đá phun trào Bazan và nước lỗ hổng trong các đá trầm tích đệ tứ, nước có độ tổng khoáng hóa nhỏ và ít biến động theo mùa, loại hình hóa học của nước phổ biến là bicacsbonat-clorua. Nguồn nước ngầm hiện nay chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, một số ít phục vụ cho cây trồng vào mùa khô.
Tài nguyên rừng
Huyện Đắk Song có trên 26.167 ha đất rừng, chiếm trên 32,38% tổng diện tích đất tự nhiên, đây là nguồn lực phát triển quan trọng, đồng thời có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn nước.
Do việc phá rừng lấy đất sản xuất nông nghiệp trong những năm qua liên tục tăng, trong khi dó diện tích trồng mới là không đáng kể làm cho diện tích rừng và đất rừng bị tàn phá nghiêm trọng làm giảm mật độ chê phủ và khả năng bảo vệ đất nghiêm trọng, đe dọa môi trường sống của nhiều loài và làm giảm đa dạng sinh học của rừng.
Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn huyện Đắk Song tập trung một số các loại khoáng sản có trữ lượng tương đối lới như than bùn, đá xây dựng, cát,…
Tài nguyên khoáng sản
|
General introduction to Dak Song district
Dak Song has a volcanic plateau terrain, with a strong degree of fragmentation, forming bowl-shaped hills, with an average slope of 100-200, some places over 200, with an average height above sea level of 700m. – 800m, this is one of the areas with steep slopes and is divided into the following 3 main terrain types.
– Narrow valley terrain.
– Low to medium mountainous terrain.
– Strongly divided mountainous terrain.
Statistics of land area according to terrain
3-80
8-150
15-200
20-250
>250
Rivers, streams, ponds and lakes
total area
7,957
29,538
26,486
5,025
8.205
1,999
80,803.77
9.85
36.55
32.78
6.22
10,15
2.47
100
(Source: From Dak Song District Department of Natural Resources and Environment)
Climate
Influenced by the southwest monsoon and with common characteristics of the humid tropical highland climate, the climate has two distinct seasons: The rainy season from April to November, concentrating over 90% of the yearly rainfall; The dry season is from December to March of the following year, with insignificant rainfall.
Average annual rainfall
Duc An Town – Nam Binh Commune – Thuan Hanh Commune
Nam N'rang Commune - Truong Xuan Commune
Dak N'Drung Commune - Thuan Ha Commune
2000-2200mm
2200-2400mm
>2400mm
(Source from Dak Nong province hydrometeorological center)
Hydrological
The system of stream branches is distributed relatively evenly throughout the area. The water flow of streams is affected by the season. In the rainy season, the water rises quickly and the current is strong. In the dry season, water recedes quickly, water flow decreases significantly, and there are places where it is depleted, greatly affecting agricultural production, so in addition to exploiting natural water sources, agricultural production also depends on ponds. artificial lake.
Types of natural resources
Land resources
According to soil survey data in Dak Song district, Dak Nong province has 4 main soil groups, including:
– Red soil
– Brown soil on basalt rock
– Sloping land
– Alits loam soil in high mountains
Of the four land groups above, the red soil group accounts for the majority with 75,408 hectares, accounting for 93.32% of the total natural land area and is a very favorable land group for use in agricultural production purposes, including coffee and coffee. Pepper are two crops that bring quite high economic efficiency to the people here.
Water Resources
– Facial water
With an average annual water flow of around 2,000 mm along with a dense network of rivers and streams and high forest coverage, the district has created an abundant source of surface water. However, due to seasonal and uneven distribution of rain, it has led to local flooding in the rainy season and many areas lacking water in the dry season.
- Groundwater
Has good reserves and quality, is fissures in Basalt extrusive rocks and porous water in quaternary sedimentary rocks, water has small total mineralization and little seasonal fluctuation, common water chemistry type is bicarbonate-chloride. Current underground water sources mainly serve domestic needs, with a few serving crops in the dry season.
Forest resources
Dak Song district has over 26,167 hectares of forest land, accounting for over 32.38% of the total natural land area. This is an important development resource and has a great effect in protecting the ecological environment and water resources. .
Because deforestation for agricultural land has continuously increased in recent years, while the new planting area is insignificant, the forest area and forest land have been seriously destroyed, reducing the density of forest cover and the ability to serious soil protection, threatening the habitat of many species and reducing forest biodiversity.
Natural resources
In Dak Song district, there are a number of minerals with relatively large reserves such as peat, construction stone, sand, etc.
Natural resources
|
Giới thiệu khái quát thị xã Gia Nghĩa
1. Vị trí địa lý
Thị xã Gia Nghĩa được thành lập theo Nghị định 82/2005/NĐ-CP, ngày 27/6/2005 của Chính phủ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Gia Nghĩa, xã Quảng Thành và xã Đắk Nia thuộc huyện Đắk Nông, tỉnh Đắk Lắk. Thị xã Gia Nghĩa nằm ở phía nam của tỉnh Đăk Nông, trên giao điểm quốc lộ 14 và 28. Theo hướng quốc lộ 14 thị xã Gia Nghĩa cách Tp. Hồ Chí Minh 253 km, tỉnh Bình Dương 200 km, tỉnh Bình Phước 110 km về phía nam; cách Tp. Buôn Ma Thuột 120 km về phía bắc; theo hướng quốc lộ 28 cách Tp. Đà Lạt 160 km về phía đông, cách Tp. Phan Thiết 170 km về phía đông nam; cách biên giới Campuchia 40 km về phía tây. Là trung tâm chính trị, kinh tế – xã hội của tỉnh Đắk Nông.
Một góc Gia Nghĩa
2. Điều kiện tự nhiên, khí hậu
Thị xã có 08 đơn vị hành chính cấp xã (05 phường, 03 xã) và 61 thôn, bon, tổ dân phố, có diện tích tự nhiên 28.384 ha (dự kiến đến năm 2020 mở rộng khoảng hơn 75.458 ha), có độ cao trung bình từ 580-620m so với mực nước biển. Ngoài ra, ngay trong địa bàn thị xã Gia Nghĩa còn có hệ thống suối và ao hồ được phân bố khá đều; suối hồ ở đây không chí là nơi cung cấp nước phục vụ đời sống, sản xuất mà còn tạo nên những ngọn thác nước đẹp như thác Liêng Nung, Ba tầng, Hồ Trung tâm, Thủy điện Đắk R’Tih, … có tiềm năng du lịch và thuỷ điện khá lớn.
Khí hậu mang đặc điểm của khí hậu khu vực cao nguyên nhiệt đới gió mùa trong vùng cao nguyên Đăk Nông, Lâm Viên, Bảo Lộc, quanh năm thời tiết mát mẻ, ôn hoà hơn so với nhiều vùng khác trên Tây Nguyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,40C, nhưng về các tháng 1,2,3 thường mát mẽ hơn. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.496,9 mm; độ ẩm trung bình 85%, số giờ nắng trung bình 2.283,8 giờ. Do ảnh hưởng của gió mùa, thị xã Gia Nghĩa có hai mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Con người Gia Nghĩa
3. Dân số – tôn giáo
Tổng dân số thị xã khoảng 60.000 người (Dân tộc kinh chiếm 87,07%, dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm 3,84%; dân tộc khác chiếm 9,09%); 21 dân tộc anh em sinh sống, trong đó người M’Nông, Mạ đã định cư ở đây từ lâu đời, các tộc người còn lại di cư đến từ nơi khác, chủ yếu là từ các tỉnh phía Bắc.
Thị xã có 03 tôn giáo chính (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành) với tổng số 11.730 tín đồ, có 10 cơ sở thờ tự và 07 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung.
4. Một số dự án trọng điểm của tỉnh và thị xã
Dự án nhà máy Alumin Nhân Cơ đã hoàn thiện đang tiến hành chạy thử liên động không tải, dự kiến chạy thử và chuyển sang sản xuất thử vào thời điểm đầu quý IV/2016; Dự án nhà máy điện phân nhôm Đắk Nông với tổng vốn đầu tư 15,5 ngàn tỷ đồng, dự kiến năm 2018 đi vào hoạt động; Dự án đường tránh Đô thị Gia Nghĩa, tổng mức đầu tư 244 tỷ đồng, hiện nay đã hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, chủ đầu tư đang tiến hành thi công.
|
General introduction of Gia Nghia town
1. Geographical location
Gia Nghia town was established under Decree 82/2005/ND-CP, dated June 27, 2005 of the Government on the basis of the entire natural area and population of Gia Nghia town, Quang Thanh commune and Quang Thanh commune. Dak Nia belongs to Dak Nong district, Dak Lak province. Gia Nghia town is located in the south of Dak Nong province, on the intersection of national highways 14 and 28. Following the direction of national highway 14, Gia Nghia town is far from the city. Ho Chi Minh 253 km, Binh Duong province 200 km, Binh Phuoc province 110 km to the south; distance from City. Buon Ma Thuot 120 km to the north; in the direction of Highway 28, away from the city. Da Lat is 160 km east, far from the city. Phan Thiet 170 km to the southeast; 40 km west of the Cambodian border. It is the political, economic and social center of Dak Nong province.
A corner of Gia Nghia
2. Natural conditions and climate
The town has 08 commune-level administrative units (05 wards, 03 communes) and 61 villages, hamlets, and residential groups, with a natural area of 28,384 hectares (expected to expand to more than 75,458 hectares by 2020), with a natural area of 28,384 hectares. Average height is 580-620m above sea level. In addition, right in Gia Nghia town there is a system of streams and ponds that are distributed quite evenly; The streams and lakes here are not only a place to provide water for life and production, but also create beautiful waterfalls such as Lieng Nung waterfall, Three floors, Central Lake, Dak R'Tih Hydropower, ... with potential. tourism and hydroelectricity are quite large.
The climate is characterized by the climate of the tropical monsoon highlands in the highlands of Dak Nong, Lam Vien, and Bao Loc. All year round the weather is cooler and milder than many other regions in the Central Highlands. The average annual temperature is 22.40C, but the months of January, February, and March are often cooler. The average annual rainfall is 2,496.9 mm; Average humidity is 85%, average sunshine hours are 2,283.8 hours. Due to the influence of the monsoon, Gia Nghia town has two distinct seasons, the rainy season starts from April to October, the dry season from November to April of the following year.
People of Gia Nghia
3. Population – religion
The total population of the town is about 60,000 people (Kinh ethnic group accounts for 87.07%, local ethnic minorities account for 3.84%, other ethnic groups account for 9.09%); 21 ethnic groups live, of which the M'Nong and Ma people have settled here for a long time, the remaining ethnic groups migrated from other places, mainly from the Northern provinces.
The town has 03 main religions (Buddhism, Catholicism, Protestantism) with a total of 11,730 believers, 10 worship facilities and 07 centralized religious meeting points.
4. Some key projects of the province and town
Nhan Co Aluminum Factory project has been completed and is conducting an interlock test run without load, expected to test run and switch to trial production at the beginning of the fourth quarter of 2016; Dak Nong aluminum electrolysis plant project with total investment capital of 15.5 trillion VND, expected to come into operation in 2018; Gia Nghia Urban Bypass Project, total investment of 244 billion VND, has currently completed site clearance work, the investor is carrying out construction.
|
Đăk R’Lấp là huyện miền núi, biên giới, thuộc tỉnh Đắk Nông, có diện tích tự nhiên 1.758,14 km2, dân số hơn 86 nghìn người, có 24 dân tộc, được phân bố trên 12 xã và 1 thị trấn, trong đó có khoảng 30% là đồng bào dân tộc thiểu số. Huyện Đăk R’Lấp có Quốc lộ 14, với 2 tuyến 14A và 14C chạy dọc theo chiều dài Huyện, nối liền khu vực Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, có trục giao thông tỉnh lộ chạy dọc tuyến biên giới qua cửa khẩu Bu Prăng sang Campuchia. Là mảnh đất địa đầu Tây Nguyên, có lợi thế về địa lý tự nhiên, với 42 km đường biên giới giáp tỉnh Muldulkiri của Vương quốc Campuchia, nên huyện Đăk R’Lấp có vị trí chiến lược quan trọng về phát triển kinh tế và quốc phòng-an ninh của tỉnh Đắk Nông trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Huyện Đắk R’Lấp đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng NTM
Đắk R’lấp tái canh cây cà phê đạt hiệu quả
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tái cơ cấu ngành nông nghiệp đối với phát triển kinh tế của địa phương, thời gian qua huyện Đắk R’Lấp đã tập trung chỉ đạo và phát triển ngành nông nghiệp nông thôn các xã, tổ chức lại sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp để nâng cao thu nhập cho người dân. Theo đó, thực hiện chỉ đạo của UBND huyện, phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện phân công cán bộ chuyên môn theo dõi tình hình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi. Phối hợp với cơ quan chuyên môn tổ chức tập huấn cho người dân về kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi, những giống cây trồng mới có tiềm năng, năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện địa phương được đưa vào sản xuất bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Qua đó giúp người dân trên địa bàn đã xây dựng được những mô hình nông nghiệp xen canh cà phê, tiêu và cây ăn quả mang lại thu nhập cao.
Cùng với việc tập trung nâng cao năng suất thì các mô hình liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân và doanh nghiệp đã hình thành phát triển theo chuỗi giá trị để nâng cao chất lượng sản phẩm. Huyện đã vận động người dân ứng dụng khoa học công nghệ để sản xuất ra những nông sản sạch. Chú trọng khâu thu hoạch, sản xuất và chế biến các loại nông sản nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đặc biết nhiều hợp tác xã đã chuyển hướng sang sản xuất hữu cơ. Đây là bước đi quan trọng giúp dần tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, mang lại sản phẩm kinh tế cao khi mang lại sản phẩm tốt ra thị trường và có sự bền vững, ổn định.
Xác định nâng cao thu nhập cho người dân là nhiệm vụ trọng tâm, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, huyện Đắk R’Lấp đã tập trung phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh, ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi liên kết. Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay trên địa bàn huyện có 19 hợp tác xã và 11 tổ hợp tác nông nghiệp. Về kinh tế trang trại địa phương phát triển được 98 trang trại đạt tiêu chí theo Thông tư 27 của Bộ NN&PTNT. Trong trong đó có 56 trang trại trồng trọt, 17 trang trại chăn nuôi và 25 trang trại tổng hợp. Qua đánh giá, các trang trại đã và đang khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế về đất đai, nguồn nước để sản xuất nông – lâm – nghiệp với nguồn thu nhập bình quân hàng năm đạt trên 1,3 tỷ đồng, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho khoảng gần 500 lao động ở địa phương. Trong đó có nhiều trang trại đã áp dụng hiệu quả tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, đầu tư sản xuất theo chiều sâu đạt tiêu chuẩn VietGap, kết hợp nông nghiệp với du lịch đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Theo UBND huyện Đăk R’Lấp, để có kết quả cao trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, từ những năm 2011 địa phương đã ban hành Nghị quyết chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, từng bước giảm diện tích cây ngắn ngày hiệu quả thấp tăng diện tích trồng cây công nghiệp. Ngoài ra UBND huyện xây dựng đề án phát triển ngành nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGap và có sự liên kết trong sản xuất tạo tính bền vững. Toàn huyện hiện có khoảng 19.000 ha cây cà phê; 4,6 nghìn ha tiêu là những cây trồng chủ lực. Trong đó, hơn 100ha tiêu được người dân trên địa bàn tham gia chương trình liên kết và mô hình sản xuất tiêu sạch và hơn 5.000 ha cà phê tham gia liên kết với các doanh nghiệp sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này đã mang lại hiệu quả kinh tế cao khi chi phí đầu vào thấp hơn, năng suất cây trồng đạt cao, ổn định và đặc biệt là ít ảnh hưởng đến sức khỏe của những người lao động trực tiếp.
Cùng với các giải pháp về sản xuất, địa phương đã triển khai rộng rãi các chính sách kinh tế ứng dụng trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư xây dựng phục vụ nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hóa của nhân dân. Toàn huyện hiện có 40 công trình thủy lợi trong đó có 31 hồ chứa và 09 đập dâng đáp ứng nhu cầu nước tưới cho 5.450 ha diện tích cây trồng các loại.
Nhờ thực hiện tốt các giải pháp đề ra, ngành nông nghiệp huyện Đắk R’Lấp đã có những chuyển biến tích cực. Kinh tế nông nghiệp hàng năm đã có sự tăng trưởng, chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Giá trị sản xuất bình quân đầu người đạt hơn 45 triệu đồng/người/năm.
Trong thời gian tới, xác định tái cơ cấu ngành nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài và gắn kết chặt chẽ với chương trình xây dựng NTM, địa phương sẽ tiếp tục chú trọng phát triển các mô hình theo hướng tập thể, liên kết chuỗi giá trị cây trồng. Đồng thời, đẩy mạng việc áp dụng khoa học công nghệ nhất là đưa các giống mới có năng suất cao thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Cùng với việc đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho người dân, huyện Đắk R’Lấp phấn đấu đến năm 2020 đạt chuẩn huyện NTM đầu tiên của tỉnh Đắk Nông.
|
Dak R'Lap is a mountainous, border district, in Dak Nong province, with a natural area of 1,758.14 km2, a population of more than 86 thousand people, with 24 ethnic groups, distributed over 12 communes and 1 town, Of which about 30% are ethnic minorities. Dak R'Lap District has National Highway 14, with 2 routes 14A and 14C running along the length of the District, connecting the Central Highlands region with the Southeast region, with a provincial road axis running along the border through Bu border gate. Prang went to Cambodia. As the top land of the Central Highlands, with natural geographical advantages, with a 42 km border bordering Muldulkiri province of the Kingdom of Cambodia, Dak R'Lap district has an important strategic position in terms of economic and social development. defense and security of Dak Nong province in the cause of building and protecting the Fatherland in the new era.
Dak R'Lap district promotes agricultural restructuring and new rural construction
Dak R'lap replanted coffee trees effectively
Recognizing the importance of restructuring the agricultural sector for local economic development, Dak R'Lap district has recently focused on directing and developing the rural agricultural sector in communes, reorganizing production and application of scientific and technical advances in agriculture to increase people's income. Accordingly, following the direction of the District People's Committee, the District Department of Agriculture and Rural Development assigned professional staff to monitor the growth and development of plants and animals. Coordinate with specialized agencies to organize training for people on farming and animal husbandry techniques; new crop varieties with potential, high yield, and good quality suitable for local conditions are put into production. initially brings high economic efficiency. Thereby helping people in the area build agricultural models intercropping coffee, pepper and fruit trees that bring high income.
Along with focusing on improving productivity, models of production, processing, and product consumption between farmers and businesses have been formed and developed along the value chain to improve product quality. The district has mobilized people to apply science and technology to produce clean agricultural products. Focus on harvesting, producing and processing agricultural products to bring high economic efficiency. In particular, many cooperatives have turned to organic production. This is an important step to help gradually remove difficulties in production, bring high economic products to the market and have sustainability and stability.
Determining that increasing people's income is a key task, contributing to the implementation of the national target program to build new rural areas, Dak R'Lap district has focused on developing specialized agricultural production areas, applying High technology in chain link. According to statistics from the Department of Agriculture and Rural Development, currently in the district there are 19 cooperatives and 11 agricultural cooperative groups. Regarding the local farm economy, 98 farms have been developed that meet the criteria according to Circular 27 of the Ministry of Agriculture and Rural Development. Among them, there are 56 crop farms, 17 livestock farms and 25 general farms. Through assessment, the farms have been exploiting the potential and advantages of land and water resources well for agricultural - forestry - forestry production with an average annual income of over 1.3 billion VND, contributing creating jobs for nearly 500 local workers. Many of these farms have effectively applied advanced technical advances, invested in in-depth production to meet VietGap standards, and combined agriculture with tourism, bringing high economic efficiency.
According to Dak R'Lap District People's Committee, in order to have high results in crop restructuring, since 2011, the locality has issued a Resolution to transform the crop and livestock structure, gradually reducing the effective area of short-term crops. Low productivity increases the area planted with industrial crops. In addition, the District People's Committee develops a project to develop the agricultural sector according to VietGap standards and has linkages in production to create sustainability. The entire district currently has about 19,000 hectares of coffee trees; 4.6 thousand hectares of pepper are the main crops. Of which, more than 100 hectares of pepper have people in the area participating in the linkage program and clean pepper production model and more than 5,000 hectares of coffee are participating in linkages with coffee production enterprises according to international standards. This has brought high economic efficiency when input costs are lower, crop productivity is high and stable, and especially has little impact on the health of direct workers.
Along with production solutions, the locality has widely deployed economic policies applied in agricultural and rural development to create conditions for farmers to access capital sources to develop production, especially in rural areas. remote areas, ethnic minority areas. Rural infrastructure is invested and built to serve the people's needs for production and circulation of goods. The entire district currently has 40 irrigation works, including 31 reservoirs and 09 dams, meeting the water needs of 5,450 hectares of all kinds of crops.
Thanks to good implementation of proposed solutions, the agricultural sector of Dak R'Lap district has had positive changes. Every year, the agricultural economy has grown and shifted in the right direction, increasing the proportion of livestock and reducing the proportion of cultivation. The average production value per capita reached more than 45 million VND/person/year.
In the coming time, restructuring the agricultural sector is determined to be an important, long-term task and closely linked to the new rural development program. The locality will continue to focus on developing collective-oriented models. linking the crop value chain. At the same time, promote the application of science and technology, especially introducing new high-yield varieties to adapt to climate change conditions to increase productivity, quality, and high economic efficiency for farmers. Along with promoting restructuring of the agricultural sector and increasing people's income, Dak R'Lap district strives to reach the standards of the first NTM district of Dak Nong province by 2020.
|
Giới thiệu khái quát huyện Mường Nhé
Mường Nhé là một huyện miền núi, nằm trên ngã ba biên giới giữa Việt Nam với hai nước láng giềng là
Trung Quốc
và Lào. Phía Tây Bắc giáp tỉnh
Vân Nam
Trung Quốc
. Phía Tây và Tây Nam giáp Lào. Phía Nam giáp huyện Mường Chà tỉnh Điện Biên. Phía Đông và Đông Bắcgiáp huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu. Điểm cực Tây của Việt Nam là A Pa Chải-Tá Miếu, chính là ngã ba biên giới, nằm tại xã Sín Thầu, có tọa độ địa lý kinh độ 102°8′ Đông, vĩ độ 22°44′ Bắc. Diện tích tự nhiên ở đây chủ yếu là rừng chiếm 55%
Mường Nhé được thành lập theo Nghị định 08/2002/NĐ-CP ngày 14 tháng 1 năm 2002 trên cơ sở điều chỉnh địa giới hai huyện Mường Tè và Mường Lay (cũ) của tỉnh Lai Châu cũ. Khi mới thành lập, huyện Mường Nhé có 6 xã: Chà Cang, Chung Chải, Mường Nhé, Mường Toong, Nà Hỳ, Sín Thầu.
Ngày 26 tháng 12 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết trong đó chia tỉnh Lai Châu thành tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên; huyện Mường Nhé thuộc tỉnh Điện Biên.
Ngày 21 tháng 3 năm 2006, thành lập 5 xã: Nà Khoa, Nà Bủng, Pa Tần, Quảng Lâm, Nậm Kè.
Ngày 16 tháng 9 năm 2009, thành lập 5 xã: Nậm Vì, Na Cô Sa, Pá Mỳ, Sen Thượng, Leng Su Sìn.
Ngày 25 tháng 8 năm 2012, thành lập 5 xã: Nậm Tin, Nậm Nhừ, Nậm Chua, Vàng Đán, Huổi Lếch. Cùng năm này, 10 xã: Pa Tần, Chà Cang, Nà Khoa, Nà Bủng, Nà Hỳ, Na Cô Sa, Nậm Tin, Nậm Nhừ, Nậm Chua, Vàng Đán chuyển sang trực thuộc huyện Nậm Pồ.
Huyện Mường Nhé có diện tích 156.908,13 ha và 36.889 người, bao gồm 11 dân tộc sinh sống, có một cửa khẩu quốc tế A Pa Chải với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. ; có 11 xã trực thuộc là các xã: Chung Chải, Huổi Lếch, Leng Su Sìn, Mường Nhé (huyện lị), Mường Toong, Nậm Kè, Nậm Vì, Pá Mỳ, Quảng Lâm, Sen Thượng, Sín Thầu.
|
General introduction of Muong Nhe district
Muong Nhe is a mountainous district, located on the border junction between Vietnam and two neighboring countries
China
and Laos. The Northwest borders the province
Yunnan
China
. The West and Southwest border Laos. The South borders Muong Cha district, Dien Bien province. The East and Northeast border Muong Te district, Lai Chau province. The westernmost point of Vietnam is A Pa Chai-Ta Mieu, which is the border junction, located in Sin Thau commune, with geographical coordinates longitude 102°8′ East, latitude 22°44′ North. The natural area here is mainly forests, accounting for 55%.
Muong Nhe was established under Decree 08/2002/ND-CP dated January 14, 2002 on the basis of adjusting the boundaries of two districts Muong Te and Muong Lay (old) of the old Lai Chau province. When first established, Muong Nhe district had 6 communes: Cha Cang, Chung Chai, Muong Nhe, Muong Toong, Na Hy, Sin Thau.
On December 26, 2003, the National Assembly issued a Resolution dividing Lai Chau province into Lai Chau province (new) and Dien Bien province; Muong Nhe district belongs to Dien Bien province.
On March 21, 2006, 5 communes were established: Na Khoa, Na Bung, Pa Tan, Quang Lam, Nam Ke.
On September 16, 2009, 5 communes were established: Nam Vi, Na Co Sa, Pa My, Sen Thuong, Leng Su Sin.
On August 25, 2012, 5 communes were established: Nam Tin, Nam Nhu, Nam Chua, Vang Dan, Huoi Let. In the same year, 10 communes: Pa Tan, Cha Cang, Na Khoa, Na Bung, Na Hy, Na Co Sa, Nam Tin, Nam Nhu, Nam Chua, Vang Dan moved to belong to Nam Po district.
Muong Nhe district has an area of 156,908.13 hectares and 36,889 people, including 11 ethnic groups, and has an international border gate A Pa Chai with the People's Republic of China. ; There are 11 affiliated communes: Chung Chai, Huoi Lech, Leng Su Sin, Muong Nhe (district capital), Muong Toong, Nam Ke, Nam Vi, Pa My, Quang Lam, Sen Thuong, Sin Thau.
|
Giới thiệu khái quát huyện Điện Biên Đông
Huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên là 1 huyện vùng cao miền núi được tách ra từ 10 xã vùng cao của huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu cũ (Nay là tỉnh Điện Biên) theo Nghị định số 59/1995/NĐ-CP ngày 07/10/1995 của Chính phủ. Tổng diện tích tự nhiên là 120.897,85 ha; hiện nay có 14 xã, thị trấn với 243 bản và tổ dân cư với 11.773 hộ với 60.511 nhân khẩu, gồm 6 dân tộc anh em: Mông, Thái, Lào, Khơ Mú, Sinh Mun và Kinh.
Huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Điện Biên, phía Tây và phía Nam giáp huyện Điện Biên, phía Bắc giáp huyện Mường Ảng, phía Đông giáp huyện Sông Mã – tỉnh Sơn La.
Điện Biên Đông thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, do nằm khuất xa bên sườn Tây dãy Hoàng Liên Sơn, chế độ khí hậu ở đây có một số đặc điểm khác biệt rõ rệt so với vùng Đông Bắc và đồng bằng: mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10, mưa nhiều; mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 và tương đối ấm, tình trạng khô hanh điển hình cho khí hậu gió mùa.
Là một phần của vùng đất Điện Biên, huyện Điện Biên Đông có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, mang đặc trưng của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc khu vực miền Tây Bắc Tổ quốc. Nhân dân các dân tộc Điện Biên Đông có lòng yêu nước nồng nàn, bản chất cần cù, sáng tạo, trong lịch sử luôn có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung và đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu.
Phát huy những truyền thống tốt đẹp đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân Điện Biên Đông được vinh dự đón nhận Huân chương kháng chiến Hạng Ba.
|
General introduction to Dien Bien Dong district
Dien Bien Dong district, Dien Bien province is a mountainous district separated from 10 highland communes of Dien Bien district, former Lai Chau province (now Dien Bien province) according to Decree Không. 59/1995/ND-CP dated October 7, 1995 of the Government. The total natural area is 120,897.85 hectares; Currently, there are 14 communes and towns with 243 villages and residential groups with 11,773 households and 60,511 people, including 6 ethnic groups: Mong, Thai, Lao, Kho Mu, Sinh Mun and Kinh.
The district is located in the Southeast of Dien Bien province, the West and South border Dien Bien district, the North borders Muong Ang district, the East borders Song Ma district - Son La province.
Dien Bien Dong belongs to the tropical monsoon climate zone. Because it is located far away on the western side of the Hoang Lien Son range, the climate regime here has some clearly different characteristics compared to the Northeast and the Delta: summer From April to October, there is a lot of rain; Winter is from November to March and is relatively warm, dry conditions typical of monsoon climates.
As a part of Dien Bien land, Dien Bien Dong district has a long historical and cultural tradition, characterized by a culture rich in national identity in the Northwest region of the country. The people of Dien Bien Dong ethnic groups have a passionate patriotism, industrious and creative nature, and throughout history have always made important contributions to the cause of the struggle for national liberation in general and especially the resistance. The war against French colonialism culminated in the victory of the famous Dien Bien Phu campaign in five continents that shook the world.
Promoting those good traditions, the Party Committee, government and people of Dien Bien Dong were honored to receive the Third Class Resistance Medal.
|
Giới thiệu khái quát huyện Xuân Lộc
Vị trí địa lý, đặc điểm về khí hậu, thời tiết;
a) Vị trí địa lý:
– Huyện Xuân Lộc nằm ở phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai, huyện được thành lập vào ngày 01/07/1991. Đến đầu năm 2004, thực hiện Nghị định 97/2003/NĐ-CP ngày 21/8/2003 của Chính phủ “V/v tái lập Thị xã Long Khánh và thành lập 2 huyện mới Cẩm Mỹ và Trảng Bom”, huyện Xuân Lộc tiếp tục được điều chỉnh ranh giới hành chính, huyện đã bàn giao 6 xã về huyện Cẩm Mỹ. Hiện nay diện tích tự nhiên toàn huyện là 727,19 km
2
, là huyện đứng thứ tư trong toàn tỉnh về diện tích tự nhiên và chiếm 12,34% diện tích tự nhiên của tỉnh Đồng Nai.
b) Địa giới hành chính:
+ Phía Bắc giáp Huyện Định Quán.
+ Phía Nam giáp huyện Cẩm Mỹ và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
+ Phía Đông giáp với Tỉnh Bình Thuận.
+ Phía Tây giáp với Thị xã Long Khánh.
– Huyện Xuân Lộc gồm 15 đơn vị hành chính, trong đó có một thị trấn Gia Ray và 14 xã với tổng số 91 khu, ấp. Là một địa danh nổi tiếng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, Xuân Lộc có thuận lợi là cửa ngõ của miền Đông Nam bộ và thành phố Hồ Chí Minh nằm dọc trên quốc lộ 1A, dài 47 km; có đường sắt Bắc – Nam đi qua dài 33 km với 3 ga nhỏ; 3 đường Tỉnh lộ 763, 765, 766. Trung tâm huyện đóng tại ngã ba Ông Đồn là đầu mối của các tuyến giao thông quan trọng trong khu vực, tạo cho Xuân Lộc có ưu thế và phát triển kinh tế hướng ngoại với các thế mạnh về nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai và mở rộng mối giao lưu giữa Đồng Nai với các tỉnh duyên Hải Nam Trung bộ và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
c) Địa hình:
Địa hình của Xuân Lộc có hai dạng địa hình chính là: núi, đồi thoải lượn sóng.
– Địa hình núi:
Phân bố rải rác thành các ngọn núi độc lập có độ dốc lớn, chiếm khoảng 6 -7% tổng diện tích toàn huyện, trong đó lớn nhất là núi Chứa Chan với độ cao 844 m, đây là điểm du lịch tiềm năng của huyện, đặc biệt là sau khi được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngoài ra, còn có các ngọn núi nhỏ khác như: núi SaBi, núi Bà Sót, Núi Hòa Hưng,….
– Địa hình đồi thoải lượn sóng:
Là dạng địa hình chính, hiện chiếm khoảng 85% tổng diện tích toàn huyện. Độ dốc phổ biến từ 3 đến 8
0
. Khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với các loại cây hàng năm và lâu năm nổi tiếng của huyện như: cây bắp lai; sầu riêng, chôm chôm, xoài,…
d) Khí hậu thời tiết:
– Huyện Xuân Lộc nằm trong vùng ký hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với những đặc trưng như sau:
+ Năng lượng bức xạ dồi dào với chế độ nhiệt cao và ổn định, trung bình 154 – 158 Kcal/cm
2
-năm. Nắng nhiều (trung bình từ 5,7 – 6 giờ/ngày), nhiệt độ cao và cao đều trong năm (trung bình 25,4
0
C); tổng tích ôn lớn trung bình 9.271
0
C/năm. Xuân Lộc hầu như không bị ảnh hưởng của thiên tai như: bão, lụt, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội.
+ Nhiệt độ: thay đổi theo mùa và theo vùng, ẩm độ tương đối 72 – 80%, cao nhất 83 – 87% và thấp nhất 55 – 62%.
+ Chế độ mưa: Xuân Lộc là nơi có chế độ mưa tương đối cao so với các huyện khác trong tỉnh. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào khoảng cuối tháng 11. Hạn chế rõ nét nhất trong chế độ mưa ở đây là thường có những đợt hạn ngắn vào đầu vụ Hè Thu. Lượng mưa nhiều nhất trong năm vào khoảng tháng 7 đến tháng 9, kết hợp với độ ẩm không khí cao. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.956 mm, cao nhất 2.139 mm và thấp nhất 1.150 mm. Số ngày mưa trung bình trong năm 98 ngày. Lượng mưa lớn nhất trong ngày 138 mm.
+ Chế độ nắng: thông thường từ tháng 11 năm này đến tháng 5 năm sau, thời gian nắng trung bình một ngày 5,7 – 7,4 giờ. Số giờ nắng cao nhất trong ngày 13,8 giờ và thấp nhất 0,5 giờ. Cường độ chiếu sáng cao nhất 100.000Lux. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4.
+ Chế độ gió: hướng gió chủ đạo hướng đông nam (tháng 2, tháng 5) tốc độ gió trung bình 3 – 3,5 m/s, tốc độ lớn nhất 10,9m/s. hướng bắc – đông bắc (tháng 12, tháng 1) tốc độ gió trung bình 3,4 – 4,7m/s, lớn nhất 6m/s.
Nhìn chung, khí hậu thời tiết của Huyện có nhiều thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, ít có thiên tai như: bão lụt, sương muối…
Đất đai và cơ cấu sử dụng:
Theo số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất đến ngày 01/01/2010 của Phòng Tài nguyên và Môi trường, huyện Xuân Lộc có diện tích đất tự nhiên là 72.719,48 ha, với 57.411,85 ha đất nông nghiệp chiếm 78,95%, trong đó: đất trồng cây hàng năm 12.628,43 ha, chiếm 22,0% đất nông nghiệp. Trong đất trồng cây hàng năm 48,5% diện tích là đất trồng màu – cây công nghiệp ngắn ngày phân bố chủ yếu trên các loại đất nâu thẩm trên Bazan và xám vàng granit có độ dốc nhỏ, tầng dày trung bình. Đất lúa chiếm 51,5% diện tích đất cây hàng năm trong đó có khoảng 70% là đất lúa 1 vụ.
Đất cây lâu năm: 34.852 ha chiếm 60,71% diện tích đất nông nghiệp, trong đó: 55,97% là đất trồng cây công nghiệp lâu năm; 14,64% là đất trồng cây ăn quả, còn lại là đất cây lâu năm khác chiếm khoảng 29,38% đất cây lâu năm.
Nguồn nước:
– Xuân Lộc có mật độ sông suối tương đối dày, nhưng phần lớn đều ngắn và dốc nên khả năng giữ nước kém, nghèo kiệt vào mùa khô. Việc xây dựng các hồ chứa kết hợp với chuyển tải nước từ ngoài vùng vào là rất cần thiết cho phát triển kinh tế, xã hội mà đặc biệt là cho phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp của huyện, với hệ thống sông suối chính như:
+ Sông La Ngà: bắt nguồn từ vùng núi cao thuộc hai tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng. Diện tích lưu vực: 4.100 km
2
, mô-đun dòng chảy khá (38,41/s/km
2
), lưu lượng trung bình: 113 m
3
/s, lưu lượng kiệt: 3,5 – 4 m
3
/s. Chiều dài sông chính khoảng 290km, đoạn chảy qua Huyện Xuân Lộc dài 18 km, với diện tích lưu vực khoảng 262km
2
. Các suối nhánh của sông La Ngà trên địa phận huyện Xuân Lộc gồm có: suối Gia Huynh, Suối Cao, Suối Rết, Suối Gia Ray. Các suối có nước quanh năm là Gia Huynh, Suối Rết.
+ Sông Ray: bắt nguồn từ khu vực phía Nam và Tây Nam núi Chứa Chan, diện tích lưu vực trong phạm vi Huyện 458,92km
2
, với các nhánh sông chính như: Suối Mon Coum, Suối Cát, Suối Sáp,…. Chiều dài sông chính 60km, đoạn chảy qua huyện Xuân Lộc dài 15-20km.
+ Các nhánh sông suối thuộc hệ thống sông Dinh: bắt nguồn từ khu vực phía đông nam núi Chứa Chan, diện tích lưu vực 227km
2
bao gồm các suối Gia Ui, Suối Da, Công Hoi, suối DaKriê, do lưu vực hẹp, thảm phủ kém, mùa khô kéo dài nên các suối này thường bị kiệt vào cuối mùa khô.
Huyện Xuân Lộc nằm trong khu vực nghèo mạch nước ngầm. Trên đất đỏ vàng nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 25 – 30m, các khu vực khác nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 80 – 102m, lưu lượng trung bình từ 0,5 đến 1,2l/s, chất lượng tốt. Hiện nay nước ngầm đang được khai thác cho sinh hoạt và tưới cho cây trồng.
Tài nguyên rừng:
Theo số liệu kiểm kê đất trong năm 2010 của phòng Tài nguyên – Môi trường, toàn huyện có khoảng 9.383 ha rừng, bao gồm:
– Rừng sản xuất: 4.389 ha, toàn bộ là rừng trồng sản xuất có trữ lượng gỗ thấp.
– Rừng phòng hộ: 4.994 ha, phân bố ở khu vực núi Chứa Chan và các xã Xuân Thành, Xuân Trường, Xuân Hòa, Xuân Hưng và Xuân Tâm.
Thông tin về các xã, thị trấn
|
Giới thiệu khái quát huyện Xuân Lộc
Vị trí địa lý, đặc điểm về khí hậu, thời tiết;
a) Vị trí địa lý:
– Huyện Xuân Lộc nằm ở phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai, huyện được thành lập vào ngày 01/07/1991. Đến đầu năm 2004, thực hiện Nghị định 97/2003/NĐ-CP ngày 21/8/2003 của Chính phủ “V/v tái lập Thị xã Long Khánh và thành lập 2 huyện mới Cẩm Mỹ và Trảng Bom”, huyện Xuân Lộc tiếp tục được điều chỉnh ranh giới hành chính, huyện đã bàn giao 6 xã về huyện Cẩm Mỹ. Hiện nay diện tích tự nhiên toàn huyện là 727,19 km
2
, là huyện đứng thứ tư trong toàn tỉnh về diện tích tự nhiên và chiếm 12,34% diện tích tự nhiên của tỉnh Đồng Nai.
b) Địa giới hành chính:
+ Phía Bắc giáp Huyện Định Quán.
+ Phía Nam giáp huyện Cẩm Mỹ và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
+ Phía Đông giáp với Tỉnh Bình Thuận.
+ Phía Tây giáp với Thị xã Long Khánh.
– Huyện Xuân Lộc gồm 15 đơn vị hành chính, trong đó có một thị trấn Gia Ray và 14 xã với tổng số 91 khu, ấp. Là một địa danh nổi tiếng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, Xuân Lộc có thuận lợi là cửa ngõ của miền Đông Nam bộ và thành phố Hồ Chí Minh nằm dọc trên quốc lộ 1A, dài 47 km; có đường sắt Bắc – Nam đi qua dài 33 km với 3 ga nhỏ; 3 đường Tỉnh lộ 763, 765, 766. Trung tâm huyện đóng tại ngã ba Ông Đồn là đầu mối của các tuyến giao thông quan trọng trong khu vực, tạo cho Xuân Lộc có ưu thế và phát triển kinh tế hướng ngoại với các thế mạnh về nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai và mở rộng mối giao lưu giữa Đồng Nai với các tỉnh duyên Hải Nam Trung bộ và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
c) Địa hình:
Địa hình của Xuân Lộc có hai dạng địa hình chính là: núi, đồi thoải lượn sóng.
– Địa hình núi:
Phân bố rải rác thành các ngọn núi độc lập có độ dốc lớn, chiếm khoảng 6 -7% tổng diện tích toàn huyện, trong đó lớn nhất là núi Chứa Chan với độ cao 844 m, đây là điểm du lịch tiềm năng của huyện, đặc biệt là sau khi được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngoài ra, còn có các ngọn núi nhỏ khác như: núi SaBi, núi Bà Sót, Núi Hòa Hưng,….
– Địa hình đồi thoải lượn sóng:
Là dạng địa hình chính, hiện chiếm khoảng 85% tổng diện tích toàn huyện. Độ dốc phổ biến từ 3 đến 8
0
. Khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với các loại cây hàng năm và lâu năm nổi tiếng của huyện như: cây bắp lai; sầu riêng, chôm chôm, xoài,…
d) Khí hậu thời tiết:
– Huyện Xuân Lộc nằm trong vùng ký hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với những đặc trưng như sau:
+ Năng lượng bức xạ dồi dào với chế độ nhiệt cao và ổn định, trung bình 154 – 158 Kcal/cm
2
-năm. Nắng nhiều (trung bình từ 5,7 – 6 giờ/ngày), nhiệt độ cao và cao đều trong năm (trung bình 25,4
0
C); tổng tích ôn lớn trung bình 9.271
0
C/năm. Xuân Lộc hầu như không bị ảnh hưởng của thiên tai như: bão, lụt, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội.
+ Nhiệt độ: thay đổi theo mùa và theo vùng, ẩm độ tương đối 72 – 80%, cao nhất 83 – 87% và thấp nhất 55 – 62%.
+ Chế độ mưa: Xuân Lộc là nơi có chế độ mưa tương đối cao so với các huyện khác trong tỉnh. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào khoảng cuối tháng 11. Hạn chế rõ nét nhất trong chế độ mưa ở đây là thường có những đợt hạn ngắn vào đầu vụ Hè Thu. Lượng mưa nhiều nhất trong năm vào khoảng tháng 7 đến tháng 9, kết hợp với độ ẩm không khí cao. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.956 mm, cao nhất 2.139 mm và thấp nhất 1.150 mm. Số ngày mưa trung bình trong năm 98 ngày. Lượng mưa lớn nhất trong ngày 138 mm.
+ Chế độ nắng: thông thường từ tháng 11 năm này đến tháng 5 năm sau, thời gian nắng trung bình một ngày 5,7 – 7,4 giờ. Số giờ nắng cao nhất trong ngày 13,8 giờ và thấp nhất 0,5 giờ. Cường độ chiếu sáng cao nhất 100.000Lux. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4.
+ Chế độ gió: hướng gió chủ đạo hướng đông nam (tháng 2, tháng 5) tốc độ gió trung bình 3 – 3,5 m/s, tốc độ lớn nhất 10,9m/s. hướng bắc – đông bắc (tháng 12, tháng 1) tốc độ gió trung bình 3,4 – 4,7m/s, lớn nhất 6m/s.
Nhìn chung, khí hậu thời tiết của Huyện có nhiều thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, ít có thiên tai như: bão lụt, sương muối…
Đất đai và cơ cấu sử dụng:
Theo số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất đến ngày 01/01/2010 của Phòng Tài nguyên và Môi trường, huyện Xuân Lộc có diện tích đất tự nhiên là 72.719,48 ha, với 57.411,85 ha đất nông nghiệp chiếm 78,95%, trong đó: đất trồng cây hàng năm 12.628,43 ha, chiếm 22,0% đất nông nghiệp. Trong đất trồng cây hàng năm 48,5% diện tích là đất trồng màu – cây công nghiệp ngắn ngày phân bố chủ yếu trên các loại đất nâu thẩm trên Bazan và xám vàng granit có độ dốc nhỏ, tầng dày trung bình. Đất lúa chiếm 51,5% diện tích đất cây hàng năm trong đó có khoảng 70% là đất lúa 1 vụ.
Đất cây lâu năm: 34.852 ha chiếm 60,71% diện tích đất nông nghiệp, trong đó: 55,97% là đất trồng cây công nghiệp lâu năm; 14,64% là đất trồng cây ăn quả, còn lại là đất cây lâu năm khác chiếm khoảng 29,38% đất cây lâu năm.
Nguồn nước:
– Xuân Lộc có mật độ sông suối tương đối dày, nhưng phần lớn đều ngắn và dốc nên khả năng giữ nước kém, nghèo kiệt vào mùa khô. Việc xây dựng các hồ chứa kết hợp với chuyển tải nước từ ngoài vùng vào là rất cần thiết cho phát triển kinh tế, xã hội mà đặc biệt là cho phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp của huyện, với hệ thống sông suối chính như:
+ Sông La Ngà: bắt nguồn từ vùng núi cao thuộc hai tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng. Diện tích lưu vực: 4.100 km
2
, mô-đun dòng chảy khá (38,41/s/km
2
), lưu lượng trung bình: 113 m
3
/s, lưu lượng kiệt: 3,5 – 4 m
3
/s. Chiều dài sông chính khoảng 290km, đoạn chảy qua Huyện Xuân Lộc dài 18 km, với diện tích lưu vực khoảng 262km
2
. Các suối nhánh của sông La Ngà trên địa phận huyện Xuân Lộc gồm có: suối Gia Huynh, Suối Cao, Suối Rết, Suối Gia Ray. Các suối có nước quanh năm là Gia Huynh, Suối Rết.
+ Sông Ray: bắt nguồn từ khu vực phía Nam và Tây Nam núi Chứa Chan, diện tích lưu vực trong phạm vi Huyện 458,92km
2
, với các nhánh sông chính như: Suối Mon Coum, Suối Cát, Suối Sáp,…. Chiều dài sông chính 60km, đoạn chảy qua huyện Xuân Lộc dài 15-20km.
+ Các nhánh sông suối thuộc hệ thống sông Dinh: bắt nguồn từ khu vực phía đông nam núi Chứa Chan, diện tích lưu vực 227km
2
bao gồm các suối Gia Ui, Suối Da, Công Hoi, suối DaKriê, do lưu vực hẹp, thảm phủ kém, mùa khô kéo dài nên các suối này thường bị kiệt vào cuối mùa khô.
Huyện Xuân Lộc nằm trong khu vực nghèo mạch nước ngầm. Trên đất đỏ vàng nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 25 – 30m, các khu vực khác nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 80 – 102m, lưu lượng trung bình từ 0,5 đến 1,2l/s, chất lượng tốt. Hiện nay nước ngầm đang được khai thác cho sinh hoạt và tưới cho cây trồng.
Tài nguyên rừng:
Theo số liệu kiểm kê đất trong năm 2010 của phòng Tài nguyên – Môi trường, toàn huyện có khoảng 9.383 ha rừng, bao gồm:
– Rừng sản xuất: 4.389 ha, toàn bộ là rừng trồng sản xuất có trữ lượng gỗ thấp.
– Rừng phòng hộ: 4.994 ha, phân bố ở khu vực núi Chứa Chan và các xã Xuân Thành, Xuân Trường, Xuân Hòa, Xuân Hưng và Xuân Tâm.
Thông tin về các xã, thị trấn
|
Giới thiệu khái quát huyện Trảng Bom
Vị trí địa lý:
Huyện Trảng Bom được thành lập ngày 01/01/2004, trên cơ sở chia tách từ huyện Thống Nhất (cũ) theo Nghị định số 97/2003/NĐ – CP ngày 21/8/2003 của Chính phủ; là một huyện trung du, phía Nam giáp huyện Long Thành, phía đông giáp huyện Thống Nhất, phía Tây giáp thành phố Biên Hòa, phía bắc giáp huyện Vĩnh Cửu;
– Huyện Trảng Bom có đường Quốc lộ 1A đi qua, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 50 km và Thành phố Biên Hòa 28 km về phía Đông; Huyện trước đây là cửa
ngõ miền Đông trong kháng chiến chống Mỹ và là chiến trận vô cùng ác liệt trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Với vị trí địa lý chiến lược, huyện Trảng Bom đang là khu vực có nhiều dự án quan trọng đã và đang được triển khai như: Đường cao tốc Tp
Hồ Chí Minh
– Long Thành – Dầu Giây, đường sắt cao tốc Bắc – Nam, đường Quốc lộ 1A tránh thành phố Biên Hòa.
– Huyện Trảng Bom có 01 thị trấn (Thị trấn Trảng Bom) và 16 xã: Xã An Viễn, Xã Bàu Hàm, Xã Bắc Sơn, Xã Bình Minh, Xã Cây Gáo, Xã Đông Hòa, Xã Đồi 61, Xã Giang Điền, Xã Hố Nai 3, Xã Hưng Thịnh, Xã Quảng Tiến, Xã Sông Thao, Xã Sông Trầu, Xã Tây Hòa, Xã Thanh Bình, Xã Trung Hòa. Riêng, Thị trấn Trảng Bom đang được xây dựng, phấn đấu sau năm 2015 trở thành Đô thị loại IV.
Dân số:
Dân số trung bình: 275.021 người (số liệu thống kê năm 2012), mật độ dân số 795,03 người/km
2
. GDP bình quân đầu người 42,177 triệu đồng; toàn huyện có 22 dân tộc anh em cùng chung sống. Lực lượng lao động trong độ tuổi toàn huyện 197.700 người.
Những lợi thế của huyện:
– Huyện Trảng Bom có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển công nghiệp của tỉnh Đồng Nai, hiện nay trên địa bàn huyện đã có 4 KCN gồm: Hố Nai, Sông Mây, Bàu Xéo và Giang Điền và 8 cụm công nghiệp địa phương đã và đang xây dựng. Với tổng diện tích 1.943 ha, các KCN đã thu hút 187 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 1,4 tỷ USD, trong đó 127 cty đi vào sản xuất, tạo việc làm cho trên 90 ngàn lao động. Huyện có diện tích tự nhiên là 323,68 km
2
, chiếm 5,34% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; diện tích đất nông nghiệp là 25.350ha, chiếm 80,08% đất tự nhiên của huyện.
– Trong những năm qua, huyện đã đẩy mạnh và hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đặc biệt, các quy hoạch ngành, quy hoạch mạng lưới điểm dân cư nông thôn, chợ, giao thông, các công trình văn hoá, thể thao…Ngoài các tuyến giao thông quan trọng dẫn đến các khu, cụm CN thì phong trào xã hội hóa giao thông được đẩy mạnh 100% số xã có đường nhựa về đến trung tâm. Cơ bản đã hình thành kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, thông tin liên lạc)…
– Trên địa bàn huyện có 1.012 doanh nghiệp, cơ sở, ngành nghề nông thôn, và 20 đơn vị hoạt động theo luật HTX với 7.471 xã viên. Về đất nông nghiệp là 26.445ha, chiếm 81,08% đất tự nhiên của huyện. Ưu thế về đặc thù tự nhiên là nhân tố quan trọng trong định hướng phát triển các loại cây lâu năm, cây ngắn ngày và cây lương thực như: cao su, cà phê, tiêu; cây ăn quả, điều, chôm chôm, sầu riêng, ngô, mía, bông, các loại đổ và lúa nước.
– Với diện tích đất nông nghiệp 26.445 ha, chiếm 81,08% đất tự nhiên, vừa là đặc thù tự nhiên, vừa là nhân tố quan trọng trong định hướng phát triển các loại cây lâu năm, cây ngắn ngày và cây lương thực như: cao su, cà phê, tiêu; cây ăn quả, điều, chôm chôm, sầu riêng, ngô, mía, bông, các loại đổ và lúa nước.
– Tiềm năng về du lịch: Nằm trong khu vực có hồ Trị An, có quốc lộ 1A đi qua, nhờ lợi thế về điều kiện tự nhiên, môi trường, sự kết hợp hài hòa giữa rừng trồng và mặt nước ao hồ, thác ghềnh tự nhiên, điều kiện để phát triển các loại hình du lịch dịch vụ, nhất là du lịch sinh thái. thác Đá Hàn, thác Giang Điền, chùa Đà La Ni, chùa Ngọc Nhẫn là những thắng cảnh đẹp trên địa bàn huyện.
– Về sự nghiệp giáo dục – nguồn lao động: Trên địa bàn huyện hiện có 1 trường đại học, 2 trường cao đẳng, 1 trung tâm dạy nghề và 5 cơ sở dạy nghề, hàng năm đào tạo trên 5 ngàn học viên, góp phần bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cho địa phương.
– Tình hình chính trị, trật tự an toàn được tại địa phương luôn ổn định; sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, xây dựng nông thôn mới…được quan tâm đầu tư xây dựng.
|
General introduction of Trang Bom district
Geographical location:
Trang Bom district was established on January 1, 2004, on the basis of separation from Thong Nhat district (old) according to Decree Không. 97/2003/ND - CP dated August 21, 2003 of the Government; is a midland district, bordering Long Thanh district to the south, Thong Nhat district to the east, Bien Hoa city to the west, Vinh Cuu district to the north;
– Trang Bom district has National Highway 1A passing through, about 50 km from Ho Chi Minh City and 28 km to the East from Bien Hoa City; The district was formerly a gate
Eastern Lane in the resistance war against the US and an extremely fierce battle in the Ho Chi Minh campaign. With a strategic geographical location, Trang Bom district is an area where many important projects have been and are being implemented such as: City Expressway.
Ho Chi Minh
– Long Thanh – Dau Giay, North – South high speed railway, National Highway 1A avoiding Bien Hoa city.
– Trang Bom district has 01 town (Trang Bom Town) and 16 communes: An Vien Commune, Bau Ham Commune, Bac Son Commune, Binh Minh Commune, Cay Gao Commune, Dong Hoa Commune, Hill 61 Commune, Giang Dien Commune, Ho Nai 3 Commune, Hung Thinh Commune, Quang Tien Commune, Song Thao Commune, Song Trau Commune, Tay Hoa Commune, Thanh Binh Commune, Trung Hoa Commune. Particularly, Trang Bom Town is being built, striving to become a Class IV urban area after 2015.
Population:
Average population: 275,021 people (2012 statistics), population density 795.03 people/km
2
. GDP per capita is 42,177 million VND; The entire district has 22 ethnic groups living together. The district's working-age force is 197,700 people.
The advantages of the district:
– Trang Bom district has an extremely important position in the industrial development of Dong Nai province. Currently, the district has 4 industrial parks including: Ho Nai, Song May, Bau Xeo and Giang Dien and 8 clusters. Local industry has been building. With a total area of 1,943 hectares, the industrial parks have attracted 187 foreign investment projects with a total registered capital of over 1.4 billion USD, of which 127 companies went into production, creating jobs for over 90 thousand workers. . The district has a natural area of 323.68 km2
2
, accounting for 5.34% of the province's natural area; The agricultural land area is 25,350 hectares, accounting for 80.08% of the district's natural land.
– In recent years, the district has promoted and completed the master plan for socio-economic development to 2010, with a vision to 2020. In particular, industry plans and agricultural population network plans villages, markets, traffic, cultural and sports works... In addition to important traffic routes leading to industrial zones and clusters, the movement of socialization of traffic has been promoted, 100% of communes have asphalt roads to center. Rural infrastructure (electricity, roads, schools, communications) has basically been formed...
– In the district, there are 1,012 enterprises, establishments, rural industries, and 20 units operating under the Cooperative Law with 7,471 cooperative members. Regarding agricultural land, it is 26,445 hectares, accounting for 81.08% of the district's natural land. The advantage of natural characteristics is an important factor in the development orientation of perennial crops, short-term crops and food crops such as rubber, coffee, pepper; fruit trees, cashew, rambutan, durian, corn, sugarcane, cotton, all kinds of rice and rice.
– With an agricultural land area of 26,445 hectares, accounting for 81.08% of natural land, it is both a natural feature and an important factor in the development orientation of perennial crops, short-term crops and food crops. such as: rubber, coffee, pepper; fruit trees, cashew, rambutan, durian, corn, sugarcane, cotton, all kinds of rice and rice.
– Tourism potential: Located in the area with Tri An lake, with National Highway 1A passing through, thanks to the advantages of natural conditions, environment, harmonious combination between planted forests and water surface of ponds, lakes and waterfalls. Natural rapids, conditions for developing all types of tourism services, especially eco-tourism. Da Han waterfall, Giang Dien waterfall, Da La Ni pagoda, Ngoc Nhan pagoda are beautiful landscapes in the district.
– Regarding education and labor resources: The district currently has 1 university, 2 colleges, 1 vocational training center and 5 vocational training establishments, annually training over 5 thousand students, contributing additional quality human resources for the locality.
– The political situation, order and safety in the locality is always stable; Education, healthcare, culture, sports, new rural construction... receive attention for investment and construction.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Cửu
Vĩnh Cửu là một huyện của tỉnh Đồng Nai, nằm ở tả ngạn sông Đồng Nai, có diện tích 1.073,1 km2 (15.473 hecta), chiều dài đông tây đoạn dài nhất 32 km, chiều nam bắc đoạn dài nhất 14 km (diện tích rừng tự nhiên 54.862 ha, diện tích mặt nước chuyên dùng 15.857 ha). Vĩnh Cửu có 12 đơn vị hành chính gồm: 11 xã và 01 thị trấn; dân số khoảng 140.377 người; mật độ dân số 128 người/km2.
Quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và quân dân Vĩnh Cửu là quá trình phát huy truyền thống yêu nước, tin Đảng, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn lịch sử. Gần 40 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975- 2013), Đảng bộ, quân dân Vĩnh Cửu đã vượt qua nhiều khó khăn, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa xây dựng vừa học tập, từng bước phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng một tỉnh Đồng Nai giàu mạnh, công bằng, văn minh.
|
General introduction to Vinh Cuu district
Vinh Cuu is a district of Dong Nai province, located on the left bank of Dong Nai river, with an area of 1,073.1 km2 (15,473 hectares), the longest east-west section is 32 km, the longest north-south section is 14 km (area Natural forest area is 54,862 hectares, specialized water surface area is 15,857 hectares). Vinh Cuu has 12 administrative units including: 11 communes and 01 town; population is about 140,377 people; Population density is 128 people/km2.
The process of revolutionary struggle of the Party Committee and the army and people of Vinh Cuu is the process of promoting the tradition of patriotism, trust in the Party, and successful implementation of all political tasks in each historical period. Nearly 40 years of building and protecting the Fatherland (1975-2013), the Party Committee, army and people of Vinh Cuu have overcome many difficulties, tried their best to heal the wounds of war, both building and learning, gradually developing. economic, cultural, and social aspects, maintaining political security, social order, improving and enhancing people's lives, contributing to building a prosperous, strong, fair, and civilized Dong Nai province.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Long Khánh
Thị xã Long Khánh nằm ở giữa về phía Đông của tỉnh Đồng Nai và là một huyện trung du nằm trên cửa ngõ vào TP Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp huyện Thống Nhất và huyện Xuân Lộc, phía Nam giáp huyện Cẩm Mỹ, phía Đông giáp huyện Xuân Lộc, phía Tây giáp huyện Thống Nhất.
Tổng diện tích tự nhiên: 194,09 km2, chiếm 3,3% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Dân số 2006: 141.242 người, chiếm tỷ lệ 6,36% dân số toàn tỉnh, mật độ 724 người/Km2
Thị xã có 15 đơn vị hành chính có 6 phường và 9 xã gồm:Phường Xuân Bình, phường Xuân An, phường Xuân Hòa, phường Xuân Trung, phường Xuân Thanh, phường Phú Bình, xã Bàu Trâm, xã Bảo Vinh, xã Bảo Quang, xã Suối Tre, xã Xuân Lập, xã Bàu Sen, xã Xuân Tân, xã Hàng Gòn và xã Bình Lộc.
Các cơ quan chuyên môn:
Phòng Nội Vụ.
Phòng Lao động – Thương Binh – Xã hội.
Phòng Tài chính – Kế hoạch
Phòng Giáo dục Đào tạo.
Phòng Văn hoá – Thông tin
Trung tâm Văn hóa Thể thao
Phòng Y tế
Trung tâm Y tế
Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình
Phòng Tài nguyên và Môi trường
Phòng Tư pháp
Phòng Kinh tế
Phòng Quản lý Đô thị
Ban Quản lý dự án
Ban Quản lý chợ
Thanh tra Thị xã
Trung tâm phát triển quỹ đất
Văn phòng HĐND và UBND Thị xã
Phòng Dân tộc
Những lợi thế của thị xã:
+ Thị xã Long Khánh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với vùng kinh tế chiến lược Đông Nam bộ, Cao nguyên và Miền Trung có nhiều tuyến đường giao thông quốc gia đi qua, có vị trí rất quan trọng về các mặt chính trị- kinh tế – xã hội và an ninh- quốc phòng đối với tỉnh và cả khu vực.
+ Thị xã Long Khánh là đầu mối giao lưu hàng hóa với các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng, Phú Yên…là điều kiện cho phát triển thương mại-dịch vụ.
+ Khoáng sản có Puzlan trữ lượng lớn làm phụ gia cho xi măng.
+ Là Thị xã có diện tích đất đai màu mỡ thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn trái, cây có giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu đó là : cao su, cà phê, chôm chôm, sầu riêng…
Đã quy hoạch 02 Khu công nghiệp diện tích khoảng 204 ha nằm trên địa bàn Thị xã, đã thu hút 04 dự án đầu tư nước ngoài, một số doanh nghiệp nhà nước, trên 100 doanh nghiệp ngoài quốc doanh…
Cơ cấu kinh tế năm 2006: Công nghiệp – Xây dựng chiếm 30,4%; Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản chiếm 23%; Dịch vụ chiếm 46,6%.
1. Di tích lịch sử văn hóa “Mộ Cự Thạch” Hàng Gòn
Vùng đất đỏ Bazan Long Khánh được biết đến bởi có những vườn trái cây: chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, mít tố nữ; những vườn càphe, rừng cao su bạt ngàn, còn có một di tích kiến trúc cổ được Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia. Đó là ngôi mộ cổ Hàng Gòn, là một kiến trúc đá khá độc đáo trong lòng đất. Ngôi mộ được phát hiện 1927 và được trùng tu 1992. Kiến trúc của Ngôi mộ là những tấm đá hoa cương ghép theo hình hộp, những trụ đá ngổn ngang quanh mộ như chứng tỏ kỳ tích một thời của lớp cư dân cổ trên đất Đồng Nai. Loại đá này không có nguồn gốc tại Đồng Nai, việc tìm kiếm và vận chuyển từ đâu đến vẫn là những điều bí ẩn mà người Việt cổ Đồng Nai còn dấu kín, đây là biểu hiện hùng hồn về sức mạnh, sự sáng tạo của chủ nhân ngôi mộ này.
Tọa lạc trên đất xã Hàng Gòn, cách thị xã Long Khánh 8 km về phía nam, trên trục quốc lộ 56 hướng đi về BàRịa Vũng Tàu, là một nấm mộ cổ được kết cấu bởi những phiến đá hoa cương lớn và những trụ đá dài và rất nặng.
Ngôi mộ hình hộp (ảnh) dài 4,2m, ngang 2,7m, cao 1,6m. Xung quanh mộ có nhiều trụ đá hoa cương cao 7,5m, trên đỉnh trụ đá có khoét lõm hình yên ngựa. Năm 1928 trường Viễn Đông Bác Cổ đã xếp hạng và ghi vào danh mục các di tích lịch sử “Mộ Đông Dương-Mộ Dolmen Hàng Gòn”. Năm 1984, Bộ văn hóa đã xếp hạng mộ Cự thạch Hàng Gòn là di tích Quốc gia-một trong 10 di tích quan trọng ở Nam bộ.
