text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
La fille du régiment (tiếng Việt: Con gái trung đoàn) là vở opera 2 màn của nhà soạn nhạc người Ý Gaetano Donizetti. Những người viết lời cho tác phẩm gồm V. de Saint Georges và Bayard. Được trình diễn lần đầu tiên tại thủ đô Paris của Pháp vào năm 1840.
1
null
Orfeo ed Euridice (tiếng Việt: Orpheus và Eurydice) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Đức Christoph Willibald Gluck. Người viết lời cho vở opera này là Calzabigi. Để viết được lời, Calzabigi đã dựa vào cốt truyện của một câu chuyện thần thoại. Vở opera này được trình diễn lần đầu tiên tại thành phố Viên, Áo vào năm 1762.
1
null
Alceste là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Đức Christoph Willibald Gluck. Người viết lời cho vở opera này là Calzabigi. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại thủ đô Viên của Áo vào năm 1767. Sau đó, Du Rollet là người viết tiếng Pháp cho tác phẩm và được Gluck đích thân duyệt lại. Bản này được trình diễn lần đầu tiên tại Paris, Pháp vào năm 1776. Lời tựa cho tổng phổ của vở opera này có những tuyên bố nổi tiếng của Gluck về những yêu cầu đối với ca kịch. Và những tuyên bố này đã góp phần đưa Gluck trở thành một trong những nhà cải cách opera vĩ đại nhất. Làm theo những lời tuyên bố đó, Gluck đã làm thay đổi cả nền opera Đức và có ảnh hưởng sâu sắc đến nền opera châu Âu. Ông có ảnh hưởng không nhỏ đến các nhà soạn nhạc opera sau này như Wolfgang Amadeus Mozart, Hector Berlioz.
1
null
Iphigénie en Tauride (tiếng Việt: Iphigénie ở Tauride) là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Đức Christoph Willibald Gluck. Tác giả lời hát của vở opera là Nicolas-François Guillard. Lời hát được viết dựa theo vở kịch của G. de la Touche. Tác phẩm của Gluck được trình diễn lần đầu tiên tại Paris vào năm 1778.
1
null
Xử lý nước thải (hoặc xử lý nước thải sinh hoạt, xử lý nước thải đô thị) là một loại xử lý nước thải nhằm loại bỏ chất ô nhiễm từ nước thải để tạo ra một chất thải lỏng phù hợp để xả ra môi trường xung quanh hoặc ứng dụng tái sử dụng dự định, do đó ngăn chặn ô nhiễm nước từ việc xả nước thải nguyên chất. Nước thải chứa nước thải từ các hộ gia đình và doanh nghiệp và có thể đã được xử lý sơ bộ xử lý nước thải công nghiệp. Có rất nhiều quy trình xử lý nước thải để lựa chọn. Những quy trình này có thể từ hệ thống nước thải phân tán (bao gồm các hệ thống xử lý tại chỗ) đến các hệ thống trung tâm lớn bao gồm một mạng lưới ống dẫn và trạm bơm (gọi là hệ thống cấp thoát nước) để dẫn nước thải đến nhà máy xử lý. Đối với các thành phố có hệ thống thoát nước tổng hợp, các cống rãnh cũng sẽ dẫn dòng chảy đô thị (nước mưa) đến nhà máy xử lý nước thải. Quá trình xử lý nước thải thường bao gồm hai giai đoạn chính, được gọi là giai đoạn sơ cấp và xử lý thứ cấp, trong khi xử lý nâng cao cũng bao gồm một giai đoạn xử lý thứ ba với các quy trình đánh bóng và loại bỏ dưỡng chất. Xử lý thứ cấp có thể giảm chất hữu cơ (được đo bằng nhu cầu oxy hóa sinh học) từ nước thải, sử dụng quá trình sinh học dưới điều kiện có oxy hoặc không có oxy. Một số lượng lớn các công nghệ xử lý nước thải đã được phát triển, chủ yếu sử dụng các quy trình xử lý sinh học. Các kỹ sư thiết kế và người ra quyết định cần xem xét tiêu chí kỹ thuật và kinh tế của mỗi phương án khi lựa chọn công nghệ phù hợp. Thường thì, tiêu chí chính để lựa chọn là: chất lượng chất thải mong muốn, chi phí xây dựng và vận hành dự kiến, diện tích đất có sẵn, nhu cầu năng lượng và các khía cạnh bền vững. Ở các nước đang phát triển và ở các khu vực nông thôn với mật độ dân số thấp, nước thải thường được xử lý bởi các hệ thống vệ sinh tại chỗ và không được dẫn đi qua hệ thống cống rãnh. Những hệ thống này bao gồm bể phốt kết nối với cánh đồng thải, các hệ thống xử lý nước thải tại chỗ (OSS), hệ thống vermifilter và nhiều hơn nữa. Mặt khác, nhà máy xử lý nước thải tiên tiến và tương đối đắt đỏ ở các thành phố có thể mua chúng có thể bao gồm xử lý cấp ba với khử trùng và có thể thậm chí có một giai đoạn xử lý thứ tư để loại bỏ các chất ô nhiễm vi mô. Ở cấp độ toàn cầu, ước tính có 52% nước thải được xử lý. Tuy nhiên, tỷ lệ xử lý nước thải rất không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới. Ví dụ, trong khi các quốc gia thu nhập cao xử lý khoảng 74% nước thải của họ, các quốc gia đang phát triển chỉ xử lý trung bình 4,2%. Việc xử lý nước thải là một phần của lĩnh vực vệ sinh. Vệ sinh cũng bao gồm việc quản lý phân người và chất thải rắn cũng như quản lý nước mưa (thoát nước). Thuật ngữ "nhà máy xử lý nước thải" thường được sử dụng đồng nghĩa với thuật ngữ "nhà máy xử lý nước thải". Thuật ngữ. Thuật ngữ "nhà máy xử lý nước thải" (STP) (hoặc "công trình xử lý nước thải") ngày nay thường được thay thế bằng thuật ngữ "nhà máy xử lý nước thải" (WWTP). Nói chính xác, thuật ngữ sau là một thuật ngữ rộng hơn có thể cũng chỉ đến xử lý nước thải công nghiệp. Các thuật ngữ "trung tâm tái chế nước" hoặc "nhà máy tái sinh nước" cũng được sử dụng như những từ đồng nghĩa. Đặc điểm nước thải. Các giá trị tiêu chuẩn cho các đặc tính vật lý-hóa học của nước thải thô ở các Quốc gia đang phát triển đã được công bố như sau: 180 g/người/ngày cho chất rắn tổng số (hoặc 1100 mg/L khi biểu thị dưới dạng nồng độ), 50 g/người/ngày cho BOD (300 mg/L), 100 g/người/ngày cho COD (600 mg/L), 8 g/người/ngày cho nitơ tổng số (45 mg/L), 4.5 g/người/ngày cho amoniac-N (25 mg/L) và 1.0 g/người/ngày cho phốt pho tổng số (7 mg/L). Phạm vi tiêu chuẩn cho các giá trị này là: 120–220 g/người/ngày cho chất rắn tổng số (hoặc 700–1350 mg/L khi biểu thị dưới dạng nồng độ), 40–60 g/người/ngày cho BOD (250–400 mg/L), 80–120 g/người/ngày cho COD (450–800 mg/L), 6–10 g/người/ngày cho nitơ tổng số (35–60 mg/L), 3.5–6 g/người/ngày cho amoniac-N (20–35 mg/L) và 0.7–2.5 g/người/ngày cho phốt pho tổng số (4–15 mg/L). Đối với các quốc gia có thu nhập cao, "lượng chất hữu cơ mỗi người" đã được tìm thấy là khoảng 60 gram BOD mỗi người mỗi ngày. Điều này được gọi là số dân tương đương (PE) và cũng được sử dụng như một tham số so sánh để biểu thị độ mạnh của xử lý nước thải công nghiệp so với nước thải. Lịch sử. Lịch sử của việc xử lý nước thải có những phát triển sau: Bắt đầu với việc sử dụng đất (trang trại nước thải) vào những năm 1840 ở Anh, tiếp theo là việc xử lý hóa học và làm rắn nước thải trong các bể, sau đó là việc xử lý sinh học vào cuối thế kỷ 19, dẫn đến sự phát triển của quá trình bùn hoạt tính bắt đầu từ năm 1912. Cho đến cuối thế kỷ 19, mới có khả năng xử lý nước thải bằng cách phân giải sinh học các thành phần hữu cơ thông qua việc sử dụng vi sinh vật và loại bỏ chất ô nhiễm. Việc xử lý trên đất cũng dần trở nên không khả thi, khi các thành phố phát triển và khối lượng nước thải sản xuất không thể tiếp tục được hấp thụ bởi các cánh đồng ngoại ô. Edward Frankland đã tiến hành thí nghiệm tại trang trại xử lý nước thải ở Croydon, Anh, trong thập kỷ 1870 và đã chứng minh được rằng việc lọc nước thải thông qua đá cuội có thể tạo ra một chất thải lỏng đã được nitrat hóa (ammonia đã được chuyển đổi thành nitrat) và bộ lọc không bị tắc nghẽn trong thời gian dài. Điều này đã khẳng định khả năng cách mạng lúc bấy giờ là việc xử lý sinh học nước thải bằng cách sử dụng giường liên hệ để oxy hóa chất thải. Khái niệm này đã được chấp nhận bởi hóa sĩ trưởng cho Metropolitan Board of Works London, William Libdin, vào năm 1887: Từ năm 1885 đến 1891, các bộ lọc hoạt động theo nguyên lý này đã được xây dựng trên khắp Vương quốc Anh và ý tưởng này cũng được áp dụng tại Lawrence Experiment Station ở Massachusetts, Hoa Kỳ, nơi công trình của Frankland được xác nhận. Năm 1890, LES đã phát triển một 'bộ lọc nhỏ giọt' mang lại hiệu suất hoạt động đáng tin cậy hơn nhiều. Giường liên hệ đã được phát triển ở Salford, Lancashire và bởi các nhà khoa học làm việc cho Hội đồng Thành phố London vào đầu những năm 1890. Theo Christopher Hamlin, đây là một phần của cuộc cách mạng khái niệm thay thế cho triết lý xem "sự tinh khiết hóa nước thải là việc ngăn chặn sự phân hủy bằng một cách thức cố gắng tạo điều kiện cho quá trình sinh học tự nhiên phá hủy nước thải." Giường liên hệ là những thùng chứa chất không hoạt động, như đá hoặc đá phiến, nhằm tối đa hóa diện tích có sẵn cho sự sinh trưởng vi khuẩn để phân giải nước thải. Nước thải được giữ trong thùng cho đến khi nó hoàn toàn bị phân hủy và sau đó nó được lọc ra mặt đất. Phương pháp này nhanh chóng trở nên phổ biến, đặc biệt là tại Vương quốc Anh, nơi nó được sử dụng ở Leicester, Sheffield, Manchester và Leeds. Giường vi khuẩn cũng được phát triển đồng thời bởi Joseph Corbett khi là Kỹ sư Thành phố tại Salford và các thí nghiệm vào năm 1905 cho thấy phương pháp của ông vượt trội hơn vì có thể lọc sạch được khối lượng nước thải lớn hơn trong thời gian dài hơn so với giường liên hệ. Ủy ban Hoàng gia về Xử lý Nước Thải đã công bố báo cáo thứ tám của mình vào năm 1912 đặt ra những tiêu chuẩn trở thành tiêu chuẩn quốc tế cho việc xả nước thải vào sông; tiêu chuẩn '20:30', cho phép "2 phần trên trăm nghìn" của Nhu cầu oxy hóa hóa sinh và "3 phần trên trăm nghìn" của chất rắn lơ lửng. Mục đích và tổng quan. Mục tiêu tổng thể của việc xử lý nước thải là tạo ra một chất thải lỏng có thể được thải ra môi trường trong khi gây ra ít ô nhiễm nước nhất có thể, hoặc để tạo ra một chất thải lỏng có thể được tái sử dụng một cách hữu ích. Điều này được thực hiện bằng cách loại bỏ các chất ô nhiễm từ nước thải. Đây là một hình thức của quản lý chất thải. Đối với việc xử lý sinh học nước thải, các mục tiêu xử lý có thể bao gồm các mức độ khác nhau của những điều sau: biến đổi hoặc loại bỏ chất hữu cơ, chất dinh dưỡng (nitơ và phốt pho), các loại vi sinh vật gây bệnh, và các thành phần hữu cơ vi lượng cụ thể (vi chất ô nhiễm). Một số loại xử lý nước thải tạo ra bùn thải có thể được xử lý trước khi an toàn loại bỏ hoặc tái sử dụng. Trong một số trường hợp, bùn thải đã được xử lý có thể được gọi là "chất rắn sinh học" và có thể được sử dụng như một loại phân bón. Tình hình toàn cầu. Trước thế kỷ 20 ở châu Âu, các hệ thống cống thường đổ ra một cơ thể nước như sông, hồ, hoặc đại dương. Không có việc xử lý, vì vậy việc phân giải chất thải con người được để cho hệ sinh thái. Điều này có thể dẫn đến kết quả khá tốt nếu khả năng hấp thụ của hệ sinh thái đủ mạnh, điều mà ngày nay thường không thường xuyên xảy ra do mật độ dân số tăng lên. Ngày nay, tình hình ở các khu vực đô thị của các nước công nghiệp thường là hệ thống cống đưa nội dung của chúng đến nhà máy xử lý nước thải thay vì trực tiếp đến một cơ thể nước. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia đang phát triển, phần lớn nước thải đô thị và công nghiệp được thải vào sông và đại dương mà không hề được xử lý hoặc chỉ sau khi được xử lý sơ bộ hoặc xử lý chính. Việc làm như vậy có thể dẫn đến ô nhiễm nước. Hiếm có con số tin cậy về tỷ lệ nước thải thu thập trong hệ thống cống mà được xử lý trên thế giới. Một ước tính toàn cầu của UNDP và UN-Habitat vào năm 2010 là 90% tất cả nước thải được tạo ra đều được thải vào môi trường mà không hề được xử lý. Một nghiên cứu gần đây hơn vào năm 2021 ước tính rằng trên toàn cầu, khoảng 52% nước thải được xử lý. Tuy nhiên, tỷ lệ xử lý nước thải rất không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới. Ví dụ, trong khi các quốc gia có thu nhập cao xử lý khoảng 74% lượng nước thải của họ, các quốc gia đang phát triển chỉ xử lý trung bình khoảng 4,2%. Tính đến năm 2022, mà không có việc xử lý đầy đủ, hơn 80% tất cả nước thải được tạo ra trên toàn cầu được thải ra môi trường. Các quốc gia có thu nhập cao xử lý, trung bình, 70% lượng nước thải mà họ sản xuất, theo UN Water. Chỉ có 8% nước thải sản xuất ở các quốc gia có thu nhập thấp nhận được bất kỳ loại hình xử lý nào. Chương trình Giám sát chung (JMP) cho Cung cấp Nước và Vệ sinh của WHO và UNICEF báo cáo vào năm 2021 rằng 82% số người có kết nối với hệ thống thoát nước được kết nối với các nhà máy xử lý nước thải cung cấp ít nhất xử lý cấp hai.Tuy nhiên, giá trị này thay đổi rất nhiều giữa các khu vực. Ví dụ, ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Bắc Phi và Tây Á, tổng cộng 31 quốc gia có hệ thống xử lý nước thải toàn diện (> 99%). Tuy nhiên, ở Albania, Bermuda, Bắc Macedonia và Serbia "ít hơn 50% nước thải thông qua hệ thống thoát nước nhận được xử lý cấp hai hoặc tốt hơn" và ở Algeria, Lebanon và Libya, chỉ có ít hơn 20% nước thải thông qua hệ thống thoát nước được xử lý. Báo cáo cũng phát hiện rằng "toàn cầu, 594 triệu người có kết nối đường ống thoát nước không nhận được xử lý đầy đủ. Nhiều người khác được kết nối với các nhà máy xử lý nước thải không cung cấp xử lý hiệu quả hoặc tuân thủ yêu cầu về chất thải.". Mục tiêu toàn cầu. Mục tiêu Phát triển Bền vững 6 có Mục tiêu 6.3 được đặt ra như sau: "Đến năm 2030, cải thiện chất lượng nước bằng cách giảm ô nhiễm, loại bỏ việc đổ rác và giảm thiểu việc thải ra các chất hóa học và vật liệu nguy hiểm, giảm một nửa tỷ lệ nước thải chưa được xử lý và tăng mạnh việc tái chế và tái sử dụng an toàn toàn cầu." Chỉ số tương ứng 6.3.1 là "tỷ lệ nước thải được xử lý an toàn". Dự kiến sản lượng nước thải sẽ tăng 24% vào năm 2030 và tăng 51% vào năm 2050. Dữ liệu vào năm 2020 cho thấy vẫn còn quá nhiều nước thải gia đình chưa được thu gom: Chỉ 66% tổng lượng nước thải gia đình đã được thu gom tại các cơ sở xử lý vào năm 2020 (điều này được xác định từ dữ liệu từ 128 quốc gia). Dựa trên dữ liệu từ 42 quốc gia vào năm 2015, báo cáo nói rằng "32% tổng lượng nước thải từ các nguồn cố định đã nhận được ít nhất một số xử lý". Đối với nước thải đã thực sự được thu gom tại các nhà máy xử lý nước thải trung tâm, khoảng 79% đã được xử lý an toàn vào năm 2020. Tác động môi trường. Các nhà máy xử lý nước thải có thể có ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng sinh vật của các vùng nước tiếp nhận và có thể gây ra một số ô nhiễm nước, đặc biệt nếu quy trình xử lý được sử dụng chỉ là cơ bản. Ví dụ, đối với các nhà máy xử lý nước thải không loại bỏ chất dinh dưỡng, ô nhiễm do dinh dưỡng quá mức của các vùng nước tiếp nhận có thể là một vấn đề. Ô nhiễm nước là sự ô nhiễm các cơ thể nước, thường là kết quả của các hoạt động của con người, khiến nó ảnh hưởng tiêu cực đến các mục đích sử dụng của nó. Các cơ thể nước bao gồm hồ, sông, đại dương, tầng nước ngầm, hồ chứa nước và nước ngầm. Ô nhiễm nước xảy ra khi các chất ô nhiễm trộn với những cơ thể nước này. Chất ô nhiễm có thể đến từ một trong bốn nguồn chính: thải nước thải, hoạt động công nghiệp, hoạt động nông nghiệp, và dòng chảy đô thị bao gồm nước chảy dọc mặt đất. Ô nhiễm nước hoặc là ô nhiễm nước mặt hoặc ô nhiễm nước ngầm. Hình thức ô nhiễm này có thể dẫn đến nhiều vấn đề, như phá hủy môi trường của hệ sinh thái thuỷ sinh hoặc lây lan bệnh truyền qua nước khi mọi người sử dụng nước bị ô nhiễm để uống hoặc tưới tiêu. Một vấn đề khác là ô nhiễm nước giảm các dịch vụ hệ sinh thái (như cung cấp nước uống) mà nguồn tài nguyên nước sẽ cung cấp. Tái sử dụng. Tưới tiêu. Ngày càng nhiều người sử dụng nước thải đã qua xử lý hoặc thậm chí chưa qua xử lý để tưới tiêu các cây trồng. Các thành phố cung cấp thị trường lợi nhuận cho nông sản tươi, do đó rất thu hút đối với những người nông dân. Bởi vì nông nghiệp phải cạnh tranh với ngành công nghiệp và người dùng đô thị về nguồn nước ngày càng khan hiếm, thường không còn cách nào khác cho những người nông dân ngoài việc sử dụng trực tiếp nước bị ô nhiễm bởi nước thải để tưới cây trồng của họ. Việc sử dụng nước chứa đầy mầm bệnh theo cách này có thể gây ra nguy cơ sức khỏe đáng kể. Tổ chức Y tế Thế giới đã phát triển các hướng dẫn cho việc sử dụng an toàn nước thải vào năm 2006. Họ ủng hộ một phương pháp 'nhiều rào cản' đối với việc sử dụng nước thải, nơi người nông dân được khuyến khích thực hiện các hành vi giảm rủi ro khác nhau. Các biện pháp này bao gồm dừng tưới tiêu vài ngày trước khi thu hoạch để cho phép mầm bệnh chết dưới ánh nắng mặt trời, tưới nước một cách cẩn thận để không làm ô nhiễm lá cây có thể sẽ được ăn sống, rửa rau bằng chất khử trùng hoặc để phân bùn sử dụng trong nông nghiệp khô trước khi được sử dụng như phân người. Nước tái chế. Nước tái chế là quá trình chuyển đổi Nước thải đô thị (nước thải) hoặc Xử lý nước thải công nghiệp thành nước có thể được tái sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Các loại tái sử dụng bao gồm: tái sử dụng đô thị, tái sử dụng nông nghiệp (tưới tiêu), tái sử dụng môi trường, tái sử dụng công nghiệp, tái sử dụng nước uống dự định, tái sử dụng nước thải de facto (tái sử dụng nước uống không dự định). Ví dụ, tái sử dụng có thể bao gồm tưới tiêu vườn và đồng ruộng nông nghiệp hoặc bổ sung nước mặt và nước ngầm (nghĩa là, tái nạp nước ngầm). Nước tái sử dụng cũng có thể được hướng đến việc đáp ứng các nhu cầu nhất định trong nhà ở (ví dụ: xả toilet), doanh nghiệp và công nghiệp, và thậm chí có thể được xử lý để đạt tiêu chuẩn nước uống. Việc tiêm nước tái chế vào hệ thống phân phối cung cấp nước được gọi là tái sử dụng nước uống trực tiếp, tuy nhiên, việc uống nước tái chế không phải là một thực hành thông thường. Việc tái sử dụng nước thải sau khi xử lý của đô thị cho tưới tiêu là một thực hành đã được thiết lập từ lâu, đặc biệt ở các nước khô hạn, máng xối. Việc tái sử dụng nước thải như một phần của quản lý nước bền vững cho phép nước tiếp tục là một nguồn nước thay thế cho các hoạt động con người. Điều này có thể giảm khan hiếm nước và giảm áp lực trên nước ngầm và các hệ thống nước tự nhiên khác. Theo quốc gia. Tại Châu Âu. Tại Liên minh Châu Âu, 0,8% tổng năng lượng tiêu thụ được dùng cho các cơ sở xử lý nước thải. Liên minh Châu Âu cần đầu tư thêm 90 tỷ euro vào lĩnh vực nước và chất thải để đạt được mục tiêu năng lượng và khí hậu năm 2030. Vào tháng 10 năm 2021, các thành viên của nghị viện tại Anh đã bỏ phiếu cho việc tiếp tục cho phép nước thải chưa được xử lý từ các cống thoát nước kết hợp được thải vào các con đường nước. Chỉ thị Xử lý Nước thải Đô thị (tên đầy đủ "Chỉ thị Hội đồng 91/271/EEC ngày 21 tháng 5 năm 1991 về xử lý nước thải đô thị") là một Chỉ thị của Liên minh châu Âu liên quan đến việc thu gom nước thải đô thị, xử lý nước thải và việc thải, cũng như việc xử lý và thải "nước thải từ một số ngành công nghiệp". Chỉ thị được thông qua vào ngày 21 tháng 5 năm 1991. Mục tiêu của chỉ thị là "bảo vệ môi trường khỏi các tác động tiêu cực của việc thải nước thải đô thị và nước thải từ một số ngành công nghiệp" bằng cách yêu cầu thu gom và xử lý nước thải trong các khu dân cư đô thị với một dân số tương đương trên 2000, và xử lý tiên tiến hơn ở những nơi có dân số tương đương trên 10,000 trong các khu vực nhạy cảm. Hoa Kỳ. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) và các cơ quan môi trường tiểu bang thiết lập các tiêu chuẩn nước thải dưới luật Clean Water Act. Các nguồn Point source phải nhận giấy phép thải nước vào mặt nước thông qua Hệ thống loại trừ chất gây ô nhiễm quốc gia (NPDES). Các nguồn điểm bao gồm các cơ sở công nghiệp, chính quyền đô thị (nhà máy xử lý nước thải và hệ thống cống rãnh dẫn nước mưa), các cơ sở chính phủ khác như căn cứ quân sự, và một số cơ sở nông nghiệp, như các trại chăn nuôi. EPA thiết lập các tiêu chuẩn nước thải quốc gia cơ bản: "Quy định Xử lý Thứ cấp" áp dụng cho các nhà máy xử lý nước thải đô thị, và "Hướng dẫn về hiệu suất" là các quy định dành cho các loại cơ sở công nghiệp.
1
null
Khi những bà nội trợ hành động () là một phim kịch Hàn Quốc 2007 diễn viên Kim Hye-sun, Kim Hae-sook, Oh Hyun-kyung, Ahn Nae-sang, Lee Joon-hyuk và Son Hyun-joo. Kịch mỗi tuần chiếu trên SBS từ 29 tháng 9 năm 2007 đến 5 tháng 10 năm 2008 vào mỗi thứ 7 và chủ nhật lúc 21:45 cho 104 tập. Nội dung. Han Bok-soo (Kim Hye-sun) đã giúp chồng cô ấy học Trường y bằng nghề bán cá nhưng chồng cô ấy không thấy biết ơn vì điều đó mà thay vào đó là cái nhìn khinh. Anh trai cô ấy là Han Won-soo (Ahn Nae-sang), đã đám cưới với bạn thân của cô ấy là Na Hwa-shin (Oh Hyun-kyung), đang ngoại tình với người phụ nữ khác cô đã cố ngăn lại. Và khi cô ấy biết chồng mình, Ki-jeok (Oh Dae-gyu) đang ngoại tình với bạn gái cũ, cuối cùng cô cũng hiểu cảm giác bạn cô ấy. Mẹ cô ấy, Ahn Yang-soon (Kim Hae-sook), đã nhẫn nhục cho cuộc hôn nhân không hạnh phúc thậm chí phải bị chồng bà lừa dối (Han Jin-hee), cùng tham gia vào kế hoạch trả thù chồng của Bok-soo và Hwa-shin.
1
null
Cộng hòa Nhân dân Donetsk (tiếng Nga: "Донецкая народная республика", phiên sang chữ Latinh: "Donetskaya Narodnaya Respublika") là một nước Cộng hòa tự xưng, tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Chính quyền Cộng hòa Nhân dân Donetsk tuyên bố chủ quyền lên toàn bộ địa phận tỉnh Donetsk của Ukraina nhưng thực tế chỉ kiểm soát được một phần. Ngày 30 tháng 9 năm 2022, Cộng hòa Nhân dân Donetsk cùng ba tỉnh Ukraina ly khai khác ký kết hiệp ước gia nhập Liên bang Nga. Sự thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Donetsk và Cộng hòa Nhân dân Lugansk nằm trong chuỗi kế hoạch ly khai toàn bộ khu vực miền đông thân Nga ra khỏi lãnh thổ Ukraina trong bối cảnh chính quyền Kiev có khuynh hướng thiên vị các nước phương Tây, mong muốn gia nhập EU và NATO. Nhà nước này được hỗ trợ nhân đạo và quân sự từ phía Nga. Chính phủ Ukraina chỉ xem thực thể này là một tổ chức khủng bố và gây chiến tranh chống chính phủ, giống với nhà nước Cộng hòa Nhân dân Lugansk. Lịch sử. Trước năm 1922, Donetsk thuộc vùng Donbass (tiếng Ukraina là Donbas) của Nga. Sau cuộc nội chiến Nga 1917–1922, chính thể Nga Xô viết muốn thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô), nhưng Ukraina còn lưỡng lự. Nhằm thuyết phục Ukraina gia nhập Liên Xô, Nga Xô viết đã nhượng bộ cắt vùng Donbass (gồm cả đất và dân) của Nga sáp nhập vào Ukraina, kể từ đó Donbas thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina (quốc gia này sau đó trở thành thành viên của Liên Bang Xô Viết). Sau khi Liên Xô tan rã, vùng này tiếp tục thuộc nước Ukraina hiện đại. Ngày 7 tháng 4 năm 2014, các thành viên "Hội đồng Quốc gia Độc lập Donetsk tự xưng" đã thông qua tuyên bố li khai khỏi Ukraina và trở thành một nước độc lập với quốc hiệu "Cộng hòa Nhân dân Donetsk". Đồng thời, họ cũng quyết định tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 11 tháng 5 để cân nhắc việc sáp nhập vào Liên bang Nga, tương tự những gì đã diễn ra tại Krym trước đó. Chiều ngày 24 tháng 5 năm 2014, Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Donetsk tự xưng là Alexander Borodai và Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Nhân dân Lugansk tự xưng là Alexei Karjakin đã ký văn bản sáp nhập hai nước cộng hòa tự xưng này thành "Quốc gia Novorossiya" (có nguồn nói tên là "Cộng hòa Novorossiya"). "Novorossiya" có nghĩa là "nước Nga mới". Ngoài Donetsk và Lugansk, Cộng hòa Novorussia còn bao gồm tỉnh phía đông khác của Ukraina như Dnepropetrovsk, Zaporozhye, Odessa, Mykolaiv, Kharkov và Kherson. Công nhận quốc tế. Tính đến ngày 14 tháng 7 năm 2022, chỉ có Nga, Syria và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên công nhận nền độc lập của nước cộng hòa tự xưng này. Một số quốc gia như Belarus, Nicaragua, Sudan và Venezuela dù chưa công nhận độc lập hai nước cộng hòa tự xưng là Donetsk và Lugansk nhưng tuyên bố ủng hộ việc quyết định công nhận của Nga. Nga. Ngày 21 tháng 2 năm 2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin có bài phát biểu dài tuyên bố Liên bang Nga công nhận nền độc lập của Cộng hòa Nhân dân Donetsk và một nhà nước ly khai khác là Cộng hòa Nhân dân Lugansk, tách khỏi Ukraina. Ông nêu lý do vì liên minh quân sự NATO tuyên bố mọi quốc gia đều có quyền gia nhập bất cứ liên minh nào, ngược lại cam kết không mở rộng đường biên giới NATO về phía đông. Tổng thống Nga gọi đây là hành vi "kề dao vào cổ Nga", khiến Nga có quyền thực thi những biện pháp đáp trả phù hợp vì an ninh của chính mình. Syria. Syria công nhận độc lập hai nước cộng hòa tự xưng ở miền đông Ukraina, khiến Ukraina thông báo cắt đứt quan hệ ngoại giao với nước này. Ngày 29 tháng 6 năm 2022, Hãng thông tấn nhà nước Syria dẫn lời nguồn tin tại Bộ Ngoại giao Syria: "Cộng hòa Arab Syria quyết định công nhận độc lập và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Lugansk và Cộng hòa Nhân dân Donetsk. Chúng tôi sẽ liên lạc với cả hai nước để thống nhất khuôn khổ tăng cường quan hệ, bao gồm thiết lập quan hệ ngoại giao phù hợp với quy định hiện hành". CHDCND Triều Tiên. Ngày 13 tháng 7 năm 2022, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên công nhận độc lập của hai nước cộng hoà Donetsk và Lugansk tự xưng ở Ukraina. Bộ Ngoại giao Ukraina ngay lập tức tuyên bố nước này cắt đứt quan hệ ngoại giao với CHDCND Triều Tiên, bình phẩm hành động của CHDCND Triều Tiên là "thiếu thân thiện", "phá hoại chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" của nước này. Đối đáp lại, CHDCND Triều Tiên tuyên bố Ukraina "không có quyền và không đủ tư cách để nêu vấn đề chủ quyền" vì Ukraina ủng hộ Hoa Kỳ cấm vận nước này. Giáo dục. Bước vào năm học 2015–2016, chương trình học được giới chức Cộng hòa Nhân dân Donetsk đổi mới. Giờ học tiếng Ukraina giảm từ tám giờ một tuần xuống còn hai giờ; trong khi thời gian dành cho các tiết học tiếng Nga và văn học Nga được tăng lên. Lịch sử vùng Donbas được nhấn mạnh hơn trong các giờ học lịch sử. Hệ thống chấm điểm năm điểm của Nga thay cho hệ thống 12 điểm của Ukraina. Theo giám đốc một trường cao đẳng ở Donetsk: "Chúng tôi cho sinh viên hai lựa chọn nhưng các trường Nga được tính đến nhiều hơn". Học viên tốt nghiệp sẽ nhận được chứng chỉ của Nga, qua đó có thể dùng để theo học tại các cơ sở đào tạo đại học ở Nga. Tháng 4 năm 2016, các tiết học nhằm nâng cao "hiểu biết về đất nước" được Cộng hòa Nhân dân Donetsk đưa vào giảng dạy trong các trường học (trong lãnh thổ quân li khai kiểm soát). Ngày 25 tháng 9 năm 2017, Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko ban hành luật mới về việc dạy học (dự thảo được Verkhovna Rada thông qua ngày 5 tháng 9 năm 2017), trong đó quy định tiếng Ukraina là ngôn ngữ giáo dục ở tất cả các cấp.
