vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Giới thiệu khái quát thành phố Vị Thanh VỊ TRÍ ĐỊA LÝ Thành phố Vị Thanh là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Hậu Giang và nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Hậu Giang. Địa giới hành chính: – Phía Đông giáp huyện Vị Thủy (tỉnh Hậu Giang) – Phía Tây giáp huyện Gò Quao ( tỉnh Kiên Giang ) – Phía Nam giáp huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) – Phía Bắc giáp huyện Vị Thủy (tỉnh Hậu Giang) và huyện Giồng Riềng (tỉnh Kiên Giang) Thành phố nằm trên các trục tuyến giao thông đường thủy và đường bộ quan trọng của tỉnh Hậu Giang và tiểu vùng Tây sông Hậu, có những điểm giao lưu kinh tế lớn với các huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, và với đô thị trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long là thành phố Cần Thơ. Với vai trò là đô thị trung tâm giao lưu kinh tế của tiểu vùng Tây sông Hậu và tiểu vùng Bắc bán đảo Cà Mau, nằm ở giữa tứ giác tăng trưởng Cần Thơ – Cà Mau – Kiên Giang – An Giang. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – THIÊN NHIÊN 1. Địa hình, địa mạo Khu vực nội thị của thành phố có địa hình khá bằng phẳng đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình có độ cao thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Có thể chia làm ba vùng như sau: + Vùng triều: Là vùng tiếp giáp sông Hậu về hướng Tây Bắc. Diện tích 19.200 ha, phát triển kinh tế vườn và kinh tế công nghiệp, dịch vụ. + Vùng úng triều: Tiếp giáp với vùng triều. Diện tích khoảng 16.800 ha, phát triển mạnh cây lúa có tiềm năng công nghiệp và dịch vụ. + Vùng úng: Nằm sâu trong nội đồng. Phát triển nông nghiệp đa dạng (lúa, mía, khóm…). Có khả năng phát triển mạnh về công nghiệp, dịch vụ. Có hai trục giao thông chính là quốc lộ 1A, quốc lộ 61; hai trục giao thông đường thủy quốc gia là kênh Xáng Xà No, kênh Quản lộ – Phụng Hiệp. 2. Khí hậu Thành phố Vị Thanh nằm trong vành đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, gần xích đạo; có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình là 27 độ C không có sự chênh lệch quá lớn qua các năm. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4 với 35 độ C và thấp nhất là tháng 12 với 20,30. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, chiếm từ 92-97% lượng mưa cả năm, lượng mưa thuộc loại trung bình, khoảng 1800 mm/năm, lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng 9 là 250,1 mm. Độ ẩm trung bình thấp nhất vào khoảng tháng 3 và tháng 4 (77%), giá trị độ ẩm trung bình trong năm là 82%. 3. Thủy văn Thành phố Vị Thanh có một hệ thông sông ngòi kênh rạch chằng chịt. Mật độ sông rạch khá lớn 1,5 km/km2. Do điều kiện địa lý của vùng, chế độ thủy văn của thành phố Vị Thanh vừa chịu ảnh hưởng của chế độ nguồn nước sông Hậu, vừa chịu ảnh hưởng chế độ triều của biển Đông, biển Tây và chế độ mưa nội tỉnh. 4. Địa chất Do vị trí nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, vì vậy lịch sử địa chất của thành phố cũng mang tính chất chung của lịch sử địa chất của đồng bằng sông Cửu Long. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy thành phố nằm trong vùng trũng đồng bằng sông Cửu Long, xung quanh là các khối nâng Hòn Khoai ở vịnh Thái Lan, Hà Tiên, Châu Đốc, Sài Gòn. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH Nằm ở khu vực trung tâm của đồng bằng Sông Cửu Long, tỉnh Hậu Giang nói chung và thành phố Vị Thanh nói riêng có một quá trình hình thành phát triển lâu dài với sự thay đổi liên tục về phạm vi, diện mạo cũng như tên gọi. Năm 1698, khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, toàn bộ vùng đất mới phương Nam chính thức trở thành một đơn vị hành chính mang tên Gia Định phủ. Từ thế kỉ XVI, XVII và đến cuối thế kỉ XVIII cùng với các đoàn lưu dân kéo đến khai khẩn, Mạc Cửu đến lập nghiệp, dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn đã được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, đã quy tụ cư dân góp công sức phát triển miền đất mới. Năm 1732, toàn bộ đất phương Nam được Chúa Nguyễn chia làm 3 Dinh và 1 Trấn gồm: Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hòa ngày nay), Phiên Trấn Dinh (Gia Định), Long Hồ Dinh (Vĩnh Long) và Trấn Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, Mặc Thiên Tích nối nghiệp cha, đẩy mạnh công cuộc khai khẩn ra vùng hữu ngạn sông Hậu, đến năm 1739 thì hoàn tất với 4 vùng đất mới: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) được sáp nhập vào đất Hà Tiên. Đến thời điểm này, một phần lớn vùng đất thuộc tỉnh Hậu Giang hôm nay mới thật sự chuyển mình. Trước năm 1897, khu vực huyện Giồng Riềng, Gò Quao, Long Mỹ (tỉnh Rạch Giá) mới chỉ có 2 tổng, không tới 10 thôn thì đến năm 1939, riêng quận Long Mỹ có đến 3 tổng, 12 làng. Như vậy, vùng đất xưa chủ yếu là quận Long Mỹ (tỉnh Rạch Giá) và quận Phụng Hiệp (tỉnh Cần Thơ), địa giới hành chính vẫn còn giữ cho đến suốt thời kỳ chống Pháp. Sau hiệp định Geneve 1954 vùng đất Long Mỹ – Phụng Hiệp lại có nhiều thay đổi: vào năm 1960, quận Long Mỹ tách ra và thành lập một quận mới là Đức Long. Hai quận đều trực thuộc tỉnh Phong Dinh, bao gồm các xã: Vị Thanh, Vị Thủy, Vĩnh Tường, Hỏa Lựu, Vị Đức, Hòa An (về sau bổ sung thêm một xã từ quận Giồng Riềng là Ngọc Hòa). Quận Đức Long đóng tại xã Hỏa Lựu, năm 1963 dời về xã Vị Thủy (chân cầu Nàng Mau), quá trình lập quận mới Đức Long, chính quyền Ngô Đình Diệm xây hai khu trù mật: Vị Thanh – Hỏa Lựu, khánh thành ngày 01/3/1961. Với ý đồ ngăn chặn lực lượng cách mạng từ cửa ngõ U Minh, xiết chặt việc kiểm soát dân chúng, bảo vệ Cần Thơ và vùng 4 chiến thuật, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh ngày 21/12/1961 thành lập đô thị của tỉnh Chương Thiện. Tỉnh Chương Thiện bao gồm 5 quận: Long Mỹ, Đức Long, Kiến Hưng (huyện Gò Quao, Kiên Giang ngày nay), quận Kiến Thiện (huyện Hồng Dân, Bạc Liêu ngày nay), quận Kiến Long (huyện Vĩnh Thuận, Kiên Giang ngày nay). Sau ngày giải phóng, địa giới hành chính vùng đất Long Mỹ – Vị Thanh có sự điều chỉnh: lúc đầu thành phố Vị Thanh trực thuộc tỉnh Hậu Giang cũ (1975 – 1977). Đến 01/01/1978, Vị Thanh được ghép với huyện Long Mỹ thành huyện Long Mỹ. Ngày 15/02/1983, huyện Long Mỹ tách ra thành hai huyện: Vị Thanh và Long Mỹ. Ngày 01/7/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP thành lập thị xã Vị Thanh và đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy, tất cả đều thuộc tỉnh Cần Thơ. Ngày 01/01/2004, tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay. Đến ngày 23/9/2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP thành lập thành thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang./.
General introduction to Vi Thanh city GEOGRAPHICAL LOCATION Vi Thanh city is the provincial center of Hau Giang province and located in the southwest of Hau Giang province. Administrative boundaries: – Bordered to the East Vi Thuy district (Hau Giang province) – The West borders Go Quao district ( Kien Giang Province ) – The South borders Long My district (Hau Giang province) – The North borders Vi Thuy district (Hau Giang province) and Giong Rieng district (Kien Giang province) The city is located on important waterway and road transport routes of Hau Giang province and the West Hau River sub-region, with major economic exchange points with districts of Soc Trang, Bac Lieu, Kien Giang, and Kien Giang provinces. with the central urban area of ​​the Mekong Delta key economic region being Can Tho city. As the urban economic exchange center of the West Hau River sub-region and the Northern Ca Mau peninsula sub-region, located in the middle of the growth quadrilateral of Can Tho - Ca Mau - Kien Giang - An Giang. NATURAL CONDITIONS – NATURE 1. Topography and geomorphology The inner city area of ​​the city has a fairly flat terrain typical of the Mekong Delta. The terrain has gradually lower elevation from North to South and from East to West. Can be divided into three regions as follows: + Tidal zone: Is the area adjacent to the Hau river to the northwest. Area of ​​19,200 hectares, developing garden economy and industrial and service economy. + Tidal flood zone: Adjacent to the tidal zone. The area is about 16,800 hectares, with strong development of rice crops with industrial and service potential. + Waterlogged area: Located deep in the interior of the field. Develop diverse agriculture (rice, sugarcane, pineapple...). Capable of strong development in industry and services. There are two main traffic routes: National Highway 1A and National Highway 61; The two national waterway transportation axes are Xang Xa No canal and Quan Lo - Phung Hiep canal. 2. Climate Vi Thanh city is located in the inner tropical belt of the Northern Hemisphere, near the equator; It has a tropical monsoon climate, divided into two distinct seasons. The average temperature is 27 degrees Celsius without too much difference over the years. The month with the highest temperature is April with 35 degrees Celsius and the lowest is December with 20.30. The rainy season is from May to November every year, accounting for 92-97% of the yearly rainfall. The rainfall is average, about 1800 mm/year, the highest rainfall around September is 250.1 mm. The lowest average humidity is around March and April (77%), the average humidity value during the year is 82%. 3. Hydrology Vi Thanh city has an intricate system of rivers and canals. The density of rivers and canals is quite large at 1.5 km/km2. Due to the geographical conditions of the region, the hydrological regime of Vi Thanh city is both influenced by the Hau River water source regime, and by the tidal regime of the East and West Seas and the rainfall regime within the province. 4. Geology Due to its location in the center of the Mekong Delta, the city's geological history also has the general nature of the geological history of the Mekong Delta. Research results show that the city is located in the lowland area of ​​the Mekong Delta, surrounded by the Hon Khoai uplift blocks in the Gulf of Thailand, Ha Tien, Chau Doc, and Saigon. HISTORY BEGIN Located in the central area of ​​the Mekong Delta, Hau Giang province in general and Vi Thanh city in particular have a long process of formation and development with continuous changes in scope, appearance as well as name. call. In 1698, when Marquis Le Thanh Nguyen Huu Canh invaded the capital, the entire southern new land officially became an administrative unit named Gia Dinh Phu. From the 16th, 17th and late 18th centuries, along with immigrant groups coming to explore, Mac Cuu came to settle down, under the protection of Lord Nguyen, he was appointed General of Ha Tien, and gathered residents. People contribute to the development of new lands. In 1732, the entire Southern land was divided by Lord Nguyen into 3 palaces and 1 town including: Tran Bien Dinh (present-day Bien Hoa region), Tran Dinh Tran (Gia Dinh), Long Ho Dinh (Vinh Long) and Tran Ha Tien . After Mac Cuu's death, Mac Thien Tich succeeded his father, promoting the exploration of the right bank of the Hau River, and by 1739, it was completed with 4 new lands: Long Xuyen (Ca Mau), Kien Giang (Rach Gia). ), Tran Giang (Can Tho), Tran Di (Bac Lieu) were merged into Ha Tien. At this point, a large part of the land in Hau Giang province today has truly transformed. Before 1897, Giong Rieng, Go Quao, Long My district (Rach Gia province) had only 2 cantons, less than 10 villages. By 1939, Long My district alone had 3 cantons, 12 villages. Thus, the ancient lands were mainly Long My district (Rach Gia province) and Phung Hiep district (Can Tho province), administrative boundaries remained until the anti-French period. After the 1954 Geneva Agreement, Long My - Phung Hiep land had many changes: in 1960, Long My district separated and established a new district, Duc Long. The two districts are both under Phong Dinh province, including communes: Vi Thanh, Vi Thuy, Vinh Tuong, Hoa Luu, Vi Duc, Hoa An (later adding a commune from Giong Rieng district, Ngoc Hoa). Duc Long district was located in Hoa Luu commune, in 1963 moved to Vi Thuy commune (foot of Nang Mau bridge), in the process of establishing a new Duc Long district, Ngo Dinh Diem government built two dense areas: Vi Thanh - Hoa Luu, inaugurated. March 1, 1961. With the intention of preventing revolutionary forces from the U Minh gateway, tightening control of the population, and protecting Can Tho and the 4th tactical area, Ngo Dinh Diem signed a decree on December 21, 1961 to establish the city of Chuong Thien province. Chuong Thien province includes 5 districts: Long My, Duc Long, Kien Hung (present-day Go Quao district, Kien Giang), Kien Thien district (present-day Hong Dan district, Bac Lieu), Kien Long district (present-day Vinh Thuan district, Kien Giang). Giang today). After liberation, the administrative boundaries of Long My - Vi Thanh land were adjusted: initially Vi Thanh city belonged to the old Hau Giang province (1975 - 1977). On January 1, 1978, Vi Thanh was merged with Long My district to become Long My district. On February 15, 1983, Long My district split into two districts: Vi Thanh and Long My. On July 1, 1999, the Government issued Decree Không. 45/1999/ND-CP establishing Vi Thanh town and changing the name of Vi Thanh district to Vi Thuy district, all belonging to Can Tho province. On January 1, 2004, Can Tho province was divided into Can Tho city under the Central Government and Hau Giang province today. On September 23, 2010, the Government issued Resolution Không. 34/NQ-CP to establish Vi Thanh city in Hau Giang province./.
Giới thiệu khái quát huyện Lương Sơn Lương Sơn là huyện cửa ngõ phía đông của tỉnh Hòa Bình , tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội với vùng Tây bắc của Tổ quốc, gần với khu Công nghệ cao Hòa Lạc, khu đô thị Phú Cát, Miếu Môn, Đại học Quốc gia, Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Huyện nằm ở tọa độ địa lí: từ 105 0 25 ’ 14 ” – 105 0 41 ’ 25 ” Kinh độ Đông; 20 0 36 ’ 30 ” – 20 0 57 ’ 22 ” Vĩ độ Bắc. Phía tây giáp huyện Kỳ Sơn. Phía nam giáp các huyện Kim Bôi và Lạc Thủy. Phía đông giáp các huyện Mỹ Đức, Chương Mỹ; phía bắc giáp huyện Quốc Oai (thành phố Hà Nội). Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 36.488,85 ha, được chia thành 20 đơn vị hành chính, bao gồm 19 xã và 1 thị trấn ( Cao Răm, Cư Yên, Hòa Sơn, Hợp Hòa, Lâm Sơn, Liên Sơn, Nhuận Trạch, Tân Vinh, Thành Lập, Tiến Sơn, Trường Sơn, Trung Sơn, Tân Thành, Cao Dương, Hợp Châu, Cao Thắng, Long Sơn, Thanh Lương, Hợp Thanh và Thị trấn Lương Sơn). Trung tâm huyện đóng tại thị trấn Lương Sơn- Là trung tâm kinh tế , chính trị, văn hóa của huyện; cách Thủ đô Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây và cách thành phố Hòa Bình khoảng 30 km về phía Đông. Có đường quốc lộ số 6A, đường Hồ Chí Minh đi qua, có tài nguyên phong phú và nguồn lao động dồi dào. Lương Sơn có lợi thế về vị trí địa lí, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội giữa miền núi Tây bắc với vùng đồng bằng sông Hồng ( cũng như Thủ đô Hà Nội). Điều kiện tự nhiên: Về địa hình, huyện Lương Sơn thuộc vùng trung du – nơi chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi, nên địa hình rất đa dạng. Địa hình đồi núi thấp có độ cao sàn sàn nhau khoảng 200-400m được hình thành bởi đá macma, đá vôi và các trầm tích lục nguyên, có mạng lưới sông , suối khá dày đặc. Khí hậu Lương Sơn thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa đông lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nền nhiệt trung bình cả năm 22,9 – 23,3 0 c. Lượng mưa bình quân từ 1.520,7- 2.255,6 mm/ năm, nhưng phân bố không đều trong năm và ngay cả trong mùa cũng rất thất thường. Lương Sơn có mạng lưới sông, suối phân bố tương đối đồng đều trong các xã.Con sông lớn nhất chảy qua huyện là sông Bùi, bắt nguồn từ dãy núi Viên Nam cao 1.029m thuộc xã Lâm Sơn dài 32 km. Đầu tiên sông chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, khi đến xã Tân Vinh thì nhập với suối Bu ( bắt nguồn từ xã Trường Sơn), dòng sông đổi hướng chảy quanh co, uốn khúc theo hướng Tây – Đông cho đến hết địa phận huyện. Sông Bùi mang tính chất một con sông già, thung lũng rộng, đáy bằng, độ dốc nhỏ, có khả năng tích nước. Ngoài sông Bùi trong huyện còn một số sông, suối nhỏ “nội địa” có khả năng tiêu thoát nước tốt. Đặc điểm của hệ thống sông, suối trong huyện có ý nghĩa về mặt kinh tế, rất thuận lợi cho việc xây dựng các hồ chứa sử dụng chống lũ và kết hợp với tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Có thể thấy, điều kiện khí hậu, thủy văn, sông ngòi đã tạo cho Lương Sơn những thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng vụ và phát triển lâm nghiệp. Hệ thống sông suối, hồ đập không những là nguồn tài nguyên cung cấp nước cho sinh hoạt và đời sống nhân dân mà còn có tác dụng điều hòa khí hậu, cải thiện môi trường sinh thái và phát triển nguồn lợi thủy sản. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên nước: Nước ngầm ở Lương Sơn có trữ lượng khá lớn, chất lượng nước phần lớn chưa bị ô nhiễm, lại được phân bố khắp các vùng trên địa bàn huyện. Tài nguyên nước mặt gồm nước sông, suối và nước mưa, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở vùng phía Bắc huyện và một số hồ đập nhỏ phân bố rải rác toàn huyện. Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất lâm nghiệp là 18.733,19 ha chiếm 49,68% diện tích tự nhiên. Rừng tự nhiên của huyện khá đa dạng và phong phú với nhiều loại gỗ quý. Nhưng do tác động của con người, rừng đã mất đi quá nhiều và thay thế chúng là rừng thứ sinh. Diện tích rừng phân bố ở tất cả các xã trong huyện. Nhờ quan tâm phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại rừng đã góp phần đem lại thu nhập cao cho người dân và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước đầu nguồn, cải thiện cảnh quan khu vực. Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn huyện có các loại khoáng sản trữ lượng lớn đó là đá vôi, đá xây dựng, đất sét, đá bazan và quặng đa kim. Tài nguyên du lịch: Với vị trí thuận lợi gần Thủ đô Hà Nội và địa hình xen kẽ nhiều núi đồi, thung lũng rộng phẳng, kết hợp với hệ thống sông, suối, hồ tự nhiên, nhân tạo cùng với hệ thống rừng… đã tạo cảnh quan thiên nhiên và điều kiện phù hợp để huyện Lương Sơn phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, sân golf. Trên địa bàn huyện có nhiều danh lam thắng cảnh, di chỉ khảo cổ học, hệ thống hang động, núi đá tự nhiên như: hang Trầm, hang Rồng, hang Tằm, hang Trổ…động Đá Bạc, động Long Tiên… đây là những tiềm năng để phát triển những tour du lịch danh lam thắng cảnh kết hợp với nghỉ dưỡng. Ngoài ra Lương Sơn cũng là huyện có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa vật thể và phi vật thể. Điều kiện Kinh tế – Xã hội: Dân số toàn huyện 98.856 người gồm 3 dân tộc chính là Mường, Dao, Kinh, trong đó người Mường chiếm khoảng 70% dân số. Lực lượng lao động đông, số lao động phi nông nghiệp ngày càng gia tăng, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 55%, điều này cho thấy huyện có thế mạnh về nguồn lực lao động. Năm 2016, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức song dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, giám sát của HĐND, sự chỉ đạo điều hành của UBND huyện và nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp, nền kinh tế – xã hội của huyện Lương Sơn tiếp tục được duy trì ổn định và phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 1930 tỷ đồng; thu ngân sách Nhà nước được 183,2 tỷ đồng, tăng 21,5% so với dự toán; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành Công nghiệp – Xây dựng chiếm 54,8%, Thương mại và dịch vụ 29%, Nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm còn 16,2%; kim ngạch xuất khẩu tăng cao 73,5%, đạt 347 triệu USD; thu nhập bình quân đầu người đạt 43 triệu đồng/ năm; giữ vững 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới và tăng thêm 1 xã đạt 19/ 19 tiêu chí, nâng tỷ lệ bình quân các xã trong huyện đạt 15,7 tiêu chí/ xã; tỷ lệ đô thị hóa nhanh; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 78,8%%; chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt, với 92% hộ gia đình được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; ổn định độ che phủ rừng ở mức 46%. Năm 2016, huyện Lương Sơn có 15/16 chỉ tiêu kinh tế – xã hội đạt và vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết HĐND huyện đề ra ( có 1 chỉ tiêu không hoàn thành là tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,3/ 1,7% kế hoạch). Đây là điều kiện thuận lợi để huyện Lương Sơn phát triển thành vùng động lực kinh tế của tỉnh Hòa Bình. Thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 11/5/2012 của Tỉnh ủy Hòa Bình, huyện Lương Sơn sẽ phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, quản lý sử dụng hợp lý tài nguyên, thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Với mục tiêu tổng quát là huy động các nguồn lực, xây dựng vùng trung tâm huyện Lương Sơn thành đô thị loại IV vào năm 2020, tạo tiền đề để sớm trở thành thị xã Lương Sơn vào năm 2025. Thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn huyện, mở mang các ngành nghề SXKD đa dạng, tạo thêm sức mạnh mới cho kinh tế của Hòa Bình nói chung, huyện Lương Sơn nói riêng. Nghị quyết đã đưa ra các chỉ tiêu phát triển đô thị đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, các chỉ tiêu định hướng trở thành thị xã đến năm 2025. Theo đó, quy hoạch chung đô thị Lương Sơn là trung tâm tổng hợp, đầu mối giao thông, giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội, có vai trò thúc đẩy kinh tế – xã hội của tỉnh, khẳng định vị thế của Hòa Bình trong chiến lược phát triển Thủ đô. Với những lợi thế về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và dân số, sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh Hòa Bình, trong những năm qua huyện Lương Sơn đã thu hút được 151 dự án trong và ngoài nước đến đầu tư vào địa bàn, trong đó có 17 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) với tổng vốn đầu tư đăng ký 276 triệu USD; 134 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng kí 14.467 tỷ đồng, nhờ vậy đã tạo nhiều việc làm cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương và thúc đẩy nền kinh tế của huyện phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nâng cao tỷ trọng Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp, tiếp đến là Thương mại- Dịch vụ và giảm dần tỷ trọng Nông- Lâm – Ngư nghiệp, tiến tới xây dựng huyện Lương Sơn sớm trở thành hạt nhân vùng động lực kinh tế của tỉnh Hòa Bình./.
Giới thiệu khái quát huyện Lương Sơn Lương Sơn là huyện cửa ngõ phía đông của tỉnh Hòa Bình , tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội với vùng Tây bắc của Tổ quốc, gần với khu Công nghệ cao Hòa Lạc, khu đô thị Phú Cát, Miếu Môn, Đại học Quốc gia, Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Huyện nằm ở tọa độ địa lí: từ 105 0 25 ’ 14 ” – 105 0 41 ’ 25 ” Kinh độ Đông; 20 0 36 ’ 30 ” – 20 0 57 ’ 22 ” Vĩ độ Bắc. Phía tây giáp huyện Kỳ Sơn. Phía nam giáp các huyện Kim Bôi và Lạc Thủy. Phía đông giáp các huyện Mỹ Đức, Chương Mỹ; phía bắc giáp huyện Quốc Oai (thành phố Hà Nội). Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 36.488,85 ha, được chia thành 20 đơn vị hành chính, bao gồm 19 xã và 1 thị trấn ( Cao Răm, Cư Yên, Hòa Sơn, Hợp Hòa, Lâm Sơn, Liên Sơn, Nhuận Trạch, Tân Vinh, Thành Lập, Tiến Sơn, Trường Sơn, Trung Sơn, Tân Thành, Cao Dương, Hợp Châu, Cao Thắng, Long Sơn, Thanh Lương, Hợp Thanh và Thị trấn Lương Sơn). Trung tâm huyện đóng tại thị trấn Lương Sơn- Là trung tâm kinh tế , chính trị, văn hóa của huyện; cách Thủ đô Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây và cách thành phố Hòa Bình khoảng 30 km về phía Đông. Có đường quốc lộ số 6A, đường Hồ Chí Minh đi qua, có tài nguyên phong phú và nguồn lao động dồi dào. Lương Sơn có lợi thế về vị trí địa lí, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội giữa miền núi Tây bắc với vùng đồng bằng sông Hồng ( cũng như Thủ đô Hà Nội). Điều kiện tự nhiên: Về địa hình, huyện Lương Sơn thuộc vùng trung du – nơi chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi, nên địa hình rất đa dạng. Địa hình đồi núi thấp có độ cao sàn sàn nhau khoảng 200-400m được hình thành bởi đá macma, đá vôi và các trầm tích lục nguyên, có mạng lưới sông , suối khá dày đặc. Khí hậu Lương Sơn thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa đông lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nền nhiệt trung bình cả năm 22,9 – 23,3 0 c. Lượng mưa bình quân từ 1.520,7- 2.255,6 mm/ năm, nhưng phân bố không đều trong năm và ngay cả trong mùa cũng rất thất thường. Lương Sơn có mạng lưới sông, suối phân bố tương đối đồng đều trong các xã.Con sông lớn nhất chảy qua huyện là sông Bùi, bắt nguồn từ dãy núi Viên Nam cao 1.029m thuộc xã Lâm Sơn dài 32 km. Đầu tiên sông chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, khi đến xã Tân Vinh thì nhập với suối Bu ( bắt nguồn từ xã Trường Sơn), dòng sông đổi hướng chảy quanh co, uốn khúc theo hướng Tây – Đông cho đến hết địa phận huyện. Sông Bùi mang tính chất một con sông già, thung lũng rộng, đáy bằng, độ dốc nhỏ, có khả năng tích nước. Ngoài sông Bùi trong huyện còn một số sông, suối nhỏ “nội địa” có khả năng tiêu thoát nước tốt. Đặc điểm của hệ thống sông, suối trong huyện có ý nghĩa về mặt kinh tế, rất thuận lợi cho việc xây dựng các hồ chứa sử dụng chống lũ và kết hợp với tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Có thể thấy, điều kiện khí hậu, thủy văn, sông ngòi đã tạo cho Lương Sơn những thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng vụ và phát triển lâm nghiệp. Hệ thống sông suối, hồ đập không những là nguồn tài nguyên cung cấp nước cho sinh hoạt và đời sống nhân dân mà còn có tác dụng điều hòa khí hậu, cải thiện môi trường sinh thái và phát triển nguồn lợi thủy sản. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên nước: Nước ngầm ở Lương Sơn có trữ lượng khá lớn, chất lượng nước phần lớn chưa bị ô nhiễm, lại được phân bố khắp các vùng trên địa bàn huyện. Tài nguyên nước mặt gồm nước sông, suối và nước mưa, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở vùng phía Bắc huyện và một số hồ đập nhỏ phân bố rải rác toàn huyện. Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất lâm nghiệp là 18.733,19 ha chiếm 49,68% diện tích tự nhiên. Rừng tự nhiên của huyện khá đa dạng và phong phú với nhiều loại gỗ quý. Nhưng do tác động của con người, rừng đã mất đi quá nhiều và thay thế chúng là rừng thứ sinh. Diện tích rừng phân bố ở tất cả các xã trong huyện. Nhờ quan tâm phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại rừng đã góp phần đem lại thu nhập cao cho người dân và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước đầu nguồn, cải thiện cảnh quan khu vực. Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn huyện có các loại khoáng sản trữ lượng lớn đó là đá vôi, đá xây dựng, đất sét, đá bazan và quặng đa kim. Tài nguyên du lịch: Với vị trí thuận lợi gần Thủ đô Hà Nội và địa hình xen kẽ nhiều núi đồi, thung lũng rộng phẳng, kết hợp với hệ thống sông, suối, hồ tự nhiên, nhân tạo cùng với hệ thống rừng… đã tạo cảnh quan thiên nhiên và điều kiện phù hợp để huyện Lương Sơn phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, sân golf. Trên địa bàn huyện có nhiều danh lam thắng cảnh, di chỉ khảo cổ học, hệ thống hang động, núi đá tự nhiên như: hang Trầm, hang Rồng, hang Tằm, hang Trổ…động Đá Bạc, động Long Tiên… đây là những tiềm năng để phát triển những tour du lịch danh lam thắng cảnh kết hợp với nghỉ dưỡng. Ngoài ra Lương Sơn cũng là huyện có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa vật thể và phi vật thể. Điều kiện Kinh tế – Xã hội: Dân số toàn huyện 98.856 người gồm 3 dân tộc chính là Mường, Dao, Kinh, trong đó người Mường chiếm khoảng 70% dân số. Lực lượng lao động đông, số lao động phi nông nghiệp ngày càng gia tăng, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 55%, điều này cho thấy huyện có thế mạnh về nguồn lực lao động. Năm 2016, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức song dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, giám sát của HĐND, sự chỉ đạo điều hành của UBND huyện và nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp, nền kinh tế – xã hội của huyện Lương Sơn tiếp tục được duy trì ổn định và phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 1930 tỷ đồng; thu ngân sách Nhà nước được 183,2 tỷ đồng, tăng 21,5% so với dự toán; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành Công nghiệp – Xây dựng chiếm 54,8%, Thương mại và dịch vụ 29%, Nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm còn 16,2%; kim ngạch xuất khẩu tăng cao 73,5%, đạt 347 triệu USD; thu nhập bình quân đầu người đạt 43 triệu đồng/ năm; giữ vững 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới và tăng thêm 1 xã đạt 19/ 19 tiêu chí, nâng tỷ lệ bình quân các xã trong huyện đạt 15,7 tiêu chí/ xã; tỷ lệ đô thị hóa nhanh; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 78,8%%; chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt, với 92% hộ gia đình được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; ổn định độ che phủ rừng ở mức 46%. Năm 2016, huyện Lương Sơn có 15/16 chỉ tiêu kinh tế – xã hội đạt và vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết HĐND huyện đề ra ( có 1 chỉ tiêu không hoàn thành là tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,3/ 1,7% kế hoạch). Đây là điều kiện thuận lợi để huyện Lương Sơn phát triển thành vùng động lực kinh tế của tỉnh Hòa Bình. Thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 11/5/2012 của Tỉnh ủy Hòa Bình, huyện Lương Sơn sẽ phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, quản lý sử dụng hợp lý tài nguyên, thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Với mục tiêu tổng quát là huy động các nguồn lực, xây dựng vùng trung tâm huyện Lương Sơn thành đô thị loại IV vào năm 2020, tạo tiền đề để sớm trở thành thị xã Lương Sơn vào năm 2025. Thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn huyện, mở mang các ngành nghề SXKD đa dạng, tạo thêm sức mạnh mới cho kinh tế của Hòa Bình nói chung, huyện Lương Sơn nói riêng. Nghị quyết đã đưa ra các chỉ tiêu phát triển đô thị đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, các chỉ tiêu định hướng trở thành thị xã đến năm 2025. Theo đó, quy hoạch chung đô thị Lương Sơn là trung tâm tổng hợp, đầu mối giao thông, giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội, có vai trò thúc đẩy kinh tế – xã hội của tỉnh, khẳng định vị thế của Hòa Bình trong chiến lược phát triển Thủ đô. Với những lợi thế về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và dân số, sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh Hòa Bình, trong những năm qua huyện Lương Sơn đã thu hút được 151 dự án trong và ngoài nước đến đầu tư vào địa bàn, trong đó có 17 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) với tổng vốn đầu tư đăng ký 276 triệu USD; 134 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng kí 14.467 tỷ đồng, nhờ vậy đã tạo nhiều việc làm cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương và thúc đẩy nền kinh tế của huyện phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nâng cao tỷ trọng Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp, tiếp đến là Thương mại- Dịch vụ và giảm dần tỷ trọng Nông- Lâm – Ngư nghiệp, tiến tới xây dựng huyện Lương Sơn sớm trở thành hạt nhân vùng động lực kinh tế của tỉnh Hòa Bình./.
Giới thiệu khái quát huyện Cao Phong Huyện Cao Phong ở vào toạ độ địa lý 105 o 10’ – 105 o 25’12” vĩ bắc và 20 o 35’20” – 20 o 46’34” kinh đông. Cao Phong là một trong số các huyện vùng cao của tỉnh Hoà Bình, có đường ranh giới phía đông giáp huyện Kim Bôi, phía tây giáp huyện Tân Lạc, phía bắc giáp huyện Đà Bắc và thị xã Hoà Bình, phía nam giáp huyện Lạc Sơn, đều thuộc tỉnh Hoà Bình. Tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện là 254 km 2 ( chiếm 5,4% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Hoà Bình ), dân số trung bình là 40.170 người ( chiếm 5,1% dân số toàn tỉnh ), mật độ dân số là 158 người/km 2 ( chỉ bằng 0,9 lần mật độ dân số cả tỉnh ). Độ cao trung bình của toàn huyện là 399 m. Tuy là một huyện vùng cao nhưng trên địa bàn huyện Cao Phong lại có ít núi cao. Nhìn chung, địa hình của huyện có cấu trúc thoai thoải, độ dốc trung bình của đồi núi khoảng 10-15 o , chủ yếu là đồi dạng bát úp, thấp dần theo chiều từ đông nam đến tây bắc. Căn cứ vào địa hình, có thể phân chia huyện Cao Phong thành ba vùng: vùng núi cao ( gồm 2 xã: Yên Thượng, Yên Lập ), vùng giữa ( gồm 8 xã: Dũng Phong, Nam Phong, Tây Phong, Tân Phong, Đông Phong, Xuân Phong, Thu Phong, Bắc Phong và thị trấn Cao Phong ) và vùng ven sông Đà ( gồm 2 xã: Bình Thanh và Thung Nai ). Do điều kiện tự nhiên đa dạng, phức tạp nên Cao Phong có điều kiện rất thuận lợi để hình thành nền nông nghiệp đa dạng về cây trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, địa hình đa dạng và phức tạp như vậy cũng sẽ gây khó khăn trong việc thiết kế, xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng của các công trình thủy lợi và các cơ sở hạ tầng khác. Khí hậu Cao Phong thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều; mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 đến 24 o C. Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao, dao động từ 1.800 đến 2.200 mm. Tuy vậy, lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu trong các tháng 7, 8 và 9 nên dễ gây úng lụt, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Nhìn một cách tổng thể, khí hậu Cao Phong thuộc loại mát mẻ, lượng mưa khá và tương đối điều hòa. Điều kiện khí hậu như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi với nhiều hình thức canh tác hoặc mô hình chăn nuôi khác nhau. Hạn chế lớn nhất của khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp là nạn thiếu nước vào mùa khô, đặc biệt là ở những vùng chưa có các công trình thủy lợi. Về mùa đông, bên cạnh sự khô hạn, các yếu tố khí hậu khác như: nhiệt độ xuống thấp, sương muối, không đủ ánh sáng cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển. Trên địa bàn huyện Cao Phong có nhiều loại đất khác nhau. Ở vùng địa hình đồi núi có các loại đất: nâu vàng, đỏ vàng, nâu đỏ và mùn đỏ vàng. Vùng địa hình thấp có các loại đất: phù sa, dốc tụ… Nhìn chung, đa số các loại đất ở Cao Phong có độ phì cao, thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây khác nhau, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả cũng như phát triển chăn nuôi. Trong cơ cấu sử dụng đất của huyện Cao Phong, tính đến cuối năm 2002, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ không lớn (16,4%), trong khi đó, đất chưa sử dụng chiếm tỷ lệ khá cao ( 51,31% ), chủ yếu là đất đồi núi. Đây chính là tiềm năng cho việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả… và cũng đặt ra nhiệm vụ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc cho địa phương. Trên địa bàn huyện Cao Phong có sông Đà và hàng chục con suối lớn nhỏ chảy qua. Tuy nhiên, do nền địa chất nơi đây nằm trong miền hoạt động cacxtơ hoá mạnh, cộng với tình trạng tàn phá rừng đầu nguồn, nên vào mùa khô, nhiều suối có lưu lượng nước rất ít hoặc bị cạn kiệt. Theo những số liệu đánh giá chung về nguồn nước ở vùng Tây Bắc, tiềm năng nước ngầm ở Cao Phong tương đối dồi dào, có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Hiện nay, các giếng nước trong các hộ dân ở bản, làng đang khai thác thường có độ sâu trên dưới 20 m và cho nước có chất lượng khá tốt. Cao Phong có thảm thực vật tương đối đa dạng, bao gồm nhiều loại: gỗ, tre, nứa và gần đây trồng thêm các loại cây ăn quả, keo lá tràm… Tính đến cuối năm 2002, trên địa bàn huyện có 6.200,25 ha đất lâm nghiệp có rừng, chiếm tỷ trọng 24,38% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong số đó, đất có rừng tự nhiên là 3.448,73 ha, tập trung nhiều ở các xã ven hồ sông Đà và các xã vùng cao. Đất có rừng trồng là 2.751,52 ha và đất ươm cây giống có 1,5 ha. Theo kết quả điều tra thăm dò gần đây, Cao Phong có một số loại khoáng sản chính như: đất sét, cát, sỏi, quặng perit, quặng đồng, than… Ngoài các mỏ đất sét và vật liệu xây dựng dễ khai thác và thuận tiện trong việc vận chuyển, còn các mỏ khoáng sản khác thì cần tiếp tục khảo sát, đánh giá cụ thể về trữ lượng và khả năng khai thác. Ngoài ra, Cao Phong còn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch vì có hai xã nằm trong khu vực lòng hồ sông Đà, lại có nhiều xóm, bản với các lễ hội đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số, như bản Giang Mỗ ( người Dao ) ở xã Bình Thanh, có các di tích lịch sử, văn hóa như di tích Anh hùng Cù Chính Lan, căn cứ Cao Phong – Thạch Yên,… Nếu được đầu tư, các địa chỉ văn hoá này đều là các danh lam thắng cảnh có khả năng thu hút khách du lịch. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vùng đất Cao Phong thuộc châu Kỳ Sơn. Lúc đó, châu Kỳ Sơn gồm có 4 tổng: Cao Phong ( gồm 2 xã: Cao Phong và Thạch Yên ), Quỳnh Lâm ( gồm 2 xã: Quỳnh Lâm và Phương Lâm ), Mông Hóa ( gồm 5 xã: Mông Hóa, Trung Minh, Túy Cổ Thượng, Túy Cổ Hạ và Mại Thôn ) và Hòa Bình ( gồm 3 xã: Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Mông ). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bãi bỏ cấp hành chính tổng, theo đó, châu Kỳ Sơn lúc này gồm 11 xã: Cao Phong, Thạch Yên, Quỳnh Lâm, Trung Minh, Phú Cường, Mông Hóa, Tiến Xuân, Yên Quang, Hoà Bình, Yên Mông và Thịnh Lang. Đến tháng 1-1948, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III quyết định chuyển 3 xã Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Mông về châu Mai Đà. Tháng 10-1948, Ủy ban kháng chiến tỉnh Hòa Bình quyết định nhập 3 xã Túy Cổ Thượng, Túy Cổ Hạ và Mại Thôn thành xã Phú Cường; chuyển 2 xã Tiến Xuân và Yên Quang về huyện Kỳ Sơn. Tại thời điểm này, huyện Kỳ Sơn có 8 xã là: Cao Phong, Thạch Yên, Quỳnh Lâm, Trung Minh, Phú Cường, Mông Hóa, Tiến Xuân và Yên Quang. Tháng 1-1951, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III quyết định chuyển 3 xã Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Mông về huyện Kỳ Sơn. Tháng 8-1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III quyết định chia xã Thạch Yên thành 2 xã Yên Thượng và Yên Lập; chia xã Cao Phong thành 8 xã: Dũng Phong, Nam Phong, Tân Phong, Tây Phong, Thu Phong, Xuân Phong, Đông Phong và Bắc Phong. Tháng 6-1955, xã Yên Quang được chia thành 3 xã: Yên Quang, Yên Bình và Yên Trung. Ngày 22-1-1957, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III chia xã Mông Hóa thành 4 xã: Mông Hóa, Dân Hòa, Dân Hạ và Phúc Tiến; chia xã Tiến Xuân thành 2 xã: Tiến Xuân và Đông Xuân; hợp nhất 2 xã Sủ Ngòi, Sủ Bến thành xã Sủ Ngòi. Qua thời kỳ dài tương đối ổn định, cho đến năm 1968, địa giới hành chính của huyện lại bắt đầu có nhiều thay đổi: Ngày 8-2-1968: Thành lập thị trấn Nông trường Cao Phong. Ngày 3-8-1978: Chuyển xã Hòa Bình và xã Thịnh Lang về thị xã Hòa Bình. Ngày 28-2-1985: Chuyển xã Thung Nai của huyện Đà Bắc về huyện Kỳ Sơn. Ngày 24-8-1988: Chuyển 4 xã Dân Chủ, Sủ Ngòi, Thống Nhất và Yên Mông về thị xã Hòa Bình. – Ngày 1-8-1994: Giải thể thị trấn Nông trường Cao Phong, thành lập thị trấn Cao Phong, đồng thời thành lập huyện lỵ Kỳ Sơn trên địa bàn xã Dân Hạ ở phía đông bắc thị xã Hoà Bình. Qua nhiều biến đổi trong các giai đoạn lịch sử, cho đến năm 2000, huyện Kỳ Sơn đã tương đối ổn định với 21 xã: Yên Thượng, Yên Lập, Dũng Phong, Nam Phong, Tây Phong, Đông Phong, Bắc Phong, Tân Phong, Thu Phong, Xuân Phong, Bình Thanh, Độc Lập, Trung Minh, Phú Minh, Hợp Thành, Hợp Thịnh, Mông Hoá, Phúc Tiến, Dân Hoà, Dân Hạ, Thung Nai và 2 thị trấn: Cao Phong và Kỳ Sơn. Đến năm 2001, để phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Hoà Bình nói riêng, Chính phủ đã có Nghị định số 95/2001/NĐ-CP chia huyện Kỳ Sơn thành hai huyện: Kỳ Sơn và Cao Phong. Kể từ đây, huyện Cao Phong chính thức ra đời với 13 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 12 xã: Yên Thượng, Yên Lập, Dũng Phong, Nam Phong, Tây Phong, Tân Phong, Đông Phong, Xuân Phong, Thu Phong, Bắc Phong, Bình Thanh, Thung Nai và thị trấn Cao Phong.
Giới thiệu khái quát huyện Cao Phong Huyện Cao Phong ở vào toạ độ địa lý 105 o 10’ – 105 o 25’12” vĩ bắc và 20 o 35’20” – 20 o 46’34” kinh đông. Cao Phong là một trong số các huyện vùng cao của tỉnh Hoà Bình, có đường ranh giới phía đông giáp huyện Kim Bôi, phía tây giáp huyện Tân Lạc, phía bắc giáp huyện Đà Bắc và thị xã Hoà Bình, phía nam giáp huyện Lạc Sơn, đều thuộc tỉnh Hoà Bình. Tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện là 254 km 2 ( chiếm 5,4% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Hoà Bình ), dân số trung bình là 40.170 người ( chiếm 5,1% dân số toàn tỉnh ), mật độ dân số là 158 người/km 2 ( chỉ bằng 0,9 lần mật độ dân số cả tỉnh ). Độ cao trung bình của toàn huyện là 399 m. Tuy là một huyện vùng cao nhưng trên địa bàn huyện Cao Phong lại có ít núi cao. Nhìn chung, địa hình của huyện có cấu trúc thoai thoải, độ dốc trung bình của đồi núi khoảng 10-15 o , chủ yếu là đồi dạng bát úp, thấp dần theo chiều từ đông nam đến tây bắc. Căn cứ vào địa hình, có thể phân chia huyện Cao Phong thành ba vùng: vùng núi cao ( gồm 2 xã: Yên Thượng, Yên Lập ), vùng giữa ( gồm 8 xã: Dũng Phong, Nam Phong, Tây Phong, Tân Phong, Đông Phong, Xuân Phong, Thu Phong, Bắc Phong và thị trấn Cao Phong ) và vùng ven sông Đà ( gồm 2 xã: Bình Thanh và Thung Nai ). Do điều kiện tự nhiên đa dạng, phức tạp nên Cao Phong có điều kiện rất thuận lợi để hình thành nền nông nghiệp đa dạng về cây trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, địa hình đa dạng và phức tạp như vậy cũng sẽ gây khó khăn trong việc thiết kế, xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng của các công trình thủy lợi và các cơ sở hạ tầng khác. Khí hậu Cao Phong thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều; mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 đến 24 o C. Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao, dao động từ 1.800 đến 2.200 mm. Tuy vậy, lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu trong các tháng 7, 8 và 9 nên dễ gây úng lụt, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Nhìn một cách tổng thể, khí hậu Cao Phong thuộc loại mát mẻ, lượng mưa khá và tương đối điều hòa. Điều kiện khí hậu như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi với nhiều hình thức canh tác hoặc mô hình chăn nuôi khác nhau. Hạn chế lớn nhất của khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp là nạn thiếu nước vào mùa khô, đặc biệt là ở những vùng chưa có các công trình thủy lợi. Về mùa đông, bên cạnh sự khô hạn, các yếu tố khí hậu khác như: nhiệt độ xuống thấp, sương muối, không đủ ánh sáng cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển. Trên địa bàn huyện Cao Phong có nhiều loại đất khác nhau. Ở vùng địa hình đồi núi có các loại đất: nâu vàng, đỏ vàng, nâu đỏ và mùn đỏ vàng. Vùng địa hình thấp có các loại đất: phù sa, dốc tụ… Nhìn chung, đa số các loại đất ở Cao Phong có độ phì cao, thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây khác nhau, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả cũng như phát triển chăn nuôi. Trong cơ cấu sử dụng đất của huyện Cao Phong, tính đến cuối năm 2002, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ không lớn (16,4%), trong khi đó, đất chưa sử dụng chiếm tỷ lệ khá cao ( 51,31% ), chủ yếu là đất đồi núi. Đây chính là tiềm năng cho việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả… và cũng đặt ra nhiệm vụ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc cho địa phương. Trên địa bàn huyện Cao Phong có sông Đà và hàng chục con suối lớn nhỏ chảy qua. Tuy nhiên, do nền địa chất nơi đây nằm trong miền hoạt động cacxtơ hoá mạnh, cộng với tình trạng tàn phá rừng đầu nguồn, nên vào mùa khô, nhiều suối có lưu lượng nước rất ít hoặc bị cạn kiệt. Theo những số liệu đánh giá chung về nguồn nước ở vùng Tây Bắc, tiềm năng nước ngầm ở Cao Phong tương đối dồi dào, có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Hiện nay, các giếng nước trong các hộ dân ở bản, làng đang khai thác thường có độ sâu trên dưới 20 m và cho nước có chất lượng khá tốt. Cao Phong có thảm thực vật tương đối đa dạng, bao gồm nhiều loại: gỗ, tre, nứa và gần đây trồng thêm các loại cây ăn quả, keo lá tràm… Tính đến cuối năm 2002, trên địa bàn huyện có 6.200,25 ha đất lâm nghiệp có rừng, chiếm tỷ trọng 24,38% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong số đó, đất có rừng tự nhiên là 3.448,73 ha, tập trung nhiều ở các xã ven hồ sông Đà và các xã vùng cao. Đất có rừng trồng là 2.751,52 ha và đất ươm cây giống có 1,5 ha. Theo kết quả điều tra thăm dò gần đây, Cao Phong có một số loại khoáng sản chính như: đất sét, cát, sỏi, quặng perit, quặng đồng, than… Ngoài các mỏ đất sét và vật liệu xây dựng dễ khai thác và thuận tiện trong việc vận chuyển, còn các mỏ khoáng sản khác thì cần tiếp tục khảo sát, đánh giá cụ thể về trữ lượng và khả năng khai thác. Ngoài ra, Cao Phong còn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch vì có hai xã nằm trong khu vực lòng hồ sông Đà, lại có nhiều xóm, bản với các lễ hội đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số, như bản Giang Mỗ ( người Dao ) ở xã Bình Thanh, có các di tích lịch sử, văn hóa như di tích Anh hùng Cù Chính Lan, căn cứ Cao Phong – Thạch Yên,… Nếu được đầu tư, các địa chỉ văn hoá này đều là các danh lam thắng cảnh có khả năng thu hút khách du lịch. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vùng đất Cao Phong thuộc châu Kỳ Sơn. Lúc đó, châu Kỳ Sơn gồm có 4 tổng: Cao Phong ( gồm 2 xã: Cao Phong và Thạch Yên ), Quỳnh Lâm ( gồm 2 xã: Quỳnh Lâm và Phương Lâm ), Mông Hóa ( gồm 5 xã: Mông Hóa, Trung Minh, Túy Cổ Thượng, Túy Cổ Hạ và Mại Thôn ) và Hòa Bình ( gồm 3 xã: Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Mông ). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bãi bỏ cấp hành chính tổng, theo đó, châu Kỳ Sơn lúc này gồm 11 xã: Cao Phong, Thạch Yên, Quỳnh Lâm, Trung Minh, Phú Cường, Mông Hóa, Tiến Xuân, Yên Quang, Hoà Bình, Yên Mông và Thịnh Lang. Đến tháng 1-1948, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III quyết định chuyển 3 xã Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Mông về châu Mai Đà. Tháng 10-1948, Ủy ban kháng chiến tỉnh Hòa Bình quyết định nhập 3 xã Túy Cổ Thượng, Túy Cổ Hạ và Mại Thôn thành xã Phú Cường; chuyển 2 xã Tiến Xuân và Yên Quang về huyện Kỳ Sơn. Tại thời điểm này, huyện Kỳ Sơn có 8 xã là: Cao Phong, Thạch Yên, Quỳnh Lâm, Trung Minh, Phú Cường, Mông Hóa, Tiến Xuân và Yên Quang. Tháng 1-1951, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III quyết định chuyển 3 xã Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Mông về huyện Kỳ Sơn. Tháng 8-1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III quyết định chia xã Thạch Yên thành 2 xã Yên Thượng và Yên Lập; chia xã Cao Phong thành 8 xã: Dũng Phong, Nam Phong, Tân Phong, Tây Phong, Thu Phong, Xuân Phong, Đông Phong và Bắc Phong. Tháng 6-1955, xã Yên Quang được chia thành 3 xã: Yên Quang, Yên Bình và Yên Trung. Ngày 22-1-1957, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu III chia xã Mông Hóa thành 4 xã: Mông Hóa, Dân Hòa, Dân Hạ và Phúc Tiến; chia xã Tiến Xuân thành 2 xã: Tiến Xuân và Đông Xuân; hợp nhất 2 xã Sủ Ngòi, Sủ Bến thành xã Sủ Ngòi. Qua thời kỳ dài tương đối ổn định, cho đến năm 1968, địa giới hành chính của huyện lại bắt đầu có nhiều thay đổi: Ngày 8-2-1968: Thành lập thị trấn Nông trường Cao Phong. Ngày 3-8-1978: Chuyển xã Hòa Bình và xã Thịnh Lang về thị xã Hòa Bình. Ngày 28-2-1985: Chuyển xã Thung Nai của huyện Đà Bắc về huyện Kỳ Sơn. Ngày 24-8-1988: Chuyển 4 xã Dân Chủ, Sủ Ngòi, Thống Nhất và Yên Mông về thị xã Hòa Bình. – Ngày 1-8-1994: Giải thể thị trấn Nông trường Cao Phong, thành lập thị trấn Cao Phong, đồng thời thành lập huyện lỵ Kỳ Sơn trên địa bàn xã Dân Hạ ở phía đông bắc thị xã Hoà Bình. Qua nhiều biến đổi trong các giai đoạn lịch sử, cho đến năm 2000, huyện Kỳ Sơn đã tương đối ổn định với 21 xã: Yên Thượng, Yên Lập, Dũng Phong, Nam Phong, Tây Phong, Đông Phong, Bắc Phong, Tân Phong, Thu Phong, Xuân Phong, Bình Thanh, Độc Lập, Trung Minh, Phú Minh, Hợp Thành, Hợp Thịnh, Mông Hoá, Phúc Tiến, Dân Hoà, Dân Hạ, Thung Nai và 2 thị trấn: Cao Phong và Kỳ Sơn. Đến năm 2001, để phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Hoà Bình nói riêng, Chính phủ đã có Nghị định số 95/2001/NĐ-CP chia huyện Kỳ Sơn thành hai huyện: Kỳ Sơn và Cao Phong. Kể từ đây, huyện Cao Phong chính thức ra đời với 13 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 12 xã: Yên Thượng, Yên Lập, Dũng Phong, Nam Phong, Tây Phong, Tân Phong, Đông Phong, Xuân Phong, Thu Phong, Bắc Phong, Bình Thanh, Thung Nai và thị trấn Cao Phong.
Giới thiệu khái quát huyện Lạc Thuỷ Huyện Lạc Thuỷ nằm về phía đông nam tỉnh Hoà Bình, có ranh giới phía đông giáp huyện Kim Bảng và huyện Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam), phía tây giáp huyện Yên Thuỷ (tỉnh Hoà Bình), phía bắc giáp huyện Kim Bôi (tỉnh Hoà Bình), phía nam giáp huyện Gia Viễn và huyện Nho Quan (tỉnh Ninh Bình). Lạc Thuỷ có tổng diện tích tự nhiên 293 km2 (chiếm 6,3% diện tích toàn tỉnh), dân số trung bình 49.460 người (chiếm 6,2% dân số cả tỉnh), mật độ dân số trung bình khá thưa, chỉ đạt 169 người/km2 (bằng 0,9 lần mật độ dân số toàn tỉnh). Địa hình huyện Lạc Thuỷ mang tính chất đặc trưng trung chuyển giữa trung du và miền núi. Nhìn tổng thể, địa hình Lạc Thuỷ có xu hướng thấp dần theo hướng từ tây bắc xuống đông nam, tương đối phức tạp với nhiều đồi và núi đá vôi, xen kẽ là hệ thống sông, suối. Khí hậu Lạc Thuỷ mang nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa khá rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Trong mùa mưa, lượng mưa tương đối cao: 1.681 mm, chủ yếu tập trung vào tháng 6 và 7. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 năm trước và kết thúc vào tháng 4 năm sau. Vào mùa mưa, do điều kiện mặt đệm và địa hình chia cắt mạnh kết hợp với mưa lớn dễ gây ra lụt lội, lũ quét ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Độ ẩm trung bình năm khoảng 75 – 86%, cao nhất vào các tháng 7 và 8. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC, cao nhất là 28oC, thấp nhất là 17,2oC. Khí hậu Lạc Thuỷ lạnh nhất từ giữa tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau. Cơ cấu đất của Lạc Thuỷ gồm: diện tích đất nông nghiệp là 5.455 ha (chiếm 18,6% diện tích của huyện), đất lâm nghiệp có rừng là 12.766 ha (chiếm 43,51%). Về mặt chất lượng, nhìn chung tầng đất canh tác nơi đây mỏng, có nguồn gốc hình thành từ đá vôi, granít, sa thạch, trầm tích… Kết quả phân tích định lượng cho thấy: lớp đất ở Lạc Thuỷ có độ phì khá, thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả. Rừng ở Lạc Thuỷ có chủng loại cây phong phú và đa dạng: bương, tre, nứa, mây, song, cây dược liệu quý… Trong rừng có nhiều loài thú quý sinh sống như: hổ, báo, gấu, trăn, rắn, hươu, nai… Nguồn tài nguyên khoáng sản đáng kể nhất của Lạc Thuỷ là cát vàng, đá, sỏi. Cát vàng được khai thác chủ yếu ở ven sông Bôi; sỏi tập trung ở các xã Phú Lão, Đồng Tâm và An Lạc; đá tập trung ở các xã Phú Lão (với trữ lượng khoảng 195.000 m3), Đồng Tâm (33.000 m3), Khoan Dụ (20.000 m3). Ngoài ra, ở Lạc Thuỷ còn có một số mỏ khoáng sản khác, nhưng trữ lượng nhỏ như: mỏ than đá ở Lạc Long, thị trấn Chi Nê, Đồng Môn mỗi năm có thể khai thác khoảng 2.000 tấn; mỏ ăngtimoan, thuỷ ngân ở xã An Bình với trữ lượng không đáng kể. Huyện Lạc Thuỷ được thiên nhiên ưu đãi về cảnh quan thiên nhiên và có nhiều di tích kỳ thú như chùa Tiên (xã Phú Lão), hang Đồng Nội (xã Đồng Tâm), hồ Đá Bạc (xã Phú Thành)… là những địa danh hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến tham quan. Bên cạnh đó, Lạc Thuỷ còn có cảnh quan môi trường độc đáo của một huyện chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có nhiều cảnh đẹp có thể phát triển thành những khu điều dưỡng có giá trị. Lịch Sử Các nhà khảo cổ học còn phát hiện ra các công cụ bằng đá, hình khắc trên vách đá, các lớp trầm tích trong các hang động ở các thung lũng hoặc ven sông Bôi, như hang Đồng Nội, hang Thẻ Bạc… Chúng là những dấu tích của nền văn hoá Hoà Bình kế thừa văn hoá Sơn Vi. ở các hang này, cư dân của thời kỳ văn hoá Hoà Bình đã bắt ốc suối hay ốc núi về ăn rồi vứt vỏ tạo thành lớp dày trong hang cư trú. Trong lớp vỏ ốc lẫn đất ở hang Đào, hang ốc (xã Đồng Bầu, xã Lạc Long); hang Chim, hang Đồng Nội (xã Đồng Tâm) còn có lẫn xương các loại thú rừng và những đám than tro… Ngoài ra, người ta còn thấy một chày nghiền, một số mảnh tước mai rùa và một số công cụ kiểu Sơn Vi. Tất cả các công cụ đó đã chứng tỏ nền văn hoá Hoà Bình ở Lạc Thuỷ đã kế thừa di sản của văn hoá Sơn Vi. Các nhà khoa học còn tìm thấy dấu tích ban đầu của nền nông nghiệp sơ kỳ của con người nguyên thuỷ sinh sống ở Lạc Thuỷ như ở hang Mái Đá (xã Phú Lão), hang Thẻ Bạc (xã Khoan Dụ). Trước Cách mạng Tháng Tám, cũng giống như các nơi khác của Hoà Bình, ở Lạc Thuỷ tồn tại chế độ lang đạo hà khắc. Người nông dân có nghĩa vụ phải phục vụ tuyệt đối các nhà lang. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng vẫn cho duy trì chế độ lang đạo, thiết lập bộ máy cai trị từ huyện đến xã, đặt huyện lỵ tại Chi Nê. Dưới hai tầng áp bức, cuộc sống của nhân dân lao động đã khổ cực lại càng cùng cực hơn, đã thiếu cơm ăn, áo mặc lại phải nộp thêm rất nhiều loại thuế. Bọn thực dân, phong kiến còn thi hành chính sách ngu dân, tuyên truyền văn hoá phản động, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Kinh – Mường nhằm dễ bề cai trị, bóc lột nhân dân ta. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, ruộng đất bị bọn địa chủ, cường hào cướp hết để lập đồn điền. Người dân lao động bị bần cùng hoá, mất hết ruộng đất nên phải đi làm thuê, cuốc mướn với tiền công rẻ mạt, lại phải đi phu để khai phá đường giao thông, khai thác lâm thổ sản… cuộc sống vô cùng lầm than, khổ cực. Thâm độc hơn, chúng còn tìm cách khuyến khích các tệ nạn rượu chè, nghiện hút, cờ bạc phát triển khiến đời sống nhân dân càng thêm tăm tối. Về chính trị, thực dân Pháp tiếp tục duy trì chế độ lang đạo, bảo vệ và đỡ đầu lang đạo, thực hiện chính sách “thổ lang trị thổ dân” và chính sách “ngu dân”. Chúng ngăn cản người dân cho con đi học nên trong thời gian thực dân Pháp cai trị, hầu hết nhân dân lao động trong huyện mù chữ. Sau khi hất cẳng thực dân Pháp, phát xít Nhật đã chiếm đóng một số vị trí quan trọng của huyện Lạc Thuỷ như Phú Lão, Lạc Long, Đồng Tâm và Chi Nê. Tại đây, chúng đã tiến hành thực hiện các chính sách thâm độc, vơ vét, bóc lột nhân dân như bắt phá lúa, phá ngô để trồng đay, bắt đi phu sửa đường. Năm 1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. ở Đông Dương, quân Nhật run sợ, hoảng loạn tinh thần. Đảng ta đã quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sáng ngày 23-8-1945, lực lượng tự vệ cứu quốc và nhân dân huyện Lạc Thuỷ tổ chức một cuộc tuần hành lớn khiến bọn tay sai hoảng sợ và nhanh chóng đầu hàng. Uỷ ban cách mạng lâm thời được khẩn trương thành lập và ngay lập tức toả về các địa phương để giành chính quyền cấp xã. Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng còn non trẻ đã gặp vô vàn khó khăn do chế độ cũ để lại cũng như sự phá hoại của các thế lực thù địch. ở khắp các thôn xóm, các đoàn thể cách mạng đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ những người đã có thời lầm lạc, củng cố lực lượng tự vệ giữ gìn trật tự an ninh, chặn đứng các hoạt động phá hoại của bọn phản động, truy quét các ổ nhóm Đại Việt, bắt giữ các phần tử tiếp tay cho chúng… Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lẫy lừng thế giới”, đưa đất nước ta sang trang mới: miền Bắc hoàn toàn được giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Lạc Thuỷ cùng cả nước bước vào giai đoạn xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thời tiếp tục góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Ngày 5-8-1964, cùng với đồng bào miền Bắc, nhân dân các dân tộc huyện Lạc Thuỷ đã “vừa sản xuất vừa chiến đấu”, trực tiếp đấu tranh chống cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, nhân dân Lạc Thuỷ đã không tiếc máu xương, hết lòng chi viện cho chiến trường miền Nam, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần cùng cả nước làm nên thắng lợi mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước còn nhiều khó khăn, nhân dân Lạc Thuỷ đã từng bước tháo gỡ, tích cực phấn đấu trong phát triển kinh tế trên địa bàn. Phát huy thế mạnh về nông nghiệp, toàn huyện đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mạnh dạn đưa khoa học-kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Trong lâm nghiệp, huyện đã đẩy mạnh thực hiện các dự án tài trợ của Nhà nước như dự án 327, trồng mới 5 triệu hécta rừng để phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Ngành thuỷ sản vận động nhân dân tận dụng mặt nước ao, hồ để phát triển nghề thuỷ sản, tăng nhanh sản lượng đàn cá. Hiện nay, song song với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp thì các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng được mở rộng. Nhu cầu tiêu dùng của nhân dân các dân tộc cơ bản được đáp ứng. Tiêu biểu cho phong trào trong toàn huyện, ngày 22-8-1998, xã Đồng Tâm đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Vào ngày 8-11-2000, thêm một vinh dự nữa cho huyện Lạc Thuỷ: thị trấn Chi Nê được trao tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Giới thiệu khái quát huyện Lạc Thuỷ Huyện Lạc Thuỷ nằm về phía đông nam tỉnh Hoà Bình, có ranh giới phía đông giáp huyện Kim Bảng và huyện Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam), phía tây giáp huyện Yên Thuỷ (tỉnh Hoà Bình), phía bắc giáp huyện Kim Bôi (tỉnh Hoà Bình), phía nam giáp huyện Gia Viễn và huyện Nho Quan (tỉnh Ninh Bình). Lạc Thuỷ có tổng diện tích tự nhiên 293 km2 (chiếm 6,3% diện tích toàn tỉnh), dân số trung bình 49.460 người (chiếm 6,2% dân số cả tỉnh), mật độ dân số trung bình khá thưa, chỉ đạt 169 người/km2 (bằng 0,9 lần mật độ dân số toàn tỉnh). Địa hình huyện Lạc Thuỷ mang tính chất đặc trưng trung chuyển giữa trung du và miền núi. Nhìn tổng thể, địa hình Lạc Thuỷ có xu hướng thấp dần theo hướng từ tây bắc xuống đông nam, tương đối phức tạp với nhiều đồi và núi đá vôi, xen kẽ là hệ thống sông, suối. Khí hậu Lạc Thuỷ mang nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa khá rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Trong mùa mưa, lượng mưa tương đối cao: 1.681 mm, chủ yếu tập trung vào tháng 6 và 7. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 năm trước và kết thúc vào tháng 4 năm sau. Vào mùa mưa, do điều kiện mặt đệm và địa hình chia cắt mạnh kết hợp với mưa lớn dễ gây ra lụt lội, lũ quét ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Độ ẩm trung bình năm khoảng 75 – 86%, cao nhất vào các tháng 7 và 8. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC, cao nhất là 28oC, thấp nhất là 17,2oC. Khí hậu Lạc Thuỷ lạnh nhất từ giữa tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau. Cơ cấu đất của Lạc Thuỷ gồm: diện tích đất nông nghiệp là 5.455 ha (chiếm 18,6% diện tích của huyện), đất lâm nghiệp có rừng là 12.766 ha (chiếm 43,51%). Về mặt chất lượng, nhìn chung tầng đất canh tác nơi đây mỏng, có nguồn gốc hình thành từ đá vôi, granít, sa thạch, trầm tích… Kết quả phân tích định lượng cho thấy: lớp đất ở Lạc Thuỷ có độ phì khá, thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả. Rừng ở Lạc Thuỷ có chủng loại cây phong phú và đa dạng: bương, tre, nứa, mây, song, cây dược liệu quý… Trong rừng có nhiều loài thú quý sinh sống như: hổ, báo, gấu, trăn, rắn, hươu, nai… Nguồn tài nguyên khoáng sản đáng kể nhất của Lạc Thuỷ là cát vàng, đá, sỏi. Cát vàng được khai thác chủ yếu ở ven sông Bôi; sỏi tập trung ở các xã Phú Lão, Đồng Tâm và An Lạc; đá tập trung ở các xã Phú Lão (với trữ lượng khoảng 195.000 m3), Đồng Tâm (33.000 m3), Khoan Dụ (20.000 m3). Ngoài ra, ở Lạc Thuỷ còn có một số mỏ khoáng sản khác, nhưng trữ lượng nhỏ như: mỏ than đá ở Lạc Long, thị trấn Chi Nê, Đồng Môn mỗi năm có thể khai thác khoảng 2.000 tấn; mỏ ăngtimoan, thuỷ ngân ở xã An Bình với trữ lượng không đáng kể. Huyện Lạc Thuỷ được thiên nhiên ưu đãi về cảnh quan thiên nhiên và có nhiều di tích kỳ thú như chùa Tiên (xã Phú Lão), hang Đồng Nội (xã Đồng Tâm), hồ Đá Bạc (xã Phú Thành)… là những địa danh hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến tham quan. Bên cạnh đó, Lạc Thuỷ còn có cảnh quan môi trường độc đáo của một huyện chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có nhiều cảnh đẹp có thể phát triển thành những khu điều dưỡng có giá trị. Lịch Sử Các nhà khảo cổ học còn phát hiện ra các công cụ bằng đá, hình khắc trên vách đá, các lớp trầm tích trong các hang động ở các thung lũng hoặc ven sông Bôi, như hang Đồng Nội, hang Thẻ Bạc… Chúng là những dấu tích của nền văn hoá Hoà Bình kế thừa văn hoá Sơn Vi. ở các hang này, cư dân của thời kỳ văn hoá Hoà Bình đã bắt ốc suối hay ốc núi về ăn rồi vứt vỏ tạo thành lớp dày trong hang cư trú. Trong lớp vỏ ốc lẫn đất ở hang Đào, hang ốc (xã Đồng Bầu, xã Lạc Long); hang Chim, hang Đồng Nội (xã Đồng Tâm) còn có lẫn xương các loại thú rừng và những đám than tro… Ngoài ra, người ta còn thấy một chày nghiền, một số mảnh tước mai rùa và một số công cụ kiểu Sơn Vi. Tất cả các công cụ đó đã chứng tỏ nền văn hoá Hoà Bình ở Lạc Thuỷ đã kế thừa di sản của văn hoá Sơn Vi. Các nhà khoa học còn tìm thấy dấu tích ban đầu của nền nông nghiệp sơ kỳ của con người nguyên thuỷ sinh sống ở Lạc Thuỷ như ở hang Mái Đá (xã Phú Lão), hang Thẻ Bạc (xã Khoan Dụ). Trước Cách mạng Tháng Tám, cũng giống như các nơi khác của Hoà Bình, ở Lạc Thuỷ tồn tại chế độ lang đạo hà khắc. Người nông dân có nghĩa vụ phải phục vụ tuyệt đối các nhà lang. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng vẫn cho duy trì chế độ lang đạo, thiết lập bộ máy cai trị từ huyện đến xã, đặt huyện lỵ tại Chi Nê. Dưới hai tầng áp bức, cuộc sống của nhân dân lao động đã khổ cực lại càng cùng cực hơn, đã thiếu cơm ăn, áo mặc lại phải nộp thêm rất nhiều loại thuế. Bọn thực dân, phong kiến còn thi hành chính sách ngu dân, tuyên truyền văn hoá phản động, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Kinh – Mường nhằm dễ bề cai trị, bóc lột nhân dân ta. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, ruộng đất bị bọn địa chủ, cường hào cướp hết để lập đồn điền. Người dân lao động bị bần cùng hoá, mất hết ruộng đất nên phải đi làm thuê, cuốc mướn với tiền công rẻ mạt, lại phải đi phu để khai phá đường giao thông, khai thác lâm thổ sản… cuộc sống vô cùng lầm than, khổ cực. Thâm độc hơn, chúng còn tìm cách khuyến khích các tệ nạn rượu chè, nghiện hút, cờ bạc phát triển khiến đời sống nhân dân càng thêm tăm tối. Về chính trị, thực dân Pháp tiếp tục duy trì chế độ lang đạo, bảo vệ và đỡ đầu lang đạo, thực hiện chính sách “thổ lang trị thổ dân” và chính sách “ngu dân”. Chúng ngăn cản người dân cho con đi học nên trong thời gian thực dân Pháp cai trị, hầu hết nhân dân lao động trong huyện mù chữ. Sau khi hất cẳng thực dân Pháp, phát xít Nhật đã chiếm đóng một số vị trí quan trọng của huyện Lạc Thuỷ như Phú Lão, Lạc Long, Đồng Tâm và Chi Nê. Tại đây, chúng đã tiến hành thực hiện các chính sách thâm độc, vơ vét, bóc lột nhân dân như bắt phá lúa, phá ngô để trồng đay, bắt đi phu sửa đường. Năm 1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. ở Đông Dương, quân Nhật run sợ, hoảng loạn tinh thần. Đảng ta đã quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sáng ngày 23-8-1945, lực lượng tự vệ cứu quốc và nhân dân huyện Lạc Thuỷ tổ chức một cuộc tuần hành lớn khiến bọn tay sai hoảng sợ và nhanh chóng đầu hàng. Uỷ ban cách mạng lâm thời được khẩn trương thành lập và ngay lập tức toả về các địa phương để giành chính quyền cấp xã. Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng còn non trẻ đã gặp vô vàn khó khăn do chế độ cũ để lại cũng như sự phá hoại của các thế lực thù địch. ở khắp các thôn xóm, các đoàn thể cách mạng đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ những người đã có thời lầm lạc, củng cố lực lượng tự vệ giữ gìn trật tự an ninh, chặn đứng các hoạt động phá hoại của bọn phản động, truy quét các ổ nhóm Đại Việt, bắt giữ các phần tử tiếp tay cho chúng… Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lẫy lừng thế giới”, đưa đất nước ta sang trang mới: miền Bắc hoàn toàn được giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Lạc Thuỷ cùng cả nước bước vào giai đoạn xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thời tiếp tục góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Ngày 5-8-1964, cùng với đồng bào miền Bắc, nhân dân các dân tộc huyện Lạc Thuỷ đã “vừa sản xuất vừa chiến đấu”, trực tiếp đấu tranh chống cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, nhân dân Lạc Thuỷ đã không tiếc máu xương, hết lòng chi viện cho chiến trường miền Nam, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần cùng cả nước làm nên thắng lợi mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước còn nhiều khó khăn, nhân dân Lạc Thuỷ đã từng bước tháo gỡ, tích cực phấn đấu trong phát triển kinh tế trên địa bàn. Phát huy thế mạnh về nông nghiệp, toàn huyện đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mạnh dạn đưa khoa học-kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Trong lâm nghiệp, huyện đã đẩy mạnh thực hiện các dự án tài trợ của Nhà nước như dự án 327, trồng mới 5 triệu hécta rừng để phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Ngành thuỷ sản vận động nhân dân tận dụng mặt nước ao, hồ để phát triển nghề thuỷ sản, tăng nhanh sản lượng đàn cá. Hiện nay, song song với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp thì các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng được mở rộng. Nhu cầu tiêu dùng của nhân dân các dân tộc cơ bản được đáp ứng. Tiêu biểu cho phong trào trong toàn huyện, ngày 22-8-1998, xã Đồng Tâm đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Vào ngày 8-11-2000, thêm một vinh dự nữa cho huyện Lạc Thuỷ: thị trấn Chi Nê được trao tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Giới thiệu khái quát huyện Tân Lạc Tân Lạc là huyện miền núi nằm ở phía Tây của tỉnh Hoà Bình, có đường giao thông nối với quốc lộ 1A. Tân Lạc như cửa ngõ nối liền giữa miền Tây Bắc và thủ đô Hà Nội . Địa thế của Tân Lạc đã tạo thành một địa bàn chiến lược quan trọng về quân sự. Với diện tích tự nhiên khoảng 52,3 km2, trong đó hơn 80% là rừng núi. Phía Đông giáp huyện Cao Phong, phía bắc giáp huyện Đà Bắc, phía tây giáp huyện Mai Châu, phía nam và tây nam giáp huyện Lạc Sơn và tỉnh Thanh Hoá. Trước Cách mạng tháng tám năm 1945, chủ yếu là người Mường sinh sống, từ sau cách mạng tháng tám đến nay có thêm đồng bào Kinh lên xây dựng kinh tế mới. Tân Lạc hiện nay chủ yếu có có hai dân tộc anh em chung sống là dân tộc Mường và dân tộc Kinh. Tân Lạc được biết đến là một trong những cái nôi của người Mường, với nền văn hoá Hoà Bình nổi tiếng mà Mường Bi là địa danh tiêu biểu. Ngày 15 tháng 10 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ quyết định chia huyện Lạc Sơn thành 2 huyện: Lạc Sơn và Tân Lạc, huyện có 23 xã và 1 thị trấn. Với điều kiện thiên nhiên ưu đãi, Tân Lạc có nhiều lợi thế trong phát triển nông, lâm nghiệp. Rừng Tân Lạc chiếm 58,7% diện tích đất tự nhiên. Riêng ở Tân Lạc có nhiều loại gỗ quý như: lim, sến, táu, lát nghiến… cùng các loại tre vứa vầu và các loại cây có giá trị như sa nhân, mây. Nhân dân Tân Lạc chủ yếu sống bằng nghề nông mặc dù đất nông nghiệp chỉ chiếm 14,2% diện tích đất tự nhiên. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Tân Lạc với định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng hàng hoá, dịch vụ, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào đời sống sản xuất của bà con nhân dân, đưa những mặt hàng nông sản được coi là thế mạnh của vùng như susu Quyết Chiến, mía tím Trung Hoà, Mỹ Hoà, tỏi tía, quýt ngọt ở Nam Sơn, bưởi đỏ, bưởi da xanh. Tân Lạc có tiềm du lịch lớn được biết đến là núi Khụ Dọi hay còn gọi là núi Cột Cờ, làng Mường, Phong Phú, Khụ Khạng, Khụ Khiến ở Quy Hậu, Mãn Đức… đã đi vào cổ tích đất Mường từ thời “đẻ đất, để nước” còn có nhiều hang động như hang Ma – Địch Giáo, hang Muối – Mường Khến… tạo cho Tân Lạc một cảnh quan tự nhiên kỳ thú. Những sản phẩm thủ công truyền thống (dệt thổ cẩm, rượu cần..) những nét sinh hoạt văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc như hát ru, hát đúm, xéc, bùa… của người Mường ngày càng góp phần tạo thêm sức hấp dẫn, mang hương vị của quê hương Tân Lạc. Trải qua lịch sử lao động, đấu tranh sinh tồn và phát triển, người Tân Lạc đã xây dựng được cho mình một nền văn hoá truyền thống mang đậm đà bản sắc người Mường. Bước vào công cuộc xây dựng và phát triển hiện nay, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện luôn cố gắng phấn đấu phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khai thác tiềm năng, thế mạnh, phát huy tối đa nội lực và tinh thần đoàn kết tập thể; đồng thời chủ động tạo các điều kiện thuận lợi thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài huyện, với mục tiêu đưa huyện Tân Lạc ngày càng phát triển, cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc vùng đặc biệt khó khăn.
General introduction of Tan Lac district Tan Lac is a mountainous district located in the west of Hoa Binh province, with roads connecting to National Highway 1A. Tan Lac is like a gateway connecting the Northwest and the North Ha Noi capital . Tan Lac's terrain has created an important military strategic area. With a natural area of ​​about 52.3 km2, of which more than 80% is mountain forest. The East borders Cao Phong district, the North borders Da Bac district, the West borders Mai Chau district, the south and southwest borders Lac Son district and Thanh Hoa province. Before the August Revolution of 1945, mainly Muong people lived. Since the August Revolution, more Kinh people have come to build a new economy. Currently, Tan Lac mainly has two ethnic groups living together: the Muong ethnic group and the Kinh ethnic group. Tan Lac is known as one of the cradles of the Muong people, with the famous Hoa Binh culture of which Muong Bi is a typical place. On October 15, 1957, the Prime Minister decided to divide Lac Son district into 2 districts: Lac Son and Tan Lac, the district has 23 communes and 1 town. With favorable natural conditions, Tan Lac has many advantages in developing agriculture and forestry. Tan Lac forest accounts for 58.7% of the natural land area. Particularly in Tan Lac, there are many types of precious wood such as: ironwood, bamboo, bamboo, etc. along with various types of bamboo and valuable trees such as amomum and rattan. Tan Lac people mainly live on agriculture although agricultural land only accounts for 14.2% of the natural land area. Under the leadership and direction of the District Party Committee, People's Council, and People's Committee of Tan Lac district with the orientation of developing agricultural economy in the direction of goods and services, gradually transforming the agricultural economic structure, applying scientific advances. science and technology into the production life of the people, bringing agricultural products considered strengths of the region such as Quyet Chien susu, purple sugarcane in Trung Hoa, My Hoa, purple garlic, sweet tangerines in Nam Son, red grapefruit, green grapefruit. Tan Lac has great tourism potential, known as Kho Doi mountain, also known as Cot Co mountain, Muong village, Phong Phu, Kho Khang, Khu Khien in Quy Hau, Man Duc... which have entered the Muong land's fairy tales since the "" There are also many caves such as Ma cave - Dich Giao, Muoi cave - Muong Khen... creating an interesting natural landscape for Tan Lac. Traditional handicraft products (brocade weaving, wine can...) and cultural activities imbued with national identity such as lullabies, dum songs, hec songs, charms... of the Muong people increasingly contribute to creating more strength. attractive, bringing the flavor of Tan Lac hometown. Through a history of labor, struggle for survival and development, Tan Lac people have built for themselves a traditional culture imbued with Muong identity. Entering the current work of construction and development, the Party Committee and people of all ethnic groups in the district always strive to promote the combined strength of the entire political system, exploit potentials, strengths, and promote maximize internal strength and collective solidarity; At the same time, proactively create favorable conditions to attract investment sources inside and outside the district, with the goal of making Tan Lac district increasingly develop and improve the lives of ethnic minorities in extremely difficult areas.
Giới thiệu khái quát huyện U Minh Thượng Huyện U Minh Thượng, được thành lập ngày 10-05-2007, theo Nghị định 58-2007/NĐ – CP trên cơ sở điều chỉnh 7.135,82 ha diện tích tự nhiên và 18.843 nhân khẩu (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Thạch Yên, Thạch Yên A) thuộc huyện An Biên; 13.376,67 ha diện tích tự nhiên và 10.877 nhân khẩu (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã An Minh Bắc) thuộc huyện An Minh; 22.757,81 ha diện tích tự nhiên và 38.356 nhân khẩu (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Minh Thuận, Vĩnh Hoà, Hoà Chánh) thuộc huyện Vĩnh Thuận. Nằm trên địa phận tỉnh Kiên Giang , U Minh thượng có diện tích 21.107 ha, trong đó Vùng lõi chiếm 8.038ha còn vùng đệm là 13.069ha. Ở đây chủ yếu là những khu rừng nguyên sinh với kiểu rừng sinh bên trong rừng là nơi bảo tồn các hệ động thực vật đa dạng với và quý hiếm. Hệ thống thực vật Bao gồm: rừng tràm bản địa, 243 loại thực vật có mạch bậc cao trong đó có nhiều cây thân cao, to như: Dấu, Gáo Trâm , Bùi…Rừng là nơi trú ngụ của nhiều loài chim nước, các loại thủy sản cũng như các loại động vật hoang dã. Theo thống kê có 158 loài chim thuộc 39 họ , 24 loài thú thuộc 10 họ, 7. Trong đó có 10 loại thú thuộc loại quý, hiếm được ghi vào sách đỏ của Việt Nam và thế giới như Ráy cá lông mũi, Mèo cá, Bồ nông chân xám, Tê tê…Những cánh rừng cánh rừng nguyên sinh kỳ bí cùng với hệ động thực vật phong phú chính là điểm thu hút nhất đối với khách du lịch đặc biệt là những du khách thích trải nghiệm những chuyến du lịch đồng quê.
General introduction of U Minh Thuong district U Minh Thuong district, established on May 10, 2007, according to Decree 58-2007/ND - CP on the basis of adjusting 7,135.82 hectares of natural area and 18,843 people (including the entire natural area and demographics of communes: Thach Yen, Thach Yen A) in An Bien district; 13,376.67 hectares of natural area and 10,877 people (including the entire natural area and population of An Minh Bac commune) belong to An Minh district; 22,757.81 hectares of natural area and 38,356 people (including the entire natural area and population of communes: Minh Thuan, Vinh Hoa, Hoa Chanh) belong to Vinh Thuan district. Located in Kien Giang province, U Minh Thuong has an area of ​​21,107 hectares, of which the core zone accounts for 8,038 hectares and the buffer zone is 13,069 hectares. Here are mainly primeval forests with natural forests inside the forest, which preserve diverse and rare flora and fauna. Flora system Includes: native Melaleuca forest, 243 types of higher vascular plants including many tall, large trees such as: Dau, Gao Tram, Bui... The forest is home to many species of water birds, aquatic species as well as wild animals. According to statistics, there are 158 species of birds belonging to 39 families, 24 species of mammals belonging to 10 families, 7. Among them, 10 species of rare and precious animals are recorded in the red books of Vietnam and the world such as Hairy-nosed fish, Fishing cat. , Gray-legged Pelican, Pangolin... The mysterious primeval forests along with rich flora and fauna are the most attractive points for tourists, especially those who like to experience travel. Country.
Giới thiệu khái quát huyện Kiên Hải Huyện Kiên Hải là một huyện đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, có 23 hòn đảo lớn nhỏ nằm trong khu vực biển Tây Nam. Đơn vị hành chính gồm có 04 xã, diện tích tự nhiên 27,85 km2, dân số 20.550 người. Trung tâm hành chính huyện đặt trên địa bàn xã Hòn Tre cách trung tâm thành phố Rạch Giá về hướng Tây khoảng 30 km đường biển, đảo xa nhất cách trung tâm thành phố Rạch Giá là 90 km (Quần đảo Nam Du), giao thông chính là đường thủy, dân cư sinh sống chủ yếu bằng nghề khai thác đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp và dịch vụ du lịch. Cuối năm 1982, trước yêu cầu an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế biển đảo, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang nhận thấy vùng biển Kiên Giang rất rộng lớn, nhiều đảo cách đất liền rất xa, có đảo hơn 100 km, rất khó cho công tác quản lý, cũng như chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh trên vùng biển đảo, nên Tỉnh quyết định đề nghị Chỉnh phủ cho thành lập huyện mới, lấy tên là huyện Kiên Hải (Kiên là chữ đầu Kiên Giang, Hải là biển). Ngày 29 tháng 3 năm 1983, Chỉnh phủ quyết định thành lập huyện Kiên Hải trên cơ sở lấy toàn bộ xã đảo Lại Sơn (gồm cả quần đảo Nam Du và Hòn Tre) của huyện An Biên; quần đảo Hải Tặc, Bà Lụa và Hòn Nghệ thuộc huyện Hà Tiên, huyện có 06 xã gồm: Xã Hòn Tre (trung tâm hành chính huyện), xã An Sơn (quần đảo Nam Du), xã Lại Sơn (hòn Sơn Rái), xã Hòn Nghệ, xã Sơn Hải (quần đảo Bà Lụa) và xã Tiên Hải (Quần đảo Hải Tặc). Đến năm 1987, điều chỉnh địa giới hành chính lần thứ nhất, Kiên Hải còn 05 xã, xã Tiên Hải được giao về thị xã Hà Tiên. Đến năm 2000, điều chỉnh địa giới hành chính lần thứ hai, xã Hòn Nghệ và xã Sơn Hải giao về cho huyện Kiên Lương. Kiên Hải còn lại 3 xã là Hòn Tre, Lại Sơn và An Sơn, diện tích tự nhiên là 27,85 km2, gồm 23 đảo, trong đó xã An Sơn gồm 21 đảo. Năm 2005, xã Nam Du được thành lập, trên cơ sở tách ra từ xã đảo An Sơn huyện Kiên Hải gồm có 10 hòn đảo, với 03 ấp: An Bình, An Phú và Hòn Mấu. Hiện nay, huyện Kiên Hải có 04 xã, 13 ấp với 23 hòn đảo: Xã Hòn Tre (hay còn gọi là Hòn Rùa) là xã đảo gần đất liền nhất, từ thành phố Rạch Giá đến Hòn Tre chỉ có 28km về hướng Tây, diện tích 04 km2. Xã có 03 ấp: ấp I, ấp II, ấp III. Dân số trên 4.000 dân. Là trung tâm hành chính của huyện Kiên Hải. Xã Lại Sơn (còn gọi là Hòn Sơn hay Hòn Sơn Rái) là xã lớn nhất, diện tích 11,7 km2, cách Hòn Tre khoảng 30 km về phía Tây, cách thành phố Rạch Giá khoảng 60 km. Xã có 04 ấp: Bãi Nhà A, Bãi Nhà B, Thiên Tuế, Bãi Bấc. Dân số khoảng 8.000 dân. Xã được Tỉnh công nhận là khu du lịch địa phương và đạt chuẩn nông thôn mới cuối năm 2018. Xã An Sơn cách Rạch Giá 90 km, cách xã Lại Sơn 30 km về phía Tây Nam. Xã có 03 ấp: Ấp Củ Tron, An Cư và Bãi Ngự, có tổng cộng 11 đảo lớn nhỏ. Trung tâm hành chính đặt tại hòn Củ Tron. Diện tích 6,75 km2. Dân số trên 4.000 dân. Xã Nam Du cách xã An Sơn khoảng 07 km. Có 03 ấp: Ấp An Bình, An Phú và Hòn Mấu, có tổng cộng 10 đảo lớn nhỏ. Trung tâm hành chính đặt tại đảo Hòn Ngang. Diện tích 4,4 km2. Dân số có trên 4.000 dân. Giao thông của huyện chủ yếu là đường biển nối huyện đảo với đất liền và các xã trong huyện. Có tuyến đường biển chính với tổng chiều dài khoảng 90 km, từ Rạch Giá đi Hòn Tre dài 28km, Rạch Giá đi Lại Sơn 60 km và đi An Sơn, Nam Du là 90km. Hiện nay, trên các tuyến từ Rạch Giá đi Hòn Tre, Lại Sơn, An Sơn đã có nhiều tàu cao tốc hoạt động nên việc đi lại giữa các đảo rất nhanh chóng và thuận lợi. Hiện nay, các xã Hòn Tre, Hòn Sơn, An Sơn và Nam Du đã được Nhà nước đầu tư làm đường bê tông quanh đảo, ngang đảo, lộ giao thông nông thôn rất thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân trên đảo. Điện lưới quốc gia đã được Nhà nước đầu tư kéo từ đất liền ra xã đảo Hòn Tre và xã đảo Lại Sơn, riêng 02 xã An Sơn và Nam Du sử dụng điện bằng máy phát 24/24giờ, cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng điện của nhân dân. Tiềm năng kinh tế của huyện: Huyện Kiên Hải có hải phận rộng lớn, rất thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản…Kiên Hải có nhiều đảo với nhiều bãi biển đẹp, hoang sơ, cát trắng, nước trong xanh như: Bãi Bàng, Bãi Bấc, Bãi Thiên Tuế, Bãi Giếng của xã Lại Sơn; Bãi Cây Mến, Bãi Đất Đỏ, Bãi Ngự của xã An Sơn; Bãi Hòn Mấu, Hòn Dầu của xã Nam Du, cùng với nhiều loài hải sản phong phú, môi trường trong lành và con người thân thiện…là tiềm năng lớn để phát triển du lịch biển theo hướng du lịch sinh thái. Những năm gần đây du khách đến tham quan du lịch Kiên Hải, nhất là xã Lại Sơn và Quần đảo Nam Du ngày càng tăng cao (năm 2014 có 19.600 lượt khách đến năm 2018 có 271.433 lượt khách, tăng 39,71% so với năm 2017). Lại Sơn và Quần đảo Nam Du cũng được tỉnh công nhận là khu du lịch địa phương là tiền đề để du lịch Kiên Hải ngày càng phát triển tương xứng với tiềm năng lợi thế của huyện./.
General introduction of Kien Hai district Kien Hai district is an island district in Kien Giang province, with 23 large and small islands located in the southwest sea area. The administrative unit includes 04 communes, natural area of ​​27.85 km2, population of 20,550 people. The district administrative center is located in Hon Tre commune, about 30 km west of Rach Gia city center by sea, the furthest island from Rach Gia city center is 90 km (Nam Du Archipelago), traffic is a waterway, the population lives mainly on fishing, aquaculture, agricultural production and tourism services. At the end of 1982, facing the requirements of security, national defense, and island economic development, the Provincial Party Committee, People's Council, and People's Committee of Kien Giang province realized that Kien Giang's sea area was very large, with many islands far from the mainland. very far away, with islands of more than 100 km, it is very difficult to manage, as well as direct economic - social development, defense - security on island waters, so the Province decided to request the Government to establish The new district, named Kien Hai district (Kien is the first word Kien Giang, Hai is sea). On March 29, 1983, the Government decided to establish Kien Hai district on the basis of taking the entire Lai Son island commune (including Nam Du and Hon Tre archipelagos) from An Bien district; Hai Tac, Ba Lua and Hon Nghe archipelagos belong to Ha Tien district, the district has 06 communes including: Hon Tre commune (district administrative center), An Son commune (Nam Du archipelago), Lai Son commune (Son Rai island) , Hon Nghe commune, Son Hai commune (Ba Lua archipelago) and Tien Hai commune (Pirate archipelago). By 1987, with the first administrative boundary adjustment, Kien Hai had 5 communes left, Tien Hai commune was assigned to Ha Tien town. In 2000, when the administrative boundaries were adjusted for the second time, Hon Nghe commune and Son Hai commune were transferred to Kien Luong district. Kien Hai has 3 remaining communes: Hon Tre, Lai Son and An Son, with a natural area of ​​27.85 km2, including 23 islands, of which An Son commune includes 21 islands. In 2005, Nam Du commune was established, on the basis of separating from An Son island commune, Kien Hai district, including 10 islands, with 03 hamlets: An Binh, An Phu and Hon Mau. Currently, Kien Hai district has 4 communes, 13 hamlets and 23 islands: Hon Tre commune (also known as Hon Rua) is the island commune closest to the mainland, from Rach Gia city to Hon Tre is only 28km to the west, an area of ​​04 km2. The commune has 3 hamlets: hamlet I, hamlet II, hamlet III. Population is over 4,000 people. Is the administrative center of Kien Hai district. Lai Son commune (also known as Hon Son or Hon Son Rai) is the largest commune, with an area of ​​11.7 km2, about 30 km west of Hon Tre, about 60 km from Rach Gia city. The commune has 04 hamlets: Bai Nha A, Bai Nha B, Thien Tue, Bai Bac. Population is about 8,000 people. The commune was recognized by the Province as a local tourist area and met new rural standards at the end of 2018. An Son commune is 90 km from Rach Gia, 30 km southwest of Lai Son commune. The commune has 03 hamlets: Cu Tron, An Cu and Bai Ngu hamlets, with a total of 11 large and small islands. The administrative center is located at Cu Tron island. Area 6.75 km2. Population is over 4,000 people. Nam Du commune is about 7 km from An Son commune. There are 03 hamlets: An Binh, An Phu and Hon Mau hamlets, with a total of 10 large and small islands. The administrative center is located on Hon Ngang island. Area 4.4 km2. The population is over 4,000 people. The district's transportation is mainly by sea connecting the island district with the mainland and communes in the district. There is a main sea route with a total length of about 90 km, from Rach Gia to Hon Tre is 28km, Rach Gia to Lai Son is 60 km and An Son and Nam Du is 90km. Currently, on the routes from Rach Gia to Hon Tre, Lai Son, and An Son, there are many high-speed boats operating, so traveling between the islands is very quick and convenient. Currently, the communes of Hon Tre, Hon Son, An Son and Nam Du have been invested by the State to build concrete roads around the island, across the island, and rural roads, very convenient for people on the island to travel. The national grid has been invested by the State to pull electricity from the mainland to Hon Tre island commune and Lai Son island commune. Particularly, An Son and Nam Du communes use electricity by generators 24/24 hours, basically meeting the demand. people's electricity use. Economic potential of the district: Kien Hai district has a large coastal area, very favorable for developing marine economic sectors, especially exploitation, farming, and seafood processing... Kien Hai has many islands and many beaches. beautiful, pristine, white sand, clear blue water such as: Bai Bang, Bai Bac, Bai Thien Tue, Bai Gieng of Lai Son commune; Cay Men Beach, Dat Do Beach, Ngu Beach of An Son commune; Hon Mau and Hon Dau beaches of Nam Du commune, along with many rich seafood species, clean environment and friendly people... are great potential to develop marine tourism in the direction of eco-tourism. In recent years, tourists visiting Kien Hai, especially Lai Son commune and Nam Du Islands, have been increasing (in 2014 there were 19,600 visitors, in 2018 there were 271,433 visitors, an increase of 39.71% compared to the previous year). year 2017). Lai Son and Nam Du Islands are also recognized by the province as local tourist areas, which is a premise for Kien Hai tourism to increasingly develop in accordance with the district's potential advantages./.
Giới thiệu khái quát huyện Giồng Riềng Giồng Riềng là một huyện nông thôn của tỉnh Kiên Giang, cách trung tâm thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang khoản 32 km; phía tây bắc giáp huyện Tân Hiệp, tây nam giáp huyện Châu Thành, đông bắc giáp thành phố Cần Thơ, phía đông nam giáp tỉnh Hậu Giang, phía nam giáp huyện Gò Quao, toàn huyện có 19 đơn vị hành chính, trong đó có 18 xã và 01 thị trấn. Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2016 dân số 217.815 người, là một trong những huyện có sản lượng lúa lớn của tỉnh. ** Diện tích : 639,24 km2 ** Dân số : 219.960 người. Các đơn vị hành chính : Thị trấn Giồng Riềng Bàn Tân Định Bàn Thạch Hoà Lợi Hoà Hưng Hoà An Hoà Thuận Long Thạnh Ngọc Thuận Ngọc Chúc Ngọc Thành Ngọc Hoà Thạnh Lộc Thạnh Hưng Thạnh Hoà Thạnh Bình Thạnh Phước Vĩnh Thạnh Vĩnh Phú. Ngày 20-05-1920, Pháp thành lập quận Giồng Riềng, thuộc tỉnh Rạch Giá, gồm có tổng Giang Ninh với 7 làng là: Hoà Hưng, Ngọc Hoà, Vị Thanh, Hoà Thuận, Thạnh Hoà, Ngọc Chúc, Thạnh Hưng. Quận lỵ đặt tại làng Thạnh Hoà. Ngày 07-08-1952, quận Giồng Riềng bao gồm tổng Giang Ninh với các làng: Hoà Hưng, Hoà Thuận, Ngọc Hoà, Thạnh Hoà, Thạnh Hưng, Thạnh Lợi, Vị Thanh, Bàn Tân Định, Long Thạnh, Vĩnh Thanh. Thế mạnh kinh tế chủa huyện vẫn là sản xuất nông nghiệp. GDP năm 2001 chiếm 8,3% GDP toàn tỉnh. Nhiều năm qua, huyện đã triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả như: mô hình xen canh lúa – màu – cá ở ấp Xẻo Mây, Bờ Xáng (xã Thạnh Hoà); mô hình bưởi da xanh ấp Thạnh An (Thạnh Lộc); mô hình lúa – màu ở ấp Hoà Phú (Ngọc Hoa); mô hình măng tre, ấp Ngọc Tân (Ngọc Chúc); mô hình nuôi tôm càng xanh, ấp Kinh Tràm (Hoà An)… Năm 2007, 100% xã, thị trấn đều xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp với tổng diện tích 5.850 ha, trong đó có 8 mô hình sản xuất cho thu nhập cao. Đặc biệt, mô hình trồng rau màu trên đất liếp kết hợp nuôi cá cho thu nhập bình quân 120 triệu đồng/ha; mô hình xen canh 1 vụ lúa với 2 vụ màu đem lại thu nhập 77,7 triệu đồng/ha. Ngoài ra, nông dân trên địa bàn huyện còn có nhiều mô hình sản xuất kết hợp làm dịch vụ khác đem lại hiệu quả cao như: làm dịch vụ máy cày, máy xới, máy suốt, lò sấy, máy gặt đập liên hợp, kinh doanh vật tư nông nghiệp… Do có nguồn nước ngọt từ sông Hậu đổ về, từ những năm 1990 bà con nông dân ở Giồng Riềng đã tận dụng diện tích mặt nước dọc các bờ kênh để nuôi cá bống tượng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Những hộ không nằm gần các kênh thì nuôi cá đồng trong ruộng lúa, nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Hiện nay, áp dụng phương thức nuôi thủy sản mới, việc nuôi tôm cá của bà con đã có bước tiến khả quan, nhất là phong trào nuôi tôm càng xanh, đã khá thành công trong những thí điểm đầu tiên.
General introduction to Giong Rieng district Giong Rieng is a rural district of Kien Giang province, about 32 km from the center of Rach Gia city, Kien Giang province; The northwest borders Tan Hiep district, the southwest borders Chau Thanh district, the northeast borders Can Tho city, the southeast borders Hau Giang province, the south borders Go Quao district, the whole district has 19 administrative units, including 18 communes and 01 town. As of December 2016, the population was 217,815 people, making it one of the districts with large rice production in the province. ** Area: 639.24 km2 ** Population: 219,960 people. Administrative units: Giong Rieng town Tan Dinh desk Ban Thach Hoa Loi Hoa Hung Hoa An Hoa Thuan Long Thanh Conveniently pearl Ngoc Chuc Ngoc Thanh Ngoc Hoa Thanh Loc Thanh Hung Thanh Hoa Thanh Binh Thanh Phuoc Vinh Thanh Vinh Phu. On May 20, 1920, France established Giong Rieng district, in Rach Gia province, including Giang Ninh total with 7 villages: Hoa Hung, Ngoc Hoa, Vi Thanh, Hoa Thuan, Thanh Hoa, Ngoc Chuc, Thanh Hung. The district capital is located in Thanh Hoa village. On August 7, 1952, Giong Rieng district included Giang Ninh total with the villages: Hoa Hung, Hoa Thuan, Ngoc Hoa, Thanh Hoa, Thanh Hung, Thanh Loi, Vi Thanh, Ban Tan Dinh, Long Thanh, Vinh Thanh. The district's economic strength is still agricultural production. GDP in 2001 accounted for 8.3% of the province's GDP. Over the years, the district has implemented many effective agricultural production models such as: the rice - cashew - fish intercropping model in Xeo May hamlet, Bo Xang (Thanh Hoa commune); green-skinned grapefruit model in Thanh An hamlet (Thanh Loc); rice-crop model in Hoa Phu hamlet (Ngoc Hoa); Bamboo shoot model, Ngoc Tan hamlet (Ngoc Chuc); giant freshwater prawn farming model, Kinh Tram hamlet (Hoa An)... In 2007, 100% of communes and towns built integrated production and business models with a total area of ​​5,850 hectares, including 8 production models. for high income. In particular, the model of growing vegetables on flat land combined with fish farming brings an average income of 120 million VND/ha; The model of intercropping 1 rice crop with 2 cash crops brings an income of 77.7 million VND/ha. In addition, farmers in the district also have many other production models combined with services that bring high efficiency such as: providing services for plows, cultivators, bobbin machines, dryers, combine harvesters, etc. agricultural material business... Due to the source of fresh water flowing from the Hau River, since the 1990s farmers in Giong Rieng have taken advantage of the water surface area along the canal banks to raise goby fish, bringing high economic efficiency. Households not located near canals raise fish in rice fields, but the economic efficiency is not high. Currently, applying new aquaculture methods, people's shrimp and fish farming has made positive progress, especially the giant freshwater shrimp farming movement, which has been quite successful in the first pilots.
Giới thiệu khái quát huyện Gò Quao Gò Quao là một huyện của Việt Nam, nằm trong tỉnh Kiên Giang (trước đó là tỉnh Rạch Giá). Huyện lỵ là thị trấn Gò Quao Gò Quao nằm ở phía Đông phần giữa của tỉnh Kiên Giang. Phía Tây giáp với huyện An Biên, phía Đông giáp thị xã Vị Thanh (Hậu Giang), phía Bắc giáp huyện Giồng Riềng, phía Tây Bắc giáp huyện Châu Thành, phía Nam giáp huyện Vĩnh Thuận, phía Đông Nam giáp huyện Hồng Dân (Bạc Liêu). Toàn huyện rộng 424,4 km², dân số là 134,4 nghìn người (ước năm 2004). Huyện Gò Quao có 11 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: Thị trấn Gò Quao, các xã Thủy Liểu, Vĩnh Hòa Hưng Bắc, Vĩnh Hòa Hưng Nam, Vĩnh Phước A, Vĩnh Phước B, Định An, Định Hòa, Vĩnh Tuy, Vĩnh Thắng và Thới Quản. Lịch sử Ngày 20 tháng 5 năm 1920, thực dân Pháp lập quận Gò Quao thuộc tỉnh Rạch Giá, gồm 2 tổng là: tổng Kiên Định có 5 làng, tổng Thanh Biên có 7 làng. Ngày 24 tháng 11 năm 1925, chuyển tổng Thanh Biên sang quận An Biên, quận Gò Quao còn lại tổng Kiên Định. Sau năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đổi tên quận Gò Quao thành quận Kiên Hưng thuộc tỉnh Kiên Giang vừa mới thành lập. Năm 1961, lại giao quận Kiên Hưng về cho tỉnh Chương Thiện quản lý. Về phía chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam), tên huyện Gò Quao thuộc tỉnh Rạch Giá vẫn được duy trì cho tới năm 1975. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam của tỉnh Rạch Giá lúc bấy giờ vẫn đặt huyện Gò Quao thuộc tỉnh Rạch Giá cho đến đầu năm 1976. Từ tháng 2 năm 1976, Gò Quao trở thành tên huyện của tỉnh Kiên Giang, gồm có 7 xã là: Vĩnh Hoà Hưng, Vĩnh Phước, Vĩnh Tuy, Thới Quản, Thủy Liễu, Định Hoà, Định An. Ngày 10 tháng 10 năm 1981, huyện Gò Quao lập 3 xã mới: Vĩnh Hoà Thạnh, Vĩnh Hoà Dũng, Vĩnh Hiệp Hoà. Ngày 27-09-1983, lập thêm 8 xã mới: Vĩnh Thắng, Vĩnh Hùng, Thới An, Thủy Tiến, Định Thành, Tân Hoà Lợi, Phước Tân, Phước An. Ngày 24 tháng 5 năm 1988, giải thể các xã: Vĩnh Thắng, Vĩnh Hoà Hưng, Vĩnh Hoà Thạnh, Vĩnh Hoà Dũng, Vĩnh Hiệp Hoà, Phước Tân, Định Thành, Thới An; lập mới thị trấn Gò Quao và 2 xã: Vĩnh Hoà Hưng Bắc, Vĩnh Hoà Hưng Nam. Ngày 18 tháng 3 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 23 – CP, chia xã Vĩnh Phước thành 2 xã: Vĩnh Phước A, Vĩnh Phước B. Xã Vĩnh Phước A có 4.198 ha diện tích tự nhiên và 9.899 nhân khẩu. Xã Vĩnh Phước B có 2.822 ha diện tích tự nhiên và 9.835 nhân khẩu. Ngày 14 tháng 11 năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 84/2001/NĐ – CP, thành lập xã Vĩnh Thắng trên cơ sở 3.383 ha diện tích tự nhiên và 10.325 nhân khẩu xã Vĩnh Tuy. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập xã Vĩnh Thắng, xã Vĩnh Tuy còn lại 3.442 ha diện tích tự nhiên và 10.905 nhân khẩu. Cuối năm 2004, huyện Gò Quao có thị trấn Gò Quao và 10 xã là: Vĩnh Hoà Hưng Bắc, Vĩnh Hoà Hưng Nam, Định Hoà, Thới Quản, Định An, Thủy Liễu, Vĩnh Phước A, Vĩnh Phước B, Vĩnh Tuy, Vĩnh Thắng. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 97/2005/NĐ – CP, điều chỉnh 280 ha diện tích tự nhiên và 1.230 nhân khẩu của xã Vĩnh Phước B về thị trấn Gò Quao quản lý.
General introduction to Go Quao district Go Quao is a district of Vietnam, located in Kien Giang province (formerly Rach Gia province). The district capital is Go Quao town Go Quao is located in the east of the middle part of Kien Giang province. The West borders An Bien district, the East borders Vi Thanh town (Hau Giang), the North borders Giong Rieng district, the Northwest borders Chau Thanh district, the South borders Vinh Thuan district, the Southeast borders Hong Dan district ( Bac Lieu). The entire district is 424.4 km² wide and has a population of 134.4 thousand people (2004 estimate). Go Quao district has 11 commune-level administrative units, including: Go Quao town, Thuy Lieu communes, Vinh Hoa Hung Bac, Vinh Hoa Hung Nam, Vinh Phuoc A, Vinh Phuoc B, Dinh An, Dinh Hoa, Vinh Tuy , Vinh Thang and Thoi Quan. History On May 20, 1920, the French colonialists established Go Quao district in Rach Gia province, including 2 cantons: Kien Dinh canton had 5 villages, Thanh Bien canton had 7 villages. On November 24, 1925, Thanh Bien canton was transferred to An Bien district, Go Quao district was left with Kien Dinh canton. After 1956, the government of the Republic of Vietnam changed the name of Go Quao district to Kien Hung district in the newly established Kien Giang province. In 1961, Kien Hung district was transferred to Chuong Thien province to manage. On the side of the government of the National Front for the Liberation of South Vietnam (later the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam), the name Go Quao district in Rach Gia province was maintained until 1975. After April 30, 1975, the military government of the Republic of South Vietnam of Rach Gia province at that time still placed Go Quao district in Rach Gia province until early 1976. Since February 1976, Go Quao became the district name of Kien Giang province, including 7 communes: Vinh Hoa Hung, Vinh Phuoc, Vinh Tuy, Thoi Quan, Thuy Lieu, Dinh Hoa, Dinh An. On October 10, 1981, Go Quao district established 3 new communes: Vinh Hoa Thanh, Vinh Hoa Dung, Vinh Hiep Hoa. On September 27, 1983, 8 new communes were established: Vinh Thang, Vinh Hung, Thoi An, Thuy Tien, Dinh Thanh, Tan Hoa Loi, Phuoc Tan, Phuoc An. On May 24, 1988, the communes: Vinh Thang, Vinh Hoa Hung, Vinh Hoa Thanh, Vinh Hoa Dung, Vinh Hiep Hoa, Phuoc Tan, Dinh Thanh, Thoi An were dissolved; newly established Go Quao town and 2 communes: Vinh Hoa Hung Bac and Vinh Hoa Hung Nam. On March 18, 1997, the Government of Vietnam issued Decree Không. 23 - CP, dividing Vinh Phuoc commune into 2 communes: Vinh Phuoc A, Vinh Phuoc B. Vinh Phuoc A commune has 4,198 hectares of natural area and 9,899 people. password. Vinh Phuoc B commune has 2,822 hectares of natural area and 9,835 people. On November 14, 2001, the Government of Vietnam issued Decree 84/2001/ND - CP, establishing Vinh Thang commune on the basis of 3,383 hectares of natural area and 10,325 inhabitants of Vinh Tuy commune. After adjusting the administrative boundaries to establish Vinh Thang commune, Vinh Tuy commune has 3,442 hectares of natural area and 10,905 people remaining. At the end of 2004, Go Quao district had Go Quao town and 10 communes: Vinh Hoa Hung Bac, Vinh Hoa Hung Nam, Dinh Hoa, Thoi Quan, Dinh An, Thuy Lieu, Vinh Phuoc A, Vinh Phuoc B, Vinh Tuy, Vinh Thang. On July 26, 2005, the Vietnamese Government issued Decree 97/2005/ND - CP, adjusting 280 hectares of natural area and 1,230 people of Vinh Phuoc B commune to Go Quao town for management.
Giới thiệu khái quát huyện Giang Thành Huyện Giang Thành có 05 xã gồm Tân Khánh Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Vĩnh Điều, Vĩnh Phú với 29 ấp (lúc mới thành lập là 25 ấp). I. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế – văn hóa xã hội: Được chia tách từ huyện Kiên Lương theo Nghị Quyết số 29/NQ-CP ngày 29/6/2009 của Chính Phủ, Huyện Giang Thành là huyện biên giới nằm hướng tây bắc của tỉnh, phía bắc giáp Campuchia, nam giáp huyện Kiên Lương (kinh 9 làm ranh); đông giáp huyện Hòn Đất tỉnh Kiên Giang và tỉnh An Giang; tây giáp Thị xã Hà Tiên và Campuchia; diện tích tự nhiên 41.284,35 ha, đường biên giới 42,8 Km, dân số 2015 là 29.160 người (trong đó, dân tộc Khmer có 1.234 hộ, 5.635 khẩu chiếm 20,1% dân số huyện); tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm là 1,1% (năm 2014 là 1,05%). Huyện Giang Thành có 05 xã gồm Tân Khánh Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Vĩnh Điều, Vĩnh Phú với 29 ấp (lúc mới thành lập là 25 ấp). Năm 2014, toàn huyện có 416 hộ nghèo, với 1.483 khẩu (trên tổng số 7.449 hộ), chiếm tỷ lệ 5,58%; Hộ cận nghèo có 588 hộ, với 2.230 khẩu, chiếm 7,89%. Trong đó, hộ nghèo dân tộc Khmer là 135 hộ chiếm 32,45% hộ nghèo, hộ cận nghèo dân tộc Khmer là 157 hộ, chiếm 26,7% hộ cận nghèo. Năm 2015, theo chuẩn nghèo mới, tỷ lệ hộ nghèo của huyện tăng lên 25,96%, tổng số hộ nghèo 1.976 hộ, cận nghèo là 152 hộ, chiếm tỷ lệ 2% tổng dân số toàn huyện. Do điều kiện đất đai rộng lớn, hệ thống tưới tiêu phong phú với hệ thống kinh rạch chằn chịt, Huyện Giang Thành có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế nông nghiệp sản xuất lúa, hoa màu và nuôi trồng thủy sản. Diện tích gieo cấy đến năm 2015 là 64,180 ha, Sản lượng lương thực hàng năm đạt gần 379 tấn, bình quân 13 tấn/người/năm, tốc độ phát triển GDP hàng năm tăng tứ 9,77% đến 12,85%, thu nhập bình quân năm 2014 đạt 36,07 triệu đồng/người/năm. Trên địa bàn huyện có 02 công ty nuôi trồng thủy sản lớn (BIM, Thông thuận), với diện tích nuôi tôm công nghiệp khoảng 750 ha, cho thu hoạch sản lượng hàng năm bình quân khoảng 7.000 tấn. Ngoài ra còn có khoảng 2000ha diện tích mặt nước được người dân đưa vào nuôi tôm quãng canh, khoảng 100 ha nuôi cá, vừa làm mô hình tôm- lúa, nuôi xen tôm -cua… cho sản lượng bình quân hàng năm khoảng 500 tấn. Huyện có 01 cửa khẩu quốc gia Giang Thành và 03 đường tiểu ngạch (Nha Sáp, Chợ Đình, Cây Dương) thuận tiện cho việc phát triển kinh tế mậu dịch, với giá trị kim ngạch xuất khẩu năm sau luôn cao hơn năm trước (quý IV năm 2009 là 0,495 triệu USD, năm 2010 là 2,81 triệu USD, năm 2011 là 6,56 triệu USD, năm 2014 là 10,8 triệu USD, đến 6 tháng đầu năm 2015 đạt 6,451 triệu USD). Khu kinh tế cửa khẩu Quốc gia có tổng diện tích 45,9 ha, tổng giá trị đầu tư 20 tỷ đồng (giá trị khái toán ban đầu), hiện đang triển khai thực hiện cầu bắt qua sông Giang Thành (dự kiến hoàn thành cuối năm 2015) các hạn mục khác đang huy động vốn để triển khai dự án. 2. Một số kết quả trên lĩnh vực văn hóa xã hội: Ngay từ khi mới thành lập, Đảng bộ và chính quyền huyện Giang Thành luôn xác định mục tiêu chăm lo cho gia đình chính sách và nhân dân nghèo là nhiệm vụ song trùng với phát triển kinh tế huyện. Với đặc điểm vùng xa biên giới, trình độ dân trí thấp, hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao, cơ sở hạ tầng thấp kém, trong hơn 05 năm qua, UBND huyện đã nổ lực, tập trung các nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đến nay đã đạt một số kết quả khả quan như sau: – Thực hiện tốt việc chăm lo cho các gia đình chính sách thường trú trên địa bàn bằng việc cất các nhà tình nghĩa (54 căn), sữa chữa được 29 căn nhà tình nghĩa bị hư hỏng, xuống cấp. – Chú trọng thực hiện các chính sách giảm nghèo, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững bằng các việc làm thiết thực như: hỗ trợ cho vay với lãi suất thấp hoặc không lãi suất để giải quyết việc làm hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc, hỗ trợ đào tạo nghề ngắn hạn giải quyết việc làm tại chỗ cho thanh niên, phụ nữ (nghề may, sửa chữa xe, cơ khí…) Tư vấn, hướng dẫn ký kết hợp đồng với doanh nghiệp ngoài tỉnh đưa lao động làm việc ngoài tỉnh, giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn huyện (chủ yếu là công ty BIM). Nhờ đó, đến nay, tổng số lao động có việc làm ổn định trên địa bàn huyện đạt 89,8% tổng số người lao động. – Thực hiện quyết liệt việc hỗ trợ cất nhà cho hộ nghèo, cận nghèo, khó khăn về nhà ở, đến nay, cơ bản xóa nhà siêu vẹo đột nát cho 04 xã Phú Lợi, Phú Mỹ, Tân Khánh (bằng việc thực hiện cất nhà đại đoàn kết, nhà 167, nhà đồng đội, nhà 134, nhà QĐ 1776 và các nhà thanh niên, mái ấm công đoàn…) – Chính sách giáo dục và đào tạo cũng được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Trong năm 2011 đã được Tập đoàn Dầu khí tài trợ xây dựng trường THCS Phú Mỹ đạt chuẩn quốc gia với tổng kinh phí trên 20 tỷ đồng. Hiện tại đang tiếp tục được công y cổ phần Xi măng Việt Nam tài trợ xây dựng thêm trường Tiểu học và THCS Vĩnh Phú B xã Vĩnh Phú với dự kiến trên 20 tỷ, đạt chuẩn quốc gia. Chú trọng công tác giảng dạy học sinh cuối khóa nên tỷ lệ tốt nghiệp THPT, đậu cao đẳng, đại học hàng năm đạt khá (học sinh tốt nghiệp THPT đạt 99-100%, đậu Đại học, Cao đẳng đạt tỷ lệ so với học sinh đậu tốt nghiệp 66,28% -70%). – Công tác y tế, chăm lo sức khỏe nhân dân cũng có nhiều tiến bộ: đầu năm đã hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng trụ sở tạm trung tâm y tế với 12 phòng, 40 giường, 13 khoa. Hàng tháng tiếp nhận khám và điều trị bình quân khoảng 65.000 lượt người. Chú trọng cải thiện mạng lưới y tế xã, luân phiên đưa bác sỹ, y tế về khám tại sơ sở (bình quân khám cơ sở khảng 47.671 lượt người). Ngoài ra, UBND huyện cũng thường xuyên chỉ đạo rà soát việc cấp thẻ BHYT cho hộ nghèo, cận nghèo, trẻ em…quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng khám điều trị bệnh bằng thẻ BHYT. Tỷ lệ bao phủ thẻ BHYT hiện nay đạt 100%. – Các phong trào văn hóa văn nghệ cũng được quan tâm, tổ chức đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí và phục vụ đời sống tinh thần cho nhân dân. Các phong trào tổ chức sôi nổi được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng như: hội diễn văn nghệ mừng đảng, mừng xuân, diễu hành rước đèn trung thu hàng năm, hội thao văn nghệ nhân dịp lễ Okombok của đồng bào dân tộc Khmer, các hoạt động thể dục, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn trong năm như 30/4, 01/5/ 22/12… – Hoạt động tôn giáo trên địa bàn cũng được tạo điều kiện hoạt động đúng phương châm “tốt đời đẹp đạo”. trên địa bàn huyện có 5 chùa (03 chùa nam tông Khmer, 02 chùa bắc tông), 02 cơ sở phật giáo Hòa hảo, 03 đình (trong đó có 01 đình Nguyễn Hữu cảnh được công nhận đạt di tích văn hóa cấp tỉnh). Hiện tại, các tôn giáo trên địa bàn hoạt động với 28 tu sĩ, 42 chức việc, 13.826 tín đồ.
General introduction of Giang Thanh district Giang Thanh district has 05 communes including Tan Khanh Hoa, Phu Loi, Phu My, Vinh Dieu, Vinh Phu with 29 hamlets (when newly established there were 25 hamlets). I. Overview of natural characteristics, socio-cultural and economic situation: Separated from Kien Luong district according to Resolution Không. 29/NQ-CP dated June 29, 2009 of the Government, Giang Thanh District is a border district located in the northwest of the province, bordering Cambodia to the north, Kien Luong district to the south. (sutra 9 makes dick); East borders Hon Dat district, Kien Giang province and An Giang province; West borders Ha Tien Town and Cambodia; Natural area is 41,284.35 hectares, border line is 42.8 km, population in 2015 is 29,160 people (of which, the Khmer ethnic group has 1,234 households, 5,635 people, accounting for 20.1% of the district population); The average annual population growth rate is 1.1% (in 2014 it was 1.05%). Giang Thanh district has 05 communes including Tan Khanh Hoa, Phu Loi, Phu My, Vinh Dieu, Vinh Phu with 29 hamlets (when newly established there were 25 hamlets). In 2014, the whole district had 416 poor households, with 1,483 people (out of a total of 7,449 households), accounting for 5.58%; Near-poor households have 588 households, with 2,230 people, accounting for 7.89%. Of which, Khmer ethnic poor households are 135 households, accounting for 32.45% of poor households, Khmer ethnic near-poor households are 157 households, accounting for 26.7% of near-poor households. In 2015, according to the new poverty standard, the district's poverty rate increased to 25.96%, the total number of poor households was 1,976 households, 152 near-poor households, accounting for 2% of the total population of the district. Due to its vast land conditions, rich irrigation system and extensive canal system, Giang Thanh District has great potential for agricultural economic development in rice, crop production and aquaculture. The cultivated area by 2015 is 64,180 hectares, the annual food output reaches nearly 379 tons, an average of 13 tons/person/year, the annual GDP growth rate increases from 9.77% to 12.85%, Average income in 2014 reached 36.07 million VND/person/year. In the district, there are 02 large aquaculture companies (BIM, Thong Thuan), with an industrial shrimp farming area of ​​about 750 hectares, harvesting an average annual output of about 7,000 tons. In addition, there are about 2,000 hectares of water surface area that people use for shrimp farming, about 100 hectares for fish farming, and shrimp-rice models, shrimp-crab interculture... for an average annual output of about 500 tons. . The district has 01 national border gate Giang Thanh and 03 non-quota roads (Nha Sap, Cho Dinh, Cay Duong) which are convenient for economic and trade development, with the export turnover value of each year always higher than the previous year ( The fourth quarter of 2009 was 0.495 million USD, in 2010 it was 2.81 million USD, in 2011 it was 6.56 million USD, in 2014 it was 10.8 million USD, and in the first 6 months of 2015 it was 6.451 million USD). The National Border Gate Economic Zone has a total area of ​​45.9 hectares, total investment value of 20 billion VND (initial estimated value), and is currently implementing a bridge across Giang Thanh River (expected to be completed). at the end of 2015) other items are mobilizing capital to implement the project. 2. Some results in the field of social culture: Since its inception, the Party Committee and authorities of Giang Thanh district have always determined that the goal of taking care of policy families and poor people is a task that coincides with the district's economic development. With the characteristics of a remote border area, low educational level, high proportion of poor households, and poor infrastructure, over the past 5 years, the District People's Committee has made efforts and focused resources to implement policies Social security, to date has achieved some positive results as follows: – Take good care of policy families residing in the area by building charity houses (54 houses) and repairing 29 damaged and degraded charity houses. – Focus on implementing poverty reduction policies, helping poor households escape poverty sustainably through practical actions such as: supporting loans with low or no interest rates to create jobs for poor households and community households. ethnic minorities, support short-term vocational training to create on-site jobs for young people and women (sewing, car repair, mechanics...) Consulting and guidance on signing contracts with businesses outside the province. workers working outside the province, introducing workers to businesses in the district (mainly BIM companies). Thanks to that, up to now, the total number of workers with stable jobs in the district has reached 89.8% of the total number of workers. – Drastically implement the support to build houses for poor, near-poor households, with housing difficulties. Up to now, basically eliminating crooked and broken houses for 04 communes of Phu Loi, Phu My, Tan Khanh (by implementing Build the great solidarity house, house 167, team house, house 134, QD 1776 house and youth houses, union shelters...) – Education and training policies are also given regular attention and direction. In 2011, the Petroleum Group sponsored the construction of Phu My Secondary School to meet national standards with a total cost of over 20 billion VND. Currently, Vietnam Cement Joint Stock Company continues to sponsor the construction of Vinh Phu B Primary and Secondary School in Vinh Phu commune with an expected cost of over 20 billion, meeting national standards. Focusing on teaching students at the end of the course, the annual high school graduation rate, college admission rate, and university admission rate is quite good (high school graduation rate reaches 99-100%, and the university and college admission rate reaches the rate compared to students passing graduation 66.28% -70%). – Medical work and people's health care have also made many progress: at the beginning of the year, construction of the temporary headquarters of the medical center was completed and put into use with 12 rooms, 40 beds, 13 departments. Every month, an average of about 65,000 people are examined and treated. Focus on improving the commune health network, taking turns bringing doctors and nurses to the facility for examination (on average, about 47,671 people are examined at the facility). In addition, the District People's Committee also regularly directs and reviews the issuance of health insurance cards to poor households, near-poor households, children... and pays attention to improving the quality of medical examination and treatment using health insurance cards. The current health insurance card coverage rate reaches 100%. – Cultural and artistic movements are also paid attention and organized to meet the entertainment needs and serve the spiritual life of the people. Exciting organized movements were enthusiastically responded to by the people such as: cultural performances to celebrate the party, celebrate spring, annual mid-autumn lantern parade, sports and arts festival on the occasion of Okombok festival of Khmer ethnic people, Fitness and sports activities to celebrate major holidays of the year such as April 30, May 1, December 22... - Religious activities in the area are also facilitated to operate in accordance with the motto "good life and good religion". In the district, there are 5 pagodas (03 Khmer Theravada pagodas, 02 Northern Buddhist pagodas), 02 Hoa Hao Buddhist establishments, 03 communal houses (including 01 Nguyen Huu Canh communal house recognized as a provincial cultural relic). . Currently, religions in the area operate with 28 monks, 42 positions, and 13,826 followers.
Giới thiệu khái quát huyện Kiên Lương Huyện Kiên Lương có diện tích tự nhiên 47.284,74 ha, bờ biển dài 52,3km, có 112 đồi, núi lớn, nhỏ và 55 đảo, trong đó có 17 đảo có dân sinh sống. Có 07 xã, 01 thị trấn (trong đó có hai xã đảo); 35 ấp, 09 khu phố, 443 tổ nhân dân tự quản; với dân số là 19.704 hộ, 81.710 khẩu, gồm có 03 dân tộc chính: Kinh 69.869 khẩu, Hoa 2.168 khẩu, Khmer 9.586 khẩu. Hướng Bắc giáp huyện Giang Thành, hướng Đông giáp huyện Hòn Đất, hướng Tây và hướng Nam giáp biển Tây. Huyện có nguồn tài nguyên, khoáng sản khá đa dạng, với nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng, trong đó ngành mũi nhọn là công nghiệp, nuôi trồng thủy sản và dịch vụ-du lịch. Ba Hòn Đầm điểm du lịch hấp dẫn Với cảnh đẹp hoang sơ trên những hòn đảo nhỏ tại Kiên Lương đã mở ra tiềm năng phát triển du lịch biển đảo, từ đó tạo ra các tuyến du lịch đa dạng và phong phú, thu hút đông đảo du khách đến với Kiên Lương, trong đó Ba Hòn Đầm trong thời gian qua là một địa điểm du lịch thu hút đông đảo du khách đến tham quan và khám phá. Từ bến tàu tại xã Bình An, huyện Kiên Lương mất khoảng 25 phút đi tàu, du khách sẽ được đặt chân đến điểm du lịch Ba Hòn Đầm. Ba Hòn Đầm được hình thành bởi 3 hòn đảo gồm Đầm Dương, Đầm Đước và Đầm Giếng thuộc ấp Hòn Ngang, xã Sơn Hải, huyện Kiên Lương. Ba Hòn Đầm được nhiều du khách khắp nơi biết đến với những vẽ đẹp hoang sơ của núi, rừng và những bãi biển nước trong xanh, không khí trong lành, đến đây du khách có được trãi nghiệm thú vị khi tự tay bắt và thưởng thức các loại hải sản từ thiên nhiên như nghêu, sò, ốc… Nơi đây đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong suốt thời gian qua. Chị Phan Thị Huỳnh Như du khách đến từ Thành phố Hồ chí Minh, chia sẽ: “Ở đây rất đẹp, không khí trong lành thoải mái, ở đây có thể nghỉ dưỡng, biển và gió mát mẽ thoải mái hơn ở những nơi đông đúc khác”. Một góc khu du lịch Ba Hòn Đầm, xã Sơn Hải, huyện Kiên Lương “Khi đến đây thấy quần đảo Bà Lụa đẹp, khung cảnh hoang sơ thoải mái vui chơi, bắt ốc sò tự nhiên sử dụng luôn và dùng luôn, rất thoải mái nơi đây rất đẹp, khi đến đây cảm nhận nơi đây thật tuyệt vời”, anh Phan Thành Minh Lý du khách đến từ Thành phố Hồ chí Minh thông tin thêm. Ba Hòn Đầm là một nhóm hòn đảo thuộc Quần đảo Bà Lụa, huyện Kiên Lương thường được mọi người ví như là Vịnh Hạ Long Phương Nam, khu vực quần đảo Bà Lụa có nhiều hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác gần bờ tạo cho nơi đây một bức tranh thiên nhiên biển đảo huyền ảo. Điều đặc biệt là các hòn đảo nơi đây nước biển cạn, tại điểm du lịch Ba Hòn Đầm khi nước cạn du khách có thể đi bộ qua lại giữa 3 hòn đảo, mỗi đảo có một vẽ đẹp độc đáo riêng biệt thu hút được sự tò mò, khám phá của những du khách khi đặt chân đến nơi đây. Hiện nay, phương tiện đi lại ra Ba Hòn Đầm được thuận tiện, nhiều doanh nghiệp tại địa phương đã đầu tư phát triển du lịch bài bản, tạo ra các điểm dừng chân cho du khách đến tham quan được đầy đủ, tiện nghi phục vụ tốt cho du khách. Nhiều công ty lữ hành đã hình thành các tour du lịch tham quan khám phá các hòn đảo lớn nhỏ của huyện Kiên Lương. Tuy nhiên, hiện nay để Ba Hòn Đầm phát triển và khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch cần có sự đầu tư cơ sở hạ tầng như nguồn điện phục vụ du lịch, phát triển các hình thức du lịch tại các hòn tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch. Bên cạnh đó để khai thác tiềm năng du lịch của Ba Hòn Đầm cần có sự liên kết các tour tuyến du lịch đến các điểm du lịch tại Kiên Lương góp phần phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện nhà./.
General introduction of Kien Luong district Kien Luong district has a natural area of ​​47,284.74 hectares, a coastline of 52.3km, 112 large and small hills and mountains and 55 islands, of which 17 are inhabited. There are 07 communes, 01 town (including two island communes); 35 hamlets, 09 neighborhoods, 443 self-governing people's groups; with a population of 19,704 households, 81,710 people, including 03 main ethnic groups: Kinh 69,869 people, Chinese 2,168 people, Khmer 9,586 people. The North borders Giang Thanh district, the East borders Hon Dat district, the West and South borders the West Sea. The district has quite diverse natural resources and minerals, with many potentials and advantages for economic and infrastructure development, in which the key industries are industry, aquaculture and services-tourism. Ba Hon Dam is an attractive tourist destination The pristine beauty of small islands in Kien Luong has opened up the potential for developing island tourism, thereby creating diverse and rich tourist routes, attracting a large number of tourists to Kien Luong. in which Ba Hon Dam has recently become a tourist destination attracting a large number of tourists to visit and explore. From the pier in Binh An commune, Kien Luong district, it takes about 25 minutes by train, visitors will arrive at Ba Hon Dam tourist destination. Ba Hon Dam is formed by 3 islands including Dam Duong, Dam Duoc and Dam Gieng in Hon Ngang hamlet, Son Hai commune, Kien Luong district. Ba Hon Dam is known to many tourists everywhere for the wild beauty of mountains, forests and beaches with clear blue water and fresh air. Coming here, visitors can have an interesting experience when catching and enjoying it themselves. Enjoy natural seafood such as clams, oysters, snails... This place has become an attractive destination for tourists over time. Ms. Phan Thi Huynh Nhu, a tourist from Ho Chi Minh City, shared: "It's very beautiful here, the air is fresh and comfortable, you can relax here, the sea and the cool breeze are more comfortable than in crowded places." different casting". A corner of Ba Hon Dam tourist area, Son Hai commune, Kien Luong district “When I came here, I saw the beautiful Ba Lua archipelago, the wild scenery, I felt comfortable playing, catching natural shellfish and using it all the time, very comfortable, this place is very beautiful, when I came here, I felt this place was wonderful. ”, Mr. Phan Thanh Minh Ly, a tourist from Ho Chi Minh City, added. Ba Hon Dam is a group of islands in the Ba Lua Archipelago, Kien Luong district, often referred to as Southern Ha Long Bay. The Ba Lua archipelago area has many large and small islands scattered near the shore, creating a place This is a magical picture of island nature. The special thing is that the islands here have shallow sea water. At Ba Hon Dam tourist destination, when the water is shallow, visitors can walk back and forth between 3 islands, each island has its own unique beauty that attracts visitors. curiosity and discovery of tourists when arriving here. Currently, transportation to Ba Hon Dam is convenient, many local businesses have invested in methodical tourism development, creating stops for tourists to visit that are fully equipped and comfortable. Good service for tourists. Many travel companies have formed tours to explore large and small islands of Kien Luong district. However, currently, in order for Ba Hon Dam to develop and effectively exploit its tourism potential, there needs to be investment in infrastructure such as power sources for tourism, development of forms of tourism on the islands, and enhanced technology. state management of tourism. Besides, to exploit the tourism potential of Ba Hon Dam, it is necessary to link tour routes to tourist destinations in Kien Luong, contributing to developing tourism into a key economic sector of the district./ .
Giới thiệu khái quát huyện Tân Hiệp Huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang có tổng cộng 142.048 dân, với 31.060 hộ, diện tích đất tự nhiên là 41.933 ha (trong đó 36.655 ha đất ruộng sản xuất lúa cao sản 2 vụ/năm, 1732,86 ha đất vườn). Năm 1985 Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Kinh 4A, xã Tân Hiệp A đầu tiên của huyện được thành lập và hoạt động theo mô hình HTX kiểu cũ, nhưng từ khi ban hành Luật HTX đã chuyển sang hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới. Đến nay toàn huyện có 55 HTX nông nghiệp, 15 tổ dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp trong HTX nông nghiệp (453 đội sản xuất, 125 Tổ hợp tác và 319 Tập đoàn sản xuất), có 17.788 hộ xã viên, chiếm 67,25% hộ sản xuất nông nghiệp, tổng số giá trị tài sản cố định 39 tỷ 275 triệu đồng, vốn lưu động là 2 tỷ 231 triệu đồng. Nội dung hoạt động của các HTX nông nghiệp đã tích cực đổi mới, hướng vào quản lý các khâu như: lịch thời vụ, dịch vụ bơm tưới, tín dụng nội bộ, cung ứng vật tư nông nghiệp, tổ chức ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất…Ngoài ra còn phối hợp với chính quyền, đoàn thể địa phương vận động xã viên tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự địa phương, phát triển các công trình phúc lợi và phát triển cộng đồng. Ngoài HTX nông nghiệp, huyện còn phát triển các loại hình hợp tác xã như Thương mai – Dịch vụ, Xây dựng, Giao thông thủy bộ, Tín dụng nhân dân.
General introduction of Tan Hiep district Tan Hiep district, Kien Giang province has a total of 142,048 people, with 31,060 households, and a natural land area of ​​41,933 hectares (of which 36,655 hectares of field land produces high-yield rice 2 crops/year, 1732.86 hectares of garden land). In 1985, the district's first agricultural cooperative Kinh 4A, Tan Hiep A commune, was established and operated according to the old-style cooperative model, but since the promulgation of the Law on Cooperatives, it has changed to operating under the cooperative model. new style. Up to now, the whole district has 55 agricultural cooperatives, 15 agricultural technical service groups in agricultural cooperatives (453 production teams, 125 cooperative groups and 319 production corporations), with 17,788 cooperative member households, accounting for 67.25 million. % of agricultural production households, total value of fixed assets is 39 billion 275 million VND, working capital is 2 billion 231 million VND. The content of activities of agricultural cooperatives has been actively innovated, focusing on managing stages such as seasonal calendars, irrigation pumping services, internal credit, supply of agricultural materials, and organization of scientific applications. techniques in production... In addition, we also coordinate with local authorities and organizations to mobilize cooperative members to actively participate in building cultural life at the grassroots, preventing social evils, and maintaining security and order. localities, developing welfare projects and community development. In addition to agricultural cooperatives, the district also develops other types of cooperatives such as Trade - Services, Construction, Waterway Transport, and People's Credit.
Giới thiệu khái quát huyện An Biên An Biên là huyện vùng sâu của tỉnh Kiên Giang; Tây và Bắc giáp vịnh Thái Lan; Nam giáp huyện An Minh và huyện U Minh Thượng; Đông giáp sông Cái Lớn, ngăn cách với các huyện Châu Thành và huyện Gò Quao. Về hành chính, huyện bao gồm thị trấn Thứ Ba và 8 xã là: Tây Yên, Tây Yên A, Nam Yên, Nam Thái, Nam Thái A, Hưng Yên, Đông Yên, Đông Thái. Huyện có di tích Bia Chiến thắng Bàu Môn ở xã Hưng Yên, được xây dựng nhằm ghi dấu chiến công của Tiểu đoàn 307. Thế nhưng thời gian gần đây, do thiếu quan tâm chăm sóc nên khu di tích này chìm trong cỏ dại, trở thành nơi phơi củi và quần áo của những người dân xung quanh. Huyện nằm ở cửa ngõ đi vào vùng bán đảo Cà Mau, trải dài trên trục quốc lộ 63, có đường hành lang ven biển Tây đi qua, sông Cái Lớn chảy dọc phía Đông là tuyến đường thủy chiến lược trong vùng bán đảo Cà Mau, Tây sông Hậu (nối với các tỉnh bạn như: Hậu Giang, Bạc Liêu) trong trục kết nối giao thông đường thủy phía Nam từ thành phố Hồ Chí Minh đi các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Đồng thời An Biên còn giáp với biển Tây về phía Tây Bắc, rất thuận lợi cho nuôi trồng và khai thác thế mạnh nghề nuôi trồng và chế biến thủy, hải sản. Nông – Ngư nghiệp An Biên rất thuận lợi cho phát triển vùng trồng lúa chất lượng cao, trồng các loại hoa màu để phục vụ cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Kết thúc năm lương thực 2008, huyện An Biên có diện tích thu hoạch lúa cả 3 vụ (mùa, đông xuân và hè thu) gần 44.945 ha, năng suất bình quân đạt 4,71 tấn/ha, sản lượng đạt 211.873 tấn, vượt 7,74% kế hoạch năm, tăng 23.209 tấn so với năm 2007 (tăng 12,30%). An Biên có bờ biển dài 21 km, cộng với 10.000 ha mặt nước bãi bồi ven biển, rất thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy, hải sản, đặc biệt nơi đây đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phê duyệt đề án với tổng vốn đầu tư 60 tỷ đồng để nuôi tôm công nghiệp và nuôi tôm quảng canh khép kín. Hiện đã có một số nhà đầu tư đến khai thác nuôi trồng thủy, hải sản có giá trị cao, địa phương còn hỗ trợ nhà đầu tư qua việc nâng cấp cơ sở hạ tầng: thủy lợi, giao thông, điện 3 pha đến tận vùng nuôi tôm… đi liền với nghề nuôi trồng, nơi đây có thể xây dựng thêm các nhà máy chế biến sơ chế thủy sản tại chỗ (thay vì phải vận chuyển về trung tâm để chế biến tốn kém thời gian và chi phí), đồng thời qua đó kích thích các dịch vụ thương mại sẽ phát triển theo: xăng dầu, nhà máy nước đá, mua bán trao đổi hàng hóa, nguồn lao động được giải quyết tại địa phương… Mô hình sản xuất 1 vụ tôm 1 vụ lúa ở An Biên đang phát huy và đem lại hiệu quả khá tốt nên một số bà con nông dân đã chuyển một phần diện tích chuyên nuôi tôm và chuyên canh 2 vụ lúa sang nuôi tôm và trồng lúa, do vậy diện tích lúa mùa năm 2009 ở An Biên gieo cấy đạt trên 8.846 ha, tăng 18,11% so với vụ mùa năm trước. Sản xuất lúa mùa năm nay không được thuận lợi, một mặt do nông dân gieo cấy sớm không tuân thủ lịch thời vụ, lượng mưa chưa đủ để rửa mặn đã xuống giống, mặt khác do một phần diện tích trên nền đất nuôi tôm nhiễm mặn nặng đã làm thiệt hại trên 38 ha ở xã Nam Thái A. Đến nay các địa phương trong huyện đã thu hoạch dứt điểm diện tích lúa mùa, năng suất ước tính đạt 3,2 tấn/ha, thấp hơn vụ mùa năm ngoái. Năm 2008, tỉnh Kiên Giang đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản Ô 1 (Thứ Ba – Chống Mỹ – Xẻo Quao – Đê Biển, huyện An Biên) và Ô 2 (Xẻo Quao – Chống Mỹ – Xẻo Nhàu – Đê Biển, huyện An Minh), với tổng kinh phí đầu tư trên 150 ty đồng bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Thời gian thực hiện dự án từ năm 2008 – 2010. Khi hoàn thành công trình sẽ giúp kinh tế trong vùng dự án phát triển ổn định, khai thác bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ hệ sinh thái môi trường, phát triển các loại hình sản xuất đa cây, đa con; phát triển cơ sở hạ tầng tạo địa bàn bố trí dân cư. Đối với phát triển hệ thống giao thông chiến lược sông Cái Lớn: vừa khai thác thế mạnh vận chuyển trong vùng, vừa có thể nuôi các loại cá nước lợ giá trị cao trong lồng bè trên sông kết hợp phát triển du thuyền, du lịch sinh thái trên sông. Trên trục sông Xẻo Rô có thể xây dựng các nhà máy chế biến nông sản các loại, chế biến gạo phục vụ cho thị trường nội địa và xuất khẩu. Ngoài ra có thể xây dựng khu thương mại cung cấp hàng hoá phục vụ cho du lịch sinh thái, du lịch về nguồn và các loại hình dịch vụ khác đi kèm. Công nghiệp An Biên đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang phê duyệt khu công nghiệp 60 ha nằm trên Quốc lộ 63, thuận lợi giao thông thủy bộ, có thể thu hút nhà đầu tư đến xây dựng các nhà máy chế biến thủy hải sản, nông sản xuất khẩu, bên cạnh có nguồn nguyên liệu dồi dào, nguồn nhân lực sẵn có tại địa phương.
General introduction of An Bien district An Bien is a remote district of Kien Giang province; West and North border the Gulf of Thailand; The South borders An Minh district and U Minh Thuong district; The East borders Cai Lon River, separating Chau Thanh and Go Quao districts. Administratively, the district includes Thu Tuesday town and 8 communes: Tay Yen, Tay Yen A, Nam Yen, Nam Thai, Nam Thai A, Hung Yen, Dong Yen, Dong Thai. The district has the Bau Mon Victory Stele relic in Hung Yen commune, built to mark the victory of Battalion 307. However, recently, due to lack of care, this relic is submerged in weeds. became a place to dry firewood and clothes for surrounding people. The district is located at the gateway to the Ca Mau peninsula, stretching along Highway 63, with the West Coastal Corridor passing through, the Cai Lon River flowing along the East is a strategic waterway in the Ca Mau peninsula. , West of Hau River (connected to neighboring provinces such as Hau Giang, Bac Lieu) in the southern waterway traffic connection axis from Ho Chi Minh City to the Mekong Delta provinces. At the same time, An Bien also borders the West Sea to the Northwest, which is very convenient for farming and exploiting the strengths of aquaculture and seafood processing. Agriculture - Fishery An Bien is very convenient for developing high-quality rice growing areas and growing crops to serve domestic consumption and export. At the end of the 2008 food year, An Bien district had a rice harvest area of ​​​​all three crops (season, winter-spring and summer-autumn) of nearly 44,945 hectares, the average yield reached 4.71 tons/ha, output reached 211,873 tons, exceeding the yearly plan by 7.74%, an increase of 23,209 tons compared to 2007 (an increase of 12.30%). An Bien has a 21 km long coastline, plus 10,000 hectares of coastal alluvial water surface, very convenient for aquaculture and seafood farming, especially this place has had the project approved by the Ministry of Agriculture and Rural Development. with a total investment of 60 billion VND for industrial shrimp farming and closed extensive shrimp farming. Currently, there are a number of investors coming to exploit aquaculture and high-value seafood. The locality also supports investors through upgrading infrastructure: irrigation, transportation, 3-phase electricity until the end of the year. Shrimp farming areas... are associated with aquaculture, where additional seafood processing factories can be built on site (instead of having to transport them to the center for time-consuming and costly processing). At the same time, thereby stimulating commercial services to develop: petroleum, ice factories, buying and selling goods, labor resources are resolved locally... The model of producing 1 shrimp crop and 1 rice crop in An Bien is promoting and bringing quite good results, so some farmers have converted part of the area specializing in shrimp farming and specializing in 2 rice crops to shrimp farming and growing rice. rice, so the 2009 crop rice area in An Bien reached over 8,846 hectares, an increase of 18.11% compared to the previous year's crop. This year's rice production is not favorable, on the one hand, because farmers sowed crops early and did not comply with the cropping schedule, and the rainfall was not enough to wash away salinity before sowing seeds, and on the other hand, because part of the area on shrimp farming land is contaminated. Severe saltwater intrusion has damaged over 38 hectares in Nam Thai A commune. Up to now, localities in the district have completely harvested the winter rice area, with an estimated yield of 3.2 tons/ha, lower than last year's crop. . In 2008, Kien Giang province approved the investment project to build an irrigation system to serve aquaculture Box 1 (Tuesday - Anti-American - Xeo Quao - Bien Dike, An Bien district) and Box 2 (Xeo Quao – Anti-American – Xeo Nhau – Bien Dike, An Minh district), with a total investment cost of over 150 billion VND using Government bond capital. The project implementation period is from 2008 - 2010. When completed, the project will help the economy in the project area develop stably and exploit natural resources sustainably; protect the environmental ecosystem, develop various types of multi-tree and multi-child production; Infrastructure development creates residential areas. For the development of the strategic transport system of Cai Lon River: not only exploiting the transportation strengths in the region, but also raising high-value brackish water fish in cages on the river combined with developing yachts and tourism. river ecology. On the Xeo Ro river axis, it is possible to build factories to process agricultural products of all kinds and process rice to serve the domestic and export markets. In addition, it is possible to build a commercial area to provide goods for eco-tourism, source tourism and other types of accompanying services. Industry An Bien has been approved by the People's Committee of Kien Giang province for a 60-hectare industrial park located on Highway 63, with convenient water and land transportation, which can attract investors to build seafood processing factories, exported agricultural products, in addition to abundant raw materials and available local human resources.
