text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Lê Long Mang (chữ Hán: 黎龍鋩) là một hoàng tử của nhà Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai thứ 10 của Vua Lê Đại Hành. Sinh tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Ông được vua phong tước "Nam Quốc Vương"(南國王), đóng tại Vu Lung, tức vùng đất thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Căn cứ vào năm sinh người con trai thứ năm của vua Lê Đại Hành (986) và năm phong vương thì năm sinh của ông nằm trong khoảng từ 986 đến 994.
Ông được Vua Lê Đại Hành phong vương năm 994. Việc này được sử gia Ngô Thì Sĩ sau này nhận xét: | 1 | null |
Lê Long Đề (chữ Hán: 黎龍鍉) hay Lê Minh Đề (黎明提) là một hoàng tử của nhà Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai thứ 11 của Vua Lê Đại Hành.
Tiểu sử.
Sinh tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Ông được vua phong tước "Hành Quân Vương"(行軍王), đóng tại Bắc Ngạn, tức vùng đất thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Căn cứ vào năm sinh người con trai thứ năm của vua Lê Đại Hành (986) và năm phong vương thì năm sinh của ông nằm trong khoảng từ 986 đến 995.
Ông được Vua Lê Đại Hành phong vương năm 995. Việc này được sử gia Ngô Thì Sĩ sau này nhận xét:
Đi sứ Trung Hoa.
Theo Đại việt sử ký toàn thư, năm 1004, vua Lê Đại Hành sai Hành Quân Vương Minh Đề, xưng là nhiếp Hoan Châu thứ sử, sang thăm nước Tống. Minh Đề đến Biện Kinh khẩn cầu ân mệnh cho tuyên phủ đất xa. Vua Tống bằng lòng cho; gọi vào điện riêng thăm hỏi và ban thưởng rất hậu, cho Minh Đề chức Kim tử vinh lộc đại phu kiểm hiệu thái úy Hoan Châu thứ sử. Ông ở Trung Hoa tới năm 1006 mới trở về nước. Do đó, ông không chứng kiến cảnh các anh em của mình tranh chấp ngôi vua khi Lê Đại Hành qua đời.
Tranh đoạt hoàng vị.
Lê Long Đề không tham gia giai đoạn đầu trong Chiến tranh kế vị thời Tiền Lê nhưng khi Lê Long Đĩnh cai trị được 4 năm và qua đời, con trai là Lê Cao Sạ còn bé, Lê Minh Đề đã tranh cướp ngôi vua, bị Lý Công Uẩn giết, nhà Tiền Lê chấm dứt.
Sách "An Nam chí lược" chép: | 1 | null |
Lê Long Thâu (chữ Hán: 黎龍鍮, ? - 1000) là một hoàng tử của nhà Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử.
Lê Long Thâu là con trai cả của vua Lê Đại Hành, được phong làm Thái tử. Ông sinh tại kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Năm 989, hoàng tử Lê Long Thâu được phong là Kình Thiên Đại vương (擎天大王), xây phủ riêng tại kinh đô Hoa Lư, tức vùng đất thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay. Dấu tích phủ cũ Kình Thiên Vương ở cố đô Hoa Lư hiện còn di tích phủ Vườn Thiên.
Tương truyền xưa ông là người cai quản Tháp Tư thiên xây dựng tại Hoa Lư. Tháp đặt gần ghềnh có nhiệm vụ quan sát thiên tượng, dự đoán thời tiết hàng ngày để tâu lên vua. Trong việc quân cơ rất cần biết thời tiết, khí tượng. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là tháp đài mà năm 991 Tống Cảo - sứ nhà Tống đã tâu vua Tống rằng: "...ở kinh đô Hoa Lư có một cái tháp nhiều tầng, kết gỗ dựng lên, hình dáng hơi thô lậu, Lê Hoàn có mời bọn hạ thần lên đó xem. Lê Hoàn hỏi: bên thượng quốc có cái tháp này không? Ấy là tháp đo khí hậu. Khí hậu nước này không rét, giữa tháng Chạp vẫn mặc áo đơn, dùng quạt".
Thái tử Long Thâu mất năm 1000, cùng năm mất với thái hậu Dương Vân Nga. Vua Lê Đại Hành chần chừ trong việc lập Thái tử mới, dẫn đến cuộc tranh giành ngôi vua vào năm 1005.
Phủ Vườn Thiên.
Phủ Vườn Thiên "(còn gọi là đền thờ hoàng tử Lê Long Thâu hay phủ Kình Thiên Vương)" là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của khu di tích cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Phủ Vườn Thiên nằm cách trung tâm khu di tích cố đô Hoa Lư 600m, gần với đền thờ Công chúa Phất Kim (nơi thờ con gái út của vua Đinh Tiên Hoàng). Phủ có kiến trúc y hệt quy mô của một ngôi đền với 3 tòa chầu vào sân giữa.
Ở Hà Nam, quê hương của Lê Hoàn, Hoàng tử Lê Long Thâu cũng được thờ cùng 2 vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành cùng thái hậu Dương Vân Nga và tử Lê Long Tích tại di tích đình Yến, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm. | 1 | null |
Đổng Hải Xuyên (董海川 - Dong Haichuan) (1798 – 1879), người sống vào thời vua Gia Khánh nhà Thanh tại Chu Gia Vụ, huyện Văn An, tỉnh Hà Bắc trong một lần đi Giang Nam đã lạc đường tại núi Tuyết Hoa và đã học được môn Bát Quái Chưởng và Hà Đồ, Lạc Thư từ một đạo sĩ ở miền núi.
Đổng Hải Xuyên rất giỏi và nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh, được xem như một chưởng môn về Bát quái chưởng, có nhiều học trò nổi tiếng như Sử Lập Khanh, Lưu Phụng Xuân, Lương Chấn Tấn, Trương Triệu Đông, Tống Trường Vinh, Mã Quý, Vi Phước, Trịnh Đình Hoa, Tống Vĩnh Tường, Mã Duy Kỳ, Ngụy Cát, Lý Văn Bảo, Doãn Phúc, Lý Tồn Nghĩa...
Tương truyền rằng Đổng Hải Xuyên sau khi học Bát Quái Chưởng với vị đạo sĩ kia xong đã đi đến Bắc Kinh làm "hoạn quan" trong phủ của Tiêu Thân Vương, một vị hoàng thân quốc thích trong triều rất ham mê xem các trò lưu diễn võ thuật trong dân gian. Trong một lần mừng thọ Tiêu Thân Vương, do không chen nổi với đám đông trong phủ để dâng trà mừng thọ Thân Vương, Đổng Hải Xuyên đã lùi lại phóng qua đầu đám đông để dâng trà cho vị Thân Vương kia. Sự kiện này đã làm cả phủ và Tiêu Thân Vương bái phục và vui mừng, nhưng ông đã bị viên Hộ vệ trong phủ thách đấu và chiến thắng thần tốc. Tiêu Thân Vương thấy thế bèn phong cho ông làm Tổng Hộ vệ phủ Thân Vương và đảm nhiệm thêm chức giáo đầu dạy võ trong phủ. Từ đó danh tiếng của Bát Quái Chưởng đã lưu truyền khắp ra ngoài khu vực Bắc Kinh.
Về sau, Đổng Hải Xuyên kết bạn với danh thủ Quách Vân Thâm của môn Hình Ý Quyền, sau trận thử thách ngang tài. Hai người kết hợp hai môn cùng dạy cho các học trò. Trong số các học trò của Đổng Hải Xuyên có Trịnh Đình Hoa rất giỏi, nổi tiếng ở Hoa Bắc. Trịnh Đình Hoa có học trò giỏi nhất là Tôn Lộc Đường sau này học thêm Thái cực quyền với Hác Vi Trinh ở Bắc Kinh và lập ra trường phái Thái cực quyền Tôn Gia Giá thức. | 1 | null |
Âm nhạc Celtic là một nhóm lớn các thể loại âm nhạc mà phát triển trong số các âm nhạc truyền thống dân gian của người Celtic ở Tây Âu. Khái niệm này đề cập đến cả âm nhạc truyền miệng và bằng văn bản.
"Âm nhạc Celtic" có 2 ý nghĩa chính. Thứ nhất là âm nhạc của các dân tộc tự xưng là người Celt. Thứ hai, nó đề cập đến bất cứ phẩm chất nào có liên quan duy nhất đến âm nhạc của người Celtic.
Thông thường, âm nhạc Celtic ám chỉ âm nhạc của Ireland và Scotland. Âm nhạc của xứ Wales, Cornwall, Isle of Man, Brittany, Galicia, Cantabria và Asturias (Tây Ban Nha) và Bồ Đào Nha cũng được coi là âm nhạc Celtic. | 1 | null |
Magnesit là một khoáng vật có công thức hóa học MgCO3 (magie cacbonat). Magnesit có thể được hình thành thông qua quá trình cacbonat hóa nhóm serpentin và các đá siêu base khác.
Phân bố.
Magnesit xuất hiện ở dạng mạch trong các sản phẩm thay thế của các đá siêu mafic, serpentinit và các đá mácma giàu magnesi khác trong các kiểu biến chất tiếp xúc và biến chất khu vực. Các magnesit này thường ở dạng vi tinh thể và chứa silica ở dạng opal hay chert.
Magnesit cũng có mặt trong regolith bên trên các đá siêu mafic ở dạng cacbonat thứ sinh trong đất và dưới mặt đất, ở đây chúng được tích tụ ở dạng các khoáng chứa magnesi hòa tan bởi cacbon dioxide trong nước dưới đất.
Hình thành.
Magnesit có thể được hình thành thông qua quá trình biến chất trao đổi talc cacbonat hóa và cacbonat hòa của peridotit và các đá siêu base khác. Magnesit được hình thành thông qua quá trình cacbonat hóa olivin có mặt của nước và cacbon dioxide ở nhệt độ và áp suất cao, đặc biệt là tướng đá phiến lục.
Magnesit cũng có thể được hình thành thông qua quá trình cacbonat hóa serpentin magnesi (lizardit) qua phản ứng sau:<br>
"serpentin + cacbon dioxide → talc + magnesit + nước"
Tuy nhiên, khi thực hiện phản ứng này trong phòng thí nghiệm, thì dạng trihydrat của magie cacbonat (nesquehonit) sẽ hình thành ở nhiệt độ phòng. Theo quan sát này dẫn đến sự thừa nhận sự tồn tại của một "rào cản chống hydrat" liên quan đến sự thành tạo anhydrous magnesi cacbonat ở nhiệt độ thấp. Các thí nghiệm trong phòng với formamid, một loại chất lỏng giống như nước, cho thấy không có sự liên quan của việc tạo rào cản như thế. Những khó khăn cơ bản cấu tạo hạt nhân magnesi carbonat khan vẫn duy trì khi sử dụng dung dịch không phải gốc nước này. Không phải sự mất nước cation, cũng không phải cấu trúc không gian của các anion cacbonat tạo ra rào cản này ở nhiệt độ phản ứng thấp của magnesit.
Magnesit đã từng được phát hiện trong các trầm tích hiện đại, hang động và trong đất. Nhiệt độ thành tạo thấp của nó (khoảng 40 °C) được cho là cần thiết cho sự thay thế giữa thời gian kết tủa và hòa tan.
Magnesit được phát hiện trong thiên thạch ALH84001 và trên sao Hỏa. Magnesit đã từng được nhận dạng trên sao Hỏa bằng cách sử dụng quang phổ điện từ cận hồng ngoại từ vệ tinh quay quanh nó. Tranh cãi vẫn xoay quanh nhiệt độ hình thành của nó. Nhiệt độ hình thành thấp đã được đề xuất dự trên magnesit trên sao Hỏa và thiên thạch ALH84001. Nhiệt độ hình thành thấp của magnesit có lẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng hấp thụ cacbon trên quy mô lớn.
Olivin giàu magnesi (forsterit) tạo ra magnesit từ peridotit. Olivin giàu sắt (fayalit) tạo ra các hỗn hợp magnetit-magnesit-silica.
Magnesit cũng có thể được hình thành bằng cách biến chất các từ skarn, trong dolomit, cộng sinh với wollastonit, periclase, và talc.
Sử dụng.
Tương tự như sản phẩm của vôi, magnesit có thể bị đốt có mặt của than để tạo ra MgO, là một dạng khoáng có tên là periclase. Một lượng lớn magnesit được đốt để tạo ra magiê oxide: một loại vật liệu chịu lửa quan trọng được sử dụng làm lớp lót trong các lò đốt và lò luyện kim.
Magnesit cũng có thể được dùng làm chất kết dính trong vật liệu ván sàn. Ngoài ra, nó còn được dùng làm chất xúc tác và lọc trong sản xuất cao su nhân tạo và trong pha chết các hóa chất magnesi và phân bón. | 1 | null |
Serpentinit là một loại đá có thành phần gồm một hoặc nhiều khoáng vật trong nhóm serpentin. Các khoáng vật trong nhóm này được tạo thành từ quá trình serpentin hóa, một loại hydrat và biến chất từ đá siêu mafic trong manti của Trái Đất. Sự thay thế đặc biệt quan trọng ở đáy đại dương tại các ranh giới mảng kiến tạo.
Hình thành và thạch luận.
Serpentin hóa là một quá trình biến chất địa chất nhiệt độ thấp liên quan đến nhiệt và nước mà trong đó các đá siêu mafic và mafic có hàm lượng silica thấp bị oxy hóa (oxy hóa kỵ khí của Fe2+ bởi các proton của nước dẫn đến sự hình thành H2) và bị thủy phân bởi nước thành serpentinit. Peridotit, bao gồm dunit, ở tại và gần đáy đại dương và trong các đai núi được biến đổi thành serpentin, brucit, magnetit, và các khoáng vật khác - hiếm hơn là awaruit (Ni3Fe), và thậm chí là sắt tự sinh. Trong quá trình này, một lượng lớn nước được hấp thụ vào trong đá làm tăng thể tích và phá hủy cấu trúc đá.
Tỷ trọng của đá dao động từ 3,3 đến 2,7 g/cm³ với sự gia tăng thể tích đồng thời lên 30-40%. Phản ứng tỏa nhiều nhiệt và nhiệt độ của đá có thể tăng lên khoảng , cung cấp một nguồn năng lượng cho việc hình thành các mạch nhiệt dịch không liên quan đến núi lửa. Các phản ứng hóa học hình thành magnetit tạo ra khí hydro trong điều kiện kỵ khí nằm sâu trong manti, rất xa với khí quyển Trái Đất. Cacbonat và sulfat cũng lần lượt bị khử bởi hydro và tạo thành metan và hydro sulfide. Hydro, metan, và hydro sulfide cung cấp các nguồn năng lượng cho các sinh vật dưỡng hóa năng (chemotroph) ở biển sâu.
Các phản ứng serpentinit.
Serpentin được hình thành từ olivin qua nhiều phản ứng. Olivin là một dung dịch rắn giữa forsterit gốc magnesi và fayalit gốc sắt. Các phản ứng serpentinit 1a và 1b bên dưới trao đổi silica giữa forsterit và fayalit để tạo thành các khoáng vật nhóm serpentin và magnetit. Đây là các phản ứng tỏa nhiều nhiệt.
Phản ứng 1a:<br>
"Fayalit + nước → magnetit + dung dịch silica + hydro"
<br>
Phản ứng 1b:<br>
"Forsterit + dung dịch silica → serpentin"
<br>
Phản ứng 1c:<br>
"Forsterit + nước → serpentin + brucit"
Phản ứng 1c thể hiện sự hydrat hóa olivin bởi nước chỉ để tạo ra serpentin và Mg(OH)2 (brucit). Serpentin bền ở pH cao với sự có mặt của brucit giống như calci silicat hydrat, các pha (C-S-H) được hình thành cùng với portlandit (Ca(OH)2) trong xi-măng Portland được làm cứng sau khi hydrat hóa belit (Ca2SiO4), calci nhân tạo tương đương với forsterit.
Phản ứng một chiều của 1c với sự hydrat hóa belit trong xi-măng Portland ban đầu:<br>
"Belit + nước → pha C-S-H + portlandit"
Sau phản ứng, các sản phẩm phản ứng có độ hòa tan kém (dung dịch silica hoặc các ion magie được hòa tan) có thể được vật chuyển trong dung dịch ra khỏi khu vực serpentin hóa bởi sự khuếch tán.
Khi có mặt của cacbon dioxide sự serpentin hóa có thể tạo thành hoặc là magnesit (MgCO3) hoặc tạo ra metan (CH4). Người ta cho rằng một số khí hydrocarbon có thể được tạo ra từ các phản ứng serpentinit trong vỏ đại dương.
Phản ứng 2a:
<br>
hoặc, ở dạng cân bằng:
<br>
Phản ứng 2b:
<br>
Phản ứng 2a chiếm chủ yếu nếu serpentinit nghèo Mg hoặc nếu không đủ cacbon dioxide để tạo thành talc. Phản ứng 2b xảy ra nếu thành phần có nhiều magnesi và áp suất riêng phần của cacbon dioxide thấp. | 1 | null |
Chert là một loại đá trầm tích vi tinh chứa các hạt silica rất mịn và có thể chứa các hóa thạch nhỏ. Loại đá này có nhiều màu sắc khác nhau, nhưng loại màu thường gặp nhất là xám, nâu, nâu xám và lục nhạt đến đỏ Rusty; màu sắc của nó cho thấy sự hiện diện của các nguyên tố vết trong đá, và cả màu đỏ cũng như lục thường liên quan đến các nguyên tố vết của sắt (theo thứ tự ở dạng oxy hóa và khử). | 1 | null |
Cát khai, trong khoáng vật học, là khuynh hướng vật liệu kết tinh có thể vỡ ra theo một mặt phẳng cấu trúc tinh thể học nhất định. Các mặt phẳng yếu này là kết quả của những vị trí tinh thể và ion có tính quy luật trong tinh thể, chúng tạo ra những bề mặt phẳng lặp lại mà chúng ta có thể quan sát được dưới kính hiển vi và bằng mắt thường.
Các khai có thể được miêu tả theo nhiều cách khách nhau, như cát khai hoàn toàn, không hoàn toàn; nếu xét theo 3 trục tinh thể học thông thường thì có thể chia ra: cát khai theo một phương, 2 phương và 3 phương. | 1 | null |
Trong khoáng vật học, vết vỡ là hình dạng và cách sắp xếp của một bề mặt được hình thành khi một khoáng vật bị đập vỡ. Các khoáng vật thường có một vết vỡ rất đặc trưng, vì thế các vết vỡ này được dùng để xác định khoáng vật.
Vết vỡ khác với cát khai vì cát khai liên quan đến sự vỡ ra dọc theo các mặt cấu trúc của tinh thể còn vết vỡ là sự vỡ thì có nghĩa tổng quát hơn. Tất cả khoáng vật đều có vết vỡ, nhưng khi tính cát
khai quá thể hiện quá rõ thì rất khó để xác định được vết vỡ.
Thuật ngữ.
Vết vỡ vỏ sò.
Vết vỡ vỏ sò là vết vỡ trên mặt có những vòng đồng tâm như vỏ sò. Nó thường xảy ra với khoáng vật không kết tin hoặc mịn như đá lửa, opan hoặc đá vỏ chai, nhưng cũng xảy ra với các khoáng vật kết tinh ví dụ như thạch anh. (lưu ý rằng đá vỏ chai là một loại đá macma, không phải khoáng vật, nhưng cũng cho thấy vết vỡ vỏ sò)
Vết vỡ dạng đất.
Vết vỡ dạng đất có nguồn gốc từ đất vỡ. Nó được thấy ở các khoáng vật tương đối mềm, lỏng ví dụ như limonit, kaolinit và aluminit.
Vết vỡ răng cưa.
Vết vỡ răng cưa có dạng sắc nhọn, lởm chởm. Nó thường xảy ra khi kim loại bị xé ra, thường thấy ở các kim loại tự nhiên ví dụ như đồng và bạc.
Vết vỡ dạng sợi.
Vết vỡ dạng sợi bao gồm các mảnh nhỏ sắc dài. Nó cụ thể được nhìn thấy ở các khoáng vật dạng sợi ví dụ như amiăng trắng, nhưng cũng xảy ra cả với khoáng vật không phải dạng sợi ví dụ như kyanit.
Vết vỡ xớ.
Vết vỡ xớ có bề mặt không bằng phẳng và ngẫu nhiên. Nó xảy ra với nhiều khoáng vật ví dụ như arsenopyrit, pyrit và magnetit. | 1 | null |
Vết vạch hay màu vết vạch của khoáng vật là màu bột của khoáng vật đó khi vạch nó lên trên một bề mặt không bị phong hóa. Thường người ta dùng một mẫu sứ trắng không tráng men để vạch khoáng vật lên đó sẽ thấy được màu vết vạch rõ hơn. Màu vết vạch này thường chính xác hơn màu của bản thân cục khoáng vật là một dấu hiệu quan trọng trong việc nhận dạng khoáng vật. Nếu không có vết vạch, thì có thể gọi khoáng vật đó không màu hoặc màu trắc. Vết vạch đặc biệt quan trọng trong việc xác định các vật liệu có màu và đục, và ít có tác dụng đối với các khoáng vật silicat vì chúng hầu hết có màu trắng và khó để lấy được bột của chúng. | 1 | null |
Dunit là một loại đá mácma xâm nhập có thành phần siêu mafic với kiến trúc hiển tinh hạt thô. Tập hợp khoáng vật với hơn 90% là olivin, các khoáng vật phụ gồm pyroxen, cromit và pyrop. Dunit là một loại đá nguồn gốc từ manti thuộc nhóm peridotit giàu olivine. Dunit và các đá peridotit khác được xem là những hợp phần chính của manti Trái Đất ở độ sâu khoảng 400 km. Dunit hiếm được tìm thấy trong các đá trên lục đ5ia, nhưng nơi nó được pháh hiện thường ở phần dưới của chuỗi ophiolit nơi mà các miếng của đá manti trong đới hút chìm bị hút xuống bên dưới vỏ lục địa trong quá trình tạo va chạm tạo thành các cung đảo (kiến tạo sơn). Nó cũng được tìm thấy trong các khối núi peridotit có mặt của bạc thuộc phần manti á lục địa xuất lộ trong quá trình va mảng tạo núi. Dunit đặc biệt trải quá quá trình biến chất ngược trong các môi trường gần bề mặt và được thay thế tạo thành serpentinit và soapston. | 1 | null |
Awaruit là một dạng hợp kim tự nhiên của niken và sắt có công thức hóa học từ Ni2Fe đến Ni3Fe.
Awaruit xuất hiện ở dạng sa khoáng trong sống có nguồn gốc từ peridotit và ophiolit bị serpentin hóa. Nó cũng là thành phần hiếm trong thiên thạch. Nó xuất hiện cộng sinh với vàng tự sinh và magnetit trong sa khoáng; với đồng, heazlewoodit, pentlandit, violarit, cromit, và millerit trong peridotit; với kamacit, allabogdanit, schreibersit và graphit trong thiên thạch.
Khoáng vật này được miêu tả đầu tiên năm 1885 khi nó xuất hiện dọc theo sông Gorge, Awarua Bay South Island, New Zealand, nó chỉ xuất hiện ở dạng địa phương.
Awaruit cũng được gọi là "josephinit" trong các mẫu bắt gặp ở quận Josephine, Oregon, ở đây chúng có dạng cục sa khoáng trong các lòng suối và dạng khối trong các đá bị serpentin hóa của Josephine peridotit. Một số mẫu chứa andradit granat. | 1 | null |
được biết ở Việt Nam với tên gọi Chú khủng long ham ăn là loạt manga viết bởi Yumiko Igarashi và Fumiko Shiba, được xuất bản giữa tháng 3 năm 1993 và tháng 9 năm 1994 trên tạp chí Ciao của tạp Shogakukan. Sau đó loạt truyện này được chuyển thể thành 51 tập anime ra mắt ở Nhật Bản đồng thời vào 4 tháng 9 năm 1993 và 27 tháng 8 năm 1994. Câu chuyện xoay quanh một cô bé tên là Uiba Shikatani và về chú khủng long con do ba cô ấy tìm thấy, sau đó cô ấy đặt tên cho nó là "Muka"( Năm Căn theo cách gọi của người Việt ) vì chú khủng long ấy chỉ nói được từ đó. | 1 | null |
Eusthenopteron là một chi cá vây thùy tuyệt chủng mang tính biểu tượng từ các mối quan hệ gần của nó với động vật bốn chân. Miêu tả ban đầu của loài động vật này cho thấy nó sống trên mặt đất, tuy nhiên hầu hết các nhà cổ sinh vật học hiên nay đều đồng ý nó là một động vật thủy sinh hoàn toàn. Chi "Eusthenopteron" được biết đến từ một số loài sống vào kỷ Devon muộn, khoảng 385 triệu năm trước. "Eusthenopteron" đã được mô tả đầu tiên bởi J.F. Whiteaves vào năm 1881, như một phần của một bộ sưu tập lớn các loài cá từ Miguasha, Quebec. | 1 | null |
là một công ty thương mại chuyên quản lý diễn viên lồng tiếng tài năng ở Nhật Bản được thành lập vào năm 1981 (do đó tên công ty được đặt là 81). Một đĩa hybrid CD-ROM gồm nhiều dữ liệu về tài năng lồng tiếng (giọng nói) của các thành viên trong 81 Produce đã được ra mắt vào ngày 19 tháng 10 năm 1997. Công ty này toạ lạc tại Shibuya, Tokyo. | 1 | null |
Trường Đại học Công nghiệp Việt – Hung (tiếng Anh: "Vietnam–Hungary Industrial University" – VIU) là trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương, chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Lịch sử hình thành.
Năm 1977: trường Công nhân kỹ thuật Hữu nghị Việt Nam-Hungary được thành lập nhờ sự giúp đỡ to lớn và quý báu của Hungary. Trường có sứ mệnh đào tạo những lớp thanh niên mới trở thành những người lao động có kỹ thuật cao, có kỷ luật và tác phong công nghiệp để xây dựng đất nước sau chiến tranh. Quy mô thiết kế ban đầu của trường là 1.000 học sinh, đào tạo các nhóm ngành Cơ khí và Điện.
Năm 1988: Trường được nâng cấp và đổi tên thành trường Trung học Công nghiệp Việt-Hung, với nhiệm vụ đào tạo các kỹ thuật viên trung cấp tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Quy mô của trường được nâng lên 2.500 học sinh. Các ngành đào tạo được mở rộng đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhà trường đào tạo thêm các ngành Kế toán và Công nghệ thông tin.
Năm 2005: Trường được nâng cấp thành trường Cao đẳng với tên gọi mới Trường Cao đẳng Công nghiệp Việt-Hung, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về chất của nhà trường. Trình độ đội ngũ giáo viên được nâng lên rõ rệt. Cơ sở vật chất được bổ sung đáp ứng quy mô đào tạo 4.500 học sinh, sinh viên. Nhà trường tiếp tục hoạch định chiến lược chuẩn bị các điều kiện để trở thành trường Đại học.
Năm 2010: Trường được Nhà nước nâng cấp thành trường Đại học Công nghiệp Việt-Hung. Qua 3 lần nâng cấp từ công nhân lên trung cấp, từ trung cấp lên cao đẳng và từ cao đẳng lên Đại học nhà trường vẫn giữ tên gọi trường Việt-Hung. | 1 | null |
Britney Jean là album phòng thu thứ tám của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 3 tháng 12 năm 2013 bởi RCA Records. Đây là album đầu tiên mà Spears hợp tác cùng RCA Records kể từ khi hãng đĩa lâu năm của cô, Jive Records giải tán năm 2011. Việc thực hiện album đã được bắt đầu từ tháng 5 năm 2013 đến tháng 10 cùng năm. Tại nhiều sự kiện, nữ ca sĩ đã mô tả album như là "album cá nhân nhất trong sự nghiệp của mình". Trong "Britney Jean", cô đã tham gia đồng sáng tác và sản xuất với nhiều nhạc sĩ và nhà sản xuất như Sia Furler và will.i.am. Ngoài ra, "Britney Jean" còn có sự tham gia góp giọng của T.I., will.i.am và em gái của Spears, Jamie Lynn Spears.
Sau khi phát hành, album nhận được những ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ ca ngợi ý tưởng về một "album cá nhân", nhưng lại cho rằng hướng sản xuất không mới mẻ của nó lại khá mâu thuẫn với ý tưởng ban đầu. "Britney Jean" ra mắt ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 với 107.000 bản, trở thành album có thứ hạng và lượng đĩa tiêu thụ thấp nhất của Spears ở Hoa Kỳ. Điều tương tự cũng xảy ra ở Vương quốc Anh, khi nó đạt vị trí thứ 34; trên toàn thế giới, "Britney Jean" không có được thành công đáng kể, chỉ lọt vào top 20 và top 30 ở hầu hết các quốc gia.
"Work Bitch" được chọn làm đĩa đơn đầu tiên trích từ album vào ngày 17 tháng 9 năm 2013, và đạt vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, cũng như gặt hái những thành công đáng kể trên thị trường quốc tế. Đĩa đơn thứ hai, "Perfume", được phát hành như là đĩa đơn thứ hai và cuối cùng từ "Britney Jean" vào ngày 4 tháng 11 năm 2013, và đạt vị trí thứ 76 trên "Billboard" Hot 100. Spears đã xuất hiện trên "Good Morning America" vào ngày 17 tháng 9 để công bố chương trình biểu diễn cư trú kéo dài hai năm của cô tại Planet Hollywood Resort & Casino, mang tên "", bắt đầu vào tháng 12 năm 2013. "Britney Jean" là album thứ hai lấy tiêu đề là chính tên cô, sau album năm 2001 "Britney". | 1 | null |
Quốc kỳ Belarus hiện nay ( / "Sciah Bielarusi"; / "Flag Belarusi") là một lá cờ đỏ kết hợp với dải màu xanh lục cùng một họa tiết trang trí màu trắng-đỏ đặt ở góc bên trái. Thiết kế hiện tại đã được Ủy ban Tiêu chuẩn hóa Cộng hòa Belarus giới thiệu vào năm 2012 và được điều chỉnh từ một thiết kế được phê chuẩn trong một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 5 năm 1995. Đây là một phiên bản sửa đổi của lá cờ năm 1951 được sử dụng khi Belarus là một trong những nước cộng hòa thuộc Liên Xô. Những thay đổi được thực hiện cho lá cờ thời Xô viết là bỏ các biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản (như búa liềm và ngôi sao đỏ) và sự đảo ngược màu sắc của hoa văn trang trí, từ trắng trên đỏ sang đỏ trên trắng. Kể từ cuộc trưng cầu dân ý năm 1995, một số lá cờ được sử dụng bởi các quan chức và cơ quan chính phủ Belarus đã được mô phỏng theo lá quốc kỳ này. Ngoài ra, Quốc kỳ Belarus được gọi một cách bán chính thức là hồng lục kỳ ().
Thiết kế này đã thay thế lá cờ trắng-đỏ-trắng trong lịch sử được sử dụng bởi Cộng hòa Nhân dân Belarus vào năm 1918, trước khi Belarus trở thành một nước Cộng hòa Xô viết, và được sử dụng lại một lần nữa sau khi giành lại được độc lập vào năm 1991. Các nhóm đối lập đã tiếp tục sử dụng lá cờ này, mặc dù việc xuất hiện của nó ở Belarus đã bị hạn chế bởi chính phủ, nơi tuyên bố nó có liên quan đến sự hợp tác với Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cờ trắng-đỏ-trắng chủ yếu được sử dụng trong các cuộc biểu tình chống lại chính phủ bởi cộng đồng người di cư Belarus.
Thiết kế.
Thiết kế cơ bản của quốc kỳ Belarus được mô tả lần đầu tiên trong Nghị định Tổng thống số 214 ngày 14 tháng 7 năm 1995. Lá cờ này là một miếng vải hình chữ nhật gồm hai sọc ngang: một dải màu đỏ phía trên bao gồm hai phần ba chiều cao của lá cờ và dài màu xanh lá cây dưới bao phủ một phần ba. Một họa tiết truyền thống đỏ được trang trí trên nền màu trắng, chiếm một phần chín chiều dài của lá cờ, được đặt gần phần treo lên cột cờ. Tỷ lệ giữa chiều rộng và chiều dài của cờ là 1:2.
Lá cờ này không khác biệt đáng kể so với lá quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia tồn tại trước đó, ngoài việc bỏ búa liềm và ngôi sao đỏ, và sự đảo ngược của màu đỏ và trắng trong hoa văn trang trí. Mặc dù không có giải thích chính thức cho màu của lá cờ, nhưng đã có lời giải thích được đưa ra bởi Tổng thống Aliaksandr Lukašenka. Theo đó, màu đỏ tượng trưng cho tự do và sự hy sinh của những người đi trước của quốc gia, trong khi màu xanh lá cây đại diện cho sự sống.
Ngoài nghị định năm 1995, "STB 911–2008: Quốc kỳ nước Cộng hòa Belarus" đã được Ủy ban Tiêu chuẩn hóa Cộng hòa Belarus công bố vào năm 2008, đưa ra các thông số kỹ thuật của lá quốc kỳ, như chi tiết của màu sắc và hoạ tiết trang trí. Thiết kế trang trí màu đỏ trên lá cờ quốc gia đến năm 2012 là chiều rộng của lá cờ, và đối với lề trắng. Kể từ năm 2012, phần hoạ tiết màu đỏ đã thay thế toàn bộ lề trắng (vẫn ở ).
Màu sắc.
Màu sắc của quốc kỳ được quy định trong "STB 911–2008: Quốc kỳ Cộng hòa Belarus" và được liệt kê trong tiêu chuẩn chiếu sáng CIE D65.
Họa tiết trang trí.
Họa tiết trang trí trên được thiết kế vào năm 1917 bởi Matrona Markevich, xuất hiện trên Pa Lăng của lá cờ (như trước đây, trên lá cờ năm 1951). Hoạ tiết có nguồn gốc từ cây cỏ và những bông hoa bản địa, là một yếu tố truyền thống thường được sử dụng ở Belarus. Những họa tiết này đôi khi được sử dụng trên các bộ quần áo dệt, quan trọng nhất là ruchnik, một loại vải dệt được sử dụng cho các sự kiện nghi lễ như lễ tôn giáo, đám tang và các buổi lễ xã hội trần tục khác, như một người chủ nhà mời khách bánh mì và muối và được phục vụ trên rushnyk.