1
null
Kang Min Hyuk (, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1991) là một nam diễn viên và ca sĩ người Hàn Quốc. Anh là tay trống của nhóm nhạc rock Hàn Quốc CNBLUE, ra mắt vào tháng 1 năm 2010 ở Hàn Quốc. Trước đó, họ ra mắt như nhóm nhạc độc lập vào năm 2009 ở Nhật Bản sau đó họ xuất hiện lần đầu vào tháng 10 năm 2011 ở Nhật Bản. Cuộc đời và sự nghiệp. Sự nghiệp diễn xuất. Năm 2010, Kang Min Hyuk bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình trong phim tuyển tập "Acoustic" cùng với thành viên trong CNBLUE Lee Jong-hyun. Anh nhận được một số vai khác trong phim truyền hình SBS "It's Okay, Daddy's Girl". Năm 2011, Min Hyuk được chọn vào phim truyền hình MBC "Heartstrings", một bộ phim tình cảm trẻ trung Hàn Quốc cùng với Jung Yong Hwa của CN Blue. Năm 2012, anh đóng phim truyền hình KBS "My Husband Got a Family" trong vai Se Kwang, em trai ăn chơi của nhân vật chính. Năm 2013, Kang Min Hyuk được chọn đóng phim truyền hình SBS "The Heirs" trong vai Yoon Chan Young, học sinh trung học đứng đầu lớp và là bạn trai lý tưởng của nhân vật Lee Bo Na của Krystal Jung. Năm 2016, anh được mời đóng vai thứ chính trong phim Entertainment với nhân vật Jo Hanul. Năm 2017, anh thủ vai chính Kwak Huyn bên cạnh nữ diễn viên Ha ji Won trong bộ phim Hospital Ship Danh mục phim. Thực Tế. StrongHeart - 30 tháng 11 Running Man tập 186-201 - 26 tháng 2 năm 2014 (quay phim: 10 tháng 2 năm 2014) Star King - 15 tháng 3 năm 2014 Choengdamdong 111(2014) I Live alone(2015) Weekly idol(30-9-2015) Phim. Heartstrings - 29/6/2011 My Husband Got a Family - 25/2/2012 Những Người Thừa Kế - 9/10/2013 Entertainer - 20/4/2016 Hospital Ship - 2017 Người nổi tiếng - 2023
1
null
Các vườn quốc gia tại Venezuela là các khu bảo tồn một loạt các môi trường sống ở Venezuela. Đến năm 2007 đã có 43 vườn quốc gia, chiếm 21,76% diện tích lãnh thổ Venezuela. Mỗi bang của Venezuela có một hoặc nhiều vườn quốc gia. Lara là bang có số lượng nhiều vườn quốc gia nhất với 5 địa danh. Tiếp theo lần lượt là Amazonas, Falcon, Mérida, Miranda, Portuguesa, Táchira có 4 vườn quốc gia; Apure, Sucre và Trujillo có 3 vườn quốc gia; Barinas, Bolívar, Carabobo, Khu Thủ đô, Guárico, Nueva Esparta, Yaracuy, Zulia có 2, còn các bang Anzoategui, Aragua, Cojedes, Delta Amacuro, Liên bang phụ thuộc, Monagas và Vargas là những bang có 1 vườn quốc gia. Có 18 vườn quốc gia có diện tích trên 1.000 km ²; 15 trên 2000 km ²; 5 trên 5000 km ² và 3 là trên 10.000 km ². Vườn quốc gia lớn nhất là vườn quốc gia Parima Tapirapecó nằm trong khu vực Guayana (39.000 km ²) và Vườn quốc gia Canaima (30.000 km ²) còn Cueva de la Quebrada del Toro là vườn quốc gia nhỏ nhất (48,85 km ²).
1
null
Alcina là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức George Frideric Handel. Người viết lời và kịch bản cho tác phẩm là Riccardo Broschi. Ông đã dựa vào cốt truyện của bản anh hùng ca Orlando Furioso của Ludovico Ariosto. Tác phẩm được trình lần đầu tiên tại London, Anh vào năm 1735.
1
null
Alessandro là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức George Frideric Handel. Vở opera do Paolo Rolli đảm nhận phần viết lời và kịch bản. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại London, Anh vào năm 1726 và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ khán giả. Nội dung của tác phẩm mô tả chuyến hành trình của Alexandros Đại đế đến Ấn Độ.
1
null
Judas Maccabaeus là oratorio của nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức George Frideric Handel. Người viết lời cho tác phẩm của Handel là Đức cha Thomas Morell. Morell đã dựa vào Kinh Thánh để viết lời cho bản oratorio này. Handel đã sáng tác bản thanh xướng kịch (oratorio) này vào năm 1746 theo ủy thác của Hoàng thân xứ Wales để tôn vinh chính thắng của Anh quốc tại Culloden và mừng ngày trở về của Quận công vùng Cumberland. Bản thanh xướng kịch được trình diễn lần đầu tại London, Anh vào năm 1747
1
null
Conseil d'État, tức Hội đồng Nhà nước là cơ quan công pháp của Pháp được thành lập vào năm 1799 bởi Napoléon Bonaparte theo Hiến pháp năm VIII. Trụ sở của Conseil d'État được đặt tại Palais-Royal ở thủ đô Paris. Theo Hiến pháp của Đệ ngũ Cộng hòa Pháp, vai trò chính của Conseil d'État là cố vấn chính phủ. Cũng vì vậy, cơ quan này đảm trách chức năng giám sát một số văn bản của chính phủ Pháp, trong đó có cả các đề án chính phủ. Mặt khác, đây còn là cơ quan đầu não của hệ thống hành chính Pháp, song song với hệ thống tư pháp. Trên hết, Conseil d'État cũng tuân theo những quyết định từ Tòa án tranh chấp thẩm quyền cũng như những quyết định từ Tòa án hiến pháp vốn có chức năng kiểm tra tính hợp hiến của mọi quyết định, theo đề nghị, đưa ra bởi Conseil d'État. Theo lý thuyết, người đứng đầu Conseil d'État là Tổng thống Pháp. Tuy nhiên, chức chủ tịch được chỉ định cho một vị phó-Chủ tịch. Các cuộc họp hội đồng thường được chủ trì bởi Thủ tướng hoặc đôi lúc Bộ trưởng Bộ tư pháp. Vị phó-Chủ tịch sẽ đại diện cho Conseil d'État trình bày lên Tổng thống Pháp tất cả những vấn đề liên quan, dưới tên của viên chức nhà nước hoạt động công vụ.
1
null
Partenope là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức George Frideric Handel. Handel đã chuyển soạn tác phẩm Partenope của Silvio Stampiglia thành tác phẩm của mình. Handel sáng tác vở opera đó trong 2 năm 1729 và 1730. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại London, Anh vào năm 1730.
1
null
Rinaldo là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức George Frideric Handel. Đây là vở opera đầu tiên ông sáng tác trên đất Anh. Người viết lời cho vở opera này là Giacomo Rossi. Rossi đã viết lời dựa theo ca kịch ngắn của Aaron Hill (Hill lại sáng tác phẩm của mình dựa theo bài thơ Gerusalemme liberata của Torquato Tasso). Vở opera này được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1711 tại London, Anh.
1
null
Boris Godunov là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Nga Modest Petrovich Mussorgsky, thành viên của nhóm The Five. Mussorgsky đã sáng tác vở opera này trong các năm 1868-1872 dựa theo kịch thơ của Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Sau đó, vào năm 1896, Nikolay Rimskiy-Korsakov vào năm 1959, Dmitri Dmitryevich Shostakovich đã soạn lại vở opera này. Ngày nay vở opera có thể được trình diễn theo 3 phiên bản nói trên
1
null
Phần đầu của series phim truyền hình "Game of Thrones" khởi chiếu trên kênh HBO vào 17 tháng 4 năm 2011, và kết thúc vào 19 tháng 6 năm 2011, thời gian chiếu vào 9:00 tối các ngày chủ nhật tại Hoa Kỳ. bao gồm 10 tập, mỗi tập thời gian khoảng 55 phút. "Game of Thrones" dựa trên tiểu thuyết "A Game of Thrones", phần mở đầu cho series tiểu thuyết "A Song of Ice and Fire" viết bởi nhà văn George R. R. Martin. Câu chuyện đưa ta đến với một thế giới hư cấu, tại đây lục địa chính được gọi là Westeros (và một phần lục địa khác ở phía Đông bí ẩn được gọi là Essos). Bắt đầu bằng việc Người đứng đầu nhà Stark - House Stark, Lãnh chúaEddard "Ned" Stark (Sean Bean) bị kéo vào kế hoạch chống lại vuaRobert Baratheon Khi "Cánh tay phải của Vua" (Cố vấn cao cấp của nhà Vua - Tương tự như Tể tướng) Jon Arryn chết một cái bí ẩn. Cốt truyện. Bộ phim bắt đầu khi ba thành viên của hội tuần đêm- the Night's Watch đã vô tình phát hiện ra bóng trắng- một xác sống giết người đáng sợ khi đang thực hiện chuyến đi tuần của mình. Không rõ lý do nhưng bóng trắng đã tha mạng cho một trong những người hội tuần đêm. Anh ta cố gắng trốn khỏi hội Tuần đêm về để cảnh báo cho gia đình mình. Ned Stark - hội trưởng hộ tuần đêm, đã chặt đầu anh vì phản bội lời thề. Tuy không tin vào lời của tên kỵ sĩ hội tuần đêm, bởi Stark tin rằng bóng trắng đã biến mất sau 1000 năm nhưng ông vẫn cảnh báo các con lẫn em trai mình. Câu nói "Mùa đông đang đến" trở thành câu nói nổi tiếng và ấn tượng nhất trong phim của dòng họ nhà Stark. Vua Robbert đã tuần hành lên phía bắc với hy vọng có thể mời được Ned Stark trở thành cố vấn cao cấp (được gọi là "cánh tay của nhà vua"- Hand of the King) sau cái chết của người cố vấn tiền nhiệm Jon Arryn. Robbert nghi ngờ cái chết của Jon Arryn không phải bị bệnh mà chết nên ông cố gắng bằng mọi cách thuyết phục Ned Stark trở về vương quốc của mình. Ned đã từ chối lời mời đó cho đến khi con trai ông - Brandon Stark đã bị ngã khi leo trèo và chị của Catelyn - Lysa đã gửi thư với nội dung cho rằng cái chết của Jon thực sự có liên quan đến gia tộc Lannister. Ned đã đồng ý trở về phương Nam với hai con gái - Sansa Stark - người đã được hứa hôn với Joffrey và Arya Stark - em gái của Sansa, khoảng 10 tuổi, cùng với khoảng 50 kỵ sĩ. Trong khi truy tìm về cái chết của Jon Arryn, Ned phát hiện những sự thật kinh khủng xung quanh nhà Lannister, những đứa con hoang của vua Robbert mà Jon đang âm thầm bảo vệ và sự thật về hoàng tử Joffrey. Trong khi đó Sansa nảy sinh tình cảm với Joffrey và bị cậu ta lợi dụng. Ned cảm thấy nguy hiểm nên đã cố đưa các con gái của ông về nhà nhưng bị sự phản đối kịch liệt từ Sansa. Ở phía bắc, phu nhân Catelyn vô tình bắt được Tyrion Lannister- Quỷ Lùn. Bà định đưa Tyrion lên gặp chị mình là Lysa với hy vọng là Lysa sẽ đưa ra phán quyết công bằng nhất cho Tyrion và cho con trai bà Bran. Bà hoàn toàn thất vọng khi gặp chị mình, cô đã thay đổi hoàn toàn tính cách. Trở nên mù quáng, gen tuông. Bằng sự thông minh của mình, Tyrion đã yêu cầu một trận thi đấu hiệp sĩ. Ông đã may mắn thoát được nhờ sự giúp đỡ của một tên lính đánh thuê Bronn mà sau này trở thành bạn với Tyrion. Trên đường trở về họ đã gặp tộc người thượng, và để thoát thân, Tyrion đã hứa cho bọn họ vũ khí với điều kiện bọn họ sẽ theo ông và giữ an toàn cho ông cho đến khi ông đến gặp cha mình. Trước khi Tyrion thoát khỏi tay Lysa, ông đã bị nhốt vài ngày. Anh trai cậu- Jaime Lannister đã phục kích Ned tại nhà của Baelish. Một cuộc chiến đổ máu đã nổ ra, Ned đã bị thương ở chân phải nhưng Jaime đã tha mạng cho ông cùng với một lời cảnh báo tới phu nhân ông. Ned phớt lờ điều đó, ông không gửi thư cho Catelyn mà cố gắng đưa hai con gái về phương bắc. Sansa vẫn tiếp tục phản đối kịch liệt điều đó. Ông cũng phát hiện ra sự thật về thân phận của Joffrey vào đêm hôm đó khi hai người con gái ra khỏi phòng. Ned quyết định dùng nước đi cuối cùng, nhưng ông đã động lòng nên đã đi cảnh báo hoàng hậu và yêu cầu bà chạy trốn khỏi đất nước này cùng với hai người con trai của mình trước khi ông kể với Robbert sau khi hoàng thượng trở về sau cuộc đi săn. Robbert đã trở về sau cuộc đi săn nhưng với một với thương lớn ở bụng. Ông đã cho gọi Ned để bàn chuyện kế vị. Ned đã không kể cho Robbert về thân phận của Joffrey nhưng ông đã không ghi tên người kế vị lên chiếu chỉ truyền ngôi. Sau đó Ned đã nhờ Baelish mua chuộc đội Vệ vương với hy vọng có thể bảo vệ hai người con gái cũng như lật đổ Hoàng Hậu Cersei. Tuy Baelish đã cảnh báo ông đội Vệ vương sẽ theo phe nào nhiều tiền hơn, nhưng ông vẫn tin Baelish có thể xoay xở được. Khi Ned cùng đội Vệ vương tấn công vào hoàng cung, Baelish đã phản bội ông khiến cho toàn bộ hầu cận của ông bị giết và ông bị bắt. Con gái Arya đã may mắn thoát được trong khi đó người chị của cô đã được hoàng hậu giữ lại trong cung để uy hiếp nhà Stark. Robb hay tin cha và Sansa bị bắt, Arya mất tích đã đích thân lệnh chư hầu khắp phương bắc kéo quân xuống phía nam. Phu nhân Catelyn cũng nhờ sự giúp đỡ của chị mình Lysa nhưng bị cô từ chối. Tyrion lúc này đã cùng tộc thượng đến gặp cha Tywin Lannister. Tywin đồng ý cung cấp vũ khí cho tộc thượng với điều kiện họ sẽ giúp ông chiến đấu chống lại phương bắc. Tuy vậy, cuộc chiến hoàn toàn nghiên về phương bắc với 3 trận thắng lớn liên tiếp. Nhà Lannister bị thiệt hại nặng nề, con trai trưởng Jaime đã bị bắt. Để kết thúc chiến tranh, nhà Lannister đãng dùng con gái Sansa để yêu cầu Ned tuyên bố chính thức công nhận Joffrey làm vua và yêu cầu Robb rút quân. Đổi lại, Sansa sẽ được sống và ông sẽ về phía bức tường, phương bắc sẽ tiếp tục do nhà Stark cai quản. Kế hoạch hoàn toàn thất bại khi Joffrey chém đầu ông. Robb quyết định tiến thẳng xuống phía nam và tuyên bố là vua của phương bắc. Nhưng vì không giết bất cứ tù nhân nào của nhà Lannister đã khiến cho đội quân của cậu bị chậm lại. Robb thương lượng với Walder Frey- lãnh chúa đang nắm giữ cây cầu treo nối phương bắc với phương nam. Walder Frey đồng ý với điều kiện các con trai ông lần lượt được phong hiệp sĩ khi đến tuổi và một trong những người con gái của ông sẽ lấy Robb. Trong lúc đó, ở phía bên kia của biển Narrow tại lục địa Essos, Viserys Targaryen (Harry Lloyd), con trai của vị Vua trước kia đã bị truất ngôi, tin rằng hắn vẫn là người thừa hưởng ngai vàng hợp pháp. Hắn bắt em gái Daenerys Targaryen (Emilia Clarke) kết hôn với Khan hãn của các chiến binh Dothraki, Khal Drogo (Jason Momoa), để đổi lại lấy quân đội trở về Westeros và lấy lại ngai vàng. Tuy nhiên, Daenerys nảy nở tình yêu với Drogo và cô dần có được quyền lực của mình tại tộc, có được sự yêu mến của các thành viên khác và thực sự trở thành Khalessi. Viserys lo sợ điều đó, hắn tìm cách giết Daenerys nhưng bất thành. Cuối cùng bị chính Drogo giết khi hắn yêu cầu đổi mạng sống của đứa con trai trong bụng Daenerys. Khalessi cố gắng giải cứu những nô lệ bị quân đoàn Dothraki nhưng điều đó khiến cho nội bộ tộc Dothraki mâu thuẫn, Khal Drogo đã bị thương trong một lần cố gắng bảo vệ ý kiến của cô. Một trong số nô lệ được giải cứu đã đề nghị được chữa cho Drogo. Hoàn toàn không biết mình bị lừa, Khalessi thuyết phục Drogo cho ả ta chữa trị. Nhưng bệnh Khal Drogo không hề thuyên giảm, ông đã mất mạng không lâu sau đó do bị nhiễm trùng. Tộc Dothraki phản đối nữ quyền nên Daenerys đã cố gắng hồi sinh cho Drogo. Mụ phù thủy đồng ý giúp nhưng với cái giá phải trả rất đắt. Daenerys đã bị mất đi đứa con trai của mình, toàn bộ quyền lực ở tộc và Drogo đã sống lại nhưng phải sống ở dạng thực vật. Khi biết mình bị lừa, cô đã quyết định hỏa thiêu Drogo cũng với mụ thủy. Bộ phim kết thúc với cảnh Daenerys bước vào ngọn lửa với ba quả trứng rồng bị hóa đá được tặng trong dịp lễ cưới của cô với Khal Drogo. Ngọn lửa dập tắt, nhưng điều kì diệu là cô không hề bị thương và ba quả trứng rồng đã nở. Ở phía bắc nơi có bức tường vĩ đại - the Wall, Jon Snow-người được gọi là đứa con hoang của Ned Strark đã tham gia hội "tuần đêm" - the Night's Watch ngay sau khi cha cậu đi xuống phía nam dù với vô số sự phản đối và lời khuyên của gia tộc. Việc tham gia hội tuần đêm và gặp Tyrion đã khiến Snow thay đổi rất nhiều. Snow được đội trưởng rất tín nhiệm không chỉ bởi tài năng, và một lần giải cứu ông khỏi sự tấn công bởi xác sống. Diễn xuất. Diễn viên khách mời. The guest cast is listed in order of rank or social importance by the region of Westeros in which they appear. Episodes. <onlyinclude></onlyinclude> Truyền hình. Cuộc chiến ngai vàng phần 1 được chiếu trên kênh HBO tại Hoa Kỳ và Canada vào 17 tháng 4 năm 2011, và trên kênh Sky Atlantic tại Vương quốc Anh và Ireland vào ngày 18 tháng 4 năm 2011. Tại Australia trên kênh Showcase vào 7 tháng 7 năm 2011. Tại Brazil vào 8, 2011, trên kênh HBO. Phát hành DVD và Blu-ray. 10 tập của phần 1 sẻries phim cuộc chiến ngai vàng phát hành DVD và Blu-ray Disc vào 6 tháng 3 năm 2012. bao gồm cả những phần phía sau hậu trường quá trình hoàn thiện, nhưng không có những cảnh bị cắt bỏ vì tất cả những thước phim đều được chiếu. The specifications for the Blu-ray box set to be released in Europe are: The box set's extra features are the following: The features exclusive to the Blu-ray release are: HBO released a "Collector's Edition" DVD/Blu-ray combo pack of the first season, which includes a resin-carved Dragon Egg Paperweight. The set was released in the United States and Canada on ngày 20 tháng 11 năm 2012. Music. The first season's soundtrack by Ramin Djawadi, written within about ten weeks of the show's premiere, was released in June 2011.
1
null
Cô dâu bị bán đi (tiếng Séc: Prodaná Nevesta) là vở opera 3 màn nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Séc Bedřich Smetana. Tác giả của lời hát trong vở opera này là Karel Sabina. Tác phẩm này được trình diễn lần đầu tiên tại thủ đô Praha của Cộng hòa Séc vào năm 1866. Tiếp theo, vở opera đã đặt chân đến Chicago vào năm 1893, London vào năm 1895 và New York vào năm 1909. Có thể nói Cô dâu bị bán đi là một trong những vở opera hài xuất sắc của nền âm nhạc thời kỳ Lãng mạn Séc.
1
null
Neknominate hay còn gọi là trào lưu thi uống rượu trên các mạng xã hội theo đó những người tham gia NekNomination, còn gọi là neck nominate một từ ghép giữa neck (uống nhanh) và nominate (chỉ định tên hay đề cử) sẽ phải uống trọn một hỗn hợp nước có cồn nào đó chỉ trong một ngụm và ghi hình lại, sau đó tải lên mạng xã hội như Facebook hay YouTube. Sau khi uống xong, người tham gia sẽ chỉ định (nominate) hai hoặc ba người kế tiếp làm theo thử thách này trong vòng 24 giờ. Tổng quan. Neknominate được cho là bắt nguồn từ Úc nhưng đã lan ra toàn cầu. Nhiều người đã tạo ra những thách thức nguy hiểm hơn bằng việc uống các hỗn hợp nước kỳ quái hoặc uống rượu trong những tình huống éo le, Có người có uống rượu trộn với thức ăn cho chó, dầu mazut và cá vàng còn sống, có người uống nước đổ vào bồn cầu, hoặc quăng xác chuột chết vào hỗn hợp nước mình định uống. Trò chơi này đã bị chỉ trích vì sự nguy hiểm nó đặt ra cho người tham gia. Năm người được cho là đã chết do trào lưu này
1
null
Danh sách các quốc gia châu Âu theo GDP trên người 2012 là bảng thống kê về GDP trên người 2012 của 50 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Âu. Ngoài 44 quốc gia độc lập, là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn có các vùng lãnh thổ khác như: Quần đảo Faroe, Jersey, Đảo Man, Guernsey và Gibraltar. Trong danh sách này, Monaco là quốc gia có thu nhập bình quân trên người cao nhất châu Âu, với 163.026 USD/người, tiếp sau là Liechtenstein với 134.915 USD/người, Luxembourg với 107.476 USD/người. Quốc gia có thu nhập bình quân trên người thấp nhất châu Âu năm 2012 là Transnistria chỉ có 1.231 USD/người, xếp áp chót là Vatican với 1.325 USD/người. Bảng thống kê được trích số liệu từ nguồn GDP trên người 2012 của Quỹ tiền tệ Quốc tế-IMF, những lãnh thổ hay quốc gia không được IMF thống kê, được bổ sung từ các nguồn Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới-WB hay CIA Facebook.
1
null
Tridymit là một dạng đồng hình nhiệt độ cao của thạch anh và thường xuất hiện ở dạng tấm nhỏ hoặc các tinh thể giả sáu phương không màu trong các ốc đá phun trào felsic. Công thức hóa học của tridymit là SiO2. Tridymit được miêu tả đầu tiên năm 1868 và mẫu địa phương ở Hidalgo, Mexico. Tên của khoáng được đặt theo tiếng Hy Lạp "tridymos" "bộ ba" vì tridymit thường có sonh tinh "ba đuôi". Cấu trúc. Tridymit có thể có bảy dạng kết tinh. Hai trong số đó là α và β. Pha α-tridymit hình thành ở nhiệt độ cao và nó chuyển thành β-cristobalit ở 1470 °C.
1
null
"Come a Little Closer" là một bài hát của ban nhạc alternative rock Mỹ Cage the Elephant. Viết bởi hát chính Matthew Shultz và sản xuất bởi Jay Joyce, nó được phát hành như là đĩa đơn từ album phòng thu thứ ba của ban nhạc, Melophobia vào ngày 13 tháng 8 năm 2013. Nó đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Alternative Songs tại Hoa Kỳ.
1
null
Nick Powell (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Anh, hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Stoke City. Anh cũng có thể đá ở vị trí tiền đạo. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ Crewe Alexandra từ năm 5 tuổi và có 2 năm thi đấu chuyên nghiệp cho câu lạc bộ này trước khi ký hợp đồng với câu lạc bộ Manchester United vào năm 2012.
1
null
Cage the Elephant là một ban nhạc rock người Mỹ từ Bowling Green, Kentucky, được thành lập vào năm 2006. Nhóm hiện nay bao gồm Matt Shultz (hát), Brad Shultz (rhythm guitar), Daniel Tichenor (bass), và Jared Champion (trống) và Nick Bockrath (lead guitar). Lincoln Parish từng là tay lead guitar của ban nhạc cho đến cuối năm 2013, sau đó anh được thay thế bởi Bockrath. Thành viên. Thành viên trước đây
1
null
Cảng vụ Halifax (Halifax Port Authority - HPA) là một đơn vị quản lý hành chính sự nghiệp trực thuộc chính phủ Canada, có trách nhiệm quản lý 260 hecta đất công vụ nằm trong khu vực cảng Halifax. HPA được thành lập vào ngày 01 Tháng Ba năm 1999 kế thừa mô hình hoạt động của Tổng công ty Cảng Halifax (HPC). Trước đó HPC là đơn vị khai thác cảng được giao nhiệm vụ từ Ủy ban Quản lý Cảng Biển, phụ trách việc điều hành tất cả cảng biển trực thuộc chính phủ trung ương tại Canada. Halifax là một trong những mười tám cảng biển đầu tiên của chính phủ tại Canada đã thực hiện việc chuyển đổi hành chính này theo yêu cầu của Luật Hàng hải Canada được thông qua ngày 11 tháng 6 năm 1998. Với vị trí chiến lược là cửa ngõ đầu tiên khi vào và cửa khẩu cuối cùng khi ra của Bắc Mỹ, Halifax là một hải cảng rộng, không bao giờ bị đóng băng, ít bị ảnh hưởng bởi thủy triều, có bến nước sâu và khoảng cách gần nhất với châu Âu (2 ngày) và với Đông Nam Á (1 ngày) hơn bất kỳ cảng biển nào khác ở bờ đông Bắc Mỹ (nếu đi qua kênh đào Suez). Ngoài ra, Halifax còn là một trong số vài cảng biển hiếm hoi ở bờ Đông có phương tiện hiện đại và an toàn để tiếp nhận và bốc dỡ hàng hóa cho tàu container loại Post-Panamax(có sức chở trên 7,000 TEU). HPA đã đầu tư hơn 100 triệu dollar trong vòng ba năm trong một kế hoạch vay vốn dài hạn để có thêm diện tích mặt bằng và tập trung nâng cấp hiệu quả cơ sở hạ tầng và hậu cần hiện đại để đảm bảo cảng Halifax có thể cạnh tranh đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa và du lịch trong khu vực. Với 19 hãng tàu vận tải hàng đầu thế giới đang có tuyến hàng hải đến Halifax, bao gồm các dịch vụ như chuyển tải và tàu chợ trên các tuyến vận chuyển nhanh được kết nối trực tiếp vào mạng đường sắt quốc gia Canada, Cảng Halifax đã hỗ trợ việc giao nhận hàng hóa các loại đến mọi thị trường ở Bắc Mỹ và trên 150 quốc gia trên thế giới. Mỗi năm cảng Halifax tiếp nhận khoảng 1.500 tàu biển, tạo việc làm cho 11.190 lao động và có doanh thu khoảng 1,5 tỉ dollar. Bên cạnh yếu tố là một trong những cảng biển tự nhiên lớn nhất thế giới thuận tiện bốc dỡ hàng container, hàng rời, hàng xá, hàng tự hành, và hàng dự án; cảng Halifax còn là một điểm đến ưa chuộng ngày càng phổ biến cho tàu du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Năm 2013 có khoảng 252,000 du khách trên 134 du thuyền đã cập cảng Halifax. Theo thống kê,chỉ riêng khách du lịch không thôi đã chi tiêu khoảng 50 triệu dollar vào nguồn thu ngân sách thành phố Halifax mỗi năm.