Giới thiệu khái quát huyện KonPlông Huyện KonPlông, tỉnh Kon Tum là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Kon Tum, với diện tích tự nhiên 137.124ha, trong đó, đất nông nghiệp là 124.761ha (đất sản xuất 11.283ha, đất lâm nghiệp 113.469ha, đất nuôi trồng thủy sản 8,59ha) . Toàn huyện có 9 xã với 89 thôn, 117 làng. Huyện Kon Plông nằm trên Quốc lộ 24 nối tỉnh Kon Tum với các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải Trung bộ. Phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi; Phía Tây giáp huyện Tu Mơ Rông; Phía Tây Nam giáp huyện Kon Rẫy; Phía Nam giáp huyện huyện KBang, tỉnh Gia Lai; Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam. Huyện có diện tích tự nhiên 137.142,58 ha; Địa hình núi cao trên 1.000m chiếm 80%, còn lại là cao nguyên, đỉnh bằng sườn dốc và thung lũng phân bố dọc theo hệ thống sông Đắk Ring, sông Đăk Rơ Manh, sông Đăksnghé; Trên địa bàn huyện có 4 sông lớn chảy qua như sông Đắk Ring (dài 15 km), sông Đắk Snghé (dài 60 km) , sông Đăk Rơ Manh (dài 12 km), suối Đăk Tơ Meo (dài 15 km) và nhiều sông suối nhỏ. Trên địa bàn huyện có tổng số 09 đơn vị hành chính xã với 89 thôn và 117 làng, là một trong 62 huyện nghèo của cả nước. – Dân số toàn huyện (tính đến cuối năm 2016) 6.543 hộ với tổng số khẩu 26.685 khẩu, hộ đồng bào dân tộc thiểu số là 5.614 hộ với tổng số khẩu là 21.529 khẩu (chủ yếu là người dân tộc Xê đăng, Mơ Nâm, Ka Dong, Hre) chiếm trên 80 % dân số toàn huyện với nhiều nét văn hoá đặc trưng. – Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 dân tộc cùng sinh sống như dân tộc Xơ Đăng, Hre và dân tộc Kinh, trong đó dân tộc tại chỗ là dân tộc Xơ Đăng có hai nhánh là dân tộc Ka Dong và Mơ Nâm. Trên địa bàn huyện có 03 tôn giáo chính là Công giáo (52 hộ tại xã Măng Bút), Phật giáo (06 hộ tại xã Đắk Long) và Tin Lành ( 100 hộ tại xã Măng Cành, Đắk Tăng và Đắk Nên); hộ nghèo 3.132 hộ theo tiêu chí mới chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều chiếm 54,2% tổng số hộ nghèo toàn huyện. – Trung tâm huyện cách thành phố Kon Tum 54 km về phía Đông – Bắc đi theo quốc lộ 24; cách các bãi biển du lịch của Quảng Ngãi 120 đến 150 km và các trung tâm du lịch Đà Nẵng, Hội An, Quảng Nam khoảng 250-300 km theo đường quốc lộ 24 – Đường Hồ Chí Minh. Có vị trí quan trọng về giao lưu kinh tế đặc biệt là vị trí trung chuyển của các tỉnh Duyên hải miền Trung trên tuyến hành lang kinh tế Đông-Tây qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y. Thông qua cửa khẩu này, khách du lịch có thể tới các khu du lịch tại Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam, Nam Lào, Đông – Bắc Campuchia, Đông – Bắc Thái Lan… – Khu du lịch sinh thái Măng Đen nằm ở độ cao trung bình 1.000m – 1.500m so với mực nước biển, có khí hậu ôn đới, quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình hàng năm giao động từ 16-20 0 C, độ ẩm trung bình 82-84%, có rừng nguyên sinh bao bọc xung quanh, với nhiều danh lam thắng cảnh, rừng có độ che phủ hơn 80% diện tích tự nhiên; có nhiều hồ thác, suối đá và cảnh quan thiên nhiên, văn hóa bản địa độc đáo; đây là tiềm năng thuận lợi để phát triển trở thành trung tâm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng cấp quốc gia; có nhiều hệ động vật, thực vật quý hiếm sinh sống; nhiều hồ thác như: (Đăk Ke, Pa sỹ, Lô Ba), hồ (Toong Đam, Toong Zơri, Toong Pô)… thích hợp cho phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng gắn với nghiên cứu khoa học. – Về phát triển kinh tế của huyện Tổng giá trị sản xuất (theo giá cố định 2010) thực hiện trong năm 2016 ước đạt 842,66 tỷ đồng, tăng 15,83% so với năm trước, trong đó: Nông, lâm, thủy sản tăng 13,10%, Công nghiệp – xây dựng tăng 14,10%, Thương mại – Dịch vụ tăng 23,37%. Cơ cấu kinh tế Nông, lâm, thủy sản: 24,26 %; Công nghiệp – Xây dựng: 49,49 %; Thương mại – dịch vụ: 26,25 %. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 18,28 triệu đồng/người/năm đạt 92,42% so với KH. Ngành công nghiệp trên địa bàn huyện chủ yếu là khai thác cát, đá, sỏi; điện thương phẩm với quy hoạch phát triển thuỷ điện trên địa bàn 08 dự án, sản xuất rượu sim. – Về văn hoá các dân tộc với môi trường sống còn lưu giữ được nét sinh hoạt, văn hóa truyền thống bản địa, với những nhạc cụ dân dang lâu đời như: đàn, nhị, sáo dọc, trống, chiêng, cồng, tì và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước; trang phục bản địa của người Xê Đăng, Mơ Nâm, Ka Dong, Hrê; văn hóa kiến trúc nhà rông, nhà dài… gắn với không gian núi rừng thiên nhiên là tiềm năng rất lớn để khai thác để tạo thành các điểm du lịch cộng đồng mang đậm nét đặc sắc bản địa núi rừng Măng Đen. Văn phòng HĐND – UBND huyện Kon Plông
Overview of KonPlong district Kon Plong district, Kon Tum province is a mountainous district located in the Northeast of Kon Tum province, with a natural area of ​​137,124 hectares, of which agricultural land is 124,761 hectares. (production land 11,283ha, forestry land 113,469ha, aquaculture land 8.59ha) . The whole district has 9 communes with 89 hamlets and 117 villages. Kon Plong district is located on Highway 24 connecting the province Kon Tum with the Central Highlands and Central Coast provinces. The East borders Quang Ngai province; The West borders Tu Mo Rong district; The southwest borders Kon Ray district; The South borders KBang district, Gia Lai province; The North borders Quang Nam province. The district has a natural area of ​​137,142.58 hectares; The mountainous terrain is over 1,000m high, accounting for 80%, the rest are plateaus, sloping peaks and valleys distributed along the Dak Ring, Dak Ro Manh, Daknghe river systems; There are 4 large rivers flowing through the district such as Dak Ring River (15 km long), Dak Snghé river (60 km long) , Dak Ro Manh River (12 km long), Dak To Meo stream (15 km long) and many small rivers and streams. In the district, there are a total of 09 commune administrative units with 89 hamlets and 117 villages, one of the 62 poor districts in the country. – Population of the entire district (as of the end of 2016) is 6,543 households with a total number of 26,685 people, ethnic minority households are 5,614 households with a total number of 21,529 people (mainly people of the Xe Dang and Mo Nam ethnic groups). , Ka Dong, Hre) accounts for over 80% of the district's population with many unique cultural features. – Currently in the district there are 3 ethnic groups living together such as the Xo Dang, Hre and Kinh ethnic groups, of which the local ethnic group is the Xo Dang ethnic group with two branches: the Ka Dong and Mo Nam ethnic groups. In the district, there are 03 main religions: Catholicism (52 ​​households in Mang But commune), Buddhism (06 households in Dak Long commune) and Protestantism (100 households in Mang Canh, Dak Tang and Dak Nen communes); 3,132 poor households according to the new multi-dimensional poverty criteria, accounting for 54.2% of the total number of poor households in the district. – The district center is 54 km East-North from Kon Tum city along Highway 24; 120 to 150 km from the tourist beaches of Quang Ngai and about 250-300 km from the tourist centers of Da Nang, Hoi An, Quang Nam along Highway 24 - Ho Chi Minh Road. It has an important position in economic exchange, especially the transit position of the Central Coast provinces on the East-West economic corridor through Bo Y international border gate. Through this border gate, tourists You can go to tourist areas in the Central Highlands, Central Vietnam, Southern Laos, North-East Cambodia, North-East Thailand... – Mang Den eco-tourism area is located at an average altitude of 1,000m - 1,500m above sea level, has a temperate climate, cool all year round, the average annual temperature ranges from 16-20 0 C, average humidity 82-84%, surrounded by primeval forests, with many scenic spots, forests covering more than 80% of the natural area; There are many lakes, waterfalls, rocky streams and unique natural landscapes and indigenous culture; This is favorable potential to develop into a national eco-tourism and resort center; There are many rare fauna and flora living; Many waterfall lakes such as: (Dak Ke, Pa Sy, Lo Ba), lakes (Toong Dam, Toong Zori, Toong Po)... are suitable for developing eco-tourism and relaxation associated with scientific research. – Regarding economic development of the district Total production value (at 2010 fixed prices) realized in 2016 is estimated at 842.66 billion VND, an increase of 15.83% compared to the previous year, of which: Agriculture, forestry, Fisheries increased by 13.10%, Industry - Construction increased by 14.10%, Trade - Services increased by 23.37%. Economic structure Agriculture, forestry, and fisheries: 24.26%; Industry – Construction: 49.49%; Trade - services: 26.25%. Average income per capita is estimated at 18.28 million VND/person/year, reaching 92.42% of the plan. Industry in the district mainly exploits sand, stone and gravel; commercial electricity with hydropower development planning in the area of ​​08 projects, sim wine production. - Regarding the culture of ethnic groups, the living environment still retains the traditional living and cultural features of the indigenous people, with long-standing folk musical instruments such as: zither, flute, vertical flute, drums, gongs, gongs, and pipa. and, percussion pipes, pipe trusses operated by water power; Indigenous costumes of the Xe Dang, Mo Nam, Ka Dong, Hre people; The architectural culture of communal houses, long houses... associated with the natural mountain and forest space has great potential to be exploited to create community tourism destinations imbued with indigenous characteristics of the Mang Den mountains and forests. Office of the People's Council - People's Committee of Kon Plong district
Giới thiệu khái quát huyện Sa Thầy Nằm về phía tây nam tỉnh Kon Tum, cách trung tâm Thành phố gần 30 km, huyện Sa Thầy có diện tích đất tự nhiên 143 522,3 ha, trong đó rừng và đất lâm nghiệp chiếm 71 %. Dân số toàn huyện trên 42 700 người, gồm 6 dân tộc anh em sinh sống là: Kinh, Ja rai, HLăng, Rơ Mâm, Ba Na (Rơ Ngao), Thái và một số dân tộc ít người khác. Huyện có 11 xã, thị trấn, trong đó 7 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn; Kinh tế của huyện chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, đồng thời phát triển một số loại cây công nghiệp chủ lực như cao su, cà phê, bời lời,…và chăn nuôi. Lợi thế vượt trội của Sa Thầy so với các địa phương khác trong tỉnh và khu vực- đó là rừng nguyên sinh. Thiên nhiên hào phóng ban tặng dãy Chư Mom Ray điệp trùng và huyền thoại, gắn liền với truyền thuyết “Núi Thổ cẩm” của người Ja Rai cư trú nơi đây. Đồng thời cũng là tên gọi của một Vườn Quốc gia được liệt vào hàng Di sản Đông Nam á. Theo kết quả “khảo sát đa dạng sinh học, các chương trình nghiên cứu và đánh giá hoạt động năm 2005”, Vườn Quốc gia Chư Mom Ray có 1534 loài thực vật, trong đó có 113 loài được xác định là quý hiếm có nguy cơ bị đe dọa như các loài phong lan, tuế, ngành hạt trần, các loài họ dầu .v.v.. Về động vật, đã xác định được 718 loài, trong đó có 124 loài quý hiếm, nguy cấp có tên trong sách Đỏ Việt Nam và thế giới. Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ, cùng với tài nguyên về động vật, thực vật đa dạng, phong phú, Vườn Quốc gia Chư Mom Ray rất phù hợp cho loại hình du lịch sinh thái và du lịch văn hóa cộng đồng. Việc chinh phục những địa danh như Hang Dơi, Bãi thú, Suối Ngang .v.v.. cùng với không khí trong lành, tĩnh lặng, mang đến cho du khách cảm giác thư thái, yên bình. Đặc biệt đến với Thác Nàng Tiên, nhìn những dải nước ánh sắc cầu vồng giữa đại ngàn trùng điệp, giống như suối tóc của người thiếu nữ mượt mà trong nắng sớm, chắc chắn ai cũng phải nao lòng trước tuyệt tác của thiên nhiên. Ngoài cảnh quan kỳ thú, Sa Thầy còn là địa bàn có nhiều dân tộc anh em sinh sống, trong đó các dân tộc bản địa như Ja Rai, Xê Đăng (nhóm HLăng), Rơ Mâm, Ba Na (Rơ Ngao),…cư trú tại 37/ 68 thôn, làng; chiếm trên 57 % dân số toàn huyện. Đây là các dân tộc có những nét văn hóa riêng vô cùng độc đáo và phong phú, bao gồm hệ thống lễ hội theo vòng đời người, theo mùa, cồng chiêng, múa xoang, dân ca; chữ viết; các phong tục, tập quán; kiến trúc nhà rông, nhà dài, tượng nhà mồ; trang phục, ẩm thực…Rất thuận lợi để phát triển loại hình du lịch cộng đồng. Đến với nơi đây, du khách được khám phá những giá trị văn hóa từ ngàn xưa của các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Thăm làng dân tộc ít người Rơ Mâm, ngâm mình trong suối nước nóng Ia Mang. Tham gia lễ Mừng nhà rông mới, lễ Mở kho lúa, và đặc biệt là lễ Pơ- Thi (bỏ mả) của người Ja Rai. Tìm hiểu về sự huyền bí cũng như phong cách tạo hình độc đáo của nghệ thuật tượng nhà mồ. Được chiêm ngưỡng những mái nhà rông cao vút, những sàn nhà dài thoáng mát và thưởng thức các món ăn dân dã, truyền thống mà hương vị vô cùng lôi cuốn như cơm lam, thịt nướng, muối giã rau é .v.v.. và đặc biệt là mây đắng- một sản vật của núi rừng xứng đáng được mệnh danh vào loại “siêu đặc sản”, bởi sau cái vị đăng đắng ban đầu qua đi, sẽ là sự ngọt dịu đọng lại mãi không quên trong lòng du khách. Tất nhiên cũng không thể thiếu men rượu cần ngất ngây cùng với nhịp cồng chiêng và vòng xoang đắm say mời gọi của những cô gái Ja Rai, hay những điệu chiêu uyển chuyển, độc đáo mê hồn của thiếu nữ HLăng. Theo kết quả điều tra, thống kê của ngành văn hóa, hiện toàn huyện còn 443 bộ chiêng, trong đó có những bộ chiêng quý (chiêng lào) có giá trị đến hàng chục con trâu, bò được các hộ dân lưu giữ. Khẳng định tính đậm đặc của sắc thái văn hóa bản địa, ít nơi nào có được. Tuy nhiên, những tiềm năng quý giá ấy vẫn chưa được đánh thức và đưa vào khai thác một cách hiệu quả. Trong hai cuộc kháng chiến đánh đuổi ngoại xâm đã qua, Sa Thầy là địa bàn chiến lược. Vừa là hậu phương, vừa là chiến trường diễn ra các trận đánh vô cùng ác liệt. Vì vậy không thiếu những địa danh đã trở thành di tích lịch sử nổi tiếng, trong đó điểm cao Chư tan kra là một điển hình. Khu tưởng niệm Chư Tan Kra (thuộc thôn 2, xã Ia Xiêr, huyện Sa Thầy) được xây dựng trên diện tích 3 héc- ta, gồm quần thể khu tưởng niệm, nhà bia, sân hành lễ, phù điêu, khu nghĩa trang, nhà văn hóa đón tiếp khách và thân nhân liệt sỹ cùng hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ. Điều đặc biệt là hầu hết vật liệu xây dựng đều được chuyển từ Thủ đô Hà Nội vào đây, mỗi viên gạch, tảng đá,…như một lời tri ân đối với các anh hùng liệt sỹ. Công trình lịch sử- tâm linh này là biểu tượng của lòng tri ân, thể hiện đạo lý nhân văn ngàn đời của dân tộc. Đồng thời cũng là sợi chỉ đỏ kết nối trái tim giữa hai vùng đất Kon Tum- Hà Nội. Ngay cửa ngõ Thị trấn Sa Thầy, có một địa danh gắn với sự kiện đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Mỹ- Ngụy trên địa bàn huyện. Trước đây, căn cứ Kleng (còn gọi là căn cứ Lệ Khánh) được Mỹ- Ngụy xây dựng kiên cố, làm tiền đồn án ngữ phía bờ tây sông Pô Cô, ngăn chặn quân ta tấn công vào thị xã Kon Tum. Căn cứ này được xây dựng theo hình tam giác cân, có hệ thống công sự ngầm, sân bay quân sự và trang bị vũ khí tối tân. Chiến thắng Kleng (ngày 09/5/1972) có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên, giải phóng huyện H67. Góp phần đập tan toàn bộ tuyến phòng thủ của địch phía tây thị xã Kon Tum. Với ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện, hiện nay các cơ quan chức năng đang hoàn tất hồ sơ đề nghị công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh. Bên cạnh đó , còn rất nhiều địa danh khác như Phà 10, Ngã ba 90, Tổng kho 13, Bệnh viện 21,…Các di tích lịch sử trên đây, có thể khai thác để phát triển loại hình du lịch tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử và nhất là phục vụ nhu cầu du lịch tâm linh của khách thập phương. Tiềm năng để phát triển du lịch trên địa bàn huyện Sa Thầy là rất lớn, có lợi thế so sánh vượt trội ở khu vực. Bên cạnh những tiềm năng về rừng, bản sắc văn hóa, di tích lịch sử,…khi hình thành các tua du lịch, việc phát triển các loại hình dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ dưỡng thân thiện, gần gũi với thiên nhiên; phát triển các trang trại nuôi thú rừng (heo, nhím, kỳ đà,…) hoặc nhân giống các vườn lan quý hiếm; đan lát đồ thủ công, mỹ nghệ; dệt thổ cẩm;… có thể cung cấp cho du khách những món quà lưu niệm độc đáo. Xây dựng huyện Sa Thầy trở thành một trung tâm du lịch sinh thái- cộng đồng- lịch sử- tâm linh,… kết nối với các tua du lịch của tỉnh và của cả nước sẽ góp phần triển khai có hiệu quả chủ trương mở rộng, phát triển mạnh kinh tế du lịch trên địa bàn. Tuy nhiên hiện nay, công tác giới thiệu, quảng bá tiềm năng du lịch của huyện chưa được chú trọng đúng mức. Vì vậy việc thu hút các nguồn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ công tác này còn rất hạn chế./
Giới thiệu khái quát huyện Sa Thầy Nằm về phía tây nam tỉnh Kon Tum, cách trung tâm Thành phố gần 30 km, huyện Sa Thầy có diện tích đất tự nhiên 143 522,3 ha, trong đó rừng và đất lâm nghiệp chiếm 71 %. Dân số toàn huyện trên 42 700 người, gồm 6 dân tộc anh em sinh sống là: Kinh, Ja rai, HLăng, Rơ Mâm, Ba Na (Rơ Ngao), Thái và một số dân tộc ít người khác. Huyện có 11 xã, thị trấn, trong đó 7 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn; Kinh tế của huyện chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, đồng thời phát triển một số loại cây công nghiệp chủ lực như cao su, cà phê, bời lời,…và chăn nuôi. Lợi thế vượt trội của Sa Thầy so với các địa phương khác trong tỉnh và khu vực- đó là rừng nguyên sinh. Thiên nhiên hào phóng ban tặng dãy Chư Mom Ray điệp trùng và huyền thoại, gắn liền với truyền thuyết “Núi Thổ cẩm” của người Ja Rai cư trú nơi đây. Đồng thời cũng là tên gọi của một Vườn Quốc gia được liệt vào hàng Di sản Đông Nam á. Theo kết quả “khảo sát đa dạng sinh học, các chương trình nghiên cứu và đánh giá hoạt động năm 2005”, Vườn Quốc gia Chư Mom Ray có 1534 loài thực vật, trong đó có 113 loài được xác định là quý hiếm có nguy cơ bị đe dọa như các loài phong lan, tuế, ngành hạt trần, các loài họ dầu .v.v.. Về động vật, đã xác định được 718 loài, trong đó có 124 loài quý hiếm, nguy cấp có tên trong sách Đỏ Việt Nam và thế giới. Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ, cùng với tài nguyên về động vật, thực vật đa dạng, phong phú, Vườn Quốc gia Chư Mom Ray rất phù hợp cho loại hình du lịch sinh thái và du lịch văn hóa cộng đồng. Việc chinh phục những địa danh như Hang Dơi, Bãi thú, Suối Ngang .v.v.. cùng với không khí trong lành, tĩnh lặng, mang đến cho du khách cảm giác thư thái, yên bình. Đặc biệt đến với Thác Nàng Tiên, nhìn những dải nước ánh sắc cầu vồng giữa đại ngàn trùng điệp, giống như suối tóc của người thiếu nữ mượt mà trong nắng sớm, chắc chắn ai cũng phải nao lòng trước tuyệt tác của thiên nhiên. Ngoài cảnh quan kỳ thú, Sa Thầy còn là địa bàn có nhiều dân tộc anh em sinh sống, trong đó các dân tộc bản địa như Ja Rai, Xê Đăng (nhóm HLăng), Rơ Mâm, Ba Na (Rơ Ngao),…cư trú tại 37/ 68 thôn, làng; chiếm trên 57 % dân số toàn huyện. Đây là các dân tộc có những nét văn hóa riêng vô cùng độc đáo và phong phú, bao gồm hệ thống lễ hội theo vòng đời người, theo mùa, cồng chiêng, múa xoang, dân ca; chữ viết; các phong tục, tập quán; kiến trúc nhà rông, nhà dài, tượng nhà mồ; trang phục, ẩm thực…Rất thuận lợi để phát triển loại hình du lịch cộng đồng. Đến với nơi đây, du khách được khám phá những giá trị văn hóa từ ngàn xưa của các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Thăm làng dân tộc ít người Rơ Mâm, ngâm mình trong suối nước nóng Ia Mang. Tham gia lễ Mừng nhà rông mới, lễ Mở kho lúa, và đặc biệt là lễ Pơ- Thi (bỏ mả) của người Ja Rai. Tìm hiểu về sự huyền bí cũng như phong cách tạo hình độc đáo của nghệ thuật tượng nhà mồ. Được chiêm ngưỡng những mái nhà rông cao vút, những sàn nhà dài thoáng mát và thưởng thức các món ăn dân dã, truyền thống mà hương vị vô cùng lôi cuốn như cơm lam, thịt nướng, muối giã rau é .v.v.. và đặc biệt là mây đắng- một sản vật của núi rừng xứng đáng được mệnh danh vào loại “siêu đặc sản”, bởi sau cái vị đăng đắng ban đầu qua đi, sẽ là sự ngọt dịu đọng lại mãi không quên trong lòng du khách. Tất nhiên cũng không thể thiếu men rượu cần ngất ngây cùng với nhịp cồng chiêng và vòng xoang đắm say mời gọi của những cô gái Ja Rai, hay những điệu chiêu uyển chuyển, độc đáo mê hồn của thiếu nữ HLăng. Theo kết quả điều tra, thống kê của ngành văn hóa, hiện toàn huyện còn 443 bộ chiêng, trong đó có những bộ chiêng quý (chiêng lào) có giá trị đến hàng chục con trâu, bò được các hộ dân lưu giữ. Khẳng định tính đậm đặc của sắc thái văn hóa bản địa, ít nơi nào có được. Tuy nhiên, những tiềm năng quý giá ấy vẫn chưa được đánh thức và đưa vào khai thác một cách hiệu quả. Trong hai cuộc kháng chiến đánh đuổi ngoại xâm đã qua, Sa Thầy là địa bàn chiến lược. Vừa là hậu phương, vừa là chiến trường diễn ra các trận đánh vô cùng ác liệt. Vì vậy không thiếu những địa danh đã trở thành di tích lịch sử nổi tiếng, trong đó điểm cao Chư tan kra là một điển hình. Khu tưởng niệm Chư Tan Kra (thuộc thôn 2, xã Ia Xiêr, huyện Sa Thầy) được xây dựng trên diện tích 3 héc- ta, gồm quần thể khu tưởng niệm, nhà bia, sân hành lễ, phù điêu, khu nghĩa trang, nhà văn hóa đón tiếp khách và thân nhân liệt sỹ cùng hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ. Điều đặc biệt là hầu hết vật liệu xây dựng đều được chuyển từ Thủ đô Hà Nội vào đây, mỗi viên gạch, tảng đá,…như một lời tri ân đối với các anh hùng liệt sỹ. Công trình lịch sử- tâm linh này là biểu tượng của lòng tri ân, thể hiện đạo lý nhân văn ngàn đời của dân tộc. Đồng thời cũng là sợi chỉ đỏ kết nối trái tim giữa hai vùng đất Kon Tum- Hà Nội. Ngay cửa ngõ Thị trấn Sa Thầy, có một địa danh gắn với sự kiện đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Mỹ- Ngụy trên địa bàn huyện. Trước đây, căn cứ Kleng (còn gọi là căn cứ Lệ Khánh) được Mỹ- Ngụy xây dựng kiên cố, làm tiền đồn án ngữ phía bờ tây sông Pô Cô, ngăn chặn quân ta tấn công vào thị xã Kon Tum. Căn cứ này được xây dựng theo hình tam giác cân, có hệ thống công sự ngầm, sân bay quân sự và trang bị vũ khí tối tân. Chiến thắng Kleng (ngày 09/5/1972) có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên, giải phóng huyện H67. Góp phần đập tan toàn bộ tuyến phòng thủ của địch phía tây thị xã Kon Tum. Với ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện, hiện nay các cơ quan chức năng đang hoàn tất hồ sơ đề nghị công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh. Bên cạnh đó , còn rất nhiều địa danh khác như Phà 10, Ngã ba 90, Tổng kho 13, Bệnh viện 21,…Các di tích lịch sử trên đây, có thể khai thác để phát triển loại hình du lịch tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử và nhất là phục vụ nhu cầu du lịch tâm linh của khách thập phương. Tiềm năng để phát triển du lịch trên địa bàn huyện Sa Thầy là rất lớn, có lợi thế so sánh vượt trội ở khu vực. Bên cạnh những tiềm năng về rừng, bản sắc văn hóa, di tích lịch sử,…khi hình thành các tua du lịch, việc phát triển các loại hình dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ dưỡng thân thiện, gần gũi với thiên nhiên; phát triển các trang trại nuôi thú rừng (heo, nhím, kỳ đà,…) hoặc nhân giống các vườn lan quý hiếm; đan lát đồ thủ công, mỹ nghệ; dệt thổ cẩm;… có thể cung cấp cho du khách những món quà lưu niệm độc đáo. Xây dựng huyện Sa Thầy trở thành một trung tâm du lịch sinh thái- cộng đồng- lịch sử- tâm linh,… kết nối với các tua du lịch của tỉnh và của cả nước sẽ góp phần triển khai có hiệu quả chủ trương mở rộng, phát triển mạnh kinh tế du lịch trên địa bàn. Tuy nhiên hiện nay, công tác giới thiệu, quảng bá tiềm năng du lịch của huyện chưa được chú trọng đúng mức. Vì vậy việc thu hút các nguồn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ công tác này còn rất hạn chế./
Giới thiệu khái quát thị xã Hà Tiên Thị xã Hà Tiên có 03 dân tộc chính là Kinh – Khmer – Hoa. Đây là vùng đất có bản sắc văn hóa rất đặc thù và đa dạng, được hình thành cách đây hơn 300 năm, gắn liền với tên tuổi dòng họ Mạc. Khi Mạc Cửu đến khai phá và quy phục Chúa Nguyễn ở Đàng trong vào năm Mậu Tý – 1708 và được Chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong làm Tổng binh Trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc Hầu và người kế vị là Mạc Thiên Tích – con trai trưởng của Mạc Cửu, đã xây dựng Hà Tiên thành một vùng đất trù phú, phố thị sầm uất, giao thương với nhiều nước, đời sống người dân ấm no, an lạc. Hơn thế nữa, Mạc Thiên Tích còn thành lập và làm Chủ soái Tao đàn Chiêu Anh Các quy tụ nhiều học sĩ, thi nhân đến làm thơ, xướng họa. Đây là Tao đàn được các nhà nghiên cứu lịch sử văn học đánh giá là Tao đàn lớn thứ hai, sau Tao đàn Nhị thập bát tú của Vua Lê Thánh Tông lúc bấy giờ. Hình ảnh: Hà Tiên xưa Đã từ lâu, Hà Tiên luôn là một địa chỉ thân thuộc đối với ai yêu lịch sử – văn hóa, đất nước và con người Nam Bộ. Hà Tiên – miền biên thùy tận cùng phía Tây Nam của tổ quốc, tuy địa dư không lớn lắm, nhưng được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều cảnh quan tươi đẹp và thơ mộng đã đi vào thơ ca, tiêu biểu là tác phẩm Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tích: Non non nước nước gẫm nên xinh. Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy, Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh. Tiêu Tự, Giang Thành, chuông trống ỏi, Châu Nham, Kim Dự cá chim quanh. Bình San, Thạch Động là rường cột, Sừng sựng muôn năm cũng để dành ”. Và một trong những người con ưu tú của mảnh đất Hà Tiên – nhà thơ Đông Hồ đã miêu tả nét đẹp của thiên nhiên Hà Tiên: “Ở đây kỳ thú thay có như hầu đủ hết ! Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn, một ít đảo đá chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi đá vôi của Ninh Bình, một ít thạch thất sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiền của Bắc Ninh, một ít lăng tẩm của Phú Xuân. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng ; một ít Nha Trang, Long Hải”…Tất cả đã tạo nên một Hà Tiên xinh đẹp, yên bình, có sức thu hút, hấp dẫn du khách gần xa. Hàng năm, Hà Tiên đón gần 2 triệu lượt du khách đến tham quan, hành hương chiêm bái các chùa chiền và nghỉ dưỡng. Hình ảnh: Đông Hồ toàn cảnh Ngoài ra, Hà Tiên còn là cửa ngõ đường biển đến một số nước trong khu vực như Campuchia, Thái Lan, Maylaysia,…Thị xã Hà Tiên đang triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi khu kinh tế cửa khẩu, có cửa khẩu Quốc tế nằm tiếp giáp với Campuchia cả trên đất liền và trên biển, cách tỉnh Campốt 60km và cảng Kép 20km (của Vương quốc Campuchia); rất thuận lợi trong việc phát triển kinh tế biên mậu với Campuchia, hoặc quan hệ với Thái Lan qua đường thuỷ, đường bộ (theo tuyến đường xuyên Á); khoảng cách từ Hà Tiên đến đảo Phú Quốc dài 45km, đến khu công nghiệp Ba Hòn – Hòn Chông (huyện Kiên Lương) dài 20km, cách thành phố Rạch Giá và thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang khoảng 90km, cách Thành Phố Hồ Chí Minh khoảng 340km. Từ đó có thể khẳng định: vị trí địa lý của Hà Tiên rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nội địa liên huyện, liên vùng và xuất nhập khẩu với các nước trong khu vực. Về hành chính, thị xã Hà Tiên có diện tích tự nhiên là 10.048,83 ha (đất nông nghiệp 7.475,96 ha, chiếm tỷ lệ 74,40%; đất phi nông nghiệp 2.370,59 ha, chiếm tỷ lệ 23,59%; nhóm đất chưa sử dụng 202,29 ha, chiếm 2,01%, chủ yếu đất bãi bồi có mặt nước ven biển, núi đá không có rừng cây). Thị xã Hà Tiên được chia thành 04 phường là Tô Châu, Pháo Đài, Đông Hồ, Bình San và 03 xã là Mỹ Đức, Thuận Yên và Tiên Hải (riêng xã đảo Tiên Hải bao gồm 14 đảo, còn gọi là quần đảo Hải Tặc). Dân số toàn thị xã có 49.011 ngườì, cùng với 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sinh sống từ rất lâu đời, trong đó dân tộc Kinh chiếm 84,8% tương đương 41.561 người, dân tộc Khmer chiếm 12,05% tương đương với 5.906 người, dân tộc Hoa chiếm 12,96% tương đương 6.352 người, dân tộc khác chiếm 0,19% dân số tương đương 93 người. Về khí hậu: Thị xã Hà Tiên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia thành 02 mùa rõ rệt là mùa mưa và mưa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Về thủy văn: Trong những năm qua, kinh tế – xã hội thị xã Hà Tiên phát triển khá ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm trên 18%, GDP bình quân đầu người đạt 64.059 triệu đồng/năm (tương đương 2.912 USD). Tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế là: Thương mại – dịch vụ – du lịch chiếm 65,02%, công nghiệp – xây dựng chiếm 18,06%, nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 16,93%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hiện còn 1,00%, tỷ lệ hộ nghèo còn 6,04% (theo tiêu chí mới). Hộ sử dụng nước sạch đạt 96% và hộ sử dụng điện đạt 98% so tổng số hộ. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm và ổn định. Hiện nay, Thị xã Hà Tiên đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển và chỉnh trang đô thị, nhưng nhìn chung vẫn còn giữ được nhiều nét hoang sơ; hệ thống đền, chùa, lăng tẩm vẫn mang nét cổ kính. Người Hà Tiên vốn có bản chất hiền lành, chất phác, tôn trọng nghĩa tình và mến khách, trong sinh hoạt hàng ngày vẫn còn giữ được nét ôn hòa, từ tốn. Tất cả những điều đó đã tạo cho Hà Tiên một khung cảnh thanh bình, thơ mộng. Đây là những giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của đất nước – con người Hà Tiên, đã bao đời người dân nơi đây luôn trân trọng, giữ gìn và phát huy, làm nền tảng phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Hình ảnh: Toàn cảnh Thị xã Hà Tiên Gần 15 năm, kể từ khi thị xã Hà Tiên được thành lập đến nay, là một chặng đường tương đối dài, nhưng so với yêu cầu xây dựng và phát triển để Hà Tiên trở thành một đô thị hiện đại, văn minh thì mới chỉ là những bước đi ban đầu. Tuy vậy, những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Hà Tiên phấn đấu đạt được đến hôm nay thật đáng tự hào. Đây là tiền đề vô cùng quan trọng, là nguồn cổ vũ động viên rất lớn để Đảng bộ và nhân dân Hà Tiên tiếp tục phát huy và xây dựng Thị xã trở thành Thành phố văn hóa du lịch Xanh – Sạch – Đẹp, với những nét đặc trưng riêng biệt, xứng đáng với công sức và mong muốn của các bậc tiền nhân, bao thế hệ lãnh đạo đã gầy dựng, để lại cho thế hệ hôm nay và mai sau./.
General introduction of Ha Tien town Ha Tien town has 3 main ethnic groups: Kinh - Khmer - Chinese. This is a land with a very unique and diverse cultural identity, formed more than 300 years ago, associated with the Mac family name. When Mac Cuu came to explore and submit to Lord Nguyen in Dang Trong in the year of Mau Ty - 1708 and was appointed by Lord Nguyen Phuc Chu as General of Ha Tien Town, the title of Cuu Ngoc Marquis and his successor was Mac Thien Tich - his son. Mac Cuu's chief, built Ha Tien into a rich land, bustling cities, trading with many countries, and people's lives being prosperous and peaceful. Moreover, Mac Thien Tich also founded and became the Commander of the Tao Dan Chieu Anh Cac, gathering many scholars and poets to write poetry and perform sketches. This Tao Dan is considered by literary historians to be the second largest Tao Dan, after the Tao Dan Nhi Thap Eight Tu of King Le Thanh Tong at that time. Image: Ancient Ha Tien For a long time, Ha Tien has always been a familiar address for those who love history - culture, the country and people of the South. Ha Tien - the southernmost border region of the country, although geographically not very large, is blessed by nature with many beautiful and poetic landscapes that have gone into poetry, typically the work Ha Tien. The ten verses of Mac Thien Tich: The mountains and rivers are so beautiful. Dong Ho and Loc Tri always flow, Nam Pho and Lu Khe are green. Tieu Tu, Giang Thanh, bells and drums ringing, Chau Nham, Kim Du fish around. Binh San and Thach Dong are pillars, The horns of honor will last forever." And one of the outstanding children of the land of Ha Tien - poet Dong Ho described the beauty of Ha Tien's nature: "It's amazing that there is almost everything here! There are some deep and dangerous caves in Lang Son, and some rocky islands in the middle of the sea in Ha Long. There are a few limestone mountains of Ninh Binh, a few stone mountains of Huong Tich. There is a little bit of Tay Ho, a little bit of Huong Giang. There are a few pagodas of Bac Ninh, a few mausoleums of Phu Xuan. There is a little bit of Do Son and Cua Tung; a little bit of Nha Trang, Long Hai"... All have created a beautiful, peaceful, attractive Ha Tien, attracting tourists from near and far. Every year, Ha Tien welcomes nearly 2 million tourists to visit, make pilgrimages to worship pagodas and resorts. Image: Dong Ho panorama In addition, Ha Tien is also a sea gateway to a number of countries in the region such as Cambodia, Thailand, Malaysia, etc. Ha Tien town is implementing preferential policies for border-gate economic zones and border gates. International is located adjacent to Cambodia both on land and at sea, 60km from Campot province and 20km from Kep port (of the Kingdom of Cambodia); very convenient in developing border trade economy with Cambodia, or relations with Thailand via waterway and road (following the trans-Asia route); The distance from Ha Tien to Phu Quoc island is 45km long, to Ba Hon - Hon Chong industrial park (Kien Luong district) is 20km long, about 90km from Rach Gia city and Chau Doc town, An Giang province, about 90km from Ho Chi Minh City. Minh is about 340km. From there it can be affirmed: Ha Tien's geographical location is very favorable for inter-district and inter-regional domestic economic development and import-export with regional countries. Administratively, Ha Tien town has a natural area of ​​10,048.83 hectares (agricultural land is 7,475.96 hectares, accounting for 74.40%; non-agricultural land is 2,370.59 hectares, accounting for 23.59 percent). %; unused land group 202.29 hectares, accounting for 2.01%, mainly alluvial land with coastal water surface, rocky mountains without forests). Ha Tien town is divided into 04 wards: To Chau, Phao Dai, Dong Ho, Binh San and 03 communes: My Duc, Thuan Yen and Tien Hai (Tien Hai island commune alone includes 14 islands, also known as the Hai archipelago). Thieves). The town's population is 49,011 people, along with the three ethnic groups Kinh, Chinese, and Khmer living for a long time, of which the Kinh ethnic group accounts for 84.8%, equivalent to 41,561 people, and the Khmer ethnic group accounts for 12.05%, equivalent to 12.05%. equivalent to 5,906 people, Chinese ethnicity accounts for 12.96%, equivalent to 6,352 people, other ethnic groups account for 0.19% of the population, equivalent to 93 people. Regarding climate: Ha Tien Town is located in the tropical monsoon climate zone, divided into two distinct seasons: rainy and dry seasons. The rainy season lasts from May to November, the dry season lasts from December to April of the following year. About hydrology: In recent years, Ha Tien town's socio-economic development has been quite stable, with an average annual economic growth rate of over 18%, per capita GDP reaching 64,059 million VND/year (equivalent to 2,912 USD). ). The proportion in the economic structure is: Trade - services - tourism accounts for 65.02%, industry - construction accounts for 18.06%, agriculture - forestry - fishery accounts for 16.93%. The natural population growth rate is currently 1.00%, the poverty rate is 6.04% (according to new criteria). Households using clean water reached 96% and households using electricity reached 98% of the total number of households. The political security situation and social order and safety are guaranteed and stable. Currently, Ha Tien Town is in the process of promoting urban development and beautification, but in general still retains many wild features; The system of temples, pagodas, and mausoleums still has ancient features. Ha Tien people have a gentle, simple nature, respect love and hospitality, and still maintain a peaceful and gentle character in daily activities. All of these things have created a peaceful and poetic scene for Ha Tien. These are cultural values ​​imbued with the identity of the country and people of Ha Tien. For many generations, people here have always respected, preserved and promoted, serving as the foundation for rapid and sustainable socio-economic development. solid. Image: Panorama of Ha Tien Town Nearly 15 years, since Ha Tien town was established until now, is a relatively long journey, but compared to the construction and development requirements for Ha Tien to become a modern, civilized urban area, it is new. just the initial steps. However, the achievements that the Party Committee and people of Ha Tien have strived to achieve today are worthy of pride. This is an extremely important premise, a great source of encouragement for the Party Committee and people of Ha Tien to continue to promote and build the Town into a Green - Clean - Beautiful cultural and tourist city, with A unique characteristic, worthy of the efforts and wishes of our predecessors and generations of leaders who have built it and left it for today and future generations./.
Giới thiệu khái quát huyện Đăk Hà Huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum được thành lập ngày 24 tháng 3 năm 1994 theo Nghị định 26/NĐ-CP của Chính phủ. Tổng số diện tích tự nhiên là 84.446,74ha, trên cơ sở chia tách 04 xã của thị xã Kon Tum và 02 xã của huyện Đăk Tô, với 74 thôn, tổ dân phố; dân số là 32.305 người, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 53,9%; trên 45% dân số có tôn giáo. Trên cơ sở 2 xã Đăk Pxi và Đăk Hring tách ra từ huyện Đăk Tô và 4 xã Đăk La, Hà Mòn, Ngọk Réo, Đăk Uy tách ra từ thị xã Kon Tum (nay là thành phố Kon Tum); thị trấn huyện lị Đăk Hà được thành lập trên cơ sở tách từ xã Hà Mòn. Khi đó, huyện Đăk Hà có thị trấn Đăk Hà và 6 xã: Đăk Hring, Đăk La, Đăk Pxi, Đăk Uy, Hà Mòn, Ngọk Réo. Ngày 22 tháng 11 năm 1996, xã Ngọc Wang được thành lập theo Nghị định số 73-CP trên cơ sở tách ra từ 2 xã Ngọc Réo, Đăk Uy. Ngày 3 tháng 9 năm 1998, xã Đăk Mar được thành lập theo Nghị định số 69/1998/NĐ-CP trên cơ sở tách ra từ 2 xã Đăk Hring, Hà Mòn. Ngày 20 tháng 12 năm 2013, xã Đăk Long được thành lập trên cơ sở tách ra từ 2 xã Đăk Hring, Đăk Pxi và xã Đăk Ngọk được thành lập trên cơ sở tách ra từ 2 xã Ngọk Wang, Đăk Uy và thị trấn Đăk Hà đều theo Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2013 (hiện nay, huyện có 10 xã và 01 thị trấn). Vị trí địa lý: nằm cách trung tâm thị xã Kon Tum 20 km về phía Bắc, phía Tây giáp huyện Sa Thầy, phía Bắc giáp huyện Đăk Tô, phía Đông giáp huyện Kon Rẫy. ĐăkHà là trung điểm giữa thị xã Kon Tum và huyện Đăk Tô, có quốc lộ 14 chạy qua, nên có điều kiện thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế. Huyện nằm trong lưu vực sông Pô Kô, nơi có công trình thuỷ điện PleiKrông; có rừng đặc dụng ĐăkUy với diện tích 659,5 ha và nhiều hồ chứa nước đã góp phần tích cực trong việc đảm bảo môi trường sinh thái; là điều kiện để hình thành và phát triển du lịch sinh thái của địa phương trong thời gian tới. Trên địa bàn huyện có 8 doanh nghiệp Nhà nước của Trung ương, của Tỉnh chuyên sản xuất cà phê, cao su và lúa nước; 2 di tích lịch sử được Tỉnh công nhận là Khu căn cứ kháng chiến Đăk Ui-Đăk Pxi và Điểm cao 601. Đây là những yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.Tuy nhiên, địa hình đồi núi, sông suối chia cắt phức tạp, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của huyện còn có những khó khăn nhất định. Trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang dồn mọi tâm sức, kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Anh hùng cách mạng của các thế hệ đi trước, thực hiện chống đói nghèo, lạc hậu, xây dựng và phát triển đất nước. Quán triệt và triển khai thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng; không ngừng phát huy những lợi thế sẵn có của mình; dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, HĐND, điều hành của UBND huyện và sự quan tâm, đầu tư của Trung ương, của tỉnh Kon Tum; của các ngành và bằng các phong trào thi đua thiết thực, cụ thể nhân dân các dân tộc của huyện đã đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thách thức đưa huyện Đăk Hà đạt được những thành tựu đáng khích lệ, tự hào. Với những thành tích trên, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đăk Hà đã được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng Ba năm 1999 và Huân chương lao động hạng Nhì năm 2004, Lễ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập huyện (24/3/1994-24/3/2009), nhân dân và cán bộ các dân tộc huyện Đăk Hà đã vinh dự đón nhận phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng; đó là Danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới và Lễ kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập huyện (24/3/1994-24/3/2014); 5 năm đón nhận, giữ vững, phát huy danh hiệu Anh hùng lao động và đón nhận Huân chương lao động hạng Nhất. Phát huy truyền thống anh hùng, tinh thần doàn kết, đấu tranh kiên cường bất khuất của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc huyện Đăk Hà qua 25 năm thành lập huyện (24/3/1994-24/3/2019) và 10 năm phát huy danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Đây là một phần thưởng xứng đáng, một quá trình phấn đấu trưởng thành của huyện nhà. Văn phòng HĐND-UBND huyện
General introduction to Dak Ha district Dak Ha district, province Kon Tum was established on March 24, 1994 according to Decree 26/ND-CP of the Government. The total natural area is 84,446.74 hectares, based on dividing 04 communes of Kon Tum town and 02 communes of Dak To district, with 74 villages and residential groups; The population is 32,305 people, of which ethnic minorities account for 53.9%; Over 45% of the population has a religion. On the basis of 2 communes Dak Pxi and Dak Hring separated from Dak To district and 4 communes Dak La, Ha Mon, Ngok Reo, Dak Uy separated from Kon Tum town (now Kon Tum city); Dak Ha district town was established on the basis of separation from Ha Mon commune. At that time, Dak Ha district had Dak Ha town and 6 communes: Dak Hring, Dak La, Dak Pxi, Dak Uy, Ha Mon, Ngok Reo. On November 22, 1996, Ngoc Wang commune was established under Decree Không. 73-CP on the basis of separating from two communes Ngoc Reo and Dak Uy. On September 3, 1998, Dak Mar commune was established under Decree Không. 69/1998/ND-CP on the basis of separating from two communes Dak Hring and Ha Mon. On December 20, 2013, Dak Long commune was established on the basis of separating from two communes Dak Hring, Dak Pxi and Dak Ngok commune was established on the basis of separating from two communes Ngok Wang, Dak Uy and Dak town Ha are following Resolution 126/NQ-CP dated December 20, 2013 (currently, the district has 10 communes and 01 town). Geographical location: located 20 km north of Kon Tum town center, bordering Sa Thay district to the west, Dak To district to the north, Kon Ray district to the east. DakHa is the midpoint between Kon Tum town and Dak To district, with National Highway 14 running through it, so it has favorable conditions for economic exchange and development. The district is located in the Po Ko river basin, where the PleiKrong hydroelectric project is located; There is DakUy special-use forest with an area of ​​659.5 hectares and many water reservoirs that have actively contributed to ensuring the ecological environment; This is a condition for the formation and development of local eco-tourism in the coming time. In the district, there are 8 central and provincial state-owned enterprises specializing in producing coffee, rubber and wet rice; The two historical relics recognized by the Province are the Dak Ui-Dak Pxi Resistance Base Area and High Point 601. These are important factors contributing to the successful implementation of industrialization and modernization of agriculture. However, the mountainous terrain, rivers and streams are complicatedly divided, and the district's physical facilities and socio-economic infrastructure still have certain difficulties. In the period of innovation, the period when the entire Party, the entire people, and the entire army are putting all their efforts, inheriting and promoting the patriotism and revolutionary heroism of previous generations, to fight hunger. poor, backward, build and develop the country. Thoroughly grasp and implement the Party's innovation work; constantly promote our existing advantages; under the leadership of the District Party Committee, People's Council, administration of the District People's Committee and the attention and investment of the Central Government and Kon Tum province; of sectors and through practical and specific emulation movements, people of all ethnic groups of the district have united, united, strived to overcome difficulties and challenges to help Dak Ha district achieve remarkable achievements. encouragement and pride. With the above achievements, the Party Committee and people of all ethnic groups in Dak Ha district were awarded the Third-class Labor Medal in 1999 and the Second-class Labor Medal in 2004 by the President, commemorating the 15th anniversary of the district's founding. (March 24, 1994 - March 24, 2009), people and officials of all ethnic groups in Dak Ha district were honored to receive noble awards from the Party and State; That is the title of Hero of Labor in the reform period and the 20th Anniversary of the District's Establishment (March 24, 1994-March 24, 2014); 5 years of receiving, maintaining and promoting the title of Labor Hero and receiving the First Class Labor Medal. Promoting the heroic tradition, spirit of solidarity and indomitable struggle of the Party Committee, government and people of all ethnic groups in Dak Ha district over 25 years of establishment of the district (March 24, 1994-March 24, 2019) and 10 years of promoting the title of Hero of Labor in the Reformation Period. This is a worthy reward, a process of striving for maturity of the home district. Office of the District People's Council and People's Committee
Giới thiệu khái quát huyện Nậm Nhùn Tổng diện tích tự nhiên là 1.388,08 ha; với 11 đơn vị hành chính, gồm: Thị trấn Nậm Nhùn, xã Hua Bum, Mường Mô, Nậm Chà, Nậm Hàng, Nậm Manh, Pú Đao, Lê Lợi, Nậm Pì, Nậm Ban, Trung Chải. Là một huyện biên giới, phía Tây Bắc của Tổ quốc; Huyện chính thức được thành lập theo Nghị quyết số 71/NQ-CP, ngày 02/11/2012 của Chính phủ, trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính, diện tích, nhân khẩu của huyện Mường Tè và huyện Sìn Hồ của tỉnh Lai Châu . Tổng diện tích tự nhiên là 1.388,08 km 2 ; với 11 đơn vị hành chính, gồm: Thị trấn Nậm Nhùn, xã Hua Bum, Mường Mô, Nậm Chà, Nậm Hàng, Nậm Manh, Pú Đao, Lê Lợi, Nậm Pì, Nậm Ban, Trung Chải. Địa giới hành chính của huyện: phía Đông giáp huyện Sìn Hồ; phía Tây giáp huyện Mường Nhé (tỉnh Điện Biên); phía Nam giáp thị xã Mường Lay (tỉnh Điện Biên); phía Bắc giáp huyện Mường Tè và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Huyện có địa bàn rộng, có nhiều núi cao, trung bình khoảng 1.000m so với mực nước biển; địa hình dốc từ Tây sang Đông, nhiều khe suối, chảy vào 2 sông lớn là sông Đà và sông Nậm Na; thời tiết diễn biến phức tạp, chia thành 2 mùa rõ dệt là mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) và mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau); giao thông đi lại khó khăn, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa như Nậm Chà, Trung Chải, Nậm Pì, Nậm Ban, Nậm Manh. Huyện có 70 bản, với 11 dân tộc khác nhau cùng sinh sống, gồm: Thái, Hoa, Kinh, Khơ Mú, Dao, Mông, Mảng, Hà Nhì, Cống, Tày, Mường; Toàn huyện có tổng số 4.228 hộ; 24.165 nhân khẩu. Trong đó có 2.044 hộ, với 10.291 nhân khẩu thuộc diện hộ nghèo, chiếm 48,3%. Kinh tế huyện chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; hiện nay đã có sự phát triển nhưng một số lĩnh vực có biểu hiện chưa bền vững, một số xã còn gặp nhiều khó khăn.
General introduction to Nam Nhun district The total natural area is 1,388.08 hectares; with 11 administrative units, including: Nam Nhun town, Hua Bum commune, Muong Mo, Nam Cha, Nam Hang, Nam Manh, Pu Dao, Le Loi, Nam Pi, Nam Ban, Trung Chai. Is a border district, in the Northwest of the country; The district was officially established according to Resolution Không. 71/NQ-CP, dated November 2, 2012 of the Government, on the basis of adjusting the administrative boundaries, area, and population of Muong Te district and Sin Ho district of Vietnam. conscious Lai Chau . The total natural area is 1,388.08 km2 2 ; with 11 administrative units, including: Nam Nhun town, Hua Bum commune, Muong Mo, Nam Cha, Nam Hang, Nam Manh, Pu Dao, Le Loi, Nam Pi, Nam Ban, Trung Chai. Administrative boundaries of the district: the East borders Sin Ho district; The West borders Muong Nhe district (Dien Bien province); The South borders Muong Lay town (Dien Bien province); The North borders Muong Te district and the People's Republic of China. The district has a large area with many high mountains, on average about 1,000m above sea level; The terrain is sloping from West to East, with many streams and streams, flowing into two large rivers, Da River and Nam Na River; The weather is complicated, divided into two distinct seasons: the rainy season (from May to October) and the dry season (from October to April of the following year); Traffic is difficult, especially in remote communes such as Nam Cha, Trung Chai, Nam Pi, Nam Ban, and Nam Manh. The district has 70 villages, with 11 different ethnic groups living together, including: Thai, Hoa, Kinh, Kho Mu, Dao, Mong, Mang, Ha Nhi, Cong, Tay, Muong; The whole district has a total of 4,228 households; 24,165 people. Of these, there are 2,044 households, with 10,291 people classified as poor households, accounting for 48.3%. The district's economy is mainly agricultural, forestry and fishery production; Currently, there has been development, but some areas appear to be unsustainable, and some communes still face many difficulties.
Giới thiệu khái quát huyện Sìn Hồ Sìn Hồ là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lai Châu, nằm cách thành phố Lai Châu khoảng 60 km về phía Tây. Toạ độ địa lý trong khoảng từ 22 0 02′ đến 22 0 37′ vĩ độ Bắc và từ 102 0 56’ đến 103 0 24’ kinh độ Đông. Phía Đông Bắc giáp huyện Phong Thổ (tỉnh Lai Châu); phía Đông giáp thành phố Lai Châu và huyện Tam Đường; phía Đông Nam giáp huyện Than Uyên (tỉnh Lai Châu); phía Tây giáp huyện Nậm Nhùn (tỉnh Lai Châu); phía Nam giáp huyện Tủa Chùa (tỉnh Điện Biên) và huyện Quỳnh Nhai (tỉnh Sơn La); phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Có tổng diện tích tự nhiên 152.700,1 ha; diện tích đất nông nghiệp 29.374,32 ha; đất lâm nghiệp 52.322,76 ha; đất phi nông nghiệp 7.502,1 ha; đất ở 603,99 ha; đất khác là 62.896,93 ha. Là huyện có địa hình tương đối phức tạp, nhiều núi cao, độ dốc lớn, chia cắt mạnh bởi nhiều khe sâu. Huyện Sìn Hồ có 22 đơn vị hành chính, gồm: Thị trấn Sìn Hồ và 21 xã (Phăng Sô Lin, Tả Phìn, Sà Dề Phìn, Tả Ngảo, Làng Mô, Tủa Sín Chải, Chăn Nưa, Pa Tần, Hồng Thu, Phìn Hồ, Ma Quai, Lùng Thàng, Nậm Tăm, Nậm Cha, Noong Hẻo, Pu Sam Cáp, Pa Khóa, Căn Co, Nậm Cuổi, Nậm Mạ, Nậm Hăn). Trung tâm huyện lỵ đặt tại thị trấn Sìn Hồ. Huyện có tổng chiều dài đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc dài 12 km thuộc địa phận xã Pa Tần, nên huyện Sìn Hồ có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh – quốc phòng và bảo vệ chủ quyền biên giới Quốc gia. Tổng dân số của huyện là 82.852 người (tính đến ngày 30/11/2018); gồm 14 dân tộc: Kinh, Thái, H’Mông, Dao, Lự, Khơ Mú, Lào, Giáy, Kháng, Hoa và các dân tộc khác cùng sinh sống, trong đó: Dân tộc Thái chiếm 30,40%; dân tộc H’Mông chiếm 33,31%; dân tộc Kinh chiếm 6%; dân tộc Dao chiếm 22,37%; dân tộc Lự chiếm 4,49%; dân tộc Kháng chiếm 0,93%; dân tộc Khơ Mú chiếm 0,90%; dân tộc khác chiếm 1,6%. Do chịu ảnh hưởng lớn của hoạt động kiến tạo địa chất nên có địa hình rất phức tạp, núi cao, độ dốc lớn, mức độ chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, phổ biến là kiểu địa hình núi cao và núi trung bình xen lẫn thung lũng. Độ cao trung bình từ 900 – 1.800m so với mặt nước biển, được chia thành 03 vùng khác nhau: * Vùng cao: Gồm thị trấn Sìn Hồ và 08 xã (Phăng Sô Lin, Tả Phìn, Sà Dề Phìn, Tả Ngảo, Làng Mô, Tủa Sín Chải, Phìn Hồ, Hồng Thu) với độ cao trung bình từ 800 – 1.800m so với mực nước biển, riêng thị trấn Sìn Hồ ở độ cao 1.500m, có khí hậu nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế rừng, cây chè, cây ăn quả ôn đới có giá trị kinh tế cao, cây dược liệu và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. * Vùng thấp: Gồm 11 xã (Ma Quai, Lùng Thàng, Nậm Tăm, Nậm Cha, Noong Hẻo, Pu Sam Cáp, Pa Khóa, Căn Co, Nậm Cuổi, Nậm Mạ, Nậm Hăn) với độ cao trung bình từ 500 – 800m so với mực nước biển, là vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp như Cao su, Quế… và phát triển sản xuất nông nghiệp. * Vùng biên giới và dọc sông Nậm Na: Gồm 02 xã (Chăn Nưa, Pa Tần) với độ cao trung bình từ 400 – 600m so với mực nước biển, là vùng có tiềm năng phát triển thủy điện vừa, nhỏ và nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Khí hậu huyện Sìn Hồ mang đặc điểm của vùng nhiệt đới núi cao Tây Bắc, ít chịu ảnh hưởng của bão. Thời tiết quanh năm chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa đông lạnh và mưa ít, mùa hè nóng mưa nhiều và ẩm ướt. Lượng mưa bình quân năm ở mức tương đối cao khoảng 2.604 mm/năm và phân bố không đồng đều. Lượng mưa của các xã vùng cao ở mức 2.600 – 2.700 mm/năm, lượng mưa ở các xã vùng thấp và các xã dọc sông Nậm Na ở mức 2.480 – 2.750mm/năm. Lượng mưa cao nhất là vào tháng 6 và tháng 7 hàng năm chiếm tới 70% lượng mưa trung bình của cả năm. Độ ẩm trung bình trong năm từ 80 – 86 %, tháng cao nhất là tháng 7 dao động từ 85 – 90%, tháng thấp nhất vào tháng 3 dao động từ 70 – 80%. Tổng số giờ nắng trong năm trung bình từ 1.850 – 1.900 giờ. Huyện Sìn Hồ có mạng lưới sông, suối khá dày đặc, đa dạng, trong huyện có 02 sông chính chảy qua là sông Đà và sông Nậm Na ngoài ra còn các dòng suối với trữ lượng nước lớn như: Suối Nậm Mạ, suối Nậm Múng, suối Nậm Tăm, suối Phiêng Ớt. Đặc biệt, huyện có 08 xã nằm trong khu vực lòng hồ thủy điện Sơn La. Điều kiện địa hình, khí hậu, thủy văn, sông ngòi thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và phát triển du lịch sinh thái, thắng cảnh và nghỉ dưỡng. Bên cạnh đó huyện còn có nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều di tích lịch sử, hang động, núi đá tự nhiên nổi tiếng như: Núi Đá ô, Động Quan âm, Cổng trời… Trên địa bàn huyện có nhiều dân tộc sinh sống như dân tộc Thái, Dao, Lự, H’Mông… với bản sắc văn hoá riêng, có những lời ca, tiếng hát, say sưa trong điệu xòe của người Thái, điệu múa và tiếng khèn ngân nga của người H’Mông. Hàng năm vào các dịp lễ Tết quý khách còn được chiêm ngưỡng lễ hội Gầu Tào, một lễ hội truyền thống của người H’Mông. Sìn Hồ còn là nơi nổi tiếng bởi ẩm thực đặc sắc của người Thái, Mông như: Rêu đá cộng với lá cây rừng, món cá nướng, lạp thịt, gỏi cá đượm vị cay của ớt, thơm nồng của “mắc khén”, hạt tiêu rừng, xả, gừng, canh măng chua… sẽ không thể quên sự tài hoa, khéo léo của phụ nữ vùng Tây bắc và trong mỗi các món ẩm thực còn thấm đậm trữ tình./.
General introduction to Sin Ho district Sin Ho is a border highland district of Lai Chau province, located far from the city Lai Chau about 60 km west. Geographic coordinates range from 22 0 02′ to 22 0 37′ North latitude and from 102 0 56' to 103 0 24' East longitude. The Northeast borders Phong Tho district (Lai Chau province); The East borders Lai Chau city and Tam Duong district; The Southeast borders Than Uyen district (Lai Chau province); The West borders Nam Nhun district (Lai Chau province); The South borders Tua Chua district (Dien Bien province) and Quynh Nhai district (Son La province); The North borders Yunnan province (China). Has a total natural area of ​​152,700.1 hectares; agricultural land area 29,374.32 hectares; Forestry land 52,322.76 hectares; Non-agricultural land 7,502.1 hectares; residential land 603.99 hectares; Other land is 62,896.93 hectares. This district has a relatively complex terrain, with many high mountains, steep slopes, and strong separation by many deep ravines. Sin Ho district has 22 administrative units, including: Sin Ho town and 21 communes (Phang So Lin, Ta Phin, Sa De Phin, Ta Ngao, Lang Mo, Tua Sin Chai, Chan Nua, Pa Tan, Hong Thu, Phin Ho, Ma Quai, Lung Thang, Nam Tam, Nam Cha, Noong Heo, Pu Sam Cap, Pa Lock, Can Co, Nam Cuoi, Nam Ma, Nam Han). The district capital is located in Sin Ho town. The district has a total length of border line adjacent to Yunnan province, China, 12 km long in Pa Tan commune, so Sin Ho district has a particularly important position in terms of security - defense and border sovereignty protection. National boundary. The total population of the district is 82,852 people (as of November 30, 2018); including 14 ethnic groups: Kinh, Thai, H'Mong, Dao, Lu, Kho Mu, Lao, Giay, Khang, Hoa and other ethnic groups living together, of which: Thai ethnic group accounts for 30.40%; H'Mong ethnic group accounts for 33.31%; Kinh ethnic group accounts for 6%; Dao ethnic group accounts for 22.37%; Lu ethnic group accounts for 4.49%; Khang ethnic group accounts for 0.93%; Kho Mu ethnic group accounts for 0.90%; Other ethnic groups account for 1.6%. Due to the great influence of geological tectonic activities, the terrain is very complex, high mountains, steep slopes, strong separation by high mountain ranges running in the Northwest - Southeast direction, commonly High mountain and medium mountain terrain mixed with valleys. The average altitude is from 900 - 1,800m above sea level, divided into 3 different regions: * Highlands: Includes Sin Ho town and 08 communes (Phang So Lin, Ta Phin, Sa De Phin, Ta Ngao, Lang Mo, Tua Sin Chai, Phin Ho, Hong Thu) with an average altitude of 800 - 1,800m Compared to sea level, Sin Ho town alone is at an altitude of 1,500m, has a tropical climate, favorable for the economic development of forests, tea trees, temperate fruit trees with high economic value, and medicinal plants. materials and eco-tourism and relaxation. * Lowland: Includes 11 communes (Ma Quai, Lung Thang, Nam Tam, Nam Cha, Noong Heo, Pu Sam Cap, Pa Lock, Can Co, Nam Cuoi, Nam Ma, Nam Han) with average altitudes from 500 - 800m above sea level, is an area influenced by the tropical monsoon climate, favorable for the development of industrial crops such as Rubber, Cinnamon... and the development of agricultural production. * Border area and along Nam Na River: Includes 02 communes (Chan Nua, Pa Tan) with an average altitude of 400 - 600m above sea level, an area with potential for developing medium and small hydropower and farming freshwater fisheries. Sin Ho district's climate is typical of the Northwest high mountain tropical region, less affected by storms. The year-round weather is divided into two distinct seasons: Winter is cold and has little rain, and summer is hot and rainy and humid. The average annual rainfall is relatively high at about 2,604 mm/year and is unevenly distributed. Rainfall in highland communes is at 2,600 - 2,700 mm/year, rainfall in lowland communes and communes along Nam Na river is at 2,480 - 2,750mm/year. The highest rainfall is in June and July every year, accounting for 70% of the average annual rainfall. The average humidity in the year is from 80 - 86%, the highest month is July ranging from 85 - 90%, the lowest month is March ranging from 70 - 80%. The average total number of sunshine hours per year ranges from 1,850 - 1,900 hours. Sin Ho district has a quite dense and diverse network of rivers and streams. In the district, there are two main rivers flowing through it: Da river and Nam Na river, in addition to streams with large water reserves such as: Nam Ma stream, Nam Na stream. Muong, Nam Tam stream, Phieng Ot stream. In particular, the district has 08 communes located in the Son La hydroelectric reservoir area. Terrain, climate, hydrology, and river conditions are favorable for economic development and the development of eco-tourism, landscapes, and resorts. Besides, the district also has many famous landscapes, historical relics, caves, and natural rocky mountains such as: Da O Mountain, Quan Am Cave, Heaven's Gate... There are many ethnic groups living in the district. such as the Thai, Dao, Lu, H'Mong... with their own cultural identities, with lyrics and singing, passionate about the Xoe dance of the Thai people, the dance and humming of the Hmong people. Every year during Tet holidays, you can also admire the Gau Tao festival, a traditional festival of the H'Mong people. Sin Ho is also a famous place for its unique cuisine of Thai and Mong people such as: Stone moss plus forest leaves, grilled fish, meat sausage, fish salad with the spicy taste of chili, strong aroma of "mac Khen", Wild pepper, lemongrass, ginger, sour bamboo shoot soup... will never forget the talent and ingenuity of women in the Northwest and each culinary dish is still deeply lyrical./.
Giới thiệu khái quát huyện Ngọc Hồi Về địa lý, tự nhiên. Nằm ở ngã ba đông dương, là trung tâm tam giác phát triển của 3 nước Việt Nam – Lào –Cam Phuchia, có cột mốc ba biên và cửa khẩu quốc tế Bờ Y; Ngọc Hồi được mệnh danh là vùng đất một con gà gáy cả 3 nước cùng nghe. Cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng 60 km phía Bắc, Ngọc Hồi được thành lập ngày 15/10/1991, với diện tích 83.936 hecta, có đường biên giới trên bộ dài 47 km tiếp giáp với hai nước bạn Lào và Campuchia, là nơi hội tụ của 17 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn 7 xã, thị trấn, 76 thôn, tổ dân phố với dân số khoảng 58.000 người. – Ngọc Hồi là nơi giao nhau của các tuyến đường: + Hồ Chí Minh nối Đà Nẵng với các tỉnh Tây Nguyên; Quốc lộ 14C nối Ngọc Hồi với các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh miền Đông nam bộ, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc lộ 40 nối Ngọc Hồi với cửa khẩu Quốc tế Bờ Y. + Đồng thời, là trung tâm nối các tuyến đường từ Tây Nguyên, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Quảng Ngãi với các nước ASEAN. – Năm 2015, Thị trấn Pleikần mở rộng đã được Bộ xây dựng công nhận đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV miền núi, hiện nay huyện đang hoàn chỉnh các tiêu chí để được công nhận huyện đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV tiến tới thành lập thị xã Ngọc Hồi. Tiềm năng, thế mạnh: Ngọc Hồi được xác định là một trong ba vùng kinh tế động lực của tỉnh Kon Tum, có lợi thế từ Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Bờ Y; năm 2012, Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y đã chính thức được Chính phủ nước Việt Nam xác định là một trong 8 khu kinh tế trọng điểm của cả nước; diện tích của Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Bờ Y là 70.438 ha chiếm 84% diện tích toàn huyện; hiện nay khu kinh tế cửa khẩu có 40 doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh với tổng số vốn hơn 1.000 tỷ đồng. – Cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ: + 100% số xã đều có đường ô tô vào trung tâm xã; 100% số thôn, làng có điện lưới quốc gia phục vụ sản xuất và sinh hoạt. + Đang đầu tư xây dựng hoàn thành kết cấu hạ tầng khu vực phía Nam thị trấn Plei Kần, Khu trung tâm hành chính mới; đường vành đai trục chính Tây Nam; Nhà máy cấp nước sinh hoạt với công suất 5.000m3/ngày/đêm, các công trình khác như công viên trung tâm, thư viện, chợ …Hiện tại trên địa bàn Ngọc Hồi đã xây dựng và đưa vào hoạt động 4 nhà máy chế biến mủ cao su với công suất gần 3.740 tấn/năm, 01 nhà máy chế biến tinh bột sắn với công suất 150 tấn sản phẩm/ngày đêm và 01 nhà máy sản xuất gạch không nung… – Huyện Ngọc Hồi có nguồn lao động dồi dào; số người trong độ tuổi lao động khoảng 37.000 người, chiếm 65% dân số toàn huyện. – Hằng năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đều đạt và vượt so với mục tiêu đề ra, năm 2018 tổng giá trị sản xuất cả năm ướcđạt 6.217 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế huyện tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; tỷ trọng Ngành nông –lâm-thủy sản 17,1% ; ngành Công nghiệp – Xây dựng 26,2% ,Thương mại – Dịch vụ 56,7%. – Hiện nay huyện đang đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để phát triển, thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ( diện tích đất đai lớn, thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp với việc phát triển nhiều loại cây Công nghiệp, cây ăn quả, các loại rau và phát triển chăn nuôi đại gia súc); các ngành tiểu thủ công nghiệp như chế biến nông, lâm sản theo chuỗi giá trị; thương mại, dịch vụ như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, du lịch cộng đồng…; một số dự án kêu gọi, khuyến khích đầu tư gồm: + Dự án trồng rừng nguyên liệu sản xuất gắn với chế biến (nhu cầu vốn 500 tỷ đồng). + Xây dựng mạng lưới công trình hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, tạo một khu công nghiệp tập trung, hiệu đại và đồng bộ tại Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y (nhu cầu vốn 7.900 tỷ đồng). + Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm Logistics, kho bãi, dịch vụ cửa khẩu quốc tế Bờ Y (nhu cầu vốn 360 tỷ đồng). + Đầu tư xây dựng hạ tầng Khu đô thị Bắc Bờ Y và hạ tầng Khu đô thị Nam Bờ Y ( để từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển thành đô thị loại II vùng biên giới (nhu cầu vốn 8.000 tỷ đồng). + Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kỷ thuật, trực tiếp sản xuất hoặc cho thuê lại đất, cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (nhu cầu vốn 100 tỷ đồng). + Dự án xây dựng trang trại chăn nuôi lợn gia công tập trung (nhu cầu vốn 100 tỷ đồng). + Dự án Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt huyện Ngọc Hồi (nhu cầu vốn 100 tỷ đồng). + Dự án siêu thị trung tâm huyện Ngọc Hồi (nhu cầu vốn 30 tỷ đồng). + Khu du lịch cột mốc quốc giới chung 03 nước Việt Nam- lào- campuchia (nhu cầu vốn 550 tỷ đồng). + Dự án rạp chiếu phim huyện Ngọc Hồi (nhu cầu vốn 10 tỷ đồng). + Dự án đầu tư và phát triển du lịch cộng đồng tại làng Đắk Mế, Đắk Răng (nhu cầu vốn 08 tỷ đồng). + Dự án khu văn hóa, thể thao, thương mại và dịch vụ huyện Ngọc Hồi (16 tỷ đồng). + Dự án Khu dân mới Đắk Tráp (20 tỷ đồng). Ngoài những lợi thế về vị trí địa lý, đất đai, tài nguyên khoáng sản, cơ sở hạ tầng đồng bộ…Ngọc Hồi còn được xem là nơi sản sinh và lưu giữ những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc mà nổi bật nhất là không gian văn hóa cồng chiêng Tây nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại như lễ hội mừng nhà rông mới của đồng bào dân tộc Giẻ-Triêng; lễ hội mừng lúa mới của người Brâu, Xơ Đăng, trình diễn Chiêng tha của người Brâu. Bên cạnh những nét đẹp văn hóa của các dân tộc thiểu số bản địa còn có các lễ hội, các làn điệu chèo, điệu múa xòe, nhảy sạp của nhân dân các làng di cư xây dựng kinh tế mới trên địa bàn…Việc hội tụ những tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn góp phần làm phong phú thêm không gian văn hóa ẩm thực: đó là món cơm lam truyền thống, món thịt dúi nướng ống lồ ô, cá suối làm chua hòa quyện với hương thơm của men rượu cần say đắm. Những điểm đến thu hút khách du lịch trong hành trình khám phá vùng đất nơi ngã ba biên giới như: Di tích lịch sử chiến thắng Pleikần; Di tích chiến thắng Đắk Siêng – Đắk Dục, Cửa khẩu quốc tế Pờ Y, Cột mốc ba biên gắn với Đền tưởng niệm (các) anh hùng liệt sĩ Trường Sơn; Cột mốc ba biên được xây dựng trên đỉnh núi cao 1.086m là vị trí giao điểm đường biên giới giữa ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia. Từ Cột mốc ba biên, có thể ngắm nhìn toàn cảnh vùng đất ngã ba Đông Dương thơ mộng. Trên cung đường Hồ Chí Minh, Ngọc Hồi là một điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch “Hành trình Xanh Việt Nam”; tuyến du lịch xuyên suốt trong các tỉnh Tây Nguyên; tuyến du lịch sinh thái từ Đà Nẵng đến Thành phố Hồ Chí Minh; tuyến Sài Gòn đến Champasắc (Lào), đến Thái Lan qua Cửa khẩu quốc tế Bờ Y… Cùng với việc quan tâm đầu tư , xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, tạo môi trường thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, trong những năm qua công tác chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị luôn được các cấp ủy Đảng quan tâm thực hiện. Từ ngày đầu mới thành lập toàn huyện mới có 10 tổ chức cơ sở đảng với 292 đảng viên, đến nay toàn huyện có 56 tổ chức cơ sở đảng với 2.303 đảng viên; vai trò trong quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trên tất cả các lĩnh vực được nâng cao; cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”; tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ của cán bộ, công chức hướng đến tất cả phụ vụ vì người dân và doanh nghiệp. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, quyết liệt của Đảng bộ huyện, các chỉ tiêu, mục tiêu về phát triển KT-XH đã đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện; công tác giáo dục – đào tạo; y tế – chăm sóc sức khỏe Nhân dân được quan tâm; các vấn đề xã hội đang từng bước được giải quyết, đến nay, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 5,88%; toàn huyện có 2/7 xã đạt chuẩn nông thôn mới; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững, ổn định là môi trường thuận lợi để các tổ chức, cá nhân yên tâm đầu tư. BBT
Giới thiệu khái quát huyện Ngọc Hồi Về địa lý, tự nhiên. Nằm ở ngã ba đông dương, là trung tâm tam giác phát triển của 3 nước Việt Nam – Lào –Cam Phuchia, có cột mốc ba biên và cửa khẩu quốc tế Bờ Y; Ngọc Hồi được mệnh danh là vùng đất một con gà gáy cả 3 nước cùng nghe. Cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng 60 km phía Bắc, Ngọc Hồi được thành lập ngày 15/10/1991, với diện tích 83.936 hecta, có đường biên giới trên bộ dài 47 km tiếp giáp với hai nước bạn Lào và Campuchia, là nơi hội tụ của 17 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn 7 xã, thị trấn, 76 thôn, tổ dân phố với dân số khoảng 58.000 người. – Ngọc Hồi là nơi giao nhau của các tuyến đường: + Hồ Chí Minh nối Đà Nẵng với các tỉnh Tây Nguyên; Quốc lộ 14C nối Ngọc Hồi với các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh miền Đông nam bộ, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc lộ 40 nối Ngọc Hồi với cửa khẩu Quốc tế Bờ Y. + Đồng thời, là trung tâm nối các tuyến đường từ Tây Nguyên, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Quảng Ngãi với các nước ASEAN. – Năm 2015, Thị trấn Pleikần mở rộng đã được Bộ xây dựng công nhận đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV miền núi, hiện nay huyện đang hoàn chỉnh các tiêu chí để được công nhận huyện đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV tiến tới thành lập thị xã Ngọc Hồi. Tiềm năng, thế mạnh: Ngọc Hồi được xác định là một trong ba vùng kinh tế động lực của tỉnh Kon Tum, có lợi thế từ Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Bờ Y; năm 2012, Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y đã chính thức được Chính phủ nước Việt Nam xác định là một trong 8 khu kinh tế trọng điểm của cả nước; diện tích của Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Bờ Y là 70.438 ha chiếm 84% diện tích toàn huyện; hiện nay khu kinh tế cửa khẩu có 40 doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh với tổng số vốn hơn 1.000 tỷ đồng. – Cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ: + 100% số xã đều có đường ô tô vào trung tâm xã; 100% số thôn, làng có điện lưới quốc gia phục vụ sản xuất và sinh hoạt. + Đang đầu tư xây dựng hoàn thành kết cấu hạ tầng khu vực phía Nam thị trấn Plei Kần, Khu trung tâm hành chính mới; đường vành đai trục chính Tây Nam; Nhà máy cấp nước sinh hoạt với công suất 5.000m3/ngày/đêm, các công trình khác như công viên trung tâm, thư viện, chợ …Hiện tại trên địa bàn Ngọc Hồi đã xây dựng và đưa vào hoạt động 4 nhà máy chế biến mủ cao su với công suất gần 3.740 tấn/năm, 01 nhà máy chế biến tinh bột sắn với công suất 150 tấn sản phẩm/ngày đêm và 01 nhà máy sản xuất gạch không nung… – Huyện Ngọc Hồi có nguồn lao động dồi dào; số người trong độ tuổi lao động khoảng 37.000 người, chiếm 65% dân số toàn huyện. – Hằng năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đều đạt và vượt so với mục tiêu đề ra, năm 2018 tổng giá trị sản xuất cả năm ướcđạt 6.217 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế huyện tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; tỷ trọng Ngành nông –lâm-thủy sản 17,1% ; ngành Công nghiệp – Xây dựng 26,2% ,Thương mại – Dịch vụ 56,7%. – Hiện nay huyện đang đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để phát triển, thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ( diện tích đất đai lớn, thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp với việc phát triển nhiều loại cây Công nghiệp, cây ăn quả, các loại rau và phát triển chăn nuôi đại gia súc); các ngành tiểu thủ công nghiệp như chế biến nông, lâm sản theo chuỗi giá trị; thương mại, dịch vụ như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, du lịch cộng đồng…; một số dự án kêu gọi, khuyến khích đầu tư gồm: + Dự án trồng rừng nguyên liệu sản xuất gắn với chế biến (nhu cầu vốn 500 tỷ đồng). + Xây dựng mạng lưới công trình hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, tạo một khu công nghiệp tập trung, hiệu đại và đồng bộ tại Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y (nhu cầu vốn 7.900 tỷ đồng). + Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm Logistics, kho bãi, dịch vụ cửa khẩu quốc tế Bờ Y (nhu cầu vốn 360 tỷ đồng). + Đầu tư xây dựng hạ tầng Khu đô thị Bắc Bờ Y và hạ tầng Khu đô thị Nam Bờ Y ( để từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển thành đô thị loại II vùng biên giới (nhu cầu vốn 8.000 tỷ đồng). + Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kỷ thuật, trực tiếp sản xuất hoặc cho thuê lại đất, cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (nhu cầu vốn 100 tỷ đồng). + Dự án xây dựng trang trại chăn nuôi lợn gia công tập trung (nhu cầu vốn 100 tỷ đồng). + Dự án Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt huyện Ngọc Hồi (nhu cầu vốn 100 tỷ đồng). + Dự án siêu thị trung tâm huyện Ngọc Hồi (nhu cầu vốn 30 tỷ đồng). + Khu du lịch cột mốc quốc giới chung 03 nước Việt Nam- lào- campuchia (nhu cầu vốn 550 tỷ đồng). + Dự án rạp chiếu phim huyện Ngọc Hồi (nhu cầu vốn 10 tỷ đồng). + Dự án đầu tư và phát triển du lịch cộng đồng tại làng Đắk Mế, Đắk Răng (nhu cầu vốn 08 tỷ đồng). + Dự án khu văn hóa, thể thao, thương mại và dịch vụ huyện Ngọc Hồi (16 tỷ đồng). + Dự án Khu dân mới Đắk Tráp (20 tỷ đồng). Ngoài những lợi thế về vị trí địa lý, đất đai, tài nguyên khoáng sản, cơ sở hạ tầng đồng bộ…Ngọc Hồi còn được xem là nơi sản sinh và lưu giữ những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc mà nổi bật nhất là không gian văn hóa cồng chiêng Tây nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại như lễ hội mừng nhà rông mới của đồng bào dân tộc Giẻ-Triêng; lễ hội mừng lúa mới của người Brâu, Xơ Đăng, trình diễn Chiêng tha của người Brâu. Bên cạnh những nét đẹp văn hóa của các dân tộc thiểu số bản địa còn có các lễ hội, các làn điệu chèo, điệu múa xòe, nhảy sạp của nhân dân các làng di cư xây dựng kinh tế mới trên địa bàn…Việc hội tụ những tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn góp phần làm phong phú thêm không gian văn hóa ẩm thực: đó là món cơm lam truyền thống, món thịt dúi nướng ống lồ ô, cá suối làm chua hòa quyện với hương thơm của men rượu cần say đắm. Những điểm đến thu hút khách du lịch trong hành trình khám phá vùng đất nơi ngã ba biên giới như: Di tích lịch sử chiến thắng Pleikần; Di tích chiến thắng Đắk Siêng – Đắk Dục, Cửa khẩu quốc tế Pờ Y, Cột mốc ba biên gắn với Đền tưởng niệm (các) anh hùng liệt sĩ Trường Sơn; Cột mốc ba biên được xây dựng trên đỉnh núi cao 1.086m là vị trí giao điểm đường biên giới giữa ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia. Từ Cột mốc ba biên, có thể ngắm nhìn toàn cảnh vùng đất ngã ba Đông Dương thơ mộng. Trên cung đường Hồ Chí Minh, Ngọc Hồi là một điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch “Hành trình Xanh Việt Nam”; tuyến du lịch xuyên suốt trong các tỉnh Tây Nguyên; tuyến du lịch sinh thái từ Đà Nẵng đến Thành phố Hồ Chí Minh; tuyến Sài Gòn đến Champasắc (Lào), đến Thái Lan qua Cửa khẩu quốc tế Bờ Y… Cùng với việc quan tâm đầu tư , xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, tạo môi trường thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, trong những năm qua công tác chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị luôn được các cấp ủy Đảng quan tâm thực hiện. Từ ngày đầu mới thành lập toàn huyện mới có 10 tổ chức cơ sở đảng với 292 đảng viên, đến nay toàn huyện có 56 tổ chức cơ sở đảng với 2.303 đảng viên; vai trò trong quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trên tất cả các lĩnh vực được nâng cao; cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”; tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ của cán bộ, công chức hướng đến tất cả phụ vụ vì người dân và doanh nghiệp. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, quyết liệt của Đảng bộ huyện, các chỉ tiêu, mục tiêu về phát triển KT-XH đã đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện; công tác giáo dục – đào tạo; y tế – chăm sóc sức khỏe Nhân dân được quan tâm; các vấn đề xã hội đang từng bước được giải quyết, đến nay, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 5,88%; toàn huyện có 2/7 xã đạt chuẩn nông thôn mới; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững, ổn định là môi trường thuận lợi để các tổ chức, cá nhân yên tâm đầu tư. BBT
Giới thiệu khái quát huyện Tam Đường Tam Đường là huyện cửa ngõ phía Đông Bắc tỉnh Lai Châu, có diện tích 757,6km2, dân số 42.131 người ( năm 2004), mật độ dân số khoảng 56 người/km2. Lịch sử hình thành Ngày 14/1/2002, huyện Tam Đường được thành lập theo nghị định 8/2001/NĐ-CP của Chính phủ trên cơ sở các xã của huyện Phong Thổ tách ra. Khi mới thành lập, huyện Tam Đường có 82.843,7 ha diện tích tự nhiên và 52.567 nhân khẩu. Ngày 27/12/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 156/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Tam Đường vẫn được giữ tên nhưng huyện lỵ được chuyển tới thị trấn Bình Lư, cách thị trấn Tam Đường cũ khoảng 30 km. Ngày 8/4/2008, Chính phủ ban hành Nghị định điều chỉnh huyện Tam Đường, thành lập thêm xã mới Giang Ma (điều chỉnh 3.671,60 ha diện tích tự nhiên và 2.877 nhân khẩu của xã Hồ Thầu). Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý Phía Đông Tam Đường giáp tỉnh Lào Cai ; phía Tây giáp thị xã Lai Châu và huyện Sìn Hồ; phía Nam giáp huyện Than Uyên và phía Bắc giáp huyện Phong Thổ. Địa hình Địa hình đa dạng, độ dốc lớn, bị chia cắt, có nhiều núi cao như sườn phía Tây dãy Hoàng Liên Sơn, cao trên 1.000m. Ngoài ra còn có nhiều núi cao từ 1.500-2.000m, đặc biệt ở phía Nam huyện, đỉnh cao nhất 2.296m. Trên địa bàn huyện không có sông lớn chảy qua, chỉ có các chi lưu của sông Nậm Na, Nậm Mu. Tài nguyên Tam Đường có hơn 55.000 ha đất lâm nghiệp (chiếm 80% diện tích toàn huyện), trong đó có hơn 26.000 ha đất rừng. Ngoài tài nguyên rừng, Tam Đường còn có đất hiếm ở Đông Pao, quặng đồng tại Khun Há… Điều kiện kinh tế, xã hội Tiềm năng kinh tế Tam Đường có nhiều loại cây lương thực và công nghiệp như: lúa, ngô, chè, cây ăn quả, dược liệu, đặc biệt là khu công nghiệp sản xuất chè Tam Đường. Bên cạnh đó, Tam Đường còn là nơi phát triển việc chăn nuôi đại gia súc như: trâu, bò, dê, ngựa… Văn hoá, xã hội Huyện Tam Đường có 14 đơn vị hành chính gồm thị trấn Tam Đường và 13 xã gồm: Lản Nhì Thàng, Thèn Sin, Sùng Phài, Nùng Nàng, Tả Lèng, Bản Hon, Bản Giang, Hồ Thầu, Bình Lư, Bản Bo, Khum Há, Nà Tăm, Giang Ma. Huyện Tam Đường có các dân tộc như Lào, Lự, Dao, H’Mông, Cống… cùng chung sống. Đây là nơi sống tập trung của người dân tộc Lào (toàn huyện có hơn 3.000 người Lào). Bà con dân tộc Lào sống chủ yếu vào nguồn thu nhập từ trồng lúa nương và lúa nước. Không chỉ có dân tộc Lào sống bằng nghề trồng lúa nước, bà con người Lự cư trú dọc theo các dòng sông, khe suối cũng canh tác lúa nước, nhà nào cũng có vườn cạnh nhà. Người Lự thích ăn cơm nếp hơn cơm tẻ, thích ăn ớt, uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào. Thanh niên Lự mỗi khi đến tuổi lập gia đình sẽ được dân bản hỗ trợ giống, giúp làm nhà, người Lự thường làm nhà sàn 2 mái, mái sau ngắn, mái trước dài che khoảng không ở cầu thang và hàng hiên. Ngoài việc trồng lúa, người Lự còn có nghề dệt thổ cẩm, trang phục của người Lự thường có hoa văn trang trí sặc sỡ trên nền vải nhuộm chàm. Tiềm năng du lịch Tam Đường có những cảnh quan du lịch thu hút khách tham quan trong và ngoài nước như động Tiên Sơn (trong động có hàng nghìn nhũ đá lấp lánh đủ mọi hình khối với những tên gọi ấn tượng như: Cột đá thề, sân Rồng, thềm Trinh nữ…), thác Tác Tình, rừng sinh thái Tam Đường, suối nước nóng Nà Đon… Tam Đường là địa phương tiếp giáp với khu du lịch Sa Pa, nằm trên hành trình của những tour du lịch thu hút nhiều du khách như Sa Pa – Lai Châu – Điện Biên; Kim Bình – Lai Châu – Sa Pa. Tam Đường có nhiều tiềm năng cho các tour du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch mạo hiểm. Tam Đường cũng là địa phương có nhiều lễ hội độc đáo như lễ hội té nước Bun Vốc Nậm của bà con dân tộc Lào được tổ chức vào dịp thu hoạch lúa; Lễ hội Tủ Cải của người Dao Đầu Bằng (là sự kết hợp giữa đạo giáo và tín ngưỡng bản địa, gắn ý niệm tâm linh với sự kiện đánh dấu tuổi trưởng thành của người nam giới dân tộc Dao). Bên cạnh đó, Tam Đường còn nổi tiếng với tết Nguyên đán của người H’Mông, được tổ chức giữa mùa đông (trước hoặc sau Tết dương lịch). Trong đêm giao thừa, các gia đình thường cử con trai đi lấy nước ngoài sông, suối đem về nhà cúng tổ tiên. Ðầu tiên là tết Soong Sịp (tết cơm mới), khi lúa ở ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng lễ. Sau tết Soong Síp là tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen-Bươn-Tiền (tết Nguyên đán). Vào ngày đầu năm, người H’Mông đem dao, rựa phát quang đường đi để năm mới thông thoáng. Trong hội chơi núi mùa Xuân, người H’Mông thích các trò chơi bắn súng, bắn nỏ, hát giao duyên, múa khèn, múa võ, ném pa páo (giống quả còn), biểu diễn khèn… Ngoài ra, Tam Đường còn có lễ mừng măng mọc (Kin Lẩu Nó) của ng­ười Mảng, Kháng, Xinh Mun, La Hủ, Khơ Mú, Phù Lá… Lễ hội diễn ra vào đầu mùa mư­a, khi những búp măng đâm chồi, đây là thời điểm bắt đầu mùa sản xuất trong năm. Từ Hà nội muốn đến Tam Đường có thể đi theo 3 ngả, ngả thứ nhất đi tàu hoả từ Hà Nội lên Lào Cai , đến Sa Pa tiếp tục đi khoảng 80 km, vượt qua đèo Hoàng Liên Sơn là tới Tam Đường. Ngả thứ hai là đi máy bay lên thành phố Điện Biên, sau đó đi xe theo quốc lộ 4D đến thị xã Lai Châu cũ, đi tiếp khoảng 130 km nữa sẽ đến Tam Đường. Ngả thứ 3 đi xe theo Quốc lộ 32, qua Than Uyên rồi vào Tam Đường, cho dù đi theo ngả nào thì đường lên Tam Đường cũng khó khăn vì đèo dốc hiểm trở.
General introduction of Tam Duong district Tam Duong is the gateway district to the Northeast of Lai Chau province, with an area of ​​757.6 km2, population of 42,131 people (in 2004), population density of about 56 people/km2. History begin On January 14, 2002, Tam Duong district was established according to Decree 8/2001/ND-CP of the Government on the basis of the separation of communes of Phong Tho district. When first established, Tam Duong district had 82,843.7 hectares of natural area and 52,567 people. On December 27, 2006, the Government issued Decree Không. 156/2006/ND-CP on adjusting the administrative boundaries, Tam Duong district still kept the name but the district capital was moved to Binh Lu town, far from the town. Tam Duong old town is about 30 km. On April 8, 2008, the Government issued a Decree to adjust Tam Duong district, establishing a new commune Giang Ma (adjusting 3,671.60 hectares of natural area and 2,877 people of Ho Thau commune). Natural condition Geographical location The East borders Tam Duong Lao Cai Province ; The West borders Lai Chau town and Sin Ho district; The South borders Than Uyen district and the North borders Phong Tho district. Topographic The terrain is diverse, steep, divided, and has many high mountains such as the western slope of the Hoang Lien Son range, over 1,000m high. There are also many mountains ranging from 1,500-2,000m high, especially in the south of the district, the highest peak is 2,296m. There are no large rivers flowing through the district, only tributaries of the Nam Na and Nam Mu rivers. Resources Tam Duong has more than 55,000 hectares of forestry land (accounting for 80% of the district's area), including more than 26,000 hectares of forest land. In addition to forest resources, Tam Duong also has rare earth in Dong Pao, copper ore in Khun Ha... Social and economic conditions Economic potential Tam Duong has many types of food and industrial crops such as rice, corn, tea, fruit trees, medicinal herbs, especially Tam Duong tea production industrial park. Besides, Tam Duong is also a place to develop livestock farming such as buffaloes, cows, goats, horses... Culture, society Tam Duong district has 14 administrative units including Tam Duong town and 13 communes including: Lan Nhi Thang, Then Sin, Sung Phai, Nung Nang, Ta Leng, Ban Hon, Ban Giang, Ho Thau, Binh Lu, Ban Bo, Khum Ha, Na Tam, Giang Ma. Tam Duong district has ethnic groups such as Lao, Lu, Dao, H'Mong, Cong... living together. This is where the Lao ethnic people live (the entire district has more than 3,000 Lao people). Lao ethnic people live mainly on income from upland and wet rice cultivation. Not only the Lao people live by growing wet rice, Lu people residing along rivers and streams also cultivate wet rice, every house has a garden next to the house. The Lu people like to eat sticky rice rather than plain rice, like to eat chili, drink sweet soup, and men often smoke waterpipes. Whenever Lu young people reach the age of getting married, the villagers will support them and help them build houses. The Lu people often build houses on stilts with two roofs, a short back roof and a long front roof to cover the space on the stairs and porch. In addition to growing rice, the Lu people also weave brocade, and the Lu people's costumes often have colorful decorative patterns on indigo-dyed fabric. Tourism potential Tam Duong has tourist landscapes that attract domestic and foreign visitors such as Tien Son cave (in the cave there are thousands of sparkling stalactites of all shapes with impressive names such as: Oath stone pillar, Dragon yard, Trinh Nu shelf...), Tac Tinh waterfall, Tam Duong ecological forest, Na Don hot spring... Tam Duong is a locality adjacent to Sa Pa tourist area, located on the itinerary of tours that attract many tourists such as Sa Pa - Lai Chau - Dien Bien; Kim Binh – Lai Chau – Sa Pa. Tam Duong has a lot of potential for eco-tours, resorts, and adventure tourism. Tam Duong is also a locality with many unique festivals such as the Bun Voc Nam water festival of Lao ethnic people held on the occasion of rice harvest; Cabinet Festival of the Dao Dau Bang people (a combination of Taoism and indigenous beliefs, connecting spiritual concepts with the event marking the coming of age of Dao ethnic men). Besides, Tam Duong is also famous for the Lunar New Year of the H'Mong people, held in the middle of winter (before or after the New Year). On New Year's Eve, families often send their sons to fetch water from rivers and streams to bring home to worship their ancestors. First is Soong Sip Tet (new rice festival), when the rice in the fields is ripe and golden, they kill buffaloes, slaughter pigs, and use the new rice to prepare sticky rice for offerings. After Soong Cyprus Tet is Kim Lao Mao Tet (wine drinking festival), Ong Tao Tet and the biggest one is Nen-Bon-Tien Tet (Lunar New Year). On the first day of the year, H'Mong people bring knives and machetes to clear the roads to make the new year clear. During the Spring mountain festival, H'Mong people like shooting games, crossbow shooting, love songs, flute dancing, martial arts dancing, pa pao throwing (like a shuttlecock), and flute performances... In addition, Tam Duong also has a bamboo shoot celebration (Kin Lau No) of the Mang, Khang, Xinh Mun, La Hu, Kho Mu, Phu La people... The festival takes place at the beginning of the rainy season, when the bamboo shoots sprout. This is the beginning of the production season of the year. From Hanoi, if you want to go to Tam Duong, you can take 3 routes, the first route is by train from Hanoi go up Lao Cai , arrive Sa Pa Continue going about 80 km, passing Hoang Lien Son pass To be to Tam Duong. The second way is to fly to Dien Bien city, then drive along Highway 4D to arrive Lai Chau town old, continue about 130 km and you will reach Tam Duong. The third way is to drive along Highway 32, pass Than Uyen Then enter Tam Duong, no matter which way you go, the road to Tam Duong is difficult because of the steep and dangerous pass.
Giới thiệu khái quát huyện Tân Uyên – Ngày 01/6/2008, thị trấn Tân Uyên được thành lập theo Nghị định số 41/2008/NĐ-CP, ngày 08/4/2008 của Chính phủ, có vị trí địa lý thuận lợi, nằm dọc tuyến Quốc lộ 32, là tuyến đường huyết mạch, là trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của huyện. Dân số 3.481 hộ/14.899 khẩu (trong đó tạm trú là 224 hộ/1.173 khẩu) , gồm 10 dân tộc cùng sinh sống, chủ yếu là dân tộc Kinh, Thái, Mông, Khơ mú, Dao,… với 29 bản, tổ dân phố. Được sự quan tâm về mọi mặt của các cấp, các ngành và sự cố gắng, nỗ lực của cán bộ và Nhân dân thị trấn nên đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân ngày càng được nâng cao, đại đa số quần chúng Nhân dân chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tình hình ANCT – TTATXH trên địa bàn cơ bản được giữ vững ổn định. – Điều kiện tự nhiên: Tổng diện tích đất tự nhiên 7.020,16 ha, phía Đông giáp dãy núi Hoàng Liên Sơn, phía Tây giáp xã xã Thân Thuộc, phía Nam giáp xã Trung Đồng, phía Bắc giáp xã Phúc Khoa của huyện Tân Uyên. – Điều kiện xã hội: Thị trấn Tân Uyên là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện. Thị trấn đang trong giai đoạn quy hoạch, triển khai nhiều công trình trọng điểm về cơ sở hạ tầng của một trung tâm huyện mới được thành lập; nhiều người đến địa bàn làm ăn sinh sống với nhiều thành phần xã hội khác nhau, do đó công tác quản lý cư trú phức tạp. Tội phạm hình sự và các loại tội phạm khác hoạt động ngày càng manh động và tinh vi, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, gây phức tạp về tình hình ANTT. Địa bàn rộng, dân số đông, trình độ dân trí ở một số bản còn thấp và không đồng đều; nhận thức và chấp hành về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp của một bộ phận Nhân dân còn chưa cao. Hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ cao, có 13 bản đặc biệt khó khăn, đời sống kinh tế của người dân còn gặp nhiều khó khăn; thị trấn có 29 TDP, bản (trong đó có 14 TDP, 15 bản), có 4 bản tái định cư, 04 bản người Mông và người kinh ở một số tổ dân phố trung tâm có đồng bào sinh hoạt tôn giáo chiếm đến hơn. Phía Đông giáp huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai. Phía Tây giáp huyện Sình Hồ tỉnh Lai Châu. Phía Nam giáp huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu. Phía Bắc giáp huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu. Sau khi được thành lập, huyện Tân Uyên có diện tích tự nhiên 90.319,65 ha, dân số 43.173 người, gồm 8 dân tộc anh em cùng sinh sống: Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú, Dao, Lào, Dáy, Tày trên 10 đơn vị xã, thị trấn: thị trấn Tân Uyên, Pắc Ta, Trung Đồng, Thân Thuộc, Mường Khoa, Phúc Khoa, Hố Mít, Tà Mít, Nậm Cần, Nậm Sỏ.
General introduction of Tan Uyen district – On June 1, 2008, Tan Uyen town was established under Decree Không. 41/2008/ND-CP, dated April 8, 2008 of the Government, with a favorable geographical location, located along National Highway 32. , is a vital road, the economic, political, cultural and social center of the district. Population: 3,481 households/14,899 people (including temporary residence: 224 households/1,173 people) , including 10 ethnic groups living together, mainly Kinh, Thai, Mong, Kho Mu, Dao,... with 29 villages and residential groups. With the attention in all aspects of all levels and branches and the efforts of the town's officials and people, the material and spiritual life of the people is increasingly improved, the vast majority of the people. The people well complied with the Party's guidelines, policies, and State's laws. The situation of social security and order in the area was basically maintained stable. – Natural conditions: Total natural land area is 7,020.16 hectares, the East borders Hoang Lien Son mountain range, the West borders Than Thuoc commune, the South borders Trung Dong commune, the North borders Phuc Khoa commune of Tan Uyen district . – Social conditions: Tan Uyen town is the economic, cultural and social center of the district. The town is in the planning and implementation phase of many key infrastructure projects for a newly established district center; Many people come to the area to do business and live from many different social backgrounds, so residence management is complicated. Criminals and other types of crimes are increasingly active and sophisticated, social evils are increasing, complicating the security and order situation. The area is large, the population is large, the educational level in some villages is still low and uneven; Awareness and compliance with the Party's guidelines, policies, State laws, Directives and Resolutions at all levels by a part of the People is still not high. Poor households still account for a high rate, there are 13 extremely difficult villages, people's economic life still faces many difficulties; The town has 29 TDPs and villages (including 14 TDPs, 15 villages), 4 resettled villages, 04 Mong and Kinh villages in some central residential groups with more than 100,000 people living in religious activities. . The East borders Sa Pa district, Lao Cai province. The West borders Sinh Ho district, Lai Chau province. The South borders Than Uyen district, Lai Chau province. The North borders Tam Duong district, Lai Chau province. After being established, Tan Uyen district has a natural area of ​​90,319.65 hectares, a population of 43,173 people, including 8 ethnic groups living together: Thai, Kinh, Mong, Kho Mu, Dao, Lao, Day, Tay. over 10 communes and towns: Tan Uyen, Pac Ta, Trung Dong, Than Thuoc, Muong Khoa, Phuc Khoa, Ho Mit, Ta Mit, Nam Can, Nam So towns.
Giới thiệu khái quát huyện thành phố Lai Châu TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN I. Về điều kiện tự nhiên: 1. Về vị trí địa lý Thành phố Lai Châu – trung tâm hành chính, kinh tế, chính trị của tỉnh Lai Châu có toạ độ địa lý: 20 o 20 ‘ đến 20 o 27 ‘ vĩ độ Bắc; 103 o 20 ‘ đến 103 o 32 ‘ kinh độ Đông. Thành phố Lai Châu giáp với huyện Phong Thổ và huyện Tam Đường phía Bắc, giáp huyện Tam Đường ở phía Nam, phía Đông; giáp huyện Sìn Hồ ở phía Tây. Vị trí địa lý trên tạo cho Thành phố có lợi thế phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ, du lịch và vị trí quan trọng trong chiến lược quốc phòng – an ninh. 2. Địa hình, địa chất, khí hậu – Địa hình Thành phố Lai Châu chạy dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam giữa 2 dãy núi Sùng Phài và Pu Sam Cáp dọc theo quốc lộ 4D. Địa hình tương đối bằng phẳng, với độ dốc trung bình 5-10%. – Địa chất của khu vực Thành phố Lai Châu gồm 3 tầng đá chính là: tầng Vân Nam, tầng Điệp Vân Lục và tầng Điệp Đồng Giao. Trong khu vực Thành phố có nhiều hang động Caster và các dòng chảy ngầm, thường xảy ra sụt lún, không thuận lợi cho việc xây dựng các công trình cao tầng. – Về khí hậu: Thành phố Lai Châu nằm trong vùng khí hậu Tây Bắc, ảnh hưởng nhiều của địa hình và hoàn lưu khí quyển nên lượng mưa khá lớn khoảng 2.600mm/năm. Hướng gió chủ đạo là hướng gió Đông Nam, tốc độ trung bình 29m/s. Số giờ nắng trung bình năm là 2002 giờ. 3. Tài nguyên đất đai Tổng diện tích đất tự nhiên (2006) là 7.017,58 ha, chiếm 0,77% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Có 04 nhóm đất chính: Nhóm đất phù sa, nhóm đất đen, nhóm đất đỏ vàng và nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi. Rất thuận lợi cho phát triển các loại cây trồng: chè, cây ăn quả và phát triển rừng. 4. Tài nguyên nước Thành phố có 3 nguồn nước chính: nguồn nước mặt, bao gồm suối Tả Lèng, suối Lùng Than chảy qua xã San Thàng, nguồn nước ngầm nằm ở tầng đá vôi Đồng Giao và một số nguồn nước mạch lộ có chất lượng đảm bảo sinh hoạt của khu vực nội thị. 5. Tài nguyên rừng Diện tích rừng hiện có 2.077,8ha, chiếm 29,61% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó rừng trồng phong cảnh: 101ha; còn lại chủ yếu là rừng phòng hộ, rừng tự nhiên. Rừng Thành phố chủ yếu là rừng cỏ thảm thực vật nghèo, động vật quý hiếm hầu như không có. 6. Tài nguyên khoáng sản Không có điểm mỏ có giá trị lớn, chủ yếu là tài nguyên đá, cát, sỏi – là những nguyên vật liệu phục vụ nhu cầu xây dựng trên địa bàn. 7. Tài nguyên du lịch Thành phố Lai Châu là vùng đất vốn có truyền thống cách mạng và lịch sử văn hoá. Có hệ sinh thái đa dạng, nhiều hang động trên dãy Pu Sam Cáp – Nùng Nàng và khu vực Tả Gia Khâu xã Nậm Loỏng. Thành phố có nhiều dân tộc anh em chung sống tạo nên nền văn hoá đa dạng, phong phú. II. Về dân số và lao động: 1. Về dân số Tổng dân số của Thành phố khoảng 28.000 người; Thành phố có 17 dân tộc sinh sống, trong đó có 4 dân tộc chính: Dân tộc Kinh chiếm 67%, dân tộc Giáy 17,5%, dân tộc Thái 8,5%, dân tộc Mông 6%, còn lại là các dân tộc khác chiếm khoảng 1%. 2. Nguồn lao động – Về số lượng lao động: năm 2006 Thành phố Lai Châu có 7.716 người trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động, chiếm 39,29% dân số. – Về chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố khá cao. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2006 chiếm 45,8% trong tổng số lao động, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chiếm 39,5%. Tuy nhiên, chất lượng lao động cao tập trung chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức.
General introduction to Lai Chau city district NATURAL RESOURCES I. Regarding natural conditions: 1. About geographical location Lai Chau City - the administrative, economic and political center of Lai Chau province has geographical coordinates: 20 o 20 ' to 20 o 27 ' North latitude; 103 o 20 ' to 103 o 32 ' East longitude. Lai Chau city borders Phong Tho district and Tam Duong district to the North, Tam Duong district to the South and East; bordering Sin Ho district to the west. The above geographical location gives the City advantages in economic development, trade, services, tourism and an important position in the national defense and security strategy. 2. Topography, geology, climate – Lai Chau City's terrain runs from Northwest to Southeast between the two mountain ranges of Sung Phai and Pu Sam Cap along Highway 4D. The terrain is relatively flat, with an average slope of 5-10%. – The geology of Lai Chau City area includes 3 main rock layers: Yunnan layer, Diep Van Luc layer and Diep Dong Giao layer. In the City area, there are many Caster caves and underground streams, which often cause subsidence, which is not favorable for the construction of high-rise buildings. – Regarding climate: Lai Chau city is located in the Northwest climate zone, heavily influenced by terrain and atmospheric circulation, so the rainfall is quite large, about 2,600mm/year. The main wind direction is Southeast wind, average speed 29m/s. The average number of sunshine hours per year is 2002 hours. 3. Land resources The total natural land area (2006) is 7,017.58 hectares, accounting for 0.77% of the natural land area of ​​the province. There are four main soil groups: Alluvial soil group, black soil group, red-yellow soil group and red-yellow humus soil group in the mountains. Very convenient for growing crops: tea, fruit trees and forest development. 4. Water resources The city has 3 main water sources: surface water sources, including Ta Leng stream, Lung Than stream flowing through San Thang commune, underground water sources located in the Dong Giao limestone layer and a number of surface water sources with guaranteed quality for living. activities of the inner city area. 5. Forest resources The current forest area is 2,077.8 hectares, accounting for 29.61% of the total natural land area, of which landscape forests: 101 hectares; The remaining are mainly protective forests and natural forests. The City's forests are mainly grass forests with poor vegetation and almost no rare animals. 6. Mineral resources There are no mines of great value, mainly stone, sand, and gravel resources - materials serving construction needs in the area. 7. Tourism resources Lai Chau city is a land with revolutionary traditions and cultural history. There is a diverse ecosystem, many caves in the Pu Sam Cap - Nung Nang range and Ta Gia Khau area, Nam Loong commune. The city has many ethnic groups living together, creating a rich and diverse culture. II. Regarding population and labor: 1. About population The total population of the City is about 28,000 people; The city is home to 17 ethnic groups, including 4 main ethnic groups: Kinh ethnic group accounts for 67%, Giay ethnic group 17.5%, Thai ethnic group 8.5%, Mong ethnic group 6%, the rest are ethnic groups. Other ethnicities account for about 1%. 2. Labor source – Regarding the number of workers: in 2006, Lai Chau City had 7,716 people of working age and capable of working, accounting for 39.29% of the population. – Regarding the quality of human resources: The quality of the City's human resources is quite high. The rate of trained workers in 2006 accounted for 45.8% of the total number of workers, of which the rate of vocationally trained workers accounted for 39.5%. However, high quality labor is concentrated mainly in officials and employees.
Giới thiệu khái quát huyện Đạ Tẻh Ranh giới tiếp giáp với huyện Đạ Tẻh: – Phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng . – Phía Nam giáp huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và phía Đông Nam giáp huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng. – Phía Tây giáp huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Do huyện Đạ Tẻh nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa vùng Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ nên địa hình, đất đai, khí hậu, nguồn nước,… khá đa dạng để phát triển nhiều loại cây trồng ngắn và dài ngày như lúa nước, mía, bắp, hồ tiêu, điều, cà phê và cây ăn quả,… Tuy nhiên, so với một số huyện khác, vị trí địa lý của huyện cũng có những hạn chế sau: – Do nằm xa các trục giao thông chính và các trung tâm kinh tế của tỉnh và vùng, nên việc giao lưu phát triển kinh tế – xã hội với bên ngoài ít thuận lợi. – Huyện Đạ Tẻh nằm trong vùng kinh tế mới và thuộc vùng sâu vùng xa, mặc dù đã được quan tâm đầu tư nhưng cho đến nay cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu, đồng thời tình trạng di dân tự do ồ ạt vào huyện của một số năm trước đây đã và đang gây áp lực lớn cho phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn huyện. KHÍ HẬU THỜI TIẾT: Huyện Đạ Tẻh có 2 chế độ khí hậu đan xen nhau: Khí hậu cao nguyên Nam Trung Bộ và khí hậu Đông Nam Bộ, trong đó: vùng núi phía Bắc có khí hậu cao nguyên, nên nhiệt độ thấp và mát mẻ, lượng mưa lớn và phân bố tương đối đều giữa các tháng trong năm; vùng phía Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu miền Đông Nam Bộ, nên chế độ nhiệt và số giờ nắng cao hơn, lượng mưa thấp và số ngày mưa ít hơn. So với khí hậu của Bảo Lộc và khí hậu vùng Đông Nam Bộ, khí hậu của Đạ Tẻh có những đặc điểm nổi bật sau: – Chế độ nhiệt và chế độ bức xạ mặt trời cao hơn khu vực Bảo Lộc và thấp hơn chút ít so với vùng Đông Nam Bộ, sẽ là điều kiện thuận lợi để tăng năng suất và đặc biệt là chất lượng nông sản hàng hoá, nhưng cũng gây hạn chế cho việc phát triển các cây trồng có yêu cầu nhiệt độ thấp hơn. – Lượng mưa bình quân năm, số ngày mưa trong năm và độ ẩm trung bình đều thấp hơn so với vùng Bảo Lộc nhưng cao hơn so với vùng Đông Nam Bộ, nên việc bố trí cơ cấu mùa vụ cho cây trồng sẽ bớt căng thẳng hơn so với vùng Đông Nam Bộ. – So với vùng Đông Nam Bộ, Đạ Tẻh có những ngày mưa lớn và tập trung hơn, cùng với yếu tố địa hình, đã gây ra tình trạng ngập lũ ở các khu vực địa hình thấp, đặc biệt là các khu vực trũng ven sông. ĐỊA HÌNH: Huyện Đạ Tẻh nằm ở độ cao trung bình 250 m so với mặt biển, thuộc khu vực chuyển tiếp giữa vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nên địa hình khá phức tạp, có xu hướng thấp dần theo hướng từ Bắc vào Nam và từ 2 phía Đông, Tây vào thị trấn Đạ Tẻh, với 2 dạng địa hình chính là địa hình núi cao bị chia cắt mạnh và địa hình núi thấp xen kẽ với các thung lũng hẹp với các đặc trưng sau. – Địa hình núi cao bị chia cắt mạnh: Diện tích 40.150 ha (chiếm gần 77% diện tích tự nhiên), cao độ biến động từ 200-625m, phân bố ở phía Bắc và Đông-Bắc huyện, thuộc khu vực thượng lưu các con sông suối, tập trung ở địa phận các xã Quảng Trị, Mỹ Đức, Quốc Oai và một phần phía Bắc các xã Đạ Lây, Hương Lâm, An Nhơn. Hiện trạng sử dụng đất khu vực này là đất rừng và đồi núi trọc. Do địa hình núi cao, độ dốc lớn, nên trước mắt cũng như lâu dài dạng địa hình này thích hợp cho phát triển rừng. – Địa hình núi thấp xen kẽ với các thung lũng hẹp: Diện tích 12.193 ha (chiếm 23% diện tích tự nhiên), phân bố ở phía Nam và Tây Nam huyện, thuộc khu vực hạ lưu các con sông, tập trung ở thị trấn Đạ Tẻh, xã Hà Đông, Đạ Kho và một phần phía Nam các xã Đạ Lây, Hương Lâm và An Nhơn, địa hình khu vực này khá bằng phẳng, cao độ biến đổi từ 120-200m. Đây là địa bàn sản xuất nông nghiệp, phân bố các khu dân cư và các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của huyện.
General introduction to Da Teh district Boundary adjacent to Da Teh district: – The North and Northeast border Bao Lam district, Lam Dong Province . – The South borders Tan Phu district, Dong Nai province and the Southeast borders Da Huoai district, Lam Dong province. – The West borders Cat Tien district, Lam Dong province. Because Da Teh district is located in the transition area between the Central Highlands and the Southeast region, the terrain, soil, climate, water sources, etc. are quite diverse to grow many types of short-term and long-term crops such as wet rice. , sugarcane, corn, pepper, cashew, coffee and fruit trees, etc. However, compared to some other districts, the district's geographical location also has the following limitations: – Because it is located far from the main traffic routes and economic centers of the province and region, exchanges for socio-economic development with outside parties are less favorable. – Da Teh district is located in a new economic zone and in a remote area. Although it has received investment attention, up to now the infrastructure is still lacking and weak, and at the same time, there is massive free migration into the district. of a number of years ago has been putting great pressure on socio-economic development in the district. WEATHER CLIMATE: Da Teh district has two interwoven climate regimes: the South Central Highlands climate and the Southeast climate, in which: the Northern mountainous region has a plateau climate, so temperatures are low and cool, and rainfall is low. large and relatively evenly distributed among months of the year; The southern region is influenced by the climate of the Southeast, so the temperature regime and number of sunshine hours are higher, rainfall is low and the number of rainy days is less. Compared to the climate of Bao Loc and the climate of the Southeast region, the climate of Da Teh has the following outstanding characteristics: – The heat regime and solar radiation regime are higher than the Bao Loc area and slightly lower than the Southeast region, which will be favorable conditions to increase productivity and especially the quality of agricultural products. but also limits the development of crops with lower temperature requirements. – The average annual rainfall, number of rainy days a year and average humidity are all lower than the Bao Loc region but higher than the Southeast region, so arranging the crop structure for crops will be less stressful. than the Southeast region. – Compared to the Southeast region, Da Teh has heavier and more concentrated rainy days, which, along with topographic factors, have caused flooding in low-lying areas, especially low-lying coastal areas. river. TOPOGRAPHIC: Da Teh district is located at an average altitude of 250 m above sea level, in the transition area between the Central Highlands and the Southeast region, so the terrain is quite complex, tending to gradually lower from North to South and from North to South. The East and West sides enter Da Teh town, with two main terrain types: strongly divided high mountain terrain and low mountain terrain alternating with narrow valleys with the following characteristics. – High mountain terrain is strongly fragmented: Area of ​​40,150 hectares (accounting for nearly 77% of the natural area), altitude fluctuates from 200-625m, distributed in the North and Northeast of the district, belonging to the upstream area rivers and streams, concentrated in the areas of Quang Tri, My Duc, Quoc Oai communes and a northern part of Da Lay, Huong Lam, An Nhon communes. Current land use in this area is forest land and bare hills. Due to the high mountain terrain and steep slope, this terrain is suitable for forest development in the short and long term. – Low mountainous terrain alternating with narrow valleys: Area of ​​12,193 hectares (accounting for 23% of the natural area), distributed in the South and Southwest of the district, in the downstream area of ​​rivers, concentrated in town. Da Teh town, Ha Dong commune, Da Kho and a part of the south of Da Lay, Huong Lam and An Nhon communes, the terrain of this area is quite flat, the altitude varies from 120-200m. This is an agricultural production area, with residential areas and essential infrastructure works serving the socio-economic development of the district.
Giới thiệu khái quát huyện Đam Rông Điều kiện tự nhiên Đam Rông là một huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Lâm Đồng , Việt Nam. Huyện Đam Rông có diện tích là 860,9 km² chiếm 8,816% diện tích toàn tỉnh Lâm Đồng và với dân số được thống kê theo cuộc điều tra dân số năm 2015 là 47.069 người chiếm 3,8% dân số toàn tỉnh, mật độ dân cư của huyện Đam Rông thấp thứ 2 ở tỉnh Lâm Đồng với 52 người/ km² (thấp nhất là huyện Lạc Dương, 16 người/ km²) so với toàn tỉnh là 128 người/ km². 1. Vị trí địa lý: Đam Rông nằm trên cao nguyên Lâm Viên, phía đông và Đông Nam giáp huyện Lạc Dương, phía TâyNam giáp huyện Lâm Hà, đều thuộc tỉnh Lâm Đồng. Mặt phía Tây là huyện Đắk Glong của tỉnh Đắk Nông. Phía Bắc giáp với các huyện của tỉnh Đắk Lắk là:Lắk (ở hướng Tây Bắc và Bắc), Krông Bông (ở hướng Đông Bắc), dọc theo ranh giới với các huyện này (đồng thời là một phần ranh giới giữa hai tỉnh) là con sông Da M’Rông (nhánh đầu nguồn của dòng sông Ea Krông Nô). 2. Địa hình: Địa hình: Có hướng thấp từ phía nam và tây nam xuống phía bắc và đông bắc, chủ yếu là núi cao đồi thấp và thung lũng, có thể phân thành 03 dạng địa hình: + Địa hình núi cao: Diện tích khoảng 63.400 ha , chiếm 73.4 % diện tích toàn huyện phân bổ theo hình cánh cung từ phía nam kéo sang đông bắc và tây bắc độ cao phổ biến từ 1000 – 1300m. + Địa hình đồi thấp: diện tích 18.000 ha , chiếm 20.8 % diện tích toàn huyện , phân bố tập trung ở khu vực giữa và phía bắc của huyện , độ cao trung bình từ 600 – 700 m. + Địa hình thung lũng: Diện tích 5.000 ha, chiếm 5.8 % diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía đông bắc. 3. Hành chính: Phần đất của huyện Đam Rông ngày nay được kết hợp từ phần phía tây của huyện Lạc Dương cũ (Đạ M’Rong, Đạ Tông, Đạ Long) với phần phía bắc huyện Lâm Hà trước đây (Liêng S’Roin, Đạ Rsal, Phi Liêng, Đạ KNàng, Rô Men), đến năm 2004 được tách ra thành lập huyện mới, lấy tên theo tên của xã Đam Rông. Huyện Đam Rông có 8 xã: Đạ K’nàng, Đạ Long, Đạ M’rong, Đạ Rsal, Đạ Tông, Liêng S’rôhn,Phi Liêng, Rô Men. Trung tâm huyện nằm ở Thôn 1, xã Rô Men, huyện Đam Rông. 4. Khí hậu: Khí hậu: thời tiết ở đây mang đặc trưng của vùng chuyển tiếp từ khí hậu nhiệt đới vùng núi cao mát lạnh quanh năm xuống vùng khí hậu nhiệt đới núi thấp nằm sâu trong nội địa phân hóa khá rõ thành 2 tiểu vùng: + Tiểu vùng phía nam: khí hậu mát và ôn hòa quanh năm, nhiệt độ trung bình từ 20.5 0 C – 21.5 0 C, thích hợp với cây trồng xứ lạnh.cà phê, chè. + Tiểu vùng phía bắc: nhiệt độ trung bình khoảng 22 0 C -23 0 C thích hợp với các loại cây trồng nhiệt đới. Đam Rông nằm hướng tây bắc tỉnh Lâm Đồng, cách Đà Lạt 100 KM theo hướng quốc lộ 27 đi Đắk Lắk, là huyện nghèo, mới thành lập từ năm 2004, nhưng đã được chính phủ quan tâm đầu tư, diện mạo huyện đang ngày càng đổi mới, đường giao thông đã được đầu tư thông thoáng, nhưng tiềm năng du lịch vẫn còn bỏ ngõ chưa được khai thác hết với nhiều thắng cảnh như: a) Rừng sinh thái Bằng Lăng Địa điểm:Thôn 1 – Rô Men – Đam Rông b) Suối nước mát Địa điểm: Thôn 2 – Rô Men – Đam Rông c) Suối nước nóng Địa điểm: Đạ Long – Đam Rông Xem chi tiết ở đây d) Thác Tình Tang Địa điểm: Thôn Cil muck – Đạ Tông – Đam Rông e) Thác Bảy tầng Địa điểm: Phi Liêng – Đam Rông f) Thác Nếp Địa điểm: Xã Đạ K’Nàng- Đam Rông e) Thác Phi S’Rônh Địa điểm: Xã Liêng S’Rônh
General introduction to Dam Rong district Natural condition Dam Rong is a district located in the North Lam Dong Province , Vietnam. Dam Rong district has an area of ​​860.9 km², accounting for 8.816% of the entire area of ​​Lam Dong province and with a population according to the 2015 census of 47,069 people, accounting for 3.8% of the entire province's population. The population of Dam Rong district is the second lowest in Lam Dong province with 52 people/km² (the lowest is Lac Duong district, 16 people/km²) compared to the whole province of 128 people/km². 1. Geographical location: Dam Rong is located on the Lam Vien plateau, bordering Lac Duong district to the east and southeast, Lam Ha district to the southwest, both belonging to Lam Dong province. The western side is Dak Glong district of Dak Nong province. The North borders the districts of Dak Lak province: Lak (in the Northwest and North), Krong Bong (in the Northeast), along the boundary with these districts (also a part of the boundary between the two provinces). ) is the Da M'Rong river (headwater branch of the Ea Krong No river). 2. Terrain: Terrain: Low direction from the south and southwest to the north and northeast, mainly high mountains, low hills and valleys, can be divided into 03 types of terrain: + High mountain terrain: Area of ​​about 63,400 hectares, accounting for 73.4% of the entire district area, distributed in an arc shape from the south to the northeast and northwest with a common altitude of 1000 - 1300m. + Low hill terrain: area of ​​18,000 hectares, accounting for 20.8% of the entire district area, concentrated distribution in the middle and northern areas of the district, average altitude from 600 - 700 m. + Valley terrain: Area of ​​5,000 hectares, accounting for 5.8% of the entire district area, concentratedly distributed in the northeast region. 3. Administration: The land of Dam Rong district today is combined from the western part of the former Lac Duong district (Da M'Rong, Da Tong, Da Long) with the northern part of the former Lam Ha district (Lieng S'Roin, Da Rsal, Phi Lieng, Da KNang, Ro Men), in 2004 were separated to form a new district, named after Dam Rong commune. Dam Rong district has 8 communes: Da K'nang, Da Long, Da M'rong, Da Rsal, Da Tong, Lieng S'rôhn, Phi Lieng, Ro Men. The district center is located in Village 1, Ro Men commune, Dam Rong district. 4. Climate: Climate: The weather here is typical of the transition zone from the tropical climate in the high mountains, which is cool all year round, to the tropical low mountain climate deep inland, clearly divided into 2 sub-regions: + Southern sub-region: cool and temperate climate all year round, average temperature from 20.5 0 C – 21.5 0 C, suitable for cold growing crops: coffee, tea. + Northern sub-region: average temperature is about 22 0 C -23 0 C is suitable for tropical crops. Dam Rong is located in the northwest of Lam Dong province, 100 KM from Da Lat in the direction of Highway 27 to Dak Lak. It is a poor district, newly established in 2004, but has been invested by the government, the district's appearance is growing day by day. With more innovation, roads have been invested and cleared, but tourism potential is still left untapped with many landscapes such as: a) Bang Lang ecological forest Location: Village 1 - Ro Men - Dam Rong b) Cool spring water Location: Village 2 – Ro Men – Dam Rong c) Hot waterfall Location: Da Long - Dam Rong See details here d) Love Falls Location: Cil muck village - Da Tong - Dam Rong e) Seven-storey Waterfall Location: Phi Lieng – Dam Rong f) Sticky Waterfall Location: Da K'Nang Commune - Dam Rong e) Phi S'Ronh Waterfall Location: Lieng S'Ronh commune
Giới thiệu khái quát huyện Đạ Huoai 1. Giới thiệu Đạ Huoai là một huyện nằm ở phía tây nam của tỉnh Lâm Đồng, trung tâm huyện lỵ cách thành phố Đà Lạt 155Km về phía Đông Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 145km về phía Tây Nam. 2. Vị trí địa lý Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 489,6km2. Ranh giới hành chính của huyện: – Phía Đông Bắc giáp Thị xã Bảo Lộc. – Phía Bắc Đông Bắc và Đông giáp huyện Bảo Lâm – Phía Đông Nam giáp huyện Tánh Linh – Bình Thuận. – Phía Nam Đông Nam giáp huyện Đức Linh – Bình Thuận . – Phía Tây Nam giáp huyện Tân Phú – Đồng Nai. – Phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Đạ Tẻh. Đạ Huoai có 8 xã, 2 thị trấn. Trong đó tất các xã, thị trấn đều có rừng. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn huyện: + Lâm trường Đạ Huoai quản lý:14.571 ha (Ghi chú: quản lý đất nông nghiệp: 567 ha, đất khác 61 ha). Quy hoạch cho rừng phòng hộ : 3.611 ha, rừng sản xuất: 11.588 ha mà đất không có rừng 734 ha, đất có rừng 13.8887 ha). + Ban quản lý rừng Nam Huoai: quản lý:19.504 ha. Quy hoạch cho rừng phòng hộ : 14.567 ha, rừng sản xuất: 4.907. Đạ Huoai có con sông chính là sông Đạ Huoai và sông Đạ Mrê. Sông Đạ Huoai phát nguyên từ suối Đạ Mri, chảy xuống qua Suối Tiên. Khi vào địa phận Đạ Huoai, lòng sông rộng dần ra trung bình 15m, rồi đổ vào sông Đồng Nai. Phụ lưu chính là sông Đạ Mrê có chiều dài 50km, rộng 10 -12m. Núi cao nhất ở Đạ Huoai là núi Lú Mu (1.079m) với đặc điểm là tảng đá lớn trên đỉnh núi có thể nhìn thấy từ quốc lộ 20. Đạ Huoai có độ cao trung bình 300m so với mặt biển, khí hậu rất khác với Đà Lạt, Bảo Lộc, nhưng rất gần với khí hậu các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Địa hình thấp dần từ phía tây bắc xuống giáp sông Đồng Nai bị chia cắt bởi các đồi núi từ cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc kéo xuống, đồng thời cũng tạo ra bậc thềm bằng phẳng. Địa hình bằng phẳng chủ yếu do bồi tụ phù sa của sông. Đây là địa hình mang tính chất chuyển tiếp giữa dạng địa hình vùng cao nguyên và địa hình vùng đồng bằng. Nhiệt độ trung bình hàng năm 22 – 24oC, nhiệt độ cao nhất 34 – 35oC. Đạ Huoai chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa tây nam, lượng mưa hàng năm cao. Cường độ mưa lớn và nhiều ngày. Khí hậu: Đạ Huoai nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhưng khí hậu cao thấp có nét đặc trưng riêng của một trong ba huyện phía nam tỉnh Lâm Đồng , nhiệt độ trung bình cao, biên độ giao động ngày và đêm không lớn đặc biệt thời hạn nắng nhiều với 7,5 giờ / ngày ẳm độ không thích hợp với các tập đoàn cây trồng vùng ôn đới nhưng rất thích hợp với những cây trồng vùng nhiệt đới., mưa khá điều hòa. + Mùa khô từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. + Mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10. Thủy văn: Trên địa bàn huyện có hai sông lớn chảy qua là Sông Đạ Huoai và Sông Đạ Mri vào mùa khô có thể thuận tiện cho việc giao thông qua lại nhưng vào mùa mưa do lưu lượng nước chảy qua nhiều nên giao thông qua lại gặp nhiều khó khăn. Địa hình: Bị chia cắt bởi nhiều khe, sông suối rất phức tạp. Độ cao tuyệt đối 180 – 800 m so với mực nước biển , độ dốc bình quân 15o Đất đai: phần nhiều là đất feralít vàng đến vàng nhạt phát triển trên đá mẹ Granít, ít đất bồi tụ ven sông suối, độ phì của đất thuộc dạng khá nên thích hợp cho việc trồng rừng. 3. Lịch sử Đạ Huoai trước kia là một vùng đất thuộc quận BLao. Năm 1959, quận BLao được đổi tên thành quận Bảo Lộc. Madagouil là một xã thuộc quận Bảo Lộc, sau này trở thành xã Mađagui và thị trấn Mađagui, huyện lỵ của Đạ Huoai. Ngày 12-7-1965, xã BSar thuộc quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy) được sáp nhập vào quận Bảo Lộc. Trước năm 1975, vùng đất Đạ Huoai hiện nay chỉ có 2 xã: BSar và Madagouil. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, vùng đất Đạ Huoai thuộc huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng gồm 4 xã: Lộc Thọ, Lộc Phước, Lộc Phú, Lộc Trung. Ngày 14-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 116-CP chia huyện Bảo Lộc thành hai huyện lấy tên là huyện Bảo Lộc và huyện Đạ Huoai. Huyện Đạ Huoai gồm có các xã: Ma Đa Goui, Đa Oai, Đa MRi, Đa Ploa, Đa Teh, Đa Kô, Đa Lay; thị trấn Ma Đa Goui, thị trấn nông trường Đa Teh và thị trấn nông trường Đa MRé. Ngày 29-12-1981, Quốc hội khoá VII, kỳ họp thứ II, ra Nghị quyết sáp nhập xã Đồng Nai thuộc huyện Phước Long, tỉnh Sông Bé vào huyện Đạ Huoai. Ngày 6-6-1986, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 68-HĐBT chia huyện Đạ Huoai thành 3 huyện: Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Hiện nay, huyện Đạ Huoai có 9 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Mađaguôi, Đạ Mri và 7 xã: Đạ Plơa, Hà Lâm, Mađagui, Đạ Oai, Đạ Tồn, Đoàn Kết, Đạ Mri. Trong kháng chiến chống Mỹ, địa bàn Đạ Huoai được gọi là K4 do Ban cán sự Đảng K4 thuộc Tỉnh ủy Lâm Đồng phụ trách. Lực lượng cách mạng đã thường xuyên kiểm soát và làm chủ đoạn đường từ đèo Chuối đến phía nam Bảo Lộc, tạo nên cửa khẩu quan trọng tiếp tế lương thực thực phẩm và cung cấp tin tức từ bên ngoài cho Khu VI và vùng căn cứ tỉnh Lâm Đồng cũ. Đạ Huoai có một xã căn cứ cách mạng gọi là xã BGia, nay là một phần của xã Đạ Plơa và xã Đoàn Kết. Nơi đây, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, dân quân du kích đã tham gia vào cuộc nổi dậy phá ấp chiến lược Bắc Ruộng và nhân dân vùng kháng chiến đã tham gia tải lương, tiếp đạn. Ngày 27-3-1975, lực lượng sư đoàn 7 đánh chiếm chi khu Đạ Huoai (tên cũ gọi là chi khu BSar), chiếm đồn Madagouil và giải phóng xã Madagouil. Ngày 22-8-1998, xã BGia được Nhà nước tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang”. 4. Cơ cấu dân số Toàn huyện có 32.640 người trong đó số người ở nông thôn chiếm gần 60%. Số người tại thành thị hơn 40%. Có số người lao động thiểu số tại chỗ khoảng 20%. Đồng bào dân tộc sống chủ yếu dựa trên việc khai thác lâm sản phụ. Mật độ dân số bình quân gần 67 người/km2, xếp hàng thứ 8/11 huyện thị của tỉnh Lâm Đồng. 5. Các xã trong huyện Huyện này có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, được chia thành 2 khu vực: Khu vực phía Bắc gồm các xã, thị trấn: 1. Thị trấn ĐạM’ri 2. Xã Hà Lâm 3. Xã ĐạM’ri 4. Xã Phước Lộc 5. Xã ĐạP’loa 6. Xã Đoàn Kết. Khu vực phía Nam gồm các xã, thị trấn: 1. Thị trấn Madaguoil (*) 2. Xã Madaguoil 3. Xã Đạ Tồn 4. Xã Đạ Oai 6. Kinh tế Đạ Huoai là một vùng đất có tiềm năng về rừng với nhiều loại gỗ quý, đặc biệt rất nhiều tre nứa cung cấp cho công nghiệp giấy và ngành tiểu thủ công nghiệp: song, tre, mây, tăm nhang,… Đất đai của Đạ Huoai phù hợp với cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực. Do có nhiều sông suối, với nhiều thảm thực vật tự nhiên, lại nằm ở đoạn giữa trên con đường nối liền giữa Thành phố Hồ Chí Minh với Đà Lạt, ngay ở ngã ba nối liền quốc lộ 20 với vùng Đạ Tẻh, Cát Tiên bằng đường 721, nên huyện Đạ Huoai có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ du lịch bên cạnh nền kinh tế chủ lực của mình là nông – lâm – công nghiệp. Đạ Huoai có 9.694ha đất nông nghiệp, trong đó đất cây công nghiệp lâu năm chiếm 5.549ha; đất có rừng 35.551,22ha, trong đó rừng tự nhiên là 34.397,44ha, rừng trồng 1.153,78ha, diện tích sông suối 365ha. Tổng sản lượng lương thực qui thóc năm 1999 là 2.271 tấn, trong đó có 1.653 tấn là sản lượng của 528ha lúa. Mía là cây công nghiệp ngắn ngày phát triển khá trên diện tích 741ha với sản lượng 48.761 tấn mía cây. Điều là cây công nghiệp dài ngày phát triển mạnh, từ 898ha (năm 1991) đã tăng lên 4.490ha (năm 1999) với sản lượng 1.304 tấn hạt. Loại cây này rất phù hợp với diện tích rộng lớn của các khu đất trống, đồi núi trọc vùng Đạ Huoai và cung cấp hạt điều cho Xí nghiệp Chế biến hạt điều. Cây ăn quả vùng Đạ Huoai phát triển thuận lợi. Năm 1991 diện tích 350ha, đến năm 1999 diện tích tăng lên gần gấp 4 lần (1.310ha), với tổng sản lượng là 5.197 tấn. Cây ăn quả ở đây có nhiều loại như: chôm chôm, sầu riêng, mít tố nữ,… Mùa quả ở Đạ Huoai thường chậm hơn so với mùa quả ở các miệt vườn miền Nam vài tháng cho nên bán chạy, ít bị đụng chợ, nên vào dịp cuối mùa quả, người tiêu dùng và du khách thường tìm mua trái cây vùng Đạ Huoai. Ngành nông lâm nghiệp của Đạ Huoai năm 1995 chỉ đạt tổng giá trị sản xuất 9,5 tỷ, còn thấp so với tiềm năng một vùng nguyên liệu khá phong phú như tre nứa, điều, mía, đá xây dựng, vàng, nước khoáng thiên nhiên,… Cạnh quốc lộ 20 có con sông rộng lượn quanh những dãy núi cao và những cánh rừng trùng điệp, lòng sông có những tảng đá lớn nhưng được bào mòn nhẵn, nhấp nhô, tạo nên những dòng thác nhỏ. Tiếng reo của nước, tiếng reo của rừng tạo nên một thắng cảnh vừa nên thơ vừa hùng vĩ. Đó là Suối Tiên, một thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng của Đạ Huoai do Tổng Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư và khai thác. Gọi là Suối Tiên nhưng thực ra đó là một đoạn của con sông Đạ Huoai. Du khách vô cùng thích thú khi thả bè trôi trên dòng suối hay bơi lội vào những ngày nắng ráo đẹp trời. Khu du lịch Suối Tiên đang thu hút nhiều du khách dừng chân trong những chuyến tham quan Lâm Đồng – Đà Lạt. Theo tính toán của ngành thống kê tỉnh Lâm Đồng, GDP bình quân đầu người của huyện Đạ Huoai trong năm 1995 đạt 221 USD, trong khi đó GDP bình quân đầu người của tỉnh Lâm Đồng là 307 USD. Trong tương lai không xa, Đạ Huoai sẽ đạt được bình quân chung của Lâm Đồng nếu được Trung ương, tỉnh chú ý đầu tư và Đảng bộ, chính quyền huyện Đạ Huoai biết khai thác, phát huy hết các tiềm năng, thế mạnh của chính mình. 7. Văn hóa giáo dục Hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế của huyện Đạ Huoai cũng có nhiều chuyển biến đáng kể. Huyện có 15 trường học (11 trường tiểu học, 3 trường trung học cơ sở, 1 trường trung học cơ sở và phổ thông trung học) với 7.982 học sinh. Toàn huyện có 1 phòng khám đa khoa và 9 trạm y tế nằm rải rác ở thị trấn Mađagui và các xã với 96 y tá và bác sĩ.
Giới thiệu khái quát huyện Đạ Huoai 1. Giới thiệu Đạ Huoai là một huyện nằm ở phía tây nam của tỉnh Lâm Đồng, trung tâm huyện lỵ cách thành phố Đà Lạt 155Km về phía Đông Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 145km về phía Tây Nam. 2. Vị trí địa lý Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 489,6km2. Ranh giới hành chính của huyện: – Phía Đông Bắc giáp Thị xã Bảo Lộc. – Phía Bắc Đông Bắc và Đông giáp huyện Bảo Lâm – Phía Đông Nam giáp huyện Tánh Linh – Bình Thuận. – Phía Nam Đông Nam giáp huyện Đức Linh – Bình Thuận . – Phía Tây Nam giáp huyện Tân Phú – Đồng Nai. – Phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Đạ Tẻh. Đạ Huoai có 8 xã, 2 thị trấn. Trong đó tất các xã, thị trấn đều có rừng. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn huyện: + Lâm trường Đạ Huoai quản lý:14.571 ha (Ghi chú: quản lý đất nông nghiệp: 567 ha, đất khác 61 ha). Quy hoạch cho rừng phòng hộ : 3.611 ha, rừng sản xuất: 11.588 ha mà đất không có rừng 734 ha, đất có rừng 13.8887 ha). + Ban quản lý rừng Nam Huoai: quản lý:19.504 ha. Quy hoạch cho rừng phòng hộ : 14.567 ha, rừng sản xuất: 4.907. Đạ Huoai có con sông chính là sông Đạ Huoai và sông Đạ Mrê. Sông Đạ Huoai phát nguyên từ suối Đạ Mri, chảy xuống qua Suối Tiên. Khi vào địa phận Đạ Huoai, lòng sông rộng dần ra trung bình 15m, rồi đổ vào sông Đồng Nai. Phụ lưu chính là sông Đạ Mrê có chiều dài 50km, rộng 10 -12m. Núi cao nhất ở Đạ Huoai là núi Lú Mu (1.079m) với đặc điểm là tảng đá lớn trên đỉnh núi có thể nhìn thấy từ quốc lộ 20. Đạ Huoai có độ cao trung bình 300m so với mặt biển, khí hậu rất khác với Đà Lạt, Bảo Lộc, nhưng rất gần với khí hậu các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Địa hình thấp dần từ phía tây bắc xuống giáp sông Đồng Nai bị chia cắt bởi các đồi núi từ cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc kéo xuống, đồng thời cũng tạo ra bậc thềm bằng phẳng. Địa hình bằng phẳng chủ yếu do bồi tụ phù sa của sông. Đây là địa hình mang tính chất chuyển tiếp giữa dạng địa hình vùng cao nguyên và địa hình vùng đồng bằng. Nhiệt độ trung bình hàng năm 22 – 24oC, nhiệt độ cao nhất 34 – 35oC. Đạ Huoai chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa tây nam, lượng mưa hàng năm cao. Cường độ mưa lớn và nhiều ngày. Khí hậu: Đạ Huoai nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhưng khí hậu cao thấp có nét đặc trưng riêng của một trong ba huyện phía nam tỉnh Lâm Đồng , nhiệt độ trung bình cao, biên độ giao động ngày và đêm không lớn đặc biệt thời hạn nắng nhiều với 7,5 giờ / ngày ẳm độ không thích hợp với các tập đoàn cây trồng vùng ôn đới nhưng rất thích hợp với những cây trồng vùng nhiệt đới., mưa khá điều hòa. + Mùa khô từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. + Mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10. Thủy văn: Trên địa bàn huyện có hai sông lớn chảy qua là Sông Đạ Huoai và Sông Đạ Mri vào mùa khô có thể thuận tiện cho việc giao thông qua lại nhưng vào mùa mưa do lưu lượng nước chảy qua nhiều nên giao thông qua lại gặp nhiều khó khăn. Địa hình: Bị chia cắt bởi nhiều khe, sông suối rất phức tạp. Độ cao tuyệt đối 180 – 800 m so với mực nước biển , độ dốc bình quân 15o Đất đai: phần nhiều là đất feralít vàng đến vàng nhạt phát triển trên đá mẹ Granít, ít đất bồi tụ ven sông suối, độ phì của đất thuộc dạng khá nên thích hợp cho việc trồng rừng. 3. Lịch sử Đạ Huoai trước kia là một vùng đất thuộc quận BLao. Năm 1959, quận BLao được đổi tên thành quận Bảo Lộc. Madagouil là một xã thuộc quận Bảo Lộc, sau này trở thành xã Mađagui và thị trấn Mađagui, huyện lỵ của Đạ Huoai. Ngày 12-7-1965, xã BSar thuộc quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy) được sáp nhập vào quận Bảo Lộc. Trước năm 1975, vùng đất Đạ Huoai hiện nay chỉ có 2 xã: BSar và Madagouil. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, vùng đất Đạ Huoai thuộc huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng gồm 4 xã: Lộc Thọ, Lộc Phước, Lộc Phú, Lộc Trung. Ngày 14-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 116-CP chia huyện Bảo Lộc thành hai huyện lấy tên là huyện Bảo Lộc và huyện Đạ Huoai. Huyện Đạ Huoai gồm có các xã: Ma Đa Goui, Đa Oai, Đa MRi, Đa Ploa, Đa Teh, Đa Kô, Đa Lay; thị trấn Ma Đa Goui, thị trấn nông trường Đa Teh và thị trấn nông trường Đa MRé. Ngày 29-12-1981, Quốc hội khoá VII, kỳ họp thứ II, ra Nghị quyết sáp nhập xã Đồng Nai thuộc huyện Phước Long, tỉnh Sông Bé vào huyện Đạ Huoai. Ngày 6-6-1986, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 68-HĐBT chia huyện Đạ Huoai thành 3 huyện: Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Hiện nay, huyện Đạ Huoai có 9 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Mađaguôi, Đạ Mri và 7 xã: Đạ Plơa, Hà Lâm, Mađagui, Đạ Oai, Đạ Tồn, Đoàn Kết, Đạ Mri. Trong kháng chiến chống Mỹ, địa bàn Đạ Huoai được gọi là K4 do Ban cán sự Đảng K4 thuộc Tỉnh ủy Lâm Đồng phụ trách. Lực lượng cách mạng đã thường xuyên kiểm soát và làm chủ đoạn đường từ đèo Chuối đến phía nam Bảo Lộc, tạo nên cửa khẩu quan trọng tiếp tế lương thực thực phẩm và cung cấp tin tức từ bên ngoài cho Khu VI và vùng căn cứ tỉnh Lâm Đồng cũ. Đạ Huoai có một xã căn cứ cách mạng gọi là xã BGia, nay là một phần của xã Đạ Plơa và xã Đoàn Kết. Nơi đây, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, dân quân du kích đã tham gia vào cuộc nổi dậy phá ấp chiến lược Bắc Ruộng và nhân dân vùng kháng chiến đã tham gia tải lương, tiếp đạn. Ngày 27-3-1975, lực lượng sư đoàn 7 đánh chiếm chi khu Đạ Huoai (tên cũ gọi là chi khu BSar), chiếm đồn Madagouil và giải phóng xã Madagouil. Ngày 22-8-1998, xã BGia được Nhà nước tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang”. 4. Cơ cấu dân số Toàn huyện có 32.640 người trong đó số người ở nông thôn chiếm gần 60%. Số người tại thành thị hơn 40%. Có số người lao động thiểu số tại chỗ khoảng 20%. Đồng bào dân tộc sống chủ yếu dựa trên việc khai thác lâm sản phụ. Mật độ dân số bình quân gần 67 người/km2, xếp hàng thứ 8/11 huyện thị của tỉnh Lâm Đồng. 5. Các xã trong huyện Huyện này có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, được chia thành 2 khu vực: Khu vực phía Bắc gồm các xã, thị trấn: 1. Thị trấn ĐạM’ri 2. Xã Hà Lâm 3. Xã ĐạM’ri 4. Xã Phước Lộc 5. Xã ĐạP’loa 6. Xã Đoàn Kết. Khu vực phía Nam gồm các xã, thị trấn: 1. Thị trấn Madaguoil (*) 2. Xã Madaguoil 3. Xã Đạ Tồn 4. Xã Đạ Oai 6. Kinh tế Đạ Huoai là một vùng đất có tiềm năng về rừng với nhiều loại gỗ quý, đặc biệt rất nhiều tre nứa cung cấp cho công nghiệp giấy và ngành tiểu thủ công nghiệp: song, tre, mây, tăm nhang,… Đất đai của Đạ Huoai phù hợp với cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực. Do có nhiều sông suối, với nhiều thảm thực vật tự nhiên, lại nằm ở đoạn giữa trên con đường nối liền giữa Thành phố Hồ Chí Minh với Đà Lạt, ngay ở ngã ba nối liền quốc lộ 20 với vùng Đạ Tẻh, Cát Tiên bằng đường 721, nên huyện Đạ Huoai có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ du lịch bên cạnh nền kinh tế chủ lực của mình là nông – lâm – công nghiệp. Đạ Huoai có 9.694ha đất nông nghiệp, trong đó đất cây công nghiệp lâu năm chiếm 5.549ha; đất có rừng 35.551,22ha, trong đó rừng tự nhiên là 34.397,44ha, rừng trồng 1.153,78ha, diện tích sông suối 365ha. Tổng sản lượng lương thực qui thóc năm 1999 là 2.271 tấn, trong đó có 1.653 tấn là sản lượng của 528ha lúa. Mía là cây công nghiệp ngắn ngày phát triển khá trên diện tích 741ha với sản lượng 48.761 tấn mía cây. Điều là cây công nghiệp dài ngày phát triển mạnh, từ 898ha (năm 1991) đã tăng lên 4.490ha (năm 1999) với sản lượng 1.304 tấn hạt. Loại cây này rất phù hợp với diện tích rộng lớn của các khu đất trống, đồi núi trọc vùng Đạ Huoai và cung cấp hạt điều cho Xí nghiệp Chế biến hạt điều. Cây ăn quả vùng Đạ Huoai phát triển thuận lợi. Năm 1991 diện tích 350ha, đến năm 1999 diện tích tăng lên gần gấp 4 lần (1.310ha), với tổng sản lượng là 5.197 tấn. Cây ăn quả ở đây có nhiều loại như: chôm chôm, sầu riêng, mít tố nữ,… Mùa quả ở Đạ Huoai thường chậm hơn so với mùa quả ở các miệt vườn miền Nam vài tháng cho nên bán chạy, ít bị đụng chợ, nên vào dịp cuối mùa quả, người tiêu dùng và du khách thường tìm mua trái cây vùng Đạ Huoai. Ngành nông lâm nghiệp của Đạ Huoai năm 1995 chỉ đạt tổng giá trị sản xuất 9,5 tỷ, còn thấp so với tiềm năng một vùng nguyên liệu khá phong phú như tre nứa, điều, mía, đá xây dựng, vàng, nước khoáng thiên nhiên,… Cạnh quốc lộ 20 có con sông rộng lượn quanh những dãy núi cao và những cánh rừng trùng điệp, lòng sông có những tảng đá lớn nhưng được bào mòn nhẵn, nhấp nhô, tạo nên những dòng thác nhỏ. Tiếng reo của nước, tiếng reo của rừng tạo nên một thắng cảnh vừa nên thơ vừa hùng vĩ. Đó là Suối Tiên, một thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng của Đạ Huoai do Tổng Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư và khai thác. Gọi là Suối Tiên nhưng thực ra đó là một đoạn của con sông Đạ Huoai. Du khách vô cùng thích thú khi thả bè trôi trên dòng suối hay bơi lội vào những ngày nắng ráo đẹp trời. Khu du lịch Suối Tiên đang thu hút nhiều du khách dừng chân trong những chuyến tham quan Lâm Đồng – Đà Lạt. Theo tính toán của ngành thống kê tỉnh Lâm Đồng, GDP bình quân đầu người của huyện Đạ Huoai trong năm 1995 đạt 221 USD, trong khi đó GDP bình quân đầu người của tỉnh Lâm Đồng là 307 USD. Trong tương lai không xa, Đạ Huoai sẽ đạt được bình quân chung của Lâm Đồng nếu được Trung ương, tỉnh chú ý đầu tư và Đảng bộ, chính quyền huyện Đạ Huoai biết khai thác, phát huy hết các tiềm năng, thế mạnh của chính mình. 7. Văn hóa giáo dục Hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế của huyện Đạ Huoai cũng có nhiều chuyển biến đáng kể. Huyện có 15 trường học (11 trường tiểu học, 3 trường trung học cơ sở, 1 trường trung học cơ sở và phổ thông trung học) với 7.982 học sinh. Toàn huyện có 1 phòng khám đa khoa và 9 trạm y tế nằm rải rác ở thị trấn Mađagui và các xã với 96 y tá và bác sĩ.
Giới thiệu khái quát huyện Lạc Dương Giới thiệu Huyện Lạc Dương có tiềm năng về phát triển du lịch ở khu vực núi Langbiang và hồ Đan Kia – Suối Vàng, khu du lịch văn hóa lễ hội cũng như một số danh lam thắng cảnh khác hầu hết các xã. Huyện có 88-89% diện tích là rừng đầu nguồn, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước cho các công trình thủy điện trên địa bàn. 2. Vị trí địa lý Diện tích tự nhiên: 130.963,04 ha a/ Phía Đông giáp: Tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa. b/ Phía Tây giáp: Huyện Lâm Hà và huyện Đam Rông. c/ Phía Nam giáp: Thành phố Đà Lạt. d/ Phía Bắc giáp: Tỉnh Đắc Lắc. Lạc Dương là huyện miền núi có địa hình tương đối phức tạp, có 3 dạng địa hình chính: núi cao, đồi thấp đến trung bình, thung lũng. Dạng địa hình núi cao: là khu vực có độ dốc lớn (trên 200), có độ cao 1.500 – 2.200m so với mặt nước biển. Hầu hết diện tích ở dạng này là rừng đầu nguồn, có vai trò quan trọng trong bảo vệ nguồn nước hệ thống sông Đa Nhim, nên cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Dạng địa hình đồi thấp đến trung bình: Là dãy đồi hoặc núi ít dốc (<200), có độ cao trung bình 1.000m với đất bazan nâu đỏ, chiếm 10 – 12% tổng diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía Nam, Tây Bắc. Khả năng sử dụng tuỳ thuộc vào độ dốc, tầng dày, khí hậu và điều kiện tưới mà có thể trồng cây lâu năm (cà phê, chè, cây ăn quả…), ở những khu vực ít dốc có thể trồng hoa màu và cây công nghiệp hàng năm. Dạng địa hình thung lũng: Chiếm khoảng 3% tổng diện tích toàn huyện, phân bố ven các sông, suối lớn. Độ cao phổ biến từ 3 – 80 hầu hết diện tích thuộc dạng địa hình này là các loại đất phù sa, nguồn nước mặt khá dồi dào, khá thích hợp với phát triển lúa nước và các loại hoa màu ngắn ngày. Lạc Dương nằm trong vùng khí hậu ôn đới, độ cao so với mặt nước biển từ 1.500 – 1.600m. Nhiệt độ trung bình hàng năm thấp (18 – 220c), tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất (16,40c), tháng năm có nhiệt độ trung bình cao nhất (19,70c), nhiệt độ ổn định qua các mùa trong năm. Biên độ giao động giữa ngày và đêm lớn (90c). 3. Các xã 4. Cơ cấu dân số Tổng số dân: 3.274 hộ/17.765 nhân khẩu. (Theo Quyết định 1809/QĐ-UBND ngày 09/6/2006 của UBND Tỉnh) bảng – Các dân tộc thiểu số đang sống trên địc bàn huyện : C’ho, Chill, ChRu, Eâđê, Nùng, tày, Hoa, Chàm. Với tổng số hộ :4.271 hộ và trên 17.000 khẩu, cư trú trên 35 thôn dân tộc trong tổng số 99 thôn của huyện . ngành nghề chủ yếu của các dân tộc trên chủ yếu là sản xuất nông nghiệp : trồng lúa và rau màu . 5. Cơ cấu hành chính Cơ cấu hành chính Bí thư Huyện uỷ (Họ tên, kèm theo ảnh): Ông Nguyễn Quý UY ĐT: 839.133 DĐ: 0913934041 Chủ tịch HĐND huyện (Họ tên, kèm theo ảnh): Nguyễn Quý UY ĐT: 839.062 DĐ: 0918012720 Chủ tịch UBND huyện (Họ tên, kèm theo ảnh): Ông Nguyễn Duy Hải ĐT: 839.105 DĐ: 0918465904 Các phòng ban chuyên môn giúp việc cho UBND huyện 1. Phòng Công thương ĐT: 063.839726 2. Phòng Giáo dục ĐT: 063.839031 3. Phòng Hạ tầng – Kinh tế ĐT: 063.839212 4. Phòng NN&PTNT ĐT: 063.839035 5. Phòng Nội vụ LĐTB&XH ĐT: 063.839051 6. Phòng Tài chính – Kế hoạch ĐT: 063.839056 7. Phòng Tài nguyên – Môi trường ĐT: 063.839095 8. Phòng Tôn giáo – Dân tộc ĐT: 063.839728 9. Phòng Tư pháp ĐT: 063.839109 10. Phòng Thống kê ĐT: 063.839092 11. Phòng Văn hóa Thông tin – Thể thao ĐT: 063.839046 12. Phòng Y Tế ĐT: 063.839102 13. Văn phòng HĐND và UBND huyện ĐT: 063.839040 14. UB. Dân số gia đình và Trẻ em ĐT: 063.839023 6. Các Tổ chức Hội và Đoàn thể 7. Lâm nghiệp Tổng diện tích đất lâm nghiệp: 113.911,68 ha, được chia ra các loại sau: Rừng phòng hộ: 52.834,26 ha Rừng đặc dụng: 61.077,42 ha Tổng diện tích giao khoán quản lý, bảo vệ rừng là 72.869,7 ha. Trong đó, giao cho các hộ dân là 65.408 ha; cho các đơn vị nhận giao khoán là 7.389,59 ha; cho 7 tổ chức kinh tế nhận giao khoán quản lý bảo vệ kết hợp với kinh doanh dưới tán rừng là 1.700 ha. 8. Hạ tầng a) Giao thông – Tỉnh lộ 722, 723 đang được xây dựng. Tỉnh lộ 722 đoạn chạy qua Lạc Dương dài 78 km, là một phần của con đường Đông trường Sơn, đây là tuyến đường quan trọng nối Đà Lạt – Lạc Dương – Đắc Lắc. Tỉnh lộ 723: Tổng chiều dài 39,4 km là trục nối giữa 2 điểm du lịch Nha Trang và Đà Lạt, hiện đang được trải nhựa. – Huyện lộ: có 3 tuyến chính: Xã Lát– Đưng K’Nớ; TT. Lạc Dương– Đa Sar; Cầu Phước Thành – KDL. Langbiang với tổng chiều dài đường trải nhựa là 25,5 km. – Đường nông thôn: bao gồm đường liên thôn và đường trong các khu dân cư, lòng đường hẹp, lầy lội vào mùa mưa. – Các loại phương tiện di chuyển hiện nay ở địa phương: chủ yếu là xe máy, xe tải. b) Điện Hệ thống điện lưới tại địa phương: 06/06 xã, thị trấn đã có điện lưới quốc gia; 31/33 thôn, khu phố đã có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất (Thôn Đơng K’Si – xã Đa Chais và thôn Păng Tiêng – Xã Lát chưa có điện) c) Bưu điện Toàn huyện có 1 bưu điện trung tâm, các xã đều có bưu điện xã, bình quân 76 người/máy điện thoại, đã hoàn thành việc cáp quang hóa. Dự kiến trong thời gian tới các xã đều có một bưu cục đa dịch vụ. 9. Du lịch Hiện nay, hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng đang từng bước được quan tâm đầu tư. Khi Tỉnh lộ 722, 723 hoàn thiện, đưa vào sử dụng mở ra nhiều triển vọng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện và đặc biệt là ngành du lịch. Bên cạnh một số dự án đang được đầu tư cũng như có chủ trương thỏa thuận đầu tư tiến hành triển khai với quy mô đầu tư lớn vẫn còn các điểm tiềm năng cần được đầu tư, khai thác có hiệu quả, nhằm giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ, góp phần nâng cao thu nhập cải thiện đời sống của nhân dân và đóng góp vào nguồn thu ngân sách huyện nhà. – Các địa điểm có tiềm năng khai thác phục vụ du lịch trên địa bàn huyện: Khu du lịch Văn hoá lễ hội Langbiang 2. Hồ Đan Kia – Suối Vàng 3. Thác Ankroet 4. Nhà máy thủy điện AnKroet 5. Buôn văn hóa cổ K’ho 6. Làng dệt thổ cẩm B’nerC 7. Nhà thờ xã Lát 8. Khu Nông nghiệp công nghệ cao 9. Thác 7 tầng xã Đa Sar 10. Thác Liêng Tưr xã Đạ Chais 11. Khu du lịch sinh thái Đasar – Thuỷ điện Đa Nhim Thượng 12. Thác 9 tầng xã Đưng K’Nớ 13. KDL Hồ thủy điện Đạ Dâng – Đạ Chomo 14. KDL Hồ thủy điện Đạ Khai 15. KDL Hồ thủy điện Yann Tann Sienn 10. Y tế Đến nay, tất cả các xã đều có trạm y tế, công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai đồng bộ, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Các chương trình quốc gia về y tế được triển khai có hiệu quả. a. Số cơ sở: – Phòng khám đa khoa khu vực: 1 – Nhà hộ sinh khu vực: 1 – Trạm y tế xã, thị trấn: 6 – Phân trạm y tế: 2 b. Số giường bệnh: – Phòng khám đa khoa khu vực: 14 – Nhà hộ sinh khu vực: 6 – Trạm y tế xã, thị trấn: 30 11. Bưu chính viễn thông Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển mạnh với hệ thống các bưu cục, tổng đài đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của địa phương. Toàn huyện có 1 bưu điện trung tâm, các xã đều có bưu điện xã, bình quân 76 người/máy điện thoại, đã hoàn thành việc cáp quang hóa. Dự kiến trong thời gian tới các xã đều có một bưu cục đa dịch vụ. Thông tin liên hệ: Ủy ban Nhân dân huyện Lạc Dương Chủ tịch: Nguyễn Duy Hải Phó Chủ tịch: Phạm Triều Phó Chủ tịch: Nguyễn Quốc Kỳ Phòng Hành chính – Điện thoại: 063.3839040; Fax: 063.3839176
Giới thiệu khái quát huyện Lạc Dương Giới thiệu Huyện Lạc Dương có tiềm năng về phát triển du lịch ở khu vực núi Langbiang và hồ Đan Kia – Suối Vàng, khu du lịch văn hóa lễ hội cũng như một số danh lam thắng cảnh khác hầu hết các xã. Huyện có 88-89% diện tích là rừng đầu nguồn, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước cho các công trình thủy điện trên địa bàn. 2. Vị trí địa lý Diện tích tự nhiên: 130.963,04 ha a/ Phía Đông giáp: Tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa. b/ Phía Tây giáp: Huyện Lâm Hà và huyện Đam Rông. c/ Phía Nam giáp: Thành phố Đà Lạt. d/ Phía Bắc giáp: Tỉnh Đắc Lắc. Lạc Dương là huyện miền núi có địa hình tương đối phức tạp, có 3 dạng địa hình chính: núi cao, đồi thấp đến trung bình, thung lũng. Dạng địa hình núi cao: là khu vực có độ dốc lớn (trên 200), có độ cao 1.500 – 2.200m so với mặt nước biển. Hầu hết diện tích ở dạng này là rừng đầu nguồn, có vai trò quan trọng trong bảo vệ nguồn nước hệ thống sông Đa Nhim, nên cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Dạng địa hình đồi thấp đến trung bình: Là dãy đồi hoặc núi ít dốc (<200), có độ cao trung bình 1.000m với đất bazan nâu đỏ, chiếm 10 – 12% tổng diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía Nam, Tây Bắc. Khả năng sử dụng tuỳ thuộc vào độ dốc, tầng dày, khí hậu và điều kiện tưới mà có thể trồng cây lâu năm (cà phê, chè, cây ăn quả…), ở những khu vực ít dốc có thể trồng hoa màu và cây công nghiệp hàng năm. Dạng địa hình thung lũng: Chiếm khoảng 3% tổng diện tích toàn huyện, phân bố ven các sông, suối lớn. Độ cao phổ biến từ 3 – 80 hầu hết diện tích thuộc dạng địa hình này là các loại đất phù sa, nguồn nước mặt khá dồi dào, khá thích hợp với phát triển lúa nước và các loại hoa màu ngắn ngày. Lạc Dương nằm trong vùng khí hậu ôn đới, độ cao so với mặt nước biển từ 1.500 – 1.600m. Nhiệt độ trung bình hàng năm thấp (18 – 220c), tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất (16,40c), tháng năm có nhiệt độ trung bình cao nhất (19,70c), nhiệt độ ổn định qua các mùa trong năm. Biên độ giao động giữa ngày và đêm lớn (90c). 3. Các xã 4. Cơ cấu dân số Tổng số dân: 3.274 hộ/17.765 nhân khẩu. (Theo Quyết định 1809/QĐ-UBND ngày 09/6/2006 của UBND Tỉnh) bảng – Các dân tộc thiểu số đang sống trên địc bàn huyện : C’ho, Chill, ChRu, Eâđê, Nùng, tày, Hoa, Chàm. Với tổng số hộ :4.271 hộ và trên 17.000 khẩu, cư trú trên 35 thôn dân tộc trong tổng số 99 thôn của huyện . ngành nghề chủ yếu của các dân tộc trên chủ yếu là sản xuất nông nghiệp : trồng lúa và rau màu . 5. Cơ cấu hành chính Cơ cấu hành chính Bí thư Huyện uỷ (Họ tên, kèm theo ảnh): Ông Nguyễn Quý UY ĐT: 839.133 DĐ: 0913934041 Chủ tịch HĐND huyện (Họ tên, kèm theo ảnh): Nguyễn Quý UY ĐT: 839.062 DĐ: 0918012720 Chủ tịch UBND huyện (Họ tên, kèm theo ảnh): Ông Nguyễn Duy Hải ĐT: 839.105 DĐ: 0918465904 Các phòng ban chuyên môn giúp việc cho UBND huyện 1. Phòng Công thương ĐT: 063.839726 2. Phòng Giáo dục ĐT: 063.839031 3. Phòng Hạ tầng – Kinh tế ĐT: 063.839212 4. Phòng NN&PTNT ĐT: 063.839035 5. Phòng Nội vụ LĐTB&XH ĐT: 063.839051 6. Phòng Tài chính – Kế hoạch ĐT: 063.839056 7. Phòng Tài nguyên – Môi trường ĐT: 063.839095 8. Phòng Tôn giáo – Dân tộc ĐT: 063.839728 9. Phòng Tư pháp ĐT: 063.839109 10. Phòng Thống kê ĐT: 063.839092 11. Phòng Văn hóa Thông tin – Thể thao ĐT: 063.839046 12. Phòng Y Tế ĐT: 063.839102 13. Văn phòng HĐND và UBND huyện ĐT: 063.839040 14. UB. Dân số gia đình và Trẻ em ĐT: 063.839023 6. Các Tổ chức Hội và Đoàn thể 7. Lâm nghiệp Tổng diện tích đất lâm nghiệp: 113.911,68 ha, được chia ra các loại sau: Rừng phòng hộ: 52.834,26 ha Rừng đặc dụng: 61.077,42 ha Tổng diện tích giao khoán quản lý, bảo vệ rừng là 72.869,7 ha. Trong đó, giao cho các hộ dân là 65.408 ha; cho các đơn vị nhận giao khoán là 7.389,59 ha; cho 7 tổ chức kinh tế nhận giao khoán quản lý bảo vệ kết hợp với kinh doanh dưới tán rừng là 1.700 ha. 8. Hạ tầng a) Giao thông – Tỉnh lộ 722, 723 đang được xây dựng. Tỉnh lộ 722 đoạn chạy qua Lạc Dương dài 78 km, là một phần của con đường Đông trường Sơn, đây là tuyến đường quan trọng nối Đà Lạt – Lạc Dương – Đắc Lắc. Tỉnh lộ 723: Tổng chiều dài 39,4 km là trục nối giữa 2 điểm du lịch Nha Trang và Đà Lạt, hiện đang được trải nhựa. – Huyện lộ: có 3 tuyến chính: Xã Lát– Đưng K’Nớ; TT. Lạc Dương– Đa Sar; Cầu Phước Thành – KDL. Langbiang với tổng chiều dài đường trải nhựa là 25,5 km. – Đường nông thôn: bao gồm đường liên thôn và đường trong các khu dân cư, lòng đường hẹp, lầy lội vào mùa mưa. – Các loại phương tiện di chuyển hiện nay ở địa phương: chủ yếu là xe máy, xe tải. b) Điện Hệ thống điện lưới tại địa phương: 06/06 xã, thị trấn đã có điện lưới quốc gia; 31/33 thôn, khu phố đã có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất (Thôn Đơng K’Si – xã Đa Chais và thôn Păng Tiêng – Xã Lát chưa có điện) c) Bưu điện Toàn huyện có 1 bưu điện trung tâm, các xã đều có bưu điện xã, bình quân 76 người/máy điện thoại, đã hoàn thành việc cáp quang hóa. Dự kiến trong thời gian tới các xã đều có một bưu cục đa dịch vụ. 9. Du lịch Hiện nay, hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng đang từng bước được quan tâm đầu tư. Khi Tỉnh lộ 722, 723 hoàn thiện, đưa vào sử dụng mở ra nhiều triển vọng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện và đặc biệt là ngành du lịch. Bên cạnh một số dự án đang được đầu tư cũng như có chủ trương thỏa thuận đầu tư tiến hành triển khai với quy mô đầu tư lớn vẫn còn các điểm tiềm năng cần được đầu tư, khai thác có hiệu quả, nhằm giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ, góp phần nâng cao thu nhập cải thiện đời sống của nhân dân và đóng góp vào nguồn thu ngân sách huyện nhà. – Các địa điểm có tiềm năng khai thác phục vụ du lịch trên địa bàn huyện: Khu du lịch Văn hoá lễ hội Langbiang 2. Hồ Đan Kia – Suối Vàng 3. Thác Ankroet 4. Nhà máy thủy điện AnKroet 5. Buôn văn hóa cổ K’ho 6. Làng dệt thổ cẩm B’nerC 7. Nhà thờ xã Lát 8. Khu Nông nghiệp công nghệ cao 9. Thác 7 tầng xã Đa Sar 10. Thác Liêng Tưr xã Đạ Chais 11. Khu du lịch sinh thái Đasar – Thuỷ điện Đa Nhim Thượng 12. Thác 9 tầng xã Đưng K’Nớ 13. KDL Hồ thủy điện Đạ Dâng – Đạ Chomo 14. KDL Hồ thủy điện Đạ Khai 15. KDL Hồ thủy điện Yann Tann Sienn 10. Y tế Đến nay, tất cả các xã đều có trạm y tế, công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai đồng bộ, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Các chương trình quốc gia về y tế được triển khai có hiệu quả. a. Số cơ sở: – Phòng khám đa khoa khu vực: 1 – Nhà hộ sinh khu vực: 1 – Trạm y tế xã, thị trấn: 6 – Phân trạm y tế: 2 b. Số giường bệnh: – Phòng khám đa khoa khu vực: 14 – Nhà hộ sinh khu vực: 6 – Trạm y tế xã, thị trấn: 30 11. Bưu chính viễn thông Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển mạnh với hệ thống các bưu cục, tổng đài đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của địa phương. Toàn huyện có 1 bưu điện trung tâm, các xã đều có bưu điện xã, bình quân 76 người/máy điện thoại, đã hoàn thành việc cáp quang hóa. Dự kiến trong thời gian tới các xã đều có một bưu cục đa dịch vụ. Thông tin liên hệ: Ủy ban Nhân dân huyện Lạc Dương Chủ tịch: Nguyễn Duy Hải Phó Chủ tịch: Phạm Triều Phó Chủ tịch: Nguyễn Quốc Kỳ Phòng Hành chính – Điện thoại: 063.3839040; Fax: 063.3839176
Giới thiệu khái quát huyện Đơn Dương Đơn dương là huyện nằm ở phía Đông Nam Đà Lạt, phía Nam cao nguyên Lâm viên ; có độ cao trên 1000 m. Với diện tích đất tự nhiên trên 61.000 ha ; trong đó đất sản xuất nông nghiệp gần 17.000 ha, đất lâm nghiệp 38.000 ha. Có 10 đơn vị xã, Thị trấn với dân số trên 91.000 dân ; Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 30%. Đứng trên góc độ phát triển kinh tế thì Đơn dương hội tụ khá nhiều yếu tố thuận lợi – Có Quốc lộ 27 đi qua, cận kề : cửa ngõ các tỉnh Miền trung vào Lâm đồng Đà lạt, tiếp giáp với trung tâm kinh tế Đức trọng, đất đai thổ nhưỡng phù hợp với với nhiều lọai cây trồng; đặc biệt các lọai rau. Mặt khác xét về khả năng du lịch có thể là điểm dừng chân Du khách trước và sau khi đến và đi Đà Lạt để thưởng thức không khí , thắng cảnh rừng núi như đèo Ngoạn Mục, hồ Đa nhim … Cao nguyên Lang Biang trước năm 1893 là địa bàn cư trú của các tộc người Thượng. Người Việt đầu tiên có ý định khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lí do nên cho tới cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định của mình. Vào hai năm 1880 và 1881, bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng người Thượng ở Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, và họ được coi là hai nhà thám hiểm đầu tiên đã tìm ra cao nguyên Lang Biang. Hành trình của Paul Néis và Albert Septans mở đường cho nhiều chuyến đi khác như A. Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), thiếu tá Humann (1884).Ngày 3 tháng 8 năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này bất thành. Từ 28 tháng 3 đến 9 tháng 6 năm 1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên Đắk Lắk để đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mê Công (thuộc địa phận Campuchia). Vị trí địa lý – Diện tích : 61.000 ha a/ Phía Đông giáp : Tỉnh Ninh Thuận b/ Phía Tây giáp : Huyện Đức Trọng . c/ Phía Nam giáp : Huyện Đức Trọng . d/ Phía Bắc giáp : Thành phố Đà Lạt và huyện Lạc Dương. – Địa hình được chia làm 3 dạng chính Địa hình núi cao. Địa hình đồi thoải lượn sóng . Địa hình thung lũng sông suối . – Các loại đất ở địa phương: Gồm có các loại đất chính sau : Đất phù sa dốc tụ . Đất phù sa sông suối . Đất phù sa không được bồi hàng năm . Đất nâu đỏ trên Ban Zan. Đất đỏ vàng trên đá phiến. Đất mùn vàng đỏ Gzanit và Daxit. – Tổng diện tích đất tư nhiên: 61.032 ha Các xã Cơ cấu dân số Tổng số dân của huyện Đơn Dương sơ bộ năm 2005 ’92.012 khẩu – Các dân tộc thiểu số đang sống trên địc bàn huyện : C’ho, Chill, ChRu, Eâđê, Nùng, tày, Hoa, Chàm. Với tổng số hộ :4.271 hộ và trên 17.000 khẩu, cư trú trên 35 thôn dân tộc trong tổng số 99 thôn của huyện . ngành nghề chủ yếu của các dân tộc trên chủ yếu là sản xuất nông nghiệp : trồng lúa và rau màu . Du lịch Các địa điểm có khả năng trở thành điểm du lich của địa phương ; a) Hồ Đanhim – Địa điểm : TT Dran – H. Đơn dương – Mô tả hiện trạng và những nét hấp dẫn về tự nhiên, nhân văn : nằm ở hướng đông của huyện, chứa và cung cấp nước cho thủy điện Đa nhim, được xây dựng từ những năm 60, xung quanh hồ là rừng nguyên sinh thuộc rừng phòng hộ. Thích hợp cho du lịch sinh thái và du lịch trong lòng hồ. b) Rừng cảnh quan đèo Ngoạn mục – Địa điểm : Thôn Phú Thuận-TT Dran – Mô tả hiện trạng và những nét hấp dẫn về tự nhiên, nhân văn : nằm dọc QL 27 đầu chân đèo Ngoạn mục giáp ranh địa giới hành chính với huyện Ninh Sơn-Ninh thuận, là điểm dừng của xe khi lên hết đèo hoặc trước khi xuống đèo, có Thác Thiên thai nằm giữa hai đồi núi trong cánh rừng tự nhiên thuộc rừng phòng hộ. c) Hồ PRÓ – Địa điểm : Thôn Đông Hồ – Xã Pró – Hiện trạng và những nét hấp dẫn về tự nhiên, nhân văn ; là hồ chứa nước được xây dựng tù những năm 80, phục vụ tứơi tiêu cho gần 400 ha đất nông nghiệp của 2 Xã Pró và Kađơn. Diện tích lòng hồ trên 70 ha, xung quanh là rừng phòng hộ nguyên sinh. Hồ cách QL 27 khoảng 15 km, đường ôtô ra vào được; trong đó có trên 10 km đường đã được thảm nhựa. d) Hồ Đàròn – Địa điểm : Thôn Đàròn – Xã Đàròn – Hiện trạng và những nét hấp dẫn về tự nhiên, nhân văn : nằm hướng tây bắc huyện gần QL 27 có diện tích lòng hồ trên 110 ha, xung quanh là rừng Thông bao bọc, được xây dựng từ những năm cuối 90, phục vụ tưới tiêu cho Xã Đàròn và TT Thạnh Mỹ.