Chồng của bà Matrona Markevich đã bị bắt vì tuyên truyền chống Liên Xô và bị xử tử trong một cuộc đàn áp tại Belarus năm 1937, sau đó gia đình bà bị hành quyết. "Ruchnik" ban đầu đã không còn tồn tại và đã bị Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (NKVD) tịch thu vào năm 1937 hoặc bị tiêu hủy trong Thế chiến thứ hai. Anh trai của Matrona Markevich, Mikhail Katsar, Trưởng Khoa Dân tộc học và Văn hóa dân gian tại Học viện Khoa học Belarus, đã được đưa vào ủy ban và được lệnh tạo ra một lá cờ mới cho nước Belarus Xô viết năm 1951.
Một đài tưởng niệm Matrona Markevich đã được dựng lên ở Sianno vào năm 2015.
Lễ nghi.
Luật pháp Belarus yêu cầu quốc kỳ được treo hàng ngày ở các địa điểm sau:
Quốc kỳ Belarus cũng chính thức được treo ở các địa điểm khác vào những dịp đặc biệt:
Các nhà ngoại giao Belarus và các quan chức chính phủ khác nhau (như Tổng thống và Thủ tướng) phải trưng cờ trên các phương tiện. Luật cũng cho phép cờ được sử dụng cho những dịp đặc biệt, như dịch vụ tưởng niệm và ngày lễ gia đình, và nó có thể được sử dụng bởi nhiều nhóm người khác nhau, chẳng hạn như các tổ chức công cộng, công ty và tổ chức phi chính phủ. Các quy định đã được ban hành trong cùng một nghị định xác định quốc kỳ Belarus. Ngày 15 tháng 5 hàng năm được tuyên bố là Ngày Quốc gia Belarus về Quốc kỳ và Quốc huy Belarus (, ). Bản thân lá quốc kỳ đã được đưa vào huy hiệu của các đơn vị bảo vệ trong Lực lượng vũ trang Belarus. Ngoài ra, phần cột cờ phải dài gấp ba lần so với chiều rộng của lá cờ.
Theo sắc lệnh tổng thống năm 1995, quốc kỳ sẽ treo trên cột có màu vàng (màu đất son). Còn phần đỉnh cờ (trang trí kim loại trên cột cờ) có hình kim cương và được tô màu bằng kim loại màu vàng. Trong viên kim cương này có một ngôi sao năm cánh (tương tự như được sử dụng trong mẫu quốc huy). Mẫu kim cương trên tượng trương cho sự tiếp nối truyền thống của lá cờ Liên Xô.
Lịch sử.
Quốc kỳ Xô viết năm 1951.
Lá quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia đã được thông qua bởi một nghị định vào ngày 25 tháng 12 năm 1951. Lá cờ được sửa đổi một chút vào năm 1956 khi các chi tiết được thêm vào cho ngôi sao đỏ, và búa liềm vàng. Các thông số kỹ thuật cuối cùng của lá cờ được nêu trong Điều 120 của Hiến pháp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia và hiện rất giống với quốc kỳ Belarus hiện tại. Lá quốc kỳ có tỷ lệ dài rộng là 1:2, giống với quốc kỳ của Liên bang Xô viết (và mười bốn nước cộng hòa khác). Màu đỏ (tượng trưng cho Cách mạng) là màu sắc chính của lá cờ, phần còn lại là màu xanh lá cây (tượng trưng cho các khu rừng Belarus). Một họa tiết màu trắng vẽ trên nền màu đỏ trang trí phần Pa Lăng của cờ; thiết kế này thường được sử dụng trên trang phục truyền thống của phụ nữ Belarus. Ở góc trên của lá cờ, ở dải màu đỏ, hình búa liềm vàng được thêm vào, với một ngôi sao màu đỏ viền vàng ở phía trên. Cây búa đại diện cho giai cấp công nhân, trong khi liềm tượng trưng cho nông dân; theo hệ tư tưởng Liên Xô, hai biểu tượng này được đặt chồng lên nhau tượng trưng cho sự thống nhất của hai giai cấp lao động. Ngôi sao đỏ, một biểu tượng thường được sử dụng bởi các đảng cộng sản, được cho là tượng trưng cho năm nhóm xã hội (công nhân, thanh niên, nông dân, quân đội và học giả cùng đoàn kết), năm lục địa được biết đến, hoặc năm ngón tay của bàn tay của công nhân. Búa liềm và ngôi sao đôi khi không được hiển thị trên mặt sau của lá cờ. Mục đích của thiết kế này là nước Byelorussia Xô viết, cùng với Liên Xô và Ukraina, được kết nạp vào Liên hợp quốc vào năm 1945 với tư cách là thành viên sáng lập và cần những lá cờ riêng biệt cho nhau. Người thiết kế lá quốc kỳ này là Milkahil Gusyev.
Những lá cờ trước của thời kì Xô viết.
Trước năm 1951, một số lá cờ khác đã được sử dụng kể từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Lá quốc kỳ đầu tiên có màu đỏ trơn, và được sử dụng vào năm 1919 bởi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Litva–Byelorussia. Sau khi hình thành nước CHXHCH Xô viết Byelorussia, dòng chữ viết tắt màu vàng ССРБ (SSRB) đã được thêm ở phía trên lá cớ. Thiết kế này được công nhận với việc thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Byelorussia. Sau đó, nó đã được sửa đổi trong Hiến pháp năm 1927, trong đó các chữ cái được thay đổi thành БССР (BSSR) nhưng vẫn giữ nguyên thiết kế chung. Thiết kế này lại được thay đổi vào năm 1937, khi hình tượng búa liềm và ngôi sao đỏ được đặt phía trên dòng chữ vàng. Tỉ lệ chính thức lá cờ là 1:2. Lá quốc kỳ này vẫn được sử dụng cho đến khi áp dụng lá cờ năm 1951, với việc bỏ các dòng chữ.
Trưng cầu dân ý năm 1995.
Cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức để thông qua các biểu tượng quốc gia diễn ra vào ngày 14 tháng 5 năm 1995. Với tỷ lệ cử tri đi bầu là 64,7%, lá quốc kỳ mới đã được đa số chấp thuận theo tỷ lệ từ 3/1 (75,1%/24,9%). Ba câu hỏi khác cũng đã được các cử tri thông qua. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu dân ý cũng như tính hợp pháp của việc đặt câu hỏi về các biểu tượng quốc gia đã bị phe đối lập chỉ trích nặng nề. Các đảng đối lập tuyên bố rằng chỉ 48,7% toàn bộ dân số bỏ phiếu (75,1% trong số 64,7% được thấy tại các điểm bỏ phiếu) ủng hộ việc áp dụng cờ mới, nhưng luật pháp Belarus (như ở nhiều quốc gia khác) chỉ nói rằng đa số cử tri là cần thiết để quyết định về một vấn đề trưng cầu dân ý. Sau khi kết quả có lợi cho Tổng thống Lukašenka, ông tuyên bố rằng sự trở lại của lá cờ kiểu Xô viết sẽ mang lại cảm giác trẻ trung và những ký ức vui vẻ cho quốc gia.
Lukašenka đã cố gắng tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý tương tự trước đó, vào năm 1993, nhưng không nhận được sự ủng hộ của quốc hội. Hai tháng trước cuộc trưng cầu dân ý tháng 5 năm 1995, Lukashenko đã đề xuất một thiết kế cờ bao gồm hai thanh nhỏ màu xanh lá cây và một thanh màu đỏ rộng. Mặc dù không biết điều gì làm nên trở thành gợi ý này, các thiết kế mới (được gọi là "dự án" ở Belarus) đã được đề xuất vài ngày sau đó, sau đó được đưa ra để bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1995.
Lá cờ liên quan khác.
Kể từ khi Chính phủ phê chuẩn lá quốc kỳ năm 1995, một số lá cờ khác được thông qua bởi các cơ quan chính phủ hoặc cơ quan chính phủ đã được mô phỏng theo nó.
Cờ hiệu tổng thống được sử dụng từ năm 1997, được thông qua bởi một sắc lệnh có tên "Về việc Hiệu kỳ Tổng thống Cộng hòa Belarus". Thiết kế lá cờ là một bản sao chính xác của quốc kỳ, với việc bổ sung mẫu quốc huy bằng vàng và đỏ. Hiệu kỳ có tỷ lệ 5:6 khác với tỉ lệ quốc kỳ, làm cho lá cờ gần như vuông. Nó được sử dụng tại các tòa nhà và trên các phương tiện để biểu thị sự hiện diện của tổng thống.
Năm 2001, Tổng thống Lukašenka đã ban hành sắc lệnh cấp lá cờ cho Lực lượng vũ trang Belarus. Lá cờ đó có tỷ lệ 1:1,7, có hoa tiết trang trí quốc gia dọc theo chiều dài của mặt nâng của cờ. Trên mặt trước của hiệu kỳ là mẫu quốc huy Belarus, với dòng chữ "УЗБРОЕНЫЯ СІЛЫ" (Lực lượng vũ trang) được viết thành hình vòng cung, và bên dưới là "РЭСПУБЛІКІ БЕЛАРУСЬ" (Cộng hoà Belarus); tất cả đều được viết bằng màu vàng. Còn mặt sau lá cờ, phần trung tâm vẽ biểu tượng của lực lượng vũ trang, đó là một ngôi sao đỏ được bao quanh bởi một vòng hoa bằng gỗ sồi và nguyệt quế. Trên biểu tượng là cụm từ "ЗА НАШУ РАДЗІМУ" (vì Tổ quốc), trong khi bên dưới là tên đầy đủ của đơn vị quân đội. | 1 | null |
Blitzkrieg là một tập hợp trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực (RTT) lấy bối cảnh Thế chiến II.
Lối chơi.
Tương tự như dòng game "Sudden Strike" nhưng "Blitzkrieg" chỉ tập trung vào trận chiến chứ không phải về các mặt chiến lược thời gian thực như xây dựng căn cứ và mua quân.
Chơi mạng.
Mỗi phiên bản "Blitzkrieg" đã bao gồm khả năng chơi nối mạng nhiều người chơi đối đầu lẫn nhau. Với mục mới nhất trong dòng game "Blitzkrieg 3" đã thực hiện các yếu tố của dạng trò chơi chiến lược thời gian thực trực tuyến nhiều người chơi.
Các phiên bản.
Blitzkrieg.
Blitzkrieg () là trò chơi chiến thuật thời gian thực dựa trên các sự kiện của Thế chiến II. Game cho phép người chơi vào vai sĩ quan chỉ huy trong các trận chiến của Thế chiến II xảy ra ở châu Âu và Bắc Phi.
Blitzkrieg 2.
Blitzkrieg 2 () là một sự phát triển của phiên bản tiền nhiệm "Blitzkrieg". Trò chơi diễn ra ở châu Phi, Nga, Thái Bình Dương và châu Âu, với sự hiện diện của 6 phe phái khác nhau được mô tả trong game sẽ tham chiến ở mỗi trận đánh căn cứ của mình trong chiến tranh.
Blitzkrieg 3.
Blitzkrieg 3 () là trò chơi chiến lược thời gian thực trực tuyến nhiều người chơi đang trong quá trình phát triển dựa trên các sự kiện của Thế chiến II và là phần tiếp theo "Blitzkrieg 2". | 1 | null |
Trò chơi chiến lược thời gian thực trực tuyến nhiều người chơi (tiếng Anh: "Massively multiplayer online real-time strategy game", viết tắt MMORTS) là sự pha trộn giữa thể loại chiến lược thời gian thực và trò chơi trực tuyến nhiều người chơi, có thể dưới dạng trò chơi dựa trên trình duyệt web, nơi có một số lượng rất lớn người chơi tương tác với nhau trong một thế giới ảo. Người chơi thường đảm nhận vai trò của một vị tướng, vua hoặc các loại bù nhìn dẫn đầu một đội quân bước vào trận chiến trong khi duy trì các nguồn tài nguyên cần thiết cho chiến tranh kiểu này. Các chức danh thường dựa trên một thế giới kỳ ảo hoặc khoa học viễn tưởng và được phân biệt từ các loại chiến lược thời gian thực trực tuyến đơn nhất hoặc có quy mô nhỏ bởi số lượng người chơi và sử dụng chung một thế giới liên tục thường được nhà xuất bản game tổ chức và vẫn tiếp tục phát triển ngay cả khi người chơi đang offline.
Kinh tế.
Nhiều MMORTS còn chứa đựng một nền kinh tế sinh động. Các mặt hàng và tiền ảo có thể kiếm được nhờ quá trình chơi game và có giá trị nhất định cho người chơi. Một nền kinh tế ảo như vậy có thể được phân tích (sử dụng dữ liệu đăng nhập bởi các trò chơi) và có giá trị trong nghiên cứu kinh tế; quan trọng hơn, những nền kinh tế "ảo" này còn có thể tác động đến nền kinh tế của thế giới thực. Những game này còn có các nền kinh tế cũng có thể cho phép giao dịch hàng hóa và thị trường chứng khoán được mô phỏng. | 1 | null |
Victoria II là trò chơi máy tính thuộc thể loại wargame đại chiến lược do hãng Paradox Development Studio phát triển và Paradox Interactive phát hành, phần tiếp theo của "" năm 2003. Nó đã được công bố vào ngày 19 tháng 8 năm 2009 và được phát hành vào ngày 13 tháng 8 năm 2010.
Virtual Programming đã phát hành phiên bản game cho Mac OS X vào ngày 17 tháng 9 năm 2010. Như phiên bản trước, "Victoria II" cho phép người chơi nắm quyền kiểm soát và quản lý một nhà nước thế kỷ 19 bao gồm các mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự và công nghệ của mình.
Lối chơi.
"Victoria II" bao quát toàn cầu từ năm 1836 đến đầu năm 1936 với hơn 200 quốc gia có thể chơi được. Cũng giống như phiên bản trước, "Victoria II" tập trung vào quản lý nội bộ, bao gồm công nghiệp hóa và thay đổi xã hội/chính trị trong một quốc gia với hàng chục hình thái chính phủ khác nhau. Trò chơi mang đến rất nhiều tầm quan trọng cho nền kinh tế của một quốc gia bằng việc có một hệ thống thị trường phức tạp với hơn 50 loại hàng hóa và các nhà máy. Trong khi chiến tranh là một thành phần của trò chơi nhưng không còn là trọng tâm chính như trong các game khác của Paradox như dòng "Hearts of Iron".
Dân số của các quốc gia được chia thành các nền văn hóa, tôn giáo và nghề nghiệp. Có những nhóm dân số khác nhau hoặc "những tầng lớp khác" bao gồm quý tộc, viên chức, giáo sĩ, nhà tư bản, thư ký, thợ thủ công, quân nhân, người lao động và nông dân. "Victoria II" giới thiệu hai nhóm mới là nghệ nhân và các quan chức. Như trong các tựa game khác của Paradox như "Europa Universalis", nhiệm vụ lịch sử là những mục tiêu rất nhỏ trong trò chơi lớn hơn đã được thêm vào. Hiện có hàng ngàn sự kiện lịch sử và các quyết định. Những sự kiện và các lực lượng dân tộc có thể dẫn đến việc kiến tạo hoặc tan rã của các quốc gia dân tộc.
"Victoria II" có một số thay đổi và cải tiến từ phiên bản trước. Giao diện được sắp xếp hợp lý khi so sánh với bản gốc, như được nhà sản xuất Johan Andersson mô tả là "giao diện mà Chúa quên". Tự động hóa các nhiệm vụ khác nhau đã được thêm vào, bao gồm cả thương mại và xúc tiến dân số. Hệ thống giáo dục đã được đại tu nhờ sử dụng giới giáo sĩ giáo dục con người của các tôn giáo giống nhau, và mỗi nhóm dân số hiện nay có tỷ lệ biết chữ của riêng mình. Giáo dục và tầm quan trọng biết chữ được phản ánh trong hệ thống công nghệ rộng lớn chứa đựng hàng ngàn phát minh. Ngoài ra, chức năng của hệ tư tưởng trong game đã được tinh chỉnh để các nhóm dân cư trở nên nhạy cảm hơn với những thay đổi về tình hình của đất nước họ, cũng như xu hướng khuấy động các mức độ cụ thể của những cuộc cải cách chính trị và xã hội.
Kinh tế.
Hệ thống kinh tế trong "Victoria II" cố gắng để mô phỏng dòng tài nguyên trong một thị trường thế giới. Tất cả các lãnh địa (gọi là tỉnh) trong game đều tạo ra một nguồn tài nguyên trong hoạt động thu thập tài nguyên hoặc RGO. Một số tài nguyên, chẳng hạn như lúa mì chỉ có thể được yêu cầu chủ yếu do dân số của người chơi. Các vật liệu khác, như sắt dành cho ngành công nghiệp tiêu thụ nhưng vẫn có thể giao dịch.
Sản xuất và hệ thống tỷ lệ thất nghiệp từ bản gốc "Victoria" đã được sửa đổi để phản ánh tốt hơn các lực lượng thị trường, trong khi ở bản gốc thì nhà nước cung cấp kinh phí cho các nguồn tài nguyên và người chơi sở hữu một loạt các tùy chọn nào đó để xây dựng nền kinh tế của họ, miễn là họ có quyền tiếp cận các nguyên vật liệu thích hợp. Tất cả các nguồn tài nguyên có thể được ngành công nghiệp thu thập hoặc sản xuất. Trò chơi cũng có một hệ thống sản xuất thủ công mô phỏng nền kinh tế tiền công nghiệp.
Ngoại giao.
"Victoria II" chứa đựng một mô phỏng chính trị sâu sắc phản ánh trong hàng chục loại hình chính phủ khác nhau, một hệ thống phạm vi ảnh hưởng mới, ngoại giao pháo hạm và một hệ thống bầu cử mới với các chính phủ liên hiệp và cơ quan lập pháp.
Chính sách ngoại giao trong "Victoria II" tương tự như các tựa game khác của Paradox. Mỗi quốc gia có một mối quan hệ giá trị –200 đến +200 đại diện cho bao nhiêu thứ họ thích lẫn nhau. Ngoại giao và hành động trong trò chơi thay đổi mối quan hệ xung quanh này và yếu tố trong các quyết định của AI. Tuy nhiên, Paradox Interactive đã mở rộng các bộ phận của hệ thống này. Mục tiêu chiến tranh từ "Heir to the Throne", một bản mở rộng của "Europa Universalis III" đã được tích hợp dù chúng hoạt động theo một cách hơi khác nhau. Mục tiêu chiến tranh xa hơn có thể được thêm vào như khi chiến tranh đang diễn ra, dù điều này không ảnh hưởng đến tính khí của dân số. Thất bại trong việc đạt được mục tiêu chiến tranh sẽ làm tăng tính chiến đấu của người dân từ đó dẫn đến bạo loạn.
Trong trò chơi việc điều khiển một cường quốc (Great Powers) cung cấp lựa chọn ngoại giao đặc biệt không có sẵn cho các nước khác. Cường quốc không chỉ ảnh hưởng tới một quốc gia nhìn thấy chúng, họ còn có khả năng thêm vào sử dụng ảnh hưởng của mình lên các nước khác để thay đổi nhận thức của họ về các cường quốc khác. Cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc phát động trên toàn thế giới không phải là một cơ sở song phương đơn giản nhưng xảy ra với từng bên trong các quốc gia khác nhau, bổ sung thêm một khía cạnh ngoại giao không có trong bản Victoria đầu.
Chiến tranh.
Chiến tranh được coi là một ưu tiên thấp hơn so với chính trị và kinh tế trong "Victoria II" mặc dù nó theo mô hình cơ bản được sử dụng trong các game đại chiến lược Paradox khác, với quân đội di chuyển giữa các tỉnh, giao tranh với quân đối phương và đánh chiếm lãnh thổ đối phương. Hệ thống chiến đấu cơ bản là sự kết hợp của các hệ thống được sử dụng trong "Europa Universalis III", "" và "Hearts of Iron III". Một thành phần quan trọng để chiến đấu là "khu vực đóng quân": số lượng các đơn vị trong quân đội ở tiền tuyến sẽ giảm khi công nghệ được cải thiện để mô phỏng sự thay đổi từ quân đội lưu động với các hầm hào liên tiếp của Thế chiến I.
Một số khía cạnh của quân đội đã được thay đổi từ "Victoria". Các đơn vị cơ sở đã giảm từ một sư đoàn 10.000 quân thành một lữ đoàn 3.000 quân, không còn được lấy từ nguồn nhân lực quốc gia mà lấy trực tiếp từ một POP người lính của một tỉnh mà lữ đoàn vẫn còn kết nối. Một khía cạnh mới cho quân đội là đơn vị trinh sát. Đây là một giá trị ban thêm điểm thưởng (hoặc phạt, nếu thấp) khi chiếm lãnh địa và đánh bại đội quân đối phương, thế nhưng khi chiến trận kéo dài thì giá trị trinh sát bị giảm xuống. Các đơn vị như kỵ binh và máy bay trinh sát có giá trị cao và được dự định sử dụng như là những đơn vị do thám.
Phát triển.
Quyết định tạo ra "Victoria II" bị ảnh hưởng bởi cuộc bầu chọn trên các diễn đàn Paradox Interactive và tranh luận trong công ty. Giám đốc điều hành của Paradox Interactive, Fredrik Wester công bố công khai niềm tin của ông rằng trò chơi sẽ không bao giờ đạt được lợi nhuận trong khi các thành viên khác của công ty như Johan Andersson thì tự tin nó sẽ kiếm được lợi nhuận. Để kết thúc Wester hứa rằng nếu game thực sự tạo ra lợi nhuận thì ông sẽ cạo đầu của mình và gửi hình ảnh lên diễn đàn này. Niềm tin này xuất phát từ con số bán hàng mờ nhạt của bản game đầu tiên. Nó đã được tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn của Đức với Frederik rằng 70.000 bản sẽ cần phải được bán để "Victoria II" đạt được lợi nhuận. Ngày 17 tháng 6, Jessica Chobot từ IGN đã cạo đầu giúp ông.
Bản mở rộng.
A House Divided (AHD) được công bố tại Hội chợ Triển lãm Giải trí Điện tử 2011 (Electronic Entertainment Expo). như là một bản mở rộng với mục tiêu nhằm "[nâng cao] khía cạnh chính trị và kinh tế của trò chơi, tập trung vào thời kỳ Nội chiến Mỹ". Nó được phát hành vào ngày 2 tháng 2 năm 2012 dành cho Windows và ngày 30 tháng 3 năm 2012 cho OS X, mặc dù hiện nay chỉ có thể mua bằng cách tải về. Bản mở rộng này gồm:
Ngày 31 tháng 1 năm 2013, Paradox công bố kế hoạch phát hành một bản mở rộng mới mang tên Heart of Darkness, được phát hành vào ngày 16 tháng 4 năm 2013 bao gồm các tính năng sau:
DLC khác.
Một lựa chọn các gói DLC nhỏ hơn đã được làm sẵn để dành cho "Victoria II". Có chút ít đến không có hiệu lực vào lối chơi nhưng làm thay đổi diện mạo hoặc âm nhạc của trò chơi, và rẻ hơn nhiều so với các đối tác lớn của họ.
Đón nhận.
"Victoria II" nhận được những lời đánh giá thiện chí, đạt trung bình 75% trên Metacritic. GameSpot nói rằng quản lý vi mô có ít hơn nhiều hơn so với phiên bản trước. Người nhận xét nói: "Nhờ có một giao diện và hướng dẫn thân thiện, "Victoria II" có thể chơi lại nhiều hơn và thú vị hơn phiên bản trước." GameShark ít nhiệt tình. Người nhận xét nói: "Là một trò chơi chiến lược, "Victoria II" khiến tôi thất vọng. Là một đống chi tiết vì lợi ích của chi tiết, còn thông tin mà tôi thực sự muốn chẳng bao giờ nằm trong tầm tay. Các quyết định mà tôi chọn xem ra phần lớn không quan trọng, làm thay đổi trò chơi chỉ nhờ một quá trình chậm dần lên. Mô hình hóa đã vượt qua thiết kế trò chơi. Hãy xem "Victoria II" là thứ thuốc ru ngủ và thường xuyên đầy cảm hứng. Thật không may, bạn chỉ thỉnh thoảng có thể muốn chơi nó."
Phần tiếp theo.
Trong mục Ask Me Anything trên reddit vào tháng 10 năm 2013, giám đốc Paradox Development Studio Johan Andersson nói rằng họ sẽ cân nhắc thực hiện một phần tiếp theo của "Victoria II", nhưng điều này có khả năng sẽ đến sau "Hearts of Iron IV". | 1 | null |
Battlefield 1942 (tạm dịch: "Chiến trường 1942") là trò chơi máy tính thuộc thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất 3D lấy bối cảnh Thế chiến II do công ty Thụy Điển Digital Illusions CE phát triển và Electronic Arts phát hành cho Microsoft Windows vào năm 2002 và Apple Macintosh vào năm 2004. Trò chơi có thể có thể chơi được ở chế độ chơi đơn chống lại AI hoặc trong chế độ chơi nối mạng đối đầu giữa người chơi với nhau trên Internet hoặc qua LAN. Nó cũng là một nền tảng phổ biến cho các nhà phát triển mod, với một số lượng lớn các bản mod được phát hành làm thay đổi lối chơi và chủ đề.
Trong "Battlefield 1942", người chơi sẽ đóng vai trò của một trong năm loại lính: Trinh sát, Xung kích, Chống tăng, Quân y và Công binh. Người chơi còn có khả năng lái các loại khí tài Thế chiến II gồm máy bay chiến đấu và máy bay ném bom, tàu chiến, tàu ngầm và tàu sân bay, ụ pháo phòng vệ ven biển, xe tăng, thiết giáp chở quân và xe jeep, cũng như điều khiển súng phòng không và súng máy. Mỗi trận chiến diễn ra trên một trong những bản đồ nằm trong một loạt các địa điểm và chiến trường nổi tiếng của Thế chiến II: Thái Bình Dương, châu Âu, Bắc Phi, phía Đông và nước Ý. Đây là cuộc chiến giữa các cường quốc phe Trục và Đồng Minh. Vị trí xác định quân đội quốc gia cụ thể được sử dụng (ví dụ, trên bản đồ đảo Wake, đó là Nhật Bản với Hoa Kỳ, trong khi trên bản đồ El Alamein, đó là Đức với Anh). Các bản đồ trong "Battlefield 1942" dựa trên các trận chiến thực sự và được miêu tả phần nào thực tế. Ngày 11 tháng 11 năm 2012, EA thông báo rằng "Battlefield 1942" có thể được tải về miễn phí trên Origin nhằm kỷ niệm 10 năm ra mắt của "Battlefield".
Lối chơi.
Lối chơi của "Battlefield 1942" thường tập trung vào phần chơi hợp tác hơn các game trước đây vì tính chất này, không chỉ là tiêu diệt đối phương mà còn để giữ một số "điểm kiểm soát" (Control Points) xung quanh bản đồ. Chiếm được các điểm kiểm soát cho phép nhóm quân củng cố bản thân bằng cách cho phép người chơi và các khí tài xuất hiện trong một khu vực nhất định. Do đó, việc đánh chiếm và kiểm soát các điểm này cũng làm giảm quân tiếp viện của đối phương dẫn đến chiến thắng quyết định. "Battlefield 1942" là một trong những trò chơi chính đầu tiên đại diện cho một sự thay đổi đáng kể trong lối chơi FPS về mặt tinh thần không chỉ thiên vị cá nhân, nhưng đồng thời khuyến khích làm việc theo nhóm và phối hợp tác chiến.
Chế độ game mặc định là chinh phục (Conquest) tập trung vào việc đánh chiếm và kiểm soát các điểm kiểm soát; một khi nhóm quân chiếm được điểm kiểm soát, các thành viên của nó có thể hồi sinh từ đó. Khi một nhóm quân mất tất cả các điểm kiểm soát thì họ không thể hồi sinh được nữa. Và nếu không có ai còn sống thì xem như thua cuộc. Trò chơi còn kiểu chơi đấu vòng loại. Một đội thắng cuộc sẽ lọt vào vòng loại khi các đội khác mất hết vé. Một đội mất vé khi các thành viên bị giết, nhưng cũng có khi các đội khác nắm giữ một số lượng nhất định các điểm chiếm giữ trên bản đồ (thường là khi một đội nắm giữ phần lớn các điểm chiếm giữ). Vì vậy, đôi khi đội chiến thắng phải săn lùng rải rác hoặc che giấu lực lượng đối phương ở cuối vòng bảng.
Những tấm vé triệu hồi còn đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của cả hai đội. Mỗi khi một người chơi trong đội hình chết và hồi sinh thì nhóm đó mất một vé. Mỗi đội bắt đầu mỗi vòng loại với từ 150 đến 300 vé, tùy thuộc vào vai trò của nhóm (ví dụ như phòng thủ). Các đội cũng dần dần mất vé tùy thuộc vào bao nhiêu điểm triệu hồi mà họ kiểm soát. Theo nguyên tắc chung, điểm triệu hồi ít kiểm soát bởi một nhóm quân, càng nhiều vé hơn thì họ thua. Đối với một nhóm gồm 32 đến 64 người chơi trên bản đồ, với 150 vé, điều này có nghĩa là ít hơn chút 5 lần hồi sinh hoặc tử vong tính trung bình cho mỗi người chơi nếu họ nắm giữ điểm triệu hồi lúc bắt đầu.
Vai trò.
Người chơi có thể chọn chơi một trong hai phe Đồng Minh hoặc Phát xít. Phe Đồng Minh gồm Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô, trong khi Phát xít gồm Đức và Nhật Bản. Bất kể người chơi chọn quốc gia nào thì cũng chỉ vào vai năm loại lính chính là: Trinh sát, Xung kích, Chống tăng, Quân y và Công binh. Mỗi vai trò có thế mạnh và điểm yếu riêng của mình. Ví dụ như vai trò của trinh sát là giám sát tầm xa, sát thương cao và khả năng chỉ điểm cho pháo binh bắn vào một vị trí của đối phương (không giống như các trò chơi khác với tính năng tương tự, nhân vật người chơi khác cũng phải cung cấp hỏa lực pháo binh); tuy nhiên lính bắn tỉa không được thiết kế để sử dụng trong chiến đấu tầm gần và những người chơi thường xuyên phải xử lý loại lính này như chỉ là một vai trò bắn tỉa đơn giản bằng cách không chỉ điểm cho pháo binh. Xung kích có vai trò tiêu chuẩn và cung cấp hỏa lực rất tích cực. Lính chống tăng thì đặc biệt dùng để tiêu diệt xe tăng và khí tài của đối phương, nhưng vũ khí chính của họ lại có hỏa lực yếu hơn khi chống chọi với bộ binh của đối phương. Quân y thì có khả năng chữa lành vết thương (cho bản thân mình và người chơi khác), nhưng súng tiểu liên của quân y thí yếu hơn so với vũ khí của lính xung kích. Công binh có khả năng sửa chữa xe cộ bị hư hỏng và trang thiết bị vũ khí, ngoài ra họ còn có khả năng triển khai chất nổ rất hiệu quả khi dùng để tiêu diệt cả bộ binh và khí tài của đối phương, cùng với mìn dùng để phá hủy xe cộ của đối phương khi tiếp xúc.
Phát triển.
"Battlefield 1942" được xây dựng trên công thức của tựa game ít thành công "Codename Eagle" lấy bối cảnh lịch sử xen kẽ Thế chiến I. Nó có cả chế độ chơi đơn và chơi mạng. Bộ engine Refractor 1 trước đó đã có nhiều hiệu ứng vật lý theo phong cách arcade và tập trung ít hơn thực tế hơn người kế nhiệm Refractor 2 được sử dụng trong "Battlefield 2". Một phiên bản tương thích với Macintosh của "Battlefield 1942" cũng đã được hãng Aspyr Media thực hiện và phát hành vào giữa năm 2004. Một phiên bản Xbox của game cũng đã được công bố vào đầu năm 2001 nhưng đã bị hủy bỏ gần hai năm sau đó để Electronic Arts có thể tập trung nhiều hơn vào một bản mở rộng cho PC.
Mở rộng.
Những người sáng tạo của "Battlefield 1942" đã phát hành bản mở rộng mang tên ' (bổ sung thêm Mặt trận Ý) và '. Thêm nhiều chế độ chơi và khái niệm thiết kế mới. "The Road to Rome" tập trung vào các trận đánh ở nước Ý và cho phép người chơi vào vai những người lính của quân đội Pháp Tự do và quân đội Phát xít Ý. "Secret Weapons of WWII" thì tập trung các loại vũ khí nguyên mẫu, thử nghiệm hiếm khi sử dụng và khí tài (như bộ phản lực), cũng như các loại vũ khí không có trong các phiên bản trước đó. Nó còn thêm các bản vá lỗi tải về được, sửa chữa lỗi trong game và thêm một số nội dung bổ sung (như bản đồ trận Hellendoorn). "Battlefield 1942 Deluxe Edition" gồm bản gốc và "Battlefield 1942: The Road To Rome". "Battlefield 1942: World War II Anthology" còn thêm bản mở rộng "Battlefield 1942: Secret Weapons of WWII". "Battlefield 1942: The Complete Collection" thêm vào "Battlefield Vietnam" và "Battlefield Vietnam WWII Mod".
Đón nhận.
Trên trang đánh giá tổng hợp GameRankings, trò chơi có điểm số trung bình là 89% dựa trên 46 đánh giá. Trên Metacritic, trò chơi có điểm số trung bình là 89/100, dựa trên 27 đánh giá. Tại Giải thưởng Thành tựu Tương tác thường niên lần thứ 6 (Interactive Achievement Awards), "Battlefield 1942" được trao thưởng cho mục chơi trực tuyến (Online Gameplay), đổi mới trong trò chơi máy tính (Innovation in PC Gaming), trò chơi máy tính của năm (PC Game of the Year) và trò chơi của năm (Game of the Year). Vào tháng 3 năm 2010, "Battlefield 1942" đã được trao giải thưởng với giải "trò chơi Thụy Điển của thập kỷ" tại lễ hội trò chơi máy tính được tổ chức bởi Hiệp hội Game Thụy Điển.