1
null
Xương Nghĩa Chi (chữ Hán: 昌义之, ? – 523), người huyện Ô Giang, quận Lịch Dương , tướng lãnh nhà Lương. Cuộc đời và sự nghiệp. Khởi nghiệp. Nghĩa Chi từ nhỏ có tài võ nghệ. Đời Nam Tề, ông theo Tào Hổ chinh chiến. Hổ nắm quyền Ung Châu, lấy Nghĩa Chi làm Bổ phòng các, rồi ra làm Phùng Dực thú chủ. Khi Hổ về triều, ông ở lại phụng sự Tiêu Diễn. Thời Đông Hôn hầu, Nghĩa Chi được Diễn đãi ngộ rất hậu. Khi Diễn khởi binh, lấy ông làm Phụ quốc tướng quân, quân chủ, nhận chức Kiến An vương Trung binh tham quân. Bấy giờ ở Thiên Khẩu (không rõ nơi nào) thuộc quận Cánh Lăng có Để các (nơi chứa vật tư và lương thực của địa phương), Diễn sai Nghĩa Chi làm tiền khu đi đánh, trận nào cũng thắng. Diễn đến Tân Lâm, ông theo Vương Mậu đi trước đến Tân Đình, ra sức chiến đấu ở cầu nổi Chu Tước, chém giết rất nhiều. Diễn chiếm được thành Kiến Khang, lấy Nghĩa Chi làm Trực các tướng quân, Mã Hữu Giáp cốc chủ. Thăng tiến. Năm Thiên Giám đầu tiên (502) nhà Lương, được phong Vĩnh Phong huyện hầu, thực ấp 500 hộ. Nhận chức Kiêu kỵ tướng quân. Ra làm Hu Dị thái thú. Năm thứ 2 (503), được thăng Giả tiết, Đốc Bắc Từ Châu chư quân sự, Phụ quốc tướng quân, Bắc Từ Châu thứ sử, trấn thủ Chung Li. Quân Bắc Ngụy xâm phạm, Nghĩa Chi đẩy lui được. Năm thứ 3 (504), được tiến hiệu Quan quân tướng quân, tăng phong 200 hộ. Cố thủ Chung Li. Năm thứ 4 (505), Nghĩa Chi đưa châu quân theo Dương châu thứ sử Lâm Xuyên vương Tiêu Hoành bắc phạt. Đại quân đóng ở Lạc Khẩu, ông làm tiền quân, hạ được đồn thú Lương Thành của Ngụy. Năm thứ 5 (506), quân nhà Lương thua chạy, tướng Ngụy là Trung Sơn vương Nguyên Anh truy kích, chiếm mất Mã Đầu, giành được rất nhiều lương thực. Người Ngụy chuyển số lương thực ấy về phương bắc, ai cũng cho rằng quân Ngụy sắp lui, Lương Vũ đế khẳng định đây là kế nghi binh, bèn sai tu sửa thành Chung Li, lệnh cho Nghĩa Chi chuẩn bị chiến đấu. Mùa đông năm ấy, Nguyên Anh quả nhiên soái bọn An Nhạc vương Nguyên Đạo Minh, Bình đông tướng quân Dương Đại Nhãn đưa mấy chục vạn quân đến đánh. Mặt bắc thành Chung Li được sông Hoài che chở, người Ngụy ở Thiệu Dương Châu (ở giữa sông) làm 2 cây cầu nổi nối liền 2 bờ nam - bắc. Nguyên Anh ở bờ nam đánh thành, Dương Đại Nhãn ở bờ bắc cung ứng. Thành có 3000 quân Lương, ông tùy nghi ứng biến. Quân Ngụy dùng xe chở đất lấp hào, rồi bị thúc ép vác đất để đắp gò. Chẳng mấy chốc thì đắp xong gò, Nguyên Anh và Dương Đại Nhãn thay nhau tự đốc chiến, đêm ngày không nghỉ, quyết không lui quân, ngã xuống lại bị đầy lên. Thành bị Phi lâu và Xung xa làm hư hỏng, Nghĩa Chi lấy bùn đắp vào, Xung xa chẳng làm gì được. Ông vốn bắn giỏi, chỗ nào nguy cấp thì đến cứu, buông dây cung là có người ngã lăn ra. Đôi bên một ngày giao chiến mấy chục hiệp, quân Ngụy thương vong hàng vạn, tử thi chất cao đến mặt thành. Tháng 4 năm thứ 6 (507), tướng nhà Lương là bọn Tào Cảnh Tông, Vi Duệ đưa 20 vạn quân đến cứu, đánh bại quân Ngụy. Nghĩa Chi đưa quân truy kích đến Lạc Khẩu thì về. Được tiến hiệu Quân sư tướng quân, tăng phong 200 hộ, thăng Trì tiết, Đốc Thanh Ký 2 châu chư quân sự, Chinh lỗ tướng quân, Thanh Ký 2 châu thứ sử. Chưa nhận chức, được đổi làm Đốc Nam Duyện, Duyện, Từ, Thanh, Ký 5 châu chư quân sự, Phụ quốc tướng quân, Nam Duyện Châu thứ sử. Bị kết tội dùng vật dụng tiếm lễ, chịu miễn chức. Trong năm ấy, được bổ làm Chu y trực các, nhận chức Tả kiêu kỵ tướng quân, trực các như cũ. Được thăng Thái tử hữu vệ soái, lãnh Việt kỵ hiệu úy, Giả tiết. 15 năm cuối đời. Năm thứ 8 (509), ra làm Trì tiết, Đốc Tương Châu chư quân sự, Chinh viễn tướng quân, Tương Châu thứ sử. Năm thứ 9 (510), lấy bản (tướng) hiệu về triều, ít lâu sau được làm Tư không Lâm Xuyên vương tư mã, tướng quân như cũ. Năm thứ 10 (511), được thăng làm Hữu vệ tướng quân. Năm thứ 13 (514), được thăng làm Tả vệ tướng quân. Năm thứ 14 (515), tướng Ngụy là Lý Đàm Định uy hiếp đập Kinh Sơn, có chiếu cho Nghĩa Chi làm Giả tiết, soái bọn Thái bộc khanh Ngư Hoằng Văn, Trực các tướng quân Tào Thế Tông, Từ Nguyên Hòa đi cứu. Chưa đến nơi, tướng xây đập là Thái tử hữu vệ soái Khang Huyến đã đánh bại quân Ngụy. Tướng Ngụy là Lý Bình vây Hạp Thạch, ông soái bọn Chu y trực các Vương Thần Niệm đi cứu. Thần Niệm đánh cầu nổi Hạp Thạch không được, viện quân không thể tiến, nên Hạp Thạch thất thủ. Nghĩa Chi lui quân, nhờ là công thần nên được Lương Vũ đế bỏ qua. Năm thứ 15 (516), được khôi phục là Sứ trì tiết, Đô đốc Tương Châu chư quân sự, Tín uy tướng quân, Tương Châu thứ sử. Trong năm ấy, được đổi thụ Đô đốc Bắc Từ Châu, Duyên Hoài chư quân sự, Bình bắc tướng quân, Bắc Từ Châu thứ sử. Nghĩa Chi tính khoan hậu, làm tướng giỏi phủ dụ chế ngự, nên bộ hạ chịu ra sức; đến khi nhiệm chức ở địa phương, quan dân được yên. Ít lâu sau được cấp một bộ nhạc Cổ xuy, đổi phong Doanh Đạo huyện hầu, thực ấp như trước. Năm Phổ Thông thứ 3 (522), được triệu làm Hộ quân tướng quân, Cổ xuy như cũ. Tháng 10 ÂL năm thứ 4 (523), mất khi đang ở chức. Được tặng Tán kỵ thường thị, Xa kỵ tướng quân, 1 bộ nhạc Cổ xuy; cấp Đông viên bí khí, 1 bộ triều phục; giúp 2 vạn tiền, 200 xúc vải, 200 cân nến; thụy là Liệt. Con là Bảo Nghiệp (hoặc Bảo Cảnh) kế tự.
1
null
Agonostomus monticola (Tên tiếng Tây Ban Nha: "dajao", "trucha de tierra caliente "; Tên tiếng Anh: "mountain mullet") là một loài cá nước ngọt trong họ Mugilidae của bộ Mugiliformes. Nó có thể được tìm thấy tại Bắc và Nam Mỹ, từ North Carolina, Florida, Louisiana và Texas ở Hoa Kỳ tới Colombia và Venezuela, bao gồm West Indies trong quần đảo Antilles.
1
null
Danh sách các quốc gia châu Âu theo GDP trên người 2009 là bảng thống kê về GDP trên người 2009 của 50 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Âu. Ngoài 44 quốc gia độc lập, là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn có các vùng lãnh thổ khác như: Quần đảo Faroe, Jersey, Đảo Man, Guernsey và Gibraltar. Trong danh sách này, Monaco là quốc gia có thu nhập bình quân trên người cao nhất châu Âu, với 203.900 USD/người, tiếp sau là Liechtenstein với 113.210 USD/người, Luxembourg với 108.952 USD/người. Quốc gia có thu nhập bình quân trên người thấp nhất châu Âu năm 2012 là Moldova chỉ có 1.514 USD/người, xếp áp chót là Kosovo với 2.300 USD/người. Bảng thống kê được trích số liệu từ nguồn GDP trên người 2009 của Quỹ tiền tệ Quốc tế-IMF, những lãnh thổ hay quốc gia không được IMF thống kê, được bổ sung từ các nguồn Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới-WB hay CIA Facebook.
1
null
Jenson Alexander Lyons Button, MBE (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1980 tại Frome, Somerset, Anh) là một tay đua người Anh. Từ năm 2000 đến 2017, anh thi đấu trong Công thức 1 và vào năm 2009, anh trở thành người Anh thứ mười giành được chức vô địch Công thức 1. Button kết thúc sự nghiệp Công thức 1 của mình vào cuối mùa giải 2016. Vào năm 2018 và 2019, anh thi đấu trong giải đua xe Super GT Series Nhật Bản cho đội Kunimitsu và giành chức vô địch vào năm 2018. Đầu đời. Button sinh ngày 19 tháng 1 năm 1980 tại Frome, Somerset và lớn lên ở Vobster, Mells. Anh là con thứ tư của Simone Lyons, người nửa Nam Phi và cựu tay đua xe đua John Button đến từ East End của London. Anh có ba chị gái và bố mẹ anh ly hôn vào năm 1987. Ông nổi tiếng ở quê hương Anh trong hầu hết những năm 1970 khi đua trong chiếc xe Volkswagen Type 1. Cha mẹ của anh gặp nhau ở Newquay khi còn nhỏ và đoàn tụ sau một buổi hòa nhạc tại Longleat. Anh được đặt theo tên của người bạn Đan Mạch và đối thủ của bố mình là Erling Jensen, đổi chữ "e" thành chữ "o" để phân biệt với Jensen Motors, trong khi Simone nhớ lại rằng bà đặt tên cho anh là Jenson sau khi để ý đến một chiếc xe thể thao của Jensen. Sự nghiệp. Công thức 1 (2000-2017). Williams (2000). Trước thêm giải đua xe Công thức 1 năm 2000, đội đua Williams đã tổ chức một sự kiện để giành lấy chỗ đua còn trống sau khi Alessandro Zanardi chia tay. Button tranh giành với Bruno Junqueira, đương kim vô địch Công thức 3000. Anh đã thắng và nhận được chỗ đua đó và đồng thời anh cũng trở thành tay đua Công thức 1 người Anh trẻ nhất tính đến thời điểm đó. Đồng đội của anh là tay đua người Đức Ralf Schumacher, em trai của Michael Schumacher (tay đua của đội Ferrari và nhà vô địch Công thức 1 người Đức hai lần). Trong chặng đua đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1 của mình ở Úc, anh xuất phát ở vị trí áp chót nhưng leo lên vài vị trí trong cuộc đua nhưng trong các vòng cuối cùng, anh phải bỏ cuộc từ vị trí thứ sáu do hỏng động cơ. Tại chặng đua sau đó ở Brazil, Button về thứ sáu và ghi điểm đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1, vượt qua Ricardo Rodríguez để trở thành tay đua trẻ nhất ghi được điểm trong Công thức 1. Trong các chặng đua tiếp theo của mùa giải, anh lấy điểm năm lần. Kết quả tốt nhất của anh là vị trí thứ tư ở giải đua ô tô Công thức 1 Đức. Sau mùa giải, anh đứng thứ tám trong bảng xếp hạng các tay đua với 12 điểm và bị đồng đội Ralf Schumacher đánh bại. Vào tháng 8, Williams tuyên bố cặp tay đua cho mùa giải 2001 bao gồm Ralf Schumacher và Juan Pablo Montoya. Vì chỗ đua ở Williams bị chiếm lấy bởi Montoya, anh ký hợp đồng hai năm với Benetton. Benetton và Renault (2001-2002). 2001: Mùa giải đầu tiên với Benetton. Vào năm 2001, Button chuyển sang Benetton và hợp tác với tay đua giàu kinh nghiệm người Ý Giancarlo Fisichella. Chiếc xe của đội anh kém cạnh tranh do thiếu trợ lực lái và mã lực đối với các đội nhanh hơn cùng với việc thiếu thời gian thử nghiệm trước mùa giải. Anh đứng thứ 17 trong bảng xếp hạng các tay đua với hai điểm và kết quả tốt nhất của anh là vị trí thứ năm tại giải đua ô tô Công thức 1 Đức. Kết quả tệ của anh khiến người ta đồn đoán rằng anh sẽ bị thay thế trước cuối năm nhưng ông chủ đội Flavio Briatore tiết lộ rằng ông đã đưa anh ta cơ hội để rời đi. Ông tin rằng sự thiếu kinh nghiệm của anh đã giúp phần gặp khó khăn trong việc giúp đội của mình thiết lập một chiếc xe cạnh tranh. 2002: Sống ăn chơi và bị sa thải bởi Flavio Briatore. Năm 2002, Benetton được đổi tên thành Renault và Jarno Trulli trở thành đồng đội của Button. Anh thay đổi thói quen sống xã hội của mình để cải thiện danh tiếng của mình trước công chúng trước mùa giải. Tại chặng đua thứ hai của mùa giải ở Malaysia, anh có cơ hội lên bục đầu tiên trong sự nghiệp trước khi sự cố hệ thống treo lốp xe sau ở vòng đua cuối khiến anh tụt xuống vị trí thứ 4. Màn trình diễn của anh cải thiện đáng kể từ năm 2001 vì chiếc xe đua có trợ lực lái và điều khiển khởi động. Mặc dù thường xuyên bị Trulli đánh bại trong vòng phân hạng nhưng anh thể hiện tốc độ trong cuộc đua tốt hơn so với Trulli. Bất chấp kết quả của anh và điều mong muốn ở lại với Renault, Briatore nói với anh qua điện thoại rằng tay đua lái thử Fernando Alonso sẽ thay thế anh vào năm 2003. Briatore phải đối mặt với những lời chỉ trích vì quyết định của ông ta và cũng tố Button là một "playboy lười biếng". British American Racing (2003-2005). 2003: Mùa giải đầu tiên với British American Racing. Vào tháng 7, Button ký hợp đồng hai năm với tùy chọn tham gia hai năm tiếp theo với đội đua British American Racing (BAR) để thay thế Olivier Panis và hợp tác với nhà vô địch thế giới năm 1997 người Canada Jacques Villeneuve. Một yếu tố quan trọng trong quyết định của anh là cơ hội làm việc với David Richards, ông chủ đội BAR. Anh kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 7 với 14 điểm. 2004: Đứng vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng các tay đua. Vào mùa giải 2004, anh tuyên bố mục đích của mình là liên tục giành điểm và lên bục trao giải. Anh lên bục đầu tiên trong cuộc đua thứ hai trong năm sau khi cán đích ở vị trí thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia. Tại chặng đua sau đó ở Bahrain, anh tiếp tục về đích ở vị trí thứ ba. Trong cuộc đua tiếp theo ở trường đua Imola, anh giành vị trí pole đầu tiên và về nhì sau Michael Schumacher. Anh lên được 10 bục trong 18 cuộc đua của mùa giải nhưng không giành được chiến thắng nào cả. Anh đứng thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua và giúp đội của mình giành vị trí thứ hai trong bảng xếp hạng các tay đua. 2005: Tiếp tục gặp vấn đề với hợp đồng với BAR và Williams. Bất chấp mối thù với đội vào năm ngoái, Button khẳng định rằng anh được đội ủng hộ và rất lạc quan cho mùa giải 2005. Anh không thể đối phó với những thay đổi về quy định liên quan đến khí động học và kết quả là chiếc xe đua của đội thiếu tốc độ. Button bị loại khỏi kết quả từ vị trí thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 San Marino sau khi những người giám sát cuộc đua phát hiện ra chiếc xe của anh có bình xăng thứ hai bên trong bình xăng chính. Khi bình xăng đó cạn nước, xe của anh ấy nhẹ cân. Do đó, Tòa phúc thẩm quốc tế của Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) cấm anh và đội của anh tham gia hai cuộc đua tiếp theo. Sau khi trở lại, anh giành được vị trí pole thứ hai trong sự nghiệp của mình ở Montreal nhưng bỏ cuộc sau một lỗi lái xe khi ở vị trí thứ ba. Sau giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Button ghi điểm trong tất cả các cuộc đua còn lại với hai lần về đích ở vị trí thứ ba tại Đức và Bỉ. Anh kết thúc mùa giải này ở vị trí thứ chín với 37 điểm. Trong mùa giải này, anh lại gặp phải tranh chấp hợp đồng liên quan đến BAR và Williams. Anh ký hợp đồng trước để lái xe cho Williams vào năm 2006 nhưng anh tin rằng cơ hội giành chiến thắng đầu tiên của mình sẽ tốt hơn tại BAR và hợp đồng với Williams của anh không ràng buộc. Frank Williams khẳng định hợp đồng hoàn toàn có giá trị ràng buộc và BAR yêu cầu anh thực hiện một số nghĩa vụ theo hợp đồng với các nhà tài trợ. Honda (2006-2008). 2006: Giành chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp. BAR được đổi tên thành Honda trước năm 2006 sau khi được Honda mua lại và đồng đội mới của Button là tay đua Rubens Barrichello người Brazil giàu kinh nghiệm. Honda tuyên bố sẽ đối xử với anh bình đẳng và anh và đồng đội Barrichello sẽ không nhận được sự ưu đãi nào. Đội của anh thực hiện tốt trong buổi thử nghiệm nhờ sự hỗ trợ của các nguồn lực bổ sung hiện có từ Honda. Anh ghi điểm ở năm trong số mười một cuộc đua đầu tiên và về thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia và giành vị trí pole tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc tiếp theo. Anh giành chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1 của mình tại giải đua ô tô Công thức 1 Hungary bị ảnh hưởng bởi thời tiết ẩm ướt khi xuất phát ở vị trí thứ 14. Anh thường về thứ tư hoặc thứ năm ở mỗi cuộc đua trong số năm cuộc đua tiếp theo và kết thúc mùa giải sau khi lên bục vinh quang ở giải đua ô tô Công thức 1 Brazil. Trong sáu chặng đua cuối cùng của mùa giải, anh ghi được nhiều điểm hơn bất kỳ tay đua nào khác. 2007. Năm 2007, Button tiếp tục đua cho Honda cùng với Barrichello. Anh đã không thể tham gia buổi thử nghiệm trước mùa giải vì bị gãy hai đường gân ở xương sườn vì một sự cố đua xe kart vào cuối năm 2006. Chiếc xe đua Honda RA107 của anh bị mất cân bằng về khí động học do thiếu độ bám đường sau khi Shuhei Nakamoto được bổ nhiệm làm Giám đốc kỹ thuật cấp cao sau sự ra đi của Geoff Willis. Mùa giải này của anh tệ hơn nhiều so với năm 2006 vì anh thường xuyên vượt qua vòng phân hạng ngoài top 10 và tốc độ kém. Anh ghi được sáu điểm trong suốt mùa giải ở vị trí thứ 15 chung cuộc với thành tích tốt nhất là thứ năm tại giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc mưa ướt. 2008. Button tiếp tục ở lại với Honda vào năm 2008 và tiếp tục đua với Barrichello. Trong năm 2008, anh cùng một nhóm bạn đến Lanzarote để lập căn cứ tập luyện cho mùa giải sắp tới. Anh cảm thấy tự tin hơn kể từ khi giám đốc kỹ thuật Ross Brawn trở thành ông chủ của Honda và chú ý đến thiết kế đường hầm gió của chiếc xe. Chiếc xe đua Honda RA108 tỏ ra kém cạnh tranh và anh chỉ ghi được ba điểm vào năm đó sau khi về thứ sáu tại giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha. Vào sáng ngày 4 tháng 12 năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến Honda phải rút lui khỏi Công thức 1 và điều này khiến cơ hội giành chức vô địch Công thức 1 vào năm 2009 của anh phụ thuộc vào việc đội tìm được người mua. Anh được người bạn của mình, Richard Goodard, thông báo vào ngày hôm trước và thay đổi kế hoạch của mình để thảo luận về việc rút tiền với các đồng nghiệp nhưng không phải hiệu suất cho chiếc xe 2009. Ngoài ra, anh đã từ chối lời đề nghị lái xe cho đội thấp cấp Toro Rosso của Red Bull Racing vì Toro Rosso sẽ không trao cho anh ấy một chiếc xe cạnh tranh. Giành chức vô địch đầu tiên và duy nhất với Brawn GP (2009). Vào năm 2009, Brawn mua đội Honda và đổi tên thành Brawn GP vào đầu tháng 3 năm 2009. Button ký hợp đồng cho đội vào năm 2009 và được giảm lương như trong một phần của thỏa thuận. Mặc dù không được đánh giá cao giành chức vô địch, nhưng chiếc xe Brawn BGP 001 của đội nhanh chóng và bền bỉ trong quá trình thử nghiệm trước mùa giải nhờ gói khí động học hiệu quả, động cơ Mercedes-Benz V8 mạnh mẽ và bộ lốp trơn mượt. Ghế của chiếc xe được hạ xuống để anh cảm thấy thoải mái hơn. Anh giành chiến thắng trong sáu trong bảy chặng đua đầu tiên với bốn vị trí pole nhờ bộ khuếch tán kép giúp anh và các đội Toyota và Williams nhanh hơn những đội khác. Sau khi các đội lớn giới thiệu bộ khuếch tán được cấu hình lại của riêng họ, sự thống trị của Button kết thúc và anh thường xuyên về đích vị trí thứ sáu trong mười chặng đua tiếp theo và ghi được 35 điểm sau khi lấy được 61 điểm trong bảy cuộc đua đầu tiên. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Brasil , Button bị cản trở trong vòng phân hạng do chọn lốp sai trong thời tiết ẩm ướt và chỉ vượt qua ở vị trí thứ 14. Trong cuộc đua đó, anh về thứ năm và giành đủ số điểm để giành chức vô địch đầu tiên và duy nhất của mình. McLaren (2010-2017). 2010: Mùa giải đầu tiên thành công với McLaren. Vào năm 2010, Button chuyển đến McLaren và đồng đội của anh là nhà vô địch Công thức 1 năm 2008 và người đồng huơng Lewis Hamilton. Anh giành chiến thắng tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc và giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc và dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua cho đến thời điểm đó. Sau đó, anh về nhì ở Thổ Nhĩ Kỳ sau khi nhận thông tin sai lệch của đội khiến anh phải đấu với Hamilton để giành chiến thắng chặng đua đó. Điều này làm căng thẳng mối quan hệ của anh với Hamilton. Tại các chặng đua sau đó, anh lên bục trao giải tại hai chặng đua và ba lần ghi điểm để tiếp tục tranh chức vô địch. Button bỏ cuộc tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ sau khi bị Sebastian Vettel đâm vào xe và làm thủng bộ tản nhiệt trong chiếc xe đua của anh. Anh lên bục sau khi về đích vị trí thứ hai ở Monza và sau đó về đích ở vị trí thứ tư tại các chặng đua ở Singapore và Nhật Bản. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Brazil, anh và đoàn tùy tùng của anh bị đe dọa bởi một số tội phạm ở khu ổ chuột trên đường trở về từ vòng phân hạng tại Interlagos nhưng không ai bị thuơng trong vụ việc đó. Về mặt toán học, Button bị loại khỏi danh hiệu với vị trí thứ năm trong cuộc đua đó và đứng ở vị trí thứ năm trong bảng xếp hạng các tay đua sau khi về đích ở vị trí thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2011: Vị tri á quân trong bảng xếp hạng các tay đua và đánh bại Lewis Hamilton. Chiếc xe MP4-26 của Button cho năm 2011 được chế tạo xung quanh khung cao hơn của anh từ ý kiến đóng góp của đội vào cuối năm 2010. Anh tin rằng việc giới thiệu lốp Pirelli vào mùa giải đó sẽ phù hợp với phong cách lái êm ái của anh và cho biết giành chức vô địch sẽ khiến anh khó từ giã làng Công thức 1. Anh bắt đầu mùa giải sau khi về đích không thấp hơn vị trí thứ sáu trong sáu cuộc đua đầu tiên với ba lần lên bục trao giải. Anh giành chiến thắng tại giải đua ô tô Công thức 1 Canada bị ảnh hưởng bởi thời tiết mưa gió và sau hai lần va chạm khiến anh rơi xuống vị trí cuối cùng và vượt qua Vettel sau khi Vettel trượt ra ngoài trên mặt đường đua trơn trượt ở vòng cuối cùng. Anh sau đó giành chiến thắng tại giải đua ô tô Công thức 1 Hungary cũng được tổ chức trong thời tiết tương tự và giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản. Thế nhưng, kết quả của anh trong suốt mùa giải này loại anh khỏi cuộc tranh chức vô địch sau khi Vettel giành chức vô địch ở Nhật Bản. Anh giành được 3 chiến thắng và 12 lần lên bục trao giải để về nhì với 270 điểm. 2012: Giành chiến thắng cuối cùng trong sự nghiệp. Ông chủ đội, ông Martin Whitmarsh, muốn Button ở lại McLaren trong ba năm tới trong khi anh đang đàm phán với Ferrari về một chỗ đua cho năm 2013. Trước thềm giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản 2011, anh đã ký hợp đồng gia hạn thêm ba năm với McLaren. Chiến thắng tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc mở đầu mùa giải và hai lần về nhì tại giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc và giải đua ô tô Công thức 1 Đức là những điểm nổi bật trong nửa đầu mùa giải của anh. Thành tích tổng thể của anh trong bảy cuộc đua đầu tiên giảm do chiếc xe khó tạo ra nhiệt độ và độ bám chính xác vào lốp trước Pirelli mới có tuổi thọ ngắn do phong cách lái xe mượt mà của anh. Do vậy, anh phải thay đổi cách thiết lập ô tô của mình và tự điều chỉnh cho phù hợp với lốp xe để duy trì nhiệt độ nhằm mang lại hiệu suất tốt hơn. Trong phần còn lại của mùa giải, anh giành chiến thắng ở Bỉ và Brazil và lọt vào top 5 ở 5 trong 7 chặng đua tiếp theo để giành vị trí thứ 5 chung cuộc với 188 điểm. 2013: Bắt đầu sa sút nhưng đánh bại đồng đội mới. Sergio Pérez, tay đua tốt nghiệp Học viện Tay đua Ferrari, gia nhập McLaren vào năm 2013. McLaren tạo chiếc xe MP4-28 không dành cho những thay đổi về quy định cho năm 2014 và điều này khiến Button điều khiển một chiếc xe không ổn định vì thiếu lái, thiếu lực xuống và lốp xuống cấp nghiêm trọng. Sau khi về thứ chín tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc mở đầu mùa giải, McLaren đã giới thiệu các bộ phận từ chiếc xe MP4-27 để lắp đặt lên chiếc xe MP4-28 nhưng điều này không gây ảnh hưởng đáng kể và Button tiếp tục đạt được kết quả yếu kém trong suốt mùa giải với kết quả tốt nhất là vị trí thứ tư tại giải đua ô tô Công thức 1 Brazil kết thúc mùa giải. Sau mùa giải, anh đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng các tay đua với 73 điểm. 2014: Lên bục trao giải một lần cuối cùng và đánh bại đồng đội mới một lần nữa. Button đã đồng ý kéo dài hợp đồng để ở lại với McLaren cho năm 2014 vào tháng 9 năm 2013 nhưng đã cân nhắc việc nghỉ phép sau cái chết bất ngờ của cha anh ở Monaco vào tháng 1 năm 2014. Trong mùa giải này, anh lại có một đồng đội mới và đó là tay đua tân binh người Đan Mạch, Kevin Magnussen. Họ có một mối quan hệ thân thiết. Anh về thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc, chặng đua đầu tiên của mùa giải, sau khi tay đua người Úc Daniel Ricciardo của Red Bull Racing bị loại khỏi kết quả vì vi phạm mức tiêu thụ nhiên liệu và bản kháng cáo của Red Bull bị từ chối sau cuộc đua. Cuộc đua này cũng chính là lần lên bục vinh quang cuối cùng trong sự nghiệp Công thức 1 của anh. Anh đã về đích bốn lần về đích ở vị trí thứ tư và ghi thêm điểm bảy lần nữa để giành vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng các tay đua với 126 điểm. Anh đã đánh bại Magnussen mười lần trong vòng phân hạng và ghi được gấp đôi số điểm so với Magnussen. 2015: Sa sút một lần nữa. Button trở nên không hào hứng với Công thức 1 và báo chí đồn đoán về tương lai của anh ấy trong môn thể thao này với tin đồn rằng Alonso sẽ là đồng đội của Magnussen vào năm 2015. Anh muốn ở lại McLaren nhưng cảm thấy bất an về sự nghiệp của mình. Ron Dennis, ông chủ đội McLaren, không muốn Button đua cho McLaren nhưng cổ đông của đội, ông Mansour Ojjeh, đã nói với Dennis rằng Button nên ở lại thay vì Magnussen sau khi xem xét tình hình tuơng lai. Các cuộc đàm phán giữa Button và giám đốc cuộc đua McLaren, ông Éric Boullier, và chủ sở hữu đội Ron Dennis đã kết thúc với thỏa thuận để Button tiếp tục đua vào ngày 10 tháng 12. Button đồng ý giảm lương với tùy chọn cho năm thứ hai. Trong hợp đồng đó, McLaren hoặc Button có thể áp dụng các điều khoản để chấm dứt hợp đồng sau mùa giải nếu một trong các bên muốn điều đó. Anh có một mùa giải khá thất vọng khi chỉ bốn lần về đích trong top 10 và kết quả tốt nhất là vị trí thứ 6 tại giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ. Đồng thời, anh hiếm khi có thể vượt qua phần đầu tiên (Q1) của vòng phân hạng và đứng thứ 16 trong bảng xếp hạng các tay đua với 16 điểm sau khi mùa giải kết thúc. 2016: Mùa giải cuối cùng với tư cách là tay đua chính thức cho McLaren. Vào năm 2016, anh đã được đội McLaren giữ lại sau các cuộc thảo luận hợp đồng với Dennis và các cuộc gặp với các kỹ sư và khí động học tại Trung tâm Công nghệ McLaren (MTC). Anh được tăng lương 50% khi ở lại McLaren thêm một năm. Đồng thời, anh đã cân nhắc việc quay trở lại đội Williams nhưng sau đó từ chối. Trái ngược với năm ngoái, động cơ Honda mới của McLaren mạnh hơn và điều đó khiến anh có cơ hội ghi điểm cao hơn nhưng độ bền bỉ lại tiếp tục cản trở anh và McLaren. Sau mùa giải, anh đã hoàn thành 15 trong số 21 cuộc đua và kết quả tốt nhất của anh là vị trí xuất phát thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 Áo với vị trí thứ sáu sau cuộc đua. Anh kết thúc mùa giải này ở vị trí thứ 15 trong bảng xếp hạng các tay đua với 21 điểm. 2017: Quay trở lại với McLaren cho một cuộc đua duy nhất. Button được McLaren giữ lại làm tay đua dự bị với tùy chọn quay lại cuộc đua toàn thời gian cho đội vào năm 2018 nếu anh và McLaren đồng ý. Vào tháng 4 năm 2017, Boullier đề nghị Button đua thay cho Alonso ở giải đua ô tô Công thức 1 Monaco 2017 do Alonso tham gia giải đua Indianapolis 500. Trong cuộc đua, anh đã phải bỏ cuộc sau một vụ va chạm với tay đua Pascal Wehrlein của Sauber khiến chiếc xe đua của anh bị hư hỏng. Thống kê thành tích. Thống kê tổng thể. Chú thích:
1
null
Il barbiere di Siviglia (tiếng Việt: Người thợ cạo thành Sevilla) là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Ý Giovanni Paisiello. Người đã sáng tác lời cho tác phẩm là Giuseppe Petrosellini. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1782 tại thành phố Sankt Petersburg của Nga, sau đó được trình diễn tiếp vào các năm 1789 và 1805 lần lượt tại London, Anh và New Orleans, Mỹ. Cùng với vở Il barbiere di Siviglia, vở opera này của Paisiello trở thành 2 trong những vở opera hay nhất có chủ đề về "Người thợ cạo thành Sevilla".
1
null
Tiếng Syriac hay tiếng Suryani ( ') là một phương ngữ của tiếng Aram Trung thời, từng được nói khắp vùng Cận Đông và Đông Ả Rập. Xuất hiện dưới dạng văn tự lần đầu tiên vào thế kỷ thứ nhất CN sau khi từng tồn tại như một ngôn ngữ nói chưa có chữ viết trong 5 thế kỷ, tiếng Syriac Cổ điển đã trở thành một ngôn ngữ viết quan trọng trên khắp khu vực Trung Đông từ thế kỷ 4 tới thế kỷ 8, là ngôn ngữ kinh điển của thành phố Edessa, được lưu giữ trong nền văn học Syriac đồ sộ. Cùng với tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh, tiếng Syriac là một trong ba ngôn ngữ Kitô giáo quan trọng nhất trong những thế kỷ đầu Công Nguyên. Tiếng Syriac trở thành cỗ xe của văn hóa và Kitô giáo Syriac, lan rộng khắp châu Á tới tận duyên hải Malabar Ấn Độ và miền Đông Trung Quốc, và là phương tiện giao tiếp và truyền bá văn hóa cho người Ả Rập cũng như, ở mức độ ít hơn, cho người Ba Tư. Chủ yếu là một phương tiện chuyển tải của Kitô giáo, tiếng Syriac có một ảnh hưởng văn học và văn hóa căn bản lên sự phát triển của tiếng Ả Rập, ngôn ngữ sẽ thay thế phần lớn nó vào khoảng thế kỷ 14. Cho tới nay, tiếng Syriac vẫn tiếp tục là ngôn ngữ phụng vụ của Kitô giáo Syriac. Tiếng Syriac là một ngôn ngữ Aram Trung thời (giai đoạn giữa), và như thế là một ngôn ngữ thuộc nhánh Tây Bắc của nhóm ngôn ngữ Semit. Nó được viết bằng bảng chữ cái Syriac, một phái sinh từ bảng chữ cái Aram.