General introduction to Don Duong district Don Duong is a district located southeast of Da Lat, south of the Lam Vien plateau; has an altitude of over 1000 m. With a natural land area of ​​over 61,000 hectares; Of which agricultural land is nearly 17,000 hectares, forestry land is 38,000 hectares. There are 10 communes and towns with a population of over 91,000 people; Among them, ethnic minorities account for nearly 30%. From an economic development perspective, Don Duong converges many favorable factors - National Highway 27 passes through, close by: the gateway of the Central provinces to Da Lat Lam Dong, adjacent to the German economic center. In particular, the soil and soil are suitable for many types of crops; especially vegetables. On the other hand, considering the possibility of tourism, it can be a stop for tourists before and after coming to and going to Da Lat to enjoy the atmosphere and mountainous landscapes such as Ngoan Muc Pass, Da Nhim Lake... Before 1893, Lang Biang Plateau was the residence of the Montagnard ethnic groups. The first Vietnamese person who intended to explore the mountains and forests of the South Central region was Nguyen Thong, but due to many reasons, until the end of his life he could not realize his intention. In 1880 and 1881, naval doctor Paul Néis and lieutenant Albert Septans made their first expeditions into the Montagnard region in the Southeast and South Central regions, and they are considered the first two explorers to have Found the Lang Biang plateau. The journey of Paul Néis and Albert Septans paved the way for many other trips such as A. Gautier (1882), L. Nouet (1882), Major Humann (1884). On August 3, 1891, Dr. Alexandre Yersin was executed. He made his first expedition with the intention of finding a mountain road from Nha Trang to Saigon, but this trip was unsuccessful. From March 28 to June 9, 1892, Yersin undertook an expedition from Nha Trang, across the Dak Lak highlands to Stung Treng, located on the banks of the Mekong River (in Cambodia). Geographical location – Area: 61,000 hectares a/ Bordered to the East: Ninh Thuan Province b/ Bordered to the West: Duc Trong District. c/ Bordered to the South: Duc Trong District. d/ Bordered to the North: Da Lat City and Lac Duong district. – Terrain is divided into 3 main types High mountain terrain. The terrain is gently rolling hills. River and stream valley terrain. – Local soil types: Includes the following main soil types: Alluvial soil is sloping. Alluvial soil from rivers and streams. Alluvial soil is not deposited every year. Red-brown soil on Ban Zan. Yellow red soil on slate. Red yellow humus soil Gzanit and Daxit. – Total natural land area: 61,032 hectares Communes Population structure The preliminary total population of Don Duong district in 2005 '92,012 people – Ethnic minorities living in the district: C'ho, Chill, ChRu, Eade, Nung, Tay, Hoa, Cham. With a total number of households: 4,271 households and over 17,000 people, residing in 35 ethnic villages out of a total of 99 villages in the district. The main occupation of the above ethnic groups is mainly agricultural production: growing rice and vegetables. Tourism Locations that have the potential to become local tourist attractions; a) Ho Danhim – Location: Dran Town – Don Duong District – Describe the current situation and attractive features of nature and humanity: located in the east of the district, storing and supplying water for Da Nhim hydroelectric power plant, built in the 60s, surrounding the lake is primeval forest. belongs to protection forests. Suitable for ecotourism and tourism within the lake. b) Ngoan Muc Pass landscape forest – Location: Phu Thuan Village - Dran Town – Describe the current status and attractive features of nature and humanity: located along Highway 27 at the foot of Ngoan Muc Pass, bordering the administrative boundary with Ninh Son-Ninh Thuan district, is the stopping point for the car when reaching the end of the pass or Before going down the pass, there is Thien Thai Waterfall located between two hills and mountains in a natural forest belonging to the protection forest. c) Lake PRO – Location: Dong Ho Village – Pro Commune – Current status and attractions of nature and humanity; is a water reservoir built in the 80s, serving drainage for nearly 400 hectares of agricultural land in 2 Communes of Pro and Kadon. The lake bed area is over 70 hectares, surrounded by primary protective forests. The lake is about 15 km from Highway 27, accessible by car; Of which over 10 km of road has been paved with asphalt. d) Lake Daron – Location: Daron Village – Daron Commune – Current status and attractions of nature and humanity: located in the northwest of the district near National Highway 27, with a lake bed area of ​​over 110 hectares, surrounded by pine forests, built in the late 90s, restoring irrigation service for Daron Commune and Thanh My Town.
Giới thiệu khái quát huyện Bắc Sơn Bắc Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Lạng Sơn , thuộc vòng cung Bắc Sơn của vùng Đông Bắc, là huyện có nhiều di chỉ khảo cổ về người tiền sử, nơi đây các nhà khảo cổ đã phát hiện ra cả một nền văn minh người Việt cổ và sơ kỳ đồ đá mới mang tên văn hóa Bắc Sơn; là căn cứ địa kháng chiến, nơi nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, chống Nhật, chống Pháp của lực lượng Việt Minh những năm 1940. Huyện Bắc Sơn nằm vào khoảng giữa thành phố Lạng Sơn và thành phố Thái Nguyên, có độ cao trung bình 400 m so với mực nước biển, nằm gọn trong khu vực núi đá vôi, có diện tích từ nhiên là 699,42 km2,, phía tây tiếp giáp với huyện Võ Nhai của tỉnh Thái Nguyên, phía nam giáp với huyện Hữu Lũng, phía Bắc giáp với huyện Bình Gia, phía đông giáp với huyện Văn Quan. Huyện Bắc Sơn có 65.907 người gồm nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống tại 19 xã và 1 thị trấn. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Bắc Sơn. Địa hình Địa hình Bắc Sơn khá phức tạp vì có núi đá, núi đất tạo thành một vòng cung dốc nghiêng về phía Tây Nam, xen kẽ giữa các dãy núi đá vôi là các thung lũng khá bằng phẳng, độ cao trung bình so với mặt nước biển trên 400 m. Trên địa bàn Bắc Sơn có các ngọn núi cao từ 500-1.200 m như ngọn Khau Pi Ao (1107 m), ngọn Pa Lép (503 m)… Khí hậu Bắc Sơn có nhiệt độ bình quân khoảng 20,8 0 C, độ ẩm trên 82 %, lượng mưa trung bình 1.500 – 1.600 mm/năm. Bắc Sơn nằm trong vòng cung đá vôi Bắc Sơn nên ít bị ảnh hưởng của gió bão và sương muối. Tài nguyên Trên địa bàn Bắc Sơn có quặng bauxite ở Gia Hoà, Hương Sóc, Lân Hát, Lân Nà, Nà Nâm, Pia Cáng, Tân Hương; thuỷ ngân ở Bố Ngần; vàng sa khoáng ở Lân Khuyến, Lân Rào, Mỏ Nhài; đá ốp lát ở Vũ Sơn, Mỏ Hao, Vũ Lễ… Tiềm năng kinh tế Đất ở Bắc Sơn chủ yếu là đất đỏ vàng trên đất sét (chiếm trên 42% diện tích tự nhiên), đất đỏ vàng trên đá magma axit (chiếm trên 28%), đất vàng trên đá cát (chiếm 3,4%), đất phù sa (chiếm 1,2%) và các loại đất tụ dốc, đất nâu đỏ trên đá vôi… Đất đai của Bắc Sơn thích hợp trồng các loại cây như: quýt, lê, mận, mơ, ngô, khoai, sắn, hồi, quế… Trên địa bàn Bắc Sơn có quốc lộ 1B, tỉnh lộ 241 chạy qua. Văn hoá, xã hội Bắc Sơn có 20 đơn vị hành chính, bao gồm thị trấn Bắc Sơn và 19 xã: Nhất Tiến, Tân Thành, Nhất Hoà, Trấn Yên, Vũ Lăng, Tân Hương, Chiến Thắng, Vũ Lễ, Tân Tri, Vũ Sơn, Tân Lập, Chiêu Vũ, Hưng Vũ, Hữu Vĩnh, Bắc Sơn, Đồng Ý, Vạn Thuỷ, Long Đống và Quỳnh Sơn. Bắc Sơn là địa bàn sinh sống của 6 dân tộc gồm: Tày, Kinh, Dao, Nùng, Hoa, H’Mông. Người H’Mông ở Bắc Sơn sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương, trồng bắp và các loại cây ăn quả như: lê, mận, mơ, đào. Trang phục của người H’Mông được làm chủ yếu từ cây lanh có những hoạ tiết, hoa văn (hình chữ nhật, hình vuông, hình thoi, hình xoáy ốc) được thêu từ tơ tằm. Màu sắc chủ đạo là xanh, đỏ, đen, vàng. Trang phục truyền thống của phụ nữ H’Mông gồm áo (so) xẻ ngực, váy (ta), tấm vải che phía trước váy (xế), thắt lưng và xà cạp (khử lau). Áo của phụ nữ H’Mông có cổ phía trước hình chữ V, được nẹp thêm vải màu, phía sau là một bức thêu hình chữ nhật được trang trí hoa văn, hai ống tay áo thường được thêu hoa văn là những đường vằn ngang với đủ màu sắc. Váy của phụ nữ H’Mông có nhiều nếp gấp, rộng, thêu hoa văn ở chân váy. Phụ nữ H’Mông thường để tóc dài và quấn vòng quanh đầu rồi đội khăn. Nam giới H’Mông mặc quần màu đen, ống rộng có thắt lưng (lăng dua la). Vào những dịp lễ, tết, người H’Mông sử dụng khèn, đàn môi và cùng nhau múa khèn, múa ô, hát ống và chơi những trò chơi dân gian như: ném pao, đua ngựa, bắn nỏ, đẩy gậy, bắn cung.. người H’Mông có món đặc sản thắng cố với những gia vị độc đáo như thảo quả, mắc khén… Tiềm năng du lịch Đến Bắc Sơn, du khách có thể tham quan di tích lịch sử rừng Khuổi Nọi, nhà sàn Long Đống, thôn Mỏ Tất, đồn Mỏ Nhài, đèo Tam Canh, đình Nông Lục … và những thắng cảnh như: hang Nà Thi, hồ Tam Hoa, hồ Vũ Lăng, hồ Pác Mỏ, hang Pác Mỏ, hang Cốc Lỵ, hang Lân Pán, hang Nàng Tiên …
General introduction of Bac Son district Bac Son is a mountainous district of Lang Son province , belonging to the Bac Son arc of the Northeast region, is a district with many archaeological sites of prehistoric people, where archaeologists have discovered an entire ancient Vietnamese civilization and early Neolithic period called Bac Son culture; is the resistance base, where the Bac Son uprising, against Japan and against France by Viet Minh forces broke out in the 1940s. Bac Son district is located between Lang Son city and Thai Nguyen city, has an average altitude of 400 m above sea level, nestled in a limestone mountain area, with a natural area of ​​699.42 km2. , the west borders Vo Nhai district of Thai Nguyen province, the south borders Huu Lung district, the north borders Binh Gia district, the east borders Van Quan district. Bac Son district has 65,907 people including many ethnic groups living in 19 communes and 1 town. The district capital is located in Bac Son town. Topographic Bac Son's terrain is quite complex because there are rocky mountains and dirt mountains forming a sloping arc to the southwest. Interspersed between the limestone mountains are quite flat valleys with average altitudes above the water surface. sea ​​above 400 m. In Bac Son area, there are mountains from 500-1,200 m high such as Khau Pi Ao mountain (1107 m), Pa Lep mountain (503 m)... Climate Bac Son has an average temperature of about 20.8 0 C, humidity above 82%, average rainfall 1,500 - 1,600 mm/year. Bac Son is located in the Bac Son limestone arc, so it is less affected by storms and frost. Resources In Bac Son area, there are bauxite ores in Gia Hoa, Huong Soc, Lan Hat, Lan Na, Na Nam, Pia Cang, Tan Huong; mercury in Bo Ngan; placer gold in Lan Khuyen, Lan Rao, Mo Nhai mine; paving stones in Vu Son, Mo Hao, Vu Le... Economic potential Soil in Bac Son is mainly yellow-red soil on clay (accounting for over 42% of the natural area), yellow-red soil on acid magma rock (accounting for over 28%), yellow soil on sandstone (accounting for 3.4%). , alluvial soil (accounting for 1.2%) and sloping soils, red brown soil on limestone... Bac Son's land is suitable for growing trees such as tangerines, pears, plums, apricots, corn, potatoes, cassava, anise, cinnamon... In Bac Son area, National Highway 1B and Provincial Highway 241 run through. Culture, society Bac Son has 20 administrative units, including Bac Son town and 19 communes: Nhat Tien, Tan Thanh, Nhat Hoa, Tran Yen, Vu Lang, Tan Huong, Chien Thang, Vu Le, Tan Tri, Vu Son, Tan Lap, Chieu Vu, Hung Vu, Huu Vinh, Bac Son, Dong Y, Van Thuy, Long Dong and Quynh Son. Bac Son is inhabited by 6 ethnic groups including: Tay, Kinh, Dao, Nung, Hoa, H'Mong. The H'Mong people in Bac Son live mainly by growing upland rice, corn and fruit trees such as pears, plums, apricots, and peaches. The costumes of the H'Mong people are made mainly from flax with motifs and patterns (rectangles, squares, diamonds, spirals) embroidered from silk. Main colors are blue, red, black, yellow. The traditional costume of H'Mong women includes a shirt (so) with a slit in the chest, a skirt (ta), a cloth covering the front of the skirt (xe), a belt and leggings (remote). H'Mong women's shirts have a V-shaped front collar, covered with colored fabric, the back is a rectangular embroidered pattern, and the two sleeves are often embroidered with horizontal stripes. with all colors. H'Mong women's skirts have many folds, are wide, and have embroidered patterns on the skirt. H'Mong women often have long hair and wrap it around their heads and wear scarves. H'Mong men wear black, wide-leg pants with a belt (lang dua la). On holidays and New Year, H'Mong people use the flute and lip lute and together dance the flute, umbrella dance, pipe singing and play folk games such as pound throwing, horse racing, crossbow shooting, stick pushing, shooting. Also... the H'Mong people have the specialty dish Thang Co with unique spices such as cardamom, Mac Khen... Tourism potential Coming to Bac Son, visitors can visit the historical relics of Khuoi Noi forest, Long Dong stilt houses, Mo Tat village, Mo Nhai fort, Tam Canh pass, Nong Luc communal house... and landscapes such as: Na Thi cave, lake Tam Hoa, Vu Lang lake, Pac Mo lake, Pac Mo cave, Coc Ly cave, Lan Pan cave, Nang Tien cave...
Giới thiệu khái quát huyện Tràng Định Tràng Định nằm ở toạ độ địa lý 22°12’30’-22°18’30’ vĩ Bắc và 106°27’30’-106°30′ kinh Đông. – Phía Bắc giáp huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng – Phía Đông-Đông Bắc giáp huyện Long Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. – Phía Nam – Tây Nam giáp hai huyện Văn Lãng và Bình Gia của tỉnh Lạng Sơn . – Phía Tây giáp huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn. Tràng Định là huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Bắc của tỉnh Lạng Sơn, cách thành phố Lạng Sơn 67 km theo đường quốc lộ 4A. Nằm giữa thung lũng bên bờ sông Bắc Khê, thị trấn Thất Khê là đầu mối của các tuyến giao thông sang Trung Quốc, lên Cao Bằng, nối với đường 1B từ huyện Bình Gia đi tỉnh Thái Nguyên, đường quốc lộ 3B nối với tỉnh Bắc Kạn và đường về thành phố Lạng Sơn. Tràng Định có 3 con sông và 7 con suối có tổng chiều dài 1.020 km được phân bổ khá đồng đều khắp địa bàn huyện vừa tạo cho cảnh quan nơi đây thêm thơ mộng,hữu tình vừa tạo nên những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu và hệ thống tưới tiêu vô cùng thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Huyện Tràng Định có cửa khẩu Bình Nghi và cặp chợ biên giới Nà Nưa thuận tiện cho việc giao lưu,trao đổi buôn bán qua 2 huyện láng giềng là Long châu,Bằng tường thuộc khu tự tri dân tộc Choang ,Quảng tây Trung quốc, có nhiều tuyến đường bộ và đường sông thông thương với Trung Quốc. Tràng Định cũng như toàn tỉnh Lạng Sơn, nằm trọn trong lòng máng trũng nối Cộng hoà nhân dân Trung Hoa với Việt Nam và các nước ASEAN, từ trung tâm huyện lỵ Tràng Định đến Thủ đô Hà Nội chỉ có trên 220 km (khoảng 4 giờ đi ô tô) và đến thành phố Nam Ninh, thủ phủ của tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc trên 270 km (khoảng 4,5 giờ đi ô tô). Vị trí địa lý là một thế mạnh nổi bật của Tràng Định, thuận lợi cho việc giao lưu trao đổi hàng hóa, dịch vụ với Trung Quốc và thúc đẩy các hoạt động thương mại – du lịch trên địa bàn huyện. Khí hậu Huyện Tràng Định có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi. Hàng năm chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa nóng, ẩm bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa khô lạnh, ít mưa, khô hanh và rét kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 21,6oC. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối 39 oC , tối thấp tuyệt đối – 1,0 oC. Độ ẩm không khí bình quân năm là 82-84%. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng mưa trung bình năm là 1.155-1.600 mm. Lượng bốc hơi bình quân năm là 811 mm. Số giờ nắng trung bình năm là 1466 giờ. Số ngày có sương muối trong năm không đáng kể, chỉ 2 đến 3 ngày. Với nền nhiệt độ và số giờ nắng trung bình trong năm như trên cũng rất thuận lợi cho việc bố trí mùa vụ, bố trí cơ cấu các loại cây trồng, là điều kiện để phát triển đa dạng, phong phú các loại cây trồng ôn đới, á nhiệt đới. Tuy nhiên khí hậu Tràng Định cũng tương đối khắc nghiệt, do nằm trong lòng máng trũng đón gió mùa đông bắc nên mùa đông thường lạnh và khô, ảnh hưởng khá lớn đến sự sinh trưởng của các loại cây trồng. Địa hình Địa hình huyện Tràng Định bị chia cắt mạnh, có nhiều núi cao xen kẽ là các thung lũng ven sông suối và lân lũng núi đá vôi. Độ cao phổ biến là 200-500 m so với mực nước biển. Trên địa bàn huyện còn có các đỉnh cao 820, 636, 675 tập trung ở các xã biên giới, độ dốc trung bình 25-30 0 C. Hệ thống sông suối Tràng Định có hệ thống sông suối đa dạng trong đó có 3 hệ thống sông chính chi phối nguồn nước mặt của tỉnh, đó là: sông Kỳ Cùng, sông Bắc Giang (sông Văn Mịch) và sông Bắc Khê. Trong 3 hệ thống sông nói trên thì hệ thống sông Kỳ Cùng là tuyến sông lớn nhất tỉnh Lạng Sơn, bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa cao 1166 m, sông chảy theo hướng Đông Nam – Tây Bắc qua Lộc Bình, thành phố Lạng Sơn, Na Sầm và đến Thất Khê sông uốn khúc và chuyển hướng Tây Bắc – Đông Nam qua biên giới đổ vào đất Trung Quốc. Diện tích lưu vực 6.660 km2 với chiều dài dòng chính (tính đến biên giới Viêt Trung) 243 km. Lòng sông Kỳ Cùng rất dốc, nhiều thác ghềnh và lưu vực hẹp ngang, có nhiều sông suối nhỏ đổ vào, nên có tiềm năng phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ kết hợp tích nước, điều tiết thuỷ lợi cho sản xuất. Tràng Định còn có 7 con suối lớn và một mạng lưới khe rạch khá dày đặc, có khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và nước tưới cho cây trồng, phát triển các công trình thủy lợi, thủy điện nhỏ phục vụ sản xuất và đời sống. Hệ thống các hồ nước: Trên địa bàn huyện có 19 hồ nước lớn nhỏ với năng lực tưới thiết kế là 1.701,6 ha, các hồ nước chủ yếu là nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản phục vụ đời sống nhân dân. Tại huyện Tràng Định trữ lượng nước ngầm tuy không lớn nhưng chất lượng khá tốt, có một số điểm có thể khai thác nước để đóng chai làm nước uống với chất lượng cao ,hiện đã có những đánh giá cơ bản về chất lượng nguồn nước nguồn nước ngầm
General introduction of Trang Dinh district Trang Dinh is located at geographical coordinates 22°12'30'-22°18'30' North latitude and 106°27'30'-106°30' East longitude. – The North borders Thach An district, province As tall as – The East-Northeast borders Long Chau district, Guangxi, China. – The South - Southwest borders Van Lang and Binh Gia districts Lang Son province . – The West borders Na Ri district, Bac Kan province. Trang Dinh is a border highland district located in the North of Lang Son province, 67 km from Lang Son city along National Highway 4A. Located in the middle of the valley on the banks of the Bac Khe River, That Khe town is the focal point of traffic routes to China, to Cao Bang, connecting with road 1B from Binh Gia district to Thai Nguyen province, national highway 3B connecting to the province. Bac Kan and the way to Lang Son city. Trang Dinh has 3 rivers and 7 streams with a total length of 1,020 km, distributed quite evenly throughout the district, making the landscape more poetic and charming and creating fertile lands. and the irrigation system is extremely favorable for agricultural economic development. Trang Dinh district has Binh Nghi border gate and Na Nua border market pair, convenient for exchanges and trade through two neighboring districts, Long Chau and Bang Tuong, belonging to the Zhuang ethnic autonomous region, Guangxi, China. There are many land and river routes communicating with China. Trang Dinh, as well as the entire Lang Son province, is located entirely in the valley connecting the People's Republic of China with Vietnam and ASEAN countries. From the center of Trang Dinh district to Hanoi capital, there is only over 220 km (about 4 km). hour by car) and reach Nanning city, capital of Guangxi province - China over 270 km (about 4.5 hours by car). Geographical location is an outstanding strength of Trang Dinh, convenient for exchanging goods and services with China and promoting trade and tourism activities in the district. Climate Trang Dinh district has a tropical monsoon climate in the mountains. Every year is divided into two distinct seasons. The hot, humid season starts from April to October. The cold, dry season with little rain, dry and cold lasts from November to March of the following year. Average annual temperature is 21.6oC. Absolute maximum temperature 39 oC, absolute minimum temperature - 1.0 oC. The average annual air humidity is 82-84%. The rainy season lasts from April to September. The average annual rainfall is 1,155-1,600 mm. The average annual evaporation is 811 mm. The average number of sunshine hours per year is 1466 hours. The number of days with frost during the year is insignificant, only 2 to 3 days. With the above temperature and average number of hours of sunshine per year, it is also very favorable for crop arrangement and crop structure, creating conditions for the development of diverse and abundant temperate crops. tropical, subtropical. However, Trang Dinh's climate is also relatively harsh. Because it is located in a low trough that receives the northeast monsoon, the winter is often cold and dry, greatly affecting the growth of crops. Topographic Trang Dinh district's terrain is strongly divided, with many high mountains interspersed with valleys along rivers and streams and adjacent limestone valleys. Common altitude is 200-500 m above sea level. In the district there are also peaks 820, 636, 675 concentrated in border communes, average slope 25-30 0 C. River and stream system Trang Dinh has a diverse system of rivers and streams, including three main river systems that dominate the province's surface water resources: Ky Cung river, Bac Giang river (Van Mich river) and Bac Khe river. Of the three river systems mentioned above, the Ky Cung river system is the largest river route in Lang Son province, originating from the 1166 m high Bac Xa mountain area, flowing in a Southeast - Northwest direction through Loc Binh, Lang Son city. , Na Sam and reaching That Khe, the river meanders and turns Northwest - Southeast across the border into China. The basin area is 6,660 km2 with the length of the main stream (to the Vietnam-China border) 243 km. Ky Cung river bed is very steep, has many rapids and a narrow horizontal basin, with many small rivers and streams flowing into it, so it has the potential to develop small and medium hydropower combined with water storage and irrigation regulation for production. Trang Dinh also has 7 large streams and a quite dense network of canals, capable of providing water for daily life and irrigation for crops, developing irrigation works and small hydroelectric plants to serve production and consumption. life. System of lakes: There are 19 large and small lakes in the district with a designed irrigation capacity of 1,701.6 hectares. The lakes are mainly a reserve water source for agricultural production and aquaculture to serve people's life. In Trang Dinh district, although the underground water reserve is not large, the quality is quite good. There are some places where water can be exploited to bottle high-quality drinking water. There are currently basic assessments of water source quality. groundwater resources
Giới thiệu khái quát huyện Đình Lập Huyện Đình Lập nằm trên trục đường nối giữa thành phố Lạng Sơn và tỉnh Quảng Ninh , nối vùng biên giới Việt – Trung với tỉnh Bắc Giang và các tỉnh Đông Bắc Bộ của Việt Nam. Lịch sử hình thành Đình Lập trước kia là huyện của tỉnh Quảng Ninh, tháng 12/1978, Đình Lập được sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn. Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý Phía Tây Đình Lập giáp huyện Lộc Bình; phía Bắc giáp Trung Quốc; phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang. Địa hình Địa hình Đình Lập là đồi núi dốc theo hướng từ Đông Bắc xuống Tây Nam, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi đất và các khe suối tạo thành các dải đất bằng hẹp. Đình Lập là nơi bắt nguồn của 2 con sông lớn, sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ xã Bắc Xa, chảy theo hướng Đông Bắc qua Lộc Bình, thành phố Lạng Sơn, Thất Khê tới biên giới Trung Quốc, chiều dài chảy qua địa bàn Đình Lập khoảng 40 km; sông Lục Nam bắt nguồn từ xã Đình Lập, chảy về phía Nam tỉnh Bắc Giang, chiều dài chảy sông chảy qua huyện là 50 km. Ngoài 2 con sông lớn kể trên, Đình Lập còn có 2 sông ngắn là Đông Khuy và sông Tiên Yên cùng các con sông, khe suối nhỏ nằm rải rác trên địa bàn. Khí hậu Đình Lập có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm là 21,4 o C, lượng mưa trung bình 1,448mm; độ ẩm trung bình là 62%. Tài nguyên Ở Đình Lập đã phát hiện có Barit. Điều kiện kinh tế, xã hội Tiềm năng kinh tế Với trên 20.000 ha rừng, Đình Lập là nơi sản xuất, chế biến gỗ thông lớn nhất tỉnh Lạng Sơn. Đình Lập có tiểu vùng khí hậu thích hợp cho phát triển các loại cây lâm nghiệp như: thông, chè, hoa hồi, đinh, lim… và nhiều cây dược liệu quý như: mộc nhĩ, nấm hương, sở… Đình Lập có mô hình kinh tế vườn đồi, vườn rừng, vườn chè ở các xã Lâm Ca, Thái Bình; cây hồi ở các xã Bắc Xa, Kiên Mộc, Bính Xá, Đình Lập. Ngòai ra, Đình Lập còn có diện tích đồng cỏ khá lớn, mật độ cỏ che phủ đạt 70%, thích hợp cho phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò) và gia cầm. Trên địa bàn huyện Đình Lập có 4 loại đất, chủ yếu là đất mùn vàng nhạt trên đá cát (Fq): 28.849 ha, đất đỏ vàng trên đá sét (Fs): 86.380 ha, đất phù sa ngòi suối (Py): 120 ha, đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D): 1.333 ha. Đình Lập có quốc lộ 4B chạy qua địa bàn huyện dài 42 km nối Quảng Ninh xuyên qua Lạng Sơn lên Cao Bằng , đường số 31 dài 62 km chạy từ Bắc Giang qua trung tâm huyện Đình Lập nối với cửa khẩu Bản Chắt và hệ thống đường liên huyện và đường liên thôn. Văn hoá, xã hội Diện tích: 1.182,7km 2 Dân số: 26.600 (2004) Mật độ dân số: 22 người/km 2 Đình Lập có 12 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn Đình Lập, Nông Trường Thái Bình và 10 xã: Bình Xá, Bắc Xa, Kiên Mộc, Đình Lập, Thái Bình, Cường Lợi, Châu Sơn, Đồng Thắng, Bắc Lãng và Lâm Ca. Đình Lập là địa bàn sinh sống của các dân tộc: Tày, Nùng, Kinh, Dao, Sán Chỉ… Người Tày sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, họ biết thâm canh và đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Người Tày thường đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ (loỏng) rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa nương, hoa màu, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm (chủ yếu là nuôi thả rông chứ không nuôi nhốt như người Kinh). Ngoài ra, người Tày còn có nghề thủ công là dệt thổ cẩm. Y phục truyền thống của người Tày chủ yếu được làm từ vải tự dệt, nhuộm chàm và rất ít thêu thùa, trang trí. Phụ nữ Tày thường mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài Người Tày rất thích hát lượn (lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới), phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người Tày thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến thăm bản. Ngoài lượn, trong các dịp lễ hội, người Tày thường tham dự những trò chơi như: ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng…
General introduction of Dinh Lap district Dinh Lap district is located on the road connecting Lang Son city and Lang Son city Quang Ninh Province , connecting the Vietnam - China border area with Bac Giang province and the Northeastern provinces of Vietnam. History begin Dinh Lap was formerly a district of Quang Ninh province. In December 1978, Dinh Lap was merged into Lang Son province. Natural condition Geographical location The west of Dinh Lap borders Loc Binh district; the North borders China; The Southeast borders Quang Ninh province; The south borders Bac Giang province. Topographic Dinh Lap's terrain is steep hills and mountains from Northeast to Southwest, strongly divided by mountain ranges and streams forming narrow strips of flat land. Dinh Lap is the origin of two large rivers, Ky Cung River originates from Bac Xa commune, flows northeast through Loc Binh, Lang Son city, That Khe to the Chinese border, its length flows through the area. Dinh Lap is about 40 km; Luc Nam River originates from Dinh Lap commune, flows south of Bac Giang province, the length of the river flowing through the district is 50 km. In addition to the two large rivers mentioned above, Dinh Lap also has two short rivers, Dong Khuy and Tien Yen river, along with small rivers and streams scattered throughout the area. Climate Dinh Lap has a tropical monsoon climate, with an average annual temperature of 21.4 o C, average rainfall 1,448mm; Average humidity is 62%. Resources In Dinh Lap, Barite was discovered. Social and economic conditions Economic potential With over 20,000 hectares of forest, Dinh Lap is the largest pine wood production and processing place in Lang Son province. Dinh Lap has a sub-climate suitable for growing forestry plants such as: pine, tea, star anise, nails, ironwood... and many precious medicinal plants such as: wood ear, shiitake mushroom, chrysanthemum... Dinh Lap has a economic model of hill gardens, forest gardens, and tea gardens in Lam Ca and Thai Binh communes; anise trees in Bac Xa, Kien Moc, Binh Xa, Dinh Lap communes. In addition, Dinh Lap also has a fairly large grassland area, grass cover density reaches 70%, suitable for the development of livestock (buffalo, cow) and poultry farming. In Dinh Lap district, there are 4 types of soil, mainly light yellow humus soil on sandstone (Fq): 28,849 ha, yellow red soil on clay rock (Fs): 86,380 ha, alluvial soil in streams (Py): 120 hectares, valley land due to sloping products (D): 1,333 hectares. Dinh Lap has National Highway 4B running through the district, 42 km long, connecting Quang Ninh through Lang Son to As tall as , Road Không. 31 is 62 km long running from Bac Giang through the center of Dinh Lap district connecting to Ban Chat border gate and a system of inter-district and inter-village roads. Culture, society Area: 1,182.7km 2 Population: 26,600 (2004) Population density: 22 people/km 2 Dinh Lap has 12 administrative units including 2 towns of Dinh Lap, Nong Truong Thai Binh and 10 communes: Binh Xa, Bac Xa, Kien Moc, Dinh Lap, Thai Binh, Cuong Loi, Chau Son, Dong Thang, Bac Lang and Lam Ca. Dinh Lap is the living area of ​​ethnic groups: Tay, Nung, Kinh, Dao, San Chi... The Tay people live mainly by cultivating wet rice. They know how to cultivate intensively and dig ditches, build troughs, embankment, and make sand to get water to irrigate the fields. Tay people often thresh rice in the fields on wooden troughs and then use the rope to carry the rice home. In addition to wet rice, the Tay also grow upland rice, crops, fruit trees, and raise cattle and poultry (mainly free-range, not in captivity like the Kinh people). In addition, the Tay people also have a craft called brocade weaving. The traditional clothes of the Tay people are mainly made from self-woven fabric, dyed indigo and have very little embroidery or decoration. Tay women often wear skirts or pants, with a short blouse inside and a long shirt outside The Tay people love to sing Luon Loi, Luong Sluong, Luon Then, Luon Nang Oi, Phong slu, Phuoi Pac, Phuoi soi, Veen eng... which is a love-making singing style that is widely popular in many regions. Tay people often hang out at long tong festivals, at weddings, to celebrate a new home, or when guests come to visit the village. In addition to surfing, during festivals, Tay people often participate in games such as shuttlecock throwing, badminton, tug of war, lion dance, Chinese chess...
Giới thiệu khái quát huyện Bình Gia Huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn là huyện vùng cao miền núi, cách trung tâm thành phố Lạng Sơn 75 km, theo hướng Tây Bắc, có 5 dân tộc chính là: Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa cùng sinh sống. Nền văn hoá cơ bản của Bình Gia là nền văn hoá Nùng – Tày, đó là nền văn hoá bản địa gắn liền với sự phát triển và tồn tại của xã hội, vừa phong phú, đa dạng. Hơn thế nữa, huyện Bình Gia còn có rất nhiều các di tích lịch sử cách mạng, di tích, danh thắng, khảo cổ học, di tích kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng, nhất là huyện có tuyến quốc lộ 1B đi từ Thành phố Lạng Sơn sang Thành phố Thái Nguyên; tuyến đường 226, 279 nối liền với các huyện bạn, tỉnh bạn (như: huyện Na Rì – Bắc Kạn; huyện Bắc Sơn, Tràng Định, Văn Quan, Văn Lãng – tỉnh Lạng Sơn), tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế – văn hoá giữa các vùng miền trong, ngoài huyện cũng như trong và ngoài tỉnh. Từ những đặc điểm về vị trí địa lý, tiềm năng về văn hóa dân tộc bản địa, tiềm năng về du lịch, địa phương có chủ trương phát triển kinh tế, gắn với bảo tồn, gìn giữ phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch. – Hành chính: Huyện gồm 19 xã và 1 thị trấn: Thị trấn Bình Gia Xã Tô Hiệu Xã Hoàng Văn Thụ Xã Tân Văn Xã Hồng Thái Xã Mông Ân Xã Hồng Phong Xã Thiện Hòa Xã Thiện Long Xã Thiện Thuật Xã Yên Lỗ Xã Hưng Đạo Xã Hoa Thám Xã Bình La Xã Minh Khai Xã Quang Trung Xã Quý Hòa Xã Tân Hòa Xã Hòa Bình Xã Vĩnh Yên – Xã hội Sinh sống trên địa bàn Bình Gia bao gồm các dân tộc: Người Việt (Kinh), người Nùng, người Tày, người Dao, người Hoa… Mỗi dân tộc có những sắc thái văn hóa khác nhau. Huyện có hệ thống chợ: Chợ thị trấn Bình Gia, chợ Pác Khuông thuộc xã Thiện Thuật, chợ Văn Mịch thuộc xã Hồng Phong. Trong đó chợ chính là chợ thị trấn Binh Gia, họp chính 5 ngày một lần vào các ngày mùng 1, 6, 11, 16, 21, 26 hàng tháng theo âm lịch. Chợ Pác Khuông họp vào các ngày 5, 10, 15, 20, 25, 30 (âm lịch). Chợ Bình Gia là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán chủ yếu của nhân dân trong huyện. Bình Gia có hệ thống hang động phong phú: gồm có các hang lớn là Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng… Đã phát hiện ra di chỉ của người Việt cổ và có hang bây giờ còn chứa khung giàn tên lửa… Ẩm thực Bình Gia mang những nét đặc trưng của ẩm thực Lạng Sơn với các món như: lợn quay, vịt quay, khâu nhục, bánh dày, bánh chưng dài… Đặc biệt trong các món quay không thể thiếu là Mắc Mật (là lá một loại cây mọc nhiều ở Lạng Sơn, có quả ăn rất ngon, vị ngọt). Do là một huyện thuộc vùng núi nên hệ thống sông ngòi của Bình Gia chủ yếu là các suối nhỏ, có một sông lớn là sông Văn Mịch (theo tên địa phương), có đập Phai Danh (cung cấp nước tưới tiêu thực hiện thủy lợi của nhân dân khu vực lân cận). – Giao thông Quốc lộ 1B nối Lạng Sơn & Thái Nguyên chạy qua huyện Bình Gia có độ dài khoảng 170 km. Quốc lộ 279 nối Thị trấn Bình Gia với huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. – Giáo dục Có 2 trường trung học phổ thông thuộc Sở giáo dục & đào tạo Lạng Sơn. Trường Trung học Phổ thông Bình Gia. Địa chỉ: Xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia. Trường Trung học Phổ thông Pác Khuông. Địa chỉ: Xã Thiện Thuật, huyện Bình Gia. Có 20 trường THCS tại thị trấn & các xã trực thuộc Phòng Giáo dục Đào tạo huyện Bình Gia.
General introduction of Binh Gia district Binh Gia District, Lang Son province is a mountainous district, 75 km from Lang Son city center, in the Northwest direction, with 5 main ethnic groups: Nung, Tay, Kinh, Dao, Hoa living together. The basic culture of Binh Gia is the Nung - Tay culture, which is an indigenous culture associated with the development and existence of society, both rich and diverse. Moreover, Binh Gia district also has many revolutionary historical relics, monuments, landscapes, archeology, religious and religious architectural relics, especially the district with National Highway 1B going from the City. Lang Son to Thai Nguyen City; Routes 226 and 279 connect with other districts and provinces (such as: Na Ri district - Bac Kan; Bac Son, Trang Dinh, Van Quan, Van Lang districts - Lang Son province), creating favorable conditions for transportation. Economic and cultural circulation between regions inside and outside the district as well as inside and outside the province. From the characteristics of geographical location, indigenous cultural potential, and tourism potential, the locality has a policy of economic development, associated with conservation, preservation and promotion of cultural heritage values. associated with tourism development. – Administration: The district includes 19 communes and 1 town: Binh Gia town To Hieu Commune Hoang Van Thu commune Tan Van commune Hong Thai commune Mong An commune Hong Phong commune Thien Hoa Commune Thien Long commune Thien Thuat Commune Yen Lo commune Hung Dao Commune Hoa Tham commune Binh La commune Minh Khai commune Quang Trung commune Quy Hoa commune Tan Hoa commune Hoa Binh commune Vinh Yen commune - Society Living in Binh Gia area include ethnic groups: Viet (Kinh), Nung, Tay, Dao, Chinese... Each ethnic group has different cultural nuances. The district has a market system: Binh Gia town market, Pac Khuong market in Thien Thuat commune, Van Mich market in Hong Phong commune. The main market is Binh Gia town market, meeting every 5 days on the 1st, 6th, 11th, 16th, 21st, 26th of every lunar month. Pac Khuong Market opens on the 5th, 10th, 15th, 20th, 25th, 30th (lunar calendar). Binh Gia Market is where the main buying and selling activities of people in the district take place. Binh Gia has a rich cave system: including large caves Tham Khuyen, Tham Hai, Keo Leng... Ancient Vietnamese relics have been discovered and some caves now contain rocket frames... Binh Gia Cuisine Gia brings the typical features of Lang Son cuisine with dishes such as: roast pig, roast duck, squid, banh day, banh chung... Especially in roasted dishes, the indispensable dish is Mac Mat (a leaf of a tree). Grows a lot in Lang Son, has very delicious and sweet fruit.) Because it is a mountainous district, Binh Gia's river system is mainly small streams, there is one large river called Van Mich river (according to the local name), there is Phai Danh dam (which provides irrigation water for irrigation purposes). benefit of the people in the surrounding area). - Traffic National Highway 1B connecting Lang Son & Thai Nguyen runs through Binh Gia district with a length of about 170 km. National Highway 279 connects Binh Gia Town with Na Ri district, Bac Kan province. - Education There are 2 high schools under the Lang Son Department of Education and Training. Binh Gia High School. Address: To Hieu commune, Binh Gia district. Pac Khuong High School. Address: Thien Thuat commune, Binh Gia district. There are 20 secondary schools in towns and communes directly under the Department of Education and Training of Binh Gia district.
Giới thiệu khái quát thành phố Lạng Sơn Thành phố Lạng Sơn là đô thị loại III của tỉnh Lạng Sơn , có diện tích khoảng 78.11 km². Thành phố nằm bên quốc lộ 1A, cách biên giới Việt Nam – Trung Quốc18 km; cách Hữu Nghị quan 15 km và Đồng Đăng 13 km về phía đông bắc. Dân số của thành phố năm 2014 là 92.200người, với nhiều dân tộc khác nhau như: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao, Mường, Sán Dìu, Sán Chỉ,… Thành phố nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhiệt độ trung bình hàng năm 21 độ C, độ ẩm trung bình 80%, lượng mưa trung bình năm là 1439 mm. Bao gồm 5 phường và 3 xã: phường Hoàng Văn Thụ, phường Vĩnh Trại, phường Tam Thanh, phường Chi Lăng, phường Đông Kinh, xã Mai Pha, xã Quảng Lạc, xã Hoàng Đồng. Vị trí địa lý: Phía Bắc giáp xã Thạch Đạn, Thụy Hùng – huyện Cao Lộc. Phía Nam giáp xã Tân Thành, Yên Trạch – huyện Cao Lộc và xã Vân Thủy – huyện Chi Lăng Phía Đông giáp thị trấn Cao Lộc và các xã Gia Cát, Hợp Thành, Tân Liên – huyện Cao Lộc. Phía Tây giáp xã Xuân Long – huyện Cao Lộc và xã Đồng Giáp – huyện Văn Quan. Thành phố Lạng Sơn – vùng đất đã trải qua thời kỳ Châu lỵ, Trấn lỵ và đến năm 1925 được thành lập, trở thành thị xã tỉnh lỵ, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của Tỉnh. Đây là nơi có nhiều hang động, di tích lịch sử nổi tiếng như quần thể hang động Nhất, Nhị, Tam Thanh, Nàng Tô Thị, Thành Nhà Mạc, Chùa Tiên, Giếng Tiên… cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc đã từng hấp dẫn khách bốn phương từ ngàn xưa. Sự hội tụ của các điều kiện địa lý, thiên nhiên, hoàn cảnh lịch sử và con người đã tạo cho Thành phố Lạng Sơn thế mạnh phát triển đô thị, trở thành trung tâm Chính trị – Kinh tế – Văn hoá của tỉnh Lạng Sơn và vùng Đông Bắc Tổ quốc. Thành phố Lạng Sơn thuộc loại hình đô thị thương mại ra đời từ khá sớm, được hình thành theo phương thức “Thị” có trước ” đô ” có sau. Đây là nơi có những địa danh nổi tiếng đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam với những lời ca mượt mà, tha thiết: ” Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh Ai lên xứ Lạng cùng anh Bõ công bác mẹ sinh thành ra em Tay cầm bầu rượu nắm nem Mảng vui quên hết lời em dặn dò “ Ngày nay Thành phố Lạng Sơn là một Thành phố trẻ, Thành phố thương mại cửa khẩu đang trên đà phát triển sôi động, là cửa ngõ giao lưu Kinh tế – Văn hoá của cả nước với đất nước Trung Quốc và các nước Đông Âu, là địa bàn quan trọng có mối quan hệ mật thiết với vùng tam giác kinh tế trọng điểm của miền bắc Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Thành phố Lạng Sơn nằm ở vị trí từ 21, 45 đến 22 độ vĩ Bắc, 106, 39 đến 107, 03 độ kinh Đông. Có diện tích tự nhiên 79,18km2. Cách Thủ đô Hà Nội 154km, cách cửa khẩu Quốc tế Hữu nghị 14km và cách 5 cặp chợ đường biên Việt – Trung thuộc huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng từ 25 đến 30km. Dân số của Thành phố ước tính có hơn 10 vạn người với 104 khối thôn được chia thành 8 đơn vị hành chính ( 05 phường, 03 xã ). Cơ cấu kinh tế của Thành phố chủ yếu là phát triển thương mại du lịch dịch vụ (chiếm 59,8%), công nghiệp – XD (chiếm 35,5%) và nông lâm nghiệp (chiếm 4,7%). GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 14,9 triệu đồng/người/năm. Hoạt động của các thành phần kinh tế phát triển ổn định, phong phú và đa dạng. Hiện Thành phố có hơn 300 doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, hơn 4.000 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Trong thời gian qua, có thể nói những thay đổi về cơ sở hạ tầng đô thị đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Thành phố. Năm 2000, Thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại III. Thực hiện đề án thành lập Thành phố, giai đoạn 2000-2002 Thị xã đã được đầu tư hơn 450 tỷ đồng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến thiết đô thị. Sau khi được đầu tư, hệ thống các công trình hạ tầng cơ sở trên địa bàn đã được cải thiện đáng kể, góp phần làm thay đổi diện mạo của Thị xã. Tháng 10/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Thành phố Lạng Sơn. Hiện nay, hệ thống giao thông của Thành phố đã được đầu tư thêm 21,7km, nâng cấp 26,15km mặt đường đổ bê tông xi măng hoặc bê tông nhựa, nâng tổng chiều dài của hệ thống giao thông thành phố lên 125,5km, trong đó có 48,4km đường cao cấp. Đặc biệt quốc lộ 1A được đầu tư nâng cấp thành đường cao tốc với 3 làn xe theo dự án của Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa Lạng Sơn và các địa phương khác. Hệ thống điện sinh hoạt của Thành phố hiện có 2.397 km đường dây, 527 trạm biến áp. Điện chiếu sáng đô thị có hơn 36 km và 5 trạm biến áp. Hệ thống cấp nước sinh hoạt hiện có 11 giếng khoan, 50km đường ống f >100, 80km đường ống f <100. Hệ thống thoát nước có 10,2km đường ống, 2km mương, 580 hố ga. Hệ thống thuỷ lợi hiện có 06 hồ đập lớn nhỏ, 11 trạm bơm. Thực hiện tốt chương trình kiên cố hoá kênh mương, đến nay cơ bản đã kiên cố hoá được hệ thống mương thuỷ lợi trên địa bàn Thành phố. Số trường học hiện có trên địa bàn là 25 trường, bao gồm: 08 trường Tiểu học, 07 trường Trung học cơ sở, 02 trường Phổ thông cơ sở (cấp I + II), 04 trường Trung học phổ thông; 04 trường Trung học chuyên nghiệp. Về Y tế, có 04 bệnh viện cấp Tỉnh, 01 Trung tâm Y tế thành phố và 08 trạm y tế của 08 phường, xã. Cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại du lịch cũng có những thay đổi mạnh mẽ, bước đầu đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ Thành phố. Nhiều khu di tích văn hoá – lịch sử, danh lam thắng cảnh đã được đầu tư, tôn tạo như: Khu di tích Thành nhà Mạc, khu di tích Nhất Nhị Tam Thanh, Chùa Tiên… Đầu tư xây dựng các công trình phục vụ phát triển du lịch như: kè bờ sông Kỳ Cùng, kè suối Lao Ly, cải tạo công viên Hồ Phai Loạn, xây dựng Khu du lịch sinh thái hồ Nà Tâm, hồ Thâm Sỉnh, Khu du lịch sinh thái Đèo Giang – Văn Vỉ … nhằm tạo ra các điểm du lịch hấp dẫn, thu hút khách đến tham quan, du lịch trên địa bàn. Hệ thống cơ sở lưu trú phục vụ du lịch hiện có hơn 800 cơ sở hoạt động kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng trên địa bàn. Một số công trình phục vụ cho sự phát triển thương mại – du lịch – dịch vụ đã và sẽ tiếp tục được triển khai như: Khu vui chơi giải trí liên doanh quốc tế, dự án Công viên nước, khách sạn 3 sao, dự án cải tạo, nâng cấp chợ truyền thống Kỳ Lừa… Hiện Thành phố hiện có 03 chợ chính: chợ Đông Kinh (diện tích sàn 15.000m2), chợ Kỳ Lừa (diện tích sàn 10.000m2), chợ Chi Lăng (diện tích 2.000m2) và một số chợ cóc, chợ xép, chợ khu vực khác, trong đó chợ Đông Kinh là một trong những điểm đến rất hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài Tỉnh đến tham quan, mua sắm. Do ảnh hưởng của tốc độ đô thị hoá nhanh, nhu cầu về nhà ở của nhân dân ngày càng bức xúc, trong thời gian qua Tỉnh và Thành phố đã ưu tiên dành nguồn vốn đầu tư để triển khai xây dựng nhiều khu tái định cư, khu dân cư, khu đô thị mới trên địa bàn. Những thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng của Thành phố đã từng bước cải thiện diện mạo đô thị, tạo ra nền tảng để thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư vào Thành phố nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của Thành phố về phát triển kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ. Lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 còn 3,67% (theo tiêu chí mới), hộ giàu và khá chiếm trên 40%. 100% thôn bản có điện lưới quốc gia, 100% số hộ được nghe đài phát thanh, trên 95% số hộ được xem truyền hình, tỷ lệ thôn bản được dùng nước sạch chiếm khoảng 85%. Chất lượng giáo dục – đào tạo ngày càng được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bình quân từ 98-100%, số học sinh giỏi hàng năm đều tăng. Đảm bảo các chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, Dân số, Gia đình và trẻ em. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ổn định ở mức 0,9%/năm. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 16% vào năm 2005. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT-XH. Hệ thống chính trị từ Thành phố đến cơ sở được tăng cường, củng cố vững mạnh, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Giới thiệu khái quát thành phố Lạng Sơn Thành phố Lạng Sơn là đô thị loại III của tỉnh Lạng Sơn , có diện tích khoảng 78.11 km². Thành phố nằm bên quốc lộ 1A, cách biên giới Việt Nam – Trung Quốc18 km; cách Hữu Nghị quan 15 km và Đồng Đăng 13 km về phía đông bắc. Dân số của thành phố năm 2014 là 92.200người, với nhiều dân tộc khác nhau như: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao, Mường, Sán Dìu, Sán Chỉ,… Thành phố nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhiệt độ trung bình hàng năm 21 độ C, độ ẩm trung bình 80%, lượng mưa trung bình năm là 1439 mm. Bao gồm 5 phường và 3 xã: phường Hoàng Văn Thụ, phường Vĩnh Trại, phường Tam Thanh, phường Chi Lăng, phường Đông Kinh, xã Mai Pha, xã Quảng Lạc, xã Hoàng Đồng. Vị trí địa lý: Phía Bắc giáp xã Thạch Đạn, Thụy Hùng – huyện Cao Lộc. Phía Nam giáp xã Tân Thành, Yên Trạch – huyện Cao Lộc và xã Vân Thủy – huyện Chi Lăng Phía Đông giáp thị trấn Cao Lộc và các xã Gia Cát, Hợp Thành, Tân Liên – huyện Cao Lộc. Phía Tây giáp xã Xuân Long – huyện Cao Lộc và xã Đồng Giáp – huyện Văn Quan. Thành phố Lạng Sơn – vùng đất đã trải qua thời kỳ Châu lỵ, Trấn lỵ và đến năm 1925 được thành lập, trở thành thị xã tỉnh lỵ, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của Tỉnh. Đây là nơi có nhiều hang động, di tích lịch sử nổi tiếng như quần thể hang động Nhất, Nhị, Tam Thanh, Nàng Tô Thị, Thành Nhà Mạc, Chùa Tiên, Giếng Tiên… cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc đã từng hấp dẫn khách bốn phương từ ngàn xưa. Sự hội tụ của các điều kiện địa lý, thiên nhiên, hoàn cảnh lịch sử và con người đã tạo cho Thành phố Lạng Sơn thế mạnh phát triển đô thị, trở thành trung tâm Chính trị – Kinh tế – Văn hoá của tỉnh Lạng Sơn và vùng Đông Bắc Tổ quốc. Thành phố Lạng Sơn thuộc loại hình đô thị thương mại ra đời từ khá sớm, được hình thành theo phương thức “Thị” có trước ” đô ” có sau. Đây là nơi có những địa danh nổi tiếng đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam với những lời ca mượt mà, tha thiết: ” Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh Ai lên xứ Lạng cùng anh Bõ công bác mẹ sinh thành ra em Tay cầm bầu rượu nắm nem Mảng vui quên hết lời em dặn dò “ Ngày nay Thành phố Lạng Sơn là một Thành phố trẻ, Thành phố thương mại cửa khẩu đang trên đà phát triển sôi động, là cửa ngõ giao lưu Kinh tế – Văn hoá của cả nước với đất nước Trung Quốc và các nước Đông Âu, là địa bàn quan trọng có mối quan hệ mật thiết với vùng tam giác kinh tế trọng điểm của miền bắc Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Thành phố Lạng Sơn nằm ở vị trí từ 21, 45 đến 22 độ vĩ Bắc, 106, 39 đến 107, 03 độ kinh Đông. Có diện tích tự nhiên 79,18km2. Cách Thủ đô Hà Nội 154km, cách cửa khẩu Quốc tế Hữu nghị 14km và cách 5 cặp chợ đường biên Việt – Trung thuộc huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng từ 25 đến 30km. Dân số của Thành phố ước tính có hơn 10 vạn người với 104 khối thôn được chia thành 8 đơn vị hành chính ( 05 phường, 03 xã ). Cơ cấu kinh tế của Thành phố chủ yếu là phát triển thương mại du lịch dịch vụ (chiếm 59,8%), công nghiệp – XD (chiếm 35,5%) và nông lâm nghiệp (chiếm 4,7%). GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 14,9 triệu đồng/người/năm. Hoạt động của các thành phần kinh tế phát triển ổn định, phong phú và đa dạng. Hiện Thành phố có hơn 300 doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, hơn 4.000 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Trong thời gian qua, có thể nói những thay đổi về cơ sở hạ tầng đô thị đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Thành phố. Năm 2000, Thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại III. Thực hiện đề án thành lập Thành phố, giai đoạn 2000-2002 Thị xã đã được đầu tư hơn 450 tỷ đồng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến thiết đô thị. Sau khi được đầu tư, hệ thống các công trình hạ tầng cơ sở trên địa bàn đã được cải thiện đáng kể, góp phần làm thay đổi diện mạo của Thị xã. Tháng 10/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Thành phố Lạng Sơn. Hiện nay, hệ thống giao thông của Thành phố đã được đầu tư thêm 21,7km, nâng cấp 26,15km mặt đường đổ bê tông xi măng hoặc bê tông nhựa, nâng tổng chiều dài của hệ thống giao thông thành phố lên 125,5km, trong đó có 48,4km đường cao cấp. Đặc biệt quốc lộ 1A được đầu tư nâng cấp thành đường cao tốc với 3 làn xe theo dự án của Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa Lạng Sơn và các địa phương khác. Hệ thống điện sinh hoạt của Thành phố hiện có 2.397 km đường dây, 527 trạm biến áp. Điện chiếu sáng đô thị có hơn 36 km và 5 trạm biến áp. Hệ thống cấp nước sinh hoạt hiện có 11 giếng khoan, 50km đường ống f >100, 80km đường ống f <100. Hệ thống thoát nước có 10,2km đường ống, 2km mương, 580 hố ga. Hệ thống thuỷ lợi hiện có 06 hồ đập lớn nhỏ, 11 trạm bơm. Thực hiện tốt chương trình kiên cố hoá kênh mương, đến nay cơ bản đã kiên cố hoá được hệ thống mương thuỷ lợi trên địa bàn Thành phố. Số trường học hiện có trên địa bàn là 25 trường, bao gồm: 08 trường Tiểu học, 07 trường Trung học cơ sở, 02 trường Phổ thông cơ sở (cấp I + II), 04 trường Trung học phổ thông; 04 trường Trung học chuyên nghiệp. Về Y tế, có 04 bệnh viện cấp Tỉnh, 01 Trung tâm Y tế thành phố và 08 trạm y tế của 08 phường, xã. Cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại du lịch cũng có những thay đổi mạnh mẽ, bước đầu đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ Thành phố. Nhiều khu di tích văn hoá – lịch sử, danh lam thắng cảnh đã được đầu tư, tôn tạo như: Khu di tích Thành nhà Mạc, khu di tích Nhất Nhị Tam Thanh, Chùa Tiên… Đầu tư xây dựng các công trình phục vụ phát triển du lịch như: kè bờ sông Kỳ Cùng, kè suối Lao Ly, cải tạo công viên Hồ Phai Loạn, xây dựng Khu du lịch sinh thái hồ Nà Tâm, hồ Thâm Sỉnh, Khu du lịch sinh thái Đèo Giang – Văn Vỉ … nhằm tạo ra các điểm du lịch hấp dẫn, thu hút khách đến tham quan, du lịch trên địa bàn. Hệ thống cơ sở lưu trú phục vụ du lịch hiện có hơn 800 cơ sở hoạt động kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng trên địa bàn. Một số công trình phục vụ cho sự phát triển thương mại – du lịch – dịch vụ đã và sẽ tiếp tục được triển khai như: Khu vui chơi giải trí liên doanh quốc tế, dự án Công viên nước, khách sạn 3 sao, dự án cải tạo, nâng cấp chợ truyền thống Kỳ Lừa… Hiện Thành phố hiện có 03 chợ chính: chợ Đông Kinh (diện tích sàn 15.000m2), chợ Kỳ Lừa (diện tích sàn 10.000m2), chợ Chi Lăng (diện tích 2.000m2) và một số chợ cóc, chợ xép, chợ khu vực khác, trong đó chợ Đông Kinh là một trong những điểm đến rất hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài Tỉnh đến tham quan, mua sắm. Do ảnh hưởng của tốc độ đô thị hoá nhanh, nhu cầu về nhà ở của nhân dân ngày càng bức xúc, trong thời gian qua Tỉnh và Thành phố đã ưu tiên dành nguồn vốn đầu tư để triển khai xây dựng nhiều khu tái định cư, khu dân cư, khu đô thị mới trên địa bàn. Những thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng của Thành phố đã từng bước cải thiện diện mạo đô thị, tạo ra nền tảng để thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư vào Thành phố nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của Thành phố về phát triển kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ. Lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 còn 3,67% (theo tiêu chí mới), hộ giàu và khá chiếm trên 40%. 100% thôn bản có điện lưới quốc gia, 100% số hộ được nghe đài phát thanh, trên 95% số hộ được xem truyền hình, tỷ lệ thôn bản được dùng nước sạch chiếm khoảng 85%. Chất lượng giáo dục – đào tạo ngày càng được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bình quân từ 98-100%, số học sinh giỏi hàng năm đều tăng. Đảm bảo các chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, Dân số, Gia đình và trẻ em. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ổn định ở mức 0,9%/năm. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 16% vào năm 2005. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT-XH. Hệ thống chính trị từ Thành phố đến cơ sở được tăng cường, củng cố vững mạnh, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Giới thiệu khái quát huyện Mường Khương Trên không gian trải rộng 55.614,53 ha của huyện Mường Khương có tới 3 tiểu vùng khí hậu: nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. Đất trời đã phú cho huyện khả năng phát triển một nền nông nghiệp háng hoá đa dạng về sản phẩm. Những đặc sản nông nghiệp nổi tiếng nhất của Mường Khương là: gạo Séng Cù, đậu tương vàng và lợn ỷ Mường Khương, dứa Bản Lầu, chè tuyết shan Thanh Bình, mận hậu Cao Sơn, lê Pha Long, tương ớt, thảo quả, tam thất… Với hướng phát triển bền vững, phần lớn những sản phẩm trên đang được xây dựng thương hiệu, gắn vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến. Mường Khương là huyện sở hữu nhiều thương hiệu nông sản nhất của tỉnh Lào Cai. Huyện Mường Khương có 14 dân tộc anh em chung sống hòa thuận, có đặc trưng tộc người độc đáo. Dân số toàn huyện theo số liệu điều tra dân số và nhà ở, đến 1/4/2009 có 52.030 người/ 11.098 hộ. Trong đó Nam là: 25.554 người chiếm 49,58%, Nữ 25.989 = 50,42%. mật độ dân số 93 người/ km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,82%. Trong đó Dân tộc Mông chiếm 41,78%. Dân tộc Nùng chiếm 26,8%, dân tộc Dao chiếm 5,75% , Dân tộc dáy chiếm 3,74% , Dân tộc Bố Y (Tu Dí) chiếm 2,59%, Dân tộc Kinh (Việt) chiếm 11,98%. Ngoài ra còn một số dân tộc khác có dân số ít như dân tộc Phù Lá, Ha, Mường, Lô Lô… chiếm 6,8% dân số toàn huyện tạo thành một không gian folklo ( truyền thống dân gian) nguyên bản và đậm đặc, với những làng cổ của người Nùng, người Mông, những lễ hội rải rác quanh năm như: Lễ hội Gầu tào (Say sán) Lễ Cấm rừng, Lễ mừng chiến thắng…. Trong bức họa đồ biên giới Mường Khương bốn mùa xanh tươi và kỳ vĩ, những dải sơn nguyên đá vôi có nhiều hang động và thác nước đẹp như hang Hàm Rồng, thác Tà Lâm, thác Páo Tủng, núi trống đồng Lũng Pâu, hang Na Măng – Tỉn Thàng, hang Tiên Nấm Oọc, cầu đá thiên tạo trên dòng suối Văng Leng dào dạt. Mường Khương hợp cùng Bắc Hà và Si Ma Cai thành vùng du lịch phía đông, đang được tỉnh Lào Cai kêu gọi các doanh nghiệp cùng bắt tay vào khai phát. Có đường Quốc lộ 4D được nâng cấp đã nối gần khoảng cách từ Mường Khương về thành phố Lào Cai. Huyện còn có cửa khẩu quốc gia, thông thương với các huyện Hà Khẩu và Mã Quan của nước bạn. Những năm gần đây, cửa khẩu quốc gia Mường Khương đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đến kinh doanh. Theo truyền khẩu, Mường Khương từ xưa có tên gọi là Mưng Khảng theo tiến địa phương dịch sang tiếng phổ thông là Mường Gang. Quá trình biến đổi của thời gian tên gọi được biến âm đọc chệch đi là Mường Khương ; đến thời Pháp thuộc danh xưng Mường Khương được gọi một cách thông dụng. Mường Khương không chỉ là đất thép kiên cường trong những tháng năm khói lửa, mà còn là là mảnh đất của ý chí sắt thép vượt lên cái nghèo và lạc hậu, biến những tiềm năng trở thành hiện thực. Mường Khương cùng với địa bàn Tỉnh Lào Cai, thời Vua Hùng dựng nước thuộc bộ Tân Hưng; thời Bắc thuộc đời nhà Đường thuộc đất của Châu Chu Quý và Châu Đan Đường; đến đời nhà Lý thuộc đất Đăng Châu; đời nhà Trần tiếp đến đời Nhà Nguyễn thuộc Châu Thuỷ Vĩ. Sau Thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai ngày 30/3/1886 Mường Khương và các đơn vị của tỉnh Lào Cai thuộc đạo quan binh IV. Vùng đất Mường Khương khi đó gọi là Động Sơn Yên . Động Yên Sơn sau này được gọi là Mường Khương. Năm 1959, ở Pha Long – Mường Khương, đã phát hiện Trống đồng có niên đại cách ngày nay 4.000 năm. Tháng 11/1946 tỉnh Lào Cai được giải phóng khỏi ách Việt Nam Quốc dân Đảng, chính quyền của ta đổi tên từ Châu sang huyện, chia tỉnh Lào Cai thành 8 huyện, trong đó có huyện Mường Khương.Vùng đất Mường Khương được chia thành 24 xã, tên của các xã đó là: Thống Nhất, Đoàn Kết, Kiến Thiết, Quang Vinh, Hoà Bình, Chính Nghĩa, Ái Quốc, Nỗ Lực, Tiến Bộ, Dân Chủ, Cộng Hoà, Tiên Tiến, Thanh Bình, Phú Cường, Cứu Quốc, Chiến Thắng, Trung Thành, Đồng Tâm, Quyết Định, Tự Do, Hạnh Phúc,Độc Lập, Thắng Lợi, Thành Công. Năm 1976 Quốc hội quyết định sát nhập 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, Mường Khương thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn. Đến tháng 4/1980 Hội đồng Bộ trưởng quyết định chuyển 02 xã Bản Phiệt và Bản Cầm về huyện Bảo Thắng. Đồng thời sáp nhập và đổi tên một số xã thành 16 xã cho đến ngày nay. Được chia làm 4 khu vực: Khu vực vùng thấp gồm 03 xã: Bản Lầu, Bản Xen, Lùng Vai ; khu vực vùng trung huyện gồm 5 xã: Mường Khương, Tung Chung Phố, Thanh Bình, Nấm Lư, Nậm Chảy; khu vực vùng cao gồm 4 xã: Cao Sơn, La Pán Tẩn, Tả Thàng, Lùng Khấu Nhin . Khu Pha Long gồm 4 xã: Pha Long, Dìn Chin, Tả Gia Khâu, Tả Ngài Chồ. Mường Khương là huyện vùng cao biên giới có vị trí quan trọng về quốc phòng – an ninh. Nhân dân các dân tộc có truyền thống đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ khi có Đảng lãnh đạo, mà trực tiếp là Đảng bộ huyện Mường Khương ( thành lập ngày 1/3/1950 ), truyền thống quý báu đó lại được nhân lên. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tiễu Phỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân các dân tộc huyện Mường Khương anh dũng, kiên cường chiến đấu giải phóng huyện Mường Khương vào ngày 11/11/1950. Đồng thời đóng góp sức người, sức của cho 02 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và bảo vệ từng tấc đất Biên cương của Tổ Quốc Việt Nam XHCN, xây dựng quê hương ngày một giầu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh. Với những thành tích đó huyện Mường Khương được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu cao quý “ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN” và Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba. * Địa hình: Địa hình có nhiều vực sâu chia cắt xem kẽ các dải thung lũng hẹp. Độ cao trung bình so với mực nước biển tại thị trấn là 900 m, đỉnh cao nhất trên 1.600 m (La Pán Tẩn). Mạng lưới sông suối phân bố rải rác chiếm 1,46% tổng diện tích tự nhiên. * Đặ c điểm khí hậu: Khí hậu Mường Khương mang tính chất á nhiệt đới một năm có hai mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15-16 0 C; mùa Đông rét đậm, nhiệt độ có thể xuống dưới 0 0 C, mùa hè mát nhiệt độ cao nhất là 35 0 C. * Thổ nhưỡng, đất đai: Trên địa bàn huyện Mường Khương chủ yếu là loại đất feralít phát triển trên đá biến chất. Tổng diện tích tự nhiên của huyện 55.614,53 ha, diện tích đất canh tác đất nông nghiệp thấp, có 9.824,92 ha (chiếm 17,66%); đất lâm nghiệp có 21.393,4 ha chiếm 38,46 %; còn lại chủ yếu đất có độ dốc cao chưa sử dụng là 21.827,16 ha chiếm 43,88%. * Nguồn khoáng sản : Theo kết quả khảo sát trên địa bàn huyện có mỏ sắt khu vực Na Lốc – xã Bản Lầu. Mỏ Chì, Kẽm ở khu Cao Sơn, La Pan Tẩn.Mỏ Atimon ở xã Nậm Chảy chạy dọc biên giới Việt – Trung.
General introduction of Muong Khuong district In the space spanning 55,614.53 hectares of Muong Khuong district, there are 3 climate sub-zones: tropical, sub-tropical and temperate. Heaven and earth have endowed the district with the ability to develop a diversified agricultural industry. The most famous agricultural specialties of Muong Khuong are: Seng Cu rice, yellow soybeans and pigs in Muong Khuong, Ban Lau pineapple, Thanh Binh snow tea, Cao Son plum, Pha Long pear, chili sauce, cardamom , Panax notoginseng... With the direction of sustainable development, most of the above products are being branded, linking raw material areas with processing facilities. Muong Khuong is the district that owns the most agricultural product brands in Lao Cai province. Muong Khuong district has 14 ethnic groups living together in harmony, with unique ethnic characteristics. Population of the entire district according to population and housing census data, as of April 1, 2009 52,030 People/ 11,098 household. In which Nam is: 25,554 people account for 49.58%, Female 25,989 = 50.42%. Population density is 93 people/km2, natural population growth rate is 1.82%. Among them, the Mong ethnic group occupies 41.78%. The Nung ethnic group occupied 26.8%, occupied by the Dao people 5.75% , Ethnic occupation 3.74% , occupied by the Bo Y (Tu Di) ethnic group 2.59%, Kinh (Viet) ethnic group occupied 11.98%. In addition, there are a number of other ethnic groups with small populations such as the Phu La, Ha, Muong, Lo Lo... ethnic groups 6.8% The entire district's population creates a folklo space ( folk tradition) Original and dense, with ancient villages of the Nung and Mong people, festivals scattered throughout the year such as: Gau Tao Festival (Say San), Forest Forbidden Ceremony, Victory Celebration... In the picture of the Muong Khuong border, the four seasons are green and majestic, the limestone mountain ranges have many beautiful caves and waterfalls such as Ham Rong cave, Ta Lam waterfall, Pao Tung waterfall, Lung Pau bronze drum mountain, Lung Pau cave. Na Mang - Tin Thang, Tien Nam Ooc cave, natural stone bridge on the flowing Vang Leng stream. Muong Khuong joins Bac Ha and Si Ma Cai to become the eastern tourist area, which is being developed Lao Cai Province Call on businesses to join hands in developing. There is an upgraded National Highway 4D connecting nearly the distance from Muong Khuong return to Lao Cai city. The district also has a national border gate, communicating with Ha Khau and Ma Quan districts of other countries. In recent years, Muong Khuong national border gate has attracted many businesses to do business. According to oral tradition, Muong Khuong was originally called Muong Khuong Mung Khang According to the local dialect, the translation into Mandarin is Muong Gang. The process of change over time when names are pronounced differently Muong Khuong ; During the French period, the name Muong Khuong was commonly called. Muong Khuong is not only a land of steel and resilience in the years of fire and smoke, but also a land of iron and steel will to overcome poverty and backwardness, turning potential into reality. Muong Khuong along with Lao Cai Province, when King Hung built the country, belonged to the Tan Hung department; During the Northern period, under the Tang Dynasty, it belonged to Chau Chu Quy and Chau Dan Duong; During the Ly Dynasty, Dang Chau belonged to Dang Chau; From the Tran Dynasty to the Nguyen Dynasty, Chau Thuy Vi belonged to Chau Thuy Vi. After the French colonialists invaded Lao Cai on March 30, 1886, Muong Khuong and units of Lao Cai province belonged to the IV Army Corps. The land of Muong Khuong was then called Son Yen Cave . Yen Son Cave was later called Muong Khuong. In 1959, in Pha Long - Muong Khuong, a bronze drum dating back 4,000 years ago was discovered. In November 1946, Lao Cai province was liberated from the yoke of the Vietnamese Nationalist Party. Our government changed its name from Chau to district, dividing Lao Cai province into 8 districts, including Muong Khuong district. Muong Khuong land was divided into 24 communes, the names of those communes are: Unity, Solidarity, Construction, Glory, Peace, Justice, Patriotism, Effort, Progress, Democracy, Republic, Advancement, Peace, Phu Cuong, National Salvation, Victory, Loyalty , Unity, Decision, Freedom, Happiness, Independence, Victory, Success. In 1976, the National Assembly decided to merge the three provinces of Lao Cai, Yen Bai, and Nghia Lo into Hoang Lien Son and Muong Khuong provinces of Hoang Lien Son province. In April 1980, the Council of Ministers decided to transfer 02 communes Ban Phiet and Ban Cam to Bao Thang district. At the same time, some communes were merged and renamed into 16 communes to this day. Divided into 4 areas: The lowland area includes 03 communes: Ban Lau, Ban Xen, Lung Vai ; The central district area includes 5 communes: Muong Khuong, Tung Chung Pho, Thanh Binh, Nam Lu, Nam Chay; The highland area includes 4 communes: Cao Son, La Pan Tan, Ta Thang, Lung Khau Nhin . Pha Long area includes 4 communes: Pha Long, Din Chin, Ta Gia Khau, Ta Ngai Cho. Muong Khuong is a highland border district with an important position in defense and security. People of all ethnicities have a tradition of uniting to fight against foreign invaders. Since the Party leadership, which is directly the Party Committee of Muong Khuong district ( founded on March 1, 1950 ), that precious tradition is multiplied again. During the resistance war against the French colonialists, Tieu Phi under the leadership of the district Party Committee, the people of all ethnic groups in Muong Khuong district heroically and tenaciously fought to liberate Muong Khuong district on November 11, 1950. At the same time, contributing human and material resources to the two resistance wars against France and America and protecting every inch of border land of the Socialist Fatherland of Vietnam, building an increasingly economically rich, strong national defense and security homeland. security. With those achievements, Muong Khuong district was awarded the noble title "HERO OF THE PEOPLE'S ARMED FORCES" by the Party and State and the Second and Third Class Labor Medals. * Topographic: The terrain has many deep chasms dividing narrow valleys. The average altitude above sea level in the town is 900 m, the highest peak is over 1,600 m (La Pan Tan). The scattered network of rivers and streams accounts for 1.46% of the total natural area. * Dang c climate point: Muong Khuong's climate is subtropical, with two distinct seasons per year. The average annual temperature is from 15-16 0 C; Winter is cold, temperatures can drop below 0 0 C, cool summer, highest temperature is 35 0 C. * Soil and land: In Muong Khuong district, mainly feralite soils develop on metamorphic rocks. Total natural area of ​​the district 55,614.53 hectares, the area of ​​​​cultivated agricultural land is low, yes 9,824.92 hectares (accounting for 17.66%); Forestry land is available 21,393.4 hectares accounts for 38.46%; The remaining land is mainly unused land with high slopes 21,827.16 hectares accounts for 43.88%. * Mineral sources : According to survey results in the district with iron mines in Na Loc area - Ban Lau commune. Lead and Zinc mines are in Cao Son and La Pan Tan areas. Atimon mines are in Nam Chay commune, running along the Vietnam-China border.
Giới thiệu khái quát huyện Văn Bàn Địa hình Huyện Văn Bàn nằm trong nằm giữa hai dãy núi lớn là dãy núi Hoàng Liên Sơn ở phía Tây Bắc và dãy núi Con Voi ở phía Đông Nam. Tới 90% diện tích là đồi núi cao (độ cao từ 700 – 1500m, độ dốc trung bình từ 25 – 350m, có nơi trên 500m). Còn lại 10% là địa hình thung lũng bồn địa ở độ cao từ 400m – 700m. Độ cao trung bình của huyện từ 500 – 1.500m so với mực nước biển, cao nhất là đỉnh Lùng Cúng (2.914,0 m), thấp nhất là Ngòi Chăn (85 m). Địa hình của Văn Bàn nghiêng dần theo hướng Tây – Tây Bắc xuống hướng Đông – Đông Nam. Huyện Văn Bàn phía Đông giáp với huyện Bảo Yên, phía Tây giáp với tỉnh Lai Châu, phía Nam và Đông Nam giáp với tỉnh Yên Bái, phía Bắc giáp với huyện Bảo Thắng và Sa Pa Khí hậu Mang tính chất nhiệt đới gió mùa, một năm chia làm 4 mùa rõ rệt, mùa hạ và mùa đông thường kéo dài, mùa xuân và mùa thu thường ngắn. Nhiệt độ trung bình cả năm là 22,9 0 C, độ ẩm trung bình năm là 86%, lượng mưa trung bình 1.500 mm. Do địa hình nhiều đồi núi cao, rừng nhiều nơi bị nghèo kiệt, khí hậu thường xuyên thay đổi theo mùa, theo năm, hệ thống suối dày đặc khi mưa lớn xảy ra thường gây lũ quét. Điều kiện khí hậu khá điều hòa là yếu tố thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp đa dạng các cây trồng vật nuôi như các cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới như nhãn, bưởi, hồng, chuối,…; các cây lương thực như ngô, lúa,… và chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm và thủy sản. Tuy không có những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như tuyết, sương muối, mưa đá nhưng khí hậu Văn Bàn có thể chịu ảnh hưởng của các gió địa phương như gió Lào khô và nóng hoặc mưa lớn kèm với dòng chảy mạnh của các con suối lớn vào mùa lũ, làm gia tăng các hoạt động xâm thực bào mòn, ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. TÀI NGUYÊN 1. Tài nguyên nhân văn và du lịch: Toàn huyện hiện có 03 điểm di tích được xếp hạng, trong đó có 01 điểm di tích đã được Nhà nước xếp hạng cấp Quốc gia (Đền Cô Tân An), xếp hạng cấp tỉnh là (Đền Ken – xã Chiềng Ken, Khu du kích Gia Lan – Khánh Yên Thượng). Trong những năm qua các di tích này đã được đầu tư hàng chục tỷ đồng để tu bổ, tôn tạo, đã thực sự đem lại hiệu quả lớn về kinh tế du lịch, phục vụ tích cực đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát huy và bảo tồn các di sản văn hóa. Hiện tại trên địa bàn huyện đã xây dựng 01 làng văn hóa ẩm thực (của đồng bào dân tộc Tày) tại tổ dân phố Mạ 2 Thị trấn Khánh yên và có nhiều tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch làng bản, du lịch đường rừng, Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Hoàng Liên … hiện chưa được đầu tư khai thác như (Thác Bay – Liêm Phú, Liêm Phú – Nậm Xây,…) Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất có rừng là 82.428,75 ha, gồm rừng kinh tế là 33.766,76 ha, rừng phòng hộ là 26.579,46 ha, rừng đặc dụng là 22.082,53. Trong đó, rừng tự nhiên cấp trữ lượng III và IV với tổng diện tích 72.049,39 ha. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 63,3%. Ngoài diện tích rừng tự nhiên huyện còn có diện tích lớn đất lâm nghiệp để trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày tập trung. Do nhu cầu phòng hộ, diện tích rừng kinh tế chiếm tỷ lệ nhỏ. Trữ lượng gỗ, tre nứa trên địa bàn mới chỉ phục vụ một phần nhu cầu tại chỗ của người dân địa phương. Tài nguyên đất: Bảng 1. Thực trạng sử dụng đất huyện giai đoạn 2014-2016. Tài nguyên khoáng sản: Trung tâm huyện và các khu vực lân cận có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, một số mỏ có trữ lượng lớn, thuận lợi cho công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản cũng như các ngành kinh tế, dịch vụ hỗ trợ. Quặng Apatít: trên địa bàn huyện có mỏ Apatít Tam Đỉnh – Làng Phúng, trữ lượng hơn 11 triệu tấn với khu vực quy hoạch khai thác và sản xuất rộng hàng trăm ha tập trung tại các xã Sơn Thủy, Chiềng Ken và Văn Sơn, Võ Lao. Mỏ Cao lanh – Felspat có trữ lượng trên 10 triệu tấn phân bố tập trung chủ yếu ở xã Làng Giàng. Quặng sắt: Trữ lượng trên 60 triệu tấn, phân bố tại khu vực thôn Khe Lếch, Khe Hồng, Khe Phàn, xã Sơn Thủy và Làng Vinh, xã Võ Lao. Khoáng sản làm vật liệu xây dựng trên địa bàn huyện gồm có đá vôi, một số điểm có thể khai thác cát sỏi ở khu vực Sông Hồng, suối Chăn và suối Nhù. Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt: Tiềm năng nguồn nước mặt trên địa bàn có giá trị kinh tế để cung cấp nước sản xuất và sinh hoạt gồm có các nguồn nước từ các sông suối chủ yếu sau: nguồn nước suối Nậm Mu, suối Nậm Khóa, suối Nậm Xây Nọi, suối Nậm Chày, suối Chút, suối Chăn, suối Nhù, suối Nậm Dạng, suối Nậm Mả, suối Nậm Tha,…và khe nhỏ khác trên toàn huyện. Mật độ sông suối trên địa bàn huyện là 948 km/km 2 . Chiều dài Sông Hồng chảy trên địa bàn huyện là 21 km. Nước ngầm: Sự phân bố nước ngầm trên địa bàn huyện tương đối đều. Trữ lượng nước ngầm trên toàn địa bàn huyện chưa được đánh giá cụ thể và chất lượng nước ngầm rất khác nhau giữa các khu vực, chủ yếu là nước đá vôi và nước nhiễm sắt. Nguồn nước cấp cho huyện hiện tại lấy từ khe suối núi Gia Lan. Do tính chất của hệ thống cấp nước huyện dùng nguồn nước mặt là nguồn chính nên vấn đề bảo vệ nguồn nước mặt cần quan tâm bảo vệ.
General introduction of Van Ban district Topographic Van Ban district is located between two large mountain ranges, Hoang Lien Son mountain range in the northwest and Con Voi mountain range in the southeast. Up to 90% of the area is high hills and mountains (elevation from 700 - 1500m, average slope from 25 - 350m, some places over 500m). The remaining 10% is basin valley terrain at an altitude of 400m - 700m. The average altitude of the district is from 500 - 1,500m above sea level, the highest is Lung Cung peak (2,914.0 m), the lowest is Ngoi Chan (85 m). Van Ban's terrain tilts gradually from West - Northwest to East - Southeast. Van Ban district borders Bao Yen district to the East, Lai Chau province to the West, Yen Bai province to the South and Southeast, Bao Thang and Sa Pa districts to the North. Climate Being tropical monsoon, the year is divided into 4 distinct seasons, summer and winter are usually long, spring and autumn are usually short. The average temperature throughout the year is 22.9 0 C, average annual humidity is 86%, average rainfall is 1,500 mm. Due to the mountainous terrain, the forests in many places are poor, the climate often changes seasonally and yearly, and the dense stream system when heavy rain occurs often causes flash floods. Fairly moderate climatic conditions are a favorable factor for the development of diverse agricultural crops and livestock such as tropical and subtropical fruit trees such as longan, grapefruit, persimmon, banana,...; food crops such as corn, rice,... and raising many types of livestock, poultry and aquatic products. Although there are no severe weather phenomena such as snow, frost, or hail, Van Ban's climate can be influenced by local winds such as the hot and dry Lao wind or heavy rain accompanied by strong river currents. Large streams during the flood season increase erosion and erosion activities, affecting agricultural production and people's daily life. RESOURCES 1. Humanities and tourism resources: The entire district currently has 03 ranked relic sites, of which 01 relic site has been ranked at the national level by the State (Co Tan An Temple), ranked at the provincial level (Ken Temple - Chieng Ken commune, Tan An tourist area). Gia Lan – Khanh Yen Thuong). In recent years, tens of billions of VND have been invested in repairing and embellishing these monuments, which have really brought great efficiency in terms of tourism economy, actively serving the spiritual life of the people, contributing promotion and preservation of cultural heritage. Currently, the district has built a culinary culture village (of the Tay ethnic group) in Ma 2 residential group, Khanh Yen town and has a lot of potential for eco-tourism, village tourism, and tourism. forest roads, Hoang Lien National Nature Reserve... are currently not invested in exploitation such as (Bay Waterfall - Liem Phu, Liem Phu - Nam Xay,...) Forest resources: The total area of ​​forested land is 82,428.75 hectares, including 33,766.76 hectares of economic forests, 26,579.46 hectares of protection forests, and 22,082.53 hectares of special-use forests. Of which, natural forests of reserve level III and IV have a total area of ​​72,049.39 hectares. The forest coverage rate reached 63.3%. In addition to the natural forest area, the district also has a large area of ​​forestry land for planting forests and concentrated long-term industrial crops. Due to protection needs, the economic forest area accounts for a small proportion. Wood and bamboo reserves in the area only serve part of the local needs of local people. Land resources: Table 1. Current status of district land use in the period 2014-2016. Natural resources: The district center and surrounding areas have rich mineral resources, some mines have large reserves, favorable for the mineral exploitation and processing industry as well as economic sectors and support services. Apatite ore: in the district there is Tam Dinh - Lang Phung apatite mine, with reserves of more than 11 million tons with a planned exploitation and production area of ​​hundreds of hectares concentrated in Son Thuy, Chieng Ken and Van Son communes, Vo Lao. Kaolin - Felspar mine has reserves of over 10 million tons distributed mainly in Lang Giang commune. Iron ore: Reserves of over 60 million tons, distributed in the hamlets of Khe Lech, Khe Hong, Khe Phan, Son Thuy commune and Lang Vinh, Vo Lao commune. Minerals used as construction materials in the district include limestone, some places can exploit sand and gravel in the Red River area, Chan stream and Nhu stream. Water Resources: Surface water sources: Potential surface water sources in the area that have economic value to provide water for production and daily life include water sources from the following main rivers and streams: water sources from Nam Mu stream, Nam Lock stream, and streams. Nam Xay Noi, Nam Chay stream, Chut stream, Chan stream, Nhu stream, Nam Dang stream, Nam Ma stream, Nam Tha stream,... and other small streams throughout the district. The density of rivers and streams in the district is 948 km/km 2 . The length of the Red River flowing in the district is 21 km. Groundwater: The distribution of groundwater in the district is relatively even. Groundwater reserves throughout the district have not been specifically evaluated and the quality of groundwater varies greatly between areas, mainly limestone water and iron-contaminated water. The current water source for the district comes from Gia Lan mountain stream. Due to the nature of the district water supply system using surface water as the main source, the issue of protecting surface water needs attention.
Giới thiệu khái quát huyện Si Ma Cai Điều kiện tự nhiên huyện Si Ma Cai (18/02/2011 ) Vị trí địa lý: Huyện Si Ma Cai là một huyện vùng cao cách Trung tâm tỉnh Lào Cai 100 Km hướng về Đông Bắc, là một huyện được tái lập theo Nghị định số 36/NĐ.CP, ngày 18/8/2000 của Chính phủ (tách từ huyện Bắc Hà từ).Phía Bắc giáp với huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai và Trung Quốc. Phía Nam giáp với huyện Bắc Hà. Phía Đông giáp với huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang. Phía Tây giáp với huyện Mường Khương. Địa hình: Si Ma Cai là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, độ cao trung bình từ 1200m đến 1800m, cao nhất là 1800m thấp nhất là 180m, độ dốc trung bình từ 24 – 280. Địa hình được kiến tạo bởi nhiều dãy núi chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, thấp dần về hướng Tây Bắc các dải núi trong phạm vi ranh giới huyện. Khí hậu thuỷ văn: Si Ma Cai là huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên do ảnh hưởng của địa hình nên diễn biến của khí hậu khá phức tạp, hình thành 2 vùng tiểu khí hậu cơ bản (Khí hậu cận nhiệt đới và vùng khí hậu nhiệt đới không điển hình.) Các yếu tố khí hậu đặc trưng như nhiệt độ, lượng mưa cho thấy sự thay đổi của địa hình, độ cao là tác nhân chính hình thành những vùng tiểu khí hậu trên địa bàn huyện. – Nhiệt độ: Theo số liệu quan trắc nhiều năm cho thấy huyện Si Ma Cai thuộc vùng khí hậu khá lạnh, nhiệt độ trung bình năm là 18,90C có những tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 100C. Nhiệt độ có sự thay đổi theo các đai cao khá rõ nét, sự thay đổi này diễn ra ngay trên địa bàn của một xã. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm rất lớn điều này được thể hiện rõ nhất vào mùa hè, ảnh hưởng bất lợi đến sức khoẻ của người dân, gia súc và sản xuất nông – lâm nghiệp. – Lượng mưa: Si Ma Cai là huyện có lượng mưa trung bình thấp so với các vùng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, lượng mưa thay đổi qua các năm từ 1.300 – 2.000mm, lượng mưa chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7, 8 các tháng còn lại trong năm mưa ít, cường độ không tập trung; Mùa lạnh, khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Nhìn chung lượng mưa trung bình thấp, cường độ mưa không đều, hiện trạng tài nguyên rừng ít nên hiện tượng xói mòn, sụt lở, rửa trôi vẫn còn xẩy ra khá nghiêm trọng. – Sương: Si Ma Cai có độ dốc lớn do đó vào mùa đông hiện tượng sương mù thường sảy ra. – Độ ẩm không khí: Huyện Si Ma Cai thuộc vùng có độ ẩm không khí tương đối đều và cao qua các tháng, trung bình từ 83 – 87%. Về mùa mưa độ ẩm không khí lớn hơn, thường từ 85 – 88%. Độ ẩm thay đổi theo từng vùng lãnh thổ của huyện. Vùng núi cao hơn 800m có độ ẩm thấp và hanh khô. Đây cũng là điều kiện bất lợi cho sản xuất lâm nghiệp. Khoáng sản: Si Ma Cai có các loại vật liệu như đá, sỏi cho khai thác để phục vụ cho các công trình xây dựng, ngoài ra còn có các loại quặng, chì, kẽm, ô xít sắt (Fe202, Fe203) nhưng ở dưới dạng quặng phân tán chữ lượng không lớn. Đất đai: Tổng diện tích tự nhiên của Si Ma Cai là 23.493,83 ha, trải qua quá trình Feralit, bào mòn, rửa trôi, bồi tụ, hình thành mùn, trên địa bàn huyện Si Ma Cai có các loại đất sau: Đất mùn đỏ vàng trên đất đá biến chất, loại đá mẹ Firit (Hs), tầng dầy 50 -120cm, có tổng diện tích khoảng 5.324 ha phân bố rộng trên khắp lãnh thổ; Đất đỏ vàng trên đá biến chất (Fs), có khoảng 1.570 ha phân bố phần thấp ven sông Chảy, loại đất này có tầng dày từ 50 -100cm; Đất đỏ mùn trên đá sét (Hs), diện tích khoảng 2.150 ha, thành phần cơ giới thịt nặng; Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl), chiếm tỷ lệ không đáng kể; Đất thung lũng dốc tụ trồng lúa (Dl); Đất phù sa, sông suối (Py); Đất mòn, trơ sỏi đá.
General introduction to Si Ma Cai district Natural conditions of Si Ma Cai district (February 18, 2011) Geographical location: Si Ma Cai district is a highland district 100 km from the center of Lao Cai province towards the Northeast, a district re-established under the Decree Không. Decision Không. 36/ND.CP, dated August 18, 2000 of the Government (separated from Bac Ha district). The North borders Muong Khuong district, Lao Cai province and China. The South borders Bac Ha district. The East borders Xin Man district, Ha Giang province. The West borders Muong Khuong district. Terrain: Si Ma Cai is a highland district of Lao Cai province, the average altitude is from 1200m to 1800m, the highest is 1800m, the lowest is 180m, the average slope is from 24 - 280. The terrain is created by many The mountain range runs in the Northeast - Southwest direction, gradually lowering toward the Northwest of the mountain ranges within the district boundary. Hydro-climate: Si Ma Cai is a district located in the tropical monsoon climate zone, however, due to the influence of terrain, climate developments are quite complex, forming two basic micro-climate regions (Climate subtropical and atypical tropical climate zones.) Typical climatic factors such as temperature and rainfall show that changes in terrain and altitude are the main factors forming the above microclimate regions. district area. – Temperature: According to many years of monitoring data, Si Ma Cai district belongs to a rather cold climate zone, with an average annual temperature of 18.90C, with some months the average temperature drops below 100C. Temperature changes along the high altitude belts are quite clear, this change takes place right in the area of ​​a commune. The temperature difference between day and night is very large, this is most clearly shown in the summer, adversely affecting the health of people, livestock and agricultural and forestry production. – Rainfall: Si Ma Cai is a district with low average rainfall compared to other regions in Lao Cai province, rainfall varies over the years from 1,300 - 2,000mm, rainfall is mainly concentrated in the months of June, 2019. 7, 8 The remaining months of the year have little rain, not concentrated intensity; The cold, dry season lasts from November of the previous year to March of the following year. In general, the average rainfall is low, the rain intensity is uneven, and the current status of forest resources is low, so the phenomenon of erosion, landslides, and washout still occurs quite seriously. – Fog: Si Ma Cai has a steep slope, so in winter fog often occurs. – Air humidity: Si Ma Cai district is in an area with relatively uniform and high air humidity over the months, averaging 83 - 87%. In the rainy season, the air humidity is higher, usually from 85 - 88%. Humidity varies according to each district's territory. Mountainous areas higher than 800m have low humidity and are dry. This is also an unfavorable condition for forestry production. Minerals: Si Ma Cai has materials such as stone and gravel for exploitation to serve construction projects, in addition there are ores, lead, zinc, iron oxide (Fe202, Fe203) but in in the form of dispersed ores of small quantity. Land: The total natural area of ​​Si Ma Cai is 23,493.83 hectares, undergoing Feralit, erosion, leaching, accretion, and humus formation processes. In Si Ma Cai district, there are the following soil types: Yellow-red humus soil on metamorphic rock, Firite (Hs) source rock, layer 50 -120cm thick, with a total area of ​​about 5,324 hectares widely distributed throughout the territory; Yellow red soil on metamorphic rocks (Fs), about 1,570 hectares distributed in the lower part along the Chay River, this type of soil has a layer thickness of 50 -100cm; Red loam soil on clay rock (Hs), area of ​​about 2,150 hectares, heavy soil texture; Yellow-red soil changed due to rice growing (Fl), accounting for an insignificant proportion; Steep valley land for rice cultivation (Dl); Alluvial soil, rivers and streams (Py); The soil is worn out, bare and rocky.
Giới thiệu khái quát huyện Ia H’Drai Huyện Ia H’Drai là huyện biên giới, nằm ở phía Tây nam của tỉnh Kon Tum , cách trung tâm hành chính tỉnh Kon Tum khoảng 150 km. Huyện được thành lập theo Nghị quyết số 890/NQ-UBTVQH13 ngày 11/3/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có diện tích tự nhiên 98.021,81 ha, dân số 11.644 người, đa số là người đồng bào dân tộc thiểu số từ các tỉnh phía Bắc như Thái, Tày, Nùng, Mường, Sán Chỉ…được các doanh nghiệp trồng cao su trên địa bàn tuyển vào làm công nhân. Phía Đông giáp huyện Chư Pảh và huyện Ia Grai của tỉnh Gia Lai; phía Tây giáp 02 huyện Tà Veng và Đun Mia thuộc tỉnh Ratanakiri Vương quốc Campuchia với chiều dài biên giới khoảng 76,4 km; phía Nam giáp huyện Ia Grai của tỉnh Gia Lai; phía Bắc giáp xã Mô Rai huyện Sa Thầy. Huyện có 03 xã Ia Tơi, Ia Dom, Ia Đal, dân số 11.644 người, sinh sống tại 28 điểm dân của 21 thôn thuộc 03 xã; Trên địa bàn huyện có 03 nhà máy thủy điện hoạt động Sê San 3A-108 MW, Sê San 4-360 MW, Sê San 4A-63 MW, đã phát điện hoà lưới quốc gia. Có 06 doanh nghiệp trồng cao su với diện tích khoảng 24.566,66 ngàn ha. Lực lượng chuyên trách trong quản lý bảo vệ biên giới có 05 Đồn biên phòng gồm: Hồ Le , Mô Rai, Suối Cát, Sa Thầy, Sê San. Huyện Ia H’Drai được thành lập năm 2015 trên cơ sở chia tách một phần địa giới hành chính của huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Nằm trong vùng đệm của Vườn quốc gia Chư Mo Ray nên có thể nói, khoảng hơn chục năm trở về trước, nơi đây chỉ có núi, rừng, sông, suối và những người lính Biên phòng. Đã có rất nhiều thay đổi kể từ khi những cánh rừng đại ngàn biên giới phải “nhường chỗ” cho con người, cây cao su và trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nhưng cuộc sống của người lính BP thì vẫn vậy: Khó khăn, thử thách vẫn luôn là “người bạn đồng hành”… Khổ vì… thừa Đến trung tâm huyện Ia H’Drai hôm nay chắc chắn không nhiều người hình dung ra đây từng là nơi được ví như một “ốc đảo” giữa miền biên giới. Cách đó chừng vài cây số là vị trí đóng quân trước đây của Đồn BP Suối Cát. Hơn 10 năm trở về trước, toàn bộ khu vực này là xứ “khỉ ho, cò gáy” hễ ra trước cổng đồn là gặp…thú rừng, lính BP phải đào giao thông hào quanh vườn tăng gia để ngăn không cho heo rừng vào phá hoại cây trồng. Nhiều người nói lính BP là “công dân đầu tiên” của huyện Ia H’Drai. Điều này quả không sai, bởi họ đã hiện diện trên mảnh đất này từ hơn 40 năm về trước. Giờ đây, khi huyện mới thành lập, cư dân phát triển, cứ ngỡ được sống gần dân, nhưng rồi các đồn BP lại phải “trở về chốn xưa” di chuyển ra sát đường biên giới để tiếp tục “làm bạn” với sông, suối, núi, rừng. Trung tá Nguyễn Quang Thành, Đồn trưởng Đồn BP Sa Thầy tâm sự: “Sống xa khu dân cư cũng có nhiều cái bất tiện. Thế mạnh của đơn vị là tăng gia sản xuất, nhưng có những sản phẩm làm ra mà gọi mãi chẳng thấy người lên mua vì manh mún, chi phí vận chuyển bị đội lên rất lớn. Hiện tại, đơn vị có hơn một ha chuối, chín vàng cả vườn nhưng cũng chỉ để phục vụ một phần rất nhỏ nhu cầu trong đơn vị. Giá như đường sá thuận tiện, nguồn thu từ tăng gia sản xuất của đơn vị sẽ được cải thiện rất nhiều từ loại cây dễ trồng này…”. Dẫu biết rằng, cây chuối ở đồn BP từ trước đến nay được xem là loại cây “đa mục tiêu” phục vụ được nhiều việc khác nhau, trong đó đáng kể nhất là tạo nguồn thức ăn cho đàn gia súc, gia cầm và nuôi cá. Tuy nhiên, nếu bảo đảm được “đầu ra” tốt, thì đây là nguồn thu không nhỏ. Cái khó chung của các đồn BP trên tuyến biên giới huyện Ia H’Drai vẫn là giao thông cách trở, sống xa khu dân cư nên không thể liên kết trong khâu tiêu thụ sản phẩm với bà con nhân dân. Đồn BP Sa Thầy hiện tại được giao nhiệm vụ quản lý địa bàn 4 thôn thuộc 2 xã Ia Tơl và Ia Đal (Ia H’Drai) với dân số trên 1.200 nhân khẩu. Mặc dù vậy, nếu so với thời chưa thành lập huyện mới, địa bàn còn trắng dân cư thì chẳng khác nhau là bao, bởi nơi gần dân nhất cũng cách hàng chục cây số. Bài toán “đầu ra” cho cây chuối thậm chí còn “khó giải” hơn nhiều đối với Đồn BP Mo Ray, đơn vị nằm cách trung tâm huyện Ia H’Drai khoảng 50 cây số theo đường tuần tra biên giới. Hơn 2ha chuối ở đây đã đến kỳ thu hoạch cũng chỉ để phục vụ chăn nuôi. Lãng phí đấy, nhưng không thể không trồng, vì còn phải giải quyết nguồn thức ăn cho đàn gia súc, gia cầm lên đến hàng mấy trăm con cùng hơn 2.000m2 ao thả cá. Một người lính trẻ nói vui với tôi: “Ngày nào cũng nhìn thấy chuối chín vàng cả vườn, cháu vừa ngán, vừa tiếc, chú ạ. Giá như ở nhà có nhiều chuối thế này để bán thì lợi đủ đường. Bình thường ở đồn BP, rau, củ, quả ăn không hết, giờ lại thêm chuối nữa. Nếu được gần dân, mình có thể mang những thứ này ra chia sẻ cho bà con…” Những mất mát lặng thầm – chuyện bây giờ mới kể Sống cách biệt với khu dân cư dường như đã trở thành “điểm đến” quen thuộc của lính BP – những “công dân đầu tiên” của huyện mới Ia H’Drai. “Xa dân, gần rừng” bên cạnh khó khăn trở ngại trong công tác, những thiếu thốn về tình cảm và hàng loạt trải nghiệm vất vả, nhọc nhằn giữa miền thời tiết khí hậu khắc nghiệt, vẫn còn đó những mất mát lặng thầm mà người lính phải kìm nén trong lòng. Nhiều người lính ra quân rồi mới phát bệnh do bị nhiễm sốt rét, hoặc suốt một thời gian dài uống phải nguồn nước không đảm bảo vệ sinh và an toàn sức khỏe. Điều kiện hôm nay đã được cải thiện rất nhiều, chứ hồi còn mang danh là “công dân” đầu tiên, duy nhất ở vùng đất này thì không thể kể hết được. Đến cả những cán bộ hiện đang còn công tác cũng có người phải chịu những di chứng do căn bệnh sốt rét quái ác gây nên. Câu chuyện của Thượng tá Trần Đình Hào, Đồn trưởng Đồn BP Mo Ray khiến tôi khâm phục ý chí, quyết tâm vượt khó suốt một cuộc hành trình dài đằng đẵng anh phải đi chữa bệnh hiếm muộn để được làm cha. Tất cả bắt đầu từ chuỗi ngày anh sống, công tác trên biên giới trong môi trường khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Sốt rét biến chứng không chỉ bào mòn sức khỏe của người sĩ quan BP đang ở thời kỳ sung sức nhất, mà còn là “thủ phạm” chính khiến anh phải xuôi ngược khắp nơi để điều trị bệnh hiếm muộn. Sau khi biết mình không thể sinh con theo cách tự nhiên, vợ chồng Thượng tá Trần Đình Hào quyết định nhờ đến sự can thiệp của y học hiện đại. Cũng phải kỳ công và tốn kém lắm, hai vợ chồng anh mới thỏa được nỗi khát khao khi hai cô con gái xinh xắn, khỏe mạnh lần lượt ra đời. Xúc động nhất là khoảnh khắc anh nhận được tin vợ mình sinh cô con gái đầu lòng. Đang trên đường trở vào đơn vị sau chuyến công tác, anh ghé vào quán nhỏ ven đường để “mở tiệc” ăn mừng. Tại đây, không kể người quen hay lạ, đàn ông hay đàn bà, anh đều “mở lòng” thông báo tin vui cho mọi người và uống thật say cho thỏa nỗi khát vọng kìm nén từ bấy lâu nay. Tối hôm ấy, tràn ngập trong niềm hạnh phúc vô bờ, Thượng tá ngồi viết lá thư cho con gái như dòng nhật ký chân thật mà sâu sắc nhất cuộc đời mình: “Con gái yêu của bố. Vậy là bao tháng ngày, bố mẹ vất vả ngược xuôi vào Nam ra Bắc tìm thuốc, tìm thầy chữa bệnh, giờ đã có kết quả mỹ mãn. Lúc này bố hạnh phúc vô cùng, chỉ mong sao con khỏe mạnh chóng lớn để bố được yêu thương chăm sóc, dạy dỗ con nên người…”. Giờ đây, mỗi khi đọc lại những dòng thư ấy, người Đồn trưởng như được sống lại cảm xúc “lần đầu được làm cha” để rồi nước mắt lại rưng rưng. Câu chuyện của Đồn trưởng Đồn BP Mo Ray khiến tôi càng thêm thấm thía tính nhân văn trong chương trình hỗ trợ hiếm muộn của lực lượng BĐBP đã và đang triển khai thực hiện. Chúng ta đã có nhiều nỗ lực cống hiến vì chủ quyền thiêng liêng, vì niềm hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng biên giới, nhưng vẫn không quên “nhìn lại chính mình”, bởi ở đó vẫn còn có những mảnh đời éo le, những số phận nghiệt ngã cần sự giúp đỡ. Câu chuyện về những “công dân đầu tiên” của huyện mới Ia H’Drai như lời khẳng định vai trò của người lính BP trong quá trình xây dựng và phát triển một miền quê biên giới. Dẫu phải trải qua bao gian nan thử thách, những mất mát lặng thầm, nhưng những “ngôi sao xanh” vẫn vững vàng bám trụ chốn biên cương “xa dân, gần rừng” để tiếp tục cống hiến. Cẩm Xuyên
Giới thiệu khái quát huyện Ia H’Drai Huyện Ia H’Drai là huyện biên giới, nằm ở phía Tây nam của tỉnh Kon Tum , cách trung tâm hành chính tỉnh Kon Tum khoảng 150 km. Huyện được thành lập theo Nghị quyết số 890/NQ-UBTVQH13 ngày 11/3/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có diện tích tự nhiên 98.021,81 ha, dân số 11.644 người, đa số là người đồng bào dân tộc thiểu số từ các tỉnh phía Bắc như Thái, Tày, Nùng, Mường, Sán Chỉ…được các doanh nghiệp trồng cao su trên địa bàn tuyển vào làm công nhân. Phía Đông giáp huyện Chư Pảh và huyện Ia Grai của tỉnh Gia Lai; phía Tây giáp 02 huyện Tà Veng và Đun Mia thuộc tỉnh Ratanakiri Vương quốc Campuchia với chiều dài biên giới khoảng 76,4 km; phía Nam giáp huyện Ia Grai của tỉnh Gia Lai; phía Bắc giáp xã Mô Rai huyện Sa Thầy. Huyện có 03 xã Ia Tơi, Ia Dom, Ia Đal, dân số 11.644 người, sinh sống tại 28 điểm dân của 21 thôn thuộc 03 xã; Trên địa bàn huyện có 03 nhà máy thủy điện hoạt động Sê San 3A-108 MW, Sê San 4-360 MW, Sê San 4A-63 MW, đã phát điện hoà lưới quốc gia. Có 06 doanh nghiệp trồng cao su với diện tích khoảng 24.566,66 ngàn ha. Lực lượng chuyên trách trong quản lý bảo vệ biên giới có 05 Đồn biên phòng gồm: Hồ Le , Mô Rai, Suối Cát, Sa Thầy, Sê San. Huyện Ia H’Drai được thành lập năm 2015 trên cơ sở chia tách một phần địa giới hành chính của huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Nằm trong vùng đệm của Vườn quốc gia Chư Mo Ray nên có thể nói, khoảng hơn chục năm trở về trước, nơi đây chỉ có núi, rừng, sông, suối và những người lính Biên phòng. Đã có rất nhiều thay đổi kể từ khi những cánh rừng đại ngàn biên giới phải “nhường chỗ” cho con người, cây cao su và trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nhưng cuộc sống của người lính BP thì vẫn vậy: Khó khăn, thử thách vẫn luôn là “người bạn đồng hành”… Khổ vì… thừa Đến trung tâm huyện Ia H’Drai hôm nay chắc chắn không nhiều người hình dung ra đây từng là nơi được ví như một “ốc đảo” giữa miền biên giới. Cách đó chừng vài cây số là vị trí đóng quân trước đây của Đồn BP Suối Cát. Hơn 10 năm trở về trước, toàn bộ khu vực này là xứ “khỉ ho, cò gáy” hễ ra trước cổng đồn là gặp…thú rừng, lính BP phải đào giao thông hào quanh vườn tăng gia để ngăn không cho heo rừng vào phá hoại cây trồng. Nhiều người nói lính BP là “công dân đầu tiên” của huyện Ia H’Drai. Điều này quả không sai, bởi họ đã hiện diện trên mảnh đất này từ hơn 40 năm về trước. Giờ đây, khi huyện mới thành lập, cư dân phát triển, cứ ngỡ được sống gần dân, nhưng rồi các đồn BP lại phải “trở về chốn xưa” di chuyển ra sát đường biên giới để tiếp tục “làm bạn” với sông, suối, núi, rừng. Trung tá Nguyễn Quang Thành, Đồn trưởng Đồn BP Sa Thầy tâm sự: “Sống xa khu dân cư cũng có nhiều cái bất tiện. Thế mạnh của đơn vị là tăng gia sản xuất, nhưng có những sản phẩm làm ra mà gọi mãi chẳng thấy người lên mua vì manh mún, chi phí vận chuyển bị đội lên rất lớn. Hiện tại, đơn vị có hơn một ha chuối, chín vàng cả vườn nhưng cũng chỉ để phục vụ một phần rất nhỏ nhu cầu trong đơn vị. Giá như đường sá thuận tiện, nguồn thu từ tăng gia sản xuất của đơn vị sẽ được cải thiện rất nhiều từ loại cây dễ trồng này…”. Dẫu biết rằng, cây chuối ở đồn BP từ trước đến nay được xem là loại cây “đa mục tiêu” phục vụ được nhiều việc khác nhau, trong đó đáng kể nhất là tạo nguồn thức ăn cho đàn gia súc, gia cầm và nuôi cá. Tuy nhiên, nếu bảo đảm được “đầu ra” tốt, thì đây là nguồn thu không nhỏ. Cái khó chung của các đồn BP trên tuyến biên giới huyện Ia H’Drai vẫn là giao thông cách trở, sống xa khu dân cư nên không thể liên kết trong khâu tiêu thụ sản phẩm với bà con nhân dân. Đồn BP Sa Thầy hiện tại được giao nhiệm vụ quản lý địa bàn 4 thôn thuộc 2 xã Ia Tơl và Ia Đal (Ia H’Drai) với dân số trên 1.200 nhân khẩu. Mặc dù vậy, nếu so với thời chưa thành lập huyện mới, địa bàn còn trắng dân cư thì chẳng khác nhau là bao, bởi nơi gần dân nhất cũng cách hàng chục cây số. Bài toán “đầu ra” cho cây chuối thậm chí còn “khó giải” hơn nhiều đối với Đồn BP Mo Ray, đơn vị nằm cách trung tâm huyện Ia H’Drai khoảng 50 cây số theo đường tuần tra biên giới. Hơn 2ha chuối ở đây đã đến kỳ thu hoạch cũng chỉ để phục vụ chăn nuôi. Lãng phí đấy, nhưng không thể không trồng, vì còn phải giải quyết nguồn thức ăn cho đàn gia súc, gia cầm lên đến hàng mấy trăm con cùng hơn 2.000m2 ao thả cá. Một người lính trẻ nói vui với tôi: “Ngày nào cũng nhìn thấy chuối chín vàng cả vườn, cháu vừa ngán, vừa tiếc, chú ạ. Giá như ở nhà có nhiều chuối thế này để bán thì lợi đủ đường. Bình thường ở đồn BP, rau, củ, quả ăn không hết, giờ lại thêm chuối nữa. Nếu được gần dân, mình có thể mang những thứ này ra chia sẻ cho bà con…” Những mất mát lặng thầm – chuyện bây giờ mới kể Sống cách biệt với khu dân cư dường như đã trở thành “điểm đến” quen thuộc của lính BP – những “công dân đầu tiên” của huyện mới Ia H’Drai. “Xa dân, gần rừng” bên cạnh khó khăn trở ngại trong công tác, những thiếu thốn về tình cảm và hàng loạt trải nghiệm vất vả, nhọc nhằn giữa miền thời tiết khí hậu khắc nghiệt, vẫn còn đó những mất mát lặng thầm mà người lính phải kìm nén trong lòng. Nhiều người lính ra quân rồi mới phát bệnh do bị nhiễm sốt rét, hoặc suốt một thời gian dài uống phải nguồn nước không đảm bảo vệ sinh và an toàn sức khỏe. Điều kiện hôm nay đã được cải thiện rất nhiều, chứ hồi còn mang danh là “công dân” đầu tiên, duy nhất ở vùng đất này thì không thể kể hết được. Đến cả những cán bộ hiện đang còn công tác cũng có người phải chịu những di chứng do căn bệnh sốt rét quái ác gây nên. Câu chuyện của Thượng tá Trần Đình Hào, Đồn trưởng Đồn BP Mo Ray khiến tôi khâm phục ý chí, quyết tâm vượt khó suốt một cuộc hành trình dài đằng đẵng anh phải đi chữa bệnh hiếm muộn để được làm cha. Tất cả bắt đầu từ chuỗi ngày anh sống, công tác trên biên giới trong môi trường khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Sốt rét biến chứng không chỉ bào mòn sức khỏe của người sĩ quan BP đang ở thời kỳ sung sức nhất, mà còn là “thủ phạm” chính khiến anh phải xuôi ngược khắp nơi để điều trị bệnh hiếm muộn. Sau khi biết mình không thể sinh con theo cách tự nhiên, vợ chồng Thượng tá Trần Đình Hào quyết định nhờ đến sự can thiệp của y học hiện đại. Cũng phải kỳ công và tốn kém lắm, hai vợ chồng anh mới thỏa được nỗi khát khao khi hai cô con gái xinh xắn, khỏe mạnh lần lượt ra đời. Xúc động nhất là khoảnh khắc anh nhận được tin vợ mình sinh cô con gái đầu lòng. Đang trên đường trở vào đơn vị sau chuyến công tác, anh ghé vào quán nhỏ ven đường để “mở tiệc” ăn mừng. Tại đây, không kể người quen hay lạ, đàn ông hay đàn bà, anh đều “mở lòng” thông báo tin vui cho mọi người và uống thật say cho thỏa nỗi khát vọng kìm nén từ bấy lâu nay. Tối hôm ấy, tràn ngập trong niềm hạnh phúc vô bờ, Thượng tá ngồi viết lá thư cho con gái như dòng nhật ký chân thật mà sâu sắc nhất cuộc đời mình: “Con gái yêu của bố. Vậy là bao tháng ngày, bố mẹ vất vả ngược xuôi vào Nam ra Bắc tìm thuốc, tìm thầy chữa bệnh, giờ đã có kết quả mỹ mãn. Lúc này bố hạnh phúc vô cùng, chỉ mong sao con khỏe mạnh chóng lớn để bố được yêu thương chăm sóc, dạy dỗ con nên người…”. Giờ đây, mỗi khi đọc lại những dòng thư ấy, người Đồn trưởng như được sống lại cảm xúc “lần đầu được làm cha” để rồi nước mắt lại rưng rưng. Câu chuyện của Đồn trưởng Đồn BP Mo Ray khiến tôi càng thêm thấm thía tính nhân văn trong chương trình hỗ trợ hiếm muộn của lực lượng BĐBP đã và đang triển khai thực hiện. Chúng ta đã có nhiều nỗ lực cống hiến vì chủ quyền thiêng liêng, vì niềm hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng biên giới, nhưng vẫn không quên “nhìn lại chính mình”, bởi ở đó vẫn còn có những mảnh đời éo le, những số phận nghiệt ngã cần sự giúp đỡ. Câu chuyện về những “công dân đầu tiên” của huyện mới Ia H’Drai như lời khẳng định vai trò của người lính BP trong quá trình xây dựng và phát triển một miền quê biên giới. Dẫu phải trải qua bao gian nan thử thách, những mất mát lặng thầm, nhưng những “ngôi sao xanh” vẫn vững vàng bám trụ chốn biên cương “xa dân, gần rừng” để tiếp tục cống hiến. Cẩm Xuyên
Giới thiệu khái quát huyện Trực Ninh Trực Ninh là phần phía nam huyện Nam Chân xưa; huyện Nam Chân là một trong 4 huyện thuộc phủ Thiên Trường- từ thời nhà Trần , thời thuộc Minh đổi thành phủ Phụng Hoá, nhà Lê lấy lại tên cũ Thiên Trường, đến năm 1682 thời Lê Trung Hưng đổi thành Nam Chân. Năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chia huyện Nam Chân thành hai huyện Nam Chân và Chân Ninh. Thời vua Tự Đức đổi làm Xuân Trường. Thời kỳ Thành Thái đổi Chân Ninh thành Trực Ninh. Khi mới thành lập (1833) huyện Chân Ninh gồm 6 tổng của huyện Nam Chân cũ là Duyên Hưng Hạ, Kim Giả, Phương Để, Quần Lãng, Thần Khê, Trung Lao và tổng Ninh Nhất mới hình thành, tương đương với huyện Trực Ninh và một phần phía tây huyện Hải Hậu ngày nay. Thời Tự Đức gồm 7 tổng, 62 xã, thôn, trang; cuối thế kỷ 19 còn 52 xã, thôn do cắt một số xã lập huyện Hải Hậu. Đầu thế kỷ 20 huyện Trực Ninh gồm 7 tổng với 52 xã, thôn. Các tổng thuộc huyện Trực Ninh vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, như sau: Duyên Hưng Hạ, Giả Thượng, Kim Giả, Ngọc Giả, Ninh Cường, Phương Để, Quần Lãng, Thần Khê. Sau Cách mạng Tháng Tám , huyện Trực Ninh thành lập các xã mới, trên cơ sở sáp nhập nhiều xã, làng cũ và đặt tên mới, gồm 27 xã: Trực Bình, Trực Cát, Trực Chính, Trực Cường, Trực Đại, Trực Đạo, Trực Định, Trực Đông, Trực Hải, Trực Hùng, Trực Hưng, Trực Khang, Trực Liêm, Trực Mỹ, Trực Nghĩa, Trực Nội, Trực Phú, Trực Phương, Trực Thái, Trực Thắng, Trực Thanh, Trực Thành, Trực Thuận, Trực Tiến, Trực Tĩnh, Trực Trung, Trực Tuấn. Năm 1971, hợp nhất xã Trực Liêm và xã Trực Hải thành xã Liêm Hải. Ngày 18-12-1976, hợp nhất xã Trực Trung và xã Trực Đông thành xã Trung Đông; hợp nhất xã Trực Đại và xã Trực Tiến thành xã Trực Đại. Ngày 23-2-1977, hợp nhất xã Trực Bình và xã Trực Tĩnh thành xã Việt Hùng. Ngày 27-3-1978, hợp nhất xã Trực Cát và xã Trực Thành thành xã Cát Thành; hợp nhất xã Trực Phương và xã Trực Định thành xã Phương Định; hợp nhất xã Trực Chính và xã Trực Nghĩa thành xã Chính Nghĩa. Ngày 10-1-1984, chia xã Chính Nghĩa thành 2 đơn vị hành chính lấy tên là xã Trực Chính và thị trấn Cổ Lễ (xã Trực Nghĩa cũ). Địa giới hành chính và tên gọi các xã tiếp tục có sự điều chỉnh trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20. Năm 1968, Trực Ninh nhập với Nam Trực thành huyện Nam Ninh thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Đến ngày 01/4/1997, thì tách ra thành 2 huyện như cũ theo Nghị định 19-CP của Chính phủ, huyện Trực Ninh thuộc tỉnh Nam Định. Ngày 31-3-2006, chuyển xã Cát Thành thành thị trấn Cát Thành. Ngày 13-12-2017, chuyển xã Trực Phú thành thị trấn Ninh Cường Huyện Trực Ninh ngày nay nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Nam Định ; diện tích tự nhiên 14.395,4 ha; dân số 178.103 người. Huyện có 21 đơn vị hành chính, gồm 18xã: Liêm Hải, Phương Định, Trực Chính, Trực Cường, Trực Đại, Trực Đạo, Trực Hùng, Trực Khang, Trực Nội, Trực Thái, Trực Thắng, Trực Hưng, Trực Mỹ, Trực Thanh, Trực Thuận, Trực Tuấn, Trung Đông, Việt Hùng và 3 thị trấn: Cát Thành, Cổ Lễ , Ninh Cường; thị trấn Cổ Lễ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện. Vị trí địa lý : Phía Bắc giáp huyện Nam Trực và tỉnh Thái Bình, lấy sông Hồng làm ranh giới; phía Nam giáp huyện Hải Hậu; phía Đông giáp huyện Xuân Trường; phía Tây giáp huyện Nghĩa Hưng. Với địa thế có nhiều tuyến giao thông quan trọng đi qua, như: Quốc lộ 21, 21B, 37B; tỉnh lộ 490C, 487, 488B, là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển các ngành dịch vụ, thương mại. Sông Hồng, sông Ninh Cơ là những mạch giao thông thủy quan trọng, thuận lợi cho Trực Ninh trong việc vận chuyển, trao đổi hàng hóa, giao lưu kinh tế với các địa bàn khác trong và ngoài tỉnh. Đặc điểm địa hình : Huyện Trực Ninh có 2 tiểu vùng rõ rệt là vùng Bắc và vùng Nam. Vùng Bắc ở Tây Bắc sông Ninh Cơ gồm 13 xã và 2 thị trấn (Cổ Lễ, Cát Thành) địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam. Vùng Nam nằm phía Tây Nam sông Ninh Cơ, gồm 6 xã ven Quốc lộ 37B, địa hình khá bằng phẳng, nghiêng đều về phía Nam. Thuỷ văn : Đất đai của huyện nằm ven sông Hồng và 2 bên sông Ninh cơ, được bao bọc bởi 6,3 Km đê sông Hồng và 37 Km đê tả, hữu sông Ninh cơ; đất đai màu mỡ có tiềm năng về sản xuất nông nghiệp. Nằm trong vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp của lũ, bão và thuỷ triều; Mật độ kênh mương nội đồng khá dày, trung bình 0,7- 0,9 Km/km2 nguồn nước tưới tiêu thuận tiện. Nguồn nước mặt do sông Hồng và Sông Ninh Cơ cung cấp dồi dào, vùng hạ lưu sông Ninh Cơ bị ảnh hưởng nước mặn. Lượng mưa bình quân hàng năm 1.500- 1.800 mm. Nguồn nước ngầm phong phú có thể khai thác tới độ sâu 120- 200 m.Lượng phù sa bồi đắp hàng năm, cùng với hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh cũng là điều kiện tốt để Trực Ninh phát triển nông nghiệp, là một trong những huyện trọng điểm sản xuất lúa của tỉnh. Văn hoá- xã hội : Huyện Trực Ninh có truyền thống văn hoá, cách mạng; nhân dân lao động cần cù, sáng tạo; Nhân dân và cán bộ 14 xã, thị trấn và nhân dân và cán bộ huyện Trực Ninh được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp; nhân dân và cán bộ huyện Trực Ninh được tặng thưởng Huân chương lao động Hạng ba năm 2012 và Huân chương lao động hạng Nhì năm 2016; huyện có hàng trăm đền chùa, nhà thờ và nhiều công trình kiến trúc cố, trong đó có 12 công trình được Bộ Văn hoá và UBND tỉnh xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá; Có nghệ thuật hát chầu văn, múa rối, hát chèo … Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư phát triển, các thôn, làng đã xây dựng và triển khai thực hiện quy ước nếp sống văn hoá; phong trào xây dựng gia đình hoà thuận, chung sức làm giàu chính đáng phấn đấu trở thành gia đình văn hoá phát triển mạnh. Phong trào khuyến học khuyến tài phát triển mạnh, những năm gần đây, ngành giáo dục đào tạo của huyện liên tục xếp tốp đầu tỉnh. Cán bộ đảng viên và nhân dân trong huyện đoàn kết, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp, tích cực thi đua lao động, học tập và công tác, đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm, không còn hộ đói. Nhân dân tích cực hưởng ứng đóng góp công sức, tiền của xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng điện, đường giao thông, trường học, trạm Y tế … Huyện Trực Ninh được Thủ tướng Chính phủ Công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2017, theo Quyết định số 196/QĐ-TTg ngày 09/02/2018.
General introduction of Truc Ninh district Truc Ninh is the southern part of ancient Nam Chan district; Nam Chan district is one of four districts belonging to Thien Truong district - from the time the dynasty of Tran , colonial period Bright changed to Phung Hoa district, Le family regained the old name Thien Truong, and in 1682 under Le Trung Hung's reign, it was changed to Nam Chan. In the 14th year of Minh Mang (1833), Nam Chan district was divided into two districts: Nam Chan and Chan Ninh. King's time Tu Duc changed to Xuan Truong. During the Thanh Thai period, Chan Ninh was changed to Truc Ninh. When first established (1833), Chan Ninh district included 6 cantons of the old Nam Chan district: Duyen Hung Ha, Kim Gia, Phuong De, Quan Lang, Than Khe, Trung Lao and the newly formed Ninh Nhat canton, equivalent to Truc district. Ninh and a western part of Hai Hau district today. During the Tu Duc period, there were 7 cantons, 62 communes, villages, and pages; At the end of the 19th century, there were still 52 communes and villages due to cutting some communes to form Hai Hau district. At the beginning of the 20th century, Truc Ninh district consisted of 7 communes and 52 communes and villages. The cantons of Truc Ninh district in the late 19th and early 20th centuries were as follows: Duyen Hung Ha, Gia Thuong, Kim Gia, Ngoc Gia, Ninh Cuong, Phuong De, Quan Lang, Than Khe. After August Revolution , Truc Ninh district established new communes, on the basis of merging many old communes and villages and giving them new names, including 27 communes: Truc Binh, Truc Cat, Truc Chinh, Truc Cuong, Truc Dai, Truc Dao, Truc Dinh, Truc Dong, Truc Hai, Truc Hung, Truc Hung, Truc Khang, Truc Liem, Truc My, Truc Nghia, Truc Noi, Truc Phu, Truc Phuong, Truc Thai, Truc Thang, Truc Thanh, Truc Thanh, Truc Thuan, Truc Tien , Truc Tinh, Truc Trung, Truc Tuan. In 1971, Truc Liem commune and Truc Hai commune merged into Liem Hai commune. On December 18, 1976, Truc Trung commune and Truc Dong commune merged into Trung Dong commune; Merge Truc Dai commune and Truc Tien commune into Truc Dai commune. On February 23, 1977, Truc Binh commune and Truc Tinh commune merged into Viet Hung commune. On March 27, 1978, Truc Cat commune and Truc Thanh commune merged into Cat Thanh commune; Merge Truc Phuong commune and Truc Dinh commune into Phuong Dinh commune; Merge Truc Chinh commune and Truc Nghia commune into Chinh Nghia commune. On January 10, 1984, Chinh Nghia commune was divided into two administrative units named Truc Chinh commune and Co Le town (former Truc Nghia commune). The administrative boundaries and names of communes continued to be adjusted in the last decades of the 20th century. In 1968, Truc Ninh merged with Nam Truc to form Nam Ninh district in Ha Nam Ninh province. On April 1, 1997, it was separated into 2 old districts according to Decree 19-CP of the Government, Truc Ninh district in Nam Dinh province. On March 31, 2006, Cat Thanh commune was transformed into Cat Thanh town. On December 13, 2017, Truc Phu commune was converted into Ninh Cuong town Truc Ninh district today is located in the southeast of the city Nam Dinh ; Natural area 14,395.4 hectares; population 178,103 people. The district has 21 administrative units, including 18 communes: Liem Hai, Phuong Dinh, Truc Chinh, Truc Cuong, Truc Dai, Truc Dao, Truc Hung, Truc Khang, Truc Noi, Truc Thai, Truc Thang, Truc Hung, Truc My, Truc Thanh, Truc Thuan, Truc Tuan, Trung Dong, Viet Hung and 3 towns: Cat Thanh, Co Le, Ninh Cuong; Co Le town is the political, economic and cultural center of the district. Geographical location : The North borders Nam Truc district and Thai Binh province, taking the Red River as the boundary; The South borders Hai Hau district; The East borders Xuan Truong district; The West borders Nghia Hung district. With the terrain, there are many important traffic routes passing through, such as: National Highways 21, 21B, 37B; Provincial roads 490C, 487, 488B are favorable conditions for the district to develop service and trade industries. The Red River and Ninh Co River are important waterways, convenient for Truc Ninh in transporting, exchanging goods, and economic exchanges with other areas inside and outside the province. Topographic characteristics : Truc Ninh district has two distinct sub-regions: the North and the South. The Northern region in the Northwest of Ninh Co River includes 13 communes and 2 towns (Co Le, Cat Thanh) with terrain gradually lowering from North to South. The Southern region is located southwest of Ninh Co River, including 6 communes along National Highway 37B, the terrain is quite flat, tilting evenly to the South. Hydrology : The district's land is located along the Red River and both sides of the Ninh Co River, surrounded by 6.3 Km of Red River dyke and 37 Km of left and right Ninh Co River dykes; Fertile land with potential for agricultural production. Located in an area often directly affected by floods, storms and tides; The density of inland canals is quite thick, an average of 0.7-0.9 Km/km2, a convenient water source for irrigation. Surface water sources are abundantly provided by the Red River and Ninh Co River. The downstream area of ​​the Ninh Co River is affected by salt water. Average annual rainfall is 1,500-1,800 mm. Abundant underground water sources can be exploited to a depth of 120-200 m. The annual amount of alluvium, along with a relatively complete irrigation system, is also a good condition for Truc Ninh to develop agriculture. in key rice production districts of the province. Culture and society : Truc Ninh district has a cultural and revolutionary tradition; The people work diligently and creatively; People and officials of 14 communes, towns and people and officials of Truc Ninh district were awarded the title of Hero of the Armed Forces during the resistance war against the French colonialists by the President; People and officials of Truc Ninh district were awarded the Third Class Labor Medal in 2012 and the Second Class Labor Medal in 2016; The district has hundreds of temples, churches and many ancient architectural works, of which 12 works are classified as historical and cultural relics by the Ministry of Culture and the Provincial People's Committee; There are the arts of adoration singing, puppetry, cheo singing... The movement of all people uniting to build cultural life in developed residential areas, hamlets and villages have built and implemented cultural lifestyle conventions. ; movement to build harmonious families, work together to get rich legitimately and strive to become a thriving cultural family. The movement to encourage learning and talent has developed strongly. In recent years, the district's education and training sector has continuously ranked among the top in the province. Party members and people in the district unite, believe in the leadership of the Party and authorities at all levels, actively compete in labor, study and work, improving material and spiritual life. , the rate of poor households decreased, there were no more hungry households. People actively responded by contributing effort and money to build electrical infrastructure projects, roads, schools, medical stations... Truc Ninh district was recognized by the Prime Minister as meeting New Rural standards in 2017, according to Decision Không. 196/QD-TTg dated February 9, 2018.
Giới thiệu khái quát huyện Xuân Trường Xuân Trường là huyện ở phía Đông Nam của tỉnh Nam Định , Phía Bắc giáp huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, phía Nam giáp huyện Hải Hậu, phía Đông giáp huyện Giao Thủy, phía Tây giáp huyện Trực Ninh. * Diện tích: Diện tích tự nhiên 112,8 km 2. * Dân số: Trên 19 vạn người, trong đó đồng bào theo đạo thiên chúa giáo chiếm khoảng 30%, mật độ dân số khoảng 1.696 người/km2 (cao hơn bình quân chung của tỉnh). Dân số trong độ tuổi lao động có gần 10 vạn người (trong đó lao động nông nghiệp chiếm khoảng 72%). Nhìn chung, người lao động Xuân Trường có trình độ văn hóa, cần cù, sáng tạo trong lao động, nhiều người có tay nghề cao, là tiền đề quan trọng để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đạihóa quê hương. * Các đơn vị hành chính: huyện gồm 19 xã và một thị trấn là Xuân Bắc, Xuân Châu, Xuân Đài, Xuân Hòa , Xuân Hồng, Xuân Kiên, Xuân Ninh, Xuân Ngọc, Xuân Phong, Xuân Phú, Xuân Phương, Xuân Tân, Xuân Thành, Xuân Thủy, Thọ Nghiệp, Xuân Thượng, Xuân Tiến, Xuân Trung, Xuân Vinh và Thị trấn Xuân Trường. * Điều kiện tự nhiên: Là huyện thuộc vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng, địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiêu, màu mỡ, được bao bọc bởi 3 con sông lớn: phía Bắc là sông Hồng, phía Tây là sông Ninh Cơ, phía Đông là sông Sò, trên địa bàn huyện còn có hệ thống sông ngòi, mương máng thuận tiện cho giao thông vận tải và tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. * Lịch sử hình thành: Huyện Xuân Trường từ xa xưa vốn là một phần đất do biển bồi tạo nên của hương Giao Thủy. Vào thế kỷ XIII (thời Trần), huyện Giao Thủy (gồm cả Xuân Trường và Giao Thủy ngày nay) là một trong bốn huyện thuộc Phủ Thiên Trường. Năm 1862 phủ Thiên Trường được đổi thành phủ Xuân Trường, như vậy tên Xuân Trường xuất hiện từ thế kỷ XIX nhưng không chỉ địa danh như hiện nay mà là địa danh của một phủ. Tới năm 1934 (đời vua Bảo Đại) phủ Xuân Trường chỉ còn là đơn vị hành chính cấp huyện, cùng với huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Định. Cho tới năm 1948 chính thức đổi phủ Xuân Trường thành huyện Xuân Trường. Tháng 12/1967 theo Quyết định của Chính phủ, hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy hợp nhất thành huyện Xuân Thủy. Sau 30 năm hợp nhất, ngày 16/02/1997 Chính phủ đã có Nghị định 19/NĐ-CP chính thức tách huyện Xuân Thủy thành 2 huyện Xuân Trường và Giao Thủy. Huyện Xuân Trường tái lập, chính thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới từ ngày 01/04/1997 đến nay. * Về phát triển kinh tế: – Là một huyện trọng điểm lúa của tỉnh Nam Định, Xuân Trường có khoảng 8.000 ha đất nông nghiệp trong tổng số 11.047ha đất tự nhiên (chiếm khoảng 71%). Người nông dân ở Xuân Trường có truyền thống thâm canh lúa nước, tiếp thu nhanh những tiến bộ KHKT ứng dụng vào sản xuất nên năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi đã không ngừng tăng lên trong những năm qua. Xuân Trường nổi tiếng với gạo Tám xoan ấp bẹ Xuân Đài, hay còn gọi là gạo “tiến vua” được ưa chuộng trong nước. – Sản xuất CN – TTCN và dịch vụ của huyện có bước phát triển mạnh kể từ sau khi tái lập huyện đã và đang trở thành khâu đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội của huyện với các ngành sản xuất chủ yếu là cơ khí, dệt may, vận tải thủy. Hiện trên địa bàn huyện đã hình thành 4 cụm công nghiệp tập trung với tổng diện tích 52 ha, đã thu hút 53 doanh nghiệp đầu tư, tạo việc làm cho hơn 5.000 lao động. Toàn huyện hiện có gần 300 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh đang hoạt động. Các làng nghề truyền thống của huyện gồm làng nghề cơ khí (xã Xuân Tiến), thêu ren (xã Xuân Phương), dệt chiếu cói (xã Xuân Ninh), chế biến lâm sản (xã Xuân Bắc), vận tải thủy (xã Xuân Trung), sản xuất lúa tám thơm (xã Xuân Đài)…được duy trì và phát triển, đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động với thu nhập ổn định. * Về văn hóa – xã hộ i: Xuân Trường là huyện có truyền thống văn hóa và cách mạng, có Chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1930 và có nhiều nhà hoạt động cách mạng xuất sắc, giữ các trọng trách của Đảng, Nhà nước, Quân đội, tiêu biểu trong số đó là Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Trường Chinh. Đến nay, toàn huyện có 16 sỹ quan cấp tướng, 11 anh hùng LLVT nhân dân, 2 anh hùng lao động. Huyện và 11 xã, thị trấn trong huyện được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ chống Pháp; Hợp tác xã nông nghiệp xã Xuân Phương được phong tặng danh hiệu AHLĐ trong thời kỳ đổi mới. Với bề dầy lịch sử đáng tự hào, Xuân Trường có nhiều công trình kiến trúc văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo độc đáo với 29 di tích lịch sử văn hóa được Nhà nước xếp hạng, tiêu biểu là Quần thể lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh; Di tích chùa Keo được xây dựng từ thế kỷ XIII với nhiều giá trị kĩ – mĩ thuật nổi tiếng; Tiểu vương cung Thánh đường Phú Nhai, Tòa giám mục Bùi Chu – Trung tâm điều hành công giáo của các huyện phí Nam tỉnh Nam Định, đó là tiềm năng, lợi thế quan trọng về phát triển du lịch, phát triển kinh tế xã hội. Người dân Xuân Trường vốn thông minh, sáng tạo, giàu ý trí, nghị lực và khát vọng vươn lên. Nhiều thế hệ đã hun đúc lên truyền thống hiếu học và học giỏi – một trong hai mũi nhọn truyền thống của Xuân Trường. Từ xưa, nơi đây đã có nhiều ngườiđỗ đạt cao, tiêu biểu là các sĩ tử của làng Hành Thiện, Trà Lũ, Nghĩa Xá, Ngọc Tỉnh… Trong đó có nhiều học giả nổi tiếng, nhiều nhà nho yêu nước, nhà hoạt động cách mạng đầy nhiệt huyết đã để lại cho hậu thế những truyền thống tốt đẹp nhiều cuốn sách hay, những kinh nghiệm quý. Trong dân gian, từ lâu vẫn lưu truyền câu ca “Xứ đông Cổ Am, xứ Nam Hành Thiện” chính là nhắc tới làng Hành Thiện (xã Xuân Hồng) nổi tiếng cả nước về truyền thống học hành đỗ đạt. Thời nho học huyện có 11 người đỗ Đạikhoa; sau cách mạng tháng Tám, sự học của người Xuân Trường tiếp tục được coi trọng và phát triển, đến nay toàn huyện có 91 người có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư; 263 người có học vị Tiến sĩ. Các lễ hội truyền thống tiêu biểu: Lễ hội Đền – chùa Kiên Lao xã Xuân Kiên (05 tháng Giêng), Lễ hội làng An Cư xã Xuân Vinh (06- 07 tháng Giêng), lễ hội chùa Thọ Vực xã Xuân Phong (15 tháng Giêng), Lễ hội làng Nhân Thọ xã Thọ Nghiệp (15 tháng Giêng), Lễ hội làng Ngọc Tỉnh thị trấn Xuân Trường (11 tháng Giêng), Lễ hội làng Xuân Bảng thị trấn Xuân Trường (12/02- AL), Lễ hội Chùa Nghĩa Xá xã Xuân Ninh (01/3-AL), Lễ hội làng xã Xuân Bắc (15/3-AL), Lễ hội Đền Xuân Hy xã Xuân Thủy (20/8-AL), Lễ hội chùa Keo Hành Thiện xã Xuân Hồng (12-15/9-AL).
General introduction of Xuan Truong district Xuan Truong is a district in the Southeast of Vietnam Nam Dinh , The North borders Vu Thu district, Thai Binh province, the South borders Hai Hau district, the East borders Giao Thuy district, the West borders Truc Ninh district. * Acreage: Natural area 112.8 km2 2. * Population: Over 190,000 people, of which Catholics account for about 30%, population density is about 1,696 people/km2 (higher than the province's average). The working age population is nearly 100,000 people (of which agricultural workers account for about 72%). In general, Xuan Truong workers are educated, diligent, and creative in their work, many of them are highly skilled, which is an important premise for developing human resources to meet the cause of industrialization and modernization. modernize the homeland. * Administrative units: The district includes 19 communes and one town: Xuan Bac, Xuan Chau, Xuan Dai, Xuan Hoa, Xuan Hong, Xuan Kien, Xuan Ninh, Xuan Ngoc, Xuan Phong, Xuan Phu, Xuan Phuong, Xuan Tan, Xuan Thanh, Xuan Thuy , Tho Nghiep, Xuan Thuong, Xuan Tien, Xuan Trung, Xuan Vinh and Xuan Truong Town. * Natural condition: Is a district in the Red River Delta, flat terrain, fertile land, surrounded by 3 large rivers: the North is the Red River, the West is the Ninh Co River, the East is the Red River. The district also has a system of rivers and ditches that are convenient for transportation and irrigation for agricultural production. * History begin: Xuan Truong district has long been a part of land created by the sea in Giao Thuy province. In the 13th century (Tran dynasty), Giao Thuy district (including Xuan Truong and Giao Thuy today) was one of four districts belonging to Phu Thien Truong. In 1862, Thien Truong palace was changed to Xuan Truong palace, so the name Xuan Truong appeared in the 19th century, but it was not just a place name like today, but the place name of a palace. By 1934 (during the reign of King Bao Dai), Xuan Truong district was only a district-level administrative unit, along with Giao Thuy district in Nam Dinh province. Until 1948, Xuan Truong district was officially changed to Xuan Truong district. In December 1967, according to the Government's Decision, Xuan Truong and Giao Thuy districts merged into Xuan Thuy district. After 30 years of consolidation, on February 16, 1997, the Government issued Decree 19/ND-CP officially separating Xuan Thuy district into two districts: Xuan Truong and Giao Thuy. Xuan Truong district was re-established and officially came into operation under a new administrative unit from April 1, 1997 to present. * Regarding economic development: – As a key rice district of Nam Dinh province, Xuan Truong has about 8,000 hectares of agricultural land out of a total of 11,047 hectares of natural land (accounting for about 71%). Farmers in Xuan Truong have a tradition of intensive rice cultivation and quickly absorb scientific and technological advances applied to production, so productivity and output of crops and livestock have continuously increased in recent years. Xuan Truong is famous for Tam Xan rice in Xuan Dai hamlet, also known as "Tien King" rice, which is popular in the country. - Industrial production - Handicrafts and services of the district have developed strongly since the re-establishment of the district and have become a strategic breakthrough in the socio-economic development of the district with major manufacturing industries. are mechanical engineering, textiles, and water transportation. Currently, 4 concentrated industrial clusters have been formed in the district with a total area of ​​52 hectares, attracting 53 investment enterprises, creating jobs for more than 5,000 workers. The entire district currently has nearly 300 businesses and production and business establishments in operation. The district's traditional craft villages include mechanical craft villages (Xuan Tien commune), embroidery (Xuan Phuong commune), sedge mat weaving (Xuan Ninh commune), forest product processing (Xuan Bac commune), and water transport (Xuan Bac commune). Xuan Trung), eight fragrant rice production (Xuan Dai commune)... has been maintained and developed, creating jobs for tens of thousands of workers with stable income. * About culture and society i: Xuan Truong is a district with a cultural and revolutionary tradition, has had a Communist Party of Vietnam cell since 1930 and has many outstanding revolutionary activists, holding important responsibilities of the Party, State, and Army, typically Among them is General Secretary - President Truong Chinh. To date, the entire district has 16 general-level officers, 11 people's armed forces heroes, and 2 labor heroes. The district and 11 communes and towns in the district were awarded the title of Hero of the People's Armed Forces during the anti-French period; Xuan Phuong commune agricultural cooperative was awarded the title of AHLH during the innovation period. With a proud history, Xuan Truong has many unique cultural and religious architectural works with 29 historical and cultural relics ranked by the State, typically the Memorial Complex of the late General Secretary. Truong Chinh letter; Keo Pagoda relics were built in the 13th century with many famous technical and artistic values; Phu Nhai Minor Basilica, Bui Chu Bishop's Palace - Catholic operating center of the southern districts of Nam Dinh province, which is an important potential and advantage in tourism development and socio-economic development. . The people of Xuan Truong are intelligent, creative, rich in will, energy and desire to rise. Many generations have fostered the tradition of studiousness and good learning - one of the two traditional spearheads of Xuan Truong. Since ancient times, there have been many people here who have achieved high scores, typically scholars from the villages of Hanh Thien, Tra Lu, Nghia Xa, Ngoc Tinh... Among them are many famous scholars, many patriotic Confucian scholars, and activists. The passionate revolution left behind many good traditions and many good books and valuable experiences. In folk culture, the song "The land of the East Co Am, the land of the South of Hanh Thien" has long been passed down, referring to Hanh Thien village (Xuan Hong commune) famous throughout the country for its tradition of successful learning. During Confucian studies in the district, 11 people passed the University exam; After the August Revolution, the education of Xuan Truong people continued to be respected and developed. Up to now, the entire district has 91 people with the title of Professor and Associate Professor; 263 people have PhD degrees. Typical traditional festivals: Kien Lao Temple - Temple Festival in Xuan Kien commune (January 5), An Cu village festival in Xuan Vinh commune (January 6-7), Tho Vuc pagoda festival in Xuan Phong commune (January 15 January), Nhan Tho village festival, Tho Nghiep commune (January 15), Ngoc village festival, Xuan Truong town (January 11), Xuan Bang village festival, Xuan Truong town (February 12, AL), Nghia Xa Pagoda Festival in Xuan Ninh commune (March 1-AL), Xuan Bac commune Village Festival (March 15-AL), Xuan Hy Temple Festival in Xuan Thuy commune (August 20-AL), Keo Pagoda Festival Hanh Thien Xuan Hong commune (September 12-15-AL).
Giới thiệu khái quát huyện Vụ Bản Vị trí: Huyện Vụ Bản nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh; giáp 2 thành phố là: Nam Định và Ninh Bình, có mạng lưới giao thông vận tải thuận tiện với tuyến đường sắt Bắc Nam và các tuyến Quốc lộ 10, Quốc lộ 21, Quốc lộ 37B, Quốc lộ 38B chạy qua; có không gian mở kết nối giữa hai thành phố Nam Định và Ninh Bình, trên tuyến hành lang cao tốc Ninh Bình-Nam Định-Hải Phòng và các huyện phía Nam của tỉnh. Diện tích: 152,81 km 2 (Số liệu của Chi cục Thống kê huyện tại thời điểm tháng 12/2015) Dân số: 130,763 người (Số liệu cập nhật đến thời điểm tháng 12/2015) Các đơn vị hành chính gồm: Thị trấn Gôi- huyện lỵ Trung tâm và 17 xã: Hiển Khánh, Minh Thuận, Tân Khánh, Hợp Hưng, Trung Thành, Quang Trung, Đại An, Kim Thái, Minh Tân, Tam Thanh, Liên Minh, Thành Lợi, Liên Bảo, Vĩnh Hào, Tân Thành, Cộng Hoà, Đại Thắng. Lịch sử: Thời Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, thời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Trước thời Lý – Trần, đất này nằm trong huyện Hiển Khánh. Thời Lý, huyện Thiên Bản nằm trong phủ Ứng Phong; đời Trần huyện Thiên Bản thuộc phủ Kiến Hưng. Năm Vĩnh Lạc thứ năm nhà Minh (1407), đổi làm huyện Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình. Năm Vĩnh Lạc thứ mười ba nhà Minh (1415), đổi huyện Độc Lập thành Bình Lập cho sáp nhập vào huyện Yên Bản. Đến đời Lê Thánh Tông lại đổi thành huyện Thiên Bản. Cũng dưới thời Lê Hồng Đức, huyện Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng. Đến thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 14 (1861) đổi tên thành huyện Vụ Bản. Đặc điểm: Huyện Vụ Bản thuộc vùng đất cổ, đất đai tương đối ổn định. Dọc phía tây huyện có các dãy núi đất lẫn đá chạy từ Bắc xuống Nam với sáu ngọn núi: Núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ. Dấu vết người nguyên thuỷ tìm thấy tại các khu vực núi này minh chứng Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ. Vụ Bản nằm kẹp giữa sông Đào và sông Sắt. Sông Đào một đầu nối với Sông Hồng, đầu kia đổ ra sông Đáy. Sông Sắt nối liền sông Châu với sông Đáy. Mảnh đất này chính là do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi tụ nên. Đã từ lâu huyện Vụ Bản được nhiều người biết đến với Chợ Viềng xuân và Lễ hội Phủ Dầy. Huyện Vụ Bản là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhiều người đã đỗ đạt cao, có danh vọng, đóng góp vào kho tàng văn hoá của dân tộc. Trong suốt thời kỳ khoa cử của chế độ phong kiến Việt Nam, Vụ Bản có 16 vị đỗ Tiến sĩ, Thám hoa, Bảng nhãn, Trạng nguyên. Danh nhân tiêu biểu phải kể đến Trạng nguyên Lương Thế Vinh, là một nhà chính trị xuất sắc, đứng đầu viện hàn lâm đảm trách việc văn thư cho nhà vua, lo việc bang giao với nước ngoài, luận bàn việc nước. Ông từng tham gia dạy học, đặc biệt cũng rất quan tâm đến phát triển kinh tế, mở mang đường sá,… Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ, khí thiêng sông núi đã hình thành và hun đúc nên truyền thống quý báu của người dân nơi đây. Người dân Vụ Bản hiếu học, cần cù lao động, kiên cường dũng cảm chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm, thuỷ chung tình nghĩa trong cuộc sống có tinh thần tự lực tự cường và ý thức cộng đồng sâu sắc, luôn kế thừa và phát huy truyền thống cha ông, làm rạng danh quê hương, đất nước. Truyền thống đó như sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ với hiện tại, tạo nên sức sống, trí tuệ, khí phách của người dân Vụ Bản. “Địa linh sinh nhân kiệt”, nơi đây đã sinh thành nhiều nhân vật nổi tiếng như Nhà sử học Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Bình Minh, Thượng tướng Song Hào, Nhà thơ Nguyễn Bính, Nhạc sĩ Văn Cao, Giáo sư nông học Bùi Huy Đáp – người có công mở ra hướng mới trong sản xuất nông nghiệp: trồng lúa chiêm xuân,… Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện và sự cố gắng nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, diện mạo kinh tế – xã hội huyện Vụ Bản đã có nhiều đổi mới trên mọi lĩnh vực. Với vị trí địa lý và mạng lưới giao thông đồng bộ là điều kiện thuận lợi để Vụ Bản phát triển các loại hình dịch vụ, vận tải hàng hoá và giao lưu kinh tế, văn hoá với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Vụ Bản có nguồn nhân lực dồi dào, người dân vốn có truyền thống anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù chịu khó trong lao động sản xuất. Đến cuối năm 2015, có trên 60 nghìn người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 45% dân số, trong đó, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ gần 60% lực lượng lao động. Đây là tiềm năng to lớn, đáp ứng sức lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của huyện; thế mạnh chủ yếu của nguồn lao động là cần cù, ham học và có tay nghề truyền thống khéo léo. Hiện nay, về Nông nghiệp: Huyện Vụ Bản đã thực hiện xong công tác dồn điền đổi thửa đối với đất nông nghiệp; xây dựng xong Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đang triển khai thực hiện trên địa bàn. Đồng thời, huy động mọi nguồn lực để thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Từng bước triển khai xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn (05/18 xã xây dựng là xã: Vĩnh Hào, Minh Tân, Liên Bảo, Đại Thắng, Trung Thành) , gắn liền với cơ giới hóa trong nông nghiệp. Tiếp tục chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng rau màu và nuôi trồng thuỷ sản. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm 21.200 ha, trong đó diện tích cấy lúa 16.870 ha, diện tích giống lúa chất lượng cao 8.300 ha, chiếm 50% diện tích. Tổng sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 95.558 tấn . Giá trị 1 ha canh tác đạt 93,5 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,1%/năm. Về phát triển Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp: Đã xây dựng được 01 khu công nghiệp Bảo Minh, với diện tích 165ha, trong tương lai sẽ còn tiếp tục được mở rộng. Đến thời điểm tháng 9/2016, đã có 10 nhà đầu tư thứ cấp đăng ký và đầu tư xây dựng xưởng sản xuất, tỷ lệ lấp đầy 80% diện tích, thu hút khoảng 8.500 công nhân vào làm việc cho thu nhập ổn định với mức lương đảm bảo đạt từ 3,5 đến 4,5 triệu đồng/tháng. 02 cụm Công nghiệp ở xã Quang Trung và xã Trung Thành, các nhà đầu tư đã từng bước đi vào sản xuất đem lại hiệu quả. Các ngành dịch vụ, du lịch, thương mại phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Giáo dục – Đào tạo tiếp tục phát triển; công tác y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ; các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, phát thanh, truyền thanh, bưu chính, viễn thông phát triển rộng khắp, góp phần tích cực, hiệu quả trong việc đưa thông tin về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; về văn hóa xã hội, khoa học công nghệ; về các phong trào thi đua, các điển hình tiên tiến…đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những thành tựu trong phát triển kinh tế đã làm cho diện mạo quê hương Vụ Bản từng bước hướng tới văn minh, giàu đẹp, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong những năm tới, Vụ Bản sẽ tiếp tục phấn đấu vươn lên để có thể sớm trở thành một trong những huyện giàu mạnh, văn minh, vững vàng theo kịp tiến trình hội nhập kinh tế cùng cả nước, xứng đáng với danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân mà Đảng và Nhà nước trao tặng./.