Scott Osborne của GameSpot chấm cho game mức điểm 8.8/10, gọi đó là một "phiên bản truyện tranh của Thế chiến II". Steve Butts của IGN chấm cho game mức điểm 9.3/10, ca ngợi mục chơi mạng, nhưng nói "mục chơi đơn của game để lại nhiều dư âm."
Phần tiếp theo.
Bản tiếp theo lấy bối cảnh cuộc chiến tranh Việt Nam là "Battlefield Vietnam" được phát hành vào tháng 3 năm 2004. Năm 2005, một phần tiếp theo lấy bối cảnh trong thời kỳ hiện đại là "Battlefield 2" được phát hành. Đến năm 2006, một phần tiếp theo lấy bối cảnh trong thời đại tương lai là "Battlefield 2142" được phát hành. Ngày 8 tháng 7 năm 2009, "Battlefield 1943" được phát hành cho Xbox Live Arcade và PlayStation Network một ngày sau đó. Dòng "" chính thức khởi động vào năm 2008, tiếp theo là "Battlefield 3" ra mắt vào cuối năm 2011 trên mạng Origin của EA Games. "Battlefield 4" được phát hành vào tháng 10 năm 2013. | 1 | null |
Karl Otto Lagerfeldt (10 tháng 9 năm 1933 – 19 tháng 2 năm 2019) là nhà thiết kế thời trang, nhiếp ảnh gia và nghệ sĩ người Đức. Ông là nhà thiết kế chính của nhiều hãng thời trang danh tiếng như Chanel, Fendi và hãng thời trang cá nhân do mình trực tiếp thiết kế và sản xuất. Qua nhiều thập kỷ, ông đã cộng tác với vô vàn nhân vật trong thế giới thời trang và thực hiện nhiều dự án nghệ thuật. Ông được biết tới qua mái tóc nhuộm bạc, kính râm cùng chiếc cổ áo côn đặc biệt. | 1 | null |
Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne, hay còn gọi ngắn gọn là trường Panthéon-Sorbonne, là trường đại học của Pháp chuyên ngành về khoa học kinh tế và quản lý, nghệ thuật, khoa học xã hội, luật và khoa học chính trị. Trường Sorbonne là nơi sáng lập ra hệ thống HeSam Université nhằm liên kết giáo dục giữa 15 cơ sở đào tạo hàng đầu của Pháp vào năm 2010.
Các cơ sở chính của trường Sorbonne tập trung chủ yếu trong khu Quartier Latin ở trung tâm thủ đô Paris. Ngoài ra, trường cũng sở hữu khoảng 20 cơ sở khác nằm rải rác tại các quận lân cận.
Lịch sử.
Thành lập.
Sau sự kiện biểu tình sinh viên năm 1968, Đại học Paris phân tách thành 7 trường đại học nhỏ theo đề xuất của từng trường. Với sự thống nhất của 3 giáo sư François Luchaire (luật), Henri Bartoli (kinh tế) và Hélène Ahrweiler (khoa học xã hội), trường Panthéon-Sorbonne được thành lập vào năm 1971 sau khi hợp nhất khoa Luật và khoa học kinh tế (Panthéon) với khoa Ngôn ngữ và xã hội nhân văn (Sorbonne).
Ngay sau đó, số học sinh của trường đã tăng thêm 50% và tỷ lệ học sinh đăng ký hoàn thiện cao học tăng rõ rệt. Sự tăng trưởng này, cùng với sự xuất hiện của nhiều khoa nghiên cứu mới (quản lý kinh tế và xã hội, toán áp dụng và khoa học xã hội) đã dẫn tới việc quy mô nhà trường được mở rộng thêm nhiều phân khu mới: Saint-Charles cho các ngành nghệ thuật tạo hình và thiết kế (1973), Tolbiac (1973, nay được đổi tên thành Pierre Mendès-France), Malher về nghiên cứu lịch sử và luật học (1972), René-Cassin cho cử nhân luật (1990), Maison des sciences économiques cho các ngành kinh tế (1998) và Broca là trụ sở Viện đào tạo quản lý doanh nghiệp của Paris (2001).
Tái cơ cấu trong những năm 2000.
Sau khi được chọn làm trụ sở của Viện nghiên cứu và đào tạo cao học (PRES) vào năm 2006, trường Paris I trở thành hạt nhân của nhiều dự án liên kết đa đại học, đặc biệt kể từ đề án Plan campus vào năm 2008 được thông qua bởi Thủ tướng Francois Fillon và Bộ trưởng Bộ giáo dục Valérie Pécresse.
Trường Paris I tiếp tục hoạt động quanh đề án Paris Centre Universités của PRES kể từ năm 2006 với sự hợp tác của 2 trường đại học Paris V và Paris VII. Dự án không đạt được mục đích, và trường V và VII quyết định thành lập một dự án hoàn thiện hơn mang tên Sorbonne Paris Cité. Trường Paris I vì thế cũng thay đổi để đáp ứng với trường đại học khác trong dự án HeSam Université (dự án Cao học Sorbonne về Nghệ thuật).
Trường Paris I cũng cộng tác cùng nhiều trường đại học khác trong dự án Campus Condorcet nhằm mở rộng cơ sở lên phía bắc Paris. Dự án bị gác lại vào năm 2008 vì những vấn đề cơ sở vật chất.
Các chuyên ngành.
Có tổng cộng 14 chuyên ngành đào tạo và nghiên cứu, được phân chia trong 3 phân ban
· Khoa học kinh tế và quản lý
· Khoa học xã hội
· Trường Luật Sorbonne | 1 | null |
Ave Maria (Schubert) là tên thường gọi một bài hát được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Áo nổi tiếng Franz Schubert. Tên này dùng để phân biệt với các tác phẩm cùng tên là Ave Maria (Gounod) và Ave Maria (Bach/Gounod), cũng như Ave Maria (phim ca nhạc).
Nhạc phẩm "Ave Maria" (tiếng Việt: a-vê ma-ria / tiếng Anh: ˈɑːveɪ məˈriːə) vốn là ca khúc thứ ba trong số các ca khúc mà Schubert biên soạn lấy cảm hứng từ bài thơ nổi tiếng thời đó là Cô gái vùng hồ ("The Lady of the Lake") của Walter Scott (sáng tác khoảng năm 1810), mà ông lấy tựa đề bằng tiếng Đức là Ellens dritter Gesang ("Bài hát thứ ba của Ellen"). Trong danh sách các tác phẩm của Schubert, nhạc phẩm này xếp vào thứ tự op. 52, xuất bản năm 1825.
Nguồn gốc.
Cảm hứng để nhà soạn nhạc yểu mệnh viết nhạc phẩm dạng Lied xuất sắc này là từ tập thơ Cô gái vùng hồ, được Adam Storck dịch sang tiếng Đức, trong đó nhân vật chính là nữ anh hùng Ellen Douglas trong thời gian trốn tránh quân thù bên một cái hồ, đã cầu nguyện Đức trinh nữ Maria bằng những lời thơ. Schubert vốn là một con người sùng đạo, lại nhớ đến người con gái ông yêu có khuôn mặt giống Đức trinh nữ nên đã phổ nhạc cho tác phẩm này.
Như trên đã nói, Schubert đặt tên tác phẩm này là Ellens dritter Gesang, mà không phải là Ave Maria, điều này được khẳng định qua những lá thư ông gửi cho cha mẹ mình, báo tin về sự thành công của ca khúc. Tuy nhiên, vì bài hát mở đầu và thường lặp lại hai từ "Ave Maria" nên người ta đã đổi tên tác phẩm, đồng thời nghĩ đến việc phổ giai điệu này vào Kinh Kính Mừng tiếng Latinh.
Các phiên bản.
Giai điệu đẹp của bài hát đã quyến rũ rất nhiều nghệ sĩ đời sau biểu diễn và chuyển thể. | 1 | null |
Công nghệ "nhận dạng ký tự thông minh" hay còn gọi là "nhận dạng chữ viết tay" (ICR) là bản dịch từ các ký tự viết tay sang dạng văn bản với ký tự mà máy tính có thể đọc được. Công nghệ ICR là sự phát triển ở mức cao hơn từ công nghệ nhận dạng chữ in (OCR). Đối tượng nhận dạng của công nghệ ICR là chữ viết tay và cả chữ in. Công nghệ ICR tương tự như nhận dạng ký tự quang học (OCR) và đôi khi sử dụng kết hợp với OCR trong hình thức xử lý.
Công nghệ nhận dạng chữ viết tay thường được sử dụng trong việc nhận dạng thông tin từ các tài liệu dạng . Trên các tài liệu dạng này, một số thông tin được điền bằng tay tại các vị trí cố định (tờ khai, phiếu đăng ký, bài kiểm tra, v..v…).
Trước khi có công nghệ ICR và OCR, thường người ta khai thác bằng cách nhập dữ liệu lại từ bản giấy sang format điện tử trên máy tính, với dạng tương tự như ở mẫu giấy. Dữ liệu lấy từ các mẫu giấy tờ bao gồm chữ đánh máy hoặc in qua trình soạn thảo, chữ viết tay, đánh dấu tích, mã vạch và chữ ký. Ngày nay, người ta xử lý bằng máy quét, máy chụp ảnh, kết hợp với công nghệ OCR và ICR, và các phần mềm xử lý form để tự động hóa quá trình này trong khoảnh khắc với độ chính xác lên tới 98%, gần tương đương với việc nhập liệu bằng tay. | 1 | null |
Keep Your Head Down là album thứ năm của nhóm nhạc Hàn Quốc TVXQ, phát hành vào ngày 05 tháng 1 năm 2011 bởi SM Entertainment. Đây là album đầu tiên của TVXQ kể từ sự ra đi của cựu thành viên Hero Jaejoong, Micky Yoochun, và Xiah Junsu vào đầu năm 2010. Quá trình thu âm và sản xuất cho album bắt đầu vào khoảng mùa hè năm 2010, nhưng sản xuất đầy đủ đã không bắt đầu cho đến tháng 8 năm 2010, sau khi U-Know Yunho và Max Changmin có màn ra mắt đầu tiên của họ như một
bộ đôi ở SM Town Live '10 World Tour trong buổi hòa nhạc Seoul, Hàn Quốc.
Đưa vào một dòng mới của nhà sản xuất, bao gồm cả E-Tribe và Outsidaz, "Keep Your Head Down "chủ yếu bao gồm các ca khúc dance-pop với sự sắp xếp đô thị và điện tử. Album đã được mô tả bởi các nhà phê bình như khốc liệt, tối, và mạnh mẽ do ảnh hưởng SMP của nó, một loại thử nghiệm được xác định bằng cách trộn các phong cách của dàn nhạc pop, nhạc rock, hip hop, và R & B đương đại. Phát hành trong hai phiên bản khác nhau, album sinh ra hai đĩa đơn quảng cáo với một ca khúc chủ đề duy nhất, " Keep Your Head Down ". Ca từ, album khám phá các chủ đề đen tối của các mối quan hệ, sự phản bội và tự trao quyền.
Ở Hàn Quốc, album đứng vị trí số một trên Gaon Album Chart trong tuần của ngày 08 Tháng 1 2011, và duy trì vị trí số một của mình cho một tuần lễ thứ hai. Đến cuối tháng, Gaon báo cáo rằng 230.227 bản đã được tẩu tán. Đến cuối năm, 263.412 bản của album đã được bán tại Hàn Quốc, trở thành album bán chạy nhất thứ ba của năm 2011.
Before U Go, repackage của "Keep Your Head Down", được phát hành vào ngày 16 tháng 3 năm 2011. Album đã được mở rộng tới mười bốn bài hát, và đĩa đơn của nó "Before U Go" đạt được thành công vừa phải trên Gaon Singles Chart.
Quá trình.
Vào tháng 7 năm 2009, Hero Jaejoong, Micky Yoochun, và Xiah Junsu đã đệ đơn kiện chống lại công ty của họ SM Entertainment, tuyên bố rằng hợp đồng 13 năm của họ là quá dài và họ không nhận được lợi nhuận công bằng. Trong tháng 10 năm 2009, khu trung tâm Seoul Tòa án cấp ba thành viên một lệnh hợp đồng tạm thời, nhưng bộ ba đã thực hiện với SM Entertainment nếu họ muốn tiếp tục các hoạt động của họ như là thành viên của TVXQ tại Hàn Quốc. Mặc dù lệnh cấm, bộ ba tiếp tục hoạt động của mình với TVXQ tại Nhật Bản dưới của họ nhãn hiệu Nhật Bản Rhythm Zone. Vào tháng 4 năm 2010, Rhythm Zone thông báo việc đình chỉ của TVXQ để ký Jaejoong, Yoochun, và Junsu là ban nhạc JYJ. Việc đình chỉ đẩy còn lại các thành viên của TVXQ U-Know Yunho và Max Changmin để một thời gian gián đoạn vô thời hạn.
Trong tháng 8 năm 2010, Yunho và Changmin biểu diễn với tư cách là thành viên TVXQ trong Seoul SMTown Live '10 World Tour, được mô tả là một "thử nghiệm" giai đoạn cho bộ đôi này. Thu phản ứng mạnh mẽ và hỗ trợ từ phía khán giả, Yunho và Changmin quyết định tiếp tục hoạt động của DBSK mà không có 3 thành viên còn lại. Có một nỗ lực để thêm thành viên mới vào nhóm, nhưng người cố vấn của họ Lee Soo-man cho rằng họ nên tiếp tục như là một bộ đôi.
Bộ đôi này đã bắt đầu làm việc cho album trở lại của họ ngay sau khi buổi hòa nhạc ở Seoul. " Keep Your Head của bạn Down ", một bài hát SMP Yunho đã biểu diễn tại buổi hòa nhạc, được chọn là single chủ đạo của album. Bài hát được sản xuất bởi Yoo Young-jin, người cũng sản xuất của album ca khúc "Maximum" một ca khúc dance-pop đầu tiên được ghi nhận bởi tất cả năm thành viên của TVXQ trong năm 2009. Đưa vào một dòng mới của nhà sản xuất như E-Tribe và Outsidaz, ghi âm chính cho "Keep Your Head Down" kéo dài ba tháng.
Phát hành và quảng bá.
Trong tháng 11 năm 2010, SM Entertainment đã thông báo trở lại của TVXQ với "Keep Your Head Down" vào tháng Giêng 2011. Ngày 20 tháng 12 năm 2010, hai tuần trước khi phát hành album chính thức, TVXQ phát hành đĩa đơn "Athena", bài hát chủ đề cho bộ phim truyền hình Hàn Quốc "Athena: Goddess of War". Hai phiên bản của album sau đó đã được công bố - một phiên bản đặc biệt với một cuốn sách ảnh 100 trang; và một phiên bản bình thường.
Một tuần trước khi phát hành chính thức của album, hai trailer teaser cho MV của single "Keep Your Head Down" bắt đầu phát sóng trên truyền hình và phát thanh truyền hình khác trên toàn Hàn Quốc. "Keep Your Head Down" đã được kỹ thuật số phát hành vào ngày 03 tháng 1 năm 2011, và album đã được thực hiện có sẵn để tải về trên ngày 5 tháng 1 năm 2011, cùng ngày với các truyền thống CD phát hành phiên bản đặc biệt của album. Vào ngày 11, SM Entertainment đã phát hành một iPhone miễn phí của TVXQ bằng ứng dụng để quảng bá album. Ngày 12 tháng 1 năm 2011, bản sao vật lý của phiên bản bình thường đã được phân phối cho các nhà bán lẻ..
Thành công về thương mại.
"Keep Your Head Down" đã nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc và người hâm mộ K-pop, những người đã ca ngợi sản xuất của album "mạnh mẽ" và pha trộn gắn kết của pop và R & B. Lời bài hát của "Keep Your Head Down", mà nói về hồi phục sau một cuộc chia tay mối quan hệ, đã bị phương tiện truyền thông mạnh giám sát sau khi nó được tuyên bố rằng nó đã được viết như một ca khúc nhằm vào các thành viên cũ của TVXQ là JYJ, người đã rời nhóm vào năm 2010. Một số TVXQ và JYJ fansite cũng rút lui sự ủng hộ cho bài hát. Yunho và Changmin làm rõ rằng lời bài hát đã được hiểu sai, nói: "Nó chỉ là một bài hát về sự tức giận của người đàn ông đối với người phụ nữ đó đã đẩy anh đi. Đó là tất cả".
Album đã thành công về mặt thương mại ở châu Á. Ở Hàn Quốc, nó ngay lập tức bắn lên vị trí số một trên bảng xếp hạng hàng ngày thời gian thực của Hanteo, bán được gần 30.000 bản vật lý trong ngày đầu tiên phát hành. "Keep Your Head của bạn Down" đứng vị trí số một trên hàng tuần Gaon Chart Album và duy trì vị trí số một của mình cho một tuần lễ thứ hai. Đến cuối tháng, Gaon báo cáo hơn 230.000 đĩa được tẩu tán. "Keep Your Head Down" là album thứ ba bán chạy nhất của năm, với 263.412 bản được bán ra tại Hàn Quốc.
Theo United World Chart Truyền thông giao thông, mà biên dịch thông tin từ US World Album,Oricon, và Albums Chart của Anh,"Keep Your Head Down" đứng vị trí số bốn. Album cũng đứng vị trí số bốn trên cả hai của Đài Loan G-Music và Nhật Bản xếp hạng Oricon.
Đĩa đơn.
"Athena" đã được phát hành trên mạng kĩ thuật số vào ngày 20 tháng 12 năm 2010, và đứng vị trí số 50 trên hàng tuần Gaon Singles Chart. MV của album single "Keep Your Head Down", chính thức công chiếu vào ngày 03 tháng 1 năm 2011. Đĩa đơn đứng vị trí số 5 trên hàng tuần Singles Chart Gaon. " Journey ", bài hát chủ đề cho bộ phim truyền hình của Changmin "Paradise Ranch", được phát hành vào ngày 26 Tháng 1 năm 2011 và chỉ xếp hạng 111 trên Singles Chart Gaon. | 1 | null |
Trong tinh thể học, hệ tinh thể, hay hệ ô mạng dùng để chỉ một trong 7 nhóm ô mạng không gian, [[ô mạng Bravais. Một cách không chính thức, hai tinh thể có khuynh hướng cùng hệ tinh thể nếu chúng có các yếu tố đối xứng giống nhau mặc dù cũng có một vài ngoại lệ.
Nhóm tinh thể.
7 Hệ tinh thể bao gồm 32 lớp tinh thể hay 32 lớp đối xứng được thể hiện trong bảng bên dưới:
Hệ ô mạng.
14 ô mạng Bravais được xếp vào 7 ô mạng cơ sở như trong bảng sau.
Tham khảo.
[[Thể loại:Đối xứng]]
[[Thể loại:Hình học Euclid]]
[[Thể loại:Tinh thể học]]
[[Thể loại:Hình thái học]]
[[Thể loại:Khoáng vật học]] | 1 | null |
Samsung Galaxy Note 3 là điện thoại lai máy tính bảng chạy hệ điều hành Android sản xuất bởi Samsung Electronics. Galaxy Note 3 đã được công bố trong buổi họp báo tại IFA Berlin vào 4 tháng 9 năm 2013, với bản quốc tế được phát hành vào cuối tháng. Nó đóng vai trò là người kế nhiệm của Galaxy Note II, Note 3 được thiết kế nhẹ hơn, và thiết kế cao cấp hơn dòng máy trước Galaxy Note series (với mặt sau là nhựa giả da và mép giả kim loại), và mở rộng trên bút stylus và chức năng đa nhiệm trong phần mềm của nó—bao gồm một bánh xe điều hướng mới cho ứng dụng kích hoạt bằng bút, cùng với các ứng dụng bật lên và mở rộng chức năng đa cửa sổ. Samsung bán 5 triệu đơn vị Galaxy Note 3 trong tháng đầu tiên and broke 10 million units sales in just 2 months.
Thông số kỹ thuật.
Phần cứng.
Thiết kế của Galaxy Note 3 dự định mang đến một sản phẩm cao cấp, một cái nhìn "thời thượng" so với các thiết bị Samsung khác. Mặc dù thiết kế của nó vẫn giữ chất liệu nhựa cao cấp như các thiết bị hiện tại của Samsung, Galaxy Note 3 có viền giả kim loại và mặt sau được làm bằng nhựa giả da với vân chỉ. Với độ dày , nó mỏng và nhẹ hơn Galaxy Note II. Phiên bản LTE của Galaxy Note 3 sử dụng chip 2.3 GHz lõi-tứ Snapdragon 800, trong khi bản quốc tế GSM sử dụng 8-lõi Exynos 5420, bao gồm 4 lõi 1.9 GHz Cortex-A15 và 4 lõi 1.3 GHz Cortex-A7. Thiết bị bao gồm RAM 3 GB of, màn hình 5.7-inch 1080p Super AMOLED, máy ảnh chính 13-megapixel có thể quay phim 1080p với 60 fps và độ phân giải 4K với 30 fps (giới hạn mức 5 phút), bộ nhớ trong 32 hoặc 64 GB, và pin 3200 mAh.
Cũng như các thiết bị khác của dòng Galaxy Note, Galaxy Note 3 đi kèm với bút S Pen stylus, đã được cập nhật sử dụng hình dạng đối xứng hơn. Galaxy Note 3 là điện thoại thông minh đầu tiên hỗ trợ USB 3.0, cho phép chuyển đổi dữ liệu nhanh và sạc khi kết nối với cổng tương thích.
Galaxy Note 3 có sẵn với màu đen, trắng, và hồng. Vào tháng 12 năm 2013, Samsung giới thiệu ba màu mới cho một số thị trường; đen với viền vàng, trắng với viền vàng, và đỏ với viền bạc.
Phần mềm.
Galaxy Note 3 ra mắt cùng với Android 4.3 "Jelly Bean" và giao diện người dùng tùy biến của Samsung TouchWiz. Thêm một số tính năng mới cho bút của Note 3; khi rút bút ra khỏi máy (hoặc nhấn nút trên thân bút khi đang lướt trên màn hình) sẽ kích hoạt trình đơn dạng bánh "Air Command" cung cấp các phím tắt cho bút định hướng đến như Action Memos (ghi chú dán trên màn hình sử dụng nhận diện chữ viết để phát hiện nội dung của họ và cung cấp các hoạt động có liên quan, như tìm kiếm địa chỉ trên Google Maps hoặc quay số điện thoại), Screen Write (mở rộng chú thích), Pen Window (cho phép người dùng vẽ một cửa sổ bật lên để chạy một ứng dụng nhất định bên trong đó), công cụ tìm kiếm S Finder, và Scrapbook. Chức năng đa cửa sổ cũng được cập nhật với mở rộng hỗ trợ ứng dụng, khả năng chạy nhiều trường hợp trong một ứng dụng, và khả năng kéo thả nội dung giữa các ứng dụng. Thiết bị cũng đi kèm với ứng dụng tin tức tổng hợp được biết đến My Magazine, truy cập bằng cách vuốt đến trang dưới cùng của màn hình, và cập nhật cho S Note.
Vào 13 tháng 1 năm 2014, bản cập nhật Android 4.4 "KitKat" có sẵn thông qua Samsung Kies ở Ba Lan cho bản LTE. Bản cập nhật thêm vào giao diện người dùng một phím tắt máy ảnh ở góc màn hình khóa, tùy chọn cho cài đặt mặt định launcher và ứng dụng tin nhắn, hỗ trợ in, và một trình đơn cài đặt vị trí mới theo dõi và kiểm soát việc sử dụng theo dõi vị trí của ứng dụng. 4.4 cũng thay đổi đáng kể đến việc lưu trữ thứ cấp trên thiết bị vì lý do bảo mật; úng dụng truy cập trên thẻ SD bị hạn chế, chỉ có thư mục ứng dụng củ thể, trong khi truy cập vào các lưu trữ nội bộ chính vẫn được cho phép. Mặc dù điều này đã tồn tại từ Android 3.0 "Honeycomb", OEMs như Samsung trước đó đã sửa lại các bản phân phối của Android để giữ lại điều đó, cho phép ứng dụng có thể truy cập không giới hạn vào nội dung thẻ SD.
Phát hành.
Samsung đã giới thiệu Galaxy Note 3 với công bố tại sự kiện "Samsung Unpacked" vào 4 tháng 9 năm 2013 tại IFA Berlin, với khẩu hiệu "Note the date." Bản Galaxy Note 3 quốc tế được phát hành vào 25 tháng 9 năm 2013 trên hơn 140 quốc gia, trong khi Mỹ và Nhật Bản phát hành vào tháng 10 năm 2013. Tất cả Galaxy Note 3 sẽ bao gồm một năm đăng ký Evernote Premium miễn phí.
Phiên bản châu Mỹ và châu Âu của Galaxy Note 3 thực hiện khóa hệ thống tại một số vùng; yêu cầu SIM sử dụng trên bản châu Âu và Bắc Mỹ phải từ nhà mạng của vùng đó. Trong khi đó phát ngôn viên của Samsung tuyên bố các khóa sẽ được loại bỏ sau khi SIM hợp lệ được sử dụng. Mặc dù lập trình viên XDA Developers đã phát triển công cụ xóa nhà mạng mà hệ thống sử dụng, nó đòi hỏi điện thoại đã được root. Một phát ngôn viên tuyên bố rằng hệ thống chủ yếu ngăn chặn hành vi "chợ đen" mua đi bán lại, mặc dù một số nhà phê bình nghi ngờ rằng nhà mạng đã có thể yêu cầu Samsung để thực hiện tính năng ràng buộc này lên người dùng trong khi họ đang du lịch bằng cách ngăn chặn họ dùng SIM địa phương. Samsung chỉ thực hiện chính sách tương tự trên Galaxy S III, Note II, S4, và S4 Mini sản xuất sau tháng 7 năm 2013.
Đón nhận.
Trước phát hành.
Sau khi nó được tiết lộ, "The Verge" khen ngợi sự cải tiến phần cứng và phần mềm của Galaxy Note 3. Thiết kế tổng thể của nó được cho là "gắn kết" mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng nhựa, và những thay đổi trong thiết kế bút stylus cũng được ghi nhận. Tuy nhiên, ứng dụng My Magazine đã bị phê bình như một quảng cáo. "TechRadar" cho rằng Galaxy Note 3 là một sự cải tiến so với người tiền nhiệm (bao gồm phần cứng nhanh hơn và màn hình lớn hơn), nhưng chỉ trích thiết kế của nó chưa như mong muốn "khéo léo và cao cấp" trong cuộc sống như đã quảng cáo. | 1 | null |
Skarn hay skacnơ là những silicat có chứa calci. Skarn chủ yếu được hình thành trong đới tiếp xúc giữa các xâm nhập mácma granit vào các đá trầm tích cacbonat như đá vôi và doloston. Nước mang nhiệt từ mácma granit chứa nhiều silica, sắt, nhôm, và magnesi. Dung dịch này hòa trộn trong đới tiếp xúc làm hòa tan các đá cacbonat giàu calci, và biến đá cacbonat ban đầu thành các tích tụ skarn. Đá biến chất được hình thành có thể bao gồm nhiều tập hợp khoáng vật khác nhau phụ thuộc phần lớn vào thành phần ban đầu của dung dịch mácma và độ tinh khiết của các đá trầm tích cacbonat.
Hình thành.
Skarn thuộc nhóm đá silicat calci và liêu quan đến sự xâm nhập của granit thường là granit kiểu S (nguồn góc biến chất từ vỏ hay trầm tích). Skarn hiếm thấy trong các loại đá granit kiểu khác, do đặc điểm hóa của dung dịch và ứng xử kết tinh của kiểu M (nguồn từ manti) và kiểu I (nguồn gốc biến chất xâm nhập mácma). Granit kiểu S có khả năng tạo ra chất lỏng ở pha cuối giàu silica, các nguyên tốc không tương thích và halide do chúng thường chứa nhiều kali, bị oxy hóa và ngậm nước.
Exoskarn được hình thành khi chất lỏng còn lại từ quá trình kết tinh của granit tách khỏi khối đá ở giai đoạn cuối của sự thay thế. Khi các chất lỏng này tiếp xúc với đá phản ứng, thường là các đá cacbonat, như limestone hay dolostone, các chất lỏng phản ứng với chúng tạo ra các đá biến chất trao đổi.
Do các chất lỏng này mang các chất ở dạng hòa tan của silica, sắt, kim loại, halide. lưu huỳnh nên đá được thành tạo thường có sự kết hợp phức tạp của các khoáng vật giàu calci, magnesi và cacbonat.
Tích tụ quặng.
Skarn thường là đá chứa các quặng đồng, chì, kẽm, sắt, vàng, molypdem, thiếc, và wolfram. Các ví dụ về các mỏ skarn nổi tiếng: | 1 | null |
Wollastonit hay rivait là một khoáng vật silicat mạch calci (CaSiO3) chứa một lượng nhỏ các nguyên tố sắt, magie, và mangan ở vị trí thay thế cho calci. Nó thường có màu trắng. Nó hình thành khi đá vôi hoặc doloston không tinh khiết chịu áp lực và nhiệt độ cao đôi khi có mặt của các dung dịch chứa silica như ở dạng hình thành skarn hoặc trong các đá biến chất tiếp xúc. Các khoáng vật cộng sinh bao gồm granat, vesuvianit, diopside, tremolit, epidot, plagioclase feldspar, pyroxen và calcit. Tên của khoáng vật này được đặt theo tên nhà hóa học và khoáng vật học người Anh William Hyde Wollaston (1766–1828). | 1 | null |
Độ hòa tan là một đặc điểm hòa tan của chất rắn, chất lỏng hoặc chất khí vào dung môi để tạo ra một dung dịch đồng nhất. Độ hòa tan của một chất phụ thuộc chủ yếu vào các tính chất vật lý và hóa học của chất tan và dung môi cũng như nhiệt độ, áp suất và pH của dung dịch. Hiếu theo nghĩa rộng hơn độ hòa tan của một chất trong một dung môi nhất định được đo đạc bằng nồng độ bão hòa, bão hòa ở đây có nghĩa là việc thêm nhiều chất tan sẽ không làm tăng nồng độ của dung dịch và bắt đầu xuất hiện kết tủa của một lượng chất tan dư.
Yếu tố ảnh hưởng đến độ hòa tan.
Nhiệt độ.
Chất khí hòa tan thể hiện những ứng xử phức tạp hơn theo nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng, khí thường trở nên ít hòa tan trong nước ( đến tối thiểu, dưới 120°C cho hầu hết các khí phổ biến), nhưng hòa tan nhiều hơn trong các dung môi hữu cơ.
Đồ thị thể hiện các đường cong hòa tan của một số muối vơ cơ ở dạng rắn (nhiệt độ tính theo độ Celsius).
Độ hòa tan của các hợp chất vô cơ gần như luôn tăng theo nhiệt độ. phụ thuộc vào độ hòa tan khác nhau của các chất tan trong các dung môi nóng và lạnh.
Áp suất.
Đối với các pha nén (rắn và lỏng), sự phụ thuộc vào áp suất của độ hoà tan đặc biệt yếu và thường bị bỏ qua trong thực tế. Giả thiết một dung môi lý tưởng, sự phụ thuộc có thể xác định theo:với i là các nhân tố thành phần, Ni là tỷ lệ mol của thành phần thứ ith trong dung dịch, P là áp suất, T là hằng số nhiệt độ, Vi,aq là thể tích mol riêng phần của phần tử thứ i trong dung dịch, Vi,cr là thể tích mol riêng phần của phần tử thứ ith trong chất rắn hòa tan, và R là hằng số khí lý tưởng.
Sự phụ thuộc áp suất của độ hòa tan thỉnh thoảng có ý nghĩa thiết thực. VÍ dụ, sự nhiễm bẩn lắng đọng calci sulfat trong các mỏ và giếng dầu ( làm giảm độ hòa tan của nó khi giảm áp suất ) có thể làm giảm khả năng khai thác theo thời gian. | 1 | null |
Brucit là một dạng khoáng vật của magiê hydroxide, có công thức hóa học Mg(OH)2. Nó là sản phẩm thay thế phổ biến của pericla trong đá hoa; khoáng vật mạch nhiệt dịch nhiệt độ thấp trong đá vôi bị biến chất và clorit schist; và được hình thành trong quá trình serpentin hóa của dunit. Brucit thường được tìm thấy cộng sinh với serpentin, canxit, aragonit, dolomit, magnesit, hydromagnesit, artinit, talc và chrysotil.
Phát hiện.
Brucit được miêu tả đầu tiên năm 1824 và được đặt theo tên người phát hiện ra nó, một nhà khoáng vật học người Mỹ, Archibald Bruce (1777–1818). Các biến thể dạng sợi của Brucit được gọi là Nemalit. Ở dạng sợi thường nó kéo dài theo phương [1010], nhưng đôi khi là [1120].
Ứng dụng công nghiệp.
Brucit được dùng làm chất chống cháy do nó bị phân hủy nhiệt sẽ sinh ra nước ở dạng tương tự như nhôm hydroxide và hỗn hợp của huntit và hydromagnesit. Nó cũng là thành phần cung cấp nguồn magnesi quan trọng trong công nghiệp. | 1 | null |
Hydromagnesit là một khoáng vật cacbonat magnesi ngậm nước có công thức hóa học Mg5(CO3)4(OH)2·4H2O.
Khoáng vật này thường xuất hiện cộng sinh với các sản phẩm phong hóa của các khoáng vật chứ magnesi như serpentin hoặc brucit. Nó xuất hiện ở dạng lớp áo cứng và mạch hoặc lấp đầy trong các khe nứt trong các đá siêu mafic và serpentinit. Nó có mặt trong các đá dolomit và đá hoa bị biến đổi nhiệt dịch. Nó thường có mặt trong các hốc ở dạng speleothem và "moonmilk", tích tụ từ nước thấm qua các đá giàu magnesi. Nó là dạng cacbonat hốc phổ biến nhất sau canxit và aragonit. Nó bị phân tách nhiệt, trong khoảng 220 °C đến 550 °C, giải phóng nước và cacbon dioxide để lại magnesi oxide.
Nó được miêu tả đầu tiên năm 1836 từ một mẫu ở Hoboken, quận Hudson, New Jersey.