Năm 1927, khi chủ trì việc mở tuyến đường giao thông từ Long Khánh đi Bà rịa (liên tỉnh lộ 2) kỹ sư người Pháp Jean Bouchot đã phát hiện một ngôi mộ bằng đá với những trụ nằm ngổn ngang trong địa phận đồn điền cao su W.Bazé thuộc công ty Cao su Xuân Lộc (nay thuộc nông trường Hàng Gòn, xã Hàng Gòn thị xã Long Khánh). Được phép của trường Viễn Đông Bác Cổ, Jean Bouchot chủ trì việc khai quật di chỉ vào mùa mưa năm 1927 trong vòng 1 tháng. Kết quả khai quật đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, trở thành một đề tài hấp dẫn, mới mẽ, được các nhà khoa học đăng tải trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng.
Di tích là một nấm mồ được làm bởi những tấm đá hoa cương lớn và những trụ đá dài, nặng. Ngôi mộ hình hộp, dài 4,2m, ngang 2,7 mét, cao 1,6mét được ghép bới 6 tấm đá hoa cương được bào khá nhẵn ở mặt ngoài; bên trong đục đẽo sơ sài. Bốn tấm đá thẳng đứng dùng làm vách, hai tấm nằm ngang dùng làm mặt đáy và nắp đậy. Liên kết giữa tấm đá hoa cương nhờ vào hệ thống rãnh dọc chắc chắn. Xung quanh mộ có nhiều trụ đá hoa cương cao 7,5 mét, tiết diện mặt cắt ngang hình chữ nhật dài 1,10m x 0,3m phần lớn các đầu trụ được khoét lõm hình yên ngựa.
Mộ Cự thạch Hàng Gòn được đánh giá là loại hình Dolmen lớn nhất so với các ngôi mộ khác đã phát hiện ở châu Á. Năm 1928, trường Viễn Đông Bác Cổ đã xếp hạng và ghi vào danh mục các di tích lịch sử “mộ Đông Dương-mộ Dolmen Hàng Gòn” Năm 1984, Bộ văn hóa xếp hạng Mộ Cự thạch Hàng Gòn là di tích quốc gia-một trong mười di tích quan trọng ở Nam bộ.
Mộ Cự thạch Hàng Gòn là một di tích độc đáo cả về nghệ thuật và kỹ thuật của các tộc người cổ ở Nam Á nói chung và người Việt cổ nói riêng. Chắc hẳn người cổ ở Đồng Nai với sức mạnh đại đoàn kết và tài năng sáng tạo đã vượt qua bao khó khăn để dựng nên một kỳ tích còn lưu lại cho hậu thế.
Sự tồn tại của di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn hơn hai ngàn năm qua đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về văn minh được mệnh danh “văn minh lưu vực cổ sông Đồng Nai”, mặc dù việc hiểu về chủ nhân kiến trúc Mộ Cự thạch, hình thức tín ngưỡng liên quan của cư dân cổ vẫn cón là một sự bí ẩn hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu.
Hơn nửa thế kỷ từ khi được phát hiện cho đến nay, di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn vẫn giữ nguyên giá trị văn hóa của di tích thu hút sự quan tâm của nhiều giới và khách tham quan.
Để hiểu rõ về di tích, nhiều người muốn đi tìm sự bí ẩn của nó, muốn giải mã về sự hiện diện của nó trong đời sống của con người xưa cách đây hơn 2.000 năm. Thế nhưng, đi tìm sự bí ẩn của quá khứ, nhiều người lại càng bắt gặp những bí ẩn khác chưa giải thích được. Và chính điều đó đã trở thành điểm thu hút hấp dẫn để mọi người từ ngạc nhiên đến thán phục khi chiêm ngưỡng kiến trúc như kỳ bí của nó.
(theo Biên Hòa Đồng Nai 300 năm)
2. Cụm di tích Tòa hành chánh Long Khánh
Tòa hành chánh Long Khánh được xây dựng theo kiến trúc pháp (ảnh), trước ngày giải phóng, đây là trụ sở làm việc của ngụy quyền tỉnh Long Khánh. Nơi đây, đánh dấu sự kiện lịch sử từ ngày 9/4/1975. quân đoàn 4 cùng với các lực lượng vũ trang, dân quân địa phương đã mở chiến dịch Xuân Lộc tiến công đập tan tuyến phòng thủ trọng yếu cuối cùng của Mỹ ngụy ở phía Đông Sài Gòn và sau 12 ngày đêm chiến đấu ác liệt, trước khí thế cách mạng của quân dân ta, chế độ ngụy đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để bảo vệ thủ phủ Sài Gòn, chúng gom tàn quân xây dựng tuyến phòng thủ Xuân Lộc-Long Khánh.
Để mở đường cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Xuân Lộc từ ngày 9/4/1975, sau 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng, lực lượng cách mạng đã đánh tan hệ thống phòng thủ của địch, giải phóng thị xã Long khánh và tiến về Sài Gòn. Ngày 21/4 năm 1975 Long Khánh được hoàn toàn giải phóng, mở đường cho các binh đoàn chủ lực ta bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn và toàn miền nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc.
Di tích ghi lại cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Long Khánh, Đồng Nai và cả nước trong công cuộc giải phóng đất nước vào mùa xuân lịch sử năm1975. Cụm di tích Xuân Lộc-Long Khánh, nơi ghi nhận một chiến công oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhân dân Long Khánh cũng đã dựng bia chiến thắng để ghi công và tự hào về truyền thống vẻ vang này.
Ngày 16/11/1988 Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Tòa hành chánh Long Khánh là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Hiện nay di tích Tòa hành chánh Long Khánh được bố trí làm phòng Bảo tàng và Thư viện của Thị xã.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Long Khánh
Thị xã Long Khánh nằm ở giữa về phía Đông của tỉnh Đồng Nai và là một huyện trung du nằm trên cửa ngõ vào TP Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp huyện Thống Nhất và huyện Xuân Lộc, phía Nam giáp huyện Cẩm Mỹ, phía Đông giáp huyện Xuân Lộc, phía Tây giáp huyện Thống Nhất.
Tổng diện tích tự nhiên: 194,09 km2, chiếm 3,3% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Dân số 2006: 141.242 người, chiếm tỷ lệ 6,36% dân số toàn tỉnh, mật độ 724 người/Km2
Thị xã có 15 đơn vị hành chính có 6 phường và 9 xã gồm:Phường Xuân Bình, phường Xuân An, phường Xuân Hòa, phường Xuân Trung, phường Xuân Thanh, phường Phú Bình, xã Bàu Trâm, xã Bảo Vinh, xã Bảo Quang, xã Suối Tre, xã Xuân Lập, xã Bàu Sen, xã Xuân Tân, xã Hàng Gòn và xã Bình Lộc.
Các cơ quan chuyên môn:
Phòng Nội Vụ.
Phòng Lao động – Thương Binh – Xã hội.
Phòng Tài chính – Kế hoạch
Phòng Giáo dục Đào tạo.
Phòng Văn hoá – Thông tin
Trung tâm Văn hóa Thể thao
Phòng Y tế
Trung tâm Y tế
Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình
Phòng Tài nguyên và Môi trường
Phòng Tư pháp
Phòng Kinh tế
Phòng Quản lý Đô thị
Ban Quản lý dự án
Ban Quản lý chợ
Thanh tra Thị xã
Trung tâm phát triển quỹ đất
Văn phòng HĐND và UBND Thị xã
Phòng Dân tộc
Những lợi thế của thị xã:
+ Thị xã Long Khánh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với vùng kinh tế chiến lược Đông Nam bộ, Cao nguyên và Miền Trung có nhiều tuyến đường giao thông quốc gia đi qua, có vị trí rất quan trọng về các mặt chính trị- kinh tế – xã hội và an ninh- quốc phòng đối với tỉnh và cả khu vực.
+ Thị xã Long Khánh là đầu mối giao lưu hàng hóa với các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng, Phú Yên…là điều kiện cho phát triển thương mại-dịch vụ.
+ Khoáng sản có Puzlan trữ lượng lớn làm phụ gia cho xi măng.
+ Là Thị xã có diện tích đất đai màu mỡ thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn trái, cây có giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu đó là : cao su, cà phê, chôm chôm, sầu riêng…
Đã quy hoạch 02 Khu công nghiệp diện tích khoảng 204 ha nằm trên địa bàn Thị xã, đã thu hút 04 dự án đầu tư nước ngoài, một số doanh nghiệp nhà nước, trên 100 doanh nghiệp ngoài quốc doanh…
Cơ cấu kinh tế năm 2006: Công nghiệp – Xây dựng chiếm 30,4%; Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản chiếm 23%; Dịch vụ chiếm 46,6%.
1. Di tích lịch sử văn hóa “Mộ Cự Thạch” Hàng Gòn
Vùng đất đỏ Bazan Long Khánh được biết đến bởi có những vườn trái cây: chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, mít tố nữ; những vườn càphe, rừng cao su bạt ngàn, còn có một di tích kiến trúc cổ được Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia. Đó là ngôi mộ cổ Hàng Gòn, là một kiến trúc đá khá độc đáo trong lòng đất. Ngôi mộ được phát hiện 1927 và được trùng tu 1992. Kiến trúc của Ngôi mộ là những tấm đá hoa cương ghép theo hình hộp, những trụ đá ngổn ngang quanh mộ như chứng tỏ kỳ tích một thời của lớp cư dân cổ trên đất Đồng Nai. Loại đá này không có nguồn gốc tại Đồng Nai, việc tìm kiếm và vận chuyển từ đâu đến vẫn là những điều bí ẩn mà người Việt cổ Đồng Nai còn dấu kín, đây là biểu hiện hùng hồn về sức mạnh, sự sáng tạo của chủ nhân ngôi mộ này.
Tọa lạc trên đất xã Hàng Gòn, cách thị xã Long Khánh 8 km về phía nam, trên trục quốc lộ 56 hướng đi về BàRịa Vũng Tàu, là một nấm mộ cổ được kết cấu bởi những phiến đá hoa cương lớn và những trụ đá dài và rất nặng.
Ngôi mộ hình hộp (ảnh) dài 4,2m, ngang 2,7m, cao 1,6m. Xung quanh mộ có nhiều trụ đá hoa cương cao 7,5m, trên đỉnh trụ đá có khoét lõm hình yên ngựa. Năm 1928 trường Viễn Đông Bác Cổ đã xếp hạng và ghi vào danh mục các di tích lịch sử “Mộ Đông Dương-Mộ Dolmen Hàng Gòn”. Năm 1984, Bộ văn hóa đã xếp hạng mộ Cự thạch Hàng Gòn là di tích Quốc gia-một trong 10 di tích quan trọng ở Nam bộ.
Năm 1927, khi chủ trì việc mở tuyến đường giao thông từ Long Khánh đi Bà rịa (liên tỉnh lộ 2) kỹ sư người Pháp Jean Bouchot đã phát hiện một ngôi mộ bằng đá với những trụ nằm ngổn ngang trong địa phận đồn điền cao su W.Bazé thuộc công ty Cao su Xuân Lộc (nay thuộc nông trường Hàng Gòn, xã Hàng Gòn thị xã Long Khánh). Được phép của trường Viễn Đông Bác Cổ, Jean Bouchot chủ trì việc khai quật di chỉ vào mùa mưa năm 1927 trong vòng 1 tháng. Kết quả khai quật đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, trở thành một đề tài hấp dẫn, mới mẽ, được các nhà khoa học đăng tải trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng.
Di tích là một nấm mồ được làm bởi những tấm đá hoa cương lớn và những trụ đá dài, nặng. Ngôi mộ hình hộp, dài 4,2m, ngang 2,7 mét, cao 1,6mét được ghép bới 6 tấm đá hoa cương được bào khá nhẵn ở mặt ngoài; bên trong đục đẽo sơ sài. Bốn tấm đá thẳng đứng dùng làm vách, hai tấm nằm ngang dùng làm mặt đáy và nắp đậy. Liên kết giữa tấm đá hoa cương nhờ vào hệ thống rãnh dọc chắc chắn. Xung quanh mộ có nhiều trụ đá hoa cương cao 7,5 mét, tiết diện mặt cắt ngang hình chữ nhật dài 1,10m x 0,3m phần lớn các đầu trụ được khoét lõm hình yên ngựa.
Mộ Cự thạch Hàng Gòn được đánh giá là loại hình Dolmen lớn nhất so với các ngôi mộ khác đã phát hiện ở châu Á. Năm 1928, trường Viễn Đông Bác Cổ đã xếp hạng và ghi vào danh mục các di tích lịch sử “mộ Đông Dương-mộ Dolmen Hàng Gòn” Năm 1984, Bộ văn hóa xếp hạng Mộ Cự thạch Hàng Gòn là di tích quốc gia-một trong mười di tích quan trọng ở Nam bộ.
Mộ Cự thạch Hàng Gòn là một di tích độc đáo cả về nghệ thuật và kỹ thuật của các tộc người cổ ở Nam Á nói chung và người Việt cổ nói riêng. Chắc hẳn người cổ ở Đồng Nai với sức mạnh đại đoàn kết và tài năng sáng tạo đã vượt qua bao khó khăn để dựng nên một kỳ tích còn lưu lại cho hậu thế.
Sự tồn tại của di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn hơn hai ngàn năm qua đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về văn minh được mệnh danh “văn minh lưu vực cổ sông Đồng Nai”, mặc dù việc hiểu về chủ nhân kiến trúc Mộ Cự thạch, hình thức tín ngưỡng liên quan của cư dân cổ vẫn cón là một sự bí ẩn hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu.
Hơn nửa thế kỷ từ khi được phát hiện cho đến nay, di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn vẫn giữ nguyên giá trị văn hóa của di tích thu hút sự quan tâm của nhiều giới và khách tham quan.
Để hiểu rõ về di tích, nhiều người muốn đi tìm sự bí ẩn của nó, muốn giải mã về sự hiện diện của nó trong đời sống của con người xưa cách đây hơn 2.000 năm. Thế nhưng, đi tìm sự bí ẩn của quá khứ, nhiều người lại càng bắt gặp những bí ẩn khác chưa giải thích được. Và chính điều đó đã trở thành điểm thu hút hấp dẫn để mọi người từ ngạc nhiên đến thán phục khi chiêm ngưỡng kiến trúc như kỳ bí của nó.
(theo Biên Hòa Đồng Nai 300 năm)
2. Cụm di tích Tòa hành chánh Long Khánh
Tòa hành chánh Long Khánh được xây dựng theo kiến trúc pháp (ảnh), trước ngày giải phóng, đây là trụ sở làm việc của ngụy quyền tỉnh Long Khánh. Nơi đây, đánh dấu sự kiện lịch sử từ ngày 9/4/1975. quân đoàn 4 cùng với các lực lượng vũ trang, dân quân địa phương đã mở chiến dịch Xuân Lộc tiến công đập tan tuyến phòng thủ trọng yếu cuối cùng của Mỹ ngụy ở phía Đông Sài Gòn và sau 12 ngày đêm chiến đấu ác liệt, trước khí thế cách mạng của quân dân ta, chế độ ngụy đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để bảo vệ thủ phủ Sài Gòn, chúng gom tàn quân xây dựng tuyến phòng thủ Xuân Lộc-Long Khánh.
Để mở đường cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Xuân Lộc từ ngày 9/4/1975, sau 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng, lực lượng cách mạng đã đánh tan hệ thống phòng thủ của địch, giải phóng thị xã Long khánh và tiến về Sài Gòn. Ngày 21/4 năm 1975 Long Khánh được hoàn toàn giải phóng, mở đường cho các binh đoàn chủ lực ta bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn và toàn miền nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc.
Di tích ghi lại cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Long Khánh, Đồng Nai và cả nước trong công cuộc giải phóng đất nước vào mùa xuân lịch sử năm1975. Cụm di tích Xuân Lộc-Long Khánh, nơi ghi nhận một chiến công oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhân dân Long Khánh cũng đã dựng bia chiến thắng để ghi công và tự hào về truyền thống vẻ vang này.
Ngày 16/11/1988 Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Tòa hành chánh Long Khánh là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Hiện nay di tích Tòa hành chánh Long Khánh được bố trí làm phòng Bảo tàng và Thư viện của Thị xã.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Biên Hoà
Thành phố Biên Hoà là đô thị lọai II, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh Đồng Nai. Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, Tây giáp quận 9 thành phố
Hồ Chí Minh
, Tây Nam giáp huyện Long Thành, Đông giáp huyện Trảng Bom, Tây Bắc giáp huyện Dĩ An, huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thành phố Biên Hoà có một hệ thống giao thông thuận lợi với xa lộ Hà Nội, Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, đường sắt Bắc Nam, đường sông Đồng Nai…Diện tích thành phố Biên Hoà 15.466 hecta, tổng diện tích tự nhiên là 264,08 km2, với 30 xã phường, dân số 800.000 người (Thống kê năm 2011).
Thông qua di chỉ khảo cổ học Bình Đa với nhiều công cụ gốm, đá, đặc biệt bộ đàn đá Bình Đa phát hiện ở đây cho thấy cách đây trên 2.500 năm người xưa đã có một cuộc sống khá phong phú về vật chất, tinh thần. Trong thế kỷ 17, 18, Biên Hoà đã từng là một trung tâm giao thương mua bán của các vùng miền trong nước và thương khách nước ngoài với sự kiện một bộ phận người Hoa “phản Thanh phục Minh” vào định cư xứ Bàn Lân năm 1679. Người Hoa, người Viêt chung tay xây dựng nên thương cảng Cù Lao phố sầm uất trên bến dưới thuyền.
Mùa xuân năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) vào kinh lược vùng đất phía Nam. Ông lấy đất Đồng Nai lập phủ Gia Định với hai huyện Tân Bình (Sài Gòn) và Phước Long (tức Biên Hoà – Đồng Nai ngày nay), Biên Hoà chính thức trở thành vùng đất của Đại Việt.
Thành phố Biên Hoà ngày nay hiện tồn nhiều di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc cho thấy một truyền thống văn hoá bền lâu:
– Thất phủ cổ miếu (thường gọi Chùa Ông) thờ Quan thánh đế quân (Quan Vũ, Quan Công) ở xã Hiệp Hoà được người Hoa xây dựng từ năm 1714.
– Đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên, một người Hoa có công xây dựng và phát triển vùng đất Biên Hoà từ năm 1679.
– Lăng mộ Trịnh Hòai Đức, nhà văn hoá gốc Hoa, nhà khoa bảng, tác giả bộ sách Gia Định thành thông chí, một trong “Gia Định Tam gia”.
– Những ngôi cổ tự Bửu Phong, Đại Giác, Long Thiền ghi dấu ấn việc truyền bá đạo Phật ở phương Nam gắn bó chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian của dân tộc.
– Nhiều di tích lịch sử gắn bó với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trên đất Biên Hoà: Đài kỷ niệm, nơi Nguyễn Ái Quốc có bài viết trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” tố cáo hành động mị dân của thực dân Pháp trong chiến tranh thế giới lần thứ I; Bửu Hưng Tự, nhà Hội Bình Trước gắn liền với sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 ở địa phương; Di tích nhà Xanh (BIF) nơi diệt Mỹ đầu tiên… Nhà lao Tân Hiệp, nơi diễn ra cuộc phá ngục quy mô lớn nhất miền Nam (2-12-1956) với 462 cán bộ, người yêu nước trở về với cách mạng.
Thành phố Biên Hoà là nơi có Văn miếu Trấn Biên, được xây dựng năm 1715 sớm nhất ở Nam bộ, nơi thể hiện truyền thống hiếu học và “tôn sư trọng đạo” của người dân vùng đất mới. Ngày nay Văn miếu được phỏng dựng, tôn tạo trở thành một thiết chế văn hoá giáo dục thời hiện đại của Biên Hoà, một thắng cảnh của Đồng Nai.
Thành phố vẫn bảo lưu được nhiều ngành nghề truyền thống. Rạch Lò Gốm (xã Hiệp Hoà), một địa danh ghi đậm dấu ấn một thời phát triển xa xưa. Nghề gốm truyền thống phát triển ở Bửu Long, Tân Vạn kết hợp kỹ thuật gốm truyền thống Việt với kỹ thuật gốm do những người Hoa đưa sang từ cuối thế kỷ 17, tạo nên một diện mạo mới của nghề truyền thống. Năm 1903, trương Bá nghệ Biên Hoà được thành lập, trở thành nơi đào tạo những nghệ nhân nổi tiếng về gốm và điêu khắc Biên Hoà. Nghề khai thác đá ở Bửu Long phát triển cùng với quá trình phát triển của người Hoa trên đất Biên Hoà.
Nhân dân thành phố có truyền thống đấu tranh. Khi đất nước rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp, Biên Hòa đã xuất hiện phong trào hội kín “Thiên địa hội” của Đoàn Văn Cự tập hợp lực lượng chống thực dân Pháp (1905); Hội kín của Lâm Trung trại, tổ chức tấn công vào Toà bố Biên Hòa (1916) giải cứu những thanh niên bị thực dân bắt đi lính chết trận ở châu Âu trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Thành phố Biên Hoà, nơi đội ngũ công nhân công nghiệp xuất hiện khá sớm với Công ty khai thác rừng và sản xuất lâm nghiệp Biên Hoà do tư bản Pháp thành lập 1897; nhà máy cưa BIF được xây dựng 1907 và hoạt động từ 1912. BIF nơi các đảng viên cộng sản hoạt động tuyên truyền yêu nước, có phong trào đấu tranh của công nhân khá sớm và Chi bộ đảng ra đời những năm 1943, 1944. Đội ngũ công nhân BIF là lực lượng nòng cốt giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945; nơi cung cấp sức người sức của trong kháng chiến.
Trong kháng chiến chống Pháp, thành phố Biên Hoà là nơi đầu tiên xây dựng trường huấn luyện du kích ở miền Đông; nơi các lực lượng vũ trang miền Đông tổ chức tập kích vào một tỉnh lỵ do thực dân Pháp chiếm đóng (2-1-1946). Chiến khu Bình Đa (nay thuộc phạm vi các phường Bình Đa, An Bình, Long Bình…), chiến khu Hố Cạn (phường Trảng Dài) cùng với chiến khu Đ tạo thành một hệ thống căn cứ liên hoàn, nơi đứng chân của đơn vị đặc công biệt động thị xã đánh vào các cơ quan đầu não, hậu cần của thực dân như đánh vào kho xăng dầu Biên Hoà 1952 huỷ trên 2 triệu lít xăng dầu.
Trong kháng chiến chống Mỹ, thành phố Biên Hoà trở thànhmọt căn cứ quân sự lớn của Mỹ với Bộ Tư lệnh quân đoàn 3 ngụy; sân bay chiến lược quân sự Biên Hoà; căn cứ Hốc Bà Thức (Tân phong) của Mỹ; Tổng kho hậu cần Long Bình…Nhưng thành phố Biên Hoà cũng là nơi các đơn vị đặc công, chủ lực làm nên những chiến công vang dội, diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ ngụy chia lữa với chiến trường chung.
Thành phố là nơi đánh Mỹ đầu tiên ở miền Nam với chiến thắng Nhà Xanh (BIF) đêm 7-7-1959. Nơi pháo binh Miền (U80) dội bão lữa vào sân bay Biên Hoà 31-10-1964, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ngợi khen
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu.
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu.
Thành đồng trống thắng lay lầu Trắng.
Điện Biên Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Những năm 1967, 1968, 1972, sân bay Biên Hoà luôn là mục tiêu tấn công của pháo binh, đặc công Biên Hoà giành thắng lợi lớn. Tổng kho hậu cần Long Bình nhiều lần bốc lữa trong những năm 1966, 1967, 1968, 1972…Hàng ngàn tấn bom đạn bị phá huỷ bởi đặc công Biên Hoà.
Ngày 30-4-1975, lá cờ Mặt trận bay trên nóc Toà hành chính tỉnh, đánh dấu thắng lợi của Đảng bộ trong suốt 30 năm chiến đấu kiên cường (1945-1975), cùng cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn ba mươi năm sau giải phóng, Đảng bộ và nhân dân thành phố không ngừng nổ lực trong lao động sáng tạo vượt qua nhiều khó khăn, phức tạp để xây dựng phát triển thành đô thị loại II (được công nhận năm 1994), phát huy dân chủ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Thành phố đang phấn đấu trở thành một đô thị phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá, đồng bộ giữa phát triển kinh tế và văn hoá xã hội. Thành phố với cơ chế thoáng đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay thành phố với các khu công nghiệp Biên Hoà 1, Biên Hoà 2, Amata, Loteco…thu hút trên 3 tỷ USD đầu tư từ nhiều quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới, giải quyết việc làm cho hàng trăm ngàn lao động. Hệ thống thương mại-dịch vụ không ngừng mở rộng theo hướng văn minh, hiện đại, phục vụ ngày càng cao nhu cầu của nhân dân và phát triển công nghiệp.
[1]
An Bình, Hòa Bình, Long Bình, Long Bình Tân, Quang Vinh, Bình Đa, Bửu Hòa, Bửu Long, Hố Nai, Quyết Thắng, Tam Hiệp, Tân Biên, Tân Hiệp, Tân Hòa, Tân Mai, Tân Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Tam Hòa, Thanh Bình, Thống Nhất, Trảng Dài, Trung Dũng, Hiệp Hòa, Hoá An, Tân Hạnh, An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Tam Phước.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Biên Hoà
Thành phố Biên Hoà là đô thị lọai II, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh Đồng Nai. Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, Tây giáp quận 9 thành phố
Hồ Chí Minh
, Tây Nam giáp huyện Long Thành, Đông giáp huyện Trảng Bom, Tây Bắc giáp huyện Dĩ An, huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thành phố Biên Hoà có một hệ thống giao thông thuận lợi với xa lộ Hà Nội, Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, đường sắt Bắc Nam, đường sông Đồng Nai…Diện tích thành phố Biên Hoà 15.466 hecta, tổng diện tích tự nhiên là 264,08 km2, với 30 xã phường, dân số 800.000 người (Thống kê năm 2011).
Thông qua di chỉ khảo cổ học Bình Đa với nhiều công cụ gốm, đá, đặc biệt bộ đàn đá Bình Đa phát hiện ở đây cho thấy cách đây trên 2.500 năm người xưa đã có một cuộc sống khá phong phú về vật chất, tinh thần. Trong thế kỷ 17, 18, Biên Hoà đã từng là một trung tâm giao thương mua bán của các vùng miền trong nước và thương khách nước ngoài với sự kiện một bộ phận người Hoa “phản Thanh phục Minh” vào định cư xứ Bàn Lân năm 1679. Người Hoa, người Viêt chung tay xây dựng nên thương cảng Cù Lao phố sầm uất trên bến dưới thuyền.
Mùa xuân năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) vào kinh lược vùng đất phía Nam. Ông lấy đất Đồng Nai lập phủ Gia Định với hai huyện Tân Bình (Sài Gòn) và Phước Long (tức Biên Hoà – Đồng Nai ngày nay), Biên Hoà chính thức trở thành vùng đất của Đại Việt.
Thành phố Biên Hoà ngày nay hiện tồn nhiều di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc cho thấy một truyền thống văn hoá bền lâu:
– Thất phủ cổ miếu (thường gọi Chùa Ông) thờ Quan thánh đế quân (Quan Vũ, Quan Công) ở xã Hiệp Hoà được người Hoa xây dựng từ năm 1714.
– Đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên, một người Hoa có công xây dựng và phát triển vùng đất Biên Hoà từ năm 1679.
– Lăng mộ Trịnh Hòai Đức, nhà văn hoá gốc Hoa, nhà khoa bảng, tác giả bộ sách Gia Định thành thông chí, một trong “Gia Định Tam gia”.
– Những ngôi cổ tự Bửu Phong, Đại Giác, Long Thiền ghi dấu ấn việc truyền bá đạo Phật ở phương Nam gắn bó chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian của dân tộc.
– Nhiều di tích lịch sử gắn bó với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trên đất Biên Hoà: Đài kỷ niệm, nơi Nguyễn Ái Quốc có bài viết trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” tố cáo hành động mị dân của thực dân Pháp trong chiến tranh thế giới lần thứ I; Bửu Hưng Tự, nhà Hội Bình Trước gắn liền với sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 ở địa phương; Di tích nhà Xanh (BIF) nơi diệt Mỹ đầu tiên… Nhà lao Tân Hiệp, nơi diễn ra cuộc phá ngục quy mô lớn nhất miền Nam (2-12-1956) với 462 cán bộ, người yêu nước trở về với cách mạng.
Thành phố Biên Hoà là nơi có Văn miếu Trấn Biên, được xây dựng năm 1715 sớm nhất ở Nam bộ, nơi thể hiện truyền thống hiếu học và “tôn sư trọng đạo” của người dân vùng đất mới. Ngày nay Văn miếu được phỏng dựng, tôn tạo trở thành một thiết chế văn hoá giáo dục thời hiện đại của Biên Hoà, một thắng cảnh của Đồng Nai.
Thành phố vẫn bảo lưu được nhiều ngành nghề truyền thống. Rạch Lò Gốm (xã Hiệp Hoà), một địa danh ghi đậm dấu ấn một thời phát triển xa xưa. Nghề gốm truyền thống phát triển ở Bửu Long, Tân Vạn kết hợp kỹ thuật gốm truyền thống Việt với kỹ thuật gốm do những người Hoa đưa sang từ cuối thế kỷ 17, tạo nên một diện mạo mới của nghề truyền thống. Năm 1903, trương Bá nghệ Biên Hoà được thành lập, trở thành nơi đào tạo những nghệ nhân nổi tiếng về gốm và điêu khắc Biên Hoà. Nghề khai thác đá ở Bửu Long phát triển cùng với quá trình phát triển của người Hoa trên đất Biên Hoà.
Nhân dân thành phố có truyền thống đấu tranh. Khi đất nước rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp, Biên Hòa đã xuất hiện phong trào hội kín “Thiên địa hội” của Đoàn Văn Cự tập hợp lực lượng chống thực dân Pháp (1905); Hội kín của Lâm Trung trại, tổ chức tấn công vào Toà bố Biên Hòa (1916) giải cứu những thanh niên bị thực dân bắt đi lính chết trận ở châu Âu trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Thành phố Biên Hoà, nơi đội ngũ công nhân công nghiệp xuất hiện khá sớm với Công ty khai thác rừng và sản xuất lâm nghiệp Biên Hoà do tư bản Pháp thành lập 1897; nhà máy cưa BIF được xây dựng 1907 và hoạt động từ 1912. BIF nơi các đảng viên cộng sản hoạt động tuyên truyền yêu nước, có phong trào đấu tranh của công nhân khá sớm và Chi bộ đảng ra đời những năm 1943, 1944. Đội ngũ công nhân BIF là lực lượng nòng cốt giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945; nơi cung cấp sức người sức của trong kháng chiến.
Trong kháng chiến chống Pháp, thành phố Biên Hoà là nơi đầu tiên xây dựng trường huấn luyện du kích ở miền Đông; nơi các lực lượng vũ trang miền Đông tổ chức tập kích vào một tỉnh lỵ do thực dân Pháp chiếm đóng (2-1-1946). Chiến khu Bình Đa (nay thuộc phạm vi các phường Bình Đa, An Bình, Long Bình…), chiến khu Hố Cạn (phường Trảng Dài) cùng với chiến khu Đ tạo thành một hệ thống căn cứ liên hoàn, nơi đứng chân của đơn vị đặc công biệt động thị xã đánh vào các cơ quan đầu não, hậu cần của thực dân như đánh vào kho xăng dầu Biên Hoà 1952 huỷ trên 2 triệu lít xăng dầu.
Trong kháng chiến chống Mỹ, thành phố Biên Hoà trở thànhmọt căn cứ quân sự lớn của Mỹ với Bộ Tư lệnh quân đoàn 3 ngụy; sân bay chiến lược quân sự Biên Hoà; căn cứ Hốc Bà Thức (Tân phong) của Mỹ; Tổng kho hậu cần Long Bình…Nhưng thành phố Biên Hoà cũng là nơi các đơn vị đặc công, chủ lực làm nên những chiến công vang dội, diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ ngụy chia lữa với chiến trường chung.
Thành phố là nơi đánh Mỹ đầu tiên ở miền Nam với chiến thắng Nhà Xanh (BIF) đêm 7-7-1959. Nơi pháo binh Miền (U80) dội bão lữa vào sân bay Biên Hoà 31-10-1964, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ngợi khen
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu.
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu.
Thành đồng trống thắng lay lầu Trắng.
Điện Biên Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Những năm 1967, 1968, 1972, sân bay Biên Hoà luôn là mục tiêu tấn công của pháo binh, đặc công Biên Hoà giành thắng lợi lớn. Tổng kho hậu cần Long Bình nhiều lần bốc lữa trong những năm 1966, 1967, 1968, 1972…Hàng ngàn tấn bom đạn bị phá huỷ bởi đặc công Biên Hoà.
Ngày 30-4-1975, lá cờ Mặt trận bay trên nóc Toà hành chính tỉnh, đánh dấu thắng lợi của Đảng bộ trong suốt 30 năm chiến đấu kiên cường (1945-1975), cùng cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn ba mươi năm sau giải phóng, Đảng bộ và nhân dân thành phố không ngừng nổ lực trong lao động sáng tạo vượt qua nhiều khó khăn, phức tạp để xây dựng phát triển thành đô thị loại II (được công nhận năm 1994), phát huy dân chủ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Thành phố đang phấn đấu trở thành một đô thị phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá, đồng bộ giữa phát triển kinh tế và văn hoá xã hội. Thành phố với cơ chế thoáng đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay thành phố với các khu công nghiệp Biên Hoà 1, Biên Hoà 2, Amata, Loteco…thu hút trên 3 tỷ USD đầu tư từ nhiều quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới, giải quyết việc làm cho hàng trăm ngàn lao động. Hệ thống thương mại-dịch vụ không ngừng mở rộng theo hướng văn minh, hiện đại, phục vụ ngày càng cao nhu cầu của nhân dân và phát triển công nghiệp.
[1]
An Bình, Hòa Bình, Long Bình, Long Bình Tân, Quang Vinh, Bình Đa, Bửu Hòa, Bửu Long, Hố Nai, Quyết Thắng, Tam Hiệp, Tân Biên, Tân Hiệp, Tân Hòa, Tân Mai, Tân Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Tam Hòa, Thanh Bình, Thống Nhất, Trảng Dài, Trung Dũng, Hiệp Hòa, Hoá An, Tân Hạnh, An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Tam Phước.
|
Giới thiệu khái quát huyện Nhơn Trạch
Huyện Nhơn Trạch là huyện được tách ra từ huyện Long Thành theo Nghị định số 51/CP ngày 23/6/1994 của Chính phủ, huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Đồng Nai, có tọa độ địa lý từ 106045’16” – 107001’55” Kinh độ Đông và 10031’33” – 10046’59” Vĩ độ Bắc, có vị trí địa lý như sau:
– Phía Bắc : giáp TP.Hồ Chí Minh và huyện Long Thành.
– Phía Nam : giáp TP.Hồ Chí Minh.
– Phía Đông : giáp huyện Long Thành và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Phía Tây : giáp TP.Hồ Chí Minh.
Địa hình, thổ nhưỡng
:
Là huyện thuộc vùng đồng bằng Đông Nam bộ.
Diện tích tự nhiên của huyện là 41.083,68 ha, chiếm 6,96% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó:
– Đất nông nghiệp : 27.364,30 ha chiếm 66,61% tổng diện tích.
– Đất phi nông nghiệp : 13.662,38 ha chiếm 33,26% tổng diện tích, trong đó phân ra:
+ Đất ở : 1.962,91 ha.
+ Đất chuyên dùng : 4.702,42 ha.
+ Đất tôn giáo, tín ngưỡng : 49,49 ha.
+ Đất nghĩa địa : 76,31 ha.
+ Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng : 6.871,25 ha.
– Đất chưa sử dụng : 57,01 ha chiếm 0,14% tổng diện tích.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Tuy khó khăn, nhưng Nhơn Trạch cũng được tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho huyện phát huy lợi thế và tiềm năng để phát triển. Đó là sự định hướng đúng đắn của Trung ương, Tỉnh ủy Đồng Nai về xây dựng đô thị mới: Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 284/2006/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch đô thị mới Nhơn Trạch đến năm 2020; năm 2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 13- NQ/TU về xây dựng thành phố Nhơn Trạch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Từ đó, với nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện, sự hỗ trợ của các sở, ban ngành tỉnh, Nhơn Trạch ngày nay đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, làm thay đổi diện mạo nông thôn, vóc dáng của đô thị ngày càng rõ nét:
Nếu khi mới thành lập, trên địa bàn huyện Nhơn Trạch chưa có một khu công nghiệp nào thì hôm nay huyện đã xây dựng được 8 khu công nghiệp và 01 cụm công nghiệp địa phương, thu hút 416 dự án đầu tư với tổng vốn trên 7,257 tỷ USD, hiện đã có 293 dự án đã đi vào hoạt động, giải quyết việc làm cho hơn 85 ngàn lao động. Đối với Cụm công nghiệp có 32 doanh nghiệp đầu tư, giúp giải quyết việc làm cho 3.000 lao động.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội được đầu tư với nguồn kinh phí trên 1.300 tỷ đồng, đến nay, huyện đã hoàn thành xây dựng, nâng cấp hơn 500 km các tuyến đường chính và đường trục của đô thị tương lai như: tỉnh lộ 769, 25B, Hương lộ 19, đường 319, 25C, đường số 01, đường số 02; hoàn chỉnh hạ tầng khu trung tâm huyện; triển khai xây dựng các tuyến giao thông kết nối với đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, đường cao tốc Bến Lức – Long Thành, cầu đường kết nối cảng Cái Mép, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu;… Ngoài ra, có trên 30 km cầu, đường giao thông nông thôn được nâng cấp, xây dựng mới với kinh phí trên 75 tỷ đồng trong đó nhân dân đóng góp gần 15 tỷ đồng.
Mạng lưới điện quốc gia và hệ thống chiếu sáng tiếp tục được quan tâm đầu tư, đến nay toàn địa bàn huyện tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới quốc gia là 99,7%. Nếu khi mới thành lập huyện Nhơn Trạch chỉ 5 xã Phước Thiền, Hiệp Phước, Long Thọ và Phước An có điện thì hôm nay 12/12 xã đều có điện sinh hoạt. Điện đã phục vụ tốt cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tiêu dùng…
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn có mức tăng trưởng bình quân hàng năm trên 33% đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra; giá trị luân chuyển hàng hoá năm đến thời điểm này đạt khoảng 2.500 tỷ đồng, tăng gần 35,8 lần so với năm 1995. Hiện có trên 6.100 doanh nghiệp, hộ đăng ký kinh doanh hoạt động với tổng vốn trên 20.000 tỷ đồng.
Về phát triển ngành thương mại – dịch vụ, huyện đã hoàn hành quy hoạch phát triển mạng lưới trung tâm thương mại, siêu thị đến năm 2020, theo đó trên địa bàn sẽ hình hành 2 trung tâm thương mại và 16 siêu thị phục vụ cho các khu dân cư. Trên địa bàn huyện hiện có 08 điểm kinh doanh khu vui chơi, du lịch sinh thái tự phát, hàng năm thu hút khoảng trên 20 vạn lượt khách tham quan. Trong lĩnh vực dịch vụ nhà ở, đã tổ chức khởi công dự án Khu nhà ở cho công nhân với số vốn đầu tư khoảng 758 tỷ đồng, tương ứng với 3.491 căn hộ.
Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều thực hiện vượt chỉ tiêu nghị quyết, năm 2017, tổng thu ngân sách trên toàn địa bàn đạt trên 551,605 tỷ đồng, đạt 150% so với dự toán. So với mặt bằng các huyện trên cả nước, Nhơn Trạch là huyện có tổng thu ngân sách trên địa bàn được xếp vào loại cao.
Nông nghiệp tiếp tục được ổn định; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 3,6%/năm. Đến nay, giá trị sản xuất bình quân 01 ha đạt 70 triệu đồng. Huyện đã hoàn thành công tác lập, triển khai có hiệu quả các đề án quy hoạch tiểu vùng sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, tập trung đầu tư các công trình thủy lợi… đã góp phần đưa năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi tăng cao hơn so với trước đây.
Trên địa bàn huyện có 12 xã được công nhận xã nông thôn mới, hiện các xã đang phấn đấu để hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu.
Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội, đến nay, có 71,1% trường (32/45 trường) đạt chuẩn quốc gia, 100% giáo viên được chuẩn văn hóa sư phạm, trong đó gần 50% giáo viên vượt chuẩn. Hàng năm, số trẻ 6 tuổi vào lớp 1 và học sinh tốt nghiệp tiểu học vào lớp 6 đều đạt tỷ lệ 100%. Chất lượng học sinh phát triển ổn định, tỷ lệ lên lớp ở bậc tiểu học và THCS trên 99% và tốt nghiệp cuối cấp từ 98% trở lên, riêng tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp THPT năm học 2016 – 2017 đạt trên 90%. Nếu trước đây chỉ có 01 trường THPT thì nay huyện đã xây dựng, phát triển được 03 trường THPT, 01 trường trung cấp kỹ thuật công nghiệp với nhiều ngành đào tạo, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.
Mạng lưới y tế được đầu tư, nâng cấp, đã xây dựng mới Bệnh viện Đa khoa, Trung tâm Y tế, Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình huyện, 12/12 trạm y tế xã được công nhận chuẩn quốc gia về y tế,… đã đáp ứng nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nếp sống văn hóa được thể hiện rõ nét qua phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Có 52/52 ấp được công nhận Ấp văn hóa, 99% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hóa và 100% cơ quan đơn vị có đời sống văn hóa tốt.
Công tác đảm bảo an sinh xã hội, chăm sóc các đối tượng chính sách, người có công được chú trọng thực hiện tốt. Trong thời gian qua, huyện đã vận động hơn 8,5 tỷ đồng đóng góp vào nguồn Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, xây dựng 612 căn nhà tình nghĩa. Các chính sách đối với người nghèo như tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề miễn phí, khuyến nông, khuyến công, hỗ trợ y tế, giáo dục… được triển khai thực hiện đạt kết quả tốt với trên 28 tỷ đồng từ các nguồn xã hội đóng góp vào quỹ “Vì người nghèo”, 1.719 căn nhà tình thương được xây tặng, 9.420 suất học bổng, 593 xe đạp được trao cho học sinh nghèo hiếu học; 9.835 hộ nghèo được hỗ trợ vay vốn phát triển kinh tế gia đình với tổng số tiền trên 126 tỷ đồng, bình quân mỗi năm trên 5.000 lao động được giải quyết việc làm. Từ đó đã góp phần giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo từ 27,6% năm 1995 xuống còn 0,58% (theo chuẩn mới). Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 50 triệu đồng vào năm 2017.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững, ổn định. Công tác cải cách hành chính được lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt; cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đi vào nề nếp, có tiến bộ, tạo nhiều thuận lợi cho người dân trong việc giải quyết các thủ tục hành chính.
Nhìn lại chặng đường 24 năm đã đi qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Nhơn Trạch luôn tự hòa và vinh dự với những thành tựu đã đạt được. Để vươn tới đô thị mới vòa năm 2020 theo định hướng của Trung ương, Tỉnh ủy Đồng Nai, huyện Nhơn Trạch tiếp tục phát huy những lợi thế của địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của các sơ, ngành tỉnh Đồng Nai, đoàn kết một lòng, quyết tâm khắc phục những khó khăn, hạn chế, chung tay, sát cánh vượt qua thách thức thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 13- NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng thành phố mới Nhơn Trạch, trong đó chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế bền vững đi đôi với đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội; tiếp tục hực hiện chuyển dịch nền nông nghiệp từ sản xuất nông nghiệp nông thôn chuyển sang sản xuất nông nghiệp phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị; tập trung phát đô thị, hạ tầng kỹ thuật- xã hội; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát hợp với tình hình của địa phương để thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ xây dựng đô thị mới; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, thể hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao.
|
Giới thiệu khái quát huyện Nhơn Trạch
Huyện Nhơn Trạch là huyện được tách ra từ huyện Long Thành theo Nghị định số 51/CP ngày 23/6/1994 của Chính phủ, huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Đồng Nai, có tọa độ địa lý từ 106045’16” – 107001’55” Kinh độ Đông và 10031’33” – 10046’59” Vĩ độ Bắc, có vị trí địa lý như sau:
– Phía Bắc : giáp TP.Hồ Chí Minh và huyện Long Thành.
– Phía Nam : giáp TP.Hồ Chí Minh.
– Phía Đông : giáp huyện Long Thành và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Phía Tây : giáp TP.Hồ Chí Minh.
Địa hình, thổ nhưỡng
:
Là huyện thuộc vùng đồng bằng Đông Nam bộ.
Diện tích tự nhiên của huyện là 41.083,68 ha, chiếm 6,96% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó:
– Đất nông nghiệp : 27.364,30 ha chiếm 66,61% tổng diện tích.
– Đất phi nông nghiệp : 13.662,38 ha chiếm 33,26% tổng diện tích, trong đó phân ra:
+ Đất ở : 1.962,91 ha.
+ Đất chuyên dùng : 4.702,42 ha.
+ Đất tôn giáo, tín ngưỡng : 49,49 ha.
+ Đất nghĩa địa : 76,31 ha.
+ Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng : 6.871,25 ha.
– Đất chưa sử dụng : 57,01 ha chiếm 0,14% tổng diện tích.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Tuy khó khăn, nhưng Nhơn Trạch cũng được tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho huyện phát huy lợi thế và tiềm năng để phát triển. Đó là sự định hướng đúng đắn của Trung ương, Tỉnh ủy Đồng Nai về xây dựng đô thị mới: Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 284/2006/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch đô thị mới Nhơn Trạch đến năm 2020; năm 2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 13- NQ/TU về xây dựng thành phố Nhơn Trạch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Từ đó, với nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện, sự hỗ trợ của các sở, ban ngành tỉnh, Nhơn Trạch ngày nay đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, làm thay đổi diện mạo nông thôn, vóc dáng của đô thị ngày càng rõ nét:
Nếu khi mới thành lập, trên địa bàn huyện Nhơn Trạch chưa có một khu công nghiệp nào thì hôm nay huyện đã xây dựng được 8 khu công nghiệp và 01 cụm công nghiệp địa phương, thu hút 416 dự án đầu tư với tổng vốn trên 7,257 tỷ USD, hiện đã có 293 dự án đã đi vào hoạt động, giải quyết việc làm cho hơn 85 ngàn lao động. Đối với Cụm công nghiệp có 32 doanh nghiệp đầu tư, giúp giải quyết việc làm cho 3.000 lao động.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội được đầu tư với nguồn kinh phí trên 1.300 tỷ đồng, đến nay, huyện đã hoàn thành xây dựng, nâng cấp hơn 500 km các tuyến đường chính và đường trục của đô thị tương lai như: tỉnh lộ 769, 25B, Hương lộ 19, đường 319, 25C, đường số 01, đường số 02; hoàn chỉnh hạ tầng khu trung tâm huyện; triển khai xây dựng các tuyến giao thông kết nối với đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, đường cao tốc Bến Lức – Long Thành, cầu đường kết nối cảng Cái Mép, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu;… Ngoài ra, có trên 30 km cầu, đường giao thông nông thôn được nâng cấp, xây dựng mới với kinh phí trên 75 tỷ đồng trong đó nhân dân đóng góp gần 15 tỷ đồng.
Mạng lưới điện quốc gia và hệ thống chiếu sáng tiếp tục được quan tâm đầu tư, đến nay toàn địa bàn huyện tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới quốc gia là 99,7%. Nếu khi mới thành lập huyện Nhơn Trạch chỉ 5 xã Phước Thiền, Hiệp Phước, Long Thọ và Phước An có điện thì hôm nay 12/12 xã đều có điện sinh hoạt. Điện đã phục vụ tốt cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tiêu dùng…
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn có mức tăng trưởng bình quân hàng năm trên 33% đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra; giá trị luân chuyển hàng hoá năm đến thời điểm này đạt khoảng 2.500 tỷ đồng, tăng gần 35,8 lần so với năm 1995. Hiện có trên 6.100 doanh nghiệp, hộ đăng ký kinh doanh hoạt động với tổng vốn trên 20.000 tỷ đồng.
Về phát triển ngành thương mại – dịch vụ, huyện đã hoàn hành quy hoạch phát triển mạng lưới trung tâm thương mại, siêu thị đến năm 2020, theo đó trên địa bàn sẽ hình hành 2 trung tâm thương mại và 16 siêu thị phục vụ cho các khu dân cư. Trên địa bàn huyện hiện có 08 điểm kinh doanh khu vui chơi, du lịch sinh thái tự phát, hàng năm thu hút khoảng trên 20 vạn lượt khách tham quan. Trong lĩnh vực dịch vụ nhà ở, đã tổ chức khởi công dự án Khu nhà ở cho công nhân với số vốn đầu tư khoảng 758 tỷ đồng, tương ứng với 3.491 căn hộ.
Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều thực hiện vượt chỉ tiêu nghị quyết, năm 2017, tổng thu ngân sách trên toàn địa bàn đạt trên 551,605 tỷ đồng, đạt 150% so với dự toán. So với mặt bằng các huyện trên cả nước, Nhơn Trạch là huyện có tổng thu ngân sách trên địa bàn được xếp vào loại cao.
Nông nghiệp tiếp tục được ổn định; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 3,6%/năm. Đến nay, giá trị sản xuất bình quân 01 ha đạt 70 triệu đồng. Huyện đã hoàn thành công tác lập, triển khai có hiệu quả các đề án quy hoạch tiểu vùng sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, tập trung đầu tư các công trình thủy lợi… đã góp phần đưa năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi tăng cao hơn so với trước đây.
Trên địa bàn huyện có 12 xã được công nhận xã nông thôn mới, hiện các xã đang phấn đấu để hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu.
Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội, đến nay, có 71,1% trường (32/45 trường) đạt chuẩn quốc gia, 100% giáo viên được chuẩn văn hóa sư phạm, trong đó gần 50% giáo viên vượt chuẩn. Hàng năm, số trẻ 6 tuổi vào lớp 1 và học sinh tốt nghiệp tiểu học vào lớp 6 đều đạt tỷ lệ 100%. Chất lượng học sinh phát triển ổn định, tỷ lệ lên lớp ở bậc tiểu học và THCS trên 99% và tốt nghiệp cuối cấp từ 98% trở lên, riêng tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp THPT năm học 2016 – 2017 đạt trên 90%. Nếu trước đây chỉ có 01 trường THPT thì nay huyện đã xây dựng, phát triển được 03 trường THPT, 01 trường trung cấp kỹ thuật công nghiệp với nhiều ngành đào tạo, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.
Mạng lưới y tế được đầu tư, nâng cấp, đã xây dựng mới Bệnh viện Đa khoa, Trung tâm Y tế, Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình huyện, 12/12 trạm y tế xã được công nhận chuẩn quốc gia về y tế,… đã đáp ứng nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nếp sống văn hóa được thể hiện rõ nét qua phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Có 52/52 ấp được công nhận Ấp văn hóa, 99% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hóa và 100% cơ quan đơn vị có đời sống văn hóa tốt.
Công tác đảm bảo an sinh xã hội, chăm sóc các đối tượng chính sách, người có công được chú trọng thực hiện tốt. Trong thời gian qua, huyện đã vận động hơn 8,5 tỷ đồng đóng góp vào nguồn Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, xây dựng 612 căn nhà tình nghĩa. Các chính sách đối với người nghèo như tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề miễn phí, khuyến nông, khuyến công, hỗ trợ y tế, giáo dục… được triển khai thực hiện đạt kết quả tốt với trên 28 tỷ đồng từ các nguồn xã hội đóng góp vào quỹ “Vì người nghèo”, 1.719 căn nhà tình thương được xây tặng, 9.420 suất học bổng, 593 xe đạp được trao cho học sinh nghèo hiếu học; 9.835 hộ nghèo được hỗ trợ vay vốn phát triển kinh tế gia đình với tổng số tiền trên 126 tỷ đồng, bình quân mỗi năm trên 5.000 lao động được giải quyết việc làm. Từ đó đã góp phần giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo từ 27,6% năm 1995 xuống còn 0,58% (theo chuẩn mới). Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 50 triệu đồng vào năm 2017.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững, ổn định. Công tác cải cách hành chính được lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt; cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đi vào nề nếp, có tiến bộ, tạo nhiều thuận lợi cho người dân trong việc giải quyết các thủ tục hành chính.
Nhìn lại chặng đường 24 năm đã đi qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Nhơn Trạch luôn tự hòa và vinh dự với những thành tựu đã đạt được. Để vươn tới đô thị mới vòa năm 2020 theo định hướng của Trung ương, Tỉnh ủy Đồng Nai, huyện Nhơn Trạch tiếp tục phát huy những lợi thế của địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của các sơ, ngành tỉnh Đồng Nai, đoàn kết một lòng, quyết tâm khắc phục những khó khăn, hạn chế, chung tay, sát cánh vượt qua thách thức thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 13- NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng thành phố mới Nhơn Trạch, trong đó chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế bền vững đi đôi với đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội; tiếp tục hực hiện chuyển dịch nền nông nghiệp từ sản xuất nông nghiệp nông thôn chuyển sang sản xuất nông nghiệp phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị; tập trung phát đô thị, hạ tầng kỹ thuật- xã hội; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát hợp với tình hình của địa phương để thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ xây dựng đô thị mới; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, thể hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao.
|
Giới thiệu khái quát quận Ô Môn
Quận Ô Môn là quận nội ô trực thuộc thành phố Cần Thơ (được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Ô Môn thành quận Ô Môn và huyện Cờ Đỏ theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP của Chính phủ), có diện tích 13.222 hecta, trong đó diện tích nông nghiệp 10.130,7 ha, diện tích phi nông nghiệp 3.590 ha; dân số toàn quận hiện nay khoảng 140.030 người (trong đó các dân tộc thiểu số chiếm 5,32% dân số, tín đồ các tôn giáo chiếm 34,45% dân số)
Về vị trí địa lý: Bắc giáp quận Thốt Nốt; Nam giáp quận Bình Thủy và huyện Phong Điền; Đông giáp sông Hậu, ngăn cách với các tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp; Tây giáp huyện Thới Lai và huyện Cờ Đỏ.
Về đơn vị hành chính trực thuộc gồm 7 phường:
– Phường Châu Văn Liêm.
– Phường Thới Hòa.
– Phường Thới An.
– Phường Phước Thới.
– Phường Trường Lạc.
– Phường Thới Long.
– Phường Long Hưng.
Quận Ô Môn nằm cách Trung tâm thành phố Cần Thơ 21 km, nên sự phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của thành phố ít nhiều có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế – xã hội của quận Ô Môn. Bên cạnh đó, quận Ô Môn cũng có một số điều kiện thuận lợi như: Về giao thông đường bộ, Ô Môn có tuyến quốc lộ 91, 91B nối từ quốc lộ 1A qua địa bàn quận dài 20 km, 4 tuyến tỉnh lộ nối từ quốc lộ 91 tỏa ra các hướng; Về đường thủy có sông Hậu chảy qua địa phận quận dài 15km, các phương tiện có trọng tải lớn lưu thông dễ dàng đến cảng Cần Thơ, cảng Cái Cui. Nhìn chung, cả hai tuyến thủy, bộ đều giao lưu thuận tiện đến các tỉnh lân cận, thành phố Hồ Chí Minh và cả nước bạn Campuchia. Ngoài ra, còn có sông Ô Môn là đầu mối giao lưu thuận tiện đến các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và hệ thống kênh rạch chằng chịt như: Rạch Tắc Ông Thục, Ba Rích, Cam My, Bà Sự, Tầm Vu, Rạch Bằng Tăng, … rất thuận lợi việc đi lại, vận chuyển. Trên địa bàn quận có Trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam bộ trực thuộc Trung ương tọa lạc tại phường Phước Thới thu hút hàng ngàn học sinh từ khắp nơi về theo học.
Thời gian qua, UBND quận Ô Môn đã đạt được những kết quả tích cực, nhiều ngành và lĩnh vực tăng trưởng khá; đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh so với kế hoạch đề ra. Theo đó, giá trị sản xuất của quận tăng khá, vượt so kế hoạch; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng ổn định; hoạt động thương mại – dịch vụ sôi động, góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển; hoạt động khoa học công nghệ hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội. Huy động các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt kế hoạch đề ra. Quản lý xây dựng và phát triển đô thị, xử lý môi trường được tăng cường. Cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục – đào tạo, y tế được nâng lên; an sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng; hệ thống thiết chế văn hóa từng bước hoàn thiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Thông tin truyền thông đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của quận.
Đất Ô Môn thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, sản xuất nhiều lúa gạo, có sông nước hiền hoà, là nơi có phong cảnh đẹp, có nhiều mô hình kinh tế hiệu quả như: làng nghề bánh kẹo Ba Rích, phường Thới An; mô hình nuôi vịt thịt, phường Long Hưng; mô hình trồng cam xoàn, bưởi da xanh, nhãn idol, phường Thới An,… với những vườn cây trái sum suê bốn mùa. Sản lượng lúa hàng năm vẫn giữ vững và tăng đều ở mức trên 92 nghìn tấn, với năng suất bình quân trên 4,93 tấn/ha/năm. Tổng diện tích trồng màu hàng năm đạt trên 2.200 ha, tập trung vào những loại cây phù hợp cho năng suất cao, có thị trường ổn định như: đậu nành, mè, bắp lai, đậu xanh,… vườn cây ăn quả đặc sản các loại trên 2.500 ha, cung cấp sản lượng hàng năm khoảng 25.000 tấn trái cây, có thể gắn với phát triển du lịch sinh thái rất tốt. Các phường nằm ven sông Hậu như: Phước Thới, Thới An, Thới Long còn phát triển với nghề nuôi trồng thủy sản như: cá tra, cá bống tượng, cá rô phi đơn tính, cá rô đồng, tôm với sản lượng khoảng 50.000 tấn/năm.
Diện mạo đô thị của quận đã có sự thay đổi nhanh chóng, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ngày càng được hoàn thiện. Ngay từ những ngày đầu thành lập, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội rất thiếu và yếu; hệ thống giao thông chưa phát triển, chủ yếu là đường đất; hệ thống điện, nước sinh hoạt còn hạn chế. Đến nay, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư, cải tạo, nâng cấp; đã xây dựng, đưa vào sử dụng một số công trình lớn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển trước mắt cũng như lâu dài; nhiều công trình hạ tầng kinh tế quan trọng được đầu tư trên địa bàn quận như: Vườn ươm công nghệ công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc, Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn, Khu công nghiệp Trà Nóc 2… Ngoài tuyến Quốc lộ 91, từ trung tâm quận đến các phường đều có đường ô tô, hệ thống đường liên khu vực, liên phường được bê tông hóa, phục vụ tốt cho đời sống, sản xuất và thu hút đầu tư phát triển.
Toàn quận có 42 trường học các cấp, trong đó có 31 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Có 83/83 khu vực đạt khu vực văn hóa và 06/07 phường được công nhận phường văn hóa (Châu Văn Liêm, Trường Lạc, Thới Long, Long Hưng, Thới Hòa và Thới An).
Ô Môn là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, nơi hội tụ các di tích lịch sử nổi tiếng như: Chùa Pôthisômrôn, Đình thần Thới An, Linh sơn cổ miếu,…
Ô Môn là quê hương của nhiều nhân vật nổi tiếng như: Châu Văn Liêm – một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nhạc sĩ Trần Kiết Tường, nhạc sĩ Đắc Nhẫn, nhạc sĩ Triều Dâng…
Công tác cải cách hành chính của quận đạt được những kết quả quan trọng, được đánh giá cao với nhiều mô hình cải cách hành chính đột phá như: mô hình Một cửa liên thông ứng dụng Công nghệ thông tin tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả quận, phường; Mô hình Khảo sát mức độ hài lòng của khách hàng, nhận xét của khách hàng đối cán bộ với Bộ phận Một cửa quận khi tiếp nhận hồ sơ; Mô hình giám sát hoạt động tại Bộ phận Một cửa quận, phường; Mô hình Dịch vụ phát trả hồ sơ tận nhà; Hệ thống mời họp qua tin nhắn điện thoại di động; Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến từ quận đến phường; Chương trình thứ 7 gặp gỡ doanh nghiệp; Chương trình tiếp xúc công dân tại địa bàn dân cư,…
Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị – xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Khu vực phòng thủ quận được xây dựng vững chắc gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Với truyền thống cách mạng vẻ vang, giàu lòng yêu nước; với bản tính cần cù, chịu khó; với tiềm năng kinh tế và lực lượng lao động dồi dào, Đảng bộ và nhân dân quận Ô Môn đoàn kết một lòng, với tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm đưa quận Ô Môn tiếp tục đi lên, phát triển bền vững, góp phần vào thành quả đổi mới của Đảng ta hiện nay.
|
Giới thiệu khái quát quận Ô Môn
Quận Ô Môn là quận nội ô trực thuộc thành phố Cần Thơ (được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Ô Môn thành quận Ô Môn và huyện Cờ Đỏ theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP của Chính phủ), có diện tích 13.222 hecta, trong đó diện tích nông nghiệp 10.130,7 ha, diện tích phi nông nghiệp 3.590 ha; dân số toàn quận hiện nay khoảng 140.030 người (trong đó các dân tộc thiểu số chiếm 5,32% dân số, tín đồ các tôn giáo chiếm 34,45% dân số)
Về vị trí địa lý: Bắc giáp quận Thốt Nốt; Nam giáp quận Bình Thủy và huyện Phong Điền; Đông giáp sông Hậu, ngăn cách với các tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp; Tây giáp huyện Thới Lai và huyện Cờ Đỏ.
Về đơn vị hành chính trực thuộc gồm 7 phường:
– Phường Châu Văn Liêm.
– Phường Thới Hòa.
– Phường Thới An.
– Phường Phước Thới.
– Phường Trường Lạc.
– Phường Thới Long.
– Phường Long Hưng.
Quận Ô Môn nằm cách Trung tâm thành phố Cần Thơ 21 km, nên sự phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của thành phố ít nhiều có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế – xã hội của quận Ô Môn. Bên cạnh đó, quận Ô Môn cũng có một số điều kiện thuận lợi như: Về giao thông đường bộ, Ô Môn có tuyến quốc lộ 91, 91B nối từ quốc lộ 1A qua địa bàn quận dài 20 km, 4 tuyến tỉnh lộ nối từ quốc lộ 91 tỏa ra các hướng; Về đường thủy có sông Hậu chảy qua địa phận quận dài 15km, các phương tiện có trọng tải lớn lưu thông dễ dàng đến cảng Cần Thơ, cảng Cái Cui. Nhìn chung, cả hai tuyến thủy, bộ đều giao lưu thuận tiện đến các tỉnh lân cận, thành phố Hồ Chí Minh và cả nước bạn Campuchia. Ngoài ra, còn có sông Ô Môn là đầu mối giao lưu thuận tiện đến các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và hệ thống kênh rạch chằng chịt như: Rạch Tắc Ông Thục, Ba Rích, Cam My, Bà Sự, Tầm Vu, Rạch Bằng Tăng, … rất thuận lợi việc đi lại, vận chuyển. Trên địa bàn quận có Trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam bộ trực thuộc Trung ương tọa lạc tại phường Phước Thới thu hút hàng ngàn học sinh từ khắp nơi về theo học.
Thời gian qua, UBND quận Ô Môn đã đạt được những kết quả tích cực, nhiều ngành và lĩnh vực tăng trưởng khá; đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh so với kế hoạch đề ra. Theo đó, giá trị sản xuất của quận tăng khá, vượt so kế hoạch; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng ổn định; hoạt động thương mại – dịch vụ sôi động, góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển; hoạt động khoa học công nghệ hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội. Huy động các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt kế hoạch đề ra. Quản lý xây dựng và phát triển đô thị, xử lý môi trường được tăng cường. Cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục – đào tạo, y tế được nâng lên; an sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng; hệ thống thiết chế văn hóa từng bước hoàn thiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Thông tin truyền thông đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của quận.