1
null
Evgeny Onegin (tiếng Nga: Евгений Онегин) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Tchaikovsky đã phối hợp với Konstantin Stepanovich Shilovsky để viết lời cho tác phẩm. Tác phẩm được sáng tác dựa theo cuốn tiểu thuyết bằng thơ nổi tiếng Yevgeny Onegin của đại văn hào Nga Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Vở opera được viết trong 2 năm 1877 và 1878. Sau khi tác phẩm hoàn thành, nơi tác phẩm được trình diễn đầu tiên là Moskva và năm tác phẩm bắt đầu bước lên sân khấu là năm 1879.
1
null
Cô Sao (tên tiếng Anh là "Miss Sao") là một vở opera của Đỗ Nhuận. Đây là vở nhạc kịch đầu tiên của nền âm nhạc Việt Nam, cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Đỗ Nhuận. Vở nhạc kịch được sáng tác đầu thập niên 1960 trong khi Đỗ Nhuận đang bị giam cầm tại nhà tù Sơn La và được công diễn lần đầu năm 1965 với Võ Bài đảm nhiệm vai trò đạo diễn. "Cô Sao" có nội dung nói về một cô gái tên A Sao thuộc dân tộc Thái, một dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Cô mồ côi cha mẹ nên sớm bị chế độ phong kiến ruồng bỏ, làm ô nhục. A Sao còn bị vu khống là có ma cà rồng trong người nên cô bị ép phải sống trong rừng. Tại đây, cô gặp Hà và Vân, là những chiến sĩ giúp A Sao có được ánh sáng và lý tưởng cách mạng. Trải qua 2 lần công diễn và dàn dựng, "Cô Sao" bị thất lạc bản tổng phổ và được con trai Đỗ Nhuận là Đỗ Hồng Quân lên kế hoạch phục dựng. Sau gần 40 năm kể từ lần công diễn thứ hai, "Cô Sao" đã được dàn dựng lại nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Đỗ Nhuận vào năm 2012. Với việc phục dựng và công diễn lần thứ 3, "Cô Sao" mang nhiều ý nghĩa với nền âm nhạc Việt Nam khi lần đầu người dân nơi đây được xem một loại hình nghệ thuật có tính chất quốc tế như opera. Những khúc aria trong vở nhạc kịch này luôn là những thử thách với các giọng ca opera hàng đầu Việt Nam qua nhiều thế hệ. Lịch sử. Bối cảnh. Theo nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam và cũng là con trai của Đỗ Nhuận, "Cô Sao" được nhạc sĩ Đỗ Nhuận lên dự định sáng tác trong thời gian ông bị thực dân Pháp giam cầm tại nhà tù Sơn La, vào khoảng những năm 1941 đến 1943. Nhưng mãi đến những năm đầu thập niên 1960, Đỗ Nhuận mới thực sự sáng tác "Cô Sao". Tác phẩm được công diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn Hà Nội trong dịp kỷ niệm 20 năm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhận được sự đón nhận từ công chúng. "Cô Sao" được Nhà hát Giao hưởng nhạc vũ kịch Việt Nam dàn dựng lần đầu vào năm 1965. Buổi công diễn năm 1965 của vở kịch có sự tham gia của những giọng ca opera hàng đầu của Việt Nam lúc bấy giờ: Ngọc Dậu, Kim Định, Quý Dương, Quang Hưng, Tâm Trừng, Lê Gia Hội, Quốc Trụ, Trung Kiên. Nghệ sĩ nhân dân Lê Dung cũng là người được xem là thể hiện thành công nhất của vở nhạc kịch. Vở nhạc kịch cũng được biểu diễn với quy mô rất đồ sộ bằng 150 nhạc công. Đến năm 1976, vở nhạc kịch công diễn lần thứ hai và được đổi tên thành "A Sao". Lần công diễn đầu, vai trò đạo diễn do Võ Bài đảm nhiệm, còn lần tái công diễn là đạo diễn Văn Hà. Lần thứ hai công diễn đồng thời cũng được lưu diễn ở các tỉnh thành phố khác tại Việt Nam như Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh. Một số aria trích trong các vở nhạc kịch còn được thu thanh và phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và được nhiều thế hệ nghệ sĩ Việt Nam biểu diễn ở trong nước và ở nhiều nước trên thế giới. Tính đến năm 2000, vở nhạc kịch đã được biểu diễn trên 100 lần, là một kỷ lục hiếm có với một vở diễn sân khấu hiện đại cũng như kịch hát mới tại Việt Nam. Thất lạc và phục dựng. Sau này, vì nhiều lý do khách quan, nguyên bản sáng tác của nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã bị thất lạc. Đỗ Hồng Quân cho biết, ông phải phục dựng tác phẩm phải gần như từ đầu. Ông đã than thở rằng do công tác lưu trữ không tốt nên bản tổng phổ "Cô Sao" đã thất lạc, việc phục dựng gần như là rất khó. Trong khi đó, bản ghi âm hiện cũng chỉ còn lại vài aria. Trong quá trình nỗ lực tìm kiếm, Đỗ Hồng Quân đã phát hiện ra bản nháp bằng bút chì chép tay của cha mình năm 1960. Ông đã cùng với nhạc sĩ Phan Anh tiến hành khôi phục lại toàn bộ bản tổng phổ của “Cô Sao” từ bản chép tay trên cơ sở đối chiếu lại với những gì còn sót lại. Đỗ Hồng Quân đã gặp các nghệ sĩ năm xưa, xin lại từng bản tổng phổ những tiết mục mà họ đã tham gia. Sau hơn một năm, ông đã khôi phục lại 1.000 bản tổng phổ từ những bản sáng tác viết tay của cha mình. Ông cũng cho biên tập, bổ sung phối khí tác phẩm. Một vài cộng sự khác cùng tham gia và hoàn thành tổng phổ được như vốn có sau khi so sánh, đối chiếu, sưu tầm với những tư liệu cũ. Sau khi đọc lại tư liệu, Đỗ Hồng Quân đã biên tập, chỉnh lý, bổ sung nâng cao để trình diễn bằng một bản diễn mới chứ không lặp lại lối diễn của hai lần trước. Trong khi đó, theo phản ánh của những người đã được xem bản dựng đầu tiên vào năm 1965, bản tổng phổ mới không trung thành với nguyên gốc chép tay, nhiều chỗ bản gốc chuyển đoạn không hợp lý, những nốt nhạc chưa hay, kết thúc còn dài dòng. Do đó, riêng phần âm nhạc lần này sẽ có phối khí lại, phối mới hoặc ở những phần quan trọng của tác phẩm được phát triển mở rộng. Tuy nhiên, tác phẩm được tôn trọng tính nguyên bản nên những đường nét chính ở kịch bản gốc sẽ không được thay đổi. Tái công diễn. Sau gần 40 năm kể từ lần công diễn thứ hai, "Cô Sao" được dàn dựng lại nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Đỗ Nhuận. Hội Nhạc sĩ Việt Nam cùng Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam, Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam sẽ dàn dựng mới công trình này. Cuối năm 2012, nhạc kịch "Cô Sao" được công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội, sau đó ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Sơn La, Thanh Hóa với một đội ngũ dàn dựng các nghệ sĩ của Nhà hát Nhạc vũ kịch như Phạm Anh Phương, Hà Phạm Thăng Long, Mạnh Dũng, Mạnh Đức, Huy Đức, Vành Khuyên, Mạnh Chung… Các họa sĩ thiết kế mỹ thuật là Hoàng Hà Tùng và Nguyễn Sơn. Đầu năm 2014, vở nhạc kịch đã hoàn thành được nguyện vọng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận là tổ chức công diễn ở Sơn La vào dịp kỷ niệm 60 năm Việt Nam thắng trận trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đỗ Hồng Quân cho biết, để đưa được vở diễn lên Sơn La gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về cơ sở vật chất và kinh tế. Sơn La vốn không có một nhà hát nào đủ tiêu chuẩn mà chỉ có một hội trường với sức chứa khoảng 500 người. Do đó, đoàn diễn đã phải rút gọn lại từ khâu trang trí, hệ thống ánh sáng, cải tạo sân khấu đến dàn nhạc và lực lượng diễn viên, từ 150 diễn viên đã phải rút xuống 80, đồng thời phải điều chỉnh lại tất cả về nghệ thuật, từ dàn hợp xướng đến dàn nhạc và nhạc cụ. Nội dung chính. Vở kịch có nội dung xoay quanh A Sao, một cô gái dân tộc Thái trẻ tuổi, mồ côi cha mẹ từ sớm. Cô lớn lên ở vùng núi Tây Bắc những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. A Sao bị xã hội thực dân phong kiến ruồng bỏ và làm ô nhục. Không lôi kéo được cô, A Sao đã bị vu khống rằng cô có ma cà rồng trong người và bị ép phải sống trong rừng cách xa bản mường. Ở khu rừng gần nhà tù Sơn La, Sao đã gặp Hà – một chiến sĩ cộng sản bị tù đày và Vân – một cán bộ đang hoạt động cách mạng bí mật. Nhờ đó, A Sao được chạy ra vùng giải phóng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Sao gặp lại Hà bên cây đào Tô Hiệu. Đây cũng là thời điểm Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Họ gặp nhau rồi chia tay nhau, nhưng là để cùng bước chung trên con đường "lý tưởng của cách mạng". Các màn. "Cô Sao" là tác phẩm lớn với khoảng 3 màn, 3 cảnh và 36 tiết mục. Màn 1. Bao gồm phần mở đầu tới tiết mục 15. Sao là cô gái dân tộc Thái mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vì số phận dân làng ruồng rẫy nên phải xa lánh làng xóm sống trong rừng. Vân là một cán bộ liên lạc cách mạng đang bị truy đuổi được Sao cho trốn trong nhà rồi tìm cách đánh lừa Xái, Nộ (hai tay sai của mụ Sứ) nhằm cứu Vân thoát nạn. Sao tỏ ra đau khổ và tủi nhục vì bị dân làng nghi là ma cà rồng rồi ruồng bỏ, xa lánh. Được Vân và Hà (cũng là chiến sĩ cách mạng) giúp đỡ, Sao dần lấy niềm tin vào chính bản thân mình và cuộc sống tươi đẹp để vực dậy, nhưng một lần nữa số phận không buông tha cho cô. Cô bị bắt cóc và tống vào đội gái xòe, trở thành nô lệ cho nhà mụ Ba quan tri châu Đèo Văn Hung. Màn 2. Bao gồm từ tiết mục 16 đến 25. Cảnh tượng hiện lên từng tốp người Thái, người H'Mông, Khơ Mú rác rưới, mệt nhọc gùi từng bị thóc, ngô, da hổ, sừng hươu vào dinh quan châu nộp sưu, nộp thuế cho tên tri huyện Đèo Văn Hung tàn ác, hống hách. Cụ Sình là một cụ già người H'Mông đến nộp quan hai bàn tay trắng, lập tức bị tên quan châu sai lính đánh đập và bắt giam. Thân phận các cô gái xòe cũng vô cùng cực khổ, phải múa hát mua vui cho tầng lớp thống trị dưới đòn roi vọt. May mắn thay, Sao được cụ Sình cứu thoát khỏi nhà mụ Ba và được đưa về căn cứ cách mạng. Tháng 3 năm 1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, nhiều tù nhân chính trị ở Sơn La tổ chức vượt ngục và cùng nhân dân trong vùng đấu tranh giành lại chính quyền. Màn 3. Bao gồm từ tiết mục 26 đến hết. Mùa xuân năm 1946, một ngày hội mừng chiến thắng của nhân dân các dân tộc trong vùng diễn ra gần nhà tù Sơn La. Sao, cụ Sình, On và Hà cùng nhiều nam thanh nữ tú của địa phương gặp nhau tại đây. Họ nhớ lại những kỷ niệm xưa, mừng đất nước đổi mới. Hà, người đã được Sao đem lòng thương nhớ cùng Vân và chính Sao cùng nhau chuẩn bị lên đường Nam tiến cho cuộc chiến tranh. Sáng tác. Khi học viết nhạc kịch ở Liên Xô, "Cô Sao" được Đỗ Nhuận lấy cảm hứng từ câu thơ "Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, Cay đắng chi bằng mất tự do" của Hồ Chí Minh để làm tư tưởng chính của vở nhạc kịch. Đến khi về nước, ông gấp rút hoàn thành vở nhạc kịch. Trong vài tháng, Đỗ Nhuận làm việc với các cộng sự từ chỉ đạo nghệ thuật Phạm Ngọc Lê đến đạo diễn Võ Bài, nhạc sĩ dựng dàn nhạc Trần Quý đến nhạc sĩ dựng hợp xướng Đỗ Dũng và biên đạo múa Thái Ly. Vở diễn còn là kỷ niệm giữa ông và Thái Ly – một kỷ niệm nghệ thuật cuối cùng của họ tại miền Bắc Việt Nam. Sau khi "Cô Sao" công diễn ngày 9 tháng 9 năm 1965, vài tháng sau, Thái Ly vượt đường Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Ngoài việc là tác giả của ca từ, kịch bản, Đỗ Nhuận còn vẽ phác thảo bằng bút chì một số cảnh trong vở nhạc kịch và vẽ chân dung các nhân vật chính theo cách nghĩ của ông. Âm nhạc và nhân vật. Trong vở nhạc kịch này, ngoài hình thức ouverture được thay bằng đọc thơ và hợp xướng kết hợp dàn nhạc giao hưởng đệm, Đỗ Nhuận đã sử dụng các hình thức cấu trúc âm nhạc cơ bản của opera nguyên gốc châu Âu như aria, song ca, tam ca, tứ ca và hợp xướng. Riêng về hát nói, ông căn cứ theo ngữ điệu tiếng Việt và các hình thức kể, nói lối, đọc thơ trong âm nhạc dân tộc để xử lý các tình huống âm nhạc khác nhau. Nhân vật A Sao là nhân vật trung tâm với tuyến nhạc trữ tình, được phát triển trên 2 đường nét giai điệu chính, gọi là chủ đề "tự do" và chủ đề "tình yêu". Hai chủ đề âm nhạc này được sử dụng theo âm điệu ngũ cung đi theo nhân vật A Sao xuyên suốt vở kịch. Hai chủ đề "tự do" và "tình yêu" xuất hiện lần đầu trong aria của Sao, gần như được giữ nguyên dạng, chỉ dịch giọng sang điệu khác mỗi khi trở lại trong song ca, tam ca. Chúng còn được ghép nối với nhau thành aria mới của nhân vật chính. Để diễn tả tâm trạng bất an của Sao, Đỗ Nhuận sử dụng lối kết hợp các điệu thức ngũ cung khác nhau, không đơn giản theo chiều ngang như các ca khúc đơn thuần của ông mà lần này, ông lồng chúng vào nhau. Giai điệu tuy nhiều biến âm nhưng vẫn có âm hưởng của ngũ cung nhờ sự trộn lẫn hai điệu thức năm âm không bán âm. Gắn với tuyến trữ tình của Sao còn có một chuỗi những tiết mục diễn ra trong hoạt cảnh giấc mơ của cô, trong đó âm nhạc được hình thành chủ yếu trên những điệu dân ca Thái. Điệu "Xoè hoa" được giữ nguyên dạng trong bài hát ngắm sao ở phân đoạn hồi tưởng tuổi thơ của nhân vật A Sao. Bài hát này được mở rộng cường độ thành âm thanh đêm hội và nguyên gốc điệu xoè Thái lại được sử dụng làm nhạc nền cho điệu múa trong mơ. Giấc mơ kết thúc ở cảnh A Sao cùng người yêu nhảy múa trên điệu nhạc "Inh lả ơi". Chủ đề cách mạng giải phóng con người được thể hiện rõ ràng nhất qua tuyến âm nhạc thứ 2 với âm điệu trầm hùng, diễn tả hình ảnh những người tù cách mạng, đại diện là người yêu của A Sao - nhân vật Hà. Theo nhà phê bình âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu, nhân vật Hà lấy nguyên mẫu từ chính Đỗ Nhuận, còn cảnh tù đày ở nhà tù Sơn La lấy từ chính kí ức của ông. Qua đó, trong tiếng hát đoàn tù cũng có sự chuyển biến như sự chuyển biến trong sáng tác ca khúc của Đỗ Nhuận. Ông sử dụng từ nét nhạc mang tính "uất hận" với mô típ quen thuộc là Fa♯Mi♯Rê trong các ca khúc thập niên 1940 của ông cho đến tính chất "chắc khoẻ, tự tin và dân dã" trong âm điệu ngũ cung. Nếu như tuyến âm nhạc thứ nhất chủ yếu dựa vào chất liệu âm nhạc dân gian vùng Tây Bắc Việt Nam, tuyến âm nhạc thứ hai gần với âm điệu dân ca của dân tộc Kinh thì tuyến âm nhạc thứ ba tạo hình ảnh âm nhạc đối lập bằng một âm điệu "lai căng, méo mó, đôi khi hài hước". Ông sử dụng kèn phương Tây để miêu tả vũ điệu ma quỷ và điệu hát của những nhân vật phản diện trong vở kịch. Đoạn hát nói "Nó là con gái/Có ma cà rồng..." là một đoạn hát nói trên tiết tấu thơ bốn chữ của tên tay sai đã sử dụng một cách hiệu quả lối hát nói của thể loại nhạc Chèo. Nhân vật Tri châu Đèo Văn Hung trong vở nhạc kịch cũng được sử dụng một bài ca với lời mang tính chất huênh hoang, bắt nguồn từ lối nói vần quảng cáo của những người rao bán thuốc rong trên tàu xe. Nhân vật mụ Ba, vốn trong vở nhạc kịch là một Me Tây cũng được Đỗ Nhuận gán cho điệu nhạc vừa giả nhân từ "A di đà Phật" trên nét nhạc méo mó lại vừa châm biếm trong lối nói vần hát vần dân gian của Việt Nam. Đỗ Nhuận đã tiếp nhận kĩ thuật sáng tác opera từ phương Tây khi sử dụng hình thức phức điệu fugue bốn bè trên hai chủ đè ở dàn nhạc để diễn tả nỗi buồn của nhân vật A Sao và fugue bốn bè trên mô típ "trầm hùng" trong cảnh đoàn tù lao động khổ sai. Ông đã không bỏ qua các thủ pháp phức điệu như co giãn chủ đề, nhưng chủ yếu vẫn hướng tới lối phát triển tự do và lược giản mà không sắp đặt theo kĩ thuật phức tạp, nặng nề. Tính đơn giản của vở nhạc kịch cũng được thể hiện trong cấu trúc của các aria, arioso, song tấu, tam tấu và hợp xướng. Cách tư duy theo ngôn ngữ ca khúc được duy trình không chỉ trong những hình thức thanh nhạc một bè và nhiều bè mà còn cả trong phần khí nhạc. Đánh giá. "Cô Sao" được viết theo quy chuẩn của nhạc kịch quốc tế với giọng hát theo lối bel canto, hợp xướng, dàn nhạc giao hưởng và múa ballet. Ngoài ý nghĩa về lịch sử, nghệ thuật, điểm đặc biệt của nhạc kịch "Cô Sao" là từ cốt truyện, kịch bản, ca từ, âm nhạc, tổng phổ đều do nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác. "Cô Sao" tổng hợp được cả 3 phong cách âm nhạc của Đỗ Nhuận, đó là tuyến nhạc trữ tình, trầm hùng và hài hước. "Cô Sao" cùng "Người tạc tượng" đã góp phần khẳng định được vị thế quan trọng của Đỗ Nhuận trong lĩnh vực nhạc kịch của Việt Nam. Theo một nhận định, xét về giá trị nghệ thuật, tổng thể của vở nhạc kịch tuy còn biểu hiện "nặng đầu nhẹ đuôi" nhưng vẫn có thể coi đây là một sản phẩm nghiêm túc, nhiều tìm tòi sáng tạo trong việc vận dụng ngôn ngữ âm nhạc theo hướng dân tộc, là thành công đầu tiên của thể loại opera tại Việt Nam.Những đoạn hát vần nói vần trên âm hình tiết tấu đã cho thấy ông có khả năng nhuần nhuyễn trong việc đặt vè. Sự tìm tòi trong phương hướng "dân tộc hoá" ngôn ngữ nhạc giao hưởng của vở nhạc kịch chủ yếu nằm ở cách chồng âm theo các quãng 2, 4 và 5 để có được phần đệm phù hợp cho giai điệu lấy nguyên gốc từ dân ca. Điều này giúp tác phẩm tăng thêm tính phổ cập cho vở diễn trước đối tượng quần chúng Việt Nam đương thời còn xa lạ với hình thức nhạc kịch, nhưng cũng làm giảm đi nhiều cơ hội phát triển sự kịch tính bằng những cao trào âm nhạc bề thế, huy hoàng cần có được trong vở nhạc kịch. Nghệ sĩ ưu tú Hà Phạm Thăng Long, người đảm nhận vai diễn nhân vật A Sao vào buổi công diễn năm 2012 đã nhận xét vở nhạc kịch đúng với tiêu chuẩn của một vở opera thông thường. Cô cho biết bản thân hát rất cao: "Để hát đến nốt Si bằng tiếng Việt - với âm đóng - là rất khó khăn". Theo một bài báo phân tích trên tạp chí "Văn hoá Nghệ thuật" số 473, trích đoạn "Em nghĩ sao không ra" là một aria mang nhiều kịch tính, trữ tình và khó thể hiện, đòi hỏi người hát phải có một cột hơi vững chắc, âm thanh ổn định, biết tiết chế cảm xúc. Thuật ngữ bel canto đã tồn tại và phát triển song hành cùng sân khấu opera cổ điển phương Tây qua nhiều thế kỷ, nhưng cũng đã du nhập vào Việt Nam song song với sự ra đời của opera tại quốc gia này. Theo tác giả Trần Thị Ngọc Lan, việc đưa kỹ thuật hát của một ngôn ngữ hoàn toàn khác vào tiếng Việt (vốn là ngôn ngữ đơn âm tiết) là một quá trình đòi hỏi nhiều "công phu, say mê và sáng tạo". Để phát âm tiếng Việt tốt đối với giọng nữ của vở nhạc kịch, người hát cần chuẩn bị tốt việc xử lý ngôn ngữ, luyến láy, những âm đệm trong lối hát dân ca và nhạc cổ truyền, các giai điệu mang âm hưởng dân tộc có trong tác phẩm. Di sản. "Cô Sao" được coi là tác phẩm opera (nhạc kịch) đầu tiên của Việt Nam, cũng là sáng tác nổi bật nhất trong sự nghiệp âm nhạc của Đỗ Nhuận. "Cô Sao" đánh dấu việc xuất hiện của nhạc kịch Việt Nam. Đây cũng là tác phẩm đặt nền móng cho nhạc kịch tại Việt Nam với tư cách là một tác phẩm âm nhạc kinh điển của nền âm nhạc nước này. Việc tái hiện và phục dựng "Cô Sao" mang nhiều ý nghĩa với nền âm nhạc nước này khi lần đầu người dân Việt Nam được xem một loại hình nghệ thuật có tính chất quốc tế như opera. Nghệ sĩ nhân dân Trần Minh Ngọc cho biết kể từ sau khi "Cô Sao" được dàn dựng và công diễn lần đầu, nhạc kịch Việt đã có những bước chuyển mình trong hơn nửa thế kỷ qua. Theo báo "VnExpress," "Cô Sao""" giống như một lời tri ân tới nhiều thế hệ người Việt Nam biết trân trọng âm nhạc hàn lâm. Những khúc aria trong vở nhạc kịch này cũng luôn là những thử thách với các giọng ca opera hàng đầu Việt Nam qua nhiều thế hệ. Báo "Nhân Dân" cho rằng vở nhạc kịch là di sản của dân tộc Việt Nam để tự hào với thế giới. Theo nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, qua "Cô Sao", khán giả có thể tiếp nhận và hiểu được một loại hình âm nhạc hoàn toàn xa lạ. Năm 2015, đạo diễn Huyền Nga là người đưa vở nhạc kịch "Cô Sao" tham gia cuộc thi nghệ thuật Ca múa nhạc toàn quốc và đoạt giải đặc biệt, đồng thời nhận thêm 2 Huy chương Vàng, 2 Huy chương Bạc cho cá nhân các nghệ sĩ tham gia.
1
null
Ariana a Naxos là bản cantata mang tính chất kịch tính của nhà soạn nhạc người Áo Joseph Haydn. Haydn đã viết bản này vào năm 1790 cho giọng nữ cao và đàn clavecin hoặc đàn piano. Điều đáng nói ở đây là trong bản cantata này, Haydn đã tỏ lòng kính trọng đối với người bạn của ông Wolfgang Amadeus Mozart. Cụ thể, trong bản cantata này có 1 đoạn aria như sau: "Dove sei,mio bel tesoro?" (tiếng Việt: "Em ở đâu, tình yêu thắm thiết của anh? Ai làm em xa rời trái tim anh? Nếu em không trở lại, anh sẽ chết mất!". Còn trong vở opera Le nozze di Figaro, Mozart có viết cho nhân vật nữ bá tước di Almaviva một đoạn aria như sau: "Dove son i bei momenti!" (tiếng Việt: "Còn đâu những giây phút êm đẹp dịu dàng và vui thú?"). Điều thú vị là cả hai đoạn aria này đều cất lên trên những nốt nhạc giống nhau và đều đẹp. Đây là sự trịnh trọng của Haydn đối với Mozart, con người kém ông 24 tuổi những đầy tài năng.
1
null
Tiếu ngạo giang hồ (chữ Hán: ) là bộ phim truyền hình do Đài Loan sản xuất năm 2000, được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Dung. Nội dung. Tiếu ngạo giang hồ là câu chuyện xoay quanh cuộc chiến giữa các phe phái trong võ lâm Trung Nguyên để giành được bí kíp võ công Tịch tà kiếm phổ huyền diệu của nhà họ Lâm. Nhân vật chính của Tiếu ngạo giang hồ là chàng trai lãng tử Lệnh Hồ Xung - đại đệ tử phái Hoa Sơn, một trong Ngũ Nhạc kiếm phái của võ lâm Trung Nguyên. Lệnh Hồ Xung là một chàng trai nghĩa hiệp có tính cách lanh lợi, tư chất thông minh khác thường. Nhưng khi bị người yêu Nhạc Linh San phụ bạc, đồng môn hiểu lầm và bị trục xuất khỏi sư môn, Lệnh Hồ Xung đã lang thang, phiêu bạt khắp nơi và trải qua rất nhiều sóng gió. Trên bước đường phiêu bạt đó, Lệnh Hồ Xung đã may mắn được nhiều cao thủ võ lâm truyền thụ võ công và trở thành một trong những đệ nhất võ lâm ở Trung Nguyên. Với tấm lòng nhân ái, luôn biết hy sinh vì người khác, cuối cùng hạnh phúc cũng đến với Lệnh Hồ Xung. Anh đã lọt vào mắt xanh của Thánh cô Nguyệt Thần giáo Nhậm Doanh Doanh. Cô sẵn sàng từ bỏ danh lợi, chấp nhận hy sinh cả tính mạng để xả thân cứu người mình yêu. Hai con người với tình yêu sâu nặng đã cùng nhau phiêu bạt khắp thế gian để hợp tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ do hai bậc tiền nhân là Khúc Dương và Lưu Chính Phong truyền lại. Tiếu ngạo giang hồ là bài ca ca ngợi tình yêu cao đẹp, đức hy sinh và khao khát một cuộc sống không màng danh lợi, tiền bạc và quyền lực. Nét đặc sắc của bộ phim chính là tư tưởng chế nhạo sự giả dối trên giang hồ. Những kẻ luôn dùng thủ đoạn xấu xa để được là đệ nhất thiên hạ không bao giờ đạt được mục đích.
1
null
Tây du ký là một phim hoạt hình Trung Quốc năm 1999 được sản xuất bởi CCTV. Dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Ngô Thừa Ân. Phiên bản tiếng Anh của phim được sản xuất bởi Cinar (bây giờ là DHX Media, trước đây là Cookie Jar Entertainment). Phim hoạt hình ra mắt lần đầu tiên trên kênh Teletoon ở Canada và ra mắt lần đầu trên Cookie Jar Toons một mục trên kênh này ở Hoa Kỳ từ 2009 đến 2010. Tại Việt Nam, phim từng được Công ty Cổ phần Truyền thông Trí Việt (TVM Corp.) mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Tóm tắt nội dung. Tôn Ngộ Không được sinh ra từ đá, Phật Tổ Như Lai phạt hắn bị núi Ngũ Hành Sơn đè 500 năm vì tội đại náo thiên cung. Một ngày, Quan Âm nói với chú khỉ là Đường Tam Tạng sẽ giúp chú được tự do và chú khỉ sẽ tham gia việc đi thỉnh kinh từ Đại Đường (Trung Quốc) đến Thiên Trúc (Ấn Độ). Sau khi Đường Tăng đến và giải thoát cho chú khỉ, hắn bái Đường Tăng làm sư phụ và cả hai bắt đầu chuyến hành trình đi thỉnh chân kinh. Không lâu sau, họ gặp hai người đồng hành mới là Trư Bát Giới và Sa Tăng, trên đường đi họ phải đối mặt với nhiều kiếp nạn và những con yêu quái. Họ đã học được nhiều điều từ chuyến đi.
1
null
Dương Huy (楊輝, ? - 966) là một thủ lĩnh địa phương thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Khi Ngô Xương Văn mất, Dương Huy đã cùng Lã Xử Bình, Kiều Tri Hựu và Đỗ Cảnh Thạc nổi loạn tranh giành ngôi Vua, trực tiếp đưa đất nước rơi vào thời loạn 12 sứ quân. Ông vốn là thứ sử châu Vũ Ninh, vùng đất thuộc Quế Võ (Bắc Ninh) và Chí Linh (Hải Dương) ngày nay. Sau ông bị lực lượng của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp đánh dẹp năm 966 để mở rộng địa bàn cát cứ, thống nhất châu Vũ Ninh và tự xưng là Vũ Ninh Vương. Thân thế. Các sử liệu Việt Nam rất ít thông tin về nhân vật Dương Huy ngoài việc mô tả ông cùng Lã Xử Bình, Kiều Tri Hựu và Đỗ Cảnh Thạc tranh lập khi nhà Ngô mất. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Dương Huy là con của một vị tướng nhà Ngô là Dương Cát Lợi và đồng nhất Dương Huy với Lý Huy ở châu Tây Long, cũng thuộc phạm vi cửa sông Lục Đầu mà chỉ có "Việt điện u linh tập" ghi chép rằng Xương Văn về đây đánh dẹp chính là một người, có thể ông mang tên đầy đủ là Dương Lý Huy. Nhà nghiên cứu Tạ Chí Trường cũng đồng tình với quan điểm trên, ông cho rằng "thần tích của Việt điện u linh tập thì có Lý Huy, hơi giống Dương Huy của Lê Tắc". Ông cho rằng ở truyện Hống Hát, nổi lên tên một Lý Huy, có lẽ dư âm lưu lại đến thế kỉ XV để người Minh nghe thành tên Dương Huy, và căn cứ chính của ông ta Côn Lôn, đoán chừng được ở vùng Chí Linh, cũng thuộc châu Vũ Ninh bấy giờ. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục ghi "các đại thần họ Kiều, họ Dương làm loạn" phần nào cho thấy tham vọng của Dương Huy trong cuộc chiến ngôi báu khi Ngô Xương Văn mất. Dương Huy cũng là một thế lực cát cứ lộ diện ngay từ thời Ngô Xương Văn và sau khi Hậu Ngô vương mất lại tiếp tục kéo quân về Cổ Loa tranh ngôi vua nhưng ông không được chép vào danh sách 12 sứ quân vì lãnh địa châu Vũ Ninh của ông sau đó là của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp cai quản. Theo Việt sử kỷ yếu, Bọn Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Tri Hựu, Dương Huy và Ngô (hay Lữ) Xử Bình, đều là tướng tá của Nam Tấn vương, tranh nhau làm vua sau khi Ngô Xương Văn chết, đều không thành, rồi mỗi người đi chiếm giữ một nơi. Nguyễn Thủ Tiệp đánh Dương Huy, chiếm quận Vũ Ninh, làm chủ cả vùng đất rộng. Tranh ngôi Vua. Sau khi bị Ngô Xương Văn thu phục, Dương Huy vẫn được Hậu Ngô Vương sử dụng và giao trấn thủ khu vực cai quản cũ, là thứ sử châu Vũ Ninh. Khi Ngô Xương Văn mất, Dương Lý Huy cũng kéo quân về Cổ Loa tranh giành ngôi vua. Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ khắc in năm 1800 ghi: Một số nhà nghiên cứu dựa vào các thần tích ở Bắc Ninh làm cơ sở bổ sung cho sử liệu khẳng định khi sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp đóng ở Tiên Du khởi binh đã xuất quân về phía Đông đánh dẹp thứ sử Dương Huy, mở rộng lãnh thổ, lấy cả châu Vũ Ninh, tự xưng là Vũ Ninh vương, giống tên hiệu một vị vua trong thời kì Tam Quốc Triều Tiên. Trong truyền thuyết thánh Tam Giang. Theo Sử ký của Đỗ Thiện, Thời Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đi đánh giặc Dương Lý Huy ở Long Châu, đóng quân ở cửa Phù Lan trên sông Lục Đầu, đêm ngủ mộng thấy hai người y quan kỳ vĩ, diện mạo khôi ngô, đến ra mắt vua và thưa rằng: Vua lấy làm lạ, hỏi rằng: Hai người đều sụp xuống lạy, thưa rằng: Vua tỉnh dậy, bảo đem cỗ rượu đến điện tế, khấn rằng: Vua mới tiến quân vây núi Côn Lôn, giặc ỷ thế hiểm trở, không ai có thể vịn trèo mà lên được. Đóng đồn lâu quá, quân sĩ đều có ý trở tâm. Đêm ấy vua mộng thấy hai Vương đốc binh, bộ ngũ liên thuộc đều có mặt mày như quỷ thần cả, hàng ngũ rất nghiêm, bộ lạc rất chỉnh tề hội tại cửa Phù Lan. Binh ông anh đóng từ sông Vũ Bình đến sông Như Nguyệt tiến đến đầu nguồn sông Phú Lương; Binh ông em đi từ men sông Lạng Giang vào sông Nam Bình (Sông Thương ngày nay). Vua tỉnh dậy bảo với tả hữu, quả nhiên trận ấy được toàn thắng. Bình xong giặc Tây Long, vua sai Sứ chia chỗ lập đền thờ, đều phong làm Phúc Thần một phương, chiếu phong anh là Đại Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Như Nguyệt. Còn em là Tiểu Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Nam Bình.