Stromatolit trong hồ nước ngọt (Salda Gölü) có tính kiềm (pH lớn hơn 9) ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ được cấu tạo từ hydromagnesit kết tủa từ diatom và cyanobacteria. | 1 | null |
là một công ty sản xuất hoạt hình Nhật Bản thuộc sở hữu của Tổng công ty TV Asahi, công ty có trụ sở tại Nishitōkyō, Tokyo. Shin-Ei là xưởng phim đằng sau những loạt anime truyền hình nổi tiếng hiện tại vẫn còn lên sóng như "Doraemon" (từ 1979) và "Shin - Cậu bé bút chì" (từ 1992).
Công ty ban đầu được Kusube Daikichirō (một nhân viên cũ từ Toei Animation) thành lập ở Tokyo vào năm 1965 lấy tên là A Production, về sau đổi tên thành Shin-Ei Animation vào năm 1976. Năm 2017, SynergySP trở thành công ty con của Shin-Ei.
Danh sách sản phẩm.
Những sản phẩm hiện đang chiếu trên truyền hình Nhật Bản được đánh dấu đậm. | 1 | null |
American Authors là một ban nhạc indie rock Mỹ nguồn gốc tại thành phố New York và đã ký hợp đồng với Island Def Jam Music Group. Họ được biết tới nhiều nhất bởi đĩa đơn "Best Day of My Life" trong album Oh, What a Life của họ.
Tour diễn.
Nghệ sĩ chính
Mở đầu | 1 | null |
Từ thiện là một hành động trợ giúp người gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống mà tự họ không thể thay đổi được. Hoạt động từ thiện có thể thông qua hình thức quyên góp, hiến tặng bằng tiền, vật phẩm... đến các tổ chức từ thiện nhằm mục đích cứu trợ nhân đạo, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe... Những hành động như trợ giúp tinh thần an ủi người gặp nạn, dành thời gian, công sức làm việc cho các tổ chức từ thiện cũng được xem là hành động từ thiện. Từ thiện nên được xuất phát từ tấm lòng, theo khả năng của người muốn làm từ thiện và không bị bắt buộc bởi bất kỳ một người hay tổ chức nào.
Từ thiện là một từ Hán Việt. Theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu, từ thiện (慈善) là kết hợp giữa hai từ "Từ" (thương yêu, như là "nhân từ" (thương người), "từ tâm" (lòng thương)) và "Thiện" (tốt lành). Vậy từ thiện có nghĩa là làm việc tốt từ lòng yêu thương (người). Những hành vi, việc làm tốt mà không xuất phát từ lòng thương thì không được gọi là 'Từ Thiện'.
Từ xưa, từ thiện được xem là căn bản của đạo đức và tình nhân đạo cũng như là một đức tính hay là đức hạnh cần thiết trong nhiều tôn giáo. Trong Kitô giáo, Do Thái giáo, Phật giáo và Hồi giáo, các giáo dân được khuyến khích thực hiện việc này.
Đặc điểm.
Vì việc từ thiện thường là một việc tự nguyện, nên không có những nguyên tắc bắt buộc nào. Tuy nhiên, theo quan điểm chung là từ thiện là hành vi giúp người nhưng không phải tất cả hành động giúp người nào cũng được gọi là từ thiện. Từ thiện thường phải đi chung với bất vụ lợi (làm không vì lợi ích riêng) và thiện nguyện (tự nguyện làm vì điều tốt).
Các tôn giáo có những luật hay là hướng dẫn cụ thể cho giáo dân về hình thức hiến tặng, để đạt kết quả tốt nhất cho người cho và người nhận (đọc ở dưới).
Tại Hoa Kỳ có một hệ thống phát triển cao của các tổ chức từ thiện.. Tại Việt Nam thì hoạt động từ thiện do chính quyền kiểm soát và diễn ra nhiều tiêu cực, tham nhũng, bất minh, thiếu công bằng.
Quyên góp từ thiện đóng một vai trò quan trọng để trợ giúp người yếu kém và có nhu cầu, bên cạnh hệ thống phúc lợi công cộng do nhà nước tổ chức. Trong nhiều xã hội, các tổ chức từ thiện đã và đang là hình thức duy nhất giúp xóa đói giảm nghèo.
Trong tôn giáo.
Kitô giáo.
Trong Kitô giáo, bác ái là một nguyên tắc quan trọng (bác ái 博愛 = lòng yêu thương rộng khắp mọi người). Một trong những giới răn quan trọng nhất mà Chúa Giê Su dạy là: "Ngươi hãy yêu người gần gũi như chính mình". Thánh vịnh có câu "Phước cho người nào quan tâm đến kẻ yếu đau khốn khổ. Chúa sẽ giải cứu người ấy trong ngày hoạn nạn." Trong bài giảng trên núi, Giê-Su cũng nhắc nhở "Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót!" (Ma-thi-ơ 5:7). Dụ ngôn người Samari nhân lành cũng là lời Chúa thí dụ cho việc cần thiết phải cứu trợ người khác.
Kinh Thánh có rất nhiều đoạn nhấn mạnh đến nghĩa vụ cần thiết của việc san sẻ và đóng góp vì phúc lợi của người nghèo, bị khó khăn. Tân Ước có chép những tông đồ đầu tiên của Chúa Giê-Su đã san sẻ tài sản của mình cho nhau, và quyên góp giúp đỡ người bị thiên tai.
Theo quan điểm Công giáo, ngoài đặc điểm căn bản cần thiết, việc hiến tặng nên được trao với sự quan tâm chất lượng để thu được kết quả tốt cho người cho và người nhận. Do đó, hiến tặng nên thận trọng, trực tiếp để xứng đáng đến tay cá nhân hoặc gia đình (Thessalonians 3:10; Huấn Ca 00:04) xứng đáng; nhanh chóng, để đảm bảo thuận lợi nhất (Châm ngôn 03:28); bí mật và khiêm nhường (Mt 06:02); vui vẻ (2 Cor 9:7); phong phú (Tobit 4:9).
Phật giáo.
Theo Ba-la-mật-đa, trong quá trình tu tập để trở thành bồ tát thì hạnh bố thí đứng đầu. Bố (布) = Phân tán, ban phát cho khắp nơi, cho hết; "thí" (施) = giúp, cho, nghĩa là đem tiền của và các thứ mình có mà cấp cho người khác. Trong Phật giáo Nguyên thủy, bố thí được xem là phương tiện để đối trị tính tham ái, ích kỷ và được thực hành để tránh khổ đau của đời sau. Theo Đại thừa, bố thí là biểu hiện của lòng Từ bi và là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh đến giác ngộ.
Hành động bố thí thức ăn cho các vị Khất sĩ hiện nay vẫn còn phổ biến tại các nước theo Phật pháp Nam truyền. Phật tử tại các nước này cúng tặng tiền bạc và phẩm vật cho chùa chiền và tăng sĩ, ngược lại các vị tỉ-khâu "bố thí" Phật pháp, hướng dẫn tu học. Hành động này cũng được xem là để nuôi dưỡng phúc đức.
Do Thái giáo.
Trong Do Thái giáo, việc từ thiện được xem là việc đúng, phải làm. "tzedakah" - một thuật ngữ tiếng Do Thái, thường được sử dụng để biểu lộ sự từ thiện, nhưng nguyên gốc có nghĩa là sự công bình - đề cập đến nghĩa vụ tôn giáo để làm những gì là đúng và hợp lý. Người Do Thái không thực hành từ thiện, nhân đạo và khái niệm này là hầu như không tồn tại trong truyền thống Do Thái. Thay vào đó, người Do Thái thực hành "tzedakah", có nghĩa là "sự công chính" và "công lý". Người Do Thái khi đóng góp tiền bạc, thời gian và nguồn lực của mình để giúp cho những người nghèo, thì người đó không phải là nhân từ, hào phóng hay "làm từ thiện" mà người đó đang làm "việc đáng làm, phải làm" ("công chính") đúng theo như đã chỉ dạy trong Torah (là phần luật của Kinh thánh Hebrew). Luật Torah yêu cầu 10% thu nhập của một người Do Thái phải được phân bổ cho "việc công bình", bất kể người nhận là giàu hay nghèo.
Nhà thần học Maimonides (thế kỷ 12), liệt kê Tám cấp độ của "sự công bình", như được viết trong "Mishneh Torah, Hilkhot matanot aniyi"m ("Luật về Ban cho người nghèo"), Chương 10:7-14:
Hồi giáo.
Trong Hồi giáo việc này được gọi là "Zakat", và là một trong năm trụ cột chính của Hồi giáo, theo đó, giáo dân được khuyến khích tặng ít nhất 2,5% phần thu nhập mỗi năm của mình cho người khác. | 1 | null |
Haakon Lorentzen (sinh ngày 23 tháng 08 năm 1954) là con trai của doanh nhân Na Uy Erling Sven Lorentzen (thuộc nhà Lorentzen) và mẹ là Ragnhild, Phu nhân Lorentzen, là chị gái của vua Harald V của Na Uy và Astrid, Phu nhân Ferner.
Lorentzen là cháu lớn nhất của vua Olav V của Na Uy, và được sinh ra khi ông cố ngoại của ông, Vua Haakon VII của Na Uy vẫn còn sống.
Lorentzen phục vụ trong quân đội Na Uy và sống ở Na Uy trong những năm 1980.
Ông là một doanh nhân ở Brazil, giám đốc của Grupo Lorentzen, accionists của Aracruz Celulose.
Tại Rio de Janeiro, ngày 14 tháng 04 năm 1982, Lorentzen kết hôn Martha Carvalho de Freitas (sinh tại Rio de Janeiro, ngày 05 tháng 04 năm 1958).
Con cái của họ gồm có:
Trong khi con của ông có mặt trong dòng kế vị ngai vàng nước của Anh, trong khi đó Lorentzen lại không nằm trong danh sách kế vị, do cuộc hôn nhân với một người Công giáo La Mã. | 1 | null |
Karl Franz Joseph Lanner (1801-1843) là nhà soạn nhạc khiêu vũ người Áo. Ông có đóng góp không nhỏ và được biết đến với việc cải cách cho thể loại waltz.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Joseph Lanner đến với âm nhạc bằng cách tự học. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc trở thành một nghệ sĩ violin trong một dàn tứ tấu nghiệp dư (trong dàn tứ tấu đó Johann Strauss I chơi viola), phát triển nó theo thời gian trở thành một dan nhạc chuyên chơi cho nhạc khiêu vũ. Lanner đã sáng tác nhiều bản quadrille, landler, waltz, galop chi dàn nhạc của mình.
Phong cách sáng tác.
Joseph Lanner là người đã cải tạo điệu waltz kiểu cũ thành kiểu mới. Đó là một tổ khúc gồm 5 điệu waltz nhỏ, có mở đầu và kết thúc. Người đương thời đã gọi ông là "Mozart của waltz". Sau Hội nghị Viên trong các năm 1814 và 1815, những điệu waltz của Joseph Lanner và Johann Strauss I đã trở thành một hình thức bao trùm lêm âm nhạc thành Viên và nhiều nơi khác nữa.
Tác phẩm.
Joseph Lanner đã viết 208 tiểu phẩm khiêu vũ gồm đủ thể loại như: landler, waltz, polka, galop..., nổi bật có "Những điệu waltz của thành Pest", "Những điệu waltz cung đình". | 1 | null |
Madama Butterfly là vở opera nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Ý Giacomo Puccini. Puccini đã sáng tác nó trong các năm 1901–1903, khi đó tác phẩm chỉ có 2 màn. Lời được viết bởi Giuseppe Giacosa và Luigi Illica phỏng theo kịch của Belasco, rút từ truyện của J.L.Long (dựa trên một sự kiện có thật). Vở opera được trình diễn lần đầu tiên tại thành phố Milan vào năm 1904. Sau đó, Madama Butterfly được viết lại. Màn thứ hai được chia thành 2 phần với 1 quãng nghỉ ở giữa. Phiên bản mới này được trình diễn lần đầu tiên tại Brescia 3 tháng sau khi ra đời. Tiếp theo, tác phẩm này lại được Puccini viết lại. Phiên bản thứ ba được biểu diễn lần đầu tiên tại Paris, Pháp vào năm 1906 và nó còn được biểu diễn cho đến bây giờ. | 1 | null |
Bom tấn () là một sản phẩm rất nổi tiếng hoặc gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực điện ảnh, sân khấu và trò chơi điện tử. Thuật ngữ này ban đầu là một từ lóng dùng trong nhà hát, chỉ một vở kịch đặc biệt thành công, nhưng ngày nay nó được mở rộng sang cả nền công nghiệp điện ảnh, công nghiệp dược và dùng trong nhiều hoàn cảnh khác. Trong điện ảnh, thuật ngữ "bom tấn" dùng để chỉ cả quy mô của cốt truyện lẫn của tác phẩm phim nói chung. Ngoài ra, "bom tấn" còn ám chỉ các loại dược phẩm trị liệu được quảng cáo thành công. | 1 | null |
Falstaff là vở opera cuối cùng của nhà soạn nhạc thiên tài người Ý Giuseppe Verdi, đồng thời là vở opera hài duy nhất của ông. Sự ra đời của tác phẩm không phải có từ tác giả của nó mà là của bạn Verdi, Arrigo Boito. Boito đã khuyên Verdi sáng tác 1 vở opera hài, và chính Boito đã viết lời cho vở opera này dựa theo vở hài kịch "Những bà vợ vui nhộn ở Windsor" và Vua Henry IV của đại văn hào Anh William Shakespeare, phần 1 và phần 2 tương ứng với mỗi vở kịch trên. Tác phẩm này được Verdi viết vào các năm 1889-1892, sau được biểu diễn lần đầu tiên tại thành phố Milan, Ý vào năm 1893. | 1 | null |
Formamid là một dẫn xuất của axit formic. Nó là một chất lỏng trong suốt, có thể trộn với nước và có mùi giống như amonia. Nó là nguyên liệu hóa học để sản xuất thuốc sulfa, các sản phẩm dược khác, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và sản xuất axít hydrocyanic. Nó từng được dùng làm chất mềm giấy và sợi. Đây là một loại dung môi hòa tan nhiều hợp chất ion. Nó cũng được dùng làm dung môi cho nhựa và chất dẻo hóa.
Formamid sẽ bắt đầu phản hủy từng phân thành cacbon monoxit và amonia ở 180 °C. Khi nung nhiệt cao, formamid phân hủy thành hydro cyanide (HCN) và hơi nước.
Sản xuất.
Trong quá khứ, axit formic từng được phản ứng với amonia để tạo ra amoni format, tiếp theo là tạo ra formamid bằng cách nung:
Quá trình sản xuất công nghiệp hiện tại của formamid liên quan đến hoặc là phản ứng cacbon mônôxít và amonia:
hoặc quy trình hai bước quan trọng hơn liên quan đến aminolysis methyl format (tạo thành từ cacbon monoxit và methanol):
với khả năng methanol tạo ra được tái sử dụng để tạo ra nhiều methyl format, bằng phản ứng với cacbon monoxit. | 1 | null |
sinh ngày 12 tháng 6 năm 1964 tại Matsumoto, Nagano là một đạo diễn phim Nhật Bản, nhà biên kịch và đạo diễn hiệu ứng hình ảnh. Ông nhận được giải thưởng cho đạo diễn và biên kịch phim xuất sắc nhất tại Giải Oscar Nhật Bản vào năm 2006 cho phim "Always Sanchōme no Yūhi". Ông là một thành viên của xưởng phim hoạt hình và hiệu ứng hình ảnh ở Shirogumi. | 1 | null |
Ký âm bằng chữ số (, không nên nhầm lẫn với ), là một hệ thống ký âm được sử dụng rất rộng rãi trong lĩnh vực âm nhạc tại các quốc gia ở châu Á. Lịch sử của nó liên quan tới ký âm Gongche từ thời nhà Đường.
Hệ thống này cũng được biết đến như Ziffersystem, nghĩa là "hệ thống chữ số" hay "hệ thống toán học" ở Nước Đức. Cần nốt rằng một số hệ thống ký âm khác không liên quan cũng được gọi là ký số toán học.
Hệ thống này giống hoặc tương tự với các hệ thống được sử dụng trong một phạm vi nào đó ở một vài quốc gia Châu âu, và khá là phổ biến ở Châu Á. Tài liệu đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc với tên gọi "jianpu", sau đó có vài biến thể của nó.
Mô tả ký âm bằng số.
Các nốt nhạc.
Các chữ số từ 1 tới 7 thể hiện các nốt nhạc (chính xác hơn là cao độ). Chúng tương ứng với các Âm giai Trưởng tự nhiên. Ví dụ, trong âm giai C (Đô) trưởng, mối quan hệ của nó với các nốt và solfège được thể hiện qua:
Nốt: C D E F G A B
Solfège: do ré mi fa sol la si
Ký số: 1 2 3 4 5 6 7
ở G (Sol) trưởng:
Note: G A B C D E F♯
Solfège: do ré mi fa sol la si
Ký số: 1 2 3 4 5 6 7
Khi các ký âm được đọc to hay hát, chúng được gọi là "do, re, mi, fa, sol, la, si". ("Si" đã được thay thế trong tiếng Anh bằng "ti", nhằm tạo ra sự khác nhau giữa các cao độ ở phụ âm bắt đầu)
Quãng tám.
Chấm ở trên hoặc dưới một nốt tăng hoặc giảm âm của nó so với các quãng tám khác. Số lượng các chấm bằng với số quãng tám. Ví dụ, "6" với một dấu chấm bên dưới là một quãng tám thấp hơn "6". Cao độ các âm giai có thể được biểu diễn:
Âm giai Trưởng: 1 2 3 4 5 6 7 1
Âm giai Thứ tự nhiên: 6 7 1 2 3 4 5 6
Trường hợp có nhiều hơn một dấu chấm ở trên hoặc dưới con số, dấu chấm được xếp chồng lên nhau theo chiều dọc.
Khi có trường độ nốt (xem phần sau) bên dưới các con số, các dấu chấm được đặt phía dưới dòng. Do đó các dấu chấm dưới con số này không luôn luôn theo chiều dọc thẳng hàng với nhau, vì một số trong số họ có thể được di chuyển hơi xuống dưới để không va chạm với các dòng thời nốt.
Hợp âm.
Chords can be transcribed by vertically stacking the notes, nốt thấp nhất ở phía dưới như với ký hiệu phương Tây. Mỗi nốt có dấu chấm quãng tám của riêng mình, nhưng chỉ nốt thấp nhất có chiều dài dòng (phần tiếp theo).
Hợp âm Arpeggiated ký hiệu bằng cách viết các biểu tượng arpeggiation phương Tây tiêu chuẩn bên trái của hợp âm.
Biểu tượng âm như Cm có thể được sử dụng nếu lồng tiếng chính xác là không quan trọng. | 1 | null |
Mộc là album Vol.6 cũng là album khép lại chuỗi dự án mang tên "Ngũ hành" của ca sĩ Hiền Thục. Được thực hiện trong thời gian từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 10 năm 2006, album này là thể nghiệm đầu tiên của Hiền Thục ở dòng nhạc phong cách acoustic (unplugged – không sử dụng nhạc điện tử), khác biệt những gì Hiền Thục từng hát trước đó. Với mong muốn thực hiện một sản phẩm trước hết dành cho chính mình, có tính điểm nhấn nhất trong loạt đĩa Ngũ hành, "Mộc" cũng đánh dấu lần hợp tác đầu tiên của cô cùng ekip biên tập – hòa âm người Hà Nội. Mang chất nhạc giản dị và dịu dàng, giàu tính tự sự, "Mộc" được dẫn dắt như câu chuyện kể nhiều hoài niệm của một người nữ. Album ghi dấu sự trưởng thành về hình ảnh và cảm xúc hát ở Hiền Thục, được coi như một bước tiến trong sự nghiệp của cô
"Mộc" từng nhận giải Album Vàng năm 2007 của Hội đồng bình chọn giải "Album Vàng".
Ý tưởng và chủ đề.
Tháng 8 năm 2005, trong lần tham gia chương trình "Con đường âm nhạc" số 4 khắc họa chân dung nhạc sĩ Thanh Tùng, Hiền Thục đã thể hiện hai ca khúc "Giọt sương trên mi mắt" và "Vĩnh biệt mùa hè" với bản phối mới là tiếng đàn guitar duy nhất của nhạc sĩ Thanh Phương. Lần đầu tiên thể hiện phong cách unplugged cô đã để lại nhiều ấn tượng với khán giả và giới chuyên môn, điển hình là nhạc sĩ Thanh Phương. Ngay sau chương trình này, được sự gợi ý của Thanh Phương, Hiền Thục có dự định thực hiện album mang phong cách unplugged dù biết rằng đây là thể loại tương đối kén người nghe, nhất là với đối tượng khán giả trẻ.
Theo Hiền Thục, cô thực hiện bộ đĩa Kim-Thủy-Thổ-Hỏa-Mộc vì cô là người sống thiên về tâm linh, cho rằng khi có Ngũ hành thì yên tâm coi như mình đã được bảo trợ. Album "Mộc" kết thúc dự án Ngũ hành kéo dài gần hai năm, riêng Mộc mất hơn một năm và phát hành sau cùng, với nhiều ý nghĩa: Mộc – mạng Mộc của Ngũ hành; Mộc – sự mộc mạc, giản dị trong âm nhạc; Mộc – cũng là mạng của Hiền Thục; Mộc – đánh dấu một hình ảnh, một chất nhạc hoàn toàn mới mẻ với Hiền Thục. Album gồm 10 ca khúc, ngoài "Cánh diều tuổi thơ" và "Hơi người gió bay" còn lại là những bài hát trữ tình quen thuộc được làm lại. Có 5 ca khúc hát acoustic với duy nhất tiếng guitar đệm của Thanh Phương. Trong "Mộc", mỗi bài hát là sự đan xen những câu chuyện kể, những kỷ niệm, những trải nghiệm của chính người hát. Hiền Thục cho biết ""Album "Mộc" là câu chuyện kể về chính cuộc đời của tôi với nhiều kỷ niệm và cảm xúc. Đây là album tôi làm cho chính mình. Tôi đã mất hơn một năm để hoàn thành album này. Khi cầm album "Mộc" trên tay, tôi thực sự cảm thấy mình hạnh phúc"."
Hiền Thục thường xuyên làm mới hình ảnh của mình theo khá nhiều phong cách nhưng chất nhạc trong "Mộc" vẫn là điều Hiền Thục yêu thích và cô vẫn có dự định tiếp tục thực hiện những sản phẩm như "Mộc".
Ghi nhận.
Mộc được ghi nhận là album đáng nhớ nhất của bộ đĩa "Ngũ hành" và là một trong những album ấn tượng ở Hiền Thục. Album ghi dấu sự trưởng thành về hình ảnh, tinh tế trong cảm xúc hát của Hiền Thục, được coi như một bước tiến trong sự nghiệp của cô.. Từ "Mộc", Hiền Thục định hình, xây dựng một phong cách nhạc mở rộng khả năng và không gian biểu cảm bắt gặp trong những sản phẩm về sau. Album "Diamond" vẫn chung một đường dây tư duy âm nhạc kế thừa từ Mộc với những bản phối khí acoustic bên cạnh những thử nghiệm mới trong hòa âm. Cách dựng bài chỉ hát một lần, không nhạc dạo giữa bài của "Chưa bao giờ" được dụng ý rõ ràng hơn trong "Diamond". Ca khúc "Còn tuổi nào cho em" đã đem đến cho cô nhiều lời khen ngợi vì sự dung dị trong cách trình bày được giữ lại cho vào CD "Portrait 17". "Portrait 17" cũng có hai bản thu acoustic khác là "Cuối cùng cho một tình yêu" và "Đoản khúc thu Hà Nội".. Mộc từng nhận giải Album Vàng năm 2007 của Hội đồng bình chọn giải "Album Vàng". | 1 | null |
Before U Go (Hangul: 이것만은 알고 가; Romanji: igeonmanin algo ga) là repackage của "Keep Your Head Down" (2011), album phòng thu thứ năm của Hàn Quốc bởi bộ đôi nhạc pop Hàn Quốc TVXQ. Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 3 năm 2011 bởi SM Entertainment, hai tháng sau khi hồ sơ gốc. Phiên bản repackage có ba bài hát mới, tất cả đều là bản hòa âm của chỉ dẫn của album, "Before U Go". Đĩa đơn được sản xuất bởi cộng tác viên thường xuyên của TVXQ Yoo Young-jin, người cũng sản xuất chì album thứ sáu của họ đơn " Keep Your Head Down ".
"Before U Go" đứng vị trí số một trên BXH của Hàn Quốc "Gaon Albums Chart" và "Bảng xếp hạng Hanteo", thúc đẩy doanh số bán hàng ban đầu "Keep Your Head Down". Ca khúc đứng đầu "Before U Go" đạt vị trí số mười ba trên "Singles Chart Gaon" và số một trên bảng xếp hạng âm nhạc trực tuyến khác nhau, nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Single cũng giành được danh hiệu số một trên các chương trình âm nhạc "The Music Trend" và "Music Bank". | 1 | null |
Artinit là một khoáng vật cacbonat magnesi ngậm nước có công thức hóa học: Mg2(CO3)(OH)2·3H2O. Nó kết tinh theo dạng lăng trụ một nghiêng, có màu trắng, ánh tơ thường có các dải tỏa tia. Nó có độ cứng Mohs 2,5 và tỷ trọng 2.
Khoáng này có mặt trong các mạch nhiệt dịch nhiệt độ thấp và trong các đá siêu mafic bị serpentin hóa. Các khoáng vật cộng sinh gồm brucit, hydromagnesit, pyroaurit, chrysotile, aragonit, canxit, dolomit và magnesit.
Artinit được thông báo lần đầu tiên năm 1902 ở Lombardy, Ý. Tên của nó được đặt theo tên nhà khoáng vật học Ý, Ettore Artini (1866–1928). | 1 | null |
Tremolit là một khoáng vật silicat trong nhóm amphibole có thành phần hóa học: Ca2Mg5Si8O22(OH)2. Tremolit hình thành từ quá trình biến chất đá trầm tích giàu dolomit và thạch anh. Tremolit tạo thành một chuỗi các khoáng với actinolit và ferro-actinolit. Tremolit magnesi tinh khiết có màu trắng kem, nhưng cấp màu chuyển sang lục sẫm khi hàm lượng sắt tăng. Nó có độ cứng theo thang Mohs từ 5 đến 6. Nephrit, một trong hai khoáng vật đá quý jade, là biến thể màu lục của tremolit.
Trong tự nhiên.
Tremolit là loại khoáng vật chỉ thị cho mức độ biến chất vì ở nhiệt độ cao nó bị biến đổi thành diopside.
Tremolit trong tự nhiên là kết quả của quá trình biến chất tiếp xúc các đá trầm tích silica giàu magnesi và calci và trong tướng đá phiến lục nguồn gốc siêu mafic hoặc đá chứa cacbonat magnesi. Các khoáng vật cộng sinh gồm canxit, dolomit, grossular, wollastonit, talc, diopside, forsterit, cummingtonit, riebeckit và winchit.
Tremolit được miêu tả đầu tiên năm 1789 ở Campolungo, thung lũng Piumogna, Leventina, Ticino (Tessin), Thụy Sĩ. | 1 | null |
Boléro (bô-lê-rô) của Maurice Ravel nguyên là vở nhạc vũ kịch thể balê với sự tham gia của dàn nhạc giao hưởng. Đây là tác phẩm mà tác giả cho là «"ballet de caractère espagnol"» (vở ba lê có nét Tây Ban Nha), phần nhạc của Ravel sáng tác lấy cảm hứng từ điệu bolero Andalucia, phần múa được biên đạo bởi Bronislava Nijinska. Tác phẩm được sáng tác trong khoảng tháng 7 đến tháng 10 năm 1928, được công diễn lần đầu vào ngày 22 tháng 11 cùng năm, tại Nhà hát Opéra Garnier, Paris với vai chính do nữ nghệ sĩ ba lê người Nga là Ida Rubinstein đảm nhiệm. Bà Ida Rubinstein chính là người đã yêu cầu tác giả sáng tác trước đó cho riêng mình biểu diễn.
Ngay sau vài lượt trình diễn, tác phẩm được khán giả và giới phê bình nghệ thuật Pháp đánh giá rất cao. Và chỉ vài tháng sau, nó nhanh chóng lan truyền sang nhiều quốc gia trên thế giới. Vai chính ở vở ba lê này là Ida Rubinstein nhanh chóng nổi tiếng và là nguồn cảm hứng cho khá nhiều họa sĩ.
Mặc dù chính Ravel coi tác phẩm này là "kém quan trọng nhất" của mình, nhưng phần nhạc của tác phẩm này luôn được dư luận coi là một kiệt tác của Ravel và cũng là một trong những kiệt tác nhạc giao hưởng của thế giới, có sức sống mãnh liệt cho đến tận ngày nay, đã được nhiều dàn nhạc giao hưởng hiện đại nổi tiếng trên thế giới biểu diễn, được phổ biến trên nhiều trang mạng với tổng số lượt người đã xem lên tới hơn 100 triệu. Hiện nay, khi nhắc tới "Bolero của Ravel", thì người ta thường nghĩ ngay tới bản nhạc này, mà ít nghĩ tới vở ba lê cùng tên có bản nhạc làm nền.
Lược sử.
Nhạc phẩm này hiện mang số M.81, trong danh mục các tác phẩm của Ravel do nhà âm nhạc học Marcel Marnat ấn định.
Cấu trúc nhạc phẩm.
Boléro của Ravel là "sáng tác đơn giản nhất về mọi phương diện, nhưng cũng rất kì lạ".
Giai điệu.
Tổng phổ gốc dài 340 nhịp, được chia thành 18 phần. Giai điệu đơn giản, nghe dễ nhớ, viết ở thang âm nguyên với giọng đô trưởng, gồm hai chủ đề mà các nhà phê bình âm nhạc gọi là chủ đề A và chủ đề B, lặp lại 169 lần.
Chủ đề A có giai điệu uyển chuyển, "bay lượn" xuống thấp dần, do sáo flûte thực hiện đầu tiên, nghe nhẹ nhàng, thanh cao. Chủ đề gồm hai đoạn (tiền đề -antécédent- và hậu đề -conséquent).
Chủ đề B có cấu trúc tương tự như chủ đề A, nhưng do được các nhạc cụ giọng trầm diễn tấu, ban đầu là pha-gôt. Đỉnh cao của giai điệu đạt đến ở nốt thăng, với sự lặp đi lặp lại chín lần liên tiếp, sau đó giai điệu đi xuống, chậm hơn và thấp hơn hai quãng tám. Vì vậy, các nhà phê bình âm nhạc nhận định rằng: chủ đề B cung cấp một hình ảnh tương phản với chủ đề A.
Biên chế nhạc cụ.
Theo tổng phổ gốc (của Ravel) dàn nhạc cần 17 loại nhạc cụ, tóm tắt ở bảng sau (theo đoạn của nhạc phẩm):
Vai trò văn hoá.
Trong đời sống văn hoá, phần nhạc của tác phẩm này được xem là mô tả sự kiện rất to lớn, hệ trọng `xuất hiện từ xa rồi "lừ lừ" tiến đến, không gì ngăn cản nổi. Với cảm giác này của người nghe nhận được, nên phần nhạc của tác phẩm thường dùng trong các phim hay video để mô tả cảnh siêu động đất, sóng thần, hoặc sức mạnh của một đội quân quyết thắng.
Tác phẩm cũng đã được dùng làm nhạc nền, minh hoạ suốt lễ rước đuốc trong buổi khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2020 ở Tokyo được truyền hình trực tiếp ngày 23 tháng 7 năm 2021. | 1 | null |
Android là hệ điều hành mở dành cho thiết bị di động bao gồm phiên bản sửa đổi của Linux kernel, middleware, và khóa ứng dụng. Trang này liệt kệ và so sánh thiết bị phần cứng cùng chạy hệ điều hành Android của Google.
Google công bố trong Q3 2011, tổng số lượt kích hoạt Android vượt 190 triệu, tăng đáng kể từ 135 triệu của quý trước. Sự gia tăng được thúc đẩy bởi doanh số bán hàng của điện thoại thông minh Android ở mức giá thấp từ nhà sản xuất Trung Quốc và Ấn Độ. Tính đến 3 tháng 9 năm 2013, đã có 1 tỉ thiết bị Android được kích hoạt.
Chính thức phát hành.
Dưới đây là danh sách thiết bị đã chính thức phát hành và cài sẵn hệ điều hành Android của Google. Nhiều tên cho cùng một thiết bị cũng được nhập vào một hàng nếu có. Một số nhà sản xuất nhỏ hơn sản xuất thiết bị Android, phần lớn trong việc phát triển thị trường, nhưng không được đưa vào danh sách do có quá nhiều thiết bị.
Điện thoại thông minh.
Để giải thích về các cột, xem hoặc .
Máy tính bảng.
Bảng này bao gồm máy tính bảng, máy tính bảng PC, máy nghe nhạc, và thiết bị di động Internet (MIDs). | 1 | null |
Daphnis et Chloé (tiếng Việt: Daphnis và Chloé) là vở ballet nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Pháp Maurice Ravel. Vở ballet này gồm có 3 màn. Biên đạo múa của vở này là Fokine. Vở ballet được sáng tác theo đơn đặt hàng của Sergei Diaghilev. Vở ballet được trình diễn lần đầu tiên tại Paris, Pháp vào năm 1912. Sau đó, nó được soạn thành 2 tổ khúc giao hưởng rất nổi tiếng ở Âu-Mỹ. Trong tác phẩm này, Ravel đã gán chặt hội họa và nhảy múa. Chính vì vậy, ông được coi là người đặt những cơ sở mới cho vũ kịch. Tác phẩm này là một trong những đỉnh cao của chủ nghĩa ấn tượng trong âm nhạc đồng thời cũng là đỉnh cao trong sự nghiệp của Ravel.. | 1 | null |
Quốc kỳ Krym hiện nay (, , tiếng Tatar: Qırım bayrağı) được sử dụng từ năm 1992 nhưng phải đến ngày 21 tháng 4 năm 1999 mới được công nhận chính thức.
Đặc điểm.