Đất Ô Môn thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, sản xuất nhiều lúa gạo, có sông nước hiền hoà, là nơi có phong cảnh đẹp, có nhiều mô hình kinh tế hiệu quả như: làng nghề bánh kẹo Ba Rích, phường Thới An; mô hình nuôi vịt thịt, phường Long Hưng; mô hình trồng cam xoàn, bưởi da xanh, nhãn idol, phường Thới An,… với những vườn cây trái sum suê bốn mùa. Sản lượng lúa hàng năm vẫn giữ vững và tăng đều ở mức trên 92 nghìn tấn, với năng suất bình quân trên 4,93 tấn/ha/năm. Tổng diện tích trồng màu hàng năm đạt trên 2.200 ha, tập trung vào những loại cây phù hợp cho năng suất cao, có thị trường ổn định như: đậu nành, mè, bắp lai, đậu xanh,… vườn cây ăn quả đặc sản các loại trên 2.500 ha, cung cấp sản lượng hàng năm khoảng 25.000 tấn trái cây, có thể gắn với phát triển du lịch sinh thái rất tốt. Các phường nằm ven sông Hậu như: Phước Thới, Thới An, Thới Long còn phát triển với nghề nuôi trồng thủy sản như: cá tra, cá bống tượng, cá rô phi đơn tính, cá rô đồng, tôm với sản lượng khoảng 50.000 tấn/năm.
Diện mạo đô thị của quận đã có sự thay đổi nhanh chóng, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ngày càng được hoàn thiện. Ngay từ những ngày đầu thành lập, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội rất thiếu và yếu; hệ thống giao thông chưa phát triển, chủ yếu là đường đất; hệ thống điện, nước sinh hoạt còn hạn chế. Đến nay, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư, cải tạo, nâng cấp; đã xây dựng, đưa vào sử dụng một số công trình lớn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển trước mắt cũng như lâu dài; nhiều công trình hạ tầng kinh tế quan trọng được đầu tư trên địa bàn quận như: Vườn ươm công nghệ công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc, Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn, Khu công nghiệp Trà Nóc 2… Ngoài tuyến Quốc lộ 91, từ trung tâm quận đến các phường đều có đường ô tô, hệ thống đường liên khu vực, liên phường được bê tông hóa, phục vụ tốt cho đời sống, sản xuất và thu hút đầu tư phát triển.
Toàn quận có 42 trường học các cấp, trong đó có 31 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Có 83/83 khu vực đạt khu vực văn hóa và 06/07 phường được công nhận phường văn hóa (Châu Văn Liêm, Trường Lạc, Thới Long, Long Hưng, Thới Hòa và Thới An).
Ô Môn là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, nơi hội tụ các di tích lịch sử nổi tiếng như: Chùa Pôthisômrôn, Đình thần Thới An, Linh sơn cổ miếu,…
Ô Môn là quê hương của nhiều nhân vật nổi tiếng như: Châu Văn Liêm – một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nhạc sĩ Trần Kiết Tường, nhạc sĩ Đắc Nhẫn, nhạc sĩ Triều Dâng…
Công tác cải cách hành chính của quận đạt được những kết quả quan trọng, được đánh giá cao với nhiều mô hình cải cách hành chính đột phá như: mô hình Một cửa liên thông ứng dụng Công nghệ thông tin tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả quận, phường; Mô hình Khảo sát mức độ hài lòng của khách hàng, nhận xét của khách hàng đối cán bộ với Bộ phận Một cửa quận khi tiếp nhận hồ sơ; Mô hình giám sát hoạt động tại Bộ phận Một cửa quận, phường; Mô hình Dịch vụ phát trả hồ sơ tận nhà; Hệ thống mời họp qua tin nhắn điện thoại di động; Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến từ quận đến phường; Chương trình thứ 7 gặp gỡ doanh nghiệp; Chương trình tiếp xúc công dân tại địa bàn dân cư,…
Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị – xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Khu vực phòng thủ quận được xây dựng vững chắc gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Với truyền thống cách mạng vẻ vang, giàu lòng yêu nước; với bản tính cần cù, chịu khó; với tiềm năng kinh tế và lực lượng lao động dồi dào, Đảng bộ và nhân dân quận Ô Môn đoàn kết một lòng, với tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm đưa quận Ô Môn tiếp tục đi lên, phát triển bền vững, góp phần vào thành quả đổi mới của Đảng ta hiện nay.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Ayun Pa
Ayun Pa là một thị xã của tỉnh
Gia Lai
.Thị xã được thành lập trên cơ sở toàn bộ 1.727,5 ha diện tích tự nhiên và 21.613 nhân khẩu của thị trấn Ayun Pa; 3.100 ha diện tích tự nhiên và 2.900 nhân khẩu của xã Ia RTô; 15.537 ha diện tích tự nhiên và 6.962 nhân khẩu của xã Ia Rbol; 8.336 ha diện tích tự nhiên và 3.583 nhân khẩu của xã Ia Sao.
Ayun Pa có các tên cũ là Cheo Reo, Phú Bổn, Hậu Bổn, vốn là một thị trấn nằm ở ngã ba sông Ba và một chi lưu của nó là sông Ayun, cách Plei Ku 96 km, cách Tuy Hòa 130 km theo đường bộ.
Dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa, Ayun Pa là quận lị của quận Cheo Reo, tỉnh Pleiku. Từ năm 1962, khi thành lập tỉnh Phú Bổn, thì Cheo Reo trở thành tỉnh lị tỉnh này với tên gọi mới là Hậu Bổn.
Sau khi nước nhà thống nhất (năm 1975), Ayun Pa là thị trấn, huyện lị của huyện Ayun Pa. Thị trấn Ayun Pa được thành lập theo Quyết định số 77-CP ngày 2-3-1979 của Hội đồng Chính phủ, với địa giới như sau: phía bắc giáp suối Ea Hiao, phía đông giáp sông Ba và sông Ayun, phía tây giáp nông trường Bông, phía nam giáp suối Ea Rơbol.
Ayun Pa trở thành thị xã theo Nghị định 50/2007/NĐ-CP ngày 30-03-2007 của Chính phủ trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Ayun Pa. Huyện Phú Thiện được thành lập trên cơ sở phần còn lại của huyện này.
Thị xã Ayun Pa nằm ở phía Đông Nam tỉnh Gia Lai, có các đường giao thông thuận lợi nối liền với các tỉnh duyên hải miền trung và khu vực Tây Nguyên, tạo nên điều kiện thuận lợi về thông thương và phát triển các loại hình dịch vụ.
Quá trình hình thành và Phát triển
– Quy hoạch chi tiết, xây dựng và khai thác từng phần khu du lịch Suối Đá.
Suối Đá – phong cảnh hữu tình và ẩm thực đậm nét truyền thống Ayun Pa
UBND thị xã Ayun Pa
Địa chỉ: 63 Nguyễn Huệ – Phường Đoàn Kết – Ayun Pa – Gia LaiĐiện thoại: 059.3852206
Fax: 059.3852700; Email: [email protected]
Website: ayunpa.gialai.gov.vn
|
General introduction of Ayun Pa town
Ayun Pa is a town in the province
Gia Lai
.The town was established on the basis of the entire 1,727.5 hectares of natural area and 21,613 inhabitants of Ayun Pa town; 3,100 hectares of natural area and 2,900 people of Ia Rtô commune; 15,537 hectares of natural area and 6,962 people of Ia Rbol commune; 8,336 hectares of natural area and 3,583 people of Ia Sao commune.
Ayun Pa has the old names Cheo Reo, Phu Bon, Hau Bon, originally a town located at the confluence of Ba River and its tributary Ayun River, 96 km from Plei Ku, 130 km from Tuy Hoa along the road. set.
Under the Republic of Vietnam, Ayun Pa is the district capital of Cheo Reo district, Pleiku province. Since 1962, when Phu Bon province was established, Cheo Reo became the capital of this province with the new name Hau Bon.
After the country was unified (in 1975), Ayun Pa was the town and district capital of Ayun Pa district. Ayun Pa town was established under Decision Không. 77-CP dated March 2, 1979 of the Government Council, with the following boundaries: to the north it borders Ea Hiao stream, to the east it borders Ba river and Ayun river, to the west adjacent to Bong farm, to the south adjacent to Ea Rebol stream.
Ayun Pa became a town according to Decree 50/2007/ND-CP dated March 30, 2007 of the Government on the basis of part of the area and population of Ayun Pa district. Phu Thien district was established on the basis of the rest of this district.
Ayun Pa town is located in the southeast of Gia Lai province, with convenient transportation roads connecting the central coastal provinces and the Central Highlands region, creating favorable conditions for trade and development of all types. service.
The process of formation and development
– Detailed planning, construction and exploitation of each part of Suoi Da tourist area.
Suoi Da - charming landscape and traditional Ayun Pa cuisine
Ayun Pa Town People's Committee
Address: 63 Nguyen Hue - Doan Ket Ward - Ayun Pa - Gia LaiPhone: 059.3852206
Fax: 059.3852700; Email: [email protected]
Website: ayunpa.gialai.gov.vn
|
Giới thiệu khái quát huyện ChưPăh
Giới thiệu sơ lược về huyện ChưPăh:
Diện tích: 98.039 ha.
Dân số: 73.011 người (số liệu thống kê năm 2016).
Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: Tỉnh Kon Tum.
– Nam giáp: Huyện Ia Grai, thành phố Pleiku.
– Đông giáp: Huyện Đăk Đoa.
– Tây giáp: Tỉnh
Kon Tum
.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 15 (2 thị trấn và 13 xã – trong đó có 4 xã đặc biệt khó khăn.
– Thị trấn Phú Hòa, thị trấn Ia Ly .
– Các xã: Chư Đăng Ya, Chư Jôr, Đăk Tơ Ver, Hà Tây, Hòa Phú, Ia Ka, Ia Khươl, Ia Mơ Nông, Ia Phí, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hưng, Ia Kreng, Ia Nhin.
– 4 xã đặc biệt khó khăn: Ia Kreng, Chư ĐangYa, Hà Tây, Đăk TơVer.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Huyện được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/11/1996 của Chính phủ và được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Gia Lai, huyện ChưPăh đã tổ chức lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 02/01/1997. Huyện ChưPăh được thành lập trên cơ sở 6 xã của huyện ChưPăh cũ (nay là huyện Ia Grai), 3 xã của huyện Mang Yang cũ (nay là huyện Đăk Đoa) và 2 xã của thị xã PleiKu (nay là thành phố PleiKu). Huyện nằm ở phía Tây-Bắc tỉnh Gia Lai, Trung tâm huyện cách thành phố Pleiku 15 km; phía đông giáp huyện Đak Đoa, phía tây và phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp huyện Ia Grai và thành phố Pleiku; chảy dọc theo ranh giới huyện Chư Păh với huyện Sa Thầy của tỉnh Kon Tum là con sông Ia Krông Bơ Lan, phụ lưu của sông Sê San, tại đây có nhà máy
thủy điện Yaly
. Huyện còn có chung hồ Biển Hồ với thành phố Pleiku, hồ này nằm trên địa phận các xã Nghĩa Hưng, Chư Jôr.Trên địa bàn của huyện có
thác Công Chúa
, nhà máy thuỷ điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mnông (làng Phung) là những thắng cảnh thu hút nhiều khách tham quan. Đường
quốc lộ 14
chạy qua giữa huyện theo hướng Bắc Nam, từ thành phố Kon Tum tỉnh Kon Tum, qua thị trấn Phú Hòa, sang thành phố Pleiku tiếp giáp với quốc lộ 19 nối giữa Pleiku và Quy Nhơn; có tổng diện tích tự nhiên là 98.039 ha, toàn huyện có 13 xã, 02 thị trấn với 123 thôn, làng, Tổ dân phố. Huyện có 17.817 hộ với 73.011 nhân khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 52%, huyện có 4 xã đặc biệt khó khăn.
Huyện giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, du lịch và thủy điện. Đất đai trên địa bàn chủ yếu là đất đỏ bazan phù hợp với phát triển các cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, Hồ tiêu, cao su, bời lời, …
Nền kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với tổng diện tích gieo trồng hàng năm lên đến gần 22.000ha cây trồng các loại; trong đó, cây công nghiệp dài ngày hơn 11.000ha (chủ yếu là cà phê, cao su, hồ tiêu, bời lời); diện tích đồng cỏ và rừng tương đối lớn thuận lợi phát triển chăn nuôi.
Trên địa bàn huyện có một số cơ sở công nghiệp như: Nhà máy thuỷ điện IaLy (cách Trung tâm huyện 25 km), Nhà máy thuỷ điện SêSan3 (cách Trung tâm huyện khoảng 52 km), Nhà máy thuỷ điện RyNinh I và RyNinh II (cách Trung tâm huyện khoảng 22 – 24 km), Nhà máy Thủy điện Hà Tây (cách trung tâm huyện 30km), Nhà máy chế biến chè – cà phê (cách Trung tâm huyện khoảng 3 km), Nhà máy sản xuất ximăng, gạch tuy nen, khí êtylen (cách Trung tâm huyện khoảng 1,5km), Nhà máy luyện cán thép (cách Trung tâm huyện 4 km), Trạm Biến áp 500 Kv Pleiku (cách Trung tâm huyện khoảng 2 km) và đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội huyện đã hình thành và xây dựng cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp quy mô khoảng 53,19 ha tại địa bàn xã Ia Khươl (cách Trung tâm huyện khoảng 20 km về phía Bắc, cách thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum) khoảng 10 km), nằm trên Quốc lộ 14; đến nay, đã có 05 đơn vị đầu tư vào cụm công nghiệp, 02 đơn vị lập dự án xin đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh với kinh phí đầu tư hơn 110 tỷ đồng; nhiều doanh nghiệp đã và đang xúc tiến các thủ tục đầu tư chế biến, thu mua nông sản, cà phê, sản xuất gạch bông không nung, kinh doanh vận tải, du lịch, trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản.
Ngoài ra, huyện có tiềm năng lớn về du lịch có thác Công Chúa, nhà máy thuỷ điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia MơNông (làng Phung, làng Kép), núi Một (xã Chư Jôr), núi Chư ĐangYa (xã Chư DangYa), … là những thắng cảnh thu hút nhiều khách tham quan.
Nhờ khai thác tốt các tiềm năng thế mạnh nên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm hơn 13%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng nâng dần tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ; đến nay, tỷ trọng nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 42,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng chiếm 36,2%, thương mại – dịch vụ chiếm 21,6%; thu nhập bình quân đầu người 30,77 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa xã hội có sự khởi sắc, tỷ lệ học sinh ra lớp các bậc học hàng năm đạt trên 98%; toàn huyện có 17 trường học đạt chuẩn quốc gia; các trường học tại các cụm trung tâm đều đã được tầng hóa, cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học. Đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar trên địa bàn huyện giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020); có đội cồng chiêng của xã Ia Ka được mời tham gia biểu diễn nhiều nơi trong cả nước; có 72% gia đình đạt gia đình văn hoá, 84% thôn, làng, tổ dân phố đạt thôn, làng, tổ dân phố văn hoá; 100% thôn, làng xây dựng được hương ước; đơn vị văn hoá đạt 95%. Tỷ lệ hộ đói nghèo hiện tại còn 17,68% (theo tiêu chí hiện hành. Làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh cho nhân dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,2%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 23%; bình quân một vạn dân có 5 bác sỹ; có 14/15 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Chăm lo tốt đời sống và giải quyết kịp thời chế độ, chính sách cho người có công.
Hoạt động thương mại – dịch vụ có nhiều khởi sắc, chú trọng việc quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn, đã đầu tư xây dựng kiên cố chợ tại các xã: Nghĩa Hưng, Hòa Phú, Ia Nhin, Ia Ly và thị trấn Phú Hòa; chợ thị trấn Phú Hòa bước đầu đã tạo thành trung tâm thương mại trong toàn huyện đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn. Tiềm năng du lịch bước đầu đã được chú trọng quy hoạch và khai thác. Các dịch vụ ngân hàng, bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển, thị trường vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng được mở rộng, việc trao đổi, mua bán hàng hóa nông sản, cung ứng vật tự, nguyên, nhiên liệu và hàng tiêu dùng thực phẩm thiết yếu ngày càng đáp ứng đa dạng hơn.
Thu ngân sách của địa phương năm sau cao hơn năm trước, trong đó thu ngân sách theo phân cấp hàng năm đều tăng, đảm bảo cân đối 25% tổng chi thường xuyên của huyện.
Về quốc phòng – an ninh, trong điều kiện dân số tăng nhanh, thành phần dân cư ngày càng phức tạp, huyện đã triển khai nhiều biện pháp để từng bước kiềm chế phạm pháp hình sự, tỷ lệ phá án tăng cao, lực lượng vũ trang huyện luôn được củng cố về chất và lượng. Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị cơ bản được giữ vững, đã cô lập và vô hiệu hóa các hoạt động của bọn phản động Fulrô và Tin lành
“Đêga”
; công tác đảm bảo an ninh nông thôn, an ninh tư tưởng, an ninh tôn giáo được quan tâm; thực lực hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, tăng cường; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền từ huyện đến cơ sở có nhiều tiến bộ, đã đổi mới tác phong, quy trình làm việc, bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, thực hiện giải quyết công việc hành chính trong một số lĩnh vực cho các tổ chức và công dân theo cơ chế
“Một cửa điện tử”
tại huyện.
Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực; Quan tâm, chú trọng đến công tác phát triển đảng viên, nhất là kết nạp đảng viên ở thôn, làng, tổ dân phố, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng viên là người có đạo, đảng viên chủ doanh nghiệp tư nhân; đến nay Đảng bộ huyện có 52 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc (gồm 19 đảng bộ, 33 chi bộ, có 211 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở).
Mặt trận và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở chú trọng đến công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác kết nạp thành viên, đoàn viên, hội viên. Tập trung tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho quần chúng nhân dân, vận động nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Trong giai đoạn 2015 – 2020, toàn huyện phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm 13% trở lên; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ về khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; huy động nguồn lực xã hội đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo; quan tâm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở./.
|
Giới thiệu khái quát huyện ChưPăh
Giới thiệu sơ lược về huyện ChưPăh:
Diện tích: 98.039 ha.
Dân số: 73.011 người (số liệu thống kê năm 2016).
Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: Tỉnh Kon Tum.
– Nam giáp: Huyện Ia Grai, thành phố Pleiku.
– Đông giáp: Huyện Đăk Đoa.
– Tây giáp: Tỉnh
Kon Tum
.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 15 (2 thị trấn và 13 xã – trong đó có 4 xã đặc biệt khó khăn.
– Thị trấn Phú Hòa, thị trấn Ia Ly .
– Các xã: Chư Đăng Ya, Chư Jôr, Đăk Tơ Ver, Hà Tây, Hòa Phú, Ia Ka, Ia Khươl, Ia Mơ Nông, Ia Phí, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hưng, Ia Kreng, Ia Nhin.
– 4 xã đặc biệt khó khăn: Ia Kreng, Chư ĐangYa, Hà Tây, Đăk TơVer.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Huyện được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/11/1996 của Chính phủ và được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Gia Lai, huyện ChưPăh đã tổ chức lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 02/01/1997. Huyện ChưPăh được thành lập trên cơ sở 6 xã của huyện ChưPăh cũ (nay là huyện Ia Grai), 3 xã của huyện Mang Yang cũ (nay là huyện Đăk Đoa) và 2 xã của thị xã PleiKu (nay là thành phố PleiKu). Huyện nằm ở phía Tây-Bắc tỉnh Gia Lai, Trung tâm huyện cách thành phố Pleiku 15 km; phía đông giáp huyện Đak Đoa, phía tây và phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp huyện Ia Grai và thành phố Pleiku; chảy dọc theo ranh giới huyện Chư Păh với huyện Sa Thầy của tỉnh Kon Tum là con sông Ia Krông Bơ Lan, phụ lưu của sông Sê San, tại đây có nhà máy
thủy điện Yaly
. Huyện còn có chung hồ Biển Hồ với thành phố Pleiku, hồ này nằm trên địa phận các xã Nghĩa Hưng, Chư Jôr.Trên địa bàn của huyện có
thác Công Chúa
, nhà máy thuỷ điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia Mnông (làng Phung) là những thắng cảnh thu hút nhiều khách tham quan. Đường
quốc lộ 14
chạy qua giữa huyện theo hướng Bắc Nam, từ thành phố Kon Tum tỉnh Kon Tum, qua thị trấn Phú Hòa, sang thành phố Pleiku tiếp giáp với quốc lộ 19 nối giữa Pleiku và Quy Nhơn; có tổng diện tích tự nhiên là 98.039 ha, toàn huyện có 13 xã, 02 thị trấn với 123 thôn, làng, Tổ dân phố. Huyện có 17.817 hộ với 73.011 nhân khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 52%, huyện có 4 xã đặc biệt khó khăn.
Huyện giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, du lịch và thủy điện. Đất đai trên địa bàn chủ yếu là đất đỏ bazan phù hợp với phát triển các cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, Hồ tiêu, cao su, bời lời, …
Nền kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với tổng diện tích gieo trồng hàng năm lên đến gần 22.000ha cây trồng các loại; trong đó, cây công nghiệp dài ngày hơn 11.000ha (chủ yếu là cà phê, cao su, hồ tiêu, bời lời); diện tích đồng cỏ và rừng tương đối lớn thuận lợi phát triển chăn nuôi.
Trên địa bàn huyện có một số cơ sở công nghiệp như: Nhà máy thuỷ điện IaLy (cách Trung tâm huyện 25 km), Nhà máy thuỷ điện SêSan3 (cách Trung tâm huyện khoảng 52 km), Nhà máy thuỷ điện RyNinh I và RyNinh II (cách Trung tâm huyện khoảng 22 – 24 km), Nhà máy Thủy điện Hà Tây (cách trung tâm huyện 30km), Nhà máy chế biến chè – cà phê (cách Trung tâm huyện khoảng 3 km), Nhà máy sản xuất ximăng, gạch tuy nen, khí êtylen (cách Trung tâm huyện khoảng 1,5km), Nhà máy luyện cán thép (cách Trung tâm huyện 4 km), Trạm Biến áp 500 Kv Pleiku (cách Trung tâm huyện khoảng 2 km) và đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội huyện đã hình thành và xây dựng cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp quy mô khoảng 53,19 ha tại địa bàn xã Ia Khươl (cách Trung tâm huyện khoảng 20 km về phía Bắc, cách thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum) khoảng 10 km), nằm trên Quốc lộ 14; đến nay, đã có 05 đơn vị đầu tư vào cụm công nghiệp, 02 đơn vị lập dự án xin đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh với kinh phí đầu tư hơn 110 tỷ đồng; nhiều doanh nghiệp đã và đang xúc tiến các thủ tục đầu tư chế biến, thu mua nông sản, cà phê, sản xuất gạch bông không nung, kinh doanh vận tải, du lịch, trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản.
Ngoài ra, huyện có tiềm năng lớn về du lịch có thác Công Chúa, nhà máy thuỷ điện Ia Ly, làng du lịch xã Ia MơNông (làng Phung, làng Kép), núi Một (xã Chư Jôr), núi Chư ĐangYa (xã Chư DangYa), … là những thắng cảnh thu hút nhiều khách tham quan.
Nhờ khai thác tốt các tiềm năng thế mạnh nên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm hơn 13%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng nâng dần tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ; đến nay, tỷ trọng nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 42,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng chiếm 36,2%, thương mại – dịch vụ chiếm 21,6%; thu nhập bình quân đầu người 30,77 triệu đồng.
Lĩnh vực văn hóa xã hội có sự khởi sắc, tỷ lệ học sinh ra lớp các bậc học hàng năm đạt trên 98%; toàn huyện có 17 trường học đạt chuẩn quốc gia; các trường học tại các cụm trung tâm đều đã được tầng hóa, cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học. Đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar trên địa bàn huyện giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020); có đội cồng chiêng của xã Ia Ka được mời tham gia biểu diễn nhiều nơi trong cả nước; có 72% gia đình đạt gia đình văn hoá, 84% thôn, làng, tổ dân phố đạt thôn, làng, tổ dân phố văn hoá; 100% thôn, làng xây dựng được hương ước; đơn vị văn hoá đạt 95%. Tỷ lệ hộ đói nghèo hiện tại còn 17,68% (theo tiêu chí hiện hành. Làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh cho nhân dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,2%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 23%; bình quân một vạn dân có 5 bác sỹ; có 14/15 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Chăm lo tốt đời sống và giải quyết kịp thời chế độ, chính sách cho người có công.
Hoạt động thương mại – dịch vụ có nhiều khởi sắc, chú trọng việc quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn, đã đầu tư xây dựng kiên cố chợ tại các xã: Nghĩa Hưng, Hòa Phú, Ia Nhin, Ia Ly và thị trấn Phú Hòa; chợ thị trấn Phú Hòa bước đầu đã tạo thành trung tâm thương mại trong toàn huyện đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn. Tiềm năng du lịch bước đầu đã được chú trọng quy hoạch và khai thác. Các dịch vụ ngân hàng, bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển, thị trường vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng được mở rộng, việc trao đổi, mua bán hàng hóa nông sản, cung ứng vật tự, nguyên, nhiên liệu và hàng tiêu dùng thực phẩm thiết yếu ngày càng đáp ứng đa dạng hơn.
Thu ngân sách của địa phương năm sau cao hơn năm trước, trong đó thu ngân sách theo phân cấp hàng năm đều tăng, đảm bảo cân đối 25% tổng chi thường xuyên của huyện.
Về quốc phòng – an ninh, trong điều kiện dân số tăng nhanh, thành phần dân cư ngày càng phức tạp, huyện đã triển khai nhiều biện pháp để từng bước kiềm chế phạm pháp hình sự, tỷ lệ phá án tăng cao, lực lượng vũ trang huyện luôn được củng cố về chất và lượng. Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị cơ bản được giữ vững, đã cô lập và vô hiệu hóa các hoạt động của bọn phản động Fulrô và Tin lành
“Đêga”
; công tác đảm bảo an ninh nông thôn, an ninh tư tưởng, an ninh tôn giáo được quan tâm; thực lực hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, tăng cường; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền từ huyện đến cơ sở có nhiều tiến bộ, đã đổi mới tác phong, quy trình làm việc, bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, thực hiện giải quyết công việc hành chính trong một số lĩnh vực cho các tổ chức và công dân theo cơ chế
“Một cửa điện tử”
tại huyện.
Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực; Quan tâm, chú trọng đến công tác phát triển đảng viên, nhất là kết nạp đảng viên ở thôn, làng, tổ dân phố, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng viên là người có đạo, đảng viên chủ doanh nghiệp tư nhân; đến nay Đảng bộ huyện có 52 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc (gồm 19 đảng bộ, 33 chi bộ, có 211 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở).
Mặt trận và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở chú trọng đến công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác kết nạp thành viên, đoàn viên, hội viên. Tập trung tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho quần chúng nhân dân, vận động nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Trong giai đoạn 2015 – 2020, toàn huyện phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm 13% trở lên; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ về khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của huyện; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa; huy động nguồn lực xã hội đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo; quan tâm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Chư Sê
Huyện Chư Sê được thành lập theo Quyết định số 34-HĐBT ngày 17-8-1981 của Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở các xã Ia Tiêm, Bờ Ngoong, Al Bă, Hbông và xã Dun của huyện Mang Yang. Các xã Ia Glai, Ia Hlốp, Ia Blang, Ia Hrú, Ia Ko, Ia Le và Nhơn Hoà của huyện Chư Prông.
Nghị quyết số 43/NQ-CP ngày 27-8-2009 của Chính phủ điều chỉnh địa giới hành chính huyện Chư Sê để thành lập huyện Chư Pưh thuộc tỉnh Gia Lai. Huyện lỵ của huyện Chư Sê là thị trấn Chư Sê
Diện tích:
642,96 Km2.
Dân số:
116.000 người (số liệu thống kê năm 2015).
Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: huyện Đăk Đoa.
– Nam giáp: huyện Chư Pưh.
– Đông giáp: huyện Mang Yang.
– Tây giáp: huyện Chư Prông.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn:
15 (1 thị trấn, 14 xã).
– Thị trấn: Chư Sê.
– Các xã: Ia Blang, Dun, Ayun, ALBá, Bờ Ngoong, Bar Măih, Ia Tiêm, Chư Pơng, Ia Glai, Ia Hlốp, Ia Ko, Hbông, Ia Pal và Kông HTok.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Trong giai đoạn từ năm 2005 – 2010, huyện Chư Sê đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 15,1% (tăng 21% so với chỉ tiêu đề ra). Tổng giá trị sản xuất đạt 1.594 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994) và đạt 5.579 tỷ đồng (theo giá hiện hành). Ngành nông nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm là 9%, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 61% (2005) xuống còn 45% (2010); ngành công nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm là 21,2%, tỷ trọng tăng dần từ 21,8% (2005) lên 30% (2010); ngành dịch vụ tăng trưởng bình quân hàng năm 19,8%, tỷ trọng tăng dần từ 17,5% (2005) lên 25% (2010). Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2009 đạt 13,5 triệu đồng/năm (tăng 52% so với chỉ tiêu đề ra). Sự nghiệp giáo dục được đầu tư mạnh, tăng về quy mô trường lớp và chất lượng dạy học; sự nghiệp y tế từng bước đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 39,9% năm 2005 xuống còn 21,3% năm 2010.
Đặc biệt, trên địa bàn huyện đã hình thành vùng sản xuất tập trung với các sản phẩm có chất lượng, giá trị xuất khẩu cao và có sức cạnh tranh trên thị trường. Các chương trình mục tiêu quốc gia về hỗ trợ vốn, giống, vật tư, chuyển giao khoa học – công nghệ ứng dụng vào sản xuất cho nông dân được chú trọng; nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả được nhân rộng, góp phần nâng cao năng suất và thu nhập cho nhân dân, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tính đến nay, tổng diện tích gieo trồng đạt 41.632 ha, trong đó, ngoài quốc doanh 33.216 ha (tăng 12% so với chỉ tiêu đề ra), gồm các cây trồng có thế mạnh như: Cà phê 10.987 ha, hồ tiêu 3.536 ha, cao su 11.625,6 ha, lúa nước 4.693 ha…Tổng sản lượng lương thực (cây có hạt) đạt 44.112 tấn (đạt 99,6% so với chỉ tiêu đề ra); sản lượng cà phê nhân vụ 2009 đạt 20.000 tấn, hồ tiêu đạt 15.000 tấn, cao su mủ khô đạt 14.400 tấn, duy trì ổn định vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Ngoài thế mạnh cây công nghiệp, trong những năm qua, huyện đã chủ động phát triển ngành chăn nuôi cả về quy mô và chất lượng (tổng đàn gia súc 78.973 con). Đặc biệt có nhiều trang trại chăn nuôi từ 200 con đến 1.000 con gia súc ở xã Hbông, Ayun, thị trấn Chư Sê…
Hoạt động dịch vụ phát triển khá mạnh từ huyện đến xã, đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội: Năm 2009, tổng giá trị sản xuất đạt 350 tỷ đồng, ước thực hiện năm 2010 đạt 320 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 19,8%/năm (đạt 96% so với chỉ tiêu đề ra). Dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, điện, nước sinh hoạt… phát triển cả về quy mô, số lượng; các mặt hàng chính sách được cung cấp kịp thời đến các đối tượng thụ hưởng; thông tin liên lạc, vận chuyển hàng hóa… đảm bảo thông suốt từ huyện đến các xã và đến các thôn, làng vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu thụ hàng hóa và phát triển sản xuất của nhân dân.
Bên cạnh những thuận lợi, huyện Chư Sê còn gặp một số hạn chế là: Cơ cấu nông nghiệp chuyển đổi còn chậm, tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp thấp; tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi còn nguy cơ tái phát. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn còn dàn trải, cơ giới hóa trong nông nghiệp thấp, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa. Công nghiệp chế biến ở các vùng nông thôn phát triển chậm, quy mô nhỏ, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch còn hạn chế. Các thành phần kinh tế phát triển không đều, nhất là hoạt động của hợp tác xã còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được vai trò của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường.
Định hướng phát triển trong giai đoạn 2010 – 2015, Chư Sê phấn đấu để trở thành vùng động lực phía Nam của tỉnh. Theo đó, huyện phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 14,2%; đến năm 2015, tổng giá trị sản xuất đạt 2.473 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 35,5 triệu đồng/năm. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 908 tỷ đồng; tổng chi ngân sách địa phương đạt 1.073 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển bình quân hàng năm đạt 37 tỷ đồng (chiếm 17% tổng chi ngân sách địa phương). Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, trên cơ sở phát huy những sản phẩm có lợi thế so sánh như cà phê, hồ tiêu, cao su…; tiếp tục quảng bá thương hiệu Hồ tiêu Chư Sê ra thị trường thế giới, xây dựng trại giống Hồ tiêu Chư Sê.
Với nội lực và tiềm năng vốn có, trong thời gian ngắn nhất huyện Chư Sê sẽ xứng tầm là vùng kinh tế động lực phía Nam của tỉnh.
|
General introduction of Chu Se district
Chu Se district was established under Decision Không. 34-HDBT dated August 17, 1981 of the Council of Ministers on the basis of Ia Tiem, Bo Ngoong, Al Ba, Hbong and Dun communes of Mang Yang district. Ia Glai, Ia Hlop, Ia Blang, Ia Hrú, Ia Ko, Ia Le and Nhon Hoa communes of Chu Prong district.
Resolution Không. 43/NQ-CP dated August 27, 2009 of the Government adjusting the administrative boundaries of Chu Se district to establish Chu Puh district in Gia Lai province. The district capital of Chu Se district is Chu Se town
Acreage:
642.96 Km2.
Population:
116,000 people (2015 statistics).
Geographical location:
– North borders: Dak Doa district.
– Bordering South: Chu Puh district.
– Bordered to the East: Mang Yang district.
– West borders: Chu Prong district.
Commune and town-level administrative units:
15 (1 town, 14 communes).
– Town: Chu Se.
– Communes: Ia Blang, Dun, Ayun, ALBá, Bo Ngoong, Bar Măih, Ia Tiem, Chu Pong, Ia Glai, Ia Hlop, Ia Ko, Hbong, Ia Pal and Kong HTok.
Economic - cultural - social overview:
During the period from 2005 to 2010, Chu Se district achieved an average economic growth rate of 15.1% (an increase of 21% compared to the set target). Total production value reached 1,594 billion VND (at 1994 fixed prices) and 5,579 billion VND (at current prices). The agricultural sector has an average annual growth rate of 9%, the proportion of agriculture decreased from 61% (2005) to 45% (2010); The industry's average annual growth rate is 21.2%, the proportion gradually increasing from 21.8% (2005) to 30% (2010); The service industry has an average annual growth rate of 19.8%, with its proportion gradually increasing from 17.5% (2005) to 25% (2010). Average income per capita by the end of 2009 reached 13.5 million VND/year (an increase of 52% compared to the set target). Education has received strong investment, increasing the size of schools and teaching quality; The medical career gradually meets the people's health care requirements; The poverty rate decreased from 39.9% in 2005 to 21.3% in 2010.
In particular, the district has formed a concentrated production area with products of high quality, high export value and competitiveness in the market. National target programs on supporting capital, seeds, materials, and transferring science and technology applied to production for farmers are focused; Many effective production models have been replicated, contributing to improving productivity and income for the people, promoting economic development. Up to now, the total cultivated area has reached 41,632 hectares, of which, non-state owned 33,216 hectares (an increase of 12% compared to the set target), including strong crops such as: Coffee 10,987 hectares, pepper 3,536 hectares hectares, rubber 11,625.6 hectares, wet rice 4,693 hectares... Total food production (seed crops) reached 44,112 tons (reaching 99.6% of the set target); Coffee output in the 2009 crop reached 20,000 tons, pepper reached 15,000 tons, dried rubber latex reached 14,400 tons, maintaining stable raw material areas for the processing industry.
In addition to the strength of industrial crops, in recent years, the district has proactively developed the livestock industry in both scale and quality (total herd of cattle 78,973 heads). In particular, there are many livestock farms from 200 to 1,000 cattle in Hbong commune, Ayun commune, Chu Se town...
Service activities have developed quite strongly from districts to communes, meeting the people's living needs and socio-economic development requirements: In 2009, the total production value reached 350 billion VND, estimated to reach in 2010 reached 320 billion VND, an average growth of 19.8%/year (reaching 96% of the set target). Financial and banking services, insurance, post and telecommunications, transportation, electricity, running water... develop in both scale and quantity; Policy items are provided promptly to beneficiaries; communication, transportation of goods... ensure smooth flow from the district to the communes and to the hamlets and villages in remote areas, especially difficult areas, meeting the needs of daily life, goods consumption and development. people's production development.
Besides the advantages, Chu Se district also faces some limitations: Agricultural structure transformation is still slow, the proportion of animal husbandry in agriculture is low; The disease situation on crops and livestock is still at risk of recurrence. Investment capital for agricultural development, farmers and rural areas is still scattered, mechanization in agriculture is low, especially in remote communes. Processing industry in rural areas develops slowly, on a small scale, and the application of post-harvest technology is limited. Economic sectors develop unevenly, especially the activities of cooperatives are still limited, and the role of the collective economy in the market economy has not been promoted.
Development orientation in the period 2010 - 2015, Chu Se strives to become the southern driving force of the province. Accordingly, the district strives for an average annual economic growth rate of 14.2%; By 2015, total production value reached 2,473 billion VND, average income per capita reached 35.5 million VND/year. Total state budget revenue in the area reached 908 billion VND; Total local budget expenditure reached 1,073 billion VND, of which the average annual development investment expenditure reached 37 billion VND (accounting for 17% of total local budget expenditure). Build and develop agriculture in the direction of commodity production, capable of competing in the world market, on the basis of promoting products with comparative advantages such as coffee, pepper, rubber...; continue to promote the Chu Se Pepper brand to the world market, build a Chu Se Pepper hatchery.
With its internal strength and inherent potential, in the shortest time, Chu Se district will be worthy of being the southern driving economic region of the province.
|
Giới thiệu khái quát huyện Chư Prông
Chư Prông
là một huyện của tỉnh Gia Lai, huyện lỵ là thị trấn Chư Prông. Tên huyện được đặt theo tên ngọn núi cao nhất vùng – núi Chư Prông. Chư Prông theo tiếng Jrai có nghĩa là “ngọn núi lớn”, “chư” là ngọn núi, “prông” là lớn.
1. Diện tích:
169.551,56 ha.
2. Dân số:
116.867 người.
3. Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: Đức Cơ, Ia Grai, thành phố Pleiku, Đăk Đoa.
– Nam giáp: huyện Ea Súp,
tỉnh Đăk Lăk
.
– Đông giáp: các huyện Chư Sê, Chư Pưh.
– Tây giáp: Cam Pu Chia (đường biên giới chung với chiều dài 42km).
4. Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn
: 20 (1 thị trấn, 19 xã).
– Thị trấn: Chư Prông.
– Các xã: Ia Băng, Ia Boòng, Ia Lâu, Ia Me, Ia Mơr, Ia O, Ia Pia, Ia Púch, Ia Phìn, Ia Tôr, Ia Vê, Bàu Cạn, Bình Giáo, Thăng Hưng, Ia Bang, Ia Kly, Ia Drăng, Ia Ga, Ia Piơr.
5. Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Thị trấn Chư Prông là nơi tập trung các cơ quan hành chính của huyện, gồm Huyện ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ và các cơ quan khác. Trường THPT Lê Quý Đôn là trường lớn nhất tại Chư Prông nằm trên đường Nguyễn Trãi. ngoài ra còn có trường Trung học phổ thông Trần Phú (xã Thăng Hưng), trường Trung học phổ thông Plei Me (xã Ia Ga), trung học cơ sở Chu Văn An và hệ thống các trường tiểu học.
Chư Prông là nơi đã diễn ra chiến thắng nổi tiếng diễn ra cách đây hơn 50 năm đó là chiến thắng Plei Me oanh liệt và hiện nay đã trở thành điểm tham quan, du lịch. Đến với Chư Prông bạn có thể thấy những ngọn đồi với bạt ngàn cà phê, cao su và Hồ tiêu, bạn còn có thể đến thăm thác 7 bậc tại xã Ia Phìn, các điểm du lịch của huyện như nông trường Chè Bàu Cạn, chùa Bửu Sơn, chùa Đức Tôn…
Năm 2015, tổng giá trị sản xuất toàn huyện ước đạt hơn 2.620,31 tỷ đồng, tăng 765,93 tỷ đồng so với năm 2010, mức tăng bình quân 7,16%/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2010-2015 ước đạt 6.900 tỷ đồng, đạt 112,2%, tăng 1.440 tỷ đồng so với giai đoạn 2005-2010; Đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo còn 10,35% (theo tiêu chí giai đoạn 2011-2015, giảm bình quân hàng năm 3,39%); thu nhập bình quân đạt 28,2 triệu đồng/người/năm, đạt 104,4%.
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển dịch nhanh và đúng hướng. Ước tính đến cuối năm 2015, tổng diện tích gieo trồng là 73.800 ha (tăng 15.969 ha so với năm 2010).
Huyện luôn chú trọng áp dụng các mô hình sản xuất nông nghiệp đem lại giá trị kinh tế cao. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội liên tục tăng qua các năm với mức tăng bình quân 112,2%/năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội như điện – đường – trường – trạm được quan tâm đầu tư, góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, tăng năng lực sản xuất và làm thay đổi khá nhanh diện mạo nông thôn, đặc biệt là ở các xã vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến nay, 100% tuyến đường từ huyện đến xã đã được thảm nhựa, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, hơn 95% thôn, làng và hơn 90% số hộ gia đình được sử dụng điện.
Sự nghiệp giáo dục, y tế không ngừng phát triển, chất lượng dạy và học, khám – chữa bệnh được nâng lên, đời sống của nhân dân được cải thiện, góp phần tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Đến nay, huyện đạt tỷ lệ 3,2 bác sĩ/vạn dân, 60% trạm y tế xã và phòng khám khu vực có bác sĩ; tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đủ liều đạt 98%; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng là 17,2% (giảm 5,85% so với năm 2010).
Trong giai đoạn 2015 – 2020 toàn huyện phấn đấu đạt các chỉ tiêu cơ bản sau: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân đạt 8,1%/năm; cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông – lâm – ngư nghiệp đạt 52,4%, công nghiệp – xây dựng đạt 21,2%, dịch vụ đạt 26,4%; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 40 triệu đồng/người/năm; tốc độ thu ngân sách bình quân đạt 9%/năm, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 5%; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 26,31%; tỷ lệ dân sử dụng điện lưới quốc gia 100%; tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 52,6%, tỷ lệ che phủ rừng 46,5%; Tỷ lệ xã vững mạnh về Quốc phòng – An ninh 70-75%.
DI TÍCH DANH THẮNG
Công xưởng chế tác thời tiền sử
Địa điểm: làng Gà, xã Ia Boòng, huyện Chư Prông
Phát hiện tháng 4/2015
Nhiều hiện vật đồ đá được phát hiện trong hố khai quật.
Ảnh: Nguyễn Giác (Báo Gia Lai)
Hiện vật rìu mài lưỡi và bàn mài được phát hiện di chỉ.
Ảnh: N.G
Di tích Thôn Bảy ở thị trấn Chư Prông, huyện Chư Prông
Phát hiện năm 1994.
Tại đây đã đào thám sát với diện tích 4m2; tổng số hiện vật có: 6 rìu có vai, 9 bàn mài, 111 mảnh tước; chất liệu chế tác là đá phtanite, silic và opal. Đồ gốm có 100 mảnh, gốm thô, bở.
Vào các năm 1998 và 2000, Thôn Bảy tiếp tục được phúc tra, xác nhận có diện tích rộng khoảng 5.000-7.000m2, tầng văn hoá dày, hiện vật phong phú (Bu i Va n Lie m cs, 2002, tr.134- 136). Tháng 1/2002, di tích được khai quật hai hố ở đất rẫy nhà ông Nguyễn Vinh Hiển. Tổng số hiện vật thu được là 17.785 di vật đá và đồ gốm. Trong đó H1 có 262 công cụ đá các loại, 1.872 mảnh tước/mảnh tách, 11.931 mảnh gốm; H2 có 33 công cụ đá các loại, 204 mảnh tước, mảnh tách và 3.483 gốm mảnh.
Di tích Ia Mơr
Địa điểm ở thôn KLăh, xã Ia Mơr, huyện Chư Prông; toạ độ 13029’446” vĩ Bắc và 107044’558” kinh Đông.
Được phát hiện năm 2005.
|
General introduction of Chu Prong district
Chu Prong
is a district of Gia Lai province, the district capital is Chu Prong town. The district's name is named after the highest mountain in the region - Chu Prong Mountain. Chu Prong in Jrai language means "big mountain", "chu" is mountain, "prong" is big.
1. Area:
169,551.56 hectares.
2. Population:
116,867 people.
3. Geographical location:
– North borders: Duc Co, Ia Grai, Pleiku city, Dak Doa.
– South borders: Ea Sup district,
Dak Lak Province
.
– Bordered to the East: Chu Se and Chu Puh districts.
– West borders: Cambodia (common border with a length of 42km).
4. Commune and town-level administrative units
: 20 (1 town, 19 communes).
– Town: Chu Prong.
– Communes: Ia Bang, Ia Boong, Ia Lau, Ia Me, Ia Mor, Ia O, Ia Pia, Ia Puch, Ia Phin, Ia Tor, Ia Ve, Bau Can, Binh Giao, Thang Hung, Ia Bang, Ia Kly, Ia Drang, Ia Ga, Ia Pier.
5. Economic - cultural - social overview:
Chu Prong Town is where the district's administrative agencies gather, including the District Party Committee, People's Council, People's Committee, Fatherland Front Committee and other agencies. Le Quy Don High School is the largest school in Chu Prong located on Nguyen Trai Street. In addition, there is Tran Phu High School (Thang Hung commune), Plei Me High School (Ia Ga commune), Chu Van An middle school and a system of primary schools.
Chu Prong is the place where the famous victory that took place more than 50 years ago, the glorious Plei Me victory, took place and has now become a tourist attraction. Coming to Chu Prong, you can see hills with immense coffee, rubber and pepper, you can also visit the 7-step waterfall in Ia Phin commune, tourist attractions of the district such as Bau Can Tea Farm, Buu Son Pagoda, Duc Ton Pagoda...
In 2015, the total production value of the entire district was estimated at more than 2,620.31 billion VND, an increase of 765.93 billion VND compared to 2010, an average increase of 7.16%/year; Total social investment capital for the period 2010-2015 is estimated at 6,900 billion VND, reaching 112.2%, an increase of 1,440 billion VND compared to the period 2005-2010; By the end of 2015, the poverty rate was 10.35% (according to the criteria for the period 2011-2015, an average annual decrease of 3.39%); Average income reached 28.2 million VND/person/year, reaching 104.4%.
The economic structure, investment structure, and crop and livestock structure are shifting quickly and in the right direction. It is estimated that by the end of 2015, the total planted area will be 73,800 hectares (an increase of 15,969 hectares compared to 2010).
The district always focuses on applying agricultural production models that bring high economic value. Investment capital for social development has continuously increased over the years with an average increase of 112.2%/year. Socio-economic infrastructure such as electricity - roads - schools - stations are invested in, contributing to promoting production, improving people's quality of life, increasing production capacity and making changes in society. Accelerate the appearance of rural areas, especially in remote communes and ethnic minority areas. To date, 100% of roads from districts to communes have been paved with asphalt, 100% of communes have car roads to the commune center, more than 95% of hamlets and villages and more than 90% of households have access to electricity.
Education and healthcare are constantly developing, the quality of teaching and learning, medical examination and treatment is improving, people's lives are improving, contributing to creating new driving forces to promote rapid and sustainable economic development. solid. To date, the district has reached a rate of 3.2 doctors/ten thousand people, 60% of commune health stations and regional clinics have doctors; The rate of children under 1 year old fully vaccinated reached 98%; The rate of malnourished children is 17.2% (down 5.85% compared to 2010).
In the period 2015 - 2020, the whole district strives to achieve the following basic targets: Average production value growth rate reaches 8.1%/year; The structure of production value of agriculture - forestry - fishery reached 52.4%, industry - construction reached 21.2%, services reached 26.4%; Average income per capita by 2020 will reach 40 million VND/person/year; The average budget revenue rate reaches 9%/year, reducing the poverty rate to below 5%; The rate of communes meeting new rural standards is 26.31%; The proportion of people using national grid electricity is 100%; The rate of communes meeting national standards for health is 52.6%, the rate of forest coverage is 46.5%; The percentage of communes that are strong in National Defense and Security is 70-75%.
SIGNIFICANT RELICS
Prehistoric factory
Location: Ga village, Ia Boong commune, Chu Prong district
Discovered in April 2015
Many stone artifacts were discovered in the excavation pit.
Photo: Nguyen Giac (Gia Lai Newspaper)
Artifacts of sharpened axes and grinding tables were discovered at the site.
Photo: N.G
Thon Bay relic in Chu Prong town, Chu Prong district
Discovered in 1994.
Here, a reconnaissance excavation was conducted with an area of 4 square meters; Total artifacts include: 6 shoulder axes, 9 grinding tables, 111 scrap pieces; Crafted materials are phthalite, silicon and opal. The pottery has 100 pieces, rough and friable.
In 1998 and 2000, Thon Bay continued to be inspected and confirmed to have an area of about 5,000-7,000 square meters, a thick cultural layer, and rich artifacts (Bu i Va n Lie m cs, 2002, p. 134 - 136). In January 2002, the relics were excavated in two holes in Mr. Nguyen Vinh Hien's farmland. The total number of artifacts recovered is 17,785 stone relics and ceramics. In which H1 has 262 stone tools of all kinds, 1,872 stripped pieces/split pieces, 11,931 ceramic pieces; H2 has 33 stone tools of all kinds, 204 stripped pieces, split pieces and 3,483 ceramic pieces.
Ia Mor relic
Location in KLăh village, Ia Mo commune, Chu Prong district; Coordinates 13029'446" North latitude and 107044'558" East longitude.
Discovered in 2005.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ia Pa
Huyện Ia Pa thành lập theo theo Ngịh định số 104/2002/NĐ-CP ngày 18-12-2002 của Chính phủ, trên cơ sở diện tích và dân số của 9 xã phía bắc sông Ayun huyện Ayun Pa.
Ia Pa là một huyện phía đông nam của tỉnh Gia Lai. Trung tâm hành chính huyện thuộc xã Kim Tân.
Diện tích: 868.5 Km
2
.
Dân số: 48.497 người (số liệu thống kê năm 2008).
Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: các huyện Chư Sê, Mang Yang, Kông Chro.
– Nam giáp: huyện Krông Pa.
– Đông giáp: huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
– Tây giáp: huyện Phú Thiện, thị xã Ayun Pa.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 9 xã, bao gồm: các xã Chư Mố, Ia Broăi, Ia Kdăm, Ia Tul, Ia Trôk, Ia Mrơn, Pờ Tó, Chư Răng, Kim Tân.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Trong giai đoạn từ năm 2005 – 2010, kinh tế trên địa bàn huyện Ia Pa có tốc độ tăng trưởng khá, bình quân đạt 16,1% (trong đó giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng 14,4%; công nghiệp – xây dựng tăng 22,2%; dịch vụ tăng 13% so với chỉ tiêu đề ra). Thu nhập bình quân đầu người đạt 7,51 triệu đồng/năm.
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2010 tỉ trọng nông – lâm nghiệp chiếm 69,42%, đạt 98,7%; công nghiêp – xây dựng chiếm 19,8%, đạt 120%; thương mại dịch vụ chiếm 10,75%, đạt trên 100% so với chỉ tiêu đề ra. Trong sản xuất nông nghiệp có mức tăng trưởng khá, hầu hết tại các xã người dân đã đưa cơ giới hóa vào các khâu làm đất, thu hoạch. Huyện bước đầu trồng được 1.200 ha cao su, tạo tiền để phát triển cây công nghiệp dài ngày trên địa bàn.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội chuyển biến tích cực, chất lượng giáo dục và khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao, số hộ nghèo đến cuối năm 2010 chỉ còn 21,9%, giảm được gần 50% so với năm 2005; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là nhân dân vùng sâu, vùng xa, người đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt. Công tác quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo góp phần phát triển kinh tế – xã hội của huyện.
Sau năm 1975, khảo cổ học ở Gia Lai thực sự chuyển mình. Nhiều chương trình nghiên cứu về Tây Nguyên và các cuộc điều tra, sưu tầm, khai quật do cán bộ Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng tỉnh thực hiện. Đến nay ở Gia Lai đã phát hiện khoảng 80 di tích khảo cổ thời tiền sử, trong đó 7 di tích đã tiến hành khai quật: Biển Hồ, Trà Dôm (TP. Pleiku); thôn 7, Ia Mơr (huyện Chư Prông); Tai Pêr, làng Ngol (huyện Chư Sê). Các di tích này được xác nhận thuộc văn hóa Biển Hồ. Cư dân văn hóa Biển Hồ là những người định cư, làm nông nghiệp gần những hồ nước lớn, có quan hệ nhất định với các nhóm cư dân cổ ven biển miền Trung, cư dân tiền sử Lào, Campuchia và đặc biệt là cư dân văn hóa Lung Leng (Kon Tum).
Năm 2010 di tích Bang Keng (huyện Krông Pa)-một trong những di tích mang dấu ấn văn hóa Chăm Pa được tiến hành khai quật. Trên cơ sở nghiên cứu các loại hình kiến trúc, kỹ thuật xây dựng của di tích Bang Keng, bước đầu xác định niên đại vào khoảng thế kỷ VII-VIII sau Công nguyên. Có thể nói rằng sự tồn tại của văn hóa Chăm Pa ở vùng đất Gia Lai không chỉ để lại những dấu ấn về vật chất mà còn biểu hiện quá trình giao thoa, ảnh hưởng và dung hòa vào đời sống tinh thần của cư dân bản địa. Những phát hiện mới nhất tại di tích Bang Keng cùng với những nhận thức ban đầu về những di tích kiến trúc hay các dấu tích văn hóa Chăm Pa trên địa bàn tỉnh Gia Lai cho thấy vùng đất này đã từng giữ một vai trò quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của nền văn hóa Chăm Pa trong lịch sử.
Năm 2015, cán bộ Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng tỉnh Gia Lai tiến hành điều tra, khảo sát khảo cổ tại khu vực huyện Chư Prông đã tìm thấy những công cụ đá kiểu Văn hóa Hòa Bình muộn (6.000-5.000 năm cách ngày nay)(2)-một nền văn hóa khảo cổ đánh dấu mốc quan trọng cho sự phát triển rực rỡ của thời kỳ đá mới, đặt nền móng cho sự phát triển của nhiều nền văn hóa sau này.
Đặc biệt tháng 11-2015, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp Viện Khảo cổ học và Dân tộc học Novosbrisk thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã tiến hành khai quật tại di tích Gò Đá và di tích Rộc Tưng thuộc thị xã An Khê đã thu thập được những công cụ có giá trị tiêu biểu thuộc thời kỳ đá cũ. Theo nhận định ban đầu của các chuyên gia Nga thì các công cụ đá cũ ở đây có nét cổ xưa hơn so với sưu tập đá Bách Sắc (Quảng Tây, Trung Quốc) vốn được định niên đại khoảng 80 vạn năm trước.
Kết quả nghiên cứu, khai quật khẳng định An Khê có mặt các di tích cổ xưa của nhân loại. Đây là các chế phẩm của người vượn đứng thẳng (Homo erectus), minh chứng cho giai đoạn bình minh của lịch sử dân tộc. Những di tích này góp phần nghiên cứu, biên soạn lịch sử nước nhà và vị trí của chúng trong diễn trình hình thành và phát triển đầu tiên của nhân loại trên đất Gia Lai. Những phát hiện này mở ra một triển vọng lớn cho các chương trình hợp tác khai quật khảo cổ tiếp theo và cơ sở xây dựng quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng.
PGS.TS Nguyễn Giang Hải-Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam cho biết: Kết quả nghiên cứu lần này đã vượt quá sự mong đợi và cũng gây lên một sự chấn động với các nhà khảo cổ học thế giới vì nơi đây đã tìm thấy các di vật cổ xưa của loài người chính trong tầng văn hóa. Đó thực sự là những tín hiệu vui không chỉ đối với các nhà khảo cổ như PGS. TS Nguyễn Khắc Sử đã nói: “Trong nghề khảo cổ, không phải ai cũng có may mắn, cơ duyên gặp và khai quật được những loại công cụ tiêu biểu như thế này” mà còn là niềm vinh dự của Gia Lai nói riêng, Việt Nam nói chung trên bản đồ đá cũ thế giới. Tín hiệu vui ấy còn nhân lên gấp bội khi Viện sĩ Anatoly Derivenko-Viện trưởng Viện Khảo cổ học và Dân tộc học Novosbrisk thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga còn cho biết sẽ có kế hoạch phối hợp lâu dài với Viện Khảo cổ học Việt Nam để tiến hành nghiên cứu, khai quật tại khu vực này trong những năm tiếp theo.
|
General introduction to Ia Pa district
Ia Pa district was established according to Decree Không. 104/2002/ND-CP dated December 18, 2002 of the Government, on the basis of the area and population of 9 communes north of the Ayun River, Ayun Pa district.
Ia Pa is a district in the southeast of Gia Lai province. The district administrative center belongs to Kim Tan commune.
Area: 868.5 Km
2
.
Population: 48,497 people (2008 statistics).
Geographical location:
– North borders: Chu Se, Mang Yang, Kong Chro districts.
– Bordering South: Krong Pa district.
– Bordered to the East: Dong Xuan district, Phu Yen province.
– West borders: Phu Thien district, Ayun Pa town.
Commune and town administrative units: 9 communes, including: Chu Mo, Ia Broai, Ia Kdam, Ia Tul, Ia Trok, Ia Mron, Po To, Chu Rang, Kim Tan communes.
Economic - cultural - social overview:
In the period from 2005 to 2010, the economy in Ia Pa district had a good growth rate, reaching an average of 16.1% (of which the value of agricultural and forestry production increased by 14.4%; industry - construction increased by 22.2%; services increased by 13% compared to the set target). Average income per capita reached 7.51 million VND/year.
The economic structure and structure of crops and livestock have shifted in the right direction. By 2010, the proportion of agriculture and forestry accounted for 69.42%, reaching 98.7%; industry - construction accounts for 19.8%, reaching 120%; Service trade accounts for 10.75%, reaching over 100% of the set target. In agricultural production, there is a good growth rate. In most communes, people have introduced mechanization in the stages of land preparation and harvesting. The district initially planted 1,200 hectares of rubber, creating money to develop long-term industrial crops in the area.
The socio-cultural field has changed positively, the quality of education and medical examination and treatment has been increasingly improved, the number of poor households by the end of 2010 was only 21.9%, a decrease of nearly 50% compared to 2005; The material and spiritual life of the people, especially people in remote areas and ethnic minorities, has been significantly improved. National defense and security work is consolidated and strengthened, social order and safety are ensured, contributing to the district's socio-economic development.
After 1975, archeology in Gia Lai really transformed. Many research programs on the Central Highlands and investigations, collections, and excavations are carried out by staff of the Institute of Archeology in coordination with the Provincial Museum. To date, about 80 prehistoric archaeological relics have been discovered in Gia Lai, of which 7 relics have been excavated: Bien Ho, Tra Dom (Pleiku City); Village 7, Ia Mor (Chu Prong district); Tai Per, Ngol village (Chu Se district). These relics are confirmed to belong to the Tonle Sap culture. The inhabitants of the Tonle Sap culture are people who settled and did agriculture near large lakes, and had certain relationships with ancient resident groups along the central coast, prehistoric residents of Laos, Cambodia, and especially the residents of the Central Coast. Lung Leng culture (Kon Tum).
In 2010, Bang Keng relic (Krong Pa district) - one of the relics bearing the mark of Champa culture - was excavated. On the basis of studying the architectural types and construction techniques of the Bang Keng relic, the initial date was determined to be around the 7th-8th centuries AD. It can be said that the existence of Champa culture in Gia Lai not only leaves physical marks but also represents the process of interference, influence and integration into the spiritual life of the indigenous people. land. The latest discoveries at Bang Keng relics along with initial awareness of architectural relics or Champa cultural vestiges in Gia Lai province show that this land once played an important role. in the process of existence and development of Champa culture in history.
In 2015, staff from the Vietnam Institute of Archeology in collaboration with the Gia Lai Provincial Museum conducted an archaeological investigation and survey in Chu Prong district and found late Hoa Binh Culture-style stone tools (6,000- 5,000 years ago (2) - an archaeological culture marked an important milestone for the brilliant development of the Neolithic period, laying the foundation for the development of many later cultures.
In particular, in November 2015, the Vietnam Institute of Archeology in collaboration with the Novosbrisk Institute of Archeology and Ethnology under the Russian Academy of Sciences conducted excavations at Go Da relic and Roc Tung relic in An town. Khe has collected valuable tools typical of the Paleolithic period. According to the initial assessment of Russian experts, the old stone tools here are more ancient than the Bach Sac stone collection (Guangxi, China) which was dated about 800,000 years ago.
Research and excavation results confirm that An Khe has ancient relics of humanity. These are preparations of Homo erectus, demonstrating the dawn of the nation's history. These relics contribute to researching and compiling the country's history and their position in the first process of formation and development of humanity in Gia Lai. These discoveries open up a great prospect for further archaeological excavation cooperation programs and the basis for building plans to preserve and promote cultural heritage values, contributing to socio-economic development. Central Highlands in general, Gia Lai in particular.
Associate Professor, Dr. Nguyen Giang Hai - Director of the Vietnam Institute of Archeology said: The results of this research have exceeded expectations and also caused a stir among world archaeologists because this place has Ancient human relics are found in the cultural layer. Those are really good signs not only for archaeologists like Associate Professor. Dr. Nguyen Khac Su said: "In the archaeological profession, not everyone has the luck and opportunity to meet and excavate typical tools like this" but it is also an honor for Gia Lai in particular. Vietnam in general is on the old stone map of the world. That happy signal was multiplied when Academician Anatoly Derivenko - Director of the Novosbrisk Institute of Archeology and Ethnology of the Russian Academy of Sciences also said that there will be a long-term coordination plan with the Vietnamese Institute of Archeology. South to conduct research and excavations in this area in the following years.
|
Giới thiệu khái quát huyện Đak Pơ
Huyện Đak Pơ nằm ở phía đông tỉnh Gia Lai, là huyện được thành lập theo Nghị định số 155/2003/NĐ-CP ngày 09/12/2003 của Chính phủ, trên cơ sở tách 07 xã của huyện An Khê, bao gồm: Hà Tam, An Thành, Yang Bắc, Cư An, Tân An, Phú An, Ya Hội và thành lập mới thêm xã Đak Pơ.
Tổng diện tích tự nhiên là 50.253,23 ha, trong đó đất nông nghiệp là 42.284,49 ha, chiếm 84,14% diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp 5.385,70 ha, chiếm tỉ lệ 10,72%; đất chưa sử dụng là 2.583,04 ha, chiếm tỷ lệ 5,14%.
Tính đến ngày 31/12/2016, toàn huyện có 15 dân tộc anh em sinh sống với tổng dân số là 42.105 người (10.097 hộ); trong đó dân tộc thiểu số là 10.121 người (2.235 hộ), chủ yếu là dân tộc Bahnar. Hộ nghèo là 1.369 hộ, chiếm tỷ lệ 13,56% tổng số hộ toàn huyện, trong đó dân tộc thiểu số là 910 hộ.
Hiện trạng kinh tế của huyện (tính đến cuối năm 2016)
Tổng giá trị sản xuất các ngành (giá hiện hành) đạt 2.518 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, lĩnh vực nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng 49,43%, công nghiệp – xây dựng chiếm 33,59%, thương mại – dịch vụ chiếm 16,98%; thu nhập bình quân đầu người đạt 25,92 triệu đồng/năm.