Giới thiệu khái quát huyện Vụ Bản Vị trí: Huyện Vụ Bản nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh; giáp 2 thành phố là: Nam Định và Ninh Bình, có mạng lưới giao thông vận tải thuận tiện với tuyến đường sắt Bắc Nam và các tuyến Quốc lộ 10, Quốc lộ 21, Quốc lộ 37B, Quốc lộ 38B chạy qua; có không gian mở kết nối giữa hai thành phố Nam Định và Ninh Bình, trên tuyến hành lang cao tốc Ninh Bình-Nam Định-Hải Phòng và các huyện phía Nam của tỉnh. Diện tích: 152,81 km 2 (Số liệu của Chi cục Thống kê huyện tại thời điểm tháng 12/2015) Dân số: 130,763 người (Số liệu cập nhật đến thời điểm tháng 12/2015) Các đơn vị hành chính gồm: Thị trấn Gôi- huyện lỵ Trung tâm và 17 xã: Hiển Khánh, Minh Thuận, Tân Khánh, Hợp Hưng, Trung Thành, Quang Trung, Đại An, Kim Thái, Minh Tân, Tam Thanh, Liên Minh, Thành Lợi, Liên Bảo, Vĩnh Hào, Tân Thành, Cộng Hoà, Đại Thắng. Lịch sử: Thời Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, thời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Trước thời Lý – Trần, đất này nằm trong huyện Hiển Khánh. Thời Lý, huyện Thiên Bản nằm trong phủ Ứng Phong; đời Trần huyện Thiên Bản thuộc phủ Kiến Hưng. Năm Vĩnh Lạc thứ năm nhà Minh (1407), đổi làm huyện Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình. Năm Vĩnh Lạc thứ mười ba nhà Minh (1415), đổi huyện Độc Lập thành Bình Lập cho sáp nhập vào huyện Yên Bản. Đến đời Lê Thánh Tông lại đổi thành huyện Thiên Bản. Cũng dưới thời Lê Hồng Đức, huyện Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng. Đến thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 14 (1861) đổi tên thành huyện Vụ Bản. Đặc điểm: Huyện Vụ Bản thuộc vùng đất cổ, đất đai tương đối ổn định. Dọc phía tây huyện có các dãy núi đất lẫn đá chạy từ Bắc xuống Nam với sáu ngọn núi: Núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ. Dấu vết người nguyên thuỷ tìm thấy tại các khu vực núi này minh chứng Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ. Vụ Bản nằm kẹp giữa sông Đào và sông Sắt. Sông Đào một đầu nối với Sông Hồng, đầu kia đổ ra sông Đáy. Sông Sắt nối liền sông Châu với sông Đáy. Mảnh đất này chính là do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi tụ nên. Đã từ lâu huyện Vụ Bản được nhiều người biết đến với Chợ Viềng xuân và Lễ hội Phủ Dầy. Huyện Vụ Bản là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhiều người đã đỗ đạt cao, có danh vọng, đóng góp vào kho tàng văn hoá của dân tộc. Trong suốt thời kỳ khoa cử của chế độ phong kiến Việt Nam, Vụ Bản có 16 vị đỗ Tiến sĩ, Thám hoa, Bảng nhãn, Trạng nguyên. Danh nhân tiêu biểu phải kể đến Trạng nguyên Lương Thế Vinh, là một nhà chính trị xuất sắc, đứng đầu viện hàn lâm đảm trách việc văn thư cho nhà vua, lo việc bang giao với nước ngoài, luận bàn việc nước. Ông từng tham gia dạy học, đặc biệt cũng rất quan tâm đến phát triển kinh tế, mở mang đường sá,… Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ, khí thiêng sông núi đã hình thành và hun đúc nên truyền thống quý báu của người dân nơi đây. Người dân Vụ Bản hiếu học, cần cù lao động, kiên cường dũng cảm chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm, thuỷ chung tình nghĩa trong cuộc sống có tinh thần tự lực tự cường và ý thức cộng đồng sâu sắc, luôn kế thừa và phát huy truyền thống cha ông, làm rạng danh quê hương, đất nước. Truyền thống đó như sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ với hiện tại, tạo nên sức sống, trí tuệ, khí phách của người dân Vụ Bản. “Địa linh sinh nhân kiệt”, nơi đây đã sinh thành nhiều nhân vật nổi tiếng như Nhà sử học Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Bình Minh, Thượng tướng Song Hào, Nhà thơ Nguyễn Bính, Nhạc sĩ Văn Cao, Giáo sư nông học Bùi Huy Đáp – người có công mở ra hướng mới trong sản xuất nông nghiệp: trồng lúa chiêm xuân,… Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện và sự cố gắng nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, diện mạo kinh tế – xã hội huyện Vụ Bản đã có nhiều đổi mới trên mọi lĩnh vực. Với vị trí địa lý và mạng lưới giao thông đồng bộ là điều kiện thuận lợi để Vụ Bản phát triển các loại hình dịch vụ, vận tải hàng hoá và giao lưu kinh tế, văn hoá với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Vụ Bản có nguồn nhân lực dồi dào, người dân vốn có truyền thống anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù chịu khó trong lao động sản xuất. Đến cuối năm 2015, có trên 60 nghìn người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 45% dân số, trong đó, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ gần 60% lực lượng lao động. Đây là tiềm năng to lớn, đáp ứng sức lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của huyện; thế mạnh chủ yếu của nguồn lao động là cần cù, ham học và có tay nghề truyền thống khéo léo. Hiện nay, về Nông nghiệp: Huyện Vụ Bản đã thực hiện xong công tác dồn điền đổi thửa đối với đất nông nghiệp; xây dựng xong Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đang triển khai thực hiện trên địa bàn. Đồng thời, huy động mọi nguồn lực để thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Từng bước triển khai xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn (05/18 xã xây dựng là xã: Vĩnh Hào, Minh Tân, Liên Bảo, Đại Thắng, Trung Thành) , gắn liền với cơ giới hóa trong nông nghiệp. Tiếp tục chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng rau màu và nuôi trồng thuỷ sản. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm 21.200 ha, trong đó diện tích cấy lúa 16.870 ha, diện tích giống lúa chất lượng cao 8.300 ha, chiếm 50% diện tích. Tổng sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 95.558 tấn . Giá trị 1 ha canh tác đạt 93,5 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,1%/năm. Về phát triển Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp: Đã xây dựng được 01 khu công nghiệp Bảo Minh, với diện tích 165ha, trong tương lai sẽ còn tiếp tục được mở rộng. Đến thời điểm tháng 9/2016, đã có 10 nhà đầu tư thứ cấp đăng ký và đầu tư xây dựng xưởng sản xuất, tỷ lệ lấp đầy 80% diện tích, thu hút khoảng 8.500 công nhân vào làm việc cho thu nhập ổn định với mức lương đảm bảo đạt từ 3,5 đến 4,5 triệu đồng/tháng. 02 cụm Công nghiệp ở xã Quang Trung và xã Trung Thành, các nhà đầu tư đã từng bước đi vào sản xuất đem lại hiệu quả. Các ngành dịch vụ, du lịch, thương mại phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Giáo dục – Đào tạo tiếp tục phát triển; công tác y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ; các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, phát thanh, truyền thanh, bưu chính, viễn thông phát triển rộng khắp, góp phần tích cực, hiệu quả trong việc đưa thông tin về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; về văn hóa xã hội, khoa học công nghệ; về các phong trào thi đua, các điển hình tiên tiến…đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những thành tựu trong phát triển kinh tế đã làm cho diện mạo quê hương Vụ Bản từng bước hướng tới văn minh, giàu đẹp, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong những năm tới, Vụ Bản sẽ tiếp tục phấn đấu vươn lên để có thể sớm trở thành một trong những huyện giàu mạnh, văn minh, vững vàng theo kịp tiến trình hội nhập kinh tế cùng cả nước, xứng đáng với danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân mà Đảng và Nhà nước trao tặng./.
Giới thiệu khái quát huyện Anh Sơn Anh Sơn: Phát huy tiềm năng lợi thế để tăng trưởng kinh tế – xã hộ Có diện tích hơn 2.276 ha, dân số 6.379 người, Đỉnh Sơn có điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và xã hội. Nơi đây được xem là đầu mối giao thông giữa miền núi và miền xuôi. Từ mấy chục năm nay, thị tứ Cây Chanh thuộc xã Đỉnh Sơn (Anh Sơn, Nghệ An) đã được người dân trong huyện, trong tỉnh và những vùng lân cận biết đến. Đỉnh Sơn với vùng trung tâm bằng phẳng, thuận tiện cả giao thông thủy, bộ, với những bãi ngô bạt ngàn, trù phú, với chợ Cây Chanh nhộn nhịp, với những dãy lèn đá vôi bất tận… là một điểm sáng trong phát triển kinh tế thương mại của khu vực miền Tây xứ Nghệ. Có diện tích hơn 2.276 ha, dân số 6.379 người, Đỉnh Sơn có điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và xã hội. Nơi đây được xem là đầu mối giao thông giữa miền núi và miền xuôi. Với quốc lộ 7A chạy qua chiều dài của xã, khu vực trung tâm sát với ngã 3 sông (sông Cả, sông Con), xã Đỉnh Sơn là điểm kết nối giữa huyện Anh Sơn với các huyện Con Cuông, Tân Kỳ, Quỳ Hợp và Đô Lương. Từ đây có thể xuôi về Vinh hoặc ngược lên các huyện phía trên để đến Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn, sang Lào. Chợ Cây Chanh hàng hoá phong phú, tấp nập kẻ bán người mua Nhận thức được tầm quan trọng, vị trí thuận lợi đó, lãnh đạo tỉnh Nghệ An, huyện Anh Sơn đã cho chuyển dời Nhà máy đường Sông Lam từ Hưng Nguyên lên, cho khởi công xây dựng chợ Cây Chanh, khởi công xây dựng 2 chiếc cầu vĩnh cửu bắc qua sông Lam và bắc qua sông Con. Không những thế, ngay từ 28/12/2007, UBND tỉnh Nghệ An đã có Quyết định số 5400/QĐ-UBND-CN về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng đô thị mới Cây Chanh (xã Đỉnh Sơn, huyện Anh Sơn). Sau hơn 3 năm kể từ ngày có quy hoạch, một đô thị mới đang hình thành. Nhà máy đường Sông Lam hoạt động ổn định và hiệu quả đã và đang trở thành hạt nhân cho khu quy hoạch công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Chợ Cây Chanh được khởi công xây dựng từ tháng 1/2010 hoàn thành, đưa vào sử dụng đã trở thành đầu mối, trung tâm thương mại dịch vụ cho cả khu vực. Mặc dù là chợ nông thôn miền núi nhưng chợ Cây Chanh vẫn họp ngày 2 buổi và họp tất cả các ngày trong tuần. Hiện tại chợ đã có 174 điểm kinh doanh và xã đang tiến hành xây dựng 52 điểm để nâng tổng số lên 226 điểm kinh doanh (đạt chợ loại 2). Vào chợ Cây Chanh mọi người có thể cảm nhận được lượng hàng hóa phong phú, chất lượng. Đây chính là đầu mối cung cấp hàng điện tử, điện lạnh, hàng tạp hóa vừa là điểm thu mua, trao đổi, cung cấp các mặt hàng nông sản, lương thực thực phẩm cho các xã vùng tây Anh Sơn và các huyện Con Cuông, Tân Kỳ, Quỳ Hợp. Cầu Cây Chanh bắc qua sông Lam đã được hợp long, sẽ được khánh thành, đưa vào sử dụng vào dịp Quốc khánh 2/9/2011. Cầu bắc qua sông Con dự kiến hoàn thành trong năm 2012. Cả 2 chiếc cầu này sẽ tạo cho Đỉnh Sơn có nhiều lợi thế mang tính đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội. Không bỏ lỡ thời cơ, vận hội, cấp ủy, chính quyền xã Đỉnh Sơn đã đẩy nhanh tiến độ phát triển về mọi mặt. Bí thư Đảng ủy Nguyễn Văn Hòa và Chủ tịch UBND xã Đỉnh Sơn Nguyễn Văn Hiếu cho chúng tôi biết: Trong giai đoạn 2005 – 2010, kinh tế – xã hội của xã đã có bước tiến vượt bậc. Nếu như năm đầu nhiệm kỳ (2005) tổng giá trị thu nhập xã hội đạt 68.248 triệu đồng thì đến năm cuối (2010) đã tăng lên 107.516 triệu đồng (tăng 157,5%), ngành nông nghiệp trong tỷ trọng kinh tế của xã từ 32,55% (năm 2005) đã giảm xuống còn 29,1%, ngành thương mại dịch vụ từ 22,03% (năm 2005) đã tăng lên 35,4% (năm 2010). Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 8,145 triệu đồng thì năm 2010 đã tăng lên 14,918 triệu đồng. Giai đoạn 2011 – 2016, Đỉnh Sơn quyết tâm phát triển kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, mục tiêu và các giải pháp đã được thông qua tại nghị quyết đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVIII (năm 2010), đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 13,2%, trong đó cơ cấu tỷ trọng các ngành kinh tế là: dịch vụ – thương mại chiếm 40,1%, công nghiệp – xây dựng 34,3%, nông – lâm – thủy sản sẽ giảm xuống còn 25,6%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 30 – 32 triệu đồng/người/năm. Trong nhiệm kỳ này, xã sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng và làm thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định thành lập thị trấn Cây Chanh (tách xã Đỉnh Sơn hiện nay thành hai đơn vị hành chính là thị trấn Cây Chanh và xã Đỉnh Sơn). Với một đội ngũ cán bộ trẻ, khỏe, năng động, với nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú, nhân dân cần cù, dân trí cao, cùng với lợi thế, tiềm năng sẵn có… chắc chắn trong những năm tới, xã Đỉnh Sơn sẽ có bước tiến nhảy vọt để trở thành một trung tâm vùng có kinh tế – văn hóa xã hội phát triển và đô thị mới Cây Chanh ra đời sẽ là điểm sáng, là đầu tàu thúc đẩy cả khu vực miền Tây Anh Sơn, miền Tây xứ Nghệ cùng phát triển. Tác giả bài viết: Bá Minh Nguồn tin: Báo CA Nghệ An Lịch sử hình thành: Dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 3 (1882) phủ Anh – Thanh – Đô được đổi tên thành phủ Anh Sơn (Gồm toàn bộ phần đất của huyện Hưng Nguyên, Nam đàn, Anh Sơn và Đô Lương ). Đến năm 1946, phủ Anh Sơn lúc này bao gồm 2 huyện Anh Sơn và Đô Lương hiện nay. Huyện Anh Sơn hôm nay được thành lập từ tháng 4 năm 1963, tách ra từ huyện lớn Anh Sơn theo Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 1963 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Huyện được cấu thành từ 20 xã và 1 thị trấn: Thị trấn Anh Sơn, Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Cẩm Sơn, Thành Sơn, Bình Sơn, Thọ Sơn, Hùng Sơn, Tường Sơn, Đức Sơn, Hội Sơn, Hoa Sơn Thạch Sơn, Phúc Sơn, Long Sơn, Khai Sơn, Cao Sơn, Tào Sơn, Vĩnh Sơn, Lĩnh Sơn, Lạng Sơn. Huyện Anh Sơn có diện tích: 60.299.91ha. Vị trí địa lý: Là một huyện miền núi thuộc miền Tây Nghệ An, trải dọc theo đôi bờ sông Lam và Quốc lộ 7, phía Đông giáp với huyện đồng bằng Đô Lương, phía Bắc giáp với huyện miền núi Tân Kỳ và huyện vùng cao quỳ Hợp, phía Tây giáp với huyện vùng cao Con Cuông và nước bạn Lào, phía Nam giáp với huyện miền núi Thanh Chương. Cách thành phố Vinh 100km về phía Tây. Địa hình: Vùng đất Anh Sơn nghiêng dần từ phía Tây về phía Đông, điểm cao nhất là đỉnh núi Kim Nhan ở vùng núi Cao Vều. “Lèn Kim Nhan chín tầng mây phủ Rú Cao Vều ấp ủ tình thương” Địa hình đồi núi có 41.416ha, chiếm 80% diện tích tự nhiên. Phần còn lại là ruộng và đất bãi ven sông. Khí hậu: Huyện Anh Sơn nằm trên giải đất miền Trung nên khí hậu mang những nét chung của vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài một số thuận lợi cho sự phát triển cây trồng do khí hậu, ánh sáng và lượng mưa đem lại, khí hậu Anh Sơn cũng khắc nhiệt vì chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, và gió Phơn Tây Nam Lào. Vì vậy gây ra nạn hạn hán, lũ lụt làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Dân số: Theo thống kê đến thời điểm 31/12/2010, huyện Anh Sơn có gần 27.730 hộ với hơn 102.080 nhân khẩu. Có 252 thôn, bản. Trong đó có 23 bản, làng dân tộc thiểu số. Có 20 xã và 1 thị trấn (Trong đó 8 xã có đồng bào dân tộc thiểu số với gần 1652 hộ và gần 7.151 khẩu). Nhân dân Anh Sơn cần cù, ham học, có truyền thống cách mạng, là huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Công tác Quốc phòng trong những năm qua được giữ vững, an ninh đảm bảo tốt; Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa phát triển rộng khắp; Công tác Giáo dục – Đào tạo, công tác Y tế ngày càng được củng cố và phát triển. Chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng – Về chỉ tiêu: a) Kinh tế: – Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: 13,0 – 14,0% năm; – Thu nhập bình quân đầu người năm 2015: 30-32 triệu đồng/người/năm. – Tổng sản lượng lương thực năm 2015: 64.800 tấn; – Thu ngân sách năm 2015 đạt: 32-33 tỷ đồng (phần phân cấp huyện thu); – Cơ cấu kinh tế đến năm 2015: + Công nghiệp – xây dựng: 36,0 – 37,0%; + Nông nghiệp: 32 – 34%; + Thương mại – dịch vụ: 30 – 31%; – Tổng vốn đầu tư toàn xã hội: 6.700 – 7.000 tỷ đồng. b) Văn hoá – xã hội: – Phấn đấu không có hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn: 5 – 6%; – Tốc độ tăng dân số dưới 0,7%; – Mức giảm sinh: 0,2 – 0,3%o; – Số trường học đạt chuẩn quốc gia: 42 trường, tỷ lệ 72% ; – 100% giáo viên đạt chuẩn, 30% giáo viên dạy giỏi ; – Số xã có bác sỹ: 95%; – Số bác sỹ trên 1 vạn dân: 6 người; – Xã đạt chuẩn quốc gia về y tế: 100% (vào năm 2012); – Tỷ lệ giường bệnh trên 1 vạn dân: 22 giường; – Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng: 16%; – Tạo việc làm hàng năm: 2.000 người; – Lao động qua đào tạo: 38 – 42%, trong đó đào tạo nghề 35%; – Tỷ lệ đô thị hoá 10 – 12%; – Tỷ lệ gia đình văn hoá: 83 – 85% ; – Tỷ lệ đơn vị đạt chuẩn văn hoá: 75%; – Tỷ lệ xã, thị trấn có thiết chế VHTT đạt chuẩn quốc gia: 85%; – Tỷ lệ hộ dân được dùng điện: 98%; trong đó 70% được bán điện tại gia; – Tỷ lệ số dân được xem truyền hình và được nghe đài phát thanh: 100%; – Tỷ lệ dân dùng nước hợp vệ sinh: 50 – 55% (tiêu chí cũ: 96%) – Độ che phủ của rừng: 55- 56%; – Tỷ lệ thu gom rác thải đô thị: 90%. c) Quốc phòng – an ninh: – Hàng năm 92% xã, thị đạt cơ sở an toàn làm chủ săn sàng chiến đấu vững mạnh toàn diện; – 100% dân quân tự vệ – dự bị động viên được huấn luyện đúng kế hoạch. Tỷ lệ các đối tượng được giáo dục quốc phòng – an ninh đạt 100%;
Giới thiệu khái quát huyện Anh Sơn Anh Sơn: Phát huy tiềm năng lợi thế để tăng trưởng kinh tế – xã hộ Có diện tích hơn 2.276 ha, dân số 6.379 người, Đỉnh Sơn có điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và xã hội. Nơi đây được xem là đầu mối giao thông giữa miền núi và miền xuôi. Từ mấy chục năm nay, thị tứ Cây Chanh thuộc xã Đỉnh Sơn (Anh Sơn, Nghệ An) đã được người dân trong huyện, trong tỉnh và những vùng lân cận biết đến. Đỉnh Sơn với vùng trung tâm bằng phẳng, thuận tiện cả giao thông thủy, bộ, với những bãi ngô bạt ngàn, trù phú, với chợ Cây Chanh nhộn nhịp, với những dãy lèn đá vôi bất tận… là một điểm sáng trong phát triển kinh tế thương mại của khu vực miền Tây xứ Nghệ. Có diện tích hơn 2.276 ha, dân số 6.379 người, Đỉnh Sơn có điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và xã hội. Nơi đây được xem là đầu mối giao thông giữa miền núi và miền xuôi. Với quốc lộ 7A chạy qua chiều dài của xã, khu vực trung tâm sát với ngã 3 sông (sông Cả, sông Con), xã Đỉnh Sơn là điểm kết nối giữa huyện Anh Sơn với các huyện Con Cuông, Tân Kỳ, Quỳ Hợp và Đô Lương. Từ đây có thể xuôi về Vinh hoặc ngược lên các huyện phía trên để đến Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn, sang Lào. Chợ Cây Chanh hàng hoá phong phú, tấp nập kẻ bán người mua Nhận thức được tầm quan trọng, vị trí thuận lợi đó, lãnh đạo tỉnh Nghệ An, huyện Anh Sơn đã cho chuyển dời Nhà máy đường Sông Lam từ Hưng Nguyên lên, cho khởi công xây dựng chợ Cây Chanh, khởi công xây dựng 2 chiếc cầu vĩnh cửu bắc qua sông Lam và bắc qua sông Con. Không những thế, ngay từ 28/12/2007, UBND tỉnh Nghệ An đã có Quyết định số 5400/QĐ-UBND-CN về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng đô thị mới Cây Chanh (xã Đỉnh Sơn, huyện Anh Sơn). Sau hơn 3 năm kể từ ngày có quy hoạch, một đô thị mới đang hình thành. Nhà máy đường Sông Lam hoạt động ổn định và hiệu quả đã và đang trở thành hạt nhân cho khu quy hoạch công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Chợ Cây Chanh được khởi công xây dựng từ tháng 1/2010 hoàn thành, đưa vào sử dụng đã trở thành đầu mối, trung tâm thương mại dịch vụ cho cả khu vực. Mặc dù là chợ nông thôn miền núi nhưng chợ Cây Chanh vẫn họp ngày 2 buổi và họp tất cả các ngày trong tuần. Hiện tại chợ đã có 174 điểm kinh doanh và xã đang tiến hành xây dựng 52 điểm để nâng tổng số lên 226 điểm kinh doanh (đạt chợ loại 2). Vào chợ Cây Chanh mọi người có thể cảm nhận được lượng hàng hóa phong phú, chất lượng. Đây chính là đầu mối cung cấp hàng điện tử, điện lạnh, hàng tạp hóa vừa là điểm thu mua, trao đổi, cung cấp các mặt hàng nông sản, lương thực thực phẩm cho các xã vùng tây Anh Sơn và các huyện Con Cuông, Tân Kỳ, Quỳ Hợp. Cầu Cây Chanh bắc qua sông Lam đã được hợp long, sẽ được khánh thành, đưa vào sử dụng vào dịp Quốc khánh 2/9/2011. Cầu bắc qua sông Con dự kiến hoàn thành trong năm 2012. Cả 2 chiếc cầu này sẽ tạo cho Đỉnh Sơn có nhiều lợi thế mang tính đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội. Không bỏ lỡ thời cơ, vận hội, cấp ủy, chính quyền xã Đỉnh Sơn đã đẩy nhanh tiến độ phát triển về mọi mặt. Bí thư Đảng ủy Nguyễn Văn Hòa và Chủ tịch UBND xã Đỉnh Sơn Nguyễn Văn Hiếu cho chúng tôi biết: Trong giai đoạn 2005 – 2010, kinh tế – xã hội của xã đã có bước tiến vượt bậc. Nếu như năm đầu nhiệm kỳ (2005) tổng giá trị thu nhập xã hội đạt 68.248 triệu đồng thì đến năm cuối (2010) đã tăng lên 107.516 triệu đồng (tăng 157,5%), ngành nông nghiệp trong tỷ trọng kinh tế của xã từ 32,55% (năm 2005) đã giảm xuống còn 29,1%, ngành thương mại dịch vụ từ 22,03% (năm 2005) đã tăng lên 35,4% (năm 2010). Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 8,145 triệu đồng thì năm 2010 đã tăng lên 14,918 triệu đồng. Giai đoạn 2011 – 2016, Đỉnh Sơn quyết tâm phát triển kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, mục tiêu và các giải pháp đã được thông qua tại nghị quyết đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVIII (năm 2010), đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 13,2%, trong đó cơ cấu tỷ trọng các ngành kinh tế là: dịch vụ – thương mại chiếm 40,1%, công nghiệp – xây dựng 34,3%, nông – lâm – thủy sản sẽ giảm xuống còn 25,6%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 30 – 32 triệu đồng/người/năm. Trong nhiệm kỳ này, xã sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng và làm thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định thành lập thị trấn Cây Chanh (tách xã Đỉnh Sơn hiện nay thành hai đơn vị hành chính là thị trấn Cây Chanh và xã Đỉnh Sơn). Với một đội ngũ cán bộ trẻ, khỏe, năng động, với nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú, nhân dân cần cù, dân trí cao, cùng với lợi thế, tiềm năng sẵn có… chắc chắn trong những năm tới, xã Đỉnh Sơn sẽ có bước tiến nhảy vọt để trở thành một trung tâm vùng có kinh tế – văn hóa xã hội phát triển và đô thị mới Cây Chanh ra đời sẽ là điểm sáng, là đầu tàu thúc đẩy cả khu vực miền Tây Anh Sơn, miền Tây xứ Nghệ cùng phát triển. Tác giả bài viết: Bá Minh Nguồn tin: Báo CA Nghệ An Lịch sử hình thành: Dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 3 (1882) phủ Anh – Thanh – Đô được đổi tên thành phủ Anh Sơn (Gồm toàn bộ phần đất của huyện Hưng Nguyên, Nam đàn, Anh Sơn và Đô Lương ). Đến năm 1946, phủ Anh Sơn lúc này bao gồm 2 huyện Anh Sơn và Đô Lương hiện nay. Huyện Anh Sơn hôm nay được thành lập từ tháng 4 năm 1963, tách ra từ huyện lớn Anh Sơn theo Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 1963 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Huyện được cấu thành từ 20 xã và 1 thị trấn: Thị trấn Anh Sơn, Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Cẩm Sơn, Thành Sơn, Bình Sơn, Thọ Sơn, Hùng Sơn, Tường Sơn, Đức Sơn, Hội Sơn, Hoa Sơn Thạch Sơn, Phúc Sơn, Long Sơn, Khai Sơn, Cao Sơn, Tào Sơn, Vĩnh Sơn, Lĩnh Sơn, Lạng Sơn. Huyện Anh Sơn có diện tích: 60.299.91ha. Vị trí địa lý: Là một huyện miền núi thuộc miền Tây Nghệ An, trải dọc theo đôi bờ sông Lam và Quốc lộ 7, phía Đông giáp với huyện đồng bằng Đô Lương, phía Bắc giáp với huyện miền núi Tân Kỳ và huyện vùng cao quỳ Hợp, phía Tây giáp với huyện vùng cao Con Cuông và nước bạn Lào, phía Nam giáp với huyện miền núi Thanh Chương. Cách thành phố Vinh 100km về phía Tây. Địa hình: Vùng đất Anh Sơn nghiêng dần từ phía Tây về phía Đông, điểm cao nhất là đỉnh núi Kim Nhan ở vùng núi Cao Vều. “Lèn Kim Nhan chín tầng mây phủ Rú Cao Vều ấp ủ tình thương” Địa hình đồi núi có 41.416ha, chiếm 80% diện tích tự nhiên. Phần còn lại là ruộng và đất bãi ven sông. Khí hậu: Huyện Anh Sơn nằm trên giải đất miền Trung nên khí hậu mang những nét chung của vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài một số thuận lợi cho sự phát triển cây trồng do khí hậu, ánh sáng và lượng mưa đem lại, khí hậu Anh Sơn cũng khắc nhiệt vì chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, và gió Phơn Tây Nam Lào. Vì vậy gây ra nạn hạn hán, lũ lụt làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Dân số: Theo thống kê đến thời điểm 31/12/2010, huyện Anh Sơn có gần 27.730 hộ với hơn 102.080 nhân khẩu. Có 252 thôn, bản. Trong đó có 23 bản, làng dân tộc thiểu số. Có 20 xã và 1 thị trấn (Trong đó 8 xã có đồng bào dân tộc thiểu số với gần 1652 hộ và gần 7.151 khẩu). Nhân dân Anh Sơn cần cù, ham học, có truyền thống cách mạng, là huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Công tác Quốc phòng trong những năm qua được giữ vững, an ninh đảm bảo tốt; Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa phát triển rộng khắp; Công tác Giáo dục – Đào tạo, công tác Y tế ngày càng được củng cố và phát triển. Chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng – Về chỉ tiêu: a) Kinh tế: – Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: 13,0 – 14,0% năm; – Thu nhập bình quân đầu người năm 2015: 30-32 triệu đồng/người/năm. – Tổng sản lượng lương thực năm 2015: 64.800 tấn; – Thu ngân sách năm 2015 đạt: 32-33 tỷ đồng (phần phân cấp huyện thu); – Cơ cấu kinh tế đến năm 2015: + Công nghiệp – xây dựng: 36,0 – 37,0%; + Nông nghiệp: 32 – 34%; + Thương mại – dịch vụ: 30 – 31%; – Tổng vốn đầu tư toàn xã hội: 6.700 – 7.000 tỷ đồng. b) Văn hoá – xã hội: – Phấn đấu không có hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn: 5 – 6%; – Tốc độ tăng dân số dưới 0,7%; – Mức giảm sinh: 0,2 – 0,3%o; – Số trường học đạt chuẩn quốc gia: 42 trường, tỷ lệ 72% ; – 100% giáo viên đạt chuẩn, 30% giáo viên dạy giỏi ; – Số xã có bác sỹ: 95%; – Số bác sỹ trên 1 vạn dân: 6 người; – Xã đạt chuẩn quốc gia về y tế: 100% (vào năm 2012); – Tỷ lệ giường bệnh trên 1 vạn dân: 22 giường; – Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng: 16%; – Tạo việc làm hàng năm: 2.000 người; – Lao động qua đào tạo: 38 – 42%, trong đó đào tạo nghề 35%; – Tỷ lệ đô thị hoá 10 – 12%; – Tỷ lệ gia đình văn hoá: 83 – 85% ; – Tỷ lệ đơn vị đạt chuẩn văn hoá: 75%; – Tỷ lệ xã, thị trấn có thiết chế VHTT đạt chuẩn quốc gia: 85%; – Tỷ lệ hộ dân được dùng điện: 98%; trong đó 70% được bán điện tại gia; – Tỷ lệ số dân được xem truyền hình và được nghe đài phát thanh: 100%; – Tỷ lệ dân dùng nước hợp vệ sinh: 50 – 55% (tiêu chí cũ: 96%) – Độ che phủ của rừng: 55- 56%; – Tỷ lệ thu gom rác thải đô thị: 90%. c) Quốc phòng – an ninh: – Hàng năm 92% xã, thị đạt cơ sở an toàn làm chủ săn sàng chiến đấu vững mạnh toàn diện; – 100% dân quân tự vệ – dự bị động viên được huấn luyện đúng kế hoạch. Tỷ lệ các đối tượng được giáo dục quốc phòng – an ninh đạt 100%;
Giới thiệu khái quát thành phố Nam Định Vị trí địa lý kinh tế và chức năng của thành phố Nam Định: Thành phố Nam Định là một đô thị có từ thế kỷ thứ XIII. Ngày 17 tháng 10 năm 1921, toàn quyền Đông Dương đã ra Nghị định thành lập thành phố Nam Định. Trong quá trình phát triển, thành phố từng là đô thị lớn thứ 3 miền Bắc sau thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Là thành phố giàu truyền thống cách mạng, văn hiến, quê hương của vương triều Trần có gần hai thế kỷ lừng danh oanh liệt. Ngày 01 tháng 7 năm 1954, thành phố Nam Định là thành phố đầu tiên trong cả nước được hoàn toàn giải phóng, mở đầu trang sử mới. Từ năm 1954 đến năm 1990, thành phố tập trung khắc phục hậu quả hai cuộc chiến tranh bằng không quân của đế quốc Mỹ, và khôi phục phát triển kinh tế xã hội. Năm 1976, thành phố được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Từ năm 1991 đến năm 2000, thành phố Nam ĐỊnh đã tạo cho mình một hướng đi tương đối toàn diện và có mặt phát triển bền vững. Trải qua nhiều lần sát nhập chia tách tỉnh, thành phố Nam Định luôn được xác định là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa – khoa học kỹ thuật của tỉnh, đóng vai trò trung tâm khu vực, có tầm ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Thành phố Nam Định nằm ở phía Bắc của tỉnh Nam Định, thuộc trung tâm khu vực phía Nam đồng bằng sông Hồng, trên tọa độ 24 0 24’ đến 20 0 27’ vĩ độ Bắc và từ 106 0 07’ đến 106 0 12’ kinh độ Đông và được trải dài hai bên bờ sông Đào. có tiềm năng phát triển đa dạng; Là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của tỉnh Nam Định, có vị trí quan trọng và thuận lợi của vùng tam giác kinh tế nơi tiếp giáp với nhiều đầu mối giao thông trong và ngoài tỉnh; cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Tây Bắc,cách cảng Hải Phòng 80 km về phía Đông Bắc và được bao quanh một số tỉnh lị khác như: Thái Bình (19 km); Ninh Bình (28 km), Phủ Lý (30 km); thành phố nằm trong vùng ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm các tỉnh phía Bắc gồm: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Hành chính Diện tích 46,4 km². Dân số 231.900 người (2001). Thành phố Nam Định hiện nay (2008) gồm có 20 phường: Bà Triệu, Quang Trung, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Cửa Bắc, Vị Xuyên, Vị Hoàng, Hạ Long, Trần Tế Xương, Trần Đăng Ninh, Cửa Bắc, Năng Tĩnh, Văn Miếu, Phan Đình Phùng, Trường Thi, Trần Quang Khải, Thống Nhất, Lộc Hạ, Lộc Vượng (phía Bắc Sông Đào), Cửa Nam (phía Nam Sông Đào), và 5 xã ngoại thành Lộc Hòa, Lộc An, Mỹ Xá (phía Bắc Sông Đào), Nam Phong, Nam Vân (phía Nam Sông Đào). Một phần công tác quản trị thành phố đã được Hiệp hội Đô thị Việt Nam và Liên hiệp Đô thị Canađa khởi xướng thông qua đầu tư của thành phố nhằm quản lý địa chính và quy hoạch phát triển. Phương tiện Trong Thành Phố đi lại trong thành phố Nam Định tương đối thuận tiện và đơn giản. Đến với nam định bạn có thể đi lại bằng nhiều loại phương tiện khác nhau như taxi, xe ôm hoặc xích lô. Ngoài ra hiện nay tại thành phố Nam Định hiện tại có 03 tuyến xe buýt: số 01 Cầu Tân Đệ – Thị trấn Ngô Đồng (Giao Thủy), số 02 Thị trấn Mỹ Lộc – Thị trấn Cồn (Hải Hậu), Số 03 Ngã 3 đường Văn Cao – Thị trấn Đông Bình (Nghĩa Hưng), hoạt động từ 5h00 đến 18h30 hàng ngày. Đi và đến Nam định Hàng ngày từ 5h00 sáng đến 21h00 đều có ôtô đi từ TP Nam Định đi Hà Nội và ngược lại (giá vé thời điểm hiện tại 4/2008 là 40.000/lượt; khoảng 10′ – 15’/chuyến); từ 5h00 đến 17h00 có xe chạy từ TP Nam định đi Hải Phòng và ngược lại (Khoảng 30’/chuyến tại bến xe Đò Quan). Ngoài ra từ thành phố Nam định bạn có thể đi và đến các thành phố khác bằng tàu hoả. Hàng ngày có rất nhiều chuyến tàu Thống Nhất dừng đón, trả khách tại ga Nam Định. Đặc điểm Phố lớn của Nam Định là Trần Hưng Đạo. Tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được đặt trước Nhà hát 3/2, bên bờ hồ Vị Xuyên của Thành phố. Ngày nay Chính quyền và nhân dân Nam Định đang cố gắng xây dựng và chỉnh trang thành phố, nhiều dự án đã và đang được triển khai đó là: khu đô thị mới Lộc Vượng, khu di tích văn hoá lịch sử Đền Trần. Nam Định cũng đã mở mang và phát triển nhiều khu công nghiệp mới với nhiều ngành nghề, trong đó nổi bật là ngành dệt may. Nam Định cũng được biết đến với phở Nam Định. Ngoài ra bạn có thể thưởng thức các món đặc sản được sản xuất từ Thành Nam như: bánh gai, chuối ngự, kẹo Sìu Châu,… Thành phố Nam Định chủ yếu nằm ở phía bắc sông Đào. Nếu như Hà Nội xưa có 36 phố phường thì TP Nam Định cũng có đến 40 phố cổ. Những con phố nhỏ nằm ven bờ sông đào mang dáng vẻ riêng gắn liền với gần 750 năm phát triển của TP Nam Định. Những phố cổ của Nam Định cũng như Hà Nội đa phần là các phố nghề như Hàng Vàng, Hàng Bát, Hàng Nâu, Vải Màn v.v… Hiện nay, những con phố đa phần không còn giữ lại được tên cổ như ở Hà Nội, và cũng không còn buôn bán những mặt hàng truyền thống tuy nhiên nó vẫn còn phần nào giữ được dáng vẻ cổ kính của nó. Hiện tại ở TP Nam Định còn một số phố mang tên gọi cổ là Hàng Tiện, Hàng Cấp, Bắc Ninh, Hàng Thao, Hàng Đồng, Hàng Sắt, … còn lại phần lớn đã được đổi tên như Hai Bà Trưng, Hoàng Văn Thụ, Trần Hưng Đạo. Các phố cổ hiện nay ở Nam Định buôn bán tương đối sầm uất và là một phần quan trọng tại trung tâm thành phố Nam Định. Cùng với các con phố cổ, hoa gạo được coi là loài cây đặc trưng của người Nam Định. Loài hoa đỏ cháy nở vào tháng 3 hàng năm như sự hiên ngang và quật cường của người Nam Định. Hiện nay ở TP Nam Định cũng không còn nhiều hoa gạo tuy nhiên vẫn còn một số cây ở Hồ Vị Xuyên, ngã tư Cửa Đông, Văn Miếu tạo cho Nam Định một dáng vẻ quyến rũ vào tháng ba. Gắn liền với lịch sử phát triển của Nam Định, cầu Đò Quan là một trong những điểm giao thông quan trọng nối hai bờ sông Đào, nối hiện tại với quá khứ và tương lai. Bến Đò Quan xưa đã từng là hải cảng lớn nhất của xứ bắc (trước khi người Pháp xây dựng cảng Hải Phòng). Hiện nay thay cho bến Đò Quan ngày xưa cây Cầu Đò Quan nối đôi bờ sông Đào, hứa hẹn một thành phố to đẹp và rộng lớn nằm hai bền sông. Không có nhiều điểm du lịch như Hà Nội hay một số thành phố khác nhưng TP Nam định có những nét riêng mà không nơi nào có được. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó bạn về Nam Định, đi trên những con phố nhỏ vào mùa hoa gạo, thưởng thức những món ăn đặc sản của người Nam Định, chiều chiều nghe tiếng còi tầm của nhà máy dệt trong sự hối hả của thành phố, hẳn người đi không khỏi nao lòng. Thành phố Nam Định ngày nay đang trên đường phát triển. Những con đường, khu công nghiệp, tuyến đường S2 vành đai thành phố nối quốc lộ 10 với QL21B, dự án khu đô thị mới Hòa vượng và Thống Nhất, Bệnh viện Khu vực Nam Đồng bằng Sông Hồng, Khu Công nghiệp và Đô thị Mới Mỹ Trung, khu các trường đại học, hứa hẹn Nam Định trở thành một thành phố phát triển xứng đáng trung tâm của tỉnh Nam Định và đồng bằng sông Hồng trong nay mai. Công nghiệp dệt Thành phố có nhà máy Dệt Nam Định. Trong chiến tranh Việt Nam, nơi đây là một trong các mục tiêu tấn công của không quân Hoa Kỳ. Nam Định đã bắn rơi nhiều máy bay và bắt sống nhiều phi công Hoa Kỳ, nên đã được gọi là “Thành phố dệt anh hùng” Hiện nay Nam Định được biết đến như là một khu trọng tâm phát triển chiến lược của ngành Dệt – May Việt Nam. Với trên 20 doanh nghiệp dệt may đang hoạt động trên địa bàn, bạn có thể bắt gặp những doanh nghiệp có tiềm lực lớn và có thương hiệu đó là: Công ty TNHH Dệt Nam Định, Công ty CP may Sông Hồng, Công ty CP may Nam Định [1], Công ty TNHH Youngone (Hàn Quốc), … Có hẳn một trường chuyên đào tạo lao động kỹ thuật cao cho ngành Dệt May là Trường Cao Đẳng Nghề Công nghiệp Dệt May Nam Định với trang thiết bị hiện đại hàng đầu so với các trường đào tạo nghề Dệt May tại VN. Lịch sử Nam Định xây dựng từ 1263 dọc bờ trái Sông Hồng. Năm 1921, thị xã Nam Định (centre urbain) trở thành thành phố cấp 3 (commune), đứng đầu là một Đốc lý. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định trong Sắc lệnh số 77 ngày 21-12-1945 Nam Định là thành phố đặt dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ), đến ngày 24-1-1946 lại tạm coi như thị xã. Ngày 3-9-1957 sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Thời kỳ 1965-1975 là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà; 1975-1991, là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam Ninh; 1991-1996, trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Từ 6-11-1996, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Thể thao Thành phố Nam Định là một trung tâm thể thao lớn vùng Nam sông Hồng. Trong đó có câu lạc bộ bóng đá Nam Định thi đấu thành công ở giải Vô địch quốc gia Việt Nam (V-league). Giáo dục và Đào tạo o Đại học Điều dưỡng Nam Định – Bộ Y tế o Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội o Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp – Bộ Công Thương o Đại học Lương Thế Vinh (Đại học ngoài công lập đầu tiên tại Nam Định). o Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (chuyên tỉnh Nam Định) o Trường THPT Nguyễn Khuyến o Trường THPT Trần Hưng Đạo (trường chất lượng cao của thành phố) o Trường THCS Trần Đăng Ninh (trường năng khiếu thành phố cũ)
Giới thiệu khái quát thành phố Nam Định Vị trí địa lý kinh tế và chức năng của thành phố Nam Định: Thành phố Nam Định là một đô thị có từ thế kỷ thứ XIII. Ngày 17 tháng 10 năm 1921, toàn quyền Đông Dương đã ra Nghị định thành lập thành phố Nam Định. Trong quá trình phát triển, thành phố từng là đô thị lớn thứ 3 miền Bắc sau thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Là thành phố giàu truyền thống cách mạng, văn hiến, quê hương của vương triều Trần có gần hai thế kỷ lừng danh oanh liệt. Ngày 01 tháng 7 năm 1954, thành phố Nam Định là thành phố đầu tiên trong cả nước được hoàn toàn giải phóng, mở đầu trang sử mới. Từ năm 1954 đến năm 1990, thành phố tập trung khắc phục hậu quả hai cuộc chiến tranh bằng không quân của đế quốc Mỹ, và khôi phục phát triển kinh tế xã hội. Năm 1976, thành phố được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Từ năm 1991 đến năm 2000, thành phố Nam ĐỊnh đã tạo cho mình một hướng đi tương đối toàn diện và có mặt phát triển bền vững. Trải qua nhiều lần sát nhập chia tách tỉnh, thành phố Nam Định luôn được xác định là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa – khoa học kỹ thuật của tỉnh, đóng vai trò trung tâm khu vực, có tầm ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Thành phố Nam Định nằm ở phía Bắc của tỉnh Nam Định, thuộc trung tâm khu vực phía Nam đồng bằng sông Hồng, trên tọa độ 24 0 24’ đến 20 0 27’ vĩ độ Bắc và từ 106 0 07’ đến 106 0 12’ kinh độ Đông và được trải dài hai bên bờ sông Đào. có tiềm năng phát triển đa dạng; Là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của tỉnh Nam Định, có vị trí quan trọng và thuận lợi của vùng tam giác kinh tế nơi tiếp giáp với nhiều đầu mối giao thông trong và ngoài tỉnh; cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Tây Bắc,cách cảng Hải Phòng 80 km về phía Đông Bắc và được bao quanh một số tỉnh lị khác như: Thái Bình (19 km); Ninh Bình (28 km), Phủ Lý (30 km); thành phố nằm trong vùng ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm các tỉnh phía Bắc gồm: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Hành chính Diện tích 46,4 km². Dân số 231.900 người (2001). Thành phố Nam Định hiện nay (2008) gồm có 20 phường: Bà Triệu, Quang Trung, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Cửa Bắc, Vị Xuyên, Vị Hoàng, Hạ Long, Trần Tế Xương, Trần Đăng Ninh, Cửa Bắc, Năng Tĩnh, Văn Miếu, Phan Đình Phùng, Trường Thi, Trần Quang Khải, Thống Nhất, Lộc Hạ, Lộc Vượng (phía Bắc Sông Đào), Cửa Nam (phía Nam Sông Đào), và 5 xã ngoại thành Lộc Hòa, Lộc An, Mỹ Xá (phía Bắc Sông Đào), Nam Phong, Nam Vân (phía Nam Sông Đào). Một phần công tác quản trị thành phố đã được Hiệp hội Đô thị Việt Nam và Liên hiệp Đô thị Canađa khởi xướng thông qua đầu tư của thành phố nhằm quản lý địa chính và quy hoạch phát triển. Phương tiện Trong Thành Phố đi lại trong thành phố Nam Định tương đối thuận tiện và đơn giản. Đến với nam định bạn có thể đi lại bằng nhiều loại phương tiện khác nhau như taxi, xe ôm hoặc xích lô. Ngoài ra hiện nay tại thành phố Nam Định hiện tại có 03 tuyến xe buýt: số 01 Cầu Tân Đệ – Thị trấn Ngô Đồng (Giao Thủy), số 02 Thị trấn Mỹ Lộc – Thị trấn Cồn (Hải Hậu), Số 03 Ngã 3 đường Văn Cao – Thị trấn Đông Bình (Nghĩa Hưng), hoạt động từ 5h00 đến 18h30 hàng ngày. Đi và đến Nam định Hàng ngày từ 5h00 sáng đến 21h00 đều có ôtô đi từ TP Nam Định đi Hà Nội và ngược lại (giá vé thời điểm hiện tại 4/2008 là 40.000/lượt; khoảng 10′ – 15’/chuyến); từ 5h00 đến 17h00 có xe chạy từ TP Nam định đi Hải Phòng và ngược lại (Khoảng 30’/chuyến tại bến xe Đò Quan). Ngoài ra từ thành phố Nam định bạn có thể đi và đến các thành phố khác bằng tàu hoả. Hàng ngày có rất nhiều chuyến tàu Thống Nhất dừng đón, trả khách tại ga Nam Định. Đặc điểm Phố lớn của Nam Định là Trần Hưng Đạo. Tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được đặt trước Nhà hát 3/2, bên bờ hồ Vị Xuyên của Thành phố. Ngày nay Chính quyền và nhân dân Nam Định đang cố gắng xây dựng và chỉnh trang thành phố, nhiều dự án đã và đang được triển khai đó là: khu đô thị mới Lộc Vượng, khu di tích văn hoá lịch sử Đền Trần. Nam Định cũng đã mở mang và phát triển nhiều khu công nghiệp mới với nhiều ngành nghề, trong đó nổi bật là ngành dệt may. Nam Định cũng được biết đến với phở Nam Định. Ngoài ra bạn có thể thưởng thức các món đặc sản được sản xuất từ Thành Nam như: bánh gai, chuối ngự, kẹo Sìu Châu,… Thành phố Nam Định chủ yếu nằm ở phía bắc sông Đào. Nếu như Hà Nội xưa có 36 phố phường thì TP Nam Định cũng có đến 40 phố cổ. Những con phố nhỏ nằm ven bờ sông đào mang dáng vẻ riêng gắn liền với gần 750 năm phát triển của TP Nam Định. Những phố cổ của Nam Định cũng như Hà Nội đa phần là các phố nghề như Hàng Vàng, Hàng Bát, Hàng Nâu, Vải Màn v.v… Hiện nay, những con phố đa phần không còn giữ lại được tên cổ như ở Hà Nội, và cũng không còn buôn bán những mặt hàng truyền thống tuy nhiên nó vẫn còn phần nào giữ được dáng vẻ cổ kính của nó. Hiện tại ở TP Nam Định còn một số phố mang tên gọi cổ là Hàng Tiện, Hàng Cấp, Bắc Ninh, Hàng Thao, Hàng Đồng, Hàng Sắt, … còn lại phần lớn đã được đổi tên như Hai Bà Trưng, Hoàng Văn Thụ, Trần Hưng Đạo. Các phố cổ hiện nay ở Nam Định buôn bán tương đối sầm uất và là một phần quan trọng tại trung tâm thành phố Nam Định. Cùng với các con phố cổ, hoa gạo được coi là loài cây đặc trưng của người Nam Định. Loài hoa đỏ cháy nở vào tháng 3 hàng năm như sự hiên ngang và quật cường của người Nam Định. Hiện nay ở TP Nam Định cũng không còn nhiều hoa gạo tuy nhiên vẫn còn một số cây ở Hồ Vị Xuyên, ngã tư Cửa Đông, Văn Miếu tạo cho Nam Định một dáng vẻ quyến rũ vào tháng ba. Gắn liền với lịch sử phát triển của Nam Định, cầu Đò Quan là một trong những điểm giao thông quan trọng nối hai bờ sông Đào, nối hiện tại với quá khứ và tương lai. Bến Đò Quan xưa đã từng là hải cảng lớn nhất của xứ bắc (trước khi người Pháp xây dựng cảng Hải Phòng). Hiện nay thay cho bến Đò Quan ngày xưa cây Cầu Đò Quan nối đôi bờ sông Đào, hứa hẹn một thành phố to đẹp và rộng lớn nằm hai bền sông. Không có nhiều điểm du lịch như Hà Nội hay một số thành phố khác nhưng TP Nam định có những nét riêng mà không nơi nào có được. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó bạn về Nam Định, đi trên những con phố nhỏ vào mùa hoa gạo, thưởng thức những món ăn đặc sản của người Nam Định, chiều chiều nghe tiếng còi tầm của nhà máy dệt trong sự hối hả của thành phố, hẳn người đi không khỏi nao lòng. Thành phố Nam Định ngày nay đang trên đường phát triển. Những con đường, khu công nghiệp, tuyến đường S2 vành đai thành phố nối quốc lộ 10 với QL21B, dự án khu đô thị mới Hòa vượng và Thống Nhất, Bệnh viện Khu vực Nam Đồng bằng Sông Hồng, Khu Công nghiệp và Đô thị Mới Mỹ Trung, khu các trường đại học, hứa hẹn Nam Định trở thành một thành phố phát triển xứng đáng trung tâm của tỉnh Nam Định và đồng bằng sông Hồng trong nay mai. Công nghiệp dệt Thành phố có nhà máy Dệt Nam Định. Trong chiến tranh Việt Nam, nơi đây là một trong các mục tiêu tấn công của không quân Hoa Kỳ. Nam Định đã bắn rơi nhiều máy bay và bắt sống nhiều phi công Hoa Kỳ, nên đã được gọi là “Thành phố dệt anh hùng” Hiện nay Nam Định được biết đến như là một khu trọng tâm phát triển chiến lược của ngành Dệt – May Việt Nam. Với trên 20 doanh nghiệp dệt may đang hoạt động trên địa bàn, bạn có thể bắt gặp những doanh nghiệp có tiềm lực lớn và có thương hiệu đó là: Công ty TNHH Dệt Nam Định, Công ty CP may Sông Hồng, Công ty CP may Nam Định [1], Công ty TNHH Youngone (Hàn Quốc), … Có hẳn một trường chuyên đào tạo lao động kỹ thuật cao cho ngành Dệt May là Trường Cao Đẳng Nghề Công nghiệp Dệt May Nam Định với trang thiết bị hiện đại hàng đầu so với các trường đào tạo nghề Dệt May tại VN. Lịch sử Nam Định xây dựng từ 1263 dọc bờ trái Sông Hồng. Năm 1921, thị xã Nam Định (centre urbain) trở thành thành phố cấp 3 (commune), đứng đầu là một Đốc lý. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định trong Sắc lệnh số 77 ngày 21-12-1945 Nam Định là thành phố đặt dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ), đến ngày 24-1-1946 lại tạm coi như thị xã. Ngày 3-9-1957 sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Thời kỳ 1965-1975 là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà; 1975-1991, là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam Ninh; 1991-1996, trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Từ 6-11-1996, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Thể thao Thành phố Nam Định là một trung tâm thể thao lớn vùng Nam sông Hồng. Trong đó có câu lạc bộ bóng đá Nam Định thi đấu thành công ở giải Vô địch quốc gia Việt Nam (V-league). Giáo dục và Đào tạo o Đại học Điều dưỡng Nam Định – Bộ Y tế o Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội o Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp – Bộ Công Thương o Đại học Lương Thế Vinh (Đại học ngoài công lập đầu tiên tại Nam Định). o Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (chuyên tỉnh Nam Định) o Trường THPT Nguyễn Khuyến o Trường THPT Trần Hưng Đạo (trường chất lượng cao của thành phố) o Trường THCS Trần Đăng Ninh (trường năng khiếu thành phố cũ)
Giới thiệu khái quát huyện Quỳ Hợp Huyện Quỳ Hợp có tổng diện tích tự nhiên 94.220,55 ha. Trong đó gần 4 ngàn ha núi đá và sông suối, còn lại trên 90 ngàn ha thuộc 2 nhóm chính là đất địa thành và đất thủy thành. Nhìn chung đất đai Quỳ Hợp đa dạng, độ phì cao, tầng dày khá (>170cm) thích hợp với nhiều loại cây lâu năm có giá trị kinh tế cao so với nhiều huyện miền núi khác. Từ thời Pháp thuộc, ở vùng Phủ Quỳ (cũ), trong đó có một phần đất của Quỳ Hợp, đã xuất hiện các đồn điền…Sau hoà bình được lập lại, Quỳ Hợp đã có 2 Nông trường được thành lập, tồn tại và phát triển đến nay đã chuyển đổi thành công ty làm ăn có hiệu quả. Cũng như đặc điểm chung của toàn tỉnh, huyện Quỳ Hợp có lượng mưa phân bố không đều trong năm (tập trung chủ yếu vào tháng 8, 9) trong khi độ dốc lớn, lòng sông, suối hẹp nên nguồn nước mặt ở Quỳ Hợp cũng có những hạn chế. Sớm ý thức được điều đó, Đảng bộ và nhân dân huyện Quỳ Hợp đã chăm lo đầu tư, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phục vụ sản xuất. Đến nay, toàn huyện có 46 hồ, đập lớn nhỏ với tổng diện tích mặt nước có khoảng 200 ha, đáp ứng tuới tiêu cho 2.239,15 ha lúa nước (2 vụ). Với kỹ thuật chăm bón tốt, kết hợp với các giống lúa lai kinh tế, năng suất lúa bình quân của Quỳ Hợp là 58,5 ta/ha, sản lượng lúa hàng năm đạt trên 25 ngàn tấn, giải quyết cơ bản nhu cầu về lương thực trên địa bàn huyện. Sau năm 2015, khi Hồ chứa nước Bản Mồng được đưa vào sử dụng, dự kiến, sẽ cấp nước tưới cho 18.871 ha đất sản xuất, chủ yếu là ở Quỳ Hợp. Khi đã chủ động được nguồn nước tưới, Quỳ Hợp sẽ có sự thay đổi cơ bản cơ cấu các loại cây trồng, một số diện tích cây màu sẽ chuyển sang thâm canh lúa nước. Theo số liệu thống kê đất đai năm 2008 thì tổng diện tích đất lâm nghiệp là 51.612,17 ha, chiếm 54,78% tổng diện tích tự nhiên, trong đó đất rừng sản xuất 38.855,37 ha, còn lại là đất rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Trong những năm gần đây, trên địa bàn Quỳ Hợp, việc trồng rừng đã trở thành phong trào, bà con nhân dân đã biết ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong việc trồng, bảo vệ và chăm sóc rừng, nên diện tích rừng trồng phát triển tốt. Năm 2008, toàn huyện đã trồng được 1.491 ha rừng, 6 tháng đầu năm 2009 đã trồng được 923 ha rừng. Dự kiến, năm 2009 Quỳ Hợp sẽ trồng rừng vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch 1.500 ha). Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi ở Quỳ Hợp cũng phát triển khá mạnh. Năm 2008, tổng đàn trâu 26.740 con, tổng đàn bò 12.751 con, đàn lợn 43.298 con, gia cầm 606.879 con. Trong thời gian gần đây, diện tích đồng cỏ có xu hướng giảm vì phần lớn diện tích đã bố trí cho trồng trọt, nhất là việc trồng rừng, từ đó tập quán chăn nuôi gia súc thả rông không còn phù hợp và đã từng bước chuyển sang chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại, nuôi nhốt chuồng…vừa thuận lợi trong việc chăm sóc, phòng chống dịch bệnh vừa tận dụng được nguồn thức ăn từ các sản phẩm của trồng trọt như ngô, lá mía… Giới thiệu tiềm năng Trên miền Tây Bắc Xứ Nghệ, cách đây 46 năm, ngày 19/4/1963 huyện Quỳ Hợp được thành lập theo quyết định số 53/CP của Hội đồng Chính phủ. Địa danh Quỳ Hợp ra đời từ đấy. Là một trong ba huyện được chia tách từ huyện Quỳ Châu, trong quá khứ hào hùng, nhân dân các dân tộc Quỳ Hợp đã cùng nhân dân trong tỉnh và cả nước, đoàn kết bên nhau, ra sức chế ngự, chinh phục thiên nhiên chiến đấu chống các thế lực ngoại xâm để bảo vệ, xây dựng quê hương, bản làng và bảo vệ thành quả lao động của mình. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, mảnh đất Quỳ Hợp còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh hùng vĩ và mang đậm dấu ấn của những con người dựng xây nên cuộc sống. Đó là Bãi Tập, Quán Dinh… nơi xưa kia Nghĩa Quân Lê Lợi chọn mảnh đất này luyện tập quân sỹ, trước khi tạo nên một “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Là Hồ Thung Mây thơ mộng nằm ở trung tâm huyện – Công trình kết tinh bởi bàn tay, khối óc của con người với thiên nhiên Quỳ Hợp, là sự kết hợp giữa lịch sử, truyền thống với hiện đại và đổi mới. Là Khu Bảo tồn nhiên thiên Pù Huống, Thẩm Poòng, Thác Bìa… những món quà vô giá mà tạo hoá và thiên nhiên đã ban tặng cho mảnh đất này. Quỳ Hợp là miền đất lành, nơi gặp gỡ, hội tụ của những nét văn hoá đặc sắc của nhiều dân tộc, chủ yếu là ba dân tộc Thái, Thổ, Kinh, dù là người miền xuôi hay miền ngược, dù trong Nam hay ngoài Bắc, từ nhiều năm nay, đã đoàn kết cùng chung tay xây dựng cuộc sống, tạo nên miền quê có một không hai này. Với hơn 15.500 ha đất nông nghiệp, Quỳ Hợp là vùng đất đỏ bazan với cao su, chè và “cam Vinh” thương hiệu nổi tiếng cả nước. Nơi đây là bạt ngàn màu xanh cây mía, cây lúa lai, ngô lai và nhiều loại hoa quả. Là một huyện giàu tiềm năng và nhiều lâm thổ sản quý giá, nhiều gia súc, gia cầm với giống “vịt Quỳ” quý hiếm. Trong sự nghiệp đổi mới, Quỳ Hợp được biết đến là một trong những địa phương có nền kinh tế, nhất là Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển năng động. Năm 1980, Nhà nước ta đã liên doanh với Liên Xô tổ chức khai thác và luyện thiếc ở Quỳ Hợp. Tháng 3/1996, Nhà máy đường Liên doanh Nghệ An – Tate&Lyle được khởi công xây dựng với công nghệ hiện đại nhất Đông Nam Á. Là vùng đất được thiên nhiên ban tặng cho nhiều tài nguyên khoáng sản quý giá như thiếc, đá trắng, đá xây dựng các loại… Thực hiện chủ trương phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước, từ những năm 1990 đến nay, có trên 190 Doanh nghiệp được thành lập, 2 Khu công nghiệp nhỏ và gần 100 cơ sở Công nghiêp chế biến được xây dựng. Sản phẩm thiếc, đá ốp lát, nước khoáng Quỳ Hợp đã có mặt ở trên thị trường trong nước và thế giới. Với hệ thống hạ tầng, giao thông khá thuận tiện, Quỳ Hợp sẽ là nơi đưa bạn tới các huyện Quỳ Châu, Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương … anh em. Nhưng những giá trị văn hoá mới chính là nét đặc trưng của miền đất này. Được Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban nhân dân tỉnh chọn xây dựng huyện điểm văn hoá và dân tộc thiểu số khu vực Bắc Trung bộ, qua 8 năm thực hiện, Quỳ Hợp đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” được đẩy mạnh. Các thiết chế văn hoá thông tin thể thao được đầu tư xây dựng. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc được bảo tồn, gìn giữ và phát huy. Về đây, bạn sẽ được chứng kiến Lễ hội 19/4 hàng năm của huyện, Lễ hội Mường Ham và nhiều hoạt động văn hoá thông tin khác. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc Quỳ Hợp đang ngày càng được nâng cao.
General introduction of Quy Hop district Quy Hop district has a total natural area of ​​94,220.55 hectares. Of which nearly 4 thousand hectares are rocky mountains and rivers and streams, the remaining over 90 thousand hectares belong to two main groups: land formation land and water formation land. In general, Quy Hop's land is diverse, highly fertile, and has a fairly thick layer (>170cm) suitable for many perennial crops with high economic value compared to many other mountainous districts. Since the French colonial period, in the Phu Quy (old) area, including a part of Quy Hop's land, plantations have appeared... After peace was restored, Quy Hop had 2 established and existing farms. and developed until now it has transformed into an effective company. Like the general characteristics of the entire province, Quy Hop district has unevenly distributed rainfall throughout the year (mainly concentrated in August and September) while the steep slope and narrow river and stream beds result in surface water sources in Quy Hop. There are also limitations. Soon aware of that, the Party Committee and people of Quy Hop district took care of investing and building irrigation works to serve production. To date, the entire district has 46 lakes and dams, large and small, with a total water surface area of ​​about 200 hectares, meeting the needs of irrigation for 2,239.15 hectares of wet rice (2 crops). With good fertilization techniques, combined with economical hybrid rice varieties, Quy Hop's average rice yield is 58.5 tons/ha, annual rice output reaches over 25 thousand tons, basically meeting the demand for rice. about food in the district. After 2015, when Ban Mong Reservoir is put into use, it is expected to provide irrigation water for 18,871 hectares of production land, mainly in Quy Hop. Once the irrigation water source is proactive, Quy Hop will have a fundamental change in the structure of crops, some crop areas will switch to intensive wet rice cultivation. According to 2008 land statistics, the total forestry land area is 51,612.17 hectares, accounting for 54.78% of the total natural area, of which 38,855.37 hectares are production forest land, and the rest is protective forest land. households and special-use forests. In recent years, in Quy Hop area, afforestation has become a movement, people have learned to apply science and technology in planting, protecting and taking care of forests, so the area of ​​​​planted forests has increased. well developement. In 2008, the whole district planted 1,491 hectares of forest, and in the first 6 months of 2009, 923 hectares of forest were planted. It is expected that in 2009, Quy Hop will afforest beyond the set plan (plan of 1,500 hectares). Besides farming, animal husbandry in Quy Hop also develops quite strongly. In 2008, the total herd of buffaloes was 26,740 heads, the total herd of cows was 12,751 heads, the herd of pigs was 43,298 heads, and the poultry herd was 606,879 heads. In recent times, the area of ​​grassland has tended to decrease because most of the area has been allocated for cultivation, especially afforestation. Since then, the practice of raising free-range cattle is no longer appropriate and has gradually changed. Switching to concentrated livestock farming on a farm scale, cage farming... is both convenient for care and disease prevention while taking advantage of food sources from farming products such as corn, sugarcane leaves... Potential introduction In the Northwest region of Nghe An, 46 years ago, on April 19, 1963, Quy Hop district was established by decision Không. 53/CP of the Government Council. The place name Quy Hop was born from there. As one of three districts separated from Quy Chau district, in the heroic past, the people of Quy Hop ethnic groups together with the people of the province and the whole country, united together, trying to control and conquer nature. Fight against foreign invaders to protect and build your homeland, villages and protect the fruits of your labor. Over thousands of years of history, the land of Quy Hop still preserves many historical relics, majestic landscapes and imprints of the people who built life. Those are Bai Tap, Quan Dinh... where in the past, Le Loi, the Rebel Army, chose this land to practice his soldiers, before creating a "Battle of Bo Dang with thunder and lightning, Tra Lan Region's bamboo splitting flying ash". Is the romantic Thung May Lake located in the center of the district - A project crystallized by the hands and minds of people with Quy Hop nature, a combination of history, tradition with modernity and innovation. These are Pu Huong, Tham Poong, Thac Cover Nature Reserves... priceless gifts that nature and nature have bestowed on this land. Quy Hop is a good land, a meeting place and convergence of unique cultural features of many ethnic groups, mainly the three ethnic groups Thai, Tho, Kinh, whether they are from the lowland or the upstream, whether in the South or the South. In the North, for many years now, we have united and joined hands to build a life, creating this unique countryside. With more than 15,500 hectares of agricultural land, Quy Hop is a basalt red land with rubber, tea and "Vinh oranges" famous brands throughout the country. This place is vast green sugarcane, hybrid rice, hybrid corn and many types of fruits. It is a district rich in potential and rich in valuable forest products, livestock and poultry with the rare "Quy duck" breed. During the innovation process, Quy Hop is known as one of the localities with a dynamically developing economy, especially industry and handicrafts. In 1980, our State entered into a joint venture with the Soviet Union to organize tin mining and smelting in Quy Hop. In March 1996, Nghe An - Tate&Lyle Joint Venture Sugar Factory was started construction with the most modern technology in Southeast Asia. It is a land endowed by nature with many valuable mineral resources such as tin, white stone, construction stones of all kinds... Implementing the policy of developing economic sectors of the Party and State, from the 1990s to Currently, there are over 190 enterprises established, 2 small industrial parks and nearly 100 processing industry establishments built. Tin products, paving stones, and Quy Hop mineral water are present in the domestic and world markets. With quite convenient infrastructure and transportation system, Quy Hop will be the place to take you to Quy Chau, Que Phong, Con Cuong, Tuong Duong districts... brothers. But cultural values ​​are the characteristics of this land. Selected by the Ministry of Culture and Information and the Provincial People's Committee to build a cultural and ethnic minority district in the North Central region, after 8 years of implementation, Quy Hop has achieved many good results. The movement "All people unite to build cultural life in residential areas" has been promoted. Cultural and sports information institutions are invested in and built. Many traditional cultural values ​​of ethnic minorities are preserved, preserved and promoted. Coming here, you will witness the district's annual April 19 Festival, Muong Ham Festival and many other cultural and information activities. The material and spiritual life of the Quy Hop ethnic people is increasingly improving.
Giới thiệu khái quát huyện Hưng Nguyên Huyện Hưng Nguyên là một huyện đồng bằng tả ngạn sông Lam, phía nam tỉnh Nghệ An . Phía đông giap thành phố Vinh. Phía bắc và đông bắc giáp huyện Nghi Lộc. Phía nam và đông nam giáp sông Lam. Khúc sông dài 25km là ranh giới tự nhiên giữa Hưng Nguyên với các huyện Nam Đàn, Đức Thọ và thị xã Hồng Lĩnh. Diện tich tự nhiên của Hưng Nguyên hiện nay 165 km2, dân số hơn 11 vạn người, trong đó có 2,2 vạn người theo đạo Thiên chúa. Có 22 xã và 1 thị trấn. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 là 13,2 triệu đồng. Hưng Nguyên là quê hương của cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong, Liệt sỹ Phạm Hồng Thái, Thượng thư Đinh Bat Tuỵ, Nhà tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ; là một trong những cái nôi của cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, mà đỉnh cao là cuộc biểu tình lich sử ngày 12/9/1930. Hưng Nguyên là nơi sinh cội nguồn ba vĩ nhân: quê hương bà ngoại Bác Hồ; quê tổ Vua Quang Trung; quê tổ Nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Huyện Hưng Nguyên ra đời vào năm 1469, khi vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ hành chính của cả nước. Đại Việt được chia thành 12 thừa tuyên. Huyện Hưng Nguyên thuộc phủ Anh Đô thừa tuyên Nghệ An. Đã hơn 540 năm qua, tên gọi huyện Hưng Nguyên chưa hề thay đổi. Tuy nhiên trước lúc có tên gọi Hưng Nguyên, từ thuở các Vua Hùng dựng nước, nơi đây đã có cư dân người Việt cổ. Trong khoảng 330 năm đầu, kể từ khi có tên gọi, ranh giới huyện Hưng Nguyên khá ổn định và rộng lớn; phía bắc là dãy núi Đại Hoạch (Thần Vũ), phía tây là dãy núi Đại Hải, phía tây nam và phía nam là núi Thành, sông Lam, núi Quyết, phía đông là huyện Chân Lộc. Khi đó, Hưng Nguyên có 7 tổng và 96 xã, thôn, đó là các tổng Phù Long, Thông Lãng, Đô Yên, Hoa Viên, Hải Đô, Cảo Trình và La Hoàng. Dưới thời Pháp thuộc, vào năm 1898, huyện Hưng Nguyên được đổi thành phủ Hưng Nguyên. Phủ quản lý hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, trong đó các tổng của huyện Hưng Nguyên do phủ trực tiếp quản lý. Năm 1911 sáp nhập hai tổng cảo Trình (Vân Trình) và La Hoàng (La Vân) về huyện Nghi Lộc. Đổi lại chuyển tổng Yên Trường của huyện Nghi Lộc về phủ Hưng Nguyên trực tiếp quản lý. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đã nhiều lần điều chỉnh địa giới. Các làng phía hữu ngạn sông Lam thuộc tổng Phù Long cũ sáp nhập vào huyện Nam Đàn. Hai xã Hải Đô và Nguyệt Tĩnh thuộc tổng Hải Đô cũ sáp nhập vào huyện Nghi Lộc. Tám xã của huyện Hưng Nguyên lần lượt sáp nhập vào Thành phố Vinh. Huyện Hưng Nguyên từ xưa là địa bàn chiến lược về quân sự. Nhiều vị Vua hiền đã đến đây kinh lí hoặc cầm quân đánh giặc, như: Lê Đại Hành (1003), Lê Thái Tổ (1425), Lê Thánh Tông (1470), Quang Trung (1789), Thiệu Trị (1842). Hưng Nguyên phát triển huy hoàng vào thời Lê. Ngoài nghề trồng lúa nước và chăn nuôi, còn phát triển nhiều nghề khác. Phố Phù Thạch xã Phục Lễ và các làng dưới chân núi Thành, là nơi nhộn nhịp buôn bán, không những đối với người trong nước, mà còn cả người Nhật và người Trung Hoa. Trên bản đồ Đại Việt ngày ấy, người Nhật đã khoanh một vòng tròn mực đỏ đậm nét quanh chữ Hưng Nguyên. Đầu thế kỷ 15 quân Minh chiếm đóng núi Thành. Sự tích “ăn cổ đầu người” của Nguyễn Biểu trước mặt quan quân Trương Phụ đã thể hiện tính can trường bất khuất của người Đại Việt. Cũng ở núi Lam Thành có chuyện về hàng tướng Thái Phúc biết cải tà quy chính, giúp nghĩa quân Lê Lợi quét sạch giặc Minh, sau khi qua đời được vua Lê phong là Tuyên Nghĩa Vương. Vào giữa thế kỷ 17 xẩy ra cuộc chiến tranh giữa 2 thế lực phong kiến Trịnh – Nguyễn. Sông Lam đã trở thành giới tuyến, nhiều vùng đất Hưng Nguyên là chiến trường đẫm máu. Khi quân Trịnh đẩy lùi quân Nguyễn vào phía nam sông Gianh, thì Hưng Nguyên mới bình yên trở lại. Núi Thành và vùng phụ cận, đã từng là quận lỵ, châu Lỵ của các đơn vị hành chính thời ngàn năm Bắc thuộc; cũng là vùng trấn lỵ, tỉnh lỵ Nghệ An từ triều Lê Thánh Tông cho đến đầu triều Nguyễn. Tiếc thay, thiên tai và chiến tranh đã làm biến dạng vùng đất trù phú này. Vào cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, nhiều trận lũ lụt lớn xẩy ra; và sự biến đổi của dòng chảy sông Lam, đã làm cho khu buôn bán nhộn nhịp không còn nữa. Người Nhật và người Trung Hoa, đã chuyển việc buôn bán ra phố Hiến, tỉnh Hưng Yên. Ngày xưa, người dân Hưng Nguyên còn thống khổ vì thiên tai. Khi chưa có hệ thống thuỷ nông hoàn chỉnh, lụt lội, hạn hán xẩy ra thường xuyên,nhân dân cơ cực. Nhưng chính sự khắc nghiệt của thiên tai và chiến tranh đã tôi rèn con người Hưng Nguyên có được những phẩm chất quý giá. Từ thời nhà Lê đến thời nhà Nguyễn toàn huyện có 13 người đậu Tiến sĩ và Phó bảng, 26 người đậu Hương cống và Cử nhân, hàng trăm người đậu Tú tài. Trong số đó có Tướng công Đinh Bạt Tuỵ, đậu đầu khoá thi đặc biệt năm 1554, làm đến chức Thượng thư Bộ Binh. Còn có Nguyễn Trường Tộ , người giáo dân có lòng yêu nước nồng nàn, có tư tưởng canh tân vượt tầm thời đại. Mẹ Lân, người làng Phúc Hậu xã Hưng Xuân có công lớn thời Cần Vương; được cụ Phan Bội Châu ca ngợi là Nữ Hào Kiệt đất Hồng Lam. Nhân dân Hưng Nguyên hưởng ứng mạnh mẽ các phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du và xuất dương. Nhiều người con ưu tú đã anh dũng hy sinh như Bang Lân, Tác Việng, Nguyễn Huy Chước, Trần Diệm, Ngô Thúc Thiêm, Phạm Hồng Thái,…Nhiều người trở thành cán bộ ưu tú của Đảng như Lê Thiết Hùng, Ngô Thúc Tuân, Nguyễn Thị Tích ( Lý Phương Thuận). Đặc biệt có đồng chí Lê Hồng Phong đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng, uỷ viên Ban chấp hành Quốc tế cộng sản; và vợ là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ, Bí thư thành uỷ Sài Gòn Gia Định, nêu một tấm gương sáng ngời về một gia đình Cộng sản. Từ ngày có Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã có tổ chức và lãnh đạo; tiêu biểu là cuộc biểu tình, của 2 vạn nông dân Hưng Nguyên vào ngày 12 tháng 9 năm 1930. Thực dân Pháp đã đàn áp cuộc biểu tình làm cho 217 người hy sinh. Đây là đỉnh cao của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, vang dội cả thế giới và đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Sau cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, giặc Pháp thực hiện chính sách khủng bố trắng, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắn và giam cầm. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt như các đồng chí Lê Mao, Lê Xuân Đào, Võ Trọng Cánh, Nguyễn Hữu Lễ,…Bất chấp hiểm nguy, các đồng chí Chu Huy Mân, Ngô Thúc Tuân, Võ Trọng Ân, Nguyễn Xuân Thành,… đã len lỏi đến từng cơ sở chắp nối liên lạc gây dựng lại phong trào. Nhờ vậy, khi có lệnh tổng khởi nghĩa, Chấp uỷ Việt Minh Hưng Nguyên, đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Vào hồi 17giờ ngày 19 tháng 8 năm 1945, ông Ngô Mậu, Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời phủ Hưng Nguyên ra mắt đồng bào. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19 tháng 12 năm 1946 của Hồ Chủ Tịch, nhân dân Hưng Nguyên muôn người như một, tham gia phong trào “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; thực hiện công cuộc giảm tô và cải cách ruộng đất, làm cho mọi người cày đều có ruộng. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Hoà bình mới lập lại chưa lâu, thì nhân dân ta lại phải đương đầu chiến đấu với xâm lược Mỹ và quân nguỵ. Nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, vừa dốc lòng dốc sức cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhân dân Hưng Nguyên đã luôn hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ với Tổ quốc. Hàng vạn Thanh niên và quần chúng Cách mạng đi làm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tại các chiến trường. Trong đó có gần 2.700 người hy sinh, 3.500 người là thương bệnh binh, gần 2.000 người bị nhiễm chất độc da cam, có 80 cán bộ Lão thành cách mạng và Tiền khởi nghĩa, 58 quân nhân bị địch bắt và tù đày; 20.000 người và 8.000 gia đình được thưởng Huân Huy chương kháng chiến, 56 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 2 Anh hùng LLVT nhân dân và 4 Anh hùng lao động. Năm 1962 huyện Hưng Nguyên được Tỉnh trao cờ 9 nhất. Hợp tác xã Ba Tơ xã Hưng Thái do Anh hùng Cao Lục làm Chủ nhiệm, là ngọn cờ đầu sản xuất nông nghiệp toàn miền Bắc. Hệ thống thuỷ nông được công nhận hoàn chỉnh vào năm 1974, đã bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hầu hết diện tích trồng lúa. Đê tả lam (tức đê 42) được bồi trúc chắc chắn. Nạn hạn hán, nỗi lo vỡ đê đã bị đẩy lùi. Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt từ khi có công cuộc đổi mới, hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân 12% năm. Bộ mặt Hưng Nguyên khởi sắc từng ngày. Vụ lúa hè thu phát triển thành vụ sản xuất chính có năng suất cao. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nhà dân cơ bản được ngói hoá. Đường giao thông mở rộng và kiên cố hoá. Hầu hết các gia đình có phương tiện nghe nhìn. Trường học từ Mầm non đến Trung học phổ thông đã từng bước kiên cố hoá, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em. Bệnh viện, trung tâm y tế huyện, các trạm y tế xã đáp ứng cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Có 12 di tích lịch sử văn hoá được xêp hạng cấp Quốc gia, 11 di tích được xếp hạng cấp Tỉnh, trên 110 di tích đang được các địa phương bảo tồn và gìn giữ. Các lĩnh vực xã hội được quan tâm, quốc phòng- an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, và hướng tới phục vụ tốt hơn cho nhân dân. Từ năm 2002 đến nay, Đảng bộ huyện liên tục đạt danh hiệu Đảng bộ Vững manh; Năm 2008 nhân dân và cán bộ huyện Hưng Nguyên được Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc; được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Hai./.
Giới thiệu khái quát huyện Hưng Nguyên Huyện Hưng Nguyên là một huyện đồng bằng tả ngạn sông Lam, phía nam tỉnh Nghệ An . Phía đông giap thành phố Vinh. Phía bắc và đông bắc giáp huyện Nghi Lộc. Phía nam và đông nam giáp sông Lam. Khúc sông dài 25km là ranh giới tự nhiên giữa Hưng Nguyên với các huyện Nam Đàn, Đức Thọ và thị xã Hồng Lĩnh. Diện tich tự nhiên của Hưng Nguyên hiện nay 165 km2, dân số hơn 11 vạn người, trong đó có 2,2 vạn người theo đạo Thiên chúa. Có 22 xã và 1 thị trấn. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 là 13,2 triệu đồng. Hưng Nguyên là quê hương của cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong, Liệt sỹ Phạm Hồng Thái, Thượng thư Đinh Bat Tuỵ, Nhà tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ; là một trong những cái nôi của cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, mà đỉnh cao là cuộc biểu tình lich sử ngày 12/9/1930. Hưng Nguyên là nơi sinh cội nguồn ba vĩ nhân: quê hương bà ngoại Bác Hồ; quê tổ Vua Quang Trung; quê tổ Nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Huyện Hưng Nguyên ra đời vào năm 1469, khi vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ hành chính của cả nước. Đại Việt được chia thành 12 thừa tuyên. Huyện Hưng Nguyên thuộc phủ Anh Đô thừa tuyên Nghệ An. Đã hơn 540 năm qua, tên gọi huyện Hưng Nguyên chưa hề thay đổi. Tuy nhiên trước lúc có tên gọi Hưng Nguyên, từ thuở các Vua Hùng dựng nước, nơi đây đã có cư dân người Việt cổ. Trong khoảng 330 năm đầu, kể từ khi có tên gọi, ranh giới huyện Hưng Nguyên khá ổn định và rộng lớn; phía bắc là dãy núi Đại Hoạch (Thần Vũ), phía tây là dãy núi Đại Hải, phía tây nam và phía nam là núi Thành, sông Lam, núi Quyết, phía đông là huyện Chân Lộc. Khi đó, Hưng Nguyên có 7 tổng và 96 xã, thôn, đó là các tổng Phù Long, Thông Lãng, Đô Yên, Hoa Viên, Hải Đô, Cảo Trình và La Hoàng. Dưới thời Pháp thuộc, vào năm 1898, huyện Hưng Nguyên được đổi thành phủ Hưng Nguyên. Phủ quản lý hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, trong đó các tổng của huyện Hưng Nguyên do phủ trực tiếp quản lý. Năm 1911 sáp nhập hai tổng cảo Trình (Vân Trình) và La Hoàng (La Vân) về huyện Nghi Lộc. Đổi lại chuyển tổng Yên Trường của huyện Nghi Lộc về phủ Hưng Nguyên trực tiếp quản lý. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đã nhiều lần điều chỉnh địa giới. Các làng phía hữu ngạn sông Lam thuộc tổng Phù Long cũ sáp nhập vào huyện Nam Đàn. Hai xã Hải Đô và Nguyệt Tĩnh thuộc tổng Hải Đô cũ sáp nhập vào huyện Nghi Lộc. Tám xã của huyện Hưng Nguyên lần lượt sáp nhập vào Thành phố Vinh. Huyện Hưng Nguyên từ xưa là địa bàn chiến lược về quân sự. Nhiều vị Vua hiền đã đến đây kinh lí hoặc cầm quân đánh giặc, như: Lê Đại Hành (1003), Lê Thái Tổ (1425), Lê Thánh Tông (1470), Quang Trung (1789), Thiệu Trị (1842). Hưng Nguyên phát triển huy hoàng vào thời Lê. Ngoài nghề trồng lúa nước và chăn nuôi, còn phát triển nhiều nghề khác. Phố Phù Thạch xã Phục Lễ và các làng dưới chân núi Thành, là nơi nhộn nhịp buôn bán, không những đối với người trong nước, mà còn cả người Nhật và người Trung Hoa. Trên bản đồ Đại Việt ngày ấy, người Nhật đã khoanh một vòng tròn mực đỏ đậm nét quanh chữ Hưng Nguyên. Đầu thế kỷ 15 quân Minh chiếm đóng núi Thành. Sự tích “ăn cổ đầu người” của Nguyễn Biểu trước mặt quan quân Trương Phụ đã thể hiện tính can trường bất khuất của người Đại Việt. Cũng ở núi Lam Thành có chuyện về hàng tướng Thái Phúc biết cải tà quy chính, giúp nghĩa quân Lê Lợi quét sạch giặc Minh, sau khi qua đời được vua Lê phong là Tuyên Nghĩa Vương. Vào giữa thế kỷ 17 xẩy ra cuộc chiến tranh giữa 2 thế lực phong kiến Trịnh – Nguyễn. Sông Lam đã trở thành giới tuyến, nhiều vùng đất Hưng Nguyên là chiến trường đẫm máu. Khi quân Trịnh đẩy lùi quân Nguyễn vào phía nam sông Gianh, thì Hưng Nguyên mới bình yên trở lại. Núi Thành và vùng phụ cận, đã từng là quận lỵ, châu Lỵ của các đơn vị hành chính thời ngàn năm Bắc thuộc; cũng là vùng trấn lỵ, tỉnh lỵ Nghệ An từ triều Lê Thánh Tông cho đến đầu triều Nguyễn. Tiếc thay, thiên tai và chiến tranh đã làm biến dạng vùng đất trù phú này. Vào cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, nhiều trận lũ lụt lớn xẩy ra; và sự biến đổi của dòng chảy sông Lam, đã làm cho khu buôn bán nhộn nhịp không còn nữa. Người Nhật và người Trung Hoa, đã chuyển việc buôn bán ra phố Hiến, tỉnh Hưng Yên. Ngày xưa, người dân Hưng Nguyên còn thống khổ vì thiên tai. Khi chưa có hệ thống thuỷ nông hoàn chỉnh, lụt lội, hạn hán xẩy ra thường xuyên,nhân dân cơ cực. Nhưng chính sự khắc nghiệt của thiên tai và chiến tranh đã tôi rèn con người Hưng Nguyên có được những phẩm chất quý giá. Từ thời nhà Lê đến thời nhà Nguyễn toàn huyện có 13 người đậu Tiến sĩ và Phó bảng, 26 người đậu Hương cống và Cử nhân, hàng trăm người đậu Tú tài. Trong số đó có Tướng công Đinh Bạt Tuỵ, đậu đầu khoá thi đặc biệt năm 1554, làm đến chức Thượng thư Bộ Binh. Còn có Nguyễn Trường Tộ , người giáo dân có lòng yêu nước nồng nàn, có tư tưởng canh tân vượt tầm thời đại. Mẹ Lân, người làng Phúc Hậu xã Hưng Xuân có công lớn thời Cần Vương; được cụ Phan Bội Châu ca ngợi là Nữ Hào Kiệt đất Hồng Lam. Nhân dân Hưng Nguyên hưởng ứng mạnh mẽ các phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du và xuất dương. Nhiều người con ưu tú đã anh dũng hy sinh như Bang Lân, Tác Việng, Nguyễn Huy Chước, Trần Diệm, Ngô Thúc Thiêm, Phạm Hồng Thái,…Nhiều người trở thành cán bộ ưu tú của Đảng như Lê Thiết Hùng, Ngô Thúc Tuân, Nguyễn Thị Tích ( Lý Phương Thuận). Đặc biệt có đồng chí Lê Hồng Phong đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng, uỷ viên Ban chấp hành Quốc tế cộng sản; và vợ là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ, Bí thư thành uỷ Sài Gòn Gia Định, nêu một tấm gương sáng ngời về một gia đình Cộng sản. Từ ngày có Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã có tổ chức và lãnh đạo; tiêu biểu là cuộc biểu tình, của 2 vạn nông dân Hưng Nguyên vào ngày 12 tháng 9 năm 1930. Thực dân Pháp đã đàn áp cuộc biểu tình làm cho 217 người hy sinh. Đây là đỉnh cao của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, vang dội cả thế giới và đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Sau cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, giặc Pháp thực hiện chính sách khủng bố trắng, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắn và giam cầm. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt như các đồng chí Lê Mao, Lê Xuân Đào, Võ Trọng Cánh, Nguyễn Hữu Lễ,…Bất chấp hiểm nguy, các đồng chí Chu Huy Mân, Ngô Thúc Tuân, Võ Trọng Ân, Nguyễn Xuân Thành,… đã len lỏi đến từng cơ sở chắp nối liên lạc gây dựng lại phong trào. Nhờ vậy, khi có lệnh tổng khởi nghĩa, Chấp uỷ Việt Minh Hưng Nguyên, đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Vào hồi 17giờ ngày 19 tháng 8 năm 1945, ông Ngô Mậu, Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời phủ Hưng Nguyên ra mắt đồng bào. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19 tháng 12 năm 1946 của Hồ Chủ Tịch, nhân dân Hưng Nguyên muôn người như một, tham gia phong trào “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; thực hiện công cuộc giảm tô và cải cách ruộng đất, làm cho mọi người cày đều có ruộng. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Hoà bình mới lập lại chưa lâu, thì nhân dân ta lại phải đương đầu chiến đấu với xâm lược Mỹ và quân nguỵ. Nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, vừa dốc lòng dốc sức cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhân dân Hưng Nguyên đã luôn hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ với Tổ quốc. Hàng vạn Thanh niên và quần chúng Cách mạng đi làm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tại các chiến trường. Trong đó có gần 2.700 người hy sinh, 3.500 người là thương bệnh binh, gần 2.000 người bị nhiễm chất độc da cam, có 80 cán bộ Lão thành cách mạng và Tiền khởi nghĩa, 58 quân nhân bị địch bắt và tù đày; 20.000 người và 8.000 gia đình được thưởng Huân Huy chương kháng chiến, 56 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 2 Anh hùng LLVT nhân dân và 4 Anh hùng lao động. Năm 1962 huyện Hưng Nguyên được Tỉnh trao cờ 9 nhất. Hợp tác xã Ba Tơ xã Hưng Thái do Anh hùng Cao Lục làm Chủ nhiệm, là ngọn cờ đầu sản xuất nông nghiệp toàn miền Bắc. Hệ thống thuỷ nông được công nhận hoàn chỉnh vào năm 1974, đã bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hầu hết diện tích trồng lúa. Đê tả lam (tức đê 42) được bồi trúc chắc chắn. Nạn hạn hán, nỗi lo vỡ đê đã bị đẩy lùi. Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt từ khi có công cuộc đổi mới, hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân 12% năm. Bộ mặt Hưng Nguyên khởi sắc từng ngày. Vụ lúa hè thu phát triển thành vụ sản xuất chính có năng suất cao. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nhà dân cơ bản được ngói hoá. Đường giao thông mở rộng và kiên cố hoá. Hầu hết các gia đình có phương tiện nghe nhìn. Trường học từ Mầm non đến Trung học phổ thông đã từng bước kiên cố hoá, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em. Bệnh viện, trung tâm y tế huyện, các trạm y tế xã đáp ứng cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Có 12 di tích lịch sử văn hoá được xêp hạng cấp Quốc gia, 11 di tích được xếp hạng cấp Tỉnh, trên 110 di tích đang được các địa phương bảo tồn và gìn giữ. Các lĩnh vực xã hội được quan tâm, quốc phòng- an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, và hướng tới phục vụ tốt hơn cho nhân dân. Từ năm 2002 đến nay, Đảng bộ huyện liên tục đạt danh hiệu Đảng bộ Vững manh; Năm 2008 nhân dân và cán bộ huyện Hưng Nguyên được Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc; được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Hai./.
Giới thiệu khái quát huyện Quỳnh Lưu Quỳnh Lưu là huyện đồng bằng ven biển, với diện tích tự nhiên 43.762,87ha, dân số 279.977 (tính đến 03/4/2013); có 33 đơn vị hành chính (gồm 32 xã và 1 thị trấn), 406 thôn, bản, khối phố. Huyện có tuyến đường Quốc lộ 1A, Quốc lộ 48, đường sắt Bắc Nam, đường Tỉnh lộ 537 đi qua; có khu du lịch biển Quỳnh, vùng thị tứ đang hình thành và phát triển. Địa hình đa dạng, phức tạp được chia làm ba vùng gồm miền núi – bán sơn địa; đồng bằng và ven biển. Cơ cấu dân cư đa dạng, với nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. Toàn huyện có 20 di tích lịch sử văn hóa được công nhận (trong đó có 11 di tích cấp Quốc gia và 9 di tích cấp tỉnh); Gia đình văn hoá chiếm 75,6%; 259/406 thôn, bản, khối phố đạt danh hiệu “Làng văn hoá” chiếm tỷ lệ 63,8%; có làng văn hóa Quỳnh Đôi, xã văn hóa Quỳnh Hậu. Khoảng cách từ huyện lỵ là thị trấn Cầu Giát đến tỉnh lỵ là thành phố Vinh khoảng 60Km. Phía Bắc huyện Quỳnh Lưu giáp thị xã Hoàng Mai, Phía Đông giáp biển Đông; Phía Tây giáp huyện Tân Kỳ và huyện Nghĩa Đàn; Phía Tây Nam giáp huyện Yên Thành; Phía Nam giáp huyện Diễn Châu. Về núi: – Núi Trụ Hải ở địa phận xã Quỳnh Lâm cũ, nay thuộc xã Quỳnh Văn. – Núi Bào Đột ở địa phận xã Bào Giang cũ, nay là thôn 10 xã Ngọc Sơn – Núi Tùng Lĩnh còn gọi là núi Rừng Thông ở xã Quỳnh Tụ cũ nay là xã Quỳnh Xuân và Quỳnh Văn. – Núi Thất Tinh. – Núi Long Sơn ở địa phận làng Nhân Sơn thuộc xã Quỳnh Hồng. – Núi Qui Lĩnh ở trên bờ biển thuộc xã Hiền Lương cũ này là xã Quỳnh Lương và Quỳnh Bảng. – Núi Tiên Kỳ hay còn gọi là núi Cờ Tiên cũng nằm trên bờ biển thuộc xã Hoàn Nghĩa nay là Tiến Thuỷ. – Gò Điệp ở xã Quỳnh Văn. Về sông: – Sông Thái. – Sông Mai Giang. Về khí hậu và thời tiết: Quỳnh Lưu nằm trong khu vực nhiệt đới nhưng lại ở miền biển nên thường nhận được ba luồng gió: – Gió mùa Đông Bắc nằm sâu trong lục địa lạnh lẽo của vùng Sibia và Mông Cổ, từng đợt thổi qua Trung Quốc và vịnh Bắc Bộ tràn về, bà con gọi là gió bắc. – Gió mùa Tây Nam ở tận vinh Băng-gan tràn qua lục địa, luồn qua các dãy Trường Sơn, thổi sang mà nhân dân thường gọi là gió Lào nhưng chính là gió tây khô nóng. – Gió mùa Đông nam mát mẻ từ biển Đông thổi vào nhân dân gọi là gió nồm. Khí hậu Quỳnh Lưu chia làm hai mùa rõ rệt: – Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch. Mùa này tiết trời nóng nực, nhiệt độ trung bình 30C, có ngày lên tới 40C. – Mùa lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 dương lịch năm sau. Mùa này thường có gió mùa đông bắc, mưa kéo dài./. Xã hội hóa hoạt động lễ hội ở Quỳnh Lưu Quỳnh Lưu là huyện địa đầu xứ Nghệ, nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch Bắc – Nam, có 43 xã, thị trấn, gần 39 vạn dân, trong đó có 14% đồng bào theo đạo Thiên chúa, có người theo đạo Phật, có đồng bào dân tộc thiểu số, cơ cấu kinh tế theo vùng, miền rõ rệt, đã tạo nên tính đa dạng, phong phú trong đời sống văn hoá. Trải qua quá trình biến thiên của lịch sử, các lễ hội truyền thống ở Quỳnh Lưu đã không còn giữ được nguyên vẹn bản sắc vốn có. Nhưng dù ở thời kỳ nào thì lễ hội ở Quỳnh Lưu cũng là một hình thức sinh hoạt văn hoá lành mạnh, và có tính phổ biến trong đời sống xã hội, có sức lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Các lễ hội dân gian truyền thống được khôi phục như: Lễ hội Đền Cờn, Lễ Kỳ phúc (Quỳnh Đôi), Lễ hội Đền Thượng (Quỳnh Nghĩa), đền Xuân Hoà, đền Phùng Hưng (Quỳnh Xuân), đền Chính (Tiến Thủy), đền Kim Lung (Mai Hùng)… Điểm nổi bật của các lễ hội truyền thống ở Quỳnh Lưu là đã được xã hội hoá cao. Nhân dân đã đóng góp công đức hàng chục tỷ đồng để tu bổ di tích, mua sắm, khôi phục đồ tế khí, hàng trăm ngày công để luyện tập, tham gia lễ hội. Công tác quản lý nhà nước về lễ hội được quan tâm đúng mức, trật tự an toàn trong lễ hội được đảm bảo, không có hoạt động mê tín dị đoan… Đặc biệt, Lễ hội Đền Cờn đã được khôi phục từ năm 1999, từ đó đến nay vẫn giữ được vị thế: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”. Lễ hội được tổ chức vào các ngày 20, 21 tháng Giêng âm lịch hàng năm, đã huy động được nhiều công, của do nhân dân địa phương, khách thập phương và các nhà hảo tâm đóng góp để tổ chức các hoạt động, tu bổ, phục dựng di tích đền Cờn, gắn với khu công nghiệp Hoàng Mai, đã mở một tiềm năng lớn cho việc phát triển kinh tế, văn hóa tâm linh và du lịch. Chỉ tính riêng từ tháng 6 đến hết 31/12/2012, đền Cờn chuyển về huyện quản lý đã huy động được nguồn công đức là 2.076.324 ngàn đồng (trong đó tiền mặt là 1.585.624 ngàn đồng, hiện vật quy đổi thành tiền là 490.700 ngàn đồng). Sự thành công của công tác xã hội hoá trong hoạt động lễ hội ở Quỳnh Lưu, thể hiện ở tính tích cực, chủ động, tự giác của người dân, của cả cộng đồng, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự phối hợp đồng bộ của các ban ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở; đồng thời ngành VHTT chủ động xây dựng kế hoạch sớm, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên trong ban tổ chức, các tiểu ban, làm tốt công tác tuyên truyền, chỉ đạo, hướng dẫn, chuẩn bị các điều kiện đảm bảo… Sau các cuộc lễ hội tổ chức họp tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng động viên kịp thời. Thời gian tới, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ươngV (khoá VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Quỳnh Lưu có quy chế tổ chức hoạt động lễ hội, triển khai Đề án xây dựng thiết chế VHTT-TT đạt chuẩn, hoạt động lễ hội gắn liền các di tích lịch sử – văn hoá, khai thác tiềm năng, bản sắc văn hóa truyền thống của di tích, địa phương, vùng miền để từng bước tu bổ, nâng cấp gắn với phát triển du lịch. Nội dung và các hình thức tổ chức lễ hội được ngành Văn hoá và các cấp, các ngành liên quan trao đổi, thông qua hội thảo rút ra các mô hình, làm hình mẫu để học tập, tổ chức tốt hơn, đáp ứng nhu cầu tâm linh và giao lưu văn hoá, thể thao, góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân huyện nhà trong công cuộc đổi mới và hội nhập. Hồ Thanh Khương (Quỳnh Lưu) Nguồn: Báo Nghệ An (8/1/2013)
General introduction of Quynh Luu district Quynh Luu is a coastal plain district, with a natural area of ​​43,762.87 hectares, population of 279,977 (as of April 3, 2013); There are 33 administrative units (including 32 communes and 1 town), 406 villages, hamlets and city blocks. The district has National Highway 1A, National Highway 48, North-South railway, Provincial Road 537 passing through; There is Quynh beach tourist area and urban area that is being formed and developed. The diverse and complex terrain is divided into three regions: mountainous - semi-mountainous; plains and coastal areas. The population structure is diverse, with many ethnic groups living together. The entire district has 20 recognized historical and cultural relics (including 11 national relics and 9 provincial relics); Cultural families account for 75.6%; 259/406 villages, hamlets and city blocks achieved the title of "Cultural Village", accounting for 63.8%; There is Quynh Doi cultural village and Quynh Hau cultural commune. The distance from the district capital, Cau Giat town, to the provincial capital, Vinh city, is about 60Km. The North of Quynh Luu district borders Hoang Mai town, the East borders the East Sea; The West borders Tan Ky district and Nghia Dan district; The southwest borders Yen Thanh district; The South borders Dien Chau district. About the mountain: – Tru Hai Mountain is in the old Quynh Lam commune, now belongs to Quynh Van commune. – Bao Dot Mountain is in the old Bao Giang commune, now village 10, Ngoc Son commune – Tung Linh Mountain is also known as Rung Pine Mountain in the old Quynh Tu commune, now Quynh Xuan and Quynh Van communes. – That Tinh Mountain. – Long Son Mountain is in Nhan Son village, Quynh Hong commune. – Qui Linh Mountain is on the coast of this former Hien Luong commune, Quynh Luong and Quynh Bang communes. – Tien Ky Mountain, also known as Co Tien Mountain, is also located on the coast of Hoan Nghia commune, now Tien Thuy. – Go Diep in Quynh Van commune. About the river: – Thai River. – Mai Giang River. About climate and weather: Quynh Luu is located in a tropical area but in the coastal region so it often receives three winds: - The Northeast monsoon is located deep in the cold continent of Siberia and Mongolia. It blows through China and the Gulf of Tonkin in waves. People call it the north wind. - The southwest monsoon in Bangkok sweeps across the continent, passes through the Truong Son ranges, and blows what people often call the Lao wind, but it is the hot, dry west wind. – The cool Southeast monsoon blowing from the East Sea is called the sea breeze. Quynh Luu's climate is divided into two distinct seasons: – Hot season from May to October. This season the weather is hot, the average temperature is 30C, some days it reaches 40C. – The cold season is from November of the previous year to April of the following calendar year. This season often has the northeast monsoon and prolonged rain./. Socialization of festival activities in Quynh Luu Quynh Luu is the top district of Nghe An, located on the North-South arterial road, with 43 communes and towns, nearly 390,000 people, of which 14% are Christians, some are Buddhists. , there are ethnic minorities, the economic structure is clear according to regions, creating diversity and richness in cultural life. Through historical changes, traditional festivals in Quynh Luu no longer retain their original identity. But regardless of the period, the festival in Quynh Luu is a healthy form of cultural activity, and is popular in social life, attracting a large number of people from all walks of life to participate. Traditional folk festivals were restored such as: Con Temple Festival, Ky Phuc Festival (Quynh Doi), Thuong Temple Festival (Quynh Nghia), Xuan Hoa Temple, Phung Hung Temple (Quynh Xuan), Chinh Temple (Tien Thuy), Kim Lung temple (Mai Hung)… The highlight of traditional festivals in Quynh Luu is that they are highly socialized. People have contributed tens of billions of dong to renovate monuments, purchase and restore sacrificial items, and hundreds of days of work to practice and participate in festivals. State management of the festival is given due attention, order and safety during the festival are guaranteed, there are no superstitious activities... In particular, the Con Temple Festival has been restored since 1999, Since then, it has still maintained its position: "Nhat Con, second Qua, three Bach Ma, four Chieu Trung". The festival is held on the 20th and 21st days of the first lunar month every year, and has mobilized a lot of effort and resources from local people, visitors and philanthropists to organize activities and practice activities. The renovation and restoration of Con Temple relics, associated with Hoang Mai industrial park, has opened up a great potential for economic, cultural, spiritual and tourism development. From June to December 31, 2012 alone, Con Temple transferred to district management has mobilized a source of merit of 2,076,324 thousand VND (of which 1,585,624 thousand VND in cash, converted in kind into money is 490,700 thousand VND). The success of socialization work in festival activities in Quynh Luu is reflected in the positivity, initiative, and self-awareness of the people, the whole community, and the leadership and direction of the Party Committee. , governments at all levels and synchronous coordination of departments and organizations from province to grassroots; At the same time, the Culture and Sports sector proactively develops early plans, assigns specific responsibilities to each member of the organizing committee and subcommittees, and does a good job of propaganda, direction, guidance, and preparation of conditions to ensure security... After the festivals, hold a summary meeting, learn from experience, and give timely encouragement and rewards. In the coming time, continuing to implement Central Resolution V (term VIII) on "Building and developing an advanced Vietnamese culture rich in national identity", Quynh Luu has regulations on organizing festival activities. , implementing the Project to build standard cultural and sports institutions, festival activities associated with historical and cultural relics, exploiting the potential and traditional cultural identities of relics, localities and regions. to gradually renovate and upgrade in association with tourism development. The content and forms of festival organization were discussed by the Culture sector and relevant levels and sectors. Through the workshop, models were drawn and used as role models to learn and organize better, meeting the needs of the festival. spiritual prayer and cultural and sports exchanges, contributing to improving the cultural and spiritual life of the district's people in the process of innovation and integration. Ho Thanh Khuong (Quynh Luu) Source: Nghe An Newspaper (January 8, 2013)
Giới thiệu khái quát thành phố Vinh Thành phố Vinh là thủ phủ của tỉnh Nghệ An: Diện tích 104,96 km² Dân số: 435.208 người Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Nghệ An và đã được Chính phủ quy hoạch để trở thành trung tâm kinh tế – văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Vinh là thành phố nằm bên bờ sông Lam, phía Bắc giáp huyện Nghi Lộc, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Nghi Xuân, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Hưng Nguyên. Thành phố cách thủ đô Hà Nội 295 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.424 km, cách thủ đô Viên Chăn (Lào) 400 km về phía Tây. Các đơn vị hành chính bao gồm: 25 phường, xã : Phường Lê Mao, Phường Lê Lợi, Phường Hà Huy Tập, Phường Đội Cung, Quang Trung, Cửa Nam, Trường Thi, Hồng Sơn, Trung Đô, Bến Thuỷ, Đông Vĩnh, Hưng Bình, Hưng Phúc, Hưng Dũng, Vinh Tân, Quán Bàu, Hưng Đông, Hưng Lộc, Hưng Hòa, Hưng Chính, Nghi Phú, Nghi Ân, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi Đức. *Các địa danh văn hoá, du lịch: Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh: Công trình Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh được khởi công xây dựng vào năm 2000, khánh thành vào 19 tháng 5 năm 2003 đúng dịp kỷ niệm 113 năm ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phượng Hoàng Trung Đô và đền thờ vua Quang Trung: Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ, 1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết, nay thuộc thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An. Thành được xây vào năm 1788. Công viên Trung tâm:nằm tại trung tâm thành phố, có diện tích: 41.3 ha, địa điểm phía sau Khu Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh Từ thành phố cách 5 km là khu Lưu niệm của đại thi hào Nguyễn Du,cách 15 km là khu di tích Kim Liên – quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh và cách 17 km là bãi biển Cửa Lò – một trong những bãi biển đẹp nổi tiếng của khu vực miền Trung và cả nước.
General introduction to Vinh city Vinh city is the capital of Nghe An province: Area 104.96 km² Population: 435,208 people Vinh city is the economic and political center of Vinh Nghe An province and has been planned by the Government to become the economic and cultural center of the North Central region of Vietnam. Vinh is a city located on the banks of the Lam River, bordering Nghi Loc district to the north, Nghi Xuan district to the south and southeast, Hung Nguyen district to the west and southwest. The city is 295 km north of Hanoi, 1,424 km from Ho Chi Minh City, and 400 km west of Vientiane (Laos). Administrative units include: 25 wards and communes: Le Mao Ward, Le Loi Ward, Ha Huy Tap Ward, Doi Cung Ward, Quang Trung, Cua Nam, Truong Thi, Hong Son, Trung Do, Ben Thuy, Dong Vinh , Hung Binh, Hung Phuc, Hung Dung, Vinh Tan, Quan Bau, Hung Dong, Hung Loc, Hung Hoa, Hung Chinh, Nghi Phu, Nghi An, Nghi Kim, Nghi Lien, Nghi Duc. *Cultural and tourist sites: Ho Chi Minh Square and Monument: The Ho Chi Minh Square and Monument project began construction in 2000, inaugurated on May 19, 2003 on the occasion of the 113th birthday anniversary of President Ho Chi Minh Bright. Phoenix Trung Do and the temple of King Quang Trung: Phoenix Trung Do is the citadel built by King Quang Trung (ie Nguyen Hue, 1752-1792) on the Lam river and Dung Quyet mountain, now in Vinh city - Nghe province An. The citadel was built in 1788. Central Park: located in the city center, with an area of ​​​​41.3 hectares, located behind the Ho Chi Minh Square and Monument. From the city, 5 km away is the memorial area of ​​the great poet Nguyen Du, 15 km away is Kim Lien relic area - hometown of President Ho Chi Minh and 17 km away is Cua Lo beach - one of the beautiful beaches. famous in the Central region and the whole country.
Giới thiệu khái quát thị xã Hoàng Mai Hoàng Mai là Thị xã mới được thành lập của tỉnh Nghệ An, theo Nghị quyết 47/NQ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Quỳnh Lưu; phía Đông giáp biển Đông , phía Tây và Nam giáp huyện Quỳnh Lưu ( Nghệ An ), Bắc giáp huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa); cách Thủ đô Hà Nội 210 km, thành phố Thanh Hóa 77 km; thành phố Vinh 80 km. Thị xã Hoàng Mai có diện tích 169,75 km 2 , dân số năm 2013 là 105,8 nghìn người, chiếm 1,03% diện tích và 3,53% dân số toàn tỉnh Nghệ An với 10 đơn vị hành chính (gồm 5 phường: Quỳnh Thiện, Quỳnh Dị, Quỳnh Phương, Quỳnh Xuân, Mai Hùng và 5 xã: Quỳnh Vinh, Quỳnh Lộc, Quỳnh Lập, Quỳnh Liên, Quỳnh Trang). Với lợi thế về các mỏ đá, mỏ đất sét, cảng biển, đường Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc – Nam chạy qua… Hoàng Mai có thế mạnh lớn về ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, hiện trên địa bàn có nhà máy xi măng Hoàng Mai 1 công suất 1.2 triệu tấn/ năm, đang xúc tiến đầu tư nhà máy Hoàng Mai 2 công suất 4.5 triệu tấn/năm. Mỏ đá ở đây còn cung cấp cho nhà máy xi măng Nghi Sơn. Ngoài xi măng, còn có các nhà máy sản xuất bột đá trắng, gạch tuynel, Dự án nhà máy gạch không nung công suất 400 triệu viên/năm của Vicem cũng đang được triển khai tại KCN Đông Hồi. Bên cạnh đó Hoàng Mai cũng đang triển khai các dự án lớn khác như, Dự án tổ hợp nhiệt điện Quỳnh Lập có tổng vốn đầu tư trên 2 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Tôn Hoa Sen tại KCN Đông Hồi với tổng số vốn trên 7.000 tỷ đồng, dự án của Tập đoàn May mặc Việt Nam tại xã Quỳnh Vinh… Ngoài những lợi thế để phát triển công nghiệp, Hoàng Mai còn là một vùng địa linh nhân kiệt, nơi đây không chỉ có thiên nhiên hùng vĩ và nên thơ mà con người cũng rất đỗi hào hòa và anh hùng. Đến với thị xã Hoàng Mai mọi người không chỉ được ngắm nước trông non, được khám phá hồ Vực Mấu, được tắm biển Quỳnh (Quỳnh Lập, Quỳnh Phương, Quỳnh Liên) và được chiêm ngưỡng nhiều di tích Lịch sử – Văn hoá – Tâm linh mà điển hình là di tích đền Cờn được nhân dân khắp mọi miền đất nước coi là linh thiêng bậc nhất xứ Nghệ – nơi có công trình kiến trúc cổ, tọa lạc ở địa thế sơn thủy hữu tình. Mọi người sẽ còn được khám phá nhiều bí ẩn về thiên nhiên, về lịch sử, văn hoá và con người nơi đây; được hoà mình vào trong cuộc sống của cộng đồng dân cư bản địa để lắng nghe và trông thấy bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn và quyến rũ. Nhiều cảnh quan kỳ thú như nơi có bãi cát trắng nước trong – bãi đá Quyết Tiến, Quỳnh Phương, nơi được người dân nơi đây xem là “kỳ quan” thiên nhiên ở địa phương; Hang Hỏa Tiễn – Nơi ghi dấu chiến công và sự hy sinh anh dũng của 33 liệt sỹ TNXP trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Được thăm thú các làng nghề nổi tiếng như Làng nghề chế biến nước mắm ở Quỳnh Dị, Làng nghề chế biến thủy hải sản ở Quỳnh Phương… Nắm bắt xu thế phát triển và những lợi thế sẵn có của mình, mục tiêu của cấp ủy Đảng, chính quyền thị xã Hoàng Mai là xây dựng Hoàng Mai sớm trở thành cực tăng trưởng phía Bắc của tỉnh Nghệ An đặt trong tổng thể vùng Nam Thanh – Bắc Nghệ; trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của Thị xã, đảm bảo tầm nhìn dài hạn trong phát triển theo hướng đột phá, tăng tốc trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị…Sớm xây dựng Hoàng Mai trở thành một đô thị lớn phía Bắc tỉnh Nghệ An gắn với những tác động của các dự án lớn vào vùng kinh tế Nam Thanh – Bắc Nghệ. Làng nghề vào Tết Được chế biến theo phương pháp gia truyền, lại áp dụng các tiêu chuẩn về đảm bảo an toàn thực phẩm, các sản phẩm từ làng nghề chế biến hải sản của thị xã được khách hàng và thị trường ưa chuộng, tin dùng. Vào dịp Tết Nguyên đán, bà con làng nghề càng bận rộn chuẩn bị nguồn hàng, các phương tiện vận tải của địa phương và từ khắp nơi đến, kịp thời cung ứng sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường Tết. Dịp tết Nguyên đán này, cơ sở chế biến nước mắm, mắm tôm gia truyền Xân Thơ của bà Trần Thị Thơ ở làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi, phường Quỳnh Dị đóng chai hơn 1.200 lít nước mắm, 200 kg mắm tôm, trị giá gần 200 triệu đồng cung cấp cho khách đặt hàng trong và ngoài tỉnh lấy tiêu dùng và bán trong dịp Tết. Đây là thời điểm bận rộn nhất trong năm không chỉ đối với cơ sở sản xuất của bà mà còn của làng nghề, bởi nhu cầu của thị trường khá lớn. Bà Thơ cho biết “Được thừa hưởng nghề từ ông cha truyền lại, gia đình luôn tâm niệm, người ta ăn cũng như mình ăn, nên nguyên liệu làm nước mắm, mắm tôm do ngư dân địa phương đánh bắt về được lựa chọn kỹ lưỡng từ năm trước, đang tươi nguyên và không ướp đá. Áp dụng phương pháp chế biến theo bí quyết gia truyền, đảm bảo quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm nên nước mắm, mắm tôm thành phẩm có mùi thơm ngào ngạt, độ đạm cao, đạm đà, vị ngọt bùi dễ chịu, được khách hàng ưu chuộng”. Hiện nay, làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi có tổng số hơn 140 hộ làm nghề với trên 400 cơ sở sản xuất, chuyên chế biến nước mắm, mắm tôm, phơi khô, hấp sấy cá, chế biến hải sản đông lạnh. Sản lượng nước mắm đạt trên 2 triệu lít/năm, mắm tôm đạt trên 400 tấn/năm, cá hấp sấy, phơi khô đạt trên 1.100 tấn/năm, hải sản đông lạnh đạt trên 300 tấn/năm. Riêng dịp tết Nguyên đán này, dự kiến bà con làng nghề Phú Lợi sẽ cung cấp cho thị trường khoảng hơn 70.000 lít nước mắm, 100 tấn mắm tôm, ngoài ra còn có các sản phẩm phơi khô, hấp sấy và đông lạnh khác. Cùng với làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi, phường Quỳnh Dị, phường Quỳnh Phương hiện có 625 tàu thuyền đánh bắt xa bờ, sản lượng đánh bắt khoảng 15.000 tấn hải sản mỗi năm, là nguồn nguyên liệu phong phú để phát triển nghề chế biến hải sản ở làng nghề Phương Cần. Hiện nay, làng nghề có hơn 480 hộ, trong đó có gần 270 hộ tham gia làm nghề (75 hộ chuyên chế biến nước mắm với sản lượng trên 300.000 lít/năm, 50 hộ chuyên sản xuất mắm tôm sản lượng 350 tấn/năm, 50 hộ chuyên phơi sấy cá với 300 tấn/năm và 25 hộ đầu tư kho đông lạnh với lượng cá lưu chuyển qua kho khoảng 3.000 tấn/năm). Sản phẩm được tiêu thụ ở khắp các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc và xuất sang cả thị trường nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Lào… cho giá trị hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Để phục vụ thị trường tết, bà con làng nghề chế biến hải sản Phương Cần, phường Quỳnh Phương cũng tích cực chuẩn bị nguồn hàng, nhiều cơ sở chế biến đã phải thuê thêm 3 – 4 nhân công mỗi ngày để làm công đoạn đóng nước mắm, mắm tôm vào chai, hoàn thiện các bao bì sản phẩm, cung cấp kịp thời cho khách hàng và thị trường. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ vững thương hiệu, uy tín với khách hàng. Hàng năm, Ban quản lý các làng nghề đã tích cực phối hợp với địa phương, các ngành tổ chức tập huấn kỹ thuật chế biến, các quy định, quy trình đảm bảo vệ sinh ATTP; khám sức khoẻ cho nghệ nhân và bà con làm nghề; hướng dẫn xây dựng mặt bằng chế biến sạch; đăng ký nhãn hiệu và chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Ông Nguyễn Đức Xân – Trưởng Ban quản lý làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi cho biết: “Các sản phẩm chế biến hải sản của làng nghề luôn được khách hàng ưa chuộng, đặt mua thường xuyên trong năm. Và đặc biệt, Tết năm nay, bà con làng nghề lại càng phấn khởi hơn khi lượng hàng đặt mua càng nhiều; đời sống vật chất tinh thần của bà con làm nghề và số hộ khá, giàu ngày càng tăng lên. Trên cơ sở các chủ trương, chính sách, chúng tôi đang khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp, xây dựng các hình thức kinh tế tập thể, nhằm tạo điều kiện đảm bảo ổn định đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho người sản xuất”. Tin rằng với việc đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, thương hiệu nước mắm các làng nghề trên địa bàn thị xã sẽ ngày càng vươn xa hơn và cạnh tranh tốt với nước mắm công nghiệp trên thị trường.
Giới thiệu khái quát thị xã Hoàng Mai Hoàng Mai là Thị xã mới được thành lập của tỉnh Nghệ An, theo Nghị quyết 47/NQ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Quỳnh Lưu; phía Đông giáp biển Đông , phía Tây và Nam giáp huyện Quỳnh Lưu ( Nghệ An ), Bắc giáp huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa); cách Thủ đô Hà Nội 210 km, thành phố Thanh Hóa 77 km; thành phố Vinh 80 km. Thị xã Hoàng Mai có diện tích 169,75 km 2 , dân số năm 2013 là 105,8 nghìn người, chiếm 1,03% diện tích và 3,53% dân số toàn tỉnh Nghệ An với 10 đơn vị hành chính (gồm 5 phường: Quỳnh Thiện, Quỳnh Dị, Quỳnh Phương, Quỳnh Xuân, Mai Hùng và 5 xã: Quỳnh Vinh, Quỳnh Lộc, Quỳnh Lập, Quỳnh Liên, Quỳnh Trang). Với lợi thế về các mỏ đá, mỏ đất sét, cảng biển, đường Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc – Nam chạy qua… Hoàng Mai có thế mạnh lớn về ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, hiện trên địa bàn có nhà máy xi măng Hoàng Mai 1 công suất 1.2 triệu tấn/ năm, đang xúc tiến đầu tư nhà máy Hoàng Mai 2 công suất 4.5 triệu tấn/năm. Mỏ đá ở đây còn cung cấp cho nhà máy xi măng Nghi Sơn. Ngoài xi măng, còn có các nhà máy sản xuất bột đá trắng, gạch tuynel, Dự án nhà máy gạch không nung công suất 400 triệu viên/năm của Vicem cũng đang được triển khai tại KCN Đông Hồi. Bên cạnh đó Hoàng Mai cũng đang triển khai các dự án lớn khác như, Dự án tổ hợp nhiệt điện Quỳnh Lập có tổng vốn đầu tư trên 2 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Tôn Hoa Sen tại KCN Đông Hồi với tổng số vốn trên 7.000 tỷ đồng, dự án của Tập đoàn May mặc Việt Nam tại xã Quỳnh Vinh… Ngoài những lợi thế để phát triển công nghiệp, Hoàng Mai còn là một vùng địa linh nhân kiệt, nơi đây không chỉ có thiên nhiên hùng vĩ và nên thơ mà con người cũng rất đỗi hào hòa và anh hùng. Đến với thị xã Hoàng Mai mọi người không chỉ được ngắm nước trông non, được khám phá hồ Vực Mấu, được tắm biển Quỳnh (Quỳnh Lập, Quỳnh Phương, Quỳnh Liên) và được chiêm ngưỡng nhiều di tích Lịch sử – Văn hoá – Tâm linh mà điển hình là di tích đền Cờn được nhân dân khắp mọi miền đất nước coi là linh thiêng bậc nhất xứ Nghệ – nơi có công trình kiến trúc cổ, tọa lạc ở địa thế sơn thủy hữu tình. Mọi người sẽ còn được khám phá nhiều bí ẩn về thiên nhiên, về lịch sử, văn hoá và con người nơi đây; được hoà mình vào trong cuộc sống của cộng đồng dân cư bản địa để lắng nghe và trông thấy bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn và quyến rũ. Nhiều cảnh quan kỳ thú như nơi có bãi cát trắng nước trong – bãi đá Quyết Tiến, Quỳnh Phương, nơi được người dân nơi đây xem là “kỳ quan” thiên nhiên ở địa phương; Hang Hỏa Tiễn – Nơi ghi dấu chiến công và sự hy sinh anh dũng của 33 liệt sỹ TNXP trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Được thăm thú các làng nghề nổi tiếng như Làng nghề chế biến nước mắm ở Quỳnh Dị, Làng nghề chế biến thủy hải sản ở Quỳnh Phương… Nắm bắt xu thế phát triển và những lợi thế sẵn có của mình, mục tiêu của cấp ủy Đảng, chính quyền thị xã Hoàng Mai là xây dựng Hoàng Mai sớm trở thành cực tăng trưởng phía Bắc của tỉnh Nghệ An đặt trong tổng thể vùng Nam Thanh – Bắc Nghệ; trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của Thị xã, đảm bảo tầm nhìn dài hạn trong phát triển theo hướng đột phá, tăng tốc trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị…Sớm xây dựng Hoàng Mai trở thành một đô thị lớn phía Bắc tỉnh Nghệ An gắn với những tác động của các dự án lớn vào vùng kinh tế Nam Thanh – Bắc Nghệ. Làng nghề vào Tết Được chế biến theo phương pháp gia truyền, lại áp dụng các tiêu chuẩn về đảm bảo an toàn thực phẩm, các sản phẩm từ làng nghề chế biến hải sản của thị xã được khách hàng và thị trường ưa chuộng, tin dùng. Vào dịp Tết Nguyên đán, bà con làng nghề càng bận rộn chuẩn bị nguồn hàng, các phương tiện vận tải của địa phương và từ khắp nơi đến, kịp thời cung ứng sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường Tết. Dịp tết Nguyên đán này, cơ sở chế biến nước mắm, mắm tôm gia truyền Xân Thơ của bà Trần Thị Thơ ở làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi, phường Quỳnh Dị đóng chai hơn 1.200 lít nước mắm, 200 kg mắm tôm, trị giá gần 200 triệu đồng cung cấp cho khách đặt hàng trong và ngoài tỉnh lấy tiêu dùng và bán trong dịp Tết. Đây là thời điểm bận rộn nhất trong năm không chỉ đối với cơ sở sản xuất của bà mà còn của làng nghề, bởi nhu cầu của thị trường khá lớn. Bà Thơ cho biết “Được thừa hưởng nghề từ ông cha truyền lại, gia đình luôn tâm niệm, người ta ăn cũng như mình ăn, nên nguyên liệu làm nước mắm, mắm tôm do ngư dân địa phương đánh bắt về được lựa chọn kỹ lưỡng từ năm trước, đang tươi nguyên và không ướp đá. Áp dụng phương pháp chế biến theo bí quyết gia truyền, đảm bảo quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm nên nước mắm, mắm tôm thành phẩm có mùi thơm ngào ngạt, độ đạm cao, đạm đà, vị ngọt bùi dễ chịu, được khách hàng ưu chuộng”. Hiện nay, làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi có tổng số hơn 140 hộ làm nghề với trên 400 cơ sở sản xuất, chuyên chế biến nước mắm, mắm tôm, phơi khô, hấp sấy cá, chế biến hải sản đông lạnh. Sản lượng nước mắm đạt trên 2 triệu lít/năm, mắm tôm đạt trên 400 tấn/năm, cá hấp sấy, phơi khô đạt trên 1.100 tấn/năm, hải sản đông lạnh đạt trên 300 tấn/năm. Riêng dịp tết Nguyên đán này, dự kiến bà con làng nghề Phú Lợi sẽ cung cấp cho thị trường khoảng hơn 70.000 lít nước mắm, 100 tấn mắm tôm, ngoài ra còn có các sản phẩm phơi khô, hấp sấy và đông lạnh khác. Cùng với làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi, phường Quỳnh Dị, phường Quỳnh Phương hiện có 625 tàu thuyền đánh bắt xa bờ, sản lượng đánh bắt khoảng 15.000 tấn hải sản mỗi năm, là nguồn nguyên liệu phong phú để phát triển nghề chế biến hải sản ở làng nghề Phương Cần. Hiện nay, làng nghề có hơn 480 hộ, trong đó có gần 270 hộ tham gia làm nghề (75 hộ chuyên chế biến nước mắm với sản lượng trên 300.000 lít/năm, 50 hộ chuyên sản xuất mắm tôm sản lượng 350 tấn/năm, 50 hộ chuyên phơi sấy cá với 300 tấn/năm và 25 hộ đầu tư kho đông lạnh với lượng cá lưu chuyển qua kho khoảng 3.000 tấn/năm). Sản phẩm được tiêu thụ ở khắp các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc và xuất sang cả thị trường nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Lào… cho giá trị hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Để phục vụ thị trường tết, bà con làng nghề chế biến hải sản Phương Cần, phường Quỳnh Phương cũng tích cực chuẩn bị nguồn hàng, nhiều cơ sở chế biến đã phải thuê thêm 3 – 4 nhân công mỗi ngày để làm công đoạn đóng nước mắm, mắm tôm vào chai, hoàn thiện các bao bì sản phẩm, cung cấp kịp thời cho khách hàng và thị trường. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ vững thương hiệu, uy tín với khách hàng. Hàng năm, Ban quản lý các làng nghề đã tích cực phối hợp với địa phương, các ngành tổ chức tập huấn kỹ thuật chế biến, các quy định, quy trình đảm bảo vệ sinh ATTP; khám sức khoẻ cho nghệ nhân và bà con làm nghề; hướng dẫn xây dựng mặt bằng chế biến sạch; đăng ký nhãn hiệu và chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Ông Nguyễn Đức Xân – Trưởng Ban quản lý làng nghề chế biến hải sản Phú Lợi cho biết: “Các sản phẩm chế biến hải sản của làng nghề luôn được khách hàng ưa chuộng, đặt mua thường xuyên trong năm. Và đặc biệt, Tết năm nay, bà con làng nghề lại càng phấn khởi hơn khi lượng hàng đặt mua càng nhiều; đời sống vật chất tinh thần của bà con làm nghề và số hộ khá, giàu ngày càng tăng lên. Trên cơ sở các chủ trương, chính sách, chúng tôi đang khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp, xây dựng các hình thức kinh tế tập thể, nhằm tạo điều kiện đảm bảo ổn định đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho người sản xuất”. Tin rằng với việc đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, thương hiệu nước mắm các làng nghề trên địa bàn thị xã sẽ ngày càng vươn xa hơn và cạnh tranh tốt với nước mắm công nghiệp trên thị trường.
Huyện có diện tích tự nhiên 241,23 km2, dân số (theo thống kê năm 2013) là 228100 người. Địa giới hành chính gồm 1 thị trấn và 31 xã: Thị trấn Lâm và các xã Yên Thọ, Yên Thành, Yên Trung, Yên Nghĩa, Yên Phương, Yên Tân, Yên Chính, Yên Phú, Yên Hưng, Yên Phong, Yên Bình, Yên Minh, Yên Dương, Yên Xá, Yên Hồng, Yên Quang, Yên Tiến, Yên Bằng, Yên Thắng, Yên Cường, Yên Đồng, Yên Mỹ, Yên Lợi, Yên Khánh, Yên Ninh, Yên Khang, Yên Lộc, Yên Phúc, Yên Trị, Yên Nhân, Yên Lương. Ý Yên nằm giữa hai trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh Nam Định và Ninh Bình; Huyện có tuyến đường cao tốc, quốc lộ 10, đường sắt xuyên Việt đi qua… Ý Yên hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để thông thương và thu hút đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội. Lịch sử: Mảnh đất Ý Yên ngày xưa là phần đất quan trọng thuộc phủ Ứng Phong vào thế kỷ XII-XIII; Ý Yên khi đó được coi là khu vực phụ cận của Cố đô Hoa Lư, đồng thời nằm trên đường thiên lý từ Hoa Lư ra Thăng Long nên được các vua Lý, Trần quan tâm phát triển nông nghiệp và xây dựng thành trung tâm Phật giáo. Thời Lý, trung tâm tôn giáo Chương Sơn với tháp Vạn Phong Thành Thiện trên núi Ngô Xá ( Yên Lợi) được xây dựng với quy mô to lớn vào bậc nhất nhì thời đó. Đời Trần, Hoàng đế Trần Nhân Tông- đệ nhất thiền phái Trúc Lâm- đã cho dựng chùa Linh Quang, còn gọi là chùa trăm gian, tại xã Yên Khánh. Cũng vào thời Trần, cuối thế kỷ XIV, chùa Đô Quan, xã Yên Khang được xây dựng, chứng tích còn lại là bệ đá hình hộp hoa sen ở bái đường, một tác phẩm nghệ thuật tôn giáo đẹp và nguyên vẹn. Ý Yên là huyện giàu truyền thống cách mạng. Năm 1927, tại Ý Yên đã có chi bộ hội Việt Nam cách mạng thanh niên., đồng chí Tống Văn Trân người con yêu nước tiêu biểu của Ý Yên và là một trong những người đảng viên đầu tiên của quê hương Ý Yên; Chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện được thành lập tại thôn Tiêu Bảng – xã Yên Trung Tháng 9 năm 1929. Trải qua bao năm đấu tranh anh dũng, kiên cường kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Ý Yên đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành chính quyền và xây dựng cuộc sống mới trên quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, với tất cả tinh thần, nghị lực và nhiệt tình cách mạng Đảng bộ và nhân dân Ý Yên đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu và xây dựng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc. Với những thành tích xuất sắc đó cho đến nay đã có 17/32 xã thị trấn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vinh dự cao quý này là nguồn cổ vũ, tiếp thêm sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân Ý Yên không ngừng phấn đấu vươn lên, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên quê hương Ý Yên yêu dấu. Đặc điểm mảnh đất Ý Yên: Là vùng đất hình thành sớm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Ý Yên nằm ở vùng đất trũng hơn cả, địa hình không đồng đều (một số núi đất sót lại: núi Phượng Hoàng, Bảo Đài…) nên sản xuất nông nghiệp gặp những khó khăn nhất định. Ý Yên có nhiều làng nghề truyền thống qua hàng chục thế kỷ, nổi tiếng như: đúc đồng Tống Xá, mộc La Xuyên, sơn mài Cát Đằng… Sự tài hoa của bàn tay, khối óc nghệ nhân Ý Yên kết tinh lại trong các tác phẩm, công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình Ruối, đình Cát Đằng, đình La Xuyên… Ý Yên còn là nơi tiềm ẩn kho tàng văn hoá dân gian phong phú. Làng chèo cổ Yên Nhân với những làn điệu cất lên từ vùng quê “đồng trắng, nước trong” ca ngợi quê hương, tình làng nghĩa xóm đã có tác động không nhỏ trong đời sống cộng đồng cho tới tận ngày nay. Ý Yên là đất học, đất văn, quê hương của 38 Tiến sỹ, Hoàng giáp, Phó bảng…..tiêu biểu như tiến sỹ Khiếu Năng Tĩnh…,148 người có học hàm, học vị…..39 người là nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu tú…. Một số điểm tham quan du lịch: Làng nghề đúc đồng Tống Xá (xã Yên Xá), làng chạm khắc gỗ Ninh Xá, La Xuyên(xã Yên Ninh), Làng nghề sơn mài Cát Đằng (xã Yên Tiến); đền Ninh Xá (xã Yên Ninh), đình Cát Đằng (xã Yên Tiến), đình La Xuyên (xã Yên Ninh), đình Ruối (xã Yên Nghĩa), đình chùa Đô Quan (xã Yên Khang); phủ Quảng Cung (xã Yên Đồng), Cây Dã Hương trên 500 năm tuổi ( xã Yên Nhân); Đền thờ Liệt sỹ (tại trung tâm huyện)… Một số lễ hội tiêu biểu: hội làng Tống Xá (xã Yên Xá), hội đền vua Đinh (thôn Dương Hồi, xã Yên Thắng), Lễ hội Đình ruối ( Yên Nghĩa), Lễ hội đền Độc bộ (xã Yên Nhân)… Hội chợ xuân Yên Thọ ( ngày mùng 9 tết nguyên đán); Hội chợ xuân Yên Thắng ( ngày mùng 10 tết nguyên đán) Hàng lưu niệm: đồ đồng (tranh đồng, tượng đồng, con giống, đồ thờ…), đồ gỗ mỹ nghệ (trạm khắc…), tranh sơn mài, các sản phẩm từ nứa chắp, băng giang, thêu ren, nón lá, đồ may mặc… Một số thành tựu đến năm 2015 : Sản lượng lương thực hàng năm đạt từ 145.000 tấn trở lên. Trong 11 xã, thị trấn xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015 đã có 7 xã, thị trấn đạt chuẩn nông thôn mới năm 2014; đồng thời chỉ đạo 21 xã còn lại xây dựng Đề án và triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015 – 2020. Đến nay, tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh đạt 87,5%. Năm 2014, giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so sánh 2010) đạt 2.562,1 tỷ đồng, tăng 16,8% so với năm 2010; GTSX tăng bình quân 3,2%/năm; Giá trị sản phẩm thu hoạch bình quân/ha canh tác đạt 93,7 triệu đồng; Lao động nông nghiệp còn 72,5%, giảm 2,8% so với năm 2010. Đến nay có 03 cụm công nghiệp tập trung, hầu hết các xã đều quy hoạch, nhiều xã đã xây dựng được điểm công nghiệp. Phát triển thêm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay toàn huyện có 4.650 cơ sở sản xuất công nghiệp – TTCN với 441 doanh nghiệp. Đến nay, toàn bộ hệ thống đường Quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, đường liên xã đã được trải nhựa; 564 km đường giao thông thôn, xóm được bê tông hóa; 135 km đường nội đồng được cứng hóa. Tổng GTSX công nghiệp, xây dựng năm 2014 (giá so sánh 2010) đạt 5.532,3 tỷ đồng, năm 2015 ước đạt 6.817 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 23,5%/năm. Tỷ lệ lao động công nghiệp, TTCN, xây dựng chiếm 19%, tăng 2,7% so với năm 2010. Giá trị sản xuất dịch vụ (giá so sánh 2010) năm 2014 đạt 1.170,4 tỷ đồng, năm 2015 ước đạt 1.323 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân 14,2%/năm. Lao động dịch vụ chiếm 8,7%, tăng 0,1% so với năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng hóa năm 2015 ước đạt 6,5 triệu USD. Năm 2015 tổng thu ngân sách ước đạt 126,87 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 15,8%/năm. Toàn huyện có 72 trường đạt chuẩn quốc gia. Các di tích lịch sử văn hóa được gìn giữ, trùng tu, tôn tạo. Nâng cao chất lượng phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ”. Có 55.389/71.583 gia đình được công nhận gia đình văn hóa, đạt 77,4%; 86 khu dân cư đạt “KDC 5 không” và 227 khu dân cư đạt “KDC 4 không”; 100% số cơ quan; 30/32 trạm y tế; 99/121 trường học được công nhận là cơ quan, đơn vị có nếp sống văn hóa. Trên địa bàn có 03 công ty viễn thông, 69 trạm thu phát sóng, bưu điện huyện đảm nhận thêm việc chi trả bảo hiểm xã hội bảo đảm đầy đủ, chính xác, kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo và nhu cầu thông tin của nhân dân. Tỷ suất sinh hàng năm đã giảm được 0,2%0. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2014 là 0,95%, năm 2015 dự kiến còn 0,9%. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế năm 2014 đạt 64%, tăng 18% so với năm 2010. Thực hiện tốt chương trình giảm nghèo với nhiều giải pháp tích cực. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,78%, dự kiến năm 2015 còn 3,55%.
Huyện có diện tích tự nhiên 241,23 km2, dân số (theo thống kê năm 2013) là 228100 người. Địa giới hành chính gồm 1 thị trấn và 31 xã: Thị trấn Lâm và các xã Yên Thọ, Yên Thành, Yên Trung, Yên Nghĩa, Yên Phương, Yên Tân, Yên Chính, Yên Phú, Yên Hưng, Yên Phong, Yên Bình, Yên Minh, Yên Dương, Yên Xá, Yên Hồng, Yên Quang, Yên Tiến, Yên Bằng, Yên Thắng, Yên Cường, Yên Đồng, Yên Mỹ, Yên Lợi, Yên Khánh, Yên Ninh, Yên Khang, Yên Lộc, Yên Phúc, Yên Trị, Yên Nhân, Yên Lương. Ý Yên nằm giữa hai trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh Nam Định và Ninh Bình; Huyện có tuyến đường cao tốc, quốc lộ 10, đường sắt xuyên Việt đi qua… Ý Yên hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để thông thương và thu hút đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội. Lịch sử: Mảnh đất Ý Yên ngày xưa là phần đất quan trọng thuộc phủ Ứng Phong vào thế kỷ XII-XIII; Ý Yên khi đó được coi là khu vực phụ cận của Cố đô Hoa Lư, đồng thời nằm trên đường thiên lý từ Hoa Lư ra Thăng Long nên được các vua Lý, Trần quan tâm phát triển nông nghiệp và xây dựng thành trung tâm Phật giáo. Thời Lý, trung tâm tôn giáo Chương Sơn với tháp Vạn Phong Thành Thiện trên núi Ngô Xá ( Yên Lợi) được xây dựng với quy mô to lớn vào bậc nhất nhì thời đó. Đời Trần, Hoàng đế Trần Nhân Tông- đệ nhất thiền phái Trúc Lâm- đã cho dựng chùa Linh Quang, còn gọi là chùa trăm gian, tại xã Yên Khánh. Cũng vào thời Trần, cuối thế kỷ XIV, chùa Đô Quan, xã Yên Khang được xây dựng, chứng tích còn lại là bệ đá hình hộp hoa sen ở bái đường, một tác phẩm nghệ thuật tôn giáo đẹp và nguyên vẹn. Ý Yên là huyện giàu truyền thống cách mạng. Năm 1927, tại Ý Yên đã có chi bộ hội Việt Nam cách mạng thanh niên., đồng chí Tống Văn Trân người con yêu nước tiêu biểu của Ý Yên và là một trong những người đảng viên đầu tiên của quê hương Ý Yên; Chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện được thành lập tại thôn Tiêu Bảng – xã Yên Trung Tháng 9 năm 1929. Trải qua bao năm đấu tranh anh dũng, kiên cường kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Ý Yên đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành chính quyền và xây dựng cuộc sống mới trên quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, với tất cả tinh thần, nghị lực và nhiệt tình cách mạng Đảng bộ và nhân dân Ý Yên đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu và xây dựng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc. Với những thành tích xuất sắc đó cho đến nay đã có 17/32 xã thị trấn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vinh dự cao quý này là nguồn cổ vũ, tiếp thêm sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân Ý Yên không ngừng phấn đấu vươn lên, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên quê hương Ý Yên yêu dấu. Đặc điểm mảnh đất Ý Yên: Là vùng đất hình thành sớm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Ý Yên nằm ở vùng đất trũng hơn cả, địa hình không đồng đều (một số núi đất sót lại: núi Phượng Hoàng, Bảo Đài…) nên sản xuất nông nghiệp gặp những khó khăn nhất định. Ý Yên có nhiều làng nghề truyền thống qua hàng chục thế kỷ, nổi tiếng như: đúc đồng Tống Xá, mộc La Xuyên, sơn mài Cát Đằng… Sự tài hoa của bàn tay, khối óc nghệ nhân Ý Yên kết tinh lại trong các tác phẩm, công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình Ruối, đình Cát Đằng, đình La Xuyên… Ý Yên còn là nơi tiềm ẩn kho tàng văn hoá dân gian phong phú. Làng chèo cổ Yên Nhân với những làn điệu cất lên từ vùng quê “đồng trắng, nước trong” ca ngợi quê hương, tình làng nghĩa xóm đã có tác động không nhỏ trong đời sống cộng đồng cho tới tận ngày nay. Ý Yên là đất học, đất văn, quê hương của 38 Tiến sỹ, Hoàng giáp, Phó bảng…..tiêu biểu như tiến sỹ Khiếu Năng Tĩnh…,148 người có học hàm, học vị…..39 người là nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu tú…. Một số điểm tham quan du lịch: Làng nghề đúc đồng Tống Xá (xã Yên Xá), làng chạm khắc gỗ Ninh Xá, La Xuyên(xã Yên Ninh), Làng nghề sơn mài Cát Đằng (xã Yên Tiến); đền Ninh Xá (xã Yên Ninh), đình Cát Đằng (xã Yên Tiến), đình La Xuyên (xã Yên Ninh), đình Ruối (xã Yên Nghĩa), đình chùa Đô Quan (xã Yên Khang); phủ Quảng Cung (xã Yên Đồng), Cây Dã Hương trên 500 năm tuổi ( xã Yên Nhân); Đền thờ Liệt sỹ (tại trung tâm huyện)… Một số lễ hội tiêu biểu: hội làng Tống Xá (xã Yên Xá), hội đền vua Đinh (thôn Dương Hồi, xã Yên Thắng), Lễ hội Đình ruối ( Yên Nghĩa), Lễ hội đền Độc bộ (xã Yên Nhân)… Hội chợ xuân Yên Thọ ( ngày mùng 9 tết nguyên đán); Hội chợ xuân Yên Thắng ( ngày mùng 10 tết nguyên đán) Hàng lưu niệm: đồ đồng (tranh đồng, tượng đồng, con giống, đồ thờ…), đồ gỗ mỹ nghệ (trạm khắc…), tranh sơn mài, các sản phẩm từ nứa chắp, băng giang, thêu ren, nón lá, đồ may mặc… Một số thành tựu đến năm 2015 : Sản lượng lương thực hàng năm đạt từ 145.000 tấn trở lên. Trong 11 xã, thị trấn xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015 đã có 7 xã, thị trấn đạt chuẩn nông thôn mới năm 2014; đồng thời chỉ đạo 21 xã còn lại xây dựng Đề án và triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015 – 2020. Đến nay, tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh đạt 87,5%. Năm 2014, giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so sánh 2010) đạt 2.562,1 tỷ đồng, tăng 16,8% so với năm 2010; GTSX tăng bình quân 3,2%/năm; Giá trị sản phẩm thu hoạch bình quân/ha canh tác đạt 93,7 triệu đồng; Lao động nông nghiệp còn 72,5%, giảm 2,8% so với năm 2010. Đến nay có 03 cụm công nghiệp tập trung, hầu hết các xã đều quy hoạch, nhiều xã đã xây dựng được điểm công nghiệp. Phát triển thêm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay toàn huyện có 4.650 cơ sở sản xuất công nghiệp – TTCN với 441 doanh nghiệp. Đến nay, toàn bộ hệ thống đường Quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, đường liên xã đã được trải nhựa; 564 km đường giao thông thôn, xóm được bê tông hóa; 135 km đường nội đồng được cứng hóa. Tổng GTSX công nghiệp, xây dựng năm 2014 (giá so sánh 2010) đạt 5.532,3 tỷ đồng, năm 2015 ước đạt 6.817 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 23,5%/năm. Tỷ lệ lao động công nghiệp, TTCN, xây dựng chiếm 19%, tăng 2,7% so với năm 2010. Giá trị sản xuất dịch vụ (giá so sánh 2010) năm 2014 đạt 1.170,4 tỷ đồng, năm 2015 ước đạt 1.323 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân 14,2%/năm. Lao động dịch vụ chiếm 8,7%, tăng 0,1% so với năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng hóa năm 2015 ước đạt 6,5 triệu USD. Năm 2015 tổng thu ngân sách ước đạt 126,87 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 15,8%/năm. Toàn huyện có 72 trường đạt chuẩn quốc gia. Các di tích lịch sử văn hóa được gìn giữ, trùng tu, tôn tạo. Nâng cao chất lượng phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ”. Có 55.389/71.583 gia đình được công nhận gia đình văn hóa, đạt 77,4%; 86 khu dân cư đạt “KDC 5 không” và 227 khu dân cư đạt “KDC 4 không”; 100% số cơ quan; 30/32 trạm y tế; 99/121 trường học được công nhận là cơ quan, đơn vị có nếp sống văn hóa. Trên địa bàn có 03 công ty viễn thông, 69 trạm thu phát sóng, bưu điện huyện đảm nhận thêm việc chi trả bảo hiểm xã hội bảo đảm đầy đủ, chính xác, kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo và nhu cầu thông tin của nhân dân. Tỷ suất sinh hàng năm đã giảm được 0,2%0. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2014 là 0,95%, năm 2015 dự kiến còn 0,9%. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế năm 2014 đạt 64%, tăng 18% so với năm 2010. Thực hiện tốt chương trình giảm nghèo với nhiều giải pháp tích cực. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,78%, dự kiến năm 2015 còn 3,55%.
Giới thiệu khái quát huyện Gia Viễn Giao thông đường bộ Huyện Gia Viễn có quốc lộ 1A đi qua 3 xã phía đông với chiều dài hơn 4 km, Quốc lộ 37C đi ngang qua huyện. Ngoài ra còn có 2 tuyến tỉnh lộ nối từ thị trấn Me đi là: tỉnh lộ 477B qua Gia Phương, Gia Thắng, Gia Tiến đến cố đô Hoa Lư và tỉnh lộ 477C qua Gia Thịnh, Gia Lạc, Gia Phong đến Quỳnh Lưu. Giao thông đường sông Giao thông đường thủy trên địa bàn huyện cũng khá thuận lợi với 2 tuyến quốc gia là sông Hoàng Long và sông Đáy. Theo Quyết định số: 2179/ QĐ-UBND ngày 17 tháng 9 năm 2007 của UBND tỉnh Ninh Bình V/v phê duyệt Quy hoạch giao thông đường thuỷ nội địa tỉnh Ninh Bình đến năm 2015 và định hướng phát triển đến năm 2020 thì Gia Viễn có các cảng và các bến đò đường thủy sau: Dưới đây là danh sách các bến đò ở Gia Viễn: Hệ thống chợ Gia Viễn Gia Viễn có các chợ sau là được xếp hạng chợ loại 2, 3 ở Ninh Bình : Đô thị Gia Viễn Theo quyết định số 796/QĐ-UBND ngày 12/10/12 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Ninh Bình đến năm 2030 , Gia Viễn có các đô thị sau:
General introduction of Gia Vien district Road traffic Gia Vien district has National Highway 1A passing through 3 eastern communes with a length of more than 4 km, National Highway 37C passing through the district. There are also two provincial roads connecting from Me town: provincial road 477B through Gia Phuong, Gia Thang, Gia Tien to Hoa Lu ancient capital and provincial road 477C through Gia Thinh, Gia Lac, Gia Phong to Quynh Luu. River traffic Waterway traffic in the district is also quite convenient with two national routes: Hoang Long River and Day River. According to Decision Không. 2179/QD-UBND dated September 17, 2007 of the Provincial People's Committee Ninh Binh Regarding the approval of Ninh Binh province's inland waterway traffic planning until 2015 and development orientation to 2020, Gia Vien has the following ports and waterway wharves: Below is a list of ferry stations in Gia Vien: Gia Vien market system Gia Vien has the following markets which are ranked as 2nd and 3rd type markets Ninh Binh : Gia Vien urban area According to Decision Không. 796/QD-UBND dated October 12, 2012 of the People's Committee of Ninh Binh province on approving the master plan for development of Ninh Binh urban system until 2030. , Gia Vien has the following urban areas:
Giới thiệu khái quát huyện Yên Mô Yên Mô là một huyện vùng trũng phía Nam của tỉnh Ninh Bình. Phía tây giáp thành phố Tam Điệp, phía nam giáp hai huyện Nga Sơn và Hà Trung của tỉnh Thanh Hoá, phía Bắc giáp huyện Hoa Lư, phía đông giáp huyện Kim Sơn, phía đông bắc giáp huyện Yên Khánh. Huyện Yên Mô được hình thành từ rất sớm. Theo kết quả khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sống cách ngày nay hàng vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ. Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa danh Yên Mô có một số lần tách nhập, thay đổi. Đến tháng 9 năm 1994 thực hiện Nghị định số 59- NĐ/CP ngày 04/7/1994 của Chính phủ: tách 9 xã của huyện Yên Khánh cũ về lập lại huyện Yên Khánh đồng thời đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô. Huyện Yên Mô chính thức đi vào hoạt động từ ngày 02/9/1994. Qua nhiều biến đổi về hành chính, tính đến năm 2013, huyện Yên Mô gồm 16 xã và 1 thị trấn: Yên Thắng, Khánh Thượng, Yên Hoà, Yên Đồng, YênThái, Yên Lâm, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương, Yên Hưng, Mai Sơn và thị trấn Yên Thịnh. Vùng đất Yên Mô từ xa xưa là đất hiếu học, chuộng văn chương, trọng đạo lý. Hầu hết các thôn, xã đều có văn miếu, tư văn, tư võ, hội đồng môn. Yên Mô là một vùng đất có nhiều khoa bảng, làm quan thời phong kiến, là quê hương của nhiều Danh nhân tiêu biểu như: Trần Triệu Cơ, Ninh Tốn, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật, Tạ Uyên, Vũ Xuân Hồng. Địa hình Yên Mô không đều, đa dạng, tương đối phức tạp, chạy suốt sườn phía Tây và Tây Nam là dải núi Tam Điệp, đoạn cuối cùng của dãy Trường Sơn từ Hoà Bình đổ về và chạy ra tới biển. Địa hình dốc dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và từ Tây Nam xuống Đông Bắc. Đây là vùng đất cổ, do hiện tượng tạo sơn mà thành, có nhiều núi đá vôi trữ lượng hàng triệu mét khối. Xen kẽ núi đá vôi là các đồi đất, thung lũng hẹp và những hang động đẹp nổi tiếng như động Trà Tu, động Mã Tiên, động Ninh Hinh,… Yên Mô có khí hậu, thời tiết vừa chịu ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết gió mùa, vừa chịu ảnh hưởng khí hậu, thời tiết tiểu vùng. Mùa hè, mùa thu thường có mưa. Mùa hè có gió Nam từ biển thổi vào nhưng cũng ảnh hưởng gió Tây Nam thổi tới, gây nóng bức. Mùa đông sương muối khá dày, nhất là khu vực thung lũng thấp và kín gió nằm dưới chân núi Tam Điệp. Núi Tam Điệp chắn gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ xuống thấp đột ngột, tạo nên hiện tượng khô hanh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Theo thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Ninh Bình, tính đến năm 2012, toàn huyện Yên Mô có 254 di tích trong đó có 11 di tích được xếp hạng cấp quốc gia như đền Bình Hải, đền thờ Ninh Tốn, 45 di tích xếp hạng cấp tỉnh và 45 lễ hội trong đó có một số lễ hội nằm trong dự án bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể của tỉnh như: lễ hội Báo Bản Nộn Khê, lễ hội Bánh Dày ở đình Lục Giáp, xã Yên Thành,… Yên Mô có 11 làng nghề truyền thống như: nem chua Yên Mạc, dệt chiếu Bình Hải,…và nhiều điểm du lịch hấp dẫn như: hồ Đồng Thái, động Mã Tiên, cửa biển Thần Phù, sân golf Hoàng Gia. Nem chua Yên Mạc được vinh danh là một trong 10 đặc sản nem chả nổi tiếng Việt Nam. Với những thành tích đạt được trong công cuộc xây dựng quê hương đất nước, quân và dân huyện Yên Mô đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng 02 Huân chương lao động hạng Nhì, 32 Huân chương lao động hạng Ba; được Chính phủ tặng 02 Cờ thi đua, 43 Bằng khen; các Bộ, ngành Trung ương tặng 07 cờ thi đua và 337 bằng khen; được UBND tỉnh tặng 58 cờ thi đua và 1.046 bằng khăn. Năm 2009 cán bộ và nhân dân huyện Yên Mô vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng phần thưởng cao quý: Huân chương lao động hạng Nhất- đây là niềm vinh dự lớn của Đảng bộ, quân và dân toàn huyện./. Giới thiệu chung về lịch sử, văn hóa, con người Yên Mô Huyện Yên Mô thuộc tỉnh Ninh Bình được hình thành từ rất sớm. Theo kết quả khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sinh sống cách ngày nay hành vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ , thời thuộc Minh, đổi tên Yên Mô thuộc châu Trường Yên . Thời vua Lê Thánh Tông (1460- 1469) Yên Mô thuộc phủ Trường Yên. Đầu thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn vẫn gọi là Yên Mô, gồm 8 tổng với 59 xã, thôn, phường, trang, trại. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), cắt tổng Thần Phù thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hoá về huyện Yên Mô thuộc Phủ Yên Khánh tỉnh Ninh Bình . Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, huyện Yên Mô gồm 9 tổng với 65 xã, thôn. Năm 1948 – 1949 hợp nhất các xã quy mô nhỏ thành lập 8 xã có quy mô lớn: Yên Sơn, Yên Thắng, Yên Thành, Yên Thái, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên phong, Yên Lạc. Năm 1956 sau cải cách ruộng đất chia tách 8 xã thành lập 15 xã mới: Yên Sơn, Yên Bình, Yên Thắng, Yên Hoà, Yên Thành, Yên Đồng, Yên Thái, Yên Lâm, Yên Mạc, Yên Mỹ, Yên Nhân,Yên Từ, Yên Phong, Yên Phú, Yên Lạc. Tháng 5 – 1961, xã Yên Lạc sáp nhập vào huyện Yên Khánh, ba xã Khánh Dương, Khánh Thịnh, Khánh Thượng thuộc huyện Yên Khánh sáp nhập vào huyện Yên Mô. Huyện Yên Mô vào thời điểm 1961 gồm 17 xã. Tháng 1- 1967 thành lập thị trấn nông trường Đồng Giao trực thuộc huyện Yên Mô. Tháng 2 – 1974 giải thể thị trấn nông trường Đồng Giao, thành lập thị trấn Tam Điệp trực thuộc tỉnh Ninh Bình . Thực hiện quyết định số 125-CP ngày 27/4/1977 của Hội đồng Chính phủ, 9 xã phía bắc huyện Yên Khánh hợp nhất với huyện Yên Mô và thị trấn Tam Điệp thành huyện Tam Điệp. Thực hiện quyết định số 59/CP ngày 4-7-1994 đổi tên huyện Tam Điệp thành lập lại huyện Yên Khánh , tách 10 xã thuộc huyện Yên Khánh trước đây để thành lập lại huyện Yên Khánh, huyện Tam Điệp đổi tên thành huyện Yên Mô, gồm 15 xã. Năm 1997 thành lập Thị trấn Yên Thịnh . Năm 2000, tách thôn Hưng Hiền thuộc xã Yên Mỹ, thành lập xã Yên Hưng; tách xã Khánh Thượng thành lập 2 xã Khánh Thượng và Mai Sơn. Qua nhiều biến đổi về hành chính, đến nay (năm 2013), huyện Yên Mô gồm 16 xã, 1 thị trấn: Yên Thắng, Khánh Thượng, Yên Hoà, Yên Đồng, YênThái, Yên Lâm, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương, Yên Hưng, Mai Sơn và thị trấn Yên Thịnh. Vùng đất Yên Mô từ xa xưa là đất hiếu học, chuộng văn chương, trọng đạo lý. Hầu hết các thôn, xã đều có văn miếu, tư văn, tư võ, hội đồng môn, điển hình là Côi Trì, Yên Mô Thượng, Nộn Khê, Quảng Phúc. Những di tích cảnh quan như Ngọn Đèn, Tháp Bút, Núi Bảng, Mũ Ông Đồ, Thần đồng đều nói lên truyền thống hiếu học. Cuối đời vua Lê Cảnh Hưng (1786) làng Yên Mô Thượng có tới 56 người đỗ sinh đồ. Yên Mô là một vùng đất có nhiều khoa bảng. một gia đình ở làng Côi Trì: chú Ninh Địch, cháu là Ninh Tốn đều đỗ Tiến sĩ làm quan đại thần triều Lê. Ông Nguyễn Tuyên đỗ phó bảng năm 1859; ông Vũ Phạm Khải thôn Phượng Trì đỗ cử nhân năm 1831 làm quan Nguyên ở Bộ được 3 đời vua yêu mến. Đặc biệt, ông Phạm Thận Duật người Yên Mô Thượng là một nhà văn hóa đa diện, ngoài chức Thượng Thư còn tham gia hội đồng cơ mật, kiêm quản Quốc Tử Giám từ năm 1878 đến năm 1885. Ba lần được xung chức chủ khảo chấm và xét duyệt các bậc phó Bảng, Tiến sĩ, làm sư Bảo (thầy dậy) các ông Hoàng Ưng Châu, Ưng Đường (sau này là vua Dực Đức, Đồng Khánh). Vua Tự Đức nhận xét về ông: “ cứ xem các bản tấu sớ đủ biết Phạm Thận Duật từng lưu tâm điển xưa, tích cũ là thấy rộng nghe xa ”. Khi nước ta bị thực dân Pháp đánh chiếm, Phạm Thận Duật là người chủ chiến chống thực dân Pháp, đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị phát chiếu Cần Vương (13-7-1885). Ông bị thực dân Pháp bắt đầy đi côn đảo rồi đưa đi biệt xứ đến đảo Haiti. Ông mất ngày 29-01-1885. Nhân dân Yên Mô phần đông theo đạo Phật, có khoảng 20% số dân theo đạo Công giáo. Trước cách mạng tháng 8-1945, nhiều đình, chùa được chọn làm địa điểm hoạt động của cơ sở cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp (1945 – 1954) quân địch đốt phá đình, chùa, diết hại sư sãi. Một số nhà sư tình nguyện tòng quân nghe theo tiếng gọi non sông lên đường giết giặc, tiêu biểu như thượng tọa Thích Thanh Thìn – trụ trì chùa Phượng Ban (xã Khánh Thịnh) – chùa lớn nhất trong vùng. Hiện nay, toàn huyện có 69 ngôi đình, chùa, đền, miếu. Đạo Công giáo vào Yên Mô rất sớm (1627), do các giáo sĩ Phương Tây từ đàng trong theo đường thủy qua cửa biển Thần Phù lên Hảo Nho truyền đạo. Hiện nay, toàn huyện có 25 nhà thờ xứ và nhà thờ họ, hầu hết xây dựng bên cạnh trục đường giao thông hoặc khu tập trung dân cư như Tri Điền, Bạch Liên, Vân Mộng, Quảng Thượng, Bình Hải… đồng bào theo đạo công giáo có tinh thần yêu nước, ủng hộ và tham gia kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược. Một số linh mục như Phạm Bá Trực (xứ bạch Liên), Nguyễn Thế Vịnh (xứ Quảng Thượng) nỗ lực tham gia kháng chiến, kiến quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, hàng ngàn thanh niên công giáo ra nhập bộ đội, thanh niên xung phong, đi dân công phục vụ chiến trường, nhiều người lập chiến công xuất sắc. Trải qua các biến cố lịch sử, mỗi ngọn núi, khúc sông, đoạn đường, thôn xóm… ở Yên Mô không chỉ chứa đậm mồ hôi, nước mắt trong việc chế ngự thiên nhiên để phát triển và sinh tồn mà còn thấm máu của nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược, bảo vệ quê hương đất nước.