Lá cờ có tỉ lệ 1:2, chỉ gồm 3 sọc ngang: thiên thanh - trắng - đỏ. Trong đó:
Màu sắc của quốc kỳ Krym vốn là những màu truyền thống của cộng đồng Slav. | 1 | null |
Vương Khuông (chữ Hán: 王匡, ? – 25), người huyện Tân Thị, quận Giang Hạ, Kinh Châu , thủ lĩnh khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân.
Khởi binh phản Tân.
Năm Thiên Phượng thứ 4 (17), miền nam Trung Quốc mất mùa, phát sinh nạn đói. Vương Khuông, Vương Phượng vì tránh bị kiện cáo, tập hợp vài trăm người nổi dậy, được bọn Mã Vũ, Vương Thường, Thành Đan hưởng ứng; cùng nhau tấn công Ly Hương tụ , rồi trốn vào núi Lục Lâm . Vài tháng sau, lực lượng lên đến 7, 8 ngàn.
Đầu năm Địa Hoàng thứ 2 (21), Kinh Châu mục (không rõ tên) phát 2 vạn quan quân đi tiễu phạt nghĩa quân. Bọn Vương Khuông đón đánh ở Vân Đỗ , đại thắng, giết mấy ngàn người, lấy hết quân nhu; sau đó đánh hạ Cánh Lăng . Nghĩa quân chuyển sang đánh Vân Đỗ, An Lục, cướp bóc tài sản, hãm hiếp phụ nữ rồi quay về Lục Lâm, lực lượng lên đến hơn 5 vạn, quan quân không làm gì nổi.
Năm sau (22), trong núi phát sinh bệnh dịch, nghĩa quân chết quá nửa, bèn chia ra 2 lộ mà đi. Vương Khuông, Vương Phượng, Mã Vũ cùng bọn Chu Vĩ, Trương Ngang đi về phía bắc vào Nam Dương, được gọi là quân Tân Thị; quân Hạ Giang đi về phía tây vào Nam Quận; họ đều tự xưng là tướng quân. Tháng 7 ÂL, người thôn Bình Lâm là Trần Mục, Liêu Trạm đưa mấy ngàn người (gọi là quân Bình Lâm) gia nhập quân Tân Thị ở Tùy Châu. Tông thất nhà Hán là Lưu Huyền có mặt trong cánh nghĩa quân này, làm An Tập duyện. Tháng 10 ÂL, bọn Lưu Diễn đưa quân Thung Lăng gia nhập nghĩa quân. Liên quân Tân Thị, Bình Lâm, Thung Lăng chiếm Trường tụ , rồi tấn công Tân Dã, giết Tân Dã úy (không rõ tên). Tiếp đó đánh hạ Đường Tử hương , dụ giết Hồ Dương huyện úy (không rõ tên), giành được rất nhiều tài vật. Trong khi đó quân Hạ Giang cũng đánh bại quan quân nhà Tân của Kinh Châu mục ở Thượng Đường. Tháng 11, liên quân đại bại bởi quan quân của bọn đại phu Chân Phụ, thuộc chính Lương Khâu Tứ ở Tiểu Trường An tụ thuộc huyện Dục Dương, bèn lui về Cức Dương. Tháng 12 ÂL, liên quân trong đêm tập kích Lam hương , giành được rất nhiều quân nhu, lương thảo của bọn Phụ, Tứ.
Phù lập Canh Thủy.
Tháng giêng ÂL năm Địa Hoàng thứ 4 (23), nghĩa quân đánh bại và giết chết bọn Phụ, Tứ. Tiếp đó đánh bại quan quân của bọn tướng lãnh Nghiêm Vưu, Trần Mậu ở Dục Thủy , bọn Vưu, Mậu bỏ trốn. Nghĩa quân thừa thắng vây Uyển Thành. Tháng 2 ÂL, bọn thủ lĩnh Tân Thị, Bình Lâm đưa Lưu Huyền lên ngôi, là Canh Thủy đế; Khuông được phong làm Định quốc thượng công. Tháng 3 ÂL, quân Lục Lâm chiếm Côn Dương , Định Lăng , Yển . Tháng 5 ÂL, Lưu Diễn hạ Uyển Thành. Tháng 6 ÂL, nghĩa quân đại thắng hơn 40 vạn quan quân ở Côn Dương. Tháng 9 ÂL, Vương Khuông soái đại quân đánh hạ Lạc Dương, bắt bọn đại thần nhà Tân là thái sư Vương Khuông, quốc tướng Ai Chương. Đồng thời, nhân dân Trường An nổi dậy, giết Vương Mãng.
Tháng 2 ÂL năm Canh Thủy thứ 2 (24), đế dời đô đến Trường An, đại phong công thần, Khuông được phong Bỉ Dương vương.
Đầu hàng Xích Mi.
Tháng 3 ÂL năm thứ Canh Thủy 3 (25), nghĩa quân Xích Mi tây tiến áp sát Trường An của chính quyền Canh Thủy, trong khi bọn Vương Khuông bị tướng của Lưu Tú là Đặng Vũ đánh bại, chạy về Trường An. Trương Ngang đề nghị Canh Thủy đế lui về Uyển Thành ở phía đông để tập hợp lực lượng, bọn Khuông, Thân Đồ Kiến, Liêu Trạm tán thành, nhưng Canh Thủy đế nổi giận không theo. Tháng 6 ÂL, quân Xích Mi lập Kiến Thế đế Lưu Bồn Tử, Canh Thủy đế sai Vương Khuông, Trần Mục, Thành Đan, Triệu Manh đóng đồn ở Tân Phong, Lý Tùng theo sau để chống địch. Sau đó, Trương Ngang, Liêu Trạm, Hồ Ân, Thân Đồ Kiến cùng bọn Ngự sử đại phu Ngôi Hiêu mưu tính bắt ép Canh Thủy đế quay về miền đông; đế biết, lừa giết được Thân Đồ Kiến, nhưng bị bọn Trương đánh bại, chạy đến Tân Phong ở với Triệu Manh. Canh Thủy đế nghi ngờ bọn Khuông, bèn lừa giết Trần Mục, Thành Đan, còn Khuông chạy vào Trường An hợp quân với Trương Ngang. Lý Tùng, Triệu Manh đưa quân giao chiến với Khuông, Ngang liên tiếp mấy tháng, bọn Khuông thua chạy khỏi Trường An. Quân Xích Mi đến Cao Lăng, bọn Khuông ra hàng, hợp quân tấn công Trường An. Tháng 9 ÂL, bọn họ hạ được Trường An. Tháng 10 ÂL, quân Xích Mi giết Canh Thủy đế.
Cái chết.
Trong năm ấy, Quang Vũ đế Lưu Tú sai thượng thư Tông Quảng cầm cờ tiết chiêu hàng Hoàng Phòng ở không xa Trường An. Khuông cùng Hồ Ân, Thành Đan ly khai Trường An, tìm gặp Quảng xin hàng, rồi theo Quảng về miền đông. Đến An Ấp , Quảng kết tội bọn Khuông "giữa đường muốn bỏ trốn", đem giết cả. | 1 | null |
Serratia marcescens là một loài trực khuẩn hình que Gram âm, kỵ khí tùy nghi, thuộc họ Enterobacteriaceae. Loài vi khuẩn này thường được tìm thấy trong đất, nước, thực vật và động vật. Phương thức lây truyền của vi khuẩn này bằng cách trực tiếp hoặc bằng ống thông.
"Serratia marcescens" có thể gây nên bệnh viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm màng não và áp xe não, nhiễm trùng đường tiết niệu, nhiễm trùng mắt. Chúng xâm nhập vào thức ăn từ môi trường không khí, nước. | 1 | null |
Quân Cờ Vàng (, Hán Việt: Hoàng Kỳ quân) là một đảng cướp thổ phỉ, có nguồn gốc từ tàn quân của phong trào Thái Bình Thiên Quốc (Trung Quốc) kéo sang Việt Nam từ giữa thập kỷ 1860. Đội quân này do Hoàng Sùng Anh cầm đầu, dùng hiệu kỳ màu vàng để phân biệt với quân Cờ Đen và quân Cờ Trắng, thường xuyên tổ chức cướp phá, bách hại dân chúng, đồng thời tìm cách loại trừ, tiêu diệt hai nhóm thổ phỉ còn lại. Về sau, Hoàng Sùng Anh bị quân Cờ Đen tiêu diệt, quân Cờ Vàng tan rã. Quân Cờ Đen kiểm soát khu vực trung và thượng du Bắc Kỳ. | 1 | null |
Quân Cờ Trắng (, Hán Việt: Bạch Kỳ quân) là một đảng cướp thổ phỉ, có nguồn gốc từ tàn quân của phong trào Thái Bình Thiên Quốc (Trung Quốc) kéo sang Việt Nam từ giữa thập kỷ 1860. Đội quân dùng hiệu kỳ màu trắng để phân biện với quân Cờ Đen và quân Cờ Vàng, thường xuyên tổ chức cướp phá, bách hại dân chúng. Tháng 2 năm 1868, triều đình Huế đã cùng Quân Cờ Đen diệt Quân Cờ Trắng. | 1 | null |
Hungama TV là kênh truyền hình dành cho trẻ em ở Mumbai. Ban đầu được điều hành bởi UTV Software Communications thành lập năm 2005, rồi bán cho Disney năm 2006.. Với mục đích nâng cao hình ảnh Disney tại Ấn Độ. Hiện nay Hungama là đơn vị được điều hành bởi Disney Channel ở khắp nơi. Mục đích là dành cho trẻ em và preteen(tuổi từ 4-14), sử dụng ba ngôn ngữ (tiếng Hindi, Tamil và tiếng Telugu).
Tổng quan & Availability.
Hungama TV là kênh giải trí địa phương bằng tiếng Hindi dành cho trẻ em Ấn Độ. Có 3 ngôn ngữ là tiếng Hindi, Tamil và tiếng Telugu. Kênh có mặt trên tất cả đường dây cáp và truyền hình vệ tinh ở Ấn Độ.
Block.
Ha Ha Hungama.
Block này chiếu những tập phim của "Kochikame", "Shin-chan" và "Doraemon" vào buổi chiều.
Dore-Monday.
Block này chiếu "Doraemon" vào Thứ 2 mỗi tuần vì vậy tên block được đặt như vậy. Doraemon chính là gương mặt đặc biệt được đặt ở giữa logo Hungama TV.
Bheja-Friday.
Block này chiếu "Shin-chan" mỗi thứ 6 hàng tuần nên tên block được đặt như vậy. Shin-chan là gương mặt đặc biệt ở giữa logo Hungama TV.
Bheja-Friday bị ngưng phát sóng vào tháng 10 năm 2008 do lệnh cấm vì nội dung phim Shin-Chan được cho là không phù hợp trong chương trình gây nhiều tranh luận. Chương trình này, cùng với Bheja-Friday block, mặc dù bị kiểm duyệt gắt gao nhưng đã hoạt động lại vào 27-3, 2009.
Giải Golden Bhopu.
Hungama TV ra mắt Golden Bhopu Awards dành cho trẻ em về nhân vật trẻ thích nhất và đề cử. Việc đề cử thường diễn ra trong chương trình. Khẩu hiệu nó là "Apna Favorite Character Batao Or Bhopu Bajao".
Chương trình.
kênh thiếu nhi đặc sắc về anime dành cho trẻ em và thanh thiếu niên.
Avatar mới.
Hungama TV thuộc kiểu kênh chuyển nhượng quyền sở hữu. Avata mới truyền đạt nét đặc trung riêng và lưu giữ nhân vật hài hước, yêu thương ‘unapologetically, tinh nghịch và huyên náo của đài.Nhãn hiệu mới có 3 tiêu chí; gắn với khẩu hiệu mới - Hungama Machaya Kya?, cái nhìn mới về on-air và mặt hàng, và ấn tượng tính tương tác mới. Thêm cái nhìn mới về đài là sinh động về video âm nhạc trẻ em, tính cách nghịch ngợm, mang đến những cảm xúc chân thật trải nghiệm cuộc sống hằng ngày.Khẩu hiệu nà y dựa trên khảo sát gần của đài nơi nổi lên một số đứa trẻ tụ tập trong mỗi nhóm ra lệnh thực hiện và hoạt động. Hungama quyết định làm nổi bật những đứa trẻ theo khẩu hiệu truyền cảm hứng c ho những đứa trẻ khác học theo và đa dạng thực tiễn.
Chương trình gần đây.
Hungama TV chiếu những anime thiếu nhi hay như Kiteretsu và Thakumar jhuli và chương trình thực tế như Hero mà trẻ em rất thích. Hungama TV tập trung những anime cho trẻ và preteens (tuổi 4-14). Show như Doraemon, Shin-chan, Chimpui, Thám tử lừng danh Conan, Hero, Kochikame... Là những hit trên Hungama TV. Hungama TV chiếu 50% là chương trình thực tế và 50% là hoạt hình, đây là lý do cho sự thành công cho kênh khi bắt đầu. Lịch chiếu của Hungama TV gần đây thay đổi mỗi tuần.Giờ chương trình không cố định.Chỉ một vài chương trình được sửa. Những chương trình hiện tại dưới đây:
Phim.
Hungama TV chiếu rất nhiều anime nổi tiếng như Shin Cậu bé bút chì được lồng tiếng Hindi- | 1 | null |
Pháo đài Anh hùng (tiếng Nga: Крепость-герой, "Krepost'-geroy") là một danh hiệu vinh dự được đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho Pháo đài Brest đã có những hành động tập thể xuất sắc thể hiện tinh thần yêu nước trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (Thế chiến thứ hai) từ 1941 đến 1945. Đây là danh hiệu tập thể cho các thành phố, pháo đài tương đương với danh hiệu trao cho các cá nhân, danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết.
Lịch sử.
Cụm từ "pháo đài anh hùng" được nói đến lần đầu trong các bài báo của tờ "Pravda" (Sự thật) vào đầu năm 1942. Nó được nhắc đến chính thức lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 5 năm 1945, khi Iosif Vissarionovich Stalin ra sắc lệnh của Tư lệnh tối cao quyết định bắn đại bác chào mừng các "thành phố anh hùng" là Leningrad, Stalingrad, Sevastopol và Odessa.
Ngày 22 tháng 6 năm 1961 nhân dịp kỉ niệm lần thứ 20 ngày bắt đầu Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Chủ tịch đoàn Xô viết tối cao đã ra sắc lệnh tặng thưởng cho thành phố Kiev danh hiệu Thành phố Anh hùng. Danh hiệu này trở thành một danh hiệu vinh dự chính thức vào lễ kỉ niệm lần thứ 20 chiến thắng của Chiến tranh giữ nước vĩ đại, ngày 8 tháng 5 năm 1965, và nó được trao cho các thành phố Leningrad, Volgograd (tên cũ là Stalingrad), Kiev, Sevastopol và Odessa. Sau đó, Moskva cũng được trao tặng danh hiệu này và pháo đài Brest cũng được phong Pháo đài anh hùng.
Các thành phố được phong Anh hùng tiếp theo là:
Từ năm 1988 việc trao danh hiệu này được chính thức chấm dứt.
Pháo đài Anh hùng Brest.
Pháo đài Brest (Belarus) nằm ngay tại biên giới được thiết lập sau Hiệp ước Xô-Đức. Đêm ngày 22 tháng 6 năm 1941, pháo đài trở thành địa điểm đầu tiên của Liên Xô bị quân đội Đức Quốc xã tấn công và nơi đây trở thành chiến trường giữa lính biên phòng Xô viết và quân đội Đức Quốc xã của Tập đoàn quân Trung tâm. Pháo binh Đức nã dữ dội vào pháo đài tuy nhiên những cố gắng nhanh chóng chiếm lấy cứ điểm này của quân Đức đã thất bại và họ phải thực hiện vây hãm lực lượng Hồng quân bên trong Brest và tiếp tục chọc sâu vào lãnh thổ Liên Xô từ hướng khác. Tại đây, khoảng 4000 Hồng quân đã kháng cự quyết liệt các đợt tấn công của quân đội Đức Quốc xã thường đông hơn họ tới 10 lần. Những người còn lại trong pháo đài bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, hết lương thực, nước uống, vũ khí, tuy vậy họ vẫn chiến đấu đến người cuối cùng. Quân Đức đã dùng đủ mọi biện pháp từ xe tăng, hơi ngạt, súng phun lửa nhưng cũng không bẻ gãy được sự chống cự của quân đội Xô viết. Đức Quốc xã chỉ hoàn toàn làm chủ được pháo đài vào cuối tháng 7 (hơn 1 tháng sau ngày tấn công) sau khi đã san phẳng gần như toàn bộ hệ thống công sự và thiệt hại nặng nề sau những trận chiến trong các hầm ngầm, khi đó pháo đài đã ở sâu hơn 100 km trong hậu phương quân Đức. Ngay cả khi pháo đài đã bị hạ, những người lính Hồng quân còn sống sót trong căn cứ vẫn tiếp tục chống trả lại quân Đức trong vài tháng sau đó. Tiểu thuyết "Tên anh không có trong danh sách" của nhà văn Boris Vasiliev đã dựa trên những sự kiện này để viết thành câu chuyện về người lính cuối cùng chiến đấu trên pháo đài.
Pháo đài Brest được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng vào năm 1965. | 1 | null |
Pháo đài Brest (tiếng Belarus: Брэсцкая крэпасць, Brestskaya krepasts '; tiếng Nga: Брестская крепость, Brestskaya krepost '; tiếng Ba Lan: Twierdza brzeska), trước đây gọi là Pháo đài Brest-Litovsk, là một pháo đài của Nga vào thế kỷ 19. Nó là một trong những nơi quan trọng nhất của Liên Xô trong Thế chiến II di tích chiến tranh kỷ niệm cuộc kháng chiến của Liên Xô chống lại cuộc xâm lược của Đức vào 22 tháng 6 năm 1941 (Chiến dịch Barbarossa). Sau chiến tranh, vào năm 1965, danh hiệu Pháo đài Anh hùng đã được trao cho các pháo đài để kỷ niệm việc bảo vệ thành lũy biên giới trong những tuần đầu tiên của chiến tranh Đức-Xô. Đó là sau đó một phần của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia (ngày nay là Cộng hòa Belarus). Danh hiệu Pháo đài Anh hùng tương ứng với danh hiệu Thành phố Anh hùng (Liên Xô), đã được trao cho mười hai thành phố, một pháo đài của Liên Xô.
Lịch sử hình thành.
Pháo đài Brest là cửa ngõ biên giới giữa Đế quốc Nga và Ba Lan, nằm trên một hòn đảo lớn tại ngã ba sông Bug Tây và sông Mukhavets. Vào thế kỷ thứ 12, tại đây xuất hiện cụm dân cư người Slav có tên là Beresky. Từ đó đến cuối thế kỷ 18, đây là nơi tranh chấp thường xuyên giữa ba quốc gia láng giềng là Nga, Ba Lan và Litva. Khi thuộc Nga, nó được gọi là Brest, khi thuộc Ba Lan, nó được gọi là Brześć Litewski, khi thuộc Litva, nó được gọi là Brest-Litovsk. Đến cuối thế kỷ 18, vùng đất này thuộc lãnh thổ của Đế quốc Nga. Sau cuộc Chiến tranh Vệ quốc năm 1812, Sa hoàng đã quyết định xây dựng tại đây một tiền đồn bảo vệ cửa ngõ biên giới phía Tây và pháo đài được khánh thành năm 1842 khi lá quân kỳ của quân đội Đế quốc Nga được kéo lên. Các kỹ sư quân sự Nga đã lợi dụng địa hình tự nhiên trên một hòn đảo cách thành phố Brest - Litovsk hơn 5 km về phía Tây, được bao bọc bởi hai nhánh sông Mukhavets và sông Bug để xây dựng pháo đài này. Quanh pháo đài là hai lớp lũy đắp bằng đất, lớp ngoài cao 6 m, lớp trong cao 10 m, hình thành 8 góc nhọn nhô ra phía ngoài theo các hướng Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông Nam, Nam, Tây Nam, Tây và Tây Bắc. Tổng chiều dài lớp lũy ngoài lên đến trên 6,4 km. Trong ruột các lũy đất có rất nhiều hầm tránh đạn, kho vũ khí, kho đạn, kho lương thực. Phía ngoài mỗi lớp lũy có hào nước bao quanh. Trung tâm pháo đài được bao bọc bởi một vòng nhà hai tầng bằng gạch đỏ dày từ 60 cm (phía trong) đến 1 m (phía ngoài) chạy quanh đảo như một vòng tường thành. Dưới nền các tòa nhà này là 500 căn hầm xây cuốn, có cửa thông nhau từ hầm này sang hầm khác. Bên ngoài lớp tường thành trong cùng là hai nhánh sông Mukhavets và sông Bug. Các lớp lũy và hào nước chia pháo đài thành bốn khu phòng thủ gồm khu trung tâm, đồn Đông, đảo Tây và đảo Nam. Các khu này được nối với nhau bằng các cây cầu được xây bằng gạch. Quanh khu trung tâm pháo đài có ba cổng lớn: Cổng Terespolsky ở phía Tây, cổng Brest ở phía Bắc và cổng Kholm ở phía Nam. Trên các lũy ngoài có bốn cổng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Chính giữa khu trung tâm pháo đài là Cung điện Trắng, nơi chính phủ Nga Xô Viết đã ký kết với các nước phe Liên minh Trung tâm (trong đó có Đế chế Đức) hòa ước Brest - Litovsk năm 1918 nhằm đưa nước Nga khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Khu vực chung quanh pháo đài Brest từng là nơi xảy ra trận Brześć Litewski giữa Ba Lan và Đức trong cuộc tấn công xâm lược Ba Lan năm 1939. Quân Đức chiếm được nơi này từ Ba Lan, nhưng theo "Nghị định thư mật" kèm theo Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô, khu vực này được trao cho Liên Xô vì nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Vì vậy vào mùa hè năm 1941, người Đức lại phải tấn công pháo đài này một lần nữa. Và lần này đối thủ của họ không phải là quân Ba Lan mà là Hồng quân Xô Viết.
Vị trí, vai trò quân sự.
Từ khi khánh thành vào mùa hè năm 1842 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, pháo đài Brest được coi là một trong các căn cứ quân sự có tính năng phòng thủ rất mạnh như các pháo đài khác. Với thành lũy dày, nhiều lớp, có pháo binh riêng bảo vệ, pháo đài chỉ cần một đội quân không lớn vẫn có thể tiêu hao nặng nề các đội quân tấn công nó đông hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, đến khi đại bác nòng rãnh xoắn ra đời với các loại đạn có sức công phá lớn thì pháo đài không còn là thành trì bất khả xâm phạm. Đặc biệt, khi máy bay ném bom ra đời thì pháo đài mất đi rất nhiều khả năng tự bảo vệ. Vào thời đại mới, các cường quốc quân sự đưa ra trận những quân đội đông hàng triệu người, có đầy đủ vũ khí nặng hiện đại như xe tăng, máy bay, đại bác cỡ lớn thì pháo đài hoàn toàn trở nên lỗi thời. Đối phương có thể đi vòng qua pháo đài để tiếp tục tiến công và chỉ để lại một đội quân nhỏ bao vây và vô hiệu hóa nó. Ngoài ra, pháo đài còn có thể trở thành nơi tập trung đông quân nhưng địa bàn tác chiến hẹp, dễ bị đối phương cô lập và tiêu diệt một số lượng lớn sinh lực bằng các loại hỏa lực hiện đại. Do gắn với phương thức phòng thủ thụ động, tại chỗ, pháo đài không còn phù hợp với các cuộc chiến tranh hiện đại với phương thức vận động chiến, phòng thủ cơ động và phòng thủ theo chiến tuyến nhiều lớp được áp dụng phổ biến.
Mặc dù không còn tác dụng phòng thủ mạnh mẽ như trước đây nhưng Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn đặt Pháo đài Brest vào kế hoạch phòng thủ biên giới và coi nó như một khu phòng ngự kiên cố của Quân khu đặc biệt miền Tây. Đây là nơi huấn luyện quân sự cho tân binh của các đơn vị thuộc tập đoàn quân 4, cũng là nơi thực hành các cuộc diễn tập quân sự đồng thời là căn cứ hậu cần, quân y tiền phương. Bản thân pháo đài và 5 đồn phòng thủ xung quanh pháo đài cũng được gấp rút củng cố để trở thành khu phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, Quân khu đặc biệt miền Tây không kịp hoàn thành kế hoạch này. Các công trình quân sự mới chỉ được bắt đầu đổ móng thì chiến tranh đã nổ ra.
Xem thêm.
Trận Pháo đài Brest | 1 | null |
Có lẽ ít mối quan hệ nào trong lịch sử nhạc cổ điển đặc biệt và sâu sắc như mối quan hệ giữa Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart. Cả hai ông lớn của nền âm nhạc thời kỳ Cổ điển này có mối quan hệ bạn bè rất thân thiết.
Sự quen biết.
Theo lời kể của Michael Kelly và một số người thì hai nhà soạn nhạc xuất sắc của thời kỳ đó là Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart đã cùng chơi cho một dàn tứ tấu. Haydn đã ấn tượng trước tài năng của Mozart và khen ngợi không tiếc lời cho con người này. Mozart cũng quý trọng Haydn, bằng chứng là các tác phẩm Những bản tứ tấu "Haydn". Đó là năm 1781, và tình bạn giữa hai vĩ nhân đã bắt đầu nảy nở.
Những lời qua lại.
Khi mới quen biết Mozart, như đã nói ở trên, Haydn đã khen ngợi tài năng của Mozart. Sau đó, đánh giá tài năng của bạn mình, Haydn lại viết:
Còn Mozart cũng có những lời nói về Haydn. Theo chia sẻ của mình, Mozart đã nói:
Và trong đời của mình, Mozart đã kính trọng gọi Haydn là cha dù cho từ cha này không được hiểu theo cách đầy đủ.
Sự kính trọng qua hành động.
Trong lần đầu tiên gặp nhau, như nói ở trên, Mozart đã thể hiện sự ngưỡng mộ của mình dành cho Haydn bằng việc tặng một tập sáu bản tứ tấu.
Còn Haydn cũng tỏ lòng khính trọng đối với con người hậu bối mà tài năng bằng việc. Trong bản cantata Ariana a Naxos của Haydn, có một đoạn như thế này: "Dove sei,mio bel tesoro?", có nghĩa là "Em ở đâu, tình yêu thắm thiết của anh? Ai làm em xa rời trái tim anh? Nếu em không trở lại, anh sẽ chết mất!". Còn trong vở opera Đám cưới Figaro, Mozart viết cho nhân vật nữ bá tước di Almaviva: "Dove son i bei momenti", có nghĩa là "Còn đâu những giây phút êm đẹp dịu dàng và vui thú?". Điều thú vị ở 2 aria đó là chúng đều đẹp và được cất lên ở những giai điệu giống nhau. Thực ra, Haydn đã là người "sao chép" lại để tỏ lòng kính trọng đối với Mozart.
Vai trò của hai nhà soạn nhạc thiên tài.
Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart là những người đã viết nên trang sử cho âm nhạc thời kỳ Cổ điển. Cả hai, những thành viên tiêu biểu của trường phái âm nhạc cổ điển Viên, đã tạo nên những bước đột phá cho sự phát triển của thể loại giao hưởng. Nếu như Haydn được gọi là người khai sinh cho thể loại mới mẻ này khi định hình cho nó cấu trúc 4 chương, cấu trúc điển hình của giao hưởng không chỉ trong thời đại của Haydn và Mozart mà cả sau này nữa, thì Mozart đã thêm vào giao hưởng tính chất biểu hiện sâu sắc và đưa nó tới những đỉnh cao như bản Giao hưởng số 40, Giao hưởng số 41. Ngoài ra, cả hai đã phát triển các thể loại âm nhạc dành cho tứ tấu đàn dây. Nếu như Haydn đã khai sinh chúng thì Mozart là người phát triển để nó trở thành một thể loại điển hình của chủ nghĩa cổ điển. Cả hai đã làm nổi bật phong cách Đức trong thời kỳ âm nhạc lúc đó, trong hoàn cảnh mà phong cách Ý ảnh hưởng mạnh mẽ tới toàn bộ âm nhạc châu Âu lúc đó và gây dựng nên một trường phái cổ điển Viên nổi tiếng và có ảnh hưởng không nhỏ tới các nhà soạn nhạc sau này.
Tầm ảnh hưởng của mỗi người.
Nếu muốn đánh giá đầy đủ ảnh hưởng của mỗi người lên nền âm nhạc chung thì có lẽ ta phải thông qua những lời nhận xét.
Đánh giá về Haydn, Pyotr Ilyich Tchaikovsky đã nhận xét:
Còn về Mozart, Albert Einstein có viết:
Thế nên, nếu đánh giá tổng thể, có lẽ Mozart sẽ hơn Haydn. Nhưng nếu suy xét kỹ hơn, thật khó để biết ai xuất sắc hơn ai. | 1 | null |
Pterophyllum leopoldi là một loài cá thần tiên cư ngụ ở vùng lưu vực sông Amazon, sông Solimões và sông Rupununi. Loài này thường xuyên bị xác định nhầm là "P. dumerilii" khi được nhập vào thương mại cá cảnh.
Đặc điểm.
"Pterophyllum leopoldi" là loài nhỏ nhất trong số các loài cá thần tiên, con trưởng thành chỉ dài trung bình 5 cm. Chúng có màu nâu đỏ với các sọc nhạt hơn hai loài cá thần tiên còn lại, kích thước nhỏ hơn và cũng không có gờ trán cao. | 1 | null |
CyanogenMod (; ), thường được viết tắt thành CM, là một hệ điều hành mã nguồn mở cho các điện thoại thông minh và máy tính bảng, dựa trên nền tảng di động Android. Nó được phát triển dưới dạng phần mềm tự do nguồn mở dựa trên các bản phát hành chính thức của Android bởi Google, thêm vào đó các mã gốc và từ bên thứ ba. Nó được dựa trên một mẫu phát triển phát hành liên tục.
CyanogenMod mang đến những tính năng và tùy chọn không có trong những firmware chính thức được phân phối bởi các nhà sản xuất thiết bị di động. Các tính năng được hỗ trợ bởi CyanogenMod bao gồm hỗ trợ các theme, hỗ trợ định dạng âm thanh FLAC, một danh sách lớn các APN, một phiên bản khách hàng OpenVPN, "Privacy Guard" (trình quản lý quyền ứng dụng cho từng ứng dụng), hỗ trợ chia sẻ kết nối qua các giao diện phổ biến, tăng tốc CPU và các cải thiện hiệu suất khác, bootloader có thể mở khóa và quyền truy cập root, các phím ảo trên màn hình và các "tinh chỉnh tablet" khác, các nút bật/tắt trong trung tâm thông báo (ví dụ như Wi-Fi, Bluetooth và GPS), và các cải thiện giao diện khác. CyanogenMod không chứa bất cứ spyware hay bloatware nào, theo như các nhà phát triển. CyanogenMod cũng được cho là làm tăng hiệu năng và độ tin cậy so với các firmware chính thức.
Mặc dù chỉ có một lượng nhỏ người dùng CyanogenMod chọn để báo cáo việc sử dụng firmware của họ, tính tới 23 tháng 3 năm 2015, một số báo cáo chỉ ra rằng hơn 5o triệu người đang chạy CyanogenMod trên điện thoại của họ.
Vào năm 2013, người sáng lập dự án Steve Kondik thông báo đã thực hiện góp vốn liên doanh để thành lập Cyanogen Inc. dưới dạng một doanh nghiệp thương mại để phát triển và quảng bá bản firmware rộng rãi hơn. Thông báo này đã gây ra nhiều sự tranh cãi trong cộng đồng, khi một số nhà phát triển khẳng định các quyền và vấn đề giấy phép, việc công nhận/bù đắp cho các nhà phát triển trong quá khứ và tôn vinh những nét đặc trưng ban đầu của cộng đồng dự án, đang không được giải quyết thỏa đáng. Kondik đã bác bỏ các cáo buộc trên, khẳng định sự hỗ trợ cho cộng đồng và cho rằng hầu hết các đoạn mã trong CyanogenMod, cũng như Android nói chung, chỉ bị ràng buộc trong Giấy phép Apache không hạn chế.
Ưu điểm.
CyanogenMod đã được nhóm lập trình tạo các tính năng nổi bật đáng nhắc đến mà Android gốc không có sẵn:
Nhược điểm.
CyanogenMod có một số nhược điểm:
Phát ngôn gây tranh cãi.
CEO Cyanogen - Kirt McMaster tuyên bố: "Chúng tôi sẽ bắn một viên đạn xuyên qua đầu Google" . Tuyên bố này gây tranh cãi dữ dội vì mặc dù là phần mềm nguồn mở, nhưng Google vốn là "cha đẻ" của Android và vẫn đang là đơn vị hỗ trợ chính cho nó, một hệ điều hành được xây dựng dựa trên nền tảng Android mà lại đòi lật đổ chính cha đẻ của nó là câu chuyện gây tranh cãi.
Tuyên bố đóng cửa dịch vụ.
Thất bại với tham vọng "giết chết" Android, Cyanogen tuyên bố đóng cửa vào 31/12/2016"Trong nỗ lực tiếp tục củng cố Cyanogen, tất cả các dịch vụ và bản build nightly mà Cyanogen hỗ trợ sẽ dừng hoạt động từ ngày 31/12/2016. Dự án nguồn mở và mã nguồn vẫn sẽ tồn tại để bất kỳ ai muốn có thể xây dựng CyanogenMod cho dự án cá nhân. Điều này có nghĩa là những người dùng các thiết bị chạy Cyanogen OS - như OnePlus One và Lenovo ZUK Z1 - giờ đây phải chuyển sang ROM CyanogenMod, một phần mềm không phải là sản phẩm thương mại và được quản lý bởi cộng đồng các nhà phát triển do cựu nhà đồng sáng lập Steve Klondik đứng đầu."
Các thiết bị được hỗ trợ.
CyanogenMod là phần mềm mã nguồn mở, do đó, nó có cả bản dựng chính thức và không chính thức.