1
null
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2014 (tên chính thức tiếng Anh: FIFA Club World Cup 2014) là giải bóng đá giữa các câu lạc bộ vô địch châu lục lần thứ 11 được FIFA tổ chức tại Maroc từ 10 đến 20 tháng 12 năm 2014 Trọng tài. † Thay cho ba Colombia Wilmar Roldán, Eduardo Díaz và Alexander Guzmán. Địa điểm. Địa điểm thi đấu FIFA Club World Cup 2014 diễn ra tại Rabat và Marrakesh. Kết quả giải đấu. Bảng kết quả. "Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (Tây Âu) (UTC±0)."
1
null
Petya và cô bé quàng khăn đỏ (tiếng Nga: "Петя и Красная Шапочка") là một bộ phim hoạt hình của đạo diễn Vladimir Suteyev, do Yevgeny Raykovsky và Boris Stepantsev dựng kịch bản, được trình chiếu lần đầu năm 1958. Truyện phim phỏng theo truyện ngắn "Cô bé quàng khăn đỏ" của nhà văn Charles Perrault. Nội dung. Cậu bé Petya Ivanov vô tình rơi vào bộ phim hoạt hình "Cô bé quàng khăn đỏ". Trông thấy con sói xám đang lừa dối cô bé cả tin, Petya đã liều mạng sống để cứu bà ngoại và cháu gái để chứng tỏ bản lĩnh của một đội viên Thiếu niên Tiền phong.
1
null
Danh sách các quốc gia theo trữ lượng dầu mỏ là 1 bảng thống kê về các quốc gia theo trữ lượng dầu mỏ đã được thăm dò và xác thực. Bảng danh sách có mặt của 99 quốc gia có số liệu trữ lượng, trong đó Venezuela là quốc gia có trữ lượng dầu thô lớn nhất thế giới với 297.570 triệu thùng, tiếp đến là Ả Rập Xê Út với 267.910 triệu thùng. Việt Nam xếp thứ 28 thế giới về trữ lượng dầu thô, với khoảng 4.400 triệu thùng, xếp sau Ai Cập nhưng xếp trước Australia. Những quốc gia dầu mỏ, nhưng trữ lượng quá ít chỉ có vài trăm nghìn thùng như Ethiopia, Maroc xếp cuối bảng. Trữ lượng dầu trong bảng danh sách này được công bố bởi nhiều nguồn khác nhau, dựa trên các cuộc thăm dò địa chất, trữ lượng dầu khí được tính ngoài dầu mỏ còn bao gồm cả đá phiến dầu và cát dầu.
1
null
Vinh quang gia tộc (; hay còn gọi là Danh dự gia đình) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc diễn viên Yoon Jung-hee, Park Si-hoo, Jeon No-min, Kim Sung-min, Shin Da-eun, Jeon Hye-jin, và Maya. phim chiếu trên SBS từ ngày 11 tháng 10 năm 2008 đến ngày 19 tháng 4 năm 2009 và mỗi thứ 7 và chủ nhật lúc 21:55, 54 tập. Phim xoay quanh những biến cố lớn của một gia đình truyền thống và những giá trị của nó, những rắc rối và sự sai lệch về cuộc sống hoàn mỹ của gia tộc họ Ha. Trọng tâm phim là nói về những sự tôn trọng lễ nghi của cô cháu gái dòng họ Ha, Yoon Jung-hee. Tác giả Jung Ji-woo nói, "Tôi muốn viết một nên một câu chuyện mà nó dành cho những người phụ nữ còn phong kiến. Tôi muốn xem người phụ nữ sẽ như thế nào khi không thể tự nói và thích may vá có thể tồn tại trong xã hội hiện đại." Đạo diễn Park Young-soo cho biết thêm, "Tôi muốn làm cho những giá trị đạo đức truyền thống sống lại. Tôi đã cố gắng rất nhiều để làm được điều đó." Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Bộ phim này được Việt Nam làm lại thành phim Cầu vồng tình yêu dài 85 tập, phát sóng trên kênh VTV3 từ 2011 - 2012. Nội dung. Câu truyện trong phim này xoay quanh những khác biệt lớn về xuất thân thành viên của 2 gia tộc. Một là gia tộc lễ giáo truyền thống (gia tộc họ Ha) đang cố gắng hết sức để gìn giữ danh tiếng dòng họ, trong khi bên kia là người mới giàu lên (gia tộc họ Lee) từ việc cho vay nặng lãi và những phi vụ làm ăn mờ ám khác. Hầu hết trung tâm phim là nói về chuyện tình cảm giữa đứa cháu gái trẻ nhất gia tộc họ Ha, Ha Dan-ah (Yoon Jung-hee), và con của gia tộc Lee, Lee Kang-suk (Park Si-hoo). Dan-ah đã đè nén cảm xúc khi trở thành goá phụ lúc còn trẻ, và không thể quên đi về ký ức về cái chết của chồng cô ấy trong một tai nạn. Cô đã có cuộc gặp gỡ khó chịu với Kang-suk, 1 doanh nhân bất lương mà mục đích chính là muốn đánh bại đối thủ trong lĩnh vực kinh doanh. Bao biến cố đã xảy ra và cuối cùng họ đã bên nhau, xoá tan hận thù gia tộc, biết cách để lấy lại "vinh quang" cho gia tộc của mình Giải thưởng. Giải phim SBS 2009 Đạo diễn Park Young-soo cũng đã nhận giải khuyến khích của SBS cho nhà sản xuất phổ biến, phim gia đình giúp nâng cao hình ảnh công ty sản xuất.
1
null
Danh sách các quốc gia theo sản lượng dầu thô là bảng thống kê về 115 quốc gia trên thế giới có trữ lượng và ngành khai thác dầu theo sản lượng dầu thô khai thác được trong ngày, tính theo đơn vị thùng. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), trong năm 2011, 10 quốc gia có sản xuất dầu mỏ nhiều nhất chiếm hơn 63% sản lượng dầu của thế giới. Tính đến tháng 11/2012, Nga sản xuất 10,9 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, trong khi Ả Rập Xê Út sản xuất 9,9 triệu thùng. Trong top 10 nước khai thác dầu mỏ nhiều nhất của IEA công bố chiếm trên 64% sản lượng dầu thế giới trong năm 2012, gồm có: Nga 544 triệu thùng (13%), Ả Rập Xê Út 520 triệu thùng (13%), Hoa Kỳ 387 triệu thùng (9%), Trung Quốc 206 triệu thùng (5%), Iran 186 triệu thùng (4%), Canada 182 triệu thùng (4%), Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất 163 triệu thùng (4%), Venezuela 162 triệu thùng (4%), Kuwait 152 triệu thùng (4%) và Iraq 148 triệu thùng (4%). Năm 2012 tổng sản lượng dầu của thế giới là 4.142 triệu thùng. Trong năm 2011, sản lượng dầu thế giới là 4.011 triệu thùng, điều này thể hiện xu hướng tăng sản lượng theo năm. Thống kê được trích từ dữ liệu của The World Factbook.
1
null
Sân vận động Olympic Seoul (), còn được gọi là Sân vận động Olympic Jamsil (trước đây được gọi tắt là "Chamshil"), là một sân vận động đa năng ở Seoul, Hàn Quốc. Đây là sân vận động chính được xây dựng để phục vụ cho Thế vận hội Mùa hè 1988 và Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 10 vào năm 1986. Sân vận động này là trung tâm của Khu liên hợp thể thao Seoul ở Songpa-gu, một quận ở phía đông nam thành phố cũng như phía nam của sông Hán. Thiết kế và xây dựng. Sân vận động đa năng này được thiết kế bởi Kim Swoo-geun. Các đường nét của mặt ngoài sân vận động mô phỏng những đường cong tao nhã của chiếc bình sứ thời kỳ triều đại Joseon của Triều Tiên. Ghế ngồi của khán giả được phân bố trên hai tầng, tất cả đều được mái che che phủ. Khi mới khánh thành, sân có sức chứa khoảng 100.000 người, nhưng ngày nay sức chứa giảm xuống còn 69.950 người. Trước khi xây dựng, các sân vận động lớn nhất của Seoul là Sân vận động Dongdaemun (30.000 chỗ ngồi) và Sân vận động Hyochang (20.000 chỗ ngồi). Các sân vận động đó quá nhỏ để tổ chức các sự kiện thể thao đẳng cấp thế giới. Công việc xây dựng sân vận động mới được bắt đầu vào năm 1977 để tổ chức Đại hội Thể thao châu Á vào năm 1986. Khi Seoul được trao quyền đăng cai Thế vận hội Mùa hè lần thứ XXIV vào tháng 9 năm 1981, sân vận động này đã được chọn làm địa điểm chính của Thế vận hội Mùa hè 1988. Thể thao. Sân vận động chính thức được khánh thành vào ngày 29 tháng 9 năm 1984. Đây là địa điểm chính của Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 10 hai năm sau đó, sau đó là Thế vận hội vào năm 1988. Tuy nhiên, kể từ sau Thế vận hội Mùa hè 1988, sân đã không được sử dụng để tổ chức một sự kiện thể thao thế giới lớn. Sân hiện không có đội thuê, mặc dù Hiệp hội bóng đá Hàn Quốc đã bày tỏ sự quan tâm đến việc sử dụng sân vận động cho các trận đấu của đội tuyển quốc gia. Tại Thế vận hội Mùa hè 1988, sân vận động đã tổ chức lễ khai mạc và bế mạc, các nội dung thi đấu môn điền kinh, chung kết môn bóng đá, và trận chung kết môn cưỡi ngựa nội dung cá nhân. Bóng đá. Từ trận đấu với Nhật Bản vào ngày 30 tháng 9 năm 1984 đến trận đấu với Nam Tư vào ngày 28 tháng 5 năm 2000, Sân vận động Olympic là sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc. Kể từ năm 2001, Sân vận động World Cup Seoul trở thành sân nhà chính của đội tuyển Hàn Quốc sau khi được khánh thành. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 7 năm 2013, Sân vận động Olympic đã được sử dụng để tổ chức trận đấu giữa Hàn Quốc và Nhật Bản tại Cúp bóng đá Đông Á 2013, trong một nỗ lực nhằm khôi phục lại phong trào bóng đá ở Hàn Quốc. Đội chủ nhà nhận thất bại với tỷ số 1–2. KFA đã bày tỏ sự quan tâm đến việc tiếp tục sử dụng sân cho các trận đấu của đội tuyển quốc gia trong tương lai. Kể từ năm 2015, câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Seoul E-Land FC sử dụng sân vận động này cho các trận đấu trên sân nhà.
1
null
Regalecidae là một họ cá gồm các loài cái có thân dẹt và dài. Họ này có 3 loài trong 2 chi. Trong các loài thuộc họ này có loài cá mái chèo ("R. glesne") có thể dài đến 11 m. Đây là loài cá xương dài nhất thế giới và thường được tìm thấy ở độ sâu gần 1 km. Nhưng mới đây những du khách trên bãi biển đã phát hiện hai con cá trong họ này được tìm thấy ngay trong vùng nước nông ở vùng biển của Cortes, ngoài khơi bờ biển Mexico.
1
null
Brandenburgers tại Bohemia (tiếng Séc: Braniboři v Čechách, tiếng Việt: Những người Brandenburg tại Bohemia) là vở opera nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Séc Bedřich Smetana, người viết lời cho tác phẩm là Karel Sabina. Tác phẩm này được sáng tác vào năm 1863. Đây là vở opera mang tinh thần yêu nước của Smetana. Nó phản ánh những sự kiện lịch sử trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở thế kỷ XVIII chống lại Đế chế Áo.
1
null
Dalibor là vở opera của nhà soạn nhạc người Séc Bedřich Smetana. Lời của tác phẩm này được viết bằng tiếng Đức bởi Josef Wenzig, sau được dịch ra tiếng Séc bởi Ervin Spindler. Đây là vở opera được Smetana viết vào năm 1868. Ông đã dựa vào một hình tượng của một câu chuyện lịch sử của Cộng hòa Séc. Đó chính là Dalibor của Kozojed, người hiệp sĩ chống lại sự áp bức của vua Stanislas II cho người dân trong cuộc nổi dậy Ploskovice. Dù bị kết án tử hình vào năm 1498, nhưng hình tượng đó vẫn còn đẹp mãi trong lòng nhân dân Séc. Vở opera Dalibor đã thể hiện sự ảnh hưởng của Richard Wagner đối với Smetana.
1
null
Rusalka là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dvořák. Jaroslav Kvapil, người viết lời cho tác phẩm, đã dựa vào câu chuyện cổ tích của Karel Jaromír Erben và Bozena Nemcova. Vở opera này được Dvořák sáng tác vào năm 1900 và được trình diễn lần đầu tiên tại Praha, Cộng hòa Séc vào một năm sau, 1901.
1
null
Rusalka là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Nga Alexandr Sergeyevich Dargomyzhsky. Ông đã viết lời dựa vào bài thơ cùng tên của đại văn hào Nga Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Vở opera được Dargomizhsky sáng tác vào năm 1832, sau được trình diễn tại thành phố Sankt Petersburg vào năm 1856
1
null
Alfred là vở opera đầu tiên của nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dvořák, lời được viết bởi Karl Theodor Korne và Friedrich von Flotow. Năm tác phẩm được sáng tác là 1870. Vở opera này nói về một con người trong lịch sử Anh, đó là Alferd Đại đế. Đây cũng là vở opera duy nhất của Dvořák được viết bằng tiếng Đức. Trong tác phẩm này, nhà soạn nhạc đã cho thấy rõ ông chịu ảnh hưởng từ nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner. Đó có lẽ là điều hiển nhiên trong giới nhà soạn nhạc trẻ nửa sau thế kỷ XIX.
1
null
Slovanské tance, op. 46 a 72 (tiếng Việt: Vũ khúc Slavonic Op.46 và Op.72) là 2 tập tác phẩm dành cho dàn nhạc giao hưởng của nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dvořák. Tập vũ khúc thứ nhất được Dvořák sáng tác vào năm 1878, tập thứ hai được ông viết vào năm 1886 dưới áp lực của các nhà xuất bản. Đây là tác phẩm thể hiên rõ yếu tố dân tộc Cộng hòa Séc của nhà soạn nhạc này. Để có được yếu tố đó, Dvořák đã chịu ảnh hưởng lớn từ người đàn anh Bedřich Smetana.
1
null
Stabat mater, op. 58 là bản đại hợp xướng của nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dvořák. Tác phẩm này được ông sáng tác trong 2 năm 1876 và 1877. Bản hợp xướng được Dvořák trình diễn trong vai trò nhạc trưởng trong lần đầu tiên đến thăm nước Anh vào năm 1884 (sau này ông còn đến thăm nơi đó nhiều lần nữa). Bản đại hợp xướng được trình diễn thành công đã mang lại cho tác giả của nó danh tiếng trên xứ sở sương mù. Nhờ có danh tiếng đó, ông đã thu được một khoản tiền lớn từ sáng tác và chỉ huy dàn nhạc giao hưởng?.
1
null
Điền Phức Chân (Tiếng Hoa: 田馥甄; bính âm: Tián Fùzhēn), được biết đến nhiều hơn với tên gọi Hebe, sinh ngày 30 tháng 3 năm 1983 tại Tân Trúc, Đài Loan. Cô là một ca sĩ, diễn viên, host chương trình truyền hình, và đặc biệt nổi tiếng với tư cách thành viên của nhóm nhạc nữ Đài Loan S.H.E Cô là con thứ 2 trong gia đình mình. Năm 18 tuổi, Hebe rời Tân Trúc chuyển đến Đài Bắc sau khi cô có được hợp đồng làm ca sĩ. Hebe đã kết thúc chương trình phổ thông nhưng không vào đại học. Sự nghiệp. Tháng 8 năm 2000, HIM International Music tổ chức "Đại hội nữ sinh duyên dáng tài năng Hoàn vũ 2000" nhằm tìm kiếm gương mặt nghệ sĩ mới độc quyền cho thương hiệu của mình. Các nhân viên chương trình truyền hình "Cruel Stage" đã động viên Hebe tham gia vào cuộc thi này. Cuộc thi thu hút khoảng 1000 thí sinh, và sau một số vòng đấu loại, 7 ứng cử viên đã lọt vào vòng chung kết. Tại vòng đầu tiên, Hebe đã bị vỡ giọng khi hát ca khúc Return Home. Rút kinh nghiệm, cô đã quyết định chọn Loving You của ca sĩ người Singapore Kit Chan - một ca khúc tông thấp hơn - cho vòng chung kết. Tuy nhiên, vì chưa tập luyện nhiều với ca khúc này, 10 giây cuối cùng Hebe đã không hát. Sau đó, một công ty thu âm Đài Loan đã thử giọng cả bảy cô gái. Người quản lý công ty đó đã khen ngợi giọng hát khỏe, cá tính và đầy nội lực của cô. Kết quả, Hebe được mời làm thành viên của nhóm nhạc nũ S.H.E cùng với Nhậm Gia Huyên và Trần Gia Hoa, chính thức trở thành ca sĩ độc quyền của hãng thu âm Đài Loan HIM International Music. Hòa nhạc cá nhân và song ca. Hebe đã chơi trống solos tại buổi hòa nhạc Perfect 3 World Tour concerts.
1
null
Rinat Leonidovych Akhmetov ( , , ; sinh ngày 21.09.1966) là một doanh nhân Ukraina gốc tatar giàu có. Ông là người thành lập và cũng là tổng giám đốc tập đoàn System Capital Management (SCM), là người giàu nhất nước Ukraina. , ông là người giàu thứ 101 thế giới trong danh sách của Forbes với tài sản ước lượng là 11,4 tỷ USD (xuống từ hạng 47 với tài sản 15.4 tỷ vào tháng 3 năm 2013). Có những buộc tội là ông có dính líu tới những tội phạm có tổ chức. Akhmetov cũng là chủ nhân và chủ tịch hội bóng đá Ukraina FC Shakhtar Donetsk. Trong năm 2006–2007 và 2007–2012 Akhmetov là một đại biểu quốc hội của đảng Các Vùng. Tiểu sử. Achmetow sinh ra ở Donetsk, là con trai của một người làm ở hầm mỏ than và một người bán hàng. Ông học môn kinh tế ở đại học Donetsk, năm 1995 cùng thành lập ra Dongorbank ở Donetsk và chỉ trong một thời gian ngắn trở thành một trong những người giàu có nhất nước. Achmetow ngoài ra cũng từng là một võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp. Là tổng giám đốc của tập đoàn „System Capital Management" (SCM), Achmetow kiểm soát phần lớn kỹ nghệ thép và than ở Đông Ukraina. Sau khi mua được tập đoàn kim loại Mariupol nhóm Metinvest mà thuộc tập đoàn SCM trở thành một công ty sản xuất thép lớn nhất trong các nước mà trước đây thuộc về Liên Xô. Từ năm 1996 ông là chủ tịch của câu lạc bộ bóng đá FC Shakhtar Donetsk. Với một số tiền đầu tư lớn Achmetow đã làm Shakhtar bên cạnh Dynamo Kiev thành một đội banh hàng đầu của Ukraina, mà thường xuyên được tham dự UEFA Champions League. Sân vận động Donbass Arena được khai mạc vào ngày 29.08.2009 là một sân vận động theo tiêu chuẩn quốc tế. Vào tháng 4 năm 2011 ông mua một căn hộ trong chung cư thuộc loại đắt tiền nhất thế giới ở London với giá là 156 triệu Euro. Achmetov có vợ và hai con. Chính trị. Vào ngày 20 tháng 5 năm 2014 tuyên bố qua video tại các hãng của ông về cuộc khủng hoảng Ukraina 2014, Achmetov kêu gọi người dân vùng Donbass xuống đường biểu tình phản đối phe ly khai. Ông cho nhóm này không phải là đại diện mà là kẻ thù của người dân, họ cướp bóc thành phố và giữ dân chúng làm con tin. Các hãng xưởng của Achmetov có 300 ngàn công nhân tại vùng kỹ nghệ Donbass. 9% sản phẩm của các hãng này xuất cảng sang Nga và 20% sang các nước EU. Phản ứng trước việc Nga xâm lược Ukraine. Ngày 22 tháng 2 năm 2022, Akhmetov thông báo nộp trước 1 tỷ Hryvnia Ucraina (UAH) tiền thuế cho Tập đoàn SCM. Sau khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện, ông tuyên bố rằng Nga là kẻ xâm lược và Putin là tội phạm chiến tranh, và các nhà máy luyện kim ở Mariupol, Azovstal và Tổ hợp luyện kim Mariupol sẽ không hoạt động dưới sự chiếm đóng của Nga, hoạt động của những cơ sở này đã tạm thời bị dừng lại. Vào ngày 26 tháng 2, Akhmetov thông báo rằng ông đã gửi 600 triệu UAH để giúp Ucraine, còn Tập đoàn SCM tiến hành các dự án hỗ trợ Lực lượng vũ trang Ucraina, Lực lượng bảo vệ lãnh thổ Ucraina và người dân. Từ ngày 24 tháng 2 đến tháng 5 năm 2022, đã có thông báo rằng các doanh nghiệp của Akhmetov đã chuyển 2,1 tỷ UAH hay 72 triệu đô la để giúp đỡ và hỗ trợ Lực lượng vũ trang Ucraina và các lực lượng bảo vệ lãnh thổ. Việc hỗ trợ được thực hiện bởi Quỹ Akhmetov, tất cả các doanh nghiệp của Tập đoàn SCM, Câu lạc bộ bóng đá Shakhtar. Vào cuối tháng 5 năm 2022, Akhmetov đã phân bổ 100 triệu euro để hỗ trợ Ucraina. "Chúng tôi giúp đỡ những thường dân bị ảnh hưởng bởi chiến tranh — chúng tôi mang đến thực phẩm, thuốc men. Các kỹ sư năng lượng của chúng tôi thường mạo hiểm mạng sống của chính mình để khôi phục lại nguồn điện, trả lại cuộc sống yên bình cho các thành phố và làng mạc Ukraine. Chúng tôi đang giúp đỡ quân đội Ucraina và các lực lượng bảo vệ lãnh thổ. Chúng tôi làm việc để phục vụ nhu cầu của mặt trận ở những nơi có thể. Các tổ hợp luyện kim của chúng tôi sản xuất nhím chống tăng và thép làm áo giáp ”. Akhmetov lên kế hoạch kiện Nga về những thiệt hại mà theo ông khoảng 17 đến 20 tỷ đô la từ vụ đánh bom các nhà máy thép của ông ở Mariupol. "Chúng tôi chắc chắn sẽ kiện Nga và yêu cầu bồi thường mọi tổn thất và hoạt động kinh doanh bị thiệt hại ”. Akhmetov cho biết rằng ông đã ở Ucraine kể từ khi bắt đầu cuộc chiến với Nga và nói thêm: "Chúng tôi tin tưởng vào đất nước của mình và chúng tôi tin vào chiến thắng của mình".
1
null
Nhà Đức Trinh nữ Maria (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Meryem ana hoặc Meryem Ana Evi) là một nơi linh thiêng của Công giáo và Hồi giáo trên núi Koressos (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: "Bülbüldağı", "núi Chim Họa Mi") trong vùng lân cận Ephesus, cách huyện Selçuk của Thổ Nhĩ Kỳ . Ngôi nhà này được phát hiện ở thế kỷ thứ 19 theo sự mô tả trong thị kiến của Anne Catherine Emmerich (1774–1824), một nữ tu sĩ Công giáo, được tác giả người Đức Clemens Brentano ghi chép và xuất bản sau khi bà qua đời. Nữ tu Anne Catherine Emmerich đã được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 3.10.2004. Giáo hội Công giáo chưa hề công nhận hay phủ nhận tính xác thực của ngôi nhà này, tuy nhiên hàng đoàn người hành hương vẫn tới thăm nơi đây từ khi phát hiện ra địa điểm này. Việc những người hành hương Công giáo tới thăm viếng ngôi nhà này là do niềm tin rằng Đức Maria đã được thánh Gioan, Tông đồ Thánh sử đưa từ Israel tới sống trong ngôi nhà bằng đá này cho tới khi Đức Mẹ Lên Trời (theo giáo lý Công giáo) hoặc Đức Mẹ An giấc (theo đức tin Chính Thống giáo Đông phương). Mô tả ngôi nhà và cảnh quan. Bản thân ngôi nhà không được rộng lắm, chỉ có thể được gọi là một nhà nguyện khiêm tốn. Những viên đá xây dựng được bảo tồn và ngày xây dựng từ thời đại các Tông đồ, phù hợp với các tòa nhà khác được bảo quản từ thời xa xưa đó, nhưng có các bổ sung nhỏ như cảnh quan sân vườn và những kiến trúc bên ngoài ngôi nhà. Khi vào nhà nguyện, khách hành hương sẽ gặp một phòng đơn lớn trong đó có một bàn thờ cùng một bức tượng Đức Maria được đặt ở phía chính giữa đầu nhà. Ở bên phải có một phòng nhỏ nối với phòng dùng làm nhà nguyện, là nơi được cho là phòng ngủ của Đức Maria. Có một dòng suối chảy qua ngay bên ngoài phòng nhỏ này dẫn tới đài phun nước hiện tại bên ngoài nhà nguyện. Bên ngoài ngôi nhà có một "bức tường ước nguyện" trên đó những người hành hương dùng để treo những tờ giấy hay mảnh vải ghi những ước nguyện của họ. Quanh đó có nhiều cây lớn nhỏ, và có bố trí hệ thống chiếu sáng để tăng vẻ đẹp cho cảnh quan. Có một đài phun nước bên ngoài nhà nguyện, và một số người hành hương tin rằng nước này có thể chữa lành bệnh hoặc làm cho phụ nữ có khả năng sinh sản. Lịch sử. Được mô tả từ Đức. Vào đầu thế kỷ thứ 19, Anne Catherine Emmerich, một nữ tu dòng thánh Augustinô ở Dülmen, Đức bị bệnh nằm liệt giường, tường thuật một loạt các thị kiến trong đó bà thấy những ngày cuối cùng trong cuộc đời Chúa Giêsu, và các chi tiết về cuộc đời của Đức Maria, Mẹ chúa Giêsu. Giữa cơn mê sảng, bà bắt đầu nghe thấy những tiếng nói, những hình ảnh vừa xa xăm lại vừa sống động. Những câu chuyện kể rất chi tiết về cuộc đời của Chúa Giêsu, Đức Maria và chuyến di cư của bà tới Ephesus từ hàng ngàn năm trước. Người ta kể lại rằng lúc đó nữ tu sĩ này đã rất ốm yếu. Bà nằm trên giường cầu nguyện với hai cánh tay giang rộng. Rồi đột nhiên bà lên cơn sốt và co giật, sắc mặt đỏ gay. Ngay sau đó, một luồng ánh sáng từ trên cao chiếu xuống cơ thể bà. Khi ánh sáng rọi đến hai bàn tay và hai bàn chân của bà thì đôi bàn tay và bàn chân này chợt dính đầy máu và được in các dấu Thánh. Hiện tượng này các bác sĩ thời đó không giải thích được. Emmerich đã bị bệnh một thời gian dài trong tu viện ở Dülmen nhưng đã nổi tiếng như một nhà thần bí và nhiều nhân vật tiếng tăm đã tới viếng thăm bà. Một trong những người tới thăm Emmerich là nhà văn Clemens Brentano, sau khi tới thăm lần đầu đã ở lại Dülmen 5 năm để gặp Emmerich mỗi ngày và ghi lại những thị kiến mà bà tường thuật lại . Sau khi nữ tu Emmerich qua đời, Brentano đã xuất bản một quyển sách về những thị kiến của bà; và sau khi ông qua đời thì một quyển sách thứ hai gồm những ghi chú của ông cũng được xuất bản. Một trong những thị kiến của Emmerich là sự mô tả ngôi nhà được cho là do Thánh Gioan, Tông đồ Thánh sử đã xây dựng ở Ephesus cho Đức Maria, nơi mà bà đã cư ngụ cho tới khi lìa đời. Emmerich cung cấp nhiều chi tiết về địa điểm có ngôi nhà, và địa hình của vùng lân cận. Emmerich cũng mô tả các chi tiết của ngôi nhà: được xây bằng những viên đá hình chữ nhật, các cửa sổ đặt cao lên gần mái nhà bằng phẳng và ngôi nhà gồm 2 phần với nền bếp lò ở giữa ngôi nhà. Bà còn mô tả thêm vị trí của các cửa ra vào, hình dạng của ống khói vv... Quyển sách gồm những mô tả bên trên được xuất bản năm 1852 ở München, Đức. Phát hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ. Dựa vào sự mô tả trong quyển sách mà Brentano đã ghi chép về các cuộc trò chuyện của ông ta với Emmerich, một linh mục người Pháp, tu sĩ Julien Gouyet, đã quyết định đi đến khu vực thành phố Ephesus cổ để tìm hiểu về những điều được kể trong câu chuyện. Ông đã gặp Tổng giám mục đương thời của địa phương là Timoni để trình bày ý tưởng và được vị này cho người giúp đỡ. Sau một thời gian dài nỗ lực tìm kiếm, ngày 18-10-1881, cuối cùng Gouyet đã phát hiện ra một ngôi nhà nhỏ bằng đá trên một ngọn núi nhìn xuống Biển Aegea và những tàn tích của Ephesus cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tin rằng đó là ngôi nhà được Emmerich mô tả và nơi đây Đức Maria đã sống những năm cuối cùng của cuộc đời mình. Gouyet phấn khởi gửi các báo cáo liên quan lên Tòa Giám mục Paris và thậm chí cả tới Tòa Thánh Vatican. Tuy nhiên - trái với sự mong đợi và kỳ vọng của ông – các báo cáo này đã không nhận được sự chú ý và quan tâm nào đáng kể. Mãi tới 10 năm sau do sự thôi thúc của nữ tu Marie de Mandat-Grancey (13-9-1837 – 31-5-1915) thuộc dòng Nữ tử Bác Ái ("Daughters of Charity"), một nhóm nghiên cứu của hai tu sĩ thuộc Hội Truyền giáo – cha Poulin và cha Jung từ İzmir - dựa vào những ghi chép của Gouyet, đã tìm thấy ngôi nhà này vào ngày 29-7-1891. Tình trạng của ngôi nhà lúc đó chỉ còn lại những bức tường bằng đá rêu phong, phần mái đã bị hủy hoại hoàn toàn. Tuy nhiên, giữa những đống đổ nát, họ tìm thấy một bức tượng Đức Maria vẫn đứng với một bàn tay bị vỡ. Không một nơi nào khác trong khu vực có cảnh quan phù hợp với những mô tả trong sách của Brentano như vậy. Hơn nữa, nhóm nghiên cứu của hai tu sĩ trên cũng được biết rằng phế tích vừa tìm thấy đã được người dân địa phương ở ngôi làng miền núi gần đó - hậu duệ của những Kitô hữu ở Ephesus thời xưa - tôn kính từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ gọi ngôi nhà này là Panaya Kapulu, nghĩa là "ô cửa đến với Đức Mẹ Đồng Trinh". Báo cáo của nhóm nghiên cứu bắt đầu được giới chức Giáo hội Công giáo chú ý. Họ tiếp tục tiến hành các nghiên cứu mang tính khoa học. Vị tổng giám mục của Izmir thậm chí còn tổ chức hẳn một nhóm gồm 7 linh mục và 5 chuyên gia để ghi chép lại và cho ra đời cuốn sách "Lịch sử của Panaya Kapulu" Nữ tu Marie de Mandat-Grancey được Giáo hội Công giáo bổ nhiệm làm người sáng lập "Quỹ Nhà Maria", chịu trách nhiệm về việc mua, trùng tu và bảo quản ngôi nhà này cùng các khu vực lân cận từ năm 1891 cho tới khi bà qua đời năm 1915. Phần phục hồi của tòa nhà đã được phân biệt với phần còn lại ban đầu của phế tích bởi một dòng sơn màu đỏ. Phát hiện này đã làm sống lại và củng cố một truyền thuyết Kitô giáo từ thế kỷ thứ 12 - truyền thuyết Ephesus – khác với truyền thuyết Jerusalem cũ - về vị trí Đức Mẹ An giấc (ở núi Zion, Jerusalem). Do các quyết định của Giáo hoàng Lêô XIII vào năm 1896 và Giáo hoàng Gioan XXIII vào năm 1961, Giáo hội Công giáo đã rút ơn toàn xá dành cho những người viếng thăm nhà thờ Đức Mẹ an giấc ở Jerusalem chuyển sang cho những tín hữu hành hương tới Nhà Đức Trinh Nữ Maria ở Ephesus. Một số người đã tỏ ý nghi ngờ về nơi này, vì truyền thuyết về việc Đức Maria cư ngụ ở Ephesus chỉ xuất hiện trong thế kỷ 12, trong khi theo truyền thuyết phổ quát của các Giáo Phụ thì nơi cư ngụ và nơi qua đời của Đức Maria là ở Jerusalem. Tuy nhiên, những người ủng hộ truyền thuyết Ephesus đặt niềm tin của họ vào sự kiện là đã từng có một Nhà thờ Đức Bà ở Ephesus từ thế kỷ thứ 5 và là vương cung thánh đường đầu tiên trên thế giới được cung hiến cho Đức Maria. Quan điểm của Giáo hội Công giáo. Giáo hội Công giáo Rôma chưa hề tuyên bố về tính xác thực của ngôi nhà này, vì thiếu chứng cứ khoa học có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, đã có sự ban phước lành cho đoàn hành hương đầu tiên tới thăm ngôi nhà này bởi Giáo hoàng Lêô XIII vào năm 1896, chứng tỏ một thái độ tích cực của Giáo hội đối với nơi này. Giáo hoàng Piô XII, vào năm 1951 - theo định nghĩa của tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 1950 – đã nâng ngôi nhà này lên cương vị một Thánh Địa, một đặc quyền sau đó được Giáo hoàng Gioan XXIII làm cho trở thành cố định. Ngày nay thánh địa này đã được nhiều Kitô hữu cũng như tín đồ Hồi giáo tới viếng thăm. Các khách hành hương thường uống nước từ một dòng suối chảy qua cạnh nhà này mà họ tin là có đặc tính chữa lành bệnh. Hàng năm, các tín hữu hành hương thường tới nơi đây vào ngày 15 tháng 8, ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời. Những cuộc thăm viếng của các Giáo hoàng. Ngay từ năm 1896 – 2 năm sau khi ngôi nhà được trùng tu - Giáo hoàng Lêô XIII đã viếng thăm thánh địa này. Giáo hoàng Phaolô VI đã tới thăm thánh địa này ngày 26-7-1967, Giáo hoàng Gioan Phaolô II ngày 30-11-1979, còn Giáo hoàng Biển Đức XVI ngày 29-11-2006 nhân dịp chuyến tông du 4 ngày ở Thổ Nhĩ Kỳ.