Giới thiệu khái quát huyện Yên Mô Yên Mô là một huyện vùng trũng phía Nam của tỉnh Ninh Bình. Phía tây giáp thành phố Tam Điệp, phía nam giáp hai huyện Nga Sơn và Hà Trung của tỉnh Thanh Hoá, phía Bắc giáp huyện Hoa Lư, phía đông giáp huyện Kim Sơn, phía đông bắc giáp huyện Yên Khánh. Huyện Yên Mô được hình thành từ rất sớm. Theo kết quả khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sống cách ngày nay hàng vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ. Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa danh Yên Mô có một số lần tách nhập, thay đổi. Đến tháng 9 năm 1994 thực hiện Nghị định số 59- NĐ/CP ngày 04/7/1994 của Chính phủ: tách 9 xã của huyện Yên Khánh cũ về lập lại huyện Yên Khánh đồng thời đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô. Huyện Yên Mô chính thức đi vào hoạt động từ ngày 02/9/1994. Qua nhiều biến đổi về hành chính, tính đến năm 2013, huyện Yên Mô gồm 16 xã và 1 thị trấn: Yên Thắng, Khánh Thượng, Yên Hoà, Yên Đồng, YênThái, Yên Lâm, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương, Yên Hưng, Mai Sơn và thị trấn Yên Thịnh. Vùng đất Yên Mô từ xa xưa là đất hiếu học, chuộng văn chương, trọng đạo lý. Hầu hết các thôn, xã đều có văn miếu, tư văn, tư võ, hội đồng môn. Yên Mô là một vùng đất có nhiều khoa bảng, làm quan thời phong kiến, là quê hương của nhiều Danh nhân tiêu biểu như: Trần Triệu Cơ, Ninh Tốn, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật, Tạ Uyên, Vũ Xuân Hồng. Địa hình Yên Mô không đều, đa dạng, tương đối phức tạp, chạy suốt sườn phía Tây và Tây Nam là dải núi Tam Điệp, đoạn cuối cùng của dãy Trường Sơn từ Hoà Bình đổ về và chạy ra tới biển. Địa hình dốc dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và từ Tây Nam xuống Đông Bắc. Đây là vùng đất cổ, do hiện tượng tạo sơn mà thành, có nhiều núi đá vôi trữ lượng hàng triệu mét khối. Xen kẽ núi đá vôi là các đồi đất, thung lũng hẹp và những hang động đẹp nổi tiếng như động Trà Tu, động Mã Tiên, động Ninh Hinh,… Yên Mô có khí hậu, thời tiết vừa chịu ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết gió mùa, vừa chịu ảnh hưởng khí hậu, thời tiết tiểu vùng. Mùa hè, mùa thu thường có mưa. Mùa hè có gió Nam từ biển thổi vào nhưng cũng ảnh hưởng gió Tây Nam thổi tới, gây nóng bức. Mùa đông sương muối khá dày, nhất là khu vực thung lũng thấp và kín gió nằm dưới chân núi Tam Điệp. Núi Tam Điệp chắn gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ xuống thấp đột ngột, tạo nên hiện tượng khô hanh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Theo thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Ninh Bình, tính đến năm 2012, toàn huyện Yên Mô có 254 di tích trong đó có 11 di tích được xếp hạng cấp quốc gia như đền Bình Hải, đền thờ Ninh Tốn, 45 di tích xếp hạng cấp tỉnh và 45 lễ hội trong đó có một số lễ hội nằm trong dự án bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể của tỉnh như: lễ hội Báo Bản Nộn Khê, lễ hội Bánh Dày ở đình Lục Giáp, xã Yên Thành,… Yên Mô có 11 làng nghề truyền thống như: nem chua Yên Mạc, dệt chiếu Bình Hải,…và nhiều điểm du lịch hấp dẫn như: hồ Đồng Thái, động Mã Tiên, cửa biển Thần Phù, sân golf Hoàng Gia. Nem chua Yên Mạc được vinh danh là một trong 10 đặc sản nem chả nổi tiếng Việt Nam. Với những thành tích đạt được trong công cuộc xây dựng quê hương đất nước, quân và dân huyện Yên Mô đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng 02 Huân chương lao động hạng Nhì, 32 Huân chương lao động hạng Ba; được Chính phủ tặng 02 Cờ thi đua, 43 Bằng khen; các Bộ, ngành Trung ương tặng 07 cờ thi đua và 337 bằng khen; được UBND tỉnh tặng 58 cờ thi đua và 1.046 bằng khăn. Năm 2009 cán bộ và nhân dân huyện Yên Mô vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng phần thưởng cao quý: Huân chương lao động hạng Nhất- đây là niềm vinh dự lớn của Đảng bộ, quân và dân toàn huyện./. Giới thiệu chung về lịch sử, văn hóa, con người Yên Mô Huyện Yên Mô thuộc tỉnh Ninh Bình được hình thành từ rất sớm. Theo kết quả khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sinh sống cách ngày nay hành vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ , thời thuộc Minh, đổi tên Yên Mô thuộc châu Trường Yên . Thời vua Lê Thánh Tông (1460- 1469) Yên Mô thuộc phủ Trường Yên. Đầu thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn vẫn gọi là Yên Mô, gồm 8 tổng với 59 xã, thôn, phường, trang, trại. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), cắt tổng Thần Phù thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hoá về huyện Yên Mô thuộc Phủ Yên Khánh tỉnh Ninh Bình . Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, huyện Yên Mô gồm 9 tổng với 65 xã, thôn. Năm 1948 – 1949 hợp nhất các xã quy mô nhỏ thành lập 8 xã có quy mô lớn: Yên Sơn, Yên Thắng, Yên Thành, Yên Thái, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên phong, Yên Lạc. Năm 1956 sau cải cách ruộng đất chia tách 8 xã thành lập 15 xã mới: Yên Sơn, Yên Bình, Yên Thắng, Yên Hoà, Yên Thành, Yên Đồng, Yên Thái, Yên Lâm, Yên Mạc, Yên Mỹ, Yên Nhân,Yên Từ, Yên Phong, Yên Phú, Yên Lạc. Tháng 5 – 1961, xã Yên Lạc sáp nhập vào huyện Yên Khánh, ba xã Khánh Dương, Khánh Thịnh, Khánh Thượng thuộc huyện Yên Khánh sáp nhập vào huyện Yên Mô. Huyện Yên Mô vào thời điểm 1961 gồm 17 xã. Tháng 1- 1967 thành lập thị trấn nông trường Đồng Giao trực thuộc huyện Yên Mô. Tháng 2 – 1974 giải thể thị trấn nông trường Đồng Giao, thành lập thị trấn Tam Điệp trực thuộc tỉnh Ninh Bình . Thực hiện quyết định số 125-CP ngày 27/4/1977 của Hội đồng Chính phủ, 9 xã phía bắc huyện Yên Khánh hợp nhất với huyện Yên Mô và thị trấn Tam Điệp thành huyện Tam Điệp. Thực hiện quyết định số 59/CP ngày 4-7-1994 đổi tên huyện Tam Điệp thành lập lại huyện Yên Khánh , tách 10 xã thuộc huyện Yên Khánh trước đây để thành lập lại huyện Yên Khánh, huyện Tam Điệp đổi tên thành huyện Yên Mô, gồm 15 xã. Năm 1997 thành lập Thị trấn Yên Thịnh . Năm 2000, tách thôn Hưng Hiền thuộc xã Yên Mỹ, thành lập xã Yên Hưng; tách xã Khánh Thượng thành lập 2 xã Khánh Thượng và Mai Sơn. Qua nhiều biến đổi về hành chính, đến nay (năm 2013), huyện Yên Mô gồm 16 xã, 1 thị trấn: Yên Thắng, Khánh Thượng, Yên Hoà, Yên Đồng, YênThái, Yên Lâm, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương, Yên Hưng, Mai Sơn và thị trấn Yên Thịnh. Vùng đất Yên Mô từ xa xưa là đất hiếu học, chuộng văn chương, trọng đạo lý. Hầu hết các thôn, xã đều có văn miếu, tư văn, tư võ, hội đồng môn, điển hình là Côi Trì, Yên Mô Thượng, Nộn Khê, Quảng Phúc. Những di tích cảnh quan như Ngọn Đèn, Tháp Bút, Núi Bảng, Mũ Ông Đồ, Thần đồng đều nói lên truyền thống hiếu học. Cuối đời vua Lê Cảnh Hưng (1786) làng Yên Mô Thượng có tới 56 người đỗ sinh đồ. Yên Mô là một vùng đất có nhiều khoa bảng. một gia đình ở làng Côi Trì: chú Ninh Địch, cháu là Ninh Tốn đều đỗ Tiến sĩ làm quan đại thần triều Lê. Ông Nguyễn Tuyên đỗ phó bảng năm 1859; ông Vũ Phạm Khải thôn Phượng Trì đỗ cử nhân năm 1831 làm quan Nguyên ở Bộ được 3 đời vua yêu mến. Đặc biệt, ông Phạm Thận Duật người Yên Mô Thượng là một nhà văn hóa đa diện, ngoài chức Thượng Thư còn tham gia hội đồng cơ mật, kiêm quản Quốc Tử Giám từ năm 1878 đến năm 1885. Ba lần được xung chức chủ khảo chấm và xét duyệt các bậc phó Bảng, Tiến sĩ, làm sư Bảo (thầy dậy) các ông Hoàng Ưng Châu, Ưng Đường (sau này là vua Dực Đức, Đồng Khánh). Vua Tự Đức nhận xét về ông: “ cứ xem các bản tấu sớ đủ biết Phạm Thận Duật từng lưu tâm điển xưa, tích cũ là thấy rộng nghe xa ”. Khi nước ta bị thực dân Pháp đánh chiếm, Phạm Thận Duật là người chủ chiến chống thực dân Pháp, đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị phát chiếu Cần Vương (13-7-1885). Ông bị thực dân Pháp bắt đầy đi côn đảo rồi đưa đi biệt xứ đến đảo Haiti. Ông mất ngày 29-01-1885. Nhân dân Yên Mô phần đông theo đạo Phật, có khoảng 20% số dân theo đạo Công giáo. Trước cách mạng tháng 8-1945, nhiều đình, chùa được chọn làm địa điểm hoạt động của cơ sở cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp (1945 – 1954) quân địch đốt phá đình, chùa, diết hại sư sãi. Một số nhà sư tình nguyện tòng quân nghe theo tiếng gọi non sông lên đường giết giặc, tiêu biểu như thượng tọa Thích Thanh Thìn – trụ trì chùa Phượng Ban (xã Khánh Thịnh) – chùa lớn nhất trong vùng. Hiện nay, toàn huyện có 69 ngôi đình, chùa, đền, miếu. Đạo Công giáo vào Yên Mô rất sớm (1627), do các giáo sĩ Phương Tây từ đàng trong theo đường thủy qua cửa biển Thần Phù lên Hảo Nho truyền đạo. Hiện nay, toàn huyện có 25 nhà thờ xứ và nhà thờ họ, hầu hết xây dựng bên cạnh trục đường giao thông hoặc khu tập trung dân cư như Tri Điền, Bạch Liên, Vân Mộng, Quảng Thượng, Bình Hải… đồng bào theo đạo công giáo có tinh thần yêu nước, ủng hộ và tham gia kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược. Một số linh mục như Phạm Bá Trực (xứ bạch Liên), Nguyễn Thế Vịnh (xứ Quảng Thượng) nỗ lực tham gia kháng chiến, kiến quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, hàng ngàn thanh niên công giáo ra nhập bộ đội, thanh niên xung phong, đi dân công phục vụ chiến trường, nhiều người lập chiến công xuất sắc. Trải qua các biến cố lịch sử, mỗi ngọn núi, khúc sông, đoạn đường, thôn xóm… ở Yên Mô không chỉ chứa đậm mồ hôi, nước mắt trong việc chế ngự thiên nhiên để phát triển và sinh tồn mà còn thấm máu của nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược, bảo vệ quê hương đất nước.
Giới thiệu khái quát huyện Hoa Lư Hoa Lư là một huyện nằm ở trung tâm tỉnh Ninh Bình , có vị trí bao bọc phía bắc và tây với thành phố Ninh Bình, phía bắc giáp huyện Gia Viễn, phía tây giáp thị xã Tam Điệp, phía nam giáp huyện Yên Mô , phía đông giáp huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định và thành phố Ninh Bình. Hoa Lư có diện tích tự nhiên 139,7 km² và dân số 103,9 nghìn người (2003). 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Trường Yên, Ninh Hòa, Ninh Giang, Ninh Mỹ, Ninh Khang, Ninh Xuân, Ninh Vân, Ninh Hải, Ninh An, Ninh Thắng và thị trấn Thiên Tôn. Lịch sử Địa danh Hoa Lư Huyện Hoa Lư được thành lập ngày 27/4/1977 do hợp nhất huyện Gia Khánh (phủ Tràng An) và thị trấn Ninh Bình, khi đó thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Thị xã Ninh Bình chuyển thành thị trấn Ninh Bình, huyện lỵ huyện Hoa Lư. Ngày 9/4/1981, tái lập thị xã Ninh Bình, tách khỏi huyện Hoa Lư. Trụ sở huyện Hoa Lư chuyển về xã Ninh Khánh. Sau đó nhiều lần tách đất huyện Hoa Lư nhập vào thị xã Ninh Bình. Từ năm 1991, Hoa Lư thuộc tỉnh Ninh Bình với trung tâm là thị trấn Thiên Tôn. Trong tương lai, do sức ép phát triển đô thị của thành phố Ninh Bình, rất có thể diện tích huyện Hoa Lư tiếp tục sẽ dần được chuyển nhập về thành phố này. Cố đô Hoa Lư Khu di tích Cố đô Hoa Lư có diện tích hơn 13 km2, gần bằng 1/10 diện tích huyện Hoa Lư. Mặt khác, một phần nhỏ của Cố đô Hoa Lư nằm trên địa phận thành phố Ninh Bình và huyện Gia Viễn. Vì vậy khái niệm huyện Hoa Lư và Cố đô Hoa Lư chỉ mang tính tương đối về chủ thể, một là địa danh hành chính và một là địa danh lịch sử Hoa Lư là vùng đất nổi tiếng của Việt Nam với truyền thống lịch sử vẻ vang, từng là kinh đô đầu tiên của nước Đại Cồ Việt – kinh đô Việt Nam thống nhất ở thế kỷ X, nơi phát tích ba triều đại nhà Đinh, nhà Lê và nhà Lý với 6 vị vua: Đinh Tiên Hoàng, Đinh Phế Đế, Lê Đại Hành, Lê Trung Tông, Lê Long Đĩnh và Lý Công Uẩn. Kinh tế Hoa Lư có ưu thế về giao thông cả về thuỷ, bộ và sắt. Với vị trí giữa hai trung tâm lớn là thành phố Ninh Bình và thị xã Tam Điệp. Tiềm năng vị trí và du lịch lớn kéo theo các hoạt động kinh tế của huyện phát triển mạnh như: các khu công nghiệp, khai thác đá, làng nghề truyền thống, v.v… Công nghiệp Hoa Lư hiện có 3 cụm công nghiệp tập trung: Nông nghiệp Hoa Lư là một huyện thuộc vùng chiêm trũng, kinh tế nông nghiệp không phát triển như các huyện ven biển Yên Khánh và Kim Sơn. Nghề chăn nuôi dê núi và Điểm du lịch Hoa Lư là một huyện giàu tiềm năng du lịch, mảnh đất một thời là kinh đô của nước Đại Cồ Việt. Hoa Lư có địa hình thuộc vùng bán sơn địa, là nơi chuyển tiếp giữa miền rừng núi và đồng bằng nên có rất nhiều các hang động, thắng cảnh thuận lợi phát triển du lịch. Ngày nay Hoa Lư được biết đến với các khu du lịch nổi tiếng sau: Lễ hội văn hóa
General introduction of Hoa Lu district Hoa Lu is a district located in the center Ninh Binh province , is located north and west with Ninh Binh city, the north borders Gia Vien district, the west borders Tam Diep town, the south borders Yen Mo district , to the east borders Y Yen district, Nam Dinh province and Ninh Binh city. Hoa Lu has a natural area of ​​139.7 km² and a population of 103.9 thousand people (2003). 11 affiliated administrative units include Truong Yen, Ninh Hoa, Ninh Giang, Ninh My, Ninh Khang, Ninh Xuan, Ninh Van, Ninh Hai, Ninh An, Ninh Thang communes and Thien Ton town. History Place of Hoa Lu Hoa Lu district was established on April 27, 1977 by merging Gia Khanh district (Trang An district) and Ninh Binh town, then belonging to Ha Nam Ninh province. Ninh Binh town was transformed into Ninh Binh town, the district capital of Hoa Lu district. On April 9, 1981, Ninh Binh town was re-established, separated from Hoa Lu district. Hoa Lu district headquarters moved to Ninh Khanh commune. After that, the land of Hoa Lu district was divided many times and merged into Ninh Binh town. Since 1991, Hoa Lu has belonged to Ninh Binh province with the center being Thien Ton town. In the future, due to the urban development pressure of Ninh Binh city, it is likely that the area of ​​Hoa Lu district will gradually be transferred to this city. Hoa Lu ancient capital The Hoa Lu Ancient Capital relic site has an area of ​​more than 13 square kilometers, nearly 1/10 of the area of ​​Hoa Lu district. On the other hand, a small part of Hoa Lu ancient capital is located in Ninh Binh city and Gia Vien district. Therefore, the concepts of Hoa Lu district and Hoa Lu ancient capital are only relative in terms of subject, one is an administrative place and the other is a historical place. Hoa Lu is a famous land of Vietnam with a glorious historical tradition, once the first capital of Dai Co Viet - the capital of unified Vietnam in the 10th century, where the three dynasties of Dinh and Dinh dynasties were founded. Le and Ly dynasties with 6 kings: Dinh Tien Hoang, Dinh Phe De, Le Dai Hanh, Le Trung Tong, Le Long Dinh and Ly Cong Uan. Economy Hoa Lu has advantages in transportation by water, road and iron. Located between two major centers, Ninh Binh city and Tam Diep town. Great location and tourism potential leads to strong development of the district's economic activities such as industrial parks, stone mining, traditional craft villages, etc. Industry Hoa Lu currently has 3 concentrated industrial clusters: Agriculture Hoa Lu is a district in a low-lying area, the agricultural economy is not as developed as the coastal districts of Yen Khanh and Kim Son. Mountain goat farming and Tourist destination Hoa Lu is a district rich in tourism potential, a land that was once the capital of Dai Co Viet. Hoa Lu has a semi-mountainous terrain, a transition place between mountains and plains, so there are many caves and landscapes that are favorable for tourism development. Today Hoa Lu is known for the following famous tourist areas: Cultural festival
Giới thiệu khái quát huyện Kim Sơn Huyện Kim Sơn nằm ở phía Đông Nam tỉnh Ninh Bình , có diện tích đất tự nhiên là 213,27 km2, dân số trên 180.000 người. Phía Bắc giáp huyện Yên Khánh, huyện Yên Mô ; phía Đông giáp huyện Nghĩa Hưng (Nam Định); phía Tây giáp huyện Nga Sơn (Thanh Hoá); phía Nam giáp biển Đông. Kim Sơn có địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao thấp dần ra phía biển, nghiêng theo hướng Bắc – Nam và Đông – Tây, độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 0,9 – 1,2m. Diện tích đất đai của huyện Kim Sơn được chia làm hai vùng rõ rệt, đó là vùng đồng bằng và vùng ven biển. Kim Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm và thường xuyên chịu ảnh hưởng của mưa bão. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm 1.900mm, lượng bốc hơi trung bình/năm là 22mm, lượng mưa lớn nhất 457,5mm, trung bình 270mm. Nhiệt độ trung bình/năm là 23,40C (nhiệt độ cao nhất là 41,10C, thấp nhất 2,40C). Độ ẩm không khí trung bình là 86% (độ ẩm cao nhất là 91%, thấp nhất là 61%). Tốc độ gió lớn nhất là 4m/s, trung bình là 3,5m/s. Bão thường đổ bộ vào Kim Sơn từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm, bão mạnh nhất cấp 11 – 12. Vùng biển Kim Sơn chịu ảnh hưởng của chế độ nhật triều không đều, biên độ trung bình 1,4m, lớn nhất có thể đạt 2m – 2,5m. Trong tháng có 2 kỳ nước lớn, mỗi kỳ 14 ngày với biên độ 1,5m – 2,2m. Trong thời kỳ nước cường đỉnh nhật triều trội hơn, mỗi ngày xuất hiện một đỉnh và một chân triều, tuy nhiên thời gian lên xuống và thời điểm xuất hiện đỉnh và chân triều không ổn định. Kim Sơn có hệ thống sông ngòi dày đặc, có 3 sông lớn: Sông Đáy nằm phía Đông Nam huyện, chảy vào huyện Kim Sơn bắt đầu từ xã Xuân Thiện và đổ ra biển Đông ở cửa Đáy và sông Đáy là ranh giới giữa huyện Kim Sơn và huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định với chiều rộng 200m; sông Càn nằm phía Nam huyện Kim Sơn, từ Yên Mô chảy vào huyện Kim Sơn bắt đầu từ xã Lai Thành chảy qua các xã Định Hoá, Văn Hải, Kim Mỹ, Kim Hải và đổ ra biển Đông ở cửa Càn với chiều dài 9,3km, cùng với sông Đáy tạo nên lượng lắng đọng phù sa rất lớn cho vùng đất Kim Sơn, góp phần vào quá trình bồi tụ lấn ra biển Đông; sông Vạc bắt đầu từ huyện Hoa Lư chảy qua các huyện Yên Mô, Yên Khánh chảy vào huyện Kim Sơn, bắt đầu từ xã Yên Mật (thường gọi là sông Trì Chính) chảy vào sông Đáy, qua cửa Đài Giang hay còn gọi là Kim Đài đổ ra biển Đông. Ngoài ra, còn có các con sông rất quan trọng khác như: Sông Yêm bắt đầu chảy từ sông Vạc (Yên Mô) chảy vào sông Cà Mâu với chiều dài 4,5km; sông Ân chảy vắt ngang qua huyện Kim Sơn, bắt đầu từ xã Xuân Thiện qua các xã Chính Tâm, Kim Định, Hùng Tiến và chảy song song với quốc lộ 10 qua thị trấn Phát Diệm đến Lai Thành gặp sông Càn ở phía Tây. Đây là con sông được đào vào thời kỳ đầu thành lập huyện (1829). Với tầm nhìn chiến lược từ con sông này, nhà doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã cho làm hệ thống các sông nhánh, bình quân 250m-400m lại có một sông, đây cũng là ranh giới giữa xã, thôn tạo nên đồng đất Kim Sơn theo lối chữ “tỉnh”. Tổng chiều dài các con sông lớn, sông nhỏ tới hơn 100km và các con sông này đều chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. Với hệ thống sông ngòi dọc ngang, tạo thuận lợi và rất quan trọng cho việc phục vụ thuỷ lợi, sản xuất và giao thông. Về giao thông: Đường Quốc lộ 10 là tuyến đường trục chính, chạy suốt từ thành phố Ninh Bình qua huyện Yên Khánh đến Kim Sơn, bắt đầu từ xã Ân Hoà đến xã Lai Thành và huyện Nga Sơn (Thanh Hoá). Đường 480 từ Lai Thành qua Yên Mô đi Tam Điệp; đường 481 từ Yên Lộc đi đê Bình Minh III; đường 480D từ Yên Mô qua Tân Thành đi Định Hoá; đường 480E từ Yên Khánh vào xã Yên Mật, đường Quy Hậu đi đò Mười. Ngoài ra còn các đường do huyện quản lý. Hành chính Huyện Kim Sơn có diện tích 207 km² và 172.399 người, gồm hai thị trấn (Phát Diệm – huyện lỵ, Bình Minh), và 25 xã gồm Hồi Ninh, Chất Bình, Yên Mật, Kim Đông, Lai Thành, Yên Lộc, Tân Thành, Lưu Phương, Thượng Kiệm, Kim Chính, Đồng Hướng, Quang Thiện, Như Hoà, Hùng Tiến, Ân Hoà, Kim Định, Chính Tâm, Định Hoá, Văn Hải, Kim Tân, Kim Mỹ, Cồn Thoi, Kim Hải, Xuân Thiện, Kim Trung. Lịch sử Kim Sơn là vùng đất mở ra đời từ công cuộc khẩn hoang vùng bãi biển đầy lau sậy và sú vẹt dưới sự tổ chức và điều hành của Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ năm Kỷ Tỵ, 1829. Đây là vùng đất mở, hàng năm tốc độ bồi tụ tiến ra biển từ 80 – 100 m. Chính vì thế Kim Sơn gắn với lịch sử của những cuộc chinh phục đất hoang bồi – quai đê lấn biển. Gần 200 năm đã tiến hành quai đê lấn biển sáu lần. Về diện tích hiện nay gấp gần 3 lần so với khi mới thành lập huyện. Là vùng đất mới nên Kim Sơn không có nhiều di tích lịch sử ngoài những ngôi chùa mới nhưng Kim Sơn có nhà thờ Phát Diệm là một công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo ở Việt Nam. Mặt khác Kim Sơn mang đặc trưng văn hóa đới sống của vùng đất mới với những người đi khai hoang lấn biển. Kinh tế Kim Sơn cùng với Hải Hậu (Nam Định) và Tiền Hải (Thái Bình) là những đơn vị đầu tiên đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Nền kinh tế của huyện Kim Sơn có 3 thế mạnh: Kinh tế nông nghiệp giữ vị trí quan trọng, chiếm gần 1/3 tổng sản lượng lúa của tỉnh Ninh Bình. Ngành thủ công nghiệp truyền thống sản xuất hàng chiếu cói, có giá trị hàng hóa lớn. Vùng kinh tế biển đã và đang được đầu tư khai thác, đây là một vùng có tiềm năng để phát triển thành một vùng sản xuất hàng hóa phong phú và đa dạng. Kim Sơn hình thành 2 vùng địa lý kinh tế: Di tích lịch sử: nhà thờ Phát Diệm là một công trình kiến trúc đá nổi tiếng xây dựng từ năm 1890; đền thờ Nguyễn Công Trứ nằm bên quốc lộ 10 thuộc xã Quang Thiện; nhà thờ Cồn Thoi ở vùng ven biển; các di tích quốc gia khác như chùa Đồng Đắc, đình Thượng Kiệm và đền Chất Thành. Thắng cảnh tự nhiên: Kim Sơn có 18 km bờ biển nằm giữa hai cửa sông lớn là sông Đáy và sông Càn Toàn bộ khu vực gồm thị trấn Bình Minh và các xã ven biển: Kim Đông, Kim Hải, Kim Trung đã được UNESCO công nhận là một trong những địa danh thuộc khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tại đây thiên nhiên, sự sống còn đa dạng và hoang sơ. Thắng cảnh khu vực ven biển Kim Sơn nằm trong quy hoạch du lịch của tỉnh Ninh Bình bao gồm bãi biển, sông Cà Mau, rừng phòng hộ, các cù lao, cồn nổi, cửa sông Đáy, cửa sông Càn, v.v… Đặc sản: rượu Kim Sơn là một đặc sản tiêu biểu của địa phương, các đặc sản khác có thế mạnh phát triển ở đây phải kể đến miến lươn, hải sản, gạo .v.v.
General introduction of Kim Son district Kim Son district is located in the Southeast Ninh Binh province , has a natural land area of ​​213.27 km2 and a population of over 180,000 people. The North borders Yen Khanh district, Yen Mo district ; The East borders Nghia Hung district (Nam Dinh); The West borders Nga Son district (Thanh Hoa); The south borders the East Sea. Kim Son has relatively flat terrain, the altitude gradually lowers towards the sea, tilts in the North - South and East - West direction, the average height above sea level is about 0.9 - 1.2m. The land area of ​​Kim Son district is divided into two distinct regions, which are the delta and the coastal area. Kim Son is located in a tropical monsoon climate, hot and humid and often affected by rain and storms. Total average annual rainfall is 1,900mm, average evaporation per year is 22mm, maximum rainfall is 457.5mm, average is 270mm. The average temperature/year is 23.40C (highest temperature is 41.10C, lowest 2.40C). Average air humidity is 86% (highest humidity is 91%, lowest humidity is 61%). The maximum wind speed is 4m/s, the average is 3.5m/s. Storms often land in Kim Son from June to September every year, the strongest storms are level 11 - 12. Kim Son sea area is affected by irregular diurnal tide regime, average amplitude is 1.4m, the largest can reach 2m - 2.5m. During the month there are 2 high water periods, each lasting 14 days with an amplitude of 1.5m - 2.2m. During the peak water period, the diurnal tide is dominant, each day there is a peak and a trough of the tide, however the time of ebb and flow and the time of the peak and trough of the tide are unstable. Kim Son has a dense river system, with 3 large rivers: Day River is located in the southeast of the district, flows into Kim Son district starting from Xuan Thien commune and flows into the East Sea at Day estuary and Day river is the boundary between the district Kim Son and Nghia Hung district, Nam Dinh province with a width of 200m; Can River is located south of Kim Son district, from Yen Mo flows into Kim Son district starting from Lai Thanh commune, flows through Dinh Hoa, Van Hai, Kim My, Kim Hai communes and empties into the East Sea at Can estuary with a length of 9 .3km, together with the Day River, creates a huge amount of alluvial deposition for Kim Son land, contributing to the accretion process encroaching into the East Sea; Vac River starts from Hoa Lu district, flows through Yen Mo and Yen Khanh districts, flows into Kim Son district, starts from Yen Mat commune (often called Tri Chinh river) flows into Day river, through Dai Giang estuary, also known as Kim Dai flows into the East Sea. In addition, there are other very important rivers such as: Yem River starts from Vac River (Yen Mo) and flows into Ca Mau River with a length of 4.5km; An River flows across Kim Son district, starting from Xuan Thien commune through Chinh Tam, Kim Dinh, Hung Tien communes and flowing parallel to Highway 10 through Phat Diem town to Lai Thanh meeting Can river in the west. This is a river dug at the beginning of the district's establishment (1829). With a strategic vision from this river, the businessman Nguyen Cong Tru built a system of tributaries, on average there is a river every 250m-400m, this is also the boundary between communes and villages, creating the Kim land. Painted in the style of the word "province". The total length of large and small rivers is more than 100km and these rivers are all affected by tides. With a system of vertical and horizontal rivers, it is convenient and very important for serving irrigation, production and transportation. Regarding traffic: National Highway 10 is the main route, running from Ninh Binh city through Yen Khanh district to Kim Son, starting from An Hoa commune to Lai Thanh commune and Nga Son district (Thanh Hoa). Road 480 from Lai Thanh through Yen Mo to Tam Diep; Road 481 from Yen Loc to Binh Minh III dike; Road 480D from Yen Mo through Tan Thanh to Dinh Hoa; Road 480E from Yen Khanh to Yen Mat commune, Quy Hau road to Muoi boat. There are also roads managed by the district. Administration Kim Son district has an area of ​​207 km² and 172,399 people, including two towns (Phat Diem - district capital, Binh Minh), and 25 communes including Hoi Ninh, Chat Binh, Yen Mat, Kim Dong, Lai Thanh, Yen Loc, Tan Thanh, Luu Phuong, Thuong Kiem, Kim Chinh, Dong Huong, Quang Thien, Nhu Hoa, Hung Tien, An Hoa, Kim Dinh, Chinh Tam, Dinh Hoa, Van Hai, Kim Tan, Kim My, Con Thoi, Kim Hai, Xuan Thien, Kim Trung. History Kim Son is an open land that was born from the reclamation of a beach full of reeds and parrots under the organization and administration of Doanh Dien envoy Nguyen Cong Tru in the year of the Snake, 1829. This is an open land, every year. The accretion speed goes out to sea from 80 - 100 m. That's why Kim Son is associated with the history of conquests of wild land and sea dikes. In nearly 200 years, sea dikes have been built six times. The current area is nearly 3 times larger than when the district was first established. As a new land, Kim Son does not have many historical relics other than new temples, but Kim Son has Phat Diem church, a unique religious architectural work in Vietnam. On the other hand, Kim Son has the cultural characteristics of a new land with people who reclaimed the sea. Economy Kim Son, along with Hai Hau (Nam Dinh) and Tien Hai (Thai Binh), are the first units to achieve rice productivity of 5 tons/ha. The economy of Kim Son district has 3 strengths: Agricultural economy holds an important position, accounting for nearly 1/3 of the total rice output of Ninh Binh province. The traditional handicraft industry produces sedge mats, which have great commodity value. The marine economic zone has been invested and exploited. This is an area with potential to develop into a rich and diverse commodity production area. Kim Son forms 2 geographical and economic regions: Historical relics: Phat Diem Cathedral is a famous stone structure built in 1890; Nguyen Cong Tru temple is located on Highway 10 in Quang Thien commune; Con Thoi church in the coastal area; Other national relics such as Dong Dac pagoda, Thuong Kiem communal house and Chat Thanh temple. Natural landscape: Kim Son has 18 km of coastline located between two large estuaries, Day River and Can River. The entire area including Binh Minh town and coastal communes: Kim Dong, Kim Hai, Kim Trung has been recognized by UNESCO. recognized as one of the places in the world biosphere reserve. Here, nature and life are diverse and wild. Scenic landscapes in the Kim Son coastal area are included in the tourism planning of Ninh Binh province including beaches, Ca Mau river, protective forests, islands, floating dunes, Day river estuary, Can river estuary, etc. Specialties: Kim Son wine is a typical local specialty. Other specialties that have strengths in development here include eel vermicelli, seafood, rice, etc.
Giới thiệu khái quát huyện Ninh Hải Ninh Hải là cửa ngõ phía Đông Bắc của thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tương đối thuận tiện về giao thông: tuyến Quốc lộ 1A, ĐT.702, ĐT.704 và ĐT.705 nối liền các huyện phía Bắc tỉnh với thành phố Phan Rang – Tháp Chàm; ngoài ra Ninh Hải còn có 58 km chiều dài bờ biển với vịnh Vĩnh Hy và nhiều vũng, bãi biển đẹp; có cảng cá, khu sản xuất muối công nghiệp, Vườn Quốc gia Núi Chúa… vì vậy Ninh Hải có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và quốc phòng an ninh đối với tỉnh Ninh Thuận . 2. Địa hình, địa mạo: Huyện Ninh Hải có địa hình khá phức tạp, thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Địa hình có dạng chuyển tiếp của địa hình trung du và miền núi, chia thành 3 dạng địa hình chính sau: – Địa hình núi cao: bao gồm các núi granite, đaxit, sa phiến thạch, nhô cao, thường rất dốc và có độ dày tầng đất mỏng, ít có khả năng sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Dạng địa hình này có diện tích 10.554 ha chiếm 41,54% tổng diện tích toàn huyện, độ cao từ 200 m đến 1.000 m (dãy núi Chúa cao 1.040 m), phân bố tập trung ở xã Vĩnh Hải. – Địa hình gò đồi ven biển: Tập trung ở phía Đông và phía Nam của huyện, gồm các xã: Thanh Hải, Nhơn Hải, Tri Hải và một phần thị trấn Khánh Hải. Dạng địa hình này điển hình cho toàn huyện, có diện tích 10.731 ha chiếm 42,28% tổng diện tích toàn huyện. Loại đất chủ yếu là đất cát đến pha cát, độ cao dưới 200 m, tạo thành một dãy dài và hẹp chạy dọc ven biển. – Địa hình vùng đồng bằng: phần lớn đất đai có độ cao từ 10 m đến 30 m, địa hình tương đối bằng phẳng, hướng dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam và dốc dần ra biển: gồm các xã Tân Hải, Hộ Hải, Xuân Hải, Phương Hải và một phần thị trấn Khánh Hải. Dạng địa hình này có diện tích 4.107 ha chiếm 16,18% tổng diện tích toàn huyện. Các loại đất chính là đất phù sa, đất xám, đất mặn, đất cát; tầng đất dày 50 – 100 cm. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản của huyện. Nhìn chung địa hình huyện Ninh Hải khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế tổng hợp nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp và du lịch. 3. Khí hậu: Huyện Ninh Hải có nền khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, với các đặc trưng là khô nóng, gió nhiều, lượng bốc hơi lớn. – Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ trung bình năm 27,2 0 C. Tổng nhiệt năm 9.861,6 0 C. – Độ ẩm không khí: Trung bình năm 75,5%, độ ẩm cao nhất: 79,8% (mùa mưa, tháng 10), độ ẩm thấp nhất: 70,8% (mùa khô, tháng 1). – Bốc hơi nước: Ninh Hải có lượng bốc hơi nước rất lớn, trung bình nhiều năm 1.827 mm. Trong nhiều năm có đến 9 – 12 tháng lượng bốc hơi trên 100 mm/tháng. – Mưa: Lượng mưa bình quân nhiều năm là 1.153,3 mm, số ngày mưa khoảng 69,5 ngày. Mùa mưa kéo dài 3 tháng từ tháng 9 đến tháng 11. – Chế độ gió, bão: Tốc độ gió trung bình 2,3 m/s; hướng gió chính thường xuất hiện trong nhiều tháng là Tây – Bắc và Đông – Nam. Bão ít xuất hiện, với cường độ không lớn. Nhìn chung trên địa bàn huyện Ninh Hải có nền nhiệt độ cao quanh năm và ít biến động, hầu như không có mùa đông lạnh (trừ vùng núi cao trên 1.000 m). 4. Thuỷ văn: Hệ thống sông ngòi huyện Ninh Hải phần lớn các suối có lưu vực nhỏ, hẹp và ngắn, vùng đầu nguồn chủ yếu là rừng thưa, rừng nghèo, đất chưa sử dụng nên nguồn nước chưa được phong phú. Nhiều suối mùa khô không có nước, trên các suối này đã xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi (đập dâng) để khai thác nguồn nước tưới cho cây trồng, cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp, bao gồm các suối: – Kênh Bắc và hệ thống Nha Trinh, Lâm Cấm: Bắt nguồn từ sông Cái Phan Rang, chiều dài chảy trên địa bàn huyện là 32 km, tưới chủ động 2.500 ha đất canh tác. Tổng khối lượng nước là 26,50 triệu m 3 . – Suối Đồng Nha: bắt nguồn từ sườn phía Tây Nam núi Chúa chảy xuống đầm Nại, diện tích lưu vực 8,5 km 2 , chiều dài suối 7,5 km. Trên suối này đã xây dựng các đập dâng: cây Sung, Tà Lốc. – Suối Ông Kinh: bắt nguồn từ sườn phía Đông Nam núi Chúa chảy xuống Biển Đông, diện tích lưu vực 58 km 2 , chiều dài suối 15 km. Trên suối này đã xây dựng hồ chứa nước Ông Kinh, diện tích tưới thiết kế 120 ha. – Suối Nước Ngọt: bắt nguồn từ sườn phía Đông Bắc núi Chúa chảy xuống Biển Đông, diện tích lưu vực 35,5 km 2 , chiều dài suối 7 km. Trên suối này đã xây dựng hồ suối nước ngọt và các đập dâng như: Đá Hang, Am Dú, Nước Ngọt, Thái An để tưới cho đất trồng cây màu. Thực hiện: Hà Tiên Nguồn: Phòng VHTT
General introduction of Ninh Hai district Ninh Hai is the northeastern gateway of Phan Rang - Thap Cham city, relatively convenient in terms of traffic: National Highway 1A, DT.702, DT.704 and DT.705 connect the northern districts of the province with the city. Phan Rang - Thap Cham street; In addition, Ninh Hai also has a 58 km coastline with Vinh Hy Bay and many beautiful coves and beaches; There is a fishing port, industrial salt production area, Nui Chua National Park... so Ninh Hai has an important position in economic development, environmental protection and national defense and security for the region. Ninh Thuan province . 2. Terrain and geomorphology: Ninh Hai district has quite complex terrain, gradually lowering from North to South and from West to East. The terrain has a transitional form of midland and mountainous terrain, divided into the following 3 main terrain types: – High mountain terrain: includes granite, dacite, sand schist mountains, high elevations, often very steep and with thin soil thickness, less likely to be used for agricultural production. This terrain type has an area of ​​10,554 hectares, accounting for 41.54% of the total area of ​​the district, with altitudes from 200 m to 1,000 m (Chua mountain range is 1,040 m high), concentratedly distributed in Vinh Hai commune. – Coastal hilly terrain: Concentrated in the East and South of the district, including communes: Thanh Hai, Nhon Hai, Tri Hai and part of Khanh Hai town. This terrain type is typical for the entire district, with an area of ​​10,731 hectares, accounting for 42.28% of the total area of ​​the district. The soil type is mainly sandy to sandy soil, at an altitude of less than 200 m, forming a long and narrow range along the coast. – Plain terrain: most of the land has elevations from 10 m to 30 m, relatively flat terrain, sloping from Northwest to Southeast and gradually sloping to the sea: including Tan Hai and Ho Hai communes. , Xuan Hai, Phuong Hai and part of Khanh Hai town. This terrain type has an area of ​​4,107 hectares, accounting for 16.18% of the total area of ​​the district. The main soil types are alluvial soil, gray soil, saline soil, sandy soil; The soil layer is 50 - 100 cm thick. This is the district's agricultural and aquaculture production area. In general, the terrain of Ninh Hai district is quite favorable for the development of integrated economy of agriculture - forestry - fishery, industry and tourism. 3. Climate: Ninh Hai district has a typical tropical monsoon climate, with the characteristics of being hot and dry, windy, and large evaporation. – Air temperature: Average annual temperature 27.2 0 C. Total annual heat 9,861.6 0 C. – Air humidity: Average annual humidity: 75.5%, highest humidity: 79.8% (rainy season, October), lowest humidity: 70.8% (dry season, January). – Water evaporation: Ninh Hai has a very large amount of water evaporation, an average of 1,827 mm per year. In many years, there are 9 - 12 months of evaporation above 100 mm/month. – Rain: The average rainfall over many years is 1,153.3 mm, the number of rainy days is about 69.5 days. The rainy season lasts 3 months from September to November. – Wind and storm regime: Average wind speed 2.3 m/s; The main wind directions that often appear in many months are West - North and East - South. Storms rarely appear, with not great intensity. In general, Ninh Hai district has high temperatures all year round with little fluctuation, with almost no cold winters (except in mountainous areas over 1,000 m high). 4. Hydrology: In the river system of Ninh Hai district, most of the streams have small, narrow and short basins. The watershed areas are mainly sparse forests, poor forests, unused land, so water sources are not abundant. Many streams in the dry season have no water. On these streams, many irrigation works (dams) have been built to exploit water sources for irrigation of crops, water supply for daily life and industry, including streams: – Bac Canal and Nha Trinh and Lam Cam system: Originating from Cai Phan Rang River, flowing length in the district is 32 km, actively irrigating 2,500 hectares of cultivated land. The total volume of water is 26.50 million m 3 . – Dong Nha Stream: originates from the southwest slope of Chua Mountain and flows down to Nai lagoon, basin area 8.5 km 2 , stream length 7.5 km. On this stream, weirs have been built: Sung tree and Ta Loc. – Ong Kinh Stream: originates from the southeast slope of Chua Mountain and flows down to the East Sea, basin area 58 km 2 , stream length 15 km. On this stream, Ong Kinh reservoir was built, with a designed irrigation area of ​​120 hectares. – Freshwater Stream: originates from the northeast slope of Chua Mountain and flows down to the East Sea, basin area 35.5 km 2 , stream length 7 km. On this stream, freshwater lakes and dams were built such as: Da Hang, Am Du, Nuoc Ngot, Thai An to irrigate land for growing crops. Perform: Ha Tien Source: Department of Culture and Sports
Giới thiệu khái quát huyện Ninh Sơn Các điều kiện tự nhiên 1. Vị trí địa lý. Huyện Ninh Sơn nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Ninh Thuận , cách thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 36 km, thành phố Đà Lạt 74 km, Cam Ranh 52 km, tổng diện tích tự nhiên 77.194 ha, chiếm 22,95% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Ranh giới hành chính huyện Ninh Sơn như sau: Phía Đông : giáp Thành phố Phan rang – Tháp Chàm. Phía Tây : giáp huyện Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng. Phía Nam : giáp huyện Ninh Phước. Phía Bắc : giáp huyện Bác Ái. Huyện Ninh Sơn nằm trên trục hành lang kinh tế – đô thị – quốc gia Quốc lộ 27, 27B, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, đặc biệt là công nghiệp, thương mại dịch vụ và du lịch. Khí hậu: Huyện Ninh Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới bán khô hạn điển hình nhất nước ta, với đặc điểm nổi bật là ít mưa, nắng nóng và bốc hơi nhiều. Nhiệt độ: Nhiệt độ không khí trung bình năm 27oC, nhiệt độ không khí trung bình cao nhất 32,6oC. Mưa: Lượng mưa trung bình/ năm 1.000 – 1200 mm. Mưa tập trung theo mùa và phân bố không đều giữa các tháng. Chủ yếu vào mùa mưa, chiếm tới 85 – 90% lượng mưa cả năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình/ năm 2500 – 2700 giờ. Tổng số giờ nắng trung bình/ ngày 6 – 8 giờ. Nhiệt độ cao, lượng ánh sáng nhiều, thời gian chiếu sáng dài và khá đồng đều giữa các tháng. Độ ẩm: Độ ẩm trung bình của không khí/ năm tương đối cao 75% Mùa mưa độ ẩm không khí thường cao hơn mùa khô từ 10 – 20%. Gió: Có hướng gió chủ đạo là gió mùa Đông Bắc (mùa khô), Đông Nam (mùa mưa). Bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình năm là 1.650 – 1.850 ml. Những tháng mùa khô có lượng bốc hơi cao nhất chiếm 77,12% tổng lượng bốc hơi cả năm. 2. Thủy văn. Mạng lưới thủy văn của huyện Ninh Sơn là hệ thống các sông suối chảy qua địa bàn huyện như sông Cái, sông Ông và các sông suối, kênh mương khác…đây là một trong những con sông lớn, lượng nước nhiều đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Tuy nhiên, phần lớn sông suối đều bắt nguồn từ núi cao độ dốc lớn, nguồn nước phân bố không đều, mùa mưa lưu lượng dòng chảy khá lớn dễ gây lũ; mùa khô lưu lượng dòng chảy thấp nên gây tình trạng thiếu nước phổ biến hằng năm. Các đặc trưng của thủy văn sông: Sông Cái: diện tích lưu vực F = 3000 km2 chiều dài sông: Ls = 119km, dòng chảy cũ tại trạm Tân Mỹ Qmax = 5210 m3/s. Sông Ông: lưu lượng mùa lũ kiệt: Qmax = 300m3/s và Qmin = 2m3/s. Địa chất công trình và địa chất thủy văn: Địa chất công trình: nền khu vực Ninh Sơn tương đối ổn định, có khả năng chịu lực tốt, tuy nhiên khi xây dựng cần khảo sát kỹ để có giải pháp nền móng hợp lý. Địa chất thủy văn: ít chịu ảnh hưởng của nước ngầm đến nền móng công trình. 3. Địa hình. Khu vực huyện Ninh Sơn hiện hữu mang đặc điểm địa hình đồi thấp, hình thành từ bậc chuyển tiếp đồng bằng lên núi cao, với 2 dạng địa hình chủ yếu; Dạng lượn sóng (3 – 80) và xen lẫn các đồi thấp (50 – 200m), độ dốc phổ biến (3 – 15o). Khu vực phạm vi nghiên cứu quy hoạch: Hướng dốc chính của địa hình từ phía Bắc, Tây Bắc xuống phía Đông và Đông Nam. Cao độ địa hình cụ thể: + Cao độ trung bình : +105m + Cao độ cao nhất : +600m + Cao độ thấp nhất : <50m, là khu vực ven sông, chiếm diện tích nhỏ. Nhìn chung khu vực địa hình phía Đông và Đông Nam thuận lợi cho xây dựng, riêng khu vực ven sông, suối nếu xây dựng phải tôn nền. 4. Tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan. a) Tài nguyên đất đai: Huyện Ninh Sơn có các nhóm đất chính sau: Nhóm đất phù sa: phân bố dọc theo các triền sông, suối lớn của thị trấn, nhóm đất này phù hợp với nhiều loại cây trồng đặc biệt là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm. Nhóm đất mới biến đổi: thường được phân bố ở những khu vực thuận lợi cho việc tưới tiêu nên phần lớn đã sử dụng trồng hoa màu, cây ăn quả, những nơi địa hình thấp được dùng sản xuất lúa 2 vụ hoặc luân canh lúa màu. Nhóm đất xám: phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau, từ dạng bằng thấp ven hợp thủy, các bậc thềm khá bằng phẳng các dạng đồi thấp thoải đến địa hình đồi và sườn núi, thích hợp trồng rừng, cây công nghiệp lâu năm, cây hoa màu và cây lương thực. Nhóm đất xám trên vùng bán khô hạn: hình thành từ sản phẩm phong hóa của đá macma acid hay mẫu chất phù sa cổ trong điều kiện khí hậu khô hạn kéo dài lương bốc hơi nhiều so với lượng nước mưa. Nhóm đất đỏ: thích hợp trồng các loại cây rau màu, cây ăn trái, cây công nghiệp ngắn ngày. b) Tài nguyên rừng: Tổng diện tích rừng trên 122,08 ha, chiếm 6,78% tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện, chủ yếu là rừng phòng hộ. Hầu hết rừng trên địa bàn thị trấn có họ lá rộng, họ dầu và nhiều loãi gỗ quý hiếm…do khai thác bừa bãi làm cho rừng nghèo kiệt, trữ lượng gỗ giảm xuống nhanh chóng. Vì vậy cần phải ổn định tổ chức sản xuất và khai thác lâm sản hợp lý tăng cường khoanh nuôi, chăm sóc, tu bổ bảo vệ rừng, đẩy nhanh trồng rừng phủ xanh đất trồng đồi núi trọc. c) Tài nguyên nước: Nước mặt: Nước mặt: với hệ thống sông chính là sông Cái và sông Ông, ngoài ra còn có sông suối nhỏ khác. Tuy nhiên việc khai thác nguồn nước này để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt còn hạn chế do địa hình phức tạp. Để khắc phục tình trạng này cần đầu tư xây dựng thêm các hồ chứa nước và đập, kênh mương là việc làm cần thiết. Nước ngầm: Nước ngầm: tồn tại dưới khe nứt và lỗ hổng trong đới phong hóa ở vùng đồi núi nước ngầm sâu. Hệ thống nước ngầm của thị trấn thấp nhưng chất lượng nước tốt, phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. e) Tài nguyên du lịch: huyện Ninh Sơn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch như khai thác nước khoáng, cảnh quan dọc sông Cái, sông Ông, có đập dâng Tân Mỹ thuận lợi phát triển du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí. huyện Ninh Sơn có một số dân cư chuyển đến từ khắp các vùng miền trong cả nước cùng chung sống hòa thuận, với những phong tục tập quán riêng đã tạo nên một nét độc đáo về bản sắc văn hóa riêng cho huyện. 5. Đánh giá chung điều kiện tự nhiên. a. Điểm mạnh: Vị trí cửa ngõ tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Lâm Đồng, kết nối TP. Đà Lạt và TP. Phan Rang Tháp Chàm. Nằm trên các trục hành lang kinh tế đô thị quan trọng quốc gia về đường bộ, đường sắt. Địa hình thoải lượn sóng tại khu vực đất xây dựng đô thị dọc quốc lộ 27, quốc lộ 27B thuận lợi xây dựng công trình. Ninh Sơn có cảnh quan tự nhiên sông, suối, đồi núi thuận lợi để phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa góp phần phát triển kinh tế. b. Hạn chế: Nằm cách xa đô thị trung tâm vùng TP . Phan Rang Tháp Chàm nên khả năng cạnh tranh và thu hút đầu tư bị hạn chế. Khí hậu, thời tiết diễn biến bất thường (Lũ lụt, nắng hạn), dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân . Huyện Ninh Sơn được Thành lập theo Nghị định số 84/2005/NĐ-CP của Chính phủ, trên cơ sở tách ra từ huyện An Sơn và chính thức đi vào hoạt động từ năm 1982. Là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Thuận, cách trung tâm Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 36 km, có tổng diện tích tự nhiên 77.194 ha, chiếm 22,95% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Toàn huyện có 07 xã và 01 thị trấn với 61 thôn, khu phố. Phát triển du lịch của huyện Ninh Sơn: Huyện có nhiều tiềm năng phát triển du lịch như khai thác nước khoáng, cảnh quan dọc sông Cái, sông Ông, có đập dâng Tân Mỹ thuận lợi phát triển du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí. Huyện Ninh Sơn có một số dân cư chuyển đến từ khắp các vùng miền trong cả nước cùng chung sống hòa thuận, với những phong tục tập quán riêng đã tạo nên một nét độc đáo về bản sắc văn hóa riêng cho huyện. Hướng phát triển Du lịch của huyện Ninh Sơn những năm tiếp theo: – Phấn đấu đến giai đoạn 2016 – 2020 xây dựng thị trấn Tân Sơn trở thành Đô thị loại 4, xây dựng trung tâm cụm xã Hòa Sơn thành Trung tâm huyện lỵ Ninh Sơn (sau khi thị trấn Tân Sơn phát triển thành Thị xã). – Đầu tư xây dựng các tuyến giao thông chính của huyện kết nối các vùng trọng điểm về kinh tế; nâng cấp các công trình thuỷ lợi trọng yếu như hồ Sông Than, hồ Tà Lâm, hồ Tà Nôi. Đầu tư xây hạ tầng kỹ thuật cho thị trấn Tân Sơn, trọng điểm là hệ thống giao thông đô thị, trung tâm thương mại huyện, nâng cấp chợ trung tâm huyện. Phát triển mạng lưới chợ ở các xã, trung tâm cụm xã. Đầu tư cơ sở hạ tầng cho cụm công nghiệp Quảng Sơn. – Phát triển du lịch và thương mại, nhanh chóng xúc tiến và đốc thúc các nhà đầu tư khai thác các khu du lịch sinh thái Suối nước nóng Hòn Bà, SaKai – Krôngpha, Suối Thương, Thác Tiên và một số điểm du lịch sinh thái khác. – Xây dựng nông thôn mới với mục đích là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc.
Giới thiệu khái quát huyện Ninh Sơn Các điều kiện tự nhiên 1. Vị trí địa lý. Huyện Ninh Sơn nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Ninh Thuận , cách thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 36 km, thành phố Đà Lạt 74 km, Cam Ranh 52 km, tổng diện tích tự nhiên 77.194 ha, chiếm 22,95% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Ranh giới hành chính huyện Ninh Sơn như sau: Phía Đông : giáp Thành phố Phan rang – Tháp Chàm. Phía Tây : giáp huyện Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng. Phía Nam : giáp huyện Ninh Phước. Phía Bắc : giáp huyện Bác Ái. Huyện Ninh Sơn nằm trên trục hành lang kinh tế – đô thị – quốc gia Quốc lộ 27, 27B, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, đặc biệt là công nghiệp, thương mại dịch vụ và du lịch. Khí hậu: Huyện Ninh Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới bán khô hạn điển hình nhất nước ta, với đặc điểm nổi bật là ít mưa, nắng nóng và bốc hơi nhiều. Nhiệt độ: Nhiệt độ không khí trung bình năm 27oC, nhiệt độ không khí trung bình cao nhất 32,6oC. Mưa: Lượng mưa trung bình/ năm 1.000 – 1200 mm. Mưa tập trung theo mùa và phân bố không đều giữa các tháng. Chủ yếu vào mùa mưa, chiếm tới 85 – 90% lượng mưa cả năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình/ năm 2500 – 2700 giờ. Tổng số giờ nắng trung bình/ ngày 6 – 8 giờ. Nhiệt độ cao, lượng ánh sáng nhiều, thời gian chiếu sáng dài và khá đồng đều giữa các tháng. Độ ẩm: Độ ẩm trung bình của không khí/ năm tương đối cao 75% Mùa mưa độ ẩm không khí thường cao hơn mùa khô từ 10 – 20%. Gió: Có hướng gió chủ đạo là gió mùa Đông Bắc (mùa khô), Đông Nam (mùa mưa). Bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình năm là 1.650 – 1.850 ml. Những tháng mùa khô có lượng bốc hơi cao nhất chiếm 77,12% tổng lượng bốc hơi cả năm. 2. Thủy văn. Mạng lưới thủy văn của huyện Ninh Sơn là hệ thống các sông suối chảy qua địa bàn huyện như sông Cái, sông Ông và các sông suối, kênh mương khác…đây là một trong những con sông lớn, lượng nước nhiều đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Tuy nhiên, phần lớn sông suối đều bắt nguồn từ núi cao độ dốc lớn, nguồn nước phân bố không đều, mùa mưa lưu lượng dòng chảy khá lớn dễ gây lũ; mùa khô lưu lượng dòng chảy thấp nên gây tình trạng thiếu nước phổ biến hằng năm. Các đặc trưng của thủy văn sông: Sông Cái: diện tích lưu vực F = 3000 km2 chiều dài sông: Ls = 119km, dòng chảy cũ tại trạm Tân Mỹ Qmax = 5210 m3/s. Sông Ông: lưu lượng mùa lũ kiệt: Qmax = 300m3/s và Qmin = 2m3/s. Địa chất công trình và địa chất thủy văn: Địa chất công trình: nền khu vực Ninh Sơn tương đối ổn định, có khả năng chịu lực tốt, tuy nhiên khi xây dựng cần khảo sát kỹ để có giải pháp nền móng hợp lý. Địa chất thủy văn: ít chịu ảnh hưởng của nước ngầm đến nền móng công trình. 3. Địa hình. Khu vực huyện Ninh Sơn hiện hữu mang đặc điểm địa hình đồi thấp, hình thành từ bậc chuyển tiếp đồng bằng lên núi cao, với 2 dạng địa hình chủ yếu; Dạng lượn sóng (3 – 80) và xen lẫn các đồi thấp (50 – 200m), độ dốc phổ biến (3 – 15o). Khu vực phạm vi nghiên cứu quy hoạch: Hướng dốc chính của địa hình từ phía Bắc, Tây Bắc xuống phía Đông và Đông Nam. Cao độ địa hình cụ thể: + Cao độ trung bình : +105m + Cao độ cao nhất : +600m + Cao độ thấp nhất : <50m, là khu vực ven sông, chiếm diện tích nhỏ. Nhìn chung khu vực địa hình phía Đông và Đông Nam thuận lợi cho xây dựng, riêng khu vực ven sông, suối nếu xây dựng phải tôn nền. 4. Tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan. a) Tài nguyên đất đai: Huyện Ninh Sơn có các nhóm đất chính sau: Nhóm đất phù sa: phân bố dọc theo các triền sông, suối lớn của thị trấn, nhóm đất này phù hợp với nhiều loại cây trồng đặc biệt là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm. Nhóm đất mới biến đổi: thường được phân bố ở những khu vực thuận lợi cho việc tưới tiêu nên phần lớn đã sử dụng trồng hoa màu, cây ăn quả, những nơi địa hình thấp được dùng sản xuất lúa 2 vụ hoặc luân canh lúa màu. Nhóm đất xám: phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau, từ dạng bằng thấp ven hợp thủy, các bậc thềm khá bằng phẳng các dạng đồi thấp thoải đến địa hình đồi và sườn núi, thích hợp trồng rừng, cây công nghiệp lâu năm, cây hoa màu và cây lương thực. Nhóm đất xám trên vùng bán khô hạn: hình thành từ sản phẩm phong hóa của đá macma acid hay mẫu chất phù sa cổ trong điều kiện khí hậu khô hạn kéo dài lương bốc hơi nhiều so với lượng nước mưa. Nhóm đất đỏ: thích hợp trồng các loại cây rau màu, cây ăn trái, cây công nghiệp ngắn ngày. b) Tài nguyên rừng: Tổng diện tích rừng trên 122,08 ha, chiếm 6,78% tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện, chủ yếu là rừng phòng hộ. Hầu hết rừng trên địa bàn thị trấn có họ lá rộng, họ dầu và nhiều loãi gỗ quý hiếm…do khai thác bừa bãi làm cho rừng nghèo kiệt, trữ lượng gỗ giảm xuống nhanh chóng. Vì vậy cần phải ổn định tổ chức sản xuất và khai thác lâm sản hợp lý tăng cường khoanh nuôi, chăm sóc, tu bổ bảo vệ rừng, đẩy nhanh trồng rừng phủ xanh đất trồng đồi núi trọc. c) Tài nguyên nước: Nước mặt: Nước mặt: với hệ thống sông chính là sông Cái và sông Ông, ngoài ra còn có sông suối nhỏ khác. Tuy nhiên việc khai thác nguồn nước này để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt còn hạn chế do địa hình phức tạp. Để khắc phục tình trạng này cần đầu tư xây dựng thêm các hồ chứa nước và đập, kênh mương là việc làm cần thiết. Nước ngầm: Nước ngầm: tồn tại dưới khe nứt và lỗ hổng trong đới phong hóa ở vùng đồi núi nước ngầm sâu. Hệ thống nước ngầm của thị trấn thấp nhưng chất lượng nước tốt, phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. e) Tài nguyên du lịch: huyện Ninh Sơn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch như khai thác nước khoáng, cảnh quan dọc sông Cái, sông Ông, có đập dâng Tân Mỹ thuận lợi phát triển du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí. huyện Ninh Sơn có một số dân cư chuyển đến từ khắp các vùng miền trong cả nước cùng chung sống hòa thuận, với những phong tục tập quán riêng đã tạo nên một nét độc đáo về bản sắc văn hóa riêng cho huyện. 5. Đánh giá chung điều kiện tự nhiên. a. Điểm mạnh: Vị trí cửa ngõ tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Lâm Đồng, kết nối TP. Đà Lạt và TP. Phan Rang Tháp Chàm. Nằm trên các trục hành lang kinh tế đô thị quan trọng quốc gia về đường bộ, đường sắt. Địa hình thoải lượn sóng tại khu vực đất xây dựng đô thị dọc quốc lộ 27, quốc lộ 27B thuận lợi xây dựng công trình. Ninh Sơn có cảnh quan tự nhiên sông, suối, đồi núi thuận lợi để phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa góp phần phát triển kinh tế. b. Hạn chế: Nằm cách xa đô thị trung tâm vùng TP . Phan Rang Tháp Chàm nên khả năng cạnh tranh và thu hút đầu tư bị hạn chế. Khí hậu, thời tiết diễn biến bất thường (Lũ lụt, nắng hạn), dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân . Huyện Ninh Sơn được Thành lập theo Nghị định số 84/2005/NĐ-CP của Chính phủ, trên cơ sở tách ra từ huyện An Sơn và chính thức đi vào hoạt động từ năm 1982. Là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Thuận, cách trung tâm Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 36 km, có tổng diện tích tự nhiên 77.194 ha, chiếm 22,95% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Toàn huyện có 07 xã và 01 thị trấn với 61 thôn, khu phố. Phát triển du lịch của huyện Ninh Sơn: Huyện có nhiều tiềm năng phát triển du lịch như khai thác nước khoáng, cảnh quan dọc sông Cái, sông Ông, có đập dâng Tân Mỹ thuận lợi phát triển du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí. Huyện Ninh Sơn có một số dân cư chuyển đến từ khắp các vùng miền trong cả nước cùng chung sống hòa thuận, với những phong tục tập quán riêng đã tạo nên một nét độc đáo về bản sắc văn hóa riêng cho huyện. Hướng phát triển Du lịch của huyện Ninh Sơn những năm tiếp theo: – Phấn đấu đến giai đoạn 2016 – 2020 xây dựng thị trấn Tân Sơn trở thành Đô thị loại 4, xây dựng trung tâm cụm xã Hòa Sơn thành Trung tâm huyện lỵ Ninh Sơn (sau khi thị trấn Tân Sơn phát triển thành Thị xã). – Đầu tư xây dựng các tuyến giao thông chính của huyện kết nối các vùng trọng điểm về kinh tế; nâng cấp các công trình thuỷ lợi trọng yếu như hồ Sông Than, hồ Tà Lâm, hồ Tà Nôi. Đầu tư xây hạ tầng kỹ thuật cho thị trấn Tân Sơn, trọng điểm là hệ thống giao thông đô thị, trung tâm thương mại huyện, nâng cấp chợ trung tâm huyện. Phát triển mạng lưới chợ ở các xã, trung tâm cụm xã. Đầu tư cơ sở hạ tầng cho cụm công nghiệp Quảng Sơn. – Phát triển du lịch và thương mại, nhanh chóng xúc tiến và đốc thúc các nhà đầu tư khai thác các khu du lịch sinh thái Suối nước nóng Hòn Bà, SaKai – Krôngpha, Suối Thương, Thác Tiên và một số điểm du lịch sinh thái khác. – Xây dựng nông thôn mới với mục đích là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc.
Giới thiệu khái quát huyện Bác Ái 2. Vị trí địa lý: Bác Ái là huyện miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Thuận, cách thành phố Phan Rang khoảng 50 km. Phía Đông giáp huyện Ninh Hải; phíaTây giáp huyện Ninh Sơn; phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa và Lâm Đồng; phía Nam giáp thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và hai huyện Ninh Hải và Ninh Sơn. 3. Đơn vị hành chính: Huyện có 9 đơn vị hành chính cấp xã, gồm các xã Phước Đại, Phước Thành, Phước Chính, Phước Trung, Phước Thắng, Phước Tiến, Phước Tân, Phước Hoà và Phước Bình. Trung tâm huyện lỵ nằm tại xã Phước Đại. 4 . Đặc điểm địa hình : Thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, phía Đông Bắc khống chế bởi đỉnh núi cao ở ranh giới tỉnh Khánh Hòa là núi Ma Nai (1.637m) ở ranh giới huyện Thuận Bắc là núi Tà Năng (1.451m), lùi sâu vào huyện là núi Ya Bô (1.220m), phía Tây trên đường ranh giới với huyện Ninh Sơn là núi Chuẩn (1.645m). Diện tích đất tự nhiên 102.729,48 ha, chiếm 30,57% diện tích của tỉnh. Đất nông nghiệp chiếm 92,9%, bao gồm đất lâm nghiệp 81.795ha (chiếm 79,6%), đất sản xuất nông nghiệp 13.650ha (13,3%). 5. Dân số: Tính đến năm 2014 toàn huyện có 6.536 hộ với 28.486 nhân khẩu, chủ yếu là đồng bào dân tộc Raglai (chiếm trên 90%). Mật độ dân số: 29 người/km 2 . 6. Sông ngòi: Các sông ngòi của huyện Bác Ái đều là sông nhánh hoặc chi lưu của thượng nguồn Sông Cái, có 3 con sông chính, bao gồm: – Sông Cái: Bắt nguồn từ sườn đông của dãy núi Giarít, có chiều dài 119km, tổng diện tích lưu vực 3.000 km 2 . – Sông Trà Co: Bắt nguồn từ phía tây dãy núi Marai, chiều dài sông chính 25km, diện tích lưu vực 154km 2 . – Sông Sắt: bắt nguồn từ dãy núi Hà Lá Thượng, chiều dài sông chính 32km, diện tích lưu vực 411km 2 . Trên địa bàn huyện có 02 hồ thuỷ lợi lớn: Hồ Sông Sắt dung tích 69 triệu m 3 , hồ Trà Co dung tích hơn 05 triệu m 3 phục vụ sản xuất cho hơn 5.000 ha. Ngoài ra đang triển khai thi công dự án công trình thuỷ lợi hồ Tân Mỹ xã Phước Hòa với dung tích trên 200 triệu m 3 …
General introduction of Bac Ai district 2. Geographical location: Bac Ai is a mountainous district, Located in the northwest of Ninh Thuan province, about 50 km from Phan Rang city. The East borders Ninh Hai district; The West borders Ninh Son district; The North borders Khanh Hoa and Lam Dong provinces; The south borders Phan Rang - Thap Cham city and two districts of Ninh Hai and Ninh Son. 3. Administrative unit: The district has 9 commune-level administrative units, including Phuoc Dai, Phuoc Thanh, Phuoc Chinh, Phuoc Trung, Phuoc Thang, Phuoc Tien, Phuoc Tan, Phuoc Hoa and Phuoc Binh communes. The district center is located in Phuoc Dai commune. 4 . Topographic characteristics : Gradually lowering in the Northwest - Southeast direction, the Northeast is controlled by a high mountain peak at the border of Khanh Hoa province, Ma Nai mountain (1,637m), at the border of Thuan Bac district is Ta Nang mountain (1,451m), receding deeply. Entering the district is Ya Bo mountain (1,220m), to the west on the boundary with Ninh Son district is Chuan mountain (1,645m). Natural land area is 102,729.48 hectares, accounting for 30.57% of the province's area. Agricultural land accounts for 92.9%, including 81,795ha of forestry land (79.6%), 13,650ha of agricultural land (13.3%). 5. Population: As of 2014, the whole district has 6,536 households with 28,486 people, mainly Raglai ethnic people (accounting for over 90%). Population density: 29 people/km 2 . 6. Rivers: The rivers of Bac Ai district are all tributaries or tributaries of the Cai River upstream, there are 3 main rivers, including: – Cai River: Originates from the eastern slope of the Giarit mountain range, has a length of 119km, total basin area of ​​3,000 km2 2 . – Tra Co River: Originating from the west of the Marai Mountains, main river length 25km, basin area 154km 2 . – Sat River: originates from the Ha La Thuong mountain range, main river length is 32km, basin area 411km 2 . There are 02 large irrigation lakes in the district: Song Sat Lake with a capacity of 69 million m3 3 , Tra Co lake has a capacity of more than 05 million m3 3 Serving production for more than 5,000 hectares. In addition, the construction of Tan My Lake irrigation project in Phuoc Hoa commune is underway with a capacity of over 200 million m3. 3 …
Giới thiệu khái quát huyện Ninh Phước Vị trí địa lí Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Ninh Sơn Phía Đông Bắc giáp thành phố Phan Rang – Tháp Chàm Phía Nam và Tây Nam giáp huyện Thuận Nam Phía Đông giáp biển Đông. Diện tích, dân số Diện tích: 341,0337 km. Dân số: 135.146 người. Ninh Phước hội tụ cả ba điều kiện địa lí: có núi, sông, biển và cả đồng bằng. Tuy nhiên nền kinh tế Ninh Phước chưa được phát triển, là một huyện nằm ở hạ lưu dòng sông Dinh nên thường xuyên bị ngập lụt vào khoảng tháng 10 – 11 hằng năm. Nền nông nghiệp chủ yếu của Ninh Phước là trồng nho, tuy nhiên trong vài năm gần đây có vài thay đổi trong canh tác nông nghiệp. Người dân dần dần chuyển qua các hình thức canh tác khác như trồng táo và thanh long. Làng Bàu Trúc ở Ninh Phước nổi tiếng cả nước với nghề truyền thống gốm Bàu Trúc. Làng Mỹ Nghiệp có nghề truyền thống là dệt thổ cẩm. Ngoài ra huyện Ninh Phước còn có món ăn đặc sắc là canh dưa hồng và một số món ăn được chế viến từ con dông. Huyện Ninh Phước có vị trí giao thương quan trọng không chỉ riêng với huyện mà còn là một trong những vùng thuộc tỉnh Ninh Thuận có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội. Điều đó được thể hiện rõ nét với hệ thống giao thông liên khu vực hết sức thuận lợi với sự hiện diện của Quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc Nam đi ngang qua địa bàn huyện, việc thông thương với vùng cao nguyên Di Linh, Lâm Viên và ra các tỉnh phía Bắc hoàn toàn thuận lợi. Với hệ thống giao thông liên vùng, liên khu vực hiện hữu đã tạo cho huyện các điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng.
General introduction of Ninh Phuoc district Geographic location The North and Northwest border Ninh Son district The Northeast borders Phan Rang - Thap Cham city The South and Southwest border Thuan Nam district East sea bordering the east. Area, population Area: 341.0337 km. Population: 135,146 people. Ninh Phuoc converges all three geographical conditions: mountains, rivers, sea and plains. However, Ninh Phuoc's economy is not yet developed. It is a district located downstream of the Dinh River, so it is often flooded around October - November every year. Ninh Phuoc's main agriculture is grape growing, however in recent years there have been some changes in agricultural cultivation. People gradually switched to other forms of farming such as growing apples and dragon fruits. Bau Truc village in Ninh Phuoc is famous nationwide for its traditional craft of Bau Truc pottery. My Nghiep village has a traditional profession of brocade weaving. In addition, Ninh Phuoc district also has a special dish: pink melon soup and some dishes made from dragon fruit. Ninh Phuoc district has an important trade position not only for the district but also one of the regions in Ninh Thuan province with great potential for economic and social development. That is clearly shown with the extremely convenient inter-regional transportation system with the presence of National Highway 1A and the North-South railway line passing through the district, trade with the Di Linh plateau, Lam Vien and going to the northern provinces are completely convenient. With the existing inter-regional and inter-regional transportation system, the district has created extremely favorable conditions for economic - cultural - social development and maintaining national security and defense.
Giới thiệu khái quát thành phố Phan Rang-Tháp Chàm Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận ; đồng thời là đô thị hạt nhân kết nối các huyện trong tỉnh và các tỉnh khác, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội. I. Điều kiện tự nhiên: 1. Vị trí địa lý Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là đô thị đồng bằng ven biển nam trung bộ, có tọa độ địa lý từ 11 0 31’32’’ đến 11 0 40’08’’ Vĩ độ Bắc, từ 108 0 54’50’’ đến 108 0 03’26’’ Kinh độ Đông; Diện tích tự nhiên 79,38 km 2 , có 16 đơn vị hành chính gồm 15 phuờng và 01 xã, với dân số toàn thành phố khoảng 161.150 người; phía Bắc giáp huyện Ninh Hải, phía Nam giáp huyện Ninh Phước, phía Tây giáp huyện Ninh Sơn – Bác Ái, phía Đông giáp biển Đông. Có vị trí là đầu mối tại khu vực ngã ba giữa trục giao thông quốc lộ 1A với quốc lộ 27 đi Đà Lạt, đồng thời có tuyến đường sắt thống nhất Bắc – Nam đi qua ga Tháp Chàm, rất thuận lợi cho vận chuyển hành khách và hàng hoá bằng đường bộ và đường sắt, cách cảng biển và cảng hàng không Quốc tế Cam Ranh 60km và Thành phố Nha Trang 100km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 350 km về phía Nam, cách thành phố Đà Lạt 110 km về phía Tây, hình thành tam giác phát triển Đà Lạt- Phan Rang- Nha Trang. Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận; đồng thời là đô thị hạt nhân kết nối các huyện trong tỉnh và các tỉnh khác, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội. 2. Đặc điểm địa hình – Khí hậu : Địa hình và đất đai tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 3m-5m so với mặt nước biển, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có khí hậu nhiệt đới gió mùa với đặc trưng gió nhiều và khô nóng, nhiệt độ cao quanh năm, trung bình 27 0 C- 32 0 C, số giờ nắng 2.500-3.000 giờ; lượng mưa trung bình 900-1100mm/năm; chế độ gió theo 2 hướng: Đông Bắc và Tây Nam, tốc độ trung bình 2,7m/s. Thời tiết có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Với khí hậu đặc trưng khô nắng quanh năm, Phan Rang-Tháp Chàm sẽ là điều kiện tốt để phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng kết hợp các loại hình giải trí trên biển, trên không; thuận lợi phát triển sản xuất nông nghiệp với các đặc sản của địa phương như nho, hành, tỏi,… phát triển chăn nuôi gia súc như bò, dê, cừu,… 3. Tài nguyên – Thiên nhiên Tài nguyên biển: Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có bờ biển dài 8km, bờ biển có độ dốc thấp, mực nước nông, bãi cát rộng, nước biển trong xanh… Bãi biển Bình Sơn-Ninh Chữ được đánh giá là một trong những bãi tắm đẹp của cả nước và rất thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Bờ biển và cảnh quan thiên nhiên của Thành phố có nhiều thuận lợi để phát triển du lịch, trên suốt chiều dài bờ biển có thể xây dựng nhiều khu du lịch. Từ các khu du lịch ven biển, có thể phát triển nhiều tuyến du lịch đi trong và ngoài tỉnh, đặc biệt là tuyến đi Nha Trang, Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh. Cửa biển Đông Hải của Thành phố gắn liền với ngư trường biển tỉnh Ninh Thuận là một trong những ngư trường lớn của cả nước. Cảng cá Đông Hải sẽ nâng cấp thành trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá của tỉnh, cung ứng các dịch vụ hậu cần cho khai thác, thu mua, chế biến và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến hải sản. Hiện nay tỉnh đang đầu tư tuyến đường ven biển nối liền từ điểm đầu phía Bắc đến phía Nam tỉnh (đi qua khu vực có 2 nhà máy điện hạt nhân), đoạn qua Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có dự án cầu An Đông, dự án này sẽ là lợi thế rất lớn thu hút các nhà đầu tư phát triển kinh tế biển trên địa bàn Thành phố. Tài nguyên nước: Nguồn nước cung cấp cho thành phố chủ yếu là nước mặt, nước ngầm; nước mặt từ nguồn nước Sông Dinh (chiều dài chạy qua 16 km), có đập Nha Trinh, Lâm Cấm và hệ thống xả nước của nhà máy thủy điện Đa Nhim có lưu lượng trung bình 47 m 3 /s. Hệ thống cấp nước của nhà máy nước Phan Rang và Tháp Chàm đã được đầu tư nâng cấp hiện đại với công suất 52.000m 3 /ngàyđêm, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cung cấp nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn thành phố; Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đang được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh. Tài nguyên đất đai: Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có diện tích tự nhiên 7.938ha, trong đó đất nông nghiệp 2.644ha, đất phi nông nghiệp 5.233 ha, trong đó đất để phát triển mở rộng các khu dân cư đô thị trên 1.500 ha; với địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 3-5m so với mặt nước biển. Đặc điểm đất đai và địa hình cơ bản thuận lợi cho phát triển sản xuất, đặc biệt là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và mở rộng không gian đô thị. Trong thời gian tới Thành phố dự kiến phát triển các khu đô thị mới như: khu dân cư Tây-Tây bắc, khu dân cư Đông bắc (K1, K2), khu dân cư bắc Trần Phú, Khu Đô thị sinh thái (Đông Văn Sơn),…từ các nguồn vốn như: vốn ngân sách, vốn kêu gọi đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Một số tài nguyên khác như cát, sỏi xây dựng được khai thác từ lòng sông Dinh, với trữ lượng 1 triệu m 3 /năm; cung ứng đủ vật liệu cho các công trình xây dựng và các nhà máy sản xuất cấu kiện bê tông (trụ điện, gạch lát, cống, dầm cầu,…). Cơ sở hạ tầng 1. Mạng lưới giao thông : Đường sắt : Có tuyến đường sắt Bắc – Nam đi qua thành phố Phan Rang-Tháp Chàm; có ga Tháp Chàm cách trung tâm Thành phố 05 km về hướng tây là một trong những ga quan trọng trong hệ thống ga của ngành đường sắt Việt Nam, là trạm dừng của tất cả các chuyến tàu qua thành phố; định hướng phục hồi tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt trước đây nhằm phục vụ cho lưu thông hàng hóa và phát triển du lịch. Đường Hàng không, đường biển: Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cách cảng hàng không Quốc tế và cảng biển Cam Ranh khoảng 60km về hướng Bắc, hiện nay Chính phủ đã có chủ trương đầu tư tuyến đường bộ cao tốc từ thành phố Phan Rang-Tháp Chàm đi sân bay Cam Ranh. Với hệ thống giao thông thuận lợi như hiện nay, các nhà đầu tư, du khách trong và ngoài nước có thể đến thành phố Phan Rang-Tháp Chàm bằng đường sắt, đường bộ và đường hàng không; nhà đầu tư có thể lựa chọn nhiều hình thức để vận chuyển hàng hóa đi trong và ngoài nước. Đặc biệt từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương trong nước có thể đến thành phố và về trong ngày. 2. Hệ thống thông tin, liên lạc : Mạng lưới bưu chính – viễn thông không ngừng được đầu tư nâng cấp hiện đại, nối mạng với hệ thống thông tin quốc gia và Quốc tế; các dịch vụ điện thoại di động, internet đựơc sử dụng rộng rãi, đảm bảo nhu cầu về thông tin liên lạc của nhà đầu tư và du khách. Các khu dân cư, khu kinh tế, khu công nghiệp được nối thông với hệ thống thông tin liên lạc; trên địa bàn thành phố có nhiều thành phần kinh tế cung ứng dịch vụ viễn thông, giúp cho các nhà đầu có nhiều sự lựa chọn để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt. 3. Điện năng : Hệ thống điện được cung cấp ổn định từ nhà máy thủy điện Đa Nhim và lưới điện quốc gia 500KV; hệ thống mạng lưới cung cấp điện của thành phố đã được đầu tư nâng cấp tương đối hoàn chỉnh; điện lưới Quốc gia được đảm bảo đưa đến các khu dân cư, khu du lịch, khu công nghiệp,… cung cấp đủ nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt và sản xuất cho nhân dân thành phố và các nhà đầu tư. 4. Các dịch vụ khác : Hệ thống các ngân hàng thương mại đều đã có chi nhánh tại Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm và gần các khu dân cư, khu du lịch, khu công nghiệp bảo đảm đủ các nhu cầu giao dịch về tài chính – tín dụng. Dịch vụ vận tải phát triển ngày càng đa dạng, vận tải hành khách bằng đường bộ đi các tỉnh trong cả nước ngày càng đáp ứng được nhu cầu khách hàng theo hướng văn minh hiện đại, hệ thống dịch vụ xe Buýt, taxi phát triển mạnh, giao thông đường sắt ngày càng phát triển phục vụ cho nhà đầu tư và du khách mọi lúc, mọi nơi. Dịch vụ du lịch: Hệ thống các khách sạn, resort trên địa bàn thành phố không ngừng phát triển. Hiện nay trên địa bàn thành phố đã có 15 khách sạn với tổng số phòng là 1.005 phòng; có khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng và tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo quy mô toàn tỉnh và toàn quốc. Bên cạnh đó, ngay khu vực giáp ranh với thành phố có nhiều cơ sở khách sạn đảm bảo nhu cầu lưu trú của du khách trong đó có Khách sạn Sài Gòn – Ninh Chữ đạt tiêu chuẩn 4 sao cách trung tâm thành phố 4 km, đáp ứng được nhu cầu tổ chức các Hôi nghị, hội thảo của các nhà đầu tư. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ đa dạng, có khoảng 1.800 nhà hàng và cơ sở dịch vụ đáp ứng được các nhu cầu về ẩm thực của du khách, các nhà đầu tư.
Giới thiệu khái quát thành phố Phan Rang-Tháp Chàm Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận ; đồng thời là đô thị hạt nhân kết nối các huyện trong tỉnh và các tỉnh khác, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội. I. Điều kiện tự nhiên: 1. Vị trí địa lý Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là đô thị đồng bằng ven biển nam trung bộ, có tọa độ địa lý từ 11 0 31’32’’ đến 11 0 40’08’’ Vĩ độ Bắc, từ 108 0 54’50’’ đến 108 0 03’26’’ Kinh độ Đông; Diện tích tự nhiên 79,38 km 2 , có 16 đơn vị hành chính gồm 15 phuờng và 01 xã, với dân số toàn thành phố khoảng 161.150 người; phía Bắc giáp huyện Ninh Hải, phía Nam giáp huyện Ninh Phước, phía Tây giáp huyện Ninh Sơn – Bác Ái, phía Đông giáp biển Đông. Có vị trí là đầu mối tại khu vực ngã ba giữa trục giao thông quốc lộ 1A với quốc lộ 27 đi Đà Lạt, đồng thời có tuyến đường sắt thống nhất Bắc – Nam đi qua ga Tháp Chàm, rất thuận lợi cho vận chuyển hành khách và hàng hoá bằng đường bộ và đường sắt, cách cảng biển và cảng hàng không Quốc tế Cam Ranh 60km và Thành phố Nha Trang 100km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 350 km về phía Nam, cách thành phố Đà Lạt 110 km về phía Tây, hình thành tam giác phát triển Đà Lạt- Phan Rang- Nha Trang. Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh Ninh Thuận; đồng thời là đô thị hạt nhân kết nối các huyện trong tỉnh và các tỉnh khác, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội. 2. Đặc điểm địa hình – Khí hậu : Địa hình và đất đai tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 3m-5m so với mặt nước biển, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có khí hậu nhiệt đới gió mùa với đặc trưng gió nhiều và khô nóng, nhiệt độ cao quanh năm, trung bình 27 0 C- 32 0 C, số giờ nắng 2.500-3.000 giờ; lượng mưa trung bình 900-1100mm/năm; chế độ gió theo 2 hướng: Đông Bắc và Tây Nam, tốc độ trung bình 2,7m/s. Thời tiết có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Với khí hậu đặc trưng khô nắng quanh năm, Phan Rang-Tháp Chàm sẽ là điều kiện tốt để phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng kết hợp các loại hình giải trí trên biển, trên không; thuận lợi phát triển sản xuất nông nghiệp với các đặc sản của địa phương như nho, hành, tỏi,… phát triển chăn nuôi gia súc như bò, dê, cừu,… 3. Tài nguyên – Thiên nhiên Tài nguyên biển: Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có bờ biển dài 8km, bờ biển có độ dốc thấp, mực nước nông, bãi cát rộng, nước biển trong xanh… Bãi biển Bình Sơn-Ninh Chữ được đánh giá là một trong những bãi tắm đẹp của cả nước và rất thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Bờ biển và cảnh quan thiên nhiên của Thành phố có nhiều thuận lợi để phát triển du lịch, trên suốt chiều dài bờ biển có thể xây dựng nhiều khu du lịch. Từ các khu du lịch ven biển, có thể phát triển nhiều tuyến du lịch đi trong và ngoài tỉnh, đặc biệt là tuyến đi Nha Trang, Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh. Cửa biển Đông Hải của Thành phố gắn liền với ngư trường biển tỉnh Ninh Thuận là một trong những ngư trường lớn của cả nước. Cảng cá Đông Hải sẽ nâng cấp thành trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá của tỉnh, cung ứng các dịch vụ hậu cần cho khai thác, thu mua, chế biến và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến hải sản. Hiện nay tỉnh đang đầu tư tuyến đường ven biển nối liền từ điểm đầu phía Bắc đến phía Nam tỉnh (đi qua khu vực có 2 nhà máy điện hạt nhân), đoạn qua Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có dự án cầu An Đông, dự án này sẽ là lợi thế rất lớn thu hút các nhà đầu tư phát triển kinh tế biển trên địa bàn Thành phố. Tài nguyên nước: Nguồn nước cung cấp cho thành phố chủ yếu là nước mặt, nước ngầm; nước mặt từ nguồn nước Sông Dinh (chiều dài chạy qua 16 km), có đập Nha Trinh, Lâm Cấm và hệ thống xả nước của nhà máy thủy điện Đa Nhim có lưu lượng trung bình 47 m 3 /s. Hệ thống cấp nước của nhà máy nước Phan Rang và Tháp Chàm đã được đầu tư nâng cấp hiện đại với công suất 52.000m 3 /ngàyđêm, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cung cấp nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn thành phố; Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đang được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh. Tài nguyên đất đai: Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có diện tích tự nhiên 7.938ha, trong đó đất nông nghiệp 2.644ha, đất phi nông nghiệp 5.233 ha, trong đó đất để phát triển mở rộng các khu dân cư đô thị trên 1.500 ha; với địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 3-5m so với mặt nước biển. Đặc điểm đất đai và địa hình cơ bản thuận lợi cho phát triển sản xuất, đặc biệt là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và mở rộng không gian đô thị. Trong thời gian tới Thành phố dự kiến phát triển các khu đô thị mới như: khu dân cư Tây-Tây bắc, khu dân cư Đông bắc (K1, K2), khu dân cư bắc Trần Phú, Khu Đô thị sinh thái (Đông Văn Sơn),…từ các nguồn vốn như: vốn ngân sách, vốn kêu gọi đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Một số tài nguyên khác như cát, sỏi xây dựng được khai thác từ lòng sông Dinh, với trữ lượng 1 triệu m 3 /năm; cung ứng đủ vật liệu cho các công trình xây dựng và các nhà máy sản xuất cấu kiện bê tông (trụ điện, gạch lát, cống, dầm cầu,…). Cơ sở hạ tầng 1. Mạng lưới giao thông : Đường sắt : Có tuyến đường sắt Bắc – Nam đi qua thành phố Phan Rang-Tháp Chàm; có ga Tháp Chàm cách trung tâm Thành phố 05 km về hướng tây là một trong những ga quan trọng trong hệ thống ga của ngành đường sắt Việt Nam, là trạm dừng của tất cả các chuyến tàu qua thành phố; định hướng phục hồi tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt trước đây nhằm phục vụ cho lưu thông hàng hóa và phát triển du lịch. Đường Hàng không, đường biển: Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cách cảng hàng không Quốc tế và cảng biển Cam Ranh khoảng 60km về hướng Bắc, hiện nay Chính phủ đã có chủ trương đầu tư tuyến đường bộ cao tốc từ thành phố Phan Rang-Tháp Chàm đi sân bay Cam Ranh. Với hệ thống giao thông thuận lợi như hiện nay, các nhà đầu tư, du khách trong và ngoài nước có thể đến thành phố Phan Rang-Tháp Chàm bằng đường sắt, đường bộ và đường hàng không; nhà đầu tư có thể lựa chọn nhiều hình thức để vận chuyển hàng hóa đi trong và ngoài nước. Đặc biệt từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương trong nước có thể đến thành phố và về trong ngày. 2. Hệ thống thông tin, liên lạc : Mạng lưới bưu chính – viễn thông không ngừng được đầu tư nâng cấp hiện đại, nối mạng với hệ thống thông tin quốc gia và Quốc tế; các dịch vụ điện thoại di động, internet đựơc sử dụng rộng rãi, đảm bảo nhu cầu về thông tin liên lạc của nhà đầu tư và du khách. Các khu dân cư, khu kinh tế, khu công nghiệp được nối thông với hệ thống thông tin liên lạc; trên địa bàn thành phố có nhiều thành phần kinh tế cung ứng dịch vụ viễn thông, giúp cho các nhà đầu có nhiều sự lựa chọn để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt. 3. Điện năng : Hệ thống điện được cung cấp ổn định từ nhà máy thủy điện Đa Nhim và lưới điện quốc gia 500KV; hệ thống mạng lưới cung cấp điện của thành phố đã được đầu tư nâng cấp tương đối hoàn chỉnh; điện lưới Quốc gia được đảm bảo đưa đến các khu dân cư, khu du lịch, khu công nghiệp,… cung cấp đủ nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt và sản xuất cho nhân dân thành phố và các nhà đầu tư. 4. Các dịch vụ khác : Hệ thống các ngân hàng thương mại đều đã có chi nhánh tại Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm và gần các khu dân cư, khu du lịch, khu công nghiệp bảo đảm đủ các nhu cầu giao dịch về tài chính – tín dụng. Dịch vụ vận tải phát triển ngày càng đa dạng, vận tải hành khách bằng đường bộ đi các tỉnh trong cả nước ngày càng đáp ứng được nhu cầu khách hàng theo hướng văn minh hiện đại, hệ thống dịch vụ xe Buýt, taxi phát triển mạnh, giao thông đường sắt ngày càng phát triển phục vụ cho nhà đầu tư và du khách mọi lúc, mọi nơi. Dịch vụ du lịch: Hệ thống các khách sạn, resort trên địa bàn thành phố không ngừng phát triển. Hiện nay trên địa bàn thành phố đã có 15 khách sạn với tổng số phòng là 1.005 phòng; có khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng và tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo quy mô toàn tỉnh và toàn quốc. Bên cạnh đó, ngay khu vực giáp ranh với thành phố có nhiều cơ sở khách sạn đảm bảo nhu cầu lưu trú của du khách trong đó có Khách sạn Sài Gòn – Ninh Chữ đạt tiêu chuẩn 4 sao cách trung tâm thành phố 4 km, đáp ứng được nhu cầu tổ chức các Hôi nghị, hội thảo của các nhà đầu tư. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ đa dạng, có khoảng 1.800 nhà hàng và cơ sở dịch vụ đáp ứng được các nhu cầu về ẩm thực của du khách, các nhà đầu tư.
Giới thiệu khái quát huyện Thanh Thủy Thanh Thủy là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ , phía Đông giáp huyện Ba Vì (thành phố Hà Nội); Phía Tây giáp huyện Thanh Sơn; Phía Tây giáp huyện Kỳ Sơn (tỉnh Hòa Bình); Phía Bắc giáp huyện Tam Nông. Huyện có 15 đơn vị hành chính: Xuân Lộc, Đào Xá, Thạch Đồng, Tân Phương, Bảo Yên, Sơn Thủy, Đoan Hạ, Hoàng Xá, Đồng Luận, Trung Thịnh, Trung Nghĩa, Phượng Mao, Yến Mao, Tu Vũ và thị trấn Thanh Thủy (gồm 14 xã và 1 thị trấn) với tổng diện tích tự nhiên là 12.568.05 ha. Trong đó, diện tích đất gieo trồng tính đến hết năm 2017 là 7.027,7 ha; dân số khoảng gần 80.000 người. Trong tương lai, huyện Thanh Thủy là huyện tiềm năng có giá trị về du lịch, dịch vụ và thương mại chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Toàn huyện có 15 hợp tác xã phục vụ nông nghiệp trong đó có 8 hợp tác xã nông nghiệp và 7 hợp tác xã dịch vụ thủy lợi; số doanh nghiệp vừa và nhỏ là 181. Đặc điểm điều kiện tự nhiên: Thanh Thủy không có đường sắt, Quốc lộ đi qua nhưng có hệ thông đường giao thông liên tỉnh, huyện, xã rất thuận lợi với tổng chiều dài trên 650 km. Ngoài tuyến Tỉnh lộ 316 (Trung Hà – Bến Ngọc), Tỉnh lộ 317 (Trung Hà – Hòa Bình); đường liên huyện Thanh Thủy – Thanh Sơn – Tam Nông, trên địa bàn huyện còn có hàng chục con đường liên xã, liên thôn như Tu Vũ – Yên Lãng (Thanh Sơn), Đồng Luận – Tu Vũ, Đồng Luận – Hoàng Xá- Thắng Sơn (Thanh Sơn), Trung Nghĩa – Cầu Mè (Thanh Sơn), Sơn Thủy – Cự Đồng (Thanh Sơn), Thạch Đồng – Đào Xá – Xuân Lộc – Thượng Nông (Tam Nông), Đào Xá – Dị Nậu (Tam Nông), thị trấn Thanh Thủy – Bảo Yên… Những con đường này là huyết mạch giao thông trong việc giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các địa phương trong và ngoài huyện rất thuận lợi, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, ổn định an ninh- quốc phòng. Về tài nguyên, khoáng sản: Thanh Thủy là vùng đất dốc, nguồn tài nguyên khoáng sản khá như: Than bùn, than nâu ở Phượng Mao, Tu Vũ, Trung Nghĩa; mỏ sắt ở Đào Xá; Caolin, penspat ở Tân Phương, thị trấn Thanh Thủy, Sơn Thủy, Hoàng Xá; nước khoáng nóng ở thị trấn Thanh Thủy; đất sét ở Yến Mao. Qua khảo sát, nghiên cứu của các nhà khoa học đã đánh giá khu nước khoáng nóng Thanh Thủy là một trong 7 mỏ nước khoáng có chứa hàm lượng nguyên tố vi lượng cao và có khả năng chữa một số bệnh. Các yếu tố này là tiền đề để huyện phát triển. * Tiềm năng phát triển: Về di tích lịch sử văn hóa: Thanh Thủy có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời xen lẫn các truyền thuyết của dân tộc thể hiện qua các di tích lịch sử văn hóa còn lại đến ngày nay. Trong đó nổi bật là các di tích Đền Lăng Sương ở Trung Nghĩa (di tích cấp Quốc gia), Đền Và ở Yến Mao, Tượng đài chiến thắng Tu Vũ, đình Đào Xá và đền Tam Công ở Đào Xá… gắn liền với đó là các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Về phát triển một số ngành công nghiệp, du lịch và dịch vụ: Như chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng, du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh. Về đặc điểm về địa hình và giao thông, huyện đã có định hướng và quy hoạch các khu công nghiệp vùng thượng và hạ huyện đó là cụm công nghiệp thị trấn Thanh Thủy – Hoàng Xá – Trung Thịnh – Yến Mao và tham gia trực tiếp vào khu công nghiệp Trung Hà. Các ngành dịch vụ du lịch vào hệ thống hồ, đập như: Hồ Phượng Mao, Hồ Suối Rồng (Sơn Thủy), đầm Bạch Thủy (Đồng Luận, Trung Thịnh)… Khu nước khoáng nóng, hệ thống di tích lịch sử (Lăng Sương, Đào Xá), Khu du lịch Đảo Ngọc Xanh, Thanh Lâm Resort, Vườn Vua. Với các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của các khu di tích đình, đền, chùa vốn có, Thanh Thủy còn có tiềm năng to lớn để phát triển du lịch tâm linh. Là tâm điểm nối liền giữa khu du lịch và di tích lịch sử Đền Thượng (Ba Vì). K9 (Ba Vì – Hà Tây), khu di tích Đền Hùng; các địa danh Lăng Sương (Trung Nghĩa), Tượng đài chiến thắng Tu Vũ, Trung tâm nghỉ dưỡng nước khoáng nóng, Nhà bia tưởng niệm Bác Hồ về thăm và phát động trồng cây tại Đào Xá, đình Đào Xá… là những điểm đến trong tua du lịch tâm linh Ba Vì – Thanh Thuỷ – Đền Hùng của khách thập phương.
General introduction to Thanh Thuy district Thanh Thuy is a mountainous district located in the southwest of Thanh Thuy Phu Tho province , to the East borders Ba Vi district (Hanoi city); The West borders Thanh Son district; The West borders Ky Son district (Hoa Binh province); The North borders Tam Nong district. The district has 15 administrative units: Xuan Loc, Dao Xa, Thach Dong, Tan Phuong, Bao Yen, Son Thuy, Doan Ha, Hoang Xa, Dong Luan, Trung Thinh, Trung Nghia, Phuong Mao, Yen Mao, Tu Vu and Thanh Thuy town (including 14 communes and 1 town) with a total natural area of ​​12,568.05 hectares. Of which, the area of ​​cultivated land by the end of 2017 was 7,027.7 hectares; The population is about nearly 80,000 people. In the future, Thanh Thuy district is a potential district with value in tourism, services and trade, accounting for a large proportion in the economic structure. The entire district has 15 cooperatives serving agriculture, including 8 agricultural cooperatives and 7 irrigation service cooperatives; The number of small and medium enterprises is 181. Characteristics of natural conditions: Thanh Thuy does not have a railway or National Highway passing through it, but it has a very convenient inter-provincial, district and commune road system with a total length of over 650 km. In addition to Provincial Road 316 (Trung Ha - Ben Ngoc), Provincial Road 317 (Trung Ha - Hoa Binh); Thanh Thuy - Thanh Son - Tam Nong inter-district road, in the district there are also dozens of inter-commune and inter-village roads such as Tu Vu - Yen Lang (Thanh Son), Dong Luan - Tu Vu, Dong Luan - Hoang Xa - Thang Son (Thanh Son), Trung Nghia – Cau Me (Thanh Son), Son Thuy – Cu Dong (Thanh Son), Thach Dong – Dao Xa – Xuan Loc – Thuong Nong (Tam Nong), Dao Xa – Di Nau (Tam Nong) Nong), Thanh Thuy town - Bao Yen... These roads are traffic arteries in making exchange and exchange of goods between localities inside and outside the district very convenient, contributing to promoting economic development - society, security and defense stability. Regarding resources and minerals: Thanh Thuy is a sloping land with good mineral resources such as: Peat, brown coal in Phuong Mao, Tu Vu, Trung Nghia; iron mine in Dao Xa; Caolin, penspar in Tan Phuong, Thanh Thuy town, Son Thuy, Hoang Xa; hot mineral water in Thanh Thuy town; clay in Yen Mao. Through surveys and research by scientists, Thanh Thuy hot mineral water area has been evaluated as one of 7 mineral water mines that contain high levels of trace elements and have the ability to cure some diseases. These factors are the premise for the district to develop. * Development potential: Regarding historical and cultural relics: Thanh Thuy has a long cultural history mixed with national legends shown through the remaining cultural and historical relics today. Among them, prominent relics include Lang Suong Temple in Trung Nghia (national relic), Va Temple in Yen Mao, Tu Vu Victory Monument, Dao Xa communal house and Tam Cong temple in Dao Xa... associated with it. are traditional festivals imbued with national cultural identity and profound humanity. Regarding the development of a number of industries, tourism and services: Such as mineral processing, construction materials, medical resort tourism. Regarding terrain and traffic characteristics, the district has oriented and planned industrial parks in the upper and lower areas of the district, which are Thanh Thuy - Hoang Xa - Trung Thinh - Yen Mao town industrial clusters and directly participates. into Trung Ha industrial park. Tourism service industries in the lake and dam system such as: Phuong Mao Lake, Suoi Rong Lake (Son Thuy), Bach Thuy lagoon (Dong Luan, Trung Thinh)... Hot mineral water area, historical relic system (Mausoleum Suong, Dao Xa), Ngoc Xanh Island tourist area, Thanh Lam Resort, King's Garden. With the typical traditional cultural values ​​of the vestiges of communal houses, temples, and pagodas, Thanh Thuy also has great potential to develop spiritual tourism. It is the focal point connecting the tourist area and the historical relic of Thuong Temple (Ba Vi). K9 (Ba Vi - Ha Tay), Hung Temple relic area; Lang Suong (Trung Nghia) landmarks, Tu Vu Victory Monument, Hot Mineral Water Resort Center, Memorial stele house of Uncle Ho's visit and tree planting campaign at Dao Xa, Dao Xa communal house... are destinations in the spiritual tour of Ba Vi - Thanh Thuy - Hung Temple of visitors from all over.
Giới thiệu khái quát huyện Đoan Hùng 1. Vị trí địa lý: Đoan Hùng là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Phú Thọ , phía Đông Nam giáp huyện Phù Ninh, phía Nam giáp huyện Thanh Ba, phía Tây Nam và phía Tây giáp huyện Hạ Hòa, đều là các huyện của tỉnh Phú Thọ, phía Tây Bắc giáp huyện Yên Bình của tỉnh Yên Bái, phía Bắc và phía Đông giáp các huyện Yên Sơn và Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang. Khu vực phía Tây Bắc của huyện có đoạn cuối của sông Chảy chảy qua và hợp lưu với sông Lô chảy từ Tuyên Quang về tại thị trấn Đoan Hùng tạo nên một ngã ba sông đẹp huyền diệu, lung linh soi bóng tượng đài Chiến thắng sông Lô rồi chảy tiếp về phía Nam của huyện. Đoan Hùng có hai tuyến Quốc lộ chạy qua, Quốc lộ số 2 từ Hà Nội đi Tuyên Quang, Hà Giang và Quốc lộ 70 từ thị trấn Đoan Hùng đi Yên Bái, Lào Cai. – Diện tích tự nhiên của huyện Đoan Hùng là 302,4 km² – Dân số (năm 2010): 110 542 người. 2. Đơn vị hành chính: – Thị trấn: 01 (thị trấn Đoan Hùng) – Xã: 27 (Đông Khê; Nghinh Xuyên; Hùng Quan; Vân Du; Chí Đám; Hữu Đô; Đại Nghĩa; Phú Thứ; Hùng Long; Vụ Quang; Minh Phú; Chân Mộng; Vân Đồn; Minh Tiến; Tiêu Sơn; Yên Kiện; Sóc Đăng; Ngọc Quan; Phong Phú; Phương Trung; Tây Cốc; Ca Đình; Phúc Lai; Quế Lâm; Bằng Luân; Bằng Doãn; Minh Lương). – Năm 1952, bộ đội chủ lực cùng nhân dân xã Chân Mộng đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt quân viễn chinh Pháp tại Cầu Hai lập nên chiến thắng Chân Mộng – Trạm Thản. – Huyện Đoan Hùng và 5 xã: Chân Mộng, Chí Đám, Hữu Đô, Đại Nghĩa, Phú Thứ được Nhà nước phong tặng danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp”. (Thanh niên Đoan Hùng hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Ảnh Quý Đông) – Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng ngàn người con của Đoan Hùng theo tiếng gọi của Đảng đã lên đường tòng quân giết giặc: + 1297 liệt sỹ đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tổ quốc. + 38 bà mẹ VNAH. + 1529 thương, bệnh binh. + 11 lão thành cách mạng và cán bộ tiền khởi nghĩa. + 9 gia đình có công với cách mạng. – Chi bộ Đảng đầu tiên (Tiền thân của Đảng bộ huyện Đoan Hùng) được thành lập ngày 19/8/1947 gồm 3 đảng viên chính thức là các đ/c Nguyễn Mai, Hà Thị Tảo và Mai Quốc Lâm, đ/c Nguyễn Mai được bầu làm Bí thư chi bộ. Ảnh Đ/c Nguyễn Mai – Bí thư chi bộ Trần Phú – Tiền thân của Đảng bộ huyện Đoan Hùng – Ngày 20/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm huyện Đoan Hùng và nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Đồng Tâm (nay là thị trấn Đoan Hùng). 4. Những thành tựu về KT- XH tính đến hết năm 2015. – Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân: 807%/năm. – Sản lượng lương thực đạt 46 nghìn tấn. – Bình quân thu nhập đầu người đạt 25,2 triệu/năm. – Thu ngân sách năm 2015 đạt 147 tỷ, vượt 29,8%. – Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 1300 tỷ đồng. – Độ che phủ rừng đạt 42% diện tích đất tự nhiên. – Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên 1,38%. – 1 xã cơ bản đạt chuẩn NTM, 5 xã đạt từ 15 đến 17 tiêu chí. – 84,5% số hộ gia đình, 81,8% số khu dân cư đạt danh hiệu văn hóa. 5. Đặc sản: (Bưởi Sửu Đoan Hùng. Ảnh Quý Đông) – Bưởi Đoan Hùng: Đặc sản nổi tiếng trong cả nước với 2 vùng bưởi Chí Đám và Bằng Luân, Diện tích trồng bưởi đạt 1700 ha ở hầu hết các xã trong huyện, trồng thêm hàng trăm ha bưởi Diễn, sản lượng đạt 9000 tấn, giá trị kinh tế trên 100 tỷ đồng. Hiện nay cây bưởi ở Đoan Hùng đã giúp nhiều hộ dân xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu.
General introduction of Doan Hung district 1. Geographical location: Doan Hung is a mountainous district located in the North of Vietnam Phu Tho province , the Southeast borders Phu Ninh district, the South borders Thanh Ba district, the Southwest and the West border Ha Hoa district, all districts of Phu Tho province, the Northwest borders Yen Binh district of Yen Bai province, the North borders and to the East borders Yen Son and Son Duong districts of Tuyen Quang province. The northwest area of ​​the district has the last section of the Chay River flowing through and confluence with the Lo River flowing from Tuyen Quang to Doan Hung town, creating a magically beautiful river confluence, shimmering in the reflection of the Victory River monument. The block then flows further south of the district. Doan Hung has two National Highways running through it, National Highway Không. 2 from Hanoi to Tuyen Quang, Ha Giang and National Highway 70 from Doan Hung town to Yen Bai, Lao Cai. – The natural area of ​​Doan Hung district is 302.4 km² – Population (2010): 110,542 people. 2. Administrative unit: – Town: 01 (Doan Hung town) – Communes: 27 (Dong Khe; Nghinh Xuyen; Hung Quan; Van Du; Chi Dam; Huu Do; Dai Nghia; Phu Thu; Hung Long; Vu Quang; Minh Phu; Chan Mong; Van Don; Minh Tien; Tieu Son; Yen Kien; Soc Dang; Phong Phu; Tay Coc; – In 1952, the main force and the people of Chan Mong commune heroically fought to destroy the French expeditionary force at Cau Hai, establishing the Chan Mong – Tram Than victory. – Doan Hung district and 5 communes: Chan Mong, Chi Dam, Huu Do, Dai Nghia, Phu Thu were awarded the title: "Hero of the armed forces during the anti-French period" by the State. (Young man Doan Hung enthusiastically set out to do military service. Photo by Quy Dong) – During the resistance war against America to save the country, thousands of Doan Hung's children followed the Party's call to join the army to kill the enemy: + 1297 martyrs heroically sacrificed their lives to protect the country. + 38 Vietnamese mothers. + 1,529 wounded and sick soldiers. + 11 revolutionary veterans and pre-uprising cadres. + 9 families who contributed to the revolution. – The first Party cell (Forerunner of Doan Hung District Party Committee) was established on August 19, 1947 with 3 official party members: comrades Nguyen Mai, Ha Thi Tao and Mai Quoc Lam, comrades Nguyen Mai was elected Party Secretary. Photo of Comrade Nguyen Mai - Party cell secretary Tran Phu - Forerunner of Doan Hung district Party Committee – On March 20, 1961, President Ho Chi Minh visited Doan Hung district and talked with officials, party members and people of Dong Tam commune (now Doan Hung town). 4. Socio-economic achievements by the end of 2015. – Average economic growth rate: 807%/year. – Food output reached 46 thousand tons. – Average income per capita reaches 25.2 million/year. – Budget revenue in 2015 reached 147 billion, exceeding 29.8%. – Total social investment capital reached 1,300 billion VND. – Forest coverage reaches 42% of natural land area. – Natural population growth rate is 1.38%. – 1 commune basically meets NTM standards, 5 communes meet from 15 to 17 criteria. – 84.5% of households and 81.8% of residential areas achieved cultural status. 5. Specialties: (Suu Doan Hung Grapefruit. Photo Quy Dong) – Doan Hung grapefruit: Famous specialty throughout the country with 2 grapefruit regions Chi Dam and Bang Luan, grapefruit growing area reaches 1700 hectares in most communes in the district, hundreds of hectares of Dien grapefruit are planted, output reaches 9000 tons , economic value of over 100 billion VND. Currently, grapefruit trees in Doan Hung have helped many households eliminate hunger, reduce poverty and become rich.
Giới thiệu khái quát huyện Tân Sơn Tân Sơn là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ , được thành lập theo Nghị định 61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Thanh Sơn để thành lập 2 huyện: huyện Thanh Sơn mới và huyện Tân Sơn. Đặc điểm địa lý tự nhiên: Huyện Tân Sơn nằm về phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 75km. + Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 68.858 ha + Diện tích đất nông nghiệp: 5.297 ha + Diện tích đất lâm nghiệp: nghiệp:52.577,5 ha + Diện tích đất chưa sử dụng: 8.779 ha Ranh giới hành chính: Phía Bắc giáp huyện Yên Lập, phía Đông giáp huyện Thanh Sơn của tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp huyện Đà Bắc của tỉnh Hòa Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn của tỉnh Yên Bái và huyện Phù Yên của tỉnh Sơn La. Đơn vị hành chính: Huyện Tân Sơn có 17 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm các xã: Minh Đài, Tân Phú, Mỹ Thuận, Thu Ngạc, Thạch Kiệt, Thu Cúc, Lai Đồng, Đồng Sơn, Tân Sơn, Kiệt Sơn, Xuân Đài, Kim Thượng, Xuân Sơn, Văn Luông, Long Cốc, Tam Thanh, Vinh Tiền. Ngoại trừ 3 xã Minh Đài, Văn Luông, Mỹ Thuận, 14 xã còn lại của huyện Tân Sơn đều thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II. Dân số – Dân tộc: Dân số trung bình năm 2008 gồm có 16.968 hộ với 76.722 người. Trong đó 7 nhóm hộ dân tộc thiểu số chiếm 82,3%, cụ thể: dân tộc Mường chiếm 75%, Dao 6,4%, H’mông 0,67% …). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,15 %. Mật độ dân số trung bình là 111 người/km 2 .. Về phát triển kinh tế: (1) Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 6,63%. (2) Giá trị tăng thêm bình quân đầu người ước đạt 18 trđ. (3) Cớ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 48,1%; công nghiệp và xây dựng: 11,3%; dịch vụ: 40,6%. (4) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 690 tỷ đồng. (5) Thu NSNN trên địa bàn ước đạt 28,6 tỷ đồng. (6) Giá trị sản phẩm bình quân/01 ha đất canh tác và nuôi trồng thủy sản ước đạt 77,3 triệu đồng. (7) Tỷ lệ đường GTNT được kiên cố hóa ước đạt 60,1%. Về văn hóa – xã hội và môi trường: (8)Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ước đạt 1,15%. (9) Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo ước đạt 4,2%. (10) Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên 87%. (11) Tỷ lệ lao động qua đào tạo và truyền nghề ước đạt 44%. (12) Cơ cấu lao động: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 82,2%; công nghiệp và xây dựng: 8,4%; dịch vụ: 9,4%. (13) Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng ước đạt 17%. (14) Tỷ lệ dân số tham gia BHYT đạt 98,8%. (15) Tỷ lệ trường học đạt chuẩn Quốc gia: 72,2%. (16) Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước hợp vệ sinh: 85%. (17) Tỷ lệ dân cư tập trung thu gom, xử lý rác thải ước đạt 20%. (18) Độ che phủ rừng duy trì 61,6%. (19) Số xã đạt chuẩn nông thôn mới: Xã Minh Đài đạt 16/19 tiêu chí. (Số liệu năm 2017) Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ; về nguồn vốn đầu tư… Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tân Sơn xác định trong giai đoạn tới sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với đẩy mạnh phát triển văn hóa, xã hội, đảm bảo an sinh xã hội. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xã hội để tiếp tục thực hiện 3 khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt – đào tạo nguồn nhân lực – phát triển kinh tế phục vụ du lịch. Đảm bảo đạt được các nội dung của đề án giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ vào năm 2015./. rong tiết trời se lạnh đầu xuân, chúng tôi về xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn cùng người dân nơi đây nô nức trẩy hội Tết Doi. Tết Doi còn được gọi là hội cầu mùa, hội xuống đồng của người Mường được tổ chức ngày 7 tháng Giêng hằng năm. Nét đặc sắc nhất của lễ hội là nghi thức rước vía lúa có từ ngàn đời nay để cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, thóc đầy bồ, lợn, gà đầy chuồng, con người được bình an, mạnh khỏe. Bao đời nay, người Mường Thu Cúc vẫn sống dựa chủ yếu vào nghề trồng lúa. Cũng như nhiều dân tộc anh em khác, họ tin vạn vật đều có linh hồn, có cuộc sống riêng như con người. Cây lúa là cây lương thực chính nuôi sống người Mường, nên được bà con đặc biệt coi trọng, tôn sùng và “vía” hóa (thần thánh hóa). Đây chính là cơ sở để hình thành nên tín ngưỡng thờ vía lúa cũng như hệ thống những nghi lễ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trước đây, vào các năm tháng mất mùa, người Mường ở Thu Cúc coi là điềm báo dân làng ăn ở không tốt nên vía lúa bỏ đi Mường khác. Muốn mùa màng tươi tốt, cuộc sống no đủ, dân bản phải tổ chức rước vía lúa. Theo truyền thuyết, thời xưa có người con gái nhà Ngài thông minh, nhanh nhẹn, giỏi nghề nông, xinh đẹp nức tiếng cả vùng. Năm đó, hạn hán kéo dài, đồng ruộng khô cạn. Cây lúa héo rũ trên ruộng đồng nứt nẻ. Dân bản chìm trong thiếu đói. Thương bà con, cô gái đã tình nguyện lên đường tìm giống lúa, vía lúa. Vượt qua bao khó khăn, nguy hiểm, cô đã tìm được giống lúa, gọi mời được vía lúa từ Mường Cang Ó, Cun U Lang Theng về đến cửa Mường thì bị hãm hại chỉ còn lại đôi dép và bó lúa quý hiếm. Từ bó lúa giống đó, ruộng đồng của người Mường Thu Cúc lại xanh tươi, sai bông trĩu hạt. Ghi nhớ công ơn của cô gái, dân làng đã lập miếu thờ và gọi cô là Nàng Cúc. Trong các lễ rước vía lúa, dân bản và thầy mo vẫn đến miếu Nàng Cúc xin vía lúa về chia cho các chòm xóm lấy khước cầu may. Rước vía lúa là nét đẹp truyền thống thể hiện khát vọng của người Mường Thu Cúc về một vụ mùa bội thu, cuộc sống thanh bình sung túc. Trong nghi lễ rước vía lúa, đoàn rước khởi hành từ trung tâm xã qua hơn 5km đến Miếu thờ vía lúa ở cửa Mường làm lễ tế thần linh, sau đó rước vía lúa về trung tâm xã làm lễ cúng rồi phân phát lúa cho các bản, các Mường, mở đầu cho mùa sản xuất trong năm. Đi đầu đoàn rước là thầy mo, người am hiểu những luật tục, thuộc lòng các bài khấn được người dân giao trách nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh và thực hiện nghi lễ cúng tế rước vía lúa. Đi sau là đội chiêng trống, kiệu rước và đội đâm đuống, chạm ống. Những cụm lúa to, hạt chắc mẩy cùng lễ vật được rước trên kiệu về địa điểm hành lễ. Thầy mo ra hiệu cho đội nhạc lễ tấu ba hồi chiêng trống vang vọng núi rừng, trời đất, rồi thực hiện nghi lễ cúng. Thầy khấn mời vía lúa, chia lúa giống cho dân bản rồi rước vía lúa về đền thờ vía lúa để thờ. Trong suốt thời gian tổ chức lễ rước và lễ cúng vía lúa, nhà Lang nổi chiêng trống và dân bản khua đuống rộn ràng mời gọi vía lúa. Thầy mo Hoàng Văn Tạch cho biết: “Theo quan niệm của người Mường Thu Cúc “vía lúa” là nàng cơm, nàng gạo từ Mường Trời về lo cho mùa màng ở Mường Người được no đủ. Hồn lúa ở lại với người thì thóc sẽ đầy bồ, ngô sẽ đầy thúng và năm đó sản xuất sẽ thuận lợi, đời sống sẽ no ấm. Vì thế, người Mường Cúc làm Tết Doi, mở hội xuống đồng ra cửa Mường mời gọi nàng cơm, nàng gạo về với Mường người”. Những năm trước đây, cúng vía lúa chỉ diễn ra trong các gia đình mà không diễn ra ở cộng đồng. Sau hơn 2 năm nghiên cứu, phục dựng với sự vào cuộc tích cực của Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, năm 2014 sau gần nửa thế kỷ bị gián đoạn, Tết Doi của người Mường và tục rước vía lúa được tổ chức đúng nguyên bản cổ xưa với ý nghĩa là một nghi lễ cộng đồng, trong đó việc thực hành nghi lễ là do người dân và các mo Mường thực hiện. Chủ tịch UBND xã Thu Cúc Hà Thanh Biên cho biết: Lễ hội xuống đồng năm nay được tổ chức gắn với Ngày hội văn hóa các dân tộc xã Thu Cúc với nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao mừng Đảng mừng xuân. Lễ hội được xã hội hóa kêu gọi người dân tham gia nhằm mục đích gìn giữ nét đẹp truyền thống của người Mường. Tuy là lễ hội mang đậm nét văn hóa của người Mường, song người Dao, người Mông trong xã cũng đến chia vui. Trong tiết trời xuân ấm áp, hàng ngàn người dân địa phương và du khách thập phương đã đến chung vui và khám phá nét văn hóa đặc sắc của đồng bào nơi rẻo cao cao Tân Sơn. Những tiết mục diễn xướng dân gian như: Chạm ống, đâm đuống, múa mỡi, múa sạp của người Mường; múa chuông, múa lập tĩnh của người Dao; múa khèn của người Mông… và các tiết mục văn hóa, văn nghệ, thắp ngọn lửa trại… đã được các khu dân cư lựa chọn đem đến biểu diễn nhằm giao lưu văn hóa và tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc. Lễ hội xuống đồng của người Mường Thu Cúc là hoạt động ý nghĩa đầu năm nhằm kịp thời động viên tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc trong vùng gặp gỡ giao lưu trao đổi kinh nghiệm sản xuất, thắt chặt tinh thần đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân tạo động lực và khí thí mới, cổ vũ phong trào thi đua sản xuất và xây dựng giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của cha ông. Không khí ngày Tết vương vấn qua những cánh đào rực rỡ trong vườn nhà, nơi ven suối và cả trên nét mặt rạng ngời của đồng bào các dân tộc nơi đây. Vía lúa thiêng về từng xóm bản trong tiếng đuống rộn ràng, lời ca mượt mà chào đón mang theo hy vọng một vụ mùa bội thu lại về với người dân Mường Cúc. Hương Giang (Phuthoportal)
Giới thiệu khái quát huyện Tân Sơn Tân Sơn là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ , được thành lập theo Nghị định 61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Thanh Sơn để thành lập 2 huyện: huyện Thanh Sơn mới và huyện Tân Sơn. Đặc điểm địa lý tự nhiên: Huyện Tân Sơn nằm về phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 75km. + Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 68.858 ha + Diện tích đất nông nghiệp: 5.297 ha + Diện tích đất lâm nghiệp: nghiệp:52.577,5 ha + Diện tích đất chưa sử dụng: 8.779 ha Ranh giới hành chính: Phía Bắc giáp huyện Yên Lập, phía Đông giáp huyện Thanh Sơn của tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp huyện Đà Bắc của tỉnh Hòa Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn của tỉnh Yên Bái và huyện Phù Yên của tỉnh Sơn La. Đơn vị hành chính: Huyện Tân Sơn có 17 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm các xã: Minh Đài, Tân Phú, Mỹ Thuận, Thu Ngạc, Thạch Kiệt, Thu Cúc, Lai Đồng, Đồng Sơn, Tân Sơn, Kiệt Sơn, Xuân Đài, Kim Thượng, Xuân Sơn, Văn Luông, Long Cốc, Tam Thanh, Vinh Tiền. Ngoại trừ 3 xã Minh Đài, Văn Luông, Mỹ Thuận, 14 xã còn lại của huyện Tân Sơn đều thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II. Dân số – Dân tộc: Dân số trung bình năm 2008 gồm có 16.968 hộ với 76.722 người. Trong đó 7 nhóm hộ dân tộc thiểu số chiếm 82,3%, cụ thể: dân tộc Mường chiếm 75%, Dao 6,4%, H’mông 0,67% …). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,15 %. Mật độ dân số trung bình là 111 người/km 2 .. Về phát triển kinh tế: (1) Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 6,63%. (2) Giá trị tăng thêm bình quân đầu người ước đạt 18 trđ. (3) Cớ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 48,1%; công nghiệp và xây dựng: 11,3%; dịch vụ: 40,6%. (4) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 690 tỷ đồng. (5) Thu NSNN trên địa bàn ước đạt 28,6 tỷ đồng. (6) Giá trị sản phẩm bình quân/01 ha đất canh tác và nuôi trồng thủy sản ước đạt 77,3 triệu đồng. (7) Tỷ lệ đường GTNT được kiên cố hóa ước đạt 60,1%. Về văn hóa – xã hội và môi trường: (8)Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ước đạt 1,15%. (9) Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo ước đạt 4,2%. (10) Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên 87%. (11) Tỷ lệ lao động qua đào tạo và truyền nghề ước đạt 44%. (12) Cơ cấu lao động: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 82,2%; công nghiệp và xây dựng: 8,4%; dịch vụ: 9,4%. (13) Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng ước đạt 17%. (14) Tỷ lệ dân số tham gia BHYT đạt 98,8%. (15) Tỷ lệ trường học đạt chuẩn Quốc gia: 72,2%. (16) Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước hợp vệ sinh: 85%. (17) Tỷ lệ dân cư tập trung thu gom, xử lý rác thải ước đạt 20%. (18) Độ che phủ rừng duy trì 61,6%. (19) Số xã đạt chuẩn nông thôn mới: Xã Minh Đài đạt 16/19 tiêu chí. (Số liệu năm 2017) Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ; về nguồn vốn đầu tư… Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tân Sơn xác định trong giai đoạn tới sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với đẩy mạnh phát triển văn hóa, xã hội, đảm bảo an sinh xã hội. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xã hội để tiếp tục thực hiện 3 khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng then chốt – đào tạo nguồn nhân lực – phát triển kinh tế phục vụ du lịch. Đảm bảo đạt được các nội dung của đề án giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ vào năm 2015./. rong tiết trời se lạnh đầu xuân, chúng tôi về xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn cùng người dân nơi đây nô nức trẩy hội Tết Doi. Tết Doi còn được gọi là hội cầu mùa, hội xuống đồng của người Mường được tổ chức ngày 7 tháng Giêng hằng năm. Nét đặc sắc nhất của lễ hội là nghi thức rước vía lúa có từ ngàn đời nay để cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, thóc đầy bồ, lợn, gà đầy chuồng, con người được bình an, mạnh khỏe. Bao đời nay, người Mường Thu Cúc vẫn sống dựa chủ yếu vào nghề trồng lúa. Cũng như nhiều dân tộc anh em khác, họ tin vạn vật đều có linh hồn, có cuộc sống riêng như con người. Cây lúa là cây lương thực chính nuôi sống người Mường, nên được bà con đặc biệt coi trọng, tôn sùng và “vía” hóa (thần thánh hóa). Đây chính là cơ sở để hình thành nên tín ngưỡng thờ vía lúa cũng như hệ thống những nghi lễ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trước đây, vào các năm tháng mất mùa, người Mường ở Thu Cúc coi là điềm báo dân làng ăn ở không tốt nên vía lúa bỏ đi Mường khác. Muốn mùa màng tươi tốt, cuộc sống no đủ, dân bản phải tổ chức rước vía lúa. Theo truyền thuyết, thời xưa có người con gái nhà Ngài thông minh, nhanh nhẹn, giỏi nghề nông, xinh đẹp nức tiếng cả vùng. Năm đó, hạn hán kéo dài, đồng ruộng khô cạn. Cây lúa héo rũ trên ruộng đồng nứt nẻ. Dân bản chìm trong thiếu đói. Thương bà con, cô gái đã tình nguyện lên đường tìm giống lúa, vía lúa. Vượt qua bao khó khăn, nguy hiểm, cô đã tìm được giống lúa, gọi mời được vía lúa từ Mường Cang Ó, Cun U Lang Theng về đến cửa Mường thì bị hãm hại chỉ còn lại đôi dép và bó lúa quý hiếm. Từ bó lúa giống đó, ruộng đồng của người Mường Thu Cúc lại xanh tươi, sai bông trĩu hạt. Ghi nhớ công ơn của cô gái, dân làng đã lập miếu thờ và gọi cô là Nàng Cúc. Trong các lễ rước vía lúa, dân bản và thầy mo vẫn đến miếu Nàng Cúc xin vía lúa về chia cho các chòm xóm lấy khước cầu may. Rước vía lúa là nét đẹp truyền thống thể hiện khát vọng của người Mường Thu Cúc về một vụ mùa bội thu, cuộc sống thanh bình sung túc. Trong nghi lễ rước vía lúa, đoàn rước khởi hành từ trung tâm xã qua hơn 5km đến Miếu thờ vía lúa ở cửa Mường làm lễ tế thần linh, sau đó rước vía lúa về trung tâm xã làm lễ cúng rồi phân phát lúa cho các bản, các Mường, mở đầu cho mùa sản xuất trong năm. Đi đầu đoàn rước là thầy mo, người am hiểu những luật tục, thuộc lòng các bài khấn được người dân giao trách nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh và thực hiện nghi lễ cúng tế rước vía lúa. Đi sau là đội chiêng trống, kiệu rước và đội đâm đuống, chạm ống. Những cụm lúa to, hạt chắc mẩy cùng lễ vật được rước trên kiệu về địa điểm hành lễ. Thầy mo ra hiệu cho đội nhạc lễ tấu ba hồi chiêng trống vang vọng núi rừng, trời đất, rồi thực hiện nghi lễ cúng. Thầy khấn mời vía lúa, chia lúa giống cho dân bản rồi rước vía lúa về đền thờ vía lúa để thờ. Trong suốt thời gian tổ chức lễ rước và lễ cúng vía lúa, nhà Lang nổi chiêng trống và dân bản khua đuống rộn ràng mời gọi vía lúa. Thầy mo Hoàng Văn Tạch cho biết: “Theo quan niệm của người Mường Thu Cúc “vía lúa” là nàng cơm, nàng gạo từ Mường Trời về lo cho mùa màng ở Mường Người được no đủ. Hồn lúa ở lại với người thì thóc sẽ đầy bồ, ngô sẽ đầy thúng và năm đó sản xuất sẽ thuận lợi, đời sống sẽ no ấm. Vì thế, người Mường Cúc làm Tết Doi, mở hội xuống đồng ra cửa Mường mời gọi nàng cơm, nàng gạo về với Mường người”. Những năm trước đây, cúng vía lúa chỉ diễn ra trong các gia đình mà không diễn ra ở cộng đồng. Sau hơn 2 năm nghiên cứu, phục dựng với sự vào cuộc tích cực của Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, năm 2014 sau gần nửa thế kỷ bị gián đoạn, Tết Doi của người Mường và tục rước vía lúa được tổ chức đúng nguyên bản cổ xưa với ý nghĩa là một nghi lễ cộng đồng, trong đó việc thực hành nghi lễ là do người dân và các mo Mường thực hiện. Chủ tịch UBND xã Thu Cúc Hà Thanh Biên cho biết: Lễ hội xuống đồng năm nay được tổ chức gắn với Ngày hội văn hóa các dân tộc xã Thu Cúc với nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao mừng Đảng mừng xuân. Lễ hội được xã hội hóa kêu gọi người dân tham gia nhằm mục đích gìn giữ nét đẹp truyền thống của người Mường. Tuy là lễ hội mang đậm nét văn hóa của người Mường, song người Dao, người Mông trong xã cũng đến chia vui. Trong tiết trời xuân ấm áp, hàng ngàn người dân địa phương và du khách thập phương đã đến chung vui và khám phá nét văn hóa đặc sắc của đồng bào nơi rẻo cao cao Tân Sơn. Những tiết mục diễn xướng dân gian như: Chạm ống, đâm đuống, múa mỡi, múa sạp của người Mường; múa chuông, múa lập tĩnh của người Dao; múa khèn của người Mông… và các tiết mục văn hóa, văn nghệ, thắp ngọn lửa trại… đã được các khu dân cư lựa chọn đem đến biểu diễn nhằm giao lưu văn hóa và tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc. Lễ hội xuống đồng của người Mường Thu Cúc là hoạt động ý nghĩa đầu năm nhằm kịp thời động viên tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc trong vùng gặp gỡ giao lưu trao đổi kinh nghiệm sản xuất, thắt chặt tinh thần đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân tạo động lực và khí thí mới, cổ vũ phong trào thi đua sản xuất và xây dựng giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của cha ông. Không khí ngày Tết vương vấn qua những cánh đào rực rỡ trong vườn nhà, nơi ven suối và cả trên nét mặt rạng ngời của đồng bào các dân tộc nơi đây. Vía lúa thiêng về từng xóm bản trong tiếng đuống rộn ràng, lời ca mượt mà chào đón mang theo hy vọng một vụ mùa bội thu lại về với người dân Mường Cúc. Hương Giang (Phuthoportal)
Giới thiệu khái quát huyện Phú Hòa Phú Hòa nằm ở giữa tỉnh Phú Yên , phía Bắc giáp huyện Tuy An, phía Nam giáp huyện Tây Hòa, phía Đông giáp thành phố Tuy Hòa, phía Tây giáp với huyện Sơn Hòa . Huyện Phú Hòa có tổng diện tích đất tự nhiên là 26390,96 ha, trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 10976,40ha, diện tích đất nông nghiệp là 8654,30 ha. Dân số huyện Phú Hòa theo thống kê năm 2009 là 103.184 người thuộc các dân tộc Kinh, Chăm H’roi, Hoa, Tày. Người Chăm H’roi, Tày sống tập trung khu vực miền núi xã Hòa Hội. Mật độ dân số huyện Phú Hòa là 337 người/km 2 , chủ yếu tập trung các xã đồng bằng, miền núi thì thưa thớt hơn. Huyện Phú Hòa ở về phía tả ngạn sông Đà Rằng, bắc giáp huyện Tuy An, nam giáp huyện Đông Hòa và Tây Hòa, đông giáp thành phố Tuy Hòa, tây giáp huyện Sơn Hòa. Nằm trên trục đường quốc lộ 1 đi qua và quốc lộ 25 gần như xuyên suốt từ đông sang tây, huyện Phú Hòa có điều kiện giao lưu kinh tế để phát triển tiềm năng về mọi mặt của mình cũng như tận dụng những ưu thế riêng để trao đổi, hợp tác với các tỉnh khác, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên. Huyện Phú Hòa có tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 263,39 km2, chiếm 5,21% diện tích tự nhiên của Tỉnh. Nằm ở vị trí đồng bằng châu thổ sông Đà Rằng án ngữ cữa ngõ con đường lên Tây nguyên. Diện tích đất lâm nghiệp cả huyện là 10976,40 ha và tổng diện tích đất nông nghiệp là 8654,30 ha, trong đó diện tích trồng lúa nước là chủ yếu. Phú Hòa được thiên nhiên ưu đãi ngoài đồng bằng màu mỡ thận lợi cho cây lúa nước phát triển còn có tiềm năng khá lớn về trữ lượng vật liệu dùng trong ngành xây dựng cơ bản (cát, đất, đá); một số khu vực khai thác cát, sạn ở các xã Hòa An, Hòa Thắng, TT. Phú Hòa cung cấp khối lượng lớn vật liệu xây dựng không chỉ trên địa bàn huyện mà cho các khu vực lân cận. Huyện Phú Hòa mang những đặt điểm chung của khí hậu thủy văn nhiệt đới gió mùa khu vực Nam Trung Bộ, hàng năm có hai mùa rõ rệt. Ngoài những đặt điểm chung, khí hậu thủy văn Phú Hòa cũng có một số đặc trưng riêng do tác động của vị trí địa lý và địa hình. Gió Phú Hòa chủ yếu là gió mùa và gió tây nam, hướng gió chủ yếu là đông nam, đông bắc và tây nam. Lượng mưa hàng năm khoảng 1700mm chủ yếu tập trung vào bốn tháng cuối năm. Vùng đất huyện Phú Hòa thời Chúa Nguyễn cho đến Tây Sơn và đầu triều Nguyễn về cơ bản thuộc các tổng phía nam huyện Đồng Xuân. Năm 1899, huyện Tuy Hòa được nâng lên thành phủ Tuy Hòa. Phủ Tuy Hòa lúc này có 5 tổng, thì tổng Hòa Bình là phần đất thuộc huyện Phú Hòa; đến năm 1900 tổng Hòa Tường được thành lập bao gồm một số làng xã trên đất Phú Hòa. Từ đầu thế kỷ XX đến năm 2002, sự phân định đơn vị hành chính huyện Phú Hòa gắn với sự hình thành và phát triển của phủ Tuy Hòa xưa, huyện Đông Hòa, Tây Hòa và thành phố Tuy Hòa nay. Theo Nghị định số 15/2002/NĐ-CP ngày 31/01/2002 của Chính phủ tách thị xã Tuy Hòa thành hai đơn vị hành chính là thị xã Tuy Hòa và huyện Phú Hòa.
General introduction of Phu Hoa district Phu Hoa is located in the middle Phu Yen province , to the North borders Tuy An district, to the South borders Tay Hoa district, to the East borders Tuy Hoa city, to the West borders Son Hoa . Phu Hoa district has a total natural land area of ​​26,390.96 hectares, of which forestry land area is 10,976.40 hectares, agricultural land area is 8654.30 hectares. Phu Hoa district's population according to 2009 statistics is 103,184 people of the Kinh, Cham H'roi, Hoa, and Tay ethnic groups. The Cham H'roi and Tay people live in the mountainous area of ​​Hoa Hoi commune. Phu Hoa district's population density is 337 people/km 2 , mainly concentrated in delta communes, mountainous areas are more sparse. Phu Hoa district is on the left bank of Da Rang river, bordering Tuy An district to the north, Dong Hoa and Tay Hoa districts to the south, Tuy Hoa city to the east, Son Hoa district to the west. Located on National Highway 1 passing through and National Highway 25 almost running from east to west, Phu Hoa district has economic exchange conditions to develop its potential in all aspects as well as take advantage of its own advantages. to exchange and cooperate with other provinces, especially the Central Highlands region. Phu Hoa district has a total natural land area of ​​about 263.39 km2, accounting for 5.21% of the province's natural area. Located in the delta of the Da Rang River, at the gateway to the Central Highlands. The district's forestry land area is 10,976.40 hectares and the total agricultural land area is 8,654.30 hectares, of which the main wet rice growing area is. Phu Hoa is blessed by nature, in addition to the fertile plains that are favorable for the development of wet rice, it also has quite large potential for reserves of materials used in the basic construction industry (sand, soil, stone); some sand and gravel mining areas in Hoa An, Hoa Thang, and TT communes. Phu Hoa provides a large volume of construction materials not only in the district but also in neighboring areas. Phu Hoa district has common features of the tropical monsoon hydrological climate of the South Central region, with two distinct seasons every year. In addition to the common features, Phu Hoa's hydroclimate also has some unique characteristics due to the impact of geographical location and topography. Phu Hoa's winds are mainly monsoon and southwest winds, the main wind directions are southeast, northeast and southwest. Annual rainfall is about 1700mm, mainly concentrated in the last four months of the year. The land of Phu Hoa district during the reign of the Nguyen Lords until Tay Son and the beginning of the Nguyen dynasty basically belonged to the southern cantons of Dong Xuan district. In 1899, Tuy Hoa district was upgraded to Tuy Hoa district. Tuy Hoa district at this time had 5 cantons, Hoa Binh canton was part of Phu Hoa district; By 1900, Hoa Tuong district was established, including a number of villages and communes on Phu Hoa land. From the beginning of the 20th century to 2002, the delineation of Phu Hoa district's administrative units was associated with the formation and development of the ancient Tuy Hoa government, Dong Hoa, Tay Hoa districts and present Tuy Hoa city. According to Decree Không. 15/2002/ND-CP dated January 31, 2002 of the Government, Tuy Hoa town was divided into two administrative units: Tuy Hoa town and Phu Hoa district.
Giới thiệu khái quát huyện Tuy An Điều kiện tự nhiên 1. Vị trí địa lý Tuy An là một huyện đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, nằm về phía Bắc tỉnh Phú Yên , với bờ biển có chiều dài 45 km, cách thành phố Tuy Hòa 30 km, với tổng diện tích tự nhiên: gần 415 km 2 ; huyện có 15 xã là An Chấn, An Mỹ, An Hòa, An Hải, An Hiệp, An Cư, An Dân, An Thạch, An Ninh Tây, An Ninh Đông, An Định, An Nghiệp, An Lĩnh, An Xuân, An Thọ và Thị trấn Chí Thạnh. Trong đó có 05 xã bãi ngang và 03 xã miền núi; có 85 thôn và 5 khu phố. Ranh giới hành chính huyện Tuy An cụ thể như sau: Phía Tây : giáp huyện Sơn Hòa. Phía Nam : giáp thành phố Tuy Hòa. Phía Bắc : giáp Thị xã Sông Cầu. Phía Tây Bắc : giáp huyện Đồng Xuân. Phía Đông : giáp Biển Đông. Huyện Tuy An nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn. Dịch về phía Bắc là cửa Tiên Châu chảy ra vịnh Xuân Đài, ngược về thượng nguồn với những đập nước thủy lợi, về phía Tây là 03 xã núi non hiểm trở, có độ cao trung bình từ 250 – 500m so với mặt nước biển, với khí hậu mát mẻ ôn hòa. Với địa hình đa dạng: đồng bằng, ven biển và đồi núi, được thiên nhiên ưu đãi tạo nên nhiều cảnh quan, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Gành Đá Đĩa nằm ngay bờ biển có cấu tạo kỳ lạ với vô số trụ đá hình ngũ giác đều đặn xếp chồng lên nhau, được hình thành trong quá trình hoạt động của núi lửa ở vùng cao nguyên Vân Hòa (Phú Yên) cách đây gần 200 triệu năm là một trong những danh lam thắng cảnh cấp quốc gia độc đáo có một không hai ở Việt Nam, đặc biệt nơi đây có Đầm Ô Loan là một đầm nước lợ với diện tích mặt nước 1.570ha với nhiều đặc sản hải sản nổi tiếng. 2. Dân số Dân số toàn huyện có 125.656 nghìn người (số liệu 12/2017) với 39.333 hộ gia đình. Mật độ trung bình: 303 người/km 2 . Có 04 tôn giáo chính là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao đài và Tin lành. 3. Lượng mưa Thời tiết chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Do tác động của địa hình rừng núi nên từ tháng 11 đến tháng 3 thường có sương mù vào buổi sáng; lượng mưa trung bình hàng năm 151 mm. 4. Độ ẩm Nhiệt độ trung bình 25 – 27 o C cao nhất là 38 – 40 o C; độ ẩm trung bình 85%, cao nhất 95%. 5. Địa hình Địa hình ở Tuy An có đồi núi, đồng bằng và biển. Tuy An nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn và là nơi các nhánh của dãy Trường Sơn đâm ra biển. Địa hình Tuy An thấp dần từ Tây sang Đông. Điểm cao nhất là núi Hòn Chuông, cao 500m. Xã có núi non hiểm trở, đường giao thông đi lại khó khăn như An Lĩnh, An Thọ. 6. Thủy Văn Có sông Cái chảy từ thượng nguồn qua huyện Đồng Xuân, qua An Định, An Dân, An Thạch, An Ninh Tây và ra biển. Sông Cái dài 75km, đoạn chảy qua huyện Tuy An dài 20km, đây là con sông chính cung cấp lượng nước cho vùng đồng bằng phía Bắc. 7. Tài nguyên thiên nhiên 7.1 Tài nguyên rừng Trên địa bàn huyện tổng diện tích quy hoạch lâm nghiệp đến năm 2025 là14.821,22 ha và không có rừng đặc dụng. Trong đó có 467,32 ha rừng phòng hộ, 14 353,90 ha rừng sản xuất. (Theo Nghị quyết số:100/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Phú Yên ngày 08/12/2017 về việc thông qua kết quả rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng tỉnh Phú Yên) 7.2 Khoáng sản Nguồn tài nguyên khoáng sản của huyện khá phong phú gồm có: Quặng diatomite xã An Xuân, với trữ lượng trên 61 triệu m 3 , chiếm 88% trữ lượng toàn tỉnh, với diện tích 66ha. Diatomite là khoáng sản có giá trị cao, có thể sử dụng trong 300 lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Ngoài ra còn có sắt, đá xay công nghiệp, cát xây dựng, Bôxit và các loại khoáng sản khác. 7.3 Tài nguyên du lịch Tuy An sở hữu nhiều bãi biển rộng, nước trong xanh, bờ cát mịn trải dài gắn với cảnh quan thiên nhiên đẹp, do thiên nhiên kiến tạo nổi bật như Gành Đá Đĩa, Hòn Yến…và các di tích lịch sử khác, đặc biệt là di sản văn hóa Đá tiêu biểu là bộ Đàn đá và Kèn đá có niên đại cách ngày nay khoảng trên 2.500 năm. Nhiều lễ hội truyền thống, các làn điệu dân ca, các điệu dân vũ đặc sắc; những làng nghề truyền thống và nhiều đặc sản nổi tiếng sẵn sàng phục vụ nhu cầu ẩm thực của du khách, tạo cơ hội cho du khách được trải nghiệm những khía cạnh văn hóa truyền thống. Những tài nguyên du lịch trên, đặc biệt là sự đa dạng, phong phú của di sản văn hóa là cơ sở để kêu gọi đầu tư hình thành các sản phẩm du lịch – dịch vụ, thu hút khách du lịch đến Tuy An. 8.Thuận lợi và Khó khăn: Thuận lợi: Khu vực hạ lưu sông Cái là đồng bằng màu mỡ, thuận lợi, trồng trọt, đa dạng hóa cây trồng.Tuy An còn có bờ biển dài, với nhiều vũng, vịnh, đầm; danh lam thắng cảnh và nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng. Nhìn tổng thể Tuy An là vùng đất có rất nhiều tiềm năng để phát triển về du lịch – dịch vụ. Khó khăn: Trên địa bàn huyện hay xảy ra nắng hạn, lũ lụt ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân. Tiềm năng du lịch Tuy An là vùng đất của di sản văn hóa phong phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều di tích và danh lam thắng cảnh đẹp như Thành An Thổ, chùa Từ Quang, hòn lao Mái nhà, đảo hòn Yến, đảo hòn Chùa và một số bãi tắm đẹp hoang sơ kết hợp giữa núi non, biển và cát trắng mịn, nước biển luôn trong xanh như: Bãi Phú Thường, Bãi Xép. Đặc biệt phải kể đến Gành Đá Đĩa danh thắng có một không hai ở Việt Nam; gành Ông, gành Bà là những cái tên có phần xa lạ với phần đông du khách, nhưng khi nhắc đến vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng trong phân cảnh bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” thì chắc chắn sẽ không thể nào quên Sự hình thành của vùng đất Tuy An góp phần vào quá trình hình thành và phát triển tỉnh Phú Yên hơn 400 năm lịch sử, người dân nơi đây đã tận dụng những điều kiện tự nhiên thuận lợi, để sáng tạo và hình thành nhiều làng nghề với những sản phẩm đặc trưng, nhiều sản phẩm hấp dẫn, độc đáo, chứa đựng nét văn hóa đặc trưng. Tính đến thời điểm hiện nay trên địa bàn huyện Tuy An có 03 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận đó là: làng nghề dệt Chiếu cói xã An Cư, làng nghề thúng chai Phú Mỹ, xã An Dân, làng nghề bánh tráng xã An Mỹ ngoài ra còn có một số nghề truyền thống khác như: nghề chế biến nước mắm, làm bún bắp, sản phẩm mỹ nghệ ốc đá, làm gốm. Nếu du khách đến Tuy An mà chưa ăn các món hải sản ở đây thì đó không phải là “ thiếu sót lớn” mà là “chưa tới Tuy An”. Hải sản Tuy An nổi tiếng ở đầm Ô Loan là đầm lớn nhất tỉnh, hải sản nuôi và hải sản đánh bắt tự nhiên. Lịch sử của huyện Tuy An Năm Tân Hợi (1611) phủ Phú Yên được lập ra gồm hai huyện: Đồng Xuân và Tuy Hòa do Văn Phong trấn giữ. Thủ phủ đóng tại làng Hội Phú (xã An Ninh Tây ngày nay), nhưng từ thuở đó tên gọi Tuy An chưa xuất hiện. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) – Phủ Tuy An – Một tên mới bắt đầu xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, do vua Minh Mạng đổi tên phủ Phú Yên thành phủ Tuy An thuộc vào Bình Định. Năm Minh Mạng lần thứ 13 (1832) phủ Tuy An được thăng thành tỉnh Phú Yên . Năm 1899, phủ Tuy An thống hạt huyện Đồng Xuân và lãnh 5 tổng là An Sơn, An Hải, An Đức, An Vinh, An Phú gồm 69 xã, thôn, phường. Ngày 7/9/1945, chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập, phủ Tuy An được đổi tên thành phủ Công Ái đến năm 1946 đổi thành huyện Tuy An, cấp tổng bỏ, 69 xã, thôn sát nhập lại thành 14 xã. Năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi huyện thành quận. Năm 1975, chính quyền cách mạng đổi tên quận Tuy An thành huyện Tuy An, các xã An Chấn, An Thọ nhập về Tuy An. Năm 1977, hợp với Huyện Đồng Xuân thành Huyện Xuân An. Năm 1979 trở lại huyện Tuy An như cũ, thôn Tân Long xã An Ninh nhập vào xã An Cư; thôn Ngân Sơn xã An Thạch và hai thôn Chí Thạnh, Chí Đức của xã An Cư hợp thành thị trấn Chí Thạnh; chia xã An Ninh thành hai xã: An Ninh Đông, An Ninh Tây; chia xã An Chấn thành hai xã: An Chấn và An Phú. Trải qua nhiều biến động của lịch sử, đến năm 1996 huyện Tuy An có thị trấn Chí Thạnh và 16 xã: An Phú, An Chấn, An Mỹ, An Hòa, An Hiệp, An Cư, An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Lĩnh, An Thọ, An Hải, An Ninh Đông, An Ninh Tây, An Dân, An Thạch . Ngày 5/1/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 03/2005/NĐ-CP thành lập TP Tuy Hòa; sáp nhập thị trấn Phú Lâm (thuộc huyện Tuy Hòa) và xã An Phú (thuộc huyện Tuy An) vào TP Tuy Hòa. Đến nay huyện Tuy An có 15 xã và 1 thị trấn. Thị trấn Chí Thạnh là trung tâm hành chính, kinh tế – xã hội của huyện Tuy An.
Giới thiệu khái quát huyện Tuy An Điều kiện tự nhiên 1. Vị trí địa lý Tuy An là một huyện đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, nằm về phía Bắc tỉnh Phú Yên , với bờ biển có chiều dài 45 km, cách thành phố Tuy Hòa 30 km, với tổng diện tích tự nhiên: gần 415 km 2 ; huyện có 15 xã là An Chấn, An Mỹ, An Hòa, An Hải, An Hiệp, An Cư, An Dân, An Thạch, An Ninh Tây, An Ninh Đông, An Định, An Nghiệp, An Lĩnh, An Xuân, An Thọ và Thị trấn Chí Thạnh. Trong đó có 05 xã bãi ngang và 03 xã miền núi; có 85 thôn và 5 khu phố. Ranh giới hành chính huyện Tuy An cụ thể như sau: Phía Tây : giáp huyện Sơn Hòa. Phía Nam : giáp thành phố Tuy Hòa. Phía Bắc : giáp Thị xã Sông Cầu. Phía Tây Bắc : giáp huyện Đồng Xuân. Phía Đông : giáp Biển Đông. Huyện Tuy An nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn. Dịch về phía Bắc là cửa Tiên Châu chảy ra vịnh Xuân Đài, ngược về thượng nguồn với những đập nước thủy lợi, về phía Tây là 03 xã núi non hiểm trở, có độ cao trung bình từ 250 – 500m so với mặt nước biển, với khí hậu mát mẻ ôn hòa. Với địa hình đa dạng: đồng bằng, ven biển và đồi núi, được thiên nhiên ưu đãi tạo nên nhiều cảnh quan, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Gành Đá Đĩa nằm ngay bờ biển có cấu tạo kỳ lạ với vô số trụ đá hình ngũ giác đều đặn xếp chồng lên nhau, được hình thành trong quá trình hoạt động của núi lửa ở vùng cao nguyên Vân Hòa (Phú Yên) cách đây gần 200 triệu năm là một trong những danh lam thắng cảnh cấp quốc gia độc đáo có một không hai ở Việt Nam, đặc biệt nơi đây có Đầm Ô Loan là một đầm nước lợ với diện tích mặt nước 1.570ha với nhiều đặc sản hải sản nổi tiếng. 2. Dân số Dân số toàn huyện có 125.656 nghìn người (số liệu 12/2017) với 39.333 hộ gia đình. Mật độ trung bình: 303 người/km 2 . Có 04 tôn giáo chính là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao đài và Tin lành. 3. Lượng mưa Thời tiết chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Do tác động của địa hình rừng núi nên từ tháng 11 đến tháng 3 thường có sương mù vào buổi sáng; lượng mưa trung bình hàng năm 151 mm. 4. Độ ẩm Nhiệt độ trung bình 25 – 27 o C cao nhất là 38 – 40 o C; độ ẩm trung bình 85%, cao nhất 95%. 5. Địa hình Địa hình ở Tuy An có đồi núi, đồng bằng và biển. Tuy An nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn và là nơi các nhánh của dãy Trường Sơn đâm ra biển. Địa hình Tuy An thấp dần từ Tây sang Đông. Điểm cao nhất là núi Hòn Chuông, cao 500m. Xã có núi non hiểm trở, đường giao thông đi lại khó khăn như An Lĩnh, An Thọ. 6. Thủy Văn Có sông Cái chảy từ thượng nguồn qua huyện Đồng Xuân, qua An Định, An Dân, An Thạch, An Ninh Tây và ra biển. Sông Cái dài 75km, đoạn chảy qua huyện Tuy An dài 20km, đây là con sông chính cung cấp lượng nước cho vùng đồng bằng phía Bắc. 7. Tài nguyên thiên nhiên 7.1 Tài nguyên rừng Trên địa bàn huyện tổng diện tích quy hoạch lâm nghiệp đến năm 2025 là14.821,22 ha và không có rừng đặc dụng. Trong đó có 467,32 ha rừng phòng hộ, 14 353,90 ha rừng sản xuất. (Theo Nghị quyết số:100/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Phú Yên ngày 08/12/2017 về việc thông qua kết quả rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng tỉnh Phú Yên) 7.2 Khoáng sản Nguồn tài nguyên khoáng sản của huyện khá phong phú gồm có: Quặng diatomite xã An Xuân, với trữ lượng trên 61 triệu m 3 , chiếm 88% trữ lượng toàn tỉnh, với diện tích 66ha. Diatomite là khoáng sản có giá trị cao, có thể sử dụng trong 300 lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Ngoài ra còn có sắt, đá xay công nghiệp, cát xây dựng, Bôxit và các loại khoáng sản khác. 7.3 Tài nguyên du lịch Tuy An sở hữu nhiều bãi biển rộng, nước trong xanh, bờ cát mịn trải dài gắn với cảnh quan thiên nhiên đẹp, do thiên nhiên kiến tạo nổi bật như Gành Đá Đĩa, Hòn Yến…và các di tích lịch sử khác, đặc biệt là di sản văn hóa Đá tiêu biểu là bộ Đàn đá và Kèn đá có niên đại cách ngày nay khoảng trên 2.500 năm. Nhiều lễ hội truyền thống, các làn điệu dân ca, các điệu dân vũ đặc sắc; những làng nghề truyền thống và nhiều đặc sản nổi tiếng sẵn sàng phục vụ nhu cầu ẩm thực của du khách, tạo cơ hội cho du khách được trải nghiệm những khía cạnh văn hóa truyền thống. Những tài nguyên du lịch trên, đặc biệt là sự đa dạng, phong phú của di sản văn hóa là cơ sở để kêu gọi đầu tư hình thành các sản phẩm du lịch – dịch vụ, thu hút khách du lịch đến Tuy An. 8.Thuận lợi và Khó khăn: Thuận lợi: Khu vực hạ lưu sông Cái là đồng bằng màu mỡ, thuận lợi, trồng trọt, đa dạng hóa cây trồng.Tuy An còn có bờ biển dài, với nhiều vũng, vịnh, đầm; danh lam thắng cảnh và nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng. Nhìn tổng thể Tuy An là vùng đất có rất nhiều tiềm năng để phát triển về du lịch – dịch vụ. Khó khăn: Trên địa bàn huyện hay xảy ra nắng hạn, lũ lụt ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân. Tiềm năng du lịch Tuy An là vùng đất của di sản văn hóa phong phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều di tích và danh lam thắng cảnh đẹp như Thành An Thổ, chùa Từ Quang, hòn lao Mái nhà, đảo hòn Yến, đảo hòn Chùa và một số bãi tắm đẹp hoang sơ kết hợp giữa núi non, biển và cát trắng mịn, nước biển luôn trong xanh như: Bãi Phú Thường, Bãi Xép. Đặc biệt phải kể đến Gành Đá Đĩa danh thắng có một không hai ở Việt Nam; gành Ông, gành Bà là những cái tên có phần xa lạ với phần đông du khách, nhưng khi nhắc đến vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng trong phân cảnh bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” thì chắc chắn sẽ không thể nào quên Sự hình thành của vùng đất Tuy An góp phần vào quá trình hình thành và phát triển tỉnh Phú Yên hơn 400 năm lịch sử, người dân nơi đây đã tận dụng những điều kiện tự nhiên thuận lợi, để sáng tạo và hình thành nhiều làng nghề với những sản phẩm đặc trưng, nhiều sản phẩm hấp dẫn, độc đáo, chứa đựng nét văn hóa đặc trưng. Tính đến thời điểm hiện nay trên địa bàn huyện Tuy An có 03 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận đó là: làng nghề dệt Chiếu cói xã An Cư, làng nghề thúng chai Phú Mỹ, xã An Dân, làng nghề bánh tráng xã An Mỹ ngoài ra còn có một số nghề truyền thống khác như: nghề chế biến nước mắm, làm bún bắp, sản phẩm mỹ nghệ ốc đá, làm gốm. Nếu du khách đến Tuy An mà chưa ăn các món hải sản ở đây thì đó không phải là “ thiếu sót lớn” mà là “chưa tới Tuy An”. Hải sản Tuy An nổi tiếng ở đầm Ô Loan là đầm lớn nhất tỉnh, hải sản nuôi và hải sản đánh bắt tự nhiên. Lịch sử của huyện Tuy An Năm Tân Hợi (1611) phủ Phú Yên được lập ra gồm hai huyện: Đồng Xuân và Tuy Hòa do Văn Phong trấn giữ. Thủ phủ đóng tại làng Hội Phú (xã An Ninh Tây ngày nay), nhưng từ thuở đó tên gọi Tuy An chưa xuất hiện. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) – Phủ Tuy An – Một tên mới bắt đầu xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, do vua Minh Mạng đổi tên phủ Phú Yên thành phủ Tuy An thuộc vào Bình Định. Năm Minh Mạng lần thứ 13 (1832) phủ Tuy An được thăng thành tỉnh Phú Yên . Năm 1899, phủ Tuy An thống hạt huyện Đồng Xuân và lãnh 5 tổng là An Sơn, An Hải, An Đức, An Vinh, An Phú gồm 69 xã, thôn, phường. Ngày 7/9/1945, chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập, phủ Tuy An được đổi tên thành phủ Công Ái đến năm 1946 đổi thành huyện Tuy An, cấp tổng bỏ, 69 xã, thôn sát nhập lại thành 14 xã. Năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi huyện thành quận. Năm 1975, chính quyền cách mạng đổi tên quận Tuy An thành huyện Tuy An, các xã An Chấn, An Thọ nhập về Tuy An. Năm 1977, hợp với Huyện Đồng Xuân thành Huyện Xuân An. Năm 1979 trở lại huyện Tuy An như cũ, thôn Tân Long xã An Ninh nhập vào xã An Cư; thôn Ngân Sơn xã An Thạch và hai thôn Chí Thạnh, Chí Đức của xã An Cư hợp thành thị trấn Chí Thạnh; chia xã An Ninh thành hai xã: An Ninh Đông, An Ninh Tây; chia xã An Chấn thành hai xã: An Chấn và An Phú. Trải qua nhiều biến động của lịch sử, đến năm 1996 huyện Tuy An có thị trấn Chí Thạnh và 16 xã: An Phú, An Chấn, An Mỹ, An Hòa, An Hiệp, An Cư, An Định, An Nghiệp, An Xuân, An Lĩnh, An Thọ, An Hải, An Ninh Đông, An Ninh Tây, An Dân, An Thạch . Ngày 5/1/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 03/2005/NĐ-CP thành lập TP Tuy Hòa; sáp nhập thị trấn Phú Lâm (thuộc huyện Tuy Hòa) và xã An Phú (thuộc huyện Tuy An) vào TP Tuy Hòa. Đến nay huyện Tuy An có 15 xã và 1 thị trấn. Thị trấn Chí Thạnh là trung tâm hành chính, kinh tế – xã hội của huyện Tuy An.