Huyện có nhiều lợi thế về đất đai, con người, vì vậy phát triển trồng trọt và chăn nuôi được xem là thế mạnh kinh tế của huyện. Trong những năm qua, huyện đã tập trung chỉ đạo và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp phù hợp với tiềm năng và lợi thế của từng vùng trên cơ sở xác định các sản phẩm chủ lực. Trong lĩnh vực trồng trọt, cây trồng chủ lực của huyện là mía, mì, bắp lai và rau xanh, huyện đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đầu tư thử nghiệm các mô hình trồng trọt; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; khuyến khích hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh như vùng rau Tân Sơn (Tân An), An Sơn (Cư An); từng bước tăng tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, điển hình là cánh đồng lớn mía ngày càng được mở rộng, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2016, tổng diện tích gieo trồng thực hiện được 22.727 ha, đạt 102,28 %KH, tăng 2,76% so với cùng kỳ; tổng sản lượng lương thực có hạt 22.561,5 tấn, đạt 93,19%KH.
Trong chăn nuôi, chủ yếu là nuôi bò lai, đã tập trung hỗ trợ phát triển trang trại, từ đó nâng cao chất lượng, giá trị sản xuất; nhân rộng các mô hình chăn nuôi theo hướng công nghiệp nhằm đưa nhanh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học vào chăn nuôi. Tập trung chuyển đổi giống vật nuôi theo hướng lai tạo; trong đó tập trung phát triển đàn bò theo hướng nuôi bò thịt chất lượng cao thông qua chương trình lai cải tạo bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Năm 2016, huyện có 15.929 con bò, tỷ lệ bò lai đạt 85,5%/tổng đàn; bên cạnh đó, công tác vệ sinh thú y, môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm luôn được quan tâm, thực hiện tốt để nâng cao tầm vóc, sản lượng và chất lượng, hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh. Năm 2016, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của huyện đạt khoảng 812 tỷ đồng, chiếm 49,43% tỷ trọng cơ cấu kinh tế của huyện.
Huyện đã tranh thủ, huy động tối đa nguồn lực, các nguồn vốn cho việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đến nay huyện có 04 xã được công nhận đạt chuẩn xã nông thôn mới.
Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, mặc dù gặp nhiều khó khăn về tài chính nhưng huyện cũng đã quan tâm đầu tư đúng mực, tạo thuận lợi cho giao thông từ huyện đến các xã thông suốt cả 2 mùa; 100% thôn, làng trên địa bàn huyện đã có điện sinh hoạt; mạng lưới bưu chính, viễn thông hiện đại, đồng bộ và thông suốt, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo tốt cho nhiệm vụ quốc phòng – an ninh của huyện.
Tổng số doanh nghiệp hiện có trên địa bàn huyện là 50 doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực xây dựng, kinh doanh xăng dầu, vận tải,… Huyện có một cụm công nghiệp Phú An, đang kêu gọi đầu tư.
Công tác thu ngân sách trên địa bàn tăng qua từng năm; năm 2016, tổng thu ngân sách trên địa bàn là 26.315 triệu đồng. Công tác tín dụng ngân hàng phát triển khá; các chương trình cho vay, hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số … được giải ngân kịp thời.
* Khó khăn của huyện:
Là một huyện vùng cao, không có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và giá cả thị trường; việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả chưa cao, ít mô hình được nhân rộng. Ngành công nghiệp có quy mô còn nhỏ lẻ, chưa có sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động dịch vụ chậm phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số còn thấp, công tác xã hội hóa giáo dục hiệu quả chưa cao. Cơ sở vật chất ngành văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Định hướng kinh tế – xã hội của huyện:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, duy trì tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt mức trung bình toàn tỉnh; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; quan tâm phát triển kinh tế tập thể; khai thác có hiệu quả và phát huy thế mạnh của các ngành, các lĩnh vực, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chú trọng công tác đào tạo nghề; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắn dân tộc; nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, thực hiện tốt chính sách đảm bảo an sinh xã hội.
Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Tăng cường quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
|
General introduction to Dak Po district
Dak Po district is located in the east of Gia Lai province, a district established under Decree Không. 155/2003/ND-CP dated December 9, 2003 of the Government, on the basis of separating 07 communes of An Khe district, including : Ha Tam, An Thanh, Yang Bac, Cu An, Tan An, Phu An, Ya Hoi and newly established Dak Po commune.
The total natural area is 50,253.23 hectares, of which agricultural land is 42,284.49 hectares, accounting for 84.14% of the natural area; Non-agricultural land is 5,385.70 hectares, accounting for 10.72%; Unused land is 2,583.04 hectares, accounting for 5.14%.
As of December 31, 2016, the entire district has 15 ethnic groups living with a total population of 42,105 people (10,097 households); Of which ethnic minorities are 10,121 people (2,235 households), mainly the Bahnar ethnic group. Poor households are 1,369 households, accounting for 13.56% of the total number of households in the district, of which ethnic minorities are 910 households.
Current economic status of the district (as of the end of 2016)
Total production value of industries (current prices) reached 2,518 billion VND; The economic structure is shifting in the right direction, the agriculture and forestry sector accounts for 49.43%, industry - construction accounts for 33.59%, trade - services accounts for 16.98%; Average income per capita reached 25.92 million VND/year.
The district has many advantages in terms of land and people, so the development of farming and animal husbandry is considered the economic strength of the district. In recent years, the district has focused on directing and implementing well policies to support agricultural development in accordance with the potential and advantages of each region on the basis of identifying key products. In the field of cultivation, the district's main crops are sugarcane, wheat, hybrid corn and green vegetables. The district has focused on converting crop structure, investing in testing cultivation models; Promote the application of scientific and technical advances in production; Encourage the formation of concentrated and specialized production areas such as Tan Son (Tan An) and An Son (Cu An) vegetable areas; Gradually increase the rate of mechanization in agricultural production, typically large sugarcane fields are increasingly expanded, bringing high economic efficiency. In 2016, the total planted area was 22,727 hectares, reaching 102.28% of the plan, an increase of 2.76% over the same period; Total food grain output is 22,561.5 tons, reaching 93.19% of plan.
In livestock farming, mainly hybrid cattle raising, we have focused on supporting farm development, thereby improving quality and production value; replicate industrial-oriented livestock models to quickly apply scientific advances to livestock farming. Focus on converting livestock breeds towards cross-breeding; which focuses on developing the cow herd towards raising high quality beef cattle through the cross-breeding and improvement program using artificial insemination. In 2016, the district had 15,929 cows, the rate of crossbred cows reached 85.5%/total herd; Besides, veterinary hygiene, environment and food safety are always paid attention and implemented well to improve stature, output and quality, efficiency, and enhance competitiveness. In 2016, the district's agricultural production value reached about 812 billion VND, accounting for 49.43% of the district's economic structure.
The district has mobilized maximum resources and capital for the implementation of the national target program on building new rural areas. Up to now, the district has 04 communes recognized as meeting new rural commune standards.
Investment in infrastructure construction, although facing many financial difficulties, the district has also paid attention to investing properly, facilitating traffic from the district to communes throughout both seasons; 100% of hamlets and villages in the district have electricity; Modern, synchronous and smooth postal and telecommunications network, meeting communication needs, serving socio-economic development and ensuring the district's defense and security tasks.
The total number of existing enterprises in the district is 50 enterprises operating in the fields of construction, petroleum business, transportation, etc. The district has a Phu An industrial cluster, calling for investment.
Budget collection in the area increases year by year; In 2016, total budget revenue in the area was 26,315 million VND. Bank credit work has developed quite well; Loan programs, support for policy beneficiaries, poor households, ethnic minorities... are disbursed promptly.
* Difficulties of the district:
As a highland district, there are not many natural resources. Agricultural production still depends heavily on natural conditions and market prices; The application of scientific and technological advances in farming and animal husbandry is not very effective, and few models have been replicated. The industry is still small in scale and does not have key products that are competitive in the market. Service activities are slow to develop. The infrastructure system has not kept up with development requirements. The quality of education for ethnic minority students is still low, and the effectiveness of educational socialization is not high. The cultural sector's facilities do not meet the needs of the people. The lives of some people are still difficult, especially in ethnic minority areas.
Socio-economic orientation of the district:
Synchronously implement solutions to promote sustainable economic development, maintain the growth rate of production value to reach the average level of the province; The economic structure continues to shift towards increasing the proportion of industry and services and reducing the proportion of agriculture, forestry and fishery.
Promote industrialization and modernization of rural agriculture; Build and synchronously develop the economic and social infrastructure system; Pay attention to collective economic development; Effectively exploit and promote the strengths of industries and fields, mobilize all resources for economic development.
Continue to improve the quality of education and training, focusing on vocational training; enhance the application of science and technology in production; building an advanced culture rich in national heritage; Improve the quality of health care for the people, and well implement policies to ensure social security.
Promote administrative reform; Apply information technology to improve the operational efficiency of the People's Councils and People's Committees at all levels. Strengthen national defense and security, maintain political and social stability.
|
Giới thiệu khái quát huyện Ia Grai
Huyện Ia Grai được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11-11-1996 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách từ phần đất tây nam của huyện Chư Păh.
Diện tích: 1122,29 Km
2
.
Dân số: 82.835 người (số liệu thống kê năm 2008), trong đó đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là Jrai chiếm hơn 50%.
Vị trí địa lý:
Ia Grai là một
huyện
nằm về phía Tây của
tỉnh
Gia Lai
. Huyện lỵ là thị trấn Ia Kha.
– Bắc giáp: huyện Chư Păh.
– Nam giáp: huyện Đức Cơ.
– Đông giáp: thành phố Pleiku, huyện Chư Prông.
– Tây giáp: huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum; tỉnh Natarakiri Cam Pu Chia (12 km).
Trên địa bàn huyện Ia Grai có các danh thắng như
thác Lệ Kim
(Ia Tô),
thác Chín Tầng
(Ia Sao), Thuỷ điện Sêsan 3A, Sêsan 4, Sê san 4A, Du lịch sinh thái và lễ hội về nguồn …
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 13 (1 thị trấn, 12 xã).
– Thị trấn: Ia Kha.
– Các xã: Ia Chía, Ia Dêr, Ia Hrung, Ia Bă, Ia Krai, Ia O, Ia Pếch, Ia Sao, Ia Tô, Ia Yok, Ia Grăng, Ia Khai.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Trong 5 năm qua, giai đoạn 2005-2010, huyện Ia Grai đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 còn 8,65%. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư chuyển dịch đúng hướng. Lĩnh vực văn hóa – xã hội chuyển biến tích cực. Quốc phòng – an ninh được củng cố.
Trên lĩnh vực kinh tế, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 13 triệu đồng/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005-2010 đạt 19,98%/năm. Trong đó, nông – lâm nghiệp tăng 13,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp- xây dựng tăng 52,95%, thương mại – dịch vụ tăng 15,05%. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 13,24 triệu đồng.
Trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của huyện, thu hút nguồn vốn đầu tư trên địa bàn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất điện năng, sản phẩm nông sản, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành nông – lâm nghiệp từ 72,6% năm 2005 giảm còn 44,1%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng từ 12,6% tăng lên 38,1%, thương mại – dịch vụ từ 14,8% tăng lên 17,8%. Cơ cấu cây trồng chuyển đổi nhanh theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung chuyên canh. Tổng sản lượng lương thực 22.500 tấn, tăng 2.700 tấn so với năm 2005; sản lượng cà phê nhân bình quân 35.000 tấn/năm, mủ cao su 13.000 tấn/năm…Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp tăng khá, tổng đàn gia súc đều tăng so với năm 2005; một số loại hình chăn nuôi khác như nuôi ong và nuôi cá nước ngọt đã hình thành và phát triển.
Tổng vốn đầu tư phát triển trong cả giai đoạn đạt trên 7.330 tỷ đồng, tăng gấp 13 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tỷ trọng vốn tín dụng và vốn của nhân dân trong cơ cấu vốn đầu tư tăng nhanh, hiệu quả đầu tư được nâng lên. Hoàn thành và đưa vào hoạt động 3 nhà máy thủy điện với công suất 440 MW, 5 công trình khác đang thi công, 3 nhà máy chế biến mủ cao su công suất 27.000 tấn/năm. Các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư xây dựng. Đến nay, 100% số xã có đường giao thông ô tô đi được đến tận thôn, làng, 100% số thôn, làng có điện lưới quốc gia, hơn 96% số hộ sử dụng điện, trên 90% số hộ sử dụng nước sạch, 100% số xã có trạm y tế hoặc cơ sở khám và điều trị, 100% trường lớp học và nhà ở giáo viên được xây dựng kiên cố, xóa 2.500 nhà tạm cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách. Mạng lưới viễn thông được đầu tư mở rộng với 90 trạm thu phát sóng BTS phủ sóng trên khắp địa bàn đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân.
Đến nay, toàn huyện có 84 doanh nghiệp và 85 trang trại cùng với hàng trăm hộ kinh doanh cá thể hoạt động hiệu quả, khai thác, sử dụng tốt tài nguyên đất đai, khoáng sản trên địa bàn, hàng năm đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng trăm triệu đồng, giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn lao động, trong đó tuyển dụng mới 4.000 lao động, tham gia tích cực vào các hoạt động an sinh xã hội.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội cũng đạt nhiều kết quả quan trọng. Hoàn thành phổ cập giáo dục THCS cho 12/13 xã – thị trấn, 1 trường mầm non và 4 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Quan tâm chăm sóc, khám – chữa bệnh cho nhân dân. Các Chương trình 132, 134, 135 của Chính phủ và các chương trình mục tiêu quốc gia đạt kết quả thiết thực. Kết cấu hạ tầng ở các xã vùng đặc biệt khó khăn từng bước được nâng lên; cơ bản hoàn thành việc giải quyết đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, và nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 30,76% năm 2005 đến nay còn 8,65%; phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đối với người có công với nước được đẩy mạnh, đến nay các gia đình chính sách đều có mức sống tương đối ổn định và cao hơn mức sống trung bình trong vùng; công tác quốc phòng – an ninh có những chuyển biến quan trọng theo hướng tích cực, cơ bản được giữ vững ổn định; quan hệ đối ngoại biên giới với huyện Đôn Mia – Campuchia được tăng cường.
Phát huy những kết quả đạt được, phương hướng, mục tiêu chủ yếu giai đoạn 2010-2015 là: Khai thác tiềm năng lợi thế, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đưa nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và bền vững. Giữ vững an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục – đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; cải thiện rõ nét đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
|
General introduction to Ia Grai district
Ia Grai district was established under Decree Không. 70/CP dated November 11, 1996 of the Government, on the basis of separation from the southwestern part of Chu Pah district.
Area: 1122.29 Km
2
.
Population: 82,835 people (2008 statistics), of which ethnic minorities, mainly Jrai, account for more than 50%.
Geographical location:
Ia Grai is one
district
lies to the west of
conscious
Gia Lai
. The district capital is Ia Kha town.
– North borders: Chu Pah district.
– South borders: Duc Co district.
– East: Pleiku city, Chu Prong district.
– West border: Sa Thay district, Kon Tum province; Natarakiri province Cambodia (12 km).
In Ia Grai district, there are scenic spots such as:
Le Kim waterfall
(Ia To),
Nine Floor Waterfall
(Ia Sao), Sesan 3A, Sesan 4, Sesan 4A hydropower plants, Ecotourism and resource festivals...
Administrative units at commune and town level: 13 (1 town, 12 communes).
– Town: Ia Kha.
– Communes: Ia Chia, Ia Dêr, Ia Hrung, Ia Ba, Ia Krai, Ia O, Ia Pek, Ia Sao, Ia To, Ia Yok, Ia Grang, Ia Khai.
Economic - cultural - social overview:
In the past 5 years, period 2005-2010, Ia Grai district has achieved important achievements. The poverty rate in 2010 was 8.65%. The economic structure and investment structure are shifting in the right direction. The cultural and social field has changed positively. National defense and security are strengthened.
In the economic field, the average income per capita reached over 13 million VND/year, the average growth rate in the period 2005-2010 reached 19.98%/year. Of which, agriculture - forestry increased by 13.2%, industry - handicrafts - construction increased by 52.95%, trade - services increased by 15.05%. Average income per capita by 2010 reached 13.24 million VND.
On the basis of promoting the district's potential and strengths, attracting investment capital in the area, especially in the fields of electricity production and agricultural products, the economic structure has shifted in a positive direction, with a proportion of Agriculture - forestry decreased from 72.6% in 2005 to 44.1%, industry - handicrafts - construction increased from 12.6% to 38.1%, trade - services from 14.8%. % increased to 17.8%. Crop structure is rapidly changing towards commodity production, focusing on specialized farming. Total food output is 22,500 tons, an increase of 2,700 tons compared to 2005; The average output of green coffee is 35,000 tons/year, rubber latex is 13,000 tons/year... The proportion of livestock in agriculture has increased quite well, the total herd of livestock has increased compared to 2005; Some other types of livestock farming such as beekeeping and freshwater fish farming have been formed and developed.
Total development investment capital for the entire period reached over 7,330 billion VND, an increase of 13 times compared to the period 2001-2005. The proportion of credit capital and people's capital in the investment capital structure increased rapidly, investment efficiency was improved. Completed and put into operation 3 hydroelectric plants with a capacity of 440 MW, 5 other projects under construction, 3 rubber processing factories with a capacity of 27,000 tons/year. Rural infrastructure projects receive attention for investment and construction. Up to now, 100% of communes have roads that can be reached by cars, 100% of hamlets and villages have electricity from the national grid, more than 96% of households use electricity, over 90% of households use water. clean, 100% of communes have medical stations or examination and treatment facilities, 100% of schools, classrooms and teachers' houses are solidly built, eliminating 2,500 temporary houses for poor households and policy households. The telecommunications network was invested and expanded with 90 BTS transceiver stations covering the entire area to meet the communication needs of the people.
To date, the entire district has 84 businesses and 85 farms along with hundreds of individual business households operating effectively, exploiting and using land and mineral resources in the area well, annually contributing to the budget. State budget of hundreds of millions of dong, creating jobs for tens of thousands of workers, including 4,000 new workers, actively participating in social security activities.
The cultural and social field also achieved many important results. Completed universalization of secondary education for 12/13 communes and towns, 1 preschool and 4 primary schools meeting national standards. Pay attention to the care, examination and treatment of people. The Government's Programs 132, 134, 135 and national target programs achieved practical results. Infrastructure in communes in especially difficult areas has been gradually improved; Basically complete the settlement of production land, residential land, running water, and housing for poor ethnic minorities. The poverty rate has decreased rapidly from 30.76% in 2005 to 8.65% now; The movement "Repaying gratitude" to people who have contributed to the country has been promoted. Up to now, policy families have a relatively stable living standard and higher than the average living standard in the region; National defense and security work has had important changes in a positive direction and is basically maintained stable; Border foreign relations with Don Mia district - Cambodia have been strengthened.
Promoting the achieved results, directions and main goals for the 2010-2015 period are: Exploiting potential advantages, geographical location, natural conditions, maximizing all resources for development investment. development, bringing the economy to grow at a high and sustainable rate. Maintain political security - social order and safety in the district. Promote education and training, improve the quality of human resources; Clearly improve the material and spiritual life of the people.
|
Giới thiệu khái quát huyện KBang
KBang là huyện miền núi Đông Trường Sơn, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Gia Lai, cách Thành phố Pleiku theo quốc lộ 19 và quốc lộ Trường Sơn Đông khoảng 100 km; có toạ độ địa lý: 108
0
17’45” – 108
0
44’10” kinh độ Đông, 14
0
0’ 0” – 14
0
36’ 23” vĩ độ Bắc. Ranh giới của huyện:
+ Đất đai, với lớp phủ thổ nhưỡng phần lớn có tầng dày tốt, độ phì cao, không chỉ là nền đất cho thảm rừng giàu có phát triển mà còn một phần diện tích để tạo nên những khu vực canh tác tốt. Đặc biệt là đất Bazan thích hợp cho phát triển những cây công nghiệp có giá trị kinh tế, ưu thế về cạnh tranh như: Cao su, cà phê, ca cao, dược liệu, mía, đậu đỗ, rau quả chất lượng cao…
+ KBang có khí hậu nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cả hai vùng khí hậu: Duyên hải và Tây nguyên, có nền nhiệt độ khá cao và điều hoà, mưa nhiều và phân bố tương đối đều trong năm, mùa khô ngắn (3-4 tháng) và không gay gắt, nên thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Hệ thống sông suối dày đặc, phân bố khá đều, có nguồn sinh thuỷ dồi dào quanh năm, có nhiều ghềnh thác, đủ điều kiện xây dựng các công trình thuỷ điện, các đập dâng và hồ chứa loại vừa và nhỏ cung cấp điện và nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt.
+ Khoáng sản ở KBang khá phong phú, đặc biệt là vùng mỏ Bauxít trữ lượng 806 triệu tấn trên cao nguyên Kon Hà Nừng; mỏ sắt ở xã Đông, Lơ Ku; các mỏ đá Bazan, đá Granit, đất sét, cát sỏi ở vùng rìa cao nguyên đất đỏ và vùng trũng phía Nam là các khoáng sản đang trong thời kỳ khai thác và thăm dò chuẩn bị khai thác.
+ KBang hiện có 3 hồ thủy điện lớn và 28 hồ đập thủy lợi nhỏ. Các hồ chứa lớn của huyện có thể kể đến hồ Kanak (1.800 ha), hồ B thủy điện Vĩnh Sơn thuộc xã Sơn Lang (1.000 ha), hồ C thủy điện Vĩnh Sơn tại xã Đắk Rong (320 ha), hồ Buôn Lưới (26 ha) thuộc xã Sơ Pai và một số diện tích mặt nước (ao đào, hồ, đầm tự nhiên qua cải tạo) hiện nay đang nuôi thủy sản.
+ Ngoài ra KBang là huyện căn cứ Cách mạng, đang được Chính phủ chọn làm huyện điểm thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới và huyện điểm về Văn hóa – Thể thao và Du lịch.
Định hướng phát triển của huyện trong thời gian tới:
Với những điều kiện tự nhiên và tiềm năng lợi thế, huyện Kbang định hướng phát triển kinh tế – xã hội trong những năm tới đó là: Nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng; chuyển dịch nhanh nền kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ; nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người so với bình quân toàn tỉnh. Phấn đấu đến năm 2020 KBang nằm trong nhóm các huyện có kinh tế – xã hội phát triển trung bình của tỉnh Gia Lai; đến năm 2015 có 10/13 xã và năm 2020 có 13/13 xã đạt chuẩn Nông thôn mới.
Trọng tâm phát triển thời kỳ 2013-2020:
– Triển khai các giải pháp cụ thể để giảm nghèo bền vững; hoàn thành chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới và khuyến khích, thu hút đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực có lợi thế của huyện như: Nông nghiệp hàng hóa gắn với chế biến và tiêu thụ (chăn nuôi, trồng cao su, nuôi thủy sản hồ chứa…), chế biến nông lâm sản, dịch vụ và du lịch, thuỷ điện và khai thác khoáng sản (vật liệu xây dựng, quặng sắt…).
– Tập trung vốn đầu tư và huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là về giao thông nông thôn.
– Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Có chính sách thu hút đối với lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có trình độ quản lý và kinh doanh. Nâng cao số lượng và chất lượng đào tạo nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Mục tiêu cụ thể:
– Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành đạt 13,2% giai đoạn 2013 – 2015 và 12,6 % giai đoạn 2016 – 2020; cả thời kỳ 2011-2020 đạt 12,1 %. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 27 triệu đồng; năm 2020 đạt 60,7 triệu đồng.
– Cơ cấu giá trị sản xuất đến năm 2015 là: Nông, lâm và thủy sản 58% – Công nghiệp, xây dựng 21% – Dịch vụ 21%. Năm 2020 là: Nông, lâm và thủy sản 50,9% – Công nghiệp, xây dựng 22,9% – Dịch vụ 26,2%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển dịch vụ, công nghiệp.
– Thu ngân sách trên địa bàn từ 30,9 tỷ đồng năm 2012 lên 53,5 tỷ đồng năm 2015 và 144,5 tỷ đồng năm 2020.
– Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,3% vào năm 2015 và 1,2% vào năm 2020. Thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo, các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc ít người các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn, khắc phục tình trạng chênh lệch giữa các vùng. Đến năm 2015 hộ nghèo giảm xuống còn dưới 26,77%, năm 2020 còn dưới 7% (đạt tiêu chí NTM).
– Đến năm 2020 trẻ em đi học so với trong độ tuổi: mẫu giáo đạt 98,9%, tiểu học đạt 99%, THCS đạt 99%, THPT đạt 75%. Cơ sở vật chất trường học đạt chuẩn quốc gia trên 70%.
– Nâng cấp cơ sở vật chất hệ thống bệnh viện, trạm y tế xã. Bổ sung và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ y tế. Đến 2015 có 84,6% số trạm trạm y tế xã đạt chuẩn, có bác sỹ đạt 100%; năm 2020 trạm y tế đạt chuẩn 100%. Mở rộng bảo hiểm y tế toàn dân, trước hết là các hộ nghèo, hộ chính sách. Thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt tỷ lệ 95-98%, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng xuống dưới 15% vào năm 2015 và dưới 10% vào năm 2020. Tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95%; sử dụng điện đạt 98-99% vào năm 2015, năm 2020 đạt 100%.
– Nâng cấp, xây dựng hoàn thiện cơ sở vật chất văn hóa – thể thao huyện; Nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất Văn hóa – Thể thao xã và thôn làng, đến 2015 đạt chuẩn 50%, năm 2020 đạt 100%. Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể thao, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; thực hiện có hiệu quả cuộc vận đồng “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Đến 2015 có 65% thôn làng tổ dân phố đạt chuẩn văn hoá, 85% gia đình văn hóa. Đến 2020 số thôn làng văn hóa đạt 90%, gia đình văn hóa đạt 100%. Đồng thời xây dựng KBang trở thành huyện điểm về Nông thôn mới và Văn hóa – thể thao & du lịch.
Với định hướng phát triển huyện Kbang trở thành vùng kinh tế cửa ngõ phía Đông của tỉnh và kết hợp với đặc điểm phân vùng tự nhiên, huyện Kbang quy hoạch định hướng phát triển các tiểu vùng kinh tế trên địa bàn huyện:
* Phát triển tiểu vùng kinh tế trung tâm (thị trấn KBang):
thành đô thị loại V thuộc tỉnh, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội của huyện KBang. Trọng tâm phát triển của thị trấn là: Cụm công nghiệp Tây sông Ba; trung tâm thương mại thị trấn KBang (chợ huyện loại II, 2 siêu thị tổng hợp, khu phố thương mại xung quanh chợ); trung tâm các dịch vụ: vận tải – bưu chính viễn thông, tài chính – ngân hàng, giáo duc-đào tạo, y tế – văn hóa – thể thao… đầu tư hoàn thiện hệ thống giao thông đô thị, các tuyến giao thông vành đai phía Đông và phía Tây kết nối với tuyến quốc lộ Trường Sơn Đông và tỉnh lộ 669, tạo sự kết nối với các tiểu vùng trong huyện, với các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận; đầu tư hệ thống cấp, thoát nước và bưu chính viễn thông. Phát triển sản xuất thực phẩm sạch (rau, hoa, quả, thịt, cá) ven thị trấn, cung cấp cho cụm công nghiệp, khu du lịch và nội thị.
* Phát triển tiểu vùng kinh tế phía Nam:
gồm các xã Lơ Ku, Đak Smar, Đăk Hlơ, Kông Bờ La, Kông Lơng Khơng, Tơ Tung, Nghĩa An và xã Đông; đây là tiểu vùng gò đồi, núi thấp phía Nam huyện. Trọng tâm phát triển là: Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp; cây công nghiệp hàng năm (mía, đậu đỗ). Cơ cấu kinh tế của tiểu vùng là: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ. Trung tâm tiểu vùng là trung tâm cụm xã Kông Lơng Khơng.
* Phát triển tiểu vùng kinh tế phía Bắc:
gồm các xã Krong, Sơ Pai, Sơn Lang, Đăk Rong và Kon Pne; đây là vùng núi và cao nguyên Bazan Kon Hà Nừng. Trọng tâm phát triển của vùng là: phát triển cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su), cây ăn quả, cây lâu năm khác (bời lời, dược liệu) gắn với bảo vệ, khai thác kinh tế rừng với phát triển du lịch sinh thái. Cơ cấu kinh tế của tiểu vùng là: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ. Trung tâm tiểu vùng là trung tâm cụm xã Sơn Lang.
Với định hướng phát triển thị trấn KBang là đô thị loại V thuộc tỉnh; xã Sơn Lang ở phía Bắc và xã Kông Lơng Khơng phía Nam là hai trung tâm tiểu vùng chắc chắn sẽ làm hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên toàn địa bàn huyện.
|
Giới thiệu khái quát huyện KBang
KBang là huyện miền núi Đông Trường Sơn, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Gia Lai, cách Thành phố Pleiku theo quốc lộ 19 và quốc lộ Trường Sơn Đông khoảng 100 km; có toạ độ địa lý: 108
0
17’45” – 108
0
44’10” kinh độ Đông, 14
0
0’ 0” – 14
0
36’ 23” vĩ độ Bắc. Ranh giới của huyện:
+ Đất đai, với lớp phủ thổ nhưỡng phần lớn có tầng dày tốt, độ phì cao, không chỉ là nền đất cho thảm rừng giàu có phát triển mà còn một phần diện tích để tạo nên những khu vực canh tác tốt. Đặc biệt là đất Bazan thích hợp cho phát triển những cây công nghiệp có giá trị kinh tế, ưu thế về cạnh tranh như: Cao su, cà phê, ca cao, dược liệu, mía, đậu đỗ, rau quả chất lượng cao…
+ KBang có khí hậu nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cả hai vùng khí hậu: Duyên hải và Tây nguyên, có nền nhiệt độ khá cao và điều hoà, mưa nhiều và phân bố tương đối đều trong năm, mùa khô ngắn (3-4 tháng) và không gay gắt, nên thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Hệ thống sông suối dày đặc, phân bố khá đều, có nguồn sinh thuỷ dồi dào quanh năm, có nhiều ghềnh thác, đủ điều kiện xây dựng các công trình thuỷ điện, các đập dâng và hồ chứa loại vừa và nhỏ cung cấp điện và nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt.
+ Khoáng sản ở KBang khá phong phú, đặc biệt là vùng mỏ Bauxít trữ lượng 806 triệu tấn trên cao nguyên Kon Hà Nừng; mỏ sắt ở xã Đông, Lơ Ku; các mỏ đá Bazan, đá Granit, đất sét, cát sỏi ở vùng rìa cao nguyên đất đỏ và vùng trũng phía Nam là các khoáng sản đang trong thời kỳ khai thác và thăm dò chuẩn bị khai thác.
+ KBang hiện có 3 hồ thủy điện lớn và 28 hồ đập thủy lợi nhỏ. Các hồ chứa lớn của huyện có thể kể đến hồ Kanak (1.800 ha), hồ B thủy điện Vĩnh Sơn thuộc xã Sơn Lang (1.000 ha), hồ C thủy điện Vĩnh Sơn tại xã Đắk Rong (320 ha), hồ Buôn Lưới (26 ha) thuộc xã Sơ Pai và một số diện tích mặt nước (ao đào, hồ, đầm tự nhiên qua cải tạo) hiện nay đang nuôi thủy sản.
+ Ngoài ra KBang là huyện căn cứ Cách mạng, đang được Chính phủ chọn làm huyện điểm thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới và huyện điểm về Văn hóa – Thể thao và Du lịch.
Định hướng phát triển của huyện trong thời gian tới:
Với những điều kiện tự nhiên và tiềm năng lợi thế, huyện Kbang định hướng phát triển kinh tế – xã hội trong những năm tới đó là: Nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng; chuyển dịch nhanh nền kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ; nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người so với bình quân toàn tỉnh. Phấn đấu đến năm 2020 KBang nằm trong nhóm các huyện có kinh tế – xã hội phát triển trung bình của tỉnh Gia Lai; đến năm 2015 có 10/13 xã và năm 2020 có 13/13 xã đạt chuẩn Nông thôn mới.
Trọng tâm phát triển thời kỳ 2013-2020:
– Triển khai các giải pháp cụ thể để giảm nghèo bền vững; hoàn thành chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới và khuyến khích, thu hút đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực có lợi thế của huyện như: Nông nghiệp hàng hóa gắn với chế biến và tiêu thụ (chăn nuôi, trồng cao su, nuôi thủy sản hồ chứa…), chế biến nông lâm sản, dịch vụ và du lịch, thuỷ điện và khai thác khoáng sản (vật liệu xây dựng, quặng sắt…).
– Tập trung vốn đầu tư và huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là về giao thông nông thôn.
– Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Có chính sách thu hút đối với lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có trình độ quản lý và kinh doanh. Nâng cao số lượng và chất lượng đào tạo nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Mục tiêu cụ thể:
– Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành đạt 13,2% giai đoạn 2013 – 2015 và 12,6 % giai đoạn 2016 – 2020; cả thời kỳ 2011-2020 đạt 12,1 %. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 27 triệu đồng; năm 2020 đạt 60,7 triệu đồng.
– Cơ cấu giá trị sản xuất đến năm 2015 là: Nông, lâm và thủy sản 58% – Công nghiệp, xây dựng 21% – Dịch vụ 21%. Năm 2020 là: Nông, lâm và thủy sản 50,9% – Công nghiệp, xây dựng 22,9% – Dịch vụ 26,2%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển dịch vụ, công nghiệp.
– Thu ngân sách trên địa bàn từ 30,9 tỷ đồng năm 2012 lên 53,5 tỷ đồng năm 2015 và 144,5 tỷ đồng năm 2020.
– Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,3% vào năm 2015 và 1,2% vào năm 2020. Thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo, các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc ít người các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn, khắc phục tình trạng chênh lệch giữa các vùng. Đến năm 2015 hộ nghèo giảm xuống còn dưới 26,77%, năm 2020 còn dưới 7% (đạt tiêu chí NTM).
– Đến năm 2020 trẻ em đi học so với trong độ tuổi: mẫu giáo đạt 98,9%, tiểu học đạt 99%, THCS đạt 99%, THPT đạt 75%. Cơ sở vật chất trường học đạt chuẩn quốc gia trên 70%.
– Nâng cấp cơ sở vật chất hệ thống bệnh viện, trạm y tế xã. Bổ sung và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ y tế. Đến 2015 có 84,6% số trạm trạm y tế xã đạt chuẩn, có bác sỹ đạt 100%; năm 2020 trạm y tế đạt chuẩn 100%. Mở rộng bảo hiểm y tế toàn dân, trước hết là các hộ nghèo, hộ chính sách. Thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt tỷ lệ 95-98%, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng xuống dưới 15% vào năm 2015 và dưới 10% vào năm 2020. Tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95%; sử dụng điện đạt 98-99% vào năm 2015, năm 2020 đạt 100%.
– Nâng cấp, xây dựng hoàn thiện cơ sở vật chất văn hóa – thể thao huyện; Nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất Văn hóa – Thể thao xã và thôn làng, đến 2015 đạt chuẩn 50%, năm 2020 đạt 100%. Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể thao, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; thực hiện có hiệu quả cuộc vận đồng “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Đến 2015 có 65% thôn làng tổ dân phố đạt chuẩn văn hoá, 85% gia đình văn hóa. Đến 2020 số thôn làng văn hóa đạt 90%, gia đình văn hóa đạt 100%. Đồng thời xây dựng KBang trở thành huyện điểm về Nông thôn mới và Văn hóa – thể thao & du lịch.
Với định hướng phát triển huyện Kbang trở thành vùng kinh tế cửa ngõ phía Đông của tỉnh và kết hợp với đặc điểm phân vùng tự nhiên, huyện Kbang quy hoạch định hướng phát triển các tiểu vùng kinh tế trên địa bàn huyện:
* Phát triển tiểu vùng kinh tế trung tâm (thị trấn KBang):
thành đô thị loại V thuộc tỉnh, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội của huyện KBang. Trọng tâm phát triển của thị trấn là: Cụm công nghiệp Tây sông Ba; trung tâm thương mại thị trấn KBang (chợ huyện loại II, 2 siêu thị tổng hợp, khu phố thương mại xung quanh chợ); trung tâm các dịch vụ: vận tải – bưu chính viễn thông, tài chính – ngân hàng, giáo duc-đào tạo, y tế – văn hóa – thể thao… đầu tư hoàn thiện hệ thống giao thông đô thị, các tuyến giao thông vành đai phía Đông và phía Tây kết nối với tuyến quốc lộ Trường Sơn Đông và tỉnh lộ 669, tạo sự kết nối với các tiểu vùng trong huyện, với các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận; đầu tư hệ thống cấp, thoát nước và bưu chính viễn thông. Phát triển sản xuất thực phẩm sạch (rau, hoa, quả, thịt, cá) ven thị trấn, cung cấp cho cụm công nghiệp, khu du lịch và nội thị.
* Phát triển tiểu vùng kinh tế phía Nam:
gồm các xã Lơ Ku, Đak Smar, Đăk Hlơ, Kông Bờ La, Kông Lơng Khơng, Tơ Tung, Nghĩa An và xã Đông; đây là tiểu vùng gò đồi, núi thấp phía Nam huyện. Trọng tâm phát triển là: Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp; cây công nghiệp hàng năm (mía, đậu đỗ). Cơ cấu kinh tế của tiểu vùng là: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ. Trung tâm tiểu vùng là trung tâm cụm xã Kông Lơng Khơng.
* Phát triển tiểu vùng kinh tế phía Bắc:
gồm các xã Krong, Sơ Pai, Sơn Lang, Đăk Rong và Kon Pne; đây là vùng núi và cao nguyên Bazan Kon Hà Nừng. Trọng tâm phát triển của vùng là: phát triển cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su), cây ăn quả, cây lâu năm khác (bời lời, dược liệu) gắn với bảo vệ, khai thác kinh tế rừng với phát triển du lịch sinh thái. Cơ cấu kinh tế của tiểu vùng là: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ. Trung tâm tiểu vùng là trung tâm cụm xã Sơn Lang.
Với định hướng phát triển thị trấn KBang là đô thị loại V thuộc tỉnh; xã Sơn Lang ở phía Bắc và xã Kông Lơng Khơng phía Nam là hai trung tâm tiểu vùng chắc chắn sẽ làm hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên toàn địa bàn huyện.
|
Giới thiệu khái quát huyện Kông Chro
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm 2011- 2015 đạt 12,8%/năm (tính theo giá cố định năm 2010). Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 7,5 %/năm; công nghiệp – xây dựng tăng trưởng ở mức 20,5 %/ năm; ngành dịch vụ tăng bình quân 27,37 %/ năm.
Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ, huy động nhiều thành phần kinh tế tham gia quá trình phát triển; Tổ chức quản lý chặt chẽ các nguồn tài nguyên, đất đai và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội nhằm đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập. Trong phát triển nguồn nhân lực, huyện đã thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ theo chuẩn đề ra nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Công tác đào tạo nghề được chú trọng để tạo việc làm nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Trong nhiệm kỳ, kết cấu hạ tầng của huyện có những tiến bộ vượt bậc so với giai đoạn trước, tổng số công trình xây dựng cơ bản trong 5 năm là 251 công trình, với tổng vốn 440,605 tỷ đồng, nhiều công trình trọng điểm được đầu tư như: Đường vào xã Đăk Pling, Yang Nam, Đăk Tpang, Chư Krei, hệ thống giao thông đến trung tâm xã đều được nâng cấp. Hệ thống hạ tầng xã hội cũng được quan tâm đầu tư, các trường phổ thông trong huyện đã được tầng hóa và kiên cố hóa.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, UBND huyện đã điều hành ngân sách một cách linh hoạt, chủ động, cắt giảm các khoản chi chưa thật sự cần thiết như: mua sắm, tiếp khách, văn phòng phẩm, điện nước…thực hiện tiết kiệm 10% chi hành chính. Quản lý chặt chẽ quy trình đầu tư xây dựng cơ bản, đảm bảo sử dụng các nguồn vốn hiệu quả.
Ngành nông nghiệp đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, hình thành các vùng sản xuất tập trung tạo nguồn nguyên liệu cho Nhà máy đường An Khê, Bình Định; nhà máy chế biến Sắn An Khê. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp đến năm 2015 là 38.268 ha, tăng 11,03% so với năm 2011. Hệ số sử dụng đất xấp xỉ đạt 1,07 lần, đã cơ giới hóa được trên 80 % diện tích. Tập trung đầu tư hệ thống các công trình thủy lợi ở các xã, thực hiện chuyển đổi giống lúa mới có năng suất cao để đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn. Đàn gia súc tăng trưởng khá, tổng đàn năm 2015 là 50.597 con tăng 14,6% so với năm 2011; công tác phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm được quan tâm.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2015 là 3.698 tỷ đồng (giá cố định 2010) có mức tăng trưởng bình quân 7,57 % năm. Đã đầu tư và tập trung khai thác lợi thế của huyện. Trong lĩnh vực khai thác khoáng sản đã thu hút đầu tư các nhà máy khai thác, chế biến đá bazan xuất khẩu tại Thị trấn, xã Kông Yang góp phần làm tăng giá trị ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Hiện nay, huyện tiếp tục kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản trên địa bàn.
Hàng hóa ngày càng đa dạng, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ngày một tăng, năm 2015 đạt 372 tỷ đồng, gấp 2,7 lần so với năm 2011, bảo đảm cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho đồng bào các dân tộc. Thực hiện tốt chương trình “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các hộ kinh doanh cá thể tăng nhanh về số lượng, quy mô hoạt động, góp phần tích cực vào việc giao lưu hàng hóa, phát triển thị trường đến các xã ở vùng sâu vùng xa.
Hoạt động tài chính ngân hàng có nhiều tiến bộ, phục vụ hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện. Liên tục qua các năm từ 2011-2015, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đều tăng, từ 10,1 tỷ đồng năm 2011 lên 25,35 tỷ đồng năm 2015.
Chi ngân sách năm 2015 gấp 1,84 lần so với năm 2011. Việc tăng chi ngân sách đã góp phần quan trọng cải thiện hạ tầng kinh tế – xã hội, đáp ứng các nhu cầu chi thường xuyên, bảo đảm ổn định an ninh chính trị; tăng cường các nguồn lực để thực hiện công cuộc xóa đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội.
2. Văn hóa – xã hội:
Văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo dục đào tạo được quan tâm đầu tư, 14/14 xã, thị trấn đạt phổ cập giáo dục THCS; công tác xây dựng trường đạt chuẩn, nâng cao chất lượng giáo dục được chú trọng; các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng khắp; hệ thống truyền thanh huyện và truyền thanh không dây tại các xã được đầu tư xây dựng, chất lượng truyền thanh được nâng lên rõ rệt. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu và đạt được kết quả thiết thực. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, các chương trình y tế quốc gia được triển khai có hiệu quả, đến nay có 09 Trạm Y tế đạt chuẩn quốc gia.
Công tác xoá đói giảm nghèo, chính sách người có công: Có nhiều chuyển biến, việc thực hiện chính sách xã hội được quan tâm; đã đầu tư làm tốt việc xây nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết; cấp giấy chứng nhận hộ nghèo, cấp thẻ BHYT cho người nghèo được thực hiện kịp thời; thực hiện tốt chính sách với người có công với nước, được quan tâm và duy trì thường xuyên. Làm tốt công tác bảo trợ xã hội, nhất là đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và người tàn tật.
|
General introduction to Kong Chro district
The average economic growth rate in the 5 years 2011-2015 reached 12.8%/year (calculated at 2010 constant prices). Of which, the agricultural sector increased by 7.5%/year; Industry - construction grows at 20.5%/year; The service industry increases by an average of 27.37%/year.
The district People's Committee has focused on directing the development of commodity production, shifting economic structure towards increasing the proportion of industry - services, mobilizing many economic sectors to participate in the development process; Organize strict management of natural resources, land and key sectors of the economy. Implement social security policies well to ensure fairness in income distribution. In human resource development, the district has done well in training and fostering staff according to set standards to meet the requirements of the new situation. Vocational training is focused on creating jobs to increase the added value of the economy.
Regarding infrastructure construction: During the term, the district's infrastructure has made great progress compared to the previous period, the total number of basic construction projects in 5 years is 251 projects, with a total capital of 440,605 VND. billion VND, many key projects were invested such as: Roads to Dak Pling, Yang Nam, Dak Tpang, Chu Krei communes, the traffic system to the commune center were all upgraded. The social infrastructure system has also received investment attention, high schools in the district have been stratified and solidified.
Implementing the Government's policy on controlling inflation and stabilizing the economy, the District People's Committee has managed the budget flexibly and proactively, cutting expenses that are not really necessary such as shopping and receiving guests. , stationery, electricity and water... saving 10% on administrative expenses. Strictly manage the capital construction investment process, ensuring effective use of capital sources.
The agricultural sector has promoted the restructuring of crops and livestock, improved quality and production efficiency, and formed concentrated production areas to create raw material sources for An Khe Sugar Factory, Binh Dinh; An Khe Cassava Processing Factory. The area of agricultural land by 2015 is 38,268 hectares, an increase of 11.03% compared to 2011. The land use coefficient is approximately 1.07 times, with over 80% of the area mechanized. Focus on investing in irrigation systems in communes and converting to new high-yield rice varieties to ensure food security in the area. The herd of cattle grew quite well, the total herd in 2015 was 50,597, an increase of 14.6% compared to 2011; Disease prevention in livestock and poultry is of concern.
The industrial production value in 2015 was 3,698 billion VND (2010 fixed price) with an average growth rate of 7.57% per year. Invested and focused on exploiting the district's advantages. In the field of mineral exploitation, investment has been attracted in factories exploiting and processing basalt for export in Kong Yang town and commune, contributing to increasing the value of the industry in the economic structure and creating jobs. , increasing people's income. Currently, the district continues to call for and create conditions for businesses to invest in building agricultural product processing facilities in the area.
Goods are increasingly diverse, meeting the increasing needs of the people. Total retail sales of goods and services are increasing, reaching 372 billion VND in 2015, 2.7 times higher than in 2011, ensuring the supply of essential goods for ethnic minorities. Implement well the program "Vietnamese people prioritize using Vietnamese products". Individual business households increased rapidly in number and scale of operations, actively contributing to the exchange of goods and market development in remote communes.
Banking and financial activities have made many progresses, effectively serving the needs of socio-economic development in the district. Continuously over the years from 2011 to 2015, total state budget revenue in the area increased, from 10.1 billion VND in 2011 to 25.35 billion VND in 2015.
Budget spending in 2015 was 1.84 times higher than in 2011. The increase in budget spending has made an important contribution to improving socio-economic infrastructure, meeting regular spending needs, and ensuring security stability. politics; Strengthen resources to carry out hunger eradication and poverty reduction and solve pressing social problems.
2. Culture - society:
Social culture has had many positive changes, social security is guaranteed, and people's lives continue to improve. Education and training receive investment attention, 14/14 communes and towns achieved universal secondary education; The work of building standard schools and improving the quality of education is emphasized; Information and propaganda activities, culture, art, and sports are widely developed; District radio and wireless radio systems in communes were invested in and built, the quality of radio broadcasting was significantly improved. The movement of all people uniting to build cultural life is increasingly going deeper and achieving practical results. Health care for the people is emphasized, national health programs are implemented effectively, up to now there are 09 Health Stations meeting national standards.
Poverty eradication and meritorious policy: There have been many changes, the implementation of social policies has received attention; has invested well in building houses of gratitude and great solidarity; Issuing certificates of poor households and issuing health insurance cards to the poor are carried out promptly; Implement policies well with people who have contributed to the country, are cared for and maintained regularly. Do a good job of social protection, especially for children in extremely difficult circumstances and disabled people.
|
Giới thiệu khái quát huyện Mang Yang
– Huyện Mang Yang nằm phía Đông của tỉnh
Gia Lai
, được thành lập theo Nghị định số: 37/2000/NĐ-CP ngày 21/8/2000 của Chính phủ, có diện tích tự nhiên là: 1.125,70 km
2
. Đến cuối năm 2017, dân số 15.296 hộ, 76.077 khẩu (trong đó hộ dân tộc thiểu số là 8.484 hộ, chiếm 55,46%).
– Toàn huyện có 11 đơn vị hành chính xã và 01đơn vị hành chính thị trấn với 106 thôn, làng, tổ dân phố (gồm 79 làng, 09 tổ dân phố, 18 thôn). Theo Quyết định số: 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ, huyện Mang Yang có 06 xã thuộc khu vực II, 05 xã thuộc khu vực III và 01 thị trấn thuộc khu vực I; có 54/106 thôn, làng đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020. Phía đông giáp huyện Kông Chro, Kbang, Đăk Pơ; phía tây giáp huyện Chư Sê và Đăk Đoa; phía nam giáp huyện Ia Pa; phía bắc giáp huyện Đăk Đoa.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 12 (1 thị trấn, 11 xã).
– Thị trấn: Kon Dỡng.
– Các xã: Ðăk Ya, Ðê Ar, Lơ Pang, Ðăk Trôi, Kon Thụp, Kon Chiêng, Ðăk Djrăng, A Yun, Hra, Ðăk Jơ Ta, Ðăk Ta Ley.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Mang Yang trong tiếng Gia Rai nghĩa là cổng trời. Tên huyện được đặt theo tên một con đèo nổi tiếng, đèo Mang Yang, trên quốc lộ 19 thuộc địa phận của huyện.
Trên địa bàn huyện Mang Yang có một số danh thắng như
đèo Mang Yang
,
thác Ðăk Trôi
, v.v…
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh
có một phần nằm trên địa bàn của Mang Yang.
|
General introduction to Mang Yang district
– Mang Yang district is located in the East of the province
Gia Lai
, was established under Decree Không. 37/2000/ND-CP dated August 21, 2000 of the Government, with a natural area of: 1,125.70 km
2
. By the end of 2017, the population was 15,296 households, 76,077 people (of which ethnic minority households were 8,484 households, accounting for 55.46%).
– The whole district has 11 commune administrative units and 01 town administrative unit with 106 hamlets, villages and residential groups (including 79 villages, 09 residential groups, 18 hamlets). According to Decision Không. 582/QD-TTg dated April 28, 2017 of the Prime Minister, Mang Yang district has 06 communes in region II, 05 communes in region III and 01 town in region I; There are 54/106 extremely difficult villages and hamlets in ethnic minority and mountainous areas in the period 2016-2020. The east borders Kong Chro, Kbang, Dak Po districts; the west borders Chu Se and Dak Doa districts; The south borders Ia Pa district; The north borders Dak Doa district.
Administrative units at commune and town level: 12 (1 town, 11 communes).
– Town: Kon Dung.
– Communes: Dak Ya, De Ar, Lo Pang, Dak Troi, Kon Thup, Kon Chieng, Dak Djran, A Yun, Hra, Dak Jo Ta, Dak Ta Ley.
Economic - cultural - social overview:
Mang Yang in Gia Rai language means heaven's gate. The district's name is named after a famous pass, Mang Yang Pass, on Highway 19 within the district.
In Mang Yang district, there are a number of scenic spots such as:
Mang Yang Pass
,
Dak Troi waterfall
, etc…
Kon Ka Kinh National Park
There is a part located in Mang Yang's area.
|
Giới thiệu khái quát huyện Bắc Quang
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Bắc Quang là huyện cửa ngõ phía Nam đầu tiên của Hà Giang, nằm trên quốc lộ 2 cách thị xã Hà Giang 60 km về phía Bắc. Bắc Quang có tổng diện tích tự nhiên là 110.564 ha, với địa giới hành chính như sau: Phía Đông giáp huyện Hàm Yên – Tuyên Quang; phía Nam giáp huyện Lục Yên – Yên Bái, phía Tây giáp với huyện Quanh Bình và phía Bắc giáp với huyện Vị Xuyên của Hà Giang. Địa hình phần lớn là đồi núi thấp xen kẽ những dải đồng bằng khá rộng cùng với hệ thống sông suối,ao hồ dày đặc, độ cao trung bình từ 4.00 – 500m so với mặt nước biển. Vị trí địa lý của huyện nằm trong tọa độ từ 22
0
10′ đến 22
0
36′ vĩ độ Bắc và từ 104
0
43′ đến 105
0
07′
kinh độ Đông. Huyện chia thành 23 đơn vị hành chính bao gồm 21 xã và 2 thị trấn: Tân Thành, Tân Quang, Tân lập, Đồng Tâm, Việt Vinh, Việt Hồng, Tiên Kiều, Vĩnh Hảo, Vĩnh Phúc, Đồng Yên, Đông Thành, Hùng An, Quang Minh, Vô Điếm, Kim Ngọc, Bằng Hành, Liên Hiệp, Hữu Sản, Đức Xuân, Đồng Tiến, Thượng Bình, thị trấn Việt Quang, thị trấn Vĩnh Tuy. Với số dân tính đến năm 2015 là 110.830 người, mật độ dân số 100 người/km
2
. Toàn huyện có 19 dân tộc anh em cùng chung sống (Mông, Tày, Dao, Kinh, Nùng, Giấy, La Chí, Hoa, Pà Thẻn, Cờ Lao, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, Pu Péo, Mường, Sán Chay, Thái, Sán Dìu).
* Địa hình
Địa hình, địa mạo – Địa hình núi cao trung bình: tập trung nhiều ở xã Tân Lập, Liên Hiệp, Đức Xuân với độ cao từ 700 m đến 1.500 m có độ dốc trên 250, chủ yếu là đá Granit, đá vôi và phiến thạch mica.
– Địa hình đồi núi thấp: Có độ cao từ 100 m đến 700 m, phân bố ở tất cả các xã, địa hình đồi bát úp, lượn sóng thuận lợi cho phát triển các lợi cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả.
– Địa hình thung lũng: Gồm các dải đất bằng thoải, lượn sóng ven sông lô, sông con và suối sảo. Đìa hình khá bằng phẳng có điều kiện giữ nước và tưới nước trên hầu hết diện tích đất đã được khai thác trồng lúa và hoa màu.
* Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chia ra làm 4 mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt , nhiệt độ trung bình khoảng 22 – 230C. Lượng mưa trung bình lớn, vào khoảng 4.000 – 5.000 mm/năm, đây cũng là một trong những trung tâm mưa lớn nhất ở nước ta, số ngày mưa đạt 180 – 200 ngày/năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, lượng mưa chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất
Đất đai của Bắc Quang được hình thành do hai nguồn gốc phát sinh gồm: Đất hình thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa sông bồi tụ. Do đó có thể chia đất của huyện thành 5 nhóm đất chính sau:
– Nhóm đất phù sa (Fluvisols): Diện tích chiếm khoảng 4% tổng diện tích tự nhiên của huyện, phân bố ở hầu hết các xã dọc theo các sông suối. Phản ứng của đất thay đổi từ trung bình đến khá; lân và kali tổng số trung bình nhưng dễ tiêu ở mức nghèo; thành phần cơ giới biến động phức tạp, thay đổi từ nhẹ đến trung bình và nặng. Đây là nhóm đất thích hợp với các cây trồng ngắn ngày, đặc biệt là các loại cây lương thực.
– Nhóm đất Gley (Gleysols): Có diện tích chiếm khoảng 2,4% diện tích tự nhiên, phân bố ở khu vực các xã có địa hình thấp trũng, khó thoát nước. Đất có phản ứng chua đến rất chua; thành phần cơ giới biến động phức tạp, chủ yếu là trung bình và nặng. Nhóm đất này chủ yếu là trồng lúa nước, đất thường chặt, bí, quá trình khử mạnh hơn quá trình oxy hoá.
– Nhóm đất than bùn (Histosols): Nhóm đất này có diện tích không đáng kể (36 ha), tập trung ở xã Vô Điếm. Đất có phản ứng chua vừa, hàm lượng mùn, đạm và lân tổng số rất cao. Nhóm đất này ít có ý nghĩa trong sản xuất nông nghiệp.
– Nhóm đất xám (Acrisols): Nhóm đất này có diện tích khá lớn, chiếm đến 90,8% diện tích tự nhiên, phân bố rộng khắp trên địa bàn huyện. Đất có phản ứng chua đến rất chua; thành phần cơ giới biến động từ nhẹ đến nặng. Vùng đất có địa hình thấp thích hợp với các cây ngắn ngày, cây hoa màu; vùng địa hình cao phù hợp trồng cây lâu năm.
– Nhóm đất đỏ (Ferralsols): Chiếm 0,3% diện tích tự nhiên, phân bố ở các xã Vĩnh Phúc, Đồng Yên, Liên Hiệp. Đất có thành phần cơ giới nặng, phản ứng của đất chua hoặc ít chua; hàm lượng mùn và đạm tổng số từ khá đến giàu. Đất đỏ nhìn chung có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp với nhiều loại cây trồng ngắn ngày và dài ngày.
* Tài nguyên nước
– Nguồn nước mặt của huyện chủ yếu được cung cấp bởi hệ thống sông Lô, sông Con, sông Sảo, sông Bạc và nhiều hệ thống các suối nhỏ nằm ở các khe núi, ao, hồ khác. Do nằm trên địa hình phức tạp, chia cắt mạnh và có độ dốc lớn nên việc khai thác và sử dụng nguồn nước mặt cũng có nhiều hạn chế.
– Hiện chưa có tài liệu cụ thể nghiên cứu về trữ lượng nước ngầm, nhưng qua khảo sát sơ bộ tại một số giếng nước trong vùng cho thấy mực nước ngầm nằm ở độ sâu 6-10m, có thể khai thác dùng trong sinh hoạt cho nhân dân.
Nhìn chung, tài nguyên nước của huyện khá dồi dào nhưng do địa hình dốc nên việc khai thác phục vụ sinh hoạt và sản xuất khó khăn nhưng khá thuận lợi cho đầu tư khai thác thủy điện.
* Tài nguyên rừng
Là một huyện có tài nguyên rừng và thảm thực vật khá phong phú, đa dạng chủng loại cây được phân bố đều trên địa bàn 23 xã, thị trấn, hiện nay còn tồn tại một số loài cây quý hiếm nằm trong sách đỏ như: Pơ mu, Ngọc am…
Bắc Quang có tài nguyên rừng rất lớn, nếu tính cả diện tích đất đồi núi chưa sử dụng có khả năng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp thì huyện có khoảng 79.600 ha, chiếm 72,5% diện tích tự nhiên. Diện tích rừng hiện có của huyện là 79.104,93 ha, trong đó rừng sản xuất chiếm 52,48% tổng diện tích đất lâm nghiệp, chủ yếu là rừng trồng nguyên liệu giấy.
* Tài nguyên khoáng sản
Kết quả điều tra cho thấy trên địa bàn huyện Bắc Quang không có tài nguyên khoáng sản nào có trữ lượng lớn; đáng quan tâm nhất là một số loại khoáng sản sau:
– Vàng sa khoáng ở sông Lô, sông Con (Vĩnh Tuy, Tiên Kiều);
– Man gan ở Đồng Tâm;
– Cao Lanh ở Việt Vinh;
– Đá vôi ở Việt Quang, Vĩnh Hảo.
Hiện nay cơ bản mới chỉ thực hiện khai thác vàng sa khoáng, đá vôi, cát sỏi xây dựng ở quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu tại chỗ; trong tương lai có thể khai thác cao lanh, man gan theo phương pháp công nghiệp.
* Tài nguyên nhân văn
Bắc Quang là vùng đất có truyền thống văn hoá, truyền thống yêu nước và cách mạng. Nhân dân các dân tộc trong huyện có tinh thần đoàn kết yêu quê hương, có đức tính cần cù, chăm chỉ, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để vững bước đi lên. Đó là những nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát triển kinh tế xã hội, trong xu hướng hội nhập với cả nước, khu vực và quốc tế; là thuận lợi để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện vững bước đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng huyện Bắc Quang giàu, đẹp, văn minh.
Tiềm năng dịch vụ – du lịch
Hoạt động Thương mại – Dịch vụ đã bước đầu phát triển, các hoạt động dịch vụ như: Bưu chính viễn thông, nhà hàng khách sạn, vận tải hàng hóa, hành khách phát triển cả số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu xã hội. Hàng hóa đa dạng về chủng loại, các mặt hàng được trợ cước, trợ giá, cung ứng đầy đủ, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Hệ thống chợ tại các trung tâm cụm xã được mở rộng cùng với mạng lưới dịch vụ của Nhà nước và tư nhân đã làm tốt nhiệm vụ đầu ra của sản phẩm nông nghiệp và phục vụ đầy đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân trong vùng.
Tiềm năng du lịch của huyện bước đầu được đầu tư khai thác và mở ra một hướng đi mới trong xây dựng, phát triển nền kinh tế của huyện. Du lịch sinh thái của huyện đã thu hút nhiều du khách và đã đóng góp vào ngân sách của huyện nguồn thu không nhỏ, tạo vốn cho việc đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng và phát triển các ngành kinh tế khác. Hiện huyện Bắc Quang có khu du lịch sinh thái Nậm An thuộc địa phận xã Tân Thành; khu du lịch hồ Quang Minh xã Quang Minh; khu du lịch Văn hóa tiểu khu cách mạng Trọng con tại xã Bằng Hành; ngoài ra tiềm năng du lịch đang được thành lập mới như: Làng văn hóa du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nông thôn mới thôn Khiềm xã Quang Minh; làng văn du lịch cộng đồng gắn với nghề sản xuất giấy Bản dân tộc Dao thôn Thanh Sơn – Tân Sơn thị trấn Việt Quang; khu du lịch suối nước nóng xã Tân Lập…
|
Giới thiệu khái quát huyện Bắc Quang
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Bắc Quang là huyện cửa ngõ phía Nam đầu tiên của Hà Giang, nằm trên quốc lộ 2 cách thị xã Hà Giang 60 km về phía Bắc. Bắc Quang có tổng diện tích tự nhiên là 110.564 ha, với địa giới hành chính như sau: Phía Đông giáp huyện Hàm Yên – Tuyên Quang; phía Nam giáp huyện Lục Yên – Yên Bái, phía Tây giáp với huyện Quanh Bình và phía Bắc giáp với huyện Vị Xuyên của Hà Giang. Địa hình phần lớn là đồi núi thấp xen kẽ những dải đồng bằng khá rộng cùng với hệ thống sông suối,ao hồ dày đặc, độ cao trung bình từ 4.00 – 500m so với mặt nước biển. Vị trí địa lý của huyện nằm trong tọa độ từ 22
0
10′ đến 22
0
36′ vĩ độ Bắc và từ 104
0
43′ đến 105
0
07′
kinh độ Đông. Huyện chia thành 23 đơn vị hành chính bao gồm 21 xã và 2 thị trấn: Tân Thành, Tân Quang, Tân lập, Đồng Tâm, Việt Vinh, Việt Hồng, Tiên Kiều, Vĩnh Hảo, Vĩnh Phúc, Đồng Yên, Đông Thành, Hùng An, Quang Minh, Vô Điếm, Kim Ngọc, Bằng Hành, Liên Hiệp, Hữu Sản, Đức Xuân, Đồng Tiến, Thượng Bình, thị trấn Việt Quang, thị trấn Vĩnh Tuy. Với số dân tính đến năm 2015 là 110.830 người, mật độ dân số 100 người/km
2
. Toàn huyện có 19 dân tộc anh em cùng chung sống (Mông, Tày, Dao, Kinh, Nùng, Giấy, La Chí, Hoa, Pà Thẻn, Cờ Lao, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, Pu Péo, Mường, Sán Chay, Thái, Sán Dìu).
* Địa hình
Địa hình, địa mạo – Địa hình núi cao trung bình: tập trung nhiều ở xã Tân Lập, Liên Hiệp, Đức Xuân với độ cao từ 700 m đến 1.500 m có độ dốc trên 250, chủ yếu là đá Granit, đá vôi và phiến thạch mica.
– Địa hình đồi núi thấp: Có độ cao từ 100 m đến 700 m, phân bố ở tất cả các xã, địa hình đồi bát úp, lượn sóng thuận lợi cho phát triển các lợi cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả.
– Địa hình thung lũng: Gồm các dải đất bằng thoải, lượn sóng ven sông lô, sông con và suối sảo. Đìa hình khá bằng phẳng có điều kiện giữ nước và tưới nước trên hầu hết diện tích đất đã được khai thác trồng lúa và hoa màu.
* Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chia ra làm 4 mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt , nhiệt độ trung bình khoảng 22 – 230C. Lượng mưa trung bình lớn, vào khoảng 4.000 – 5.000 mm/năm, đây cũng là một trong những trung tâm mưa lớn nhất ở nước ta, số ngày mưa đạt 180 – 200 ngày/năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, lượng mưa chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất
Đất đai của Bắc Quang được hình thành do hai nguồn gốc phát sinh gồm: Đất hình thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa sông bồi tụ. Do đó có thể chia đất của huyện thành 5 nhóm đất chính sau:
– Nhóm đất phù sa (Fluvisols): Diện tích chiếm khoảng 4% tổng diện tích tự nhiên của huyện, phân bố ở hầu hết các xã dọc theo các sông suối. Phản ứng của đất thay đổi từ trung bình đến khá; lân và kali tổng số trung bình nhưng dễ tiêu ở mức nghèo; thành phần cơ giới biến động phức tạp, thay đổi từ nhẹ đến trung bình và nặng. Đây là nhóm đất thích hợp với các cây trồng ngắn ngày, đặc biệt là các loại cây lương thực.
– Nhóm đất Gley (Gleysols): Có diện tích chiếm khoảng 2,4% diện tích tự nhiên, phân bố ở khu vực các xã có địa hình thấp trũng, khó thoát nước. Đất có phản ứng chua đến rất chua; thành phần cơ giới biến động phức tạp, chủ yếu là trung bình và nặng. Nhóm đất này chủ yếu là trồng lúa nước, đất thường chặt, bí, quá trình khử mạnh hơn quá trình oxy hoá.
– Nhóm đất than bùn (Histosols): Nhóm đất này có diện tích không đáng kể (36 ha), tập trung ở xã Vô Điếm. Đất có phản ứng chua vừa, hàm lượng mùn, đạm và lân tổng số rất cao. Nhóm đất này ít có ý nghĩa trong sản xuất nông nghiệp.
– Nhóm đất xám (Acrisols): Nhóm đất này có diện tích khá lớn, chiếm đến 90,8% diện tích tự nhiên, phân bố rộng khắp trên địa bàn huyện. Đất có phản ứng chua đến rất chua; thành phần cơ giới biến động từ nhẹ đến nặng. Vùng đất có địa hình thấp thích hợp với các cây ngắn ngày, cây hoa màu; vùng địa hình cao phù hợp trồng cây lâu năm.
– Nhóm đất đỏ (Ferralsols): Chiếm 0,3% diện tích tự nhiên, phân bố ở các xã Vĩnh Phúc, Đồng Yên, Liên Hiệp. Đất có thành phần cơ giới nặng, phản ứng của đất chua hoặc ít chua; hàm lượng mùn và đạm tổng số từ khá đến giàu. Đất đỏ nhìn chung có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp với nhiều loại cây trồng ngắn ngày và dài ngày.
* Tài nguyên nước
– Nguồn nước mặt của huyện chủ yếu được cung cấp bởi hệ thống sông Lô, sông Con, sông Sảo, sông Bạc và nhiều hệ thống các suối nhỏ nằm ở các khe núi, ao, hồ khác. Do nằm trên địa hình phức tạp, chia cắt mạnh và có độ dốc lớn nên việc khai thác và sử dụng nguồn nước mặt cũng có nhiều hạn chế.
– Hiện chưa có tài liệu cụ thể nghiên cứu về trữ lượng nước ngầm, nhưng qua khảo sát sơ bộ tại một số giếng nước trong vùng cho thấy mực nước ngầm nằm ở độ sâu 6-10m, có thể khai thác dùng trong sinh hoạt cho nhân dân.
Nhìn chung, tài nguyên nước của huyện khá dồi dào nhưng do địa hình dốc nên việc khai thác phục vụ sinh hoạt và sản xuất khó khăn nhưng khá thuận lợi cho đầu tư khai thác thủy điện.
* Tài nguyên rừng
Là một huyện có tài nguyên rừng và thảm thực vật khá phong phú, đa dạng chủng loại cây được phân bố đều trên địa bàn 23 xã, thị trấn, hiện nay còn tồn tại một số loài cây quý hiếm nằm trong sách đỏ như: Pơ mu, Ngọc am…
Bắc Quang có tài nguyên rừng rất lớn, nếu tính cả diện tích đất đồi núi chưa sử dụng có khả năng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp thì huyện có khoảng 79.600 ha, chiếm 72,5% diện tích tự nhiên. Diện tích rừng hiện có của huyện là 79.104,93 ha, trong đó rừng sản xuất chiếm 52,48% tổng diện tích đất lâm nghiệp, chủ yếu là rừng trồng nguyên liệu giấy.
* Tài nguyên khoáng sản
Kết quả điều tra cho thấy trên địa bàn huyện Bắc Quang không có tài nguyên khoáng sản nào có trữ lượng lớn; đáng quan tâm nhất là một số loại khoáng sản sau:
– Vàng sa khoáng ở sông Lô, sông Con (Vĩnh Tuy, Tiên Kiều);
– Man gan ở Đồng Tâm;
– Cao Lanh ở Việt Vinh;
– Đá vôi ở Việt Quang, Vĩnh Hảo.
Hiện nay cơ bản mới chỉ thực hiện khai thác vàng sa khoáng, đá vôi, cát sỏi xây dựng ở quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu tại chỗ; trong tương lai có thể khai thác cao lanh, man gan theo phương pháp công nghiệp.
* Tài nguyên nhân văn
Bắc Quang là vùng đất có truyền thống văn hoá, truyền thống yêu nước và cách mạng. Nhân dân các dân tộc trong huyện có tinh thần đoàn kết yêu quê hương, có đức tính cần cù, chăm chỉ, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để vững bước đi lên. Đó là những nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát triển kinh tế xã hội, trong xu hướng hội nhập với cả nước, khu vực và quốc tế; là thuận lợi để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện vững bước đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng huyện Bắc Quang giàu, đẹp, văn minh.
Tiềm năng dịch vụ – du lịch
Hoạt động Thương mại – Dịch vụ đã bước đầu phát triển, các hoạt động dịch vụ như: Bưu chính viễn thông, nhà hàng khách sạn, vận tải hàng hóa, hành khách phát triển cả số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu xã hội. Hàng hóa đa dạng về chủng loại, các mặt hàng được trợ cước, trợ giá, cung ứng đầy đủ, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Hệ thống chợ tại các trung tâm cụm xã được mở rộng cùng với mạng lưới dịch vụ của Nhà nước và tư nhân đã làm tốt nhiệm vụ đầu ra của sản phẩm nông nghiệp và phục vụ đầy đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân trong vùng.
Tiềm năng du lịch của huyện bước đầu được đầu tư khai thác và mở ra một hướng đi mới trong xây dựng, phát triển nền kinh tế của huyện. Du lịch sinh thái của huyện đã thu hút nhiều du khách và đã đóng góp vào ngân sách của huyện nguồn thu không nhỏ, tạo vốn cho việc đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng và phát triển các ngành kinh tế khác. Hiện huyện Bắc Quang có khu du lịch sinh thái Nậm An thuộc địa phận xã Tân Thành; khu du lịch hồ Quang Minh xã Quang Minh; khu du lịch Văn hóa tiểu khu cách mạng Trọng con tại xã Bằng Hành; ngoài ra tiềm năng du lịch đang được thành lập mới như: Làng văn hóa du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nông thôn mới thôn Khiềm xã Quang Minh; làng văn du lịch cộng đồng gắn với nghề sản xuất giấy Bản dân tộc Dao thôn Thanh Sơn – Tân Sơn thị trấn Việt Quang; khu du lịch suối nước nóng xã Tân Lập…
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Thiện
Huyện Phú Thiện được thành lập theo Nghị định số 50/2007/NĐ-CP ngày 30-3-2007 của Chính phủ. Theo Nghị định này, huyện Ayun Pa được chia tách để thành lập thị xã Ayun Pa (phía đông) và huyện Phú Thiện (phía tây). Trước đây Phú thiện là thị trấn nhỏ của huyện Ayun Pa, nằm ở vị trí đông nam
tỉnh Gia Lai
, trên đường Quốc lộ 7 (nay là Quốc lộ 25) nối từ thị trấn Chư Sê đi Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên), lãnh thổ huyện Phú Thiện nằm gọn trong lòng chảo nơi có con sông Yun bắt nguồn từ
cao nguyên Kon Tum
chảy qua.
Diện tích: 504, 73 Km2.
Dân số: 66.945 người (số liệu thống kê năm 2008).
Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: huyện Chư Sê.
– Nam giáp: thị xã Ayun Pa.
– Đông giáp: huyện Ia Pa.
– Tây giáp: huyện Chư Pưh.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 10 (1 thị trấn, 9 xã).
– Thị trấn: Phú Thiện.
– Các xã: Ayun Hạ, Chrôh Pơnan, Chư A Thai, Ia Ake, Ia Hiao, Ia Piar, Ia Peng, Ia Sol, Ia Yeng.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Hơn 3 năm qua (2007 – 2010), huyện Phú Thiện đã đạt được những kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm đạt 12,88%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, thu ngân sách vượt chỉ tiêu đề ra, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế đạt được những thành tựu quan trọng, quốc phòng – an ninh được giữ vững.
Huyện đã khai thác tối đa sức tưới của công trình thủy lợi Ayun Hạ để phát triển sản xuất nông nghiệp, đến nay tổng diện tích cây trồng các loại đạt khoảng 22.000 ha, trong đó diện tích lúa nước 2 vụ đạt trên 6.000 ha. Đến cuối năm 2009, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt khoảng 200 tỷ đồng, giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt 52 tỷ đồng. Các chỉ tiêu thu ngân sách hàng năm luôn đạt và vượt so với kế hoạch.
Các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội được chăm lo thực hiện có hiệu quả. Huyện đã giải ngân được trên 50 tỷ đồng vốn vay ưu đãi để phát triển sản xuất, qua đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm 20% (năm 2007) xuống còn 11,37% (đầu năm 2010). Các tuyến đường liên xã, liên thôn được nâng cấp, mở rộng. Đến năm 2010, huyện đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập bậc Tiểu học và THCS. Các chương trình quốc gia về y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được triển khai có hiệu quả. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai có chất lượng, đến nay có 32% số thôn, làng và 60% hộ gia đình đạt danh hiệu văn hóa. Tình hình an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội luôn luôn được giữ vững.
Trong giai đoạn 2010 – 2015, huyện hướng tới mục tiêu phát huy tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Chú trọng khai thác tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, đồng thời tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Quan tâm thực hiện có chất lượng công tác đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi và các công trình phúc lợi xã hội; tăng cường công tác thu ngân sách và thực hiện chi đúng theo quy định và bảo đảm hiệu quả.
Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, y tế. Chăm lo thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với người có công và các đối tượng xã hội, triển khai có chất lượng công tác xóa đói giảm nghèo. Giữ vững an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Huyện Phú Thiện khai thác tiềm năng để phát triển
Hoàn thành vào năm 2002, Ayun Hạ là một công trình đa năng, cấp nước cho 13.500 ha đất nông nghiệp trên địa bàn các huyện Phú Thiện, Ia Pa và thị xã Ayun Pa, chủ yếu trồng lúa nước và rau màu, đồng thời sản xuất điện năng với 2 tổ máy thủy điện công suất 2.700 kw. Hồ Ayun Hạ vừa chứa nước phục vụ tưới cho nông nghiệp vừa nuôi trồng thủy sản, cũng là điểm tham quan du lịch với nhiều loại hình. Có hệ thống thủy lợi Ayun Hạ, huyện Phú Thiện trở thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của tỉnh với tổng diện tích gieo trồng trong năm đạt hơn 24.000 ha, trong đó có hơn 6.000 ha lúa nước 2 vụ, 3.000 ha mía và cũng là vùng chuyên canh các loại cây trồng ngắn ngày như bắp, đậu, thuốc lá… không chỉ tạo việc làm ổn định cho nông dân trong huyện mà còn thu hút một lượng lớn lao động từ các địa phương ngoài tỉnh đến lập nghiệp. Đất đai được khai thác tốt, người dân biết áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nên tăng thu nhập, giảm hộ nghèo và tiến tới làm giàu bền vững. Năm 2012, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt hơn 10%; năm 2016, toàn huyện phấn đấu đạt tổng giá trị sản xuất trên 2.400 tỷ đồng, trong đó nông-lâm nghiệp đạt xấp xỉ 1.000 tỷ đồng.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, Phú Thiện đã và đang triển khai nhiều chương trình phát triển kinh tế, đặc biệt là trên lĩnh vực nông nghiệp, tích cực chuyển đổi cơ cấu giống, làm tăng giá trị nông sản trên từng đơn vị diện tích…Riêng trong vụ mùa năm 2016, toàn huyện gieo trồng được 15.762 ha cây trồng các loại, đạt 100% kế hoạch. Đặc biệt, huyện đã triển khai mô hình cánh đồng mẫu lớn một giống với 77 ha tại xã Ia Sol và xã Ia Ake. Mô hình thành công sẽ rút kinh nghiệm nhân rộng trên toàn vùng, tạo ra bước phát triển mới cho nền nông nghiệp của huyện như một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh miền Tây Nam bộ đã làm trong những năm gần đây. Lộ trình phát triển đã được huyện định hướng tầm nhìn đến năm 2020, trong đó nêu lên nhiều mục tiêu quan trọng, như duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 13%, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 đạt từ 1.600 tỷ đồng đến 1.700 tỷ đồng.
Định hướng đã nêu dựa trên cơ sở thực tế bởi thế mạnh của Phú Thiện là nông nghiệp nên vấn đề đầu tư ổn định vùng chuyên canh lúa nước, chuyển đổi giống lúa ưu tiên xuất ra thị trường ngoài tỉnh và hướng đến xuất khẩu được đặt lên hàng đầu với chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng hiện nay. Trước đây, nông dân thường chỉ chú ý đến năng suất, sản lượng lúa, bây giờ phải biết đầu tư thương hiệu “Gạo Phú Thiện”, sao cho hạt gạo làm ra ngon, thơm và “đứng” được trên thị trường. Bên cạnh đó, không thể không kể đến thế mạnh về chăn nuôi gia súc và nuôi cá nước ngọt mà Phú Thiện có đủ điều kiện để phát triển. Hiện tổng đàn gia súc của huyện đã lên đến 63.598 con, trong đó có hơn 30.000 con bò, gần 1.000 con trâu, 3.000 con dê… Nhờ hệ thống kênh mương dày đặc trên địa bàn nên người dân các xã đều có thể nuôi cá nước ngọt với tổng diện tích mặt nước 374 ha, sản lượng đạt xấp xỉ 900 tấn/vụ.
Thế mạnh thứ hai là mặt nước hồ Ayun Hạ rộng đến 37 km2, dung tích 253 triệu m3, Phú Thiện có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá nước ngọt và du lịch sinh thái nếu như được tỉnh giao quản lý và khai thác. Năm 1995, hồ được một xí nghiệp ở Nha Trang hợp đồng nuôi và đánh bắt, trung bình mỗi năm đánh bắt được hơn 250 tấn cá (thác lác, trắm, chép, mè, trôi) cung ứng cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh miền xuôi. Và hồ Ayun Hạ có thể cho khai thác nguồn thủy sản cao hơn nhiều nếu tổ chức nuôi trồng, đánh bắt quy mô và khoa học hơn. Với chiều dài hơn 25 km, nơi rộng nhất đến 5 km, nằm bên khu rừng nguyên sinh, giữa hồ có nhiều đảo, phong cảnh hữu tình, hồ Ayun Hạ còn là điểm du lịch sinh thái rất hấp dẫn. Nếu được trang bị phương tiện vận chuyển an toàn và xây dựng hệ thống các tuyến, điểm dừng nghỉ, giải trí trên lòng hồ, nhất định nơi đây sẽ trở thành một điểm du lịch nổi tiếng trên bản đồ du lịch cả nước, không thua kém các danh thắn
g khác trong khu vực./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Phú Thiện
Huyện Phú Thiện được thành lập theo Nghị định số 50/2007/NĐ-CP ngày 30-3-2007 của Chính phủ. Theo Nghị định này, huyện Ayun Pa được chia tách để thành lập thị xã Ayun Pa (phía đông) và huyện Phú Thiện (phía tây). Trước đây Phú thiện là thị trấn nhỏ của huyện Ayun Pa, nằm ở vị trí đông nam
tỉnh Gia Lai
, trên đường Quốc lộ 7 (nay là Quốc lộ 25) nối từ thị trấn Chư Sê đi Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên), lãnh thổ huyện Phú Thiện nằm gọn trong lòng chảo nơi có con sông Yun bắt nguồn từ
cao nguyên Kon Tum
chảy qua.
Diện tích: 504, 73 Km2.
Dân số: 66.945 người (số liệu thống kê năm 2008).
Vị trí địa lý:
– Bắc giáp: huyện Chư Sê.
– Nam giáp: thị xã Ayun Pa.
– Đông giáp: huyện Ia Pa.
– Tây giáp: huyện Chư Pưh.
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 10 (1 thị trấn, 9 xã).
– Thị trấn: Phú Thiện.
– Các xã: Ayun Hạ, Chrôh Pơnan, Chư A Thai, Ia Ake, Ia Hiao, Ia Piar, Ia Peng, Ia Sol, Ia Yeng.
Tổng quan kinh tế – văn hoá – xã hội:
Hơn 3 năm qua (2007 – 2010), huyện Phú Thiện đã đạt được những kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm đạt 12,88%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, thu ngân sách vượt chỉ tiêu đề ra, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế đạt được những thành tựu quan trọng, quốc phòng – an ninh được giữ vững.
Huyện đã khai thác tối đa sức tưới của công trình thủy lợi Ayun Hạ để phát triển sản xuất nông nghiệp, đến nay tổng diện tích cây trồng các loại đạt khoảng 22.000 ha, trong đó diện tích lúa nước 2 vụ đạt trên 6.000 ha. Đến cuối năm 2009, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt khoảng 200 tỷ đồng, giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt 52 tỷ đồng. Các chỉ tiêu thu ngân sách hàng năm luôn đạt và vượt so với kế hoạch.
Các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội được chăm lo thực hiện có hiệu quả. Huyện đã giải ngân được trên 50 tỷ đồng vốn vay ưu đãi để phát triển sản xuất, qua đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm 20% (năm 2007) xuống còn 11,37% (đầu năm 2010). Các tuyến đường liên xã, liên thôn được nâng cấp, mở rộng. Đến năm 2010, huyện đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập bậc Tiểu học và THCS. Các chương trình quốc gia về y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được triển khai có hiệu quả. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai có chất lượng, đến nay có 32% số thôn, làng và 60% hộ gia đình đạt danh hiệu văn hóa. Tình hình an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội luôn luôn được giữ vững.
Trong giai đoạn 2010 – 2015, huyện hướng tới mục tiêu phát huy tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Chú trọng khai thác tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, đồng thời tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Quan tâm thực hiện có chất lượng công tác đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi và các công trình phúc lợi xã hội; tăng cường công tác thu ngân sách và thực hiện chi đúng theo quy định và bảo đảm hiệu quả.
Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, y tế. Chăm lo thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với người có công và các đối tượng xã hội, triển khai có chất lượng công tác xóa đói giảm nghèo. Giữ vững an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Huyện Phú Thiện khai thác tiềm năng để phát triển
Hoàn thành vào năm 2002, Ayun Hạ là một công trình đa năng, cấp nước cho 13.500 ha đất nông nghiệp trên địa bàn các huyện Phú Thiện, Ia Pa và thị xã Ayun Pa, chủ yếu trồng lúa nước và rau màu, đồng thời sản xuất điện năng với 2 tổ máy thủy điện công suất 2.700 kw. Hồ Ayun Hạ vừa chứa nước phục vụ tưới cho nông nghiệp vừa nuôi trồng thủy sản, cũng là điểm tham quan du lịch với nhiều loại hình. Có hệ thống thủy lợi Ayun Hạ, huyện Phú Thiện trở thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của tỉnh với tổng diện tích gieo trồng trong năm đạt hơn 24.000 ha, trong đó có hơn 6.000 ha lúa nước 2 vụ, 3.000 ha mía và cũng là vùng chuyên canh các loại cây trồng ngắn ngày như bắp, đậu, thuốc lá… không chỉ tạo việc làm ổn định cho nông dân trong huyện mà còn thu hút một lượng lớn lao động từ các địa phương ngoài tỉnh đến lập nghiệp. Đất đai được khai thác tốt, người dân biết áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nên tăng thu nhập, giảm hộ nghèo và tiến tới làm giàu bền vững. Năm 2012, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt hơn 10%; năm 2016, toàn huyện phấn đấu đạt tổng giá trị sản xuất trên 2.400 tỷ đồng, trong đó nông-lâm nghiệp đạt xấp xỉ 1.000 tỷ đồng.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, Phú Thiện đã và đang triển khai nhiều chương trình phát triển kinh tế, đặc biệt là trên lĩnh vực nông nghiệp, tích cực chuyển đổi cơ cấu giống, làm tăng giá trị nông sản trên từng đơn vị diện tích…Riêng trong vụ mùa năm 2016, toàn huyện gieo trồng được 15.762 ha cây trồng các loại, đạt 100% kế hoạch. Đặc biệt, huyện đã triển khai mô hình cánh đồng mẫu lớn một giống với 77 ha tại xã Ia Sol và xã Ia Ake. Mô hình thành công sẽ rút kinh nghiệm nhân rộng trên toàn vùng, tạo ra bước phát triển mới cho nền nông nghiệp của huyện như một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh miền Tây Nam bộ đã làm trong những năm gần đây. Lộ trình phát triển đã được huyện định hướng tầm nhìn đến năm 2020, trong đó nêu lên nhiều mục tiêu quan trọng, như duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 13%, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 đạt từ 1.600 tỷ đồng đến 1.700 tỷ đồng.
Định hướng đã nêu dựa trên cơ sở thực tế bởi thế mạnh của Phú Thiện là nông nghiệp nên vấn đề đầu tư ổn định vùng chuyên canh lúa nước, chuyển đổi giống lúa ưu tiên xuất ra thị trường ngoài tỉnh và hướng đến xuất khẩu được đặt lên hàng đầu với chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng hiện nay. Trước đây, nông dân thường chỉ chú ý đến năng suất, sản lượng lúa, bây giờ phải biết đầu tư thương hiệu “Gạo Phú Thiện”, sao cho hạt gạo làm ra ngon, thơm và “đứng” được trên thị trường. Bên cạnh đó, không thể không kể đến thế mạnh về chăn nuôi gia súc và nuôi cá nước ngọt mà Phú Thiện có đủ điều kiện để phát triển. Hiện tổng đàn gia súc của huyện đã lên đến 63.598 con, trong đó có hơn 30.000 con bò, gần 1.000 con trâu, 3.000 con dê… Nhờ hệ thống kênh mương dày đặc trên địa bàn nên người dân các xã đều có thể nuôi cá nước ngọt với tổng diện tích mặt nước 374 ha, sản lượng đạt xấp xỉ 900 tấn/vụ.
Thế mạnh thứ hai là mặt nước hồ Ayun Hạ rộng đến 37 km2, dung tích 253 triệu m3, Phú Thiện có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá nước ngọt và du lịch sinh thái nếu như được tỉnh giao quản lý và khai thác. Năm 1995, hồ được một xí nghiệp ở Nha Trang hợp đồng nuôi và đánh bắt, trung bình mỗi năm đánh bắt được hơn 250 tấn cá (thác lác, trắm, chép, mè, trôi) cung ứng cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh miền xuôi. Và hồ Ayun Hạ có thể cho khai thác nguồn thủy sản cao hơn nhiều nếu tổ chức nuôi trồng, đánh bắt quy mô và khoa học hơn. Với chiều dài hơn 25 km, nơi rộng nhất đến 5 km, nằm bên khu rừng nguyên sinh, giữa hồ có nhiều đảo, phong cảnh hữu tình, hồ Ayun Hạ còn là điểm du lịch sinh thái rất hấp dẫn. Nếu được trang bị phương tiện vận chuyển an toàn và xây dựng hệ thống các tuyến, điểm dừng nghỉ, giải trí trên lòng hồ, nhất định nơi đây sẽ trở thành một điểm du lịch nổi tiếng trên bản đồ du lịch cả nước, không thua kém các danh thắn
g khác trong khu vực./.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Pleiku
Thành phố Pleiku (cũng còn viết Plei Cu, Plây Cu, Plây Ku hay Plei Ku), là thành phố, tỉnh lỵ của tỉnh Gia Lai ở vùng Tây nguyên, Việt Nam.
* Vị trí địa lý
Thành phố Pleiku là đô thị phía bắc Tây Nguyên, nằm trên trục giao thông giữa quốc lộ 14, quốc lộ 19 nối thông suốt cả nước, gần ngã ba Đông Dương, nằm trên cung đường Hồ Chí Minh, và trong vùng tam giác tăng trưởng các tỉnh lân cận, cũng như các quốc gia láng giềng như Campuchia, Lào. Tổng diện tích tự nhiên là 26.166,36 ha, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của tỉnh Gia Lai.
Pleiku nằm trên độ cao trung bình 300m -500 m; ngã ba quốc lộ 14 và quốc lộ 19 có độ cao 785 m.
* Dân số, dân tộc
Dân số trung bình 214.710 người (31/12/2010), năm 1971 dân số thị xã là 34.867 người, bao gồm 24 dân tộc đang sinh sống; người Kinh chiếm đa số (87,9%), còn lại là các dân tộc khác, chủ yếu là các dân tộc Gia Rai và Ba Na (12,08%). Số người trong độ tuổi lao động khoảng 115.060 người chiếm 56,6% dân số.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhanh, đến năm 2008 đạt 1,12%. Kết quả trên đã góp phần tích cực cho công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
* Phân chia hành chính
Thành phố có 14 phường (trong đó phường Thắng Lợi, mới được thành lập vào cuối năm 2006, được tách ra từ một phần địa giới hành chính của xã Chư Á; phường Phù Đổng, phường Chi Lăng, phường Đống Đa, được thành lập vào đầu năm 2008, được tách ra từ một phần địa giới hành chính của phường Hội Phú, phường Thống Nhất, xã Ia Kênh, xã ChưHDrông), và 9 xã. Diện tích đất nội thành là 7.346,11 ha với dân số khoảng 157.325 người (14 phường). Hệ thống giao thông, lưới điện quốc gia, thông tin liên lạc đã thông suốt từ thành phố đến 23 xã, phường.
Các phường là Diên Hồng, Ia Kring, Hội Thương, Hoa Lư, Tây Sơn, Thống Nhất, Hội Phú, Yên Đỗ, Yên Thế, Trà Bá, Thắng Lợi, Chi Lăng, Phù Đổng, Đống Đa và các xã là Biển Hồ, ChưHDrông, An Phú, Trà Đa, Gào, Diên Phú, Tân Sơn, Ia Kênh, Chư Á.
* Kinh tế
Thành phố có ưu thế về thổ nhưỡng, thời tiết thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, cây lâm sản đa dạng.
Các tiềm năng về du lịch sinh thái từ cảnh quan thiên nhiên do đặc thù địa hình Tây nguyên mang lại như khu Lâm viên Biển Hồ, Làng văn hoá Plei Ốp; di tích lịch sử Đền tưởng niệm Liệt sỹ Hội Phú, Nhà lao Pleiku… Nét đặc sắc về văn hoá: Nhà sàn, Cồng chiêng Tây nguyên (trong tháng 11/2009 thành phố Pleiku sẽ tổ chức Festival Cồng chiêng Quốc tế – Gia Lai lần thứ I), Nhà thờ Plei Choét, Chùa Minh Thành v.v… Đặc sản: Trà, Cà phê, phở khô Pleiku…
Ưu thế về đất đai rộng, chưa được khai thác nhiều, có khả năng thu hút đầu tư trong thời gian đến.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 15,2% (giai đoạn 2005 – 2010), cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng ngày càng tăng trong cơ cấu chung của GDP. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 852 USD/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2008 giảm còn 281 hộ chiếm 0,64%, theo qui định của Bộ lao động thương binh và xã hội với tiêu chí đạt được như trên thì địa bàn thành phố cơ bản thoát nghèo.
Khu công nghiệp Trà Đa đang tiếp tục thu hút đầu tư của các doanh nghiệp (trên 30 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, đến nay đã có 25 doanh nghiệp đi vào hoạt động, 5 doanh nghiệp đang xây dựng cơ bản), khu Tiểu thủ công nghiệp Diên Phú hiện đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời quy hoạch phát triển cụm du lịch tham quan các cảnh quan đẹp của núi rừng Tây Nguyên như nhà lao Pleiku, Biển Hồ nước, công viên Đồng Xanh, Diên Hồng, công viên văn hóa các dân tộc thiểu số…
Thành phố Pleiku đã được Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội thành phố đến năm 2020. Đang tổ chức kêu gọi các nhà đầu tư thi công các khu quy hoạch đã được phê duyệt: Khu dân cư Lê Thánh Tôn, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Diên Phú, IaSoi; cụm CN-TTCN, khu đô thị mới Hoa Lư – Phù Đổng, suối Hội Phú, và các khu dân cư mới theo quy hoạch, các khách sạn cao tầng v.v…
* Cơ sở hạ tầng
Cấp nước sinh hoạt: Tỷ lệ dân số được dùng nước sạch là 86%, cấp 128 lít nước/người/ngày.
Điện chiếu sáng: Mạng lưới điện quốc gia đã kéo đến 23/23 xã, phường và đến tận thôn, làng. Hơn 99,21% số hộ dân được sử dụng lưới điện quốc gia.
Vệ sinh môi trường: Được chú trọng đầu tư đồng bộ với sự phát triển hạ tầng đô thị, đến nay thành phố đang quản lý và chăm sóc trên 13.560 cây xanh đường phố.
Hệ thống thông tin liên lạc đang được mở rộng đầu tư nâng cấp, đến nay đã phủ sóng thông tin toàn bộ 23/23 xã, phường, thôn, làng, bản.
Tính đến cuối năm 2008 số máy điện thoại lắp đặt bình quân đạt 45 máy/100 dân (dự kiến cuối năm 2009 đạt 72 máy/100 dân). Sân bay Cù Hanh đang được đầu tư nâng cấp có thể để tiếp đón máy bay hành khách cỡ lớn như A320.
Công sở, nhà dân đã được đầu tư nâng cấp khang trang, hiện đại, đến nay có hơn 80% nhà kiên cố và bán kiên cố. Khu vực nội thành phần lớn là nhà kiên cố, cao tầng; Trung tâm thương mại đã được đầu tư làm mới và hệ thống các chợ khu vực đi vào hoạt động ổn định.
Qua 5 năm xây dựng và phát triển đô thị, tổng mức đầu tư toàn xã hội trong 5 năm (2004 – 2008) trên địa bàn thành phố đạt hơn 1.588 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Thành phố đầu tư hơn 804,69 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, kết quả đạt khả quan như đầu tư trên 64 tỷ đồng xây dựng mới, cải tạo nâng cấp 20 trường học (215 phòng học); đầu tư trên 39,2 tỷ đồng xây dựng đường giao thông nông thôn với tổng chiều dài 19,3 km(đường láng nhựa và bê tông xi măng), cải tạo nâng cấp với chiều dài 46 km; cải tạo nâng cấp và xây dựng mới 72 phòng họp tổ dân phố thôn, làng…
* Giao thông
Hiện có 850 km đường bộ, bao gồm 18,7 km đường bê tông ximăng, 100,7 km đường bê tông nhựa, 467,8 km đường láng nhựa, 8,5 km đường cấp phối và 254,3 km đường đất.
Sân bay Cù Hanh (hiện nay là cụm cảng hàng không Pleiku) cách trung tâm thành phố khỏang 5 km đang được đầu tư nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn.
|
General introduction to Pleiku city
Pleiku city (also spelled Plei Cu, Plei Cu, Plei Ku or Plei Ku), is a city and capital of Gia Lai province in the Central Highlands, Vietnam.
* Geographical location
Pleiku city is an urban area in the northern Central Highlands, located on the traffic axis between National Highway 14 and National Highway 19 connecting the whole country, near the Indochina junction, located on the Ho Chi Minh Highway, and in the rising triangle area. heads of neighboring provinces, as well as neighboring countries such as Cambodia and Laos. The total natural area is 26,166.36 hectares, and is the economic, political, cultural and social center of Gia Lai province.
Pleiku is located at an average altitude of 300m -500m; The intersection of National Highway 14 and National Highway 19 has an altitude of 785 m.
* Population and ethnicity
The average population is 214,710 people (December 31, 2010), in 1971 the town's population was 34,867 people, including 24 living ethnic groups; The Kinh people make up the majority (87.9%), the rest are other ethnic groups, mainly the Gia Rai and Ba Na ethnic groups (12.08%). The number of people of working age is about 115,060 people, accounting for 56.6% of the population.
The natural population growth rate decreased rapidly, reaching 1.12% in 2008. The above results have contributed positively to the work of hunger eradication and poverty reduction, creating jobs and improving the quality of life for the people.
* Administrative division
The city has 14 wards (of which Thang Loi ward, newly established at the end of 2006, was separated from a part of the administrative boundaries of Chu A commune; Phu Dong ward, Chi Lang ward, Dong Da ward, were established. established in early 2008, separated from a part of the administrative boundaries of Hoi Phu ward, Thong Nhat ward, Ia Kenh commune, ChuHDrong commune), and 9 communes. The inner city land area is 7,346.11 hectares with a population of about 157,325 people (14 wards). The transportation system, national power grid, and communications are smooth from the city to 23 communes and wards.
The wards are Dien Hong, Ia Kring, Hoi Thuong, Hoa Lu, Tay Son, Thong Nhat, Hoi Phu, Yen Do, Yen The, Tra Ba, Thang Loi, Chi Lang, Phu Dong, Dong Da and the communes of Bien Ho , ChuHDrong, An Phu, Tra Da, Gao, Dien Phu, Tan Son, Ia Kenh, Chu A.
* Economy
The city has advantages in soil and favorable weather for the development of industrial crops such as rubber, coffee, pepper, and diverse forest products.
Ecotourism potentials from natural landscapes brought about by the unique terrain of the Central Highlands such as Bien Ho Forest Park, Plei Op Cultural Village; historical relics Hoi Phu Martyrs Memorial Temple, Pleiku Prison... Cultural features: Stilt houses, Central Highlands gongs (in November 2009, Pleiku city will host the International Gong Festival - Gia Lai 1st), Plei Choet Church, Minh Thanh Pagoda, etc. Specialties: Tea, Coffee, Pleiku dry pho...
The advantage of large, unexploited land is likely to attract investment in the coming time.
The average annual economic growth rate is 15.2% (period 2005 - 2010), the economic structure continues to shift in a positive direction, the proportion of industry - construction is increasing in the structure. of GDP. The average income per capita reached about 852 USD/person/year, the poverty rate at the end of 2008 decreased to 281 households, accounting for 0.64%, according to regulations of the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs with the following criteria: above, the city basically escaped poverty.
Tra Da Industrial Park is continuing to attract investment from businesses (over 30 businesses registered to operate, to date there are 25 businesses in operation, 5 businesses are under basic construction), the Small Area Dien Phu handicraft industry currently has many enterprises operating in production and business. At the same time, planning to develop tourist clusters to visit the beautiful landscapes of the Central Highlands mountains and forests such as Pleiku prison, Bien Ho lake, Dong Xanh park, Dien Hong park, ethnic minority cultural park...
Pleiku City has been approved by the Ministry of Construction for the master plan for socio-economic development of the city until 2020. It is calling for investors to construct the approved planning areas: Residential areas Le Thanh Ton, Nguyen Chi Thanh, Nguyen Van Linh, Dien Phu, IaSoi; Industrial and Handicraft clusters, Hoa Lu - Phu Dong new urban area, Hoi Phu stream, and new planned residential areas, high-rise hotels, etc.
* The infrastructure
Domestic water supply: The proportion of the population using clean water is 86%, providing 128 liters of water/person/day.
Electricity for lighting: The national electricity network has reached 23/23 communes, wards and even villages. More than 99.21% of households use the national electricity grid.
Environmental sanitation: With focused investment in synchronization with urban infrastructure development, the city is currently managing and taking care of over 13,560 street trees.
The communication system is being expanded and invested in upgrading. Up to now, information coverage has covered all 23/23 communes, wards, villages, and hamlets.
By the end of 2008, the average number of installed telephones reached 45 phones/100 people (expected to reach 72 phones/100 people by the end of 2009). Cu Hanh Airport is being upgraded to accommodate large passenger aircraft such as the A320.
Offices and people's houses have been upgraded to be spacious and modern. Up to now, there are more than 80% of permanent and semi-permanent houses. The inner city area is mostly solid, high-rise buildings; The commercial center has been newly invested and the system of regional markets has come into stable operation.
After 5 years of urban construction and development, the total social investment in 5 years (2004 - 2008) in the city reached more than 1,588 billion VND, of which the City budget invested more than 804.69 billion VND. billion VND to invest in urban infrastructure construction, with positive results such as investing over 64 billion VND in new construction, renovation and upgrading of 20 schools (215 classrooms); Investing over 39.2 billion VND to build rural roads with a total length of 19.3 km (asphalt and cement concrete roads), renovating and upgrading with a length of 46 km; renovate, upgrade and build 72 new meeting rooms for residential groups, villages, etc.
* Traffic
There are currently 850 km of roads, including 18.7 km of cement concrete roads, 100.7 km of asphalt concrete roads, 467.8 km of asphalt roads, 8.5 km of gravel roads and 254.3 km of dirt roads.
Cu Hanh Airport (currently Pleiku airport cluster) about 5 km from the city center is being upgraded to accommodate large aircraft.
|
Giới thiệu khái quát huyện Hoàng Su Phì
Hoàng Su Phì là một trong 2 huyện vùng cao biên giới phía tây của tỉnh
Hà Giang
. Đây là địa bàn cư trú lâu đời của 13 dân tộc như Dao, Tày, Nùng, Mông, Cờ Lao, La Chí… Đây cũng là một trong những địa phương có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thuộc diện đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết 30a của Chính phủ.
1. Vị trí địa lý.
Hoàng Su Phì là huyện biên giới phía tây của tỉnh Hà Giang nằm trên thượng nguồn sông Chảy và sông Bạc, cách thành phố Hà Giang 100km về phía tây. Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp huyện Xín Mần, phía đông giáp huyện Vị Xuyên, phía đông nam và nam giáp các huyện Bắc Quang, Quang Bình tỉnh Hà Giang.
Về địa giới hành chính: Toàn huyện có tổng số 193 thôn bản và 06 tổ dân phố thuộc 24 xã và 1 thị trấn gồm: Bản Luốc, Bản Máy, Bản Nhùng, Bản Péo, Bản Phùng, Chiến Phố, Đản Ván, Hồ Thầu, Nam Sơn, Nàng Đôn, Nậm Dịch, Nậm Khòa, Nậm Ty, Ngàm Đăng Vài, Pố Lồ, Pờ Ly Ngài, Sán Xả Hồ, Tả Sử Choóng, Tân Tiến, Thàng Tín, Thèn Chu Phìn, Thông Nguyên, Tụ Nhân, Túng Sán, thị trấn Vinh Quang.
Điều kiện tự nhiên
Toàn bộ địa hình của huyện Hoàng Su Phì nằm trên lưu vực thượng nguồn sông Chảy và sông Bạc, có kết cấu địa hình phức tạp chủ yếu là đồi núi dốc bị nhiều con suối chia cắt nên giao thông đi lại khó khăn, vào mùa mưa thường xảy ra lũ quét, lũ ống. Toàn huyện có tổng diện tích tự nhiên là 63.238,06 ha.
Kinh tế.
Tổng giá trị sản xuất theo giá hiện hành (không bao gồm XDCB và thương mại, dịch vụ) là 1.074,4 tỷ đồng. Thu NSNN trên địa bàn đạt 53,06 tỷ đồng, trong đó: thu thuế và phí đạt 36,58 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 16,7 triệu đồng/người/năm, đạt 101,2%NQ. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 37.627 tấn, đạt 99,7%NQ; bình quân lương thực đầu người đạt 570 kg/người/năm, đạt 101,8%NQ. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 53,19% (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Đến nay đã có 100% các xã trong Huyện có đường ô tô đến trung tâm xã (
Trong đó có 23/25 xã có đường nhựa hoặc đường bê tông
), hệ thống trường lớp học, trạm xá bệnh viện, điện lưới Quốc gia được xây dựng đã làm thay đổi về cơ bản bộ mặt của nông thôn huyện Hoàng Su Phì.
Nông – Lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu Kinh tế của huyện . Từ năm 2004 đến nay, huyện chủ trương kêu gọi đầu tư theo hướng liên doanh liên kết trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, từng bước chuyển đổi tập quán sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá, đồng thời qua đó xây dựng tác phong công nghiệp trong lao động sản xuất của nhân dân, từng bước thay đổi cơ cấu Kinh tế mang tính bền vững, mang lại hiệu quả thiết thực đối với cuộc sống của nhân dân các dân tộc trong huyện.
Dân cư.
Năm 2017 dân số của huyện là: 64.991 với mật độ dân số trung bình 103 người/km2, trong đó thị trấn Vinh Quang, xã Tân Tiến là những xã có mật độ dân số cao, một số xã như Túng Sán, Hồ Thầu có mật độ dân số thấp. Lực lượng lao động dồi dà. Tổng số 13 dân tộc chủ yếu gồm: dân tộc Nùng 38,8%, Dao 21,8%, Mông 12,6%, Tày 14,2%, La Chí 6%, Kinh 4,8%, Hoa Hán 1,25% Cờ Lao 1,43%, Thái 0,02%, Phù Lá 0,2%, Cao Lan 0,06%, Mường 0,07%.
Văn hóa.
Do yếu tố về địa lý và địa bàn nằm cách biệt nên sự giao thoa tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc và địa phương trong huyện diễn ra chậm, trong nhân dân còn lưu trữ được rất nhiều vốn văn hoá truyền thống độc đáo và phong phú của cộng đồng nhân dân các dân tộc trong Huyện. Tiêu biểu là các lễ hội dân gian như: Lễ hội Quýa hiéng của dân tộc Dao đỏ xã Hồ Thầu, lễ hội cúng rừng của dân tộc Nùng; lễ hội Khu cù tê dân tộc La Chí, lễ cấp sắc dân tộc Dao; lễ hội gầu tào của dân tộc Mông, lễ cúng Hoàng Vần Thùng của dân tộc Cờ Lao xã Túng Sán cùng nhiều huyền thoại và khu mộ Hoàng Vần Thùng của dân tộc Lao Chí và những trò chơi dân gian, những làn điệu dân ca dân vũ truyền thống của các dân tộc Dao, Tày Nùng, Mông, Cờ Lao …
Do điều kiện về khí hậu và địa lý, địa hình nên hiện nay Hoàng Su Phì vẫn giữ được vẻ thiên nhiên hoang sơ với những cánh rừng nguyên sinh, sông suối đầu nguồn sông Chảy và sông Bạc, nương chè san tuyết cổ thụ.
Về di tích, di sản: Hiện nay, toàn huyện đã có 04 di tích được xếp hạng cấp tỉnh gồm: Di tích đền Suối Thầu xã Bản Luốc, di tích đền Vinh Quang, di tích đồn Pố Lũng thị trấn Vinh Quang, di tích khu mộ cổ Hoàng Vần Thùng xã Bản Phùng, Bản Máy; 04 di sản cấp Quốc gia trong đó có 01 di tích ruộng bậc thang tại 11 xã:
Bản Luốc, Bản Phùng, Nậm Ty, Hồ Thầu, Sán Sả Hồ, Thông Nguyên, Bản Nhùng, Tả Sử Choóng, Nậm Khòa, Pố Lồ, Thàng Tín
và 03 di sản văn hóa phi vật thể gồm: Lễ hội Quyã Hiéng của dân tộc Dao đỏ xã Hồ Thầu, Lễ cúng Thần rừng của dân tộc Nùng, Tết Khu Cù Tê của dân tộc La Chí.
Địa lý, thủy văn.
Toàn bộ địa hình của huyện Hoàng Su Phì nằm trên khối núi đất thượng nguồn sông Chảy được cấu tạo cách đây ít nhất 500 triệu năm có độ cao trung bình từ 1.300 -1.700 m trong đó có 2 đỉnh núi cao nhất nhì nước ta là Đỉnh Tây Côn Lĩnh cao 2.423m và đỉnh Chiêu Lầu Thi cao 2.402m. Do địa hình núi đất có độ đốc lớn, kết cấu yếu, bị nhiều khe suối chia cắt nên địa bàn huyện Hoàng Su Phì tương đối phức tạp, thường hay sạt lở về mùa mưa, khí hậu chia thành nhiều tiểu vùng khác nhau với 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Tại các xã vùng cao khí hậu mát mẻ phù hợp cho việc trồng trọt canh tác nhiều loài cây đặc hữu như: Chè san tuyết, thảo quả và các loài dược liệu quý hiếm khác.
Trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì có 2 con sông suối lớn chảy qua đó là: Sông Chảy được bắt nguồn từ các khe núi thuộc sườn tây nam đỉnh
Tây Côn Lĩnh
và sườn đông bắc đỉnh Chiêu Lầu Thi trên khối núi Tây Côn Lĩnh phía tây bắc tỉnh
Hà Giang
nằm trên địa phận các xã Túng Sán, Hồ Thầu, Sam Sơn huyện Hoàng Su Phì và xã Thượng Sơn huyện Vị Xuyên. Sông Bạc có khởi nguồn từ các nhánh suối thuộc sườn tây nam đỉnh
Tây Côn Lĩnh
thuộc các xã Nậm Ty, Thông Nguyên, Nậm Khòa và sườn đông nam đỉnh Chiêu Lầu Thi trên khối núi Tây Côn Lĩnh thuộc địa bàn huyện Hoàng Su Phì. Đây là nguồn cung cấp nước rồi rào cho các hoạt động sinh hoạt, sản xuất của người dân các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần, Quang Bình và Bắc Quang, đồng thời là nguồn năng lượng quan trọng cho việc duy trì hoạt động của Nhà máy thủy điện Thác Bà cũng như việc xây dựng các công trình thủy điện của các địa phương tỉnh Hà Giang.
|
General introduction of Hoang Su Phi district
Hoang Su Phi is one of two highland districts on the western border of the province
Ha Giang
. This is a long-standing residential area of 13 ethnic groups such as Dao, Tay, Nung, Mong, Co Lao, La Chi... This is also one of the localities with harsh natural conditions and is considered particularly difficult according to the Resolution. Decision 30a of the Government.
1. Geographical location.
Hoang Su Phi is a western border district of Ha Giang province located on the upstream of Chay and Bac rivers, 100km west of Ha Giang city. The north borders China, the west borders Xin Man district, the east borders Vi Xuyen district, the southeast and south border Bac Quang and Quang Binh districts of Ha Giang province.
Regarding administrative boundaries: The whole district has a total of 193 villages and 06 residential groups belonging to 24 communes and 1 town including: Ban Luoc, Ban May, Ban Nhung, Ban Peo, Ban Phung, Chien Pho, Dan Van, Ho Thau, Nam Son, Nang Don, Nam Dich, Nam Khoa, Nam Ty, Ngam Dang Vai, Po Lo, Po Ly Ngai, San Xa Ho, Ta Su Choong, Tan Tien, Thang Tin, Then Chu Phin, Thong Nguyen, Tu Nhan, Tung San, Vinh Quang town.
Natural condition
The entire terrain of Hoang Su Phi district is located in the upstream basin of Chay and Bac rivers, with a complex topographic structure, mainly steep hills and mountains divided by many streams, making transportation difficult in the summer. When it rains, flash floods and pipe floods often occur. The entire district has a total natural area of 63,238.06 hectares.
Economy.
Total production value at current prices (excluding capital construction and trade and services) is 1,074.4 billion VND. State budget revenue in the area reached 53.06 billion VND, of which tax and fee collection reached 36.58 billion VND. Average income per capita reached 16.7 million VND/person/year, reaching 101.2% of national income. Total food grain output reached 37,627 tons, reaching 99.7% of NQ; Average food per capita reached 570 kg/person/year, reaching 101.8% of NQ. Reduce the poverty rate to 53.19% (according to multidimensional poverty standards).
Up to now, 100% of communes in the District have car roads to the commune center (
Of these, 23/25 communes have asphalt or concrete roads
), the system of schools, clinics, hospitals, and the national electricity grid was built, fundamentally changing the face of rural Hoang Su Phi district.
Agriculture - Forestry accounts for a large proportion of the district's economic structure. From 2004 to present, the district has advocated calling for investment in the direction of joint ventures in processing and consuming agricultural products, gradually converting small-scale, self-sufficient production practices to commodity production. , at the same time, thereby building an industrial style in the people's productive labor, gradually changing the economic structure to be sustainable, bringing practical effects to the lives of people of all ethnic groups in the world. district.
Residential.
In 2017, the district's population was: 64,991 with an average population density of 103 people/km2, of which Vinh Quang town and Tan Tien commune are communes with high population density, some communes such as Tung San, Ho Thau has low population density. Abundant workforce. A total of 13 major ethnic groups include: Nung 38.8%, Dao 21.8%, Mong 12.6%, Tay 14.2%, La Chi 6%, Kinh 4.8%, Hoa Han 1, 25% Co Lao 1.43%, Thai 0.02%, Phu La 0.2%, Cao Lan 0.06%, Muong 0.07%.
Culture.
Due to geographical factors and isolated areas, cultural interaction between ethnic groups and localities in the district takes place slowly, and the people still retain a lot of unique and traditional cultural capital. richness of ethnic communities in the District. Typical folk festivals are: Quya hieng festival of the Red Dao ethnic group in Ho Thau commune, forest worship festival of the Nung ethnic group; Khu Cu Te festival of La Chi ethnic group, ceremony of Dao ethnic group; Cau Tao festival of the Mong ethnic group, Hoang Van Thung worshiping ceremony of the Co Lao ethnic group in Tung San commune, many legends and Hoang Van Thung grave site of the Lao Chi ethnic group, and folk games and folk songs. Traditional dance of the Dao, Tay Nung, Mong, Co Lao ethnic groups...
Due to climatic, geographical and topographic conditions, Hoang Su Phi still retains its pristine natural beauty with primeval forests, rivers and streams upstream of Chay and Bac rivers, and ancient San Tuyet tea fields.
Regarding relics and heritage: Currently, the whole district has 04 relics ranked at the provincial level including: Suoi Thau temple relic in Ban Luoc commune, Vinh Quang temple relic, Po Lung station relic in Vinh Quang town, ruins of Hoang Van Thung ancient tomb in Ban Phung and Ban May communes; 04 National-level heritage sites including 01 terraced field relic in 11 communes:
Ban Luoc, Ban Phung, Nam Ty, Ho Thau, San Sa Ho, Thong Nguyen, Ban Nhung, Ta Su Choong, Nam Khoa, Po Lo, Thang Tin
and 03 intangible cultural heritages including: Quyã Hiéng Festival of the Red Dao ethnic group in Ho Thau commune, Forest God Worshiping Ceremony of the Nung ethnic group, Khu Cu Te Tet of the La Chi ethnic group.
Geography, hydrology.
The entire terrain of Hoang Su Phi district is located on the mountain massif upstream of the Chay River, formed at least 500 million years ago with an average altitude of 1,300 - 1,700 m, including the two highest mountain peaks in our country: Tay Con Linh peak is 2,423m high and Chieu Lau Thi peak is 2,402m high. Due to the high slope of the mountainous terrain, weak structure, and many streams and streams, Hoang Su Phi district is relatively complex, often landslides in the rainy season, and the climate is divided into many different sub-regions. 2 distinct seasons: Rainy season from May to October, dry season from November to April of the following year. In highland communes, the cool climate is suitable for the cultivation of many endemic tree species such as San Tuyet tea, cardamom and other rare medicinal herbs.
In Hoang Su Phi district, there are two large rivers and streams flowing through them: Chay River originates from the ravines on the southwest slope of the peak.
Tay Con Linh
and the northeast slope of Chieu Lau Thi peak on the Tay Con Linh massif in the northwest of the province
Ha Giang
located on the territory of Tung San, Ho Thau, Sam Son communes, Hoang Su Phi district and Thuong Son commune, Vi Xuyen district. The Bac River originates from stream branches on the southwest slope of the peak
Tay Con Linh
in the communes of Nam Ty, Thong Nguyen, Nam Khoa and the southeast slope of Chieu Lau Thi peak on the Tay Con Linh massif in Hoang Su Phi district. This is a source of water supply for daily life and production activities of people in Hoang Su Phi, Xin Man, Quang Binh and Bac Quang districts, and is also an important source of energy for maintaining the operations of the district. Thac Ba hydroelectric plant as well as the construction of hydroelectric projects in localities of Ha Giang province.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vị Xuyên
Vị Xuyên là một huyện biên giới phía Bắc của Việt Nam, thuộc tỉnh
Hà Giang
, là huyện miền núi biên giới nằm bao quanh thành phố Hà Giang, phía bắc giáp huyện Quản Bạ, phía tây giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và huyện Hoàng Su Phì, phía nam giáp huyện Bắc Quang, phía đông là thành phố Hà Giang và huyện Na Hang (Tuyên Quang). Trung tâm huyện lị Vị Xuyên cách thành phố Hà Giang 20km về phía nam
Lịch sử
Thời Minh Vị Xuyên có tên là châu Bình Nguyên, sang thời Mạc (thế kỷ 16) đổi thành huyện Vị Xuyên.
Năm Minh Mạng 14 (1831), tách huyện Vị Xuyên thành 2 huyện: hữu ngạn
sông Lô
là huyện Vĩnh Tuy (nay là huyện Hoàng Su Phì) và tả ngạn sông Lô là huyện Vị Xuyên (nay là huyện Bắc Quang).
Năm 1831, châu Vị Xuyên tách thành huyện Vị Xuyên (thuộc phủ Tương An) và huyện Vĩnh Tuy (nay là huyện Hoàng Su Phì).
Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Vị Xuyên trở thành huyện của tỉnh Hà Tuyên, từ 1991, trở lại là huyện của tỉnh Hà Giang.
Năm 2006, 3 xã Kim Thạch, Kim Linh, Phú Linh của thị xã Hà Giang được sáp nhập về huyện Vị Xuyên và 2 xã Phương Độ, Phương Thiện được sáp nhập về thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang).
Địa hình
Địa hình huyện Vị Xuyên khá phức tạp, phần lớn là đồi núi thấp, sườn thoải xen kẽ những thung lũng tạo thành những cánh đồng rộng lớn cùng với hệ thống những sông suối, ao hồ, thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp. Độ cao trung bình từ 300 – 400m so với mặt nước biển, phía Tây có núi Tây Côn Lĩnh cao 2.419m, sông Lô chảy qua địa phận huyện với chiều dài 70km có diện tích lưu vực khoảng 8.700km2. Vị Xuyên có quốc lộ 4C và quốc lộ 2 chạy qua
Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình khoảng từ 18 – 250C. Lượng mưa trung bình khá lớn, vào khoảng 3.000 – 4.000 mm/năm.
Diện tích, dân số,
Huyện có diện tích 1.495,25 km² và dân số 103.542 người (năm 2014). Vị Xuyên là nơi sinh sống của 19 dân tộc gồm: Tày, Dao, Kinh, Nùng…Trong đó người Tày chiếm đa số, người Tày ở Vị Xuyên sống trong những ngôi nhà sàn có cột làm bằng gỗ xẻ vuông và thấp. Mỗi ngôi nhà sàn thường có 5 gian, ở đầu hồi, ngay sát cầu thang lên xuống thường được làm thêm sàn để phơi lúa, gạo… Dưới chân cầu thang có sàn nhỏ để dặt các ống nước hoặc bắc máng nước để rửa tay chân, mặt mũi trước khi lên nhà.
Các đơn vị hành chính
Gồm 2 thị trấn, và 22 xã:
Thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Nông trường Việt Lâm, nằm trên quốc lộ 2 cách thành phố Hà Giang khoảng 20 km về hướng nam.
Các xã: Bạch Ngọc, Ngọc Minh, Trung Thành, Ngọc Linh, Linh Hồ, Việt Lâm, Đạo Đức, Phú Linh, Quảng Ngần, Thượng Sơn, Cao Bồ, Kim Linh, Kim Thạch, Phương Tiến, Lao Chải,
Xín Chải
, Thanh Đức, Thanh Thủy, Minh Tân, Phong Quang, Thuận Hòa, Tùng Bá..
Du lịch
& Lễ hội truyền thống
Vị Xuyên có nhiều di tích lịch sử, danh thắng thu hút du khách như
chùa Sùng Khánh
,
Suối khoáng Thượng Sơn
, đền Cầu má, Nậm Dầu,
cửa khẩu Quốc gia Thanh Thủy
, hang Tùng Bá, hang Bản Mào, núi
Tây Côn Lĩnh
(dãy Tây Côn Lĩnh nằm trên địa bàn huyện có đến 40 loài thú, 130 loài chim), hồ Noong, rừng nguyên sinh Minh Tân, suối nước nóng Quảng Ngần, khu du lịch nghỉ dưỡng suối khoáng Thanh Hà, làng văn hóa dân tộc Dao thôn Lùng Tào – Cao Bồ…
Ngoài những thắng cảnh, Vị Xuyên còn hấp dẫn du khách bởi những lễ hội như: lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) của dân tộc Tày, Nùng, lễ hội Gioóng boọc (xuống đồng) của dân tộc Giáy, hội Sải sán hay Gàu tào (đi chơi núi) của người H’Mông, Tết nhảy (Giàng chảo đao) của người Dao và những trò chơi dân gian như: ném còn, đu quay, ném yến, đánh quay, bắn nỏ, phi ngựa, leo núi… và các hình thức hát sướng, hát giao quyên của các đôi trai gái dân tộc H’Mông, Dao, Tày, Nùng… những làn điệu dân ca trữ tình của dân tộc Tày, Nùng như: then, cọi, sli, lượn hoặc hát Giầu plềnh của người H’Mông …với các nhạc cụ như: đàn tính, kèn lá, đàn môi, sáo trúc, các bộ trống, xoèng, chọe…
Du khách đến Vị Xuyên có cơ hội thưởng thức những món ăn đặc sản như: thảo quả muối, xôi ngũ sắc, rượu thóc Tùng Bá, thịt hun khói, mèn mén, cơm lam …
Kinh tế – xã hội
Tiềm năng kinh tế:
Do địa hình tương đối bằng phẳng và lượng mưa nhiều nên Vị Xuyên rất thích hợp cho các loại cây công nghiệp phát triển, đặc biệt là cây chè. Vị Xuyên là địa phương có diện tích chè lớn nhất tỉnh Hà Giang, ngoài chè, Vị Xuyên còn trồng các loại cây như: thảo quả, cam, quýt, lạc, đậu tương, ngô, khoai, su hào, bắp cải, súp lơ, cà chua… và chăn nuôi trâu, bò, dê, lợn, gia cầm.
Mặc dù là huyện vùng cao, diện tích cho trồng trọt ít nhưng huyện Vị Xuyên cũng đã đạt được tổng sản lượng lương thực khoảng 52.200 tấn (năm 2013), giữ vững được an ninh lương thực. Bên cạch đó, nhờ có của khẩu Thanh Thủy nên cũng đã có một số cơ sở công nghiệp tại huyện được xây dựng như nhà máy lắp ráp ô tô, khung xe máy, qui hoạch khu công nghiệp “Làng Vàng” trên địa phận Thôn Vàng xã Đạo Đức. khai thác mỏ chì, kẽm tại Na Sơn xã Tùng Bá, mỏ sắt tại Thuận Hòa Đầu năm 2008, tỉnh Hà Giang cũng vừa quyết định xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Ngần, tại suối Nậm Ngần thuôc xã Thượng Sơn.
Sản xuất nông – lâm nghiệp:
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của T.Ư, của tỉnh, cùng với sự chỉ đạo sâu sát của huyện đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Chương trình xây dựng NTM đã đạt được những kết quả bước đầu. Khu vực nông thôn Vị Xuyên có tới trên 90% dân số và lao động. Lĩnh vực nông nghiệp nông thôn của huyện đã thu được những kết quả khá tích cực: Tổng sản lượng lương thực có hạt đến năm 2014 đạt trên 53.403,8tấn, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp chiếm 29,43% tổng giá trị nền kinh tế toàn huyện; bình quân lương thực đầu người đạt 516 kg góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật trong trong lĩnh vực nông nghiệp được chú trọng, đặc biệt kỹ thuật thâm canh ngày càng được nâng cao; các chương trình, dự án được tập trung đầu tư vào nông, lâm nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, các làng nghề đã và đang đầu tư phát triển, chế biến vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp; toàn huyện hiện có: 104 HTX, trong đó có 13 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 15 trang trại; kết cấu hạ tầng được tăng cường, nhiều công trình phục vụ nông nghiệp, nông thôn được đầu tư xây dựng. Các hoạt động văn hoá – văn nghệ, thể dục – thể thao ngày càng được đẩy mạnh; chất lượng giáo dục, y tế được nâng lên; công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, xoá nhà tạm đạt kết quả khá; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn được đảm bảo. Ngoài ra, công tác đào tạo, dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn được chú trọng phát triển đã góp phần xóa đói giảm nghèo trên địa bàn của huyện…
Tuy nhiên trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, huyện còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế đó là: Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch thiếu đồng bộ; quản lý, khai thác tài nguyên đạt kết quả chưa cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm; tỷ lệ lao động được đào tạo đạt thấp, kinh tế hàng hoá phát triển chưa mạnh; việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế; thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn cao (hộ nghèo 4.896 hộ chiếm 21,77%, cận nghèo 3.973 hộ); hệ thống đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, thuỷ lợi, trường học, điểm bưu điện, trạm y tế, cơ sở vật chất về văn hóa – thể thao, chợ nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống; việc giữ gìn phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong các cộng đồng dân cư còn nhiều hạn chế; chất lượng làng văn hoá, giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân một số mặt chưa đạt kết quả tốt. Hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu; vai trò lãnh đạo của một số tổ chức Đảng còn hạn chế; quản lý nhà nước ở cơ sở trên một số lĩnh vực còn yếu kém; đội ngũ cán bộ ở một số xã chưa đạt chuẩn… Nguyên nhân là do nhận thức về xây dựng NTM ở một số cấp uỷ, chính quyền chưa đầy đủ; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của hệ thống chính trị ở cơ sở còn hạn chế, chưa huy động được các nguồn lực để xây dựng nông thôn; tư tưởng trông chờ, ỷ lại còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân…
Giao thông.
Vị Xuyên có gần 30 km đường Quốc lộ 2 chạy qua địa phận huyện, tạo điều kiện cho thông thương và giao lưu hàng hoá với cá vùng miền. Các xã, thị trấn đều có đường ôtô về đến trung tâm 100% các xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, số hộ có điện chiếm trên 70%, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 90%.
Huyện cũng là nơi có
sông Lô
chảy qua, và cũng là nơi có
cửa khẩu Thanh Thủy
đi sang
Vân Nam
, Trung Quốc.
Tài nguyên thiên nhiên
Vị Xuyên có vàng sa khoáng, có các mỏ chì, kẽm tập trung ở Tùng Bá, Phong Quang, sắt ở Tùng Bá, Bạch Ngọc và ngọc Minh.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vị Xuyên
Vị Xuyên là một huyện biên giới phía Bắc của Việt Nam, thuộc tỉnh
Hà Giang
, là huyện miền núi biên giới nằm bao quanh thành phố Hà Giang, phía bắc giáp huyện Quản Bạ, phía tây giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và huyện Hoàng Su Phì, phía nam giáp huyện Bắc Quang, phía đông là thành phố Hà Giang và huyện Na Hang (Tuyên Quang). Trung tâm huyện lị Vị Xuyên cách thành phố Hà Giang 20km về phía nam
Lịch sử
Thời Minh Vị Xuyên có tên là châu Bình Nguyên, sang thời Mạc (thế kỷ 16) đổi thành huyện Vị Xuyên.