Đối với người mới bắt đầu, việc cài đặt CyanogenMod có thể mất khá nhiều thời gian. | 1 | null |
Samsung Galaxy Tab 4 10.1 là máy tính bảng 10.1-inch chạy hệ điều hành Android công bố bởi Samsung Electronics. Nó thuộc thế hệ thứ tư của dòng Samsung Galaxy Tab, bao gồm phiên bản 7-inch và 8-inch, Galaxy Tab 4 7.0 và Galaxy Tab 4 8.0. Nó được công bố vào 1 tháng 4 năm 2014, và phát hành vào ngày 1 tháng 5 năm 2014 cùng với Samsung Galaxy Tab 4 8.0.
Lịch sử.
Galaxy Tab 4 10.1 được công bố vào ngày 1 tháng 4 năm 2014, cùng với Galaxy Tab 4 7.0 và Galaxy Tab 4 8.0.
Tính năng.
Galaxy Tab 4 10.1 sẽ phát hành với Android 4.4.2 Kit Kat. Samsung tùy biến giao diện người dùng với "TouchWiz UX". Cũng như ứng dụng từ Google, bao gồm Google Play, Gmail và YouTube, nó cho phép truy cập trực tiếp vào ứng dụng Samsung như ChatON, S Suggest, S Voice, S Translator, S Planner, Smart Remote (Peel), Smart Stay, Multi-Window, Group Play, và All Share Play.
Galaxy Tab 4 10.1 chỉ công bố phiên bản WiFi, biến thể 3G và 4G/LTE không được nhắc đến. Bộ nhớ trong sẽ là 16 GB, với khe thẻ nhớ mở rộng microSDXC. Nó có màn hình 10.1-inch WXGA TFT với độ phân giải 1.280x800 pixel. Nó có máy ảnh trước 1.3 MP không flash và 3.15 MP máy ảnh chính. Nó có khả năng quay video HD. | 1 | null |
Nhà thờ chính tòa Xã Đoài (tên chính thức: "Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời") là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Vinh, tọa lạc tại xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nhà thờ này được xây dựng từ năm 1846, cung hiến lần đầu năm 1979 và cung hiến trọng thể vào năm 2014. Đây là một trong những nhà thờ lớn và cổ xưa của giáo phận Vinh. Nhà thờ chính tòa Xã Đoài cách thành phố Vinh 8 km và cách Hà Nội 283 km.
Nhà thờ đã xuống cấp sau hơn 40 năm xây dựng. Tháng 9 năm 2023, nhà thờ cũ đang được dỡ bỏ và tiến hành thi công nhà thờ mới. | 1 | null |
Vương Phượng (chữ Hán: "王凤", ? – ?), người huyện Tân Thị, quận Giang Hạ, Kinh Châu , một trong những đầu lãnh khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân.
Khởi binh phản Tân.
Năm Thiên Phượng thứ 4 (17), miền nam Trung Quốc mất mùa, phát sinh nạn đói. Phượng cùng Vương Khuông vì tránh bị kiện cáo, tập hợp vài trăm người nổi dậy, được bọn Mã Vũ, Vương Thường, Thành Đan hưởng ứng; cùng nhau tấn công Ly Hương tụ , rồi trốn vào núi Lục Lâm . Vài tháng sau, lực lượng lên đến 7, 8 ngàn.
Đầu năm Địa Hoàng thứ 2 (21), Kinh Châu mục (không rõ tên) phát 2 vạn quan quân đi tiễu phạt nghĩa quân. Phượng cùng bọn Vương Khuông đón đánh ở Vân Đỗ , đại thắng, giết mấy ngàn người, lấy hết quân nhu; sau đó đánh hạ Cánh Lăng . Nghĩa quân chuyển sang đánh Vân Đỗ, An Lục, cướp bóc tài sản, hãm hiếp phụ nữ rồi quay về Lục Lâm, lực lượng lên đến hơn 5 vạn, quan quân không làm gì nổi.
Năm sau (22), trong núi phát sinh bệnh dịch, nghĩa quân chết quá nửa, bèn chia ra 2 lộ mà đi. Vương Khuông, Vương Phượng, Mã Vũ cùng bọn Chu Vĩ, Trương Ngang đi về phía bắc vào Nam Dương, được gọi là quân Tân Thị; quân Hạ Giang đi về phía tây vào Nam Quận; họ đều tự xưng là tướng quân. Tháng 7 ÂL, người thôn Bình Lâm là Trần Mục, Liêu Trạm đưa mấy ngàn người (gọi là quân Bình Lâm) gia nhập quân Tân Thị ở Tùy Châu. Tông thất nhà Hán là Lưu Huyền có mặt trong cánh nghĩa quân này, làm An Tập duyện. Tháng 10 ÂL, bọn Lưu Diễn đưa quân Thung Lăng gia nhập nghĩa quân. Liên quân Tân Thị, Bình Lâm, Thung Lăng chiếm Trường tụ , rồi tấn công Tân Dã, giết Tân Dã úy (không rõ tên). Tiếp đó đánh hạ Đường Tử hương , dụ giết Hồ Dương huyện úy (không rõ tên), giành được rất nhiều tài vật. Trong khi đó quân Hạ Giang cũng đánh bại quan quân nhà Tân của Kinh Châu mục ở Thượng Đường. Tháng 11, liên quân đại bại bởi quan quân của bọn đại phu Chân Phụ, thuộc chánh Lương Khâu Tứ ở Tiểu Trường An tụ thuộc huyện Dục Dương, bèn lui về Cức Dương. Tháng 12 ÂL, liên quân trong đêm tập kích Lam hương , giành được rất nhiều quân nhu, lương thảo của bọn Phụ, Tứ.
Phù lập Canh Thủy.
Tháng giêng ÂL năm Địa Hoàng thứ 4 (23), nghĩa quân đánh bại và giết chết bọn Phụ, Tứ. Tiếp đó đánh bại quan quân của bọn tướng lãnh Nghiêm Vưu, Trần Mậu ở Dục Thủy , bọn Vưu, Mậu bỏ trốn. Nghĩa quân thừa thắng vây Uyển Thành. Tháng 2 ÂL, bọn thủ lĩnh Tân Thị, Bình Lâm đưa Lưu Huyền lên ngôi, là Canh Thủy đế; Phượng được phong làm Thành quốc thượng công. Tháng 3 ÂL, Phượng soái bọn Vương Thường, Lưu Tú chiếm được Côn Dương , Định Lăng , Yển . Vương Mãng nghe tin vội sai Đại tư không Vương Ấp, Đại tư đồ Vương Tầm tập hợp 42 vạn quân tiến hành trấn áp. Tháng 6 ÂL, Ấp, Tầm trên đường đi đánh Uyển Thành, thả quân bao vây Côn Dương, bày trận dài hàng trăm dặm. Trong thành Côn Dương chỉ có 7 – 8000 nghĩa quân, các tướng lãnh sau khi thương nghị, ông và Vương Thường giữ thành, Lưu Tú cùng bọn Tông Điêu, Lý Dật 13 người nhân đêm tối chạy khỏi cửa nam, đến các huyện Định Lăng, Yển gần đó tập hợp viện quân. Bọn Phượng cố thủ hơn 10 ngày thì bọn Lưu Tú đưa hơn 9000 người quay lại, 2 mặt giáp kích quan quân nhà Tân. Nghĩa quân đại thắng, giết Vương Tầm, đuổi Vương Ấp, giành được toàn bộ quân nhu. Tháng 9 ÂL, nghĩa quân Lục Lâm đánh hạ Lạc Dương, bắt bọn đại thần nhà Tân là thái sư Vương Khuông, quốc tướng Ai Chương. Đồng thời, nhân dân Trường An nổi dậy, giết Vương Mãng.
Tháng 2 ÂL năm Canh Thủy thứ 2 (24), đế dời đô đến Trường An, đại phong công thần, Phượng được phong Nghi Thành vương.
Sử cũ không chép hậu sự của Phượng. | 1 | null |
Chiến thắng của Wellington (hay còn gọi là Trận chiến tại Victoria) là tác phẩm Op.91 của nhà soạn nhạc người Đức Ludwig van Beethoven. Đây là tác phẩm có tiêu đề miêu tả thất bại của Napoléon Bonaparte tại trận Vitoria, Tây Ban Nha vào năm 1813, trận mà ông thua trước Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington. Tác phẩm thính phòng này được Beethoven viết 1 năm sau thất bại đó của con người mà ông từng ngưỡng mộ rồi căm ghét, người mà suýt nhận được món quà là bản giao hưởng số 3.
Nó bắt đầu với những tiếng trống quay cuồng, sau đó được trộn vào với các giai điệu của bản nhạc yêu nước Anh "Rule, Britannia!", cũng như bản nhạc dân gian Pháp "Malbrough s'en va-t-en guerre" và cuối cùng là bản quốc ca Anh "God save the King".. | 1 | null |
Charles Perrault ( , hay , ; 12 tháng 1 năm 1628 – 16 tháng 5 năm 1703), ở Việt Nam còn được phiên âm thành Sác-lơ Pê-rôn, là một nhà văn người Pháp nổi tiếng, thành viên của Viện hàn lâm Pháp ("Académie française"). Ông là người đặt nền móng cho một thể loại văn học mới gọi là truyện cổ tích, với các tác phẩm có nguồn gốc từ truyện dân gian trước đó, và xuất bản trong cuốn sách "Histoires ou contes du temps passé" ("Chuyện thời xưa") năm 1697. Những câu chuyện nổi tiếng nhất của ông bao gồm "Le Petit Chaperon Rouge "("Cô bé quàng khăn đỏ"), "Cendrillon" (Cô bé Lọ Lem), " Le Maître chat ou le Chat bottom " ("Mèo đi hia"), "La Belle au bois dormant" ("Người đẹp ngủ trong rừng") và "Barbe Bleue "("Lão râu xanh").
Một số phiên bản truyện cổ của Perrault đã tạo ảnh hưởng lên các phiên bản tiếng Đức của Anh em nhà Grimm xuất bản hơn 100 năm sau đó. Truyện của ông vẫn đang tiếp tục được in và chuyển thể sang hầu hết các định dạng giải trí. Perrault là một nhân vật có ảnh hưởng trong bối cảnh văn học Pháp thế kỷ 17, và là người đứng đầu của phe Hiện đại trong cuộc "Tranh cãi giữa Cổ xưa và Hiện đại."
Đời tư và công việc.
Perrault sinh ngày 12 tháng 1 năm 1628 ở Paris trong một gia đình tư sản giàu có. Ông là con út trong gia đình có bảy anh chị em, cha của ông là của Pierre Perrault, luật sư ở Pháp viện tối cao Paris, và mẹ ông là bà Paquette Le Clerc. Ông theo học ở trường Collège de Beauvais ở Paris và học ngành luật, sau đó ông thôi học năm 1643 rồi bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp phục vụ chính phủ, theo bước chân của cha và anh trai Jean.
Năm 1654, ông chuyển đến sống cùng với anh trai Pierre, anh trai ông đã mua lại vị trí trưởng phòng thu thuế của thành phố Paris. Khi Académie des Inscriptions et Belles-Lettres thành lập năm 1663, Perrault được bổ nhiệm làm thư ký và phục vụ dưới quyền Jean Baptiste Colbert, bộ trưởng tài chính của Vua Louis XIV. Jean Chapelain, Amable de Bourzeys, và Jacques Cassagne (thủ thư của nhà vua) cũng được bổ nhiệm cùng lúc.
Tháng 4 năm 1667, nhờ vào sức ảnh hưởng của bản thân với tư cách là phụ tá hành chính cho Colbert, ông đã có thể đưa anh trai Claude Perrault vào một ủy ban gồm ba người, gọi là Petit Conseil, những nhà thiết kế phần mới của Cung điện Louvre là Colonnade do Colbert giám sát, được xây dựng từ năm 1667 đến năm 1674, nhóm gồm Louis Le Vau và Charles Le Brun. Thiết kế này đã được Gian Lorenzo Bernini lựa chọn (Perrault kể lại trong cuốn "Hồi ức" rằng khi ông đang có những mối quan hệ sóng gió thì nghệ sĩ người Ý ở triều đình Louis năm 1665) và François Mansart. Một trong những yếu tố dẫn đến sự lựa chọn là do lo ngại về chi phí cao, và sự đối đầu cá nhân giữa Bernini và các thành viên hàng đầu của triều đình vua Louis, bao gồm cả Colbert và Perrault; bản thân Vua Louis cũng duy trì một bầu không khí nhân từ công khai đối với Bernini khi ra lệnh ban hành một ấn chương chân dung bằng đồng của hoàng gia để vinh danh nghệ sĩ vào năm 1674. Tuy nhiên, như Perrault mô tả thêm trong sách "Hồi ký", cá nhân nhà vua không ưa gì trước những biểu hiện ngạo mạn của Bernini. Nhà vua tỏ ra không hài lòng với bức tượng nhà vua đang cưỡi ngựa do Bernini sáng tác nên ông đã ra lệnh phá hủy nó; tuy nhiên, các cận thần của nhà vua thuyết phục ông làm lại nó, với phần đầu phỏng theo vị anh hùng La Mã Marcus Curtius.
Năm 1668, Perrault viết "La Peinture "("Bức tranh") để vinh danh họa sĩ đầu tiên của nhà vua là Charles Le Brun. Ông cũng viết "Courses de tetes et de bague "("Head and Ring Races", 1670), nhằm lễ kỷ niệm năm 1662 mà Louis tổ chức cho nhân tình của ông là Louise-Françoise de La Baume le Blanc, nữ công tước La Vallière.
Năm 1669, Perrault khuyên Louis XIV nên xây ba mươi chín đài phun nước trong khu vườn Versailles, mỗi đài tượng trưng cho một trong những truyện ngụ ngôn của Aesop trong khu mê cung Versailles. Công việc được thực hiện từ năm 1672 đến năm 1677. Các tia nước phun ra từ miệng các loài động vật là dựa vào ý tưởng để trông như các sinh vật đang nói chuyện với nhau. Có một tấm bảng chú thích với câu nói do nhà thơ Isaac de Benserade viết bên cạnh mỗi đài phun nước. Perrault đã xuất bản cuốn sách hướng dẫn về mê cung, "Labyrinte de Versailles", in tại nhà báo hoàng gia Pháp năm 1677, Sebastien le Clerc vẽ minh họa.
Năm 1671, Perrault được bầu vào Viện hàn lâm Pháp. Ông còn tham gia vào việc thành lập Học viện Khoa học cũng như khôi phục lại Học viện Hội họa. Ông còn là cha đỡ đầu cho một người con gái của họa sĩ Samuel Massé, thành viên của Học viện Hội họa và Điêu khắc.
Năm 1672, ở tuổi 44, ông kết hôn với bà Marie Guichon khi bà được 19 tuổi, cả hai có 4 người con, bà mất năm 1678.
Philippe Quinault, một người bạn lâu năm trong gia đình của Perraults, nhanh chóng nổi tiếng với tư cách là người viết lời cho thể loại âm nhạc mới gọi là opera, hợp tác với nhà soạn nhạc Jean-Baptiste Lully. Sau khi "Alceste" (1674) bị những người theo chủ nghĩa truyền thống tố cáo và đả kích do nó đi chệch hướng khỏi sân khấu cổ điển, Perrault đã viết "Critique de l'Opéra" (1674) để đáp trả, trong đó ông ca ngợi những cái hay của "Alceste" đối với bi kịch cùng tên của Euripides.
Luận thuyết về "Alceste" đã khởi xướng Tranh cãi giữa Cổ xưa và Hiện đại ("Querelle des Anciens et des Modernes"), mô tả cuộc đọ sức giữa những người ủng hộ văn học Cổ xưa ("Xưa") và những người ủng hộ văn học từ thế kỷ của Louis XIV ("Hiện đại"). Ông đã đứng về phe Hiện đại và viết "Le Siècle de Louis le Grand" ("Thế kỷ của Louis Đại đế", 1687) và "Parallèle des Anciens et des Modernes" ("Tương đồng giữa Cổ đại và Hiện đại", 1688–1692), ông cố gắng chứng minh tính ưu việt của nền văn học trong thế kỷ của mình. "Le Siècle de Louis le Grand" được viết để kỷ niệm sự hồi phục của vua Louis XIV sau một ca phẫu thuật nguy hiểm đến tính mạng. Perrault lập luận rằng nhờ sự cai trị khai sáng của vua Louis, thời đại hiện nay vượt trội hơn hẳn so với thời xưa. Ông cũng tuyên bố rằng ngay cả văn học Pháp hiện đại cũng vượt trội hơn các tác phẩm thời xưa, và xét cho cùng.
Năm 1682, Colbert buộc Perrault nghỉ hưu ở tuổi 56, giao lại nhiệm vụ cho con trai riêng là Jules-Armand, hầu tước d'Ormoy. Colbert qua đời một năm sau đó và Perrault không còn nhận khoản trợ cấp với tư cách là một nhà văn nữa. Đối thủ của Colbert là François-Michel le Tellier, Hầu tước Louvois, đã kế vị ông và nhanh chóng loại trừ Perrault.
Năm 1686, Perrault quyết định viết thơ sử thi và để thể hiện lòng sùng mộ thực sự của mình đối với Cơ đốc giáo, ông đã viết "Saint Paulin, évêque de Nôle" (" St. Paulinus, Giám mục Nola", về Paulinus xứ Nola). Cũng giống như "La Pucelle, ou la France délivrée" của Jean Chapelain, một bài thơ sử thi về Jeanne d'Arc, Perrault trở thành mục tiêu chế nhạo của Nicolas Boileau-Despréaux.
Năm 1703, Charles Perrault qua đời tại Paris ở tuổi 75. Ngày 12 tháng 1 năm 2016, Google đã vinh danh ông bằng doodle của nghệ sĩ Sophie Diao mô tả các nhân vật trong Tales of Mother Goose ("Histoires ou contes du temps passé - Những câu chuyện về quá khứ").
Truyện cổ tích.
Năm 1695, khi 67 tuổi, Perrault mất chức thư ký và quyết định cống hiến hết mình cho trẻ em.
Năm 1697, ông xuất bản "Tales and Stories of the Past with Morals" ("Histoires ou Contes du Temps passé"), với phụ đề "Chuyện kể mẹ ngỗng" ("Les Contes de ma Mère l'Oye"). (Cách viết của tên là "y" mặc dù tiếng Pháp hiện đại chỉ sử dụng "i".) "Mẹ Ngỗng" này chưa bao giờ được xác định là một người, nhưng được dùng để nói về truyền thống kể chuyện bình dân và nông thôn trong các câu tục ngữ thời bấy giờ. (Nguồn: "Dictionnaire de l'Académie", 1694, Nathalie Froloff trích dẫn trong ấn bản "Tales" của bà) (Gallimard, Folio, Paris, 1999.- tr. 10). Những câu chuyện này, dựa trên truyền thống của châu Âu và thường được dịch từ bản gốc của Anh em nhà Grimm, đã trở nên rất phổ biến ở Pháp. Trong tất cả các tác phẩm văn học dồi dào của ông ở dạng thơ và văn xuôi (thơ, sử thi, tiểu luận, v.v.), những câu chuyện nhỏ dành cho trẻ em này là tác phẩm duy nhất còn được đọc cho đến ngày nay, và ông thường được coi là người sáng lập ra thể loại truyện cổ tích hiện đại. Đương nhiên, tác phẩm của ông phản ánh nhận thức về những câu chuyện cổ tích trước đó, đặc biệt nhất là củaMarie-Catherine Le Jumel de Barneville, Nam tước d'Aulnoy, người đã đặt ra cụm từ "truyện cổ tích" và viết truyện vào đầu năm 1690.
Một số câu chuyện nổi tiếng của ông ấy, đặc biệt là Cô bé Lọ Lem và Người đẹp ngủ trong rừng, vẫn thường được kể lại theo cách tương tự như Perrault từng viết, trong khi những tác phẩm khác đã được chỉnh sửa nhiều năm sau đó. Ví dụ, một số phiên bản của Người đẹp ngủ trong rừng ngày nay có một phần dựa trên câu chuyện "Little Briar Rose" của Anh em nhà Grimm, một phiên bản chỉnh sửa lại từ câu chuyện gốc của Perrault.
Perrault đã viết Cô bé quàng khăn đỏ như một lời cảnh báo cho độc giả về việc những kẻ lạ mặt rình rập những cô gái trẻ đi bộ trong rừng. Ông kết thúc câu chuyện cổ tích với một đạo lý, cảnh báo phụ nữ và các cô gái trẻ về sự nguy hiểm của việc tin tưởng đàn ông. Ông nói, "Hãy cẩn thận nếu bạn chưa học rằng sói đã thuần hóa/là loài nguy hiểm nhất". Perrault cảnh báo độc giả về sự thao túng và vẻ ngoài giả tạo của một số người đàn ông: "Tôi nói Sói, vì tất cả loài sói không cùng một loại; có một loại với tính cách dễ chịu - không ồn ào, không thù hận, cũng không tức giận, nhưng thuần phục, chiều ý và nhẹ nhàng, đi theo những cô gái trẻ trên đường phố, thậm chí vào nhà của họ. Chao ôi! Ai mà không biết rằng những con sói lịch thiệp này là những sinh vật nguy hiểm nhất trong số những sinh vật như vậy!". Thật vậy, trong phiên bản của Perrault, cô gái lên giường và bị con sói nuốt chửng, thiếu kết thúc có hậu như hầu hết các phiên bản hiện tại của câu chuyện.
Ông đã thực sự xuất bản bộ sưu tập dưới tên của người con trai cuối cùng là Pierre (Perrault) Darmancourt sinh năm 1678 ("Armancourt" là tên của một khu đất mà ông mua), có lẽ do sợ những lời chỉ trích từ "Người xưa". Trong các câu chuyện, ông sử dụng những hình ảnh xung quanh, chẳng hạn như Chateau Ussé cho "Người đẹp ngủ trong rừng", và Hầu tước của Château d'Oiron cho Hầu tước de Carabas trong "Mèo đi hia". Ông đã tô điểm chủ đề câu chuyện dân gian của mình bằng các chi tiết, mặt trái và ẩn ý rút ra từ thế giới thời trang. Tiếp nối những câu chuyện này, ông đã dịch "Fabulae Centum" (100 ngụ ngôn) của nhà thơ Latinh Gabriele Faerno sang tiếng Pháp năm 1699. | 1 | null |
Peter Lewis Kingston Wentz III sinh ngày 5 tháng 6 năm 1979, nghệ danh được biết đến là Pete Wentz. Anh là một nhạc sĩ người Mỹ nổi tiếng, nghệ sĩ bass và là thành viên của ban nhạc rock Mỹ Fall Out Boy. Trong thời gian Fall Out Boy tạm thời tan rã từ năm 2009 - 2012, Pete Wentz đã thành lập nhóm electropop / dubstep Black Cards. Anh đang sở hữu một hãng thu âm, Decaydance Records, trong đó có ban nhạc đã ký hợp đồng như Panic! at the Disco và Gym Class Heroes.
Sự nghiệp nổi bật nhất của anh khi làm tay chơi bass cho nhóm rock Fall Out Boy.
Pete Wentz cũng từng đã mạo hiểm vào các dự án không âm nhạc khác, bao gồm cả văn thơ, diễn xuất và thời trang. Năm 2005 anh thành lập một công ty thời trang gọi là Clandestine Industries. Anh cũng tổ chức các chương trình truyền hình Best Ink và điều hành một công ty sản xuất phim gọi là Bartskull, cũng như một công ty gọi là Angels & Kings. Hoạt động từ thiện của anh bao gồm hợp tác với Invisible Children và UNICEF Tap Project, một dự án gây quỹ giúp mang lại nguồn nước sạch cho người dân trên toàn thế giới. Tạp chí People từng nói rằng: "Không có tay bass nào trội hơn hẳn một thủ lĩnh cũng như Pete Wentz của Fall Out Boy."
"Tiểu sử".
Pete Wentz sinh ra tại tiểu bang Wilmette, Illinois là một vùng ngoại ô của Chicago. Anh là con trai của Dale Lewis - một nhân viên tư vấn tuyển sinh trường trung học và Pete Wentz II - một luật sư. Anh có một cô em gái tên Hillary và một người em trai là Andrew. Gia đình của mẹ ông di cư từ Jamaica. Ông ngoại của anh là người da đen Arthur Winston Lewis từng là Đại sứ Mỹ tại Sierra Leone. Anh em họ của anh - Arthur Winston Lewis là Tướng Colin Powell.
Cha mẹ của Pete Wentz gặp nhau trong khi vận động tranh cử cho Phó Tổng thống Joe Biden trong những năm 1970. Pete Wentz từng trả lời phỏng vấn tạp chí Rolling Stone rằng bài hát đầu tiên của mình được lắng nghe là "Build Me Up Buttercup" trong chiếc xe của cha mình. Wentz đã học tại trường Trung học New Trier và North Shore Country Day, nơi anh từng là là một cầu thủ bóng đá. Anh từng được coi là sẽ theo đuổi sự nghiệp chuyên nghiệp trong các môn thể thao như môn bóng đá, bóng chày, bóng rổ hay bóng bầu dục Mỹ. Tuy nhiên, quyết định theo đuổi ngành âm nhạc rõ ràng là một sự lựa chọn hoàn hảo hơn. Anh nói rằng: "Tôi luôn luôn có một cảm giác kì lạ khi chơi bóng. Nhưng lại không cảm thấy như một cuộc phiêu lưu. Âm nhạc là thứ có nhiều thách thức, chông gai và do vậy nó gây nên cảm giác thú vị hơn." - Pete chia sẻ về tình yêu âm nhạc của mình.
Trong năm đầu học trung học, anh trốn học thường xuyên và một nhân viên tư vấn học đã thuyết phục cha mẹ của Pete Wentz gửi anh đến trại huấn luyện cầm tù không thương tiếc. Trong thời gian này, Wentz đã bắt đầu viết những bài hát như là một cách để trút hết nỗi thất vọng của mình. Anh bắt đầu theo học đàn piano sau đó và đã thông qua một lối staingle edge. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng vào năm 1997, anh đã tham dự Đại học De Paul - nơi anh theo ngành học khoa học chính trị, bỏ đi phần thi tốt nghiệp để tập trung vào sự nghiệp âm nhạc của mình.
"Sự nghiệp".
Arma Angelus (1998 - 2001)
Pete Wentz bắt đầu sự nghiệp âm nhạc khi tham gia vào nhóm metalcore Chicago mang tên Arma Angelus là trong một số ban nhạc metalcore vào cuối năm 90. Nhóm bao gồm anh (scream-vocal và hát chính) First Born, cùng với Tim McIlrath, thủ lĩnh của Rise Against hiện tại làm clean-vocal), và Racetraitor và Joe Trohman (thành viên của Fall Out Boy hiện tại).
Fall Out Boy (2001 - 2009)
Vào 2001, anh và tay guitar Joe Trohman thành lập ban nhạc pop-punk Fall Out Boy sau khi Joe Trohman giới thiệu cho một người rất quen biết âm nhạc và có triển vọng, Patrick Stump. Và sau đó Andy Hurley đã đồng ý chơi trống cho Fall Out Boy. Đội hình nhóm punk-rock Fall Out Boy được ổn định với bốn cái tên trên đến thời điểm hiện tại.
Năm 2002, ban nhạc Arma Angelus trong đó có Pete Wentz là ca sĩ chính đã diễn show cuối cùng trước khi nhóm giải tán.
Năm 2003, anh bắt đầu sự nghiệp với dòng nhạc punk-rock cùng Fall Out Boy khi ra mắt EP "Fall Out Boy's Evening Out With Your Girlfriend" và album phòng thu đầu tiên mang tên "Take This To Your Grave".
Năm 2005, album phòng thu thứ 2 "From Under the Cork Tree" ra mắt và đã đánh dấu bước đột phá trong mở đầu trong sự nghiệp của Fall Out Boy khi bán được hơn 2.5 triệu bản ở Mỹ và hơn 3 triệu bản trên toàn cầu. 2 đĩa đơn chính như "Sugar, We're Goin Down" và "Dance, Dance" lần lượt tiến vào top 10 BXH Billboard Hot 100. "From Under The Cork Tree" cũng đứng thứ 18 trong danh sách "Những album bán chạy nhất ở Mỹ năm 2005".
Từ 2007 - 2008, Pete cùng nhóm tung ra 2 album phòng thu là "Infinity On High" và "Folie a Deux]]" và 2 album thu âm hát live.
Năm 2009, sau khi trải qua một chu kỳ thành công cùng nhóm, Pete Wentz và 3 thành viên khác quyết định giải tán, để ngã rẽ sang con đường solo và dự án âm nhạc khác của cả bốn người.
Black Cards (2010 - 2012)
Trải qua sự nghiệp với các thể loại nhạc như heavy-metal hay punk, Pete Wentz đã chuyển sang thể loại mới EDM sau khi Fall Out Boy tan rã.
Cùng với giọng hát Bebe Rexha, anh lập nên nhóm electro-pop, EDM Black Cards. Đồng thời tham gia sáng tác nhạc cho một số nghệ sĩ như Cobra Starship, Gym Class Heroes...
Khó để đoán được, trong thời gian đó, anh và Patrick Stump, Joe Trohman và Andy Hurley có ý định tái hợp Fall Out Boy khi hợp tác làm việc để tạo "sự trở lại đột phá" với album phòng thu thứ 5 "Save Rock and Roll".
"Hôn nhân".
Anh kết hôn với nữ ca sĩ Ashlee Simpson là em gái của nữ ca sĩ nổi tiếng Jessica Simpson vào năm 2008. Sau đó sinh được con trai tên Bronx Lewis. Nhưng đến năm 2011 thì cả hai quyết định chia tay, hạnh phúc tan vỡ mặc dù trước đó khi cả hai cưới nhau, giới showbiz đã từng nhận định: "Đây là một trong những cặp đôi gây bất ngờ nhất trong ngành nghệ sĩ". Sau khi Pete và Ashlee chia tay, quyền nuôi con thuộc về Pete. Sau này thì Ashlee cũng đã có bạn trai mới và đã đính hôn.
Sau khi chia tay Ashlee Simpson, Peter đã hẹn hò với Meagan Camper và yêu nhau vào. Cuối cùng, vào năm 2011 cặp đôi này quyết định kết hôn với nhau. Hiện tại Pete đã có 2 cậu con trai tên Bronx Mowgli và Saint Lizslo. | 1 | null |
Sheherazade (liên ca khúc) là tác phẩm dành cho các giọng hát và dàn nhạc giao hưởng của nhà soạn nhạc người Pháp Maurice Ravel. Tác phẩm này được Ravel viết từ bài thơ của Léon Leclère (bài thơ này được Leclère sáng tác dưới bút danh Tristan Klingsor). Tác phẩm được viết vào năm 1903, trình bày lần đầu tiên vào 1 năm sau đó tại Paris, Pháp. | 1 | null |
Illacme là một chi cuốn chiếu trong họ Siphonorhinidae. Chúng được chú ý vì sở hữu số lượng chân nhiều nhất so với bất kỳ loài động vật nào được biết đến trên hành tinh.
Các loài.
Trong một thời gian dài, chi này được xem là đơn loài, với loài duy nhất là "Illacme plenipes", được mô tả lần đầu tiên vào năm 1928 từ Quận San Benito, California, và được phát hiện lại vào năm 2005.
Tuy nhiên, đến năm 2016, loài thứ hai trong chi được công bố là "Illacme tobini", được mô tả dựa trên một mẫu vật đực duy nhất được thu thập vào năm 2006 từ Hang động Lange, trong Công viên Quốc gia Sequoia, phía đông của môi trường sống được biết đến của "I. plenipes". | 1 | null |
Giao hưởng số 38 giọng Rê trưởng K.504, hay còn gọi là Giao hưởng Prague là tác phẩm dành cho dàn nhạc giao hưởng của nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Đây là bản giao hưởng có sự ngoại lệ bởi vì nó có cấu trúc 3 chương, một cấu trúc khác hẳn với rất nhiều bản giao hưởng của chính Mozart cũng như của thời kỳ âm nhạc Cổ điển. Bản giao hưởng này được Mozart sáng tác vào năm 1786 trình diễn lần đầu tiên vào năm 1787. Sở dĩ lại được gọi tên như vậy vì nó được trình diễn đúng lúc Mozart thăm thành phố Praha của Cộng hòa Séc. Giao hưởng Prague cùng với giao hưởng số 31, 35, 36, bộ ba 39-40-41 là những bản giao hưởng nổi tiếng nhất của Mozart, cũng như của âm nhạc đương thời, thể hiện phong cách sáng tác độc đáo của nhà soạn nhạc thiên tài. | 1 | null |
Wolfgang Amadeus Mozart hoàn thành bản giao hưởng số 41 cung Đô trưởng, K. 551, vào ngày 10 tháng 8 năm 1788. Nó là bản giao hưởng dài nhất và bản cuối cùng trong thể loại này mà ông đã từng sáng tác.
Tác phẩm có biệt danh là bản giao hưởng "Sao Mộc". Tên này bắt nguồn không phải từ Mozart mà có khả năng từ "ông bầu" âm nhạc Johann Peter Salomon.
Nhạc cụ tham gia.
Bản giao hưởng bao gồm sáo sắt Flute, hai kèn Ô-boa, hai kèn Pha-gốt, hai kèn Cor, hai kèn Trumpet cung Đô trưởng, trống cung Đô-Sol, và nhạc cụ dây kéo.
Tác phẩm và ra mắt.
Bản giao hưởng số 41 là tác phẩm cuối cùng trong bộ ba giao hưởng nổi tiếng 39-40-41 được Mozart sáng tác nhanh chóng trong suốt mùa hè năm 1788. Bản số 39 được hoàn thành vào ngày 26 tháng 6 và số 40 ngày 25 tháng 7. Nikolaus Harnoncourt lập luận rằng Mozart sáng tác cả ba bản giao hưởng như một công việc thống nhất, giữa những công việc khác, thực tế là bản giao hưởng số 41, như là công việc cuối cùng, không được giới thiệu (không giống như số 39) nhưng có một cái kết rất hùng tráng.
Trong cùng thời gian đó, trong khi sáng tác bộ ba bản giao hưởng, Mozart sáng tác bản piano tam tấu cung Mi trưởng (K. 542), và Đô trưởng (K. 548), độc tấu piano số 16 cung Đô trưởng (K. 545) – cái gọi là bản sonata "trôi chảy" (sáng tác một cách nhanh chóng) – và một bản độc tấu violin K. 547.