Giới thiệu khái quát huyện thị xã Sông Cầu VỊ TRÍ ĐỊA LÝ – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý: Thị xã Sông Cầu nằm ở phía Bắc của Tỉnh Phú Yên, có tọa độ 13 0 21 ’ đến 13 0 42 ’ vĩ độ bắc và 109 0 06 ’ đến 109 0 20 ’ kinh độ đông; phía Bắc giáp thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định , phía Nam giáp thị xã Tuy An, phía Tây giáp thị xã Đồng Xuân, phía Đông giáp Biển Đông. 2. Đặc điểm khí hậu: Khí hậu Sông Cầu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, chịu ảnh hưởng của gió Tây và gió Tây Nam. Tháng 4 là tháng khô nhất, tháng 7, 8 có gió Nam hay còn gọi là gió Lào khô, nóng. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông – Bắc. Hằng năm, thường mưa nhiều vào tháng 10, tháng 11, chiếm 60% lượng mưa hàng năm. Tổng số ngày mưa trong năm là 130 ngày, độ ẩm trung bình 81%. Số giờ nắng trung bình trong năm là 2500 giờ. Số giờ nắng trung bình trong một ngày 6-8 giờ. Nhiệt độ trung bình cao nhất là 29 0 C, thấp nhất là 20 0 C, trung bình là 25 0 C. 3. Đặc điểm địa hình: Địa hình Sông Cầu có những nhánh núi tách ra từ dãy Trường Sơn chạy theo hướng Đông – Nam ra đến biển, tạo thành những đèo, dốc tương đối cao, hiểm trở như đèo Cù Mông, dốc Găng…đồng thời chia vùng đồng bằng thành những cánh đồng, vùng đất trồng hoa màu nhỏ hẹp. Bờ biển Sông Cầu dài 80 km, với 15.700 km 2 mặt nước. Điều kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội 1. Điều kiện tự nhiên: Thị xã Sông Cầu nằm giữa hai thành phố Quy Nhơn và Tuy Hoà, cách Quy Nhơn gần 50km về phía Bắc và cách thành phố Tuy Hoà gần 50km về phía nam, có quốc lộ 1A đi qua là cầu nối giữa thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Có đường quốc lộ 1D Sông Cầu – Gành Ráng – Quy nhơn vừa được đầu tư xây dựng cách đây vài năm, rút ngắn được khoảng cách từ Sông Cầu đến thành phố Quy Nhơn, có Tỉnh lộ 642 và 644 chạy theo hướng Đông – Tây bắt đầu từ quốc lộ 1A, nối liền Sông Cầu với các thị xã Miền núi phía tây của tỉnh và các tỉnh Tây nguyên. Thị xã Sông Cầu còn có vị trí nằm trong vùng phát triển kinh tế các tỉnh ven biển miền trung với hệ thống giao thông thuận lợi, gần cảng biển, sân bay và các khu kinh tế lân cận, có tiềm năng phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá và trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá phía Bắc của tỉnh Phú Yên. 2. Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của thị xã giai đoạn 2001 – 2005 đạt 12,1%; tổng giá trị sản phẩm chiếm 11,4% so với cả tỉnh; thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ mức bình quân của tỉnh. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, vượt hơn mức bình quân chung của tỉnh Phú Yên. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực theo hướng du lịch, dịch vụ, thương mại và công nghiệp – xây dựng, mức độ phụ thuộc vào nông nghiệp ngày càng giảm. Kinh tế thị xã Sông Cầu có vai trò quan trọng đối với kinh tế tỉnh Phú Yên nói chung và kinh tế tiểu vùng phía bắc tỉnh nói riêng; Vừa qua tỉnh Phú Yên đã đầu tư xây dựng khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu I (diện tích 97,5 ha) đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào đầu tư sản xuất, trong đó có 12 doanh nghiệp đi vào sản xuất, một số doanh nghiệp đang xây dựng; tỉnh đang có chủ trương xây dựng khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu II (diện tích 102,7 ha), khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu III (diện tích 100 ha) và khu dân cư phục vụ khu công nghiệp (diện tích 147 ha) khả năng thu hút từ 6.000 đến 7.000 lao động, đây là động lực thúc đẩy thị xã Sông Cầu phát triển kinh tế – xã hội mạnh mẽ nhất, tạo ra bước nhảy vọt, cùng với vùng kinh tế Đông Tác – Vũng Rô, khu công nghiệp Nam Tuy An (Phú Yên), khu kinh tế Nhơn Hội, khu công nghiệp Phú Tài (Bình Định), hình thành các trọng điểm phát triển kinh tế, làm hạt nhân cho công nghiệp hoá toàn tỉnh và liên vùng kinh tế Phú Yên – Bình Định. 3. Về du lịch dịch vụ: Sông Cầu cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50 km về phía Bắc theo tuyến quốc lộ 1D, đã tạo lập cho Sông Cầu một khu du lịch liên vùng với các điểm Du lịch như: Gò Găng, Gò Bồi, Tây Sơn, Gành Ráng, Quy Hòa (thuộc Bình Định) và Xuân Hải, Vũng Chào, Vũng Me, Bãi Ôm, Nhất Tự Sơn, Gành Đỏ (thuộc Sông Cầu). Khu du lịch liên hoàn này tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc hình thành một khu du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, tắm biển. Khách du lịch có thể đi lại thuận tiện bởi có các tuyến đường bộ, đường biển, đường sắt (ga Tuy Hòa, Diêu trì), đường hàng không (sân bay Phù Cát, Ðông Tác). Ngoài ra Sông Cầu còn có các điểm du lịch Văn hoá – Lịch sử như: Di tích Hòn Hương, Mã chín tầng, Di tích khảo cổ học Gò Ốc, Cồn Đình, Miếu Công Thần, Mộ cụ Đào Trí, danh thắng Vịnh Xuân Đài… Các năm gần đây thị xã đã thu hút được nhiều nhà đầu tư triển khai các dự án du lịch, trong đó có một số dự án với quy mô đầu tư lớn đang được triển khai xây dựng như: Khu du lịch Long Hải Bắc – thị trấn Sông Cầu (diện tích 8,7 ha, tổng mức đầu tư 18 tỷ đồng); Bãi Tràm – Xuân Cảnh (diện tích 98,4 ha; Tổng mức đầu tư 50,5 tỷ đồng); Bãi Ôm Xuân Phương (diện tích 18 ha; Tổng mức đầu tư 2 triệu USD); riêng khu vực Bãi Bàng, Bãi Bầu và Bãi Rạng – xã Xuân Hải; đã có 06 dự án du lịch sinh thái đi vào hoạt động. Ngành du lịch thị xã Sông Cầu đang có bước phát triển đáng khích lệ, cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư; một số dự án du lịch lớn đang được xây dựng. Du lịch Sông Cầu nằm theo Trục Bắc – Nam dọc tuyến quốc lộ 1A và quốc lộ 1D nối thành phố Tuy Hoà với tỉnh Bình Định và các tỉnh Tây Nguyên; du lịch gắn liền với vùng biển và ven biển, được khai thác từ các cảnh quan thiên nhiên biển; có khu nghỉ dưỡng, khu tắm biển; nhiều khu vui chơi, giải trí cho du khách đặc biệt đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp; các bãi tắm nổi tiếng như: Bãi Bàng, Bãi Rạng, Bãi Bầu, Bãi Nhổm, Bãi Nồm, Bãi Tràm, Bãi Ôm…rất phù hợp việc đầu tư phát triển du lịch và dịch vụ, hiện nay đã thu hút được một số dự án đầu tư trong và ngoài nước về du lịch sinh thái, tắm biển…đang được tiếp tục đầu tư khai thác các tiềm năng thế mạnh về du lịch để phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của thị xã. 4. Về quốc phòng an ninh: Là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong thế trận phòng thủ của tỉnh. Nằm giữa hai thành phố, phía bắc là thành phố Quy Nhơn – tỉnh Bình Định, phía nam là thành phố Tuy Hoà – tỉnh Phú Yên. Sông Cầu có điều kiện để phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, trên cả 3 vùng: ven biển, đồng bằng và miền núi. Trong đó quan trọng là kết hợp kinh tế biển và phòng vệ ven biển, củng cố thế trận kinh tế vùng núi Đá Giăng – Bình Tây là hậu cứ khi chiến tranh xảy ra.
General introduction to Song Cau town district GEOGRAPHICAL LOCATION – NATURAL CONDITIONS 1. Geographical location: Song Cau Town is located in the North of Phu Yen Province, coordinates 13 0 21 ' to 13 0 42 ' north latitude and 109 0 06 ' to 109 0 20 ' East longitude; The North borders Quy Nhon city pacify the province , the South borders Tuy An town, the West borders Dong Xuan town, the East borders the East Sea. 2. Climate characteristics: Song Cau climate belongs to the tropical monsoon climate zone, divided into two distinct seasons. The dry season is from January to August, influenced by West and Southwest winds. April is the driest month, July and August have the South wind, also known as the hot, dry Lao wind. The rainy season from September to December is influenced by the North-East monsoon. Every year, it usually rains a lot in October and November, accounting for 60% of the annual rainfall. The total number of rainy days in the year is 130 days, average humidity is 81%. The average number of sunshine hours in a year is 2500 hours. The average number of sunshine hours in a day is 6-8 hours. The highest average temperature is 29 0 C, the lowest is 20 0 C, average is 25 0 C. 3. Terrain features: Cau River's terrain has mountain branches separating from the Truong Son range running East-South to the sea, forming relatively high and dangerous passes and slopes such as Cu Mong pass, Gang slope... and also divides the delta. into small fields and land for growing crops. Song Cau coast is 80 km long, with 15,700 km 2 water surface. Natural - economic - social conditions 1. Natural conditions: Song Cau town is located between Quy Nhon and Tuy Hoa cities, nearly 50km north of Quy Nhon and nearly 50km south of Tuy Hoa city, with National Highway 1A passing through as a bridge connecting Quy Nhon city, Binh Dinh province and Tuy Hoa city, Phu Yen province. There is a national highway 1D Song Cau - Ganh Rang - Quy Nhon that was just invested and built a few years ago, shortening the distance from Song Cau to Quy Nhon city. There are Provincial Highways 642 and 644 running East - West. starting from National Highway 1A, connecting Song Cau with the western mountainous towns of the province and the Central Highlands provinces. Song Cau Town is also located in the economic development zone of the central coastal provinces with a convenient transportation system, near seaports, airports and neighboring economic zones, with potential for economic development. , accelerating the pace of urbanization and becoming the northern economic and cultural center of Phu Yen province. 2. Economically: The town's average economic growth rate in the period 2001 - 2005 reached 12.1%; Total product value accounts for 11.4% of the whole province; Average income per capita is approximately the province's average. In general, the economic growth rate is fast, exceeding the average level of Phu Yen province. The process of economic restructuring has seen positive changes in the direction of tourism, services, trade and industry - construction, with the level of dependence on agriculture decreasing. Song Cau town's economy plays an important role in the economy of Phu Yen province in general and the economy of the northern sub-region of the province in particular; Recently, Phu Yen province has invested in building Northeast Song Cau I industrial park (area of ​​97.5 hectares) which has attracted many domestic and foreign investors to invest in production, including 12 enterprises. In production, some businesses are building; The province has a policy of building Northeast Song Cau II industrial park (area of ​​102.7 hectares), Northeast Song Cau III industrial park (area of ​​100 hectares) and residential area serving the industrial park (area 147 hectares) with the ability to attract from 6,000 to 7,000 workers, this is the driving force behind Song Cau town's strongest socio-economic development, creating a leap forward, along with the Dong Tac - Vung economic region. Ro, Nam Tuy An industrial park (Phu Yen), Nhon Hoi economic zone, Phu Tai industrial park (Binh Dinh), forming key economic development centers, serving as the nucleus for industrialization of the entire province and the association. Phu Yen - Binh Dinh economic region. 3. Regarding service tourism: Song Cau is about 50 km north of Quy Nhon city along National Highway 1D, creating Song Cau an inter-regional tourist area with tourist destinations such as Go Gang, Go Boi, Tay Son, Ganh Rang, Quy Hoa (belonging to Binh Dinh) and Xuan Hai, Vung Chao, Vung Me, Bai Om, Nhat Tu Son, Ganh Do (belonging to Song Cau). This integrated tourist area creates very favorable conditions for the formation of a resort, eco-tourism and swimming resort. Tourists can travel conveniently because there are road, sea, railway (Tuy Hoa, Dieu Tri stations), and air routes (Phu Cat, Dong Tac airport). In addition, Song Cau also has Cultural - Historical tourist attractions such as: Hon Huong Relics, Nine-storey Ma, Go Oc Archaeological Relics, Con Dinh, Cong Than Temple, Dao Tri's Tomb, and Vinh Xuan scenic spot. Radio… In recent years, the town has attracted many investors to implement tourism projects, including a number of large-scale investment projects being implemented such as: Long Hai Bac tourist area - Song Cau town (area 8.7 hectares, total investment 18 billion VND); Bai Tram - Xuan Canh (area 98.4 hectares; Total investment 50.5 billion VND); Om Xuan Phuong Beach (area 18 hectares; Total investment 2 million USD); Particularly the areas of Bai Bang, Bai Bau and Bai Rang - Xuan Hai commune; There have been 06 ecotourism projects in operation. Song Cau town's tourism industry is having encouraging developments, infrastructure is gradually being invested; Several large tourism projects are under construction. Song Cau tourism is located along the North - South axis along National Highway 1A and National Highway 1D connecting Tuy Hoa city with Binh Dinh province and the Central Highlands provinces; Tourism associated with marine and coastal areas, exploited from natural marine landscapes; There are resorts and swimming areas; many amusement and entertainment areas for tourists, especially Cu Mong lagoon and Xuan Dai bay with many beautiful natural landscapes; Famous beaches such as: Bai Bang, Bai Rang, Bai Bau, Bai Nhom, Bai Nom, Bai Tram, Bai Om... are very suitable for investment in tourism and service development, currently attracting a number of Domestic and foreign investment projects on eco-tourism, swimming... are continuing to invest in exploiting the tourism potential and strengths to develop tourism commensurate with the potential and strengths of the town. 4. Regarding national defense and security: This is an area with a very important strategic position in the province's defense posture. Located between two cities, the north is Quy Nhon city - Binh Dinh province, the south is Tuy Hoa city - Phu Yen province. Song Cau has conditions for economic development combined with national defense, in all three regions: coastal, plain and mountainous. The important thing is to combine the marine economy and coastal defense, consolidating the economic position in the Da Giang - Binh Tay mountain area as a base when war breaks out.
Giới thiệu khái quát huyện Lệ Thủy Lệ Thủy là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Bình , Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía Tây giáp nước CHDCND Lào, phía Đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 1.416,11 km 2 , có 36.545 hộ với 141.380 nhân khẩu (Năm 2012), mật độ dân số 99,8 người/ km 2 , có hai dân tộc chính là Kinh và Vân Kiều. Đây là quê hương của Sùng Nham hầu Dương Văn An , Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại Lược , Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ , Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân , Vũ Đăng Phương , Đại tướng Võ Nguyên Giáp . Lệ Thủy nổi tiếng với sông Kiến Giang , khu nghỉ mát suối nước khoáng Bang, văn hóa đặc trưng Hò khoan Lệ Thủy , trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9 , nơi đây diễn ra đua thuyền truyền thống trên sôn Kiến Giang và các Lễ hội nội bộ của một số xã như: Dương Thủy, Sen Thủy, Sơn Thủy… Trong Chiến tranh Việt Nam, nơi đây là chiến trường ác liệt với mật độ bom rải thảm của Không quân Mỹ với mật độ dày đặc. Lệ Thủy các các di tích lịch sử nổi bật Chùa An Xá ở Lộc Thủy, Miếu Thần Hoàng ở Tân Thủy, Miếu An Sinh ở Văn Thủy. Địa hình của huyện đồng bằng, ven biển hẹp và thấp, độ cao dưới 10 mét; sát biển có các dải cát cao 2 – 3 mét đến 50 mét, độ dốc lớn. Phía Tây đồi núi thấp, đỉnh cao nhất Thu Lu 925 mét; Sông lớn có Kiến Giang, Long Đại và nhiều sông, suối nhỏ: Rào Chân, Linh Giang, Khe Tích, Sông Thác Cốc…Có đường Quốc lộ 1A; Quốc lộ 15A, đường Hồ Chí Minh nhánh Đông và nhánh Tây, có đường sắt Bắc – Nam đi qua suốt chiều dài của huyện; 02 đường tỉnh lộ 10 và 16 đi ngang nối các Quốc lộ; huyện có 8 tuyến đường nội huyện dài 97Km, 28/28 xã thị trấn có đường ô tô đến trung tâm xã; phủ sóng điện thoại đến 28 xã, thị trấn, 16 xã có điểm Bưu điện văn hóa xã; Tổng số chợ trên địa bàn 28 cái, trong đó chợ thị trấn 03 cái, chợ xã 25 cái. Lệ Thủy có chùa Hoằng Phúc (Còn gọi là Chùa Quan) xây dựng từ năm 1609 có 09 quả chuông nặng hàng nghìn cân; có suối nước khoáng Bang chứa bicacbonat natri với nhiệt độ sôi tự nhiên 105 0 C. Huyện gồm 02 thị trấn là Kiến Giang và Lệ Ninh và 26 xã An Thủy, Phong Thủy, Lộc Thủy, Xuân Thủy, Liên Thủy, Tân Thủy, Dương Thủy, Mỹ Thủy, Thái Thủy, Sen Thủy, Hưng Thủy, Cam Thủy, Thanh Thủy, Hồng Thủy, Ngư Thủy Bắc, Ngư Thủy Trung, Ngư Thủy Nam, Mai Thủy, Phú Thủy, Sơn Thủy, Trường Thủy, Văn Thủy, Hoa Thủy, Kim Thủy, Ngân Thủy, Lâm Thủy. Huyện Lệ Thủy có từ lâu thuộc phủ Tân Bình, năm 1831 thuộc phủ Quảng Ninh. Từ 1977 đến 1989 nhập với huyện Quảng Ninh thành huyện Lệ Ninh, tỉnh Bình Trị Thiên. Cuối năm 1989 tách huyện Lệ Ninh tái lập huyện Lệ Thủy thuộc tỉnh Quảng Bình. Lê Hữu Bình – Trưởng phòng Nội vụ
General introduction to Le Thuy district Le Thuy is a delta district Quang Binh Province , Vietnam. The south borders Vinh Linh district (in Quang Tri province), the north borders Quang Ninh district (Quang Binh), the west borders Lao PDR, the east borders the East Sea. Natural area 1,416.11 km2 2 , there are 36,545 households with 141,380 people (2012), population density 99.8 people/km 2 , there are two main ethnic groups: Kinh and Van Kieu. This is the hometown of Sung Nham Marquis Duong Van An , Kim Tu Vinh Loc Dai Phu Dang Dai Luoc , Marquis of Master Duc Dang Dai Do , the Master said Nguyen Dang Tuan , Vu Dang Phuong , General Vo Nguyen Giap . Le Thuy is famous for Kien Giang river , Bang mineral spring resort, unique culture Le Thuy drill hole , including the chant of rowing the boat and the chant of pounding rice. Every year, on the day September 2 , where traditional boat racing takes place on Kien Giang river and internal festivals of some communes such as Duong Thuy, Sen Thuy, Son Thuy... During the Vietnam War, this place was a fierce battlefield with high density. Carpet bombing by the US Air Force with dense density. Le Thuy has outstanding historical relics: An Xa Pagoda in Loc Thuy, Than Hoang Temple in Tan Thuy, An Sinh Temple in Van Thuy. The terrain of the district is plain, the coast is narrow and low, the elevation is less than 10 meters; Close to the sea, there are sand bars 2 - 3 meters to 50 meters high, with steep slopes. The West has low hills and mountains, the highest peak Thu Lu is 925 meters; Big rivers include Kien Giang, Long Dai and many small rivers and streams: Rao Chan, Linh Giang, Khe Tich, Thac Coc River... There is National Highway 1A; National Highway 15A, Ho Chi Minh Highway East and West branches, with North - South railway passing through the entire length of the district; 02 provincial roads 10 and 16 passing through connecting National Highways; The district has 8 intra-district roads with a length of 97Km, 28/28 communes and towns have car roads to the commune center; Telephone coverage reaches 28 communes and towns, 16 communes have commune cultural post offices; The total number of markets in the area is 28, including 03 town markets and 25 commune markets. Le Thuy has Hoang Phuc Pagoda (also known as Quan Pagoda) built in 1609 with 9 bells weighing thousands of pounds; There is Bang mineral water spring containing sodium bicarbonate with a natural boiling point of 105 0 C. The district includes 02 towns: Kien Giang and Le Ninh and 26 communes An Thuy, Phong Thuy, Loc Thuy, Xuan Thuy, Lien Thuy, Tan Thuy, Duong Thuy, My Thuy, Thai Thuy, Sen Thuy, Hung Thuy, Cam Thuy, Thanh Thuy, Hong Thuy, Ngu Thuy Bac, Ngu Thuy Trung, Ngu Thuy Nam, Mai Thuy, Phu Thuy, Son Thuy, Truong Thuy, Van Thuy, Hoa Thuy, Kim Thuy, Ngan Thuy, Lam Thuy. Le Thuy district has long belonged to Tan Binh district, in 1831 it belonged to Quang Ninh district. From 1977 to 1989, it merged with Quang Ninh district to become Le Ninh district, Binh Tri Thien province. At the end of 1989, Le Ninh district was separated and Le Thuy district was established in Quang Binh province. Le Huu Binh – Head of Internal Affairs Department
Giới thiệu khái quát thành phố Đồng Hới Vị trí địa lý Thành phố Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình nằm trên quốc lộ 1A, Đường sắt Thống nhất Bắc Nam và đường Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý 17 o 21’ vĩ độ bắc và 106 o 10’ kinh độ đông. Thành phố có vị trí trung độ của tỉnh Quảng Bình, cách khu du lịch di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong nha – Kẻ Bàng 50 km, cách khu du lịch suối Bang 50 km, cách khu cụm Cảng biển Hòn La 60 km và cửa khẩu quốc tế Cha Lo 180 km, Đồng Hới nằm ngay dọc bờ biển, có sông Nhật Lệ chảy giữa lòng thành phố, bờ biển với chiều dài 12 km về phía Đông thành phố và hệ thống sông, suối, hồ, rừng nguyên sinh ở phía tây thành phố rất thích hợp cho phát triển du lịch, nghỉ ngơi, giải trí. Phạm vi hành chính: – Phía Bắc giáp huyện Bố Trạch – Phía Nam giáp huyện Quảng Ninh – Phía Đông giáp biển – Phía tây giáp huyện Bố Trạch, huyện Quảng Ninh Đặc điểm tự nhiên. * Diện tích tự nhiên: 155,54 km 2 * Dân số: 103.988 người Trong đó : – Đất nội thị: 55,58km 2 – Dân số nội thị: 68.165 người – Mật độ dân số nội thị: 1.226 người/ km 2 – Đất ngoại thị: 99,69 km 2 – Dân số ngoại thị: 35.823 người – Mật độ dân số ngoại thị: 359 người/ km 2 * Khí hậu: Nhiệt độ trung bình năm 24,4 0 C, lượng mưa trung bình từ 1.300 đến 4.000 mm, tổng giờ nắng 1.786 giờ/năm, độ ẩm trung bình trong năm khoảng 84% và thuộc chế độ gió mùa: gió Đông Nam (gió nồm), gió Tây Nam (gió nam), gió Đông Bắc. * Địa hình, địa chất: Địa hình, địa chất của Đồng Hới đa dạng bao gồm vùng gò đồi, vùng bán sơn địa, vùng đồng bằng và vùng cát ven biển. – Vùng gò đồi: Nằm ở phía Tây thành phố, vắt ngang từ Bắc xuống Nam, gồm các xã, phường Đồng Sơn, Thuận Đức, có độ cao trung bình 12 – 15m, với diện tích 6.493ha, chiếm 41,7% so với tổng diện tích của thành phố. Cư dân ở đây sinh sống bằng nghề trồng rừng, làm rẫy, chăn nuôi và trồng trọt. Thổ nhưỡng của vùng có đặc điểm chung là độ phì ít, nghèo chất dinh dưỡng, tầng đất màu không dày, độ dốc trung bình 7 – 10%, thường có hiện tượng rửa trôi, xói mòn. – Vùng bán sơn địa và đồng bằng: Là một vòng cung gò đồi không cao lắm (độ cao trung bình 10m), bao bọc lấy khu vực đồng bằng từ Đông Bắc – Bắc đến Tây Bắc – Tây Nam và Nam – Đông Nam, bao gồm các xã, phường Bắc Lý, Nam Lý, Nghĩa Ninh, Bắc Nghĩa, Đức Ninh, Đức Ninh Đông, Lộc Ninh và Phú Hải. Diện tích đất tự nhiên 6.287ha, chiếm 40,2% so với diện tích toàn thành phố. Cư dân sinh sống bằng nghề tiểu thu công nghiệp và nông nghiệp. Thổ nhưỡng của vùng có đặc diểm chung là không màu mỡ, bị chua phèn, tuy nhiên nhờ có mạng lưới sông ngòi, ao, hồ dày nên vẫn có thuận lợi trong trồng trọt và sản xuất. – Vùng đồng bằng: Thành phố Đồng Hới có vùng đồng bằng nhỏ hẹp, địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai kém phì nhiêu; độ cao trung bình 2,1m, dốc về hai phía trục đường Quốc lộ 1A, độ dốc nhỏ, chỉ khoảng 0,2%. Diện tích tự nhiên khoảng 576ha, chiếm 3,8% so với diện tích toàn thành phố. Đây là nơi tập trung dân cư và các cơ sở hạ tầng kinh tế chủ yếu của thành phố. – Vùng cát ven biển: nằm ở phía Đông của thành phố, gồm các xã, phường Bảo Ninh, Quang Phú, Hải Thành, có diện tích 2.198ha, chiếm 14,3% so với diện tích của thành phố. Đây là vùng biển vừa bãi ngang vừa cửa lạch; địa hình có những đụn cát cao liên tục (cao nhất 24,13m); giữa các đụn cát thỉnh thoảng có những hồ nước, khe nước ngọt tự nhiên, quanh năm có nước (bàu Tró, bàu Nghị, Bàu Tràm, bàu Thôn, Bàu Trung Bính…) Thành phố Đồng Hới có 16 đơn vị hành chính, gồm 10 phường và 6 xã: Thành phố Đồng Hới là một đơn vị hành chính gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của tỉnh Quảng Bình. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, thành phố Đồng Hới đã và đang từng ngày thay da đổi thịt. Thành phố Đồng Hới là một đơn vị hành chính gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của tỉnh Quảng Bình. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, thành phố Đồng Hới vẫn không ngừng phát triển. Trong thời kỳ 1964 – 1975, cùng với Quảng Bình, Đồng Hới vừa là tuyến đầu đánnh Mỹ vừa là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng, nơi đã có những phong trào “xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu, tiếc xương”, “chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”… những tên làng, tên đất, tên người như: dòng Nhật Lệ, Trận địa pháo lão dân quân Đức Ninh, em bé Bảo Ninh; các anh hùng: Quách Xuân Kỳ, Trương Pháp, Lê Trạm, Nguyễn Thị Suốt, Nguyễn Thị Khứu, Phạm Dung Hạnh, Phạm Thị Nghèng… đã đi vào lịch sử. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, năm 1976 tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập trên cơ sở sát nhập 3 tỉnh Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế, thành phố Đồng Hới chỉ giữ vai trò trung tâm kinh tế văn hoá của các huyện, khu vực phía Bắc. Sau ngày tái lập tỉnh Quảng Bình (tháng 7/1989), Đồng Hới trở lại vai trò là trung tâm tỉnh lỵ. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đã có định hướng xây dựng thành phố trở thành trung tâm chính trị – kinh tế – văn hoá – xã hội và khoa học kỹ thuật; nơi có vai trò là động lực phát triển của cả tỉnh. Đồng thời xây dựng thành phố Đồng Hới theo tiêu chuẩn đô thị hiện đại, nhằm từng bước nâng cao chất lượng đô thị hạt nhân, tác động thúc đẩy tiến trình đô thị hoá trên địa bàn toàn tỉnh. Với quyết tâm xây dựng lại quê hương “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ đã dạy, Đảng bộ, quân và dân Đồng Hới phát huy ý chí tự lực, tự cường, ý Đảng, lòng dân hoà quyện, xây dựng quê hương ngày càng đổi thay trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001-2005 là 12,5%, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao; tỷ lệ hộ giàu ngày càng tăng, hộ nghèo ngày càng giảm, không có hộ đói. Kết quả sự phấn đấu nỗ lực không ngừng của Đảng bộ, quân và dân Đồng Hới đã được khẳng định, ngày 28/10/2003 Bộ Xây dựng có quyết định công nhận Đồng Hới là đô thị loại III và chỉ 10 tháng sau, ngày 16/8/2004, Chính phủ đã có Nghị định thành lập thành phố Đồng Hới trực thuộc tỉnh Quảng Bình. Đây là niềm tự hào và vinh dự lớn, là mốc son quan trọng đánh dấu quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đồng Hới nói riêng, tỉnh Quảng Bình nói chung, đồng thời là động lực thúc đẩy đảng bộ, quân và dân thành phố tiếp tục phấn đấu xây dựng thành phố ngày càng giàu mạnh, văn minh.
General introduction to Dong Hoi city Geographical location Dong Hoi city, belonging to Quang Binh Province Located on National Highway 1A, North-South Unified Railway and Ho Chi Minh Road, geographical location 17 o 21' north latitude and 106 o 10' east longitude. The city is centrally located in Quang Binh province, 50 km from the world natural heritage tourist area of ​​Phong Nha - Ke Bang national park, 50 km from Bang stream tourist area, 60 km from Hon La seaport cluster. km and Cha Lo international border gate 180 km, Dong Hoi is located right along the coast, with Nhat Le river flowing in the heart of the city, a coastline with a length of 12 km to the east of the city and a system of rivers, streams, lakes, The primeval forest in the west of the city is very suitable for tourism, rest and entertainment development. Administrative scope: – The North borders Bo Trach district – The South borders Quang Ninh district – The East borders the sea – The west borders Bo Trach district, Quang Ninh district Natural features. * Natural area: 155.54 km 2 * Population: 103,988 people In there : – Urban land: 55.58km 2 – Inner city population: 68,165 people – Urban population density: 1,226 people/km 2 – Suburban land: 99.69 km 2 – Suburban population: 35,823 people – Suburban population density: 359 people/km 2 * Climate: Average annual temperature is 24.4 0 C, average rainfall from 1,300 to 4,000 mm, total sunshine hours 1,786 hours/year, average humidity in the year is about 84% and belongs to the monsoon regime: Southeast wind (south wind), Southwest wind (south wind ), Northeaster. * Terrain and geology: Dong Hoi's terrain and geology are diverse, including hilly areas, semi-mountainous areas, plains and coastal sandy areas. – Hilly area: Located in the west of the city, crossing from North to South, including communes and wards of Dong Son and Thuan Duc, with an average altitude of 12 - 15m, with an area of ​​6,493ha, accounting for 41.7% compared to the total area of ​​the city. Residents here make a living from forestry, farming, animal husbandry and farming. The general characteristics of the region's soil are low fertility, poor nutrients, not a thick layer of fertile soil, an average slope of 7 - 10%, and often leaching and erosion. – Semi-mountainous and plain region: Is an arc of not very high hills (average height 10m), covering the plain area from Northeast - North to Northwest - Southwest and South - Southeast, including communes and wards of Bac Ly, Nam Ly, Nghia Ninh, Bac Nghia, Duc Ninh, Duc Ninh Dong, Loc Ninh and Phu Hai. Natural land area is 6,287 hectares, accounting for 40.2% of the entire city area. Residents make a living from small scale industry and agriculture. The general characteristics of the region's soil are that it is not fertile and acidic, but thanks to the thick network of rivers, ponds and lakes, it is still favorable for cultivation and production. – Delta: Dong Hoi city has a small, narrow delta, relatively flat terrain, and less fertile land; Average height is 2.1m, sloping on both sides of National Highway 1A, small slope, only about 0.2%. The natural area is about 576 hectares, accounting for 3.8% of the entire city area. This is where the city's population and main economic infrastructure are concentrated. – Coastal sandy area: located in the East of the city, including communes and wards of Bao Ninh, Quang Phu, Hai Thanh, with an area of ​​2,198 hectares, accounting for 14.3% of the city's area. This is a sea area that is both a beach and a creek mouth; The terrain has continuously high sand dunes (highest 24.13m); Between the sand dunes, there are sometimes natural freshwater lakes and streams, with water all year round (Bau Tro, Bau Nghi, Bau Tram, Bau Thon, Bau Trung Binh...) Dong Hoi city has 16 administrative units, including 10 wards and 6 communes: Dong Hoi City is an administrative unit associated with the formation and development process of Quang Binh province. Through many historical periods, Dong Hoi city has been changing day by day. Dong Hoi City is an administrative unit associated with the formation and development process of Quang Binh province. Through many ups and downs of history, Dong Hoi city still continues to develop. During the period 1964 - 1975, along with Quang Binh, Dong Hoi was both the front line to fight against the Americans and the direct rear of the heroic southern front line, where there were movements "don't let the car pass the house without regret, Not yet informed, no regrets for blood, no regrets for bones", "good fighting, good production"... names of villages, names of land, names of people such as: Nhat Le family, Duc Ninh old militia artillery field, baby Bao Ninh; Heroes: Quach Xuan Ky, Truong Phap, Le Tram, Nguyen Thi Suot, Nguyen Thi Khuu, Pham Dung Hanh, Pham Thi Ngheng... have gone down in history. After the South was completely liberated and the country was unified, in 1976 Binh Tri Thien province was established on the basis of merging the three provinces of Quang Binh - Quang Tri - Thua Thien Hue, Dong Hoi city only played the central role. cultural economy of the northern districts and regions. After the re-establishment of Quang Binh province (July 1989), Dong Hoi returned to its role as the provincial center. Quang Binh Provincial Party Committee has oriented to build the city into a political - economic - cultural - social and scientific and technical center; which plays a role as the driving force for development of the whole province. At the same time, Dong Hoi city will be built according to modern urban standards, in order to gradually improve the quality of nuclear urban areas, promoting the urbanization process in the entire province. With the determination to rebuild the homeland "more dignified, bigger and more beautiful" as Uncle Ho taught, the Party Committee, army and people of Dong Hoi promote the will to be self-reliant, self-reliant, the Party's will and the people's hearts blend together and build. building a homeland is increasingly changing in all areas of social life. The average economic growth rate in the 2001-2005 period was 12.5%, people's lives were increasingly improved; The proportion of rich households is increasing, poor households are decreasing, there are no hungry households. The results of the unremitting efforts of the Party Committee, army and people of Dong Hoi were confirmed. On October 28, 2003, the Ministry of Construction decided to recognize Dong Hoi as a class III urban area and only 10 months later, On August 16, 2004, the Government issued a Decree establishing Dong Hoi city under Quang Binh province. This is a great pride and honor, an important milestone marking the process of building and growing up of the Party Committee and people of Dong Hoi city in particular and Quang Binh province in general, and at the same time is a driving force for promoting The city's party committee, army and people continue to strive to build an increasingly prosperous and civilized city.
Giới thiệu khái quát huyện Nam Trà My Vị trí: Nằm trên quốc lộ 40B nối tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum toàn tuyến: khoảng hơn 200 km. Trung tâm hành chính huyện đặt tại xã Trà Mai, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. · Diện tích tự nhiên: 82.546,04 ha. Đất có rừng 43.246,32 ha (Rừng tự nhiên: 42.926,48 ha; rừng trồng: 319,84 ha) Phía Tây giáp huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam; Phía Đông giáp huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi, huyện Kon Plong tỉnh Kon Tum; Phía Bắc giáp huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam; Phía Nam, Tây Nam, Đông Nam giáp các huyện Đắk Glei, huyện TuMơRông tỉnh Kon Tum. · Khí hậu: khí hậu có 02 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, mùa khô, từ tháng 2 đến tháng 8; nhiệt độ thấp nhất 70C, nhiệt độ cao nhất 320c; độ ẩm bình quân trong năm là: 88%; số giờ nắng trong năm là: 1.874 giờ. Lượng mưa trung bình hằng năm 670-770mm. Độ cao trung bình 800m so với mực nước biển. · Giao thông: Nằm ở vùng Tây Nam của tỉnh Quảng Nam, trên ngã ba ranh giới giữa tỉnh Quảng Nam với hai tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum. Cách tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam khoảng 100km, cách Thành phố Đà Nẵng 170km về phía Nam. Nằm ở trung tâm của tỉnh lỵ các tỉnh Quảng Nam, tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi, hiện nay đã hình thành các tuyến đường nhánh nối liền giữa Huyện Nam Trà My với các tỉnh, huyện lân cận như tuyến đường: Trà Leng – Phước Sơn nối đường Hồ Chí Minh; Quốc lộ 40B – Đăk Tô nối đường Hồ Chí Minh; Tuyến đường Đông Trường Sơn (Lạc Dương – Lâm Đồng – Thạnh Mỹ – Nam Giang) ..v..v.. · Thổ nhưỡng: Đất đai, thổ nhưỡng chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng đặc trưng của khu vực vùng núi cao Miền trung tây nguyên (>700m so với mực nước biển) Website: · Điện thoại: + (84) 5103 880015 · Fax/Email: + (84) 5103 880015/ TỔNG QUAN VỀ CÂY SÂM NGỌC LINH: Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam) là một cây đặc hữu của vùng núi Ngọc Linh, là cây thuốc quý hiếm của tỉnh Quảng Nam và của Quốc gia. · Theo kết quả nghiên cứu khoa học, sâm Ngọc Linh về mặt hóa học, thân, rễ củ sâm Ngọc Linh đã phân lập được 52 saponin, trong đó có 26 saponin thường thấy ở sâm Triều Tiên, sâm Mỹ, sâm Nhật. Trong lá và cọng lá đã phân lập được 19 saponin dammaran. Trong đó có 8 saponin có cấu trúc mới. Ngoài thành phần chính là saponin, trong lá và cọng lá sâm Ngọc Linh còn xác định có 17 acid amin, 20 khoáng chất vi lượng và hàm lượng glucid tinh dầu là 0,1%. Sâm Ngọc Linh là một loài dược liệu quý hiếm vào bậc nhất ở Việt Nam. Nó quý bởi giá trị về chất lượng của nó đã được các nhà nghiên cứu chứng minh sâm Ngọc Linh có một số đặt điểm hơn cả sâm Trường Bạch (Triều Tiên) và hơn cả sâm Tây Dương (Mỹ). Và nó quý bởi nó đang sinh sống tự nhiên ở độ cao tuyệt đối trên 1.500m so với mặt nước biển. Ổn định ở vùng rừng già hỗn giao nguyên sinh mà tác động của con người gần như không đáng kể. · Sâm Ngọc Linh có tác dụng như: Bệnh nhân cảm thấy ăn ngon, ngủ tốt, tăng thể trọng, tăng thị lực, hoạt động trí lực và thể lực được cải thiện; Giảm mệt mõi, chống nhược sức lao động do lao động liên tục và quá tải; Gia tăng sức đề kháng của cơ thể trong các bệnh lý nhiễm trùng, hiệp lực với một số kháng sinh thông dụng…. · Đặc điểm sinh học cây Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam): Là loại Cây thân thảo, sống nhiều năm, cao khoảng 0,5m, thân rể (củ) nạc, đường kính từ 2-3cm. Lá kép hình chân vịt, gồm 3-4 là kép mỗi vòng; mỗi lá kép thường có 5-7 lá chét thuôn. Tán hoa có đường kính 2,5-5cm · Chu kỳ sinh trưởng phát triển hàng năm của cây Sâm Ngọc Linh Cây sâm Ngọc Linh trưởng thành (đối với cây mọc tự nhiên cũng như trồng) sau hơn 3 năm tuổi đều bắt đầu chu trình sinh trưởng hàng năm như sau: Từ tháng 1 – 3 chồi thân bắt đầu mọc và nhô lên lên khỏi mặt đất mang theo tán hoa. Sau 1-2 tháng lá non đã đạt gần đến độ trưởng thành. Từ tháng 4-5 cây bắt đầu nở hoa. Những năm thời tiết mưa sớm cây thường phát triển sớm nên nở hoa vào khoảng cuối tháng 3 hằng năm. Giai đoạn quả xanh kéo dài 3-4 tháng. Quả chín rộ vào tháng 8, cá biệt có cây quả chín muộn đến tháng 10. Từ tháng 10-12 hàng năm, sau mùa quả chín lá cây bắt đầu vàng úa, sau đó toàn phần trên mặt đất tàn lụi (ngủ đông). · Đặc điểm sinh thái Cây sinh trưởng và phát triển trên độ cao từ 1.200m trở lên so với mực nước biển, độ che phủ từ 70% trở lên, có lớp mùn phủ dày 30-50cm. Nhiệt độ trung bình 18-25 0 C. Biên độ nhiệt ngày đêm 5-16 0 c. Độ ẩm không khí 75-95%. Cây sâm Ngọc Linh phân bố chủ yếu ở vùng núi Ngọc Linh, thuộc xã Trà Linh, huyện Nam Trà My và các vùng lân cận thuộc các xã: Trà Cang, Trà Nam có điều kiện tự nhiên gần giống với vùng núi Ngọc Linh. · Giá trị về kinh tế: Trong những năm 1980 về trước, cây sâm Ngọc Linh chưa được người dân địa phương biết có giá trị cao, song những năm gần đây cây sâm có giá trị kinh tế rất cao. 01 kg sâm tươi hiện nay có giá trên 20 triệu đồng (~1.000USD), những lúc khan hiếm có thể lên đến 30-40 triệu đồng/kg. Nếu chúng ta trồng 01 ha sâm sau 6 năm sẽ thu lợi nhuận trên 2 tỷ đồng/ha (10.000USD). Đây là yếu tố để khuyến khích thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào trồng sâm Ngọc Linh. · Công tác bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh trên địa bàn huyện trong thời gian qua: Với những giá trị to lớn đó, trong thời gian qua, UBND tỉnh Quảng Nam và huyện Nam Trà My đã có những chủ trương chính sách nhằm bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, cự thể như sau: Hằng năm, từ các nguồn vốn khác nhau như Nghị quyết 30a/CP, Chương trình 135. UBND huyện đã hỗ trợ cho nhân dân các xã trung bình từ 20.000 – 30.000 cây sâm giống. Do vậy đến nay trong nhân dân tại 3 xã: Trà Nam, Trà Linh và Trà Cang đang hình thành 27 điểm trồng sâm, với hơn 653.500 cây sâm bao gồm nhiều độ tuổi khác nhau. Trại sâm giống Tắk Ngo, thôn 2 xã Trà Linh, do UBND huyện Nam Trà My đang quản lý với hơn 20.000 cây giống độ tuổi 3 năm; Trại Dược liệu Trà Linh trực thuộc Sở Y tế tỉnh Quảng Nam quản lý; tổng diện tích đang quản lý là 7,127ha, với tổng số lượng cây sâm là 167.658 cây · Định hướng phát triển trong thời gian đến: Để tiếp tục bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh trên địa bàn huyện; UBND tỉnh Quảng Nam đã có nhiều văn bản, như: § Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị quyết số 114 và UBND tỉnh có Quyết định số 2821/QĐ-UBND ngày 17/9/2014 về cơ chế khuyến khích bảo tồn, phát triển sâm Ngọc Linh tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2020; § Chính phủ có ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và đặc biệt đối với cây sâm Ngọc Linh là một trong những loại cây dược liệu quý của Việt Nam vào danh mục được hỗ trợ theo Nghị định 210 của Chính phủ; § Quyết định số 2117/QĐ-UBND ngày 8/7/2014 của UBND tỉnh Quảng Nam về phê duyệt Đề cương và dự toán Quy hoạch bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh trên địa bàn huyện Nam Trà My tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015-2020; Theo đó vùng quy hoạch sâm Ngọc Linh bao gồm 7 xã (Trà Nam, Trà Linh, Trà Cang, Trà Don, Trà Tập, Trà Dơn và Trà Leng), với tổng diện tích là 19.000 ha, ở độ cao trung bình từ 1.000 đến 2.400m so với mặt nước biển. § Về phía huyện Nam Trà My đã có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện về định hướng đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển vùng sâm như: đường giao thông đến các vùng sâm, Trung tâm nghiên cứu di thực sâm, Trung tâm nhân giống sâm Ngọc Linh bằng phương pháp vô tính, nhà trưng bày sản phẩm sâm Ngọc Linh,… § Hiện nay, tỉnh đang cho chủ trương khảo sát, lập dự án đầu tư vào phát triển mạng lưới giao thông vào vùng sâm, kinh phí khoảng 3.000 tỷ vnđ đồng (~140.000.000USD). Kiến nghị, đề xuất: Để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh cây sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam) trở thành sản phẩm quốc gia với tên gọi sâm Việt Nam, ngang tầm với sâm Hàn quốc trong tương lai, Chính phủ Việt Nam cũng như địa phương rất mong muốn có sự hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực. Trồng bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh; Chế biến các sản phẩm từ cây sâm Ngọc Linh như: – Dược liệu – Mỹ phẩm – Thực phẩm chức năng .v.v..
Giới thiệu khái quát huyện Nam Trà My Vị trí: Nằm trên quốc lộ 40B nối tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum toàn tuyến: khoảng hơn 200 km. Trung tâm hành chính huyện đặt tại xã Trà Mai, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. · Diện tích tự nhiên: 82.546,04 ha. Đất có rừng 43.246,32 ha (Rừng tự nhiên: 42.926,48 ha; rừng trồng: 319,84 ha) Phía Tây giáp huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam; Phía Đông giáp huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi, huyện Kon Plong tỉnh Kon Tum; Phía Bắc giáp huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam; Phía Nam, Tây Nam, Đông Nam giáp các huyện Đắk Glei, huyện TuMơRông tỉnh Kon Tum. · Khí hậu: khí hậu có 02 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, mùa khô, từ tháng 2 đến tháng 8; nhiệt độ thấp nhất 70C, nhiệt độ cao nhất 320c; độ ẩm bình quân trong năm là: 88%; số giờ nắng trong năm là: 1.874 giờ. Lượng mưa trung bình hằng năm 670-770mm. Độ cao trung bình 800m so với mực nước biển. · Giao thông: Nằm ở vùng Tây Nam của tỉnh Quảng Nam, trên ngã ba ranh giới giữa tỉnh Quảng Nam với hai tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum. Cách tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam khoảng 100km, cách Thành phố Đà Nẵng 170km về phía Nam. Nằm ở trung tâm của tỉnh lỵ các tỉnh Quảng Nam, tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi, hiện nay đã hình thành các tuyến đường nhánh nối liền giữa Huyện Nam Trà My với các tỉnh, huyện lân cận như tuyến đường: Trà Leng – Phước Sơn nối đường Hồ Chí Minh; Quốc lộ 40B – Đăk Tô nối đường Hồ Chí Minh; Tuyến đường Đông Trường Sơn (Lạc Dương – Lâm Đồng – Thạnh Mỹ – Nam Giang) ..v..v.. · Thổ nhưỡng: Đất đai, thổ nhưỡng chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng đặc trưng của khu vực vùng núi cao Miền trung tây nguyên (>700m so với mực nước biển) Website: · Điện thoại: + (84) 5103 880015 · Fax/Email: + (84) 5103 880015/ TỔNG QUAN VỀ CÂY SÂM NGỌC LINH: Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam) là một cây đặc hữu của vùng núi Ngọc Linh, là cây thuốc quý hiếm của tỉnh Quảng Nam và của Quốc gia. · Theo kết quả nghiên cứu khoa học, sâm Ngọc Linh về mặt hóa học, thân, rễ củ sâm Ngọc Linh đã phân lập được 52 saponin, trong đó có 26 saponin thường thấy ở sâm Triều Tiên, sâm Mỹ, sâm Nhật. Trong lá và cọng lá đã phân lập được 19 saponin dammaran. Trong đó có 8 saponin có cấu trúc mới. Ngoài thành phần chính là saponin, trong lá và cọng lá sâm Ngọc Linh còn xác định có 17 acid amin, 20 khoáng chất vi lượng và hàm lượng glucid tinh dầu là 0,1%. Sâm Ngọc Linh là một loài dược liệu quý hiếm vào bậc nhất ở Việt Nam. Nó quý bởi giá trị về chất lượng của nó đã được các nhà nghiên cứu chứng minh sâm Ngọc Linh có một số đặt điểm hơn cả sâm Trường Bạch (Triều Tiên) và hơn cả sâm Tây Dương (Mỹ). Và nó quý bởi nó đang sinh sống tự nhiên ở độ cao tuyệt đối trên 1.500m so với mặt nước biển. Ổn định ở vùng rừng già hỗn giao nguyên sinh mà tác động của con người gần như không đáng kể. · Sâm Ngọc Linh có tác dụng như: Bệnh nhân cảm thấy ăn ngon, ngủ tốt, tăng thể trọng, tăng thị lực, hoạt động trí lực và thể lực được cải thiện; Giảm mệt mõi, chống nhược sức lao động do lao động liên tục và quá tải; Gia tăng sức đề kháng của cơ thể trong các bệnh lý nhiễm trùng, hiệp lực với một số kháng sinh thông dụng…. · Đặc điểm sinh học cây Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam): Là loại Cây thân thảo, sống nhiều năm, cao khoảng 0,5m, thân rể (củ) nạc, đường kính từ 2-3cm. Lá kép hình chân vịt, gồm 3-4 là kép mỗi vòng; mỗi lá kép thường có 5-7 lá chét thuôn. Tán hoa có đường kính 2,5-5cm · Chu kỳ sinh trưởng phát triển hàng năm của cây Sâm Ngọc Linh Cây sâm Ngọc Linh trưởng thành (đối với cây mọc tự nhiên cũng như trồng) sau hơn 3 năm tuổi đều bắt đầu chu trình sinh trưởng hàng năm như sau: Từ tháng 1 – 3 chồi thân bắt đầu mọc và nhô lên lên khỏi mặt đất mang theo tán hoa. Sau 1-2 tháng lá non đã đạt gần đến độ trưởng thành. Từ tháng 4-5 cây bắt đầu nở hoa. Những năm thời tiết mưa sớm cây thường phát triển sớm nên nở hoa vào khoảng cuối tháng 3 hằng năm. Giai đoạn quả xanh kéo dài 3-4 tháng. Quả chín rộ vào tháng 8, cá biệt có cây quả chín muộn đến tháng 10. Từ tháng 10-12 hàng năm, sau mùa quả chín lá cây bắt đầu vàng úa, sau đó toàn phần trên mặt đất tàn lụi (ngủ đông). · Đặc điểm sinh thái Cây sinh trưởng và phát triển trên độ cao từ 1.200m trở lên so với mực nước biển, độ che phủ từ 70% trở lên, có lớp mùn phủ dày 30-50cm. Nhiệt độ trung bình 18-25 0 C. Biên độ nhiệt ngày đêm 5-16 0 c. Độ ẩm không khí 75-95%. Cây sâm Ngọc Linh phân bố chủ yếu ở vùng núi Ngọc Linh, thuộc xã Trà Linh, huyện Nam Trà My và các vùng lân cận thuộc các xã: Trà Cang, Trà Nam có điều kiện tự nhiên gần giống với vùng núi Ngọc Linh. · Giá trị về kinh tế: Trong những năm 1980 về trước, cây sâm Ngọc Linh chưa được người dân địa phương biết có giá trị cao, song những năm gần đây cây sâm có giá trị kinh tế rất cao. 01 kg sâm tươi hiện nay có giá trên 20 triệu đồng (~1.000USD), những lúc khan hiếm có thể lên đến 30-40 triệu đồng/kg. Nếu chúng ta trồng 01 ha sâm sau 6 năm sẽ thu lợi nhuận trên 2 tỷ đồng/ha (10.000USD). Đây là yếu tố để khuyến khích thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào trồng sâm Ngọc Linh. · Công tác bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh trên địa bàn huyện trong thời gian qua: Với những giá trị to lớn đó, trong thời gian qua, UBND tỉnh Quảng Nam và huyện Nam Trà My đã có những chủ trương chính sách nhằm bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, cự thể như sau: Hằng năm, từ các nguồn vốn khác nhau như Nghị quyết 30a/CP, Chương trình 135. UBND huyện đã hỗ trợ cho nhân dân các xã trung bình từ 20.000 – 30.000 cây sâm giống. Do vậy đến nay trong nhân dân tại 3 xã: Trà Nam, Trà Linh và Trà Cang đang hình thành 27 điểm trồng sâm, với hơn 653.500 cây sâm bao gồm nhiều độ tuổi khác nhau. Trại sâm giống Tắk Ngo, thôn 2 xã Trà Linh, do UBND huyện Nam Trà My đang quản lý với hơn 20.000 cây giống độ tuổi 3 năm; Trại Dược liệu Trà Linh trực thuộc Sở Y tế tỉnh Quảng Nam quản lý; tổng diện tích đang quản lý là 7,127ha, với tổng số lượng cây sâm là 167.658 cây · Định hướng phát triển trong thời gian đến: Để tiếp tục bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh trên địa bàn huyện; UBND tỉnh Quảng Nam đã có nhiều văn bản, như: § Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị quyết số 114 và UBND tỉnh có Quyết định số 2821/QĐ-UBND ngày 17/9/2014 về cơ chế khuyến khích bảo tồn, phát triển sâm Ngọc Linh tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2020; § Chính phủ có ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và đặc biệt đối với cây sâm Ngọc Linh là một trong những loại cây dược liệu quý của Việt Nam vào danh mục được hỗ trợ theo Nghị định 210 của Chính phủ; § Quyết định số 2117/QĐ-UBND ngày 8/7/2014 của UBND tỉnh Quảng Nam về phê duyệt Đề cương và dự toán Quy hoạch bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh trên địa bàn huyện Nam Trà My tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015-2020; Theo đó vùng quy hoạch sâm Ngọc Linh bao gồm 7 xã (Trà Nam, Trà Linh, Trà Cang, Trà Don, Trà Tập, Trà Dơn và Trà Leng), với tổng diện tích là 19.000 ha, ở độ cao trung bình từ 1.000 đến 2.400m so với mặt nước biển. § Về phía huyện Nam Trà My đã có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện về định hướng đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển vùng sâm như: đường giao thông đến các vùng sâm, Trung tâm nghiên cứu di thực sâm, Trung tâm nhân giống sâm Ngọc Linh bằng phương pháp vô tính, nhà trưng bày sản phẩm sâm Ngọc Linh,… § Hiện nay, tỉnh đang cho chủ trương khảo sát, lập dự án đầu tư vào phát triển mạng lưới giao thông vào vùng sâm, kinh phí khoảng 3.000 tỷ vnđ đồng (~140.000.000USD). Kiến nghị, đề xuất: Để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh cây sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam) trở thành sản phẩm quốc gia với tên gọi sâm Việt Nam, ngang tầm với sâm Hàn quốc trong tương lai, Chính phủ Việt Nam cũng như địa phương rất mong muốn có sự hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực. Trồng bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh; Chế biến các sản phẩm từ cây sâm Ngọc Linh như: – Dược liệu – Mỹ phẩm – Thực phẩm chức năng .v.v..
Giới thiệu khái quát huyện Núi Thành 1. Vị trí địa lý : Núi Thành là huyện nằm phía Nam của tỉnh Quảng Nam, được thành lập vào tháng 12/1983 trên cơ sở tách ra từ huyện Tam Kỳ. Phía Bắc giáp thành phố Tam Kỳ, phía Nam giáp huyện Bình Sơn và huyện Trà Bồng tỉnh Quảng Ngãi, phía Tây giáp huyện Bắc Trà My, phía Đông giáp Biển Đông. Tọa độ địa lý trên đất liền: từ 108034’ đến 108037’ kinh độ Đông; từ 15033’ đến 15036’ vĩ độ Bắc. 2. Diện tích tự nhiên ( DTTN) của huyện: 55.583,42 ha (số liệu đến 31/12/2016) Trong đó : + Đất nông nghiệp : 40.782,23 ha; + Đất phi nông nghiệp: 13.991,99 ha; + Đất chưa sử dụng: 809,19 ha; + Đất mặt nước ven biển: 318,87 3. Địa hình : Địa hình huyện Núi Thành có độ nghiêng lớn từ Tây Nam sang Đông Bắc, có thể chia làm 3 dạng như sau : – Dạng địa hình trung du và miền núi : Gồm các xã Tam Trà, Tam Sơn, Tam Thạnh, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ Tây, một phần xã Tam Nghĩa và Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc. Phía cực tây có nhiều núi cao, nơi cao nhất là núi Hú, Tam Trà 1.132m . – Dạng địa hình đồng bằng : Gồm các xã Tam Xuân I, Tam Xuân II, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hiệp, thị trấn Núi Thành, Tam Nghĩa. Vùng này địa hình tương đối bằng phẳng, có một số đồi gò có độ dốc nhỏ. Nơi cao nhất là 69 m so với mặt biển. – Dạng địa hình ven biển : Gồm các xã Tam Tiến, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Hải, Tam Quang và một phần Tam Nghĩa. Vùng này địa hình bằng phẳng và thấp, có nhiều cồn cát ổn định; một phần đồng bằng do các sông ngòi bồi đắp trên nền cát biển. Đây là vùng hạ lưu có nhiều đầm phá. Ngoài ra, vùng này còn có nhiều bãi đá trầm tích nhô lên khỏi mặt biển từ 10 đến 12 m thuộc xã Tam Tiến, Tam Hải, Tam Quang như đảo hòn Mang, Hòn Dứa, Bàn Than… 4. Sông ngòi : Hệ thống sông ngòi chảy qua huyện gồm sông Tam Kỳ, sông Trường Giang, sông Ba Túc, sông An Tân, sông Trầu… Các con sông này đều bắt nguồn từ phía Tây, Tây Bắc chảy về phía Đông đổ ra biển qua cửa An Hòa và cửa Lở. Các sông đều có lưu vực nhỏ từ 50 đến 100km2, độ dốc lớn, chiều dài từ 20 đến 40 km, lưu lượng nước thay đổi theo mùa. Một số con sông được ngăn lại ở thượng nguồn làm hồ chứa nước như : hồ Phú Ninh trên sông Tam Kỳ, hồ Thái Xuân trên sông Trầu. Các dòng sông của huyện đều hội tụ về phía Đông tạo nên những vùng xoáy bồi đắp nên những cồn cát và tạo ra các đầm phá ở các xã Tam Quang, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Hải, Tam Tiến. 5. Khí hậu : Huyện Núi Thành nằm phía Đông dãy Trường Sơn và phía nam đèo Hải Vân, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Nhiệt độ trung bình hằng năm : 25,70c, nhiệt độ cao từ tháng 4 đến tháng 8, nhiệt độ thấp từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa trung bình trong năm là 2.531,5mm. Huyện Núi Thành chịu chế độ gió mùa chi phối: gió Tây Nam và gió Đông Nam hoạt động từ tháng 3 đến tháng 7, gió Đông Bắc hoạt động từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Hằng năm thường xuất hiện từ 8 đến 10 cơn bão ảnh hưởng đến huyện. Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 11 kết hợp với mưa lớn gây ra lũ lụt. II. Điều kiện kinh tế- xã hội: 1. Dân số , lao động: + Dân số: tính đến ngày 31/12/2016 toàn huyện có 144.053 người. Có hai dân tộc chủ yếu là người Kinh và người Cor (sống tại các thôn 4,6, 8 xã Tam Trà). + Tổng số hộ : 41.059 hộ. + Lao động : 74.551 người. Trong đó + Nông – Lâm – Thủy sản : chiếm 58,21%, + Công nghiệp, xây dựng : chiếm 23,46%. + Thương nghiệp dịch vụ : chiếm 18,33%. 2. Giáo dục : Toàn huyện có 03 trường THPT, 17 trường THCS (có 01 trường bán trú cho học sinh người dân tộc thiểu số), 26 trường tiểu học, 21 trường mẫu giáo, 17 Trung tâm Học tập Cộng đồng. Tổng số học sinh ( năm học 2018- 2019): 25.429 em Trong đó : – THCS: 8.555 em – Tiểu học: 11.836 em – Mẫu giáo: 6.158 em (5.038 công lập + 1.220 tư thục) Huyện đã được công nhận phổ cập tiểu học 100%; có 17/17 xã, thị trấn được công nhận phổ cập THCS. Huyện Núi Thành được tỉnh kiểm tra công nhận hoàn thành Phổ cập giáo dục mầm non, 46/63 truờng học được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. 3. Y tế : Trên địa bàn huyện có 01 bệnh viện Đa khoa TW Quảng Nam, có 01 trung tâm Y tế huyện, có 17 Trạm Y tế xã, thị trấn; tổng số y, bác sỹ trên 400 người. 4. Đối tượng chính sách : Núi Thành là huyện có phong trào cách mạng từ rất sớm, là nơi ra đời chi bộ Đảng và lực lượng vũ trang đầu tiên của huyện Tam Kỳ (bao gồm cả TP Tam Kỳ và huyện Phú Ninh ngày nay), tỉnh Quảng Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Núi Thành chịu nhiều hy sinh, mất mát. Toàn huyện có 4.612 liệt sỹ, 1.100 thương bệnh binh, có 609 bà mẹ VNAH, trong đó có 27 Mẹ còn sống (đến tháng 8/2018), trên 40 ngàn Huân, Huy chương, Bằng khen các loại; 618 Bảng vàng gia đình danh dự và 9.780 Bảng vàng gia đình vẻ vang… Huyện Núi Thành và 15 xã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 23 cá nhân được Đảng và Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu AHLLVTND 5. Một số nét nổi bật trên lĩnh vực kinh tế năm 2017: Kinh tế phát triển ổn định và tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng giá trị sản xuất đạt 47.653 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010) , đạt 63,31% so với kế hoạch năm, giảm 21,54% so với thực hiện năm 2016. Trong đó: + Giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng đạt 40.544 tỷ đồng, đạt 59,72% so với kế hoạch năm, giảm 25,35% so với năm 2016. + Giá trị sản xuất ngành thương mại – dịch vụ đạt 4.460 tỷ đồng, đạt 93,03% so với kế hoạch năm, tăng 11,64% so với năm 2016. + Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp ước đạt 2.649 tỷ, đạt 102,43% so với kế hoạch năm, tăng 9,06% so với năm 2016.Tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế (tính theo giá hiện hành) : “Công nghiệp-xây dựng chiếm 81,35%; thương mại-dịch vụ chiếm 11,25% ; nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 7,4% .
General introduction to Nui Thanh district 1. Geographical location: Nui Thanh is a district located in the south of Quang Nam province, established in December 1983 on the basis of separation from Tam Ky district. The North borders Tam Ky city, the South borders Binh Son district and Tra Bong district, Quang Ngai province, the West borders Bac Tra My district, the East borders the East Sea. Geographic coordinates on land: from 108034' to 108037' East longitude; from 15033' to 15036' North latitude. 2. Natural area (DTN) of the district: 55,583.42 hectares (data as of December 31, 2016) In there : + Agricultural land: 40,782.23 hectares; + Non-agricultural land: 13,991.99 hectares; + Unused land: 809.19 hectares; + Coastal water surface land: 318.87 3. Terrain: The terrain of Nui Thanh district has a large tilt from Southwest to Northeast, which can be divided into 3 types as follows: – Midland and mountainous terrain: Including communes Tam Tra, Tam Son, Tam Thanh, Tam My Dong, Tam My Tay, part of Tam Nghia commune and Tam Anh Nam, Tam Anh Bac. In the extreme west there are many high mountains, the highest is Mount Hu and Tam Tra at 1,132m. – Plain terrain: Including communes Tam Xuan I, Tam Xuan II, Tam Anh Nam, Tam Anh Bac, Tam Hiep, Nui Thanh town, Tam Nghia. This area's terrain is relatively flat, with some hills and hills with small slopes. The highest place is 69 m above sea level. – Coastal terrain type: Including the communes of Tam Tien, Tam Hoa, Tam Giang, Tam Hai, Tam Quang and part of Tam Nghia. This region's terrain is flat and low, with many stable sand dunes; Part of the delta is deposited by rivers on the sea sand. This is a downstream area with many lagoons. In addition, this area also has many sedimentary rocks protruding from the sea surface from 10 to 12 m in Tam Tien, Tam Hai, Tam Quang communes such as Hon Mang, Hon Dua, Ban Than... 4. Rivers: The river system flowing through the district includes Tam Ky river, Truong Giang river, Ba Tuc river, An Tan river, Trau river... These rivers all originate from the West and Northwest, flow to the East and flow into the sea through An estuary. Hoa and Lo gate. All rivers have small basins of 50 to 100 km2, steep slopes, lengths of 20 to 40 km, and water flow changes seasonally. Some rivers are blocked upstream to make water reservoirs such as: Phu Ninh lake on Tam Ky river, Thai Xuan lake on Trau river. The district's rivers all converge to the East, creating vortexes that build up sand dunes and create lagoons in the communes of Tam Quang, Tam Anh Nam, Tam Anh Bac, Tam Hoa, Tam Giang, Tam Hai. , Tam Tien. 5. Climate: Nui Thanh district is located east of the Truong Son range and south of Hai Van pass, in the humid tropical climate zone. Average annual temperature: 25.70c, high temperature from April to August, low temperature from December to February of the following year. The rainy season lasts from September to December. The average rainfall in a year is 2,531.5mm. Nui Thanh district is dominated by the monsoon regime: the southwest wind and southeast wind operate from March to July, and the northeast wind operates from October to February of the following year. Every year there are usually 8 to 10 storms affecting the district. Storms often appear from August to November combined with heavy rains causing floods. II. Social and economic conditions: 1. Population and labor: + Population: as of December 31, 2016, the entire district has 144,053 people. There are two main ethnic groups: Kinh people and Cor people (living in villages 4, 6, 8 of Tam Tra commune). + Total number of households: 41,059 households. + Labor: 74,551 people. In there + Agriculture - Forestry - Fisheries: accounts for 58.21%, + Industry and construction: accounts for 23.46%. + Service trade: accounts for 18.33%. 2. Education: The entire district has 03 high schools, 17 secondary schools (with 01 boarding school for ethnic minority students), 26 primary schools, 21 kindergartens, 17 Community Learning Centers. Total number of students (school year 2018-2019): 25,429 students In there : – Secondary school: 8,555 students – Primary school: 11,836 children – Kindergarten: 6,158 children (5,038 public + 1,220 private) The district has been recognized for 100% universal primary education; There are 17/17 communes and towns recognized for universal secondary education. Nui Thanh district was inspected and recognized by the province as completing universal preschool education, 46/63 schools were recognized as meeting national standards. 3. Health: In the district, there is 01 Quang Nam Central General Hospital, 01 district medical center, and 17 commune and town medical stations; The total number of nurses and doctors is over 400 people. 4. Policy objects: Nui Thanh is a district with a very early revolutionary movement, where the Party cell and the first armed forces of Tam Ky district (including today's Tam Ky city and Phu Ninh district), Quang Nam province, were born. During the two resistance wars against the French colonialists and the American imperialists, Nui Thanh suffered many sacrifices and losses. The entire district has 4,612 martyrs, 1,100 wounded and sick soldiers, 609 Vietnamese mothers, of which 27 are still alive (as of August 2018), over 40 thousand Orders, Medals, and Certificates of all kinds; 618 Honorary Family Gold Pounds and 9,780 Glorious Family Gold Pounds... Nui Thanh district and 15 communes were awarded the title of Hero of the People's Armed Forces by the Party and State; 23 individuals were conferred and posthumously awarded the title AHLLVTND by the Party and State 5. Some highlights in the economic field in 2017: The economy develops stably and continues to grow quite well, the economic structure is shifting in a positive direction. Total production value reached 47,653 billions dong (comparative price in 2010) , obtain 63.31% compared to the year's plan, decreased 21.54% compared to implementation in 2016. In which: + Production value of industry and construction reached 40,544 billion VND, reached 59.72% compared to the year's plan, decreased 25.35% compared to 2016. + Production value of the trade and service industry reached 4,460 billion VND, reached 93.03% Compared to the yearly plan, increased 11.64% compared to 2016. + Estimated production value of the agricultural sector 2,649 billion, reached 102.43% Compared to the yearly plan, increased 9.06% compared to 2016. Proportion of sectors in the economy (calculated at current prices) : “Industry-construction occupied 81.35%; trade-service accounted for 11.25% ; agriculture, forestry, and fishery occupied 7.4% .
Giới thiệu khái quát huyện Quế Sơn Huyện Quế Sơn là huyện trung du của tỉnh Quảng Nam . Tổng diện tích tự nhiên của huyện 251,17 km2, nằm cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 30 km về phía Tây Bắc, cách t hành phố Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam. Có tọa độ địa lý: – Từ 150 38’25’’- 150 49’51’’ vĩ độ Bắc. – Từ 1080 06’58’’- 1080 20’51’’ kinh độ Đông. Ranh giới hành chính được xác định như sau: – Phía Bắc giáp : huyện Duy Xuyên – Phía Nam giáp : huyện Hiệp Đức – Phía Đông giáp : huyện Thăng Bình – Phía Tây giáp : huyện Nông Sơn Toàn huyện có 14 đơn vị hành chính, bao gồm các xã: Quế Xuân 1, Quế Xuân 2, Quế Phú, Hương An, Quế Cường, Phú Thọ, Quế Thuận, Quế Hiệp, Quế Châu, Quế Minh, Quế An, Quế Long, Quế Phong và thị trấn Đông Phú.Theo Chi Cục Thống kê huyện Quế Sơn cung cấp; dân cư trên địa bàn phân bố như sau: thị trấn Đông Phú chiếm 9,7% dân số toàn huyện, các xã đồng bằng, trung du 83,6%, xã miền núi Quế Phong chiếm 6,7%. Tổng diện tích tự nhiên của huyện: 25.117,15 ha, trong đó: Đất nông nghiệp: 18.486,38 ha; Đất phi nông nghiệp: 4.329,97 ha; Đất chưa sử dụng: 2.300,8 ha. Hệ thống giao thông: Đường Quốc lộ 1A, chạy qua địa bàn huyện có chiều dài là 8,5km qua địa phận các xã: Quế Xuân 1, Quế Xuân 2, Quế Phú, Hương An. Đường ĐT chạy qua địa bàn huyện có 02 tuyến: ĐT 611A và ĐT 611B, có tổng chiều dài tuyến 37,5 km, trong đó: có 22km bê tông nhựa và 15,5km thâm nhập nhựa. Đường ĐH: toàn huyện có 18 tuyến ĐH, với tổng chiều dài: 119,29 km. Đường ĐX và đường nội thị: có 65 tuyến, với tổng chiều dài: 113,3km. Đường Dân sinh (thôn, xóm) có tổng chiều dài: 393,66 km. Tổng giá trị sản xuất cả năm 2010 ước đạt: 777,89 tỷ đồng trong đó: Giá trị SX Nông – Lâm nghiệp ước đạt: 193,93 tỷ đồng; Gía trị SX CN-TTCN và Xây dựng ước đạt: 345,96 tỷ đồng; Giá trị TM-DV ước đạt: 238 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 11,3 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu ngành kinh tế của huyện về Nông – Lâm nghiệp 30%, CN-TTCN 42%, Thương mại – Dịch vụ 28%. Số lượng hộ đói nghèo trên toàn huyện là 6.313 tỷ lệ 25,03%. Tỷ lệ dùng nước sạch đạt 85%; lao động trong độ tuổi chiếm 62.472 người. Theo số liệu điều tra tại thời điểm ngày 01.4.2010 của Chi Cục Thống kê huyện Quế Sơn, dân số huyện Quế Sơn năm 2010 là 82.967 người.Trong đó, khu vực đồng bằng, trung du có 77.394 người, chiếm 93,3%, khu vực miền núi có 5.573 người chiếm 6,7%. Mật độ dân số chung toàn huyện là 330 người/km2 (khu vực đồng bằng, trung du là 333 người/km2, cao nhất là xã Quế Xuân 1 với 934 người/km2, khu vực miền núi là 184 người/km2, thấp nhất là xã Quế Hiệp với 86 người/km2). Dân số là nữ có 43.415 người, chiếm khoảng 52,3%, số dân là nam có 39.552 người, chiếm khoảng 47,7%. Trên địa bàn huyện có các danh lam, thắng cảnh đã và đang kêu gọi thu hút đầu tư vào: Khu du lịch sinh thái Suối Tiên (Quế Hiệp), Khu du lịch sinh thái Suối Nước Mát-Đèo Le (Quế Long), Hồ Giang (Quế Long), Vũng nước nóng Bàn Thạch (Quế Phong). Đến nay đã có một nhà đầu tư vào đầu tư Khu du lịch sinh thái Suối Nước Mát-Đèo Le. Có các khu di tích lịch sử: Tượng đài chiến thắng Cấm Dơi, Đền Tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ huyện…, bình quân hằng năm lượng khách đến tham quan các điểm du lịch trên địa bàn huyện ước khoảng 05-07 ngàn lượt người. Trên địa bàn huyện có 02 hệ thống sông chính đó là: Sông Ly Ly và Sông Bà Rén. Ngoài 02 hệ thống sông chính trên còn có nhiều hệ thống sông, suối nhỏ khác. Có các hệ thống kênh kéo dài: Kênh Phú Ninh; Kênh Hồ Việt An… ; có các hồ chứa nước như hồ: Suối Tiên, Cây Thông, Hố Giang, An Long, Hố Giếng, Đập Vũng Tôm, Suối Tiên, đập Đá Chồng-Quế Xuân 2,… các hồ chứa này có dung tích và quy mô chứa từ: 0,3-6,5 triệu m3 và các hồ này phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân trên địa bàn huyện. Địa hình Quế Sơn có trên 60% diện tích là vùng đồi núi, phía Tây có các dãy núi cao như: Yang – Brai (1.143 m), Bàn Cờ (1.037 m), Hòn Tàu – Đèo Le (953 m)… Vùng đồng bằng nhỏ hẹp ở phía Đông và xen kẽ giữa các khu vực đồi gò. Phân theo 3 dạng địa hình: – Địa hình đồi núi cao: Tập trung ở phía Tây, chiếm trên 60% tổng diện tích tự nhiên. Độ cao trung bình 500-1000 m. – Địa hình gò đồi: Là vùng tiếp giáp giữa núi cao và vùng đồng bằng, độ cao trung bình 50-150 m. Phân bố chủ yếu ở vùng trung, diện tích chiếm khoảng 30% tổng diện tích tự nhiên. – Vùng đồng bằng: Tập trung ở phía Đông và xen kẽ giữa các vùng gò đồi. Nhìn chung, địa hình huyện Quế Sơn phân bố thấp dần từ Tây sang Đông, trong đó hơn 60% địa hình đồi núi cao, về mùa mưa sẽ gây ra hiện tượng xói mòn đất và thoái hóa đất. Còn lại địa hình gò đồi và đồng bằng, với địa hình này luôn được phù sa bồi đắp nên thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
General introduction to Que Son district Que Son district is a midland district of Quang Nam Province . The total natural area of ​​the district is 251.17 km2, located 30 km northwest of Tam Ky provincial capital, Da Nang city 40 km southwest. Have geographical coordinates: – From 150 38'25''- 150 49'51'' North latitude. – From 1080 06'58''- 1080 20'51'' East longitude. Administrative boundaries are determined as follows: – Bordered to the North: Duy Xuyen district – Bordered to the South: Hiep Duc district – Bordered to the East: Thang Binh district – Bordered to the West: Nong Son district The whole district has 14 administrative units, including communes: Que Xuan 1, Que Xuan 2, Que Phu, Huong An, Que Cuong, Phu Tho, Que Thuan, Que Hiep, Que Chau, Que Minh, Que An, Que Long, Que Phong and Dong Phu town. According to the Que Son District Statistics Department; The population in the area is distributed as follows: Dong Phu town accounts for 9.7% of the district's population, delta and midland communes account for 83.6%, and Que Phong mountainous commune accounts for 6.7%. Total natural area of ​​the district: 25,117.15 hectares, of which: Agricultural land: 18,486.38 hectares; Non-agricultural land: 4,329.97 hectares; Unused land: 2,300.8 hectares. Transportation system: National Highway 1A, running through the district with a length of 8.5km through the communes: Que Xuan 1, Que Xuan 2, Que Phu, Huong An. The DT road running through the district has 02 routes: DT 611A and DT 611B, with a total length of 37.5 km, of which: 22km of asphalt concrete and 15.5km of asphalt penetration. University roads: the whole district has 18 university routes, with a total length of 119.29 km. Highway and urban roads: 65 routes, with total length: 113.3km. Dan Sinh Street (village, hamlet) has a total length of: 393.66 km. Total production value for the whole year 2010 is estimated at: 777.89 billion VND, of which: Agriculture - Forestry production value is estimated at: 193.93 billion VND; The value of industrial, handicraft and construction production is estimated at: 345.96 billion VND; Trade and service value is estimated at: 238 billion VND. Average income per capita reached 11.3 million VND/person/year. The economic structure of the district is Agriculture - Forestry 30%, Industry - Handicrafts 42%, Trade - Services 28%. The number of poor households in the entire district is 6,313, a rate of 25.03%. The rate of using clean water reached 85%; Workers of working age account for 62,472 people. According to survey data as of April 1, 2010 of the Que Son District Statistics Department, the population of Que Son district in 2010 was 82,967 people. Of which, the delta and midland areas had 77,394 people, accounting for 93.3 %, mountainous areas have 5,573 people accounting for 6.7%. The general population density of the entire district is 330 people/km2 (the delta and midland areas are 333 people/km2, the highest is Que Xuan 1 commune with 934 people/km2, the mountainous areas are 184 people/km2, the lowest especially Que Hiep commune with 86 people/km2). The female population is 43,415 people, accounting for about 52.3%, the male population is 39,552 people, accounting for about 47.7%. In the district, there are famous landscapes and landscapes that have been calling for investment attraction: Suoi Tien eco-tourism area (Que Hiep), Suoi Nuoc Mat-Deo Le eco-tourism area (Que Long), Lake Giang (Que Long), Ban Thach Hot Water Pool (Que Phong). Up to now, there has been an investor investing in the Suoi Nuoc Mat-Deo Le eco-tourism area. There are historical relics: Cam Bat Victory Monument, Memorial Temple for Martyrs and Heroes of the district..., the average annual number of visitors to tourist attractions in the district is estimated at about 5-7 thousand visitors. People. In the district, there are two main river systems: Ly Ly River and Ba Ren River. In addition to the two main river systems above, there are many other small river and stream systems. There are long canal systems: Phu Ninh Canal; Ho Viet An Canal… ; There are water reservoirs such as: Suoi Tien, Cay Thong, Ho Giang, An Long, Ho Gieng, Vung Tom Dam, Suoi Tien, Da Chong-Que Xuan 2 dam,... these reservoirs have the capacity and scale to store water. from: 0.3-6.5 million m3 and these lakes serve agricultural production and domestic water for people in the district. Que Son's terrain has over 60% of the area being mountainous, with high mountain ranges in the West such as: Yang - Brai (1,143 m), Ban Co (1,037 m), Hon Tau - Deo Le (953 m)... narrow plain in the East and interspersed with hilly areas. Divided into 3 types of terrain: – High mountainous terrain: Concentrated in the West, accounting for over 60% of the total natural area. Average altitude 500-1000 m. – Hilly terrain: Is the border area between high mountains and plains, with an average altitude of 50-150 m. Mainly distributed in the central region, the area accounts for about 30% of the total natural area. – Plains: Concentrated in the East and alternating between hilly areas. In general, the terrain of Que Son district is distributed gradually from West to East, of which more than 60% of the terrain is high and mountainous, which in the rainy season will cause soil erosion and land degradation. The remaining terrain is hilly and plain, this terrain is always covered with alluvium so it is suitable for agricultural production.
Giới thiệu khái quát huyện Duy Xuyên Huyện nằm phía bắc tỉnh Quảng Nam , phía bắc là thị xã Điện Bàn và thành phố Hội An , phía tây bắc là huyện Đại Lộc , phía tây nam và phía nam là huyện Quế Sơn, phía đông nam là huyện Thăng Bình và phía đông là biển. Duy Xuyên là mảnh đất có lịch sử lâu đời. Các kết quả nghiên cứu Khảo cổ học cho biết, cách đây khoảng 2500 năm, những lớp cư dân đầu tiên đã có mặt ở đây và là một bộ phận của cư dân văn hóa Sa Huỳnh. Sau những cư dân Tiền sử, Sơ sử này, Duy Xuyên nằm trong địa bàn sinh tụ và phát triển của cư dân văn hóa Chămpa ( Thế kỷ II-XV). Tên đất Duy Xuyên ra đời năm Giáp Thìn ( 1604) thời Nguyễn Hoàng. – Huyện được cải tên từ huyện Hy Giang năm 1604, trong chủ trương cải đặt lại các khu vực hành chính thuộc hai trấn Thuận Hóa và QuảngNamcủa chúa Nguyễn Hoàng. Trước Cách mạng tháng Tám gọi là phủ Duy Xuyên. Phủ lập năm 1920, có 10 tổng, 155 làng xã. – Thị trấn Duy Xuyên thành lập theo Quyết định số 27/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 21/3/1986, trên cơ sở diện tích tự nhiên và dân cư của xã Duy An, và một phần diện tích tự nhiên của xã Duy Trung. Ngày 29/8/1994, thị trấn Duy Xuyên bị giải thể để thành lập thị trấn Nam Phước. – Trải qua hằng mấy trăm năm thành lập, với nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, đến nay Duy Xuyên bao gồm 13 xã và 1 thị trấn (Nam Phước): xã Duy Sơn, xã Duy Trinh, xã Duy Phú ,xã Duy Hải, xã Duy Nghĩa, xã Duy Vinh, xã Duy Phước, xã Duy Thành, thị trấn Nam Phước, xã Duy Châu, xã Duy Tân,Duy Hòa, xã Duy Thu, xã Duy Trung. – Làng Trà Kiệu được thành lập từ thế kỷ 17, trên vùng đất chính vốn là kinh đô xưa của Vương quốc Chăm pa. Đến năm 1905, do dân số và diện tích phát triển, Trà Kiệu chi thành 5 xã: Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Đông, Trà Kiệu Tây, Trà KiệuNam, Trà Kiệu Bắc, nay thuộc xã Duy Trung và Duy Sơn của huyện Duy Xuyên, QuảngNam. Năm 1947, khi quân Pháp chiếm bờ nam sông Thu Bồn cũng đã thiết lập trên đồi này một đồn binh, thường gọi là đồn Kiểm Lâm. Trong kháng chiến chống Mỹ, nơi này cũng là một căn cứ quân sự của địch. – Theo trục BắcNam, Duy Xuyên ở vào trung độ của tỉnh QuảngNamvà của cả nước. + Phía Bắc, tính từ Tây sang Đông ( từ Phường Rạnh đến Cửa Đại) có sông Thu Bồn làm ranh giới giữa Duy Xuyên với các huyện Điện Bàn, Đại Lộc, Hội An. + Phía Đông giáp biển Đông ( Nam Cửa Đại). Địa hình Duy Xuyên chảy từ Tây xuống Đông trải dài 45km dọc theo bờNamsông Thu Bồn. Có rừng núi phía Tây và TâyNam, có vùng đồng bằng ven sông màu mỡ và vùng cát ven biển. Diện tích tự nhiên 29.909,5ha. Đường thủy theo bốn nhánh sông: Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và Trường Giang thuận tiện cho việc đi lại giao thương. Các bến sông An Lương, Nồi Rang, Bàn Thạch, Câu Lâu, Cầu Chìm, Kiểm lâm, Thu Bồn, Phú Đa…nối liền để ra cửa Đại hoặc đi Hội An, Tam Kỳ, Đà Nẵng… hoặc ngược lên Trung Phước, Tý, Sé, Dùi Chiêng… hoặc vào Nam ra Bắc hoặc có thể đi ra nước ngoài. Từ xa xưa, đường thủy đã có bến cảng Trà Nhiêu để thương nhân nước ngoài vào giao lưu buôn bán với Đàng Trong. Đường bộ có Trạm Nam Phước là một trong bảy trạm thời Tây Sơn và Nhà Nguyễn đi công cán, truyền tin. Bến trạm Câu lâu, Lang Châu, Vân Quật là những bến trạm chính qua sông Bà Rén vào Trà Đình điNam. Những năm 20 của thế kỷ XX có đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên việt chạy qua địa bàn huyện, lại có tỉnh lộ 610 đi từ Bàn Thạch lên đến Mỹ Sơn, An Hòa dài gần 40 km nối với các con đường công hương vào thôn xóm . + Duy Xuyên nổi tiếng với di sản thế giới – Thánh địa Mỹ Sơn của người Chăm. Ngoài ra, Duy Xuyên còn có kinh thành Trà Kiệu, có thủy điện Duy Sơn, đập Vĩnh Trinh. Nhân dân Duy Xuyên có truyền thống đấu tranh từ lâu đời gắn liền với quá trình khai hoang phục hóa phát triển sản xuất. Từ vùng đất ven sông Thu Bồn, trải qua hàng ngàn năm với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, con người Duy Xuyên từ đời này sang đời khác với tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo đã vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại những âm mưu hủy diệt của quân thù để bồi dựng nên những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, kiến lập nên cuộc sống phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc văn hóa riêng trong nền văn hóa dân tộc, nên những cảnh quan đẹp đẽ và những di tích kỳ vĩ của con người. Duy Xuyên nổi tiếng đất Quảng là miền đất học, với ngôi trường mang bút danh nhà chí sĩ yêu nước phan bội châu, trường THPT SÀO NAM, ngôi trường vừa được chủ tịch nước phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, một cái nôi của nhân tài đất Quảng, trường đứng đầu tỉnh về chất lượng giáo dục với 50% học sinh xếp loại học lục khá giỏi, tỉ lệ đỗ vào các trường đại học và cao đẳng trên cả nước khoảng 80%/năm, nhiều thí sinh của trường còn là thủ khoa của các trường đại học cao đẳng trong các kì tuyển sinh. + Kinh tế từ xưa đến nay chủ yếu là nền nông nghiệp lúa nước với 70% sống bằng nghề nông còn lại làm nghề buôn bán, tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp và viên chức nhà nước. Đặc biệt do có diện tích lớn bãi bồi ven sông nên nghề trồng dâu nuôi tằm được hình thành rất sớm và đã có lúc thực sự hưng thịnh gắn liền với nghề ươm tơ dệt lụa một thời lừng lẫy với mỹ danh. “Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều” + Cùng với văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm pa có vị trí trọng yếu trong tiến trình lịch sử dân tộc, các di tích văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa ở Duy Xuyên là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa Duy Xuyên. Ở ViệtNamvà Đông Nam Á, văn hóa Sa Huỳnh được biết đến khá sớm . Gần một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu đã trôi qua , đặc biệt từ sau năm 1975, với nhiều phát hiện mới đa dạng và phong phú, tri thức về văn hóa Sa Huỳnh đã được mở rộng. Sau hàng loạt các cuộc điều tra, thăm dò, khai quật mới được triển khai trên nhiều địa bàn khác nhau ở Duy Xuyên, đã đưa ra ánh sáng một khối lượng tư liệu và hiện vật phong phú. Trên cơ sở đó, nhận thức về văn hóa Sa Huỳnh ở Duy Xuyên được nâng lên một bước mới toàn diện và sâu sắc. Nhờ có những phát hiện mới này, chúng ta biết được các nhóm cư dân Sa Huỳnh không chỉ phân bố dọc duyên hải miền Trung mà còn phân bố ở các vùng trung du và vùng núi Quảng Nam…Chính địa vực phân bố khác nhau trên đã tạo ra trong văn hóa Sa Huỳnh sự đa sắc văn hóa trong khối nền chung. Sắc thái văn hóa núi đã dần hiện lên những nét độc đáo của văn hóa sa Huỳnh bên các sắc thái biển truyền thống. Sưu tập văn hóa Sa huỳnh phát hiện tại Duy Xuyên-QuảngNamgóp phần làm phong phú nhận định trên. Trong các nền văn hóa khảo cổ học nước ta, văn hóa Chămpa chiếm vị trí quan trọng. Từ những phát hiện đầu tiên của C. Paris về các kiến trúc đền tháp Chăm ở Mỹ Sơn và các vùng phụ cận ( năm 1898) đến cuộc khai quật khảo cổ học di tích thành Trà Kiệu năm 1927-1928 của Y. Clays đến nay đã hơn một thế kỷ. Trong thời gian đó, rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động không tốt tới các di tích Chămpa ở đây. Kinh đô Trà Kiệu huy hoàng xưa giờ đây chỉ còn lại những chân móng tường thành sụp đổ, bị chôn vùi trong đất đá. Hình bóng của nó chỉ còn đọng lại trong một vài trang sách hay qua các sưu tập điêu khắc đá nổi tiếng đang được lưu giữ tại các Bảo tàng .
Giới thiệu khái quát huyện Duy Xuyên Huyện nằm phía bắc tỉnh Quảng Nam , phía bắc là thị xã Điện Bàn và thành phố Hội An , phía tây bắc là huyện Đại Lộc , phía tây nam và phía nam là huyện Quế Sơn, phía đông nam là huyện Thăng Bình và phía đông là biển. Duy Xuyên là mảnh đất có lịch sử lâu đời. Các kết quả nghiên cứu Khảo cổ học cho biết, cách đây khoảng 2500 năm, những lớp cư dân đầu tiên đã có mặt ở đây và là một bộ phận của cư dân văn hóa Sa Huỳnh. Sau những cư dân Tiền sử, Sơ sử này, Duy Xuyên nằm trong địa bàn sinh tụ và phát triển của cư dân văn hóa Chămpa ( Thế kỷ II-XV). Tên đất Duy Xuyên ra đời năm Giáp Thìn ( 1604) thời Nguyễn Hoàng. – Huyện được cải tên từ huyện Hy Giang năm 1604, trong chủ trương cải đặt lại các khu vực hành chính thuộc hai trấn Thuận Hóa và QuảngNamcủa chúa Nguyễn Hoàng. Trước Cách mạng tháng Tám gọi là phủ Duy Xuyên. Phủ lập năm 1920, có 10 tổng, 155 làng xã. – Thị trấn Duy Xuyên thành lập theo Quyết định số 27/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 21/3/1986, trên cơ sở diện tích tự nhiên và dân cư của xã Duy An, và một phần diện tích tự nhiên của xã Duy Trung. Ngày 29/8/1994, thị trấn Duy Xuyên bị giải thể để thành lập thị trấn Nam Phước. – Trải qua hằng mấy trăm năm thành lập, với nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, đến nay Duy Xuyên bao gồm 13 xã và 1 thị trấn (Nam Phước): xã Duy Sơn, xã Duy Trinh, xã Duy Phú ,xã Duy Hải, xã Duy Nghĩa, xã Duy Vinh, xã Duy Phước, xã Duy Thành, thị trấn Nam Phước, xã Duy Châu, xã Duy Tân,Duy Hòa, xã Duy Thu, xã Duy Trung. – Làng Trà Kiệu được thành lập từ thế kỷ 17, trên vùng đất chính vốn là kinh đô xưa của Vương quốc Chăm pa. Đến năm 1905, do dân số và diện tích phát triển, Trà Kiệu chi thành 5 xã: Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Đông, Trà Kiệu Tây, Trà KiệuNam, Trà Kiệu Bắc, nay thuộc xã Duy Trung và Duy Sơn của huyện Duy Xuyên, QuảngNam. Năm 1947, khi quân Pháp chiếm bờ nam sông Thu Bồn cũng đã thiết lập trên đồi này một đồn binh, thường gọi là đồn Kiểm Lâm. Trong kháng chiến chống Mỹ, nơi này cũng là một căn cứ quân sự của địch. – Theo trục BắcNam, Duy Xuyên ở vào trung độ của tỉnh QuảngNamvà của cả nước. + Phía Bắc, tính từ Tây sang Đông ( từ Phường Rạnh đến Cửa Đại) có sông Thu Bồn làm ranh giới giữa Duy Xuyên với các huyện Điện Bàn, Đại Lộc, Hội An. + Phía Đông giáp biển Đông ( Nam Cửa Đại). Địa hình Duy Xuyên chảy từ Tây xuống Đông trải dài 45km dọc theo bờNamsông Thu Bồn. Có rừng núi phía Tây và TâyNam, có vùng đồng bằng ven sông màu mỡ và vùng cát ven biển. Diện tích tự nhiên 29.909,5ha. Đường thủy theo bốn nhánh sông: Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và Trường Giang thuận tiện cho việc đi lại giao thương. Các bến sông An Lương, Nồi Rang, Bàn Thạch, Câu Lâu, Cầu Chìm, Kiểm lâm, Thu Bồn, Phú Đa…nối liền để ra cửa Đại hoặc đi Hội An, Tam Kỳ, Đà Nẵng… hoặc ngược lên Trung Phước, Tý, Sé, Dùi Chiêng… hoặc vào Nam ra Bắc hoặc có thể đi ra nước ngoài. Từ xa xưa, đường thủy đã có bến cảng Trà Nhiêu để thương nhân nước ngoài vào giao lưu buôn bán với Đàng Trong. Đường bộ có Trạm Nam Phước là một trong bảy trạm thời Tây Sơn và Nhà Nguyễn đi công cán, truyền tin. Bến trạm Câu lâu, Lang Châu, Vân Quật là những bến trạm chính qua sông Bà Rén vào Trà Đình điNam. Những năm 20 của thế kỷ XX có đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên việt chạy qua địa bàn huyện, lại có tỉnh lộ 610 đi từ Bàn Thạch lên đến Mỹ Sơn, An Hòa dài gần 40 km nối với các con đường công hương vào thôn xóm . + Duy Xuyên nổi tiếng với di sản thế giới – Thánh địa Mỹ Sơn của người Chăm. Ngoài ra, Duy Xuyên còn có kinh thành Trà Kiệu, có thủy điện Duy Sơn, đập Vĩnh Trinh. Nhân dân Duy Xuyên có truyền thống đấu tranh từ lâu đời gắn liền với quá trình khai hoang phục hóa phát triển sản xuất. Từ vùng đất ven sông Thu Bồn, trải qua hàng ngàn năm với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, con người Duy Xuyên từ đời này sang đời khác với tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo đã vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại những âm mưu hủy diệt của quân thù để bồi dựng nên những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, kiến lập nên cuộc sống phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc văn hóa riêng trong nền văn hóa dân tộc, nên những cảnh quan đẹp đẽ và những di tích kỳ vĩ của con người. Duy Xuyên nổi tiếng đất Quảng là miền đất học, với ngôi trường mang bút danh nhà chí sĩ yêu nước phan bội châu, trường THPT SÀO NAM, ngôi trường vừa được chủ tịch nước phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, một cái nôi của nhân tài đất Quảng, trường đứng đầu tỉnh về chất lượng giáo dục với 50% học sinh xếp loại học lục khá giỏi, tỉ lệ đỗ vào các trường đại học và cao đẳng trên cả nước khoảng 80%/năm, nhiều thí sinh của trường còn là thủ khoa của các trường đại học cao đẳng trong các kì tuyển sinh. + Kinh tế từ xưa đến nay chủ yếu là nền nông nghiệp lúa nước với 70% sống bằng nghề nông còn lại làm nghề buôn bán, tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp và viên chức nhà nước. Đặc biệt do có diện tích lớn bãi bồi ven sông nên nghề trồng dâu nuôi tằm được hình thành rất sớm và đã có lúc thực sự hưng thịnh gắn liền với nghề ươm tơ dệt lụa một thời lừng lẫy với mỹ danh. “Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều” + Cùng với văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm pa có vị trí trọng yếu trong tiến trình lịch sử dân tộc, các di tích văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa ở Duy Xuyên là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa Duy Xuyên. Ở ViệtNamvà Đông Nam Á, văn hóa Sa Huỳnh được biết đến khá sớm . Gần một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu đã trôi qua , đặc biệt từ sau năm 1975, với nhiều phát hiện mới đa dạng và phong phú, tri thức về văn hóa Sa Huỳnh đã được mở rộng. Sau hàng loạt các cuộc điều tra, thăm dò, khai quật mới được triển khai trên nhiều địa bàn khác nhau ở Duy Xuyên, đã đưa ra ánh sáng một khối lượng tư liệu và hiện vật phong phú. Trên cơ sở đó, nhận thức về văn hóa Sa Huỳnh ở Duy Xuyên được nâng lên một bước mới toàn diện và sâu sắc. Nhờ có những phát hiện mới này, chúng ta biết được các nhóm cư dân Sa Huỳnh không chỉ phân bố dọc duyên hải miền Trung mà còn phân bố ở các vùng trung du và vùng núi Quảng Nam…Chính địa vực phân bố khác nhau trên đã tạo ra trong văn hóa Sa Huỳnh sự đa sắc văn hóa trong khối nền chung. Sắc thái văn hóa núi đã dần hiện lên những nét độc đáo của văn hóa sa Huỳnh bên các sắc thái biển truyền thống. Sưu tập văn hóa Sa huỳnh phát hiện tại Duy Xuyên-QuảngNamgóp phần làm phong phú nhận định trên. Trong các nền văn hóa khảo cổ học nước ta, văn hóa Chămpa chiếm vị trí quan trọng. Từ những phát hiện đầu tiên của C. Paris về các kiến trúc đền tháp Chăm ở Mỹ Sơn và các vùng phụ cận ( năm 1898) đến cuộc khai quật khảo cổ học di tích thành Trà Kiệu năm 1927-1928 của Y. Clays đến nay đã hơn một thế kỷ. Trong thời gian đó, rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động không tốt tới các di tích Chămpa ở đây. Kinh đô Trà Kiệu huy hoàng xưa giờ đây chỉ còn lại những chân móng tường thành sụp đổ, bị chôn vùi trong đất đá. Hình bóng của nó chỉ còn đọng lại trong một vài trang sách hay qua các sưu tập điêu khắc đá nổi tiếng đang được lưu giữ tại các Bảo tàng .
Giới thiệu khái quát huyện Đại Lộc Huyện Đại Lộc – Quảng Nam được thành lập năm 1899 sau khi người Pháp đã chiếm đóng vững vàng tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Trải qua bao biến động của lịch sử, địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng tên gọi Đại Lộc luôn được lưu giữ cùng với bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Nằm về phía Bắc của Quảng Nam, Đại Lộc có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển: là vùng vành đai, cách Trung tâm thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Tây Nam, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 70 km; nằm trên trục hành lang kinh tế Đông – Tây, nối các tỉnh Tây Nguyên, cửa khẩu Quốc tế Bờ Y – Kom Tum, Đắc Tà Oóc – Nam Giang về Đà Nẵng và các tỉnh duyên hải miền Trung. Phía Đông giáp huyện Điện Bàn, phía Đông Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Nam giáp huyện Quế Sơn, phía Tây Nam giáp huyện Nam Giang, phía Tây Bắc giáp huyện Đông Giang . Hệ tọa độ địa lý đặt huyện Đại Lộc nằm gọn trong vòng nội chí tuyến, tại múi giờ thứ bảy. Với: Điểm cực Bắc tại: 15 0 53 vĩ độ Bắc trên xã Đại Hiệp. Điểm cực Nam: 15 0 43 vĩ độ Bắc trên xã Đại Thạnh. Điểm cực Đông: 108 0 47 kinh độ Đông trên xã Đại Hòa. Điểm cực Tây: 107 0 58 kinh độ Đông trên xã Đại Lãnh. Về đặc điểm tự nhiên, Đại Lộc là vùng đất mang tính chất trung du vừa có đồng bằng vừa có rừng núi với diện tích tự nhiên: 587,041 km ­ 2 . Dân số toàn huyện tính đến tháng 12/2010: 148546 người; mật độ: 253 người/km 2 . Khí hậu Đại Lộc là khí hậu nhiệt đới gió mùa có nền nhiệt độ cao trong năm ít biến đổi, trung bình 25,9 0 C. Độ ẩm trung bình: 82,3%. Lượng mưa bình quân năm 2000-2500mm, tập trung các tháng 9,10,11. Với địa hình cao ở phía Tây-Tây Bắc, thấp dần về phía Đông, có hai con sông lớn là Vu Gia và Thu Bồn với lưu lượng nước lớn bao bọc nên mưa đầu và giữa mùa đông ở Đại Lộc thường gây lụt lội ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất vùng hạ lưu. Dưới sự tác động của địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn khác nhau nên đất đai cũng đa dạng và gồm 4 nhóm chính: Đất cát, đất phù sa, đất xám bạc màu và đất đỏ vàng. Từ góc độ lịch sử – địa lý nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định: Tuy được thành lập sau về mặt hành chính nhưng Đại Lộc là vùng đất nằm trong bề dày truyền thống chung của xứ Thuận Hoá rồi cả Quảng Nam trước đây. Lịch sử hình thành và phát triển của Đại Lộc vì thế gắn liền với hành trình mở đất của dân tộc Việt cổ về phương Nam. Vùng đất Đại Lộc xưa thuộc đất Việt Thường Thị của vua Hùng. Từ năm 214 đến năm 205 TCN, thời nhà Tần, thuộc Tượng Quận. Từ năm 206 TCN đến năm 192 SCN, thời nhà Hán, thuộc quận Tượng Lâm và từ năm 192 đến năm 1306 thuộc vương quốc Chăm Pa. Sau cuộc hôn nhân huyền thoại của công chúa Trần Huyền Trân vào năm 1306, vua Chăm là Chế Mân đã dâng hai châu Ô và Lý cho nhà Trần để làm sính lễ. Sau khi nhận phần đất sính lễ, năm 1307, vua Trần Anh Tôn cử Hành khiển Đoàn Nhữ Hài vào trông coi hai châu Ô, Lý giờ đã được đổi tên thành Thuận Châu, Hóa Châu, lập huyện Điện Bàn miền núi (Điện Bàn cổ). Đại Lộc chúng ta bấy giờ thuộc Hóa Châu. Năm 1435, địa danh Điện Bàn cổ (bao gồm cả Đại Lộc ngày nay như đã nói ở trên) được Nguyễn Trãi ghi vào “Dư địa chí” gồm 95 xã thuộc phủ Triệu Phong của lộ Thuận Hóa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thành lập đạo thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1520, vua Lê Chiêu Tông đổi thành trấn Quảng Nam. Điện Bàn bấy giờ là một huyện thuộc phủ Triệu Phong của trấn Thuận Hóa. Năm 1605, Nguyễn Hoàng cho tách huyện Điện Bàn ra khỏi trấn Thuận Hóa, thăng lên thành phủ và nhập về Quảng Nam dinh. Dinh trấn Quảng Nam đóng tại xã Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, do các công tử của Chúa Nguyễn lần lượt đến trấn thủ. Từ năm 1740, vùng đất Đại Lộc thuộc quyền quản lý của Tây Sơn. Đến năm Tân Dậu (1801), nhà Nguyễn chiếm lại được Quảng Nam, lấy hai Phủ Thăng và Phủ Điện Bàn đặt làm Quảng Nam dinh nhưng đến năm Thành Thái 11 (12.1899) mới có sắc lệnh thành lập huyện Đại Lộc. Đến năm Thành thái thứ 12 (1900) chính thức cắt hai tổng Đại An, Mỹ Hòa của huyện Diên Phước và 3 tổng Đức Hòa, An Phước, Phú Khê của huyện Hòa Vang hình thành huyện Đại Lộc. Huyện Đại Lộc lúc này có 5 tổng, 109 xã, thôn, phường, châu. Nói về truyền thống quê hương, chúng ta trở lại mốc lịch sử 1307, sau khi cuộc hôn nhân ngắn ngủi chưa tròn năm của Chế Mân – Huyền Trân tan vỡ, bang giao Chiêm Việt đã xấu đi nhanh chóng. Hóa Châu trở thành vùng tranh chấp và có thời gian bị quân Chiêm chiếm giữ hơn 10 năm. Trong hoàn cảnh bị đe dọa thường trực, ở vị trí địa lý đầu sóng ngọn gió, nhân dân vùng Hóa Châu – có cư dân Đại Lộc ngày nay đã phải tổ chức chiến đấu để tự bảo vệ và bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc, mỗi người dân vì thế được tôi luyện thành chiến sỹ cương cường, chịu đựng gian khổ, chiến đấu và chiến đấu giỏi. Có lúc, chúa Trịnh Kiểm phải thốt lên: “Thuận Hóa là một kho tinh binh, nơi địa thế hiểm trở và dân khí cương cường”. Đại Lộc đắm mình trong truyền thống dân khí cường đó và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay để mỗi khi nhắc đến Đại Lộc là nhắc đến vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; nhắc đến căn cứ địa vững chắc của Nghĩa Hội Quảng Nam với những: Tú Đỉnh (Trần Đỉnh), lão túy ông Đỗ Đăng Tuyển; đến ngọn cờ đầu của phong trào chống sưu thuế 1908 với những Trương Hoành, Hứa Tạo; đến chiến thắng Thượng Đức làm mở toang cánh cửa thép phía Tây Nam Đà Nẵng ngày 7/8/1974… Trải qua hai cuộc kháng chiến đầy vinh quang nhưng cũng nhiều hy sinh, mất mát, huyện Đại Lộc vinh dự được Chủ tịch nước CHXHCNVN phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND vì đã có những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu; 18 tập thể và 18 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Bình quân 8 người dân có 1 người được Đảng và Nhà nước khen thưởng. Cũng như những địa phương khác của Quảng Nam, Đại Lộc có những nghệ sỹ được mệnh danh là con rồng trên sân khấu như Nguyễn Nho Túy, những chí sỹ, danh nhân nổi tiếng như Đỗ Đăng Tuyển, Huỳnh Ngọc Huệ, Huỳnh Quỳ (Tú Quỳ), Trần Đình Tri, Trần Tống, Võ Quảng, Trinh Đường, Nam Trân, Nguyễn Văn Bổng…Có những gia đình “ dòng dõi một nhà, khoa trước sau đều đỗ ” cử nhân, tú tài như nhà cụ Hồ Lệ, cụ Huỳnh Quỳ. Đặc biệt, những loại hình nghệ thuật độc đáo như: hát tuồng, dân ca Quảng, hò đối đáp, hò chèo thuyền, múa tứ linh, bài chòi…vẫn còn lưu giữ cùng với sinh hoạt lễ hội dân gian truyền thống như lễ hội bà Phường Chào, lễ hội Bà Chúa Ngọc, lễ cầu phong, lễ vía Ngũ hành Tiên nương, hội đua thuyền truyền thống…tiếp tục phản ánh đời sống tinh thần phong phú và mang đậm bản sắc dân tộc của người dân nơi đây. Trong đời sống tâm linh, người Đại Lộc rất “hỗn dung tôn giáo”, họ thờ cả Phật, cả Quan Công, cả Thần Hoàng, cả Mẫu lẫn các vị thần Chăm và các anh hùng liệt sỹ, có khi chung vào một chỗ, vị này đắp lên vị kia. Thực ra là họ thờ cái đức nhân hậu ở đời. Có lẽ, khi đặt tên huyện, người xưa đã căn cứ vào đặc điểm trung du của vùng đất để gọi là Đại Lộc – nghĩa là “chân núi lớn”. Trong thực tế, Đại Lộc đã được biết đến là vùng đất trù phú với nhiều sản vật dồi dào, là vùng trọng điểm lúa của tỉnh Quảng Nam, đồng thời rất nổi tiếng với các ngành nghề: trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa, làm trống, thợ hồ, làm nhang, đan lờ… Nhìn chung, ngoài “nông tang vi bản”, cơ cấu ngành nghề ở Đại Lộc rất phong phú. Mồ hôi của các thế hệ cư dân đã kiến tạo trên vùng đất này một bức tranh quê với nhiều điểm tươi sáng. 35 năm sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, Đại Lộc không ngừng đổi mới và phát triển trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế – văn hóa-xã hội. Từ một huyện nông nghiệp là chính, đến nay Đại Lộc đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trên lĩnh vực công nghiệp với 18 cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Trong số 36 dự án đang đầu tư phát triển sản xuất trên địa bàn có 3 dự án được đánh giá mang tầm vóc “khổng lồ” so với địa phương là: Dự án sản xuất cồn Ethanol của Công ty Cổ phần Đồng Xanh; dự án sản xuất phụ tùng cơ khí chính xác cao ngành dệt may của công ty TNHH Groz-Berket Việt Nam; dự án sản xuất gạch men cao cấp ceramic của công ty cổ phần Prime. Từ một vùng nông thôn nghèo, giao thông cách trở, giờ đây gần 100% hộ gia đình có điện thắp sáng, hệ thống thông tin liên lạc, đường ô tô đến tất cả các xã. Những khu dân cư, những con đường mới mở, những đoạn đường đến tận thôn cùng ngõ hẻm được bê tông hóa… đã góp phần tạo cho Đại Lộc một diện mạo mới. Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, Đại Lộc cùng với cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mới, phấn đấu xây dựng quê hương giàu mạnh về kinh tế, văn minh và công bằng. Trên nền tảng truyền thống văn hóa lịch sử, cách mạng tốt đẹp và lâu đời của quê hương, Đại Lộc tiếp tục phát huy thế mạnh nội lực, mở rộng thu hút ngoại lực, tự tin vững bước đi lên trên đường hội nhập.
Giới thiệu khái quát huyện Đại Lộc Huyện Đại Lộc – Quảng Nam được thành lập năm 1899 sau khi người Pháp đã chiếm đóng vững vàng tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Trải qua bao biến động của lịch sử, địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng tên gọi Đại Lộc luôn được lưu giữ cùng với bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Nằm về phía Bắc của Quảng Nam, Đại Lộc có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển: là vùng vành đai, cách Trung tâm thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Tây Nam, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 70 km; nằm trên trục hành lang kinh tế Đông – Tây, nối các tỉnh Tây Nguyên, cửa khẩu Quốc tế Bờ Y – Kom Tum, Đắc Tà Oóc – Nam Giang về Đà Nẵng và các tỉnh duyên hải miền Trung. Phía Đông giáp huyện Điện Bàn, phía Đông Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Nam giáp huyện Quế Sơn, phía Tây Nam giáp huyện Nam Giang, phía Tây Bắc giáp huyện Đông Giang . Hệ tọa độ địa lý đặt huyện Đại Lộc nằm gọn trong vòng nội chí tuyến, tại múi giờ thứ bảy. Với: Điểm cực Bắc tại: 15 0 53 vĩ độ Bắc trên xã Đại Hiệp. Điểm cực Nam: 15 0 43 vĩ độ Bắc trên xã Đại Thạnh. Điểm cực Đông: 108 0 47 kinh độ Đông trên xã Đại Hòa. Điểm cực Tây: 107 0 58 kinh độ Đông trên xã Đại Lãnh. Về đặc điểm tự nhiên, Đại Lộc là vùng đất mang tính chất trung du vừa có đồng bằng vừa có rừng núi với diện tích tự nhiên: 587,041 km ­ 2 . Dân số toàn huyện tính đến tháng 12/2010: 148546 người; mật độ: 253 người/km 2 . Khí hậu Đại Lộc là khí hậu nhiệt đới gió mùa có nền nhiệt độ cao trong năm ít biến đổi, trung bình 25,9 0 C. Độ ẩm trung bình: 82,3%. Lượng mưa bình quân năm 2000-2500mm, tập trung các tháng 9,10,11. Với địa hình cao ở phía Tây-Tây Bắc, thấp dần về phía Đông, có hai con sông lớn là Vu Gia và Thu Bồn với lưu lượng nước lớn bao bọc nên mưa đầu và giữa mùa đông ở Đại Lộc thường gây lụt lội ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất vùng hạ lưu. Dưới sự tác động của địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn khác nhau nên đất đai cũng đa dạng và gồm 4 nhóm chính: Đất cát, đất phù sa, đất xám bạc màu và đất đỏ vàng. Từ góc độ lịch sử – địa lý nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định: Tuy được thành lập sau về mặt hành chính nhưng Đại Lộc là vùng đất nằm trong bề dày truyền thống chung của xứ Thuận Hoá rồi cả Quảng Nam trước đây. Lịch sử hình thành và phát triển của Đại Lộc vì thế gắn liền với hành trình mở đất của dân tộc Việt cổ về phương Nam. Vùng đất Đại Lộc xưa thuộc đất Việt Thường Thị của vua Hùng. Từ năm 214 đến năm 205 TCN, thời nhà Tần, thuộc Tượng Quận. Từ năm 206 TCN đến năm 192 SCN, thời nhà Hán, thuộc quận Tượng Lâm và từ năm 192 đến năm 1306 thuộc vương quốc Chăm Pa. Sau cuộc hôn nhân huyền thoại của công chúa Trần Huyền Trân vào năm 1306, vua Chăm là Chế Mân đã dâng hai châu Ô và Lý cho nhà Trần để làm sính lễ. Sau khi nhận phần đất sính lễ, năm 1307, vua Trần Anh Tôn cử Hành khiển Đoàn Nhữ Hài vào trông coi hai châu Ô, Lý giờ đã được đổi tên thành Thuận Châu, Hóa Châu, lập huyện Điện Bàn miền núi (Điện Bàn cổ). Đại Lộc chúng ta bấy giờ thuộc Hóa Châu. Năm 1435, địa danh Điện Bàn cổ (bao gồm cả Đại Lộc ngày nay như đã nói ở trên) được Nguyễn Trãi ghi vào “Dư địa chí” gồm 95 xã thuộc phủ Triệu Phong của lộ Thuận Hóa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thành lập đạo thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1520, vua Lê Chiêu Tông đổi thành trấn Quảng Nam. Điện Bàn bấy giờ là một huyện thuộc phủ Triệu Phong của trấn Thuận Hóa. Năm 1605, Nguyễn Hoàng cho tách huyện Điện Bàn ra khỏi trấn Thuận Hóa, thăng lên thành phủ và nhập về Quảng Nam dinh. Dinh trấn Quảng Nam đóng tại xã Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, do các công tử của Chúa Nguyễn lần lượt đến trấn thủ. Từ năm 1740, vùng đất Đại Lộc thuộc quyền quản lý của Tây Sơn. Đến năm Tân Dậu (1801), nhà Nguyễn chiếm lại được Quảng Nam, lấy hai Phủ Thăng và Phủ Điện Bàn đặt làm Quảng Nam dinh nhưng đến năm Thành Thái 11 (12.1899) mới có sắc lệnh thành lập huyện Đại Lộc. Đến năm Thành thái thứ 12 (1900) chính thức cắt hai tổng Đại An, Mỹ Hòa của huyện Diên Phước và 3 tổng Đức Hòa, An Phước, Phú Khê của huyện Hòa Vang hình thành huyện Đại Lộc. Huyện Đại Lộc lúc này có 5 tổng, 109 xã, thôn, phường, châu. Nói về truyền thống quê hương, chúng ta trở lại mốc lịch sử 1307, sau khi cuộc hôn nhân ngắn ngủi chưa tròn năm của Chế Mân – Huyền Trân tan vỡ, bang giao Chiêm Việt đã xấu đi nhanh chóng. Hóa Châu trở thành vùng tranh chấp và có thời gian bị quân Chiêm chiếm giữ hơn 10 năm. Trong hoàn cảnh bị đe dọa thường trực, ở vị trí địa lý đầu sóng ngọn gió, nhân dân vùng Hóa Châu – có cư dân Đại Lộc ngày nay đã phải tổ chức chiến đấu để tự bảo vệ và bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc, mỗi người dân vì thế được tôi luyện thành chiến sỹ cương cường, chịu đựng gian khổ, chiến đấu và chiến đấu giỏi. Có lúc, chúa Trịnh Kiểm phải thốt lên: “Thuận Hóa là một kho tinh binh, nơi địa thế hiểm trở và dân khí cương cường”. Đại Lộc đắm mình trong truyền thống dân khí cường đó và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay để mỗi khi nhắc đến Đại Lộc là nhắc đến vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; nhắc đến căn cứ địa vững chắc của Nghĩa Hội Quảng Nam với những: Tú Đỉnh (Trần Đỉnh), lão túy ông Đỗ Đăng Tuyển; đến ngọn cờ đầu của phong trào chống sưu thuế 1908 với những Trương Hoành, Hứa Tạo; đến chiến thắng Thượng Đức làm mở toang cánh cửa thép phía Tây Nam Đà Nẵng ngày 7/8/1974… Trải qua hai cuộc kháng chiến đầy vinh quang nhưng cũng nhiều hy sinh, mất mát, huyện Đại Lộc vinh dự được Chủ tịch nước CHXHCNVN phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND vì đã có những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu; 18 tập thể và 18 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Bình quân 8 người dân có 1 người được Đảng và Nhà nước khen thưởng. Cũng như những địa phương khác của Quảng Nam, Đại Lộc có những nghệ sỹ được mệnh danh là con rồng trên sân khấu như Nguyễn Nho Túy, những chí sỹ, danh nhân nổi tiếng như Đỗ Đăng Tuyển, Huỳnh Ngọc Huệ, Huỳnh Quỳ (Tú Quỳ), Trần Đình Tri, Trần Tống, Võ Quảng, Trinh Đường, Nam Trân, Nguyễn Văn Bổng…Có những gia đình “ dòng dõi một nhà, khoa trước sau đều đỗ ” cử nhân, tú tài như nhà cụ Hồ Lệ, cụ Huỳnh Quỳ. Đặc biệt, những loại hình nghệ thuật độc đáo như: hát tuồng, dân ca Quảng, hò đối đáp, hò chèo thuyền, múa tứ linh, bài chòi…vẫn còn lưu giữ cùng với sinh hoạt lễ hội dân gian truyền thống như lễ hội bà Phường Chào, lễ hội Bà Chúa Ngọc, lễ cầu phong, lễ vía Ngũ hành Tiên nương, hội đua thuyền truyền thống…tiếp tục phản ánh đời sống tinh thần phong phú và mang đậm bản sắc dân tộc của người dân nơi đây. Trong đời sống tâm linh, người Đại Lộc rất “hỗn dung tôn giáo”, họ thờ cả Phật, cả Quan Công, cả Thần Hoàng, cả Mẫu lẫn các vị thần Chăm và các anh hùng liệt sỹ, có khi chung vào một chỗ, vị này đắp lên vị kia. Thực ra là họ thờ cái đức nhân hậu ở đời. Có lẽ, khi đặt tên huyện, người xưa đã căn cứ vào đặc điểm trung du của vùng đất để gọi là Đại Lộc – nghĩa là “chân núi lớn”. Trong thực tế, Đại Lộc đã được biết đến là vùng đất trù phú với nhiều sản vật dồi dào, là vùng trọng điểm lúa của tỉnh Quảng Nam, đồng thời rất nổi tiếng với các ngành nghề: trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa, làm trống, thợ hồ, làm nhang, đan lờ… Nhìn chung, ngoài “nông tang vi bản”, cơ cấu ngành nghề ở Đại Lộc rất phong phú. Mồ hôi của các thế hệ cư dân đã kiến tạo trên vùng đất này một bức tranh quê với nhiều điểm tươi sáng. 35 năm sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, Đại Lộc không ngừng đổi mới và phát triển trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế – văn hóa-xã hội. Từ một huyện nông nghiệp là chính, đến nay Đại Lộc đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trên lĩnh vực công nghiệp với 18 cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Trong số 36 dự án đang đầu tư phát triển sản xuất trên địa bàn có 3 dự án được đánh giá mang tầm vóc “khổng lồ” so với địa phương là: Dự án sản xuất cồn Ethanol của Công ty Cổ phần Đồng Xanh; dự án sản xuất phụ tùng cơ khí chính xác cao ngành dệt may của công ty TNHH Groz-Berket Việt Nam; dự án sản xuất gạch men cao cấp ceramic của công ty cổ phần Prime. Từ một vùng nông thôn nghèo, giao thông cách trở, giờ đây gần 100% hộ gia đình có điện thắp sáng, hệ thống thông tin liên lạc, đường ô tô đến tất cả các xã. Những khu dân cư, những con đường mới mở, những đoạn đường đến tận thôn cùng ngõ hẻm được bê tông hóa… đã góp phần tạo cho Đại Lộc một diện mạo mới. Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, Đại Lộc cùng với cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mới, phấn đấu xây dựng quê hương giàu mạnh về kinh tế, văn minh và công bằng. Trên nền tảng truyền thống văn hóa lịch sử, cách mạng tốt đẹp và lâu đời của quê hương, Đại Lộc tiếp tục phát huy thế mạnh nội lực, mở rộng thu hút ngoại lực, tự tin vững bước đi lên trên đường hội nhập.
Giới thiệu khái quát huyện Tây Trà QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ QUỐC GIA KHỞI NGHĨA TRÀ BỒNG VÀ MIỀN TÂY QUẢNG NGÃ I Quần thể di tích lịch sử Cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và Miền Tây Quảng Ngãi được Bộ Văn hoá, thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2307/QĐ ngày 30/12/1992. Theo đó quần thể di tích này gồm 08 điểm, trong đó trên địa bàn huyện Tây Trà có 04 điểm, gồm: Di tích Đồn Eo Chim, thuộc xã Trà Lãnh; Di tích Nước Xoay, thuộc xã Trà Thọ; Di tích Gò Rô, thuộc xã Trà Phong; Di tích Đồn Làng Ngãi, thuộc xã Trà Xinh. 1. Di tích Đồn Eo Chim: Đồn Eo Chim nằm ở địa phận thôn Trà Lương, thuộc xã Trà Lãnh, cách trung tâm huyện Tây Trà 21 km về hướng Bắc, cách trung tâm huyện Trà Bồng 17 km về hướng Tây Nam. Đồn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Đồn xây dựng trên đỉnh đèo Eo Chim, phía Bắc đồn là con đường liên xã, phía nam đồn giáp thung lũng Đíu. Cả hai mặt trước và sau đều có đồi cao dùng làm điểm quan sát. Trên đường chính từ huyện Trà Bồng lên Tây Trà phải qua đèo rồi từ đó phân hai: Một con đường về Trà Nham; một con đường lên Trà Phong, Trà Quân, Trà Lãnh,… Do vậy, đồng bào ở đây giống như một cái yết hầu. Địch đã xây dựng Eo Chim với tham vọng kiểm soát cả một vùng rộng lớn gồm các xã: Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Thọ, Trà Trung. Mặt khác, đồn nằm ở trung tâm nơi có thể liên kết với các đồn Tà Lạt phía Bắc, Eo Reo phía đông, Tầm Rung phía Nam dễ dàng cơ động phối hợp để đối phó với sự tấn công của ta cũng như việc cưỡng chế kiểm soát đồng bào dân tộc.
General introduction of Tay Tra district NATIONAL HISTORIC REGIME THE TRA BONG UPrising AND THE WESTERN REGION OF QUANG NGA I The historical relic complex of the Tra Bong Uprising and the Western Region of Quang Ngai was ranked as a national historical relic by the Ministry of Culture, Sports and Tourism according to Decision Không. 2307/QD dated December 30, 1992. Accordingly, this relic complex includes 08 points, of which 04 points are in Tay Tra district, including: Fort Eo Chim relic, in Tra Lanh commune; Nuoc Dien Relic, in Tra Tho commune; Go Ro relic, in Tra Phong commune; Lang Ngai Fort relic, in Tra Xinh commune. 1. Eo Chim Fort relic: Eo Chim Fort is located in Tra Luong village, Tra Lanh commune, 21 km north of Tay Tra district center, 17 km southwest of Tra Bong district center. The station has a very important strategic location. The station was built on top of Eo Chim pass, the north of the station is an inter-commune road, the south of the station borders Dieu valley. Both the front and back sides have high hills used as observation points. On the main road from Tra Bong district to Tay Tra, you have to go through the pass and from there it divides into two: One road to Tra Nham; a road to Tra Phong, Tra Quan, Tra Lanh,... Therefore, the people here are like a throat. The enemy built Eo Chim with the ambition to control a large area including communes: Tra Lam, Tra Lanh, Tra Nham, Tra Phong, Tra Tho, Tra Trung. On the other hand, the station is located in the center where it can link with Ta Lat in the north, Eo Reo in the east, and Tam Rung in the south to easily maneuver and coordinate to deal with our attacks as well as enforcement. control ethnic people.
Giới thiệu khái quát huyện Lý Sơn Hiện nay, trong nhiều loại hành – tỏi có mặt trên thị trường thì hành – tỏi Lý Sơn được xem là đặc sản quý hiếm, kích thước nhỏ, củ tròn trịa, có mùi thơm, vị cay nhưng vẫn dịu ngọt. Không những thế, hàm lượng tinh dầu có trong hành – tỏi Lý Sơn khá cao nên chẳng những được người tiêu dùng ưa chuộng dùng làm gia vị chế biến thực phẩm mà còn là nguồn dược liệu vô cùng quý giá chữa được nhiều bệnh nhất là về tiêu hóa và tim mạch. Cây Tỏi là cây trồng đặc trưng và là cây trồng chủ lực của huyện đảo Lý Sơn, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá trị sản xuất ngành trồng trọt. Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn trong sản xuất do điều kiện tự nhiên, thiếu đất, cát sản xuất, giá cả biến động nhưng việc trồng tỏi vẫn được đảm bảo và có chiều hướng phát triển tích cực. Diện tích gieo trồng bình quân hàng năm khoảng 290ha, sản lượng bình quân hàng năm đạt khoảng 1.650 tấn. Tháng 4/2009 Huyện đã tổ chức lễ công bố Quyết định của Cục Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam về công nhận nhãn hiệu hành, tỏi Lý Sơn. Hiện nay, Lý Sơn đã được nhiều người biết đến với tên gọi “Vương Quốc Tỏi”, thương hiệu Tỏi Lý Sơn đã được quảng bá rộng rãi trên thị trường cả nước.
General introduction of Ly Son district Currently, among many types of onions and garlic on the market, Ly Son onions and garlic are considered a rare specialty, small in size, plump, fragrant, spicy but still sweet. Not only that, the essential oil content in Ly Son onions and garlic is quite high, so it is not only popular with consumers as a spice for food processing but is also an extremely valuable source of medicinal herbs that can cure many diseases, especially digestive and cardiovascular. Garlic is a typical crop and the main crop of Ly Son island district, accounting for the largest proportion in the production value of the crop industry. In recent years, although there are still many difficulties in production due to natural conditions, lack of land and sand for production, and fluctuating prices, garlic growing is still guaranteed and has a positive development trend. The average annual cultivated area is about 290 hectares, the average annual output is about 1,650 tons. In April 2009, the district held a ceremony to announce the Decision of the Vietnam Intellectual Property Office on recognizing the Ly Son onion and garlic brand. Currently, Ly Son is widely known as the "Kingdom of Garlic", the Ly Son Garlic brand has been widely promoted in the market nationwide.
Giới thiệu khái quát huyện Đức Phổ Huyện Đức Phổ là huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi . Phía bắc giáp huyện Mộ Đức; phía nam giáp huyện Hoài Nhơn (tỉnh Bình Định); phía tây giáp huyện Nghĩa Hành và huyện Ba Tơ; phía đông giáp biển Đông ​Hình thể của huyện trải dài theo bờ biển phía nam tỉnh Quảng Ngãi, có trục giao thông Quốc lộ 1 và đường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích: 371,67km2. Dân số: 153.684 người (năm 2005). Mật độ dân số: 413 người/km2(1). Đơn vị hành chính trực thuộc gồm 14 xã (Phổ Hòa, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Phong, Phổ An, Phổ Quang, Phổ Ninh, Phổ Minh, Phổ Nhơn, Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Thạnh, Phổ Châu, Phổ Vinh), 1 thị trấn (Đức Phổ, huyện lị), với 91 thôn, tổ dân phố; trong đó: Thống kê cho thấy có sự chênh lệnh khá lớn về số dân, mật độ dân số trong địa hạt huyện, do sự chi phối của địa hình, điều kiện tự nhiên hơn là do nghề nghiệp. Truyền thống yêu nước của cư dân Đức Phổ xưa bắt đầu được thể hiện trong phong trào nông dân Tây Sơn từ cuối thế kỷ XVIII. Đến thời kỳ Pháp xâm lược, trong phong trào Cần vương do Nguyễn Bá Loan lãnh đạo năm 1886 có Đỗ Điệt, một người chỉ huy trẻ tuổi quê Đức Phổ, giữ chức phó tướng trong nghĩa quân của Nguyễn Bá Loan. Tiếp theo, trong phong trào Duy tân, Đức Phổ cũng là địa bàn tham gia sôi nổi, có nhiều người tham gia như Tú tài Nguyễn Tuyên người làng Tân Hội (xã Phổ Phong), ông Phan Long Bằng người làng Thanh Sơn (Phổ Cường), đều là những nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào Duy tân ở Quảng Ngãi và miền Nam Trung Kỳ. Đức Phổ xuất phát từ kinh tế nông ngư lạc hậu, song có điều kiện tự nhiên và xã hội để phát triển kinh tế khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, nhưng nông, lâm, ngư nghiệp (chủ yếu là nông nghiệp) vẫn chiếm tỷ trọng khá cao. Các ngành kinh tế cơ bản như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển, nhưng vẫn chưa chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.
General introduction of Duc Pho district Duc Pho district is a coastal plain district located in the south Quang Ngai province . The north borders Mo Duc district; the south borders Hoai Nhon district (Binh Dinh province); The west borders Nghia Hanh district and Ba To district; East sea bordering the east ​The district's shape stretches along the southern coast of Quang Ngai province, with National Highway 1 and Thong Nhat railway running through. Area: 371.67km2. Population: 153,684 people (2005). Population density: 413 people/km2(1). The affiliated administrative units include 14 communes (Pho Hoa, Pho Thuan, Pho Van, Pho Phong, Pho An, Pho Quang, Pho Ninh, Pho Minh, Pho Nhon, Pho Cuong, Pho Khanh, Pho Thanh, Pho Chau, Pho Vinh), 1 town (Duc Pho, district capital), with 91 villages and residential groups; in there: Statistics show that there is a large difference in population and population density within the district, due to the influence of terrain and natural conditions rather than occupation. Patriotic tradition of ancient Duc Pho residents began to be expressed in the Tay Son peasant movement from the late 18th century. During the French invasion, in the Can Vuong movement led by Nguyen Ba Loan in 1886, Do Diet, a young commander from Duc Pho, held the position of deputy general in Nguyen Ba Loan's insurgent army. Next, in the Duy Tan movement, Duc Pho was also an area of ​​active participation, with many participants such as Baccalaureate Nguyen Tuyen from Tan Hoi village (Pho Phong commune), Mr. Phan Long Bang from Thanh Son village (Pho Phong commune). Cuong), are all famous activists of the Duy Tan movement in Quang Ngai and the South Central region. Duc Pho came from a backward agricultural and fishery economy, but had natural and social conditions for fairly comprehensive economic development. The economic growth rate is quite fast, but agriculture, forestry and fishery (mainly agriculture) still account for a fairly high proportion. Basic economic sectors such as industry, handicrafts, trade, and services are increasingly developing, but still do not account for a high proportion in the economic structure.
Giới thiệu khái quát huyện Cô Tô 1- Vị trí địa lý: Cô Tô là một huyện đặc biệt của tỉnh Quảng Ninh : bao gồm những hòn đảo chơi vơi ngoài tuyến khơi xa bờ nhất, huyện trẻ nhất (mới thành lập), diện tích nhỏ nhất, dân số ít nhất, nhưng lại giữ vị trí tiền đồn hết sức quan trọng trước vùng biển đông bắc của Tổ quốc, có tiềm năng kinh tế đa dạng, từng chịu những biến động quyết liệt nơi đầu sóng ngọn gió và hiện đang phát triển nhanh về kinh tế, xã hội. Cô Tô ở toạ độ từ 20 o 10’đến 21 o 15’ vĩ độ bắc và từ 107 o 35’ đến 108 o 20’ kinh độ đông cách đất liền 60 hải lý. Toàn huỵên gồm 30 hòn đảo lớn nhỏ. Trong đó 29 hòn đảo quây quần thành quần đảo Cô Tô mà trung tâm là đảo Cô Tô Lớn và đảo Thanh Lân. Hòn đảo lớn còn lại là đảo Chằn (còn gọi là đảo Trần hoặc Chàng Tây) đứng riêng về phía đông bắc. Cô Tô giáp vùng biển Vĩnh Thực, TP Móng Cái và vùng biển Cái Chiên, huỵên Quảng Hà; phía tây giáp vùng biển Vân Hải (Minh Châu – Quan Lạn) huyện Vân Đồn; phía nam giáp vùng biển Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng; phía đông giáp hải phận quốc tế và xa hơn là vùng biển đảo Hải Nam, Trung Quốc. 2- Diện tích, địa hình: Năm 2017 : Diện tích đất tự nhiên của Cô Tô là 5.005ha. Bao gồm: Đất sản xuất nông nghiệp (352ha, chiếm 7%), đất lâm nghiệp 2.414ha, chiếm 48,2%), đất chuyen dùng (1.100ha chiếm 22%), đất ở (50ha, chiếm 1%). (Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2017) Cô Tô có diện tích đất tự nhiên là 4.179ha, vùng biển cũng là vùng ngư trường thuộc huyện rộng trên 300km2. Cô Tô có địa hình đồi núi. Đỉnh Cáp Cháu trên đảo Thanh Lân cao 210m, đỉnh Đài khí tượng trên đảo Cô Tô Lớn cao 160m. Phần giữa các đảo đều cao, vây quanh là những đồi núi thấp và những cánh đồng hẹp, ven đảo có những bãi cát, bãi đá và vịnh nhỏ. Đất đai chủ yếu là đất phelarit trên sa thạch. Đất rừng rộng 2.200ha .Đất có khả năng nông nghiệp (771ha) chiếm 20% diện tích đất tự nhiên, trong đó một nửa có khả năng cấy lúa, trồng màu, già nửa có khả năng chăn thả đại gia súc và trồng cây ăn quả. 3- Các đơn vị hành chính: – Bao gồm thị trấn Cô Tô và 2 xã Thanh Lân, Đồng Tiến. 4- Dân số: Năm 2017 : Cô Tô có 6.200 dân, mật độ trung bình là 124,9 người/km2 (Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2017). Huyện đảo Cô Tô hiện có 1.500 hộ dân, với gần 6.000 nhân khẩu. 5- Khí hậu: Cô Tô có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ không khí bình quân 22,5 o C (cao nhất 36,2 o C vào tháng 6- năm 1976, thấp nhất 4,4 o C vào tháng 1-1972) Độ ẩm bình quân 83,6%, lượng mưa bình quân 1664mm/năm, lượng bốc hơi 30,7mm/tháng, tổng số giờ nắng trong năm là 18.306h, số ngày có sương mù bình quân 34 ngày/năm. Gió đông bắc thịnh hành từ tháng 9 đến tháng tư năm sau. Gió đông thịnh hành từ tháng 5 đến tháng 8. Gió nam chiếm ưu thế vào tháng 7. Từ tháng 7 đến tháng 9 thường có 2-3 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, tốc độ gió lớn nhất đến 144km/h. Nước biển có nhiệt độ bình quân 27 o , thấp nhất là 23 o và có độ mặn cao (3,8%). 6- Điểm du lịch và đặc sản của huyện: – Ấn tượng đầu tiên trong chuyến du lịch đến Cô Tô là ngọn hải đăng được xây dựng cuối thế kỷ XIX, hiện đang hoạt động bằng pin năng lượng mặt trời. Cô Tô sở hữu hàng loạt bãi biển đẹp như bãi Tàu Đắm, Hồng Vàn, Vàn Chải, Bắc Vàn, Vòm Si, Vụng Ông Viên và bãi nằm giữa đảo Cô Tô lớn và đảo Cô Tô con. Trong khi bãi Bắc Vàn có nhiều sao biển thì bãi Cầu Mỵ lại là nơi ngắm sóng và những vách đá kỳ thú. Tuy nhiên, đẹp nhất phải kể đến bãi Hồng Vàn với cát biển trắng mịn trải dài cả cây số, biển sạch và phẳng lì, mặt nước hầu như không có sóng và trong như một tấm gương khổng lồ. Con đường Tình yêu dẫn lối từ trung tâm huyện ra bãi Tàu Đắm. Vị trí đẹp nhất để chiêm ngưỡng hoàng hôn biển là đài ngắm sóng. Đường mòn dẫn lên đài toàn hoa mua và hoa sim tím ngắt. Ngoài ra, bạn có thể thuê thuyền khám phá đảo Cô Tô con và đảo Thanh Lân, chiêm ngưỡng rừng nguyên sinh, bãi biển tuyệt đẹp hoặc tham quan xưởng sứa, câu cá cùng ngư dân… – Cô Tô không chỉ nổi tiếng bởi cảnh sắc nguyên sơ hữu tình mà còn hấp dẫn du khách bởi nhiều đặc sản quý hiếm. Một trong số đó phải kể đến món bào ngư – ốc cửu khổng xứ đảo. Bào ngư thuộc loại hải sản quý, là một trong tám món ăn tuyệt phẩm gọi là “bát trân” thường xuất hiện trong các bữa ăn vương giả. Bào ngư thường được chế biến thành nhiều món như: nấu soup, hầm, xào, nấu cháo hoặc kết hợp với các nguyên liệu khác như: bào ngư hầm nấm đông cô, bào ngư bông cải sốt dầu hào, bào ngư hầm nấm và thịt nạc heo, bào ngư hầm cháo bồ câu… – Đảo Cô Tô có nhiều loại thủy hải sản có giá trị kinh tế cao như: cầu gai, cá hồng, cá song, cá mú, cá chim, ghẹ, tu hài, bề bề, tôm nõn, cá thu một nắng, cá ruội… đặc biệt mực một nắng Cô Tô. Ngoài ra phải kể đến món ốc móng tay xào rau răm, sốt me, xào rau muống; nộm sứa… 7- Thành tưu kinh tế- xã hội nổi bật. + Năm 2017 : Các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch, trong đó, một số chỉ tiêu đạt khá như: Thủy sản đạt 101,3% kế hoạch; tổng thu ngân sách đạt 118,28% kế hoạch; tốc độ tăng giá trị sản xuất trên 19,3%; khách du lịch tăng trên 20.000 lượt so với năm 2016. Các quy hoạch chiến lược được cơ bản hoàn thành an ninh- quốc phòng được giữ vững. (Theo: Quảng Ninh toàn cảnh 2017). + Năm 2018: Kinh tế ổn định và phát triển với tốc độ ổn định đạt 15,8% so với cùng kỳ. Nông lâm, thủy sản chiếm 25,2%, công nghiệp và xây dựng chiếm 15,3%; thương mại và dịch vụ chiếm 59,5%. Thu nhập bình quân đầu người khoản 3.350 DSSD/người/năm. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động thương mại, dịch vụ đạt khá. Công tác giải phóng mặt bằng, triển khai thi công các dự án, công trình trọng điểm được đẩy nhanh, cơ bản đáp ứng được yêu cầu tiến độ của các dự án. Văn hóa- xã hội được quan tâm và đạt nhiều kết quả tốt đẹp; an sinh xã hội được đảm bảo. Chương trình xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững được quan tâm chỉ đạo và đạt kết quả tốt, tỷ lệ hộ nghèo còn 0,5%. Các quy hoạch chiến lược cơ bản được hoàn thành, an ninh, quốc phòng giữ vừng. (Theo Quảng Ninh toàn cảnh năm 2018). Cô Tô có tên cổ là Chàng Sơn (Núi Chàng), từ lâu đời đã là nơi cư trú ngụ của thuyền bè ngư dân Vùng Đông Bắc, song chưa thành nơi định cư vì luôn bị những toán cướp biển Trung Quốc quấy phá. Đầu thời Nguyễn, một số dân cư Trung Quốc đánh bắt được những toán cướp biển và xin được nhập cư sinh sống. Năm 1832, Nguyễn Công Trứ với cương vị Tổng Đốc Hải An (Hải Dương – An Quảng) đã xin triều đình cho thành lập làng xã, cắt cử người cai quản. Làng đầu tiên ở đây được Nguyễn Công Trứ đặt là làng Hướng Hoá. Ít lâu sau, nhà Nguyễn cho thu thuế và lập đồn Hướng Hoá canh phòng giặc biển. Dân cư đông dần, tất cả đều là người gốc nhiều dân tộc thiểu số ở vùng ven biển Quảng Đông, Phúc Kiến và đảo Hải Nam phiêu bạt đến. Thời Pháp thuộc, Cô Tô là một tổng có năm xã (Đông giáp, Nam giáp, Tây giáp, Bắc giáp, Trung giáp) thuộc châu Hà Cối phủ Hải Đông tỉnh Hải Ninh. Năm 1945, ta chưa kịp lập chính quyền cách mạng thì quân Pháp đã quay lại chiếm đóng Cô Tô. Từ Cô Tô và cảng Vạn Hoa trên đảo Cái Bầu, tàu chiến Pháp vào quấy rối vùng biển Hòn Gai và Hải Phòng. Tháng 11-1946 Đại đội Ký Con giải phóng quân từ Hòn Gai dùng tàu chiến Le Creysac mới chiếm được của hải quân Pháp tiến ra giải phóng Cô Tô nhưng không thành công. Cho đến cuối năm 1955, thực hiện hiệp định Genève, quân Pháp mới rút, Cô Tô được giải phóng. Đầu năm 1954 ta thành lập chính quyền hai xã Thanh Lân, Cô Tô thuộc huyện Móng Cái – Sau đó là hai xã đặc biệt trực thuộc tỉnh, từ 16-7-1964 , hai xã được sáp nhập vào huyện Cẩm Phả. Ngày 9-5-1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Cô Tô, sau đó đây là nơi đầu tiên được dựng tượng toàn thân Hồ Chủ tịch khi Người còn sống. Nay bức tượng Hồ Chủ Tịch cao trên 5m được tôn tạo và giữ gìn đã trở thành một di tích lịch sử – văn hoá được liệt hạng. Ngày 23-3 -1994, Chính phủ ra Nghị định 28 -CP đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn đồng thời tách quần đảo Cô Tô gồm hai xã Thanh Lân, Cô Tô thành lập huyện Cô Tô. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 24-12-1994 trên đảo Cô Tô Lớn, lễ đón nhận Nghị định được cử hành trọng thể và huyện đảo Cô Tô chính thức ra đời.
Giới thiệu khái quát huyện Cô Tô 1- Vị trí địa lý: Cô Tô là một huyện đặc biệt của tỉnh Quảng Ninh : bao gồm những hòn đảo chơi vơi ngoài tuyến khơi xa bờ nhất, huyện trẻ nhất (mới thành lập), diện tích nhỏ nhất, dân số ít nhất, nhưng lại giữ vị trí tiền đồn hết sức quan trọng trước vùng biển đông bắc của Tổ quốc, có tiềm năng kinh tế đa dạng, từng chịu những biến động quyết liệt nơi đầu sóng ngọn gió và hiện đang phát triển nhanh về kinh tế, xã hội. Cô Tô ở toạ độ từ 20 o 10’đến 21 o 15’ vĩ độ bắc và từ 107 o 35’ đến 108 o 20’ kinh độ đông cách đất liền 60 hải lý. Toàn huỵên gồm 30 hòn đảo lớn nhỏ. Trong đó 29 hòn đảo quây quần thành quần đảo Cô Tô mà trung tâm là đảo Cô Tô Lớn và đảo Thanh Lân. Hòn đảo lớn còn lại là đảo Chằn (còn gọi là đảo Trần hoặc Chàng Tây) đứng riêng về phía đông bắc. Cô Tô giáp vùng biển Vĩnh Thực, TP Móng Cái và vùng biển Cái Chiên, huỵên Quảng Hà; phía tây giáp vùng biển Vân Hải (Minh Châu – Quan Lạn) huyện Vân Đồn; phía nam giáp vùng biển Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng; phía đông giáp hải phận quốc tế và xa hơn là vùng biển đảo Hải Nam, Trung Quốc. 2- Diện tích, địa hình: Năm 2017 : Diện tích đất tự nhiên của Cô Tô là 5.005ha. Bao gồm: Đất sản xuất nông nghiệp (352ha, chiếm 7%), đất lâm nghiệp 2.414ha, chiếm 48,2%), đất chuyen dùng (1.100ha chiếm 22%), đất ở (50ha, chiếm 1%). (Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2017) Cô Tô có diện tích đất tự nhiên là 4.179ha, vùng biển cũng là vùng ngư trường thuộc huyện rộng trên 300km2. Cô Tô có địa hình đồi núi. Đỉnh Cáp Cháu trên đảo Thanh Lân cao 210m, đỉnh Đài khí tượng trên đảo Cô Tô Lớn cao 160m. Phần giữa các đảo đều cao, vây quanh là những đồi núi thấp và những cánh đồng hẹp, ven đảo có những bãi cát, bãi đá và vịnh nhỏ. Đất đai chủ yếu là đất phelarit trên sa thạch. Đất rừng rộng 2.200ha .Đất có khả năng nông nghiệp (771ha) chiếm 20% diện tích đất tự nhiên, trong đó một nửa có khả năng cấy lúa, trồng màu, già nửa có khả năng chăn thả đại gia súc và trồng cây ăn quả. 3- Các đơn vị hành chính: – Bao gồm thị trấn Cô Tô và 2 xã Thanh Lân, Đồng Tiến. 4- Dân số: Năm 2017 : Cô Tô có 6.200 dân, mật độ trung bình là 124,9 người/km2 (Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2017). Huyện đảo Cô Tô hiện có 1.500 hộ dân, với gần 6.000 nhân khẩu. 5- Khí hậu: Cô Tô có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ không khí bình quân 22,5 o C (cao nhất 36,2 o C vào tháng 6- năm 1976, thấp nhất 4,4 o C vào tháng 1-1972) Độ ẩm bình quân 83,6%, lượng mưa bình quân 1664mm/năm, lượng bốc hơi 30,7mm/tháng, tổng số giờ nắng trong năm là 18.306h, số ngày có sương mù bình quân 34 ngày/năm. Gió đông bắc thịnh hành từ tháng 9 đến tháng tư năm sau. Gió đông thịnh hành từ tháng 5 đến tháng 8. Gió nam chiếm ưu thế vào tháng 7. Từ tháng 7 đến tháng 9 thường có 2-3 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, tốc độ gió lớn nhất đến 144km/h. Nước biển có nhiệt độ bình quân 27 o , thấp nhất là 23 o và có độ mặn cao (3,8%). 6- Điểm du lịch và đặc sản của huyện: – Ấn tượng đầu tiên trong chuyến du lịch đến Cô Tô là ngọn hải đăng được xây dựng cuối thế kỷ XIX, hiện đang hoạt động bằng pin năng lượng mặt trời. Cô Tô sở hữu hàng loạt bãi biển đẹp như bãi Tàu Đắm, Hồng Vàn, Vàn Chải, Bắc Vàn, Vòm Si, Vụng Ông Viên và bãi nằm giữa đảo Cô Tô lớn và đảo Cô Tô con. Trong khi bãi Bắc Vàn có nhiều sao biển thì bãi Cầu Mỵ lại là nơi ngắm sóng và những vách đá kỳ thú. Tuy nhiên, đẹp nhất phải kể đến bãi Hồng Vàn với cát biển trắng mịn trải dài cả cây số, biển sạch và phẳng lì, mặt nước hầu như không có sóng và trong như một tấm gương khổng lồ. Con đường Tình yêu dẫn lối từ trung tâm huyện ra bãi Tàu Đắm. Vị trí đẹp nhất để chiêm ngưỡng hoàng hôn biển là đài ngắm sóng. Đường mòn dẫn lên đài toàn hoa mua và hoa sim tím ngắt. Ngoài ra, bạn có thể thuê thuyền khám phá đảo Cô Tô con và đảo Thanh Lân, chiêm ngưỡng rừng nguyên sinh, bãi biển tuyệt đẹp hoặc tham quan xưởng sứa, câu cá cùng ngư dân… – Cô Tô không chỉ nổi tiếng bởi cảnh sắc nguyên sơ hữu tình mà còn hấp dẫn du khách bởi nhiều đặc sản quý hiếm. Một trong số đó phải kể đến món bào ngư – ốc cửu khổng xứ đảo. Bào ngư thuộc loại hải sản quý, là một trong tám món ăn tuyệt phẩm gọi là “bát trân” thường xuất hiện trong các bữa ăn vương giả. Bào ngư thường được chế biến thành nhiều món như: nấu soup, hầm, xào, nấu cháo hoặc kết hợp với các nguyên liệu khác như: bào ngư hầm nấm đông cô, bào ngư bông cải sốt dầu hào, bào ngư hầm nấm và thịt nạc heo, bào ngư hầm cháo bồ câu… – Đảo Cô Tô có nhiều loại thủy hải sản có giá trị kinh tế cao như: cầu gai, cá hồng, cá song, cá mú, cá chim, ghẹ, tu hài, bề bề, tôm nõn, cá thu một nắng, cá ruội… đặc biệt mực một nắng Cô Tô. Ngoài ra phải kể đến món ốc móng tay xào rau răm, sốt me, xào rau muống; nộm sứa… 7- Thành tưu kinh tế- xã hội nổi bật. + Năm 2017 : Các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch, trong đó, một số chỉ tiêu đạt khá như: Thủy sản đạt 101,3% kế hoạch; tổng thu ngân sách đạt 118,28% kế hoạch; tốc độ tăng giá trị sản xuất trên 19,3%; khách du lịch tăng trên 20.000 lượt so với năm 2016. Các quy hoạch chiến lược được cơ bản hoàn thành an ninh- quốc phòng được giữ vững. (Theo: Quảng Ninh toàn cảnh 2017). + Năm 2018: Kinh tế ổn định và phát triển với tốc độ ổn định đạt 15,8% so với cùng kỳ. Nông lâm, thủy sản chiếm 25,2%, công nghiệp và xây dựng chiếm 15,3%; thương mại và dịch vụ chiếm 59,5%. Thu nhập bình quân đầu người khoản 3.350 DSSD/người/năm. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động thương mại, dịch vụ đạt khá. Công tác giải phóng mặt bằng, triển khai thi công các dự án, công trình trọng điểm được đẩy nhanh, cơ bản đáp ứng được yêu cầu tiến độ của các dự án. Văn hóa- xã hội được quan tâm và đạt nhiều kết quả tốt đẹp; an sinh xã hội được đảm bảo. Chương trình xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững được quan tâm chỉ đạo và đạt kết quả tốt, tỷ lệ hộ nghèo còn 0,5%. Các quy hoạch chiến lược cơ bản được hoàn thành, an ninh, quốc phòng giữ vừng. (Theo Quảng Ninh toàn cảnh năm 2018). Cô Tô có tên cổ là Chàng Sơn (Núi Chàng), từ lâu đời đã là nơi cư trú ngụ của thuyền bè ngư dân Vùng Đông Bắc, song chưa thành nơi định cư vì luôn bị những toán cướp biển Trung Quốc quấy phá. Đầu thời Nguyễn, một số dân cư Trung Quốc đánh bắt được những toán cướp biển và xin được nhập cư sinh sống. Năm 1832, Nguyễn Công Trứ với cương vị Tổng Đốc Hải An (Hải Dương – An Quảng) đã xin triều đình cho thành lập làng xã, cắt cử người cai quản. Làng đầu tiên ở đây được Nguyễn Công Trứ đặt là làng Hướng Hoá. Ít lâu sau, nhà Nguyễn cho thu thuế và lập đồn Hướng Hoá canh phòng giặc biển. Dân cư đông dần, tất cả đều là người gốc nhiều dân tộc thiểu số ở vùng ven biển Quảng Đông, Phúc Kiến và đảo Hải Nam phiêu bạt đến. Thời Pháp thuộc, Cô Tô là một tổng có năm xã (Đông giáp, Nam giáp, Tây giáp, Bắc giáp, Trung giáp) thuộc châu Hà Cối phủ Hải Đông tỉnh Hải Ninh. Năm 1945, ta chưa kịp lập chính quyền cách mạng thì quân Pháp đã quay lại chiếm đóng Cô Tô. Từ Cô Tô và cảng Vạn Hoa trên đảo Cái Bầu, tàu chiến Pháp vào quấy rối vùng biển Hòn Gai và Hải Phòng. Tháng 11-1946 Đại đội Ký Con giải phóng quân từ Hòn Gai dùng tàu chiến Le Creysac mới chiếm được của hải quân Pháp tiến ra giải phóng Cô Tô nhưng không thành công. Cho đến cuối năm 1955, thực hiện hiệp định Genève, quân Pháp mới rút, Cô Tô được giải phóng. Đầu năm 1954 ta thành lập chính quyền hai xã Thanh Lân, Cô Tô thuộc huyện Móng Cái – Sau đó là hai xã đặc biệt trực thuộc tỉnh, từ 16-7-1964 , hai xã được sáp nhập vào huyện Cẩm Phả. Ngày 9-5-1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Cô Tô, sau đó đây là nơi đầu tiên được dựng tượng toàn thân Hồ Chủ tịch khi Người còn sống. Nay bức tượng Hồ Chủ Tịch cao trên 5m được tôn tạo và giữ gìn đã trở thành một di tích lịch sử – văn hoá được liệt hạng. Ngày 23-3 -1994, Chính phủ ra Nghị định 28 -CP đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn đồng thời tách quần đảo Cô Tô gồm hai xã Thanh Lân, Cô Tô thành lập huyện Cô Tô. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 24-12-1994 trên đảo Cô Tô Lớn, lễ đón nhận Nghị định được cử hành trọng thể và huyện đảo Cô Tô chính thức ra đời.