Năm Minh Mạng 14 (1831), tách huyện Vị Xuyên thành 2 huyện: hữu ngạn
sông Lô
là huyện Vĩnh Tuy (nay là huyện Hoàng Su Phì) và tả ngạn sông Lô là huyện Vị Xuyên (nay là huyện Bắc Quang).
Năm 1831, châu Vị Xuyên tách thành huyện Vị Xuyên (thuộc phủ Tương An) và huyện Vĩnh Tuy (nay là huyện Hoàng Su Phì).
Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Vị Xuyên trở thành huyện của tỉnh Hà Tuyên, từ 1991, trở lại là huyện của tỉnh Hà Giang.
Năm 2006, 3 xã Kim Thạch, Kim Linh, Phú Linh của thị xã Hà Giang được sáp nhập về huyện Vị Xuyên và 2 xã Phương Độ, Phương Thiện được sáp nhập về thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang).
Địa hình
Địa hình huyện Vị Xuyên khá phức tạp, phần lớn là đồi núi thấp, sườn thoải xen kẽ những thung lũng tạo thành những cánh đồng rộng lớn cùng với hệ thống những sông suối, ao hồ, thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp. Độ cao trung bình từ 300 – 400m so với mặt nước biển, phía Tây có núi Tây Côn Lĩnh cao 2.419m, sông Lô chảy qua địa phận huyện với chiều dài 70km có diện tích lưu vực khoảng 8.700km2. Vị Xuyên có quốc lộ 4C và quốc lộ 2 chạy qua
Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình khoảng từ 18 – 250C. Lượng mưa trung bình khá lớn, vào khoảng 3.000 – 4.000 mm/năm.
Diện tích, dân số,
Huyện có diện tích 1.495,25 km² và dân số 103.542 người (năm 2014). Vị Xuyên là nơi sinh sống của 19 dân tộc gồm: Tày, Dao, Kinh, Nùng…Trong đó người Tày chiếm đa số, người Tày ở Vị Xuyên sống trong những ngôi nhà sàn có cột làm bằng gỗ xẻ vuông và thấp. Mỗi ngôi nhà sàn thường có 5 gian, ở đầu hồi, ngay sát cầu thang lên xuống thường được làm thêm sàn để phơi lúa, gạo… Dưới chân cầu thang có sàn nhỏ để dặt các ống nước hoặc bắc máng nước để rửa tay chân, mặt mũi trước khi lên nhà.
Các đơn vị hành chính
Gồm 2 thị trấn, và 22 xã:
Thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Nông trường Việt Lâm, nằm trên quốc lộ 2 cách thành phố Hà Giang khoảng 20 km về hướng nam.
Các xã: Bạch Ngọc, Ngọc Minh, Trung Thành, Ngọc Linh, Linh Hồ, Việt Lâm, Đạo Đức, Phú Linh, Quảng Ngần, Thượng Sơn, Cao Bồ, Kim Linh, Kim Thạch, Phương Tiến, Lao Chải,
Xín Chải
, Thanh Đức, Thanh Thủy, Minh Tân, Phong Quang, Thuận Hòa, Tùng Bá..
Du lịch
& Lễ hội truyền thống
Vị Xuyên có nhiều di tích lịch sử, danh thắng thu hút du khách như
chùa Sùng Khánh
,
Suối khoáng Thượng Sơn
, đền Cầu má, Nậm Dầu,
cửa khẩu Quốc gia Thanh Thủy
, hang Tùng Bá, hang Bản Mào, núi
Tây Côn Lĩnh
(dãy Tây Côn Lĩnh nằm trên địa bàn huyện có đến 40 loài thú, 130 loài chim), hồ Noong, rừng nguyên sinh Minh Tân, suối nước nóng Quảng Ngần, khu du lịch nghỉ dưỡng suối khoáng Thanh Hà, làng văn hóa dân tộc Dao thôn Lùng Tào – Cao Bồ…
Ngoài những thắng cảnh, Vị Xuyên còn hấp dẫn du khách bởi những lễ hội như: lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) của dân tộc Tày, Nùng, lễ hội Gioóng boọc (xuống đồng) của dân tộc Giáy, hội Sải sán hay Gàu tào (đi chơi núi) của người H’Mông, Tết nhảy (Giàng chảo đao) của người Dao và những trò chơi dân gian như: ném còn, đu quay, ném yến, đánh quay, bắn nỏ, phi ngựa, leo núi… và các hình thức hát sướng, hát giao quyên của các đôi trai gái dân tộc H’Mông, Dao, Tày, Nùng… những làn điệu dân ca trữ tình của dân tộc Tày, Nùng như: then, cọi, sli, lượn hoặc hát Giầu plềnh của người H’Mông …với các nhạc cụ như: đàn tính, kèn lá, đàn môi, sáo trúc, các bộ trống, xoèng, chọe…
Du khách đến Vị Xuyên có cơ hội thưởng thức những món ăn đặc sản như: thảo quả muối, xôi ngũ sắc, rượu thóc Tùng Bá, thịt hun khói, mèn mén, cơm lam …
Kinh tế – xã hội
Tiềm năng kinh tế:
Do địa hình tương đối bằng phẳng và lượng mưa nhiều nên Vị Xuyên rất thích hợp cho các loại cây công nghiệp phát triển, đặc biệt là cây chè. Vị Xuyên là địa phương có diện tích chè lớn nhất tỉnh Hà Giang, ngoài chè, Vị Xuyên còn trồng các loại cây như: thảo quả, cam, quýt, lạc, đậu tương, ngô, khoai, su hào, bắp cải, súp lơ, cà chua… và chăn nuôi trâu, bò, dê, lợn, gia cầm.
Mặc dù là huyện vùng cao, diện tích cho trồng trọt ít nhưng huyện Vị Xuyên cũng đã đạt được tổng sản lượng lương thực khoảng 52.200 tấn (năm 2013), giữ vững được an ninh lương thực. Bên cạch đó, nhờ có của khẩu Thanh Thủy nên cũng đã có một số cơ sở công nghiệp tại huyện được xây dựng như nhà máy lắp ráp ô tô, khung xe máy, qui hoạch khu công nghiệp “Làng Vàng” trên địa phận Thôn Vàng xã Đạo Đức. khai thác mỏ chì, kẽm tại Na Sơn xã Tùng Bá, mỏ sắt tại Thuận Hòa Đầu năm 2008, tỉnh Hà Giang cũng vừa quyết định xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Ngần, tại suối Nậm Ngần thuôc xã Thượng Sơn.
Sản xuất nông – lâm nghiệp:
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của T.Ư, của tỉnh, cùng với sự chỉ đạo sâu sát của huyện đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Chương trình xây dựng NTM đã đạt được những kết quả bước đầu. Khu vực nông thôn Vị Xuyên có tới trên 90% dân số và lao động. Lĩnh vực nông nghiệp nông thôn của huyện đã thu được những kết quả khá tích cực: Tổng sản lượng lương thực có hạt đến năm 2014 đạt trên 53.403,8tấn, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp chiếm 29,43% tổng giá trị nền kinh tế toàn huyện; bình quân lương thực đầu người đạt 516 kg góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật trong trong lĩnh vực nông nghiệp được chú trọng, đặc biệt kỹ thuật thâm canh ngày càng được nâng cao; các chương trình, dự án được tập trung đầu tư vào nông, lâm nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, các làng nghề đã và đang đầu tư phát triển, chế biến vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp; toàn huyện hiện có: 104 HTX, trong đó có 13 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 15 trang trại; kết cấu hạ tầng được tăng cường, nhiều công trình phục vụ nông nghiệp, nông thôn được đầu tư xây dựng. Các hoạt động văn hoá – văn nghệ, thể dục – thể thao ngày càng được đẩy mạnh; chất lượng giáo dục, y tế được nâng lên; công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, xoá nhà tạm đạt kết quả khá; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn được đảm bảo. Ngoài ra, công tác đào tạo, dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn được chú trọng phát triển đã góp phần xóa đói giảm nghèo trên địa bàn của huyện…
Tuy nhiên trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, huyện còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế đó là: Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch thiếu đồng bộ; quản lý, khai thác tài nguyên đạt kết quả chưa cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm; tỷ lệ lao động được đào tạo đạt thấp, kinh tế hàng hoá phát triển chưa mạnh; việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế; thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn cao (hộ nghèo 4.896 hộ chiếm 21,77%, cận nghèo 3.973 hộ); hệ thống đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, thuỷ lợi, trường học, điểm bưu điện, trạm y tế, cơ sở vật chất về văn hóa – thể thao, chợ nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống; việc giữ gìn phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong các cộng đồng dân cư còn nhiều hạn chế; chất lượng làng văn hoá, giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân một số mặt chưa đạt kết quả tốt. Hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu; vai trò lãnh đạo của một số tổ chức Đảng còn hạn chế; quản lý nhà nước ở cơ sở trên một số lĩnh vực còn yếu kém; đội ngũ cán bộ ở một số xã chưa đạt chuẩn… Nguyên nhân là do nhận thức về xây dựng NTM ở một số cấp uỷ, chính quyền chưa đầy đủ; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của hệ thống chính trị ở cơ sở còn hạn chế, chưa huy động được các nguồn lực để xây dựng nông thôn; tư tưởng trông chờ, ỷ lại còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân…
Giao thông.
Vị Xuyên có gần 30 km đường Quốc lộ 2 chạy qua địa phận huyện, tạo điều kiện cho thông thương và giao lưu hàng hoá với cá vùng miền. Các xã, thị trấn đều có đường ôtô về đến trung tâm 100% các xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, số hộ có điện chiếm trên 70%, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 90%.
Huyện cũng là nơi có
sông Lô
chảy qua, và cũng là nơi có
cửa khẩu Thanh Thủy
đi sang
Vân Nam
, Trung Quốc.
Tài nguyên thiên nhiên
Vị Xuyên có vàng sa khoáng, có các mỏ chì, kẽm tập trung ở Tùng Bá, Phong Quang, sắt ở Tùng Bá, Bạch Ngọc và ngọc Minh.
|
Giới thiệu khái quát huyện Quản Bạ
Quản Bạ là huyện vùng cao, biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang, là cửa ngõ của vùng Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Huyện có diện tích tự nhiên: 53.433.24ha, Dân số: 11.200 (số liệu 30/04/2017)
Quản Bạ được hợp thành với 13 đơn vị hành chính, trung tâm kinh tế, chính trị của huyện là thị trấn Tam Sơn và 12 xã: Quản Bạ, Đông Hà, Lùng Tám, Thái An, Cán Tỷ, Bát Đại Sơn, Thanh Vân, Nghĩa Thuận, Tùng Vài, Tả Ván, Cao Mã Pờ, Quyết Tiến. Là nơi sinh sống của 16 dân tộc, trong đó dân tộc Mông chiếm 60%, dân tộc Dao chiếm 14%, dân tộc Tày chiếm 9%, còn lại là các dân tộc khác. Phía Bắc giáp với Trung Quốc, có chiều dài 54.32 km đường biên với 5 xã và 21 thôn bản, phía Đông giáp huyện Yên Minh, phía Nam giáp huyện Vị Xuyên. Quản Bạ cách Thành phố Hà Giang 47 km, có quốc lộ 4C (hay còn gọi là đường “Hạnh phúc” đi qua 4 xã: Quyết Tiến, Quản Bạ, Đông Hà, Cán Tỷ và thị trấn Tam Sơn).Quản Bạ có địa hình rất phức tạp, núi non hiểm trở, có nhiều núi đá cao và bị chia cắt mạnh bởi các khe sâu, thung lũng, sông suối, diện tích bằng phẳng không nhiều. Đất nông nghiệp chiếm khoảng 30% diện tích đất tự nhiên, ngoài hệ thống các suối nhỏ còn có con sông Miện bắt nguồn từ Trung Quốc chạy qua địa phận của 4 xã: Cán Tỷ, Lùng Tám, Đông Hà, Thái An dài hơn 12km, việc mở rộng giao thông, thuỷ lợi gặp rất nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở, thôn bản chủ yếu là đường dân sinh, đường mòn, hẹp và dốc. Nhân dân các dân tộc huyện Quản Bạ sống bằng nghề nông là chính. Nghề thủ công truyền thống và tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa mạnh. Quản Bạ có khí hậu quanh năm mát mẻ và được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô, rét từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, độ cao trung bình so với mực biển gần 1000m.Đất đai Quản Bạ thích hợp với nhiều loại lâm sản quý như: lát, nghiến, pơ mu, thông đỏ, ngọc am… cùng các loại tre, nứa, trúc, mai, vầu và các dược liệu quý hiếm như: thảo quả, sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, tam thất, ấu tẩu, hương thảo, giảo cổ lam, xuyên khung, đỗ trọng. Huyện có khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn 03 xã với nhiều loại động, thực vật quý hiếm đang được các ngành chức năng và nhân dân ngày đêm bảo vệ nghiêm ngặt.Ngoài lúa, ngô là cây lương thực chính còn các loại cây khác cũng có giá trị cho phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ như tam giác mạch, hồng không hạt, lê, đào, đậu tương, chè, mía. Bên cạnh đó ngành chăn nuôi cũng được đẩy mạnh như trâu, bò, dê, lợn và các loại gia cầm, đặc biệt là gà xương đen, vịt cổ ngắn, lợn đen tên lửa.Kết cấu hạ tầng được đầu tư, đến nay 100% các xã đều có đường ô tô trải nhựa đến trung tâm xã, 100% thôn bản có đường giao thông đến trung tâm thôn, 100% xã, thị trấn có trường học và trạm y tế kiên cố, trụ sở UBND các xã được đầu tư xây dựng khang trang.Đến nay trên địa bàn huyện đã có 73,64% số hộ được sử dụng điện lưới Quốc gia. Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, các mặt hàng thiết yếu trên thị trường phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của nhân dân. Hiện nay 10/13 xã, thị trấn có chợ phiên được bố trí từ thứ 3 đến chủ nhật hàng tuần, chợ phiên là nơi gặp gỡ, giao lưu trao đổi hàng hóa của bà con nhân dân.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HUYỆN QUẢN BẠ TỈNH HÀ GIANG
Địa phận huyện Quản Bạ ngày nay, xưa kia thuộc Bình Nguyên (Tuyên Quang). Đến Thời Lê, huyện Bình Nguyên được đổi là Châu Vị Xuyên, thuộc Phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm Minh mệnh thứ 16, vùng đất này được chia ra phía hữu sông Lô làm huyện Vĩnh Tuy, phía tả sông Lô làm huyện Vị Xuyên, gồm 5 tổng, 31 xã. Dưới thời thực dân Pháp xâm lược, năm 1891 phủ Tương Yên, trong đó có Châu Vị Xuyên đặt trong đạo quan binh Hà Giang được gọi là đạo quan binh thứ ba. Năm 1900, Đạo quan binh Hà Giang đổi thành tỉnh Hà Giang. Về sau huyện Vị Xuyên lại được chia thành hai huyện: Vị Xuyên và Hoàng Su Phì. Vùng Quản Bạ là một tiểu khu gồm 7 xã của huyện Vị Xuyên: Quản Bạ, Quyết Tiến, Đông Hà, Thanh Vân, Cao Tả Tùng, Nghĩa Thuận, Thái An.
Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 211/QĐ-CP thành lập huyện Quản Bạ trên cơ sở 7 xã gồm Quản Bạ, Quyết Tiến, Đông Hà, Thanh Vân, Cao Tả Tùng, Nghĩa Thuận, Thái An được tách ra từ huyện Vị Xuyên và các xã Lùng Tám, Cán Tỷ, Bát Đại Sơn của huyện Đồng Văn. Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Quản Bạ trở thành một đơn vị hành chính của tỉnh Hà Tuyên. Từ năm 1991, Quản Bạ trở lại là huyện của tỉnh Hà Giang như cũ (Nguồn Lịch sử Đảng bộ huyện Quản Bạ)
1. Vị trí địa lý: Phía Bắc và phía Tây Quản Bạ giáp Trung Quốc; phía Đông giáp huyện Yên Minh; phía Nam giáp huyện Vị Xuyên.
2. Địa hình: Quản Bạ có độ cao trung bình từ 1.000 – 1.600m, gồm nhiều khu vực núi đá vôi nằm sát với chí tuyến bắc, độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Ở khu vực Quản Bạ, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 3 nhóm đá chính là trầm tích đá hạt mịn bị biến chất hoặc loại đá vôi hay sét vôi và đá lục nguyên hạt vừa và mịn. Quản Bạ có lượng mưa khá lớn nên lớp phủ thổ nhưỡng thường là nhóm đất mùn màu vàng đỏ và mùn xám sẫm, tạo nên thảm thực vật phong phú.
3. Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, 1 năm chia ra làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 9) và mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau), lượng mưa trung bình khoảng 1.200 mm/năm.
4. Tài nguyên : Mỏ quặng sắt tại xã Quyết Tiến, thủy điện xã Thái An, mỏ mangan xã Nghĩa Thuận,
5. Tiềm năng kinh tế: Thuỷ điện Thái An thuộc xã Thái An được đưa vào vận hành cuối năm 2010 với công suất 82 MW. 12/12 xã của huyện có đường ôtô rải nhựa về đến trung tâm, 100% các xã đã có sóng điện thoại, 100 thôn bản đều có đường liên thôn đi lại thuận tiện. Đất đai ở Quản Bạ thích hợp trồng các loại cây như: Lê, mận, đào, đậu tương, ngô, ớt, hồng, thảo quả… ở các xã Tả Ván, Tùng Vài, Cao Mã Pờ… .Ngoài các loại cây ăn quả, cây dược liệu quý, Quản Bạ còn phát triển vùng sản xuất thực phẩm, rau sạch, hoa chất lượng cao ở các xã Đông Hà, thị trấn Tam Sơn, Quyết Tiến…
6. Văn hoá, xã hội
Diện tích: 534,43 km2
Dân số: 50.000 người (2014).
Mật độ dân số: 93 người/km2
Bao gồm thị trấn Tam Sơn và 12 xã: Cao Mã Pờ, Tùng Vài, Tả Ván, Quyết Tiến, Thanh Vân, Nghĩa Thuận, Bát Đại Sơn, Cán Tỷ, Lùng Tám, Quản Bạ, Đông Hà và Thái An. Quản Bạ là nơi cư trú của 16 dân tộc, trong đó gần 60% là người Mông, khoảng 14% là người Dao, người Tày chiếm 11%, còn lại là các dân tộc khác. Đặc biệt Quản Bạ là địa phương duy nhất có dân tộc Pu Y (hiện chỉ còn 881 người và hầu hết sống tập trung ở xã Quyết Tiến). Người Tày, người Dao Quản Bạ sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước tại các chân ruộng ở ven núi, sông và trồng trọt trên nương rẫy. Ngoài nghề nông, họ còn có thêm thu nhập từ các nghề thủ công như: đan lát, sản xuất nông cụ, mộc, làm đồ gốm, dệt vải… Người Tày thường ở chân núi và sống trong những ngôi nhà sàn, lợp gianh hoặc cọ. Trang phục của người Tày chủ yếu là sắc chàm, phụ nữ chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc. Cộng đồng dân tộc Tày Quản Bạ có một kho tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… và những làn điệu then lượn.
7. Tiềm năng du lịch
Khí hậu ở Quản Bạ 4 mùa mát mẻ, tương tự như khí hậu vùng Sa pa (Lào Cai) hay Đà Lạt (Lâm Đồng), Quản Bạ có những thắng cảnh nổi tiếng như: Cổng Trời Quản Bạ, Cổng thành Cán Tỷ, hang Khố Mỷ Tùng Vài, Thạch Sơn Thần xã Quyết Tiến, núi Đôi, Động Lùng Khúy và làng văn hóa du lịch cộng đồng Nặm Đăm xã Quản Bạ, …ngoài ra, Quản Bạ còn hấp dẫn du khách vì có làng văn hóa thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám với nghề dệt thổ cẩm, làng văn hóa người Tày ở thị trấn Tam Sơn với điệu then đàn tính, lễ cấp sắc người Dao, lễ cầu mùa người Nùng, Tày, lễ gầu tào dân tộc Mông, lễ cúng Thần rừng dân tộc Pu Y, Giấy, Nùng. Hệ thống chợ phiên có từ thứ 3 đến chủ nhật hàng tuần, trong đó chợ trung tâm huyện Quản Bạ chủ nhật, chợ Quyết Tiến thứ 7, chợ Tùng Vài thứ 6, chợ Tráng Kìm thứ 5, chợ Bát Đại Sơn thứ tư, chợ Lùng Tám thứ 3 với rất nhiều sản vật địa phương hết sức phong phú và đa dạng. Du khách khi đến Quản Bạ còn được thưởng thức những món đặc sản như: rượu ngô Thanh Vân, đậu tương, thịt treo, lợn tên lửa, mèn mén, cháo lảo, gà xương đen, lạp xường, thảo quả muối ớt …
|
Giới thiệu khái quát huyện Quản Bạ
Quản Bạ là huyện vùng cao, biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang, là cửa ngõ của vùng Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Huyện có diện tích tự nhiên: 53.433.24ha, Dân số: 11.200 (số liệu 30/04/2017)
Quản Bạ được hợp thành với 13 đơn vị hành chính, trung tâm kinh tế, chính trị của huyện là thị trấn Tam Sơn và 12 xã: Quản Bạ, Đông Hà, Lùng Tám, Thái An, Cán Tỷ, Bát Đại Sơn, Thanh Vân, Nghĩa Thuận, Tùng Vài, Tả Ván, Cao Mã Pờ, Quyết Tiến. Là nơi sinh sống của 16 dân tộc, trong đó dân tộc Mông chiếm 60%, dân tộc Dao chiếm 14%, dân tộc Tày chiếm 9%, còn lại là các dân tộc khác. Phía Bắc giáp với Trung Quốc, có chiều dài 54.32 km đường biên với 5 xã và 21 thôn bản, phía Đông giáp huyện Yên Minh, phía Nam giáp huyện Vị Xuyên. Quản Bạ cách Thành phố Hà Giang 47 km, có quốc lộ 4C (hay còn gọi là đường “Hạnh phúc” đi qua 4 xã: Quyết Tiến, Quản Bạ, Đông Hà, Cán Tỷ và thị trấn Tam Sơn).Quản Bạ có địa hình rất phức tạp, núi non hiểm trở, có nhiều núi đá cao và bị chia cắt mạnh bởi các khe sâu, thung lũng, sông suối, diện tích bằng phẳng không nhiều. Đất nông nghiệp chiếm khoảng 30% diện tích đất tự nhiên, ngoài hệ thống các suối nhỏ còn có con sông Miện bắt nguồn từ Trung Quốc chạy qua địa phận của 4 xã: Cán Tỷ, Lùng Tám, Đông Hà, Thái An dài hơn 12km, việc mở rộng giao thông, thuỷ lợi gặp rất nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở, thôn bản chủ yếu là đường dân sinh, đường mòn, hẹp và dốc. Nhân dân các dân tộc huyện Quản Bạ sống bằng nghề nông là chính. Nghề thủ công truyền thống và tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa mạnh. Quản Bạ có khí hậu quanh năm mát mẻ và được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô, rét từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, độ cao trung bình so với mực biển gần 1000m.Đất đai Quản Bạ thích hợp với nhiều loại lâm sản quý như: lát, nghiến, pơ mu, thông đỏ, ngọc am… cùng các loại tre, nứa, trúc, mai, vầu và các dược liệu quý hiếm như: thảo quả, sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, tam thất, ấu tẩu, hương thảo, giảo cổ lam, xuyên khung, đỗ trọng. Huyện có khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn 03 xã với nhiều loại động, thực vật quý hiếm đang được các ngành chức năng và nhân dân ngày đêm bảo vệ nghiêm ngặt.Ngoài lúa, ngô là cây lương thực chính còn các loại cây khác cũng có giá trị cho phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ như tam giác mạch, hồng không hạt, lê, đào, đậu tương, chè, mía. Bên cạnh đó ngành chăn nuôi cũng được đẩy mạnh như trâu, bò, dê, lợn và các loại gia cầm, đặc biệt là gà xương đen, vịt cổ ngắn, lợn đen tên lửa.Kết cấu hạ tầng được đầu tư, đến nay 100% các xã đều có đường ô tô trải nhựa đến trung tâm xã, 100% thôn bản có đường giao thông đến trung tâm thôn, 100% xã, thị trấn có trường học và trạm y tế kiên cố, trụ sở UBND các xã được đầu tư xây dựng khang trang.Đến nay trên địa bàn huyện đã có 73,64% số hộ được sử dụng điện lưới Quốc gia. Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, các mặt hàng thiết yếu trên thị trường phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của nhân dân. Hiện nay 10/13 xã, thị trấn có chợ phiên được bố trí từ thứ 3 đến chủ nhật hàng tuần, chợ phiên là nơi gặp gỡ, giao lưu trao đổi hàng hóa của bà con nhân dân.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HUYỆN QUẢN BẠ TỈNH HÀ GIANG
Địa phận huyện Quản Bạ ngày nay, xưa kia thuộc Bình Nguyên (Tuyên Quang). Đến Thời Lê, huyện Bình Nguyên được đổi là Châu Vị Xuyên, thuộc Phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm Minh mệnh thứ 16, vùng đất này được chia ra phía hữu sông Lô làm huyện Vĩnh Tuy, phía tả sông Lô làm huyện Vị Xuyên, gồm 5 tổng, 31 xã. Dưới thời thực dân Pháp xâm lược, năm 1891 phủ Tương Yên, trong đó có Châu Vị Xuyên đặt trong đạo quan binh Hà Giang được gọi là đạo quan binh thứ ba. Năm 1900, Đạo quan binh Hà Giang đổi thành tỉnh Hà Giang. Về sau huyện Vị Xuyên lại được chia thành hai huyện: Vị Xuyên và Hoàng Su Phì. Vùng Quản Bạ là một tiểu khu gồm 7 xã của huyện Vị Xuyên: Quản Bạ, Quyết Tiến, Đông Hà, Thanh Vân, Cao Tả Tùng, Nghĩa Thuận, Thái An.
Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 211/QĐ-CP thành lập huyện Quản Bạ trên cơ sở 7 xã gồm Quản Bạ, Quyết Tiến, Đông Hà, Thanh Vân, Cao Tả Tùng, Nghĩa Thuận, Thái An được tách ra từ huyện Vị Xuyên và các xã Lùng Tám, Cán Tỷ, Bát Đại Sơn của huyện Đồng Văn. Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Quản Bạ trở thành một đơn vị hành chính của tỉnh Hà Tuyên. Từ năm 1991, Quản Bạ trở lại là huyện của tỉnh Hà Giang như cũ (Nguồn Lịch sử Đảng bộ huyện Quản Bạ)
1. Vị trí địa lý: Phía Bắc và phía Tây Quản Bạ giáp Trung Quốc; phía Đông giáp huyện Yên Minh; phía Nam giáp huyện Vị Xuyên.
2. Địa hình: Quản Bạ có độ cao trung bình từ 1.000 – 1.600m, gồm nhiều khu vực núi đá vôi nằm sát với chí tuyến bắc, độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Ở khu vực Quản Bạ, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 3 nhóm đá chính là trầm tích đá hạt mịn bị biến chất hoặc loại đá vôi hay sét vôi và đá lục nguyên hạt vừa và mịn. Quản Bạ có lượng mưa khá lớn nên lớp phủ thổ nhưỡng thường là nhóm đất mùn màu vàng đỏ và mùn xám sẫm, tạo nên thảm thực vật phong phú.
3. Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, 1 năm chia ra làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 9) và mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau), lượng mưa trung bình khoảng 1.200 mm/năm.
4. Tài nguyên : Mỏ quặng sắt tại xã Quyết Tiến, thủy điện xã Thái An, mỏ mangan xã Nghĩa Thuận,
5. Tiềm năng kinh tế: Thuỷ điện Thái An thuộc xã Thái An được đưa vào vận hành cuối năm 2010 với công suất 82 MW. 12/12 xã của huyện có đường ôtô rải nhựa về đến trung tâm, 100% các xã đã có sóng điện thoại, 100 thôn bản đều có đường liên thôn đi lại thuận tiện. Đất đai ở Quản Bạ thích hợp trồng các loại cây như: Lê, mận, đào, đậu tương, ngô, ớt, hồng, thảo quả… ở các xã Tả Ván, Tùng Vài, Cao Mã Pờ… .Ngoài các loại cây ăn quả, cây dược liệu quý, Quản Bạ còn phát triển vùng sản xuất thực phẩm, rau sạch, hoa chất lượng cao ở các xã Đông Hà, thị trấn Tam Sơn, Quyết Tiến…
6. Văn hoá, xã hội
Diện tích: 534,43 km2
Dân số: 50.000 người (2014).
Mật độ dân số: 93 người/km2
Bao gồm thị trấn Tam Sơn và 12 xã: Cao Mã Pờ, Tùng Vài, Tả Ván, Quyết Tiến, Thanh Vân, Nghĩa Thuận, Bát Đại Sơn, Cán Tỷ, Lùng Tám, Quản Bạ, Đông Hà và Thái An. Quản Bạ là nơi cư trú của 16 dân tộc, trong đó gần 60% là người Mông, khoảng 14% là người Dao, người Tày chiếm 11%, còn lại là các dân tộc khác. Đặc biệt Quản Bạ là địa phương duy nhất có dân tộc Pu Y (hiện chỉ còn 881 người và hầu hết sống tập trung ở xã Quyết Tiến). Người Tày, người Dao Quản Bạ sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước tại các chân ruộng ở ven núi, sông và trồng trọt trên nương rẫy. Ngoài nghề nông, họ còn có thêm thu nhập từ các nghề thủ công như: đan lát, sản xuất nông cụ, mộc, làm đồ gốm, dệt vải… Người Tày thường ở chân núi và sống trong những ngôi nhà sàn, lợp gianh hoặc cọ. Trang phục của người Tày chủ yếu là sắc chàm, phụ nữ chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc. Cộng đồng dân tộc Tày Quản Bạ có một kho tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… và những làn điệu then lượn.
7. Tiềm năng du lịch
Khí hậu ở Quản Bạ 4 mùa mát mẻ, tương tự như khí hậu vùng Sa pa (Lào Cai) hay Đà Lạt (Lâm Đồng), Quản Bạ có những thắng cảnh nổi tiếng như: Cổng Trời Quản Bạ, Cổng thành Cán Tỷ, hang Khố Mỷ Tùng Vài, Thạch Sơn Thần xã Quyết Tiến, núi Đôi, Động Lùng Khúy và làng văn hóa du lịch cộng đồng Nặm Đăm xã Quản Bạ, …ngoài ra, Quản Bạ còn hấp dẫn du khách vì có làng văn hóa thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám với nghề dệt thổ cẩm, làng văn hóa người Tày ở thị trấn Tam Sơn với điệu then đàn tính, lễ cấp sắc người Dao, lễ cầu mùa người Nùng, Tày, lễ gầu tào dân tộc Mông, lễ cúng Thần rừng dân tộc Pu Y, Giấy, Nùng. Hệ thống chợ phiên có từ thứ 3 đến chủ nhật hàng tuần, trong đó chợ trung tâm huyện Quản Bạ chủ nhật, chợ Quyết Tiến thứ 7, chợ Tùng Vài thứ 6, chợ Tráng Kìm thứ 5, chợ Bát Đại Sơn thứ tư, chợ Lùng Tám thứ 3 với rất nhiều sản vật địa phương hết sức phong phú và đa dạng. Du khách khi đến Quản Bạ còn được thưởng thức những món đặc sản như: rượu ngô Thanh Vân, đậu tương, thịt treo, lợn tên lửa, mèn mén, cháo lảo, gà xương đen, lạp xường, thảo quả muối ớt …
|
Giới thiệu khái quát huyện Đồng Văn
Vị trí địa lý
Đồng Văn là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Hà Giang và là điểm cực bắc của Tổ Quốc, có tọa độ từ 22 độ 55 đến 23độ 23 bắc; vĩ độ 105 độ 42 độ kinh đông, có vị trí giáp ranh như sau:
– Phía Bắc và Đông bắc tiếp giáp nước CHND Trung Hoa.
– Phía Đông và Đông Nam tiếp giáp huyện Mèo Vạc.
– Phía Tây và Tây Nam tiếp giáp huyện Yên Minh.
Huyện có đường biên giới tiếp giáp với nước CHND Trung Hoa dài trên 52 km. Trung tâm huyện được đặt tại thị trấn Đồng Văn cách thành phố Hà Giang 150km về phía bắc.
Diện tích, địa hình, địa mạo
Huyện Đồng Văn là trung tâm vùng lõi của cao nguyên đá Đồng Văn. Với địa hình đặc trưng là núi đá với độ cao trung bình so với mặt biển là 1500m. nhìn chung địa hình khá phức tập và bị chia cắt mạnh và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Toàn huyện chia thành 2 dạng địa hình chính là:
Địa hình núi đất gồm 7 xã: Lũng Cú, Ma Lé, Đồng Văn, Phố Bảng, Phố Là, Phố Cáo và Sủng Trái.
Địa hình núi đá vôi gồm 12 xã còn lại đó là: Hố Quáng Phìn, Lũng Phìn, Lũng Táo, Lũng Thầu, Sảng Tủng, Sính Lủng, Sủng Là, Tả Lủng, Tả Phìn, Thài Phìn Tủng, Vần Chải và xã Sà Phìn.
– Theo số liệu tổng kiểm kê đất đai năm 2010, huyện Đồng Văn có tổng diện tích đất tự nhiên theo địa giới hành chính là 44.497,55 ha. Trong đó đất nông nghiệp là 26,51%, còn lại là rừng núi đá tự nhiên chiếm 73,49% diện tích. Diện tích đất có độ dốc trên 25 độ là lớn nhất chiếm 14.119ha. Điều này đã gây khó khăn cho việc phát triển giao thông và canh tác sản xuất nông – lâm nghiệp cũng như sinh hoạt đời sống nhân dân.
Khí hậu thủy văn
Đồng Văn là một huyện nằm trong vùng khí hậu gió mùa nhưng mang tính chất lục địa khá rõ nét. Lượng mưa trung bình tương đối lớn khoảng 1750 – 2000mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm đạt 23,1độC. Độ ẩm không khí bình quân năm đạt 84%. Do vị trí nằm trên cao nguyên đá vôi nên khả năng giữ nước kém nhất là vào mùa khô nên một số vùng trong huyện thường xuyên gặp phải tình trạng thiếu nước trầm trọng. Bên cạnh đó trong huyện còn thường xuyên xuất hiện, hiện tượng sương muối, thỉnh thoảng có năm thường xuất hiện, hiện tượng mưa tuyết nên ảnh hưởng không nhỏ đến vật nuôi cây trồng vào mùa khô.
Đồng Văn có con sông Nho Quế chảy qua dọc theo ranh giới phía đông, bắc của huyện và có một hệ thống con suối lớn, nhỏ chảy qua nhưng lưu lượng nước của những con suối này khác nhau, không ổn định theo mùa. Đặc biệt có hai con suối chảy vào sông Nho quế, một con suối ở phía nam xã Lũng Cú và một ở phía bắc thị trấn Đồng Văn có nước quanh năm và lưu lượng dòng chảy khá lớn vào mùa mưa nên đủ nước cung cấp cho nhân dân trong vùng và tạo điều kiện các trạm thủy điện nhỏ.
Các nguồn tài nguyên đất
Là huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang nên Đồng Văn luôn có nhiệt độ thấp so với các vùng khác. Do địa hình bị chia cắt mạnh đồng thời do qúa trình phong hóa từ đá vôi trầm tích và đá phiến thạch nên đất đai của huyện có thành phần cơ giới nặng, độ phì nhiêu tương đối cao và được chia thành 4 nhóm đất như sau:
– Nhóm đất phù sa, phân bố chủ yếu tại các Phố Cáo, thị trấn Phố Bảng thích hợp cho việc trồng các loại cây lương thực và các loại cây trồng hàng năm khác với năng xuất cao.
– Nhóm đất đen chủ yếu phân bố tại các xã Tả Lủng, Phố Là loại đất này có độ phì nhiêu cao thường cho năng xuất cây trồng có giá trị cao, nhưng trong quá trình canh tác cần chú ý đến vấn đề nước tưới trong mùa khô.
– Nhóm đất xám đây là một trong những loại đất tốt của huyện thích hợp cho phát triển nông – lâm nghiệp như cây lâu năm, phát triển cây ngắn ngày.
– Theo số liệu tổng kiểm kê đất đai năm 2010, huyện Đồng Văn có tổng diện tích đất tự nhiên theo địa giới hành chính là 44.497,55 ha và được chia thành 3 nhóm chính bao gồm:
+ Nhóm đất nông nghiệp: 35.157,38 ha chiếm 79,01% tổng diện tích.
+ Nhóm đất phi nông nghiệp: 1.152, 44 ha chiếm 2,59 % tổng diện tích.
+ Nhóm đất chưa sử dụng: 8.187,73 ha chiém 18, 440% tông diện tích.
Đồng Văn xưa kia thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau đó thuộc về châu Bảo Lạc. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc.
Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ đã ban hành quyết định số 211-QĐCP tách Đồng Văn thành 3 huyện là Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn.
Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Đồng Văn trở thành huyện của tỉnh Hà Tuyên.
Từ 1991 đến nay tỉnh Hà Tuyên tách thành 02 tỉnh là Tuyên Quang và Hà Giang. Huyện Đồng Văn là một trong các huyện, thành phố thuộc tỉnh Hà Giang.
|
General introduction to Dong Van district
Geographical location
Dong Van is a highland border district of Ha Giang province and the northernmost point of the country, with coordinates from 22 degrees 55 to 23 degrees 23 north; latitude 105 degrees 42 degrees east longitude, with adjacent locations as follows:
– The North and Northeast border the People's Republic of China.
– The East and Southeast borders Meo Vac district.
– The West and Southwest border Yen Minh district.
The district has a border with the People's Republic of China that is over 52 km long. The district center is located in Dong Van town, 150km north of Ha Giang city.
Area, topography, geomorphology
Dong Van district is the center of the core area of the Dong Van karst plateau. The terrain is characterized by rocky mountains with an average altitude of 1500m above sea level. In general, the terrain is quite complex and strongly divided and gradually lowers from northwest to southeast. The whole district is divided into two main terrain types:
The mountainous terrain includes 7 communes: Lung Cu, Ma Le, Dong Van, Pho Bang, Pho La, Pho Cao and Sung Trai.
The limestone mountain terrain includes the remaining 12 communes: Ho Quang Phin, Lung Phin, Lung Tao, Lung Thau, Sang Tung, Sinh Lung, Sung La, Ta Lung, Ta Phin, Thai Phin Tung, Van Chai and Sa commune Phin.
– According to the 2010 total land inventory data, Dong Van district has a total natural land area according to administrative boundaries of 44,497.55 hectares. Of which agricultural land is 26.51%, the remaining natural stone mountain forests account for 73.49% of the area. The land area with a slope of over 25 degrees is the largest, accounting for 14,119 hectares. This has caused difficulties for the development of transportation, agricultural and forestry production as well as people's daily lives.
Climate and hydrological
Dong Van is a district located in the monsoon climate zone but has quite clear continental characteristics. The average rainfall is relatively large, about 1750 - 2000mm, concentrated from May to October. The dry season is from November to April of the following year. The average temperature during the year reaches 23.1 degrees Celsius. The average annual air humidity reaches 84%. Due to its location on a limestone plateau, its ability to retain water is poor, especially in the dry season, so some areas in the district often experience serious water shortages. Besides, in the district, the phenomenon of frost often appears, occasionally in some years, the phenomenon of rain and snow appears, so it has a significant impact on livestock and crops in the dry season.
Dong Van has the Nho Que River flowing through along the eastern and northern boundaries of the district and has a system of large and small streams flowing through, but the water flow of these streams is different and unstable according to the season. In particular, there are two streams flowing into the Nho Que River, one stream in the south of Lung Cu commune and one in the north of Dong Van town that have water all year round and the flow is quite large in the rainy season, so there is enough water to supply the people. people in the region and create conditions for small hydroelectric stations.
Land resources
As a highland district of Ha Giang province, Dong Van always has low temperatures compared to other regions. Due to the strongly fragmented terrain and the weathering process from sedimentary limestone and shale, the district's land has a heavy mechanical composition, relatively high fertility and is divided into 4 soil groups as follows. :
– Alluvial soil group, mainly distributed in Pho Cao and Pho Bang towns, is suitable for growing food crops and other annual crops with high productivity.
– The black soil group is mainly distributed in Ta Lung and Pho La communes. This type of soil has high fertility and often produces high-value crop yields, but during cultivation, it is necessary to pay attention to the issue of irrigation water. dry season.
- Gray soil group is one of the good soil types in the district suitable for agricultural and forestry development such as perennial crops and short-term crop development.
– According to the 2010 total land inventory data, Dong Van district has a total natural land area according to administrative boundaries of 44,497.55 hectares and is divided into 3 main groups including:
+ Agricultural land group: 35,157.38 hectares, accounting for 79.01% of the total area.
+ Non-agricultural land group: 1,152, 44 hectares, accounting for 2.59% of the total area.
+ Unused land group: 8,187.73 hectares, accounting for 18.440% of the total area.
Dong Van formerly belonged to Dong Quan district, Nguyen Binh district, Tuong Yen district, Tuyen Quang province. Then it belonged to Bao Lac continent. When the French colonialists invaded Vietnam, they separated Dong Van from Bao Lac.
On December 15, 1962, the Government Council issued Decision Không. 211-QDCP dividing Dong Van into 3 districts: Yen Minh, Meo Vac and Dong Van.
In 1976, Ha Giang merged with Tuyen Quang to become Ha Tuyen province, Dong Van became a district of Ha Tuyen province.
From 1991 until now, Ha Tuyen province has been separated into two provinces: Tuyen Quang and Ha Giang. Dong Van district is one of the districts and cities in Ha Giang province.
|
Giới thiệu khái quát huyện Yên Minh
1. Vị trí địa lý
Yên Minh là một huyện vùng cao núi đá, biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang và là một trong 62 huyện nghèo của cả nước được hưởng chương trình Nghị quyết 30a của Chính phủ.
+ Phía Bắc giáp huyện Đồng Văn và Trung Quốc;
+ Phía Nam giáp tỉnh Cao Bằng và huyện Bắc Mê;
+ Phía Tây giáp huyện Quản Bạ và Vị Xuyên;
+ Phía Đông giáp huyện Đồng Văn và Mèo Vạc.
Địa giới hành chính của huyện có 17 xã và 01 thị trấn với 282 thôn bản; diện tích tự nhiên trên 78 nghìn km2; Huyện có 25,841 km đường biên giới với 41 cột mốc. Trung tâm huyện cách thành phố Hà Giang 100 km, nằm ở vị trí trung tâm trên trục trung chuyển giữa vùng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn với thành phố Hà Giang và Trung Quốc. Vị trí đó vừa là lợi thế vừa là thách thức mọi mặt đối với huyện Yên Minh trong các giai đoạn lịch sử.
2. Đặc điểm địa hình, khí hậu
Địa hình huyện Yên Minh phức tạp và bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn, độ cao trung bình 1.200 mét so với mặt nước biển, địa hình chia làm 4 loại: địa hình núi cao, địa hình núi thấp, địa hình thung lũng, địa hình castơ.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, Yên Minh có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều. Nền nhiệt trung bình trên địa bàn huyện 15,7
0
C, tổng lượng mưa trung bình năm đạt khoảng hơn 1.745 mm. Mùa hè có gió mùa Đông Nam, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, mùa đông có gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời tiết khô hanh và ít mưa.
3. Dân số
– Tổng dân số: 83.978 người (Trong đó Nữ = 43.042).
– Số hộ: 15.704 hộ.
– Thành phần dân tộc:
+ Mông: 45.856 người, chiếm 54,6 %
+ Tày: 11.128 người, chiếm 13,25 %
+ Dao: 12.276 người, chiếm 14,6 %
+ Kinh: 3.450 người, chiếm 4,2 %
+ Nùng: 4.209 người, chiếm 5,01 %
+ Giấy: 5.683 người, chiếm 6,7 %
+ Dân tộc khác: 1.376 người, chiếm 1,64 %
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HUYỆN YÊN MINH
Trước kia, Đồng Văn là tổng Đông Quan thuộc châu Bình Nguyên, phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang sau đó thuộc về châu Bảo Lạc do một thổ người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản như một lãnh địa. Khi thực dân pháp xâm lược, chúng tách Đồng Văn khỏi Bảo Lạc. Dưới thời Pháp thuộc, toàn phủ Tương Yên trong đó có tổng Đông Quan được đặt trong đạo quan binh thứ 2 Hà Giang. Trong danh mục các làng xã Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn xuất bản năm 1928 thì tỉnh Hà Giang có hai châu (Bắc Quang, Vị Xuyên) và hai đại lý (Đồng Văn, Hoàng Su Phì).
Sau cách mạng tháng 8/1945, về mặt địa giới hành chính, trên danh nghĩa Đồng Văn vẫn như trước. Ngày 15/12/1962, Hội đồng chính phủ có Quyết định số 211/QĐ-CP tách Đồng Văn ra làm 3 huyện: Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc.
Kể từ đây Yên Minh trở thành đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Hà Giang. Khi mới chia tách huyện Yên Minh có 13 xã, dân cư gồm 3.294 hộ với 16.775 người, đến năm 1982 do yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tổ quốc, huyện Yên Minh tiếp nhận 4 xã: Phú Lũng, Thắng Mố, Sủng Cháng và xã Sủng Thài từ huyện Đồng Văn và bàn giao 3 xã phía Nam là Nậm Ban, Tát Ngà và Niêm Sơn cho huyện Mèo Vạc.
Ngày 29 tháng 01 năm 1997, Chính phủ có Nghị định số 08/CP về điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập xã mới. Thực hiện Nghị định số 08 của Chính phủ, huyện Yên Minh thành lập thêm 2 xã mới là Du Tiến và Mậu Long.
Ngày 20 tháng 8 năm 1999, Chính phủ có Nghị định số 74/1999/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị trấn Yên Minh, xã Đông Minh và xã Hữu Vinh trên cơ sở chia tách xã Yên Minh. Hiện nay huyện Yên Minh có 18 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có 17 xã và 1 thị trấn với tổng số 282 thôn xóm, bản, tổ dân phố.
MỘT SỐ CƠ SỞ VĂN HÓA, DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI ĐỊA PHƯƠNG
|
General introduction of Yen Minh district
1. Geographical location
Yen Minh is a mountainous highland district, the northern border of Ha Giang province and is one of 62 poor districts in the country enjoying the Government's Resolution 30a program.
+ The North borders Dong Van district and China;
+ The South borders Cao Bang province and Bac Me district;
+ The West borders Quan Ba and Vi Xuyen districts;
+ The East borders Dong Van and Meo Vac districts.
The administrative boundary of the district has 17 communes and 01 town with 282 villages; Natural area of over 78 thousand km2; The district has 25,841 km of border with 41 landmarks. The district center is 100 km from Ha Giang city, located in a central position on the transit axis between the Dong Van Karst Plateau Global Geopark region with Ha Giang city and China. That location is both an advantage and a challenge in all aspects for Yen Minh district in historical periods.
2. Terrain and climate characteristics
Yen Minh district's terrain is complex and strongly divided, with steep slopes and an average altitude of 1,200 meters above sea level. The terrain is divided into 4 types: high mountain terrain, low mountain terrain, and valley terrain. , castor terrain.
Located in the hot and humid tropical climate zone, Yen Minh has a hot, humid and rainy tropical monsoon climate. The average temperature in the district is 15.7
0
C, the total average annual rainfall reaches more than 1,745 mm. Summer has the Southeast monsoon, lasting from May to October, winter has the Northeast monsoon from November to April of the following year, the weather is dry and has little rain.
3. Population
– Total population: 83,978 people (Of which Female = 43,042).
– Number of households: 15,704 households.
– Ethnic composition:
+ Mong: 45,856 people, accounting for 54.6%
+ Tay: 11,128 people, accounting for 13.25%
+ Dao: 12,276 people, accounting for 14.6%
+ Kinh: 3,450 people, accounting for 4.2%
+ Nung: 4,209 people, accounting for 5.01%
+ Paper: 5,683 people, accounting for 6.7%
+ Other ethnic groups: 1,376 people, accounting for 1.64%
PROCESS OF FORMATION AND DEVELOPMENT OF YEN MINH DISTRICT
Previously, Dong Van was the Dong Quan district of Binh Nguyen district, Tuong Yen district, Tuyen Quang province, then belonged to Bao Lac district, governed as a territory by a Tay people named Nong in Bao Lac. When the French colonialists invaded, they separated Dong Van from Bao Lac. Under the French colonial period, the entire Tuong Yen district, including Dong Quan general, was placed in the 2nd military command of Ha Giang. In the list of Northern villages and communes published by Ngo Vi Lien in 1928, Ha Giang province had two continents (Bac Quang, Vi Xuyen) and two agents (Dong Van, Hoang Su Phi).
After the August 1945 revolution, in terms of administrative boundaries, nominally Dong Van remained the same as before. On December 15, 1962, the Government Council issued Decision Không. 211/QD-CP separating Dong Van into 3 districts: Dong Van, Yen Minh, and Meo Vac.
From now on, Yen Minh became a district-level administrative unit of Ha Giang province. When Yen Minh district was first divided, there were 13 communes, with a population of 3,294 households with 16,775 people. By 1982, due to socio-economic development requirements and the task of protecting the Fatherland's borders, Yen Minh district received 4 communes. : Phu Lung, Thang Mo, Sung Chang and Sung Thai commune from Dong Van district and handing over 3 southern communes of Nam Ban, Tat Nga and Niem Son to Meo Vac district.
On January 29, 1997, the Government issued Decree Không. 08/CP on adjusting administrative boundaries and establishing new communes. Implementing Decree Không. 08 of the Government, Yen Minh district established two new communes, Du Tien and Mau Long.
On August 20, 1999, the Government issued Decree Không. 74/1999/ND-CP on adjusting the administrative boundaries to establish Yen Minh town, Dong Minh commune and Huu Vinh commune on the basis of separating Yen commune. Bright. Currently, Yen Minh district has 18 administrative units, including 17 communes and 1 town with a total of 282 hamlets, villages, and residential groups.
SOME CULTURAL FACILITIES AND HISTORICAL RELICS IN THE LOCAL
|
Giới thiệu khái quát huyện
Mèo Vạc
Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đã có công văn số 3087,3088,3089/QĐ-BVHTTDL ngày 23/9 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho 03 danh lam thắng cảnh tại tỉnh Hà Giang.
Tại Hà Giang các nhà khoa học đã tìm thấy 5000 mẫu hóa thạch của loài Huệ Biển
Là một tỉnh vùng cao biên giới, địa hình đi lại khó khăn, khí hậu tương đối khắc nghiệt nhưng Hà Giang lại được thiên nhiên
ban
tặng nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp. Ngày 23/9 vừa qua, 03 danh lam thắng cảnh của tỉnh đã chính thức trở thành Di tích cấp quốc gia. Cụ thể:
1.Di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh: Khu vực Hóa thạch Huệ Biển tại Lũng Pù – Xã Lũng Pù, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
2.Danh lam thắng cảnh: Hang Rồng – Xã Tả Lủng và Pả Vi, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
3.Danh lam thắng cảnh: Hang Nà Luông – Xã Mậu Long, huyện Yên Minh và xã Sùng Trái, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Khu vực Hóa thạch Huệ Biển là một địa điểm nơi có những hóa thạch Huệ Biển được phát hiện lớn hơn những nơi khác, đồng thời cũng có mật độ phân bố dày hơn. Hoa huệ biển tên khoa học là Endoxocrinus parrae, sở dĩ loài hoa này được đặt tên Huệ Biển bởi hình dáng giống hệt một loài hoa bám dưới đáy đại dương. Chúng là nhóm động vật da gai cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay, các nhà khoa học đã tìm thấy khoảng 5000 mẫu hoá thạch và hơn 600 loài hiện sống tại khu vực danh thắng này.
Hang Rồng nằm trong địa phận huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Trong hệ thống hang động trên công viên địa chất toàn cầu Hà Giang, Hang Rồng là hang động có nhiều câu
chuy
ện kỳ bí nhất, Trần hang có chỗ cao tới 30 mét với nhiều nhũ đá hình thù khác nhau. Nên hang có chỗ rộng và phẳng đến mức kỳ lại, có giải thuyết cho rằng, hàng nghìn năm trước đây vốn là một con sông ngầm.
Hang Nà Luông lại được đánh giá là một trong số những hang động đẹp nhất tại Hà Giang. Tên hang được đặt theo vị trí chính xác của hang chính là thôn Nà Luồng thuộc xã Mậu Long, ngay sau khi hang Nà Luồng được phát đã nhanh chóng trở thành một trong những địa điểm thu hút du khách du lịch tại Hà Giang./.
|
General introduction of the district
Meo Vac
The Ministry of Culture, Sports and Tourism issued official dispatch Không. 3087,3088,3089/QD-BVHTTDL dated September 23 on the national monument ranking for 03 scenic spots in Ha Giang province.
In Ha Giang, scientists have found 5,000 fossil specimens of the Sea Lily species
As a border highland province, the terrain is difficult to travel and the climate is relatively harsh, but Ha Giang is blessed with natural beauty.
board
offers many beautiful landscapes. On September 23, 03 scenic spots of the province officially became national monuments. Specifically:
1. Archaeological relics and scenic spots: Sea Lily Fossil Area at Lung Pu - Lung Pu Commune, Meo Vac District, Ha Giang Province.
2.Scenic spots: Dragon Cave - Ta Lung and Pa Vi communes, Meo Vac district, Ha Giang province.
3.Scenic spots: Na Luong Cave - Mau Long commune, Yen Minh district and Sung Trai commune, Dong Van district, Ha Giang province.
The Sea Lily Fossil Area is a location where larger sea lily fossils have been discovered than elsewhere, and are also more densely distributed. The scientific name of sea lily is Endoxocrinus parrae. The reason this flower is named Sea Lily is because its shape resembles a flower clinging to the bottom of the ocean. They are the oldest group of echinoderms still alive today. Scientists have found about 5,000 fossil specimens and more than 600 species currently live in this scenic area.
Dragon Cave is located in Meo Vac district, Ha Giang province. In the cave system in Ha Giang Global Geopark, Dragon Cave is a cave with many sentences
chuy
The most mysterious thing is that the ceiling of the cave is up to 30 meters high with many stalactites of different shapes. So the cave is strangely wide and flat in some places. There is a theory that thousands of years ago it was originally an underground river.
Na Luong Cave is considered one of the most beautiful caves in Ha Giang. The name of the cave is based on the exact location of the cave, which is Na Luong village in Mau Long commune. Immediately after Na Luong cave was discovered, it quickly became one of the tourist attractions in Ha Giang./ .
|
Giới thiệu khái quát huyện Xín Mần
Huyện Xín Mần nằm cách Thành phố Hà Giang 150km về phía Tây, phía Bắc giáp Mã Quan, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Nam giáp huyện Quang Bình, Phía Đông giáp huyện Hoàng Su Phì, phía Tây giáp huyện Si Ma Cai và huyện Bắc Hà (Lào Cai). Xín Mần có diện tích tự nhiên là 58.702,22 ha, chia thành 19 đơn vị hành chính bao gồm 18 xã và 1 thị trấn: Pà Vầy Sủ, Chí cà, Xín Mần, Nàn Xỉn, Thèn Phàng, Bản Díu, Bản Ngò, Nàn Ma, Nấm Dẩn, Tả Nhìu, Cốc Rế, Chế Là, Ngán Chiên, Trung Thịnh, Thu Tà, Nà Chì, Khuôn Lùng, Quảng Nguyên, Thị trấn Cốc Pài. Toàn huyện có 16 dân tộc anh em cùng chung sống (Nùng, Mông, Tày, Dao, La Chí, Kinh, Phù Lá, Hoa, Pà Thẻn, Cao Lan, Mường, Ngạn, Bố Y, Khmer, Giấy, Cơ Lao, Sán Dìu, Sán Chay). Trong đó có một số dân tộc là người bản địa như Nùng, Mông, La Chí, Phù Lá, Tày, Dao…Huyện có 4 xã biên giới giáp với huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (Pà Vầy Sủ, Chí cà, Xín Mần, Nàn Xỉn) với chiều dài đường biên giới 31km.
Địa hình
Địa hình Xín Mần được cấu tạo khá đa dạng và phức tạp, đặt trong khu vực của khối núi thượng nguồn sông Chảy. Đây là khối núi granít lớn nhất và cổ nhất Bắc Bộ nằm ở phía tây thành phố Hà Giang, được cấu tạo cách đây ít nhất 500 triệu năm. Khối núi rộng đến 2.500km
2
này xuyên qua phiến tuổi nguyên sinh tạo cho Xín Mần có độ cao trung bình từ 1.200 -1.600 m với dãy Hoàng Vần Thùng đỉnh cao trên 2.000 m chạy suốt từ Lao Chải (Vị Xuyên) đến Pà Vầy Sủ tạo nên bức tường thành ở phía dưới ngăn cách giữa Việt Nam và Trung Quốc; Dãy Chiêu Lầu Thi chạy suốt từ Tây Côn Lĩnh đến Bắc Hà (Lào Cai) có đỉnh cao 2.402 m, ngăn cách giữa Xín Mần và Bắc Quang ở phía đông với một chiều dài kéo từ Ma Lì Sán (Pà Vầy Sủ) đến suối Nậm Tìn (Trung Thịnh) trên một đoạn 26,5 km.
Thủy văn
Khí hậu
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất
Về mặt thổ nhưỡng đất đai của huyện phổ biến là đất feralít đỏ vàng có mùn trên núi. Do địa hình cao, dốc lớn nên phẫu diện đất ở đây mỏng, khả năng phát triển nông nghiệp kém.
Tài nguyên rừng
|
General introduction to Xin Man district
Xin Man district is located 150km west of Ha Giang City, to the north it borders Ma Quan, Yunnan province (China), to the south it borders Quang Binh district, to the east it borders Hoang Su Phi district, to the west it borders Si Ma Cai district. and Bac Ha district (Lao Cai). Xin Man has a natural area of 58,702.22 hectares, divided into 19 administrative units including 18 communes and 1 town: Pa Vay Su, Chi Ca, Xin Man, Nan Xin, Then Phang, Ban Diu, Ban Ngo , Nan Ma, Nam Dan, Ta Nhiu, Coc Re, Che La, Ngan Chien, Trung Thinh, Thu Ta, Na Chi, Khuan Lung, Quang Nguyen, Coc Pai Town. The whole district has 16 ethnic groups living together (Nung, Mong, Tay, Dao, La Chi, Kinh, Phu La, Hoa, Pa Then, Cao Lan, Muong, Ngan, Bo Y, Khmer, Giay, Co Lao, San Diu, San Chay). Among them are a number of indigenous ethnic groups such as Nung, Mong, La Chi, Phu La, Tay, Dao... The district has 4 border communes bordering Ma Quan district, Yunnan province, China (Pa Vay Su, Chi Ca, Xin Man, Nan Xin) with a border length of 31km.
Topographic
Xin Man's terrain is quite diverse and complex, located in the mountain range upstream of the Chay River. This is the largest and oldest granite massif in the North, located west of Ha Giang city, formed at least 500 million years ago. The mountain massif is up to 2,500km wide
2
This passes through the primeval slab, giving Xin Man an average altitude of 1,200 - 1,600 m with the Hoang Van Thung range at a peak of over 2,000 m running all the way from Lao Chai (Vi Xuyen) to Pa Vay Su, creating a wall in below the separation between Vietnam and China; The Chieu Lau Thi range runs from Tay Con Linh to Bac Ha (Lao Cai) with a peak of 2,402 m, separating Xin Man and Bac Quang in the east with a length extending from Ma Li San (Pa Vay Su) to the stream. Nam Tin (Trung Thinh) on a section of 26.5 km.
Hydrological
Climate
Natural resources:
Land resources
In terms of soil soil, the district's soil is commonly red-yellow feralite soil with humus in the mountains. Due to the high terrain and steep slopes, the land profile here is thin and the ability to develop agriculture is poor.
Forest resources
|
Giới thiệu khái quát thành phố Hà Giang
Thành phố Hà Giang được thành lập ngày 20/8/1891 và tái thành lập ngày 1/10/1991. Vị trí địa lý: Là tỉnh miền núi cao, nằm ở cực Bắc của tổ quốc, phía bắc giáp với tỉnh Vân Nam và Quảng Tây – Trung Quốc với đường biên giới dài 274km. Phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Diện tích tự nhiên là 7.884,37km2 Địa hình: Do cấu tạo địa hình phức tạp, thiên nhiên tạo ra và ưu đãi cho Hà Giang một nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên và khoáng sản…
Từ những đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình thành phố Hà Giang được chia thành ba vùng với những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác biệt, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng đó là:
– Vùng I:
Là vùng cao núi đá phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ. Diện tích toàn vùng là 2.352,7 Km2, dân số trên 20 vạn người chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do điều kiện khí hậu rét đậm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè nên rất thích hợp với việc phát triển các loại cây ôn đới như cây dược liệu thảo quả, đỗ trọng; Cây ăn quả như mận, đào, lê, táo… Cây lương thực chính ở vùng này là cây ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong. Những giống gia súc trên đây là giống riêng của vùng ôn đới, có đặc điểm to hơn và chịu được rét đến cả độ âm. Đàn ong ở đây chủ yếu chỉ phát triển vụ hè – thu với 2 loại hoa chính là hoa ngô và hoa bạc hà. Mật ong hoa bạc hà là thứ mật ong đặc biệt có giá trị trong việc chữa bệnh và bồi dưỡng sức khoẻ.
– Vùng II:
Là vùng cao núi đất phía tây gồm các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km2, dân số chiếm 15,9%. Điều kiện tự nhiên vùng này thích hợp cho việc phát triển cây trẩu và cây thông lấy nhựa. Cây lương thực chính vùng này là lúa nước và ngô. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và các loại gia cầm.Vùng này là vùng đất của chè Shan tuyết và chủ nhân lâu đời của nó là người Dao – Một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời.
– Vùng III:
Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang là vùng trọng điểm kinh tế của Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.320,3 km2, dân số chiếm 49,8%. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển nghề rừng, trồng các loại cây nguyên liệu giấy như bồ đề, mỡ, thông và đây cũng là vùng tre, nứa, vầu, luồng lớn nhất trong tỉnh … Ngoài ra đây còn là vùng trồng các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, chanh … Khí hậu: mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa vùng cao, mang nhiều sắc thái khí hậu ôn đới. Dân số: Trên 680.000 người. Dân tộc: 22 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một sự đa dạng về bản sắc văn hoá. Trong đó dân tộc Mông chiếm 30,6%, Tày chiếm 24,9%, Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%….
Đơn vị hành chính:
thành phố
Hà Giang có một thị xã là trung tâm và 10 huyện, tổng số có 195 xã, phường, thị trấn, trong đó có 112 xã đặc biệt khó khăn . Kết cấu hạ tầng: Đường giao thông chính đến Hà Giang là đường quốc lộ 2. Năm 2000, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm. Lưới điện phát triển rộng khắp, đến nay toàn tỉnh đã có 184 xã, phường, thị trấn có điện lưới quốc gia; hệ thống lưới điện đảm bảo cung cấp cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bưu chính viễn thông đã vươn tới các xã vùng sâu, vùng xa, mạng cáp quang liên tỉnh đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng, 11 huyện thị có điện thoại di động , 100% xã phường có điện thoại.
Tài nguyên thiên nhiên:
Tỉnh có 9 nhóm đất trong đó chủ yếu là đất xám, rất thích hợp cho phát triển cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn quả. Hà Giang có diện tích rừng lớn với 345.860ha rừng tự nhiên, nhiều khu rừng nguyên sinh với các loại động vật quý cùng nhiều loại cây gỗ, cây dược liệu quý. Tài nguyên nước có tiềm năng rất lớn cho phát triển thuỷ điện. Về tài nguyên khoáng sản Hà Giang có 28 loại khoáng sản khác nhau, nhiều mỏ có trữ lượng lớn với hàm lượng khoáng chất cao.