1
null
Công viên Hitachi hay công viên ven biển Hitachi (国営ひたち海浜公園, Kokuei Hitachi Kaihinkōen?) là một công viên công cộng ở Hitachinaka, Ibaraki, Nhật Bản. Nó có diện tích khoảng 190 ha, với tính năng của công viên hoa nở quanh năm. Công viên đã trở thành một địa điểm nổi tiếng để đi bộ ngắm các loài hoa, với 4,5 triệu bông "Nemophila menziesii" (|hoa Baby xanh) vào mùa xuân. Ngoài ra, hàng năm công viên có 1 triệu bông hoa Thủy tiên vàng cùng 170 loài hoa tulip và nhiều loại hoa khác. Công viên bao gồm những con đường mòn dành cho người đi xe đạp và đi bộ cùng một công viên giải trí nhỏ có một vòng đu quay lớn. Đây là nơi tổ chức Festival nhạc Rock tại Nhật Bản, là một sự kiện thường niên được tổ chức vào đầu tháng 8.
1
null
Serotonin (hay còn được biết đến Hydroxytryptamine-5, 5-HT) là một chất dẫn truyền thần kinh Monoamine được phát hiện vào năm 1935 bởi nhà khoa học người Ý Vittorio Erspamer. Serotonin chủ yếu được tìm thấy trong đường tiêu hóa và hệ thống thần kinh trung ương. Khoảng 80 % tổng số serotonin của cơ thể con người nằm trong ruột, được sử dụng để điều chỉnh chuyển động ruột, 20% còn lại được tổng hợp trong tế bào thần kinh Serotonergic trong thần kinh trung ương, nơi nó có nhiều chức năng khác nhau: điều chỉnh tâm trạng, sự thèm ăn, giấc ngủ, co cơ và một số chức năng thuộc về nhận thức. Serotonin bị suy giảm dẫn đến việc cảm thấy buồn chán, giảm sự ham muốn, giảm quan tâm hoặc dễ dàng cáu giận, gặp khó khăn trong việc hoàn thành công việc. Để tăng hàm lượng serotonin trong máu, ngoài cách dùng thuốc, còn có một số phương pháp tự nhiên không gây nguy hiểm, đó là: Việc tích tụ quá nhiều serotonin trong cơ thể, có thể dẫn đến hội chứng Serotonin. Đây là một tình trạng sức khỏe nghiêm trọng, thậm chí nó có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
1
null
Nguyễn Xuân Đàm (阮春談, 1889-1953), hiệu Tùng Lâm, là một danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19, nửa đầu thế kỷ 20. Ông đỗ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi (1919), kỳ thi Nho học cuối cùng của Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp. Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm sinh năm Kỷ Sửu (1889), quê ở làng Quần Ngọc, xã Đông Lâm, nay là xã Khánh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Mặc dù gia tộc ông có truyền thống học hành nhưng chưa có ai đỗ đạt đại khoa. Tổ phụ ông là cụ Nguyễn Xuân Hưởng, cha ông là cụ Nguyễn Xuân Thị đều chỉ là những vị Tú kép (2 lần đậu tú tài). Chịu ảnh hưởng của gia đình, từ nhỏ ông được giáo dục theo truyền thống Nho học, có tiếng thông minh và chăm chỉ học hành, đỗ Tú tài khi còn rất trẻ. Tuy nhiên, mãi đến năm 31 tuổi, ông mới dự thi khoa thi Hội năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4 (1919). Theo lê cũ thì các Tú tài không được dự thi Hội, nhưng theo nhà nghiên cứu Phạm Quang Ái thì do đây là khoa thi cuối cùng nên nhà Nguyễn đã đặc cách bỏ một số lệ cũ để mở rộng cửa trường thi cho các sĩ tử chưa có danh phận (chưa đậu Cử nhân) cũng được tham gia. Trong tờ trình của bộ Học về việc tổ chức khoa thi Kỷ Mùi, vua Khải Định đã phê như sau: "Lần này là khoa thi Hội cuối cùng của triều đình nên trẫm muốn gia ân cho sinh viên sĩ tử khoa mục trong cả nước, hễ ai thông thạo cả hai thứ chữ Nho và chữ Pháp thì trình lên bộ Học để xin vào ứng thí, lấy tên khoa này là Ngự tứ ân khoa" (sách Khải Định chính yếu sơ tập). Ngoài ra, theo trình tấu của bộ Học, vua còn đặc cách cho phép các tỉnh Trung Kỳ, mỗi tỉnh xét cử 3 người là Tú sĩ "có thực tài đồng thời tinh thông cả chữ Nho và chữ Pháp", mặc dù bản thân vua Khải Định cũng thừa nhận rằng: "Nay theo như lời trình xin trong tờ phiến thì tuy chưa hoàn toàn trúng với ý của trẫm, nhưng ý kiến bàn thêm đã nhất trí nên tạm chuẩn y cho". Mục đích của việc này là "để cho những người hiền bị bỏ sót trong dân dã hiểu được ý trẫm". Khoa thi này có 23 người đậu tiến sĩ, trong đó có bảy người là tiến sĩ Giáp bảng và 16 người là tiến sĩ Ất bảng (Phó bảng). Nguyễn Xuân Đàm là người đứng đầu danh sách 16 người đậu Phó bảng đó. Theo tư liệu của gia đình, sau khi thi đậu, ông được bổ làm trợ giảng Quốc tử giám một thời gian; sau đó lại ra làm Tri phủ các phủ: Đông Sơn (Thanh Hoá), Tam Kỳ, Thăng Bình (Quảng Nam),v,v, trải qua 4 lần cải nhậm. Sang đời Bảo Đại, ông được vua triệu vào làm Ngự tiền văn phòng, sau được thăng đến chức Hữu Tham tri bộ Lễ. Quan nghiệp của ông kéo dài đến năm 1943, lúc mới 54 tuổi, ông đã xin về quê trí sĩ. Lúc về hưu, ông được vua ban cho một tấm biển với mặt trước khắc 4 chữ "Đại khoa xuất thân", mặt sau khắc 4 chữ "Nhị phẩm trí sự". Cách mạng tháng 8 nổ ra, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Mặc dù tuổi cao, hoàn cảnh binh loạn, nhưng ông vẫn hăng hái tham gia hoạt động cho công tác cứu quốc. Ông được cử làm Chủ tịch Hội binh sĩ bị nạn huyện Can Lộc (1948); Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện Can Lộc, Ủy viên Mặt trận Liên Việt tỉnh Hà Tĩnh. Ông qua đời ngày mùng 2 tháng 2 năm Quý Tỵ, tức ngày 19 tháng 3 năm 1953, hưởng thọ 65 tuổi (Theo con cháu cụ thọ 68 tuổi). Di sản. Sinh thời, Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm trước tác thơ văn khá nhiều nhưng hồi cải cách ruộng đất bị tiêu hủy, thất lạc hầu hết. May mắn là do lúc bình sinh, ông quảng giao, sống gần gũi, thân thiện với quần chúng, lại do thơ văn ông lời hay, ý đẹp, tứ sâu sắc nên được nhiều người truyền tụng. Đến nay, qua ký ức và ghi chép của nhiều thế hệ, con cháu ông còn sưu tầm được một số, gồm: 8 bài thơ (4 bài chữ Hán, 4 bài chữ Nôm) làm theo thể thất ngôn bát cú luật Đường, 5 câu đối chữ Hán, một bài văn bia làng Quần Ngọc và một bài văn mừng thọ cha mẹ (đều bằng chữ Hán). Qua những mảnh vỡ văn chương còn lại, chúng ta có thể hình dung được học vấn, tâm hồn, tính cách của một bậc sĩ phu đáng kính. Trước hết, Nguyễn Xuân Đàm là người rất hiếu học và luôn có một ý chí, niềm tin về sự thành đạt trong học hành, khoa cử. Ông đã thể hiện điều đó trong câu đối khuyến học như sau: 學海無涯勤是岸 "Học hải vô nhai cần thị ngạn" 青雲有路志爲梯 "Thanh vân hữu lộ chí vi thê" (Biển học vô bờ siêng thấy bến, Đường mây có lối, chí lần thang - PQA dịch) Có được niềm tin, ý chí đó còn bởi ông là người rất yêu quê hương, luôn tự hào về cảnh sắc và truyền thống văn hiến của quê hương, làng xóm. Trong câu đối, văn bia đề ở các đình, đền quê nhà, ông đã bộc lộ rất rõ tình cảm đó của mình. Câu đối đề đình làng Quần Ngọc: 地有東林南巽山來坻案內 "Địa hữu Đông Lâm, nam tốn sơn lai trì án nội" 天成景趣西桥水聚到庭前 "Thiên thành cảnh thú, tây kiều thủy tụ đáo đình tiền" (Đất có Đông Lâm, núi tự đông nam về trong án Trời cho cảnh đẹp, cầu tây nước tụ tới trước sân - PQA dịch) Câu đối đề thượng điện làng Lương Hội: 上等衮花封東林日照 "Thượng đẳng cổn hoa phong, Đông Lâm nhật chiếu" 億年香火在良會逢亨 "Ức niên hương hỏa tại, Lương Hội phùng hanh" (Mặt trời rọi Đông Lâm, lễ phục vua ban vào bậc nhất; Vận sáng về Lương Hội, lửa hương dân thắp suốt ngàn năm -PQA dịch)                  Niềm tin, tình cảm của ông đối với quê hương mang một sức nặng khác thường: sức nặng của tâm linh. Bởi thế, trong văn bia làng Quần Ngọc, ta thấy tình cảm, niềm tin của tác giả vào vượng khí âm trạch của chốn "thắng địa" quê nhà rất sâu sắc, đầy hào hứng: "...Làng ta là làng Quần Ngọc tức xưa là làng Vạn Bửu. Nói về địa thế ở vào giữa xã Đông Lâm tổ mạch phát từ Cồn Côm về. Về phía bên tả có Cồn Nhà Vụ và Cồn Đung, Về phía bên hữu có Cồn Séo và Cồn Làng Nẩy, Giữa nổi đồng bằng hình non có vẻ kỳ thắng. Về phía đông có cái hồ sâu ở giữa có giếng ngọt bốn mùa nước biếc trong xanh như thế cũng là bửu ngọc vậy..." (bản dịch) Thơ Nguyễn Xuân Đàm cũng vậy, thích thảng, tiêu sái và mang đậm tình quê. Một trong những bài thơ còn lại của ông, bài "Tâm khoan" (Lòng thảnh thơi), đã diễn tả rất hay, rất ấn tượng những nét tâm trạng nói trên của ông: " Lam Hồng thiên cổ thử giang sơn," "                             Nguyệt lãng, phong thanh lạc thú nhàn." "                             Hoạn hải ba đào chu ký ngạn," "                             Gia sơn chỉ xích bộ hà gian." "                             Tùng viên ấm mãn tranh Vương, Đẩu;" "                             Cối trạch xuân sinh học Khổng Nhan." "                             Lão kính xuân trường song bạch phát," "                             Đắc trung, đắc hiếu tự tâm khoan." (Lam Hồng, nghìn thuở núi sông; Là nơi gió mát trăng trong, thanh nhàn. Thuyền con, bể hoạn sóng tràn; Ung dung cập bến, bàn hoàn lối quê. Vườn tùng, bóng cối mải mê; Đã hơn Vương Đẩu, so tề Khổng Nhan. Thảnh thơi, trung hiếu vẹn tròn; Gương già: đầu bạc, xuân còn dài lâu.) Phạm Quang Ái dịch Ở một bài thơ khác, bài "Phong cao" (Gió lộng), ông bộc bạch thẳng tâm trạng chán cảnh "Phủ ngưỡng tùy nhân" cùng là lòng đinh ninh hướng về cuộc sống trí sĩ "Xuân phong ký khúc lạc dư khoan": " Phong cao thảo ám cổ thành san," "                   Phủ ngưỡng tùy nhân mạc vị nhàn." "                   Lao lạc bắc hồng đương vạn lý," "                   Bồi hồi tây nguyệt cách trường gian." "                   Xuân thu ca tụ Tư văn hội," "                   Tuế nguyệt triều đình các Lỗ Nhan." "                   Nhất chẩm yên hà liên viễn phố," "                   Xuân phong ký khúc lạc dư khoan." (Gió lộng thành xưa, cỏ núi mờ, Nhàn chi? Luồn cúi với chào thưa. Nghìn trùng trời bắc, hồng mê mỏi, Một khoảng non tây, nguyệt hững hờ. Gác Lỗ Nhan, vui chầu tám tiết, Hội Tư văn, ngâm ngợi tư mùa. Yên hà một gối, thương nơi cũ, Khúc gió xuân, vui sướng có thừa.) Phạm Quang Ái dịch Quả đúng như câu kết bài "Tâm khoan, "ông là người "đắc trung đắc hiếu". Năm cha ông 70 tuổi, mẹ 69 tuổi, ông đã viết một bài tản văn bằng chữ Hán thuê khắc trên một tấm biển gỗ, chữ mạ vàng để mừng thọ các cụ. Lời văn trong sáng, giản dị nhưng ý tứ sâu xa, chan chứa ân tình và với một thái độ vô cùng kính ngưỡng: "...Vương phụ ta (ông nội) là Tú tài Ngọc Lâm, tiên công rất mẫn cán, vô tư và đôn hậu, dùng lễ nghi để ứng xử với người già, dùng thanh danh để chỉ bảo những người trong gia đình. Cha của ta cũng là người như vậy. Bản tính hiền lành, thành thực, lúc nhỏ khôi ngô tuấn tú và thông minh, lớn lên có tiếng về văn chương. Với các con cháu trong nhà, ông luôn lấy nghĩa lý để dạy bảo. Với mọi người làng xã, ông luôn lấy khuôn phép thân tình để bảo ban. Với những người ốm đau bệnh tật, ông lúc nào cũng cận kề hỏi han chăm sóc. Năm 40 tuổi ông đỗ Tú tài làm sáng nền khoa cử của tổng nhà. Do vậy, mỗi khi trong giáp, thôn, xã có việc tu sửa lại đình miếu để thờ tự đều có nhờ đến ông. Ông lại được kế thừa y thuật của tổ tiên, cứu người tích thiện thêm nhiều được vững bền cho đến tận ngày nay. Mẹ của ta, bản tính hiền thục, ôn tồn, cư xử thuận hòa mà rất quyết đoán mọi sự việc, giúp cha con ta giữ gìn cơ nghiệp, phụng sự tin cậy của tổ tiên, của dòng tộc. Tấm lòng hiếu kính, thành thực cần kiệm của bà được loan truyền gần xa đều biết đến. Cuối năm vừa qua được ban hàm Ngũ phẩm, do vậy vào đầu xuân năm nay cùng làm lễ chúc đăng thọ mũ áo đỏ, con cháu may mắn được tiếp nối dòng khoa hoạn nối liền tiếng thơm cho gia đình rất mực yên vui, mọi sự tốt lành. Vậy nên có câu nói rằng: "Làm điều phúc thì đức sẽ đến." Cha mẹ ta có đủ điều ấy, các cháu đông vui đều được nhờ ơn lộc phúc của ông bà hiền lành đức độ, lấy điều nhân nghĩa chỉ bảo mọi người. Cha mẹ ta được mệnh danh là người đem lại quả phúc rộng lớn cho xóm làng, để lại sự vẻ vang cho gia thất. Do vậy mà được cùng sánh với 99 ngọn Hồng Sơn uy nghi rộng lớn, rủ lòng bao che cho muôn loài. Vì vậy mới nói rằng: Cha mẹ ta là người nhân hậu, gia truyền tước phẩm, tuổi thọ dài lâu, đức hạnh vẹn toàn, tinh thần minh mẫn, tài nghệ mênh mông, rèn luyện sáng suốt, tấm lòng trong sạch, trao lại đức sáng, trời ban đất ban, phúc thọ đều hưởng, vậy nên con cháu, thừa hưởng trạch ơn, khắc vào biển gỗ để lấy đó làm sáng tỏ đời trước, dăn bảo đời sau. Mùa xuân, triều Bảo Đại năm thứ 8 (1933) Con trai Xuân Đàm, Xuân Dinh và các cháu cùng bái ghi." (bản dịch) Theo các vị cao niên trong gia tộc họ Nguyễn Xuân Quần Ngọc kể lại: sau khi làm xong bài văn mừng thọ này, Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm có đưa cho một vị thượng thư nổi tiếng về văn tài và phẩm hạnh thời đó (có người khẳng định là Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm) nhờ góp ý, sửa văn, nhưng vì bài viết quá hay nên quan thượng thư chỉ có khen mà không sửa chữ nào. Quá trình học tập, rèn luyện, trưởng thành và ra làm quan của Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm phần nào đã được triều đình nhà Nguyễn tổng kết, đánh giá trong chiếu chỉ triệu ông về kinh làm Ngự tiền văn phòng của vua Bảo Đại: ""Đại nhân thiếu thời đình huấn, thi lễ tố văn, trưởng dụ tường hữu văn danh." "Sơ trúng mậu tài, Khải Định Kỷ Mùi khoa điện thí đăng ất tiến sĩ đệ nhất danh, nho khoa nghĩa tố, kỳ kế hữu phu thông sĩ tịch. Sơ nhập khu tài, kế nhi tại thành, quân dĩ hoằng tứ văn. Lịch tứ quận, dĩ tuần lương trứ. Phụng kim ngã." "Hoàng thượng dĩ đại nhân thị tiên đế lâm hiên sở đắc sĩ, đặc chuẩn nhập thị ngự tiền văn phòng tư soạn dịch"" (Thuở nhỏ, đại nhân nhận được sự dạy dỗ của gia đình, có tiếng là thi lễ. Lớn lên đến trường học, học giỏi nổi tiếng. Ban đầu thi trúng tú tài, đến khoa thi đình năm Kỷ Mùi đời vua Khải Định (ông) đã thi đỗ Ất tiến sĩ, tên đứng đầu bảng... Sau đó gặp thuận lợi và được tin cậy trong quan trường nên ở đây cũng thành công, có tiếng chăm chỉ về mọi mặt, trải bốn quận huyện đều có tiếng là vị quan tốt. Nay vâng mệnh hoàng thượng, vì biết đại nhân là sĩ tử do tiên đế đích thân ra điện tuyển chọn, nên đặc cách cho vào ngự tiền văn phòng trông coi việc soạn dịch.- Lê Xuân Khải phiên âm và dịch). Một mặt, nội dung tờ chiếu cho ta thấy triều đình đánh giá rất cao về nguồn gốc xuất thân, học vấn, tài năng, phẩm hạnh và thành tích làm quan của ông. Mặt khác, trong các ông vua cuối triều Nguyễn, Bảo Đại là ông vua xuất thân Tây học, thời gian đầu khi mới lên ngôi, ông có tư tưởng đổi mới về nội chính, về công việc cai trị và tổ chức bộ máy quan lại. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà triều đình lại chọn cựu thần Nguyễn Xuân Đàm làm Ngự tiền văn phòng, giúp vua "trông coi việc soạn dịch", một công việc mà Bảo Đại vốn không am hiểu nhiều (vì ông xuất ngoại học tập khi còn nhỏ tuổi). Bởi vì, nhà vua biết rõ rằng, muốn chấn chỉnh, cải tổ bộ máy cai trị vốn đã ít nhiều bị hủ bại, nếu không có người có tài đức phụ tá bên cạnh thì khó mà thực hiện. Và có lẽ, trong giai đoạn đầu cầm quyền của Bảo Đại, Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm đã tích cực giúp ông vua trẻ thực thi được phần nào mục tiêu cải cách nội vụ nói trên nên trước khi về hưu, Tùng Lâm tiên sinh mới được triều đình thăng tới chức Hữu Tham tri bộ Lễ và ban cho tấm biển vẻ vang, sang trọng: "Đại khoa xuất thân" – "Nhị phẩm trí sự". Tuy được nhà vua và triều đình sủng ái, tín nhiệm nhưng như đã đề cập ở phần trên, Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm đã thấy rõ một tương suy tàn ảm đạm của nhà Nguyễn. Sau những cố gắng xoay xỏa ban đầu để vãn hồi chế độ, Bảo Đại cũng đành bất lực xuôi tay chạy theo những thú vui ăn chơi xa xỉ, mặc cho thế cuộc ngày càng nhiễu nhương. Trong một câu đối còn lại của ông, dưới hình thức khái quát về đạo lý xưa nay, Nguyễn Xuân Đàm đã ám chỉ tình trạng đổ nát vô phương cứu chữa của xã hội thực dân phong kiến lúc tàn canh này: 乱伐忠臣爲國困                                       Loạn phạt trung thần vi quốc khốn 平生浪子是家亡                                       Bình sinh lãng tử thị gia vong (Lúc loạn, giết trung thần là mất nước, Thời bình, sinh lãng tử ắt tan nhà)                                                                 Hơn thế, đằng sau triết lý cuộc đời, dường như ông còn kín đáo bộc lộ một tình thế khó xử nào đó của mình trong hiện trạng thời cuộc lúc đó. Phải chăng, đây là một sự xác định tư tưởng lần cuối cùng để ông dứt khoát từ bỏ vinh hoa, phú quý về sống thảnh thơi trong cảnh "Lam Hồng, nghìn thuở núi sông/Là nơi gió mát trăng trong, thanh nhàn." Tóm lại: qua những thông tin, tư liệu mà chúng ta còn được biết về truyền thống gia đình, hành trạng và thơ văn của Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm, ta hiểu được tài năng, phẩm chất và tâm sự sâu xa của ông; ta hiểu vì sao, cũng như một bậc khoa bảng cùng thời là Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, ông đã nhẹ nhàng trút bỏ phẩm phục, xin về trí sĩ trước tuổi. Hơn thế, ta lại càng hiểu vì sao sau khi cách mạng thành công, khác với không ít quan chức chế độ cũ lúc bấy giờ, Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm đã hăng hái nhập cuộc, tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp do Đảng và Bác lãnh đạo, cho đến hơi thở cuối cùng.                               Dẫu là hoa trái cuối mùa của vườn cũ Nho gia, nhưng do hấp thụ được những tinh hoa của truyền thống gia đình, quê hương, dân tộc cùng với những gì tốt đẹp nhất trong chữ nghĩa thánh hiền, Nguyễn Xuân Đàm xứng đáng đứng vào hàng ngũ sĩ phu yêu nước, tiến bộ lúc bấy giờ; xứng đáng để các thế hệ hôm nay tôn vinh và học tập. Vinh danh. Ngày 5 tháng 4 năm 2014 (tức ngày 6 tháng 3 năm Giáp Ngọ), tỉnh Hà Tĩnh đã trao chứng nhận cho Chính quyền xã Khánh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, công nhận Nhà thờ Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Nhà thờ Phó bảng Nguyễn Xuân Đàm tọa tại làng Quần Ngọc, xã Khánh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
1
null
Chùa Vạn Đức hiện tọa lạc tại số 502 trên đường Tô Ngọc Vân, thuộc khu phố 5, phường Tam Phú, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một trong hai ngôi chùa lớn của Thành phố Thủ Đức. Chùa Vạn Đức là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo có quy mô lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài giá trị về mặt thẩm mỹ, công trình còn là một kiểu mẫu cho nghệ thuật tạo hình trong kiến trúc hiện đại. Lịch sử. Chùa Vạn Đức nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 15 km, và cách chợ Thủ Đức khoảng 2 km. Đây là một ngôi chùa có nguồn gốc từ một ngôi nhà xưa của một gia đình khá giả hiến cúng rồi sửa lại làm chùa. Theo tài liệu, khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, sợ đối phương lập căn cứ ở đây, vào năm 1946, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh không cho dân ở trên núi Cấm nữa. Vì vậy, nhà sư Thích Thiện Quang ("thượng Thiện hạ Quang", 1895 - 1953) phải dẫn các đồ đệ xuống núi, tạm trú tại nhà Phật tử ở Tri Tôn, và sau đó (đầu năm 1947) đến tu tại chùa Linh Bửu ở vùng Cầu Bông (nay thuộc Sài Gòn)... Đến sáng ngày 26 tháng 11 năm Quý Tỵ (1953), nhà sư ấy an nhiên viên tịch và được các đệ tử đưa về an táng tại đất mộ của gia đình bà Ba Hộ (tên Nguyễn Thị Tánh, pháp danh Diệu Tuyết) ở Thủ Đức (trước 1975 là một quận của tỉnh Gia Định, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Rằm tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954), một đệ tử của nhà sư Thiện Quang là nhà sư Thích Trí Tịnh ("thượng Trí hạ Tịnh"; 1917 - 2014) từ chùa Linh Sơn (Vũng Tàu) về tham dự lễ chung thất và viếng mộ tôn sư (vì trong thời gian tang lễ, Thích Trí Tịnh đang nhập thất nên không về dự tang được). Nhân đây, bà ba Hộ đã phát tâm cúng dường toàn bộ đất và ngôi nhà lớn tọa lạc trên đó cho nhà sư Trí Tịnh. Ngôi nhà này nguyên là của ông Nguyễn Văn Do, chú ruột thứ sáu của bà ba Hộ. Sau khi ông sáu mất không người thừa kế, bà Ba là cháu ruột nên được đứng chủ quyền. Sau khi nhận nhà và đất, ngày 16 tháng 3 (âm lịch) năm ấy, nhà sư Trí Tịnh cho thợ sửa lại nhà thành chùa (giữ nguyên hiện trạng, chỉ làm thêm phía trước cho giống chùa, rồi phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ), và đặt tên là "chùa Vạn Đức"'. Năm 1955, nhà sư Trí Tịnh thành lập hội Cực Lạc Liên Hữu tại đây, khuyến tấn mọi người niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ . Năm 1956, nhà sư Trí Tịnh làm thêm nhà Tổ. Năm 1957, nhà sư tiếp tục cho xây nhà công quả, khu nhà bếp, giảng đường, Tăng phòng...và đến năm 1958 thì hoàn thành. Đầu mùa hạ năm 1959, đồng thời với việc tổ chức An cư kiết hạ, giảng kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa, nhà sư Trí Tịnh cho kiến thiết điện Quan Âm. Năm 1963, do ngôi chùa (tiền thân là một ngôi nhà cũ) đã xuống cấp trầm trọng, nên phải trùng tu lại toàn bộ, và công trình được khởi công vào ngày vía Phật A Di Đà (17 tháng 11 năm Quý Mão, 1963). Kể từ năm 1990, Hòa thượng Thích Trí Tịnh (được tấn phong hòa thượng năm 1973) lần lượt cho trùng tu giảng đường (1990), Tăng phòng (1991), khu nhà bếp (1992), điện Quan Âm (sau khi xây xong tháp Phù Thi)...Ngoài ra, Hòa thượng cũng lần lượt cho xây mới một số hạng mục như: tháp Phù Thi (1993, dành để an trí nhục thân Hòa thượng Thích Trí Tịnh), thư viện, Niệm Phật đường, v.v... Đến năm Giáp Thân (2004), Hòa thượng Thích Trí Tịnh bắt đầu cho đại trùng tu chánh điện và nhà Tổ... Kiến trúc. Chùa Vạn Đức do HT Thích Trí Tịnh khai sơn tọa lạc trên khu đất rộng, được đúc bằng bê-tông, tường gạch, móng cọc nhồi. Nền chùa và các bệ thờ đều dán đá granit màu xám. Lược kể một vài hạng mục chính: Tam quan và điện Quan Âm lộ thiên: Tam quan xây ba tầng, mái lợp ngói thanh lưu ly truyền thống, trên các đầu đao có gắn hoa văn hình hoa sen cách điệu, nóc gắn hình "lưỡng long chầu Pháp luân". Qua khỏi tam quan là khoảng sân rộng trồng các loại cây kiểng, bon sai...để tạo cảnh quan. Bên trái sân chùa có cội bồ đề rợp mát. Đối diện cội ấy là một ao sen, giữa có điện Quan Âm lộ thiên. Tòa chánh điện chùa Vạn Đức cao 43,5 m, nhìn từ xa trông giống như một ngọn tháp chín tầng và hai tháp nhỏ năm tầng nhưng bên trong chỉ có hai tầng chính. Kỷ lục Việt Nam. Chùa Vạn Đức đã được "Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam" xác lập là ngôi chùa có hai kỷ lục tính đến năm 2014:
1
null
TLS (: "Bảo mật tầng giao vận") trước đây là SSL ("": "Tầng socket bảo mật") là giao thức mật mã được thiết kế để cung cấp truyền thông an toàn qua một mạng máy tính. Một số phiên bản của các giao thức này được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng như trình duyệt Web, thư điện tử, tin nhắn nhanh, và VoIP. Các giao thức này mật mã hóa khóa bất đối xứng bằng các chứng thực X.509 để xác thực bên kia và để trao đổi một khóa đối xứng. Sau đó, khóa phiên được dùng để mã hóa các dữ liệu được truyền qua lại hai bên. Phương pháp này cho phép bảo mật dữ liệu hoặc thông điệp và xác thực tính toàn vẹn của các thông điệp qua các mã xác thực thông điệp (""). Do sử dụng các chứng thực X.509, giao thức này cần các nhà cung cấp chứng thực số và hạ tầng khóa công khai để xác nhận mối quan hệ giữa một chứng thực và chủ của nó, cũng như để tạo, ký, và quản lý sự hiện lực của các chứng thực. Tuy quá trình này có thể tốt hơn việc xác nhận các danh tính qua một mạng lưới tín nhiệm, nhưng vụ tai tiếng do thám bí mật người dân 2013 đã báo động công cộng rằng các nhà cung cấp chứng thực là một điểm yếu về bảo mật vì cho phép các tấn công xen giữa ("man-in-the-middle attack"). Trong khung nhìn mô hình TCP/IP, TLS và SSL đều mã hóa dữ liệu của các kết nối mạng trên một tầng phụ thấp của tầng ứng dụng. Theo hệ thống tầng cấp của mô hình OSI, TLS/SSL được khởi chạy ở tầng 5 (tầng phiên) rồi hoạt động trên tầng 6 (tầng trình diễn): trước tiên tầng phiên bắt tay dùng mật mã bất đối xứng để đặt cấu hình mật mã và chìa khóa chia sẻ dành cho phiên đó; sau đó, tầng trình diễn mã hóa phần còn lại của thông điệp dùng mật mã đối xứng và khóa của phiên đó. Trong cả hai mô hình, TLS và SSL phục vụ tầng giao vận bên dưới, các đoạn trong tầng này chứa dữ liệu mật mã hóa. Giao thức TLS trực thuộc chương trình tiêu chuẩn của IETF. Nó được định rõ lần đầu tiên năm 1999 và cập nhật lần cuối cùng trong RFC 5246 (tháng 8 năm 2008) và RFC 6176 (tháng 3 năm 2011). TLS phỏng theo các bản định rõ SSL về trước (1994, 1995, 1996) do Netscape Communications phát triển nhằm thực hiện giao thức HTTPS trong trình duyệt Navigator.