Giới thiệu khái quát huyện Tiên Yên 1- Vị trí địa lý: Tiên Yên là một huyện miền núi thuộc khu vực miền Đông của tỉnh, có toạ độ từ 21 o 12’ đến 21 o 33’ vĩ độ bắc và từ 107 o 13’ đến 107 o 35’ kinh độ đông; Bắc giáp huyện Đình Lập thuộc tỉnh Lạng Sơn và huyện Bình Liêu, đông giáp huyện Đầm Hà, tây giáp huyện Ba Chẽ và TP Cẩm Phả, nam giáp huyện Vân Đồn. Huyện lỵ là thị trấn Tiên Yên nằm ở điểm giữa Quốc lộ 18A, cách thành phố Hạ Long và Móng Cái đều trên 90km. Quốc lộ 4 từ Lạng Sơn xuống cũng qua đây rồi ra cảng Mũi Chùa. Từ Tiên Yên còn có đường 331 lên Bình Liêu tới cửa khẩu Hoành Mô 47km. Là một đầu mối giao thông giữa vùng Đông Bắc hiểm yếu nên Tiên Yên luôn có vị trí quan trọng về kinh tế quốc phòng. 2- Địa hình: Địa hình Tiên Yên trập trùng đồi núi. Xã Đại Dực nằm lọt ở chân dãy Pạc Sủi và dẫy Thung Châu có nhiều đỉnh cao trên 700m. Các xã Phong Dụ, Hà Lâu, Hải Lạng, Điền Xá, Yên Than cũng liên tiếp các quả núi 300-400m. Sông Tiên Yên bắt nguồn từ vùng núi cao Bình Liêu và sông Phố Cũ bắt nguồn từ Đình Lập là hai sông có lưu vực rộng, mùa mưa hay gây lũ lớn. Sông Hà Tràng từ dãy Pạc Sủi đổ xuống ở phía đông cũng gây lũ dữ dội. Các sông đều có độ dốc lớn, chỉ ở vùng cửa sông thuyền bè mới ra vào được, nhưng chính các con sông này đã không ngừng mở rộng các bãi phù sa cổ cửa sông, tạo nên những cánh đồng ven biển ở các xã Đông Ngũ, Đông Hải, Tiên Lãng, Hải Lạng. Ngoài cửa biển, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ còn bồi đắp tạo nên bãi triều ngập mặn rộng lớn của đảo Đồng Rui. 3- Khí hậu: Tiên Yên có nhiệt độ trung bình năm 22,4oC, mùa đông ở rẻo cao khá lạnh, nhiều ngày có sương muối, nhiệt độ có khi dưới 4oC, lượng mưa lớn, trung bình năm tới 2427mm, mưa phùn nhiều và mùa đông hay có sương mù. 4- Diện tích: Năm 2011 : Với diện tích rộng 64.789 ha, đứng thứ hai trong tỉnh sau Hoành Bồ, tài nguyên lớn nhất của Tiên Yên là đất rừng (29.330ha), trong đó 2 phần 3 là rừng tự nhiên, xưa có nhiều lim, táu. Đất rừng tự nhiên thích hợp nhiều loại cây trồng lâu năm, hiện đã có vài ngàn ha trồng quế, sở, thông, bạch đàn. Đất nông nghiệp của Tiên Yên rất hẹp, chỉ hơn 3000ha, trong đó gần 2000ha là đất ruộng lúa nước. (Hiện nay có 2 hồ nước: Hồ Khe Táu 8 triệu m3 và hồ Tiên Lãng 0,6 triệu m3). Vùng cửa sông và ven biển rộng 1.163ha đất có mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản. Năm 2017 : Tổng diện tích đất tự nhiên là 65.208 ha. Bao gồm: Đất sản xuất nông nghiệp (4.394 ha, chiếm 6,7%), đất lâm nghiệp (43.238 ha, chiếm 66,3%), đất chuyên dùng (1.295 ha, chiếm 2%), đất ở (391 ha, chiếm 0,6). 5- Dân cư: Năm 2009 , 44.352 người. Người Kinh chiếm 50,2%, Dao 22,6%, Tày 14,6%, Sán Chay 8,1%, Sán Dìu 3,6%… Xưa người Hoa đông hàng thứ hai, sau năm 1978 còn lại vài chục người. Người các tỉnh đồng bằng đông nhất là nông dân ngoại thành Hải Phòng ra các xã Hải Lạng, Đông Ngũ, Đông Hải… làm cho cơ cấu dân tộc và sức sản xuất có những thay đổi cơ bản. Năm 2010 : 45.200 người. Năm 2015 : 49.000 người. Năm 2017 : 50.300 người. Mật độ dân số trung bình: 77 người/km2 6- Các đơn vị hành chính: Gồm 1 thị trấn và 11 xã. – Thị trấn Tiên Yên. – Các xã: Tiên Lãng, Đông Ngũ, Đông Hải, Phong Dụ, Hải Lạng, Đại Dực, Đại Thành, Yên Than, Hà Lâu, Điền Xá và Đồng Rui. 7- Địa điểm du lịch và đặc sản của huyện: – Đến Tiên Yên, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp của một thị trấn nhỏ nằm khép mình bên ngã ba sông, với những ngôi nhà hai tầng cổ kính, kín đáo, được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20. – Nằm giữa núi rừng Tiên Yên (Quảng Ninh), Pặc Sủi nổi tiếng là một ngọn thác hùng vĩ với 16 tầng, mang vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, vừa ẩn chứa bao huyền tích đẹp. Đây là một điểm đến hấp dẫn, ấn tượng, khó bỏ qua đối với những du khách ưa khám phá, thích chụp ảnh… Đỉnh cao Ngầu Vó Lẻng (đỉnh Trâu Đằm) du khách có dịp đứng trong mây, bao quát toàn cảnh núi rừng Tiên Yên. – Tiên Yên không chỉ nổi tiếng với những ngôi nhà cổ kính mà còn được biết đến với đặc sản “gà đồi”. Gà Tiên Yên sau khi luộc da vàng ươm như thoa nghệ và bóng nhẫy như vừa nhúng mỡ. Da gà Tiên Yên không chỉ vàng mọng mà còn rất dày. Thoạt trông, có cảm giác hơi ngậy, nhưng cắn một miếng mới thấy thật giòn và ngọt… … Ngoài ra Tiên Yên còn nổi tiếng với món bánh “gật gù” chấm nước mắm cốt lẫn hành khô, tỏi, ớt; món Khau nhục và kẹo Lạc Hồng. Theo QNP 8- Những thành tựu kinh tế- xã hội nổi bật. + Năm 2017: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 82,6 tỷ đồng (tăng 10,4% dự toán tỉnh, tăng 28,1% so với năm 2016); Thu ngân sách địa phương ước đạt 554,8 tỷ đồng (bằng 116,4% dự toán tỉnh, 114% dự toán huyện, tăng 19,3% so với năm trước). (Theo: Quảng Ninh toàn cảnh 2017). + Năm 2018: Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 92,2 tỷ đồng (123% dự toán tỉnh giao, 112 dự toán của huyện, tăng 6% so với cùng kỳ). Thu ngân sách địa phương ước đạt 620,2 tỷ đồng (212,2% dự toán tỉnh giao, 101% dự toán địa phương, tăng 15% so với cùng kỳ). Công trình Hồ chứa nước Khe Cát đã bắt đầu được khai thác; hoàn thành hẹ thống kè chống sạt lở bảo vệ khu vực bờ sông Tiên Yên, thông xe cầu giàn thép Đồng Châu, xã Tiên Lãng đấu nối với QL 4BB. Tổ chức thành công chuỗi các hoạt động Tuần văn hóa Thể thao các dân tộc vùng Đông bắc tỉnh Quảng Ninh lần thứ II năm 2018. Đã thực hiện nhất thể hóa Bí thư đồng thời là Chủ tịch UBND xã Tiên Lãng, Đại Dực (đạt 7/12 xã, thị trấn) và thực hiện nhất thể hóa bí thư, chi bộ kiêm trưởng thôn (đạt 122/122 thôn, khu phố). Lịch sử – văn hoá – xã hội Đầu thế kỷ XIX, châu Tiên Yên có 6 tổng, 32 xã phường, gồm cả vùng Cẩm Phả, Ba Chẽ, Bình Liêu, một phần huyện Đình Lập và đảo Cái Bầu của huyện Vân Đồn ngày nay. Thời thuộc Pháp, hai tổng Bình Liêu, Vô Ngại được tách ra thành lập châu Bình Liêu (26-12-1919), sau đó vùng rộng lớn phía nam tách ra thành lập châu Cẩm Phả, châu Tiên Yên còn lại 3 tổng. Sau này, cắt hai xã Châu Sơn, Bắc Lãng về Đình Lập, xã Dực Yên về Đầm Hà. (Thời kháng chiến, Pháp lập thêm ra “huyện Cửa Tiên Yên” gồm cả xã Đại Độc trên đảo Cái Bầu trong cái gọi là ‘’Xứ Nùng tự trị Hải Ninh’’).
General introduction of Tien Yen district 1- Geographical location: Tien Yen is a mountainous district in the Eastern region of the province, with coordinates from 21 o 12' to 21 o 33' north latitude and from 107 o 13' to 107 o 35' east longitude; The North borders Dinh Lap district in Lang Son province and Binh Lieu district, the east borders Dam Ha district, the west borders Ba Che district and Cam Pha city, the south borders Van Don district. The district capital is Tien Yen town, located at the middle of National Highway 18A, over 90km from Ha Long city and Mong Cai. Highway 4 from Lang Son also passes here and goes to Mui Chua port. From Tien Yen, there is also road 331 to Binh Lieu to Hoanh Mo border gate, 47km. As a transportation hub in the dangerous Northeast region, Tien Yen always has an important economic and defense position. 2- Terrain: Tien Yen's terrain is hilly and mountainous. Dai Duc commune is located at the foot of the Pac Sui range and Thung Chau range with many peaks over 700m high. The communes of Phong Du, Ha Lau, Hai Lang, Dien Xa, Yen Than also have consecutive mountains of 300-400m. Tien Yen River originates from the high mountains of Binh Lieu and Pho Cu River originates from Dinh Lap are two rivers with large basins that often cause large floods in the rainy season. The Ha Trang River flowing down from the Pac Sui range in the east also causes intense floods. The rivers all have steep slopes, only in the estuary area can boats enter and exit, but these rivers themselves have constantly expanded the ancient alluvial flats at the river mouth, creating coastal fields in Dong communes. Ngu, Dong Hai, Tien Lang, Hai Lang. In addition to the estuary, Tien Yen River and Ba Che River also build up a large mangrove tidal flat on Dong Rui Island. 3- Climate: Tien Yen has an average annual temperature of 22.4oC, winter in the highlands is quite cold, many days there is frost, the temperature is sometimes below 4oC, heavy rainfall, average yearly up to 2427mm, lots of drizzle and winter is cool. foggy. 4- Area: 2011 : With an area of ​​64,789 hectares, ranking second in the province after Hoanh Bo, Tien Yen's largest resource is forest land (29,330 hectares), of which 2/3 is natural forest, in the past there were many ironwood trees. Natural forest land is suitable for many types of perennial crops, currently there are several thousand hectares of cinnamon, rosewood, pine, and eucalyptus. Tien Yen's agricultural land is very narrow, just over 3,000 hectares, of which nearly 2,000 hectares are wet rice fields. (Currently there are 2 lakes: Khe Tau Lake with 8 million m3 and Tien Lang Lake with 0.6 million m3). The estuary and coastal area has 1,163 hectares of land with water surface that can be used for aquaculture. 2017 : Total natural land area is 65,208 hectares. Including: Agricultural land (4,394 hectares, accounting for 6.7%), forestry land (43,238 hectares, accounting for 66.3%), specialized land (1,295 hectares, accounting for 2%), residential land (391 hectares , accounting for 0.6). 5- Population: 2009 , 44,352 people. Kinh people account for 50.2%, Dao 22.6%, Tay 14.6%, San Chay 8.1%, San Diu 3.6%... In the past, Chinese people were the second largest, after 1978 there were only a few dozen people left. . The largest number of people in the delta provinces are farmers from the suburbs of Hai Phong to the communes of Hai Lang, Dong Ngu, Dong Hai... causing fundamental changes in the ethnic structure and production capacity. 2010 : 45,200 people. 2015 : 49,000 people. 2017 : 50,300 people. Average population density: 77 people/km2 6- Administrative units: Including 1 town and 11 communes. – Tien Yen town. – Communes: Tien Lang, Dong Ngu, Dong Hai, Phong Du, Hai Lang, Dai Duc, Dai Thanh, Yen Than, Ha Lau, Dien Xa and Dong Rui. 7- Tourist destinations and specialties of the district: – Coming to Tien Yen, we cannot help but be surprised by the beauty of a small town nestled next to a confluence of rivers, with ancient, discreet two-story houses, built in the early 20th century. – Located in the middle of the mountains and forests of Tien Yen (Quang Ninh), Pac Sui is famous for being a majestic waterfall with 16 floors, bringing the romantic beauty of the mountains and forests, while also containing many beautiful legends. This is an attractive, impressive destination, hard to miss for tourists who love to explore and take photos... At Ngau Vo Leng peak (Trau Dam peak), visitors have the opportunity to stand in the clouds, covering the entire landscape of Tien Yen mountains and forests. – Tien Yen is not only famous for its ancient houses but also known for its specialty "hill chicken". Tien Yen chicken, after being boiled, has golden skin as if rubbed with turmeric and is shiny as if it has just been dipped in fat. Tien Yen chicken skin is not only golden and succulent but also very thick. At first glance, it feels a bit greasy, but once you bite it, it's really crunchy and sweet... ... In addition, Tien Yen is also famous for its "nodding" cake dipped in fish sauce mixed with dried onions, garlic, and chili; Khau Duc dish and Lac Hong candy. According to QNP 8- Outstanding socio-economic achievements. + Year 2017: Total state budget revenue in the area is estimated at 82.6 billion VND (up 10.4% of the provincial estimate, up 28.1% compared to 2016); Local budget revenue is estimated at 554.8 billion VND (equal to 116.4% of the provincial estimate, 114% of the district estimate, an increase of 19.3% over the previous year). (According to: Quang Ninh panorama 2017). + Year 2018: Total state budget revenue reached 92.2 billion VND (123% of the province's estimate, 112 of the district's estimate, an increase of 6% over the same period). Local budget revenue is estimated at 620.2 billion VND (212.2% of the provincial estimate, 101% of the local estimate, an increase of 15% over the same period). Khe Cat Reservoir project has begun to be exploited; Complete the anti-landslide embankment system to protect the Tien Yen riverbank area, open Dong Chau steel truss bridge, Tien Lang commune connecting to National Highway 4BB. Successfully organized a series of activities for the second Culture and Sports Week of ethnic groups in the Northeast region of Quang Ninh province in 2018. Unification of the Secretary and Chairman of the People's Committee of Tien Lang and Dai Duc communes (achieved) 7/12 communes and towns) and implemented the unification of secretaries, party cells and village heads (reaching 122/122 villages and neighborhoods). History - culture - society In the early 19th century, Tien Yen province had 6 cantons and 32 communes and wards, including the areas of Cam Pha, Ba Che, Binh Lieu, part of Dinh Lap district and Cai Bau island of today's Van Don district. During the French colonial period, the two cantons of Binh Lieu and Vo Ngai were separated to form Binh Lieu district (December 26, 1919), then the large southern region was separated to form Cam Pha district and Tien Yen district, leaving the remaining 3 cantons. Later, the two communes of Chau Son and Bac Lang were cut to Dinh Lap, and Duc Yen commune to Dam Ha. (During the resistance war, France established "Cua Tien Yen district" including Dai Doc commune on Cai Bau island in the so-called "Nung autonomous region of Hai Ninh".)
Giới thiệu khái quát thành phố Móng Cái 1- Vị trí địa lý: Móng Cái là một thành phố biên giới nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh với toạ độ địa lý: từ 21 o 10′ đến 21 o 39′ vĩ độ Bắc; từ 107 o 43′ đến 108 o 40′ kinh độ Đông, ranh giới của Thành phố tiếp giáp với: Phía Bắc và Đông Bắc giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa; Phía Đông – Đông Nam tiếp giáp với Biển Đông; Phía Tây Bắc giáp huyện Hải Hà. 2- Địa hình: Địa hình thành phố Móng Cái: Phía Bắc là đồi núi, địa hình thoải dần ra biển. Thành phố có đường biên giới trên đất liền 72km tiếp giáp với nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa, có cửa khẩu quốc tế Móng Cái tiếp giáp với vùng duyên hải rộng lớn của miền nam Trung Quốc, có 50km bờ biển. Móng Cái có các dạng địa hình đồi núi, trung du và ven biển, Địa hình bị chia cắt khá phức tạp, hình thành 3 vùng rõ rệt: vùng núi cao phía Bắc; vùng trung du ven biển và vùng hải đảo. Móng Cái có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của biển nên nóng ẩm và mưa nhiều. 3- Đất đai: Diện tích đất tự nhiên của Thành phố (phần trên đất liền và đảo) là 516,55km 2 , chiếm 8,49% diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh. Năm 2017: Diện tích đất tự n hiên là 51.959 ha. Bao gồm: Đất sản xuất nông ngiệp (6.293 ha, chiếm 12,1%), đất lâm nghiệp (27.260 ha, chiếm 52,5%), đất chuyên dùng (2.184 ha, chiếm 4,2%), đất ở (638 ha, chiếm 1,2%). (Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2017). 4- Hệ thống sông suối: gồm có hai sông chính: Sông Ka Long, sông Tràng Vinh Sông Ka Long bắt nguồn từ Trung Quốc ở độc cao 700m, sông dài 700km và chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam rồi đổ ra Biển Đông. Sông Tràng Vinh (hay còn gọi là sông Thín Cóong): dài trên 20km, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao 713; 546; 866 chảy qua Hồ Tràng Vinh rồi đổ ra biển. 5- Dân số: Dân số trên 8 vạn người, bao gồm 5 dân tộc anh em cùng chung sống: Kinh, Dao, Tày, Hoa, Sán Dìu, Móng Cái gồm 17 đơn vị hành chính cấp xã (8 phường và 9 xã). Thành phố Móng Cái cách thành phố Hạ Long (Thủ phủ của tỉnh Quảng Ninh) 186km đường bộ. Năm 2010 : 90.100 người. Năm 2015 : 99.400 người Năm 2017: 100.600 ngời, mật độ dân số trung bình là 193,8 người/km2. (Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2017). 6- Các đơn vị hành chính: Gồm 17 phường, xã: Hoà Lạc, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ, Trần Phú, Hải Yên, Hải Hoà, Bình Ngọc, Hải Sơn, Hải Xuân, Vạn Ninh, Hải Đông, Hải Tiến, Quảng Nghĩa, Vĩnh Thực, Vĩnh Trung, Bắc Sơn. 7- Điểm du lịch và đặc sản của Móng Cái: – Du khách có thể tham quan Móng Cái theo các tuyến, điểm du lịch như sau: Tuyến 1: Trung tâm TP Móng Cái – Bãi biển Trà Cổ với các điểm tham quan chính gồm: Biểu tượng du lịch Ngã ba Trà Cổ – Bình Ngọc, đình Trà Cổ, nhà thờ Trà Cổ, bãi biển Trà Cổ, chùa Xuân Lan, chùa Nam Thọ, sân golf Vĩnh Thuận, cụm Thông tin cổ động biên giới Sa Vĩ. Tuyến 2: Trung tâm TP Móng Cái có các điểm tham quan chính gồm: cửa khẩu quốc tế Móng Cái, cầu Bắc Luân (nơi giáp ranh Việt Nam – Trung Quốc), cột mốc 1369, đền Xã Tắc, cầu Ka Long, nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại Móng Cái, mua sắm tại các chợ, trung tâm thương mại. Tuyến 3: Trung tâm TP Móng Cái – Đài Tưởng niệm Pò Hèn có các điểm tham quan chính gồm: cửa khẩu quốc tế Móng Cái, cầu Bắc Luân, cột mốc 1369, khu di tích tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đồn Pò Hèn, đền Xã Tắc, mua sắm tại các chợ, trung tâm thương mại. 12 điểm du lịch gồm: điểm du lịch Cửa khẩu quốc tế Móng Cái; điểm du lịch thương mại Móng Cái; điểm du lịch đền Xã Tắc; điểm du lịch Cụm thông tin cổ động biên giới Sa Vĩ; điểm du lịch Biểu tượng du lịch ngã ba Trà Cổ – Bình Ngọc; điểm du lịch sân Golf quốc tế Vĩnh Thuận; điểm du lịch đình Trà Cổ; điểm du lịch chùa Nam Thọ; điểm du lịch Khu di tích tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đồn Pò Hèn; điểm du lịch Cầu Ka Long và Di tích thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản; điểm du lịch nhà thờ Trà Cổ; điểm du lịch chùa Xuân Lan. Tối 30/5/2015, thành phố Móng Cái đã chính thức khai trương phố đi bộ thuộc phường Trần Phú. – Ghẹ Xanh Trà Cổ: Dẫn đầu trong danh sách những loại hải sản được săn lùng nhiều nhất, ghẹ xanh được dân sành ăn đánh giá là loại ghẹ thơm ngon nhất tại Quảng Ninh. Ghẹ xanh vùng biển Trà Cổ (TP Móng Cái) là ngon và bổ dưỡng nhất nhờ độ mặn nước biển cao. Có rất nhiều món ngon được làm từ ghẹ như ghẹ luộc, hấp bia, rang me, Cù Kỳ Móng Cái còn có tên gọi khác là con Cùm Vùm. Cù kỳ có thể chế biến được nhiều món như: bún cù kỳ, bánh đa cù kỳ và miến cù kỳ. Thịt cù kỳ khá chắc và thơm, dù ăn nhiều cũng không sợ ngấy mà dinh dưỡng cao nên được tất cả du khách ở mọi lứa tuổi ưa chuộng. Đến Móng Cái du khách nên thưởng thức món cháo thập cẩm, “có một quán do người Trung Quốc nấu, ở gần chợ”, trong cháo có rau cải xanh, rồi lòng lợn non, tôm nhỏ để cả con còn nguyên râu, bông thùa, lá lách lợn, gan lợn… ăn rất ngon. Chiều xuống, bạn nên đi ăn ốc “vùng biên” ở phố Trần Quốc Toản. 8- Thành tựu kinh tế- xã hội: + Năm 2017: Tổng lượng khách du lịch tăng 30% so với năm trước. Thu ngân sách nội địa đạt 963,2 tỷ đồng (tăng 4,4% so với dự toán tỉnh giao, tăng 1,9% so với dự toán của thành phố, đạt 100% dự toán phấn đấu, tăng 23,4% so với năm trước). Tổng sản lượng thủy sản tăng 13,4%, diện tích trồng rừng tập trung tăng 190% so với năm 2016. Đưa cầu Bắc Luân II, cầu phao tam Km3+4 Hải Yên vào hoạt động; công bố lối mở Pò Hèn (Việt Nam) và Thán Sản (Trung Quốc). + Năm 2018 : Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 3,872 tỷ USD. Tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp ước đạt 1.290,31 tỷ đồng (tăng 5,3% so với 2017); tỷ lệ che phủ rừng đtạ 40,3% (đạt 97,6% kế hoạch, tăng 1,3% so với cùng kỳ.) Tổng khách du lịch Móng Cái ước cả năm đạt 2,7 triệu lượt (đạt 108% KH, tăng 22% so với 2017). Tổng thu ngân sách NN đạt 2.281,332 tỷ đồng (tăng 20,9% cùng kỳ). Hỗ trợ phát triển thành lập mới 158 doanh nghiệp (vượt 32% chỉ tiêu của HĐND) nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn lên 903/1044 doanh nghiệp hoạt động thường xuyên. Trong năm, thành phố bố trí 83,813 tỷ đồng và huy động xã hội hóa 10,17 tỷ đồng thực hiện nâng cấp, sửa chữa, cỉa thiện hệ thống giao thông nông thôn, chỉnh trang đô thị cho 34 tuyến đường, phố với chiều dài trên 5km. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,5%.
General introduction of Mong Cai city 1- Geographical location: Mong Cai is a border city located in the Northeast of Vietnam Quang Ninh Province with geographical coordinates: from 21 o 10' to 21 o 39′ North latitude; from 107 o 43′ to 108 o 40′ East longitude, the City's boundary borders: The North and Northeast borders the People's Republic of China; The East - Southeast borders the East Sea; The Northwest borders Hai Ha district. 2- Terrain: Terrain of Mong Cai city: The North is mountainous, the terrain gradually slopes towards the sea. The city has a 72km land border with the People's Republic of China, has Mong Cai international border gate adjacent to the vast coastal region of southern China, and has 50km of coastline. Mong Cai has mountainous, midland and coastal terrains. The terrain is divided quite complexly, forming 3 distinct regions: the northern high mountains; coastal midlands and island areas. Mong Cai has a tropical monsoon climate, influenced by the sea, so it is hot, humid and rainy. 3- Land: The City's natural land area (mainland and island part) is 516.55 km2 2 , accounting for 8.49% of the natural area of ​​Quang Ninh province. 2017: Natural land area is 51,959 hectares. Including: Agricultural production land (6,293 hectares, accounting for 12.1%), forestry land (27,260 hectares, accounting for 52.5%), specialized land (2,184 hectares, accounting for 4.2%), residential land ( 638 hectares, accounting for 1.2%). (According to Quang Ninh Province Statistical Yearbook 2017). 4- River and stream system: includes two main rivers: Ka Long River and Trang Vinh River Ka Long River originates from China at a height of 700m, the river is 700km long and flows in the Northwest - Southeast direction and then flows into the East Sea. Trang Vinh River (also known as Thin Coong River): over 20km long, originating from 713 high mountain peaks; 546; 866 flows through Trang Vinh Lake and then flows into the sea. 5- Population: The population is over 80,000 people, including 5 ethnic groups living together: Kinh, Dao, Tay, Hoa, San Diu, Mong Cai, including 17 commune-level administrative units (8 wards and 9 communes). Mong Cai city is 186km by road from Ha Long city (Capital of Quang Ninh province). 2010 : 90,100 people. 2015 : 99,400 people 2017: 100,600 people, average population density is 193.8 people/km2. (According to Quang Ninh Province Statistical Yearbook 2017). 6- Administrative units: Including 17 wards and communes: Hoa Lac, Ka Long, Ninh Duong, Tra Co, Tran Phu, Hai Yen, Hai Hoa, Binh Ngoc, Hai Son, Hai Xuan, Van Ninh, Hai Dong, Hai Tien, Quang Nghia, Vinh Thuc , Vinh Trung, Bac Son. 7- Tourist attractions and specialties of Mong Cai: – Tourists can visit Mong Cai along the following routes and tourist attractions: Route 1: Mong Cai City Center - Tra Co Beach with main attractions including: Tourism symbol Tra Co - Binh Ngoc intersection, Tra Co communal house, Tra Co church, Tra Co beach, Xuan Lan pagoda , Nam Tho pagoda, Vinh Thuan golf course, Sa Vi border promotion information cluster. Route 2: Mong Cai City Center has main attractions including: Mong Cai international border gate, Bac Luan bridge (where Vietnam - China border), milestone 1369, Xa Tac temple, Ka Long bridge, where Established the first Communist Party of Vietnam cell in Mong Cai, shopping at markets and commercial centers. Route 3: Mong Cai City Center - Po Hen Memorial Hall has main attractions including: Mong Cai international border gate, Bac Luan bridge, milestone 1369, monuments commemorating heroic martyrs of Po Hen station. , Xa Tac temple, shopping at markets and shopping centers. 12 tourist destinations include: Mong Cai International Border Gate tourist destination; Mong Cai commercial tourist destination; Xa Tac temple tourist destination; tourist destination Sa Vi border promotion information cluster; tourist destination Tourism symbol of Tra Co - Binh Ngoc intersection; Vinh Thuan international golf course tourist destination; Tra Co communal house tourist destination; Nam Tho pagoda tourist destination; tourist destination Memorial relic site for heroic martyrs of Po Hen station; Ka Long Bridge tourist destination and the Communist Party Cell Establishment Monument; Tra Co church tourist destination; Xuan Lan Pagoda tourist destination. On the evening of May 30, 2015, Mong Cai city officially opened a walking street in Tran Phu ward. – Tra Co Green Crab: Leading the list of most sought-after seafood, blue crab is considered by gourmets to be the most delicious crab in Quang Ninh. Blue crabs in Tra Co waters (Mong Cai city) are the most delicious and nutritious thanks to the high salinity of sea water. There are many delicious dishes made from crabs such as boiled crabs, steamed with beer, roasted with tamarind, Cu Ky Mong Cai is also known as Cu Ky Mong Cai. Cu Ky can prepare many dishes such as: Cu Ky vermicelli, Cu Ky rice paper and Cu Ky vermicelli. The meat is quite firm and fragrant. Even if you eat a lot, you won't get sick of it. It's highly nutritious, so it's popular with tourists of all ages. Coming to Mong Cai, tourists should enjoy mixed porridge, "there is a restaurant cooked by Chinese people, near the market", in the porridge there are green vegetables, then young pig intestines, small shrimp with the whole beard and flowers intact. Agave, pig spleen, pork liver... are very delicious. In the afternoon, you should go eat "border" snails on Tran Quoc Toan street. 8- Socio-economic achievements: + Year 2017: The total number of tourists increased by 30% compared to the previous year. Domestic budget revenue reached 963.2 billion VND (up 4.4% compared to the provincial estimate, up 1.9% compared to the city's estimate, reaching 100% of the strived estimate, up 23.4% Compared with the last year). Total aquatic product output increased by 13.4%, concentrated afforestation area increased by 190% compared to 2016. Putting Bac Luan II bridge and Km3+4 Hai Yen pontoon bridge into operation; announced the opening of Po Hen (Vietnam) and Than San (China). + Year 2018 : Total import-export turnover is estimated at 3.872 billion USD. Total production value of agriculture, forestry and fishery is estimated at 1,290.31 billion VND (up 5.3% compared to 2017); Forest coverage rate reached 40.3% (reaching 97.6% of the plan, up 1.3% over the same period). Total Mong Cai tourists for the whole year are estimated to reach 2.7 million (reaching 108% of the plan). , an increase of 22% compared to 2017). Total state budget revenue reached 2,281,332 billion VND (up 20.9% over the same period). Supporting the development and establishment of 158 new businesses (exceeding 32% of the People's Council's target), bringing the total number of businesses in the area to 903/1044 regularly operating businesses. During the year, the city allocated 83.813 billion VND and mobilized socialization 10.17 billion VND to upgrade, repair and improve the rural transportation system and urban embellishment for 34 roads and streets with different directions. over 5km long. The poverty rate decreased to 0.5%.
Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Linh Huyện ở phía bắc tỉnh Quảng Trị . Diện tích 626,35 km 2 . Gồm 3 thị trấn (Bến Quan, Cửa Tùng, Hồ Xá – huyện lị), 19 xã (Vĩnh Thái, Vĩnh Tú, Vĩnh Trung, Vĩnh Chấp, Vĩnh Nam, Vĩnh Khê, Vĩnh Long, Vĩnh Kim, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạch, Vĩnh Lâm. Vĩnh Hiền, Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Thành, Vĩnh Hà, Vĩnh Sơn, Vĩnh Tân, Vĩnh Giang, Vĩnh Ô). Dân số 85.117 người, 23.621 hộ (tháng 4/2009), gồm các dân tộc; Bru – Vân Kiều, Pa Cô, Kinh , Tà Ôi . Địa hình đồi bóc mòn xen thung lũng và bán bình nguyên bazan. Sông Bến Hải. Bờ biển ở phía đông huyện. Trồng lúa, sắn, hồ tiêu, cây ăn quả. Chăn nuôi: lợn, bò, tôm, cá. Đánh bắt hải sản. Chế biến nông sản, hải sản, nước mắm, làm muối. Dịch vụ du lịch. Giao thông: quốc lộ 1A, 15, tỉnh lộ 572, 537, đường sắt Thống Nhất chạy qua. Di tích lịch sử: Cầu Hiền Lương, nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn. Trước đây là huyện thuộc tỉnh Quảng Trị; từ 11.3.1977, hợp nhất với huyện Gio Linh , Cam Lộ thành huyện Bến Hải, thuộc tỉnh Bình Trị Thiên (1976 – 89); từ 23.3.1990, chia huyện Bến Hải thành 2 huyện Vĩnh Linh và Gio Linh. Năm 1931, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chi bộ cộng sản đầu tiên của Vĩnh Linh được thành lập. Ngày 23/8/1945, cùng với Quảng Bình và Thừa Thiên Huế, quân và dân Vĩnh Linh, Quảng Trị thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử, thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân. Ngày 30/3/1947, thực dân Pháp trở lại xâm lược Vĩnh Linh. Thực hiện lời kêu gọi trường kì kháng chiến của Chính phủ, năm vạn người dân Vĩnh Linh dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy đã triệt để tản cư, lập làng chiến đấu, xây dựng chiến khu tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh, nhiều địa danh đã đi vào lịch sử: Chiến khu Thủy Ba, làng chiến đấu Vĩnh Hoàng… lập nên nhiều chiến công vang dội như trận Hạ Cờ – Chấp Lễ diệt 300 lính Âu Phi, bắn rơi máy bay, đốt cháy hàng chục xe quân sự Pháp; trận bức rút đồn Thủy Cần… Với chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Vĩnh Linh trở thành địa đầu giới tuyến. Ngày 25/8/1954, tên thực dân Pháp cuối cùng rút qua cầu Hiền Lương sang bờ Nam. Vĩnh Linh hoàn toàn giải phóng. Và cũng ngày này, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh chọn làm ngày truyền thống của mình. Mười năm hòa bình ngắn ngủi (1954 – 1964) Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh được sự giúp đỡ của Đảng, Chính phủ, đồng bào cả nước và bằng tất cả sự thông minh, năng động cần cù, Vĩnh Linh đã nhanh chóng đổi thịt thay da. Từ một vùng quê nghèo “ăn cơm bữa diếp” (ba ngày mới có một bữa cơm) trở thành “viên kim cương đầu giới tuyến” như nhà văn Nguyễn Tuân đã ca ngợi. Ngày 8/2/1965, thất bại trước chiến trường miền Nam, Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Vĩnh Linh bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho chiến trường miền Nam. Để đảm bảo cho chiến đấu, 4,5 vạn người dân Vĩnh Linh (người già, trẻ em) được sơ tán ra miền Bắc. Lực lượng còn lại bám trụ quê hương vừa sản xuất, vừa chiến đấu ở cả ba chiến trường (bảo vệ Vĩnh Linh, chi viện cho đảo Cồn Cỏ, chia lửa với bà con Gio Linh, Cam Lộ). Bảy năm chiến đấu kiên cường chống chiến tranh phá hoại khốc liệt của giặc Mỹ, quân và dân Vĩnh Linh tiếp tục lập nên nhiều chiến công vang dội, xứng đáng với vị trí lịch sử mà Tổ quốc giao phó. Ngày 1/1/1967, với những thành tích đặc biệt xuất sắc, Vĩnh Linh – một địa phương tương đương cấp tỉnh đầu tiên của cả nước được Quốc hội và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng. Đến nay toàn huyện có 36 đơn vị, 17 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT và Anh hùng Lao động, gần 400 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhiều đơn vị hai lần được tuyên dương anh hùng. Đặc biệt, quân và dân Vĩnh Linh 8 lần được Bác Hồ gửi thư khen. Trên mảnh đất Vĩnh Linh lũy thép anh hùng hiện có 68 di tích lịch sử văn hóa được Trung ương, tỉnh xếp hạng và có 3 di tích là địa đạo Vịnh Mốc, đôi bờ Hiền Lương, Bến đò B Tùng Luật được xếp hạng đặc biệt cấp quốc gia. Không những anh hùng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong sản xuất, Vĩnh Linh còn là mảnh đất có bề dày truyền thống văn hóa rất đáng tự hào. Là quê hương của nhiều nhà khoa học nổi tiếng, hàng trăm người có học vị tiến sĩ; học hàm giáo sư, phó giáo sư; nhà văn, nhà báo, nghệ nhân, nghệ sỹ có tên tuổi tiêu biểu như giáo sư, tiến sĩ Trần Đức Vân, nghệ sĩ nhân dân Châu Loan… Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, Vĩnh Linh chỉ có hai bàn tay trắng và mặt đất nham nhở hố bom. Toàn bộ cơ sở vật chất mà nhân dân Vĩnh Linh gom góp chắt chiu đã bị giặc Mỹ ném bom hủy diệt hoàn toàn. Từ năm 1975- 1985, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, cán bộ và nhân dân Vĩnh Linh đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của địa phương để bước vào thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo. Ngày 23/11/2011, Vĩnh Linh đã vinh dự được Chủ tịch nước ký Quyết định phong tặng danh hiệu cao quí Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Để lập nên những chiến công hiển hách, biết bao con em quê hương, đồng chí, đồng bào trong cả nước đã đổ máu xương, mồ hôi trong sự nghiệp chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Linh. Công ơn này, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh luôn ghi nhớ, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
General introduction of Vinh Linh district District in the north Quang Tri province . Area 626.35 km2 2 . Including 3 towns (Ben Quan, Cua Tung, Ho Xa - district capital), 19 communes (Vinh Thai, Vinh Tu, Vinh Trung, Vinh Chap, Vinh Nam, Vinh Khe, Vinh Long, Vinh Kim, Vinh Hoa, Vinh Thach , Vinh Lam. Vinh Hien, Vinh Thuy, Vinh Thanh, Vinh Ha, Vinh Son, Vinh Tan, Vinh Giang, Vinh O). Population 85,117 people, 23,621 households (April 2009), including ethnic groups; Bru – Van Kieu, Pa Co, Terrible , Ta Oi . The terrain is denuded hills interspersed with basalt valleys and semi-plains. Ben Hai River. Coast in the east of the district. Growing rice, cassava, pepper, and fruit trees. Livestock: pigs, cows, shrimp, fish. Fishing. Processing agricultural products, seafood, fish sauce, making salt. Travel services. Traffic: national highways 1A, 15, provincial roads 572, 537, Thong Nhat railway runs through. Historical relics: Hien Luong Bridge, Truong Son Martyrs Cemetery. Formerly a district of Quang Tri province; From March 11, 1977, merged with the district Gio Linh , Cam Lo became Ben Hai district, Binh Tri Thien province (1976 - 89); From March 23, 1990, Ben Hai district was divided into two districts: Vinh Linh and Gio Linh. In 1931, under the leadership of the Communist Party of Vietnam, the first communist cell of Vinh Linh was established. On August 23, 1945, together with Quang Binh and Thua Thien Hue, the army and people of Vinh Linh and Quang Tri successfully carried out the historic August Revolution, establishing the people's democratic government. On March 30, 1947, the French colonialists returned to invade Vinh Linh. Implementing the Government's call for a long-term resistance war, fifty thousand people of Vinh Linh under the leadership of the District Party Committee completely evacuated, established fighting villages, and built war zones to conduct the holy resistance war, many Places that have gone down in history: Thuy Ba War Zone, Vinh Hoang fighting village... achieved many resounding victories such as the battle of Ha Co - Chap Le, killing 300 Au Phi soldiers, shooting down planes, burning dozens of military vehicles. Dharma; The battle to evacuate Thuy Can post… With the victory of Dien Bien Phu, the Geneva Accords were signed, and Vinh Linh became the frontier. On August 25, 1954, the last French colonialist withdrew across Hien Luong bridge to the South bank. Vinh Linh is completely liberated. And also on this day, the Party Committee and people of Vinh Linh chose it as their traditional day. Ten short years of peace (1954 - 1964) Vinh Linh Party Committee and people received help from the Party, Government, and people nationwide and with all intelligence, dynamism and diligence, Vinh Linh quickly exchange flesh for skin. From a poor countryside "eating rice and lettuce" (only having one meal every three days) to becoming "a diamond at the frontier" as writer Nguyen Tuan praised. On February 8, 1965, defeated in the Southern battlefield, the US escalated its expansion of the war to the North, Vinh Linh entered the fight against the destructive war of the American enemy and provided support for the Southern battlefield. To ensure fighting, 4.50,000 Vinh Linh people (old people and children) were evacuated to the North. The remaining force stuck to their homeland, both producing and fighting in all three battlefields (protecting Vinh Linh, supporting Con Co island, sharing fire with Gio Linh and Cam Lo people). After seven years of fighting steadfastly against the fierce destructive war of the American enemy, the army and people of Vinh Linh continued to achieve many resounding victories, worthy of the historical position assigned by the Fatherland. On January 1, 1967, with particularly outstanding achievements, Vinh Linh - a locality equivalent to the first provincial level in the country was awarded the title of Hero by the National Assembly and the State. To date, the entire district has 36 units and 17 individuals awarded the title of Hero of the Armed Forces and Hero of Labor, nearly 400 heroic Vietnamese Mothers, and many units have been honored as heroes twice. In particular, the army and people of Vinh Linh received letters of praise from Uncle Ho 8 times. On the land of Vinh Linh, the heroic steel citadel, there are currently 68 historical and cultural relics ranked by the Central and Provincial governments, and 3 relics, Vinh Moc Tunnels, Hien Luong banks, and B Tung Luat wharf, are ranked special. national level distinction. Not only heroic in combat, industrious and creative in production, Vinh Linh is also a land with a very proud cultural tradition. It is the hometown of many famous scientists, hundreds of whom have doctorates; Academic titles of professor and associate professor; Writers, journalists, artisans, and artists with notable names such as professor and doctor Tran Duc Van, people's artist Chau Loan... Coming out of the war, Vinh Linh only had two empty hands and a ground full of bomb craters. All the facilities that the people of Vinh Linh had carefully collected were completely destroyed by American bombing. From 1975 to 1985, overcoming countless difficulties and challenges, officials and people of Vinh Linh quickly restored the local economy to begin implementing the country's reform led by our Party. On November 23, 2011, Vinh Linh was honored to receive the President's decision to confer the noble title of Labor Hero of the Reformation Period. To achieve glorious victories, countless children, comrades, and compatriots throughout the country have shed blood, bones, and sweat in the fighting, building, and growing career of the Party Committee, army, and people of Vinh. Sacred. Thanks to this, the Party Committee and people of Vinh Linh always remember and are determined to build an increasingly rich and beautiful homeland.
Giới thiệu khái quát huyện Gio Linh Gio linh nằm trên tọa độ địa lý từ 16 0 9′ đến 17 0 vĩ độ Bắc và 106 0 52′ đến 107 0 10′ độ kinh Đông, được giới hạn bỡi ranh giới hành chính như sau: Là một huyện có địa hình bán sơn địa nghiêng từ Tây sang Đông, phía tây là đồi núi có diện tích 31.773,75 ha (67,18%), ở giữa là đồng bằng có diện tích 12.631,01 ha(26,7%) và phía Đông là bãi cát và cồn cát ven biển với diện tích 2.893,8ha (6,12%). Nhìn vào bản đồ hành chính tỉnh Quảng Trị , Gio Linh là huyện có vị trí khá độc đáo, có ranh giới gắn liền với 7 huyện, đó là huyện đảo Cồn Cỏ, Vĩnh Linh, Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Triệu Phong và thành phố Đông Hà. Gio linh cũng là huyện nằm giữa hai dòng sông từng đi vào lịch sử, sông Bến Hải và Thạch Hãn gắn với hai Hiệp định quan trọng của đất nước (Giơ ne vơ – 1954, và Pari – 1973). Và nếu Quảng Trị có hai cửa biển mang tên Cửa Việt, Cửa Tùng thì Gio Linh từ bao đời nay là mảnh đất nằm giữa hai cửa biển ấy. Từ đây Gio Linh định hình để hướng ra biển lớn, Gio Linh định hình để phát triển kinh tế xã hội từ vàng trắng là những vườn cao su ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, từ lợi thế trên trục đường Bắc – Nam, đường Hồ Chí Minh phía tây, đường xuyên Á khởi đầu từ cảng Cửa Việt, đường ven biển nối Vĩnh Linh đất thép và nối vựa lúa Triệu Phong bằng những cây cầu vĩnh cửu Cửa Việt – Cửa Tùng mà không huyện nào có được. Nếu Quảng Trị là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, có núi có rừng, có sông có biển đảo, có đường thiên lý bắc nam, là điểm tỳ vai của chiếc đòn gánh non sông hai đầu đất nước thì Gio Linh là hình ảnh thu nhỏ của Quảng Trị, là nơi điểm tỳ kẻo kẹt bên bờ Nam vỹ tuyến 17. Nơi đây tụ hội những gì thiêng liêng và anh dũng nhất. Đó là nghĩa trang liệt sỹ quốc gia Trường Sơn, nơi an nghỉ vĩnh hằng của bao anh hùng liệt sỹ từ mọi miền quê đất nước. Đó là bờ Nam sông Bến Hải, biểu tượng của khát vọng thống nhất non sông, có hàng rào điện tử McNamara đã không tồn tại trên vành đai trắng. Nếu như Quảng Trị là khúc ruột miền Trung, nằm gọn giữa lòng hai miền Nam – Bắc của nước Việt Nam thì Gio Linh là mảnh đất nằm giữa lòng Quảng Trị. Gio Linh luôn gắn với những kỳ tích, câu chuyện, giai điệu lời ca đi cùng năm tháng. Cũng chưa thật xa bởi đâu đây trong cuộc sống hối hả này vẫn còn ngân vang một “ Câu hò bên bến Hiền Lương” khúc ca mừng chiến thắng “Tin thắng trận từ Gio An vọng tới, đàn ta lư em cất tiếng ca vang cùng núi rừng…” .Nếu Quảng Trị là bảo tàng, là phim trường sống động nhất cho những bộ phim về đề tài chiến tranh cách mạng, thì đất và người Gio Linh luôn cho chúng ta những chất liệu quý giá để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật, báo chí, văn học. Thật vậy, trong những thước phim tài liệu thời chiến, vẫn còn đó những cô du kích trong: “Những cô gái C2 vùng giải phóng” , “Gio Linh ngày đầu giải phóng ” của Điện ảnh Quân đội, trong đó ta bắt gặp hình ảnh O nữ du kích bắn tỉa trên hàng rào điện tử Hoàng Thị Chẩm, quê xã Trung Hải. Với O Chẩm, vinh dự nhất là sáng ngày 1 tháng 4 năm 1972 ở tuổi vừa tròn 21, O là người cắm cờ trên nóc hầm chỉ huy của địch ở căn cứ Dốc Miếu, O Chẩm được nhận 9 danh hiệu dũng sỹ các loại. Là nữ du kích Nguyễn Thị Thủy ở xã Gio Mỹ với 5 lần được tặng thưởng danh hiệu dũng sỹ, những ngày đầu Gio Linh hoàn toàn giải phóng, nữ du kích Nguyễn Thị Thủy với chiếc mũ tai bèo đã có mặt khắp nơi để tuyên truyền, hướng dẫn bà con nhanh chóng ổn định sản xuất đời sống. Thật cơ duyên, trong bút ký Đánh giặc trên hàng rào điện tử của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường chúng ta lại gặp đôi vợ chồng dũng sỹ Quy – Thủy qua mỗi trang viết thấm đẩm chất can trường của người Gio Linh: “ Vấn đề của Quy (Dương Bá Quy – chồng chị Nguyễn Thị Thủy) là phải đánh đừng cho nó nối được hai đầu dây lại với nhau, nghĩa là cái hàng rào điện tử ấy đã bị đồng đội của Quy đánh cho nát bét ra kia”. Dương Bá Quy, người hùng của đất Gio Linh chính thức đạt 17 lần dũng sỹ là vậy . Nay trong các chương trình truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta còn bắt gặp những nhân vật, câu chuyện của họ trên sóng VTV, HTV, VTC như là nhân vật giao lưu đặc biệt trong các chương trình truyền hình trực tiếp, nhật ký chiến sỹ trong chương trình Chúng tôi là chiến sỹ , chuyên mục Không thể lãng quên , hay trong các phim tài liệu, phóng sự. Nếu đồng bào các xã Trung Giang, Trung Hải, Trung Sơn sinh sống dọc theo bờ Nam sông tuyến thuộc quận Trung Lương cũ của tỉnh Quảng Trị trước những năm 1970, ngày đêm chứng kiến cán bộ, quân và dân ta “ăn cơm bắc đánh giặc nam” vượt tuyến vào vùng địch hậu để thực hiện nhiệm vụ đánh địch ngay trong lòng địch, thì bà con nhân dân xã Gio Mai, Gio Việt có nhiệm vụ nuôi dấu những chiến sỹ hải quân, làm nhiệm vụ đánh tàu Mỹ ở biển Cửa Việt, hay những trận “Bạch Đằng” trên sông Hiếu. Từ những sự kiện lịch sử và những câu chuyện cảm động, để ghi ơn sự mưu trí dũng cảm, cũng như công sức của các mẹ các chị ở các xã Gio Mai, Gio Việt đã có công lớn trong việc bảo vệ các chiến sỹ đặc công nước, ngày 4 tháng 4 năm 2006, chương trình Người đương thời với tên gọi: “Đặc công Hải quân, những huyền thoại sống ” được tổ chức ghi hình tại cảng Cửa Việt. Theo nhà báo Tạ Bích Loan, với trên 10 năm phát sóng chương trình Người đương thời, thì đây là chương trình có quy mô hoành tráng nhất, cả về không gian, thời gian và bối cảnh sân khấu. Tuyến nhân vật chính là những Anh hùng, chiến sỹ đặc công Hải quân cùng các mẹ, các chị ở xã Gio Việt, Gio Mai, họ là những người dân bình thường, nhưng khi quân giặc đến họ trở nên phi thường, tìm mọi cách để cưu mang, che dấu các chiến sỹ đặc công Hải quân. . Cũng vì giữa lòng Quảng Trị, nên chỉ ở miền tây huyện Gio Linh là có sự tồn tại qua thời gian của gần 20 giếng cổ ở xã Gio An, đây là hệ thống giếng cổ độc đáo được xây dựng bằng các phiến đá xếp chồng lên nhau. Quanh năm suốt tháng nguồn nước từ các giếng cổ cung cấp cho các vùng chuyên canh lúa, cây rau liệt (xà lách xoong) của vùng miền tây huyện Gio Linh và cũng là nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng cư dân địa phương nơi đây. Trong tương lai gần, việc đưa các hệ thống giếng cổ này vào tour du lịch DMZ (khu vực phi quân sự trong thời kỳ chiến tranh) sẽ gây được hứng thú cho du khách và mở ra triển vọng mới để Gio Linh phát triển mạnh và đều giữa các vùng và lĩnh vực kinh tế. Mừng quê hương 40 năm hoàn toàn giải phóng, từ hai năm trước huyện Gio Linh phát động phong trào thi đua: “Làm giàu cho mình, làm giàu cho quê hương” đã được mọi tầng lớp nhân dân đón nhận và triển khai ở hầu khắp các địa phương trong huyện. Từ đây, Gio Linh dựa vào lợi thế của mỗi vùng: rừng, cát, biển để phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao mức sống của người dân, nơi mảnh đất một thời mệnh danh là vành đai trắng. Gio Linh, mảnh đất nhỏ giữa lòng Quảng Trị nhưng những chiến công trong kháng chiến đánh giặc và nổ lực trong dựng xây thì không hề nhỏ. Gio Linh đã cho mỗi nhà báo chúng tôi bao nhiêu chất liệu, vốn sống, câu chuyện, nhân vật của ngày hôm qua và ngày hôm nay để làm nên tác phẩm. Gần đây để phối hợp với VTV thực hiện các tập phim tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 40 năm giải phóng Quảng Trị và 40 năm sự kiện 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ, tôi cũng đã hình thành đề cương 5 tập phim tài liệu, trong đó cả 5 tập phim đều liên quan đến bối cảnh, nhân vật, đất và người Gio Linh, đó là những tập: Những dòng sông giới tuyến, Em là du kích, Trận đầu của xe tăng, Hoài niệm chiến trường xưa và Quảng Trị vượt qua gió cát . Với tôi, dẫu chưa thật đầy đử nhưng cũng cảm nhận về Gio Linh – mảnh đất giữa lòng Quảng Trị là vậy. TĐM
Giới thiệu khái quát huyện Gio Linh Gio linh nằm trên tọa độ địa lý từ 16 0 9′ đến 17 0 vĩ độ Bắc và 106 0 52′ đến 107 0 10′ độ kinh Đông, được giới hạn bỡi ranh giới hành chính như sau: Là một huyện có địa hình bán sơn địa nghiêng từ Tây sang Đông, phía tây là đồi núi có diện tích 31.773,75 ha (67,18%), ở giữa là đồng bằng có diện tích 12.631,01 ha(26,7%) và phía Đông là bãi cát và cồn cát ven biển với diện tích 2.893,8ha (6,12%). Nhìn vào bản đồ hành chính tỉnh Quảng Trị , Gio Linh là huyện có vị trí khá độc đáo, có ranh giới gắn liền với 7 huyện, đó là huyện đảo Cồn Cỏ, Vĩnh Linh, Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Triệu Phong và thành phố Đông Hà. Gio linh cũng là huyện nằm giữa hai dòng sông từng đi vào lịch sử, sông Bến Hải và Thạch Hãn gắn với hai Hiệp định quan trọng của đất nước (Giơ ne vơ – 1954, và Pari – 1973). Và nếu Quảng Trị có hai cửa biển mang tên Cửa Việt, Cửa Tùng thì Gio Linh từ bao đời nay là mảnh đất nằm giữa hai cửa biển ấy. Từ đây Gio Linh định hình để hướng ra biển lớn, Gio Linh định hình để phát triển kinh tế xã hội từ vàng trắng là những vườn cao su ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, từ lợi thế trên trục đường Bắc – Nam, đường Hồ Chí Minh phía tây, đường xuyên Á khởi đầu từ cảng Cửa Việt, đường ven biển nối Vĩnh Linh đất thép và nối vựa lúa Triệu Phong bằng những cây cầu vĩnh cửu Cửa Việt – Cửa Tùng mà không huyện nào có được. Nếu Quảng Trị là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, có núi có rừng, có sông có biển đảo, có đường thiên lý bắc nam, là điểm tỳ vai của chiếc đòn gánh non sông hai đầu đất nước thì Gio Linh là hình ảnh thu nhỏ của Quảng Trị, là nơi điểm tỳ kẻo kẹt bên bờ Nam vỹ tuyến 17. Nơi đây tụ hội những gì thiêng liêng và anh dũng nhất. Đó là nghĩa trang liệt sỹ quốc gia Trường Sơn, nơi an nghỉ vĩnh hằng của bao anh hùng liệt sỹ từ mọi miền quê đất nước. Đó là bờ Nam sông Bến Hải, biểu tượng của khát vọng thống nhất non sông, có hàng rào điện tử McNamara đã không tồn tại trên vành đai trắng. Nếu như Quảng Trị là khúc ruột miền Trung, nằm gọn giữa lòng hai miền Nam – Bắc của nước Việt Nam thì Gio Linh là mảnh đất nằm giữa lòng Quảng Trị. Gio Linh luôn gắn với những kỳ tích, câu chuyện, giai điệu lời ca đi cùng năm tháng. Cũng chưa thật xa bởi đâu đây trong cuộc sống hối hả này vẫn còn ngân vang một “ Câu hò bên bến Hiền Lương” khúc ca mừng chiến thắng “Tin thắng trận từ Gio An vọng tới, đàn ta lư em cất tiếng ca vang cùng núi rừng…” .Nếu Quảng Trị là bảo tàng, là phim trường sống động nhất cho những bộ phim về đề tài chiến tranh cách mạng, thì đất và người Gio Linh luôn cho chúng ta những chất liệu quý giá để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật, báo chí, văn học. Thật vậy, trong những thước phim tài liệu thời chiến, vẫn còn đó những cô du kích trong: “Những cô gái C2 vùng giải phóng” , “Gio Linh ngày đầu giải phóng ” của Điện ảnh Quân đội, trong đó ta bắt gặp hình ảnh O nữ du kích bắn tỉa trên hàng rào điện tử Hoàng Thị Chẩm, quê xã Trung Hải. Với O Chẩm, vinh dự nhất là sáng ngày 1 tháng 4 năm 1972 ở tuổi vừa tròn 21, O là người cắm cờ trên nóc hầm chỉ huy của địch ở căn cứ Dốc Miếu, O Chẩm được nhận 9 danh hiệu dũng sỹ các loại. Là nữ du kích Nguyễn Thị Thủy ở xã Gio Mỹ với 5 lần được tặng thưởng danh hiệu dũng sỹ, những ngày đầu Gio Linh hoàn toàn giải phóng, nữ du kích Nguyễn Thị Thủy với chiếc mũ tai bèo đã có mặt khắp nơi để tuyên truyền, hướng dẫn bà con nhanh chóng ổn định sản xuất đời sống. Thật cơ duyên, trong bút ký Đánh giặc trên hàng rào điện tử của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường chúng ta lại gặp đôi vợ chồng dũng sỹ Quy – Thủy qua mỗi trang viết thấm đẩm chất can trường của người Gio Linh: “ Vấn đề của Quy (Dương Bá Quy – chồng chị Nguyễn Thị Thủy) là phải đánh đừng cho nó nối được hai đầu dây lại với nhau, nghĩa là cái hàng rào điện tử ấy đã bị đồng đội của Quy đánh cho nát bét ra kia”. Dương Bá Quy, người hùng của đất Gio Linh chính thức đạt 17 lần dũng sỹ là vậy . Nay trong các chương trình truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta còn bắt gặp những nhân vật, câu chuyện của họ trên sóng VTV, HTV, VTC như là nhân vật giao lưu đặc biệt trong các chương trình truyền hình trực tiếp, nhật ký chiến sỹ trong chương trình Chúng tôi là chiến sỹ , chuyên mục Không thể lãng quên , hay trong các phim tài liệu, phóng sự. Nếu đồng bào các xã Trung Giang, Trung Hải, Trung Sơn sinh sống dọc theo bờ Nam sông tuyến thuộc quận Trung Lương cũ của tỉnh Quảng Trị trước những năm 1970, ngày đêm chứng kiến cán bộ, quân và dân ta “ăn cơm bắc đánh giặc nam” vượt tuyến vào vùng địch hậu để thực hiện nhiệm vụ đánh địch ngay trong lòng địch, thì bà con nhân dân xã Gio Mai, Gio Việt có nhiệm vụ nuôi dấu những chiến sỹ hải quân, làm nhiệm vụ đánh tàu Mỹ ở biển Cửa Việt, hay những trận “Bạch Đằng” trên sông Hiếu. Từ những sự kiện lịch sử và những câu chuyện cảm động, để ghi ơn sự mưu trí dũng cảm, cũng như công sức của các mẹ các chị ở các xã Gio Mai, Gio Việt đã có công lớn trong việc bảo vệ các chiến sỹ đặc công nước, ngày 4 tháng 4 năm 2006, chương trình Người đương thời với tên gọi: “Đặc công Hải quân, những huyền thoại sống ” được tổ chức ghi hình tại cảng Cửa Việt. Theo nhà báo Tạ Bích Loan, với trên 10 năm phát sóng chương trình Người đương thời, thì đây là chương trình có quy mô hoành tráng nhất, cả về không gian, thời gian và bối cảnh sân khấu. Tuyến nhân vật chính là những Anh hùng, chiến sỹ đặc công Hải quân cùng các mẹ, các chị ở xã Gio Việt, Gio Mai, họ là những người dân bình thường, nhưng khi quân giặc đến họ trở nên phi thường, tìm mọi cách để cưu mang, che dấu các chiến sỹ đặc công Hải quân. . Cũng vì giữa lòng Quảng Trị, nên chỉ ở miền tây huyện Gio Linh là có sự tồn tại qua thời gian của gần 20 giếng cổ ở xã Gio An, đây là hệ thống giếng cổ độc đáo được xây dựng bằng các phiến đá xếp chồng lên nhau. Quanh năm suốt tháng nguồn nước từ các giếng cổ cung cấp cho các vùng chuyên canh lúa, cây rau liệt (xà lách xoong) của vùng miền tây huyện Gio Linh và cũng là nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng cư dân địa phương nơi đây. Trong tương lai gần, việc đưa các hệ thống giếng cổ này vào tour du lịch DMZ (khu vực phi quân sự trong thời kỳ chiến tranh) sẽ gây được hứng thú cho du khách và mở ra triển vọng mới để Gio Linh phát triển mạnh và đều giữa các vùng và lĩnh vực kinh tế. Mừng quê hương 40 năm hoàn toàn giải phóng, từ hai năm trước huyện Gio Linh phát động phong trào thi đua: “Làm giàu cho mình, làm giàu cho quê hương” đã được mọi tầng lớp nhân dân đón nhận và triển khai ở hầu khắp các địa phương trong huyện. Từ đây, Gio Linh dựa vào lợi thế của mỗi vùng: rừng, cát, biển để phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao mức sống của người dân, nơi mảnh đất một thời mệnh danh là vành đai trắng. Gio Linh, mảnh đất nhỏ giữa lòng Quảng Trị nhưng những chiến công trong kháng chiến đánh giặc và nổ lực trong dựng xây thì không hề nhỏ. Gio Linh đã cho mỗi nhà báo chúng tôi bao nhiêu chất liệu, vốn sống, câu chuyện, nhân vật của ngày hôm qua và ngày hôm nay để làm nên tác phẩm. Gần đây để phối hợp với VTV thực hiện các tập phim tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 40 năm giải phóng Quảng Trị và 40 năm sự kiện 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ, tôi cũng đã hình thành đề cương 5 tập phim tài liệu, trong đó cả 5 tập phim đều liên quan đến bối cảnh, nhân vật, đất và người Gio Linh, đó là những tập: Những dòng sông giới tuyến, Em là du kích, Trận đầu của xe tăng, Hoài niệm chiến trường xưa và Quảng Trị vượt qua gió cát . Với tôi, dẫu chưa thật đầy đử nhưng cũng cảm nhận về Gio Linh – mảnh đất giữa lòng Quảng Trị là vậy. TĐM
Giới thiệu khái quát huyện Đakrông Vị trí: Nằm ở vị trí 16017`55“ đến 16049`12“ vĩ độ Bắc và 106044`01“ đến 107014`15“ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp với các huyện Gio Linh, Cam Lộ: Phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế và Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào: Phía Đông giáp huyện Triệu Phong và Hải Lăng: Phía Tây giáp huyện Hướng Hóa Địa hình, địa chất Địa hình Đakrông cao về phía Đông – Đông Nam thấp về phía Tây – Tây Bắc. Cao nhất là đỉnh Kovalađút 1251m, thấp nhất là khu vực bãi bồi Ba Lòng 25m. Đồi núi tập trung ở phía Đông Nam của huyện. Do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên khác nhau nên đất đai ở Đakrông rất đa dạng và phong phú bao gồm bảy loại chính đó là: Đất màu tím trên đá sét, đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất phú sa bồi, đất đỏ vàng trên đá phiến thạch sét, đất đỏ vàng trên đất mácmaxit và đất vàng nhạt trên đá cát. Nhóm đất có địa hình đồi chiếm hơn 95 diện tích phù hợp trông các loại cây công nghiệp có giá trị cao như cà phê, tiêu, cao su vv…….. Ngoài ra có đât phú sa sông phù hợp trồng cây nông nghiệp như bắp đậu v.v.. Khí hậu thủy văn Đakrông cá khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa thể hiện rõ ở chế độ mưa và gió mùa. Khí hậu Đakrông chịu ảnh hưởng rõ rệt của bức xạ nội chí tuyến và đặc điểm địa lý ma trước hết là sự xuất hiện của dãy núi Trường Sơn, nằm trong khu vục chuyển tiếp của hai mùa khí hậu mùa nóng và mùa lạnh Sông ngòi Sông Đakrông bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở phía Nam và đông Nam huyện Đakrông có chiều dài 85km. Sông Quảng Trị chảy qua Đakrông là hợp lưu của hai con sông Đakrông và sông Rào Quán. Thượng lưu gọi là sông Đakrông, hạ lưu gọi lá sông Ba Lòng Trong hệ thống sông Đakrông có nhiều con suối tương đối lớn đổ ra như Paây, Scam, Ra Ngao, Ta Sam Ba Le, Rơlay vv….. Ngoài ra còn có nhiều con suối đỏ vào song Ba Lòng như Khe Làng An, Khe Vẽ,… Sông Đakrông có độ dài ngắn và dốc nên tốc độ chảy cao về mùa mua lũ thưỡng xảy ra tình trạng lũ lụt lớn. Trong lịch sử vùng đất Đakrông từng thuộc các huyện Hướng Hóa, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu phong: Do ảnh hưởng của chiến tranh do yêu cầu cách mang nên nhiều lần tách ra hợp vào nhiều lần. Đakrông là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa thời tiền sử. Qua các phat hiện khảo cổ đã tìm thấy nhiều dấu vết của thời kỳ đá mới thuộc văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn ở Đakrông. Ở đây còn phát hiện nhiều dấu vết của nền văn hóa đồ đồng như rìu đồng giáo đồng lưỡi câu đồng và một số đồ trang sức vv. Qua những dữ kiện đó chúng tỏ Đakrông có bề dày lịch sử lâu đời là nơi con người lập nghiệp từ rất sớm có những đóng góp to lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Vào buổi đầu của lịch sử nơi đây là địa bàn của trú của bộ Việt Thường. Từ cuối thế kỷ II đến thế kỷ XIV thuộc về châu Ô, Châu Lý của nhà nước Chăm Pa. Từ năm 1306 thuộc về nhà nước Đại Việt sau khi Chế Mân lấy Châu ô Châu Lý làm lễ vật cầu hôn Huyền Trân công chúa Năm1307 nhà Trần đổi Châu Ô, Châu Lý thành Thuận Châu và Hóa Châu, Đakrông lúc này thuộc Hóa Châu. Dân cư, văn hóa Dân cư ỏ đây không chỉ có người Chăm mà gồm cả đồng bào dân tộc ít người như Vân Kiều, PaCô cùng người kinh định cư lâu đời. Từ 1831 khi nhà nguyên thành lập tỉnh Quảng Trị thì Đakrông chính thức thuộc về tỉnh QT từ đó đến 1976 Đakrông thuộc tỉnh Bình Trị Thiên Đến ngày 18.5.1981 xã Đakrông được thành lập trên cơ sở sát nhập các thôn Taliêng, Pa ra Từng, Chân Rò tách từ xã Tà Long và thôn Ba ngao, Làng Cát, Vùng Kho. Các xã A Túc, A Xốc và Kỳ Nơi thuộc huyện Hướng Hóa nhập vào làm một và lấy tên là A Túc Dân cư Đakrông ngoài các dân tộc thiểu số như Ba Hy, Vân Kiều, Pa Cô là chủ yếu còn có người kinh sinh sống tính đến 2005 Có khoảng 34.160 người Mặc dù thành phần dân tộc phức tạp nhưng trải qua quá trình chung sống vật lộn đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm cư dân Đakrông đã trở thành một khối thống nhất trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của cộng đồng cư dân Việt Nam nói chung và Quảng Trị nói riêng. Cộng đồng cư dân sinh sống đầu tiên ở trên địa bàn huyện Đakrông đó là cộng đồng người Ba Hy. Họ sống theo dạng du canh du cư tù ngọn núi này sang ngọn núi khác nhưng sau một thời gian sinh sống họ gặp phải dịch bệnh và thú dũ tấn công nên đã chuyển di nơi khác sinh sống Sau khi người Ba Hy dời đi thì những người mới đến định cư ở đây (còn gọi là người Bru nghĩa là nhũng người sống ở trên cao). Ngoài người Vân Kiều còn có người Pa cô cư trú ở phía Tây Nam của huyện ở các xã A Túc, A Bung, Tà Rụt. Ngôn ngữ của của đồng bào VK gọi là Kado, Kanay, thuộc ngữ hệ Môn – Khơme Người Vân kiều Pa cô sống thánh các bản làng gọi là Vil hay Vel mỗi bản thường có 20-30 gia đình Đưng đầu Vil hay Vel là Aryay vel có thể là người đứng đầu dòng họ hoặc được bầu lên nói chung đó là người có uy tín và trách nhiệm với cộng đồng được cộng đồng tin tưởng Nhà ở của đồng bào Đakrông đều là nhà sàn lợp bằng lá tranh, mây, sàn lát băng núa hoặc gỗ Giữa hai cộng đồng có nhiều điểm tương đồng về văn hóa như cà răng, căng tai, các mô típ trang trí, hay các câu chuyện dân gian vv. Sau khi người kinh lên sinh sống cùng với cộng đồng ở đây dã trở thành một cộng đồng cư dân mới hết sức đoàn kết và gắn bó cùng nhau tồn tại và phát triển.
General introduction to Dakrong district Location: Located at 16017`55“ to 16049`12“ North latitude and 106044`01“ to 107014`15“ East longitude. The North borders Gio Linh and Cam Lo districts: The South borders the province Hue and the Lao People's Democratic Republic: The East borders Trieu Phong and Hai Lang districts: The West borders Huong Hoa district Topography, geology Dakrong terrain is high in the East - Southeast and low in the West - Northwest. The highest is Kovaladut peak at 1251m, the lowest is the Ba Long alluvial area at 25m. Hills and mountains are concentrated in the Southeast of the district. Due to the influence of many different natural factors, the land in Dakrong is very diverse and rich, including seven main types: Purple soil on clay rock, yellow-brown soil on ancient alluvium, alluvial soil. , yellow-red soil on clay shale, yellow-red soil on igneous soil and light yellow soil on sandstone. The land group with hilly terrain accounts for more than 95 areas suitable for growing high-value industrial crops such as coffee, pepper, rubber, etc...... In addition, there is river alluvial land suitable for growing agricultural crops such as corn, beans etc. Climate and hydrological Dakrong has a humid tropical monsoon climate, clearly shown in the rain and monsoon regime. Dakrong's climate is clearly influenced by intratropical radiation and its geographical features are, first of all, the appearance of the Truong Son mountain range, located in the transition area of ​​two climate seasons: hot and cold seasons. River Dakrong River originates from the Truong Son mountain range in the south and southeast of Dakrong district and has a length of 85km. Quang Tri River flows through Dakrong at the confluence of two rivers Dakrong and Rao Quan River. The upstream is called Dakrong River, the downstream is called Ba Long River. In the Dakrong river system, there are many relatively large streams flowing out such as Paay, Scam, Ra Ngao, Ta Sam Ba Le, Relay, etc.... There are also Many red streams flow into Ba Long River such as Khe Lang An, Khe Ve,... Dakrong River has a short length and is steep, so the flow rate is high during the flood season, often causing major floods. Historically, Dakrong land used to belong to the districts of Huong Hoa, Gio Linh, Cam Lo, Trieu Phong: Due to the influence of the war and the need to separate, they were separated and merged many times. Dakrong is a convergence of many prehistoric cultures. Through archaeological discoveries, many traces of the Neolithic period of Hoa Binh and Bac Son culture in Dakrong have been found. Many traces of bronze culture were also discovered here, such as bronze axes, spears, bronze hooks, and some jewelry, etc. Through these data, we can see that Dakrong has a long history as a place where people established their businesses very early and made great contributions to the development of the nation's history. At the beginning of history, this place was the residence of the Viet Thuong ministry. From the end of the second century to the fourteenth century, it belonged to Chau O and Chau Ly of the Champa state. From 1306, it belonged to Dai Viet state after Che Man took Chau O Chau Ly as a marriage proposal to Princess Huyen Tran. In 1307, the Tran dynasty changed Chau O and Chau Ly to Thuan Chau and Hoa Chau, Dakrong at this time belonged to Hoa Chau. Population, culture The population here is not only Cham people but also includes ethnic minorities such as Van Kieu, PaCo and long-standing Kinh people. From 1831, when the Nguyen dynasty established Quang Tri province, Dakrong officially belonged to QT province. From then until 1976, Dakrong belonged to Binh Tri Thien province. On May 18, 1981, Dakrong commune was established on the basis of merging the villages of Talieng and Pa ra Nguong. , Chan Ro separates from Ta Long commune and Ba Ngao village, Cat Village, Vung Kho. The communes of A Tuc, A Xoc and Ky Noi in Huong Hoa district were merged into one and named A Tuc. Dakrong's population, in addition to ethnic minorities such as Ba Hy, Van Kieu and Pa Co, is mainly made up of Kinh people. As of 2005, there are about 34,160 people. Although the ethnic composition is complex, through the process of living together and struggling with nature and foreign invaders, Dakrong residents have become a unified block and become an important part. indispensable for the Vietnamese community in general and Quang Tri in particular. The first resident community in Dakrong district was the Ba Hy community. They lived in the form of shifting cultivation from one mountain to another, but after a period of living, they encountered epidemics and animal attacks, so they moved to another place to live. After the Ba Hy people moved away, the Ba Hy people moved away. New people settled here (also known as Bru people, meaning people living at high altitude). In addition to the Van Kieu people, there are also Pa Co people residing in the southwest of the district in A Tuc, A Bung, and Ta Rut communes. The language of the VK people is called Kado, Kanay, belonging to the Mon - Khmer language family. The Van Kieu Pa Co people live in villages called Vil or Vel, each village usually has 20-30 families. The head of Vil or Vel is Aryay Vel can be the head of a family or elected in general, he is a person with prestige and responsibility to the community who is trusted by the community. Dakrong people's houses are all stilt houses thatched with thatch leaves, rattan, stilts. slices of bamboo or wood. Between the two communities there are many cultural similarities such as tooth brushing, ear stretching, decorative motifs, or folk tales, etc. After Kinh people came to live with the community here, it became a new community of residents who were very united and attached to exist and develop together.
Giới thiệu khái quát huyện Trần Đề Huyện Trần Đề được thành lập theo Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 do điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú và huyện Mỹ Xuyên. Huyện là vùng đồng bằng ven biển của tỉnh Sóc Trăng với tổng diện tích tự nhiên là 37.797,81 ha, dân số 134.226 người. Toàn huyện có 09 xã và 02 thị trấn. Địa giới hành chính của huyện như sau: Phía Đông: giáp huyện Cù Lao Dung và Biển Đông; Phía Bắc: giáp huyện Long Phú và Thành phố Sóc Trăng; Phía Tây: giáp huyện Mỹ Xuyên; Phía Nam: giáp thị xã Vĩnh Châu và Biển Đông. Với vị trí cửa ngõ phía Đông của tỉnh Sóc Trăng , đây là vị trí thuận lợi cho xây dựng cảng và các khu công nghiệp, tạo lợi thế cho Trần Đề phát triển kinh tế ở cả 3 khu vực (nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ – thương mại), có vị trí và vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giao lưu thương mại và an ninh quốc phòng của tỉnh Sóc Trăng cũng như của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Những yếu tố trên đã tạo cho Trần Đề nhiều thuận lợi trong việc mở rộng mối quan hệ giao lưu văn hóa, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy phát triển nhanh kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên 1.2. Địa hình, địa mạo Địa hình huyện Trần Đề bằng phẳng, cao độ trung bình 0,5 – 1,2 m so với mặt nước biển. Một số cồn giồng cát phân bố ở các xã Trung Bình, Đại Ân 2, Lịch Hội Thượng, thị trấn Trần Đề có địa hình cao hơn 1,2 – 1,5m. Địa mạo lượn sóng, cao ở các giồng cát, thấp ở các gian cồn. Dáng địa hình cao ở ven sông, thấp vào nội đồng. Địa hình của Huyện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên hạn chế chủ yếu là đất đai phần lớn bị nhiễm mặn trong mùa khô. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất, Huyện cần được đầu tư nhiều cho xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cấp các công trình thủy lợi. 1.3. Khí hậu Trần Đề có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Nền nhiệt độ cao đều trong năm, điều kiện bức xạ dồi dào, nhiều nắng và gió; khí hậu có hai mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 5 đến cuối tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến cuối tháng 4 năm sau. Theo chuỗi số liệu quan trắc của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Sóc Trăng, các chỉ tiêu khí hậu trên địa bàn (trạm Mỹ Thanh) như sau: * Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ không khí trung bình tại Huyện khá cao khoảng 26 – 27oC. Nhiệt độ cao vào các tháng mùa khô, trung bình từ 27 – 28oC, cao nhất là 28,5oC vào các tháng 4 và 5. Nhiệt độ cao tuyệt đối là 37,8oC và nhiệt độ thấp tuyệt đối 16,2oC. Vào mùa khô, dao động nhiệt độ trong ngày khoảng 15oC; vào các tháng mùa mưa nhiệt độ không khí thấp hơn, nhiệt độ dao động trong ngày từ 8 – 10oC. Biên độ nhiệt dao động giữa các tháng khoảng 2 – 3oC. * Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình năm tại huyện Trần Đề khoảng 84 – 85%. Độ ẩm thay đổi phụ thuộc theo mùa. Vào mùa mưa độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình khoảng 88 – 89%. Về mùa khô, độ ẩm giảm xuống trung bình khoảng 79%. Độ ẩm cao nhất khoảng 92%, độ ẩm thấp nhất khoảng 62%. * Nắng và bức xạ mặt trời: Cũng như nhiều khu vực khác trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, huyện Trần Đề có lượng bức xạ mặt trời khá cao và tương đối ổn định. Tổng giờ nắng trong năm đạt khoảng 2.400 – 2.500 giờ. Trong các tháng mùa khô, tổng giờ nắng trung bình/tháng khá cao, vào tháng 3 tổng số giờ nắng đạt gần 300 giờ. Trong khi đó các tháng mùa mưa có số giờ nắng ít hơn (tháng 8 chỉ đạt khoảng 150 giờ). Tổng lượng bức xạ trung bình trong năm đạt 140-150 Kcal/cm2. * Mưa và lượng bốc hơi: Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 2.100 – 2.200 mm (năm 2006 có lượng mưa tương đối thấp chỉ đạt 1.660 mm). Lượng mưa tập trung không đều trong các tháng mà phân bố thành 2 mùa đặc trưng: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 tới tháng 11 nhưng tập trung nhất là các tháng 8, 9, 10. Các tháng trong mùa mưa chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Các tháng mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng mưa. Có những tháng hầu như không mưa (tháng 2 và 3). Lượng bốc hơi tương đối cao, trung bình 25 mm/ngày. Vào các tháng mùa khô lượng bốc hơi lên tới 30 – 40 mm/ngày. Các tháng mùa mưa lượng bốc hơi thấp hơn khoảng 16 – 25 mm/ngày. * Gió, bão: Do nằm ở vị trí cửa Trần Đề và biển Đông nên huyện bị chi phối nhiều bởi hệ thống gió mùa. Hệ thống gió thịnh hành theo hướng Tây Bắc – Đông Nam thổi vào các tháng 11 và tháng 12, hệ thống gió này tạo thời tiết không mưa, khô, nóng. Từ tháng 1 tới tháng 4 gió chuyển dần từ hướng Đông sang Đông Nam; từ tháng 5 đến tháng 9 gió chuyển dần theo hướng Đông Nam sang Tây Nam và Tây; sang tháng 10 gió thay đổi từ hướng Tây Nam đến Tây Bắc và hướng Đông. Tốc độ gió trung bình khoảng 3-6m/giây. Tuy nhiên nhiều cơn gió mạnh trong mưa có thể đạt tốc độ 25-35m/giây. Huyện Trần Đề ít chịu ảnh hưởng của gió bão. Gió trên cao của Trần Đề lớn thứ 2 trong toàn quốc, có tiềm năng về điện gió rất lớn cần nghiên cứu khai thác. Nhìn chung, điều kiện khí hậu không có những trở ngại cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và du lịch… Tuy nhiên do phân bố theo mùa đặc biệt là mùa khô kéo dài, lượng mưa ít, lượng bốc hơi cao gây nên tình trạng thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất, chính vì vậy cần có những điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, quá trình sản xuất và sinh hoạt cho phù hợp. 1.4. Thủy văn Chế độ thủy văn trong phạm vi của huyện cũng như trên phần lớn diện tích của Tỉnh bị chi phối bởi thủy triều biển Đông, dạng bán nhật triều không đều, với đặc điểm chính: đỉnh triều cao, chân triều thấp, mực nước bình quân thiên về chân triều. Biên độ triều tại Đại Ngãi: tháng 10 là 1,89m, tháng 11 là 1,84m, tăng dần lên 1,98m vào tháng 1; 2,07m vào tháng 2; 2,18m vào tháng 3, chân triều thấp nhất vào tháng 6 (-1,03m). Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến sông, kênh rạch phân bố đồng đều, trong đó có 03 tuyến sông chính là sông Hậu (Trần Đề), sông Mỹ Thanh và sông Dù Tho. Các sông, kênh này chủ yếu là dùng cho việc tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp và giao thông thủy, cấp thoát nước cho dân cư trên địa bàn… Do ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh, là những thuận lợi cho phát triển đa dạng cây trồng và tăng hệ số sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp. Do nằm sát biển, cặp hai sông lớn, mật độ sông rạch khá dày và đặc biệt là biên độ triều khá lớn lại ngày lên xuống 2 lần nên việc tưới tiêu cho đồng ruộng chủ yếu nhờ tự chảy (nếu có bơm cũng khá ít) thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, địa bàn bị ảnh hưởng bởi thủy triều lên xuống 2 lần/ngày và hầu hết là có dòng chảy 2 chiều trong năm nên nguồn nước trên sông đục và không ảnh hưởng bởi ngập lụt do mực nước thủy triều dao động ở mức trung bình từ 0,4 – 1,4m. Tuy nhiên do tiếp giáp với biển nên mùa khô nước mặn theo hệ thống sông, kênh rạch xâm nhập vào sâu trong địa bàn của Huyện gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp (ngành trồng trọt và chăn nuôi gia súc). Gió cộng với triều cường hoặc bão cần phải được lưu ý trong quy hoạch nhất là quy hoạch thủy lợi (bố trí quỹ đất hợp lý dành cho đê điều).
Giới thiệu khái quát huyện Trần Đề Huyện Trần Đề được thành lập theo Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 do điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú và huyện Mỹ Xuyên. Huyện là vùng đồng bằng ven biển của tỉnh Sóc Trăng với tổng diện tích tự nhiên là 37.797,81 ha, dân số 134.226 người. Toàn huyện có 09 xã và 02 thị trấn. Địa giới hành chính của huyện như sau: Phía Đông: giáp huyện Cù Lao Dung và Biển Đông; Phía Bắc: giáp huyện Long Phú và Thành phố Sóc Trăng; Phía Tây: giáp huyện Mỹ Xuyên; Phía Nam: giáp thị xã Vĩnh Châu và Biển Đông. Với vị trí cửa ngõ phía Đông của tỉnh Sóc Trăng , đây là vị trí thuận lợi cho xây dựng cảng và các khu công nghiệp, tạo lợi thế cho Trần Đề phát triển kinh tế ở cả 3 khu vực (nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ – thương mại), có vị trí và vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giao lưu thương mại và an ninh quốc phòng của tỉnh Sóc Trăng cũng như của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Những yếu tố trên đã tạo cho Trần Đề nhiều thuận lợi trong việc mở rộng mối quan hệ giao lưu văn hóa, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy phát triển nhanh kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên 1.2. Địa hình, địa mạo Địa hình huyện Trần Đề bằng phẳng, cao độ trung bình 0,5 – 1,2 m so với mặt nước biển. Một số cồn giồng cát phân bố ở các xã Trung Bình, Đại Ân 2, Lịch Hội Thượng, thị trấn Trần Đề có địa hình cao hơn 1,2 – 1,5m. Địa mạo lượn sóng, cao ở các giồng cát, thấp ở các gian cồn. Dáng địa hình cao ở ven sông, thấp vào nội đồng. Địa hình của Huyện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên hạn chế chủ yếu là đất đai phần lớn bị nhiễm mặn trong mùa khô. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất, Huyện cần được đầu tư nhiều cho xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cấp các công trình thủy lợi. 1.3. Khí hậu Trần Đề có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Nền nhiệt độ cao đều trong năm, điều kiện bức xạ dồi dào, nhiều nắng và gió; khí hậu có hai mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 5 đến cuối tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến cuối tháng 4 năm sau. Theo chuỗi số liệu quan trắc của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Sóc Trăng, các chỉ tiêu khí hậu trên địa bàn (trạm Mỹ Thanh) như sau: * Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ không khí trung bình tại Huyện khá cao khoảng 26 – 27oC. Nhiệt độ cao vào các tháng mùa khô, trung bình từ 27 – 28oC, cao nhất là 28,5oC vào các tháng 4 và 5. Nhiệt độ cao tuyệt đối là 37,8oC và nhiệt độ thấp tuyệt đối 16,2oC. Vào mùa khô, dao động nhiệt độ trong ngày khoảng 15oC; vào các tháng mùa mưa nhiệt độ không khí thấp hơn, nhiệt độ dao động trong ngày từ 8 – 10oC. Biên độ nhiệt dao động giữa các tháng khoảng 2 – 3oC. * Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình năm tại huyện Trần Đề khoảng 84 – 85%. Độ ẩm thay đổi phụ thuộc theo mùa. Vào mùa mưa độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình khoảng 88 – 89%. Về mùa khô, độ ẩm giảm xuống trung bình khoảng 79%. Độ ẩm cao nhất khoảng 92%, độ ẩm thấp nhất khoảng 62%. * Nắng và bức xạ mặt trời: Cũng như nhiều khu vực khác trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, huyện Trần Đề có lượng bức xạ mặt trời khá cao và tương đối ổn định. Tổng giờ nắng trong năm đạt khoảng 2.400 – 2.500 giờ. Trong các tháng mùa khô, tổng giờ nắng trung bình/tháng khá cao, vào tháng 3 tổng số giờ nắng đạt gần 300 giờ. Trong khi đó các tháng mùa mưa có số giờ nắng ít hơn (tháng 8 chỉ đạt khoảng 150 giờ). Tổng lượng bức xạ trung bình trong năm đạt 140-150 Kcal/cm2. * Mưa và lượng bốc hơi: Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 2.100 – 2.200 mm (năm 2006 có lượng mưa tương đối thấp chỉ đạt 1.660 mm). Lượng mưa tập trung không đều trong các tháng mà phân bố thành 2 mùa đặc trưng: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 tới tháng 11 nhưng tập trung nhất là các tháng 8, 9, 10. Các tháng trong mùa mưa chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Các tháng mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng mưa. Có những tháng hầu như không mưa (tháng 2 và 3). Lượng bốc hơi tương đối cao, trung bình 25 mm/ngày. Vào các tháng mùa khô lượng bốc hơi lên tới 30 – 40 mm/ngày. Các tháng mùa mưa lượng bốc hơi thấp hơn khoảng 16 – 25 mm/ngày. * Gió, bão: Do nằm ở vị trí cửa Trần Đề và biển Đông nên huyện bị chi phối nhiều bởi hệ thống gió mùa. Hệ thống gió thịnh hành theo hướng Tây Bắc – Đông Nam thổi vào các tháng 11 và tháng 12, hệ thống gió này tạo thời tiết không mưa, khô, nóng. Từ tháng 1 tới tháng 4 gió chuyển dần từ hướng Đông sang Đông Nam; từ tháng 5 đến tháng 9 gió chuyển dần theo hướng Đông Nam sang Tây Nam và Tây; sang tháng 10 gió thay đổi từ hướng Tây Nam đến Tây Bắc và hướng Đông. Tốc độ gió trung bình khoảng 3-6m/giây. Tuy nhiên nhiều cơn gió mạnh trong mưa có thể đạt tốc độ 25-35m/giây. Huyện Trần Đề ít chịu ảnh hưởng của gió bão. Gió trên cao của Trần Đề lớn thứ 2 trong toàn quốc, có tiềm năng về điện gió rất lớn cần nghiên cứu khai thác. Nhìn chung, điều kiện khí hậu không có những trở ngại cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và du lịch… Tuy nhiên do phân bố theo mùa đặc biệt là mùa khô kéo dài, lượng mưa ít, lượng bốc hơi cao gây nên tình trạng thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất, chính vì vậy cần có những điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, quá trình sản xuất và sinh hoạt cho phù hợp. 1.4. Thủy văn Chế độ thủy văn trong phạm vi của huyện cũng như trên phần lớn diện tích của Tỉnh bị chi phối bởi thủy triều biển Đông, dạng bán nhật triều không đều, với đặc điểm chính: đỉnh triều cao, chân triều thấp, mực nước bình quân thiên về chân triều. Biên độ triều tại Đại Ngãi: tháng 10 là 1,89m, tháng 11 là 1,84m, tăng dần lên 1,98m vào tháng 1; 2,07m vào tháng 2; 2,18m vào tháng 3, chân triều thấp nhất vào tháng 6 (-1,03m). Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến sông, kênh rạch phân bố đồng đều, trong đó có 03 tuyến sông chính là sông Hậu (Trần Đề), sông Mỹ Thanh và sông Dù Tho. Các sông, kênh này chủ yếu là dùng cho việc tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp và giao thông thủy, cấp thoát nước cho dân cư trên địa bàn… Do ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh, là những thuận lợi cho phát triển đa dạng cây trồng và tăng hệ số sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp. Do nằm sát biển, cặp hai sông lớn, mật độ sông rạch khá dày và đặc biệt là biên độ triều khá lớn lại ngày lên xuống 2 lần nên việc tưới tiêu cho đồng ruộng chủ yếu nhờ tự chảy (nếu có bơm cũng khá ít) thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, địa bàn bị ảnh hưởng bởi thủy triều lên xuống 2 lần/ngày và hầu hết là có dòng chảy 2 chiều trong năm nên nguồn nước trên sông đục và không ảnh hưởng bởi ngập lụt do mực nước thủy triều dao động ở mức trung bình từ 0,4 – 1,4m. Tuy nhiên do tiếp giáp với biển nên mùa khô nước mặn theo hệ thống sông, kênh rạch xâm nhập vào sâu trong địa bàn của Huyện gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp (ngành trồng trọt và chăn nuôi gia súc). Gió cộng với triều cường hoặc bão cần phải được lưu ý trong quy hoạch nhất là quy hoạch thủy lợi (bố trí quỹ đất hợp lý dành cho đê điều).
Giới thiệu khái quát huyện Kế Sách – Huyện Kế Sách nằm ở phía Bắc tỉnh Sóc Trăng, có vị trí địa lý: từ 9042’39,9” đến 9056’16,4” vĩ Bắc, 105053’44,6” đến 106004’20” kinh Đông. Phía Tây – Bắc giáp huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang; phía Đông – Bắc giáp với huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, huyện Cầu Kè và huyện Tiểu Cần tỉnh Trà Vinh; phía nam giáp huyện Châu Thành, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Kế Sách có diện tích 35.260,09 ha, dân số năm 2010 là 158.756 người, trong đó dân tộc Kinh 140.498 người chiếm 88,50% dân số, dân tốc Khmer 17.334 người chiếm 10,92% dân số, Hoa 898 người chiếm 0,57% dân số, dân tộc khác 26 người. Huyện Kế Sách có 02 thị trấn, 11 xã, với 86 ấp. Mật độ dân số 450 người/km2. Địa hình Kế Sách bằng phẳng, hướng dốc nghiêng dần từ bờ sông Hậu về phía Tây, cao ở bờ sông, thấp trũng ở nội đồng. Độ cao biến thiên từ 0,3 – 1.5m. Kế Sách nằm cạnh dòng sông Hậu có mạng lưới kênh, rạch dày đặc, do đó chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn sông Hậu và bán nhật triều biển Đông. Là một huyện duy nhất trong tỉnh Sóc Trăng có nước ngọt quanh năm, thế mạnh là trồng vườn và nuôi thủy sản nước ngọt. Những năm gần đây, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nên đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội của người dân không ngừng được nâng cao. Nhân dân Kế Sách anh hùng trong đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì thế hiện nay, Kế Sách có một số di tích lịch sử cấp tỉnh như: Nhà bia ghi tên liệt sĩ – Tượng đài anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – liệt sĩ Thiều văn Chỏi (ấp 6, xã Ba Trinh). Đ/c Thiều Văn Chỏi (1937-1972), Huyện đội phó Kế Sách năm 1972. Tham gia chiến đấu 152 trận lớn, nhỏ. Đ/c hy sinh tháng 8/1972. Được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 29/01/1996. Để nghi nhớ công lao to lớn và sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ xã Ba Trinh – Trinh Phú và đ/c Thiều Văn Chỏi, ngày 19/5/2000, Huyện ủy – UBND huyện Kế Sách tổ chức khởi công xây dựng công trình Nhà bia ghi tên liệt sĩ và Tượng đài anh hùng LLVTND Thiều Văn Chỏi, tổng kinh phí trên 600 triệu đồng, công trình được khánh thành ngày 22/12/2001. Năm 2006 được UBND tỉnh Sóc Trăng quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh. Công trình là một điểm sáng để giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau về tấm gương anh dũng, kiên cường của “Thần Chỏi”. Tên đ/c được đặc tên cho một trường THPT ở xã Trinh Phú, huyện Kế Sách. Di tích Mỹ – Ngụy thảm sát thường dân Vàm Cái Cao (Thị trấn An Lạc Thôn): ngày 08/01/1966 (nhằm ngày 17 tháng chạp năm Ất Tỵ), địch mở cuộc hành quân quy mô lớn đánh vào vùng giải phóng, nhân dân các xã Xuân Hòa, Ba Trinh, Trinh Phú tưởng địch sắp ném bom bắn phá trong vùng, nên bà con đã dùng xuồng, ghe lũ lượt chèo theo kênh Cái Cao đổ về hướng chợ An Lạc Thôn để lánh nạng. Lực lượng thám báo của đich báo tin “Việt cộng đổ quân về tấn công chi khu Kế Sách”, địch liền ra lệnh cho không quân ném bom và bắn phá bừa bãi vào đoàn xuồng ghe của nhân dân khi vừa đến Vàm Cái Cao. Cuộc thảm sát đã làm cho hơn 300 thường dân vô tội ở 3 xã bị thiệt mạng và bị thương, gây đau thương tan khóc cho hàng trăm gia đình. Năm 1998, UBND tỉnh cho xây dựng Bia tưởng niệm tại Vàm Cái Cao, thị trấn An Lạc Thôn, huyện Kế Sách nhằm ghi lại chứng cứ tội ác của Mỹ – Ngụy, để thế hệ hôm nay và mai sau hiểu rỏ chiến tranh tội ác mà đế quốc Mỹ đã gây ra ở Việt Nam. Ngày 15/3/2006, được UBND tỉnh Sóc Trăng xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh. Di tích thắng cảnh nổi tiếng có điểm du lịch sinh thái cồn Mỹ Phước (ấp Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ) được UBND tỉnh Sóc Trăng xếp hạng năm 2007. Cồn Mỹ Phước là nơi đất lành chim đậu, với phong cảnh hữu tình, không khí trong lành và được thiên nhiên ban tặng nhiều đặc sản đa dạng và phong phú; cùng với người dân xứ cồn quanh năm cần cù lao động đã xây đắp nên. Họ đã biết trân trọng thiên nhiên, tận dụng lợi thế thiên nhiên ưu đãi, nước ngọt quanh năm, đất đai màu mỡ, đã phát triển mạnh nghề làm vườn, nên từng nông hộ đã tạo dựng được cuộc sống ổn định, ấm no và sung túc. Tiếng lành đồn xa về vùng đất cù lao, cây lành, trái ngọt về vùng đất hữu tình, người dân giàu lòng mến khách, nên hàng năm vào dịp Tết Đoan Ngọ (mùng 5/5 âl) hàng ngàn nam thanh, nữ tú từ các nơi hội tụ về vui chơi và thưởng thức không khí trong trẻo, mát lành của miệt cù lao, thưởng thức các loại trái cây ngon, giao lưu đờn ca tài tử và còn nhiều đặc sản khác. Nhằm khai thác tiềm năng, phát huy lợi thế sẵn có về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên để phát triển các hoạt động du lịch và dịch vụ du lịch tại vùng hạ lưu sông Hậu huyện Kế Sách trên cơ sở thực hiện quy hoạch tổng thể, phát triển mạng lưới tuyến, điểm du lịch gắn với việc bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ cảnh quan môi trường, nghiên cứu đời sống văn hóa, văn minh cộng đồng, phát huy nền văn hóa bản địa, văn hóa sông nước truyền thống, chinh phục và hòa nhập thiên nhiên… khuyến khích doanh nghiệp, người dân địa phương đầu tư khai thác, phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, khám phá thiên nhiên, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội huyện nhà. Huyện Kế Sách đã đầu tư xây dựng hạ tầng điểm du lịch và văn hóa xã hội truyền thống cồn Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ. Bằng nguồn vốn tỉnh bổ sung có mục tiêu, năm 2010 UBND huyện đã phê duyệt, báo cáo kinh tế – kỹ thuật xây dựng, công trình hạ tầng Điểm du lịch và văn hóa lễ hội truyền thống cồn Mỹ Phước huyện Kế Sách. Tổng mức đầu tư theo dự toán sau khi điều chỉnh là 13.809.730.433 đồng. Ngày khởi công: 01/11/2010, ngày hoàn thành: 31/5/2012. Quảng trường trung tâm điểm du lịch có diện tích 16.190m2 (có bố trí nhà điều hành, hệ thống chiếu sáng…). Mở rộng trục đường chính giữa cồn bằng bê tông cốt thép và các đoạn nhánh dài 3,5km, rộng từ 2 đến 4m. Đường dẫn phía đất liền thuộc ấp Mỹ Huề từ Quốc lộ Nam sông Hậu đến bờ sông Hậu dài 300m, rộng 3m bằng bê tông cốt thép và cầu tàu để phục vụ đưa rước khách tham quan du lịch. Với những đặc điểm về vị trí địa lý, thiên nhiên và con người nêu trên, Kế Sách luôn luôn mong muốn chào đón bạn bè khắp nơi gần xa một lần ghé đến vùng “sông nước miệt vườn” để hiểu thêm về một vùng quê sông nước, Kế Sách luôn chào đón các bạn./.
General introduction of Ke Sach district – Ke Sach district is located in the north of Soc Trang province, with geographical location: from 9042'39.9" to 9056'16.4" North latitude, 105053'44.6" to 106004'20" East longitude. The West - North borders Chau Thanh district, Hau Giang province; The East - North borders Tra On district, Vinh Long province, Cau Ke district and Tieu Can district, Tra Vinh province; The south borders Chau Thanh district, Long Phu district, Soc Trang province. Ke Sach has an area of ​​35,260.09 hectares, the population in 2010 was 158,756 people, of which 140,498 Kinh people accounted for 88.50% of the population, 17,334 Khmer people accounted for 10.92% of the population, 898 Chinese people accounted for 0.57% of the population, other ethnicities 26 people. Ke Sach district has 02 towns, 11 communes, with 86 hamlets. Population density is 450 people/km2. Ke Sach's terrain is flat, the slope slopes gradually from the Hau river bank to the west, high on the river bank, low and low in the interior fields. Height varies from 0.3 - 1.5m. Ke Sach is located next to the Hau River with a dense network of canals and ditches, thus being influenced by the hydrological regime of the Hau River and the semi-diurnal tides of the East Sea. Is the only district in Soc Trang province that has fresh water all year round, its strengths are growing gardens and raising freshwater aquaculture. In recent years, the economy has had a high growth rate, so the economic, cultural and social life of the people has continuously improved. The people of Ke Sach were heroic in fighting, building and defending the Fatherland, so currently, Ke Sach has a number of provincial-level historical relics such as: Stele with names of martyrs - Monument of heroic armed forces People's page - martyr Thieu Van Choi (hamlet 6, Ba Trinh commune). Comrade Thieu Van Choi (1937-1972), Ke Sach District deputy captain in 1972. Participated in 152 large and small battles. He died in August 1972. Received the title of Hero of the Vietnam People's Armed Forces posthumously from the State on January 29, 1996. To commemorate the great merits and heroic sacrifices of the martyrs of Ba Trinh - Trinh Phu commune and comrade Thieu Van Choi, on May 19, 2000, the District Party Committee - People's Committee of Ke Sach district organized the groundbreaking ceremony. Construction of the Stele House inscribed with the names of martyrs and the Monument of Hero of the People's Armed Forces Thieu Van Choi, with a total cost of over 600 million VND, the project was inaugurated on December 22, 2001. In 2006, the People's Committee of Soc Trang province decided to rank it as a provincial historical relic. The project is a bright spot to educate young generations today and tomorrow about the heroic and resilient example of "Than Choi". The person's name was named for a high school in Trinh Phu commune, Ke Sach district. Relics of the US-Puppet massacre of civilians in Vam Cai Cao (An Lac Thon town): January 8, 1966 (on the 17th day of the twelfth month of the year At Ty), the enemy launched a large-scale operation to attack the liberated area , the people of Xuan Hoa, Ba Trinh, and Trinh Phu communes thought the enemy was about to bomb and bombard the area, so they used canoes and boats to row along Cai Cao canal toward An Lac Thon market to escape. The mission's reconnaissance force reported that "the Viet Cong landed troops to attack the Ke Sach sub-region", the enemy immediately ordered the air force to bomb and shoot indiscriminately at the people's boats and boats as soon as they arrived at Vam Cai Cao. The massacre killed and injured more than 300 innocent civilians in three communes, causing grief and tears to hundreds of families. In 1998, the Provincial People's Committee built a memorial stele at Vam Cai Cao, An Lac Thon town, Ke Sach district to record evidence of the crimes of the US - Puppet, so that today and future generations can understand the criminal war. evil that American imperialism has caused in Vietnam. On March 15, 2006, it was ranked as a provincial historical relic by the People's Committee of Soc Trang province. The famous scenic relic includes the eco-tourism site My Phuoc Islet (My Phuoc Hamlet, Nhon My Commune) ranked by the People's Committee of Soc Trang Province in 2007. My Phuoc Islet is a good place for birds to roost, with charming scenery, Fresh air and nature bestowed with many diverse and rich specialties; Together with the hard-working year-round dune people, it was built. They have learned to appreciate nature, take advantage of natural incentives, year-round fresh water, fertile land, and have strongly developed gardening, so each farmer household has built a stable and prosperous life. and prosperity. Good reputation spreads far and wide about the island, good trees and sweet fruits come to this charming land, and the people are rich in hospitality, so every year on the occasion of Doan Ngo Festival (5th day of the 5th lunar month), thousands of young men and women from places that converge to have fun and enjoy the clear, cool air of the island, enjoy delicious fruits, exchange amateur music and many other specialties. In order to exploit the potential and promote existing advantages of geographical location and natural conditions to develop tourism activities and tourism services in the lower Hau River region, Ke Sach district on the basis of implementing regulations. master plan, develop a network of routes and tourist attractions associated with nature conservation, environmental landscape protection, research on cultural life, community civilization, and promotion of indigenous culture and culture. traditional rivers, conquering and integrating nature... encourage businesses and local people to invest in exploiting and developing various types of eco-tourism, cultural tourism, and nature exploration, contributing to promoting Promote socio-economic development of the home district. Ke Sach district has invested in building infrastructure for traditional tourist and cultural and social sites at My Phuoc island, Nhon My commune. With targeted additional provincial capital, in 2010 the District People's Committee approved the economic and technical report on construction and infrastructure of the tourist site and traditional cultural festival at My Phuoc island in Ke Sach district. Total estimated investment after adjustment is 13,809,730,433 VND. Construction start date: November 1, 2010, completion date: May 31, 2012. The central square of the tourist destination has an area of ​​16,190m2 (with operator layout, lighting system...). Expand the main road in the middle of the dune with reinforced concrete and branch sections to 3.5km long and 2 to 4m wide. The road leading to the mainland in My Hue hamlet from the National Highway South of Hau River to the bank of Hau River is 300m long, 3m wide, made of reinforced concrete and a wharf to serve the purpose of transporting tourists. With the characteristics of geographical location, nature and people mentioned above, Ke Sach always wants to welcome friends from near and far to visit the "river and garden" area to understand more about a rural area. River, Ke Sach always welcomes you./.
Giới thiệu khái quát huyện Mỹ Tú Mỹ Tú là một trong 11 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Sóc Trăng , cách Thành phố Sóc Trăng 18 km về phía Tây, có tổng diện tích tự nhiên là 36.815,56 ha, bao gồm 08 xã và 01 Thị trấn: Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, các xã Long Hưng, Hưng Phú, Mỹ Hương, Mỹ Tú, Mỹ Phước, Thuận Hưng, Mỹ Thuận và Phú Mỹ. Về vị trí địa lý, toàn huyện nằm trên tọa độ địa lý 9o52 – 9o78 vĩ độ Bắc và 105o74 – 106o kinh Đông, giáp ranh với 05 huyện, thành phố trong tỉnh Sóc Trăng và huyện Long Mỹ – tỉnh Hậu Giang . Cụ thể phía Đông giáp với Thành phố Sóc Trăng, huyện Châu Thành, huyện Mỹ Xuyên; phía Tây giáp với huyện Long Mỹ – tỉnh Hậu Giang, huyện Ngã Năm và huyện Thạnh Trị; phía Nam giáp huyện Thạnh Trị, Ngã Năm và huyện Mỹ Xuyên; phía Bắc giáp với huyện Long Mỹ – tỉnh Hậu Giang và huyện Châu Thành. Với vị trí này đã tạo điều kiện cho Mỹ Tú có lợi thế mở rộng giao lưu kinh tế – văn hóa giữa các địa phương trong và ngoài huyện. Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa có diện tích 1.143,02 ha là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của huyện. Do nằm ở phía Tây sông Hậu nên Mỹ Tú tiếp giáp cả vùng mặn và vùng ngọt. Về khí hậu, do nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên khí hậu của huyện mang những nét đặc trưng của khí hậu đồng bằng châu thổ, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 02 mùa mưa nắng rõ rệt. gió mùa Tây Nam được hình thành từ tháng 5 đến tháng 10; gió mùa Đông Bắc được hình thành từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Tốc độ gió trung bình/năm là 3,9m/s, trung bình tháng lớn nhất là 4,9 m/s, trung bình tháng nhỏ nhất là 3,1 m/s. Về tài nguyên thiên nhiên, Mỹ Tú có một số lợi thế sau: * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên đất đai: toàn huyện có 04 nhóm đất chính sau rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp: Một là, nhóm đất phèn chiếm 35,21% diện tích toàn huyện, gồm nhóm đất phèn trung bình tập trung chủ yếu ở các xã Mỹ Hương, một phần ở xã Long Hưng, Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và nhóm đất phèn nặng tập trung ở các xã Mỹ Phước, Mỹ Tú, một phần ở xã Long Hưng. Loại đất này không cho giá trị sản xuất nông nghiệp cao, ngoại trừ các đất phèn có tầng phèn sâu, mặn nhẹ có khả năng sản xuất lúa 1-2 vụ trong mùa mưa (lúa Hè thu, lúa Mùa hoặc lúa Hè thu + lúa Mùa). Chủ yếu sử dụng cho việc trồng tràm và một số cây chịu phèn như khóm, mía,… Hai là, nhóm đất phù sa chiếm khoảng 43,95% diện tích toàn huyện, tập trung nhiều nhất ở các xã Thuận Hưng, Phú Mỹ và Mỹ Hương. Đây là vùng đất chịu ảnh hưởng của kênh xáng Phụng Hiệp không có phèn, mặn nên được xếp vào loại phù sa ngọt và được phù sa trẻ bồi đắp. Ba là, nhóm đất giồng cát chiếm 0,44% diện tích toàn huyện, tập trung chủ yếu ở phía Đông Bắc của huyện như xã Mỹ Hương, Long Hưng, được cấu tạo bởi cát mịn thường có dạng vòng cung kéo dài chạy dọc theo các bờ biển hoặc sông. Đất giồng cát có thể nằm nổi lên mặt đất hoặc bị chôn vùi ở độ sâu nhất định. Bốn là, nhóm đất nhân tác chiếm 12,44% diện tích toàn huyện tập trung chủ yếu ở phía Đông Bắc. Được hình thành trong quá trình canh tác của con người và sự tác động cơ giớ hóa, lên líp,…chủ yếu là thổ canh, thổ cư, đất vườn đã được lên líp, phân bố rộng khắp các xã trong huyện. * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên nước: Tài nguyên nước của huyện rất dồi dào, gồm hai nguồn chính: nước mặt và nước ngầm, chất lượng nước tương đối tốt, ít bị ô nhiễm vì thế có giá trị lớn trong việc phát triển kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Nguồn nước mặt được lấy từ sông Hậu theo quản lộ Phụng Hiệp – Cà Mau vào các kênh 8 thước, 9 thước, Trà Cú, Quản lộ đi Nhu Gia,… đây là nguồn nước ngọt rất quan trọng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn toàn huyện. Nguồn nước ngầm được khai thác sử dụng cho việc sinh hoạt của nhân dân trong huyện bằng giếng khoan, chất lượng nước phụ thuộc vào độ sâu của giếng khoan, thông thường là khoan sâu dưới 30m. Nếu được khai thác và sử dụng hợp lý sẽ đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp – công nghiệp, đời sống của nhân dân góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của toàn huyện. * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên sinh vật: Mỹ Tú có tài nguyên sinh vật đa dạng và phong phú, rất có ích cho phát triển kinh tế của vùng. Nỗi bật nhất là tài nguyên thủy sản và tài nguyên rừng. + Tài nguyên thủy sản: Nhờ hệ thống kênh mương chằng chịt với tổng chiều dài các tuyến kênh mương là 1.459,56 km, mật độ kênh là 2,68 km/km2, do đó tài nguyên thủy sản khá đa dạng và phong phú, đa số là các loại thủy sản nước ngọt, có một phần nhỏ thủy sản nước lợ như tôm sú được nuôi ở khu vực ngoài đê có lợi thế trong việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trên phạm vị toàn huyện. Các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá tra, cá mè vinh, cá rô phi, rô đồng, cá trê lai, tôm càng xanh, tôm sú, ba ba, rùa,…. + Tài nguyên rừng: Rừng được trồng trên diện tích đất lâm nghiệp kém hiệu quả với diện tích là 1.050 ha, tập trung ở các lâm trường thuộc các phân trường Sóc Trăng, Mỹ Phước, Phú Lợi và rải rác ở Long Hưng, Hưng Phú, chủ yếu là trồng tràm, bạch đàn, xà cừ; ngoài giá trị kinh tế, còn có giá trị rất lớn trong công tác phòng hộ và bảo vệ môi trường, là nơi cư trú của các loài sinh vật có giá trị như: ong, rùa, rắn và các loài cá, tôm, cua, nghêu, sò,…đặc biệt có mô hình trồng tràm kết hợp với nuôi ong cho hiệu quả kinh tế cao. * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên con người: Là nơi gắn kết và sinh sống của nhiều dân tộc anh em, chủ yếu là dân tộc kinh chiếm 75,54%, Hoa chiếm 1,59%, Khmer chiếm 22,87%. Cộng đồng các dân tộc trong huyện với những truyền thống, bản sắc riêng đã hình thành một nền văn hóa phong phú, có nhiều nét độc đáo và giàu bản sắc dân tộc. Mỹ Tú luôn là vùng đất có truyền thống văn hóa và cách mạng. Cộng đồng các dân tộc trong huyện có tinh thần đoàn kết yêu quê hương, có đức tính cần cù, chăm chỉ, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn đễ vững bước đi lên. Đó là những nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát triển kinh tế – xã hội, trong xu hướng hội nhập với cả nước, khu vực và quốc tế; là thuận lợi để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện vững bước đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng huyện Mỹ tú giàu, đẹp, văn minh. Lịch sử hình thành Tóm lược quá trình hình thành và phát triển: Mỹ Tú là thôn thuộc tổng Thạnh An, huyện Phong Thạnh, phủ Ba Xuyên từ năm Minh Mạng thứ 20. Đầu thời Pháp thuộc, thôn Mỹ Tú thuộc tổng Thạnh An, huyện Phong Thạnh, hạt Ba Xuyên. Từ ngày 05/01/1876, Mỹ Tú là làng thuộc tổng Thạnh An, huyện Phong Thạnh, hát Sóc Trăng. Sau năm 1956, Mỹ Tú là xã thuộc tổng Thuận Phú, quận Bố Thảo, tỉnh Ba Xuyên. Ngày 13/01/1958, quận Bố Thảo đổi thành quận Thuận Hoà, tỉnh Ba Xuyên, xã Mỹ Tú hợp với xã Thuận Hưng thành xã Mỹ Thuận. Ngày 31-05-1972, tái lập xã Mỹ Tú với các ấp: Mỹ Tân, Mỹ Thuận, Mỹ Lợi B, Thiện Tân, Thiện Tánh, Tân Mỹ, Tân Hoà. Sau 30/4/1975, Mỹ Tú trở thành huyện của tỉnh Hậu Giang, gồm thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và 9 xã: Phú Mỹ, Mỹ Tú, Thuận Hưng, Mỹ Phước, Long Hưng, Hồ Đắc Kiện, Phú Tâm, Mỹ Hương, An Ninh. Ngày 23/12/1988, địa giới hành chính của huyện có sự điều chỉnh như sau: – Tách đất xã Long Hưng, An Ninh, Hồ Đắc Kiện, Mỹ Hương thành lập xã mới Thiện Mỹ. – Tách đất xã Hồ Đắc Kiện thành lập xã mới Thuận Hoà. – Tách đất xã Long Hưng thành lập xã mới Hưng Phú. – Tách đất xã An Ninh thành lập xã mới An Hiệp. – Tách đất xã Mỹ Phước, Phú Mỹ, Thuận Hưng thành lập xã mới Mỹ Thuận. – Tách đất xã Phú Tâm thành lập xã mới Phú Tân. Ngày 26/12/1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện Mỹ Tú thuộc tỉnh Sóc Trăng, bao gồm thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và 15 xã: Hồ Đắc Kiện, Phú Tâm, Thuận Hoà, Long Hưng, Phú Tân, Thiện Mỹ, Hưng Phú, Mỹ Hương, An Hiệp, Mỹ Tú, An Ninh, Mỹ Phước, Thận Hưng, Mỹ Thuận, Phú Mỹ. Từ năm 2009, thực hiện chia tách địa giới hành chính, tái lập huyện Châu Thành. Tổng diện tích tự đất nhiên của huyện Mỹ Tú còn lại 36.815,56 ha (trong đó đất nông nghiệp 33.544,01 ha chiếm 91,11%. Là huyện thuộc vùng nông thôn, vùng căn cứ kháng chiến cũ của Tỉnh ủy Sóc Trăng, có vị trí địa lý như sau : – Phía Đông giáp Thành phố Sóc Trăng và huyện Châu Thành. – Phía Tây giáp huyện Thạnh Trị, Ngã Năm và huyện Long Mỹ. – Phía Nam giáp huyện Mỹ Xuyên và huyện Thạnh Trị. – Phía Bắc giáp huyện Châu Thành và huyện Phụng Hiệp. Về tổ chức hành chính: Toàn huyện có 08 xã và 01 thị trấn, gồm 83 ấp. Trong đó có 05 xã khu vực III (Phú Mỹ, Thuận Hưng, Mỹ Thuận, Mỹ Phước, Mỹ Tú) và 30 ấp đặc biệt khó khăn.
Giới thiệu khái quát huyện Mỹ Tú Mỹ Tú là một trong 11 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Sóc Trăng , cách Thành phố Sóc Trăng 18 km về phía Tây, có tổng diện tích tự nhiên là 36.815,56 ha, bao gồm 08 xã và 01 Thị trấn: Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, các xã Long Hưng, Hưng Phú, Mỹ Hương, Mỹ Tú, Mỹ Phước, Thuận Hưng, Mỹ Thuận và Phú Mỹ. Về vị trí địa lý, toàn huyện nằm trên tọa độ địa lý 9o52 – 9o78 vĩ độ Bắc và 105o74 – 106o kinh Đông, giáp ranh với 05 huyện, thành phố trong tỉnh Sóc Trăng và huyện Long Mỹ – tỉnh Hậu Giang . Cụ thể phía Đông giáp với Thành phố Sóc Trăng, huyện Châu Thành, huyện Mỹ Xuyên; phía Tây giáp với huyện Long Mỹ – tỉnh Hậu Giang, huyện Ngã Năm và huyện Thạnh Trị; phía Nam giáp huyện Thạnh Trị, Ngã Năm và huyện Mỹ Xuyên; phía Bắc giáp với huyện Long Mỹ – tỉnh Hậu Giang và huyện Châu Thành. Với vị trí này đã tạo điều kiện cho Mỹ Tú có lợi thế mở rộng giao lưu kinh tế – văn hóa giữa các địa phương trong và ngoài huyện. Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa có diện tích 1.143,02 ha là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của huyện. Do nằm ở phía Tây sông Hậu nên Mỹ Tú tiếp giáp cả vùng mặn và vùng ngọt. Về khí hậu, do nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên khí hậu của huyện mang những nét đặc trưng của khí hậu đồng bằng châu thổ, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 02 mùa mưa nắng rõ rệt. gió mùa Tây Nam được hình thành từ tháng 5 đến tháng 10; gió mùa Đông Bắc được hình thành từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Tốc độ gió trung bình/năm là 3,9m/s, trung bình tháng lớn nhất là 4,9 m/s, trung bình tháng nhỏ nhất là 3,1 m/s. Về tài nguyên thiên nhiên, Mỹ Tú có một số lợi thế sau: * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên đất đai: toàn huyện có 04 nhóm đất chính sau rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp: Một là, nhóm đất phèn chiếm 35,21% diện tích toàn huyện, gồm nhóm đất phèn trung bình tập trung chủ yếu ở các xã Mỹ Hương, một phần ở xã Long Hưng, Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và nhóm đất phèn nặng tập trung ở các xã Mỹ Phước, Mỹ Tú, một phần ở xã Long Hưng. Loại đất này không cho giá trị sản xuất nông nghiệp cao, ngoại trừ các đất phèn có tầng phèn sâu, mặn nhẹ có khả năng sản xuất lúa 1-2 vụ trong mùa mưa (lúa Hè thu, lúa Mùa hoặc lúa Hè thu + lúa Mùa). Chủ yếu sử dụng cho việc trồng tràm và một số cây chịu phèn như khóm, mía,… Hai là, nhóm đất phù sa chiếm khoảng 43,95% diện tích toàn huyện, tập trung nhiều nhất ở các xã Thuận Hưng, Phú Mỹ và Mỹ Hương. Đây là vùng đất chịu ảnh hưởng của kênh xáng Phụng Hiệp không có phèn, mặn nên được xếp vào loại phù sa ngọt và được phù sa trẻ bồi đắp. Ba là, nhóm đất giồng cát chiếm 0,44% diện tích toàn huyện, tập trung chủ yếu ở phía Đông Bắc của huyện như xã Mỹ Hương, Long Hưng, được cấu tạo bởi cát mịn thường có dạng vòng cung kéo dài chạy dọc theo các bờ biển hoặc sông. Đất giồng cát có thể nằm nổi lên mặt đất hoặc bị chôn vùi ở độ sâu nhất định. Bốn là, nhóm đất nhân tác chiếm 12,44% diện tích toàn huyện tập trung chủ yếu ở phía Đông Bắc. Được hình thành trong quá trình canh tác của con người và sự tác động cơ giớ hóa, lên líp,…chủ yếu là thổ canh, thổ cư, đất vườn đã được lên líp, phân bố rộng khắp các xã trong huyện. * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên nước: Tài nguyên nước của huyện rất dồi dào, gồm hai nguồn chính: nước mặt và nước ngầm, chất lượng nước tương đối tốt, ít bị ô nhiễm vì thế có giá trị lớn trong việc phát triển kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Nguồn nước mặt được lấy từ sông Hậu theo quản lộ Phụng Hiệp – Cà Mau vào các kênh 8 thước, 9 thước, Trà Cú, Quản lộ đi Nhu Gia,… đây là nguồn nước ngọt rất quan trọng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn toàn huyện. Nguồn nước ngầm được khai thác sử dụng cho việc sinh hoạt của nhân dân trong huyện bằng giếng khoan, chất lượng nước phụ thuộc vào độ sâu của giếng khoan, thông thường là khoan sâu dưới 30m. Nếu được khai thác và sử dụng hợp lý sẽ đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp – công nghiệp, đời sống của nhân dân góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của toàn huyện. * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên sinh vật: Mỹ Tú có tài nguyên sinh vật đa dạng và phong phú, rất có ích cho phát triển kinh tế của vùng. Nỗi bật nhất là tài nguyên thủy sản và tài nguyên rừng. + Tài nguyên thủy sản: Nhờ hệ thống kênh mương chằng chịt với tổng chiều dài các tuyến kênh mương là 1.459,56 km, mật độ kênh là 2,68 km/km2, do đó tài nguyên thủy sản khá đa dạng và phong phú, đa số là các loại thủy sản nước ngọt, có một phần nhỏ thủy sản nước lợ như tôm sú được nuôi ở khu vực ngoài đê có lợi thế trong việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trên phạm vị toàn huyện. Các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá tra, cá mè vinh, cá rô phi, rô đồng, cá trê lai, tôm càng xanh, tôm sú, ba ba, rùa,…. + Tài nguyên rừng: Rừng được trồng trên diện tích đất lâm nghiệp kém hiệu quả với diện tích là 1.050 ha, tập trung ở các lâm trường thuộc các phân trường Sóc Trăng, Mỹ Phước, Phú Lợi và rải rác ở Long Hưng, Hưng Phú, chủ yếu là trồng tràm, bạch đàn, xà cừ; ngoài giá trị kinh tế, còn có giá trị rất lớn trong công tác phòng hộ và bảo vệ môi trường, là nơi cư trú của các loài sinh vật có giá trị như: ong, rùa, rắn và các loài cá, tôm, cua, nghêu, sò,…đặc biệt có mô hình trồng tràm kết hợp với nuôi ong cho hiệu quả kinh tế cao. * Lợi thế tiềm năng về tài nguyên con người: Là nơi gắn kết và sinh sống của nhiều dân tộc anh em, chủ yếu là dân tộc kinh chiếm 75,54%, Hoa chiếm 1,59%, Khmer chiếm 22,87%. Cộng đồng các dân tộc trong huyện với những truyền thống, bản sắc riêng đã hình thành một nền văn hóa phong phú, có nhiều nét độc đáo và giàu bản sắc dân tộc. Mỹ Tú luôn là vùng đất có truyền thống văn hóa và cách mạng. Cộng đồng các dân tộc trong huyện có tinh thần đoàn kết yêu quê hương, có đức tính cần cù, chăm chỉ, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn đễ vững bước đi lên. Đó là những nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát triển kinh tế – xã hội, trong xu hướng hội nhập với cả nước, khu vực và quốc tế; là thuận lợi để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện vững bước đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng huyện Mỹ tú giàu, đẹp, văn minh. Lịch sử hình thành Tóm lược quá trình hình thành và phát triển: Mỹ Tú là thôn thuộc tổng Thạnh An, huyện Phong Thạnh, phủ Ba Xuyên từ năm Minh Mạng thứ 20. Đầu thời Pháp thuộc, thôn Mỹ Tú thuộc tổng Thạnh An, huyện Phong Thạnh, hạt Ba Xuyên. Từ ngày 05/01/1876, Mỹ Tú là làng thuộc tổng Thạnh An, huyện Phong Thạnh, hát Sóc Trăng. Sau năm 1956, Mỹ Tú là xã thuộc tổng Thuận Phú, quận Bố Thảo, tỉnh Ba Xuyên. Ngày 13/01/1958, quận Bố Thảo đổi thành quận Thuận Hoà, tỉnh Ba Xuyên, xã Mỹ Tú hợp với xã Thuận Hưng thành xã Mỹ Thuận. Ngày 31-05-1972, tái lập xã Mỹ Tú với các ấp: Mỹ Tân, Mỹ Thuận, Mỹ Lợi B, Thiện Tân, Thiện Tánh, Tân Mỹ, Tân Hoà. Sau 30/4/1975, Mỹ Tú trở thành huyện của tỉnh Hậu Giang, gồm thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và 9 xã: Phú Mỹ, Mỹ Tú, Thuận Hưng, Mỹ Phước, Long Hưng, Hồ Đắc Kiện, Phú Tâm, Mỹ Hương, An Ninh. Ngày 23/12/1988, địa giới hành chính của huyện có sự điều chỉnh như sau: – Tách đất xã Long Hưng, An Ninh, Hồ Đắc Kiện, Mỹ Hương thành lập xã mới Thiện Mỹ. – Tách đất xã Hồ Đắc Kiện thành lập xã mới Thuận Hoà. – Tách đất xã Long Hưng thành lập xã mới Hưng Phú. – Tách đất xã An Ninh thành lập xã mới An Hiệp. – Tách đất xã Mỹ Phước, Phú Mỹ, Thuận Hưng thành lập xã mới Mỹ Thuận. – Tách đất xã Phú Tâm thành lập xã mới Phú Tân. Ngày 26/12/1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện Mỹ Tú thuộc tỉnh Sóc Trăng, bao gồm thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và 15 xã: Hồ Đắc Kiện, Phú Tâm, Thuận Hoà, Long Hưng, Phú Tân, Thiện Mỹ, Hưng Phú, Mỹ Hương, An Hiệp, Mỹ Tú, An Ninh, Mỹ Phước, Thận Hưng, Mỹ Thuận, Phú Mỹ. Từ năm 2009, thực hiện chia tách địa giới hành chính, tái lập huyện Châu Thành. Tổng diện tích tự đất nhiên của huyện Mỹ Tú còn lại 36.815,56 ha (trong đó đất nông nghiệp 33.544,01 ha chiếm 91,11%. Là huyện thuộc vùng nông thôn, vùng căn cứ kháng chiến cũ của Tỉnh ủy Sóc Trăng, có vị trí địa lý như sau : – Phía Đông giáp Thành phố Sóc Trăng và huyện Châu Thành. – Phía Tây giáp huyện Thạnh Trị, Ngã Năm và huyện Long Mỹ. – Phía Nam giáp huyện Mỹ Xuyên và huyện Thạnh Trị. – Phía Bắc giáp huyện Châu Thành và huyện Phụng Hiệp. Về tổ chức hành chính: Toàn huyện có 08 xã và 01 thị trấn, gồm 83 ấp. Trong đó có 05 xã khu vực III (Phú Mỹ, Thuận Hưng, Mỹ Thuận, Mỹ Phước, Mỹ Tú) và 30 ấp đặc biệt khó khăn.
Giới thiệu khái quát huyện Mỹ Xuyên Vị trí địa lý: huyện Mỹ Xuyên nằm gần Trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Sóc Trăng , Phía bắc giáp thành phố Sóc Trăng và huyện Mỹ Tú, phía nam giáp thị xã Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu . Phía Đông giáp huyện Trần Đề, phía Tây giáp huyện Thạnh Trị. Thông tin sơ lược: – Diện tích: 37.095,15 ha diện tích tự nhiên – Dân số: 156.370 nhân khẩu Huyện bao gồm 10 xã và 01 thị trấn: thị trấn Mỹ Xuyên và các xã Đại Tâm, Thạnh Phú, Thạnh Quới, Tham Đôn, Hòa Tú 1, Hòa Tú 2, Gia Hòa 1, Gia Hòa 2, Ngọc Tố và Ngọc Đông. Huyện Mỹ Xuyên có nhiều dân tộc sống hòa đồng với nhau gồm có dân tộc Kinh 10.211 người, chiếm 65,36% dân số; dân tộc Khmer 51.807 người chiếm 33,13% dân số; dân tộc Hoa 4.336 người, chiếm 2,77% dân số; dân tộc khác 16 người. Mật độ dân số 421 người/km2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG THAY ĐỔI ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH QUA CÁC THỜI KỲ Năm 1830, thị trấn Mỹ Xuyên là thôn Hòa Mỹ, tổng Định Khánh thuộc huyện Mỹ Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm 1835, huyện Mỹ Xuyên thuộc địa phận huyện Phong Nhiêu, phủ Ba Xuyên. Năm 1868, Mỹ Xuyên gồm một số thôn của 3 tổng: Thạnh Hòa, Nhiêu Phú, Nhiêu Mỹ huyện Phong Nhiêu. Năm 1876, địa phận Mỹ Xuyên nằm ở 4 tổng Định Chí, Thạnh An, Nhiêu Hòa, Nhiêu Phú hạt Sóc Trăng. Tổng Định Chí có 1 thôn thuộc huyện Mỹ Xuyên là Mỹ Xuyên. Tổng Thạnh An có 5 thôn thuộc huyện Mỹ Xuyên là Khánh Hội, Gia Hòa, Nhu Gia, Lịch Trà, Đào Viên Tây. Tổng Nhiêu Hòa có 5 thôn thuộc huyện Mỹ Xuyên là Tham Đôn, Cần Giờ, Trà Tâm, Châu Tâm, Tài Sum. Tổng Nhiêu Phú có 3 thôn thuộc huyện Mỹ Xuyên Lâm Gia, Sô La, Tầm Lấc.Năm 1917, Mỹ Xuyên có các thôn Cần Giờ, Châu Tâm, Tài /Sum, Tham Đôn, Trà Tâm thuộc tổng Nhiêu Hòa; các thôn Sô La, Lâm Gia, Tầm Lấc thuộc tổng Nhiêu Phú và các thôn Khánh Hội, Giao Hòa, Đào Viên Tây, Nhu Gia, Lịch Trà, Phú Giao thuộc quận Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Ngày 7/3/1947 quận Hành chính Bãi Xàu được thành lập. Từ ngày 01/01/1950, bãi bỏ quận Bãi Xàu. Tháng 4/1957, Mỹ Xuyên gồm 5 xã Phong Hòa, Phước Tâm, Mỹ Xuyên, Đại Tâm, Tham Đôn thuộc quận Châu Thành, tỉnh Ba Xuyên. Tháng 12/1957, Mỹ Xuyên có 2 xã Mỹ Xuyên và Phong Hòa tổng Nhiêu Khánh và 4 xã Đại Tâm (Hòa Tâm + Tài Sum củ), Tham Đôn, Thạnh Phú, Hòa Tú của tổng Nhiêu Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Ba Xuyên. Tháng 01/1958, quận Mỹ Xuyên gồm các xã Mỹ Xuyên, Đại Tâm, Tham Đôn, Thạnh Phú, Hòa Tú, Gia Hòa (quận Châu Thành cũ). Ngày 27/8/1962, quận lỵ Mỹ Xuyên được dời về Bãi Xàu. Quận lỵ Bãi Xàu gọi là Trang Kinh. Ngày 11/7/1968, quận Hòa Tú được thành lập, quận lỵ đặt tại xã Hòa Tú. Quận Mỹ Tú gồm 2 xã Hòa Tú trước thuộc tổng Nhiêu Hòa quận Mỹ Xuyên và xã Gia Hòa trước thuộc tổng Thạnh An, quận Thạnh Trị và sáp nhập thêm 5 ấp Nàng Rền, Thị Yêu, Vàm Lẻo, Gia Hội, Năm Căn của xã Hưng Hội, tổng Thạnh Hòa, quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Ngày 10/2/1969, 12 ấp thuộc xã Thạnh Phú, quận Mỹ Xuyên sáp nhập còn 10 ấp: Rạch Rê, Trà Tép sáp nhập thành ấp Rạch Rê, Sóc Bưng, Ca Ba Chuôi sáp nhập thành ấp Sóc Bưng và các ấp giữ nguyên: Nhu Gia, Cần Đước, Rạch Sên, Trà Mẹt, Bưng Chụm, Đáy Ba, Nhà Thờ, Trà Uốt. Ngày 17/4/1969, sáp nhập các ấp thuộc xã Thạnh Phú và xã Hòa Tú như sau: 10 ấp của xã Thạnh Phú sáp nhập cón 8 ấp: Bưng Chụm , Nhà Thờ, Trà Uốt thành Nhà Thờ và các ấp giữ nguyên: Nhu Gia, Cần Đước, Sóc Bưng, Rạch Sên, Trà Mẹt, Rạch Rê. 17 ấp của xã Hòa Tú sáp nhập còn 6 ấp: 5 ấp Hòa Đại, Hòa Quới, Huỳnh Hy, Ba Gia sáp nhập lại thành Hòa Đại; 7 ấp: Xóm Mới, Trà Thê, Tầm Lon, Ba Chùa, Lung Sen, Rạch Rò, Rạch Rừng sáp nhập lại thành Xóm Mới; các ấp giữ nguyên: Cổ Cò, Nhà Thờ A, Nhà Thờ B, Nhà Thờ C. Năm 1970, đất Mỹ Xuyên gồm các xã: Đại Tâm, Mỹ Xuyên, Tham Đôn, Thạnh Phú thuộc quận Mỹ Xuyên, tỉnh Ba Xuyên. Ngày 05/3/1973, tách ấp Nhà Thờ xã Thạnh Phú lập thành ấp Trà Uốt.Sau ngày giải phòng miền Nam năm 1975, Mỹ Xuyên là một huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng. Ngày 07/7/1982, địa giới một số xã của huyện Mỹ Xuyên được phân định lại: chia xã Thạnh Quới thành 2 xã: Thạnh Quới và Thạnh Hưng; xã Thạnh Phú chia thành 2 xã: Thạnh Phú và Thạnh Lộc; xã Đại Tâm chia thành 2 xã: Đại Tâm và Đại Chí; xã Tham Đôn chia thành 2 xã; Tham Đôn và Tham Đôn I; xã Tài Văn chia thành 2 xã: Tài Văn và Tài Chương; xã Gia Hòa chia thành 2 xã: Gia Hòa và Gia Hòa Đông; xã Ngọc Tố chia làm 3 xã Ngọc Tố, Ngọc Đông và Ngọc Anh; xã Viên An chia thành 3 xã: Viên An, Viên Bình, Viên Hòa; xã Hòa Tú chia thành 3 xã Hòa Tú, Hòa Phú, Hòa Đức; xã Thạnh Thới An chia thành 4 xã: Thạnh Thới An, Thạnh Thới Thuận, Thạnh Thới Hòa, Thạnh Thới Bình. Ngày 16/9/1989, tiến hành phân vạch địa giới hành chính một số xã, thị trấn của huyện Mỹ Xuyên. Huyện Mỹ Xuyên có 01 thị trấn và 15 xã: Thạnh Quới, Thạnh Phú, Đại Tâm, Tham Đôn, Tài Văn, xã Gia Hòa đổi tên thành xã Gia Hòa I, Gia Hòa Đông đổi thành Gia Hòa II, Viên An, Viên Bình, Ngọc Tố, Ngọc Đông, xã Hòa Tú đổi tên thành Hòa Tú I, xã Hòa Phú đổi tên thành xã Hòa Tú II. Ngày 30/10/1995, tách ấp Tâm Trung và một phần ấp Tâm Kiên sáp nhập vào thị xã Sóc Trăng để thành lập phường 10. Ngày 23/12/2009, Tách các xã Viên An, Viên Bình, Tài Văn, Thạnh Thới An, Thạnh Thới Thuận của huyện Mỹ Xuyên và một số xã của huyện Long Phú thành lập huyện Trần Đề. Hiện nay huyện Mỹ Xuyên có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm thị trấn Mỹ Xuyên, các xã Hòa Tú 1, Hòa Tú 2, Gia Hòa 1, Gia Hòa 2, Ngọc Tố, Ngọc Đông, Tham Đôn, Thạnh Phú, Thạnh Quới và Đại Tâm.
General introduction to My Xuyen district Geographical location: My Xuyen district is located near the provincial capital center Soc Trang province , The north borders Soc Trang city and My Tu district, the south borders Vinh Chau town and Vinh Loi district, Bac Lieu Province . The East borders Tran De district, the West borders Thanh Tri district. Brief information: – Area: 37,095.15 hectares of natural area – Population: 156,370 people The district includes 10 communes and 01 town: My Xuyen town and communes Dai Tam, Thanh Phu, Thanh Quoi, Tham Don, Hoa Tu 1, Hoa Tu 2, Gia Hoa 1, Gia Hoa 2, Ngoc To and Ngoc Dong . My Xuyen district has many ethnic groups living together in harmony, including 10,211 Kinh people, accounting for 65.36% of the population; Khmer ethnic group is 51,807 people, accounting for 33.13% of the population; Chinese ethnic group 4,336 people, accounting for 2.77% of the population; Other ethnic groups 16 people. Population density is 421 people/km2. HISTORY OF FORMATION AND CHANGES IN ADMINISTRATIVE BOUNDARIES THROUGH PERIOD In 1830, My Xuyen town was Hoa My village, Dinh Khanh district, My Dinh district, Tan Thanh district, An Giang province. In 1835, My Xuyen district belonged to Phong Nhieu district, Ba Xuyen district. In 1868, My Xuyen included a number of villages of 3 cantons: Thanh Hoa, Nhieu Phu, Nhieu My, Phong Nhieu district. In 1876, My Xuyen territory was located in 4 cantons of Dinh Chi, Thanh An, Nhieu Hoa, and Nhieu Phu, Soc Trang county. Dinh Chi district has a village in My Xuyen district, My Xuyen. Thanh An district has 5 villages in My Xuyen district: Khanh Hoi, Gia Hoa, Nhu Gia, Lich Tra, and Dao Vien Tay. Nhieu Hoa total has 5 villages in My Xuyen district: Tham Don, Can Gio, Tra Tam, Chau Tam, Tai Sum. Nhieu Phu district has 3 villages in My Xuyen district, Lam Gia, So La, Tam Lac. In 1917, My Xuyen had Can Gio, Chau Tam, Tai/Sum, Tham Don, Tra Tam villages in Nhieu Hoa district; So La, Lam Gia, Tam Lac villages belong to Nhieu Phu district and Khanh Hoi, Giao Hoa, Dao Vien Tay, Nhu Gia, Lich Tra, Phu Giao villages belong to Chau Thanh district, Soc Trang province. On March 7, 1947, Bai Xau Administrative District was established. From January 1, 1950, Bai Xau district was abolished. In April 1957, My Xuyen included 5 communes of Phong Hoa, Phuoc Tam, My Xuyen, Dai Tam, Tham Don in Chau Thanh district, Ba Xuyen province. In December 1957, My Xuyen had 2 communes: My Xuyen and Phong Hoa, Nhieu Hoa canton, and 4 communes: Dai Tam (Hoa Tam + Tai Sum), Tham Don, Thanh Phu, Hoa Tu of Nhieu Hoa canton, Chau Thanh district, province. Ba Xuyen. In January 1958, My Xuyen district included the communes of My Xuyen, Dai Tam, Tham Don, Thanh Phu, Hoa Tu, Gia Hoa (former Chau Thanh district). On August 27, 1962, My Xuyen district capital was moved to Bai Xau. The district capital of Bai Xau is called Trang Kinh. On July 11, 1968, Hoa Tu district was established, the district capital was located in Hoa Tu commune. My Tu district includes 2 communes Hoa Tu, formerly belonging to Nhieu Hoa canton, My Xuyen district and Gia Hoa commune, formerly belonging to Thanh An canton, Thanh Tri district and annexed 5 more hamlets of Nang Ren, Thi Yeu, Vam Leo, Gia Hoi, Nam Can of Hung Hoi commune, Thanh Hoa canton, Vinh Loi district, Bac Lieu province. On February 10, 1969, 12 hamlets in Thanh Phu commune, My Xuyen district merged to 10 hamlets: Rach Re, Tra Tep merged into Rach Re hamlet, Soc Bung, Ca Ba Chuoi merged into Soc Bung hamlet and other hamlets. keep the same: Nhu Gia, Can Duoc, Rach Sen, Tra Mot, Bung Chum, Day Ba, Nha Nhac, Tra Uot. On April 17, 1969, the hamlets of Thanh Phu commune and Hoa Tu commune were merged as follows: 10 hamlets of Thanh Phu commune merged with 8 hamlets: Bung Chum, Nha Tho, Tra Uot into Nha Tho and the hamlets remained intact. : Nhu Gia, Can Duoc, Soc Bung, Rach Sen, Tra Mat, Rach Re. 17 hamlets of Hoa Tu commune merged to 6 hamlets: 5 hamlets of Hoa Dai, Hoa Quoi, Huynh Hy, Ba Gia merged to form Hoa Dai; 7 hamlets: Xom Moi, Tra The, Tam Lon, Ba Chua, Lung Sen, Rach Ro, Rach Rung merged to form Xom Moi; The hamlets remain the same: Co Co, Church A, Church B, Church C. In 1970, My Xuyen land included communes: Dai Tam, My Xuyen, Tham Don, Thanh Phu in My Xuyen district, Ba Xuyen province. On March 5, 1973, Nha Tho hamlet, Thanh Phu commune, was separated to form Tra Uot hamlet. After the liberation of the South in 1975, My Xuyen was a district of Soc Trang province. On July 7, 1982, the boundaries of some communes of My Xuyen district were re-demarcated: Thanh Quoi commune was divided into 2 communes: Thanh Quoi and Thanh Hung; Thanh Phu commune is divided into 2 communes: Thanh Phu and Thanh Loc; Dai Tam commune is divided into 2 communes: Dai Tam and Dai Chi; Tham Don commune is divided into 2 communes; Tham Don and Tham Don I; Tai Van commune is divided into 2 communes: Tai Van and Tai Chuong; Gia Hoa commune is divided into 2 communes: Gia Hoa and Gia Hoa Dong; Ngoc To commune is divided into 3 communes: Ngoc To, Ngoc Dong and Ngoc Anh; Vien An commune is divided into 3 communes: Vien An, Vien Binh, Vien Hoa; Hoa Tu commune is divided into 3 communes: Hoa Tu, Hoa Phu, Hoa Duc; Thanh Thoi An commune is divided into 4 communes: Thanh Thoi An, Thanh Thoi Thuan, Thanh Thoi Hoa, Thanh Thoi Binh. On September 16, 1989, administrative boundaries of some communes and towns of My Xuyen district were delineated. My Xuyen district has 01 town and 15 communes: Thanh Quoi, Thanh Phu, Dai Tam, Tham Don, Tai Van, Gia Hoa commune was renamed Gia Hoa I commune, Gia Hoa Dong was renamed Gia Hoa II, Vien An, Vien Binh, Ngoc To, Ngoc Dong, Hoa Tu commune changed its name to Hoa Tu I, Hoa Phu commune changed its name to Hoa Tu II commune. On October 30, 1995, Tam Trung hamlet was separated and part of Tam Kien hamlet merged into Soc Trang town to form Ward 10. On December 23, 2009, Vien An, Vien Binh, Tai Van, Thanh communes were separated. Thoi An, Thanh Thoi Thuan of My Xuyen district and some communes of Long Phu district established Tran De district. Currently, My Xuyen district has 11 affiliated administrative units including My Xuyen town, communes Hoa Tu 1, Hoa Tu 2, Gia Hoa 1, Gia Hoa 2, Ngoc To, Ngoc Dong, Tham Don, Thanh Phu, Thanh Quoi and Dai Tam.
Giới thiệu khái quát huyện Long Phú Huyện Long Phú có diện tích tự nhiên là 26.382 ha, dân số toàn huyện là 113.090 nhân khẩu, mật độ dân số 429 người /km 2 , là phần diện tích còn lại sau khi chia tách (42% diện tích, 41% dân số) gồm các xã Lịch Hội Thượng, Trung Bình, Liêu Tú và Đại Ân 2 để thành lập huyện Trần Đề theo Nghị quyết số 64/NQ-CP ngày 23/12/2009 của Chính phủ. Toàn huyện có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm: 02 thị trấn: Long Phú, Đại Ngãi và 09 xã: Long Phú, Tân Thạnh, Trường Khánh, Hậu Thạnh, Song Phụng, Long Đức, Châu Khánh và Phú Hữu. Lịch sử hình thành tỉnh Sóc Trăng Sóc Trăng là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong vùng hạ lưu sông Hậu, trên trục lộ giao thông thủy bộ nối liền thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam bộ. Có bờ biển dài 72 km và 03 cửa sông lớn Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông. Địa lý hành chính của Sóc Trăng nhiều lần thay đổi theo sự biến thiên của lịch sử. Vào năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng trong (Nam bộ) và tiến hành xác lập địa giới hành chính vùng đất này, lập thành phủ Gia Định. Lấy đất Đồng Nai (Nông Nại) làm huyện Phước Long và đặt dinh Trấn Biên, lưu mộ dân từ Quảng Bình trở vào đến ở, chia đặt thôn, ấp. Năm 1732, chúa Nguyễn lập dinh Long Hồ tại Cái Bè (lúc đó là Cái Bè Dinh), năm 1780 được đặt tại vùng chợ Vĩnh Long và đổi tên là Vĩnh Trấn Dinh, sau đó đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Lúc này Sóc Trăng thuộc vùng Ba Thắc (nằm trong trấn Vĩnh Thanh, phủ Gia Định). Năm 1832, vua Minh Mạng chia Nam kỳ thành 06 tỉnh, 03 tỉnh miền Đông là: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường; 03 tỉnh miền Tây gồm: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Vùng đất Sóc Trăng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Năm 1835 lại lấy đất Ba Thắc (tức vùng đất Sóc Trăng) nhập vào tỉnh An Giang, lập thêm phủ Ba Xuyên, gồm 03 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Đây là điểm mốc có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng về địa danh hành chính tỉnh Sóc Trăng sau này.
General introduction of Long Phu district Long Phu district has a natural area of ​​26,382 hectares, the district's population is 113,090 people, and the population density is 429 people/km2. 2 , is the remaining area after division (42% of area, 41% of population) including Lich Hoi Thuong, Trung Binh, Lieu Tu and Dai An 2 communes to establish Tran De district according to Resolution Không. 64/ NQ-CP dated December 23, 2009 of the Government. The whole district has 11 affiliated administrative units including: 02 towns: Long Phu, Dai Ngai and 09 communes: Long Phu, Tan Thanh, Truong Khanh, Hau Thanh, Song Phung, Long Duc, Chau Khanh and Phu Huu. History of formation of Soc Trang province Soc Trang is a province in the Mekong Delta region, located in the lower Hau River region, on the waterway transport route connecting Ho Chi Minh City with the southwestern provinces. It has a 72 km long coastline and three large river mouths, Dinh An, Tran De, and My Thanh, flowing into the East Sea. The administrative geography of Soc Trang has changed many times according to historical changes. In the year of Mau Dan 1698, Lord Nguyen sent Attorney General Nguyen Huu Canh to invade Dang Trong (Southern region) and establish the administrative boundaries of this land, establishing Gia Dinh government. Taking Dong Nai land (Nong Nai) as Phuoc Long district and placing Tran Bien palace, recruiting people from Quang Binh back to live, dividing and establishing villages and hamlets. In 1732, Lord Nguyen established Long Ho palace in Cai Be (then called Cai Be Dinh), in 1780 it was located in Vinh Long market area and renamed Vinh Tran Dinh, then changed to Vinh Thanh town. At this time, Soc Trang belonged to Ba Thac region (located in Vinh Thanh town, Gia Dinh district). In 1832, King Minh Mang divided the South into 6 provinces, 3 Eastern provinces were: Gia Dinh, Bien Hoa, Dinh Tuong; 03 Western provinces include: Vinh Long, An Giang, Ha Tien. Soc Trang land belongs to Vinh Long province. In 1835, Ba Thac land (ie Soc Trang land) was taken and merged into An Giang province, establishing Ba Xuyen district, including 3 districts: Phong Nhieu, Phong Thanh and Vinh Dinh. This is a landmark with very important historical significance for the future administrative location of Soc Trang province.
Giới thiệu khái quát thị xã Vĩnh Châu Thị xã Vĩnh Châu là một trong những thị xã ven biển của tỉnh Sóc Trăng . Phía Đông và Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Bạc Liêu , phía Bắc giáp huyện Mỹ Xuyên và Trần Đề; là một thị xã nằm ven biển có 43km chiều dài bờ biển; tổng diện tích tự nhiên 473,13 km2, dân số có 165.687 người, mật độ dân số 350 người/km2 gồm các dân tộc: Kinh chiếm 29,29%, Khmer chiếm 52,80%, Hoa chiếm 17,90% và dân tộc khác chiếm 0,01% (số liệu Niên giám thống kê năm 2014). Đơn vị hành chính có 04 phường và 06 xã, gồm: Phường 1, phường 2, phường Vĩnh Phước, phường Khánh Hòa, xã Lai Hòa, xã Vĩnh Tân, xã Vĩnh Hiệp, xã Hòa Đông, xã Lạc Hòa, xã Vĩnh Hải với 97 ấp, khóm. Với vị trí địa lý thuận lợi về hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ thông suốt đã tạo điều kiện cho việc giao lưu và phát triển nền kinh tế ven biển và là vị trí chiến lượt hết sức quan trọng trong bảo vệ quốc phòng-an ninh của tỉnh. Đây là điều kiện cho Vĩnh Châu phát triển tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, thuỷ hải sản và du lịch; là tiền đề hình thành các vùng sinh thái trọng điểm, với khí hậu đặc thù phát triển mạnh các nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản và các vùng phát triển nông nghiệp đặc thù nổi tiếng như : tôm sú, cá kèo, nghêu, artemia, muối, củ cải trắng, củ hành tím, tỏi … Hệ thống sông ngòi, kênh rạch tương đối chằng chịt. Sông Mỹ Thanh là tuyến đường thủy quan trọng nối liền từ cửa biển Mỹ Thanh qua sông Vàm Lẽo đến trung tâm tỉnh Bạc Liêu. Hệ thống giao thông đường bộ tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu là đầu mối giao thông quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giao lưu hàng hóa, dịch vụ nối kết với vùng kinh tế phát triển ven sông Hậu và tuyến đường Tỉnh 935 (đi Sóc Trăng) đã tạo điều kiện phát triển tiềm năng, lợi thế trong việc thúc đẩy nền kinh tế giữa các vùng trong khu vực, hình thành tam giác kinh tế động lực của tỉnh Sóc Trăng. Đặc trưng văn hóa cộng đồng Vĩnh Châu là người Kinh, Khmer, Hoa sống đan xen lẫn nhau và có truyền thống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Trong tương lai, thị xã Vĩnh Châu sẽ phát triển mạnh toàn diện về mọi mặt kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh, xứng đáng là một đô thị văn minh, hiện đại có tầm cỡ trong vùng và khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Điều kiện tự nhiên Lĩnh vực nông nghiệp là kinh tế mũi nhọn (chiếm tỷ trọng 72%), công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (chiếm 11%), thương mại và dịch vụ (chiếm 17%). Với vị trí đắc địa ở vùng cửa sông giáp biển nên Vĩnh Châu có lợi thế mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, nổi bật là tôm sú, Artemia, cá kèo … kế đến là trồng hoa màu trên vùng đất cát pha, đất giồng ven biển với sản phẩm nổi tiếng là hành tím, củ cải, tỏi …là nguồn hàng chủ lực tiêu thụ mạnh trong cả nước và xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên thế giới. Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng của thị xã Vĩnh Châu mới phát triển, trọng điểm là công nghiệp chế biến nông, thủy sản và phục vụ sản xuất nông nghiệp. Thị xã đang tiếp tục xúc tiến thực hiện các dự án phát triển công nghiệp ở khu vực vùng ven Phường 1 và khu vực cầu Mỹ Thanh 2 (xã Vĩnh Hải). Ngành nghề tiểu thủ công trước hết là nghề dệt chiếu truyền thống của đồng bào Khmer ở Cà Săng, Soài Côn (Phường 2), Tầng Dù ( xã Lạc Hòa), một số địa phương còn giữ được nghề đan lát, thủ công mỹ nghệ hết sức phong phú. Chế biến nông thủy sản phải kể đến mặt hàng Xá bấu mặn (củ cải muối), Xá bấu ngọt, các loại tôm, cá khô, khô cá mặn đặc trưng của miền biển Vĩnh Châu. Tuyến bờ biển dài và Quốc lộ Nam Sông Hậu đi ngang qua, trục Tỉnh lộ 935 và 940 đi từ trung tâm thành phố Sóc Trăng về thị xã khá thuận lợi cùng với tốc độ phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng giao thông đã mở ra cho Vĩnh Châu những tiềm năng mới để phát triển về thương mại, dịch vụ, du lịch. Sinh cảnh nổi bật ở Vĩnh Châu là có rất nhiều chùa chiền của đồng bào Khmer phân bố đều khắp các tuyến giồng cát với 51 cơ sở thờ tự, 21 chùa Khmer và 17 miếu thờ tự của người Hoa, trong số đó có 3 cơ sở được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa. Ngoài ra thị xã còn có nhiều di tích lịch sử trong công cuộc kháng chiến của Đảng bộ và nhân dân như di tích Đồng khởi Trà Teo, di tích Giầy Lăng (xã Hòa Đông), Chiến thắng Xẻo Me (Phường Vĩnh Phước) … Cũng như truyền thống của người Khmer Nam bộ, Vĩnh Châu có rất nhiều lễ hội truyền thống trong năm mà phần lớn đều gắn với lễ nghi tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng đồng bào Khmer như lễ hội Ooc Oom Boc, Chôl Chnăm Thơ mây, lễ dâng y Cà Sa… Đặc biệt ở Vĩnh Châu có lễ hội cúng phước biển giàu tính nhân văn được tổ chức hàng năm, thu hút khoảng 15.000 lượt người đến tham dự. Du lịch sinh thái gắn với sinh hoạt cộng đồng cũng là một tiềm năng mới mẻ ở Vĩnh Châu, Khu du lịch sinh cảnh biển đang được đầu tư tại khu vực bãi biển Hồ Bể (xã Vĩnh Hải) nằm trên tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu, rừng sinh thái ngập mặn ven biển trải dài trên 40 km có nhiều cảnh quan và nguồn lợi thủy sản tự nhiên phong phú; du lịch sinh hoạt cộng đồng với tuyến đường lộ Giồng Nhãn có những vườn nhãn cổ thụ hàng trăm năm tuổi, đi vào cộng đồng nông thôn có rất nhiều loại hình sinh hoạt theo tập quán địa phương hết sức hấp dẫn, ngoài việc tham quan, tìm hiểu nét riêng của cư dân địa phương, mọi người sẽ được thâm nhập vào đời sống, công việc lao động thường nhật của nông dân trồng hành tím, nghề nuôi tôm, học cách chế biến thủy sản, cũng như tự nấu những món ăn ngon rất đặc thù của người dân địa phương. Năm 1835, vùng đất Ba Thắc được nhập vào tỉnh An Giang, lập thêm phủ Ba Xuyên gồm 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Vùng đất Vĩnh Châu thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, Tỉnh An Giang. Năm 1867, thực dân Pháp chiếm xong 3 tỉnh Miền Tây, sau đó chia Nam kỳ lục tỉnh thành nhiều Hạt. Đến năm 1876 chia Nam kỳ thành 4 khu vực hành chánh gồm Sài gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Ba Thắc, mỗi khu vực chia thành nhiều tiểu Khu. Khu hành chính Ba Thắc có 6 tiểu khu: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn (Cần Thơ) và Sóc Trăng, vùng đất Vĩnh Châu thuộc tiểu khu Sóc Trăng. Năm 1882, Pháp tách 2 Tổng thành tiểu khu Sóc Trăng và 3 Tổng của tiểu khu Rạch Giá, thành lập thêm tiểu khu Bạc Liêu. Lúc này vùng đất Vĩnh Châu thuộc tiểu khu Bạc Liêu. Ngày 20 -12-1899, toàn quyền Đông Dương ra nghị định kể từ ngày 01-01- 1900 tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương điều thống nhất gọi là “Tỉnh”. Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu và nằm trong vùng đất của quận Vĩnh Lợi. Năm 1904 quận Vĩnh Châu được thành lập (tách ra từ phần đất của quận Vĩnh Lợi) có một tổng (tổng Thạnh Hưng) với 5 Làng: Vĩnh Châu, Vĩnh Phước, Lai Hòa, Lạc Hòa, Khánh Hòa. Tháng 10 – 1956, Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh phân định lại địa giới hành chính các tỉnh Miền Nam và thay đổi một số địa danh các tỉnh, lấy các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và tỉnh lỵ Bạc Liêu nhập vào tỉnh Sóc Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Năm 1957, ngụy quyền Sài Gòn giải thể quận Vĩnh Châu. Năm 1960 quận Vĩnh Châu được tái lập trực thuộc tỉnh Ba Xuyên. Ngày 1-10-1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu gồm 4 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long. Quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu đến ngày 30-4-1975. Ngày 21-2-1976, theo nghị định 31/NĐ chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam quy định giải thể cấp khu, hợp nhất một số tỉnh Miền Nam Việt Nam, tỉnh Sóc Trăng hợp nhất với tỉnh Cần thơ và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang, huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 26 – 12- 1991, tại kỳ họp lần thứ X, Quốc hội khóa VIII đã ra nghị quyết về việc phân ranh địa giới hành chính một số tỉnh, chia tỉnh Hậu Giang thành 2 tỉnh Sóc Trăng và Cần Thơ, huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng. Ngày 25/8/2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP thành lập Thị xã Vĩnh Châu và các phường thuộc thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng với địa giới hành chính có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm : 4 phường (Phường 1, Phường 2, Phường Vĩnh Phước và Phường Khánh Hòa.) và 6 xã (Lai Hòa, Vĩnh Tân, Vĩnh Hiệp, Hòa Đông, Lạc Hòa và Vĩnh Hải).