Cơ cấu kinh tế:
Đang chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông – lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đời sống dân cư: Tăng trưởng GDP đạt tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 2001-2005 đạt bình quân 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 khoảng 2,4 triệu đồng/năm, hệ thống điện- đường – trường – trạm được tập trung đầu tư đáp ứng được nhu cầu của người dân. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ nghèo từ 26% xuống còn 15%.
|
General introduction to Ha Giang city
Ha Giang City was established on August 20, 1891 and re-established on October 1, 1991. Geographical location: It is a high mountainous province, located in the northernmost part of the country, bordering the north with Yunnan and Guangxi provinces - China with a 274km long border. The south borders Tuyen Quang province, the east borders Cao Bang, the west borders Yen Bai and Lao Cai. Natural area is 7,884.37km2 Terrain: Due to the complex topographic structure, nature has created and endowed Ha Giang with a huge potential source of climate, land, resources and minerals...
From the characteristics of climate, soil, and terrain, Ha Giang city is divided into three regions with different natural, economic and social conditions, each region has its own potential and strengths:
– Region I:
Is a highland rocky mountain region in the North including 4 districts: Dong Van, Meo Vac, Yen Minh and Quan Ba. The area of the entire region is 2,352.7 km2, the population is over 200,000 people, accounting for approximately 34.3% of the province's population. Because the climate is cold in winter and cool in summer, it is very suitable for growing temperate plants such as medicinal plants such as cardamom and rhododendron; Fruit trees such as plums, peaches, pears, apples... The main food crop in this area is corn. Livestock mainly includes cows, goats, horses and beekeeping. The cattle breeds above are breeds unique to temperate regions, with characteristics of being larger and being able to withstand cold even to subzero degrees. The bees here mainly only grow the summer-autumn crop with two main types of flowers: cornflowers and mint flowers. Mint flower honey is especially valuable in treating diseases and improving health.
– Region II:
It is a high mountainous area in the west including Hoang Su Phi and Xin Man districts. Natural area is 1,211.3 km2, population accounts for 15.9%. The natural conditions in this area are suitable for growing bamboo and pine trees to get resin. The main food crops in this area are rice and corn. Livestock are mainly raised by buffaloes, horses, goats and poultry. This area is the land of Shan Tuyet tea and its long-standing owner is the Dao people - an ethnic group with experience in growing and taking care of long mountain tea trees. life.
– Region III:
Is a low mountainous area including districts: Bac Quang, Vi Xuyen, Bac Me, Quang Binh and Ha Giang town is the key economic area of Ha Giang. Natural area is 4,320.3 km2, population accounts for 49.8%. Natural conditions are suitable for tropical trees, favorable for the development of forestry, growing paper materials such as linden, fat, pine, and this is also the largest bamboo, cork, and luong area. in the province... In addition, this is also a growing area for citrus fruits such as oranges, tangerines, lemons... Climate: tropical monsoon characteristics in highland areas, with many nuances of temperate climate. Population: Over 680,000 people. Ethnicity: 22 ethnic groups living together create a diversity of cultural identity. Of which the Mong ethnic group accounts for 30.6%, the Tay ethnic group accounts for 24.9%, the Dao ethnic group accounts for 15.2%, the Kinh ethnic group accounts for 12%....
Administrative units:
city
Ha Giang has a central town and 10 districts, a total of 195 communes, wards and towns, of which 112 communes are extremely difficult. Infrastructure: The main road to Ha Giang is National Highway 2. In 2000, 100% of communes had motorable roads to the center. The power grid has developed widely. Up to now, the whole province has 184 communes, wards and towns with national grid power; The power grid system ensures supply for the production and consumption needs of the people. Post and telecommunications have reached remote communes, the inter-provincial fiber optic network has been completed and put into use, 11 districts and towns have mobile phones, 100% of communes and wards have phones.
Natural resources:
The province has 9 soil groups, of which mainly gray soil is very suitable for the development of industrial crops, medicinal plants and fruit trees. Ha Giang has a large forest area with 345,860 hectares of natural forest, many primeval forests with precious animals and many types of precious wood and medicinal plants. Water resources have great potential for hydropower development. Regarding mineral resources, Ha Giang has 28 different types of minerals, many mines have large reserves with high mineral content.
The economic structure:
It is shifting towards reducing the proportion of agriculture and forestry and increasing the proportion of industry and services. Residential life: GDP growth reached a high growth rate, the period 2001-2005 reached an average of 10.3%/year, average income per capita in 2005 was about 2.4 million VND/year, the electricity system - Roads - schools - stations are invested in to meet the needs of the people. Strive to reduce the poverty rate from 26% to 15% by 2010.
|
Giới thiệu khái quát huyện Quang Bình
Quang Bình là huyện vùng thấp, nằm ở phía Tây Nam của
tỉnh Hà Giang
, là huyện động lực của tỉnh, nằm trên trục đường quốc lộ 279; phía Băc giáp huyện Hoàng Su Phì, Xín Mân; phía Đông giáp huyện Bắc Quang; phía Nam giáp với một phân của huyện Bắc Quang và huyện Lục Yên (tỉnh Yên Bái); phía tây giáp với huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai)..
Diện tích tự nhiên: 79.188,04 km2
Dân số: 64.795 người (tính đến 31/12/2018).
Mật độ dân số: 81 người/km2
Di tích đình bản Chún
Đình bản Chún thôn Nà Mèo, xã Tân Nam, huyện Quang Bình (Đã được trùng tu, tôn tạo sau nhiều năm bị xuống cấp).
Đình bản Chún được tọa lạc ở cửa Nặm Thàng
(tại chỗ “Pá Thàng”),
có từ lâu đời, trải qua biến cố thăng trầm của lịch sử nên đền bị hư hỏng, nhân dân trong vùng nhiều lần trùng tu để thờ thần sông, thần núi. Mặt tiền của đình hướng ra sông Chừng. Do mực nước sông Chừng mỗi ngày một dâng cao, nên Đình phải di dời lên vị thế đất cao hơn, đến nay đình được xây dựng kiên cố bằng gạch, mái lợp bằng ngói âm dương màu đỏ, tường gạch, 01 cửa đi chính giữa và 02 cửa phụ 02 bên. Đình thờ cúng với mong muốn cầu bình an, sức khỏe, làm ăn gặp may mắn, mưa thuận gió hòa. Bên cạnh đó đình còn thờ ông Đỗ Bật, Đỗ lượng – người có công khởi dựng lập đình và giúp đỡ nhân dân trong thôn làm ăn, đây là nhân vật có công với dân làng và được suy tôn tương tự như các vị Thành Hoàng làng ở vùng đồng bằng bắc bộ. Sau khi mất, ông được nhân dân trong thôn lập bát hương để thờ.
Việc thờ cúng ông Đỗ Bật, Đỗ Lượng của các dân tộc nơi đây thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Trong tâm niệm của nhân dân nơi đây là hai ông đã được thần thánh hóa như một vị thần bảo vệ, phù hộ cho dân làng bình an. Các ngày lễ chính của đình hàng năm là dịp nhân dân trong thôn tụ hợp một cách tự nguyện, điều này cũng góp phần tạo nên sự gắn kết cộng đồng.
Hàng năm, tại đình bản Chún vào ngày mồng 03 tết âm lịch, tháng 02 và tháng 7âm lịch bà con nhân dân trong thôn mang bánh chưng, rượu, thịt, bánh kẹo, hoa quả đến thắp hương tại đình để tưởng nhớ đến 02 ông và cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, gia đình khoẻ mạnh; sau đó tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống như: Hát giao duyên, đánh yến, ném còn, đi cà kheo v.v. và tổ chức ăn uống tại đình. Ngôi đình bản Chún đã trải qua bao biến thiên của lịch sử, song ngôi đình vẫn còn bảo tồn được nguyên giá trị lịch sử văn hóa của địa phương.
Đường đi đến di tích
Đình bản Chún cách trung tâm thành phố Hà Giang 108km về phía Tây Nam. Gồm có 2 đường đến di tích:
Đường thứ nhất:
Từ Thành phố Hà Giang đi xuôi theo quốc lộ số 2 (hướng Hà Giang – Hà Nội), đến km 60 thuộc thị trấn Bắc Quang rẽ phải đi đường quốc lộ số 279 đi thị trấn Quang Bình, đến km25 (Bắc Quang – Yên Bình) rẽ phải đi theo đường tỉnh lộ số 178 đến trụ sở UBND xã Tân Nam với chiều dài 18km. Từ cầu treo trung tâm xã Tân Nam rẽ phải đi theo đường bê tông liên thôn 5km đến đình.
Đường thứ hai:
Từ km60 (thị trấn Bắc Quang) rẽ phải đi theo quốc lộ 279 đi hướng thị trấn Quang Bình, đến km17 (cầu Chừng) rẽ phải đi khoảng 1,5km đến đập thủy điện Sông Chừng. Từ đập thủy điện ngược theo lòng hồ bằng thuyền máy khoảng 45 phút đến là đến di tích.
Đình bản Chún có vị trí khá thuận lợi cho việc tham quan, có thể đi bằng nhiều phương tiện: Đi bộ, xe máy và đi thuyền.
Danh lam thắng cảnh hồ thủy điện sông Chừng
Một góc hồ thủy điện sông Chừng
Hồ thủy điện sông Chừng nằm trên địa phận thị trấn Yên Bình, xã Tiên Nguyên và xã Tân Nam, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm huyện lỵ 7km trên trục đường quốc lộ 279 theo hướng đường đi huyện Bắc Quang, Hà Giang. Hồ thủy điện sông Chừng nằm ở thượng nguồn sông Chừng, được tạo thành sau khi nhà máy thủy điện sông Chừng được xây dựng. Hồ rộng trên 225ha, trải dài gần 15km, bốn phía được bao bọc bởi hệ thống núi đất và những rừng cây, rừng trồng của cộng đồng cư dân sống trong vùng. Có thể nói rằng hiện nay đây chính là địa danh có cảnh quan đẹp nhất, là điểm dừng chân lý tưởng khi đến với huyện Quang Bình. Hồ được hình thành do việc ngăn dòng lấy nước làm thủy điện trên một vùng đất có nhiều sông, suối, xung quanh được bao bọc bởi những dãy núi cao. Từ bến thuyền nằm gần khu vực đập thủy điện ngược dòng lên phía thượng nguồn, một vùng hồ nước mênh mông sẽ hiện ra trước mắt. Đi thuyền trên hồ sông Chừng du khách không chỉ cảm nhận được bầu không khí mát lành của nước, của gió mà còn được hoà mình cùng thiên nhiên hào phóng, thả hồn mình vào mênh mông trời nước, điệp trùng núi rừng tưởng chừng như vô tận. Đứng dưới thuyền du khách có thể tận mắt ngắm nhìn những khu rừng xanh mướt, thấp thoáng trong tán cây là những bông hoa chuối nở đỏ rực. Không chỉ có núi đồi hai bên lòng hồ, cảnh đẹp nơi đây còn được tô điểm bằng hàng chục hòn đảo nhỏ. Những hòn đảo này chính là những ngọn núi bị nước nhấn chìm chỉ còn một phần đỉnh núi nhô lên khỏi mặt nước. Đảo không có cư dân sinh sống, chỉ có những tán cây soi mình dưới bóng nước. Thi thoảng, một vài chiếc thuyền của đồng bào lặng lẽ cập bờ thả lưới rồi lại lặng lẽ lướt đi trả lại sự tĩnh lặng vốn có.
Điểm dừng chân dành cho chuyến tham quan lòng hồ chính là những ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây; chụp ảnh những nương sắn, những thửa ruộng bậc thang từ đỉnh núi kéo dài xuống tận mép nước và những đàn gia súc chăn thả quanh nhà; xem các mô hình nuôi cá lồng, nuôi lợn đen, gà đồi, mô hình nuôi vịt bầu, cá thương phẩm; mỗi chiều về khói bếp bay là là hòa quyện với làn sương mù đặc trưng của vùng cao sẽ là những dấu ấn khó quên trong lòng du khách. Cuộc sống không ồn ào, náo nhiệt mà gợi lên cảm giác yên bình, tự tại.
Hồ thủy điện sông Chừng nằm ở một vị trí thuận lợi cho việc đi lại, có đường ô tô đến tận nơi, lòng hồ chứa đựng nhiều giá trị to lớn về mặt cảnh quan, thẩm mỹ, bên cạnh đó còn có di tích phù hợp cho việc phát triển du lịch tâm linh. Cộng đồng các dân tộc sinh sống quanh vùng còn bảo lưu được nhiều nét văn hóa đặc sắc.
Thác
Nậm Cháng
nằm ở khu vực thôn Nà Mèo, xã Tân Nam
Một trong những cảnh quan khe thác đẹp nhất trên vùng lòng hồ là thác Nậm Cháng nằm ở khu vực thôn Nà Mèo, xã Tân Nam. Để đến được thác chỉ có một con đường là đi thuyền qua lòng hồ. Đây chính là điểm tiếp giao của một khe suối lớn đổ nước vào hồ. Thác có độ cao 8m so với mặt hồ, chiều dài khoảng 80m, độ dốc thoải. Thác được hình thành do quá trình thành tạo địa chất dẫn đến độ nghiêng dốc mạnh của khối đá bề mặt và sự bào mòn của dòng chảy. Nhìn từ xa, dòng thác trông giống như một dải lụa trắng mềm mại nổi bật giữa không gian của núi rừng. Hai bên dòng thác là thảm thực vật phong phú. Phía dưới thác nước là mặt hồ rộng mênh mông, đoạn tiếp giáp giữa hồ và thác có độ sâu chưa đến một mét, đáy hồ được trải một lớp cát và cuội nhỏ. Tất cả đã tạo cho cảnh quan của dòng thác Nậm Cháng một vẻ đẹp nguyên sơ và đầy thơ mộng.
Bên cạnh đó những làng nghề mới gắn với sông nước như đánh bắt và nuôi trồng thủy sản được hình thành tạo thêm những điểm đến hấp dẫn cho du khách. Các hoạt động sinh hoạt văn hóa của người dân và thiên nhiên hùng vĩ nơi đây thì du khách sẽ được xem Lễ hội đua thuyền trên lòng hồ – một Lễ hội tiêu biểu được phục dựng dựa trên cơ sở Lễ hội thể thao truyền thống tổ chức vào ngày 18,19 tháng 8 hàng năm./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Quang Bình
Quang Bình là huyện vùng thấp, nằm ở phía Tây Nam của
tỉnh Hà Giang
, là huyện động lực của tỉnh, nằm trên trục đường quốc lộ 279; phía Băc giáp huyện Hoàng Su Phì, Xín Mân; phía Đông giáp huyện Bắc Quang; phía Nam giáp với một phân của huyện Bắc Quang và huyện Lục Yên (tỉnh Yên Bái); phía tây giáp với huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai)..
Diện tích tự nhiên: 79.188,04 km2
Dân số: 64.795 người (tính đến 31/12/2018).
Mật độ dân số: 81 người/km2
Di tích đình bản Chún
Đình bản Chún thôn Nà Mèo, xã Tân Nam, huyện Quang Bình (Đã được trùng tu, tôn tạo sau nhiều năm bị xuống cấp).
Đình bản Chún được tọa lạc ở cửa Nặm Thàng
(tại chỗ “Pá Thàng”),
có từ lâu đời, trải qua biến cố thăng trầm của lịch sử nên đền bị hư hỏng, nhân dân trong vùng nhiều lần trùng tu để thờ thần sông, thần núi. Mặt tiền của đình hướng ra sông Chừng. Do mực nước sông Chừng mỗi ngày một dâng cao, nên Đình phải di dời lên vị thế đất cao hơn, đến nay đình được xây dựng kiên cố bằng gạch, mái lợp bằng ngói âm dương màu đỏ, tường gạch, 01 cửa đi chính giữa và 02 cửa phụ 02 bên. Đình thờ cúng với mong muốn cầu bình an, sức khỏe, làm ăn gặp may mắn, mưa thuận gió hòa. Bên cạnh đó đình còn thờ ông Đỗ Bật, Đỗ lượng – người có công khởi dựng lập đình và giúp đỡ nhân dân trong thôn làm ăn, đây là nhân vật có công với dân làng và được suy tôn tương tự như các vị Thành Hoàng làng ở vùng đồng bằng bắc bộ. Sau khi mất, ông được nhân dân trong thôn lập bát hương để thờ.
Việc thờ cúng ông Đỗ Bật, Đỗ Lượng của các dân tộc nơi đây thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Trong tâm niệm của nhân dân nơi đây là hai ông đã được thần thánh hóa như một vị thần bảo vệ, phù hộ cho dân làng bình an. Các ngày lễ chính của đình hàng năm là dịp nhân dân trong thôn tụ hợp một cách tự nguyện, điều này cũng góp phần tạo nên sự gắn kết cộng đồng.
Hàng năm, tại đình bản Chún vào ngày mồng 03 tết âm lịch, tháng 02 và tháng 7âm lịch bà con nhân dân trong thôn mang bánh chưng, rượu, thịt, bánh kẹo, hoa quả đến thắp hương tại đình để tưởng nhớ đến 02 ông và cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, gia đình khoẻ mạnh; sau đó tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống như: Hát giao duyên, đánh yến, ném còn, đi cà kheo v.v. và tổ chức ăn uống tại đình. Ngôi đình bản Chún đã trải qua bao biến thiên của lịch sử, song ngôi đình vẫn còn bảo tồn được nguyên giá trị lịch sử văn hóa của địa phương.
Đường đi đến di tích
Đình bản Chún cách trung tâm thành phố Hà Giang 108km về phía Tây Nam. Gồm có 2 đường đến di tích:
Đường thứ nhất:
Từ Thành phố Hà Giang đi xuôi theo quốc lộ số 2 (hướng Hà Giang – Hà Nội), đến km 60 thuộc thị trấn Bắc Quang rẽ phải đi đường quốc lộ số 279 đi thị trấn Quang Bình, đến km25 (Bắc Quang – Yên Bình) rẽ phải đi theo đường tỉnh lộ số 178 đến trụ sở UBND xã Tân Nam với chiều dài 18km. Từ cầu treo trung tâm xã Tân Nam rẽ phải đi theo đường bê tông liên thôn 5km đến đình.
Đường thứ hai:
Từ km60 (thị trấn Bắc Quang) rẽ phải đi theo quốc lộ 279 đi hướng thị trấn Quang Bình, đến km17 (cầu Chừng) rẽ phải đi khoảng 1,5km đến đập thủy điện Sông Chừng. Từ đập thủy điện ngược theo lòng hồ bằng thuyền máy khoảng 45 phút đến là đến di tích.
Đình bản Chún có vị trí khá thuận lợi cho việc tham quan, có thể đi bằng nhiều phương tiện: Đi bộ, xe máy và đi thuyền.
Danh lam thắng cảnh hồ thủy điện sông Chừng
Một góc hồ thủy điện sông Chừng
Hồ thủy điện sông Chừng nằm trên địa phận thị trấn Yên Bình, xã Tiên Nguyên và xã Tân Nam, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm huyện lỵ 7km trên trục đường quốc lộ 279 theo hướng đường đi huyện Bắc Quang, Hà Giang. Hồ thủy điện sông Chừng nằm ở thượng nguồn sông Chừng, được tạo thành sau khi nhà máy thủy điện sông Chừng được xây dựng. Hồ rộng trên 225ha, trải dài gần 15km, bốn phía được bao bọc bởi hệ thống núi đất và những rừng cây, rừng trồng của cộng đồng cư dân sống trong vùng. Có thể nói rằng hiện nay đây chính là địa danh có cảnh quan đẹp nhất, là điểm dừng chân lý tưởng khi đến với huyện Quang Bình. Hồ được hình thành do việc ngăn dòng lấy nước làm thủy điện trên một vùng đất có nhiều sông, suối, xung quanh được bao bọc bởi những dãy núi cao. Từ bến thuyền nằm gần khu vực đập thủy điện ngược dòng lên phía thượng nguồn, một vùng hồ nước mênh mông sẽ hiện ra trước mắt. Đi thuyền trên hồ sông Chừng du khách không chỉ cảm nhận được bầu không khí mát lành của nước, của gió mà còn được hoà mình cùng thiên nhiên hào phóng, thả hồn mình vào mênh mông trời nước, điệp trùng núi rừng tưởng chừng như vô tận. Đứng dưới thuyền du khách có thể tận mắt ngắm nhìn những khu rừng xanh mướt, thấp thoáng trong tán cây là những bông hoa chuối nở đỏ rực. Không chỉ có núi đồi hai bên lòng hồ, cảnh đẹp nơi đây còn được tô điểm bằng hàng chục hòn đảo nhỏ. Những hòn đảo này chính là những ngọn núi bị nước nhấn chìm chỉ còn một phần đỉnh núi nhô lên khỏi mặt nước. Đảo không có cư dân sinh sống, chỉ có những tán cây soi mình dưới bóng nước. Thi thoảng, một vài chiếc thuyền của đồng bào lặng lẽ cập bờ thả lưới rồi lại lặng lẽ lướt đi trả lại sự tĩnh lặng vốn có.
Điểm dừng chân dành cho chuyến tham quan lòng hồ chính là những ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây; chụp ảnh những nương sắn, những thửa ruộng bậc thang từ đỉnh núi kéo dài xuống tận mép nước và những đàn gia súc chăn thả quanh nhà; xem các mô hình nuôi cá lồng, nuôi lợn đen, gà đồi, mô hình nuôi vịt bầu, cá thương phẩm; mỗi chiều về khói bếp bay là là hòa quyện với làn sương mù đặc trưng của vùng cao sẽ là những dấu ấn khó quên trong lòng du khách. Cuộc sống không ồn ào, náo nhiệt mà gợi lên cảm giác yên bình, tự tại.
Hồ thủy điện sông Chừng nằm ở một vị trí thuận lợi cho việc đi lại, có đường ô tô đến tận nơi, lòng hồ chứa đựng nhiều giá trị to lớn về mặt cảnh quan, thẩm mỹ, bên cạnh đó còn có di tích phù hợp cho việc phát triển du lịch tâm linh. Cộng đồng các dân tộc sinh sống quanh vùng còn bảo lưu được nhiều nét văn hóa đặc sắc.
Thác
Nậm Cháng
nằm ở khu vực thôn Nà Mèo, xã Tân Nam
Một trong những cảnh quan khe thác đẹp nhất trên vùng lòng hồ là thác Nậm Cháng nằm ở khu vực thôn Nà Mèo, xã Tân Nam. Để đến được thác chỉ có một con đường là đi thuyền qua lòng hồ. Đây chính là điểm tiếp giao của một khe suối lớn đổ nước vào hồ. Thác có độ cao 8m so với mặt hồ, chiều dài khoảng 80m, độ dốc thoải. Thác được hình thành do quá trình thành tạo địa chất dẫn đến độ nghiêng dốc mạnh của khối đá bề mặt và sự bào mòn của dòng chảy. Nhìn từ xa, dòng thác trông giống như một dải lụa trắng mềm mại nổi bật giữa không gian của núi rừng. Hai bên dòng thác là thảm thực vật phong phú. Phía dưới thác nước là mặt hồ rộng mênh mông, đoạn tiếp giáp giữa hồ và thác có độ sâu chưa đến một mét, đáy hồ được trải một lớp cát và cuội nhỏ. Tất cả đã tạo cho cảnh quan của dòng thác Nậm Cháng một vẻ đẹp nguyên sơ và đầy thơ mộng.
Bên cạnh đó những làng nghề mới gắn với sông nước như đánh bắt và nuôi trồng thủy sản được hình thành tạo thêm những điểm đến hấp dẫn cho du khách. Các hoạt động sinh hoạt văn hóa của người dân và thiên nhiên hùng vĩ nơi đây thì du khách sẽ được xem Lễ hội đua thuyền trên lòng hồ – một Lễ hội tiêu biểu được phục dựng dựa trên cơ sở Lễ hội thể thao truyền thống tổ chức vào ngày 18,19 tháng 8 hàng năm./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thanh Liêm
Trên địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay có hơn 1780 di tích. Những năm qua ngành văn hóa TTDL và các địa phương đã có nhiều giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Tuy nhiên trên thực tế cũng có không ít di tích LSVH đang xuống cấp một cách trầm trọng. Làm thế nào để bảo tồn những di tích văn hóa, lịch sử là vấn đề đang đặt ra cho các cấp, ngành và toàn xã hội…
Đình Hòa Ngãi xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm có lịch sử lâu đời, thờ Thánh Lôi Công, người đã cócông trong kháng chiến chống giặc Lương và được triều đình nhà Lý ban sắc phong. Năm 2000, đìnhđược Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ văn hóa thể thao và du lịch) cấp bằng công nhận di tích lịch sửvăn hóa cấp quốc gia. Trải qua những năm tháng chiến tranh, nhiều hạng mục của ngôi đình đã bị hưhỏng. Đáp ứng nguyện vọng tâm linh của nhân dân địa phương, năm 2010, ngôi đình được đầu tư trùng tu, tôn tạo với kinh phí là 11 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên đây chỉ là một trong số rất ít các ngôi đình được quan tâm đầu tư trùng tu, tôn tạo. Trên trực tếđịa bàn Hà Nam hiện nay có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa bị xuống cấp một cách nghiêm trọng. Đình làng Ngò xã Đức Lý, huyện Lý Nhân là một ví dụ. Với lịch sử hàng trăm năm, hiện nay những chiếc cột bịmọt ăn mòn, trống rỗng, mái ngói cong vênh, xô lệch, tất cả đều có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Ngôiđình làng Ngò không chỉ là nơi sinh hoạt tâm linh của nhân dân mà nó còn là nơi hội họp của các tổ chứcđoàn thể địa phương vì nơi đây vẫn chưa có nhà văn hóa. Mặc dù là di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia từ năm 2001 nhưng đến nay ngôi đình này vẫn chưa được quan tâm bảo tồn một cách xứngđáng đúng với danh hiệu và giá trị của nó.
Hiện nay toàn tỉnh có 1780 di tích lịch sử. Tuy nhiên công tác bảo tồn các di tích gặp những khó khăn nhất định do ngân sách nhà nước cấp cho công tác bảo tồn hạn hẹp. Để khắc phục tình trạng này, nhiềuđịa phương đã chủ động nguồn xã hội hóa nhưng do thiếu đội ngũ cán bộ giám sát, thi công chuyên nghiệp trong công tác quản lý di tích dẫn tới một số di tích chưa bảo đảm chất lượng, thậm chí bị xâm hại nghiêm trọng. Vì vậy, để công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa được bền vững, ngành Văn hóa cần sớm xây dựng kế hoạch nghiên cứu khảo sát, đánh giá đúng thực trạng các di tích, trên cơ sở đó lập quy hoạch tổng thể bảo tồn đối với từng di tích. Đồng thời, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân nhằm từng bước tu bổ, tôn tạo các di tích, góp phần thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
|
General introduction of Thanh Liem district
In Ha Nam province, there are currently more than 1,780 relics. In recent years, the culture and tourism market industry and localities have had many solutions to preserve and promote the value of relics. However, in reality, there are many cultural relics that are seriously degraded. How to preserve cultural and historical relics is a problem facing all levels, sectors and the entire society...
Hoa Ngai communal house in Thanh Ha commune, Thanh Liem district has a long history, worshiping Saint Loi Cong, who had meritorious service in the resistance war against the Luong invaders and was ordained by the Ly court. In 2000, the communal house was granted a certificate of recognition as a national historical and cultural relic by the Ministry of Culture and Information (now the Ministry of Culture, Sports and Tourism). Through the years of war, many items of the communal house were damaged. Meeting the spiritual aspirations of the local people, in 2010, the communal house was invested in restoration and embellishment with a cost of 11 billion VND from the State budget.
However, this is only one of a very few communal houses that receive investment in restoration and embellishment. In fact, in Ha Nam today, there are many historical and cultural relics that are seriously degraded. Ngo village communal house, Duc Ly commune, Ly Nhan district is an example. With a history of hundreds of years, the columns are now corroded, empty, and the roof tiles are warped and misaligned, all of which can fall down at any time. Ngo village communal house is not only a place for spiritual activities of the people, but it is also a meeting place for local organizations because there is still no cultural house here. Although it has been a nationally ranked historical relic since 2001, up to now this communal house has not been cared for and preserved in a manner worthy of its title and value.
Currently, the whole province has 1,780 historical relics. However, the work of preserving relics faces certain difficulties due to the limited state budget allocated for conservation work. To overcome this situation, many localities have proactively mobilized social resources, but due to the lack of professional supervision and construction staff in the management of monuments, some monuments do not ensure quality, even will be seriously harmed. Therefore, in order for the preservation of historical and cultural relics to be sustainable, the Culture Sector needs to soon develop a research plan, survey, and properly assess the current status of the relics, and on that basis, make a master plan. conservation for each monument. At the same time, effectively use the State's investment funds and people's contributions to gradually restore and embellish monuments, contributing to good conservation and promoting the value of monuments. Cultural history is associated with sustainable tourism development, well serving the task of local socio-economic development.
|
Giới thiệu khái quát huyện Kim Bảng
Điều kiện tự
nhiên
a) Vị trí địa lý
Huyện Kim Bảng nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hà Nam, cách Hà Nội khoảng 60 Km. Diện tích tự nhiên là 17.540 ha chiếm 20,38 % tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Hà Nam.
Vị trí địa lý:
Phía bắc giáp huyện Ứng Hoà, Thành phố Hà Nội.
Phía Tây giáp huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình.
Phía Đông giáp huyện Duy Tiên và Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Phía Nam giáp huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Toàn huyện có 16 xã và 02 thị trấn. Thị trấn Quế là trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá của huyện, cách thành phố Phủ Lý khoảng 6 Km về phía Đông Nam. Huyện Kim Bảng nằm gần Quốc lộ 1A, có các tuyến Quốc lộ 21A, 21B, 38 chạy qua. Đây là một vị trí thuận lợi trong giao lưu kinh tế – văn hoá – xã hội, thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước. Kim Bảng là một trong những địa bàn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Nam.
b) Đặc điểm địa hình
Kim Bảng nằm trong vùng tiếp xúc giữa vùng trũng đồng bằng sông Hồng và dải đá trầm tích ở phía Tây nên có địa hình đa dạng. Phía Bắc sông Đáy là đồng bằng thấp với các dạng địa hình ô trũng, phía Tây Nam sông Đáy là vùng đồi núi có địa hình cao, tập trung nhiều đá vôi, sét.
– Vùng tả ngạn sông Đáy: Tổng diện tích 8.266,97 ha (chiếm 44,29 % diện tích đất tự nhiên của huyện) gồm địa bàn 13 xã, thị trấn. Đây là vùng đồng bằng lớn nhưng địa hình thấp, nhiều ô trũng, độ cao trung bình +2m nơi thấp nhất +1,5m đến +1,7m.
– Vùng hữu ngạn sông Đáy: Diện tích 10.395,65 ha (chiếm 55,71 % tổng diện tích tự nhiên) bao gồm 6 xã và một thị trấn. Đây là vùng bán sơn địa có những cánh đồng lớn nhỏ khác nhau nằm ven sông Đáy và xen kẽ thung lũng đá vôi nhưng diện tích nhỏ. Do đặc điểm riêng, dải đồi núi kéo dài suốt phía Tây của huyện có nguồn gốc caxtơ nên đã tạo ra nhiều hang động, hồ đầm độc đáo có giá trị để phát triển du lịch.
c) Khí hậu, thủy văn
– Khí hậu: Khí hậu mang những đặc điểm của khí hậu đồng bằng sông Hồng: nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh và mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình năm là 24,35
0
C, nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1 là 15,5
0
C và cao nhất vào tháng 6 là 30,2
0
C. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.641 mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 81,5 %.
– Thuỷ văn: Huyện Kim Bảng có 02 con sông lớn chảy qua là sông Đáy và sông Nhuệ với mạng lưới kênh mương tương đối dày đặc.
+ Sông Đáy có lượng nước khá dồi dào là nguồn cung cấp nước chính cho các xã thuộc huyện qua các trạm bơm, cống ven sông. Chiều dài sông chạy qua huyện 22,3 km.
+ Sông Nhuệ là sông đào nối sông Hồng tại Hà Nội và hợp lưu với sông Đáy tại Phủ Lý, đoạn qua huyện Kim Bảng dài 4,8 km. Sông có tác dụng tiêu nước nội vùng đổ ra sông Đáy vào mùa mưa và tiếp nước cho sản xuất vào mùa khô.
Ngoài 2 sông chính, huyện còn có mạng lưới các sông ngòi kênh mương nhỏ với các ao, hồ, đầm là nguồn bổ sung và dự trữ rất quan trọng khi mực nước các sông chính xuống thấp, đặc biệt vào mùa khô hạn.
Nhìn chung mật độ sông ngòi của huyện khá dày và đều chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Do địa hình bằng phẳng, dộ dốc các sông nhỏ nên khả năng tiêu thoát nước chậm. Đặc biệt vào mùa lũ, mực nước các con sông chính lên cao cùng với mưa lớn tập trung thường gây gập úng cục bộ cho vùng ven núi và vùng có địa hình thấp trũng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của nhân dân trong huyện.
Tài nguyên thiên nhiên
a) Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất của huyện là 17.540 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 64,5%; đất phi nông nghiệp 31,3%; đất chưa sử dụng 4,2%. Vùng đồng bằng có đất phù sa được bồi, đất phù sa không được bồi và đất phù sa gley. Vùng đồi có đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất đỏ vàng trên đá phiến sét, đất nâu đỏ trên đá vôi. Đất vùng gò đồi còn nhiều tiềm năng để chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng.
b) Tài nguyên rừng
Rừng ở Kim Bảng có cây tự nhiên thưa, không tốt, mọc trên đồi núi đá. Những năm gần đây, nhân dân đã đầu tư trồng các loại cây ăn quả như nhãn, na…
c) Tài nguyên khoáng sản
Kim Bảng có tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú, cho phép khai thác và chế biến trên quy mô công nghiệp. Trữ lượng đá vôi lớn, tập trung ở các mỏ Hồng Sơn và Bút Phong, là nguồn nguyên liệu dồi dào cho sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng. Ngoài ra, ở Tân Sơn, Thanh Sơn còn có mỏ đôlômit; than bùn Ở Ba Sao với diện tích 2 km
2
nằm dưới lớp sét dày 0,5 – 1,5m, mỏ sét Trầm Tích trữ lượng hơn 30 triệu m
3
, nguồn nước khoáng lạnh và vàng cám…
Du lịch
Kim Bảng có nhiều tiềm năng để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, thám hiểm hang động, lễ hội… với tài nguyên du lịch tương đối độc đáo đa dạng, trong đó nổi bật là hệ thống hang động như Ngũ Động Sơn, Cô Đôi, động Thuỷ, động Bà Lê, hồ Tam Trúc, cụm du lịch Đền Trúc – Ngũ Động Thi Sơn và tuyến du lịch trên sông Đáy… Ngoài ra còn có chùa bà Đanh, núi Ngọc, đền thờ bà Lê Chân và đi tích lịch sử văn hóa Núi Cấm với nhiều huyền thoại hấp dẫn.
|
General introduction of Kim Bang district
Self condition
course
a) Geographical location
Kim Bang district is located in the northwest of Ha Nam province, about 60 km from Hanoi. The natural area is 17,540 hectares, accounting for 20.38% of the total natural area of Ha Nam province.
Geographical location:
The North borders Ung Hoa district, Hanoi City.
The West borders Lac Thuy district, Hoa Binh province.
The East borders Duy Tien district and Phu Ly City, Ha Nam province.
The South borders Thanh Liem district, Ha Nam province.
The whole district has 16 communes and 02 towns. Que town is the economic - political - cultural center of the district, about 6 km southeast of Phu Ly city. Kim Bang district is located near National Highway 1A, with National Highways 21A, 21B, and 38 running through. This is a favorable location in economic - cultural - social exchanges, attracting domestic and foreign investment capital. Kim Bang is one of the important areas in the socio-economic development strategy of Ha Nam province.
b) Terrain characteristics
Kim Bang is located in the contact area between the lowland area of the Red River Delta and the sedimentary rock strip to the west, so it has diverse terrain. The North of Day River is a low plain with sunken terrain, the Southwest of Day River is a mountainous area with high terrain, with a lot of limestone and clay.
– Left bank of Day River: Total area of 8,266.97 hectares (accounting for 44.29% of the natural land area of the district) including 13 communes and towns. This is a large plain but the terrain is low, with many sunken areas, the average elevation is +2m, the lowest place is +1.5m to +1.7m.
– Right bank of Day River: Area of 10,395.65 hectares (accounting for 55.71% of the total natural area) including 6 communes and one town. This is a semi-mountainous area with fields of different sizes located along the Day River and alternating limestone valleys but with a small area. Due to its unique characteristics, the range of hills and mountains extending throughout the west of the district is of karst origin, creating many unique caves and lakes that are valuable for tourism development.
c) Climate and hydrology
– Climate: The climate has the characteristics of the Red River Delta climate: tropical monsoon, cold winters and hot, humid summers with lots of rain. The annual average temperature is 24.35
0
C, the lowest average temperature in January is 15.5
0
C and the highest in June is 30.2
0
C. The average annual rainfall is 1,641 mm. Average annual air humidity is 81.5%.
– Hydrology: Kim Bang district has two large rivers flowing through it, Day River and Nhue River, with a relatively dense network of canals.
+ Day River has a fairly abundant amount of water and is the main source of water supply for communes in the district through pumping stations and riverside sewers. The length of the river running through the district is 22.3 km.
+ Nhue River is a canal connecting the Red River in Hanoi and confluences with the Day River at Phu Ly, the section through Kim Bang district is 4.8 km long. The river has the effect of draining water within the region into the Day River in the rainy season and providing water for production in the dry season.
In addition to the two main rivers, the district also has a network of small rivers and canals with ponds, lakes, and lagoons that are very important additional and reserve sources when the water level of the main rivers is low, especially in the dry season.
In general, the density of rivers in the district is quite thick and flows in the Northwest - Southeast direction. Due to the flat terrain and steep slopes of small rivers, water drainage is slow. Especially in the flood season, the water levels of the main rivers rise with concentrated heavy rains, often causing local flooding in mountainous areas and low-lying areas, directly affecting agricultural production and life. daily life of the people in the district.
Natural resources
a) Land resources
The total land area of the district is 17,540 hectares, of which agricultural land accounts for 64.5%; Non-agricultural land 31.3%; unused land 4.2%. The delta has alluvial soils that are alluvial, alluvial soils that are not alluvial, and gley alluvial soils. The hilly area has yellow-brown soil on ancient alluvium, yellow-red soil on shale, and red-brown soil on limestone. Hilly land still has a lot of potential to transform agricultural structure and develop the construction materials industry.
b) Forest resources
The forest in Kim Bang has naturally sparse, unhealthy trees growing on rocky hills and mountains. In recent years, people have invested in planting fruit trees such as longan, custard apple...
c) Mineral resources
Kim Bang has relatively rich mineral resources, allowing exploitation and processing on an industrial scale. Large reserves of limestone, concentrated in Hong Son and But Phong mines, are a rich source of raw materials for the production of cement and construction materials. In addition, in Tan Son and Thanh Son there is also a dolomite mine; peat in Ba Sao with an area of 2 km
2
Located under a clay layer 0.5 - 1.5m thick, Tram Tich clay mine has a reserve of more than 30 million cubic meters
3
, cold mineral water and gold bran...
Tourism
Kim Bang has a lot of potential to develop various types of eco-tourism, cave exploration, festivals... with relatively unique and diverse tourism resources, notably cave systems such as Ngu Dong Son. , Co Doi, Thuy cave, Ba Le cave, Tam Truc lake, Truc Temple - Ngu Dong Thi Son tourist cluster and tourist route on Day river... There are also Ba Danh pagoda, Ngoc mountain, Ms. Le Chan temple and Explore the cultural history of Cam Mountain with many fascinating legends.
|
Giới thiệu khái quát thành phố Phủ Lý
1. Vị trí địa lý
Thành phố Phủ Lý
có 8.787,30 ha diện tích tự nhiên
. Phủ Lý nằm trên quốc lộ 1A có tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua, là nơi gặp gỡ của 3 con sông: Sông Đáy, Sông Châu và Sông Nhuệ rất thuận lợi về giao thông thủy bộ.
.
Địa giới hành chính thành phố Phủ Lý:
. Phía Đông giáp huyện Bình Lục;
. Phía Tây giáp huyện Kim Bảng;
. Phía Nam giáp huyện Thanh Liêm;
. Phía Bắc giáp huyện Duy Tiên.
2. Khí hậu
Phủ Lý nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng và ven núi nên địa hình của Thành phố chia làm nhiều khu vực hai bên bờ các con sông, Phủ Lý nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa:
3.Diện tích tự nhiên
:
Thành phố Phủ Lý có 8.787,30 ha diện tích tự nhiên
4. Dân số:
Thành phố Phủ Lý có 136.654 nhân khẩu
Trên địa bàn Thành phố Phủ Lý có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo.
5. Hành chính
Thành phố Phủ Lý có 21 đơn vị hành chính gồm 11phường và 10 xã
·
11 phường: Minh Khai, Hai Bà Trưng, Lương Khánh Thiện, Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, Quang Trung, Thanh Châu, Liêm Chính, Châu Sơn, Lam Hạ, Thanh Tuyền
·
10 xã: Liêm Chung, Phù Vân, Tiên Tân, Tiên Hiệp, Tiên Hải, Đinh Xá, Trịnh Xá, Liêm Tuyền, Liêm Tiết, Kim Bình.
2
d
i tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia
Đình Trần Xá thuộc xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, xây dựng vào thời Hậu Lê, trùng tu lớn vào năm thứ 14 niên hiệu Gia Long (1815), thờ Đức Thánh Trần cùng các vị thần: Đông Bảng Đại Vương, Tây Hải Đại Vương và Thiếu Bảo Bàn Quận Công có công dạy bảo dân làng cung cách làm ăn. Đình là một công trình kiến trúc quy mô lớn, mặt bằng hình chữ đinh, tiền đường ba gian hai trái, hậu cung hai gian.
Đình Hội Động thuộc xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, xây dựng vào thời Hậu Lê, thờ 14 vị thần, đặc biệt là thờ ông Phạm Hữu Tài và vợ là bà Đặng Thị Vinh có công đem tiền của mua ruộng, ao, tu sửa đình, miếu tại làng. Kiến trúc đình quy mô lớn, mặt bằng hình chữ tam, tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian, hậu cung 3 gian.
* 8
d
i tích xếp hạng cấp tỉnh
Đình Trại Hạ, thôn Trại Hạ, xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm.
Đình làng Yên Lạc, xã Đồng Hóa, huyện Kim Bảng.
Đền, chùa Phương Lâm, thôn Phương Lâm, xã Đồng Hóa, huyện Kim Bảng.
Đình Tập Thượng, thôn Tập Thượng, xã La Sơn, huyện Bình Lục.
Địa điểm ghi dấu sự hy sinh của các cụ già và thanh niên thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng 3 năm 1952.
Đình, chùa Nghè, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm.
Đình Trà Trữ, xã Tiến Thắng, huyện Lý Nhân.
Từ đường họ Lại – địa điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi họ Lại trong phong trào tòng quân năm 1950, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý./.
|
General introduction to Phu Ly city
1. Geographical location
Phu Ly city
has 8,787.30 hectares of natural area
. Phu Ly is located on National Highway 1A with the North-South railway passing through, and is the meeting place of three rivers: Day River, Chau River and Nhue River, very convenient for waterway transportation.
.
Administrative boundaries of Phu Ly city:
. The East borders Binh Luc district;
. The West borders Kim Bang district;
. The South borders Thanh Liem district;
. The North borders Duy Tien district.
2. Climate
Phu Ly is located in the Red River Delta and along the mountains, so the City's terrain is divided into many areas on both sides of the rivers. Phu Ly is located in the tropical monsoon region:
3.Natural area
:
Phu Ly city has 8,787.30 hectares of natural area
4. Population:
Phu Ly city has 136,654 people
In Phu Ly City, there are two main religions: Buddhism and Christianity.
5. Administration
Phu Ly city has 21 administrative units including 11 wards and 10 communes
·
11 wards: Minh Khai, Hai Ba Trung, Luong Khanh Thien, Tran Hung Dao, Le Hong Phong, Quang Trung, Thanh Chau, Liem Chinh, Chau Son, Lam Ha, Thanh Tuyen
·
10 communes: Liem Chung, Phu Van, Tien Tan, Tien Hiep, Tien Hai, Dinh Xa, Trinh Xa, Liem Tuyen, Liem Tiet, Kim Binh.
2
d
National historical and cultural analysis
Tran Xa communal house is located in Nguyen Ly commune, Ly Nhan district, built in the Later Le dynasty, majorly restored in the 14th year of Gia Long's reign (1815), worshiping Saint Tran and the gods: Dong Bang Dai Vuong, Tay Hai. Dai Vuong and Cong Thieu Bao Ban were instrumental in teaching the villagers how to do business. The communal house is a large-scale architectural work, with a nail-shaped floor plan, three rooms and two left rooms, and two rooms in the back palace.
Hoi Dong communal house is located in Duc Ly commune, Ly Nhan district, built in the Later Le dynasty, worshiping 14 gods, especially worshiping Mr. Pham Huu Tai and his wife, Ms. Dang Thi Vinh, who contributed money to buy fields, ponds, and gardens. Repair communal houses and temples in the village. Large-scale communal house architecture, triangular plan, 5-compartment front hall, 3-compartment middle hall, 3-compartment backroom.
* 8
d
i cumulative ranking at provincial level
Trai Ha communal house, Trai Ha village, Liem Can commune, Thanh Liem district.
Yen Lac village communal house, Dong Hoa commune, Kim Bang district.
Phuong Lam temple and pagoda, Phuong Lam village, Dong Hoa commune, Kim Bang district.
Tap Thuong communal house, Tap Thuong village, La Son commune, Binh Luc district.
The place marks the sacrifices of the elderly and young people of Duc Ban village, Nhan Nghia commune, Ly Nhan district during the resistance war against the French colonialists, March 1952.
Communal house, Nghe pagoda, Liem Son commune, Thanh Liem district.
Tra Tru communal house, Tien Thang commune, Ly Nhan district.
From the Lai family street - the place where President Ho Chi Minh sent a letter praising the Lai family during the military service movement in 1950, Phu Van commune, Phu Ly city./.
|
Giới thiệu khái quát huyện Cẩm Xuyên
Cẩm Xuyên, cách Thành phố
Hà tĩnh
10 km về phía Nam trên tuyến đường Quốc Lộ 1A. Với tổng diện tích tự nhiên là 635,5 km2; dân số toàn huyện trên 153 ngàn người; Là huyện có nhiều tiềm năng, thế mạnh về phát triển công nghiệp, Thương mại – du lịch và dịch vụ.
Một góc của Huyện Cẩm Xuyên
Đặc biệt, Cẩm xuyên nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt, điểm đầu của con đường di sản miền Trung, cửa ngõ quan trọng của không gian du lịch hành lang Đông Tây, là cầu nối giữa khu công nghiệp mỏ sắt Thạch Khê và khu kinh tế Vũng Áng. Địa bàn huyện hình thành 3 vùng kinh tế là vùng đồi núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. Bên cạnh đó, Cẩm Xuyên còn là quê hương của nhiều Danh nhân, nhân vật lịch sử gắn chặt với các di tích lịch sử văn hoá như : Đền thờ Vua Hồ Quý Ly, Đền thờ Đại tướng Hoàng Minh, miếu Thượng Tướng Nguyễn Biên, khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập và nhiều lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra Cẩm Xuyên còn được biết đến với nhiều danh lam thắng cảnh như : Khu du lịch Thiên Cầm đang được xây dựng thành khu du lịch trọng điểm Quốc gia, khu du lịch sinh thái Hồ Kẻ Gỗ; và với nhiều nguồn tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng như quặng Titan, đá , cát xây dựng.v.v…
Trên lĩnh vực Văn hoá- giáo dục, y tế huyện Cẩm Xuyên luôn nằm trong tốp dẫn đầu của Tĩnh, 24/27 xã có trạm y tế đạt 10 chuẩn quốc gia, đến nay có 48/61 trường đạt chuẩn Quốc gia, hàng năm có hàng trăm tay nghề lao động được đào tạo, đó chính là một trong những điều kiện cho sự phát triển bền vững nền KTXH của huyện nhà.
Khu du lịch sinh thái Hồ Kẻ Gỗ
Trong những năm thực hiện đổi mới do Đảng ta khởi xướng; Đảng bộ và nhân dân huyện nhà đã phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, tự lực tự cường, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp phát triển phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn, qua đó phát huy những tiềm năng, lợi thế của địa phương, tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp các ngành vượt qua nhiều khó khăn để đạt được những thành tích đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế xã hội hôm nay.
Cùng với sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế đất nước, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên, Cẩm xuyên sẽ tiếp tục chuyển dịch nhanh, mạnh, vững chắc. Cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, ưu tiên phát triển Thương mại- du lịch, dịch vụ. Có chính sách mời gọi và thu hút đầu tư trên tất cả các lĩnh vực : Kinh tế, xã hội và thu hút nhân tài về địa phương; không ngừng nỗ lực vươn lên, xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, góp phần cùng thành công của đất nước nói chung và tỉnh Hà tĩnh nói riêng.
Với nguồn nhân lực về lĩnh vực công nghệ thông tin trên địa bàn hết sức dồi dào, cùng với lợi thế hết sức to lớn về nguồn tài nguyên – khoáng sản, các sản vật, sản phẩm truyền thống ; tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng; cùng với việc xây dựng cụm CN-TTCN bắc Cẩm Xuyên. Dự báo trong những năm tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện sẽ tăng lên đáng kể nhờ sự thu hút các nhà đầu tư vào địa bàn và khách du lịch đến với Cẩm Xuyên ngày một nhiều hơn.
|
General introduction of Cam Xuyen district
Cam Xuyen, away from the City
Ha Tinh
10 km south on National Highway 1A. With a total natural area of 635.5 km2; The district's population is over 153 thousand people; It is a district with great potential and strengths in industrial development, trade - tourism and services.
A corner of Cam Xuyen District
In particular, Cam Xuyen is located on the trans-Vietnam tourist route, the starting point of the Central Heritage Road, an important gateway to the East-West corridor tourism space, and is a bridge between Thach Khe iron mine industrial park and Thach Khe iron mine industrial park. Vung Ang economy. The district is formed into three economic regions: mountainous areas, plains and coastal areas. Besides, Cam Xuyen is also the hometown of many famous people and historical figures closely associated with historical and cultural relics such as: Temple of King Ho Quy Ly, Temple of General Hoang Minh, Temple of General Nguyen Bien. , a memorial area for the late General Secretary Ha Huy Tap and many traditional festivals imbued with national identity. In addition, Cam Xuyen is also known for many scenic spots such as: Thien Cam tourist area is being built into a national key tourist area, Ho Ke Go eco-tourism area; and with many invaluable resources that nature bestows such as Titan ore, stone, construction sand, etc.
In the field of culture, education, and health, Cam Xuyen district is always in the top of Tinh, 24/27 communes have health stations that meet 10 national standards, up to now there are 48/61 schools that meet national standards, top Every year, hundreds of skilled workers are trained, which is one of the conditions for the sustainable development of the district's socio-economy.
Ke Go Lake eco-tourism area
During the years of implementing reforms initiated by our Party; The Party Committee and people of the district have promoted the spirit of solidarity, creativity, and self-reliance, synchronously implementing many development solutions suitable to practical conditions and situations, thereby promoting potentials. , local advantages, enlisting the help of all levels and sectors to overcome many difficulties to achieve remarkable achievements in socio-economic development today.
Along with the outstanding growth of the country's economy and the people's material and spiritual lives are increasingly improved, Cam Xuyen will continue to transform quickly, strongly and firmly. The economic structure is oriented towards gradually increasing the proportion of industry, giving priority to the development of trade, tourism and services. Have policies to invite and attract investment in all fields: Economy, society and attract talent to the locality; constantly strive to improve and build an increasingly prosperous homeland, contributing to the success of the country in general and Ha Tinh province in particular.
With extremely abundant human resources in the field of information technology in the area, along with enormous advantages in natural resources - minerals, products and traditional products; rich and diverse tourism potential; along with the construction of the industrial and handicraft cluster in northern Cam Xuyen. It is forecasted that in the coming years, the economic growth rate of the district will increase significantly thanks to the attraction of investors to the area and more and more tourists to Cam Xuyen.
|
Giới thiệu khái quát huyện Nghi Xuân
Nghi Xuân
là một huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía đông bắc tỉnh Hà Tĩnh.
Huyện Nghi Xuân nằm cách thành phố Hà Tĩnh 47km, cách thị xã Hồng Lĩnh 15km về phía nam, phía bắc giáp với thành phố Vinh (Nghệ An), phía đông giáp biển Đông; đây là vùng đất “Địa linh nhân kiệt” hội tụ đầy đủ tinh hoa của núi Hồng, sông Lam. Với nhiều danh nhân, di tích danh thắng nổi tiếng và nhiều loại hình văn hóa vật thể, phi vật thể. Là mảnh đất tam hợp hội đủ núi đồi, đồng bằng, sông biển; từ Nghi Xuân đến cảng hàng không Vinh chưa đầy 20 km, đi cửa khẩu Cầu Treo biên giới Việt Lào 110 km theo đường quốc lộ 8, đi khu kinh tế Vũng Áng (Kỳ Anh) 115 km. Với vị trí địa lý rất thuận lợi cho giao thương với các tỉnh, các trung tâm kinh tế, xã hội trong và ngoài nước.
Huyện Nghi Xuân là một huyện ven biển, hữu ngạn sông Lam phía đông bắc của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Diện tích: 218
km²
Dân số: 99.657 (2016). Phía tây nam giáp thị xã Hồng Lĩnh, phía nam giáp huyện Can Lộc và huyện Lộc Hà, phía bắc giáp Thị xã Cửa Lò, huyện Nghi Lộc (tỉnh Nghệ An), phía tây bắc giáp huyện Hưng Nguyên và thành phố Vinh, phía đông giáp biển Đông. Huyện cách thủ đô Hà Nội 310 km về phía nam.
Huyện Nghi Xuân hiện nay 17 xã và 2 thị trấn ( thị trấn Xuân An và thị trấn Nghi Xuân) và các xã bao gồm Xuân Hội, Xuân Trường, Xuân Đan, Xuân Phổ, Xuân Hải, Xuân Yên, Tiên Điền, Xuân Giang, Xuân Mỹ, Xuân Thành, Xuân Hồng, Xuân Viên, Xuân Lam, Xuân Lĩnh, Xuân Liên, Cổ Đạm, Cương Gián.
Từ thời nhà Đường đến nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê: Nghi Xuân thuộc đất Hoan Châu. Thời nhà Lý, nhà Trần: Nghi Xuân thuộc Nghệ An châu, Nghệ An trại. Thời nhà Hậu Lê, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An (rồi trấn Nghệ An). Thời nhà Nguyễn, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1932 đến năm 1976, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991 đến nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh
Truyền thống văn hóa: Nghi Xuân khi xưa thuộc phủ Đức Quang (gồm cả Hương Sơn, Can Lộc, Đức Thọ, Thanh Chương, Nghi Lộc) được xem là vùng đất học của trấn Nghệ An. Trong thời kỳ phong kiến, Nghi Xuân có 21 vị đỗ đại khoa (Tiến sĩ) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Nguyễn Tiên Điền, Ngụy Khắc, Trần, Phan, Uông, Đậu… và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Tiên Điền, Uy Viễn, Cương Gián, Cổ Đạm, Tả Ao, Phan Xá…
Nhiều người thành đạt xuất thân từ Nghi Xuân, như Danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào Nguyễn Du; đại doanh điền, nhà thơ Nguyễn Công Trứ; nhà địa lý Tả Ao nổi tiếng đời Hậu Lê; Danh tướng Nguyễn Xí; Thiêm đô Ngự sử Phạm Ngữ (1434-?); Danh nho Đặng Thái Phương; Hoàng giáp Phan Chính Nghị; Tể tướng Nguyễn Nghiễm; “An Nam ngũ tuyệt”, nhà thơ Nguyễn Hành; Tiến sĩ, Toản Quận công Nguyễn Khản; Tổng đốc, Thượng thư Ngụy Khắc Tuần; quê gốc của La sơn phu tử Nguyễn Thiếp (quân sư của hoàng đế Quang Trung), Bảng nhãn Trần Bảo Tín, Thám hoa Nguyễn Bật Lạng, Thám hoa Ngụy Khắc Đản; nhà sử học Trần Trọng Kim (thủ tướng đầu tiên của Chính phủ Việt Nam);…
|
General introduction of Nghi Xuan district
Nghi Xuan
is a coastal plain district located in the northeast of Ha Tinh province.
Nghi Xuan district is located 47km from Ha Tinh city, 15km south of Hong Linh town, to the north it borders Vinh city (Nghe An), to the east it borders the East Sea; This is the land of "The Land of Masterpieces" that fully converges the quintessence of Red Mountain and Lam River. With many famous people, famous landscapes and many types of tangible and intangible culture. It is a land that combines mountains, hills, plains, rivers and seas; From Nghi Xuan to Vinh airport is less than 20 km, 110 km to Cau Treo border gate at Vietnam-Laos border along National Highway 8, 115 km to Vung Ang economic zone (Ky Anh). With a very convenient geographical location for trade with provinces, economic and social centers at home and abroad.
Nghi Xuan district is a coastal district on the right bank of Lam River in the northeast of Ha Tinh province, Vietnam. Area: 218
km²
Population: 99,657 (2016). The southwest borders Hong Linh town, the south borders Can Loc district and Loc Ha district, the north borders Cua Lo town, Nghi Loc district (Nghe An province), the northwest borders Hung Nguyen district and Vinh city, East borders the East Sea. The district is 310 km south of Hanoi capital.
Nghi Xuan district currently has 17 communes and 2 towns (Xuan An town and Nghi Xuan town) and communes include Xuan Hoi, Xuan Truong, Xuan Dan, Xuan Pho, Xuan Hai, Xuan Yen, Tien Dien, Xuan Giang , Xuan My, Xuan Thanh, Xuan Hong, Xuan Vien, Xuan Lam, Xuan Linh, Xuan Lien, Co Dam, Cuong Gian.
From the Tang Dynasty to the Ngo, Dinh, and Early Le dynasties: Nghi Xuan belonged to Hoan Chau. During the Ly and Tran dynasties: Nghi Xuan belonged to Nghe An Chau, Nghe An Trai. During the Later Le Dynasty, Nghi Xuan district belonged to Duc Quang district, Nghe An (then Nghe An town). During the Nguyen Dynasty, Nghi Xuan district belonged to Duc Tho district, Ha Tinh province. From 1932 to 1976, Nghi Xuan district belonged to Ha Tinh province. From 1976 to 1991, Nghi Xuan district belonged to Nghe Tinh province. From 1991 to present, it belongs to Ha Tinh province
Cultural tradition: Nghi Xuan in the past belonged to Duc Quang district (including Huong Son, Can Loc, Duc Tho, Thanh Chuong, Nghi Loc) and was considered the learning land of Nghe An town. During the feudal period, Nghi Xuan had 21 graduates (PhD) with famous academic families such as: Nguyen Tien Dien, Wei Khac, Tran, Phan, Uong, Dau... and villages rich in cultural traditions. such as: Tien Dien, Uy Vien, Cuong Gian, Co Dam, Ta Ao, Phan Xa...
Many successful people come from Nghi Xuan, such as world cultural celebrity, great poet Nguyen Du; great businessman, poet Nguyen Cong Tru; famous geographer Ta Ao of the Later Le Dynasty; Famous general Nguyen Xi; Thiem capital Ngu su Pham Ngu (1434-?); Famous grape Dang Thai Phuong; Hoang borders Phan Chinh Nghi; Prime Minister Nguyen Nghiem; "The Five Wonders of An Nam", poet Nguyen Hanh; Doctor, Duke Toan Nguyen Khan; Governor General, Minister Wei Khac Tuan; The original hometown of Prince Nguyen Thiep of La Son (the military advisor of Emperor Quang Trung), Tran Bao Tin, Tham hoa Nguyen Bat Lang, Tham Hoa Wei Khac Dan; Historian Tran Trong Kim (first Prime Minister of the Government of Vietnam);…
|
Giới thiệu khái quát huyện Vũ Quang
Huyện Vũ Quang được thành lập theo Nghị định 27/2000-NĐ/CP ngày 04/8/2000 của Chính phủ là huyện miền núi biên giới nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hà Tĩnh; Có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Đức Thọ, phía Nam giáp huyện Hương Khê, phía Bắc giáp huyện Hương Sơn và phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Với diện tích tự nhiên 64.615 km2, có 43 km đường biên giới chung với nước bạn Lào, 22 km đường Hồ Chí Minh đi qua địa bàn, có 12 xã, thị trấn gồm 79 thôn xóm, 32.143 nhân khẩu, dân cư sống không tập trung. Nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
Huyện cách thành phố Hà Tĩnh 70 km về phía Tây, có 42 km đường biên giới tiếp giáp với Lào. Huyện có Vườn quốc gia Vũ Quang. Huyện Vũ Quang có * 64.615 ha diện tích tự nhiên, * 29.870 nhân khẩu,
12 đơn vị hành chính trực thuộc là Thị trấn Vũ Quang (Phần lớn là xã Hương Đại trước đây) và các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú, Hương Thọ, Hương Minh,Hương Điền, Hương Quang và Sơn Thọ.
1. Văn hóa và lịch sử
Năm 2000, huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở tách 6 xã thuộc huyện Đức Thọ (gồm Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú), 5 xã thuộc huyện Hương Khê (gồm Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang) và 1 xã thuộc huyện Hương Sơn: xã Sơn Thọ.
Các di tích văn hóa ở Ân Phú: Ân Phú là mảnh đất có nhiều di tích văn hoá về thờ cúng các vị thần linh, trong đó được các vua nhà Nguyễn phong sắc. Trong các vị thần nhân dân Ân Phú thờ phụng có 5 vị là người thực trong lịch sử đời nhà Trần, nhà Lê – gọi là nhân thần. Một là Lê Triều Hoàng Hậu, người họ Ngô [1] đầu đời nhà Lê (7 sắc), hai là Trần triều Trạng nguyên Kim Tử Vinh Lộc đại phu (2 sắc)[2], ba là tiền Lê đô chỉ huy sử Lê Ngọc Xán (1 sắc), bốn là Kim Quy Sơn Tiền Trần Trạng nguyên[3], và năm là Tiền Lê Quốc tử giám giám sinh Lê tiên sinh đại lang. Hiện nay trên đất Ân Phú còn có 2 di sản văn hoá thờ cúng các vị thần hộ quốc giúp dân đã được các triều vua ban tặng đó là Đền Nhà Bà, hay gọi là Đền Vại, và Điện xóm Dênh dưới chân núi Mồng Gà. Còn các di danh những đền khác thờ các vị nhiên thần hộ quốc giúp dân hiển ứng trên núi Mồng Gà, đã được các vua nhà Nguyễn ban sắc tặng, các sắc này hiện đang lưu giữ tại Chùa Am (Đức Hoà-Đức Thọ), bao gồm 19 sắc phong. Mộ và gia phổ của cha con trạng Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy đang ở trên Ân Phú và do hậu duệ của các ông bảo quản và thờ tự.
Ngoài ra ở Vũ Quang còn có các di tích và danh thắng:
* Căn cứ địa Vũ Quang.
* Vườn Quốc gia Vũ Quang
* Đền Thượng Trụ ở xã Đức Liên.