Không biết liệu bản giao hưởng số 41 đã từng được trình diễn lần nào trong cuộc đời của nhà soạn nhạc hay chưa. Theo Otto Erich Deutsch, khoảng thời gian này Mozart đã chuẩn bị để ra mắt một loạt "các buổi hòa nhạc trong các sòng bạc" trong một sòng bạc mới ở Spiegelgasse thuộc sở hữu của Philip Otto. Mozart thậm chí còn gửi một cặp vé đến bạn của mình Michael Puchberg. Nhưng có vẻ như không thể để xác định xem buổi biểu diễn đã được tổ chức hay chưa, hay là hủy bỏ do sự thiếu quan tâm.
Các phần.
Bốn phần được sáng tác theo mô hinh giao hưởng cổ điển đặc trưng:
Bản giao hưởng đặc biệt dài khoảng 33 phút, lâu hơn bình thường.
Chủ đề chính của các nhạc cụ bắt đầu với mô tuýp tương phản: một bộ ba tutti (các nhạc cụ cùng chơi) trên nền nhạc cơ bản (tương ứng, một tăng dần, chuyển hàng đầu trong một bộ ba từ những giai điệu cơ bản chi phối), theo sau bởi 1 âm thanh phản ứng trữ tình.
Giai điệu này cất lên hai lần và sau đó, tiếp theo là một chuỗi giai điệu dài sôi động. Những gì tiếp theo là một đoạn chuyển tiếp mà hai họa tiết tương phản đang mở rộng và phát triển. Từ đó, chủ đề thứ hai, bắt đầu với một phần trữ tình trong cung Sol trưởng mà kết thúc trên một hợp âm thứ bảy và tiếp theo là một giai điệu bão táp trong cung Đô thứ.
Phần cuối cùng của bản nhạc, Molto allegro với tiết tấu như Presto (rất nhanh) là một kết thúc hùng vĩ, rất to lớn, choáng ngợp và tràn đầy ánh sáng, không như của số 39 ngắn và nhanh và số 40 đầy bão táp và bi thảm. Nhưng phần mở đầu của bản số 41 lại mơ hồ và mở thẳng chủ đề, không như phần giới thiệu chậm rãi của số 39, và sự diễn tả cảm xúc buồn, bâng khuâng của số 40. Do đó, có thể coi 3 bản 39, 40 và 41 là 3 phần riêng biệt của 1 bản giao hưởng lớn. | 1 | null |
Oberon (tên đầy đủ là Oberon, hay lời nguyền của chúa yêu tinh) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Đức Carl Maria von Weber. Lời bằng tiếng Anh được viết bởi J. R. Planché, dựa theo bản dịch thơ Oberon của Wieland. Được sáng tác năm 1826, vở opera này có lần trình diễn đầu tiên tại London, Anh cũng vào năm ấy, do chính Weber chỉ huy dàn nhạc. | 1 | null |
Mắc ca hay mác ca là tên gọi từ cách phiên âm trong tiếng Việt của chi thực vật có danh pháp khoa học Macadamia, gồm nhiều cây thân gỗ có nguồn gốc từ châu Đại Dương (Úc), thuộc họ Proteaceae. Các loài trong chi này là bản địa của đông bắc New South Wales và trung-đông nam Queensland. Cây này là một loại có trái thương mại. Ngôn ngữ của thổ dân bản địa Úc thường gọi cây này bằng các tên gọi như "bauple", "gyndl", "jindilli". Trước đây chi này có nhiều loài, nhưng kết quả nghiên cứu về gen và hình thái được công bố năm 2008 bởi Austin Mast và cộng sự đã tách chúng ra khỏi chi "Macadamia", và chi này hiện còn 4 loài.
Danh sách loài.
Các loài đã tách ra để thành lập chi riêng:
Sản xuất.
Hạt cây là một loại thực phẩm có giá trị. Chỉ 3 trong số các loài là "Macadamia integrifolia", "Macadamia ternifolia", và "Macadamia tetraphylla" là có giá trị thương mại. Chỉ 2 trong 3 loài này ("Macadamia integrifolia" và "Macadamia tetraphylla") có thể ăn sống được. Các loài còn lại trong chi này có độc tính và/hoặc không thể ăn hạt như "M. whelanii" và "M. ternifolia"; độc tính của chúng là do có mặt chất cyanogenic glycosides. Các loại glycoside này có thể được loại bỏ bằng cách ủ lâu, đây là phương pháp được người thổ dân Úc áp dụng cho các loài này.
Hai loài ăn được đã bị lai tạp, và "M. tetraphylla" bị đe doạ trong tự nhiên do lý do này. Hạt của nó được những người châu Âu ở nam Brisbane mô tả năm 1828 bởi nhà thám hiểm và thực vật học Allan Cunningham. Một trong những địa điểm có cây mắc ca hoang được tìm thấy đầu tiên là Mount Bauple gần Maryborough ở đông nam Queensland, Australia. Nhân của quả là một trong số ít thực phẩm được sản xuất và xuất khẩu số lượng lớn.
Các vườn cây mắcca thương mại đầu tiên được trồng vào đầu thập niên 1880 bở Rous Mill, đông nam Lismore, New South Wales, là cây loài "M. tetraphylla". Bên cạnh sự phát triển công nghiệp cửa hàng nhỏ ở Úc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, mắcca đã được trồng rộng rãi thương mại ở Hawaii từ thập niên 1920. Hạt mắcca được nhập khẩu đầu tiên vào Hawaii năm 1882 bởi William H. Purvis. Một nhà quản lý trẻ của công ty Pacific Sugar Mill ở Kukuihaele trên Đảo Lớn, đã trồng hạt nó cùng năm tại Kapulena.
Mắc ca được sản xuất ở Hawaii đã trở nên nổi tiếng toàn cầu. Tuy nhiên, năm 2006, sản lượng mắc ca bắt đầu giảm ở Hawaii do các nhà sản xuất khác có giá thấp hơn.
Ngoài Hawaii và Australia (35.200 tấn năm 2013), mắcca cũng được sản xuất thương mại ở Nam Phi (37.000 tấn - 2013), Brazil, California, Costa Rica, Israel, Kenya, Bolivia, New Zealand, Colombia, Guatemala và Malawi. Australia không còn là nhà sản xuất thương mại lớn trên thế giới - tổng sản lượng năm 2013 vào khoảng 135.000 tấn nhân hạt trên toàn cầu. Cho đến nay, việc trồng macadamia thương mại ở Florida đã không thành công, vì cho năng suất thấp. Tuy nhiên, macadamia là một loại cây trồng trước nhà phổ biến ở Florida và người ta đang cố gắng chọn lọc gống để nâng cao năng suất.
Giá trị dinh dưỡng.
So sánh với các loại hạt quả ăn được phổ biến khác như hạnh nhân hay đào lộn hột, Mắc-ca chứa nhiều chất béo nhưng ít protein. Hạt mắc ca có hàm lượng chất béo chưa bão hòa đơn cao nhất trong số các loại hạt đã biết, chứa khoảng 22% axit béo omega-7 là axit palmitoleic, có các tác động sinh học tương tự như một chất béo chưa bão hòa đơn. Nó cũng chứa 9% protein, 9% cacbohydrat và 2% sơ dinh dưỡng, cũng như calci, phosphor, kali, natri, selen, sắt, thiamin, riboflavin và niacin.
Mắc-ca có độc tính đối với chó. Việc nuốt phải hạt mắc ca có thể gây nhiễm độc mắc ca (macadamia toxicosis), được đánh dấu bằng các biểu hiện như suy yếu và tê liệt các chân sau tới mức không đứng vững, xảy ra trong vòng 12 giờ sau khi nuốt phải. Phụ thuộc vào số lượng nuốt vào và kích thước con chó, các triệu chứng có thể bao gồm run rẩy cơ, tổn thương khớp và tổn thương bụng nghiêm trọng. Với liều độc cao, việc sử dụng các loại thuốc giảm đau có thể là cần thiết để giảm đau cho tới khi các tác động độc hại giảm đi. Sự phục hồi hoàn toàn thường diễn ra trong vòng 24-48 giờ.
Phân bố.
Cây này được nhân rộng tại một số vùng tại Trung Quốc, Thái Lan... Quả mắc ca hiện nay được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp mỹ phẩm và thực phẩm chức năng, do đó nhu yếu về sản vật này ngày một cao.
Năm 1881 mắc ca được đưa tới trồng ở Hawaii, lúc đó chúng được sử dụng như một cây trồng chắn gió và để chống thoái hóa đất. Năm 1948, Trạm nghiên cứu nông nghiệp Hawaii đã đầu tư nghiên cứu về lĩnh vực giống và đã tạo ra các dòng có nhiều triển vọng làm tiền đề cho công nghiệp mắc ca hiện đại ở Hawaii như ngày nay.
Tại Việt Nam.
Cây mắc ca được trồng ở Việt Nam đầu tiên vào năm 1994 lúc Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam gieo 10 cây từ hạt và trồng thử tại Ba Vì, Hà Nội. Sau đó, cây mắc ca được trồng thử nghiệm và nhân giống ở nhiều tỉnh khác nhau, chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.
Từ năm 2000, diện tích trồng mắc ca ở Việt Nam tăng dần và năm 2018 đạt khoảng 2.000 ha trồng tập trung. Vào tháng 9/2016, theo kết quả điều tra thuộc đề án quy hoạch phát triển Mắc ca vùng Tây Nguyên của Viện Điều tra và Quy hoạch rừng (thuộc Tổng cục Lâm nghiệp) cho biết diện tích trồng cây mắc ca ở các tỉnh Tây Nguyên khoảng 1.630 ha, trong đó Kon Tum 50 ha, Gia Lai 80 ha, Đắk Lắk 500 ha, Đắk Nông 600 ha và Lâm Đồng (Lâm Hà) 400 ha.
Giáo sư Nguyễn Lân Hùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Mắc ca Việt Nam cho biết: "Lâm Đồng là thủ phủ mắc ca của cả nước và Lâm Hà là địa phương chủ lực của Lâm Đồng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp cả trên mặt trận mắc ca". Một số huyện của tỉnh Lâm Đồng gồm Lâm Hà, Lâm Hà, Di Linh, Bảo lâm, Đức Trọng, Đam Rông, Bảo Lộc và Đơn Dương được phê duyệt quy hoạch phát triển cây mắc ca theo Quyết định 1062/QĐ-UBND, định hướng tới năm 2030. | 1 | null |
Tổ khúc Anh là tập hợp 6 tổ khúc của nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach, được xuất bản sau khi ông qua đời năm 1750. Tên gọi của những tổ khúc này dường như nảy sinh do có những bản chép tay mà người con út của Bach, Johann Christian Bach, có được, trong đó có nói các tổ khúc này được viết cho người Anh. | 1 | null |
Concerto thành Brandenburg là tập hợp sáu bản concerto grossi của nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach, gồm những sự phối hợp các nhạc cụ khác loại với nhau. sáu bản concerto được đề tặng Christian Ludwig, Bá tước của Brandenburg, nhưng hình như chưa bao giờ biểu diễn cho người này. | 1 | null |
Hòa thượng Thích Thiện Quang (1895 - 1953), thế danh là Nguyễn Văn Xứng, pháp húy Hồng Xứng , pháp danh Thiện Quang; là một nhà sư thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40 ở Việt Nam.
Tiểu sử.
Nguyễn Văn Xứng sinh năm 1895 tại Giồng Keo, nay là ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre; trong một gia đình phú nông. Cha là ông Nguyễn Văn Chiếu và mẹ là bà Võ Thị Sáng. Ông Xứng là con thứ năm trong một gia đình có 7 anh chị em và là con trai duy nhất trong nhà.
Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, thấm thía nỗi thống khổ của người dân nô lệ, ông đã âm thầm tụ tập bạn bè, luyện tập võ nghệ, và về sau gia nhập tổ chức Thiên Địa Hội. Tuy nhiên, vì bị người Pháp ép buộc , và cũng vì muốn yên ổn làm ăn, cha ông nhận làm Hương cả (tục gọi là Cả Chiếu), và ông làm Phó Hương quản ở địa phương.
Năm 24 tuổi, sau khi gia đình thúc ép nhiều lần, ông Xứng mới lập gia đình, và có được 2 người con, một trai một gái. Sau đó, ông sinh bệnh, điều trị mãi mà không hết. Một hôm, có một nhà sư cùng quê tu trên núi Két (nay thuộc Tịnh Biên, An Giang) về thăm. Gặp ông, nhà sư ấy bảo: "Muốn hết bệnh, lên núi Sư giúp!".
Năm 1918, tổ chức Thiên Địa Hội bị lộ nên nhiều hội viên bị bắt, tuy nhiên mật thám vẫn chưa dò la được ông. Một hôm, trong làng có việc, Hương quản đánh mõ triệu tập dân chúng. Ông Xứng đang ăn cơm nên ra trễ, bị Hương quản bắt lỗi và cầm dùi đánh. Ông giật dùi đánh lại, rồi tìm đường lánh thân. Đến núi Két, gặp được nhà sư ngày trước kể rõ sự tình, được nhà sư cho ở lại trị bệnh, học nghề thuốc và tìm hiểu đạo Phật...
Sau khi nghe tiếng nhà sư Thích Trí Thiền (thượng Chí hạ Thiền, thế danh Nguyễn Văn Hiển; 1861-1933) ở Phi Lai cổ tự (Châu Đốc) là một bậc chân tu; ông Xứng liền tìm đến xin quy y, và trở thành đệ tử đời thứ 40 của dòng Lâm Tế Gia Phổ. Khi ấy là năm 1925, ông 30 tuổi.
Năm 1927, sau mùa an cư, nhà sư Thích Thiện Quang (pháp danh của Nguyễn Văn Xứng) xin phép thầy lên núi Cấm (Tịnh Biên, An Giang) ẩn tu, và được chấp thuận. Đến nơi, sư Thiện Quang dựng lên một am thờ Phật bằng tre, lá đơn sơ (nên chùa Vạn Linh còn được gọi là "chùa Lá") để chuyên tu và trị bệnh cho người dân quanh vùng. Khi số đệ tử quy tụ về đông hơn (trong số đó có nhà sư Thích Trí Tịnh), năm 1941, nhà sư Thiện Quang cho khởi công trùng tu ngôi chánh điện khang trang hơn, mái lợp ngói, đến 1943 thì hoàn thành, và đặt tên là "chùa Vạn Linh".
Năm 1945, chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ. Sợ đối phương lập căn cứ ở đây, vào năm 1946, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh không cho dân ở trên núi Cấm nữa. Vì vậy, nhà sư Thiện Quang phải dẫn các đồ đệ xuống núi, tạm trú tại nhà Phật tử ở Tri Tôn, và sau đó (đầu năm 1947) đến tu ở chùa Linh Bửu thuộc vùng Cầu Bông, Sài Gòn...
Sáng 26 tháng 11 năm Quý Tỵ (31 tháng 12 năm 1953), nhà sư Thiện Quang an nhiên viên tịch, trụ thế 59 tuổi .
Về sau, nhà sư Thích Thiện Quang được tôn làm Hòa thượng khai sơn chùa Vạn Linh.
Thông tin liên quan.
Sau khi viên tịch, nhục thân của nhà sư Thích Thiện Quang được đưa về an táng trên đất mộ của gia đình bà Nguyễn Thị Tánh (tục gọi bà ba Hộ, pháp danh Diệu Tuyết) ở Thủ Đức (trước 1975 là một quận của tỉnh Gia Định, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Rằm tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954) là lễ chung thất của nhà sư Thích Thiện Quang, nhà sư Thích Trí Tịnh từ chùa Linh Sơn (Vũng Tàu) về tham dự lễ và viếng mộ thầy. Nhân đây, bà ba Hộ đã phát tâm cúng dường toàn bộ nhà và đất (tức gồm cả nơi an táng nhà sư Thiện Quang). Ngày 16 tháng 3 âm lịch năm đó, nhà sư Trí Tịnh cho sửa lại căn nhà cho giống chùa. Đó là tiền thân của ngôi chùa Vạn Đức ngày nay.
Đến năm 1983, Hòa thượng Thiện Thành, trụ trì chùa Vạn Linh đời thứ hai, tổ chức thỉnh nhục thân Hòa thượng Thích Thiện Quang về núi Cấm nhưng sự việc không thành, đành đưa về Thành phố Hồ Chí Minh để hỏa táng. Tro cốt được thờ ở tháp Phổ Đồng trong chùa Huệ Nghiêm ở Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1995, Viện chủ chùa Vạn Đức là Hòa thượng Thích Trí Tịnh, cũng là đệ tử của sư Thích Thiện Quang, cho trùng tu lại chùa Vạn Linh. Sau khi hoàn chỉnh cơ bản khu chánh điện, tháp Tổ (tức tháp Hòa thượng khai sơn Thích Thiện Quang) được tiến hành xây dựng.
Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Dần (1998), Hòa thượng Thích Trí Tịnh cho tổ chức thỉnh các tượng Phật về núi Cấm, đồng thời thỉnh linh cốt Hòa thượng Thích Thiện Quang về làm lễ nhập tháp.
Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã tóm lược cuộc đời Hòa thượng Thích Thiện Quang bằng 4 câu thơ như sau:
Tạm dịch: | 1 | null |
Georges Henri Joseph Édouard Lemaître (; 17 tháng 7 năm 1894 – 20 tháng 6 năm 1966) là một linh mục Công giáo, nhà thiên văn học và giáo sư vật lý học người Bỉ tại Viện Đại học Công giáo Louvain. Ông là người đầu tiên đề xuất lý thuyết về giãn nở vũ trụ, mà người ta thường hay gán nhầm cho Edwin Hubble. Ông cũng là người đầu tiên khơi nguồn điều mà ngày nay biết đến là định luật Hubble và thực hiện các ước tính ban đầu về hằng số Hubble (theo như cách gọi ngày nay) mà ông đã công bố vào năm 1927, hai năm trước bài báo của Hubble.
Lemaître cũng đề xuất lý thuyết mà nay gọi là Vụ Nổ Lớn về khởi nguyên của Vũ trụ mà ông gọi là "giả thuyết nguyên tử nguyên thủy" hay "Quả trứng vũ trụ". | 1 | null |
Neotaenioglossa là một phân nhóm lớn các loài ốc biển. Danh pháp này được đặt ra ra bởi Haller vào năm 1882. Ponder và Warén (1988), Marquet (1997), đẵ đặt nhóm này vào siêu bộ Caenogastropoda. ITIS lại đặt chúng đồng nghĩa với Cerithioidea .
Bản Phân loại Động vật chân bụng (Bouchet & Rocroi, 2005) không tiếp tục ghi nhận phân nhóm này. Các họ thuộc nhóm này được phân về các nhánh Littorinimorpha, Neogastropoda và nhóm Ptenoglossa. Tất cả đều thuộc nhánh Hypsogastropoda. | 1 | null |
Nephrit (ngọc bích) là một biến thể của actinolit trong nhóm amphibol giàu magnesi và calci (tập hợp khoáng vật của chúng cũng tạo thành một dạng asbestos). Công thức hóa học của nephrit là Ca2(Mg, Fe)5Si8O22(OH)2.
Ngọc bích và phỉ thuý là hai loại khoáng vật có công thức hoá học khác nhau nhưng cùng được gọi là ngọc thạch (tiếng Anh: ). Phỉ thuý là một biến thể của pyroxen.
Tên gọi.
Tên nephrite có nguồn gốc từ "lapis nephriticus", có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là "λίθος νεφριτικός." "νεφρός λίθος", có nghĩa là 'đá (sỏi) thận' và là phiên bản tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp của "piedra de ijada" trong tiếng Tây Ban Nha (nguồn gốc từ "jade" và "jadeite"). Theo đó, ngọc bích nephrite từng được cho là có thể chữa được bệnh sỏi thận.
Các tên gọi khác.
Ở Việt Nam, nephrit được gọi là "ngọc bích." Nephrite khai thác ở vùng Hoà Điền, Tân Cương, Trung Quốc còn được gọi là ngọc Hòa Điền.
Nhiều người vì nghe tên "ngọc bích" mà nhầm tưởng rằng loại ngọc này chỉ có màu xanh bích. Thực chất, chữ "bích" [璧] trong tên "ngọc bích" cũng là một từ chỉ ngọc. Trong bài thơ Tô Tần Đình kỳ 2, Nguyễn Du có viết: "Hoàng kim bách dật, bích bách song" (黄金百鎰璧百雙), dịch ra là "Hoàng kim trăm dật, ngọc bích trăm đôi."
Nguồn gốc.
Các nguồn nephrit được tìm thấy trên toàn cầu. Các nguồn chính là British Columbia, Canada; Tỉnh Tân Cương, Trung Quốc; Đông Sayan gần Hồ Baikal của Nga; và Chuncheon, Hàn Quốc. Các nguồn khác, khai thác hạn chế bao gồm New Zealand, Nam Úc, tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, Val Malenco ở Ý và Wyoming tại Hoa Kỳ.
Hòa Điền, Trung Quốc.
Hòa Điền là một thị trấn ở tỉnh Tân Cương, Trung Quốc, các sản phẩm nephrit khai thác ở đây thường đồng nghĩa với chất lượng tốt nhất. Mặc dù sản lượng hiện tại không cao như trước đây, khu vực này được biết đến với việc khai thác "dương chi bạch ngọc" (ngọc màu trắng mỡ cừu) nổi tiếng, là nephrit trắng chất lượng hàng đầu. Khu vực này cũng cho ra các màu nephrit khác. Nephrit xanh chủ yếu đến từ Thung lũng sông Manasi ở lưu vực rừng phía nam.
Dương chi bạch ngọc.
Tên thương mại cho nephrit trắng chất lượng cao nhất.
Sơn liệu.
Nephrit thô khai thác trực tiếp từ mỏ sơ cấp (trên núi).
Tử liệu.
Nephrit thô thu thập được ở các con sông, suối gần đó, là kết quả của quá trình phong hóa từ nguồn sơ cấp trên núi cao.
British Columbia, Canada.
Có hơn 50 mỏ nephrite ở British Columbia, được phân phối dọc theo một vành đai đá kéo dài về phía bắc hơn 1.000 dặm (1.600km), từ Biên giới Hoa Kỳ đến tận Yukon ở tây bắc Canada. Tất cả nephrite ở đây có xanh lục. Các mỏ Mount Ogden và Kutcho là hai nguồn nephrite xanh sản lượng cao nhất. Mỏ Polar ở British Columbia là mỏ nephrite xanh lá cây nổi tiếng nhất về mặt thương mại. Về mặt sản xuất, British Columbia là khu vực cung cấp nephrite lớn nhất thế giới hiện nay.
Siberia, Nga.
Các nguồn Nephrite ở Siberia, Nga, được tập trung quanh Đông Sayan trong khu vực hồ Baikal. Vùng phái tây nam của hồ cho chủ yếu là nephrite màu xanh lá cây, trong khi ở phía đông bắc thì có nephrite màu trắng. Thời tiết khắc nghiệt và thức địa hình khắc nghiệt khiến cho việc khai thác nephrite ở Siberia cực kỳ khó khăn, nhưng nhu cầu ngày càng tăng từ Trung Quốc khiến cho việc khai thác vẫn kinh tế. Nhìn chung, nephrite xanh của Nga có chất lượng cao hơn nephrite của Canada. Còn nephrite trắng ở khu vực này về chất lượng không kém cạnh nephrite trắng ở Trung Quốc | 1 | null |
Vua Lear là tập hợp overture và nhạc cho kịch nói của nhà soạn nhạc người Nga Mily Balakirev, thành viên của nhóm The Five. Ông sáng tác tác phẩm này trong khoảng thời gian từ năm 1859 đến năm 1861, lấy cảm hứng từ vở kịch cùng tên của đại văn hào người Anh William Shakespeare. | 1 | null |
Diopsid là một loại khoáng vật trong nhóm pyroxen có công thức hóa học MgCaSi2O6. Nó tạo ra một chuỗi dung dịch rắn hòa chỉnh với hedenbergit (FeCaSi2O6) và augit, và các dung dịch rắn từng phần với orthopyroxen và pigeonit. Nó có nhiều màu nhưng đặc trưng nhất là các tinh thể lục tối thuộc nhóm lăng trụ một nghiêng
Thành tạo.
Diopside được tìm thấy trong các đá siêu mafic (kimberlite và peridotit), và augit giàu diopside là phổ biến trong các đá mafic như basalt olivin và andesit. Diopside cũng được tìm thấy ở nhiều biến thể khác nhau trong các đá biến chất như đá biến chất tiếp xúc skarn phát triển từ các đá dolomit giàu silica. Nó là khoáng vật quan trọng trong manti của Trái Đất và phổ biến ở dạng thể tù peridotit phun trào trong kimberlite và basalt kiềm.
Khoáng vật học và phân bố.
Diopside là tiền chất của chrysotile (asbestos trắng) được hình thành bởi sự thay thế nhiệt dịch và sự phân dị mác-ma; nó có thể phản ứng với các dung dịch hydrat magiê và clo để tạo rar chrysotile bằng cách nung ở 600 °C trong khoảng 3 ngày. Một số tích tụ vermiculit, chủ yếu ở Libby, Montana, bị nhiễm chrysotile (cũng như các dạng khác của asbestos) được hình thành từ diopside. | 1 | null |
Giấc mộng đêm hè là bản overture cung Mi trưởng Op.26 của nhà soạn nhạc người Đức gốc Do Thái Felix Mendelssohn. Khi đó Mendelssohn mới có 17 tuổi. Chàng thanh niên Mendelssohn đã lầy cảm hứng từ vở kịch cùng tên của đại văn hào người Anh William Shakespeare. Sau này, Mendelssohn đã bổ sung một số tiết mục âm nhạc nữa (trong đó có Hành khúc hôn lễ nổi tiếng ở cuối màn 4) cho lần dàn dựng vở kịch nổi tiếng này tại Potsdam vào năm 1843. | 1 | null |
Prince Yeonsan (연산군 - "Yeonsan gun") là bộ phim Hàn Quốc năm 1961 đạo diễn bởi Shin Sang-ok. Trong số nhiều giải thưởng bao gồm diễn viên xuất sắc nhất và nữ diễn viên xuất sắc nhất, nó được chọn là bộ phim xuất sắc nhất trong lễ trao giải "Grand Bell Awards".
Tóm tắt.
Bộ phim truyền hình lịch sử nói về Yeonsangun của Joseon một hoàng tử cố gắng khôi phục vị trí của mẹ, người đã bị phế truất - Tề Hiến Vương hậu. | 1 | null |
A Flower of Evil () là phim kinh dị Hàn Quốc năm 1961 đạo diễn và sản xuất bởi Lee Yong-min.
Tóm tắt.
Sau nhiều năm làm việc, một nhà khoa học bị ám ảnh bởi sự trả thù đã phát triển một bông hoa sẽ giúp mình trả thù và uống máu người. | 1 | null |
Lohengrin là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner. Wagner cũng tự viết lời cho tác phẩm, điều hiếm khi thấy ở những người viết opera. Lohengrin được sáng tác trong các năm 1846-1848, trình diễn lần đầu tiên tại Weimar do Franz Liszt chỉ huy dàn nhạc giao hưởng. Hành khúc hôn lễ được nhiều người chơi đàn organ sử dụng cho các đám cưới tổ chức tại nhà thờ là từ cảnh 1, màn 3 của tác phẩm này. | 1 | null |
Danh sách các quốc gia châu Á theo GDP trên người 2012 là bảng thống kê về GDP trên người 2012 của 52 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á. Ngoài 47 quốc gia độc lập, là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn có các vùng lãnh thổ khác như: Hong Kong, Ma Cao, Đài Loan, Bắc Síp và Palestine. Trong danh sách này, Qatar là quốc gia có thu nhập bình quân trên người cao nhất châu Á, với 104.756 USD/người, tiếp sau là Ma Cao với 78.275 USD/người, Hong Kong với 52.052 USD người. Quốc gia có thu nhập bình quân trên người thấp nhất châu Á năm 2012 là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chỉ có 583 USD/người, xếp áp chót là Afghanistan với 633 USD/người. Trong các quốc gia châu Á, chỉ riêng Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Cộng hòa Síp là có GDP trên người xục giảm hơn so với đầu thời kỳ Đại suy thoái 2009-2012.
Bảng thống kê được trích số liệu từ nguồn GDP trên người 2012 của Quỹ tiền tệ Quốc tế-IMF, những lãnh thổ hay quốc gia không được IMF thống kê, được bổ sung từ các nguồn Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới-WB hay CIA Facebook. | 1 | null |
Nhà thờ Hội An là một nhà thờ Công giáo tọa lạc tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam thuộc Giáo phận Đà Nẵng. Ngôi nhà thờ hiện tại được xây dựng vào năm 1965, nhưng lịch sử của nó còn kéo dài trước đó nữa vì đây là nhà thờ của giáo xứ được coi là lâu đời nhất Việt Nam.
Lịch sử.
Năm 1615, ba tu sĩ Dòng Tên là linh mục Francesco Buzomi (người Ý), linh mục Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và tu huynh Antonio Dias (Bồ Đào Nha), cùng hai người Nhật Bản là Jose và Paulo đến Tourain (Đà Nẵng) rồi vào Faifo (Hội An) để truyền giáo cũng như chăm sóc mục vụ cho một cộng đoàn tín hữu Nhật tại đây. Ở Hội An, việc giảng đạo không thuận lợi vì đa phần người Hội An lúc này là người nước ngoài, làm ăn, buôn bán không quan tâm mấy đến việc giảng đạo, vì vậy các nhà truyền giáo đã đến Thanh Chiêm (cách Hội An 10 km) để truyền đạo cho người địa phương. Đến tháng 4 năm 1615 đã có 10 giáo dân ở đây được rửa tội và đến năm sau, con số này đã lên tới hơn 300 người. Khi thấy công việc ở đây trôi chảy, các giáo sĩ truyền giáo đã quyết định ở lại đây để phát triển công việc truyền giáo.
Ngày 18 tháng 1 năm 1616 giáo sĩ người Ý Francisco Busomi thành lập giáo xứ Hội An và xây dựng nhà thờ ở Hội An.
Năm 1914, một số giáo dân đã sửa và xây dựng lại nhà thờ mới bằng tranh, gỗ. Năm 1935, nhà thờ được thay thế bằng ngôi nhà thờ kiên cố theo kiểu kiến trúc Gothic. Năm 1965, ngôi nhà thờ này bị gỡ bỏ và thay vào đó là ngôi nhà thờ mới với kiểu dáng như hiện nay.
Kiến trúc.
Nhà thờ tọa lạc tại số 02 đường Nguyễn Trường Tộ (thời Pháp gọi là đường Gouverneur Général Cherles), có khuôn viên rộng, xung quanh có tường rào xây bằng gạch. Nhà thờ có cổng tam quan cách điệu hình mái nhà, đỉnh cổng có đặt hình cây Thánh giá. Sau cổng có sân rộng. Bên trái sân là một hang đá lớn dưới tán cây cổ thụ, bên phải sân đồi cỏ - giả sơn và khu mộ các giáo sĩ Phương Tây.
Nhà thờ được xây dựng theo kiểu kiến trúc Gothic, kết hợp với lối kiến trúc nhà truyền thống của Hội An. Nội thất bên trong nhà thờ được phân thành 3 không gian chính với các chức năng như khu vực dành cho giáo dân ngồi, cung thánh và phòng áo.
Khu dành cho giáo dân ngồi có bốn dãy ghế, trên tường khu treo các bức phù điêu mô tả hành trình khổ nạn của Chúa Jesus. Khu Cung thánh thiết kế cao hơn xung quanh, chính giữa là bàn lớn dùng để cử hành Thánh lễ, được đặt trên nền cao với ba bậc cấp. Sát tường phía sau cung thánh là Thánh giá và tượng Chúa Cứu Thế. Phòng áo nằm ở phía sau Cung thánh, là nơi cất giữ y phục hành lễ của linh mục và trang phục của các lễ sinh. Toàn bộ nhà thờ được lắp hệ thống gương màu thể hiện không gian thiêng liêng hơn, thanh thoát hơn.
Khu mộ các giáo sĩ phương Tây.
Khu mộ các giáo sĩ phương Tây nằm trong khuôn viên nhà thờ Hội An. Đây là một trong số những di tích hiếm hoi còn lại ở Hội An liên quan đến quá trình truyền bá đạo Công giáo của các giáo sĩ Dòng Tên hoặc Dòng Thừa sai phương Tây tại Việt Nam đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XX.
Tại khu mộ, ngoài 3 ngôi mộ được chính quyền thị xã Hội An cải táng về năm 1980
, còn có 2 ngôi mộ được lập trước đó. Khu mộ phân thành hai dãy: dãy mộ trong cùng gồm 3 ngôi mộ là nơi an nghỉ của các giáo sĩ Gulielmo Mahot, Franxico Perez và Valere Rist. Dãy mộ gần cổng gồm có hai ngôi mộ, ngôi mộ nằm phía bên phải là nơi chôn cất của linh mục người Việt Phao Lô Nguyễn Tưởng. Ngôi mộ còn lại là mộ giáo sĩ Pierre Auguste Galloz, người Pháp.
Di tích lịch sử.
Ngày 7 tháng 4 năm 2008, nhà thờ Hội An và khu mộ các giáo sĩ phương Tây, thuộc phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh Quảng Nam Nguyễn Đức Hải ký quyết định công nhận danh hiệu "Di tích Lịch sử và Văn hóa cấp tỉnh-Thành phố".
Nhà thờ Hội An từng là nơi cư trú, truyền giáo cho các giáo sĩ Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris ở Đàng Trong. Đây cũng là nơi học tiếng Việt của các giáo sĩ và phát triển chữ Quốc ngữ và là nơi giao lưu, tiếp xúc văn hoá Đông - Tây tại Hội An. Nhà thờ cũng thường được các giáo sĩ tập trung những lễ vật là sản phẩm của nền khoa học phương Tây để dâng tặng cho các Chúa Nguyễn. | 1 | null |
Bí mật Hổ phách Quan âm (tên gốc: Tân Sở Lưu Hương, chữ Hán: ) là bộ phim truyền hình hợp tác giữa Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc sản xuất năm 2001. Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết Sở Lưu Hương hệ liệt của nhà văn Cổ Long. Những phần được chuyển thể gồm Huyết hải phiêu hương, Họa mi điểu, Tá thi hoàn hồn và Biên bức truyền kỳ.