1
null
Đại hội Thể thao châu Á 1986 hay Á vận hội X được tổ chức từ ngày 20 tháng 9, đến ngày 5 tháng 10 năm 1986 ở Seoul, Hàn Quốc. Thành phố được yêu cầu đăng cai ASIAD 1970, nhưng nó nhận các mối đe dọa về vấn đề an ninh từ nước láng giềng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, buộc Hàn Quốc phải bỏ đăng cai và năm 1966 tổ chức tại Bangkok, Thái Lan. Địa điểm và cơ sở vật chất Asiad lần thứ 10 trùng với địa điểm và cơ sở vật chất dùng trong Thế vận hội Mùa hè 1988 hai năm sau bởi vì đây được coi là sự kiện thử nghiệm. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa bao gồm Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ngoại trừ Trung Quốc đại lục tẩy chay Á vận hội vì điều kiện chính trị. Một gián điệp đã làm phát nổ một quả bom phía sau một máy bán hàng tự động ở Sân bay quốc tế Gimpo và làm thiệt mạng 5 người, bao gồm một kỹ thuật viên, chỉ vài ngày trước khi thế vận hội bắt đầu. Đại hội này đánh dấu chấm dứt sự tham dự Á vận hội của Israel và OCA yêu cầu nước này tham gia vào các cuộc tranh tài của châu Âu. Lịch thi đấu. <noinclude> Bảng huy chương. <onlyinclude>
1
null
OpenSSL là một thư viện phần mềm cho các ứng dụng bảo mật truyền thông qua mạng máy tính chống nghe trộm hoặc cần phải xác định phe truyền thông ở bên đầu kia. Nó được sử dụng rộng rãi trong các máy chủ web internet, phục vụ phần lớn tất cả các trang web. OpenSSL bao gồm phần mềm nguồn mở cho việc triển khai các giao thức mạng và mã hóa khác nhau như SSL và TLS. Thư viện gốc được viết bằng ngôn ngữ lập trình C, có sẵn những phần mềm cho phép sử dụng thư viện OpenSSL trong nhiều ngôn ngữ, cung cấp các chức năng mật mã tổng quát để mã hóa và giải mã. OpenSSL cũng được sử dụng từ dòng lệnh để yêu cầu, tạo và quản lý các chứng thực số. Có sẵn phiên bản cho phần nhiều hệ điều hành tương tự Unix (bao gồm Solaris, Linux, Mac OS X, và các hệ điều hành BSD nguồn mở), OpenVMS, và Microsoft Windows. IBM cung cấp một phiên bản tương thích với Hệ thống i (OS/400). OpenSSL dựa trên SSLeay do Eric A. Young và Tim Hudson phát triển cho đến vào khoảng tháng 12 năm 1998, khi RSA Security bắt đầu mướn Young và Hudson. Heartbleed. Ngày 7 tháng 4 năm 2014, dự án OpenSSL tuyên bố rằng tất cả các phiên bản trong sê ri 1.0.1 cho đến và bao gồm cả 1.0.1f có một lỗi trong phần thực hiện phần mở rộng "heartbeat" (nhịp đập tim) của TLS, do đó lỗi được đặt tên hiệu là Heartbleed, tạm dịch "trái tim chảy máu" hay "trái tim rỉ máu". Vào lúc tuyến bố lỗi, có ước lượng rằng vào khoảng 17% tức nửa triệu trong số máy chủ Web bảo mật trên Internet được tín nhiệm bởi nhà cung cấp chứng thực có thể tấn công được. Những hacker có thể lợi dụng lỗi này để tiết lộ bộ nhớ của ứng dụng cho tới 64 kilobyte mỗi lần gửi dấu hiệu "đập tim". Những người tấn công có thể đọc bộ nhớ của máy chủ để truy cập các dữ liệu cá nhân và làm hại đến sự an toàn của máy chủ và những người dùng. Vấn đề này có thể có ảnh hưởng đến các dữ liệu an toàn như khóa chủ cá nhân của máy chủ và các cookie phiên của người dùng, cho phép người tấn công phá mã các thông tin đã được nghe lén và thực hiện một tấn công xen giữa ("").
1
null
Tomorrowland là một lễ hội âm nhạc điện tử được tổ chức lần đầu tiên tại thị trấn Boom, nước Bỉ. Tomorrowland lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2005, từ đó đã trở thành một trong những liên hoan âm nhạc lớn và nổi tiếng nhất thế giới. Vé được mở bán trong vòng 2 tuần nhưng thường được bán hết trong vài phút. Lịch sử. Lễ hội lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 14 tháng 8 năm 2005 bởi ID&T. Những nghệ sĩ biểu diễn bao gồm Push (MIKE), Armin van Buuren, Cor Fijneman, Yves Deruyter, Technoboy, Yoji Biomehanika và Coone. Lần thứ hai, lễ hội được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 năm 2006, với sự tham gia của Armin van Buuren Axwell, Marco Bailey, Fred Baker, David Guetta, Ruthless và DJ Zany. DJ, nhà sản xuất Paul Oakenfold cũng đã được công bố trên poster, nhưng đã hủy lịch vào phút cuối, khi anh đi tour với Madonna vào thời điểm đó. Emjay, nhà sản xuất của "Stimulate", đã biểu diễn trên sân khấu chính với The Atari Babies. Năm thứ ba, lễ hội lần đầu tiên được tổ chức trong vòng 2 ngày, diễn ra vào ngày 28 và 29 tháng 7 năm 2007. Năm 2008, lễ hội diễn ra vào ngày 26 và 27 tháng 7. Lần đầu tiên lễ hội có hơn 100 DJ tham gia. Số lượng khách tham quan lần đầu tiên vượt mức 50.000. Với lần thứ năm, ID&T đã cho tổ chức ở nhiều địa điểm hơn. La Rocca lần đầu tiên biểu diễn trực tiếp tại lễ hội. Màn diễn chính đặc biệt nhất năm đó là của Moby. Tomorrowland 2009 đã diễn ra vào ngày 25 và 26 tháng 7 và thu hút 90.000 người tham dự. Năm 2010 Tomorrowland đã bán hết vé vài ngày trước sự kiện, với sự tham gia của 120.000 du khách trong hai ngày. Cùng năm đó, Dada Life, Dimitri Vegas & Like Mike và Tara McDonald đã viết bài hát chính thức "Tomorrow/Give Into The Night" và biểu diễn ngay sau màn diễn của Swedish House Mafia. Ca khúc được thực hiện bởi Like Mike, Dada Life và Dimitri Vegas, giai điệu và lời bài hát đã được Tara McDonald viết và thu âm. Bài hát đạt vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng thương mại của Bỉ và là bài hát bán chạy nhất của Tomorrowland cho đến nay. Năm 2011 đánh dấu sự mở rộng của lễ hội lên ba ngày. Chỉ một vài ngày sau khi bán vé chính thức, Tomorrowland đã bán hết vé và có hơn 180.000 lượt khách tham dự. David Guetta, Nervo, Swedish House Mafia, Avicii, Tiësto, Hardwell, Carl Cox, Paul van Dyk, Tensnake, Laidback Luke, Brodinski, Juanma Tudon, Mike Matthews, De Jeugd van Tegenwoordig và hàng chục nghệ sĩ khác đã tham gia biểu diễn. Lễ hội được bình chọn là Lễ hội âm nhạc điện tử tốt nhất thế giới tại Giải thưởng International Dance Music Awards in 2012. Tomorrowland 2012 đã diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 7 năm 2012 tại De Schorre, khu giải trí của tỉnh Boom, Bỉ, cách Antwerp 16 km về phía Nam và cách Brussels 32 km về phía Bắc. Than gia biểu diễn gồm 400 DJ, trong đó có Armin van Buuren, Ferry Corsten, Skrillex, Avicii, Marco Bailey, Skazi, David Guetta, Nervo, Hardwell, Swedish House Mafia, Afrojack, Steve Aoki, Juanma Tudon, Carl Cox, The Bloody Beetroots, Paul van Dyk, Martin Solveig, Chuckie, Fatboy Slim, Dimitri Vegas & Like Mike và Pendulum biểu diễn 15 lần mỗi ngày. 185.000 người từ hơn 75 quốc gia trên thế giới đã tham dự, trong đó có 35.000 người ở Dreamville. Do đây là sư kiện âm nhạc được tổ chức thường niên tại Bỉ, ID&T đã quyết định cho người Bỉ được phép mua trước 80.000 vé (trên 180.000 vé) và số vé này đã bán hết trong vòng chỉ 1 ngày (ngày 24/3). Việc bán vé trên toàn thế giới bắt đầu vào ngày 7 tháng 4. Trong vòng 43 phút, 100.000 vé khác đã được bán hết. Ngoài các vé thông thường, Tomorrowland hợp tác với Brussels Airlines để cung cấp các gói du lịch độc quyền từ hơn 15 thành phố trên thế giới. Những điểm nổi bật khác của lễ hội là Cloud Rider, bánh xe Ferris di động cao nhất ở châu Âu, và có 25 hãng hàng không đã được tổ chức để đưa khán giả đến với lễ hội từ khắp nơi trên thế giới. Tomorrowland 2013 đã diễn ra từ ngày 26 đến 28 tháng 7 và đạt 180.000 người tham dự tại De Schorre ở Boom, Bỉ. Vé được bán hết một cách điên cuồng trong 35 phút. Tomorrowland cũng đưa ra các gói Global Journey và Brussels Airlines có 140 chuyến bay bổ sung từ 67 thành phố khác nhau trên khắp thế giới để đưa khách tham gia từ 214 quốc gia khác nhau đến Boom, Bỉ. Để kỷ niệm 10 năm lễ hội và để đáp ứng nhu cầu vé cao, Tomorrowland 2014 sẽ được tổ chức trong hai tuần; 18-20 tháng 7 và 25-27 tháng 7. Vào tháng 4 năm 2014, MTV đã tuyên bố sẽ sản xuất hai chương trình đặc biệt MTV World Stage gồm hai buổi trình diễn từ lễ hội (được phát sóng vào tháng 8 năm 2014) và sẽ sản xuất một bộ phim tài liệu xoay quanh ngày kỷ niệm 10 năm thành lập Tomorrowland. Ngày 16 tháng 4, nhà soạn nhạc Hans Zimmer và Tomorrowland đã thông báo rằng họ đã hợp tác để sáng tác một bài thánh ca cổ điển sẽ ra mắt trong lần ấn bản kỷ niệm 10 năm Tomorrowland. 360.000 người đã tham dự Tomorrowland 2014. Tomorrowland 2015 đã diễn ra vào ngày 24-26 tháng 7 năm 2015 và đã đi theo chương đầu tiên của chủ đề mới Melodia. Phiên bản The Elixir of Life năm 2016 giới thiệu giai đoạn mới. Năm 2017, Tomorrowland sẽ tổ chức vào hai tuần cuối một lần nữa. Tuần đầu tiên sẽ diễn ra từ ngày 21-23 tháng 7 năm 2017, tiếp theo là một tuần từ 28 đến 30 tháng 7. TomorrowWorld. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2013, ID&T Bỉ và SFX Entertainment đã tuyên bố sẽ bắt đầu tổ chức một sự kiện Tomorrowland tại Mỹ, được gọi là TomrrowWorld. Lễ hội được tổ chức tại trang trại Bouckaert ở Chattahoochee Hills, Geogria cách Atlanta 48 km về phía Tây Nam. Địa điểm này được lựa chọn do có sự tương đồng với vị trí của Boom, và Tomorrowland được tổ chức theo cách truyền thống. Lần tổ chức đầu tiên, TomorrowWorld được tổ chức từ ngày 27-29 tháng 9 năm 2013, đã sử dụng lại thiết kế "Book of Wisdom" được sử dụng cho sân khấu chính ở Tomorrowland vào năm 2012. Lễ hội đã thu hút hơn 140.000 người tham dự. TomorrowWorld đã mang âm nhạc, các vũ điệu và cảnh quan tuyệt đẹp cho khu vực và khiến cho kinh tế khu vực tăng trưởng. Các quan chức báo cáo rằng TomorrowWorld 2013 đã đóng góp 85,1 triệu đô la vào nền kinh tế Georgia, bao gồm 70 triệu đô la trực tiếp cho Atlanta. Các lãnh đão của TomorrowWorld cho biết: gần 140.000 người đã tham dự sự kiện, và chi tiêu trực tiếp của họ đã bổ sung 28,7 triệu đô la vào nền kinh tế địa phương trong các lĩnh vực như nhà nghỉ, nhà hàng và ngắm cảnh. Tomorrowworld 2014 đã được tổ chức vào ngày 26-27-28 tháng 8 năm 2014 với chủ đề là "The Arising of Life" và đã sử dụng sân khấu chính núi lửa đã ra mắt tại Tomorrowland 2013. Lễ hội đã tổ chức một buổi hòa nhạc trước lễ hội mang tên "The Gathering" vào Thứ Năm ngày 25 tháng 9 năm 2014 cho những người tham dự ở Dreamville, những khu trại của TomorrowWorld. Đã có hơn 40.000 người cắm trại ở Dreamville và hơn 160.000 người tham dự TomorrowWorld 2014. TomrrowWorld 2015 đã được tổ chức vào cuối tuần ngày 25 tháng 9 năm 2015. Sự kiện này đã bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu. Mưa khiến cho sân vận động tràn ngập bùn, và đường vào sân không sử dụng được. Vào Thứ 7, do điều kiện đường sá, ban tổ chức hạn chế dịch vụ đưa đón cho những người tham dự quay trở lại Atlanta; những người không bị mắc kẹt nhưng không có nơi trú ẩn qua đêm đã được yêu cầu đi vài dặm dặm về phía khu vực taxi để bắt taxi và Uber quay lại Atlanta với giá cao. Sáng hôm sau, các nhà tổ chức lễ hội thông báo rằng phần còn lại của lễ hội sẽ chỉ mở cửa cho những người đã cắm trại tại chỗ, và hoàn tiền cho những người bị ảnh hưởng bởi giao thông và đã mua vé Vào ngày 2 tháng 3 năm 2016, trang Facebook chính thức của TomorrowWorld thông báo rằng lễ hội sẽ không được tổ chức vào năm 2016. Tomorrowland Brasil. Như được công bố vào ngày 20 tháng 7 năm 2014, bởi Tomorrowland, David Guetta đã tới Brazil, và theo như trên trang web Tomorrowland, Tomorrowland Brasil được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 5 năm 2015 tại Itu, São Paulo. Lễ hội có sự tham gia biểu diễn của W&W, Hardwell, Iraj và Naveen Attygalle, Dimitri Vegas & Like Mike, Showtek, Steve Aoki và nhiều nghệ sĩ khác. Có nhiều hãng thu âm cũng tham gia lễ hội như Revealed Recordings, Dim Mak, Smash The House, Q-Dance, Super You & Me và nhiều hãng khác nữa Lễ hội lại sử dụng lại chỉ đề "Book of Wisdom". Tất cả 180.000 vé bán hết một ngày sau khi được mở bán. Lần tổ chức thứ hai của Tomorrowland Brasil đã được tổ chức một lần nữa tại Itu ở São Paulo, Brasil trong khoảng thời gian từ 21-23 tháng 4 năm 2016. Các nghệ sĩ bao gồm Axwell & Ingrosso, Ferry Corsten, Laidback Luke, Loco Dice, Markus Schulz, Afrojack, Alesso, Armin van Buuren, Chris Lake, Infected Mushroom, Nicky Romero, Dimitri Vegas & Like Mike, Solomun, Steve Angello, và nhiều nghệ sĩ khác. Vào tháng 11 năm 2016, ban tổ chức thông báo rằng Tomorrowland Brasil sẽ không được tổ chức nữa do lo ngại về sự ổn định kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, lễ hội có kế hoạch trở lại vào năm 2018. Hợp nhất với Tomorrowland. Tomorrowland đã tổ chức sự kiện hợp nhất lễ hội Tomorrowland ở các quốc gia khác gọi là "Unite with Tomorrowland", được tổ chức như các sự kiện vệ tinh phát trực tiếp lễ hội ở Bỉ với các hiệu ứng đồng bộ. Vào ngày 29 tháng 7 năm 2017, một sự kiện Unite ở Barcelona đã bị hủy bỏ sau khi sân khấu bị cháy do sự cố kỹ thuật. Rất may là không có thương vong. Giải thưởng và chứng nhận. Năm 2015, Tomorrowland đã nhận được giải thưởng Liên hoan âm nhạc điện tử lớn nhất thế giới từ DJ Magazine. Giải thưởng này đến từ kết quả bình chọn của độc giả tạp chí.
1
null
Câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam có trụ sở ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đây là câu lạc bộ được tái lập năm 2012, sau khi Câu lạc bộ Khatoco Khánh Hòa giải thể. Đội hiện thi đấu tại V.League 1 mùa giải 2023–24. Lịch sử. Khời đầu. Tiền thân của đội là Đội bóng đá Phú Khánh, thành lập vào năm 1976. Là đội bóng nghiệp dư đại diện cho tỉnh Phú Khánh, đội bắt đầu tham dự Giải vô địch bóng đá Việt Nam từ năm 1980 và nhiều năm liền đạt thành tích tốt. Tại Giải bóng đá vô địch quốc gia 1987, đội lọt vào vòng bán kết và đạt hạng 4. Kết thúc Giải phân hạng 1989, đội được xếp vào thi đấu ở Giải A1. Cũng trong năm đó, tỉnh Phú Khánh tách ra thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, đội được chuyển về cho tỉnh Khánh Hòa quản lý với tên gọi Đội bóng đá Khánh Hòa. Tại mùa giải 1991, đội đã thi đấu thành công, giành được suất thăng hạng. Tuy nhiên, đội không duy trì được phong độ vào mùa giải năm 1992, và phải chấp nhận xuống thi đấu trở lại ở Giải A1. Đội trở lại thi đấu ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1995 và duy trì được vị trí ở các mùa giải sau đó. Tại Giải vô địch quốc gia chuyên nghiệp lần đầu tiên, đội có thành tích tệ nhất giải khi chỉ có 7 điểm sau 18 trận (1 trận thắng, 4 trận hòa và 13 trận thua), ghi được 15 bàn thắng và để thủng lưới 36 bàn. Nhưng trong 15 bàn thắng đó, Đặng Đạo, tiền đạo chủ lực của đội, đã nắm giữ đến 11 bàn thắng mà đội ghi được. Kết quả tồi tệ này còn ảnh hưởng tại Giải hạng Nhất mùa bóng 2001-2002. Do khủng hoảng cầu thủ, đội có kết quả thi đấu tồi và phải xuống thi đấu ở giải hạng Nhì năm sau. Mùa bóng năm 2004, dưới sự tài trợ của Tổng công ty Khánh Việt của ông bầu Nguyễn Xuân Hoàng, đội thi đấu khá thành công và giành được chức vô địch Giải hạng Nhì, giành được suất thi đấu ở Giải hạng Nhất. Ngày 1 tháng 11 năm 2004, đội chính thức chuyển sang mô hình câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp khi Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa chính thức bàn giao đội bóng cho Tổng Công ty Khánh Việt quản lý với tên gọi mới là Câu lạc bộ bóng đá Khatoco Khánh Hòa. Tại giải hạng nhất 2005, đội thi đấu thành công với 41 điểm, trong đó có 12 trận thắng, 5 trận hòa và 5 trận thua, giành được quyền thi đấu tại V-League. Dù đoạt chức vô địch Giải hạng Nhất, nhưng số trận thắng của đội còn ít hơn cả Tiền Giang. Ở giải chuyên nghiệp, ngay trong mùa bóng đầu tiên Khatoco Khánh Hòa tham dự, đội xếp hạng 6 và đoạt giải phong cách. Những mùa giải sau đó, đội thường ngụp lặn ở giữa bảng xếp hạng, thậm chí có lúc xếp thứ 11 chung cuộc. Thành tích tốt nhất của câu lạc bộ giai đoạn này là vị trí thứ 4 ở mùa bóng 2010. Chuyển đổi mô hình và giải thể. Trong suốt 7 năm thi đấu với mô hình bán chuyên nghiệp, đầu tháng 12 năm 2011, đề án thành lập Công ty Cổ phần Bóng đá Khánh Hòa đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa thông qua, chuyển đổi hoàn toàn Câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa từ mô hình bán chuyên nghiệp sang mô hình chuyên nghiệp. Tuy nhiên, sau khi kết thúc mùa giải 2012, do những khó khăn về tài chính, lãnh đạo Câu lạc bộ đã quyết định bán lại suất dự V.League 2013 cho Vicem Hải Phòng, cùng với nhiều cầu thủ của đội hình 1, chỉ giữ lại vài trụ cột cùng ban huấn luyện để bổ sung cho đội hình 2. Đội cũng quyết định rút lui không thi đấu tại giải hạng nhất mùa giải 2013. Tái thành lập. Năm 2012, sau khi Khatoco Khánh Hòa giải thể, đội trẻ của đội bóng này được thành lập và có tên gọi là Sanna Khánh Hòa Biển Việt Nam. Năm 2013, Sanna Khánh Hòa BVN thi đấu ở Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia và đã giành quyền lên hạng nhất năm 2014. Mùa giải 2014, Sanna Khánh Hoà BVN giành được quyền thăng hạng với vị trí á quân. Thành tích. V.League 1 V.League 2 Hạng nhì Mekong Club Championship: Sân vận động. Sân nhà của đội bóng là Sân vận động 19 tháng 8, còn có tên khác là Sân vận động Nha Trang, là một sân vận động bóng đá ở Đường Yersin, phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam, có sức chứa khoảng 18.000 khán giả. Đội hình hiện tại.
1
null
Họ Cánh cộc (tên khoa học Staphylinidae) là một họ côn trùng thuộc bộ bọ cánh cứng. Một số loài trong chúng có thân mình thon, dài như hạt thóc (dài 1 - 1,2 cm, ngang 2 - 3mm), có hai màu đỏ và đen, nhìn giống con kiến nên mới có các tên gọi dính với chữ "kiến". Phần nhiều các loài bọ cánh cứng này có đôi cánh cứng bao ngoài rất ngắn, để lộ ra cả một phần của bụng. Phân loài. Họ Cánh cộc là họ bọ cánh cứng lớn nhất tính trên quy mô thế giới, chúng cũng chiếm giải quán quân ở quy mô địa phương như vùng Bắc Mỹ, Anh quốc và có thể còn nhiều vùng khác tính theo khả năng phát hiện ra nhiều loài mới trong tương lai. Họ Cánh cộc cũng là một họ côn trùng khá cổ với dấu tích hóa thạch sớm nhất có niên đại chừng 200 triệu năm. Năm 1998 người ta thống kê được 46.725 loài bọ cánh cộc Staphylinidae (theo Zoological Record, tập 135), các thống kê gần đây đưa ra những con số còn cao hơn, khoảng 54.000 hay 55.440 loài. Việc phân nhóm các loài này vẫn đang còn gây tranh cãi trong giới khoa học. Có ý kiến cho rằng nên phân họ này thành 10 họ riêng biệt, nhưng ý kiến chung là phân chia bọ cánh cộc thành 31 phân họ, khoảng 100 tông và 3.200 chi. Mỗi năm có 400 loài mới được phát hiện và miêu tả, và một số ước tính cho rằng 3/4 số loài sống tại vùng nhiệt đới chưa được biết đến. Mô tả. Là một họ lớn nên các loài Staphylinidae có hình dạng và kích thước cực kỳ đa dạng. Chiều dài của chúng có thể nhỏ hơn 1mm hoặc lên tới 35mm, nhưng phần lớn rơi vào khoảng 2-8mm. Hình dáng thân chủ yếu thon dài, một số ít loài lại có thân tròn và bầu. Màu sắc có thể là vàng, nâu đó cho đến nâu hay đen. râu thường có 11 đốt, khá đều và có dạng ống, một số chi có một phần râu hơi phình nhìn giống cây chùy. Phần bụng có thể rất dài và mềm dẻo, một số loài bọ cánh cộc có thể khá giống con sâu tai. Đặc điểm nổi bật của Họ Cánh cộc là lớp cánh cứng ngoài rất ngắn, chỉ che phủ được một nửa phần bụng và để lộ ra 6 hay 7 đốt bụng với các khớp liền nhau ở phần lớn các loài. Một thiểu số bọ Cánh cộc có cánh... không cộc lắm, che phủ gần hết thân, nhưng vẫn dễ nhận ra với 6 đốt bụng có thể nhìn thấy rõ và không có lobed fourth rarsomere. Có những loài Cánh cộc có hình dạng rất giống kiến, và vì vậy chúng mang các tên gọi có chữ "kiến" như kiến ba khoang, kiến hoang, kiến kim, kiến lác, kiến gạo, kiến nhốt, kiến cong... Một số loài của phân tông Paederina (thuộc nhóm Paederinae) chứa các hóa chất có thể gây phồng rộp da trong máu, chúng có thể gây ra một loại bệnh phồng rộp da tên là "Paederus dermatitis". Một trong những chất hại da nằm trong máu chúng có tên là pederin, rất độc, độc hơn 15 lần cả nọc rắn hổ mang. Sinh thái. Bọ cánh cộc Staphylinidae sống trong các sinh cảnh và vùng sinh thái phù hợp với bọ cánh cứng nói chung, và chúng có thể ăn hầu hết mọi thứ trừ những mô sống của các thực vật bậc cao tỉ như "Himalusa thailandica". Phần lớn các loài thuộc họ bọ cánh cộc này là loài săn mồi, chúng ăn thịt các côn trùng và các động vật không xương sống khác, chúng sinh sống trong các đống lá mục hoặc xác cậy cối đang phân hủy. Một số loài sống ở bờ biển, tại các vùng gian triều ("intertidal zone") hoàn toàn bị ngập nước lúc triều cường, tỉ như loài "Thinopinus pictus"; một số khác là động vật ký cư, sống nhờ tổ của các loài kiến hay mối, một số hỗ sinh với các loài thú theo dạng thức tỉ như săn bắt bọ chét hay các loài ký sinh làm hại vật chủ. Một số loài như các thành viên của chi "Aleochara" sống ký sinh trên các côn trùng khác, ví dụ như một số ấu trùng ruồi. Do thói quen săn bắt và ăn thịt các loài côn trùng khác, người ta từng xem xét sử dụng bọ cánh cộc như là một công cụ phòng trừ sinh học và đánh giá chúng như là một trong những tác nhân kiểm soát "dân số" các sinh vật trong tự nhiên. Tuy nhiên, các thử nghiệm sử dụng bọ cánh cộc nhằm trừ sâu hại chưa đem lại kết quả nào đáng kể. Trong số đó thì nhóm bọ cánh cộc dạng ký sinh ("parasitoid") như "Aleochara" tỏ ra thành công hơn cả. Trong số bọ cánh cộc, chi "Stenus" có lối săn mồi đáng chú ý. Chúng là loài săn mồi chuyên ăn thịt các động vật không xương sống nhỏ (tỉ như bọ đuôi bật "collembola"). Môi dưới của chúng có thể được phóng dài ra như lưỡi tắc kè nhờ vào áp suất máu, trên đầu môi có nhiều lông nhọn và gai để tóm giữ lấy con mồi mà nó bắt được. Tham khảo. Họ Cánh cộc ở châu Âu. Europe
1
null
Dafne là vở opera nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Ý Jacopo Peri. Tác phẩm này được coi là vở opera đầu tiên trong lịch sử âm nhạc. Để có thể sáng tác vở opera đó, Peri đã phối hợp với nhà thơ Ý Ottavio Rinuccini, người viết lời cho vở opera đầu tiên này. Vở opera được sáng tác vào năm 1598, thể hiện đúng tư tưởng âm nhạc của thời đại lúc đó: sử dụng âm nhạc để tăng phần sinh động cho ca từ như những người Hy Lạp cổ đại đã làm. Tuy nhiên, Dafne chỉ tồn tại phần ca từ, còn phần nhạc thì không còn nữa
1
null
Euridice là vở opera của nhà soạn nhạc người Ý Jacopo Peri. Ông đã phối hợp với nhà thơ Ý Ottavio Rinuccini, người viết lời cho tác phẩm, để hoàn thành nó. Vở opera này được sáng tác vào năm 1600. Ngày nay, vở opera này vẫn được lưu giữ nguyên vẹn. Cùng với vở Dafne, Euridice trở thành một trong 2 vở opera nổi tiếng nhất của Peri. Cả hai vở opera đều là sự hợp tác của Peri và Rinuccini, đều là những vở opera phôi thai cho nhiều vở opera sau này, đồng thời còn có vai trò quan trọng trong việc biến thành phố Florence trở thành trung tâm của opera giai đoạn đầu (nửa đầu thế kỷ XVII)và đưa Ý trở thành quê hương của opera .