Giới thiệu khái quát thị xã Vĩnh Châu Thị xã Vĩnh Châu là một trong những thị xã ven biển của tỉnh Sóc Trăng . Phía Đông và Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Bạc Liêu , phía Bắc giáp huyện Mỹ Xuyên và Trần Đề; là một thị xã nằm ven biển có 43km chiều dài bờ biển; tổng diện tích tự nhiên 473,13 km2, dân số có 165.687 người, mật độ dân số 350 người/km2 gồm các dân tộc: Kinh chiếm 29,29%, Khmer chiếm 52,80%, Hoa chiếm 17,90% và dân tộc khác chiếm 0,01% (số liệu Niên giám thống kê năm 2014). Đơn vị hành chính có 04 phường và 06 xã, gồm: Phường 1, phường 2, phường Vĩnh Phước, phường Khánh Hòa, xã Lai Hòa, xã Vĩnh Tân, xã Vĩnh Hiệp, xã Hòa Đông, xã Lạc Hòa, xã Vĩnh Hải với 97 ấp, khóm. Với vị trí địa lý thuận lợi về hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ thông suốt đã tạo điều kiện cho việc giao lưu và phát triển nền kinh tế ven biển và là vị trí chiến lượt hết sức quan trọng trong bảo vệ quốc phòng-an ninh của tỉnh. Đây là điều kiện cho Vĩnh Châu phát triển tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, thuỷ hải sản và du lịch; là tiền đề hình thành các vùng sinh thái trọng điểm, với khí hậu đặc thù phát triển mạnh các nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản và các vùng phát triển nông nghiệp đặc thù nổi tiếng như : tôm sú, cá kèo, nghêu, artemia, muối, củ cải trắng, củ hành tím, tỏi … Hệ thống sông ngòi, kênh rạch tương đối chằng chịt. Sông Mỹ Thanh là tuyến đường thủy quan trọng nối liền từ cửa biển Mỹ Thanh qua sông Vàm Lẽo đến trung tâm tỉnh Bạc Liêu. Hệ thống giao thông đường bộ tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu là đầu mối giao thông quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giao lưu hàng hóa, dịch vụ nối kết với vùng kinh tế phát triển ven sông Hậu và tuyến đường Tỉnh 935 (đi Sóc Trăng) đã tạo điều kiện phát triển tiềm năng, lợi thế trong việc thúc đẩy nền kinh tế giữa các vùng trong khu vực, hình thành tam giác kinh tế động lực của tỉnh Sóc Trăng. Đặc trưng văn hóa cộng đồng Vĩnh Châu là người Kinh, Khmer, Hoa sống đan xen lẫn nhau và có truyền thống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Trong tương lai, thị xã Vĩnh Châu sẽ phát triển mạnh toàn diện về mọi mặt kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh, xứng đáng là một đô thị văn minh, hiện đại có tầm cỡ trong vùng và khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Điều kiện tự nhiên Lĩnh vực nông nghiệp là kinh tế mũi nhọn (chiếm tỷ trọng 72%), công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (chiếm 11%), thương mại và dịch vụ (chiếm 17%). Với vị trí đắc địa ở vùng cửa sông giáp biển nên Vĩnh Châu có lợi thế mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, nổi bật là tôm sú, Artemia, cá kèo … kế đến là trồng hoa màu trên vùng đất cát pha, đất giồng ven biển với sản phẩm nổi tiếng là hành tím, củ cải, tỏi …là nguồn hàng chủ lực tiêu thụ mạnh trong cả nước và xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên thế giới. Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng của thị xã Vĩnh Châu mới phát triển, trọng điểm là công nghiệp chế biến nông, thủy sản và phục vụ sản xuất nông nghiệp. Thị xã đang tiếp tục xúc tiến thực hiện các dự án phát triển công nghiệp ở khu vực vùng ven Phường 1 và khu vực cầu Mỹ Thanh 2 (xã Vĩnh Hải). Ngành nghề tiểu thủ công trước hết là nghề dệt chiếu truyền thống của đồng bào Khmer ở Cà Săng, Soài Côn (Phường 2), Tầng Dù ( xã Lạc Hòa), một số địa phương còn giữ được nghề đan lát, thủ công mỹ nghệ hết sức phong phú. Chế biến nông thủy sản phải kể đến mặt hàng Xá bấu mặn (củ cải muối), Xá bấu ngọt, các loại tôm, cá khô, khô cá mặn đặc trưng của miền biển Vĩnh Châu. Tuyến bờ biển dài và Quốc lộ Nam Sông Hậu đi ngang qua, trục Tỉnh lộ 935 và 940 đi từ trung tâm thành phố Sóc Trăng về thị xã khá thuận lợi cùng với tốc độ phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng giao thông đã mở ra cho Vĩnh Châu những tiềm năng mới để phát triển về thương mại, dịch vụ, du lịch. Sinh cảnh nổi bật ở Vĩnh Châu là có rất nhiều chùa chiền của đồng bào Khmer phân bố đều khắp các tuyến giồng cát với 51 cơ sở thờ tự, 21 chùa Khmer và 17 miếu thờ tự của người Hoa, trong số đó có 3 cơ sở được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa. Ngoài ra thị xã còn có nhiều di tích lịch sử trong công cuộc kháng chiến của Đảng bộ và nhân dân như di tích Đồng khởi Trà Teo, di tích Giầy Lăng (xã Hòa Đông), Chiến thắng Xẻo Me (Phường Vĩnh Phước) … Cũng như truyền thống của người Khmer Nam bộ, Vĩnh Châu có rất nhiều lễ hội truyền thống trong năm mà phần lớn đều gắn với lễ nghi tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng đồng bào Khmer như lễ hội Ooc Oom Boc, Chôl Chnăm Thơ mây, lễ dâng y Cà Sa… Đặc biệt ở Vĩnh Châu có lễ hội cúng phước biển giàu tính nhân văn được tổ chức hàng năm, thu hút khoảng 15.000 lượt người đến tham dự. Du lịch sinh thái gắn với sinh hoạt cộng đồng cũng là một tiềm năng mới mẻ ở Vĩnh Châu, Khu du lịch sinh cảnh biển đang được đầu tư tại khu vực bãi biển Hồ Bể (xã Vĩnh Hải) nằm trên tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu, rừng sinh thái ngập mặn ven biển trải dài trên 40 km có nhiều cảnh quan và nguồn lợi thủy sản tự nhiên phong phú; du lịch sinh hoạt cộng đồng với tuyến đường lộ Giồng Nhãn có những vườn nhãn cổ thụ hàng trăm năm tuổi, đi vào cộng đồng nông thôn có rất nhiều loại hình sinh hoạt theo tập quán địa phương hết sức hấp dẫn, ngoài việc tham quan, tìm hiểu nét riêng của cư dân địa phương, mọi người sẽ được thâm nhập vào đời sống, công việc lao động thường nhật của nông dân trồng hành tím, nghề nuôi tôm, học cách chế biến thủy sản, cũng như tự nấu những món ăn ngon rất đặc thù của người dân địa phương. Năm 1835, vùng đất Ba Thắc được nhập vào tỉnh An Giang, lập thêm phủ Ba Xuyên gồm 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Vùng đất Vĩnh Châu thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, Tỉnh An Giang. Năm 1867, thực dân Pháp chiếm xong 3 tỉnh Miền Tây, sau đó chia Nam kỳ lục tỉnh thành nhiều Hạt. Đến năm 1876 chia Nam kỳ thành 4 khu vực hành chánh gồm Sài gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Ba Thắc, mỗi khu vực chia thành nhiều tiểu Khu. Khu hành chính Ba Thắc có 6 tiểu khu: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn (Cần Thơ) và Sóc Trăng, vùng đất Vĩnh Châu thuộc tiểu khu Sóc Trăng. Năm 1882, Pháp tách 2 Tổng thành tiểu khu Sóc Trăng và 3 Tổng của tiểu khu Rạch Giá, thành lập thêm tiểu khu Bạc Liêu. Lúc này vùng đất Vĩnh Châu thuộc tiểu khu Bạc Liêu. Ngày 20 -12-1899, toàn quyền Đông Dương ra nghị định kể từ ngày 01-01- 1900 tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương điều thống nhất gọi là “Tỉnh”. Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu và nằm trong vùng đất của quận Vĩnh Lợi. Năm 1904 quận Vĩnh Châu được thành lập (tách ra từ phần đất của quận Vĩnh Lợi) có một tổng (tổng Thạnh Hưng) với 5 Làng: Vĩnh Châu, Vĩnh Phước, Lai Hòa, Lạc Hòa, Khánh Hòa. Tháng 10 – 1956, Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh phân định lại địa giới hành chính các tỉnh Miền Nam và thay đổi một số địa danh các tỉnh, lấy các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và tỉnh lỵ Bạc Liêu nhập vào tỉnh Sóc Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Năm 1957, ngụy quyền Sài Gòn giải thể quận Vĩnh Châu. Năm 1960 quận Vĩnh Châu được tái lập trực thuộc tỉnh Ba Xuyên. Ngày 1-10-1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu gồm 4 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long. Quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu đến ngày 30-4-1975. Ngày 21-2-1976, theo nghị định 31/NĐ chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam quy định giải thể cấp khu, hợp nhất một số tỉnh Miền Nam Việt Nam, tỉnh Sóc Trăng hợp nhất với tỉnh Cần thơ và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang, huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 26 – 12- 1991, tại kỳ họp lần thứ X, Quốc hội khóa VIII đã ra nghị quyết về việc phân ranh địa giới hành chính một số tỉnh, chia tỉnh Hậu Giang thành 2 tỉnh Sóc Trăng và Cần Thơ, huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng. Ngày 25/8/2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP thành lập Thị xã Vĩnh Châu và các phường thuộc thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng với địa giới hành chính có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm : 4 phường (Phường 1, Phường 2, Phường Vĩnh Phước và Phường Khánh Hòa.) và 6 xã (Lai Hòa, Vĩnh Tân, Vĩnh Hiệp, Hòa Đông, Lạc Hòa và Vĩnh Hải).
Giới thiệu khái quát huyện Phù Yên Huyện Phù Yên nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Sơn La , nằm trên trục quốc lộ 37 và 43, cách Hà Nội 174 km, cách thành phố Sơn La 135 km. Phía tây giáp với huyện Bắc Yên , phía nam giáp với huyện Mộc Châu , phía đông nam giáp với huyện Đà Bắc (Hòa Bình), phía đông giáp huyện Thanh Sơn (Phú Thọ), phía đông bắc giáp với huyện Tân Sơn (Phú Thọ), phía bắc giáp với huyện Văn Chấn (Yên Bái). Trung tâm huyện Phù Yên là cánh đồng Mường Tấc (cánh đồng rộng thứ 4 ở Tây Bắc, với hơn 1.600 ha). Toàn huyện có 123.655 ha diện tích tự nhiên, trong đó có hơn 6.496 ha đất nông nghiệp; 59.493 ha đất lâm nghiệp; 40.497 ha đất chưa khai thác. Huyện Phù Yên có 27 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn là thị trấn Phù Yên và 26 đơn vị hành chính cấp xã là các xã: Tân Phong, Tường Phong, Tường Hạ, Tường Thượng, Tường Phù, Huy Tường, Huy Tân, Gia Phù, Huy Bắc, Tường Tiến, Quang Huy, Mường Cơi, Huy Thượng, Huy Hạ, Tân Lang, Nam Phong, Bắc Phong, Đá Đỏ, Sập Sa, Kim Bon, Suối Bau, Suối Tọ, Mường Thải, Mường Lang, Mường Do, Mường Bang. Trong đó có 11 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II của Chính phủ, là các xã: Nam Phong, Bắc Phong, Đá Đỏ, Sập Sa, Kim Bon, Suối Bau, Suối Tọ, Mường Thải, Mường Lang, Mường Do, Mường Bang. Dân số toàn huyện năm 2013 là 124.901 người… Những năm gần đây, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đã đề ra, mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng nền kinh tế của huyện Phù Yên vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, bình quân từ 14-15%/năm; kinh tế – xã hội có bước chuyển biến sâu sắc, phát triển đi lên, năng động và hiệu quả; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc. Chỉ tính riêng 3 năm trở lại đây, kinh tế của huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá, bình quân đạt 16%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm từ 39% xuống còn 33,5%, công nghiệp xây dựng tăng từ 25% lên 28%; thương mại dịch vụ tăng từ 36% lên 38,5%. Thu nhập bình quân đầu người đến hết năm 2013 ước trên 15 triệu đồng/người/năm. Sản xuất nông lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, diện tích cây lương thực năm 2013 đạt 21.633 ha, sản lượng ước đạt 77,54 nghìn tấn. Chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, tổng đàn đại gia súc đạt 107.000 con, đàn gia cầm 650.000 con, duy trì 600 đàn ong, 162 lồng bè cá. Quản lý bảo vệ tốt 51.934,80 ha rừng hiện còn, trồng mới 300 ha rừng. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình dự án đầu tư vào địa bàn. 5 năm gần đây, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 4.280 tỷ đồng;; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm, có điện thoại và điện lưới quốc gia. Đến nay, trên địa bàn huyện có 183 công trình thủy lợi, 2 hồ chứa, 68 công trình đập xây, 118 km kênh mương, đảm bảo tưới tiêu phuc vụ sản xuất; 26/26 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 293/303 bản có đường ô tô đến bản; hệ thống điện lưới, nước sinh hoạt đảm bảo phục vụ cho trên 89% dân số ở nông thôn được hưởng lợi. Thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư ổn định dân cư, phát triển kinh tế xã hội vùng di chuyển lòng hồ Sông Đà theo Quyết định 1382/QĐ-TTg; Quyết định 1460/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục rà soát, sắp xếp nơi ở, địa bàn sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, ổn định dân cư lâu dài cho 203 hộ dân tại các điểm tái định cư. Bốn tiểu vùng kinh tế của huyện (gồm vùng trọng điểm lúa; vùng Mường; vùng cao và vùng hồ sông Đà) tiếp tục được đầu tư hợp lý theo hướng khai thác và phát huy lợi thế, gắn với chiến lược lâu dài, bước đầu đã đạt kết quả tích cực. Văn hoá, giáo dục và đào tạo, y tế, thể dục thể thao, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo đều đạt được những thành tựu quan trọng, khá toàn diện. Duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục và 6 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia; 10 xã đạt chuẩn y tế Quốc gia. Các giá trị văn hoá được bảo tồn, phát triển; phong trào văn hoá, thể thao, xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư được duy trì, nâng lên. Đến nay, toàn huyện có 61% đơn vị được công nhận danh hiệu văn hóa; 66% gia đình văn hoá; 22% gia đình thể thao… Đào tạo nghề, dạy nghề ước 1,2 nghìn người/năm, giải quyết việc làm 2,5 nghìn người/năm; xoá nhà tạm 2.034 hộ; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 34,33% năm 2010 xuống còn 23,3% năm 2013. Thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng chính sách xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống ma tuý được triển khai hiệu quả, toàn huyện có 92 đơn vị đạt và cơ bản đạt “4 không” về ma túy. Quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được duy trì, thế trận quốc phòng an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng có bước tiến bộ rõ rệt trên các mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng có sự chuyển biến tích cực. Hàng năm có trên 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, trên 99% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện các nhiệm vụ cấp bách giai đoạn 2010-2015 mà trọng tâm là lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển kinh tế – xã hội của huyện tầm nhìn đến năm 2020. Đến nay, huyện đã tập trung làm tốt quy hoạch phát triển sản xuất hàng hóa tập trung như: lúa, tỏi chất lượng cao gắn với thương hiệu Phù Yên tại vùng trọng điểm lúa; quy hoạch phát triển cây chè cổ thụ, cây ăn quả có múi đặc sản tại các xã vùng Mường; phát triển nguồn lợi thủy sản tại các xã vùng hồ sông Đà và các hồ thủy lợi; quy hoạch phát triển khu dân cư gắn với quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn bản sắc dân tộc… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn bộ lộ những khó khăn, thách thức, cần được quan tâm tháo gỡ trong thời gian tới, nhất là sản xuất nông nghiệp chưa bền vững; trình độ dân trí không đồng đều; giao thông đi lại tại các xã vùng cao còn nhiều khó khăn, nhất là mùa mưa; các tai tệ nạn xã hội còn tiềm ẩn diễn biến phức tạp; công tác sắp xếp, ổn định đời sống dân cư vùng di dân thủy điện Hoà Bình còn nhiều vấn đề mới phát sinh… Để sớm đưa huyện Phù Yên thoát nghèo và từng bước vươn lên trở thành huyện phát triển khá trong tỉnh, huyện vẫn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và đã lựa chọn 3 khâu đột phá đó là: phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tập trung mọi nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đô thị với phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong đó, tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; thâm canh tăng vụ, phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, các mô hình kinh tế trang trại, vườn đồi; đưa giống lúa chất lượng cao vào thâm canh trên cánh đồng Mường Tấc; xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hàng hoá như gạo Mường Tấc, tỏi Gia Phù, cam Mường Thải, quýt Mường Cơi, chè cổ thụ Mường Do. Khuyến khích nhân dân, nhân là các xã vùng cao phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng tập trung; tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng, đưa kinh tế rừng trở thành kinh tế mũi nhọn gắn với du lịch sinh thái; ưu tiên phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tập trung hình thành các cụm công nghiệp Gia Phù, Quang Huy; tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khu công nghiệp giầy da; thu hút các nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới. Đối với khu vực thị trấn và thị tứ, tiếp tục đầu tư nâng cấp, xây dựng khu đô thị mới gắn liền với việc mở rộng thị trấn và thị tứ Mường Cơi và Gia Phù. Đặc biệt các khu đô thị mới chú trọng xây dựng khu vui chơi giải trí, phúc lợi công cộng, trong đó nâng cao chất lượng hoạt động tại các điểm vui chơi giải trí Hồ Noong Bua, công viên 2-9, công viên xí nghiệp giầy… Thời gian tới huyện Phù Yên tiếp tục tăng cường sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phấn đấu cơ cấu kinh tế chuyển mạnh theo hướng hàng hóa, mức tăng trưởng kinh tế bình quân đến 2015 đạt 15-16% năm; thu nhập bình quân đến 20 triệu đồng/người/năm. Tổng sản lượng lương thực có hạt trên 70.000 tấn/năm; tổng đàn gia súc 110.000 con, gia cầm 700.000 con. Tỷ lệ che phủ rừng năm đến 2015 đạt 45%.. Thu ngân sách địa phương trên 60 tỷ đồng; dự kiến tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 21%; có 10 trường, 15 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; 90% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, nước sinh hoạt và được xem truyền hình; 98% hộ gia đình, 100% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa; 100% bản, tiểu khu có đội văn nghệ, câu lạc bộ thể thao, 80% số bản có nhà văn hóa; Đồng thời, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Với bề dày truyền thống hơn 60 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, sự đoàn kết nỗ lực của nhân dân, trên cơ sở những định hướng phát triển đúng đắn, phù hợp được nhân dân đồng tình ủng hộ, cùng những giải pháp cụ thể, sát thực tiễn, huyện Phù Yên đã và sẽ làm phấn đấu đưa huyện Phù Yên sớm thoát nghèo và vươn lên, trở thành huyện phát triển khá của tỉnh./.
Giới thiệu khái quát huyện Phù Yên Huyện Phù Yên nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Sơn La , nằm trên trục quốc lộ 37 và 43, cách Hà Nội 174 km, cách thành phố Sơn La 135 km. Phía tây giáp với huyện Bắc Yên , phía nam giáp với huyện Mộc Châu , phía đông nam giáp với huyện Đà Bắc (Hòa Bình), phía đông giáp huyện Thanh Sơn (Phú Thọ), phía đông bắc giáp với huyện Tân Sơn (Phú Thọ), phía bắc giáp với huyện Văn Chấn (Yên Bái). Trung tâm huyện Phù Yên là cánh đồng Mường Tấc (cánh đồng rộng thứ 4 ở Tây Bắc, với hơn 1.600 ha). Toàn huyện có 123.655 ha diện tích tự nhiên, trong đó có hơn 6.496 ha đất nông nghiệp; 59.493 ha đất lâm nghiệp; 40.497 ha đất chưa khai thác. Huyện Phù Yên có 27 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn là thị trấn Phù Yên và 26 đơn vị hành chính cấp xã là các xã: Tân Phong, Tường Phong, Tường Hạ, Tường Thượng, Tường Phù, Huy Tường, Huy Tân, Gia Phù, Huy Bắc, Tường Tiến, Quang Huy, Mường Cơi, Huy Thượng, Huy Hạ, Tân Lang, Nam Phong, Bắc Phong, Đá Đỏ, Sập Sa, Kim Bon, Suối Bau, Suối Tọ, Mường Thải, Mường Lang, Mường Do, Mường Bang. Trong đó có 11 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II của Chính phủ, là các xã: Nam Phong, Bắc Phong, Đá Đỏ, Sập Sa, Kim Bon, Suối Bau, Suối Tọ, Mường Thải, Mường Lang, Mường Do, Mường Bang. Dân số toàn huyện năm 2013 là 124.901 người… Những năm gần đây, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đã đề ra, mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng nền kinh tế của huyện Phù Yên vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, bình quân từ 14-15%/năm; kinh tế – xã hội có bước chuyển biến sâu sắc, phát triển đi lên, năng động và hiệu quả; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc. Chỉ tính riêng 3 năm trở lại đây, kinh tế của huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá, bình quân đạt 16%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm từ 39% xuống còn 33,5%, công nghiệp xây dựng tăng từ 25% lên 28%; thương mại dịch vụ tăng từ 36% lên 38,5%. Thu nhập bình quân đầu người đến hết năm 2013 ước trên 15 triệu đồng/người/năm. Sản xuất nông lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, diện tích cây lương thực năm 2013 đạt 21.633 ha, sản lượng ước đạt 77,54 nghìn tấn. Chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, tổng đàn đại gia súc đạt 107.000 con, đàn gia cầm 650.000 con, duy trì 600 đàn ong, 162 lồng bè cá. Quản lý bảo vệ tốt 51.934,80 ha rừng hiện còn, trồng mới 300 ha rừng. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình dự án đầu tư vào địa bàn. 5 năm gần đây, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 4.280 tỷ đồng;; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm, có điện thoại và điện lưới quốc gia. Đến nay, trên địa bàn huyện có 183 công trình thủy lợi, 2 hồ chứa, 68 công trình đập xây, 118 km kênh mương, đảm bảo tưới tiêu phuc vụ sản xuất; 26/26 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 293/303 bản có đường ô tô đến bản; hệ thống điện lưới, nước sinh hoạt đảm bảo phục vụ cho trên 89% dân số ở nông thôn được hưởng lợi. Thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư ổn định dân cư, phát triển kinh tế xã hội vùng di chuyển lòng hồ Sông Đà theo Quyết định 1382/QĐ-TTg; Quyết định 1460/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục rà soát, sắp xếp nơi ở, địa bàn sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, ổn định dân cư lâu dài cho 203 hộ dân tại các điểm tái định cư. Bốn tiểu vùng kinh tế của huyện (gồm vùng trọng điểm lúa; vùng Mường; vùng cao và vùng hồ sông Đà) tiếp tục được đầu tư hợp lý theo hướng khai thác và phát huy lợi thế, gắn với chiến lược lâu dài, bước đầu đã đạt kết quả tích cực. Văn hoá, giáo dục và đào tạo, y tế, thể dục thể thao, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo đều đạt được những thành tựu quan trọng, khá toàn diện. Duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục và 6 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia; 10 xã đạt chuẩn y tế Quốc gia. Các giá trị văn hoá được bảo tồn, phát triển; phong trào văn hoá, thể thao, xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư được duy trì, nâng lên. Đến nay, toàn huyện có 61% đơn vị được công nhận danh hiệu văn hóa; 66% gia đình văn hoá; 22% gia đình thể thao… Đào tạo nghề, dạy nghề ước 1,2 nghìn người/năm, giải quyết việc làm 2,5 nghìn người/năm; xoá nhà tạm 2.034 hộ; giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 34,33% năm 2010 xuống còn 23,3% năm 2013. Thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng chính sách xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống ma tuý được triển khai hiệu quả, toàn huyện có 92 đơn vị đạt và cơ bản đạt “4 không” về ma túy. Quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được duy trì, thế trận quốc phòng an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng có bước tiến bộ rõ rệt trên các mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng có sự chuyển biến tích cực. Hàng năm có trên 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, trên 99% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện các nhiệm vụ cấp bách giai đoạn 2010-2015 mà trọng tâm là lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển kinh tế – xã hội của huyện tầm nhìn đến năm 2020. Đến nay, huyện đã tập trung làm tốt quy hoạch phát triển sản xuất hàng hóa tập trung như: lúa, tỏi chất lượng cao gắn với thương hiệu Phù Yên tại vùng trọng điểm lúa; quy hoạch phát triển cây chè cổ thụ, cây ăn quả có múi đặc sản tại các xã vùng Mường; phát triển nguồn lợi thủy sản tại các xã vùng hồ sông Đà và các hồ thủy lợi; quy hoạch phát triển khu dân cư gắn với quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn bản sắc dân tộc… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn bộ lộ những khó khăn, thách thức, cần được quan tâm tháo gỡ trong thời gian tới, nhất là sản xuất nông nghiệp chưa bền vững; trình độ dân trí không đồng đều; giao thông đi lại tại các xã vùng cao còn nhiều khó khăn, nhất là mùa mưa; các tai tệ nạn xã hội còn tiềm ẩn diễn biến phức tạp; công tác sắp xếp, ổn định đời sống dân cư vùng di dân thủy điện Hoà Bình còn nhiều vấn đề mới phát sinh… Để sớm đưa huyện Phù Yên thoát nghèo và từng bước vươn lên trở thành huyện phát triển khá trong tỉnh, huyện vẫn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và đã lựa chọn 3 khâu đột phá đó là: phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tập trung mọi nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đô thị với phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong đó, tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; thâm canh tăng vụ, phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, các mô hình kinh tế trang trại, vườn đồi; đưa giống lúa chất lượng cao vào thâm canh trên cánh đồng Mường Tấc; xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hàng hoá như gạo Mường Tấc, tỏi Gia Phù, cam Mường Thải, quýt Mường Cơi, chè cổ thụ Mường Do. Khuyến khích nhân dân, nhân là các xã vùng cao phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng tập trung; tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng, đưa kinh tế rừng trở thành kinh tế mũi nhọn gắn với du lịch sinh thái; ưu tiên phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tập trung hình thành các cụm công nghiệp Gia Phù, Quang Huy; tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khu công nghiệp giầy da; thu hút các nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới. Đối với khu vực thị trấn và thị tứ, tiếp tục đầu tư nâng cấp, xây dựng khu đô thị mới gắn liền với việc mở rộng thị trấn và thị tứ Mường Cơi và Gia Phù. Đặc biệt các khu đô thị mới chú trọng xây dựng khu vui chơi giải trí, phúc lợi công cộng, trong đó nâng cao chất lượng hoạt động tại các điểm vui chơi giải trí Hồ Noong Bua, công viên 2-9, công viên xí nghiệp giầy… Thời gian tới huyện Phù Yên tiếp tục tăng cường sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phấn đấu cơ cấu kinh tế chuyển mạnh theo hướng hàng hóa, mức tăng trưởng kinh tế bình quân đến 2015 đạt 15-16% năm; thu nhập bình quân đến 20 triệu đồng/người/năm. Tổng sản lượng lương thực có hạt trên 70.000 tấn/năm; tổng đàn gia súc 110.000 con, gia cầm 700.000 con. Tỷ lệ che phủ rừng năm đến 2015 đạt 45%.. Thu ngân sách địa phương trên 60 tỷ đồng; dự kiến tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 21%; có 10 trường, 15 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; 90% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, nước sinh hoạt và được xem truyền hình; 98% hộ gia đình, 100% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa; 100% bản, tiểu khu có đội văn nghệ, câu lạc bộ thể thao, 80% số bản có nhà văn hóa; Đồng thời, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Với bề dày truyền thống hơn 60 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, sự đoàn kết nỗ lực của nhân dân, trên cơ sở những định hướng phát triển đúng đắn, phù hợp được nhân dân đồng tình ủng hộ, cùng những giải pháp cụ thể, sát thực tiễn, huyện Phù Yên đã và sẽ làm phấn đấu đưa huyện Phù Yên sớm thoát nghèo và vươn lên, trở thành huyện phát triển khá của tỉnh./.
Giới thiệu khái quát huyện Mường La Huyện Mường La là huyện miền núi của tỉnh Sơn La , cách Thành phố Sơn La 41 km về phía Đông Bắc. Phía Đông và phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái , và huyện Bắc Yên của tỉnh Sơn La; Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Quỳnh Nhai và huyện Thuận Châu ; Phía Nam giáp huyện Mai Sơn và Thành phố Sơn La. Huyện Mường La nằm ở độ cao trung bình từ 500- 700m so với mặt nước biển, phía Đông và phía Đông Bắc của huyện là những dãy núi cao, địa hình thấp dần về phía Nam và dọc theo 2 bờ sông Đà. Trên địa bàn có sông Đà và 5 con suối lớn là suối Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia chảy qua. + Tổng diện tích (ha): 142.535,94 + Đất Nông nghiệp (ha): 21.007,51 + Đất Lâm nghiệp (ha): 76.527,26 + Đất chưa khai thác (ha): 36.276,50 Đơn vị hành chính: Toàn huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 01 thị trấn là thị trấn Ít Ong và các xã: Chiềng Hoa, Tạ Bú, Mường Chùm, Chiềng San, Nậm Păm, Pi Toong, Mường Bú, Hua Trai, Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. Trong đó có 9 xã thuộc diện xã ĐBKK nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II là các xã: Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. Dân số – Dân tộc: Tổng số hộ là 21.516 hộ với 97.026 nhân khẩu, trong đó hộ nghèo là 9.342 hộ chiếm 43,42 %; hộ cận nghèo 2.632 hộ, chiếm 12,32 % (Số hộ nghèo, cận nghèo điều tra năm 2017) gồm 5 dân tộc anh em cùng sinh sống: dân tộc Thái, Kinh, Mông, La ha, Kháng và một số dân tộc khác. Lịch sử: Sau năm 1954, huyện Mường La có thị trấn Chiềng Lề và 25 xã: Chiềng An, Chiềng Ân, Chiềng Cọ, Chiềng Cơi, Chiềng Công, Chiềng Đen, Chiềng Hoa, Chiềng Lào, Chiềng Muôn, Chiềng Ngần, Chiềng San, Chiềng Sinh, Chiềng Sung, Chiềng Xôm, Hua La, Ít Ong, Mường Bằng, Mường Bú, Mường Chum, Mường Trai, Nậm Giôn, Nậm Păm, Ngọc Chiến, Pi Toong, Tạ Bú. Ngày 26 tháng 10 năm 1961, tách thị trấn Chiềng Lề, xã Chiềng Cơi, bản Hò Hẹo và bản Lầu của xã Chiềng An để thành lập thị xã Sơn La (nay là thành phố Sơn La). Ngày 16 tháng 01 năm 1979, chia xã Mường Trai thành hai xã lấy tên là xã Hua Trai và xã Mường Trai. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, sáp nhập 2 xã Chiềng Sung và Mường Bằng vào huyện Mai Sơn; sáp nhập 7 xã: Chiềng An, Chiềng Xôm, Chiềng Đen, Chiềng Cọ, Chiềng Sinh, Chiềng Ngần và Hua La vào thị xã Sơn La (nay là thành phố Sơn La). Ngày 08 tháng 01 năm 2007, chuyển xã Ít Ong thành thị trấn Ít Ong (thị trấn huyện lị huyện Mường La). Di tích, thắng cảnh Hồ thủy điện Sơn La. Điểm đầu tiên trong hành trình du ngoạn Mường La xuất phát từ đập công trình thủy điện Sơn La. Chiếc tàu rẽ sóng, rời bến Nghiêng, không còn phải vượt ghềnh thác, các cửa tử, cửa sinh như “người lái đò sông Đà” năm xưa của Nguyễn Tuân, bởi từ ngày xây dựng đập thủy điện thì thượng nguồn sông Đà không còn hung dữ nữa mà trở thành vùng nước hiền hòa, mênh mang với khung cảnh kỳ vỹ. Đập thủy điện Sơn La. Vẻ đẹp thiên nhiên của lòng hồ được ví như một bức tranh thủy mặc vô cùng sống động với nhiều đảo núi nhấp nhô. Có chỗ thì quây quần, tụ lại xúm xít chen chân, có chỗ lại tách rời riêng biệt tạo những nét chấm phá cực kỳ tài nghệ. Chiều ngang rộng nhất của lòng hồ có chỗ rộng hơn cả 10km. Cùng với tiềm năng du lịch thủy điện, du thuyền trên lòng hồ sông Đà, Mường La còn là nơi chứa đựng nhiều bí ẩn từ các di tích lịch sử đồn Pom Páp (thị trấn Ít Ong), đồn Mường Chiến (Ngọc Chiến), di tích khảo cổ học hang Co Noong (thị trấn Ít Ong), hang Hua Bó (Mường Bú). Và hành trình đến với di tích khảo cổ học hang Co Noong (thị trấn Ít Ong) mang lại cho du khách nhiều điều lý thú. Hang Co Noong (còn gọi là hang Con Moong) nằm ở hướng Tây Bắc huyện Mường La, trên dãy núi trùng điệp nhấp nhô uốn mình tạo thành 7 khúc, cửa chính của hang quay về hướng Đông Tây nhìn xuống Sông Đà và có một cửa nhỏ quay về phía Tây Bắc. Từ bờ Sông Đà đi lên dốc thoải, qua một khu rừng già khoảng 200m là tới cửa hang, đứng tại cửa hang với độ cao ở đây ra sẽ quan sát được một vùng non nước rộng lớn và hùng vĩ. Nhìn hướng nào cũng thấy một bức tranh toàn bích hiện ra: Phía xa là một ngọn núi hình con rồng uốn mình theo Sông Đà; Phía dưới chân núi là dòng sông Đà xanh biếc hòa cùng cảnh sông, núi, mây, trời càng khiến vẻ đẹp ở nơi đây thêm lộng lẫy. Cửa hang Con Moong. Cửa hang chính quay về hướng Đông – Tây, cửa có độ rộng 15m, cao 7m ở giữa có hòn đá to chắn tạo thành 2 ngách cửa. Khi bước vào trong lòng hang ta sửng sốt thấy cảnh đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho nơi đây. Lòng hang có hình tròn như một tổ ong, vòm hang cao tới 20m, trần hang có đủ mọi hình dáng và kích thước của các thạch nhũ, ở giữa có thạch nhũ hình tổ ong lớn, xung quanh có những thạch nhũ nhỏ như những con ong lấm tấm đang miệt mài xây tổ. Khối nhũ đá hình tổ ong có những thạch nhũ với hình dáng uốn lượn, nhấp nhô, mềm mại tựa như những đám mây đang bay trên bầu trời và những bức phù điêu bằng thạch nhũ được trang trí trên vòm hang tuyệt đẹp như những tác phẩm điêu khắc được tạc bằng đôi bàn tay mầu nhiệm của một nhà điêu khắc thiên tài. Lễ hạn Khuống. Bên cạnh đó, các khu du lịch sinh thái như: Vườn cây cao su tổ Phiêng Tìn, suối nước nóng bản Ít (thị trấn Ít Ong), du lịch văn hóa cộng đồng dân tộc Thái có các lễ hội văn hoá truyền thống như: Lễ hạn Khuống, lễ hội Khắp Then, lễ hội Mừng cơm mới… cũng chính là cơ sở, điều kiện thuận lợi để phát triển ngành dịch vụ- du lịch. Về với Mường La, du khách còn có thể tận hưởng khí hậu mát mẻ của vùng cao Tây Bắc, cùng hòa mình trong dòng suối nóng của bản Lướt (Ngọc Chiến). Tối đến, trong những nếp nhà sàn truyền thống bằng gỗ pơ mu hàng trăm năm tuổi, du khách có thể thưởng thức những món đặc sản hấp dẫn như măng lay, cá nướng, xôi nếp tan thơm dẻo trên cánh đồng Mường Chiến, cùng nhau theo vòng quay của điệu xòe, ngây ngất trong men rượu sơn tra thơm ngọt và thả hồn theo giọng hát ngọt ngào của những cô gái Thái. Bản người Thái tái định cư. Du khách cũng có thể cùng sống, sinh hoạt trong các gia đình để tìm hiểu những phong tục tập quán của người dân nơi đây và để được một lần là người dân tộc Thái.
General introduction of Muong La district Muong La district is a mountainous district of Son La province , 41 km northeast of Son La City. East and North border Yen Bai Province , and Bac Yen district of Son La province; The West and Southwest border Quynh Nhai and Quynh Nhai districts Thuan Chau district ; Bordered to the South Mai Son district and Son La City. Muong La district is located at an average altitude of 500-700m above sea level. The east and northeast of the district are high mountains, the terrain gradually lowers to the south and along the two banks of the Da River. In the area, there is Da River and 5 large streams, Nam Mu, Nam Chien, Nam Trai, Nam Pan, and Nam Pia, flowing through. + Total area (ha): 142,535.94 + Agricultural land (ha): 21,007.51 + Forestry land (ha): 76,527.26 + Unexploited land (ha): 36,276.50 Administrative units: The whole district has 16 administrative units, including 01 town, It Ong town, and communes: Chieng Hoa, Ta Bu, Muong Chum, Chieng San, Nam Pam, Pi Toong, Muong Bu, Hua Trai, Chieng Lao, Nam Gion, Muong Trai, Chieng Muon, Chieng An, Chieng Cong, Ngoc Chien. Among them, there are 9 communes belonging to the special status communes in Program 135 phase II: Chieng Lao, Nam Gon, Muong Trai, Chieng Muon, Chieng An, Chieng Cong, Ngoc Chien. Population – Ethnicity: The total number of households is 21,516 households with 97,026 people, of which 9,342 poor households account for 43.42%; near-poor households: 2,632 households, accounting for 12.32% (number of poor and near-poor households surveyed in 2017) including 5 ethnic groups living together: Thai, Kinh, Mong, La Ha, Khang and some other ethnic groups other. History: After 1954, Muong La district had Chieng Le town and 25 communes: Chieng An, Chieng An, Chieng Co, Chieng Coi, Chieng Cong, Chieng Den, Chieng Hoa, Chieng Lao, Chieng Muon, Chieng Ngan, Chieng San, Chieng Sinh, Chieng Sung, Chieng Xom, Hua La, It Ong, Muong Bang, Muong Bu, Muong Chum, Muong Trai, Nam Gon, Nam Pam, Ngoc Chien, Pi Toong, Ta Bu. On October 26, 1961, Chieng Le town, Chieng Coi commune, Ho Hoo village and Lau village of Chieng An commune were separated to establish Son La town (now Son La city). On January 16, 1979, Muong Trai commune was divided into two communes named Hua Trai commune and Muong Trai commune. On March 13, 1979, Chieng Sung and Muong Bang communes were merged into Mai Son district; merged 7 communes: Chieng An, Chieng Xom, Chieng Den, Chieng Co, Chieng Sinh, Chieng Ngan and Hua La into Son La town (now Son La city). On January 8, 2007, It Ong commune was converted into It Ong town (district capital town of Muong La district). Monuments and landscapes Son La hydroelectric lake. The first point in the Muong La tour starts from the Son La hydroelectric dam. The boat turned the waves and left the Nghieng wharf, no longer having to overcome rapids and waterfalls, the gates of death and birth like the old "Da River ferryman" of Nguyen Tuan, because since the day the hydroelectric dam was built, the upstream of the Da River has no longer existed. is no longer ferocious but becomes a gentle, vast water area with magnificent scenery. Son La hydroelectric dam. The natural beauty of the lake is like an extremely vivid watercolor painting with many undulating mountain islands. In some places, they gather and crowd together, in other places they separate and create extremely talented touches. The widest width of the lake bed is in some places more than 10km wide. Along with the potential for hydroelectric tourism and yachting on the Da River lake, Muong La is also a place containing many mysteries from the historical relics of Pom Pap station (It Ong town), Muong Chien station (Ngoc Chien). , archaeological relics of Co Noong cave (It Ong town), Hua Bo cave (Muong Bu). And the journey to the archaeological relics of Co Noong cave (It Ong town) brings visitors many interesting things. Co Noong Cave (also known as Con Moong Cave) is located in the northwest of Muong La district, on an undulating mountain range that bends to form 7 sections, the main entrance of the cave faces East-West looking down on the Da River and has a Small door facing Northwest. From the bank of the Da River, go up a gentle slope, through an old forest about 200m to the cave entrance. Standing at the cave entrance at this height, you will be able to observe a vast and majestic mountain and water area. Every direction you look, a perfect picture appears: In the distance is a dragon-shaped mountain bending along the Da River; At the foot of the mountain is the blue Da River blending with the scenery of rivers, mountains, clouds and sky, making the beauty of this place even more splendid. Con Moong cave entrance. The main cave entrance faces East - West, the door is 15m wide, 7m high, in the middle there is a large stone blocking two niches. When we entered the cave, we were amazed to see the beautiful scenery that nature had bestowed on this place. The cave's interior is round like a honeycomb, the cave's dome is up to 20m high, the cave's ceiling has all shapes and sizes of stalactites, in the middle there are large honeycomb-shaped stalactites, around there are small stalactites like stalactites. The speckled bee is diligently building a nest. The honeycomb-shaped stalactite block has stalactites with curving, undulating, soft shapes like clouds flying in the sky, and stalactite reliefs decorated on the cave dome are beautiful like works of art. The sculpture was carved by the magical hands of a genius sculptor. Ceremony term Khuong. Besides, eco-tourism areas such as: Phieng Tin rubber tree garden, Ban It hot spring (It Ong town), Thai ethnic community cultural tourism with traditional cultural festivals such as : Khuong drought festival, Khau Then festival, New rice celebration festival... are also the basis and favorable conditions to develop the service-tourism industry. Coming to Muong La, visitors can also enjoy the cool climate of the Northwest highlands, and immerse themselves in the hot springs of Luot village (Ngoc Chien). In the evening, in traditional stilt houses made of hundreds of years old Po Mu wood, visitors can enjoy attractive specialties such as bamboo shoots, grilled fish, fragrant and sticky sticky rice in Muong Chien fields, and following the rotation of Xoe dance, ecstatic in the sweet scent of hawthorn wine and relaxing to the sweet voices of Thai girls. Thai people resettled. Tourists can also live together in families to learn about the customs and traditions of the people here and to be a Thai ethnic person for once.
Giới thiệu khái quát huyện Châu Thành Huyện Châu Thành nằm trên tuyến biên giới phía tây nam của tỉnh Tây Ninh và của cả nước, có chung đường biên giới với tỉnh Svây Riêng (Campuchia) dài 48 km, có cửa khẩu Phước Tân và nhiều đường tiểu ngạch thông thương giữa hai nước. Đặc điểm biên giới đất liền đất, rừng liền rừng, sông có đoạn từ Vàm Trảng Trâu đến Bến Ra được coi là đoạn biên giới phân cách. Là một trong 5 huyện biên giới có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, đặc biệt là về quốc phòng, an ninh của tỉnh. Huyện Châu Thành phía đông giáp Thị xã Tây Ninh; phía nam giáp hai huyện Bến Cầu và Hòa Thành; phía Bắc giáp huyện Tân Biên. Có diện tích tự nhiên 571, 25km 2 , dân số: 141.875 người. Mật độ dân số 248,36 người/km 2 Địa hình vừa có đồng bằng vừa có rừng. Phía Tây-Tây Bắc rừng xen kẽ trảng trống và đồng ruộng. Phía Nam-Tây Nam chủ yếu là rừng (rừng thưa, rừng chồi). Sông Vàm Cỏ Đông chảy dọc huyện chia diện tích huyện thành hai vùng xấp xỉ nhau. Rạch Sóc Om và Rạch Vàm Dình là 2 thượng nguồn của sông Vàm Cò Đông. Nguồn nước ngọt quanh năm không cạn rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên sông Vàm Cỏ Đông mang đặc tính bán nhật triều nên khi triều dâng cao nhất thì vụ lúa mùa có thể bị thiệt hại ở những vùng trũng sâu, ven sông Vàm Cỏ Đông. Hiện quỹ đất dành cho phát triển công nghiệp (bao gồm diện tích đất phát triển CCN-TTCN) trên địa bàn huyện đến năm 2020 khoảng 270ha. Tài nguyên khoáng sản của huyện có các khoáng sản chủ yếu như sản xuất vật liệu xây dựng cát, sỏi; sét gạch ngói (Trí Bình); đá Letarit (Lò Ho); than bùn phân bố rãi dọc theo sông Vàm Cỏ Đông ở Trí Bình, Thanh Hàm (xã An Bình), Ninh Điền, là nguyên liệu cho sản xuất phân bón với điều kiện khai thác khá thuận lợi; cao lanh (Thái Bình). Ngoài ra, xã Ninh Điền có 01 mỏ nước khoáng đã được thăm dò chi tiết và được hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản Nhà nước cấp giấy phép khai thác. Kinh tế -Xã hội và Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp Kinh tế huyện Châu Thành giai đoạn từ năm 2010 đến nay có mức tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản xuất các lĩnh vực chủ yếu năm 2014 ước thực hiện 8.666 tỷ đồng, tăng 9,56% SCK. Trong đó: Nông-lâm-thủy sản: ƯTH 4.342 tỷ đồng, tăng 5,5% SCK; Công nghiệp-xây dựng: ƯTH 3.329 tỷ đồng, tăng 14,04% SCK; Thương mại-dịch vụ: ƯTH 995 tỷ đồng, tăng 13,69% SCK. Kinh tế có sự chuyển biến khá rõ nét, theo hướng phát triển bền vững. Cơ cấu Nông nghiệp, Công nghiệp-xây dựng, Thương mại-dịch vụ ƯTH năm 2014: 50,11%-38,41%-11,48%. Về công nghiệp-TTCN, toàn huyện có khoảng 856 cơ sở, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thu hút trên 7.000 lao động. Hiện tại ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản, thực phẩm và ngành dệt may-da giày chính là những ngành công nghiệp thể hiện thế mạnh của huyện. DI TÍCH LỊCH SỬ Gò Cổ Lâm thuộc ấp Thanh Đông, xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích khảo cổ học tại Quyết định số 3211/QĐ-BT ngày 12/12/1994. Đây là khu di chỉ gồm nhiều phế tích, đền tháp đã được khai quật năm 1990. Trên đỉnh gò có một ngôi chùa được xây dựng cách nay trên 100 năm, còn gọi là gò Chùa Cổ Lâm. Mặt gò hình chữ nhật rộng trên 5.000m 2 , cao khoảng 3m so với mặt ruộng. Phía Đông là con đường cao hơn mặt ruộng 0.5m, rộng 3m, dài 150m từ gò chạy thẳng đến “Bàu Vuông” nơi lấy đất để đắp gò. Toàn bộ kiến trúc chùa xây trên nền tháp chính, bằng gạch nằm theo trục Bắc Nam trên chiều dài 50m. Trong đợt khai quật năm 1990, đã thực hiện sáu hố chân tháp ký hiệu từ H1 đến H5 và M1. Trên mặt gò rải rác khắp nơi còn nhiều viên gạch của tháp đổ xuống, cùng nhiều phiếm đá màu xanh xám. Ở phía Tây gò, chạy theo hướng Bắc Nam là những vỉa gạch lộ lên mặt đất với những viên gạch có kích thước 37 x 12 x 7 cm. Đó là những phế tích chân móng 5 ngôi tháp đã bị sụp đổ từ xa xưa. Các chân tháp từ H1 đến H5 đều có cạnh hình vuông. Ngôi chùa trên Gò Cổ Lâm Gò Cổ Lâm là di tích khảo cổ lớn nhất trong tổng số 11 di chỉ thuộc xã Thanh Điền, và là một trong những di tích có qui mô khá lớn đã phát hiện ở Tây Ninh. Các phế tích kiến trúc ở gò Cổ Lâm khá giống các kiến trúc gạch ở di tích Vườn Dầu , Miễu Bà và các di tích khác trong tỉnh. Căn cứ vào những di tích được khai quật và so sánh với một số công trình kiến trúc trên vùng đất Nam Bộ, về gạch, tượng đá, các tư liệu sản xuất … các nhà khảo cổ học đã khẳng định di tích khảo cổ học Gò Cổ Lâm có niên đại khoảng thế kỷ thứ VIII sau Công Nguyên. DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CHIẾN THẮNG TUA HAI Di tích thuộc ấp Tua Hai, xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, nằm về hướng Bắc cách thị xã Tây Ninh 7 km. Tại đây, đêm 25 rạng 26/01/1960, thực hiện Nghị quyết 15 TW theo sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, lực lượng vũ trang cách mạng cùng với nhân dân Tây Ninh đã tiến hành trận tập kích tiêu diệt căn cứ Trung đoàn 32, Sư đoàn 21 ngụy tại Tua Hai – Trận đánh mở màn phong trào đồng khởi vũ trang toàn miền Nam đã đi vào lịch sử và trở thành một di tích lịch sử cách mạng. Chiến thắng Tua Hai, mở màn phong trào đồng khởi vũ trang đi vào lịch sử và trở thành cái mốc đánh dấu sự chuyển giai đoạn cách mạng miền Nam, mở ra phương thức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang. Sau chiến thắng Tua Hai, phong trào đồng khởi đã lan rộng các tỉnh miền Nam, chứng minh rằng nghị quyết 15 TW Đảng được phát ra đúng thời điểm và thời cơ. Trận đánh Tua Hai là kết quả của sự chuẩn bị lâu dài, sự tích tụ căm thù của bao hy sinh mất mát bởi quốc sách “Tố cộng diệt cộng và luật phát xít 10/59 của Mỹ-Diệm đã gây cho đồng bào ta. Trận đánh làm rệu rã tinh thần của binh lính địch và Diệt cộng không còn khó khăn gì khi lấy lại Thị xã và toàn tỉnh. Trận đánh Tua Hai đêm 25 rạng 26/01/1960 ỏ Tây Ninh trận đánh lớn diệt trên 500 tên địch, thu 1.500 súng các loại, phát huy chiến thắng Tua Hai, nhân dân Tây Ninh đã nổi dậy đồng loạt giải phóng hai phần ba số xã trong tỉnh. Với giá trị lịch sử đó. Địa điểm chiến thắng Tua Hai được Bộ VHTT công nhận là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số: 937/QĐ-BT ngày 23/7/1993.​ Chiến thắng Tua Hai, mở màn phong trào đồng khởi vũ trang đi vào lịch sử và trở thành mốc đánh dấu sự chuyển giai đoạn cách mạng miền Nam, mở ra phương thức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang. Sau chiến thắng Tua Hai, phong trào Đồng Khởi đã lan rộng các tỉnh miền Nam, chứng minh rằng nghị quyết 15 TW Đảng được phát ra đúng thời điểm và thời cơ. ĐỊA ĐIỂM THÀNH LẬP CƠ SỞ ĐẢNG TẠI GIỒNG NẦN Cơ sở Đảng Cộng sản tại Giồng Nần (nay thuộc ấp Long Đại, xã Long Vĩnh) là cơ sở Đảng đầu tiên được thành lập ở Tây ninh sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 03/02/1930). Hoạt động của cơ sở Đảng Giồng Nần tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của cơ sở Đảng ở Quán cơm, Chi bộ Đảng ở Phước chỉ…, cũng từ đó chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, nâng cao ý thức cách mạng của nhân dân, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng tám 1945 thành công ở Tây Ninh. Với ý nghĩa lịch sử đó, “Địa điểm thành lập cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Tây Ninh tại Giồng Nần” được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. ĐỊA ĐIỂM VÀNH ĐAI DIỆT MỸ TRẢNG LỚN Trảng lớn được đế quốc Mỹ chọn làm căn cứ quân sự loại lớn, vừa là hậu cần cho nhiều căn cứ như: Đồng Pan, Thiện Ngôn… lại vừa là căn cứ chỉ huy tiền phương nhằm triệt phá căn cứ của cách mạng. Cuối năm 1965, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chủ trương thành lập thế trận bao vây xung quanh căn cứ Trảng Lớn và tạo thành vành đai diệt Mỹ. Với 2250 ngày chiến đấu, Đảng bộ và nhân dân Châu Thành lập nhiều thành tích vẻ vang, góp phần đánh bại hai gọng kìm “Tìm diệt” và “Bình định” của Mỹ, Ngụy. Để lưu niệm một thời chiến đấu oanh liệt, huyện Châu Thành đã chọn khu đất tại ngã tư đường Tua Hai Đồng Khởi và hương lộ 3 thuộc khu phố 1, Thị trấn Châu Thành làm “Địa điểm vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn” và đã được UBND tỉnh Tây Ninh công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ngày 12.11.2013, hai di tích “Địa điểm thành lập cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Tây Ninh tại Giồng Nần” và “Địa điểm vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn” đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Giới thiệu khái quát huyện Châu Thành Huyện Châu Thành nằm trên tuyến biên giới phía tây nam của tỉnh Tây Ninh và của cả nước, có chung đường biên giới với tỉnh Svây Riêng (Campuchia) dài 48 km, có cửa khẩu Phước Tân và nhiều đường tiểu ngạch thông thương giữa hai nước. Đặc điểm biên giới đất liền đất, rừng liền rừng, sông có đoạn từ Vàm Trảng Trâu đến Bến Ra được coi là đoạn biên giới phân cách. Là một trong 5 huyện biên giới có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, đặc biệt là về quốc phòng, an ninh của tỉnh. Huyện Châu Thành phía đông giáp Thị xã Tây Ninh; phía nam giáp hai huyện Bến Cầu và Hòa Thành; phía Bắc giáp huyện Tân Biên. Có diện tích tự nhiên 571, 25km 2 , dân số: 141.875 người. Mật độ dân số 248,36 người/km 2 Địa hình vừa có đồng bằng vừa có rừng. Phía Tây-Tây Bắc rừng xen kẽ trảng trống và đồng ruộng. Phía Nam-Tây Nam chủ yếu là rừng (rừng thưa, rừng chồi). Sông Vàm Cỏ Đông chảy dọc huyện chia diện tích huyện thành hai vùng xấp xỉ nhau. Rạch Sóc Om và Rạch Vàm Dình là 2 thượng nguồn của sông Vàm Cò Đông. Nguồn nước ngọt quanh năm không cạn rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên sông Vàm Cỏ Đông mang đặc tính bán nhật triều nên khi triều dâng cao nhất thì vụ lúa mùa có thể bị thiệt hại ở những vùng trũng sâu, ven sông Vàm Cỏ Đông. Hiện quỹ đất dành cho phát triển công nghiệp (bao gồm diện tích đất phát triển CCN-TTCN) trên địa bàn huyện đến năm 2020 khoảng 270ha. Tài nguyên khoáng sản của huyện có các khoáng sản chủ yếu như sản xuất vật liệu xây dựng cát, sỏi; sét gạch ngói (Trí Bình); đá Letarit (Lò Ho); than bùn phân bố rãi dọc theo sông Vàm Cỏ Đông ở Trí Bình, Thanh Hàm (xã An Bình), Ninh Điền, là nguyên liệu cho sản xuất phân bón với điều kiện khai thác khá thuận lợi; cao lanh (Thái Bình). Ngoài ra, xã Ninh Điền có 01 mỏ nước khoáng đã được thăm dò chi tiết và được hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản Nhà nước cấp giấy phép khai thác. Kinh tế -Xã hội và Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp Kinh tế huyện Châu Thành giai đoạn từ năm 2010 đến nay có mức tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản xuất các lĩnh vực chủ yếu năm 2014 ước thực hiện 8.666 tỷ đồng, tăng 9,56% SCK. Trong đó: Nông-lâm-thủy sản: ƯTH 4.342 tỷ đồng, tăng 5,5% SCK; Công nghiệp-xây dựng: ƯTH 3.329 tỷ đồng, tăng 14,04% SCK; Thương mại-dịch vụ: ƯTH 995 tỷ đồng, tăng 13,69% SCK. Kinh tế có sự chuyển biến khá rõ nét, theo hướng phát triển bền vững. Cơ cấu Nông nghiệp, Công nghiệp-xây dựng, Thương mại-dịch vụ ƯTH năm 2014: 50,11%-38,41%-11,48%. Về công nghiệp-TTCN, toàn huyện có khoảng 856 cơ sở, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thu hút trên 7.000 lao động. Hiện tại ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản, thực phẩm và ngành dệt may-da giày chính là những ngành công nghiệp thể hiện thế mạnh của huyện. DI TÍCH LỊCH SỬ Gò Cổ Lâm thuộc ấp Thanh Đông, xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích khảo cổ học tại Quyết định số 3211/QĐ-BT ngày 12/12/1994. Đây là khu di chỉ gồm nhiều phế tích, đền tháp đã được khai quật năm 1990. Trên đỉnh gò có một ngôi chùa được xây dựng cách nay trên 100 năm, còn gọi là gò Chùa Cổ Lâm. Mặt gò hình chữ nhật rộng trên 5.000m 2 , cao khoảng 3m so với mặt ruộng. Phía Đông là con đường cao hơn mặt ruộng 0.5m, rộng 3m, dài 150m từ gò chạy thẳng đến “Bàu Vuông” nơi lấy đất để đắp gò. Toàn bộ kiến trúc chùa xây trên nền tháp chính, bằng gạch nằm theo trục Bắc Nam trên chiều dài 50m. Trong đợt khai quật năm 1990, đã thực hiện sáu hố chân tháp ký hiệu từ H1 đến H5 và M1. Trên mặt gò rải rác khắp nơi còn nhiều viên gạch của tháp đổ xuống, cùng nhiều phiếm đá màu xanh xám. Ở phía Tây gò, chạy theo hướng Bắc Nam là những vỉa gạch lộ lên mặt đất với những viên gạch có kích thước 37 x 12 x 7 cm. Đó là những phế tích chân móng 5 ngôi tháp đã bị sụp đổ từ xa xưa. Các chân tháp từ H1 đến H5 đều có cạnh hình vuông. Ngôi chùa trên Gò Cổ Lâm Gò Cổ Lâm là di tích khảo cổ lớn nhất trong tổng số 11 di chỉ thuộc xã Thanh Điền, và là một trong những di tích có qui mô khá lớn đã phát hiện ở Tây Ninh. Các phế tích kiến trúc ở gò Cổ Lâm khá giống các kiến trúc gạch ở di tích Vườn Dầu , Miễu Bà và các di tích khác trong tỉnh. Căn cứ vào những di tích được khai quật và so sánh với một số công trình kiến trúc trên vùng đất Nam Bộ, về gạch, tượng đá, các tư liệu sản xuất … các nhà khảo cổ học đã khẳng định di tích khảo cổ học Gò Cổ Lâm có niên đại khoảng thế kỷ thứ VIII sau Công Nguyên. DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CHIẾN THẮNG TUA HAI Di tích thuộc ấp Tua Hai, xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, nằm về hướng Bắc cách thị xã Tây Ninh 7 km. Tại đây, đêm 25 rạng 26/01/1960, thực hiện Nghị quyết 15 TW theo sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, lực lượng vũ trang cách mạng cùng với nhân dân Tây Ninh đã tiến hành trận tập kích tiêu diệt căn cứ Trung đoàn 32, Sư đoàn 21 ngụy tại Tua Hai – Trận đánh mở màn phong trào đồng khởi vũ trang toàn miền Nam đã đi vào lịch sử và trở thành một di tích lịch sử cách mạng. Chiến thắng Tua Hai, mở màn phong trào đồng khởi vũ trang đi vào lịch sử và trở thành cái mốc đánh dấu sự chuyển giai đoạn cách mạng miền Nam, mở ra phương thức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang. Sau chiến thắng Tua Hai, phong trào đồng khởi đã lan rộng các tỉnh miền Nam, chứng minh rằng nghị quyết 15 TW Đảng được phát ra đúng thời điểm và thời cơ. Trận đánh Tua Hai là kết quả của sự chuẩn bị lâu dài, sự tích tụ căm thù của bao hy sinh mất mát bởi quốc sách “Tố cộng diệt cộng và luật phát xít 10/59 của Mỹ-Diệm đã gây cho đồng bào ta. Trận đánh làm rệu rã tinh thần của binh lính địch và Diệt cộng không còn khó khăn gì khi lấy lại Thị xã và toàn tỉnh. Trận đánh Tua Hai đêm 25 rạng 26/01/1960 ỏ Tây Ninh trận đánh lớn diệt trên 500 tên địch, thu 1.500 súng các loại, phát huy chiến thắng Tua Hai, nhân dân Tây Ninh đã nổi dậy đồng loạt giải phóng hai phần ba số xã trong tỉnh. Với giá trị lịch sử đó. Địa điểm chiến thắng Tua Hai được Bộ VHTT công nhận là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số: 937/QĐ-BT ngày 23/7/1993.​ Chiến thắng Tua Hai, mở màn phong trào đồng khởi vũ trang đi vào lịch sử và trở thành mốc đánh dấu sự chuyển giai đoạn cách mạng miền Nam, mở ra phương thức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang. Sau chiến thắng Tua Hai, phong trào Đồng Khởi đã lan rộng các tỉnh miền Nam, chứng minh rằng nghị quyết 15 TW Đảng được phát ra đúng thời điểm và thời cơ. ĐỊA ĐIỂM THÀNH LẬP CƠ SỞ ĐẢNG TẠI GIỒNG NẦN Cơ sở Đảng Cộng sản tại Giồng Nần (nay thuộc ấp Long Đại, xã Long Vĩnh) là cơ sở Đảng đầu tiên được thành lập ở Tây ninh sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 03/02/1930). Hoạt động của cơ sở Đảng Giồng Nần tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của cơ sở Đảng ở Quán cơm, Chi bộ Đảng ở Phước chỉ…, cũng từ đó chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, nâng cao ý thức cách mạng của nhân dân, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng tám 1945 thành công ở Tây Ninh. Với ý nghĩa lịch sử đó, “Địa điểm thành lập cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Tây Ninh tại Giồng Nần” được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. ĐỊA ĐIỂM VÀNH ĐAI DIỆT MỸ TRẢNG LỚN Trảng lớn được đế quốc Mỹ chọn làm căn cứ quân sự loại lớn, vừa là hậu cần cho nhiều căn cứ như: Đồng Pan, Thiện Ngôn… lại vừa là căn cứ chỉ huy tiền phương nhằm triệt phá căn cứ của cách mạng. Cuối năm 1965, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chủ trương thành lập thế trận bao vây xung quanh căn cứ Trảng Lớn và tạo thành vành đai diệt Mỹ. Với 2250 ngày chiến đấu, Đảng bộ và nhân dân Châu Thành lập nhiều thành tích vẻ vang, góp phần đánh bại hai gọng kìm “Tìm diệt” và “Bình định” của Mỹ, Ngụy. Để lưu niệm một thời chiến đấu oanh liệt, huyện Châu Thành đã chọn khu đất tại ngã tư đường Tua Hai Đồng Khởi và hương lộ 3 thuộc khu phố 1, Thị trấn Châu Thành làm “Địa điểm vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn” và đã được UBND tỉnh Tây Ninh công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ngày 12.11.2013, hai di tích “Địa điểm thành lập cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Tây Ninh tại Giồng Nần” và “Địa điểm vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn” đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Giới thiệu khái quát huyện Hòa Thành 1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH Huyện Hòa Thành được thành lập theo Quyết định số 115-CP ngày 14/3/1979 của Hội đồng Chính phủ, là huyện nội địa, nằm ở phía trung tâm tỉnh Tây Ninh với tọa độ trong khoảng 106 0 06 ‘ -106 0 29′ kinh độ Đông và 11 0 25 ‘ -11 0 46′ vĩ độ Bắc, sau 02 lần điều chỉnh địa giới hành chính, hiện nay có diện tích là 8.292,43 hecta; trong đó: đất nông nghiệp 5.729,09ha, chiếm 68,93%; đất phi nông nghiệp 2.582,75 ha, chiếm 31,07%. Phía Đông giáp huyện Dương Minh Châu, Tây giáp Châu Thành và Bến Cầu, Nam giáp Gò Dầu, Bắc giáp Thị xã và Dương Minh Châu. Cơ cấu hành chính gồm 07 xã (Hiệp Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Trung, Long Thành Nam, Trường Đông, Trường Hòa, Trường Tây) và 01 thị trấn Hòa Thành với 35 ấp, 04 khu phố. Dân số 145.351 người, mật độ dân số 1.792 người/km 2 ; trên 90% số hộ theo tôn giáo Cao đài phái Tây Ninh. Huyện có Trung tâm thương mại Long Hoa là đầu mối phân phối hàng hóa của Tỉnh, có tuyến quốc lộ 22B đi qua, các tuyến đường giao thông liên huyện, liên xã; có Tòa Thánh Tây Ninh là cơ quan Trung ương của tôn giáo Cao Đài, là điểm du lịch khá nổi tiếng, hằng năm thu hút hàng chục ngàn khách tham quan, gần 90% dân số theo đạo Cao Đài. Với vị thế khá thuận lợi, Hòa Thành là huyện trọng điểm phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội của tỉnh Tây Ninh, địa bàn hành chính tập trung, cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, có mạng lưới dịch vụ đa dạng phong phú, có nhiều ngành nghề truyền thống như: sản xuất hàng mây tre xuất khẩu, gạch ngói, tráng bánh, may mặc, đúc đồng…, đồng thời là điểm dừng chân thuận lợi trên tuyến du lịch Núi Bà-Tòa Thánh. Đội ngũ cán bộ công chức nhiệt tình vượt khó để hoàn thành thành nhiệm vụ, nhân dân có tinh thần lao động cần cù, có tay nghề tạo nhiều sản phẩm đa dạng, phong phú cung cấp cho thị trường. ĐỊA HÌNH Địa hình Hòa Thành tương đối bằng phẳng, có một dạng địa hình cơ bản là địa hình đồi lượn sóng nhẹ, với độ dốc phần nhiều < 3 o . Địa hình có chiều hướng thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Cao trình cao nhất ở phía Đông Bắc khoảng 55 – 60 m, thấp nhất ở phía Tây Nam khoảng 18 – 20 m. Cao trình phần lớn vào khoảng 40 – 50 m. Mẫu đất hầu hết là phù sa cổ, hình thành ra các loại đất xám có thành phần cơ giới nhẹ, khả năng chịu nén tốt. Yếu tố địa chất và địa hình của Hòa Thành rất thuận lợi cho việc bố trí sử dụng các loại đất. 3.THỔ NHƯỠNG Theo tài liệu điều tra thổ nhưỡng, Hòa Thành có 5 nhóm đất chính. Nhóm đất xám chiếm tỷ trọng lớn nhất và là tài nguyên quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, còn có nhóm đất phèn, nhóm đất cỏ vàng, nhóm đất phù sa, nhóm đất than bùn. Do đó Hòa Thành có tiềm năng phát triển cây trồng các loại, từ cây trồng nước đến cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả các loại. KHÍ HẬU Khí hậu Hòa Thành mang tính gió mùa nhiệt đới, ít bão lụt, lượng bức xạ cao và được phân bố đều trong năm. Thời tiết được chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. + Nhiệt độ trung bình 27,5 0 C. + Lượng mưa trung bình 165,5mm. + Độ ẩm tương đối 79,70%. Nhìn chung điều kiện khí hậu thời tiết của huyện khá thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và trồng câycông nghiệp ngắn ngày hay lâu năm như: mì, mía, cao su, điều,… THỦY VĂN Chế độ thuỷ văn của Hòa Thành khá phong phú, dồi dào cả về nguồn nước mặt lẫn nước ngầm. Nguồn nước mặt của huyện cơ bản có 01 con sông lớn là sông Vàm Cỏ Đông, chảy qua các xã Hiệp Tân, Long Thành Trung, Long Thành Nam, Trường Tây, Trường Đông của huyện, đảm bảo cho việc cung cấp nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho huyện và trong tỉnh. Ngoài con sông lớn kể trên còn có suối (suối Đoạn Trần) và các hệ thống kênh mương (hệ thống kênh tiêu TN, dẫn nước từ hồ Dầu tiếng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nguồn nước ngầm của huyện do vị trí kiến tạo địa chất đã tạo cho Hòa Thành có nguồn nước ngầm khá phong phú, phân bố đều khắp trên lãnh thổ của huyện, có nhiều khu vực nguồn nước ngầm có độ sâu thấp, chất lượng nước tốt. Với trữ lượng và chất lượng nước của huyện như trên đã đảm bảo được nhu cầu nước sinh hoạt cho nhân dân và nước tưới tiêu. TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG Khoáng sản ở Hòa Thành rất hạn chế, chỉ có các nhóm phi kim loại gồm: Sét, sạn, sạn, cát, sét gạch ngói, đá dùng làm vật liệu xây dựng, có thể khai thác phục vụ nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và sản xuất vật liệu xây dựng trong khu vực.
General introduction of Hoa Thanh district 1. HISTORY OF FORMATION Hoa Thanh district was established by Decision Không. 115-CP dated March 14, 1979 of the Government Council, as an inland district, located in the center. Tay Ninh province with coordinates around 106 0 06 ' -106 0 29′ East longitude and 11 0 25 ' -11 0 46′ North latitude, after 02 administrative boundary adjustments, currently has an area of ​​8,292.43 hectares; of which: agricultural land is 5,729.09 hectares, accounting for 68.93%; Non-agricultural land is 2,582.75 hectares, accounting for 31.07%. The East borders Duong Minh Chau district, the West borders Chau Thanh and Ben Cau, the South borders Go Dau, the North borders the Town and Duong Minh Chau. The administrative structure includes 07 communes (Hiep Tan, Long Thanh Bac, Long Thanh Trung, Long Thanh Nam, Truong Dong, Truong Hoa, Truong Tay) and 01 Hoa Thanh town with 35 hamlets and 04 neighborhoods. Population 145,351 people, population density 1,792 people/km 2 ; Over 90% of households follow the Tay Ninh Cao Dai religion. The district has Long Hoa Trade Center, which is the province's goods distribution hub, with National Highway 22B passing through, inter-district and inter-commune traffic routes; Tay Ninh Holy See is the central agency of the Cao Dai religion, a quite famous tourist destination, attracting tens of thousands of visitors every year, nearly 90% of the population follows the Cao Dai religion. With a quite favorable position, Hoa Thanh is a key district for economic-cultural-social development of Tay Ninh province, a centralized administrative area, relatively complete infrastructure, and a diverse service network. Diverse, with many traditional industries such as: producing rattan and bamboo products for export, bricks and tiles, cake coating, garments, bronze casting..., and is also a convenient stop on the Nui Ba - Holy See tourist route. . The team of civil servants enthusiastically overcomes difficulties to complete the tasks, the people have a spirit of hard work and are skilled in creating many diverse and rich products to supply to the market. TOPOGRAPHIC Hoa Thanh's terrain is relatively flat, with a basic terrain type of gently undulating hills, with slopes mostly < 3 o . The terrain tends to gradually lower in the Northwest - Southeast direction. The highest elevation in the Northeast is about 55 - 60 m, the lowest elevation in the Southwest is about 18 - 20 m. Elevation is mostly about 40 - 50 m. Soil samples are mostly ancient alluvium, forming gray soils with light mechanical composition and good compression resistance. Hoa Thanh's geology and topography are very favorable for the arrangement and use of various types of land. 3. SOIL According to soil survey documents, Hoa Thanh has 5 main land groups. The gray soil group accounts for the largest proportion and is the most important resource for agricultural development. In addition, there are alum soil groups, yellow grass soil groups, alluvial soil groups, and peat soil groups. Therefore, Hoa Thanh has the potential to develop all kinds of crops, from water crops to short- and long-term industrial crops and fruit trees of all kinds. CLIMATE Hoa Thanh's climate is tropical monsoon, with few storms and floods, high radiation and evenly distributed throughout the year. The weather is divided into two distinct seasons: rainy season and dry season. + Average temperature 27.5 0 C. + Average rainfall is 165.5mm. + Relative humidity 79.70%. In general, the district's climate and weather conditions are quite favorable for the development of livestock farming and growing short-term or long-term industrial crops such as wheat, sugarcane, rubber, cashew,... HYDROLOGICAL Hoa Thanh's hydrological regime is quite rich, abundant in both surface and underground water sources. The district's surface water source basically has 01 large river, Vam Co Dong River, flowing through Hiep Tan, Long Thanh Trung, Long Thanh Nam, Truong Tay, Truong Dong communes of the district, ensuring the supply of water for irrigation. agricultural production and domestic water services for the district and province. In addition to the large river mentioned above, there are also streams (Doan Tran stream) and canal systems (TN drainage canal system, carrying water from Dau Tieng lake to serve agricultural production. The district's underground water source, due to its geological tectonic position, has given Hoa Thanh a fairly abundant underground water source, evenly distributed throughout the district's territory. There are many areas of underground water sources with low depth and poor water quality. Good. With the district's water reserves and quality as above, it has ensured the people's daily water needs and irrigation water. MINERAL RESOURCES AND CONSTRUCTION MATERIALS Minerals in Hoa Thanh are very limited, only non-metallic groups include: Clay, grit, grit, sand, brick clay, and stone used as construction materials, which can be exploited to serve the needs of basic construction. infrastructure and construction material production in the region.
Giới thiệu khái quát huyện Tân Châu Tân Châu là huyện biên giới của tỉnh Tây Ninh , phía Nam giáp với nước bạn CamPuChia, phía Đông giáp với tỉnh Bình Phước, phía Bắc giáp với Thị Xã Tây Ninh, phía Tây giáp với huyện Tân Biên. Tân Châu có 11 xã gồm: Tân Hưng; Tân Phú; Thạnh Đông; Tân Hiệp; Tân Hội; Tân Đông; Tân Hà; Tân Hòa; Tân Thành; Suối Dây; Suối Ngô và 01 Thị Trấn. Có tổng diện tích đất tự nhiên là 110.106 ha, 32.664 hộ với tổng số dân là 124.119 người, gồm có 15 dân tộc anh em sinh sống trên khắp địa bàn huyện như: Kinh, Chăm, Khmer, Tày, Thái, Mường, Hoa, Xtieng…với nhiều phong tục tập quán của từng cộng đồng dân tộc khác nhau. Đa số người dân sống bằng nghề làm nông nghiệp với các loại cây trồng chủ yếu là Mía, Mì, Cao su…Tân Châu hiện là cửa ngõ quan trọng trong việc giao thương kinh tế giữa tỉnh Tây Ninh và nước bạn CamPuChia và là một trong những huyện có nền kinh tế phát triển mạnh của tỉnh. 1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Huyện Tân Châu nằm về phía Bắc tỉnh Tây Ninh, cách trung tâm thành phố Tây Ninh khoảng 36 km, có tọa độ địa lý 106 o 006 ‘ -106 o 029 ‘ kinh độ Đông và 110 o 25 ‘ -110 o 46 ‘ vĩ độ Bắc, được thành lập theo Quyết định số: 48/QĐ-HĐBT ngày 13/5/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, trên cơ sở chia tách địa giới hành chính từ huyện Tân Biên và huyện Dương Minh Châu với diện tích tự nhiên 95.118ha. Ngày 12/01/2004 Chính phủ ban hành Nghị định số: 21/2004/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Tân Châu và huyện Dương Minh Châu, trên cơ sở sáp nhập 3 ấp: Tà Dơ, Đồng Kèn, Suối Bà Chiêm, thuộc xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu về huyện Tân Châu, tổng diện tích tự nhiên năm 2016 là 110.319,85 ha. Ranh giới hành chính được xác định như sau: – Phía Đông giáp: thị xã Bình Long và huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. – Phía Nam giáp: thành phố Tây Ninh và huyện Dương Minh Châu. – Phía Tây giáp: huyện Tân Biên. – Phía Bắc giáp: Vương quốc Campuchia (có đường biên giới dài 47,5km). – Huyện Tân Châu được chia thành 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 11 xã và 01 thị trấn. Huyện Tân Châu có vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế mậu biên, động lực để phát triển thương mại dịch vụ; vùng sản xuất cây công nghiệp tập trung có thế mạnh của tỉnh Tây Ninh, có mối liên hệ giao thông đối ngoại, liên vùng và nội huyện thuận lợi nhờ hệ thống đường tỉnh phân bố đều đã hình thành bộ khung cơ bản mạng lưới giao thông cho huyện, trong chiến lược phát triển hệ thống giao thông sẽ có các tuyến đường quan trọng của vùng Đông Nam bộ đi qua địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi giao thương với các tỉnh trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng Tây Nguyên, vùng Đồng bằng sông Cửu Long như: Quốc lộ 14C nối liền các tỉnh; đường ĐT. 794, nối liền khu Kinh tế cửa khẩu Kà Tum với các tỉnh lân cận; mạng lưới các tuyến đường tỉnh, kết nối với các trục đường huyện, liên xã và nội bộ xã. Hơn thế nữa, một phần hồ Dầu Tiếng nằm trên địa bàn huyện Tân Châu, được xếp vào cấp công trình loại I, có dung tích thiết kế 1.580 triệu m 3 , cùng với hệ thống di tích lịch sử – văn hóa, căn cứ cách mạng, là điều kiện thuận lợi để phát triển thành khu nghỉ dưỡng, du lịch về nguồn, giải trí, thể thao, công viên, công viên rừng, khu săn bắn, câu cá, du thuyền và các môn thể thao dưới nước. Với những lợi thế về địa kinh tế như trên Tân Châu có điều kiện rất thuận lợi trong phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững, chuyển dịch nhanh cơ cấu sử dụng đất theo hướng tích cực, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. 2. Khí hậu: Huyện Tân Châu mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, thể hiện qua từng yếu tố như sau: – Nền nhiệt độ cao đều quanh năm, nhiệt độ trung bình năm 26,6 o C, giá trị trung bình cao thường xuất hiện vào các tháng 3 và tháng 4 (trung bình 27,6-28,3 o C); nhiệt độ thấp thường xuất hiện trong tháng 12 và tháng 2, chế độ nhiệt cao, ổn định và biên độ nhiệt khá lớn là yếu tố thích hợp để phát triển cây trồng, đặc biệt là các loại cây công nghiệp và cây có củ; cũng như quá trình phân giải hữu cơ và biến đổi trạng thái vật chất trong đất. – Lượng mưa khá cao, số ngày có mưa bình quân 140 ngày/năm; sự phân bố lượng mưa năm phụ thuộc chặt chẽ vào mùa gió, có trên 90% lượng mưa hàng năm xuất hiện vào mùa gió Tây Nam, còn được gọi là các tháng mùa mưa (đầu tháng 5 đến trung tuần tháng 11). Mưa nhiều làm cho quá trình rửa trôi các cation kiềm và dinh dưỡng trong đất xảy ra mạnh mẽ hơn, dẫn đến chua hóa và nghèo kiệt hóa dinh dưỡng. Mùa khô, từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 5 năm sau, lượng mưa thấp, chỉ chiếm dưới 10% tổng lượng mưa cả năm. 3. Thủy văn: Tân Châu là một huyện biên giới có địa hình cao, ít ảnh hưởng của chế độ thủy triều. Song, trên địa bàn có sông Sài Gòn chảy dọc ở phía Đông huyện đây cũng là ranh giới tự nhiên của tỉnh Tây Ninh với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước. Ngoài hồ Dầu Tiếng, còn có các suối, như: Suối Ngô, Suối Tà ôn, suối Tà Ly, suối nước trong, suối nước đục… và hệ thống kênh tưới, kênh tiêu, các hồ chứa nhỏ là phụ lưu, tạo nên mạng lưới thủy văn chính trên địa bàn huyện Tân Châu.
General introduction of Tan Chau district Tan Chau is the border district of Tay Ninh province , the South borders Cambodia, the East borders Binh Phuoc province, the North borders Tay Ninh Town, the West borders Tan Bien district. Tan Chau has 11 communes including: Tan Hung; Tan Phu; Thanh Dong; Tan Hiep; Tan Hoi; Tan Dong; Tan Ha; Tan Hoa; Tan Thanh; String Stream; Ngo Stream and 01 Town. There is a total natural land area of ​​110,106 hectares, 32,664 households with a total population of 124,119 people, including 15 ethnic groups living throughout the district such as: Kinh, Cham, Khmer, Tay, Thai, Muong, Hoa. , Xtieng... with many customs and traditions of each different ethnic community. The majority of people live by farming with the main crops being Sugarcane, Wheat, Rubber... Tan Chau is currently an important gateway in economic trade between Tay Ninh province and Cambodia and is a in districts with strong economic development in the province. 1. Geographical location, natural conditions Tan Chau district is located in the north of Tay Ninh province, about 36 km from Tay Ninh city center, with geographical coordinates 106 o 006 ' -106 o 029 ' East longitude and 110 o 25 ' -110 o forty six ' Northern latitude, established under Decision Không. 48/QD-HDBT dated May 13, 1989 of the Chairman of the Council of Ministers, on the basis of separating the administrative boundaries from Tan Bien district and Duong Minh Chau district with Natural area is 95,118 hectares. On January 12, 2004, the Government issued Decree Không. 21/2004/ND-CP on adjusting the administrative boundaries of Tan Chau district and Duong Minh Chau district, on the basis of merging 3 hamlets: Ta Do, Dong Ken, Suoi Ba Chiem, belongs to Suoi Da commune, Duong Minh Chau district to Tan Chau district, total natural area in 2016 is 110,319.85 hectares. Administrative boundaries are determined as follows: – Bordered to the East: Binh Long town and Hon Quan district, Binh Phuoc province. – Bordered to the South: Tay Ninh city and Duong Minh Chau district. – Bordered to the West: Tan Bien district. – Bordered to the North: Kingdom of Cambodia (47.5km long border). – Tan Chau district is divided into 12 commune-level administrative units, including 11 communes and 01 town. Tan Chau district has a favorable location to develop border trade economy, a driving force to develop trade and services; The strong concentrated industrial crop production area of ​​Tay Ninh province has favorable external, inter-regional and intra-district traffic connections thanks to the evenly distributed provincial road system that has formed the basic framework of the transport network. information for the district, in the transportation system development strategy, there will be important routes of the Southeast region passing through the area, creating favorable conditions for trade with provinces in the southern key economic development region. , the Central Highlands, the Mekong Delta region such as: National Highway 14C connecting the provinces; DT road. 794, connecting Ka Tum border gate economic zone with neighboring provinces; network of provincial roads, connecting with district, inter-commune and intra-commune roads. Furthermore, a part of Dau Tieng lake is located in Tan Chau district, is classified as a type I project, with a design capacity of 1,580 million m3. 3 , along with a system of historical - cultural relics and revolutionary bases, is a favorable condition to develop into a resort, origin tourism, entertainment, sports, park, forest park, tourist area. hunting, fishing, yachting and water sports. With the above geo-economic advantages, Tan Chau has very favorable conditions for sustainable socio-economic development, quickly shifting land use structure in a positive direction, improving use efficiency. land. 2. Climate: Tan Chau district is characterized by a sub-equatorial tropical climate, expressed through the following factors: – The temperature is high all year round, the average annual temperature is 26.6 o C, high average values ​​often appear in March and April (average 27.6-28.3 o C); Low temperatures often appear in December and February. High, stable heat regime and large temperature amplitude are suitable factors for crop development, especially industrial crops and root crops; as well as the process of organic decomposition and change of physical state in the soil. – Rainfall is quite high, the average number of rainy days is 140 days/year; The distribution of annual rainfall depends closely on the monsoon season, with over 90% of the annual rainfall occurring in the southwest monsoon season, also known as the rainy season months (early May to mid-November). Heavy rain makes the process of leaching alkaline cations and nutrients in the soil more intense, leading to acidification and nutrient depletion. The dry season, from late November to early May of the following year, has low rainfall, accounting for less than 10% of the total yearly rainfall. 3. Hydrology: Tan Chau is a border district with high terrain and little influence on tidal regime. However, in the area there is Saigon river Flowing along the east of the district, this is also the natural boundary of Tay Ninh province with Binh Duong province and Binh Phuoc province. In addition to Dau Tieng Lake, there are also streams, such as: Ngo Stream, Ta On Stream, Ta Ly Stream, clear water stream, turbid water stream... and a system of irrigation canals, drainage canals, small reservoirs as tributaries, creating Main hydrological network in Tan Chau district.
Giới thiệu khái quát huyện Bến Cầu Bến Cầu là một trong chín huyện, thị thuộc tỉnh Tây Ninh , có diện tích tự nhiên 233 km 2 , cách thị xã Tây Ninh 30 km về phía Tây Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về phía Tây Bắc, được giới hạn bởi ranh giới hành chính như sau: Phía Bắc giáp huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh (6 km). Phía Nam giáp hai xã Phước Lưu và Bình Thạnh thuộc huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh ( 10 km). Phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Gò Dầu tỉnh Tây Ninh ( 30 km). Phía Tây và Tây Nam giáp Cam-Pu-Chia với đường biên giới dài 37 km. Sau ngày giải phóng, Bến Cầu có 8 xã (An Thạnh, Lợi Thuận, Tiên Thuận, Long Thuận, Long Khánh, Long Giang, Long Chữ và Long Phước). Năm 1999 tách một phần xã Lợi Thuận thành lập thị trấn Bến Cầu. Dân số Bến Cầu năm 1975 có 27.346 người, năm 2009 có 62.934 người (thời điểm 1/4/2009), trong đó người Kinh chiếm 99,69%, dân tộc thiểu số 0,31%. Địa hình của huyện khá bằng phẳng, có xu hướng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và được chia thành ba dạng địa hình chính: dạng địa hình cao đồi gò, có độ cao trên 4m, chiếm 13,37% diện tích tự nhiên toàn huyện và được phân bổ xen kẽ ở các xã Lợi Thuận, thị trấn, Tiên Thuận, Long Giang, Long Chữ và Long Phước; dạng địa hình trũng thấp có độ cao 0,8m, chiếm 32,68% diện tích tự nhiên của huyện, phân bố tập trung cặp theo sông Vàm Cỏ Đông thuộc hai xã An Thạnh, Lợi Thuận và một phần của hai xã Tiên Thuận, Long Chữ; dạng địa hình trung bình, có độ cao từ 0,8-4m, chiếm 53,74% diện tích tự nhiên toàn huyện được phân bổ xen kẽ ở các xã, thị trấn trong huyện. Huyện Bến Cầu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với những đặc trưng chính là nắng nhiều (nhiệt độ bình quân trong năm 27,7 o C) và nằm trong khu vực có lượng mưa và số ngày mưa tương đối thấp nhưng lại phân bổ không đều giữa các tháng. Hệ thống kênh rạch đều có hướng Tây-Bắc, Đông- Nam, mật độ thưa, ngắn và dòng chảy không rõ rệt, có vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp và tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sông Vàm Cỏ Đông chảy cặp theo phía Đông của huyện với chiều dài 30 km cung cấp nước bơm tưới cho 4.000-5.000 ha. Rạch Bảo chảy từ biên giới Cam-Pu-Chia chảy ra sông Vàm Cỏ Đông, chiều dài 10 km đây là nguồn cung cấp nước tưới vào sâu trong nội đồng. Huyện còn có kênh Đìa Xù dài 5 km phục vụ tiêu úng cho vùng đất trũng ở phía Bắc quốc lộ 22A. Đất đai của huyện chủ yếu là đất xám (chiếm 70% diện tích) phân bổ trên địa hình cao, có mặt ở tất cả các xã, nhiều nhất là bốn xã: Long Khánh, Long Phước, Lợi Thuận, Tiên Thuận. Phần còn lại là đất phèn phân bổ ở khu vực có địa hình thấp cặp theo sông Vàm Cỏ Đông và các kênh rạch thuộc các xã An Thạnh, Lợi Thuận, Tiên Thuận và Long Chữ. Huyện có một lượng than bùn khá lớn ở khu vực trũng thuộc xã Tiên Thuận, Long Chữ có thể khai thác đưa vào sản xuất phân bón và chất đốt rất tốt. Trữ lượng đất sét gạch ngói ước tính khoảng 3-4 triệu m 3 , phân bố dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, tập trung nhiều nhất ở các xã An Thạnh, Lợi Thuận và Long Chữ hiện đang được khai thác làm gạch ngói. Tài nguyên sinh vật khá phong phú, mang đặc điểm sinh thái đồng bằng với nhiều chủng loại khác nhau. Các loại động, thực vật nuôi trồng trên địa bàn huyện đều sinh trưởng và phát triển khá tốt, cho năng suất và chất lượng cao. Từ những đặc điểm về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nêu trên có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội của huyện. Bến Cầu nằm trên tuyến giao lưu trực tiếp giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Cam-Pu-Chia, cách Thành phố Hồ Chí Minh và Thị xã Tây Ninh không xa, nên khá thuận lợi để phát triển một nền kinh tế toàn diện. Đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội để thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của huyện. Tiềm năng tự nhiên của huyện khá đa dạng với chế độ nhiệt độ cao đều trong năm, địa hình tương đối bằng phẳng, nguồn nước tự nhiên khá dồi dào, đất đai có tầng canh tác sâu…là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp cũng như xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng như giao thông, công nghiệp và phân bố dân cư. Huyện nằm trong vùng khí hậu có lượng mưa và số ngày mưa tương đối thấp, lại phân chia theo mùa rõ rệt, trong đó vào các tháng mùa mưa, do mưa lớn và tập trung thường gây ngập úng ở các khu vực có địa hình thấp. Vào các tháng mùa khô lượng mưa ít, lượng bốc hơi lớn gây tình trạng khô hạn trên diện rộng đã hạn chế lớn đến quá trình sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Huyện có nguồn nước tự nhiên dồi dào nhưng do số lượng sông, suối, kênh rạch ít lại phân bố không đều, vùng tưới hẹp do diện tích có địa hình cao chiếm tỷ lệ lớn, chi phí đầu tư cho các công trình tưới, tiêu khá cao đã hạn chế đến khả năng khai thác và sử dụng đất nông nghiệp. Đất đai phần lớn là đất xám, nghèo dinh dưỡng nhất là đạm và lân; khả năng giữ nước kém nên trong mùa khô thường bị rửa trôi, xói mòn và các công trình giao thông, hệ thống kênh mương dễ bị sạt lỡ vào mùa mưa. Phần diện tích còn lại là đất phèn, bưng trảng hoang khó khai thác sử dụng. Việc đầu tư, chi phí cho sản xuất nông nghiệp, thủy lợi, giao thông và nguồn nước sinh hoạt rất khó khăn và tốn kém. Trước đây Huyện Bến Cầu gần như nằm giữa ốc đảo (sông Vàm Cỏ Đông bao quanh ba phía, phía còn lại là đường biên giới), cách trở về giao thông. Hiện nay cơ sở hạ tầng giao thông được đầu tư hoàn chỉnh, nối liền đến trung tâm thị xã Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh .
General introduction of Ben Cau district Ben Cau is one of nine districts and towns Tay Ninh province , has a natural area of ​​233 km2 2 , 30 km southwest of Tay Ninh town and 70 km northwest of Ho Chi Minh City, limited by the following administrative boundaries: The North borders Chau Thanh district, Tay Ninh province (6 km). The South borders Phuoc Luu and Binh Thanh communes in Trang Bang district, Tay Ninh province (10 km). The East and Northeast border Go Dau district, Tay Ninh province (30 km). The West and Southwest border Cambodia with a 37 km long border. After liberation, Ben Cau had 8 communes (An Thanh, Loi Thuan, Tien Thuan, Long Thuan, Long Khanh, Long Giang, Long Chu and Long Phuoc). In 1999, a part of Loi Thuan commune was separated to establish Ben Cau town. Ben Cau's population in 1975 was 27,346 people, in 2009 there were 62,934 people (as of April 1, 2009), of which Kinh people accounted for 99.69%, ethnic minorities 0.31%. The district's terrain is quite flat, tends to gradually lower from Northwest to Southeast and is divided into three main terrain types: hilly terrain, with an altitude of over 4m, accounting for 13.37% of the natural area. throughout the district and distributed alternately in Loi Thuan communes, towns, Tien Thuan, Long Giang, Long Chu and Long Phuoc; Low-lying terrain with an altitude of 0.8m, accounting for 32.68% of the natural area of ​​the district, concentratedly distributed along Vam Co Dong river in two communes An Thanh, Loi Thuan and part of two communes Tien Thuan , Long Chu; Average terrain type, with elevation from 0.8-4m, accounting for 53.74% of the natural area of ​​the entire district, distributed alternately in communes and towns in the district. Ben Cau district is located in the tropical monsoon climate zone with the main characteristics being abundant sunshine (average temperature in the year 27.7 o C) and is located in an area with relatively low rainfall and number of rainy days but unevenly distributed between months. The canal system has a North-West and South-East direction, has a low density, is short and has an unclear flow, and plays a very important role in providing and draining water for agricultural production. Vam Co Dong River flows along the east side of the district with a length of 30 km, providing irrigation water for 4,000-5,000 hectares. Rach Bao flows from the Cambodia-Pu-Chia border to the Vam Co Dong River, with a length of 10 km. This is the source of irrigation water deep into the interior of the field. The district also has a 5 km long Dia Xu canal serving to drain lowland areas north of Highway 22A. The district's land is mainly gray soil (accounting for 70% of the area) distributed on high terrain, present in all communes, at most four communes: Long Khanh, Long Phuoc, Loi Thuan, Tien Thuan. The remainder is alum soil distributed in low terrain areas along the Vam Co Dong River and canals in An Thanh, Loi Thuan, Tien Thuan and Long Chu communes. The district has a fairly large amount of peat in the low-lying area of ​​Tien Thuan and Long Chu communes that can be exploited very well to produce fertilizer and fuel. Brick and tile clay reserves are estimated at 3-4 million m3 3 , distributed along the Vam Co Dong River, most concentrated in An Thanh, Loi Thuan and Long Chu communes, currently being exploited for bricks and tiles. Biological resources are quite rich, with delta ecological characteristics with many different species. All types of animals and plants grown in the district grow and develop quite well, giving high productivity and quality. The characteristics of geographical location and natural conditions mentioned above have a direct impact on the socio-economic development process of the district. Ben Cau is located on the direct exchange route between the southern key economic region and Cambodia, not far from Ho Chi Minh City and Tay Ninh Town, so it is quite convenient to develop a global economy. face. At the same time, it also opens up many opportunities to promote the process of transforming the economic structure, crop and livestock structure for the district's socio-economic development goals. The district's natural potential is quite diverse with consistently high temperatures throughout the year, relatively flat terrain, abundant natural water resources, and deep arable land... which are favorable conditions for develop agricultural economy as well as the construction of infrastructure projects such as transportation, industry and population distribution. The district is located in a climate zone with relatively low rainfall and number of rainy days, and is clearly divided into seasons, in which during the rainy season months, heavy and concentrated rain often causes flooding in areas with poor terrain. short. In the dry season months, rainfall is low and evaporation is large, causing widespread drought, greatly limiting people's production and daily life. The district has abundant natural water resources, but due to the small number of rivers, streams, and canals, they are unevenly distributed, the irrigation area is narrow due to a large proportion of the area with high terrain, investment costs for irrigation works, High consumption limits the ability to exploit and use agricultural land. The land is mostly gray soil, poor in nutrients, especially nitrogen and phosphorus; Water retention capacity is poor, so in the dry season it is often washed away and eroded, and traffic works and canal systems are susceptible to landslides in the rainy season. The remaining area is alkaline soil and wild land that is difficult to exploit and use. Investment and costs for agricultural production, irrigation, transportation and domestic water sources are very difficult and expensive. Previously, Ben Cau District was almost located in the middle of an oasis (Vam Co Dong River surrounded on three sides, the remaining side was the border), far from traffic. Currently, the traffic infrastructure is completely invested, connecting to the center of Tay Ninh town and Ho Chi Minh City.
Giới thiệu khái quát huyện Vũ Thư Huyện Vũ Thư nằm giữa ranh giới phía tây của tỉnh với tỉnh Nam Định . Phía bắc và đông bắc lần lượt giáp các huyện Hưng Hà và Đông Hưng của Thái Bình (ranh giới là sông Trà Lý, Vũ Thư nằm kề ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý). Phía tây và nam giáp tỉnh Nam Định (ranh giới là sông Hồng, có cầu Tân Đệ bắc qua). Phía đông giáp thành phố Thái Bình và huyện Kiến Xương của Thái Bình. Vũ Thư có quốc lộ số 10 chạy qua chia huyện làm đôi (đường số 10 chạy từ thành phố Thái Bình kéo đến điểm kết thúc, thuộc địa bàn huyện là cầu Tân Đệ, có tọa độ 20°26’30,90″ vĩ bắc và 106°13’12,45″ kinh đông). Huyện Vũ Thư có diện tích tự nhiên khoảng 195,1618 km² và dân số khoảng 224.832 người. Vũ Thư ngày nay được hội nhập từ hai huyện trước kia của tỉnh Thái Bình là Vũ Tiên và Thư Trì. Riêng 13 xã: Vũ Đông, Vũ Tây, Vũ Sơn, Vũ Lạc, Vũ Quý, Vũ Trung, Vũ Thắng, Vũ Công, Vũ Lễ, Vũ An, Vũ Ninh, Vũ Hòa, Vũ Bình sáp nhập về huyện Kiến Xương . Hiện nay Vũ Thư có diện tích 195,1618 km² phân bổ ở 29 xã và 1 thị trấn. Các đơn vị hành chính trực thuộc thị trấn Vũ Thư (huyện lỵ) Các xã: Xã Trung An Xã Song An Xã Song Lãng Xã Minh Lãng Xã Vũ Vân Xã Vũ Vinh Xã Vũ Hội Xã Vũ Đoài Xã Vũ Tiến Xã Xuân Hòa Xã Hiệp Hòa Xã Tân Hòa Xã Tân Lập Xã Tân Phong Xã Hồng Phong Xã Hồng Lý Xã Hòa Bình Xã Minh Khai Xã Dũng Nghĩa Xã Bách Thuận Xã Việt Thuận Xã Việt Hùng Xã Nguyên Xá Xã Đồng Thanh Xã Phúc Thành Xã Tự Tân Xã Duy Nhất Xã Minh Quang Xã Tam Quang
General introduction of Vu Thu district Vu Thu district is located between the western boundary of the province and Nam Dinh . The north and northeast border Hung Ha and Dong Hung districts of Thai Binh, respectively (the boundary is Tra Ly river, Vu Thu is adjacent to the confluence of Red river and Tra Ly river). The west and south border Nam Dinh province (the boundary is the Red River, crossed by Tan De bridge). The east borders Thai Binh city and Kien Xuong district of Thai Binh. Vu Thu has National Highway Không. 10 running through, dividing the district in half (Road Không. 10 runs from Thai Binh city to the ending point, within the district is Tan De Bridge, with coordinates 20°26'30.90″ latitude north and 106°13'12.45″ east longitude). Vu Thu district has a natural area of ​​about 195.1618 km² and a population of about 224,832 people. Vu Thu today is integrated from two former districts of Thai Binh province, Vu Tien and Thu Tri. Particularly, 13 communes: Vu Dong, Vu Tay, Vu Son, Vu Lac, Vu Quy, Vu Trung, Vu Thang, Vu Cong, Vu Le, Vu An, Vu Ninh, Vu Hoa, Vu Binh merged into the district Kien Xuong . Currently, Vu Thu has an area of ​​195.1618 km² distributed in 29 communes and 1 town. Subordinate administrative units Vu Thu town (district capital) Communes: Trung An commune Song An commune Song Lang commune Minh Lang commune Vu Van commune Vu Vinh commune Vu Hoi Commune Vu Doai commune Vu Tien commune Xuan Hoa commune Hiep Hoa Commune Tan Hoa commune Tan Lap commune Tan Phong commune Hong Phong commune Hong Ly commune Hoa Binh commune Minh Khai commune Dung Nghia commune Bach Thuan commune Viet Thuan commune Viet Hung commune Nguyen Xa Commune Dong Thanh commune Phuc Thanh Commune Tu Tan commune Duy Nhat Commune Minh Quang commune Tam Quang commune
Giới thiệu khái quát huyện Tân Biên Tân Biên là huyện biên giới nằm ở phía Tây Bắc của Tỉnh Tây Ninh , có đường Biên giới dài 92 km, giáp với 4 Huyện thuộc 3 tỉnh của CamPuchia. Huyện có 1 số tuyến đường chiến lược quan trọng như: QL 22B, Tỉnh lộ 783, 791, 795, 788 chạy qua khu căn cứ di tích lịch sử Trung ương Cục miền nam của huyện; có 3 xã biên giới là Tân Lập, Tân Bình, Hòa Hiệp. Dân số huyện khoảng 96.000 nhân khẩu/26.000 hộ, gồm 12 dân tộc anh em đang sinh sống trên địa bàn huyện. Tân Biên là một huyện có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng an ninh và đối ngoại. LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA. Năm Kỷ Tỵ (1749), chúa Nguyễn ( Nguyễn Phúc Khoát ) ở Đàng Trong cử 3 anh em là quan đại thần họ Huỳnh : Huỳnh Công Giản , Huỳnh Công Thắng , và Huỳnh Công nghệ vào trấn giữ và khai mở vùng đất tỉnh Tây Ninh ngày nay. Ba viên quan họ Huỳnh, điều quân di dân đi khai hoang lập ấp, mở mang vùng đất biên cương với Cao Miên này [1] . Đến đầu triều nhà Nguyễn , những năm Gia Long vùng đất huyện Tân Biên ngày nay thuộc đạo Quang Phong trấn Phiên An (sau là tỉnh Gia Định). Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) đổi đạo Quang Phong tỉnh Gia Định thành phủ Tây Ninh, vùng đất là huyện Tân Biên hiện nay nằm trong huyện Tân Ninh phủ Tây Ninh (phủ này chỉ gồm 2 huyện là huyện Tân Ninh ở phía bắc (nay khoảng các huyện thị Tây Ninh, Châu Thành, Tân Biên, Tân Châu,…), và huyện Quang Hóa ở phía nam (Quang Hóa nay khoảng các huyện Gò Dầu, Bến Cầu, Trảng Bàng…). Sau năm 1975, huyện Tân Biên có 11 xã: Hòa Hiệp, Tân Bình, Tân Đông, Tân Hội, Tân Hưng, Tân Lập, Tân Phú, Thạnh Bình, Thạnh Đông, Thạnh Tây, Trà Vong. Ngày 26 tháng 9 năm 1981, thành lập 3 xã: Tân Hiệp, Thạnh Nghĩa, Tân Thạnh; chia xã Trà Vong thành 3 xã: Trà Vong, Mỏ Công, Tân Phong. Từ ngày 13 tháng 5 năm 1989, tách 8 xã: Tân Phú, Thạnh Đông, Thạnh Nghĩa, Tân Thạnh, Tân Hội, Tân Đông, Tân Hưng, Tân Hiệp để thành lập huyện Tân Châu. Ngày 22 tháng 9 năm 1992, thành lập thị trấn Tân Biên – thị trấn huyện lị huyện Tân Biên – trên cơ sở tách ra từ xã Thạnh Tây. Ngày 10 tháng 8 năm 2001, thành lập xã Thạnh Bắc trên cơ sở 9.164 ha diện tích tự nhiên và 2.960 nhân khẩu của xã Thạnh Bình.
General introduction of Tan Bien district Tan Bien is a border district located in the northwest of Vietnam Tay Ninh province , has a 92 km long border, bordering 4 districts of 3 provinces of Cambodia. The district has a number of important strategic roads such as: National Highway 22B, Provincial Roads 783, 791, 795, 788 running through the historical base of the Central Southern Department of the district; There are 3 border communes: Tan Lap, Tan Binh, Hoa Hiep. The district's population is about 96,000 people/26,000 households, including 12 ethnic groups living in the district. Tan Bien is a district with a particularly important strategic position in politics, economics, defense, security and foreign affairs. HISTORY, CULTURAL TRADITIONS. Year Refugee century (1749), Lord Nguyen ( Nguyen Phuc Khoat ) live Dang Trong appointed 3 brothers as mandarins Huynh family : Huynh Cong Gian , Huynh Cong Thang , and Huynh Technology to defend and open up the land of present-day Tay Ninh province. Three officials of the Huynh family sent immigrant troops to reclaim land and establish hamlets, expanding the border lands Cambodia This [first] . To the beginning of the tide Nguyen family , years Gia Long The land of Tan Bien district today belongs to Quang Phong religion, Phien An town (later Gia Dinh province). Come five Minh Mang 17th (1836) changed the religion of Quang Phong, Gia Dinh province into Tay Ninh district, the land that is Tan Bien district is now located in Tan Ninh district, Tay Ninh district (this district only includes 2 districts, Tan Ninh district in the north (now about the districts of Tay Ninh, Chau Thanh, Tan Bien, Tan Chau,...), and Quang Hoa district in the south (Quang Hoa is now around the districts of Go Dau, Ben Cau, Trang Bang...). After 1975, Tan Bien district had 11 communes: Hoa Hiep, Tan Binh, Tan Dong, Tan Hoi, Tan Hung, Tan Lap, Tan Phu, Thanh Binh, Thanh Dong, Thanh Tay, Tra Vong. On September 26, 1981, 3 communes were established: Tan Hiep, Thanh Nghia, Tan Thanh; Divide Tra Vong commune into 3 communes: Tra Vong, Mo Cong, Tan Phong. From May 13, 1989, 8 communes: Tan Phu, Thanh Dong, Thanh Nghia, Tan Thanh, Tan Hoi, Tan Dong, Tan Hung, Tan Hiep were separated to establish Tan Chau district. On September 22, 1992, Tan Bien town was established - the district town of Tan Bien district - based on separation from Thanh Tay commune. On August 10, 2001, Thanh Bac commune was established on the basis of 9,164 hectares of natural area and 2,960 people of Thanh Binh commune.
Giới thiệu khái quát huyện Dương Minh Châu – Phía Đông giáp huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương – Phía Tây giáp Thành phố Tây Ninh và huyện Hoà Thành. – Phía Nam giáp các huyện Gò Dầu và Trảng Bàng. – Phía Bắc giáp huyện Tân Châu. Diện tích của huyện là 434,51 km 2 . Năm 2009, dân số khoảng 104.302 người, đa phần là dân tộc Kinh, trong đó có 52.467 nam và 51.835 nữ. Dân số thành thị có 5.635 người và nông thôn có 98.667 người. Đến năm 2015, tổng dân số là 128.061 người. Một phần hồ Dầu Tiếng nằm trên địa bàn huyện, cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp trên toàn huyện. Du lịch Huyện Dương Minh Châu có 2 địa điểm du lịch là: chiến khu Dương Minh Châu, Hồ Dầu Tiếng. Hồ Dầu Tiếng được xây dựng vào những năm 80 là hồ nước ngọt có diện tích lớn nhất Việt Nam, phần lớn nằm trong huyện Dương Minh Châu, còn lại ở huyện Tân Châu và 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Hành chính Gồm 1 thị trấn Dương Minh Châu và 10 xã: Bàu Năng, Bến Củi, Cầu Khởi, Chà Là, Lộc Ninh, Phan, Phước Minh, Phước Ninh, Suối Đá, Truông Mít. Lịch sử Giữa tháng 5 năm 1951, theo yêu cầu của cuộc kháng chiến, huyện căn cứ Dương Minh Châu được thành lập, huyện lấy tên đồng chí Dương Minh Châu. Về mặt hành chính huyện căn cứ gồm 5 xã: Ninh Thạnh, Thạnh Bình, Chơn Bà Đen, Phước Ninh, Định Thành. Tỉnh uỷ Gia Định Ninh chỉ đạo tách một phần xã Ninh Thạnh nhập vào một phần xã Thái Bình, thành lập xã mới là xã Thạnh Bình. Các xóm quanh núi Bà cùng các xóm dân cư trong khu căn cứ hình thành xã Chơn Bà Đen. Hai xã Lộc Ninh và Phước Hội nhập lại thành xã Phước Ninh; tách ấp Bến Buôn của xã Phước Ninh nhập vào một số xóm dân cư ven sông sài Gòn thành lập xã Định Thành. Dân số khoảng 10.000 người. Sau năm 1975, huyện Dương Minh Châu có 10 xã: Bàu Năng, Bến Củi, Cầu Khởi, Chà Là, Lộc Ninh, Phan, Phước Minh, Phước Ninh, Suối Đá, Truông Mít. Ngày13 tháng 5 năm 1989, tách 2 vùng kinh tế mới Tân Thành và Suối Dây để hợp với 8 xã thuộc huyện Tân Biên thành lập huyện Tân Châu. Ngày 13 tháng 1 năm 1999, thành lập thị trấn Dương Minh Châu – thị trấn huyện lỵ huyện Dương Minh Châu trên cơ sở điều chỉnh 465 ha diện tích tự nhiên và 7.985 nhân khẩu của xã Suối Đá. Ngày 12 tháng 1 năm 2004, một phần diện tích và dân số của xã Suối Đá được điều chỉnh về huyện Tân Châu quản lý. Cụ thể: – 7.433 ha diện tích tự nhiên và 1.104 nhân khẩu (các ấp Tà Dơ, Đồng Kèn) của xã Suối Đá được chuyển về xã Tân Thành, huyện Tân Châu quản lý. – 7.930 ha diện tích tự nhiên và 1.775 nhân khẩu (ấp Suối Bà Chiêm) của xã Suối Đá được chuyển về xã Tân Hòa, huyện Tân Châu quản lý. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Dương Minh Châu còn lại 43.451 ha diện tích tự nhiên và 100.047 nhân khẩu, gồm 1 thị trấn và 10 xã. Kinh tế xã hội Hệ thống đường giao thông của huyện tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo được yêu cầu giao thông trong huyện. Phía Bắc huyện có đường tỉnh 781 trải nhựa, từ thị xã Tây Ninh đến đập chính Hồ nước Dầu Tiếng dài 30 km. Dọc theo phía Tây huyện có đường tỉnh 784 từ Bàu Năng qua ngã ba Đất Sét xuống Bàu Đồn (Gò Dầu) dài 20,7km. Phía Đông huyện có đường tỉnh 789 dài 18km từ Bến Sắn đến Củ Chi (TP HCM). Ngoài ra, còn có các đường trải sỏi đỏ, đường đất nối huyện lỵ với tất cả các xã. Hệ thống đường giao thông được nâng cấp thuận tiên cho việc chuyên chở hàng hoá và đi lại thường ngày. Về tín ngưỡng tôn giáo, cư dân trong huyện chủ yếu theo đạo Cao Đài và đạo Phật. Dương Minh Châu là một vùng căn cứ cách mạng. Trước đó, là căn cứ Trà Vong, sau này, được lấy tên đồng chí Dương Minh Châu đặt tên cho căn cứ. Chiến khu Dương Minh Châu còn là nơi các đơn vị võ trang, lập kế hoạch lập trận làm bàn đạp tấn công quân xâm lược ở các chiến trường xung quanh. Trước Cách mạng tháng Tám, phần lớn, đất huyện Dương Minh Châu là rừng và đồn điền cao su. Thêm vào đó, là công trình thuỷ lợi Lòng hồ Dầu Tiếng được khởi công từ cuối năm 1979. Diện tích mặt hồ khoảng 27000 ha, có sức chứa 1,45 tỉ m 3 nước. Đây là nguồn nước cung cấp cho việc sản xuất nông nghiệp và dân sinh của toàn tỉnh. Bên cạnh đó, đất đai huyện gồm hai loại đật chính là đất xám và đất phù sa, với hệ thống thuỷ lợi Hồ Dầu Tiếng, huyện rất có tiềm năng cho việc phát triển nông nghiệp thuỷ sản và kinh tế du lịch. Chính vì thế mà ngày nay, những địa danh như: Nông trường cao su Dầu Tiếng, Nông trường cao su Bến Củi, Cầu Khởi, Hồ Dầu Tiếng, cầu Kênh Tây, cầu Tân Hưng,… là niềm tự hào một thời của người dân Dương Minh Châu. Hệ thống thuỷ lợi tưới, tiêu ngày càng hoàn chỉnh và phát huy hiệu quả. Hệ thống lưới điện quốc gia đã toả về khắp 10 xã trong huyện. Các công trình phục vụ dân sinh như bệnh viện, trạm xá, trường học, chợ huyện, bãi hát… đã được xây dựng.
General introduction of Duong Minh Chau district – The East borders Dau Tieng district, Binh Duong Province – The West borders Tay Ninh City and Hoa Thanh district. – The South borders Go Dau and Trang Bang districts. – The North borders Tan Chau district. The area of ​​the district is 434.51 km2 2 . In 2009, the population was about 104,302 people, most of whom were Kinh people, including 52,467 men and 51,835 women. The urban population is 5,635 people and the rural population is 98,667 people. By 2015, the total population was 128,061 people. Part of Dau Tieng Lake is located in the district, providing water for daily life and agricultural production throughout the district. Tourism Duong Minh Chau district has 2 tourist destinations: Duong Minh Chau war zone, Dau Tieng Lake. Dau Tieng Lake, built in the 80s, is the largest freshwater lake in Vietnam, mostly located in Duong Minh Chau district, the rest in Tan Chau district and two provinces of Binh Duong and Binh Phuoc. Administration Including 1 town of Duong Minh Chau and 10 communes: Bau Nang, Ben Cui, Cau Khoi, Cha La, Loc Ninh, Phan, Phuoc Minh, Phuoc Ninh, Suoi Da, Truong Mit. History In mid-May 1951, at the request of the resistance, Duong Minh Chau base district was established, the district took the name of comrade Duong Minh Chau. Administratively, the base district includes 5 communes: Ninh Thanh, Thanh Binh, Chon Ba Den, Phuoc Ninh, Dinh Thanh. Gia Dinh Ninh Provincial Party Committee directed a part of Ninh Thanh commune to be merged into a part of Thai Binh commune, establishing a new commune, Thanh Binh commune. The hamlets around Mount Ba and the residential hamlets in the base area form Chon Ba Den commune. The two communes Loc Ninh and Phuoc Hoi merged to form Phuoc Ninh commune; Separating Ben Buon hamlet of Phuoc Ninh commune and merging it with some residential hamlets along the Saigon River to form Dinh Thanh commune. The population is about 10,000 people. After 1975, Duong Minh Chau district had 10 communes: Bau Nang, Ben Cui, Cau Khoi, Cha La, Loc Ninh, Phan, Phuoc Minh, Phuoc Ninh, Suoi Da, Truong Mit. On May 13, 1989, two new economic regions, Tan Thanh and Suoi Day, were separated to merge with 8 communes of Tan Bien district to form Tan Chau district. On January 13, 1999, Duong Minh Chau town was established - the district capital town of Duong Minh Chau district on the basis of adjusting 465 hectares of natural area and 7,985 people of Suoi Da commune. On January 12, 2004, a part of the area and population of Suoi Da commune was adjusted to Tan Chau district for management. Specifically: – 7,433 hectares of natural area and 1,104 people (Ta Do and Dong Ken hamlets) of Suoi Da commune were transferred to Tan Thanh commune, Tan Chau district for management. – 7,930 hectares of natural area and 1,775 people (Suoi Ba Chiem hamlet) of Suoi Da commune were transferred to Tan Hoa commune, Tan Chau district for management. After adjusting the administrative boundaries, Duong Minh Chau district has 43,451 hectares of natural area and 100,047 people left, including 1 town and 10 communes. Socioeconomic The district's road system is relatively complete, ensuring traffic requirements in the district. In the north of the district, there is paved provincial road 781, from Tay Ninh town to the main dam of Dau Tieng Lake, 30 km long. Along the west of the district, there is provincial road 784 from Bau Nang through Dat Set intersection to Bau Don (Go Dau) with a length of 20.7km. In the east of the district, there is provincial road 789, 18km long, from Ben San to Cu Chi (HCMC). In addition, there are red gravel roads and dirt roads connecting the district capital with all communes. The road system has been upgraded to facilitate the transportation of goods and daily travel. Regarding religious beliefs, residents in the district mainly follow Cao Dai religion and Buddhism. Duong Minh Chau is a revolutionary base area. Before that, it was Tra Vong base, later, the base was named after comrade Duong Minh Chau. Duong Minh Chau war zone is also where armed units plan to form battles as a springboard to attack invaders in surrounding battlefields. Before the August Revolution, most of Duong Minh Chau district's land was forests and rubber plantations. In addition, the Dau Tieng Lake irrigation project was started at the end of 1979. The lake surface area is about 27,000 hectares, with a capacity of 1.45 billion m 3 water. This is the water source providing for agricultural production and people's livelihood in the entire province. Besides, the district's land consists of two main types of soil: gray soil and alluvial soil. With the Dau Tieng Lake irrigation system, the district has great potential for the development of agriculture, fisheries and tourism economy. That's why today, places such as: Dau Tieng Rubber Farm, Ben Cui Rubber Farm, Khoi Bridge, Dau Tieng Lake, Kenh Tay Bridge, Tan Hung Bridge,... are the pride of people for a time. People of Duong Minh Chau. Irrigation and drainage systems are increasingly complete and effective. The national power grid system has spread to all 10 communes in the district. Constructions serving people's daily life such as hospitals, clinics, schools, district markets, singing grounds... have been built.
Giới thiệu khái quát huyện Thái Thụy Địa lý Huyện Thái Thụy nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Bình ; phía Đông giáp biển Đông, phía Nam và Đông Nam giáp huyệnTiền Hải, phía Tây Nam giáp huyện Kiến Xương, phía Tây giáp huyện Đông Hưng, phía Tây Bắc giáp huyện Quỳnh Phụ. Về phía Bắc, Thái Thụy giáp với các huyện của thành phố Hải Phòng là: huyện Vĩnh Bảo ở phía chính Bắc (ranh giới là sông Hóa), huyện Tiên Lãng ở phía Đông Bắc (ranh giới là đoạn cửa Thái Bình của sông Thái Bình). Phía Nam huyện có sông Trà Lý chảy men theo ranh giới với huyện Tiền Hải, đổ ra cửa Trà Lý. Chính giữa huyện có con sông Diêm Hộ chảy qua theo hướng Tây – Đông, đổ ra cửa Diêm Hộ , chia huyện thành hai nửa gần tương đương về diện tích. Khí hậu Khí hậu Thái Thụy thuộc vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ven biền Bắc bộ, chịu ảnh hưởng của gió mùa. Nhiệt độ Trung bình trong năm từ 22 – 24c; độ ẩm trung bình 86-87%; lượng mưa trung bình 1.788 mm/năm. Thái Thụy có 1.552,3 ha rừng ngập mặn, tập trung tại các xã ven biển, có tác dụng lớn trong phòng hộ đê biển, điều hoà khí hậu và có giá trị lớn về cảnh quan môi trường, bảo tồn hệ sinh thái ngập nước ven biển, có cồn đen rộng hàng chục ha là nơi cớ thể phát triển ngành du lịch biển. Với bờ biển đài 27 khi và hàng chục nghìn km2 lãnh hải, có 3 của sông lớn hàng năm đổ ra biển một lượng lớn phù sa, vùng biển Thái Thụy có một tiềm năng hải sản phong phú. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu Hải sản 1, trong vừng biển Thái Thụy có ít nhất 46 loài cá có giá trị kinh tế cao, 10 loài tôm, 5 loài mực, v.v… Địa hình Địa hình đồng bằng duyên Hải. Sông Hóa, sông Diêm Hộ, sông Trà Lý chảy qua; có cửa Thái Bình, cửa Diêm Hộ, cửa Trà Lý. Huyện Thái Thụy nằm trong vùng đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn Thái Bình và Trà Lý, địa hình có xu thế cao dần về phía biển, có 27 km bờ biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt với các sông chính là sông Hoá, Sông Diêm Hộ và sông Trà Lý. Sông Hoá chảy qua phía Bắc của huyện, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Thái Thụy và huyện Vĩnh Bảo – Hải Phòng đổ ra biển Ở cửa Thái Bình. Sông Diêm Hộ chảy từ Tây sang Đông chia huyện thành 2 khu: Khu bắc và khu Nam, đổ ra biển ở cửa Diêm Điền. Sông Trà Lý là chi lưu của sông Hồng, chạy qua phần phía Nam huyện, phân định ranh giới giữa huyện Thái Thụy với huyện Tiền Hải và Kiến Xương, đổ ra biển ở cửa Trà Lý.
General introduction to Thai Thuy district Geography Thai Thuy district is located in the Northeast Thai Binh Province ; The East borders the East Sea, the South and Southeast borders Tien Hai district, the Southwest borders Kien Xuong district, the West borders Dong Hung district, the Northwest borders Quynh Phu district. To the North, Thai Thuy borders the districts of Hai Phong city: Vinh Bao district in the North (boundary is Hoa River), Tien Lang district in the Northeast (boundary is the Hoa River section). Thai Binh gate of the Thai Binh River). In the south of the district, there is Tra Ly river flowing along the boundary with Tien Hai district, flowing to Tra Ly estuary. In the middle of the district, there is Diem Ho river flowing through in the West - East direction Diem Ho gate , dividing the district into two halves of nearly equal area. Climate Thai Thuy's climate belongs to the typical northern coastal tropical climate, influenced by the monsoon. Average temperature during the year is from 22 - 24c; average humidity 86-87%; Average rainfall is 1,788 mm/year. Thai Thuy has 1,552.3 hectares of mangrove forests, concentrated in coastal communes, which have a great effect in protecting sea dikes, regulating climate and have great value in environmental landscape, preserving flooded ecosystems. Coastal water with dozens of hectares of black dunes is a place where the marine tourism industry can be developed. With a coastline of 27 miles and tens of thousands of square kilometers of territorial sea, with 3 large rivers discharging large amounts of alluvium into the sea every year, Thai Thuy waters have a rich seafood potential. According to survey data of the Seafood Research Institute 1, in Thai Thuy sea sesame there are at least 46 species of fish with high economic value, 10 species of shrimp, 5 species of squid, etc. Topographic Coastal plain terrain. Hoa River, Diem Ho River, Tra Ly River flow through; There are Thai Binh gate, Diem Ho gate, Tra Ly gate. Thai Thuy district is located in a delta area built up by alluvium from two large rivers Thai Binh and Tra Ly. The terrain tends to gradually rise towards the sea, with 27 km of coastline and an interlaced river system. with the main rivers being Hoa River, Diem Ho River and Tra Ly River. Hoa River flows through the north of the district, is the natural boundary between Thai Thuy district and Vinh Bao district - Hai Phong and flows into the sea at the mouth of Thai Binh. Diem Ho River flows from West to East, dividing the district into two areas: North and South, flowing into the sea at Diem Dien estuary. Tra Ly River is a tributary of the Red River, running through the southern part of the district, demarcating the boundary between Thai Thuy district and Tien Hai and Kien Xuong districts, flowing into the sea at Tra Ly estuary.
Giới thiệu khái quát huyện Quỳnh Phụ 1.1. Vị trí địa lý kinh tế: Quỳnh Phụ nằm ở phía đông bắc tỉnh Thái Bình có tọa độ địa lý từ 20030′ đến 20045′ vĩ độ Bắc và từ 106010’đến 106025’kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Hải Dương, với ranh giới là sông Luộc, phía Nam giáp huyện Thái Thụy, Đông Hưng, phía Đông Thành phố Hải Phòng, phía Tây giáp huyện Hưng Hà. Toàn huyện có 38 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 2 thị trấn và 36 xã) với tổng diện tích 20.961,4 ha chiếm 13,5% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Thái Bình. Thị trấn huyện lỵ Quỳnh Côi là một trong những trung tâm kinh tế hành chính sầm waats, lâu đời của cùng đồng bằng sông Hồng, cách trung tâm tỉnh thành phố Thái Bình 25km. Quỳnh Phụ là cửa ngõ nối Thái Bình với vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Dương- Hải Phòng- Quảng Ninh rất thuận lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế. Với vị trí khá thuận lợi này, huyện Quỳnh Phụ có thị trường lớn là các đô thị lớn trong vùng và xuất khẩu, có cơ hội tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật, thu hút vốn đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế- xã hội của huyện. 1.2. Địa hình Địa hình đất đai của Quỳnh Phụ tương đối bằng phảng, đồng ruộng thấp cao xen kẽ kiểu bát úp, có độ dốc nghiêng từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam (giống địa hình toàn tỉnh); giữa huyện tạo thành lòng chảo, chiếm 62,5% diện tích toàn huyện có độ cao từ 1-2m trên mặt nước biển, nơi cao nhất 3m như (xã Quỳnh Ngọc) nơi thấp nhất là Chiều Trắng, Chiều Ruồi thuộc thôn Lường Cả xã An Vinh cao hơn 0,4m, Cầu Vồng xã An Ninh cao hơn 0,5-0,6m so với Hon Dấu. Trong từng khu vực cũng có độ chia cắt hình thành những tiểu vùng khác nhau về độ cao, thấp, tạo lên những hạn chế nhất định về phát triển vùng thâm canh tăng vụ, bố trí cây trồng và hệ thống thủy lợi. Nhìn chung địa hình Quỳnh Phụ có sự chia cắt ít phức tạp, đất đai hình thành nhờ quá trình bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng, sông Luộc, sông Hóa do khá thuận lợi cho việc phát triển snar xuất nông nghiệp đặc biệt là lúa nước. 1.3. Điều kiện khí hậu Quỳnh Phụ năm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm chung mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông sương giá buốt. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 23-240C; bức xạ mặt trời lớn với tổng mức bức xạ trên 100kca/cm2 /năm, số giờ nắng trung bình từ 1.600-1.800 giờ/1năm và có tổng nhiệt lượng cả năm khoảng 8.5000 C. Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.500-1.900mm, độ ẩm tương đối từ 80-90% 1.4. Thủy văn Quỳnh Phụ có mạng lưới sông dày đặc, phân bố thích hợp cho tưới tiêu tự chảy: Hệ thống sông Luộc, sông Hóa dài 36km chảy qua phía Bắc và phía Tây của huyện dẫn nước vào các sông nội đồng. Sông Yên Lộng tưới cho 8.238ha (tự chảy 1.000ha) Sông Sành, sông Diêm Hộ, sông Cô dài 83km cung cấp và tưới tiêu thoát nước cho cả huyện. Hệ thống cống dưới đê từ Lý Xá đến Láng Láy lấy nước sông Hóa tưới cho 4.500ha. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có các sông ngòi khác với mật độ lớn và nhiều hồ, đầm. Di tích – Danh thắng – Điểm du lịch Ngôi chùa cổ ở miền quê lúa Mẫu Đợi Giới thiệu DTLSVH Quốc gia Đình – Đền – Bến Tượng(Tại Thôn A Sào – An Thái – Quỳnh Phụ – Thái Bình) Huyện Quỳnh Phụ triển khai kế hoạch tổ chức lễ hội Đền A Sào xã An Thái năm 2019. Dâng hương tại đại lễ giổ Tổ dòng họ Trần Việt Nam UBND xã Quỳnh Thọ tổ chức lễ đón bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh chùa Khánh Long và Miếu Thiên Bồng thôn Tiên Bá. Thôn Đồn Xá, xã Quỳnh Hồng khánh thành nhà bia ghi danh Liệt sỹ, mẹ Việt Nam anh hùng. Lễ hội đền A Sào trở thành ‘Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia’ ( Thôn A Sào – An Thái – Quỳnh Phụ – Thái Bình) Lễ hội Đền A Sào thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Thôn A Sào – An Thái – Quỳnh Phụ- Thái Bình) Đền Đồng Bằng – nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy (An Lễ- Quỳnh Phụ – Thái Bình) Lịch sử văn hóa Khai mạc lễ hội truyền thống đền Hoàng Bà và đón nhận bằng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia tại xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ Giới thiệu DTLSVH Quốc gia Đình – Đền – Bến Tượng(Tại Thôn A Sào – An Thái – Quỳnh Phụ – Thái Bình) A Sào – điểm hẹn văn hóa tâm linh Dâng hương tại đại lễ giổ Tổ dòng họ Trần Việt Nam Thị trấn An Bài khánh thành nghĩa trang bà mẹ Việt Nam anh hùng Đặc sản Đồng Bằng – An Lễ – Quỳnh Phụ Lễ hội Đền A Sào thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Thôn A Sào – An Thái – Quỳnh Phụ- Thái Bình) Quỳnh Phụ triển khai kế hoạch tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm 718 năm ngày mất của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn Di tích lịch sử Đền Đồng Bằng – Điểm du lịch hấp dẫn, an toàn Lễ Hội đền A Sào được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
General introduction of Quynh Phu district 1.1. Economic geographical position: Quynh Phu is located in the northeast Thai Binh Province has geographical coordinates from 20030' to 20045' North latitude and from 106010' to 106025' East longitude. The North borders Hai Duong province, with the border of Luoc River, the South borders Thai Thuy and Dong Hung districts, the East Hai Phong City, the West borders Hung Ha district. The whole district has 38 commune-level administrative units (including 2 towns and 36 communes) with a total area of ​​20,961.4 hectares, accounting for 13.5% of the total natural area of ​​Thai Binh province. Quynh Coi district town is one of the oldest and busiest economic and administrative centers of the Red River Delta, 25km from the center of Thai Binh city. Quynh Phu is the gateway connecting Thai Binh with the key economic region of Hanoi - Hai Duong - Hai Phong - Quang Ninh, very convenient for economic exchange and development. With this quite favorable location, Quynh Phu district has a large market including large urban areas in the region and exports, has the opportunity to absorb scientific and technical achievements, attract investment capital to develop economic sectors. socio-economic of the district. 1.2. Topographic Quynh Phu's land terrain is relatively flat, with low and high fields alternating in an upside-down bowl style, with slopes from West to East, from North to South (similar to the terrain of the entire province); The middle of the district forms a basin, accounting for 62.5% of the entire district area with an altitude of 1-2m above sea level, the highest place is 3m (Quynh Ngoc commune) and the lowest place is Chieu Trang and Chieu Ruoi in Luong village. The entire An Vinh commune is 0.4m higher, the Rainbow Bridge in An Ninh commune is 0.5-0.6m higher than Hon Dau. In each area, there is also a degree of division, forming sub-regions with different heights and lows, creating certain limitations in the development of intensive crop growing areas, crop arrangement and irrigation systems. In general, Quynh Phu's terrain has a less complicated division, the land is formed through the alluvial deposition process of the Red River, Luoc River, and Hoa River systems because it is quite favorable for the development of special agricultural exports. is wet rice. 1.3. Weather condition Quynh Phu has a tropical monsoon climate, with common characteristics of hot, humid, rainy summers and frosty winters. The average temperature during the year ranges from 23-240C; Large solar radiation with a total radiation level of over 100kca/cm2/year, average sunshine hours of 1,600-1,800 hours/year and total annual heat of about 8,5000 C. Average annual rainfall ranges from 1,500 -1,900mm, relative humidity from 80-90% 1.4. Hydrological Quynh Phu has a dense river network, appropriately distributed for self-flow irrigation: The 36km long Luoc and Hoa river system flows through the North and West of the district, bringing water into the inland rivers. Yen Long River irrigates 8,238 hectares (1,000 hectares flows on its own) Sanh River, Diem Ho River, and Co River are 83km long, providing irrigation and drainage for the entire district. The culvert system under the dyke from Ly Xa to Lang Lay takes Hoa River water to irrigate 4,500 hectares. In addition, the district also has other rivers with large densities and many lakes and lagoons. Monuments – Landmarks – Tourist attractions Ancient temple in the rice countryside Waiting Form Introducing the National Cultural Heritage of Communal House - Temple - Ben Tuong (At A Sao Village - An Thai - Quynh Phu - Thai Binh) Quynh Phu district implements a plan to organize the A Sao Temple festival in An Thai commune in 2019. Offering incense at the grand anniversary of Vietnam's Tran family The People's Committee of Quynh Tho commune organized a welcoming ceremony with the provincial historical and cultural relics of Khanh Long Pagoda and Thien Bong Temple in Tien Ba village. Don Xa village, Quynh Hong commune inaugurated a stele house to honor Martyrs and heroic Vietnamese mothers. A Sao Temple Festival becomes 'National Intangible Cultural Heritage' (A Sao Village - An Thai - Quynh Phu - Thai Binh) A Sao Temple Festival worshiping Hung Dao King Tran Quoc Tuan (A Sao Village - An Thai - Quynh Phu - Thai Binh) Dong Bang Temple - a place that preserves traditional cultural values ​​that need to be preserved and promoted (An Le - Quynh Phu - Thai Binh) Cultural history Opening the traditional festival of Hoang Ba temple and receiving the certificate of national architectural and artistic relic in Quynh Hoa commune, Quynh Phu district Introducing the National Cultural Heritage of Communal House - Temple - Ben Tuong (At A Sao Village - An Thai - Quynh Phu - Thai Binh) A Sao - a spiritual cultural rendezvous Offering incense at the grand anniversary of Vietnam's Tran family An Bai town inaugurated the Vietnamese heroic mothers cemetery Specialties of the Delta - An Le - Quynh Phu A Sao Temple Festival worshiping Hung Dao King Tran Quoc Tuan (A Sao Village - An Thai - Quynh Phu - Thai Binh) Quynh Phu implemented a plan to organize an incense offering ceremony to commemorate the 718th anniversary of the death of National Duke Tiet Hung Dao Dai Vuong - Tran Quoc Tuan Historical relic of Dong Bang Temple - Attractive and safe tourist destination A Sao Temple Festival is recognized as a national intangible cultural heritage
Giới thiệu khái quát huyện Kiến Xương Huyện Kiến Xương nằm ở phía nam của tỉnh Thái Bình . Địa giới hành chính huyện Kiến Xương: Phía tây giáp huyện Vũ Thư và thành phố Thái Bình Phía tây bắc giáp huyện Đông Hưng Phía đông bắc giáp huyện Thái Thụy Phía đông giáp huyện Tiền Hải Phía nam giáp tỉnh Nam Định (ranh giới là sông Hồng ). Huyện Kiến Xương có 37 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thị trấn: Thanh Nê và 36 xã: An Bình, An Bồi, Bình Định, Bình Minh, Bình Nguyên, Bình Thanh, Đình Phùng, Hòa Bình, Hồng Thái, Hồng Tiến, Lê Lợi, Minh Hưng, Minh Tân, Nam Bình, Nam Cao, Quang Bình, Quang Hưng, Quang Lịch, Quang Minh, Quang Trung, Quốc Tuấn, Quyết Tiến, Thanh Tân, Thượng Hiền, Trà Giang, Vũ An, Vũ Bình, Vũ Công, Vũ Hòa, Vũ Lễ, Vũ Ninh, Vũ Quý, Vũ Sơn, Vũ Tây, Vũ Thắng, Vũ Trung. Lịch sử Thời Lê Trung Hưng, huyện Kiến Xương được gọi là huyện Chân Định thuộc phủ Kiến Xương trấn Sơn Nam. Đến thời nhà Nguyễn, năm 1832 triều Minh Mạng là huyện Chân Định phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định (cũ), đến năm 1889 và 1890, triều Thành Thái, đổi là huyện Trực Định phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Từ Cách mạng tháng Tám đổi thành huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Sau năm 1954, huyện Kiến Xương có 32 xã: An Bình, An Bồi, An Ninh, Bắc Hải, Bình Định, Bình Minh, Bình Nguyên, Bình Thanh, Đình Phùng, Hòa Bình, Hồng Thái, Hồng Tiến, Lê Lợi, Minh Hưng, Minh Tân, Nam Bình, Nam Cao, Phương Công, Quang Bình, Quang Hưng, Quang Lịch, Quang Minh, Quang Trung, Quốc Tuấn, Quyết Tiến, Tán Thuật, Thanh Tân, Thượng Hiền, Trà Giang, Vân Trường, Vinh Quang, Vũ Lăng. Ngày 12 tháng 7 năm 1958, giải thể 2 xã Quang Minh và Vinh Quang. Ngày 17 tháng 6 năm 1969, chuyển 13 xã: Vũ Đông, Vũ Tây, Vũ Sơn, Vũ Lạc, Vũ Quý, Vũ Trung, Vũ Thắng, Vũ Công, Vũ Lễ, Vũ An, Vũ Ninh, Vũ Hòa, Vũ Bình thuộc huyện Vũ Tiên (cũ) về huyện Kiến Xương quản lý. Ngày 10 tháng 9 năm 1969, chuyển 5 xã: Bắc Hải, Phương Công, Vân Trường, Vũ Lăng, An Ninh về huyện Tiền Hải quản lý. Năm 1974, tái lập xã Quang Minh. Ngày 8 tháng 6 năm 1988, thành lập thị trấn Kiến Xương trên cơ sở tách xóm Quang Trung và xóm Tân Tiến của xã Tán Thuật. Ngày 12 tháng 4 năm 2002, hợp nhất thị trấn Kiến Xương và xã Tán Thuật để thành lập thị trấn Thanh Nê. Ngày 13 tháng 12 năm 2007, chuyển 2 xã Vũ Lạc và Vũ Đông về thành phố Thái Bình quản lý. Dự kiến đến năm 2020, huyện sẽ thành lập thêm thị trấn Vũ Quý (trên cơ sở xã Vũ Quý).
General introduction of Kien Xuong district Kien Xuong district is located in the south of Thai Binh Province . Administrative boundaries of Kien Xuong district: The west borders the district Vu Thu and Thai Binh city The northwest borders Dong Hung district The northeast borders the district Thai Thuy The east borders Tien Hai district The south borders Nam Dinh province (boundary is Hong river ). Kien Xuong district has 37 administrative units, including 1 town: Thanh Ne and 36 communes: An Binh, An Boi, Binh Dinh, Binh Minh, Binh Nguyen, Binh Thanh, Dinh Phung, Hoa Binh, Hong Thai , Hong Tien, Le Loi, Minh Hung, Minh Tan, Nam Binh, Nam Cao, Quang Binh, Quang Hung, Quang Lich, Quang Minh, Quang Trung, Quoc Tuan, Quyet Tien, Thanh Tan, Thuong Hien, Tra Giang, Vu An, Vu Binh, Vu Cong, Vu Hoa, Vu Le, Vu Ninh, Vu Quy, Vu Son, Vu Tay, Vu Thang, Vu Trung. History During the reign of Le Trung Hung, Kien Xuong district was called Chan Dinh district, belonging to Kien Xuong district, Son Nam town. During the Nguyen Dynasty, in 1832, under the Minh Mang Dynasty, it was Chan Dinh district, Kien Xuong district, Nam Dinh province (old), and in 1889 and 1890, under the Thanh Thai dynasty, it was changed to Truc Dinh district, Kien Xuong district, Thai Binh province. From the August Revolution, it was changed to Kien Xuong district, Thai Binh province. After 1954, Kien Xuong district had 32 communes: An Binh, An Boi, An Ninh, Bac Hai, Binh Dinh, Binh Minh, Binh Nguyen, Binh Thanh, Dinh Phung, Hoa Binh, Hong Thai, Hong Tien, Le Loi, Minh Hung, Minh Tan, Nam Binh, Nam Cao, Phuong Cong, Quang Binh, Quang Hung, Quang Lich, Quang Minh, Quang Trung, Quoc Tuan, Quyet Tien, Tan Thuat, Thanh Tan, Thuong Hien, Tra Giang, Van Truong , Glory, Vu Lang. On July 12, 1958, two communes, Quang Minh and Vinh Quang, were dissolved. On June 17, 1969, 13 communes: Vu Dong, Vu Tay, Vu Son, Vu Lac, Vu Quy, Vu Trung, Vu Thang, Vu Cong, Vu Le, Vu An, Vu Ninh, Vu Hoa, Vu Binh belonged to Vu Tien district (old) was managed by Kien Xuong district. On September 10, 1969, 5 communes: Bac Hai, Phuong Cong, Van Truong, Vu Lang, An Ninh were transferred to Tien Hai district for management. In 1974, Quang Minh commune was re-established. On June 8, 1988, Kien Xuong town was established on the basis of separating Quang Trung hamlet and Tan Tien hamlet of Tan Thuat commune. On April 12, 2002, Kien Xuong town and Tan Thuat commune merged to establish Thanh Ne town. On December 13, 2007, Vu Lac and Vu Dong communes were transferred to Thai Binh city for management. It is expected that by 2020, the district will establish Vu Quy town (on the basis of Vu Quy commune).
Giới thiệu khái quát huyện Đông Hưng Huyện Đông Hưng nằm giữa trung tâm tỉnh Thái Bình , phía Đông giáp huyện Thái Thụy, phía Bắc giáp huyện Quỳnh Phụ, phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Hưng Hà , phía Tây Nam giáp huyện Vũ Thư, chính giữa phía Nam giáp thành phố Thái Bình, phía Đông Nam giáp huyện Kiến Xương. Con sông Trà Lý chảy men theo ranh giới phía Nam của huyện với các huyện Vũ Thư và Kiến Xương. Huyện Đông Hưng có diện tích tự nhiên là 191,76 km², toàn bộ là đồng bằng; Dân số: 246.335 người. Huyện có 44 đơn vị hành chính cấp xã gồm 1 thị trấn là thị trấn Đông Hưng và 43 xã: Đông Cường, Đông Xá, Đông Phương, Đông Sơn, Đông La, Đông Giang, Đông Hà, Đông Các, Đông Hợp, Đông Động, Đông Vinh, Đông Kinh, Đông Tân, Đông Lĩnh, Đông Phong, Đông Huy, Đông Á, Đông Hoàng, Đông Xuân, Đông Dương, Đông Quang, Trọng Quan, Đồng Phú, Liên Giang, Đô Lương, Phú Lương, Nguyên Xá, Phong Châu, Phú Châu, Minh Châu, An Châu, Hợp Tiến, Mê Linh, Chương Dương, Thăng Long, Lô Giang, Hoa Lư, Hoa Nam, Minh Tân, Hồng Việt, Hồng Châu, Hồng Giang, Bạch Đằng. Sông Trà Lý chảy men theo ranh giới phía nam của huyện với các huyện Vũ Thư và Kiến Xương. Trên địa bàn huyện có một mạng lưới chằng chịt các con sông nhỏ lấy nước từ hai con sông là sông Luộc và sông Trà Lý để cấp nước cho sông Diêm Hộ. Trong đó có sông Sa Lung và con sông lớn nhất là sông Tiên Hưng, là nhánh lớn của sông Diêm Hộ, lấy nước từ sông Luộc, chảy qua thị trấn Đông Hưng. Cực đông của huyện nằm tại xã Đông Kinh, cực bắc nằm tại xã Đô Lương, cực tây nằm tại xã Bạch Đằng, cực nam nằm tại xã Đông Á. Huyện có diện tích tự nhiên là 191,76 km², toàn bộ là đồng bằng. Dân số năm 2007 là 246.335 người. Di tích
General introduction to Dong Hung district Dong Hung district is located in the center Thai Binh Province , the East borders Thai Thuy district, the North borders Quynh Phu district, the West and Northwest borders Hung Ha district , the southwest borders Vu Thu district, the middle south borders Thai Binh city, the southeast borders Kien Xuong district. Tra Ly river flows along the southern boundary of the district with Vu Thu and Kien Xuong districts. Dong Hung district has a natural area of ​​191.76 km², all of which is plain; Population: 246,335 people. The district has 44 commune-level administrative units including 1 town, Dong Hung town, and 43 communes: Dong Cuong, Dong Xa, Dong Phuong, Dong Son, Dong La, Dong Giang, Dong Ha, Dong Cac, Dong Hop, Dong Dong, Dong Vinh, Dong Kinh, Dong Tan, Dong Linh, Dong Phong, Dong Huy, Dong A, Dong Hoang, Dong Xuan, Dong Duong, Dong Quang, Trong Quan, Dong Phu, Lien Giang, Do Luong, Phu Luong, Nguyen Xa, Phong Chau, Phu Chau, Minh Chau, An Chau, Hop Tien, Me Linh, Chuong Duong, Thang Long, Lo Giang, Hoa Lu, Hoa Nam, Minh Tan, Hong Viet, Hong Chau, Hong Giang, Bach Dang . Tra Ly River flows along the southern boundary of the district with Vu Thu and Kien Xuong districts. In the district, there is an intricate network of small rivers that take water from two rivers, Luoc River and Tra Ly River, to supply water to Diem Ho River. Among them are Sa Lung River and the largest river is Tien Hung River, a large branch of Diem Ho River, taking water from Luoc River, flowing through Dong Hung town. The easternmost point of the district is located in Dong Kinh commune, the northernmost point is located in Do Luong commune, the westernmost point is located in Bach Dang commune, and the southernmost point is located in Dong A commune. The district has a natural area of ​​191.76 km², all of which is plain. The population in 2007 was 246,335 people. Relics
Giới thiệu khái quát huyện Võ Nhai Võ Nhai là một huyện miền núi phía đông bắc tỉnh Thái Nguyên . 1/ Điều kiện tự nhiên Võ Nhai có diện tích tự nhiên 83.950,24ha; Gồm 14 xã và 1 thị trấn, trong đó có 11 xã thuộc khu vực III còn lại 4 đơn vị thuộc khu vực II; dân số hiện có 66.340 người. Là huyện có địa hình phức tạp, đồi núi là chủ yếu, đất ruộng ít, phần lớn diện tích là đồi núi thấp và núi đá vôi, những vùng đất bằng phẳng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhỏ, chủ yếu theo các khe suối, triền sông và thung lũng. 2/ Tài nguyên thiên nhiên · Tài nguyên đất Theo kết quả phúc tra theo phương pháp định lượng FAO/UNESCO do Viện Thiết kế xây dựng thực hiện thì toàn huyện có các nhóm đất sau: – Đất phù sa: 1.816 ha chiếm 2,16% diện tích – Đất đen: 935,5 ha chiếm 1,11% diện tích – Đất xám bạc màu: 63.917,7 ha chiếm 76,08% diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các thung lũng trên địa bàn tất cả các xã trong huyện. – Đất đỏ: 3.770,80ha, chiếm 4,49% diện tích tự nhiên – Các loại đất khác: có 13.570,44 ha chiếm 16,16% diện tích. Nhìn chung Võ Nhai có nhiều loại đất canh tác phù hợp với nhiệu loại cây trồng, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả và trồng rừng, song chủ yếu là đất đồi núi; những diện tích đất bằng phẳng phục vụ cho canh tác nông nghiệp rất thấp, đất ruộng lúa chỉ còn 2.916,81 ha. · Tài nguyên rừng Do diện tích đất lâm nghiệp lớn, lại là huyện vùng cao khí hậu nhiệt đới nên hệ thực vật có nhiều gỗ quý từ nhóm II đến nhóm VIII, song đến nay trữ lượng không còn nhiều. Rừng già và rừng trung bình chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là ở các vùng sâu, vùng xa. Ngoài rừng gỗ còn có rừng tre, nứa, vầu… Trong 50.595 ha rừng có: – Rừng gỗ: 20.115 ha – Rừng tre, nứa, vầu: 603 ha – Rừng hỗn giao: 3.440,87 ha – Rừng núi đá: 26.437 ha Hệ động vật tương đối phong phú, đa dạng, gồm các loại thú rừng, bò sát, chim. Hiện nay số lượng động vật đang bị suy giảm nhiều do nạn săn, băn bừa bãi và chặt phá rừng làm mất nơi cư trú. · Tài nguyên khoáng sản Qua kết qủa điều tra tìm kiếm thăm dò, Võ Nhai có các loại khoáng sản sau: – Kim loại màu: Gồm chì, Kẽm ở Thần Sa với quy mô trữ lượng nhỏ không tập trung, Vàng ở Thần Sa, Sảng Mộc, Liên Minh nhưng chỉ là vàng sa khoáng, hàm lượng thấp, quản lý khai thác khó khăn. – Mỏ phốt pho ở La Hiên trữ lượng khá (khoảng 60.000 tấn) – Khoảng sản vật liệu xây dựng như: Đá xây dựng, cát, sỏi, sét xi – măng ở La Hiên, Cúc Đường có trữ lượng lớn, chất lượng tốt. · Tài nguyên nước Trong huyện có hai hệ thống nhánh sông trực thuộc hệ thống sông Cầu và sông Thương, đó là hệ thống sông Nghinh Tường và hệ thống sông Dong và nhiều khe, suối nhỏ do đó nguồn nước mặt tương đối phong phú nhưng phân bố không đều. Qua điều tra thăm dò khảo sát thì nguồn nước ngầm tương đối phong phú, chất lượng tốt đảm bảo phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. · Tiềm năng du lịch Với địa hình có dãy núi đá vôi xen lẫn núi đất trung điệp tạo nên những thắng cảnh đẹp tự nhiên của núi rừng. Quần thể hang động Phượng Hoàng, Suối Mỏ Gà và hang động khác như: Nà Kháo, Hang Huyền,… có nhiều nhũ đá tạo nên cảnh quan đẹp. Mái Đá Ngườm ở xã Thần Sa là cái nôi ra đời sớm nhất của người Âu Lạc. Rừng Khuôn Mánh xã Tràng Xá là nơi thành lập đội cứu quốc quân II và nhiều hang động, di tích khác đã đi vào lịch sử của dân tộc. Do hệ thống giao thông đang từng bước hoàn chỉnh nên tiềm năng du lịch của huyện đang được phát huy cùng với hệ thống du lịch trong toàn tỉnh. · Nguồn nhân lực – Dân số cuối năm 2002 toàn huyện có 14.110 hộ với 62.744 người, nữ chiếm 50,08% dân số. Trong đó: Nhân khẩu nông nghiệp: 59.830 người. Nhân khẩu phi nông nghiệp: 2.914 người. Mật độ dân số trung bình: 73 người/km2, phân bố không đều giữa các vùng, đông nhất ở trung tâm huyện lỵ và dọc Quốc lộ 1B, ở các xã vùng sâu, vùng xa mật độ thấp 22 – 25 người/km2. – Dân tộc: toàn huyện có 8 dân tộc anh em là: Kinh 38% chiếm dân số; Tày, Nùng chiếm 21%; các dân tộc Dao, H’Mông, Cao Lan, Sán Chí, Hoa chiếm 41%. – Lao động: Toàn huyện có 29.703 lao động nông nghiệp chiếm 47,34% dân số, trong đó lao động nữ chiếm 57,5%. Hầu hết dân số sống ở nông thôn (khoảng 90%), chủ yếu là sản xuất nông – lâm nghiệp. Về trình độ lạo động nhìn chung thấp. Số người được bồi dưỡng về kỹ thuật trồng, trăm sóc cây trồng ở tiểu vùng I là 6,11%, Tiểu vùng II là 42,5% và Tiểu vùng III là 32% tổng số hộ. Số lao động có văn hoá bậc tiểu học chiếm 74,32%, trình độ bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông chiếm 25%. Số còn lại có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học rất ít. Số hộ gia đình được giao lưu với bên ngoài không nhiều.
General introduction to Vo Nhai district Vo Nhai is a mountainous district in the northeast Thai Nguyen province . 1/ Natural conditions Vo Nhai has a natural area of ​​83,950.24 hectares; Including 14 communes and 1 town, of which 11 communes belong to region III and the remaining 4 units belong to region II; The current population is 66,340 people. This is a district with complex terrain, mainly hills and mountains, little farmland, most of the area is low hills and limestone mountains, flat lands serve small agricultural production, mainly along the valleys. streams, rivers and valleys. 2/ Natural resources · Land resources According to the results of the survey using the FAO/UNESCO quantitative method conducted by the Institute of Construction Design, the entire district has the following land groups: – Alluvial land: 1,816 hectares, accounting for 2.16% of the area – Black soil: 935.5 hectares, accounting for 1.11% of the area – Infertile gray soil: 63,917.7 hectares, accounting for 76.08% of the natural land area, distributed in valleys in all communes in the district. – Red soil: 3,770.80 hectares, accounting for 4.49% of the natural area – Other types of land: 13,570.44 hectares, accounting for 16.16% of the area. In general, Vo Nhai has many types of arable land suitable for many types of crops, especially industrial crops, fruit trees and forestry, but mainly mountainous land; The area of ​​flat land for agricultural cultivation is very low, rice field land is only 2,916.81 hectares. · Forest resources Due to the large area of ​​forestry land and a highland district with a tropical climate, the flora has many precious woods from group II to group VIII, but up to now there are not many reserves left. Old forests and medium forests account for a low proportion, mainly in remote areas. In addition to wood forests, there are also bamboo forests... In 50,595 hectares of forest there are: – Wood forest: 20,115 hectares – Bamboo forest: 603 hectares – Mixed forest: 3,440.87 hectares – Stone mountain forest: 26,437 hectares The fauna is relatively rich and diverse, including wild animals, reptiles, and birds. Currently, the number of animals is greatly reduced due to indiscriminate hunting, hunting and deforestation, causing loss of habitat. · Natural resources Through the results of investigation and exploration, Vo Nhai has the following minerals: – Non-ferrous metals: Including lead, Zinc in Than Sa with small, unconcentrated reserves, Gold in Than Sa, Sang Moc, Lien Minh but only placer gold, low content, difficult to manage and exploit. – Phosphorus mine in La Hien has good reserves (about 60,000 tons) – Production of construction materials such as construction stone, sand, gravel, clay and cement in La Hien and Cuc Duong has large reserves and good quality. · Water Resources In the district, there are two tributary systems belonging to the Cau and Thuong river systems, which are the Nghinh Tuong river system and the Dong river system and many small streams and streams, so surface water resources are relatively abundant but unevenly distributed. . Through investigation and survey, underground water resources are relatively abundant and of good quality, ensuring service for daily life and production. · Tourism potential With a terrain of limestone mountains mixed with midland mountains, it creates beautiful natural landscapes of mountains and forests. The complex of Phuong Hoang cave, Mo Ga Stream and other caves such as Na Khao, Hang Huyen,... have many stalactites creating beautiful landscapes. Nguom Stone Roof in Than Sa commune is the earliest cradle of the Au Lac people. Khuon Manh Forest in Trang Xa commune is where the National Salvation Army II was established and many other caves and relics have gone down in the nation's history. Because the transportation system is gradually being completed, the district's tourism potential is being promoted along with the tourism system throughout the province. · Human Resources – The population at the end of 2002 in the whole district had 14,110 households with 62,744 people, women accounted for 50.08% of the population. In there: Agricultural population: 59,830 people. Non-agricultural population: 2,914 people. Average population density: 73 people/km2, unevenly distributed among regions, largest in the district center and along National Highway 1B, in remote communes, low density is 22 - 25 people/km2 . – Ethnicity: the whole district has 8 ethnic groups: Kinh 38% of the population; Tay and Nung account for 21%; The Dao, H'Mong, Cao Lan, San Chi, and Hoa ethnic groups account for 41%. – Labor: The entire district has 29,703 agricultural workers, accounting for 47.34% of the population, of which female workers account for 57.5%. Most of the population lives in rural areas (about 90%), mainly engaged in agricultural and forestry production. The level of employment is generally low. The number of people receiving training in planting techniques in sub-region I is 6.11%, Sub-region II is 42.5% and Sub-region III is 32% of the total number of households. The number of workers with primary school education accounts for 74.32%, with middle school and high school education accounting for 25%. The remainder have very few intermediate, college, or university degrees. The number of households interacting with the outside is not much.
Giới thiệu khái quát huyện Bá Thước Bá Thước là huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa , trung tâm huyện lỵ cách thành phố Thanh Hóa khoảng 120 km về phía Bắc Tây bắc, có diện tích tự nhiên 7.522,02 ha, gồm 22 xã và 01 thị trấn. Huyện có tọa độ địa lý từ 20010’ – 20024’ vĩ độ Bắc và từ 105003’ – 105028’ kinh độ Đông. – Phía Bắc giáp tỉnh Hòa Bình; – Phía Nam giáp huyện Lang Chánh và Ngọc Lặc; – Phía Đông giáp huyện Cẩm Thủy và huyện Thạch Thành; – Phía Tây giáp huyện Quan Hóa và huyện Quan Sơn. Nhìn chung Bá Thước có vị trí địa lý ít thuận lợi cho việc phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống giao thông chưa phát triển do địa hình bị chia cắt mạnh, gây cản trở lớn đến việc giao lưu kinh tế giữa các xã trong huyện và các huyện lân cận. Du lịch Bá Thước có nhiều danh lam thắng cảnh thiên nhiên chưa được khai thác như: khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (cụm Quốc Thành), thác Mơ ở xã Điền Quang, đập Điền Hạ, thác Hiêu (Hươu), hang Dơi (Kho Mường), Suối Cá (Văn Nho)… đi kèm với các thắng cảnh này là một hệ thống hang động rất đẹp và nhiều các sản vật quý của rừng. Lâm sản Bá Thước là một huyện miền núi thuộc vùng sâu vùng xa, giao thông vận tải không thuận lợi nên kinh tế còn nhiều khó khăn, tài nguyên rừng rất lớn nhưng chưa được khai thác hợp lý, nạn phá rừng còn xảy ra phổ biến. Rừng Bá Thước có rất nhiều gỗ quý như lim, lát, kiêng, ngù hương…ngoài ra còn có cây đặc trưng là cây luồng (là một loại thuộc họ tre nhưng thân thẳng, chắc được dùng nhiều trong xây dựng cơ bản…) Đơn vị hành chính Huyện có thị trấn Cành Nàng (tiếng Mường). Ngoài thị trấn Cành Nàng là trung tâm của huyện thì còn có Điền Lư cũng phát triển, được xem là trung tâm của khu vực Hồ Điền – Quý Lương, Điền Lư hiện nay được gọi là phố Điền Lư với 1 Bưu điện, 1 ngân hàng và khu chợ Điền Lư nhộn nhịp. Ngoài ra còn có phố Đồng Tâm thuộc xã Thiết Ống với 1 Bưu điện và 1 Chợ. Ngoài ra còn có Quốc lộ 217 và Quốc lộ 15 nối liền với các Huyện lân cận. Tổ chức hành chính: gồm 22 xã: Ái Thượng, Ban Công, Cổ Lũng, Điền Hạ, Điền Lư, Điền Quang, Điền Thượng, Điền Trung, Hạ Trung, Kỳ Tân, Lâm Sa, Lũng Cao, Lũng Niêm, Lương Ngoại, Lương Nội, Lương Trung, Tân Lập, Thành Lâm, Thành Sơn , Thiết Kế, Thiết Ống, Văn Nho và 1 thị trấn Cành Nàng. Giáo dục Huyện Bá Thước có 3 trường phổ thông trung học là Trường Trung học phổ thông Hà Văn Mao, THPH Bá Thước và Bá Thước 3. Ngoài ra, huyện còn có một trường bổ túc văn hóa.
General introduction of Ba Thuoc district Ba Thuoc is a mountainous district of Thanh Hoa province , the district center is about 120 km north-northwest of Thanh Hoa city, with a natural area of ​​7,522.02 hectares, including 22 communes and 01 town. The district has geographical coordinates from 20010' - 20024' North latitude and from 105003' - 105028' East longitude. – The North borders Hoa Binh province; – The South borders Lang Chanh and Ngoc Lac districts; – The East borders Cam Thuy district and Thach Thanh district; – The West borders Quan Hoa district and Quan Son district. In general, Ba Thuoc has a geographical location that is less favorable for socio-economic development. The transportation system has not been developed due to the highly fragmented terrain, greatly hindering economic exchanges between communes in the district and neighboring districts. Tourism Ba Thuoc has many untapped natural landscapes such as: Pu Luong nature reserve (Quoc Thanh cluster), Mo waterfall in Dien Quang commune, Dien Ha dam, Hieu (Deer) waterfall, Bat cave (Kho Muong), Suoi Ca (Van Nho)... accompanying these landscapes is a very beautiful cave system and many precious forest products. Forest Products Ba Thuoc is a mountainous district in a remote area, transportation is not convenient, so the economy is still facing many difficulties, forest resources are very large but have not been exploited properly, deforestation is still common. Ba Thuoc forest has a lot of precious wood such as ironwood, bamboo, bamboo, etc. In addition, there is also a typical tree, the bamboo tree (a type of bamboo family with straight, strong stems, used a lot in basic construction...) Administrative units The district has Canh Nang town (Muong language). In addition to Canh Nang town, which is the center of the district, Dien Lu is also developing, considered the center of the Ho Dien - Quy Luong area. Dien Lu is now called Dien Lu street with 1 post office, 1 bank. bustling Dien Lu market and shops. There is also Dong Tam street in Thiet Ong commune with 1 Post Office and 1 Market. There are also National Highway 217 and National Highway 15 connecting to neighboring districts. Administrative organization: includes 22 communes: Ai Thuong, Ban Cong, Co Lung, Dien Ha, Dien Lu, Dien Quang, Dien Thuong, Dien Trung, Ha Trung, Ky Tan, Lam Sa, Lung Cao, Lung Niem, Luong Ngoai , Luong Noi, Luong Trung, Tan Lap, Thanh Lam, Thanh Son , Design, Thiet Ong, Van Nho and 1 Canh Nang town. Education Ba Thuoc district has 3 high schools: Ha Van Mao High School, Ba Thuoc High School and Ba Thuoc 3. In addition, the district also has a cultural supplementary school.