Nội dung.
Sở Lưu Hương trong giang hồ có đại danh đỉnh đỉnh là đạo soái, khinh công thiên hạ nhất tuyệt, đi đến đâu cũng lưu lại một mùi hương lan nhè nhẹ nên được mệnh danh là Hương soái.
Hương soái đột nhập Cung cấm để trộm ngọc Hổ phách Quan âm, trong đó lưu giữ một pho tượng mỹ nhân được Tiểu Lý Phi Đao Lý Tầm Hoan tự tay điêu khắc, có thể tìm Lý Tầm Hoan để thực hiện một yêu cầu cho chủ nhân sở hữu, và nguyện vọng của Sở Lưu Hương là muốn biết thân thế của mình.
Trong khi trộm Hổ phách, Sở Lưu Hương quen biết với Tư Không Tinh Nhi và Tô Dung Dung cũng vào hoàng cung với ý định trộm ngọc, tại đây họ đã kết thành những oan gia hoan hỷ.
Trong khi điều tra về việc Càn Khôn Thánh Thủy bị trộm thì Sở Lưu Hương và Tô Dung Dung đã nảy sinh tình cảm.
Sở Lưu Hương cùng Tư Không Tinh Nhi đến An Nam để tìm Lam Điền Ngọc Thực cứu sống Tô Dung Dung, tại đây y điều tra ra thân thế của mình chính là thái tử của nước An Nam và cũng từ đây, y nảy sinh tình cảm với Tư Không Tinh Nhi.
Một bên là hồng nhan tri kỷ đồng sinh cộng tử, một bên là tình cảm chớm nở, đạo soái phong lưu sẽ đối diện ra sao với hai cô gái si tình; một bên là ngôi vua với vinh hoa phú quý và một bên là cuộc sống giang hồ tiêu dao khoái lạc, giang hồ kỳ hiệp đạo soái Lưu Hương sẽ quyết định ra sao? | 1 | null |
Ngô Lăng Vân (chữ Hán: 吳凌雲; ?-1863) là một thủ lĩnh thổ phỉ người Tráng chống triều đình nhà Thanh, là người thành lập nhà nước Đình Lăng (廷陵國, Đình Lăng quốc) tại vùng biên giới Quảng Tây giáp Đại Nam giai đoạn 1860-1868.
Thân thế và khởi binh.
Ngô Lăng Vân còn có tên là Nguyên Thanh (元清), người thuộc tộc Tráng, nguyên quán tại châu Tân Ninh, phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây. Ngô là thành viên trong một gia đình khá giả, có chút học thức và danh tiếng trong vùng.
Cuối thời Đạo Quang, một nhóm nông dân nổi dậy thất bại, bị quan quân địa phương truy lùng, Ngô đã che giấu cho họ. Năm 1851, sự việc bị phát giác, Ngô bỏ trốn. Trong thời gian này, Ngô liên lạc với các nhóm nổi dậy nhỏ khác, quy tụ lại làm một nhóm lấy hiệu là Toàn Thắng đường (全胜堂) và tự làm thủ lĩnh, đổi tên thành Lăng Vân. Năm 1852, tri châu Tân Ninh mang quân công phá Toàn Thắng đường. Ngô Lăng Vân thoát được, một lần nữa lại tiếp tục chiêu tập quân các nhóm nổi dậy. Tháng 10 năm 1853, Ngô chỉ huy quân nổi dậy công phá châu Tân Ninh, lấy thôn Lũng Phác làm căn cứ địa, từ đó mở rộng kiểm soát các vùng phụ cận 2 phủ Nam Ninh và Thái Bình.
Tháng 6 năm 1854, quân nổi dậy của Triệu Ứng Phương, Lục Thành Thái tấn công phủ Thái Bình thất bại, tàn binh gia nhập với quân Ngô Lăng Vân. Sau đó, lực lượng của các địa chủ châu Tân Ninh hợp binh công phá căn cứ Lũng Phác, Ngô phải lui về huyện Sùng Thiện (崇善) để gầy dựng lại lực lượng. Đến tháng 7 năm 1856, thấy binh lực đã có vẻ hồi phục, Ngô Lăng Vân một lần nữa mang quân đánh chiếm Tân Ninh, tuy nhiên đến tháng 10, quân Thanh và các quân địa chủ địa phương phối hợp đánh Tân Ninh, Ngô thua phải rút quân về thôn Lũng La.
Tháng 7 năm 1860, Ngô lại mang quân tiến đánh phủ Tân Ninh lần thứ 3, chiếm phủ Thái Bình và kiểm soát khu vực sát biên giới Đại Nam. Tháng 1 năm 1861, Ngô xưng Vương, kiến lập Đình Lăng quốc, khắc ấn "Đình Lăng ngọc tỷ", sử dụng nghi chế Hán quan, phong quan bái tước.
Tháng 6 năm đó, quân Thanh phản công và đến tháng 2 năm 1862, tấn công phủ Thái Bình. Phía Đình Lăng, quân sư Lương Quốc Trinh, nguyên soái La Phẩm Quang tử trận, Ngô phải rút về căn cứ địa Lũng La. Tháng 11, quân Thanh tấn công Lũng La. Tháng 1 năm 1863, Ngô Lăng Vân để con trai trưởng là Ngô Á Chung ở lại Lũng La phòng thủ, còn mình chỉ huy quân sĩ mở đường máu thoát ra ngoài để tìm viện quân. Tuy nhiên, giữa đường Ngô bị quân Thanh phục kích và bị tử thương.
Sau khi Ngô Lăng Vân chết, Ngô Á Chung tử chiến, mở đường máu thoát được, tiếp tục gây dựng lực lượng, duy trì nhà nước Đình Lăng. Mãi đến tháng 6 năm 1868, quân Thanh dốc toàn lực tấn công lực lượng của Ngô Á Chung. Ngô Á Chung thất trận, kéo quân rút qua biên giới Đại Nam và chiếm đóng vùng Cao Bằng. Bấy giờ, nhà nước Đình Lăng xem như đã bị xóa sổ. | 1 | null |
Câu lạc bộ bóng đá Hà Bắc Hoa Hạ Hạnh Phúc (tiếng Trung: 河北华夏幸福, bính âm:"Héběi Huáxià Xìngfú") là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở tại Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Trung Quốc. Đội bóng thi đấu trên sân vận động Dụ Đồng có sức chứa 37.000 chỗ và hiện đang thi đấu ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Trung Quốc
Lịch sử.
Hà Bắc Hoa Hạ Hạnh Phúc đã được thành lập vào ngày 28 tháng năm 2010 bởi Liên đoàn Bóng đá Hà Bắc và Công ty Hà Bắc Trung Cơ. Đội bóng đăng ký thi đấu ở Giải bóng đá hạng nhì Trung Quốc, thạng thứ ba của hệ thống giải đấu bóng đá Trung Quốc. Đó là lý do để Hà Bắc Y Lâm Sơn Trang (tiếng Trung giản thể: 河北依林山庄) tài trợ cho các giải đấu mùa giải 2011. Họ không tiến vào Play-off sau khi kết thúc vị trí thứ 5 ở vòng bảng. Vào ngày 17 Tháng mười năm 2011, mối quan hệ hợp tác giữa Liên đoàn Bóng đá Hà Bắc và Công ty Hà Bắc Trung Cơ chấm dứt, câu lạc bộ đã hoàn toàn thuộc sở hữu của Công ty Hà Bắc Trung Cơ và các cầu thủ thuộc sở hữu của Liên đoàn Bóng đá Hà Bắc tách thành một đội bóng mới, Trẻ bóng đá Hà Bắc. Tại giải đấu mùa giải 2012, Hà Bắc Trung Cơ được coi là câu lạc bộ hot nhất trong quảng cáo. Họ kết thúc vị trí số 1 ở nhánh Bắc với 18 trận thắng, 5 trận hòa và chỉ 1 thất bại. Tuy nhiên, Hà Bắc Trung Cơ bị loại ngay tại vòng tứ kết của Play-off bởi trận hòa chung cuộc trước câu lạc bộ Hồ Bắc Hoa Khải Nhĩ 1-1. Năm 2015 Hà Bắc Trung Cơ thuộc quyền sở hữu của tập đoàn có giàu có China Fortune Land Development và đổi tên thành Hà Bắc Hoa Hạ Hạnh Phúc (Hebei China Fortune). Câu lạc bộ nhanh chóng chiêu mộ các cầu thủ tên tuổi, gây chấn động thế giới như Ezequiel Lavezzi, Gervinho...Năm 2016, Hà Bắc Hoa Hạ Hạnh Phúc thăng hạng lên chơi ở giải vô địch quốc gia Trung Quốc | 1 | null |
Ivashka đến từ cung thiếu nhi (tiếng Nga: "Ивашка из Дворца пионеров") là một bộ phim hoạt hình vui nhộn của đạo diễn Gennady Sokolsky, trình chiếu lần đầu năm 1981.
Nội dung.
Baba-Yaga mở tiệc và sai đàn ngỗng bay tới cung thiếu nhi bắt cóc cậu bé Ivashka về với ý định biến cậu thành món ăn đãi khách. Mụ nhốt cậu bé trong tủ quần áo, nhưng lần lượt các vị khách Mèo Bayun, Koshchey, Rồng ba đầu bị cậu bé thông minh đánh bại. Cuối cùng, mụ phù thủy tuyệt vọng phải sai đàn ngỗng đưa cậu bé trở lại cung thiếu nhi. | 1 | null |
"Do What U Want" là bài hát của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Lady Gaga hợp tác cùng R.Kelly được trích từ album phòng thu thứ ba của cô, Artpop (2013). Bài hát được sáng tác bởi Lady Gaga, Paul "DJ White Shadow" Blair, R. Kelly, Martin Bresso, và William Grigahcine; nó được phát hành vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 trên Amazon. Bài hát được Blair giới thiệu với Gaga khoảng 2 năm trước và họ đã sửa đổi, phát triển nó cho đến năm 2013, lúc nó chính thức được đưa vào album Artpop sau khi thêm giọng hát của R.Kelly. Bài hát thuộc thể loại nhạc điện tử (electropop) và R&B. Sau khi phát hành, bài hát nhận được những đánh giá tích cực từ những nhà phê bình khi họ cho rằng nó chỉ đơn giản là bài hát được lấy cảm hứng từ âm nhạc những năm 1980. Bài hát leo lên vị trí thứ 9 BXH The Official UK Singles Chart, sau khi album phát hành.
Bê bối của R.Kelly.
Bộ phim tài liệu "Surviving R. Kelly (Sống sót khỏi R. Kelly)" với sáu phần của Lifetime phát hành từ ngày 3 - 5/1/2019, mô tả chi tiết những cáo buộc từ nhiều phụ nữ da màu về hành vi lạm dụng tình dục của R.Kelly. Thậm chí, có cả bé gái tuổi vị thành niên với sự bạo hành, tổn thương thể chất.
Hành vi của R.Kelly được thống kê trong suốt 20 năm mà chưa có phán xét và điều tra nào từ chính quyền. Khi sự thật được phơi bày, nam rapper hứng chịu chỉ trích và sự tẩy chay nặng nề từ công chúng và đã nhập viện sau một ngày công chiếu phim, và thường xuyên nhờ đến sự chăm sóc của bác sĩ tại nhà.
Khi dư luận bức xúc lên tiếng về hành vi lạm dụng tình dục của R.Kelly, Lady Gaga đã ra một tuyên bố cùng hành động thiết thực, nhằm ủng hộ khán giả chống lại hành vi phi đạo đức. Vì ca khúc Do What U Want là sản phẩm hợp tác giữa Gaga và Kelly, nữ ca sĩ đã gỡ bỏ sản phẩm sau những cáo buộc lạm dụng tình dục.
Lady Gaga chia sẻ: "Tôi đã tạo ra bài hát cùng anh ta vào thời điểm đen tối trong cuộc đời. Tôi nghĩ bản thân đã có những suy nghĩ sai lệch khi hợp tác cùng anh ta".
Đúng như lời hứa, ngày 10/1 (theo giờ địa phương), Do What U Want phiên bản góp giọng của R.Kelly hoàn toàn bị xóa sạch khỏi các trang Itunes, Spotify, Apple Music... Tuy nhiên, phiên bản kết hợp giữa Lady Gaga và Christina Aguilera vẫn được giữ lại.
Bản phối lại hợp tác với Christina Aguilera.
Một phiên bản phòng thu thay thế của "Do What U Want" có Christina Aguilera được phát hành vào ngày 1 tháng 1 năm 2014; nó đánh dấu sự hợp tác đầu tiên của Aguilera và Gaga. Bài hát được phát hành tại Hoa Kỳ, Canada và Mexico vào ngày 1 tháng 1 năm 2014 và một ngày sau đó thì phát hành trên toàn thế giới. Nhiều ngày trước đó, vào ngày 24 tháng 12 năm 2013, Aguilera đã tweet rằng cô ấy "đang làm việc gì đó đặc biệt" và đính kèm một hình ảnh cô ca hát trong một phòng thu. Buổi thu âm diễn ra trong phòng khách của nhà ca sĩ Carly Simon tại Martha's Vineyard, với sự hỗ trợ của nhà sản xuất tại Oak Bluffs, ông Jimmy Parr. Tuần tiếp theo, thông báo được đưa ra cho biết phiên bản phòng thu "Do What U Want" được phát hành, trong đó giọng hát gốc của Kelly được thay thế bởi phần trình bày bởi Aguilera.
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2014, Gaga đã tải lên bốn bản remix khác của phiên bản hát với Aguilera, tất cả được ủy quyền bởi Interscope và được mix bởi Steven Redant. Bản phối lại hợp tác với Aguilera nhận được đánh giá tốt từ các nhà phê bình âm nhạc; Melissa Locker từ tạp chí Time cảm thấy rằng phiên bản được thu âm lại của bản nhạc "sẽ giúp bán được nhiều bản nhạc hơn mà không gặp tình huống khó xử về đạo đức vì liên quan tới Kelly", rapper này trước đó đã bị buộc tội và được tha bổng vì tội danh liên quan nội dung khiêu dâm trẻ em vào những năm 2000, và nhà phê bình khen ngợi Gaga là một "nhà tiếp thị thông thái" vì đã phát hành "hai phiên bản của một bài hát hit với hai ngôi sao lớn khác nhau". | 1 | null |
là một thủ lĩnh thổ phỉ người dân tộc Tráng, người kế vị thủ lĩnh của cha mình là Ngô Lăng Vân trong vai trò Quốc vương của nhà nước Đình Lăng. Lực lượng thổ phỉ của Ngô Côn cướp bóc hoành hành ở vùng biên giới Đại Thanh - Đại Nam, về sau tan rã thành quân Cờ Đen, quân Cờ Trắng và quân Cờ Vàng hoạt động ở Bác Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19.
Thân thế.
Ngô Côn nguyên tên là Ngô Á Chung ("吴亚终", "吳亞終"), hay Ngô Á Trung ("吴亚忠"), còn gọi là Hòa Khanh, con trai trưởng của thủ lĩnh thổ phỉ người Tráng Ngô Lăng Vân.
Hoạt động ở Trung Quốc.
Khi Ngô Lăng Vân nổi dậy ở châu Tân Ninh, Ngô Á Chung theo cha đánh dẹp khắp nơi, gây dựng nhà nước Đình Lăng. Tháng 1 năm 1863, quân Thanh phản công, vây hãm căn cứ địa của cha con Ngô Á Chung tại căn cứ địa Lũng La. Ngô Lăng Vân đành để cho Ngô Á Chung ở lại Lũng La phòng thủ, còn mình chỉ huy quân sĩ mở đường máu thoát ra ngoài để tìm viện quân. Tuy nhiên, giữa đường Ngô Lăng Vân bị quân Thanh phục kích và bị tử thương. Sau khi Ngô Lăng Vân chết, tháng 2 năm đó, quân Thanh công phá căn cứ Lũng La, nhiều thủ lĩnh cao cấp của Đình Lăng bị
giết. Riêng Ngô Á Chung dốc sức tử chiến, mở đường máu thoát được.
Á Chung tiếp tục gây dựng lực lượng, ngược theo Hữu giang đến vùng Quy Thuận, núi Tam Đài, gầy dựng lại một lực lượng mới. Sau khi hội quân với một thủ lĩnh khác là Tiểu Trương Tam, Á Chung tiếp tục duy trì nhà nước Đình Lăng, xưng là Ngô vương. Các thủ lĩnh cũ của Ngô Lăng Vân cũng theo về lại như Hoàng Sùng Anh, Lưu Vĩnh Phúc... Thanh thế quân Đình Lăng mạnh trở lại, hoành hành vùng biên Quảng Tây. Thậm chí, Ngô Á Chung còn dẫn quân tràn sang biên giới Đại Nam, cướp bóc, thậm chí tập kích các đồn trại của quân Đại Nam tại 2 tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng.
Mãi đến tháng 6 năm 1868, quân Thanh dốc toàn lực tấn công lực lượng của Ngô Á Chung. Ngô Á Chung thất trận, kéo quân rút qua biên giới Đại Nam và chiếm đóng vùng Cao Bằng, mở rộng cả Lạng Sơn. Bấy giờ, nhà nước Đình Lăng xem như đã bị xóa sổ.
Tử trận tại Việt Nam.
Sang Đại Nam, Á Chung đổi tên thành Ngô Côn để tránh liên hệ quá khứ. Tuy nhiên, cả hai triều đình nhà Thanh và Đại Nam đều nhìn ra chân tướng sự việc, nhanh chóng thành lập liên quân Thanh - Việt dưới sự chỉ huy của Quảng Tây đề đốc Phùng Tử Tài tổ chức tiễu trừ. Giữa năm 1869, Ngô Á Chung tử thương. Theo sách "Thái Bình Thiên Quốc sử" thì Ngô Á Chung bị đã bị tử thương bởi liên quân Việt - Thanh tiêu diệt. Sử Việt viết là Ngô Á Chung bị quân Việt chỉ huy bởi Tổng đốc Bùi Tuấn và Tuần phủ Ông Ích Khiêm bắn chết tại Bắc Ninh.
Sau khi Ngô Côn chết, các cánh thổ phỉ tan rã. Tuy nhiên, quân Thanh nhanh chóng rút về nước và quân Đại Nam cũng không triệt để tiễu trừ, dẫn đến một số thủ lĩnh của Ngô Côn tập hợp lại thành quân Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành ở Bắc Việt Nam mãi cuối thập niên 1880 mới tạm yên. | 1 | null |
Nội dung khiêu dâm tại Nhật Bản là thị trường sản xuất, công chiếu, doanh thu, thị hiếu của công chúng Nhật Bản đối với những loại hình phim khiêu dâm cùng những dàn diễn viên nổi tiếng. Phim khiêu dâm ở Nhật đa dạng về thể loại, từ bukkake đến tamakeri. Phổ biến nhất trong loại hình này là phim người lớn Nhật Bản (; viết tắt: JAV). Nội dung khiêu dâm ở Nhật Bản có những đặc điểm độc đáo dễ phân biệt với nội dung khiêu dâm của phương Tây. Nội dung khiêu dâm đầu tiên là các tranh in trên khối gỗ có từ trước thế kỷ 20, kể từ đó nội dung khiêu dâm của Nhật Bản phát triển thành các danh mục phụ riêng biệt. Ngoài các video và tạp chí khiêu dâm, về sau có thêm truyện tranh khiêu dâm, trò chơi máy tính khiêu dâm và anime khiêu dâm (phim hoạt hình về hoạt động tình dục). Theo luật pháp Nhật Bản, bất kỳ nội dung khiêu dâm nào được sản xuất hợp pháp đều phải bị kiểm duyệt che mờ bộ phận sinh dục của diễn viên, cả nam lẫn nữ và điều này kéo dài cho đến giữa những năm 1990. Việc che mờ bao gồm truyện tranh hentai, trò chơi điện tử và anime.
Thực trạng.
Phim JAV của Nhật Bản đạt số lượng rất lớn trong làng giải trí thế giới, chúng chiếm tới 20% doanh thu bán hàng trên thế giới với hàng tỉ USD và đang tăng trưởng đều đặn qua từng năm. Năm 2012, số lượng các đầu sản phẩm phim cấp 3 chính thức được phát hành tại Nhật Bản ước tính vào khoảng 20.000 bản, cùng với những sản phẩm trực tuyến hoặc bất hợp pháp khác thì lên đến 35.000 (trung bình mỗi ngày có 100 sản phẩm phim cấp 3).
Diễn viên.
Nhật Bản cấm nghề mại dâm nhưng lại hợp thức hóa ngành công nghiệp phim đen, ở Nhật có 34 công ty sản xuất phim. Vì tiền và vì muốn thể hiện mình trong xã hội khắc nghiệt, hàng nghìn cô gái trẻ đã bị thu hút để tham gia vào ngành JAV. Tại Nhật, những rủi ro về bệnh qua đường tình dục cũng là rất thấp vì các diễn viên sẽ phải kiểm tra sức khỏe trước khi đóng phim.
Trình độ học vấn thậm chí cũng trở thành yếu tố quan trọng để tuyển chọn diễn viên. Những cô gái tốt nghiệp ở trường đại học danh tiếng, những người có bằng sư phạm, y tá...dễ gia nhập ngành hơn. Có khoảng 6.000 cái tên mới ra mắt loại hình này mỗi năm. Cát-sê mỗi ngày diễn của các nữ diễn viên dao động ở khoảng 300 USD cao hơn con số có thể đạt đến 600 USD cho một ngày.
Cứ 200 phụ nữ Nhật lại có một người từng xuất hiện trong phim khiêu dâm, một số liệu khác cho thấy có hơn 10.000 người nữ từ đủ mọi tầng lớp tham gia đóng phim đen tại Nhật Bản. Hiện ở Nhật đã có khoảng hơn 10.000 nữ diễn viên tham gia vào ngành công nghiệp phim người lớn với việc tham gia sản xuất khoảng 4.500 đầu phim một tháng.
Tuy vậy, chỉ có khoảng 70 nam diễn viên đóng phim đen. Trung bình 70 người đàn ông phục vụ cho 10.000 người phụ nữ. Thậm chí diễn viên cao tuổi nhất cũng ngoài 65. Việc tìm kiếm nam diễn viên AV rất khó khăn, họ có thể nhận từ 50.000 Yên (~ 11 triệu VND) đến 100.000 Yên cho một ngày diễn, tùy vào đẳng cấp được thừa nhận của họ. Những người này cần đảm bảo có cơ thể cường tráng và dẻo dai. | 1 | null |
Sabra là một loại xe tăng do tập đoàn Israel Military Industries (viết tắt IMI hay Taas) của Israel phát triển tại Nhà máy sản xuất vũ khí hạng năng Slavin ở Ramat Hasharon; loại tăng này thực ra là một phiên bản hiện đại hóa sâu rộng của xe tăng M60 Patton. Do hiện đại hóa sâu, Sabra có bề ngoài giống Merkava hơn là M60 của Mỹ, với các cạnh nhọn và trông có vẻ đường nét hơn. Các bề mặt có độ dốc lớn hơn giúp cải thiện đáng kể khả năng bảo vệ của xe tăng. Sabra có một hệ thống vũ khí mạnh mẽ và chính xác hơn, động cơ nhanh, mạnh hơn, khả năng bảo vệ của lớp giáp, và khả năng chiến đấu của toàn bộ xe tăng cũng tốt hơn nhiều so với phiên bản M60 nguyên thủy.
Mô tả.
Đầu thập niên 2000, Bộ quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ đã tổ chức đấu thầu gói nâng cấp cho lực lượng M60A3 đã cũ đang có trong trang bị. Một đề nghị hiện đại hóa M60 dưới cái tên M60 2000 đã được General Dynamics Land Systems, Hoa Kỳ đưa ra với quân đội Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, cuối cùng, Thổ Nhĩ Kỳ đã lựa chọn phương án Sabra Mk.II của tập đoàn IMI, Israel cho chương trình này, một hợp đồng nâng cấp trị giá 688 triệu Đô la Mỹ đã được hai bên ký kết vào ngày 29 tháng 3 năm 2002. Chiếc Sabra Mk.II đầu tiên được thử nghiệm ở Thổ Nhĩ Kỳ tháng 10 năm 2005 và vượt qua các đợt sát hạch sau cùng vào tháng 5 năm 2006. Tổng cộng đã có 170 chiếc M60 được nâng cấp lên chuẩn Sabra Mk.II từ năm 2007 đến tháng 4 năm 2009, thực hiện bởi Bộ Chỉ huy Trung tâm Bảo trì số 2 của Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ và sử dụng các linh kiện do IMI cung cấp.
Sabra có trọng lượng chiến đấu 55 tấn, chiều dài xe (kể cả nòng súng hướng về phía trước) 9,4 m, chiều rộng khi chưa lắp vỏ giáp 3,63 m, chiều cao 3,05 m.
Cũng như nguyên mẫu Patton, kíp chiến đấu của Sabra bao gồm bốn người: lái xe, chỉ huy trưởng, xạ thủ và người nạp đạn.
Hệ thống vũ khí.
Vũ khí chính của Sabra là pháo 120mm tương tự như loại pháo được phát triển bởi IMI cho xe tăng chiến đấu chủ lực Merkava Mk.III. Pháo được gắn thiết bị cản khói thuốc tràn ngược về tháp pháo và ốp lót cách nhiệt để tối đa hóa xác suất đợt bắn đầu tiên bằng cách giảm biến dạng do nhiệt gây ra. Xe tăng mang được 42 viên đạn. Pháo 120mm có tầm bắn xa hơn và độ xuyên tốt hơn so với pháo 105mm. Nó có thể bắn được tất cả các loại đạn 120mm của NATO, bao gồm cả đạn thanh xuyên động năng có guốc ốp nòng. Ngoài ra, xe còn được lắp thêm thiết bị ảnh nhiệt và hệ thống điều khiển bắn có khả năng bắn chính xác trong khi xe đang hành tiến.
Pháo 120mm được điều chỉnh phù hợp với các kích cỡ tháp pháo nhỏ hơn. Tháp pháo nâng cấp và có hệ thống bảo vệ nhằm tăng cường khả năng chịu đựng trước sự phá huỷ của các loại đạn hoả tiễn đối phương.
Ngoài pháo chính 120 mm và súng máy 12,7 mm gắn trên tháp chỉ huy (đối với các biến thể Mk II, Mk III), súng máy đồng trục 7,62mm hoặc 5,56mm gắn bên ngoài. Sabra còn trang bị được súng cối 60mm phát triển bởi Soitam (trụ sở đặt tại Haifa) để chống máy bay và để tự vệ.
Hệ thống điều khiển hỏa lực.
Hệ thống điều khiển lai của tháp pháo bao gồm hệ thống nâng pháo bằng thủy lực và hệ thống quay tháp pháo bằng điện. Sabra trang bị hệ thống điều khiển hoả lực kỹ thuật số Knight, được cung cấp bởi công tyEl-Op (Electro-Optics) Industries Ltd ở Rehovot và Elbit Systems ở Haifa. Hệ thống điều khiển hỏa lực được tích hợp vào điều khiển tháp pháo và chủ động kiểm soát các động lực tháp pháo. Hệ thống ổn hướng cho kính ngắm giúp tăng tình ổn định và khả năng bắn chính xác cho pháo chính khi đứng yên hoặc di chuyển. Hệ thống có 4 chế độ: chế độ ổn định với trục súng lệ thuộc vào đường ngắm, chế độ phụ thuộc khi đường ngắm của xạ thủ phụ thuộc vào trục súng, chế độ không ổn định và chế độ hỗ trợ sử dụng bằng tay trong trường hợp khẩn cấp.
Pháo chính có thể khai hoả từ xạ thủ hoặc trưởng xa. Vị trí của xạ thủ gắn kính tiềm vọng của EL-OP với hệ số phóng đại x8 vào ban ngày và x5.3 vào ban đêm. Kính ngắm được ổn hướng 2 trục. Hệ thống đo xa laser Nd:YAG không gây hại cho mắt hoạt động trong phạm vi từ 200-9995 mét với độ chính xác -/+5 mét.
Hệ thống bảo vệ.
Sabra được trang bị giáp phản ứng nổ và phòng hộ tích cực có cấu trúc module. Các module giáp này có thể thay đổi tùy thuộc vào tình hình chiến đấu và các mối đe dọa tiềm năng.
Khi đạn, nhiên liệu phát nổ, bốc cháy, cửa phòng chống cháy nổ tự động mở, để giải phóng áp suất nổ ra ngoài. Sabra sử dụng hệ thống chữa cháy tự động tiên tiến có thể dập tắt đám cháy trong xe trong thời gian ngắn, đảm bảo an toàn cho kíp lái.
Ngoài ra, xe tăng còn được trang bị 8 ống phóng lựu đạn khói ở trên tháp chỉ huy, hai bên pháo chính. Các ống phóng lựu có tác dụng tạo ra màn khói ngụy trang, giúp xe tăng có thể lẩn trốn sau khi thực hiện nhiệm vụ, làm giảm hiệu quả của các thiết bị phát hiện quang hồng, quang điện tử, hồng ngoại, laser…, góp phần bảo vệ xe tăng trước sự tấn công của đối phương.
Khả năng cơ động.
Động cơ của Sabra là động cơ diesel 4 kỳ làm mát bằng không khí General Dynamics AVDS-1790-5A, công suất 908 mã lực với tốc độ vòng quay là 2.400 vòng/ phút. Tỉ lệ giữa mã lực và tấn là 16.5 mã lực/ tấn.
Các bộ bánh di chuyển được nâng cấp cho khả năng đạt tốc độ cao và khả năng vượt hào, vượt dốc, vượt vách đứng, lội ngầm tốt hơn. 6 bánh lăn có hệ thống treo thanh xoắn, bộ giảm chấn piston, 3 bộ giảm xóc piston ở mỗi bên và xích guốc thép.
Tốc độ tối đa của Sabra là 48 km/h, nó có thể tăng tốc từ 0–32 km/h trong vòng 9.6 giây. Tầm hoạt động trên đường ghồ ghề là 450 km. Xe tăng có thể vượt dốc 60% và đi dốc nghiêng tới 30%, vượt hào rộng 2.6m và tường cao 0.91m. Khi không chuẩn bị, nó có thể lội nước sâu 1.4m, có chuẩn bị thì lội sâu 2.4m.
Các phiên bản.
Sabra Mk.I: Đây là phiên bản nâng cấp của MGH 7 Phiên bản này có tháp chỉ huy hình vòm, thấp hơn, được trang bị hệ truyền động Allison CD850-6BX và động cơ diesel Continental AVDS 1790-5A.Sabra Mk.I được tích hợp pháo chính 120mm MG253 do IMI thiết kế, vỏ giáp được cải tiến và hệ thống điều khiển bắn Knight sản xuất bởi Elbit Systems.
Sabra Mk.II / M60T: Trong khi Mk.I sử dụng tháp pháo thấp thì Mk.II mang tháp pháo cao và lớn kiểu M19 truyền thống của M60 cũ, cùng với đại liên 12,7 ly M85 thường thấy trên các xe tăng M60 của Thổ Nhĩ Kỳ. Sabra Mk.II cũng sử dụng hệ thống ngắm nhiệt độc lập dành cho trưởng xe ("Commander's Independent Thermal Viewer" - CITV). Mk.II cũng sử dụng động cơ MTU Friedrichshafen mạnh hơn mà Thổ Nhĩ Kỳ đã mua bản quyền chế tạo (MTU Turk A.S.), hệ thống truyền động Renk với 4 số tiến và 2 số lùi và giáp phản ứng nổ thế hệ mới thay vì sử dụng giáp thụ động, có thể thay thế nếu bị hư hỏng. Phiên bản Mk.II do Bộ Chỉ huy Trung tâm Bảo trì số 2 của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành nâng cấp và sử dụng các linh kiện của IMI. Thổ Nhĩ Kỳ đã mua bản quyền chế tạo và sản xuất tất cả các hệ thống của Sabra trừ vỏ giáp. Sabra Mk.II có thể chứa 500 lít nhiên liệu diesel.
Sabra Mk.III: Sabra Mk.III được trang bị thêm một súng máy điều khiển từ xa, giáp phản ứng nổ, hệ thống kiểm soát hỏa lực, hệ thống cảnh báo RWR/hồng ngoại và dàn bánh xích thiết kế theo kiểu của Merkava Mk.IV. Các xe tăng này cũng sử dụng động cơ diesel của Đức trang bị trên Sabra Mk II. | 1 | null |
Danh sách các quốc gia châu Á theo GDP trên người 2009 là bảng thống kê về GDP trên người 2009 của 51 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á. Ngoài 47 quốc gia độc lập, là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn có các vùng lãnh thổ khác như: Hong Kong, Ma Cao, Đài Loan, Bắc Síp và Palestine. Trong danh sách này, Qatar là quốc gia có thu nhập bình quân trên người cao nhất châu Á, với 59.990 USD/người, tiếp sau là Nhật Bản với 39.740 USD/người, Singapore với 36.379 USD người. Quốc gia có thu nhập bình quân trên người thấp nhất châu Á năm 2009 là Nepal chỉ có 462 USD/người, xếp áp chót là Đông Timor với 499 USD/người.
Bảng thống kê được trích số liệu từ nguồn GDP trên người 2009 của Quỹ tiền tệ Quốc tế-IMF, những lãnh thổ hay quốc gia không được IMF thống kê, được bổ sung từ các nguồn Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới-WB hay CIA Facebook. | 1 | null |
Basitien und Bastienne (tiếng Việt: Bastien và Bastienne) là một trong những vở opera đầu tiên của nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Vở opera này được Mozart viết vào năm 1768 theo yêu cầu của một vị bác sĩ. Khi ấy, Mozart mới chỉ có 12 tuổi. Điều đó chứng tỏ rằng Mozart là một thần đồng về âm nhạc. Điều thú vị của vở opera này là phần mở đầu của vở opera này lại là chủ đề cho chương đầu của bản giao hưởng số 3 của Ludwig van Beethoven. Và càng đáng nói hơn là cả hai phần mở đầu của cả hai tác phẩm này lại có công năng đệm hoàn toàn giống nhau. Có thể Beethoven đã "đạo nhạc". | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.