* Đền Nhà Bà hay còn gọi là Đền Vại, nơi thờ Lê Triều Hoàng Hậu Ngô Thị Quận Quân tại Ân Phú (*)
2. Nhân vật nổi tiếng
* Bốn trạng nguyên là : Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy, Trần Thành Đốn, Trần Tiết Việt đang thờ ở xã Ân Phú,
* Binh bộ thượng thư Cù Ngọc Xán: Ông quê xã Ân Phú. Ông là Binh bộ thượng thư đời nhà Lê, là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp, Nhà Lê ban quốc tính họ Lê, đời Khải Định có sắc phong thần hiệu là “Tiền Lê Đô chỉ huy sứ Lê Ngọc Xán”
* Nhà thơ Huy Cận: Tên thật là Cù Huy Cận (Sinh 31/5/1919, mất 19/2/2005), quê xã Ân Phú, dòng dõi Binh bộ thượng thư Cù Ngọc Xán. Ông là Nhà thơ nổi tiếng, Nhà hoạt động Văn hóa xuất sắc. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Canh nông đầu tiên của Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách văn hóa nghệ thuật, Chủ tịch ủy ban toàn quốc Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, nguyên Đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Ông là Nhà thơ Việt Nam đầu tiên vinh dự được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Thơ thế giới (được bầu năm 2001). Ông được Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1), Huân Chương Sao Vàng và nhiều Huân chương cao quý khác…
* Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chính phủ Việt Nam nhiệm kỳ 2011-2016, Nguyễn Minh Quang: người xã Đức Lĩnh.
3. Tài nguyên thiên nhiên
Những nguồn tài nguyên đặc thù của Vũ Quang đó là tài nguyên rừng và khoáng sản.
* Tài nguyên rừng của Vũ Quang hết sức đa dạng và phong phú, tập trung chủ yếu ở Vườn Quốc gia Vũ Quang.Vườn Quốc gia Vũ Quang tiền thân là Lâm trường Vũ Quang, sau đó đổi thành Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang, rồi Vườn Quốc gia Vũ Quang (30/07/2002). Hiện Vườn Quốc gia Vũ Quang có khoảng 76% diện tích rừng là rừng tự nhiên bao gồm 2 kiểu rừng chính: – Rừng kín thường xanh á nhiệt đới (phân bố trên độ cao 1000m): Loại rừng này chiếm khoảng 20%diện tích Vườn, nổi bật với 2 loài ưu thế là Pơ Mu Fokiania hodginsii và Hoàng Đàn Cupressus torulosa. – Rừng xanh kín nhiệt đới( Phân bố ở độ cao dưới 1000m) có trữ lượng cao, nhiều cây gỗ lớn. Hiện đã thống kê gần 500 loài thực vật bậc cao với nhiều loài quý hiếm như: Lát hoa, Cẩm lai, Lim, Dổi, Pơ mu, Hoàng đàn, Trầm hương… và nhiều loài dược liệu quý. Động vật rừng rất đa dạng,trong đó có nhiều loài quý hiếm như: hổ, voi (Elephas maximus), Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) , bò tót, voọc, chà vá… Tuy nhiên do lịch sử lâu đời, nhân dân trong vùng chủ yếu sống dựa vào rừng, vì vậy hiện nay tình trạng khai thác gỗ, săn bắt thú rừng ở đây vẫn diễn ra phổ biến.Bên cạnh đó, sự thờ ơ và lỏng lẻo trong quản lý của các cơ quan chức năng đang dần đẩy nguồn tài nguyên rừng ở đây đi vào cạn kiệt.
* Những tài nguyên khoáng sản nổi bật của huyện là quặng sắt và vật liệu xây dựng. Hiện tại,quặng sắt tại xã Sơn Thọ đang được tiến hành khai thác. Những nguồn vật liệu xây dựng của huyện nổi bật là cát sỏi dọc bờ sông Ngàn Trươi, đã được nhân dân trong vùng khai thác từ lâu đời. Trong công cuộc xây dựng huyện mới, những nguồn tài nguyên này đã đóng góp rất lớn cho việc xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở của huyện, tiêu biểu là đường Hồ Chí Minh, đoạn đi qua huyện…
4. Lễ hội truyền thống
* Ngày giổ Bà Lê Triều Hoàng Hậu Ngô Thị Quận Quân được tổ chức vào ngày 12/2 âm lịch hàng năm tại Ân Phú
* Ngày tế thần kì an (cầu an) gọi là ngày lục ngoạt tổ chức tại điện Cơn Dênh, tế 12 vị thần để cầu an cho nhân dân Ân Phú tổ chứng vào ngày 15/6 âm lịch hàng năm.
5. Làng nghề
* Làng gốm Cẩm Trang thuộc xã Đức Giang, huyện Vũ Quang.
* Làng gốm Hợp Phát, thuộc xã Đức Giang, huyện Vũ Quang (Làng làm nghề gạch là chủ yếu), hiện nay do bị cạnh tranh nên sản phẩm không tiêu thụ được, dân trong làng nhiều người đã đi làm ăn xa.
Trước đây thợ gốm chủ yếu nung các loại sành nhỏ như: bình, vò, chậu liển, be, hũ, vại….dùng trong gia đình. Ngày nay Cẩm Trang đã nung gạch, ngói được quý khách hàng ưa chuộng. Nhưng do thiếu điều kiện như: giao thông, kỉ thuật mới hiện đại, thị trường….Nên nghề gốm cổ truyền ở Cẩm Trang (Có cả thôn Hợp Phát) nay đã mất mà chỉ có nghề nung gạch các loại.
Huyện Vũ Quang được chính thức thành lập theo Nghị định số 27/2000/NĐ-CP ngày 04 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ.
Toàn bộ địa giới hành chính huyện Vũ Quang được hình thành trên cơ sở điều chỉnh địa giới các huyện Đức Thọ, Hương Khê và Hương Sơn, cụ thể như sau: Huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú (thuộc huyện Đức Thọ), Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Vũ Quang (thuộc huyện Hương Khê) và xã Sơn Thọ (thuộc huyện Hương Sơn).
Huyện Vũ Quang có 64.615ha diện tích tự nhiên và khi mới thành lập có 35.877 nhân khẩu (hiện nay còn khoảng 29.870 nhân khẩu) gồm 12 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú, Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại (nay là TT Vũ Quang), Hương Điền, Vũ Quang (nay là Hương Quang) và Sơn Thọ.
Về mặt địa giới hành chính huyện Vũ Quang: Phía Đông giáp huyện Đức Thọ; Phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; Phía Nam giáp huyện Hương Khê; Phía Bắc giáp huyện Hương Sơn.
Từ khi thành lập đến nay đã hơn 10 năm. Trong suốt thời gian qua, mặc dầu những ngày đầu mới thành lập đang còn gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt nhưng nhờ được sự quan tâm của Đảng và các cấp chính quyền từ Trung Ương đến tỉnh đồng thời với sự nổ lực phấn đấu hết mình của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà nên giờ đây huyện Vũ Quang đã từng bước phát triển vững chắc.
|
Giới thiệu khái quát huyện Vũ Quang
Huyện Vũ Quang được thành lập theo Nghị định 27/2000-NĐ/CP ngày 04/8/2000 của Chính phủ là huyện miền núi biên giới nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hà Tĩnh; Có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Đức Thọ, phía Nam giáp huyện Hương Khê, phía Bắc giáp huyện Hương Sơn và phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Với diện tích tự nhiên 64.615 km2, có 43 km đường biên giới chung với nước bạn Lào, 22 km đường Hồ Chí Minh đi qua địa bàn, có 12 xã, thị trấn gồm 79 thôn xóm, 32.143 nhân khẩu, dân cư sống không tập trung. Nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
Huyện cách thành phố Hà Tĩnh 70 km về phía Tây, có 42 km đường biên giới tiếp giáp với Lào. Huyện có Vườn quốc gia Vũ Quang. Huyện Vũ Quang có * 64.615 ha diện tích tự nhiên, * 29.870 nhân khẩu,
12 đơn vị hành chính trực thuộc là Thị trấn Vũ Quang (Phần lớn là xã Hương Đại trước đây) và các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú, Hương Thọ, Hương Minh,Hương Điền, Hương Quang và Sơn Thọ.
1. Văn hóa và lịch sử
Năm 2000, huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở tách 6 xã thuộc huyện Đức Thọ (gồm Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú), 5 xã thuộc huyện Hương Khê (gồm Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang) và 1 xã thuộc huyện Hương Sơn: xã Sơn Thọ.
Các di tích văn hóa ở Ân Phú: Ân Phú là mảnh đất có nhiều di tích văn hoá về thờ cúng các vị thần linh, trong đó được các vua nhà Nguyễn phong sắc. Trong các vị thần nhân dân Ân Phú thờ phụng có 5 vị là người thực trong lịch sử đời nhà Trần, nhà Lê – gọi là nhân thần. Một là Lê Triều Hoàng Hậu, người họ Ngô [1] đầu đời nhà Lê (7 sắc), hai là Trần triều Trạng nguyên Kim Tử Vinh Lộc đại phu (2 sắc)[2], ba là tiền Lê đô chỉ huy sử Lê Ngọc Xán (1 sắc), bốn là Kim Quy Sơn Tiền Trần Trạng nguyên[3], và năm là Tiền Lê Quốc tử giám giám sinh Lê tiên sinh đại lang. Hiện nay trên đất Ân Phú còn có 2 di sản văn hoá thờ cúng các vị thần hộ quốc giúp dân đã được các triều vua ban tặng đó là Đền Nhà Bà, hay gọi là Đền Vại, và Điện xóm Dênh dưới chân núi Mồng Gà. Còn các di danh những đền khác thờ các vị nhiên thần hộ quốc giúp dân hiển ứng trên núi Mồng Gà, đã được các vua nhà Nguyễn ban sắc tặng, các sắc này hiện đang lưu giữ tại Chùa Am (Đức Hoà-Đức Thọ), bao gồm 19 sắc phong. Mộ và gia phổ của cha con trạng Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy đang ở trên Ân Phú và do hậu duệ của các ông bảo quản và thờ tự.
Ngoài ra ở Vũ Quang còn có các di tích và danh thắng:
* Căn cứ địa Vũ Quang.
* Vườn Quốc gia Vũ Quang
* Đền Thượng Trụ ở xã Đức Liên.
* Đền Nhà Bà hay còn gọi là Đền Vại, nơi thờ Lê Triều Hoàng Hậu Ngô Thị Quận Quân tại Ân Phú (*)
2. Nhân vật nổi tiếng
* Bốn trạng nguyên là : Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy, Trần Thành Đốn, Trần Tiết Việt đang thờ ở xã Ân Phú,
* Binh bộ thượng thư Cù Ngọc Xán: Ông quê xã Ân Phú. Ông là Binh bộ thượng thư đời nhà Lê, là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp, Nhà Lê ban quốc tính họ Lê, đời Khải Định có sắc phong thần hiệu là “Tiền Lê Đô chỉ huy sứ Lê Ngọc Xán”
* Nhà thơ Huy Cận: Tên thật là Cù Huy Cận (Sinh 31/5/1919, mất 19/2/2005), quê xã Ân Phú, dòng dõi Binh bộ thượng thư Cù Ngọc Xán. Ông là Nhà thơ nổi tiếng, Nhà hoạt động Văn hóa xuất sắc. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Canh nông đầu tiên của Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách văn hóa nghệ thuật, Chủ tịch ủy ban toàn quốc Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, nguyên Đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Ông là Nhà thơ Việt Nam đầu tiên vinh dự được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Thơ thế giới (được bầu năm 2001). Ông được Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1), Huân Chương Sao Vàng và nhiều Huân chương cao quý khác…
* Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chính phủ Việt Nam nhiệm kỳ 2011-2016, Nguyễn Minh Quang: người xã Đức Lĩnh.
3. Tài nguyên thiên nhiên
Những nguồn tài nguyên đặc thù của Vũ Quang đó là tài nguyên rừng và khoáng sản.
* Tài nguyên rừng của Vũ Quang hết sức đa dạng và phong phú, tập trung chủ yếu ở Vườn Quốc gia Vũ Quang.Vườn Quốc gia Vũ Quang tiền thân là Lâm trường Vũ Quang, sau đó đổi thành Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang, rồi Vườn Quốc gia Vũ Quang (30/07/2002). Hiện Vườn Quốc gia Vũ Quang có khoảng 76% diện tích rừng là rừng tự nhiên bao gồm 2 kiểu rừng chính: – Rừng kín thường xanh á nhiệt đới (phân bố trên độ cao 1000m): Loại rừng này chiếm khoảng 20%diện tích Vườn, nổi bật với 2 loài ưu thế là Pơ Mu Fokiania hodginsii và Hoàng Đàn Cupressus torulosa. – Rừng xanh kín nhiệt đới( Phân bố ở độ cao dưới 1000m) có trữ lượng cao, nhiều cây gỗ lớn. Hiện đã thống kê gần 500 loài thực vật bậc cao với nhiều loài quý hiếm như: Lát hoa, Cẩm lai, Lim, Dổi, Pơ mu, Hoàng đàn, Trầm hương… và nhiều loài dược liệu quý. Động vật rừng rất đa dạng,trong đó có nhiều loài quý hiếm như: hổ, voi (Elephas maximus), Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) , bò tót, voọc, chà vá… Tuy nhiên do lịch sử lâu đời, nhân dân trong vùng chủ yếu sống dựa vào rừng, vì vậy hiện nay tình trạng khai thác gỗ, săn bắt thú rừng ở đây vẫn diễn ra phổ biến.Bên cạnh đó, sự thờ ơ và lỏng lẻo trong quản lý của các cơ quan chức năng đang dần đẩy nguồn tài nguyên rừng ở đây đi vào cạn kiệt.
* Những tài nguyên khoáng sản nổi bật của huyện là quặng sắt và vật liệu xây dựng. Hiện tại,quặng sắt tại xã Sơn Thọ đang được tiến hành khai thác. Những nguồn vật liệu xây dựng của huyện nổi bật là cát sỏi dọc bờ sông Ngàn Trươi, đã được nhân dân trong vùng khai thác từ lâu đời. Trong công cuộc xây dựng huyện mới, những nguồn tài nguyên này đã đóng góp rất lớn cho việc xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở của huyện, tiêu biểu là đường Hồ Chí Minh, đoạn đi qua huyện…
4. Lễ hội truyền thống
* Ngày giổ Bà Lê Triều Hoàng Hậu Ngô Thị Quận Quân được tổ chức vào ngày 12/2 âm lịch hàng năm tại Ân Phú
* Ngày tế thần kì an (cầu an) gọi là ngày lục ngoạt tổ chức tại điện Cơn Dênh, tế 12 vị thần để cầu an cho nhân dân Ân Phú tổ chứng vào ngày 15/6 âm lịch hàng năm.
5. Làng nghề
* Làng gốm Cẩm Trang thuộc xã Đức Giang, huyện Vũ Quang.
* Làng gốm Hợp Phát, thuộc xã Đức Giang, huyện Vũ Quang (Làng làm nghề gạch là chủ yếu), hiện nay do bị cạnh tranh nên sản phẩm không tiêu thụ được, dân trong làng nhiều người đã đi làm ăn xa.
Trước đây thợ gốm chủ yếu nung các loại sành nhỏ như: bình, vò, chậu liển, be, hũ, vại….dùng trong gia đình. Ngày nay Cẩm Trang đã nung gạch, ngói được quý khách hàng ưa chuộng. Nhưng do thiếu điều kiện như: giao thông, kỉ thuật mới hiện đại, thị trường….Nên nghề gốm cổ truyền ở Cẩm Trang (Có cả thôn Hợp Phát) nay đã mất mà chỉ có nghề nung gạch các loại.
Huyện Vũ Quang được chính thức thành lập theo Nghị định số 27/2000/NĐ-CP ngày 04 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ.
Toàn bộ địa giới hành chính huyện Vũ Quang được hình thành trên cơ sở điều chỉnh địa giới các huyện Đức Thọ, Hương Khê và Hương Sơn, cụ thể như sau: Huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú (thuộc huyện Đức Thọ), Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Vũ Quang (thuộc huyện Hương Khê) và xã Sơn Thọ (thuộc huyện Hương Sơn).
Huyện Vũ Quang có 64.615ha diện tích tự nhiên và khi mới thành lập có 35.877 nhân khẩu (hiện nay còn khoảng 29.870 nhân khẩu) gồm 12 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang, Ân Phú, Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại (nay là TT Vũ Quang), Hương Điền, Vũ Quang (nay là Hương Quang) và Sơn Thọ.
Về mặt địa giới hành chính huyện Vũ Quang: Phía Đông giáp huyện Đức Thọ; Phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; Phía Nam giáp huyện Hương Khê; Phía Bắc giáp huyện Hương Sơn.
Từ khi thành lập đến nay đã hơn 10 năm. Trong suốt thời gian qua, mặc dầu những ngày đầu mới thành lập đang còn gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt nhưng nhờ được sự quan tâm của Đảng và các cấp chính quyền từ Trung Ương đến tỉnh đồng thời với sự nổ lực phấn đấu hết mình của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà nên giờ đây huyện Vũ Quang đã từng bước phát triển vững chắc.
|
Giới thiệu khái quát thị xã Hồng Lĩnh
Thị xã Hồng Lĩnh được thành lập từ năm 1992, cách tỉnh lỵ, tỉnh Hà Tĩnh 30km về phía Nam và cách thành phố Vinh khoảng 20km về phía Bắc, là một địa danh nằm dưới chân núi Hồng Lĩnh, cận kề với dòng sông Lam trong xanh huyền thoại, là điểm nối 3 huyện Can Lộc – Nghi Xuân và Đức Thọ, là nơi tiếp giáp giữa hai con đường huyết mạch của quốc gia: Đường 8A nối với nước bạn Lào, để từ đó thông thương với các nước Đông Dương và Quốc lộ 1A. Hồng Lĩnh đã từng được con người đến khai phá từ rất sớm. Trên vùng đất này đã từng lưu truyền nhiều huyền thoại cuốn hút du khách qua lại. Chính vì lẽ đó, Hồng Lĩnh là nơi có tiềm năng về du lịch và thương mại, đặc biệt là du lịch văn hóa tâm linh.
Hồng Lĩnh là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, là mảnh đất địa linh nhân kiệt, sơn thủy hữu tình, là quê hương của Đô đài Ngự sử Bùi Cầm Hổ, của Song Trạng nguyên “Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy”. Nơi đây nổi tiếng với làng nghề rèn Trung Lương, những câu hát Sắc Bùa, lễ hội Đua thuyền truyền thống,…
Đua thuyền truyền thống trên Sông Minh (Ảnh: Đào Trọng Đức – P.Đức Thuận)
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, thị xã Hồng Lĩnh đang từng ngày phát triển mạnh mẽ, phấn đấu đến năm 2020 trở thành đô thị loại 3 và là trung tâm kinh tế xã hội phía bắc của tỉnh.
Ngã tư thị xã
Thị xã Hồng Lĩnh có 6 đơn vị hành chính (5 phường, 1 xã), bao gồm: Phường Bắc Hồng, Phường Nam Hồng, phường Đậu Liêu, phường Đức Thuận, phường Trung Lương và xã Thuận Lộc.
Hồ Thiên Tượng
Thị xã Hồng Lĩnh được thành lập ngày 2/3/1992 – Là một Thị xã trẻ, đang bước vào tuổi 25, song Hồng Lĩnh là vùng quê có nền văn hoá, lịch sử lâu đời, có bề dày truyền thống cách mạng. Trên phương diện văn hóa dân gian, Hồng Lĩnh ra đời gắn với sự tích ông Đùng xây 99 đỉnh non Hồng, nơi được coi là kinh đô Ngàn Hống. Cùng với sông Lam, núi Hồng Lĩnh được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ, được xếp vào một trong chín cảnh đẹp của đất nước, năm Minh Mệnh thứ 17 khắc tượng vào “Anh đỉnh”, đặt trong Hoàng thành Huế. Do những đặc điểm riêng về địa lý – văn hóa, cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, Nhân dân Hồng Lĩnh đã sáng tạo xây đắp nên những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc: Đền Đô Đài ngự sử Bùi Cầm Hổ, Đền Song Trạng nguyên, Chùa Long Đàm, di tích danh thắng quốc gia Chùa và hồ Thiên Tượng, Chùa Đại Hùng… Lễ hội báo ân Đô đài ngự sử Bùi Cầm Hổ và trò Đình Đụn, hội đua Thuyền Minh Lương, Làng rèn truyền thống Vân Chàng – Trung Lương, lễ hội giỗ tổ Hùng Vương;
Với kho tàng những câu chuyện huyền thoại, với bề dày truyền thống văn hóa và cách mạng, với vẻ đẹp do thiên nhiên ban tặng đã tạo cho Hồng Lĩnh trở thành một vùng quê huyền thoại, đầy tiềm năng và hào hoa, thu hút được sự quan tâm, tình yêu của bè bạn xa, gần và là mảnh đất hội tụ những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
Bên cạnh những lợi thế về giá trị lịch sử, văn hóa, Hồng Lĩnh còn có điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý rất ưu việt, với nhiều vùng sinh thái đồi núi, đồng bằng ven sông; nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú. Hệ thống giao thông thủy, bộ nơi đây thuận tiện cho giao lưu, vận tải, phát triển du lịch – dịch vụ: Sông Minh nối với sông Nghèn xuôi ra biển Đông qua Cửa Sót, nối với sông Lam xuôi ra biển qua Cửa Hội, ngược lên sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu đến với miền núi phía Tây tỉnh. Trung tâm Thị xã Hồng Lĩnh là nơi gặp nhau của Quốc lộ 1A và Quốc lộ 8A, một ngả ra Bắc, một ngả vào Nam, một ngả lên cửa khẩu quốc tế Cầu Treo sang Lào, Đông Bắc Thái Lan và chỉ cách sân bay, ga tàu hỏa, cảng biển chưa đến 20km.
Sau gần 25 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của các cấp, các ngành và bạn bè gần xa, Đảng bộ và Nhân dân Hồng Lĩnh đã đoàn kết một lòng, nỗ lực vượt phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, nắm bắt cơ hội để vươn lên giành được kết quả toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, xây dựng, thương mại – dịch vụ. Đặc biệt, cùng với chiến lược phát triển bền vững, toàn diện các lĩnh vực, đến nay Hồng Lĩnh đã hoàn thành quy hoạch phân khu 1/2000 cho 100% phường, xã; đã thành lập ba cụm công nghiệp: Cụm công nghiệp Làng nghề Trung Lương, Cụm Công nghiệp Nam Hồng, Cụm Công nghiệp Cổng Khánh 1; về hạ tầng du lịch, đã quy hoạch Khu công viên Trung tâm, khu Du lịch sinh thái Suối Tiên, khu vực Chùa Đại Hùng, núi Bạch Tỵ, Hồ Đá Bạc, Sông Minh v.v… Thị xã Hồng Lĩnh hội tụ được nhiều yếu tố thuận lợi và đã có hàng trăm tổ chức, doanh nghiệp triển khai dự án đầu tư ở nhiều lĩnh vực công nghiệp chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí lắp ráp, dệt may v.v… Đến nay thị xã Hồng Lĩnh đã có đủ tiền đề, động lực để tăng tốc tăng trưởng mạnh hơn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng và thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ Thị xã Hồng Lĩnh lần thứ VI đã đề ra và hoàn thành các tiêu chí đạt đô thị loại III trước năm 2020.
Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, cấp ủy, chính quyền và Nhân dân Hồng Lĩnh đồng thuận, quyết tâm cao vì sự phát triển của một đô thị trẻ, rất mong muốn được đón nhận sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu cơ hội đầu tư, hợp tác của mọi tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. Hồng Lĩnh sẵn sàng mở rộng vòng tay đón chào bè bạn bằng tình cảm, thái độ chân tình, nồng hậu đầy trách nhiệm trong một môi trường đầu tư thuận lợi nhất, hấp dẫn nhất.
|
General introduction of Hong Linh town
Hong Linh town was established in 1992, 30km south of the provincial capital, Ha Tinh province and about 20km north of Vinh city, is a place located at the foot of Hong Linh mountain, close to the Lam river. Legendary green, is the connecting point of 3 districts of Can Loc - Nghi Xuan and Duc Tho, is the junction between two vital roads of the country: Road 8A connects with Laos, from there to trade with Eastern countries. Duong and National Highway 1A. Hong Linh was explored by humans very early on. In this land, many legends have been passed down that attract tourists. For that reason, Hong Linh is a place with potential for tourism and commerce, especially spiritual and cultural tourism.
Hong Linh is a land rich in cultural tradition, a land of outstanding spiritual people, charming mountains and water, the homeland of the Imperial Palace Palace of Bui Cam Ho, of the Song Poinsettias "Su Hy Nhan and Su Duc Huy" . This place is famous for Trung Luong blacksmithing village, Sac Bua songs, traditional boat racing festival,...
Traditional boat racing on Minh River (Photo: Dao Trong Duc - Duc Thuan Ward)
After more than 20 years of construction and growth, Hong Linh town is developing strongly day by day, striving to become a third-class urban area and the northern socio-economic center of the province by 2020.
Town intersection
Hong Linh town has 6 administrative units (5 wards, 1 commune), including: Bac Hong ward, Nam Hong ward, Dau Lieu ward, Duc Thuan ward, Trung Luong ward and Thuan Loc commune.
Thien Tuong Lake
Hong Linh Town was established on March 2, 1992 - As a young town, turning 25 years old, Hong Linh is a countryside with a long culture, history, and a rich revolutionary tradition. In terms of folk culture, the birth of Hong Linh is associated with the legend of Mr. Dung building 99 peaks of Hong mountain, which is considered the capital of Ngan Hong. Along with the Lam River, Hong Linh Mountain is considered a symbol of the sacred river and mountain soul of Nghe An, and is classified as one of the nine beautiful landscapes of the country. In the 17th year of Minh Menh, the statue was engraved into the "Anh Dinh" and placed in the Imperial Citadel. Hue. Due to the unique geographical and cultural characteristics, along with the history of the struggle to build and defend the country, Hong Linh people have creatively built unique tangible and intangible cultural values: Do Temple Bui Cam Ho Imperial Palace, Song Poinsettia Temple, Long Dam Pagoda, national scenic spot Thien Tuong Pagoda and Lake, Dai Hung Pagoda... Gratitude Festival Bui Cam Ho Imperial Palace and Dinh Dun game, racing festival Minh Luong Boat, Van Chang - Trung Luong Traditional Forging Village, Hung King's death anniversary festival;
With a treasure trove of legendary stories, a rich cultural and revolutionary tradition, and the beauty bestowed by nature, Hong Linh has become a legendary countryside, full of potential, charm, and attraction. receives the attention and love of friends near and far and is a land of favorable conditions for sustainable development.
In addition to the advantages of historical and cultural values, Hong Linh also has excellent natural conditions and geographical location, with many ecological regions of hills, mountains, and riverine plains; Natural resources are quite rich. The water and land transportation system here is convenient for exchange, transportation, and tourism and service development: Minh River connects with Nghen River down to the East Sea through Cua Sot, connects with Lam River down to the sea through Cua Hoi , up the Ngan Pho River and Ngan Sau River to the mountainous areas in the west of the province. Hong Linh Town Center is the meeting place of National Highway 1A and National Highway 8A, one way to the North, one way to the South, one way to Cau Treo international border gate to Laos, Northeast Thailand and just far from the airport. , train station, seaport less than 20km.
After nearly 25 years of construction and development, with the attention of all levels, sectors and friends near and far, the Party Committee and People of Hong Linh have united as one, striving to overcome difficulties and challenges. knowledge, seize opportunities to rise and achieve comprehensive results in many fields. The economy has a high average annual growth rate, the structure is shifting in a positive direction, rapidly increasing the proportion of industry, construction, construction, trade and services. In particular, along with the sustainable and comprehensive development strategy of all fields, Hong Linh has so far completed the 1/2000 zoning planning for 100% of wards and communes; has established three industrial clusters: Trung Luong Craft Village Industrial Cluster, Nam Hong Industrial Cluster, Khanh Gate 1 Industrial Cluster; Regarding tourism infrastructure, the Central Park area, Suoi Tien eco-tourism area, Dai Hung Pagoda area, Bach Ty mountain, Da Bac Lake, Minh River, etc. have been planned... Hong Linh Town converges many factors. Favorable factors and hundreds of organizations and businesses have implemented investment projects in many fields of processing industry, construction material production, mechanical assembly, textiles, etc. Up to now, Hong Linh town There are enough premises and motivation to accelerate growth, transform the economic structure in the right direction and successfully implement the goals and targets set by the 6th Hong Linh Town Party Congress. Establish and complete the criteria for achieving a grade III urban area before 2020.
In the process of innovation, promoting industrialization, modernization and integration, the party committee, government and people of Hong Linh are in agreement and highly determined for the development of a young urban area, looking forward to welcoming Receiving interest in learning and researching investment and cooperation opportunities from all domestic and foreign organizations and individuals. Hong Linh is ready to open its arms to welcome friends with affection, a sincere, warm and responsible attitude in the most favorable and attractive investment environment.
|
Giới thiệu khái quát huyện Thạch Hà
Huyện Thạch Hà có một đặc điểm nổi bật là danh xưng Thạch Hà xuất hiện rất sớm, hơn nghìn năm nay. Khi là đơn vị châu, khi huyện, khi phủ, diên cách địa – hành chính trải qua nhiều thay đổi. Từ khi vua Lê Thánh Tông định bản đồ cả nước năm 1469, huyện Thạch Hà có ranh giới tự nhiên khá ổn định, gần như được xác định bởi dãy Trà Sơn ở phía tây, dãy Nam Giới và biển ở phía đông, sông Dà – sông Nghèn và sông Hà Hoàng ở phía bắc, sông Rào Cái ở phía nam. Nhưng trên không gian địa lý đó, diên cách hành chính lại có quá nhiều thay đổi, không chỉ trong phạm vi các đơn vị của huyện mà cả với những đơn vị giáp ranh. Năm 1921, Thạch Hà chuyển tổng Đoài cho huyện Can Lộc và nhận 2 tổng Canh Hoạch, Vĩnh Luật của huyện Can Lộc. Năm 1945-1946, Thạch Hà lại chuyển cho Can Lộc 3 thôn của tổng Đông và 3 thôn của tổng Canh Hoạch. Năm 1989 và năm 2004, lại cắt đất 11 xã nhập vào thị xã Hà Tĩnh, nay là thành phố
Hà Tĩnh
. Năm 2007, Thạch Hà lại cắt 6 xã miền ven biển để cùng 7 xã của huyện Can Lộc lập thành huyện Lộc Hà.
Huyện Thạch Hà là một trong những huyện có nhiều thay đổi nhất về diên cách hành chính và trong xu hướng đó, gần đây lại được tạo nên một vị thế độc đáo: Một huyện mà chia làm hai phần nằm về hai mặt đông và tây của thành phố Hà Tĩnh, gần như vòng đai bảo vệ cho trung tâm chính trị, hành chính của tỉnh Hà Tĩnh.
Thạch Hà là một huyện thuộc loại trung bình về diện tích và dân số. Thiên nhiên rất đẹp và hùng vĩ, có đủ địa hình đa dạng gồm núi đồi, trung du, ven biển, có mỏ sắt Thạch Khê với trữ lượng khá lớn, nhưng thiên nhiên không mấy ưu ái và mặt khắc nghiệt cũng không ít. Một ấn tượng còn in đậm trong ký ức tuổi thơ của tôi là những trận “gió Lào” nóng bỏng vào mùa hè, đốt cháy cả cây cối, kể cả cây chuối vốn hàm chứa rất nhiều nước. Về mặt lịch sử, nơi đây cũng đã trải qua những thử thách ác liệt của vùng biên viễn phía Nam nước Đại Việt, của cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn, của cuộc kháng chiến trường kỳ giành lại độc lập, thống nhất Tổ quốc. Nhưng người dân Thạch Hà đã vượt qua tất cả những khó khăn, thách thức đó không những để bảo tồn và phát triển cuộc sống, mà còn cống hiến cho đất nước nhiều người con ưu tú, lập nhiều công tích trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, để lại nhiều thành tựu trong sáng tạo văn hóa. Ví dặm và ca trù là những sáng tác dân gian từ bé đã hằn sâu trong ký ức tôi qua lời hát của những người thân trong gia đình. Về di sản văn hóa phi vật thể thì Thạch Hà là một cái nôi khá sớm và khá thịnh đạt của hai thể loại dân ca này. Riêng ca trù, có thể khẳng định ra đời sớm nhất trên đất Thạch Hà từ thời Lê Sơ. Dòng họ Phan quê gốc ở Ngọc Điền (thị trấn Thạch Hà) đã nổi tiếng hát ả đào (tức ca trù) thuộc Ty Giáo phường từ thời Lê Sơ (1428-1527) và vào đời Hồng Đức (1460-1497) có người được cử làm phân trưởng trông coi giáo phường của huyện.
Đời sống tuy còn không ít khó khăn nhưng huyện Thạch Hà đã để lại một lịch sử lao động và chiến đấu đáng tự hào, nhiều truyền thống quý trong đó nổi bật lên truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc, truyền thống làm ăn cần cù, hiếu học, trọng nghĩa tình, sống giản dị.
Non sông, đất nước ta, nơi nào cũng đẹp như tranh, và từ hàng nghìn năm nay,
“trong các huyện hạt Nghệ-Tĩnh, không có một huyện nào là không có ít nhiều kỷ niệm lịch sử, một bức thành đất đã khởn mẻ, một tòa đền, một ngôi mộ, một tấm bia, dấu vết của những nhân vật hiển hách đời xưa… Người xứ Nghệ tự hào về những di tích, danh thắng, và những nhân vật lẫy lừng của xứ sở…”
(Đặng Thai Mai).
Ở Thạch Hà cũng vậy. Một dải Quỳnh Sơn – Nam Giới đứng mé bể Đông với ngọn Long Ngâm, với khe Hau Hau nổi tiếng, với truyền thuyết Chử Đồng Tử tu tiên đắc đạo, với di tích lăng mộ Chiêu Trưng Đại Vương… Một dãy Trà Sơn có ngọn Nhật Lệ sừng sững phía tây với động Hạc, động Chùa, ke Chè, khe Xai… quen thuộc. Một dải Hà Hoàng đôi bờ xóm làng sầm uất… Đến một rú Sò, một rú Nài, một sông Cày…
“Sơn bất cao, thủy bất thâm”
, nhưng
“hữu Tiên tắc danh, hữu long tắc linh”
… Không chỉ nghìn năm, từ thời tự chủ, từ ngày có châu, huyện, mà từ thời đá mới hậu kỳ, cách ngày nay 4-5 nghìn năm, người tiền sử cũng để lại đây nhiều dấu vết đậm đặc.
Chồng chất trên vùng đất này là tầng tầng lớp văn hóa vật thể và phi vật thể, mà ngày nay chúng ta chỉ mới biết sơ sơ ở tầng văn hóa trên cùng, đã thấy vô cùng phong phú.
Các địa điểm cụ thể
1, Đền Nen
Thuộc thôn Phúc Tiến, xã Thạch Tiến, Đền Nen thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, là người đức trọng, tài cao, được triều đình tin dùng và nhân dân yêu mến. Đền được xây dựng từ thời nhà Lê với kiến trúc nghệ thuật độc đáo và được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia vào năm 2009 .
Trước đây, lễ hội đền Nen được các vua chúa tổ chức long trọng và trang nghiêm. Ngày nay, lễ hội được duy trì thường xuyên hàng năm vào ngày 6/3 âm lịch, là ngày giỗ của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.
2, Hồ Khe Xai
Công trình thủy lợi Hồ chứa nước Khe Xai thuộc hệ thống thủy lợi Khe Giao, ở xã Thạch Xuân, huyện Thạch Hà, được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 2010. Hồ có sức chứa trên 40 triệu m3 nước, tưới cho 980ha đất canh tác của các xã Thạch Xuân, Nam Hương và một số xã khác ở phía Bắc huyện Thạch Hà. Đây không chỉ là một công trình thủy lợi quan trọng mà còn là điểm du lịch sinh thái lý tưởng, hấp dẫn cho du khách.
3, Biển Thạch Hải – Quỳnh Viên
Với bãi biển dài 4km, biển Thạch Hải có bãi cát trắng mịn màng, nước trong xanh, sóng vỗ nhẹ nhàng hòa vào tiếng vi vu của rừng phi lao xanh bạt ngàn. Từ bãi tắm đi ngược về phía bắc là Núi Nam Giới – nơi gắn liền với huyền thoại dân gian Chử Đồng Tử và Tiên Dung… Đến đây, du khách còn có thể tham quan, nghỉ dưỡng và trải nghiệm nhiều loại hình vui chơi hấp dẫn tại Khu du lịch sinh thái Quỳnh Viên đầy thơ mộng.
4, Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng
Tọa lạc ngay cạnh sông Cầu Sông, thuộc địa phận thôn Tân Long, xã Việt Xuyên, Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng
là công trình của tuổi trẻ cả nước và nhân dân tỉnh nhà nhằm tri ân sự hy sinh anh dũng của anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng – người đoàn viên TNCS đầu tiên. Khu tưởng niệm là điểm du lịch văn hóa lịch sử tâm linh đồng thời là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống yêu nước, lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ Việt Nam trong thời đại mới.
5, Đền Truông Bát
Tọa lạc tại thôn 1, xã Ngọc Sơn, đền Truông Bát là nơi thờ Vương nương Thánh Mẫu Đệ nhị thượng ngàn, còn gọi là Lộc Hoa công chúa hay bà Chúa Lộc, đây được coi là ngôi đền khá linh thiêng. Trong đền còn thờ Đệ nhất Thượng thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Đệ tam thủy phủ (Mẫu Thoải), vì thế dân gian vẫn thường gọi ngôi đền này là Tam toà Thánh Mẫu. Đền Truông Bát là nơi kết tinh của vẻ đẹp tâm linh với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ. Hội đền được tổ chức vào ngày mùng 7/4 âm lịch hàng năm.
6, Đền Chiêu trưng Đại Vương Lê Khôi
Nằm ở lưng chừng dãy núi Long Ngâm, đền Chiêu Trưng được coi là một trong bốn đền nổi tiếng linh thiêng nhất xứ Nghệ: “Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng”. Đền được dựng năm Đinh Mão, Thái Hòa thứ 5 (1947), thờ Đại vương Lê Khôi. Nơi đây nổi tiếng bởi sự linh thiêng của phát tích, giá trị nghệ thuật của kiến trúc và mê hoặc lòng người bởi một vẻ đẹp hài hòa của núi non, biển trời hùng vĩ, cổ kính. Hội đền được tổ chức vào ngày 02 và 03/5 âm lịch hàng năm.
7, Du lịch trải nghiệm nông thôn mới
Đến với Thạch Hà, du khách sẽ được tham quan loại hình du lịch nông thôn mới tại các nhà văn hóa thôn, khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu với hệ thống hàng rào xanh được thiết kế, đầu tư xây dựng theo quy mô chuẩn Nông thôn mới tại xã Tượng Sơn hay tham quan mô hình trồng rau củ quả trên cát tại xã Thạch Văn. Đây là loại hình du lịch mới sẽ đem lại cho du khách những trải nghiệm đầy thú vị không thể nào quên trong cuộc đời.
8,
Ẩm thực
Đến Thạch Hà, ngoài việc tham quan các điểm đến hấp dẫn, du khách còn được thưởng thức nét ẩm thực độc đáo mang đậm hương quê như Bánh đa, bánh đúc Việt Xuyên, Cu đơ Thạch Đài, hải sản biển…
9, Một số lễ hội truyền thống của huyện
Lễ hội Đền Chiêu trưng Đại vương Lê Khôi, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà;
Lễ hội Đền Nen, xã Thạch Tiến, Thạch Hà;
Lễ hội Đền Truông Bát xã Ngọc Sơn, Thạch Hà;
Lễ Kỳ phúc lục ngoạt, các xã vùng Biển Ngang Thạch Hà…
|
Giới thiệu khái quát huyện Thạch Hà
Huyện Thạch Hà có một đặc điểm nổi bật là danh xưng Thạch Hà xuất hiện rất sớm, hơn nghìn năm nay. Khi là đơn vị châu, khi huyện, khi phủ, diên cách địa – hành chính trải qua nhiều thay đổi. Từ khi vua Lê Thánh Tông định bản đồ cả nước năm 1469, huyện Thạch Hà có ranh giới tự nhiên khá ổn định, gần như được xác định bởi dãy Trà Sơn ở phía tây, dãy Nam Giới và biển ở phía đông, sông Dà – sông Nghèn và sông Hà Hoàng ở phía bắc, sông Rào Cái ở phía nam. Nhưng trên không gian địa lý đó, diên cách hành chính lại có quá nhiều thay đổi, không chỉ trong phạm vi các đơn vị của huyện mà cả với những đơn vị giáp ranh. Năm 1921, Thạch Hà chuyển tổng Đoài cho huyện Can Lộc và nhận 2 tổng Canh Hoạch, Vĩnh Luật của huyện Can Lộc. Năm 1945-1946, Thạch Hà lại chuyển cho Can Lộc 3 thôn của tổng Đông và 3 thôn của tổng Canh Hoạch. Năm 1989 và năm 2004, lại cắt đất 11 xã nhập vào thị xã Hà Tĩnh, nay là thành phố
Hà Tĩnh
. Năm 2007, Thạch Hà lại cắt 6 xã miền ven biển để cùng 7 xã của huyện Can Lộc lập thành huyện Lộc Hà.
Huyện Thạch Hà là một trong những huyện có nhiều thay đổi nhất về diên cách hành chính và trong xu hướng đó, gần đây lại được tạo nên một vị thế độc đáo: Một huyện mà chia làm hai phần nằm về hai mặt đông và tây của thành phố Hà Tĩnh, gần như vòng đai bảo vệ cho trung tâm chính trị, hành chính của tỉnh Hà Tĩnh.
Thạch Hà là một huyện thuộc loại trung bình về diện tích và dân số. Thiên nhiên rất đẹp và hùng vĩ, có đủ địa hình đa dạng gồm núi đồi, trung du, ven biển, có mỏ sắt Thạch Khê với trữ lượng khá lớn, nhưng thiên nhiên không mấy ưu ái và mặt khắc nghiệt cũng không ít. Một ấn tượng còn in đậm trong ký ức tuổi thơ của tôi là những trận “gió Lào” nóng bỏng vào mùa hè, đốt cháy cả cây cối, kể cả cây chuối vốn hàm chứa rất nhiều nước. Về mặt lịch sử, nơi đây cũng đã trải qua những thử thách ác liệt của vùng biên viễn phía Nam nước Đại Việt, của cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn, của cuộc kháng chiến trường kỳ giành lại độc lập, thống nhất Tổ quốc. Nhưng người dân Thạch Hà đã vượt qua tất cả những khó khăn, thách thức đó không những để bảo tồn và phát triển cuộc sống, mà còn cống hiến cho đất nước nhiều người con ưu tú, lập nhiều công tích trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, để lại nhiều thành tựu trong sáng tạo văn hóa. Ví dặm và ca trù là những sáng tác dân gian từ bé đã hằn sâu trong ký ức tôi qua lời hát của những người thân trong gia đình. Về di sản văn hóa phi vật thể thì Thạch Hà là một cái nôi khá sớm và khá thịnh đạt của hai thể loại dân ca này. Riêng ca trù, có thể khẳng định ra đời sớm nhất trên đất Thạch Hà từ thời Lê Sơ. Dòng họ Phan quê gốc ở Ngọc Điền (thị trấn Thạch Hà) đã nổi tiếng hát ả đào (tức ca trù) thuộc Ty Giáo phường từ thời Lê Sơ (1428-1527) và vào đời Hồng Đức (1460-1497) có người được cử làm phân trưởng trông coi giáo phường của huyện.
Đời sống tuy còn không ít khó khăn nhưng huyện Thạch Hà đã để lại một lịch sử lao động và chiến đấu đáng tự hào, nhiều truyền thống quý trong đó nổi bật lên truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc, truyền thống làm ăn cần cù, hiếu học, trọng nghĩa tình, sống giản dị.
Non sông, đất nước ta, nơi nào cũng đẹp như tranh, và từ hàng nghìn năm nay,
“trong các huyện hạt Nghệ-Tĩnh, không có một huyện nào là không có ít nhiều kỷ niệm lịch sử, một bức thành đất đã khởn mẻ, một tòa đền, một ngôi mộ, một tấm bia, dấu vết của những nhân vật hiển hách đời xưa… Người xứ Nghệ tự hào về những di tích, danh thắng, và những nhân vật lẫy lừng của xứ sở…”
(Đặng Thai Mai).
Ở Thạch Hà cũng vậy. Một dải Quỳnh Sơn – Nam Giới đứng mé bể Đông với ngọn Long Ngâm, với khe Hau Hau nổi tiếng, với truyền thuyết Chử Đồng Tử tu tiên đắc đạo, với di tích lăng mộ Chiêu Trưng Đại Vương… Một dãy Trà Sơn có ngọn Nhật Lệ sừng sững phía tây với động Hạc, động Chùa, ke Chè, khe Xai… quen thuộc. Một dải Hà Hoàng đôi bờ xóm làng sầm uất… Đến một rú Sò, một rú Nài, một sông Cày…
“Sơn bất cao, thủy bất thâm”
, nhưng
“hữu Tiên tắc danh, hữu long tắc linh”
… Không chỉ nghìn năm, từ thời tự chủ, từ ngày có châu, huyện, mà từ thời đá mới hậu kỳ, cách ngày nay 4-5 nghìn năm, người tiền sử cũng để lại đây nhiều dấu vết đậm đặc.
Chồng chất trên vùng đất này là tầng tầng lớp văn hóa vật thể và phi vật thể, mà ngày nay chúng ta chỉ mới biết sơ sơ ở tầng văn hóa trên cùng, đã thấy vô cùng phong phú.
Các địa điểm cụ thể
1, Đền Nen
Thuộc thôn Phúc Tiến, xã Thạch Tiến, Đền Nen thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, là người đức trọng, tài cao, được triều đình tin dùng và nhân dân yêu mến. Đền được xây dựng từ thời nhà Lê với kiến trúc nghệ thuật độc đáo và được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia vào năm 2009 .
Trước đây, lễ hội đền Nen được các vua chúa tổ chức long trọng và trang nghiêm. Ngày nay, lễ hội được duy trì thường xuyên hàng năm vào ngày 6/3 âm lịch, là ngày giỗ của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.
2, Hồ Khe Xai
Công trình thủy lợi Hồ chứa nước Khe Xai thuộc hệ thống thủy lợi Khe Giao, ở xã Thạch Xuân, huyện Thạch Hà, được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 2010. Hồ có sức chứa trên 40 triệu m3 nước, tưới cho 980ha đất canh tác của các xã Thạch Xuân, Nam Hương và một số xã khác ở phía Bắc huyện Thạch Hà. Đây không chỉ là một công trình thủy lợi quan trọng mà còn là điểm du lịch sinh thái lý tưởng, hấp dẫn cho du khách.
3, Biển Thạch Hải – Quỳnh Viên
Với bãi biển dài 4km, biển Thạch Hải có bãi cát trắng mịn màng, nước trong xanh, sóng vỗ nhẹ nhàng hòa vào tiếng vi vu của rừng phi lao xanh bạt ngàn. Từ bãi tắm đi ngược về phía bắc là Núi Nam Giới – nơi gắn liền với huyền thoại dân gian Chử Đồng Tử và Tiên Dung… Đến đây, du khách còn có thể tham quan, nghỉ dưỡng và trải nghiệm nhiều loại hình vui chơi hấp dẫn tại Khu du lịch sinh thái Quỳnh Viên đầy thơ mộng.
4, Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng
Tọa lạc ngay cạnh sông Cầu Sông, thuộc địa phận thôn Tân Long, xã Việt Xuyên, Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng
là công trình của tuổi trẻ cả nước và nhân dân tỉnh nhà nhằm tri ân sự hy sinh anh dũng của anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng – người đoàn viên TNCS đầu tiên. Khu tưởng niệm là điểm du lịch văn hóa lịch sử tâm linh đồng thời là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống yêu nước, lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ Việt Nam trong thời đại mới.
5, Đền Truông Bát
Tọa lạc tại thôn 1, xã Ngọc Sơn, đền Truông Bát là nơi thờ Vương nương Thánh Mẫu Đệ nhị thượng ngàn, còn gọi là Lộc Hoa công chúa hay bà Chúa Lộc, đây được coi là ngôi đền khá linh thiêng. Trong đền còn thờ Đệ nhất Thượng thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Đệ tam thủy phủ (Mẫu Thoải), vì thế dân gian vẫn thường gọi ngôi đền này là Tam toà Thánh Mẫu. Đền Truông Bát là nơi kết tinh của vẻ đẹp tâm linh với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ. Hội đền được tổ chức vào ngày mùng 7/4 âm lịch hàng năm.
6, Đền Chiêu trưng Đại Vương Lê Khôi
Nằm ở lưng chừng dãy núi Long Ngâm, đền Chiêu Trưng được coi là một trong bốn đền nổi tiếng linh thiêng nhất xứ Nghệ: “Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng”. Đền được dựng năm Đinh Mão, Thái Hòa thứ 5 (1947), thờ Đại vương Lê Khôi. Nơi đây nổi tiếng bởi sự linh thiêng của phát tích, giá trị nghệ thuật của kiến trúc và mê hoặc lòng người bởi một vẻ đẹp hài hòa của núi non, biển trời hùng vĩ, cổ kính. Hội đền được tổ chức vào ngày 02 và 03/5 âm lịch hàng năm.
7, Du lịch trải nghiệm nông thôn mới
Đến với Thạch Hà, du khách sẽ được tham quan loại hình du lịch nông thôn mới tại các nhà văn hóa thôn, khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu với hệ thống hàng rào xanh được thiết kế, đầu tư xây dựng theo quy mô chuẩn Nông thôn mới tại xã Tượng Sơn hay tham quan mô hình trồng rau củ quả trên cát tại xã Thạch Văn. Đây là loại hình du lịch mới sẽ đem lại cho du khách những trải nghiệm đầy thú vị không thể nào quên trong cuộc đời.
8,
Ẩm thực
Đến Thạch Hà, ngoài việc tham quan các điểm đến hấp dẫn, du khách còn được thưởng thức nét ẩm thực độc đáo mang đậm hương quê như Bánh đa, bánh đúc Việt Xuyên, Cu đơ Thạch Đài, hải sản biển…
9, Một số lễ hội truyền thống của huyện
Lễ hội Đền Chiêu trưng Đại vương Lê Khôi, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà;
Lễ hội Đền Nen, xã Thạch Tiến, Thạch Hà;
Lễ hội Đền Truông Bát xã Ngọc Sơn, Thạch Hà;
Lễ Kỳ phúc lục ngoạt, các xã vùng Biển Ngang Thạch Hà…
|
Giới thiệu khái quát thành phố Hà Tĩnh
Thành phố
Hà Tĩnh
, tiếng địa phương còn gọi là Hà Tịnh; là một thành phố trực thuộc tỉnh
Hà Tĩnh
, đồng thời cũng là tỉnh lỵ của tỉnh. Thành phố Hà Tĩnh hiện đang là
đô thị loại II
.
Thành phố Hà Tĩnh ở vị trí từ 18°B đến 18°24’B, 105°53’Đ đến 105°56’Đ.
Thành phố nằm giữa sông Cày và sông Rào Cái, nằm về phía nam Cửa Sót, có quốc lộ 1A chạy qua.
Thành phố Hà Tĩnh cách Vinh Bắc Bộ 5 km về phía đông, cách thành phố Vinh 50 km về phía nam và cách thành phố Huế 314 km về phía bắc.
Thành phố Hà Tĩnh nằm ở trung tâm miền đông Hà Tĩnh, trên vùng đồng bằng Nghệ Tĩnh. Địa giới hành chính của thành phố:
Phía bắc giáp thị trấn Thạch Hà (huyện Thạch Hà) qua cầu Cày với ranh giới là sông Cửa Sót.
Phía tây giáp các xã Thạch Đài, Thạch Tân (huyện Thạch Hà) với ranh giới là sông Cày.
Phía nam giáp các xã Cẩm Bình, Cẩm Vịnh (huyện Cẩm Xuyên).
Phía đông giáp sông Đồng Môn (thuộc huyện Thạch Hà và Lộc Hà).
Tài nguyên nước
Hà Tĩnh có nguồn nước phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày đặc. Với 266 hồ chứa có tổng dung tích trữ trên 600 triệu m
3
, 282 trạm bơm có tổng lưu lượng 338.000m
3
/s, 15 đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9m
3
/s với trữ lượng này hiện tại Hà Tĩnh đã phục vụ tưới được 47.737 ha/vụ.
Tài nguyên rừng và động, thực vật
Hà Tĩnh hiện có 276.003 ha rừng. Trong đó rừng tự nhiên 199.847 ha, trữ lượng 21,13 triệu m3, rừng trồng 76.156 ha, trữ lượng 2,01 triệu m3, độ che phủ của rừng đạt 45 %.
Tài nguyên khoáng sản
Khoáng sản Hà Tĩnh
nằm rải rác ở hầu khắp các huyện trong tỉnh, từ vùng ven biển đến vùng trung du miền núi. Toàn tỉnh có 91 mỏ và điểm khoáng sản
Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn
Hà Tĩnh thuộc vùng du lịch Bắc bộ, tiểu vùng du lịch Nam Bắc bộ gồm Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong chiến lược phát triển chung của cả nước, du lịch Hà Tĩnh được xác nhận là một điểm quan trọng trên tuyến xuyên Việt có tính chất trung chuyển.
Tài nguyên Biển
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với nhiều cửa sông lớn, là những ngư trường lớn để khai thác hải sản. Theo kết quả nghiên cứu, biển Hà Tĩnh có trên 267 loài cá, thuộc 90 họ, trong đó có 60 loài có giá trị kinh tế cao, 20 loài tôm, nhiều loài nhuyễn thể như sò, mực…
Lịch sử hình thành
Vùng đất này, thời cổ xưa là đất Việt Thường; dưới thời Bắc thuộc nằm trong châu Phúc Lộc; đời Tiền Lê (980-1008) thuộc châu Thạch Hà; từ 1025 đời Lý, có thể thuộc trại Định Phiên; đời Trần – Hồ (1226-1407) thuộc châu Nhật Nam; thời thuộc Minh (1407-1427) là đất huyện Bàn Thạch, châu Nam Tĩnh; từ 1469, vua Lê Thánh Tôn định bản đồ đất nước cho đến đầu đời Nguyễn là đất Thạch Hà, phủ Hà Hoa, Thừa Tuyên Nghệ An.
Năm Tân Mão (1831), niên hiệu Minh mệnh thứ 12, tỉnh Hà Tĩnh được thiết lập, tỉnh lỵ đặt trên đất xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà.
Tháng 2-1886 Pháp đưa quân vào chiếm tỉnh thành Hà Tĩnh và ra sức xây dựng tỉnh lỵ thành một trung tâm đô thị đủ điều kiện phục vụ bộ máy cai trị.
Ngày 03/7/1924, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã Hà Tĩnh. Cho đến năm 1942, Thị xã Hà Tĩnh chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ bé với diện tích 247 ha và 4.400 dân. Ngoài 4 xã mới sát nhập năm 1920 là Đông Quế, Xã Tắc, Trung Hậu, Tiền Bạt, nội thị chia làm 8 khu phố: Tịnh Trung, Hoàn Thị, Tiền Môn, Hậu Môn, Tả Môn, Hữu Môn, Tân Giang, Nam Ngạn.
Trước tháng 8/1945, Thị xã Hà Tĩnh chưa phải là một cấp hành chính, việc cai trị do chính quyền cấp tỉnh trực tiếp đảm nhiệm.
Sau Cách mạng Tháng Tám(1945), Thị xã Hà Tĩnh được nâng lên thành đơn vị hành chính ngang huyện, trực thuộc tỉnh. Diện tích 1,2km2 và dân số khoảng dưới 5.000 người.
Từ năm 1948 đến năm 1957, Thị xã Hà Tĩnh không trực thuộc tỉnh và chỉ là một đơn vị hành chính ngang xã, thuộc huyện Thạch Hà.
Năm 1958, Thị xã trở lại là đơn vụ hành chính trực thuộc tỉnh, nhưng cũng chỉ là một đơn vị cơ sở ngang xã. Năm 1960, Thị xã Hà Tĩnh được công nhận là đơn vị hành chính tương đương cấp huyện. Đến năm 1975, Thị xã Hà Tĩnh vừa làm chức năng cấp huyện, vừa làm chức năng cơ sở, trực tiếp quản lý hai tiểu khu Bắc Hà, Nam Hà.
Năm 1976, Bộ Chính trị trung ương Đảng quyết định nhập 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Thị xã Hà Tĩnh không còn là tỉnh lỵ nhưng vẫn được coi là trung tâm chính trị, kinh tế phía Nam của tỉnh.
Tháng 9 năm 1989, do yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quyết định sát nhập 6 xã của huyện Thạch Hà vào Thị xã Hà Tĩnh.
Tháng 10 năm 1991, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9 – Quốc hội khóa VIII về việc chia tách tỉnh Nghệ Tĩnh thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh, Thị xã Hà Tĩnh trở lại là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tĩnh, quy mô dân số phát triển, có điều kiện phát triển đô thị nhanh hơn.
Tháng 4 năm 1994, thành lập thêm 2 phường mới Tân Giang và Trần Phú, Thị xã Hà Tĩnh có 4 phường và 6 xã, diện tích tự nhiên 30,6km2, dân số 49.410 người.
Đầu năm 2004, Chính phủ có Nghị định mở rộng địa giới hành chính Thị xã Hà Tĩnh lần 2 nhập thêm 5 xã của huyện Thạch Hà vào và nâng cấp một số xã thành phường. Thị xã Hà Tĩnh có 15 đơn vị hành chính gồm 6 phường và 9 xã. Ngày 19/7/2006 đô thị Hà Tĩnh được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại III, đây là mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong việc xây dựng và phát triển đô thị thị xã Hà Tĩnh.
Ngày 28/5/2007 Chính phủ có Nghị định công nhận Thị xã Hà Tĩnh là thành phố trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Đến nay, sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, Thành phố Hà Tĩnh có 16 đơn vị hành chính gồm 10 phường, 6 xã: Phường Bắc Hà, Phường Nam Hà, Phường Tân Giang, Phường Trần Phú, Phường Đại Nài, Phường Hà Huy Tập, Phường Thạch Linh, Phường Nguyễn Du, Phường Thạch Quý, Phường Văn Yên, Xã Thạch Môn, Xã Thạch Hạ, Xã Thạch Trung, Xã Thạch Đồng, Xã Thạch Hưng, Xã Thạch Bình.
|
General introduction to Ha Tinh city
City
Ha Tinh
, also called Ha Tinh in the local language; is a city under the province
Ha Tinh
, which is also the provincial capital of the province. Ha Tinh city is currently
class II urban area
.
Ha Tinh city is located from 18°N to 18°24'N, 105°53'E to 105°56'E.
The city is located between the Cay River and Rao Cai River, south of Cua Sot, with National Highway 1A running through.
Ha Tinh city is 5 km east of Vinh Bac Bo, 50 km south of Vinh city and 314 km north of Hue city.
Ha Tinh city is located in the center of eastern Ha Tinh, on the Nghe Tinh plain. Administrative boundaries of the city:
The north borders Thach Ha town (Thach Ha district) across Cay bridge with the boundary being Cua Sot river.
The west borders Thach Dai and Thach Tan communes (Thach Ha district) with the boundary being the Cay River.
The south borders Cam Binh and Cam Vinh communes (Cam Xuyen district).
The east borders Dong Mon river (in Thach Ha and Loc Ha districts).
Water Resources
Ha Tinh has abundant water resources thanks to a dense system of rivers, streams, lakes and dams. With 266 reservoirs with a total storage capacity of over 600 million m3
3
, 282 pumping stations have a total flow of 338,000 m
3
/s, 15 weirs with total base flow of 6.9m
3
/s with this reserve, Ha Tinh is currently able to irrigate 47,737 hectares/crop.
Forest resources and animals and plants
Ha Tinh currently has 276,003 hectares of forest. Of which natural forests are 199,847 hectares, reserves of 21.13 million m3, planted forests are 76,156 hectares, reserves of 2.01 million m3, forest coverage reaches 45%.
Natural resources
Ha Tinh Minerals
scattered in almost every district in the province, from the coastal areas to the midland and mountainous areas. The whole province has 91 mines and mineral sites
Natural and humanistic tourism resources
Ha Tinh belongs to the Northern tourist region, the Southern Northern tourist sub-region includes Nghe An and Ha Tinh. In the general development strategy of the country, Ha Tinh tourism is confirmed as an important point on the trans-Vietnam route with a transit nature.
Marine Resources
Ha Tinh has a 137 km long coastline with many large estuaries, which are large fishing grounds for seafood exploitation. According to research results, Ha Tinh sea has over 267 species of fish, belonging to 90 families, including 60 species with high economic value, 20 species of shrimp, many mollusks such as oysters, squid...
History begin
This land, in ancient times, was the land of Viet Thuong; under the Northern domination, it was located in Phuc Loc province; Early Le Dynasty (980-1008) belonged to Thach Ha district; from 1025 Ly dynasty, possibly belonging to Dinh Phien camp; Tran - Ho dynasty (1226-1407) in Nhat Nam continent; During the Ming Dynasty (1407-1427), it was Ban Thach district, Nam Tinh province; From 1469, King Le Thanh Ton determined the map of the country until the beginning of the Nguyen Dynasty as Thach Ha land, Ha Hoa district, Thua Tuyen Nghe An.
In the year of Tan Mao (1831), the 12th year of Minh Menh, Ha Tinh province was established, the provincial capital was located in Trung Tiet commune, Thach Ha district.
In February 1886, France sent troops to occupy Ha Tinh province and tried to build the provincial capital into an urban center qualified to serve the ruling apparatus.
On July 3, 1924, the Governor General of Indochina issued a Decree establishing Ha Tinh town. Until 1942, Ha Tinh Town was just a small provincial town with an area of 247 hectares and 4,400 inhabitants. In addition to the four newly merged communes in 1920, Dong Que, Xa Tac, Trung Hau, Tien Bat, the inner city is divided into 8 neighborhoods: Tinh Trung, Hoan Thi, Tien Mon, Hau Mon, Ta Mon, Huu Mon, Tan Giang, Nam Ngan.
Before August 1945, Ha Tinh Town was not an administrative level, governance was directly undertaken by the provincial government.
After the August Revolution (1945), Ha Tinh Town was upgraded to a district-level administrative unit, directly under the province. Area of 1.2km2 and population of less than 5,000 people.
From 1948 to 1957, Ha Tinh Town was not directly under the province and was only a commune-level administrative unit, belonging to Thach Ha district.
In 1958, the Town returned to being an administrative unit under the province, but was only a commune-level unit. In 1960, Ha Tinh Town was recognized as an administrative unit equivalent to district level. By 1975, Ha Tinh Town functioned both at the district level and at the grassroots level, directly managing the two sub-areas of Bac Ha and Nam Ha.
In 1976, the Central Party Politburo decided to merge Nghe An and Ha Tinh provinces into Nghe Tinh province. Ha Tinh town is no longer the provincial capital but is still considered the southern political and economic center of the province.
In September 1989, due to socio-economic development requirements, the Council of Ministers (now the Government) decided to merge 6 communes of Thach Ha district into Ha Tinh Town.
In October 1991, implementing the Resolution of the 9th session of the 8th National Assembly on dividing Nghe Tinh province into two provinces, Nghe An and Ha Tinh, Ha Tinh Town returned to being the provincial center of Ha Tinh province. , population size grows, conditions for faster urban development.
In April 1994, two new wards, Tan Giang and Tran Phu, were established, Ha Tinh Town has 4 wards and 6 communes, natural area of 30.6km2, population of 49,410 people.
In early 2004, the Government issued a Decree expanding the administrative boundaries of Ha Tinh Town for the second time, incorporating 5 more communes of Thach Ha district and upgrading some communes into wards. Ha Tinh town has 15 administrative units including 6 wards and 9 communes. On July 19, 2006, Ha Tinh urban area was recognized by the Ministry of Construction as a type III urban area, this is an important milestone marking a new development step in the construction and urban development of Ha Tinh town.
On May 28, 2007, the Government issued a Decree recognizing Ha Tinh Town as a city under Ha Tinh province.
Up to now, after many changes in administrative boundaries, Ha Tinh City has 16 administrative units including 10 wards and 6 communes: Bac Ha Ward, Nam Ha Ward, Tan Giang Ward, Tran Phu Ward, Dai Nai Ward, Ha Huy Tap Ward, Thach Linh Ward, Nguyen Du Ward, Thach Quy Ward, Van Yen Ward, Thach Mon Commune, Thach Ha Commune, Thach Trung Commune, Thach Dong Commune, Thach Hung Commune, Thach Binh Commune.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.