1
null
Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2 (); 1945–1950 là cuộc chiến giữa Trung Quốc Cộng sản Đảng và Trung Quốc Quốc dân Đảng nhằm tranh chấp quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục. Trước và sau khi kết thúc Chiến tranh kháng chiến chống Nhật Bản xâm lược, các cuộc xung đột đã diễn ra giữa Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng. Cả hai phe Quốc dân và Cộng sản bắt đầu đàm phán tại Trùng Khánh và tổ chức hội nghị hiệp thương chính trị. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán nhanh chóng bị phá vỡ và cuộc nội chiến nổ ra. Trong những thời gian đầu của cuộc chiến, quân đội Quốc dân có được những lợi thế toàn diện. Họ nắm giữ hầu hết các trung tâm kinh tế của đất nước, có quân số đông gấp 6 lần đối phương. Quốc dân đảng đánh chiếm các vị trí chiến lược như Trương Gia Khẩu và Diên An do Đảng Cộng sản kiểm soát. Tuy nhiên, đến đầu năm 1947, với các chính sách hợp lý như cải cách ruộng đất, quân Giải phóng Nhân dân đã giành được sự ủng hộ lớn của người dân, họ bắt đầu một cuộc phản công từng phần để chống lại Quốc dân đảng. Trong khi đó, Quốc dân đảng thì ngày càng suy yếu do các chính sách gây mất lòng dân, nạn tham nhũng, chia sẽ nội bộ. Vào giữa năm 1947, sau khi tiến vào trọng điểm tiến công, Đảng Cộng sản đã nắm quyền chủ động cuộc chiến và chiến tranh đã đảo ngược. Quân Giải phóng Nhân dân trong các Chiến dịch Liêu Ninh-Thẩm Dương, Chiến dịch Hoài Hải, Chiến dịch Bình Tân thắng lợi, một cách nhanh chóng đánh bại quân Quốc dân, vượt sông Dương Tử, và kiểm soát hầu hết các vùng của Trung Quốc, tại Bắc Kinh vào ngày 1/10/1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Vào tháng 6/1950, sau khi các trận chiến quy mô lớn giữa hai bên kết thúc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã loại bỏ tàn dư của Trung Hoa Dân Quốc, còn sót lại trong quân đội và người dân Trung Quốc thông qua diệt trộm cướp và trấn áp phản cách mạng. Từ những năm 1950, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, ngăn cách bởi eo biển Đài Loan, vẫn đối đầu với nhau. Cho đến nay, mặc dù cuộc nội chiến đã chấm dứt, căng thẳng quân sự xảy ra khi tình hình chính trị ở cả hai bên thay đổi. Tên gọi. Các tài liệu chính thức và sử liệu giáo khoa chính thống của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi cuộc chiến là Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (), gọi tắt là Chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến Cách mạng lần thứ 3 (). Còn tài liệu tương đương của Trung Quốc Quốc dân đảng và chính quyền Trung Hoa Dân quốc thì coi đây là cuộc nổi loạn của "phỉ quân" Trung Hoa Cộng sản đảng chống lại Nhà nước chính thống Trung ương, nên gọi là Kham loạn chiến tranh () (chiến tranh chống phản loạn) hoặc Chiến tranh kháng Cộng. Cộng đồng quốc tế gọi chung là Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2. Cộng đồng học giả tiếng Anh gọi chung là Nội chiến Trung Quốc lần thứ 2 (China Civil War). Bối cảnh. Ngay từ trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, cả Cộng sản đảng và Quốc dân đảng đã có những bất đồng sâu sắc, từng dẫn đến Nội chiến lần thứ nhất. Khi Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, hai bên tạm gác những xung đột để cùng hợp tác chống lại kẻ thù chung, dù sự hợp tác rất hạn chế, mỗi bên đều tìm cơ hội để tiêu diệt bên kia. Khi thời điểm quân Nhật chuẩn bị thua trận, kẻ thù chung của cả hai phe Cộng sản đảng và Quốc dân đảng sắp biến mất, thì mâu thuẫn trong quá khứ của 2 bên bắt đầu xuất hiện trở lại. Trong Chiến tranh Trung-Nhật, chính phủ Trung Hoa dân quốc tấn công quân Nhật trực tiếp từ khu vực phía Đông vùng hạ lưu sông Tùng Hoa cho đến Tây Nam Trung Quốc. Vì vậy trước khi quân Nhật đầu hàng, quân chủ lực Quốc dân quân tập trung hầu hết ở khu vực này. Ngoài ra, ở khu vực phía nam sông Trường Giang, tuyến đường sắt Quảng Châu - Hán Khẩu (Việt Hán lộ) về phía Đông có lực lượng địa phương Quốc dân quân thuộc Đệ tam Chiến khu bảo vệ. Ở khu vực Hoa Bắc và Đông Bắc, về danh nghĩa vẫn thuộc chính phủ Trung Hoa dân quốc kiểm soát, nhưng thực chất quyền kiểm soát thuộc chính phủ Uông Tinh Vệ thân Nhật. Còn từ phía bắc sông Trường Giang và khu vực từ tuyến đường sắt Bắc Bình - Hán Khẩu (Bình Hán lộ) về phía đông không có lực lượng chính quy của chính phủ Trung Hoa dân quốc. Phía Đảng Cộng sản Trung Quốc trong chiến tranh sử dụng chiến tranh du kích và tác chiến ở nông thôn, tổ chức phong trào chống Nhật Bản ở khu vực nông thôn trong khu vực chiếm đóng của Nhật Bản. Vì vậy, đến tháng 4 năm 1945, Đảng Cộng sản kiểm soát hầu hết các vùng nông thôn Bắc Trung Quốc, tổng dân số khoảng 95.5 triệu và xây dựng một chính quyền và quân đội riêng đối đầu lại chính quyền và quân đội Quốc dân Đảng. Kể từ khi Quốc dân Đảng nắm chính phủ, quân Đồng Minh luôn coi đây là đại diện hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc. Chính phủ Mỹ về giai đoạn cuối Chiến tranh thế giới thứ hai cũng lo ngại về sự mạnh lên và ngày càng mở rộng của Phong trào Cộng sản, vì vậy chính phủ Trung Hoa dân quốc nhận được hỗ trợ trực tiếp của Mỹ ngày càng nhiều hơn trong chiến tranh. Ngoài ra, trước khi quân Nhật đầu hàng, chính phủ Trung Hoa dân quốc và Liên Xô đã ký cam kết về sự độc lập của Ngoại Mông và các cam kết liên quan đến lợi ích của Liên Xô tại khu vực Đông Bắc, để bảm đảm Liên Xô không hỗ trợ cho phía Đảng Cộng sản. Trong nước, chính phủ Trung Hoa dân quốc nhiều lần nhấn mạnh tính chính danh của chính phủ hợp pháp trong quá trình tiếp nhận đầu hàng của quân Nhật. Yếu tố trong nước. Khi chiến tranh sắp kết thúc, hai Đảng tranh thủ chính trị, chủ động tìm kiếm hòa bình. Từ ngày 14 đến 23 tháng 8, Tưởng Giới Thạch gửi 3 điện mời Mao Trạch Đông tới Trùng Khánh để thảo luận vấn đề về tương lai đất nước. Ngày 25 tháng 8, phía Đảng Cộng sản ra phát biểu "Tuyên bố về tình hình chính trị hiện tại" (), yêu cầu chính phủ Trung Hoa dân quốc thừa nhận chính quyền dân bầu khu giải phóng, quân đội, đảng phái hợp pháp; triệu tập hội nghị các đảng phái thành lập chính phủ chung và chủ trương chính trị. Ngày 26, Mao Trạch Đông chính thức tham gia đàm phán hòa bình tại Trùng Khánh. Mặc dù cả hai bên đều tìm kiếm sự hòa bình, nhưng bất đồng vẫn còn,dẫn tới xung đột. Ngay từ ngày 11 tháng 8 năm 1945, lãnh đạo chính phủ Trung Hoa dân quốc Tưởng Giới Thạch nhận được tin quân Nhật chuẩn bị đầu hàng, đã yêu cầu Quốc dân quân "tích cực thúc đẩy" tái chiếm các khu vực kiểm soát của quân Nhật, đồng thời ngăn cảnh phía Đảng Cộng sản mở rộng vùng kiểm soát đang nằm trong tay quân Nhật và chính quyền Uông Tinh Vệ bằng mệnh lệnh "ở yên đợi lệnh". Phía Đảng Cộng sản từ chối lệnh "ở yên đợi lệnh" và yêu cầu Giải phóng quân phản công trên diện rộng, cố gắng mở rộng kiểm soát ở các vùng nông thôn rộng lớn, thậm chí ở một vài đô thị quan trọng. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng Hirohito phát biểu chấm dứt chiến tranh và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng quân Đồng Minh tại Viễn Đông MacArthur ra chỉ thị, ngoài khu vực Đông Bắc (bấy giờ do Liên Xô kiểm soát), toàn bộ Trung Hoa đại lục, Đài Loan và vùng Đông Dương thuộc Pháp từ vĩ độ 16 trở lên sẽ do phía Quốc dân quân chịu trách nhiệm tiếp nhận việc đầu hàng của quân Nhật. Phía Đảng Cộng sản lập tức phản đối quyết liệt. Chu Đức, Tư lệnh Giải phóng quân gửi thư đến đại sứ các nước Anh, Liên Xô, Hoa Kỳ tuyên bố phản đối quyết định việc tiếp nhận đầu hàng và giải giáp quân Nhật do một mình chính phủ Trung Hoa dân quốc thực hiện, đồng thời cáo buộc Tưởng Giới Thạch là "lãnh đạo phát xít", "chuyên quyền", "kẻ phản bội", "kích động cuộc nội chiến". Phía Đảng Cộng sản yêu cầu được quyền tiếp nhận đầu hàng và giải giáp quân Nhật ở các vùng Hoa Bắc, Hoa Đông, Hoa Trung, Hoa Nam, nhưng bị bác bỏ. Ngày 21 tháng 8, chính phủ Trung Hoa dân quốc tổ chức lễ tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản, kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, tại các khu vực do Đảng Cộng sản kiểm soát, chính quyền Cộng sản địa phương tổ chức tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật, không tuân theo quy định của Đồng Minh, dẫn tới sự xung đột giữa 2 bên Quốc-Cộng tại khu vực Đông Bắc và phía Bắc. Việc chuyển giao chính quyền ngay lập tức giữa chính phủ Trung Hoa dân quốc và phía Nhật Bản thực sự gặp nhiều khó khăn, vì vậy chính phủ Trung Hoa dân quốc đã sử dụng quân đội của chính quyền Uông Tinh Vệ vào công tác "duy trì trị an". Ngày 23 tháng 8, Tổng tư lệnh Lục quân Quốc dân quân Hà Ứng Khâm đã gửi thư cho Tư lệnh Chi Na phái khiển quân là tướng Okamura Yasuji, yêu cầu quân Nhật phải duy trì các vùng lãnh thổ chiếm đóng, đảm bảo giao thông trong khi chờ Quốc dân quân đến tiếp quản chuyển giao, kể cả tại các khu vực mới bị lực lượng Giải phóng quân chiếm giữ. Bấy giờ, tính đến ngày 26 tháng 8, lực lượng Giải phóng quân đã "chiếm được 59 thành phố và nhiều vùng nông thôn rộng lớn". Quân đội Nhật theo lệnh của chính phủ Trung Hoa dân quốc, đã phản công và đến cuối tháng 9 tái chiếm lại được 20 thành phố. Xung đột cũng bùng nổ khi Quốc dân quân và Giải phóng quân giao tranh trực tiếp tại Sơn Tây và Bắc Bình. Tháng 9 năm 1945, các lãnh đạo Đảng Cộng sản quyết định từ bỏ khu vực kiểm soát từ Bình Hán lộ về phía Đông, chính thức đưa ra phương châm "hướng Bắc phát triển, hướng Nam phòng ngự", rút bớt lực lượng từ Giang Nam tiến lên Giang Bắc, dốc sức phát triển căn cứ địa ở Hoa Bắc và Đông Bắc. Bát lộ quân (quân đội Cộng sản trong biên chế quân Quốc Dân) thuộc quân đội Đông Bắc do tướng Vạn Nghị, Lữ Chính Thao, Trương Học Tư, Quân khu Cách mạng Kí Nhiệt Liêu do Lý Vận Xương tiến quân vào Đông Bắc chuẩn bị tiếp nhận đầu hàng của Nhật Bản. Ngày 30 tháng 8, Bát lộ quân phối hợp với quân đội Liên Xô đánh chiếm Sơn Hải Quan. Tằng Khắc Lâm là đội quân tiên phong ở Đông Bắc đã tiếp nhận lượng lớn vũ khí và thành viên. Hoàng Khắc Thành thuộc Tân Tứ quân Sư đoàn 3.3 vạn quân bắt đầu ở phía Bắc từ tháng 9 tiến vào Đông Bắc vào tháng 11. Đồng thời La Vinh Hoàn dẫn quân từ Sơn Đông với khoảng 6 vạn tiến lên Đông Bắc tái chiếm các vùng đảo thuộc khu vực. Khu vực phía Nam Vương Chấn cũng đưa Lữ đoàn 359 lên Đông Bắc. Trước sau đạt được khoảng 10 vạn quân. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng thành lập Cục Đông Bắc, và hơn 20 cán bộ cấp cao được gửi đến đây. Chính quyền Quốc Dân yêu cầu quân đội Nhật Bản, "ngụy quân, ngụy quyền" phải "duy trì trật tự an ninh ở địa phương"... ở nhiều nơi, những tên "Hán gian" và quân đội của Chính quyền thân phát xít Nhật trước kia nay trở lại thành quan quân của Quốc Dân, gây ra sự bất mãn lan rộng. Sau khi kết thúc chiến tranh, tại một số nơi Quốc Dân đảng gây ra tình trạng tham nhũng dẫn tới sự bất mãn lớn trong nhân dân. Thời gian ấy trong dân gian có nhiều câu như "Đẳng trung ương, phán trung ương, trung ương lai liễu cảnh tao ương" (chờ trung ương, đợi trung ương, trung ương gây tai họa) "Tiếp thu thành liễu kiếp thu". Quốc Dân đảng trong thời kỳ này còn gây ra sự cố 28 tháng 2 (hay còn được gọi sự kiện 228) gây ra thảm sát nghiêm trọng trên đảo Đài Loan. Nửa cuối năm 1945,xảy ra các cuộc xung đột giữa Quốc - Cộng, danh sách xung đột chủ yếu Quốc Cộng: Yếu tố Quốc tế. Tháng hai năm 1945 tại Hội nghị Yalta Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh ra quyết định để giảm chi phí chiến tranh cho Hoa Kỳ, không cần sự đồng ý của chính phủ Trung Hoa dân quốc, đã chấp thuận cho Liên Xô thuê cảng Đại Liên và Lữ Thuận Khẩu và sử dụng tuyến đường sắt Đông Thanh và Nam Mãn thuộc khu vực Đông Bắc. Ngày 14 tháng 8 năm 1945 Quốc Dân Đảng và Liên Xô ký "Trung-Xô hữu hảo đồng minh hiệp ước", trong đó Trung Quốc đồng ý cho Ngoại Mông trưng cầu dân ý về vấn đề tương lai, đồng thời Liên Xô không tham gia hỗ trợ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vào cuối tháng 12 theo tuyên bố Potsdam, bộ trưởng 3 nước Anh, Liên Xô, Hoa Kỳ đã tổ chức một cuộc họp tại Moskva. Về Trung Quốc, ba nước đã nhất trí rằng Trung Quốc nên thành lập một chính phủ dân chủ thống nhất, Chính phủ cần có sự tham gia rộng rãi, và chiến tranh dân sự cần ngừng bắn. Ba nước đồng ý sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc. đã nói rằng quân đội Liên Xô đóng quân ở phía đông bắc đã hoàn tất việc giải giáp quân Nhật và cho hồi hương; nên chính phủ Trung Quốc yêu cầu việc rút quân đội Liên Xô đóng quân ở vùng Đông Bắc sẽ được hoãn lại đến tháng 2 năm 1946. Ngoại trưởng Mỹ lưu ý rằng nhiệm vụ chính của quân đội Mỹ ở miền Bắc Trung Quốc là việc thực hiện các giải trừ quân bị và hồi hương quân Nhật. Sau khi quân đội Trung Quốc có thể độc lập và tự chịu trách nhiệm, quân đội Mỹ sẽ rút quân ngay lập tức. Hiệp thương chính trị và hòa giải quân sự. Sau thế chiến thứ hai, cả hai phe Quốc - Cộng đều chuẩn bị cho một cuộc nội chiến mới. Liên Xô và Mỹ đều không muốn xảy ra nội chiến có thể kéo hai đại cường vào. Harry Truman và Joseph Stalin gây sức ép buộc Mao và Tưởng gặp nhau ở Trùng Khánh. Truman gửi George Marshall tới Trung Quốc ngày 20/12/1945 để dàn xếp ngừng bắn giữa hai phe Quốc - Cộng tiến đến thành lập chính phủ liên hiệp. Tháng 8 năm 1945 Mao Trạch Đông cùng đoàn đại biểu đến Trùng Khánh tham gia hội nghị tương lai Trung Quốc với Tưởng Giới Thạch. Đàm phán chủ yếu của Đảng Cộng sản là Chu Ân Lai và Vương Nhược Phi, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là Vương Thế Kiệt, Trương Quần, Trương Trị Trung, Thiệu Lực Tử tham gia tiến hành. Diên An đề xuất chiến lược mới với Liên Xô "phía bắc phát triển,phía nam phòng ngự", hy vọng Moskva hỗ trợ các khu vực Đông Trung Quốc, Hoa Bắc, Đông Bắc và khu vực giáp Liên Xô thành lập các căn cứ đấu tranh chính trị. Hai bên Quốc Cộng đã đi đến ký Hiệp định Song Thập (10-10-1945), trong đó quy định những biện pháp bảo vệ hoà bình ở trong nước, xác định việc triệu tập Hội nghị hiệp thương chính trị. Hiệp định ghi rõ: "kiên quyết tránh nội chiến, lấy hoà bình, dân chủ, đoàn kết, thống nhất làm cơ sở, xây dựng nước Trung Hoa mới độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Tháng 1 năm 1946, Hội nghị Chính trị Hiệp thương được triển khai tại Trùng Khánh với các đại biểu của Quốc, Cộng và Đảng Dân Minh (Đảng Đồng minh dân chủ), đảng Thanh niên, và nhân sĩ không đảng phái. Hội nghị diễn ra rất gay gắt giữa 3 lực lượng và 3 đường lối chính trị khác nhau, tuy nhiên nhờ sự nỗ lực của Đảng Cộng sản và áp lực đấu tranh của nhân dân, Hội nghị đã thông qua 5 Nghị quyết về Tổ chức Chính phủ, Quốc hội, Cương lĩnh hòa bình xây dựng đất nước, Dự thảo hiến pháp và vấn đề quân sự. Thỏa thuận quy định chính phủ sau cải tổ thành Ủy ban Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cơ quan hành pháp tối cao, quy định Quốc Dân Đảng chiếm một nửa số Ủy viên, một nửa số còn lại do các Đảng phái và người có tài tổ chức thành, tu chính cần có 2/3 số Ủy viên tán thành; áp dụng theo thỏa thuận, Đảng Cộng sản thảo luận làm cơ sở cho "Cương lĩnh hòa bình kiến quốc", nhất trí thực hiện đường lối hòa bình dân chủ theo hiến pháp; nhất trí đồng ý tổ chức lại quân đội Quốc Cộng, thực hiện Quốc hữu hóa quân đội. Ngày 25 tháng 2 Quốc Cộng đạt thỏa thuận song phương về việc tổ chức lại quân đội; Ngày 6 tháng 3 Mao Trạch Đông đề xuất phục viên làm 2 giai đoạn, giai đoạn đầu giải ngũ 1/3, giai đoạn 2 giải ngũ 1/3. Tại thời điểm đó Đảng Cộng sản có 1.300.000 quân, sau 2 giai đoạn giải ngũ còn 40 vạn. Do xuất ngũ quá nhiều quân nên Đảng Cộng sản rơi vào tình thế nguy hiểm. Đầu tháng 1 năm 1946 dưới sự trung gian của Marshall, Quốc Cộng đạt được lệnh đình chiến tháng 1, để chuẩn bị cho Hội nghị Chính trị hiệp thương. Tháng 2 Quốc Cộng quyết định phương án chỉnh sửa thống nhất quân Quốc Cộng và Quân đội Quốc gia, nghị quyết về vấn đề quân sự quy định phải dựa vào chế độ dân chủ, cải cách chế độ quân sự và tổ chức lại quân đội, thực hiện sự phân lập giữa quân đội và đảng phái, sự phân trị giữa quân đội và nhân dân. Liên Xô rút quân khỏi khu vực Đông Bắc, Quốc Dân đảng gây ra xung đột tại khu vực này. 1 tháng 3 năm 1946 Liên Xô cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc biết họ sắp rút quân, 6 tháng 4, Đảng Cộng sản tiến hành chiếm lĩnh Trường Xuân, Cáp Nhĩ Tân, Tề Tề Cáp Nhĩ và một số trung tâm đô thị khác. Hoa Kỳ hỗ trợ vận chuyển vũ khí trang thiết bị và nhân lực cho Quốc Dân lên vùng Đông Bắc, quân Trung Hoa Dân Quốc tấn công Đảng Cộng sản, gây suy giảm tình hình cho phía Đảng Cộng sản tại khu vực Đông Bắc. Vào lúc đó sau khi quân đội Liên Xô rút được vài tiếng, Đảng Cộng sản liền cho quân tiếp quản được Trường Xuân vào 8 tháng 4. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cho rằng đã có vi phạm trong "lệnh đình chiến 1 tháng", vào tháng 4 toàn tuyến khu vực Đông Bắc Trường Xuân xảy ra xung đột với quy mô lớn. Lâm Bưu đưa 30 vạn quân dự bị tập trung tại khu Tứ Bình và khu vực phụ cận để ngăn chặn bước tiến Quốc Quân. Đỗ Duật Minh của Quốc quân chuyển đến xem xét tình hình, đầu tháng 5 bắt đầu phát động phản công tại Đông Bắc. 3 tháng 5 Quốc quân chiếm được Bản Khê, chiến đấu 1 dải khu Tứ Bình. 19 tháng 5 chiếm được Tứ Bình, sau chiến dịch thứ 2 Tứ Bình, Lâm Bưu bị trọng thương tại trụ sở, Quốc quân truy kích tới bờ sông Tùng Hoa. 23 tháng 5 Quốc quân chiếm Trường Xuân, 28 tháng 5 chiếm Cát Lâm, 5 tháng 6 uy hiếp Cáp Nhĩ Tân. Marshall nỗ lực với Tưởng Giới Thạch đạt thỏa thuận "lệnh đình chiến tháng 6" (ngày 6 tháng 6), đồng ý Đông Bắc ngưng chiến trong 15 ngày sau đó mở rộng 8 ngày. Trong thời gian ngưng chiến, Tưởng yêu cầu Đảng Cộng sản phải rút khỏi Tô Bắc (Giang Tô), đường sắt Tế Nam, Thừa Đức, Cổ Bắc Khẩu trấn (thuộc Bắc Kinh), và Cáp Nhĩ Tân. Đảng Cộng sản phản bác cự tuyệt. Tháng 3 năm 1946, phiên họp thứ 2 Đảng Quốc Dân khóa 6 về sửa đổi Hiến pháp đã kịch liệt phản đối Đảng Cộng sản. Trùng Khánh - Nam Kinh Quốc Cộng đồng ý đàm phán, đồng thời xung đột vẫn tiếp diễn, 2 bên ảnh hưởng tới nhau. Đảng Cộng sản vẫn tiếp tục hoạt động công khai tại khu vực quản lý, tại Trung Khánh phát hành báo "Tân hoa Nhật báo", vì thế Quốc quân công khai bùng phát quyết liệt. Tổng thống Truman, Marshall hạ lệnh từ 29 tháng 7 năm 1946 tới 26 tháng 5 năm 1947, Hoa Kỳ chính thức cấm vận vũ khí Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi kết thúc chiến tranh, tướng Albert Coady Wedemeyer đã tố cáo với Quốc hội Hoa Kỳ, năm 1947 Tổng thống Truman đã quyết định ngừng huấn luyện quân sự cho quân đội Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, thực thi cấm vận vũ khí, các nhà báo phương Tây đồng ý với chính sách Hoa Kỳ đồng thời phê bình và chỉ trích Quốc Dân Đảng. Tinh thần binh sĩ Trung Hoa Dân Quốc giảm sút, dẫn tới sự thất bại của quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Tại Hạ viện, Hạ Nghị sĩ John F. Kennedy chỉ trích Tổng thống Harry Truman và các nhà ngoại giao Mỹ đã để cho Trung Quốc rơi vào tay Mao Trạch Đông. Tháng 8/1949, Bộ Ngoại giao công bố Sách trắng Trung Hoa cho rằng chính Tưởng Giới Thạch đã để mất nước do chế độ của Tưởng tham ô, độc tài, bỏ qua lời khuyên của Mỹ, đưa tướng tá bất tài nắm quân đội. Quốc Dân đảng tấn công toàn diện, Giải phóng Quân phòng ngự toàn diện. Hoa Kỳ dàn xếp được thỏa thuận ngừng bắn, có hiệu lực từ ngày 10/1/1946. Hai phe quốc - cộng cũng đồng ý về nguyên tắc rằng quân đội của Đảng cộng sản sẽ sáp nhập vào quân đội quốc gia, tiến hành hiệp thương chính trị. Tướng Marshall quay về Washington ngày 13/3/1946 để báo cáo cho Tổng thống Mỹ Truman. Nhưng Marshall vừa đi, Tưởng Giới Thạch đã phản bội thỏa thuận và ra lệnh tấn công, hy vọng hủy diệt quân của Đảng Cộng sản ở Trường Xuân và Cáp Nhĩ Tân. Đến tháng 5, Đảng Cộng sản phải rút quân ra khỏi Trường Xuân, chạy về Cáp Nhĩ Tân. Đúng lúc này, tướng George Marshall phải trở lại Trung Quốc, lại ép Tưởng ngừng bắn từ ngày 7/6. Dẫu vậy, Tưởng Giới Thạch và tùy tùng tin rằng việc đánh bại Đảng cộng sản chỉ là vấn đề sớm muộn nên bỏ ngoài tai đề nghị của Mỹ. Đến lúc này, giải pháp thượng lượng của Mỹ chẳng còn ý nghĩa trên thực tế. Chính phủ Trung Hoa dân quốc ngày 26 tháng 6 năm 1946 đã ra lệnh tấn công toàn diện vào khu vực giải phóng. Ngay sau khi hiệp ước đình chiến hết hiệu lực, Quốc quân dưới sự chỉ huy của Lưu Trĩ và Trình Tiềm, lấy 200.000 quân làm ưu thế tấn công Hồ Bắc, Hà Nam khu vực giáp Tuyên Hoa Điếm bao vây 60.000 quân Trung nguyên Giải phóng của Lý Tiên Niệm, Lý Tiên Niệm đưa quân đội phá vòng vây Tháng 7, đàm phán Quốc Cộng bị đình trệ tại Tô Bắc, Quốc quân bảo vệ ngoại vi Nam Kinh, phía Tô Trung và Tô Bắc do Tân Tứ quân đồn trú phát động tiến công. Quốc quân 5 Sư đoàn chỉnh biên cộng 15 lữ đoàn ước khoảng 120.000 quân, mưu tính từ Nam Thông, Thái Châu 1 mặt trận tiến công giải phóng khu Tô Trung. Giải phóng quân bắt đầu chiến dịch Tô Trung, hay còn gọi "Thất chiến thất tiệp". Túc Dụ, Đàm Chấn Lâm chỉ huy 19 đoàn ước khoảng 3 vạn quân,từ 13 tháng 7 tới 27 tháng 8, liên tục giành thắng lợi. Trong nửa tháng, tiêu diệt 6 lữ đoàn Quốc quân và 5 đại đội cảnh vệ, tổng 5 vạn quân. Quân của Túc Dụ đã tiêu diệt sư đoàn số 69 của Quốc quân. Quốc quân chiếm toàn bộ Tô Bắc, áp sát Giải phóng quân tại Lũng Hải tuyến. Tại Sơn Tây, Giải phóng quân phát lệnh tiến công vào cuối tháng 7. 20 tháng 7, Giải phóng quân bao vây tấn công Đại Đồng, tại Ứng huyện Quốc quân phản kích, không vượt qua được. Tháng 8, Hạ Long chỉ huy quân Giải phóng bao vây Đại Đồng. Phó Tác Nghĩa toàn lực tăng viện phòng thủ cho Đại Đồng. 14 tháng 9, Phó Tác Nghĩa đưa quân số 35 của Quân Quốc dân Cách mạng thu phục Tập Ninh, phá tan bao vây Đại Đồng. Ngày 11 tháng 10, tập đoàn 36 Quốc quân đột kích chiếm từ tay Đảng Cộng sản Trung Quốc thành phố Trương Gia Khẩu, trung tâm của vùng Hoa Bắc. Tại Sơn Đông, ngày 10 tháng 8 quân của Lưu Bá Thừa và Đặng Tiểu Bình đột kích Lũng Hải tuyến, chiếm Nãng Sơn, Lan Phong và hàng trăm km đường sắt, sau đó Quốc quân điều quân phản công với số lượng lớn. Đầu tháng 9, Giải phóng quân rút lui đồng thời tại Định Đào tiêu diệt 3 sư đoàn chỉnh biên của Quốc quân, song Quốc quân vẫn nguyên vẹn thế tấn công. Tại Tây Nam địa khu, tuyến Đông Lỗ, Quốc quân tiến triển khá thành công, tại Tấn Nam địa khu quân của Hồ Tông Nam bị chặn, lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn chỉnh biên số 1 bị quân của Trần Canh tiêu diệt. Cuối tháng 10, Quốc quân chiếm 25 huyện thành hoàn thành tuyến tác chiến Nam Hoa Bắc, Giải phóng quân bị áp chế phía bắc sông Hoàng Hà. Ngày 1 tháng 11, Quốc quân rút Yên Đài, chiếm Lỗ Nam. Giải phòng quân rút để Quốc quân tưởng đã thắng lợi. Tuy nhiên Giải phóng quân không thực sự giảm số lượng mà tiếp tục phản công. Sau khi Quốc quân chiếm Trương Gia Khẩu, Đảng Cộng sản và Dân Minh yêu cầu truy cứu trách nhiệm phá hoại hòa bình của Quốc Dân Đảng. Giữa tháng 10 năm 1946 triệu tập Quốc dân Đại hội lập hiến () trước Đại hội Chu Ân Lai tuyên bố "Quốc dân Đại hội một ngày nào đó triệu tập, nó phải ở Diên An". Ngày 15 tháng 11 Đại hội Quốc dân tổ chức tại Nam Kinh, là Đại hội gồm nhiều đảng phái tham dự, Quốc Dân Đảng, Đảng Cộng sản, Đảng Dân Minh, Dân Xã Đảng (Đảng Dân chủ Xã hội), Thanh niên Đảng và một số thành phần khác. Trong thời gian này chính phủ Trung Hoa dân quốc ban hành lệnh ngừng bắn, nhưng vẫn đặt quân đội trong tư thế chiến đấu. Từ tháng 12 năm 1946, Quân Giải phóng Nhân dân Đông Bắc phát động tấn công, Đảng Cộng sản tuyên bố tới tháng 4 năm 1947 tiêu diệt được 4 vạn quân Quốc dân và chiếm được 11 thành thị. Năm 1946 sau khi "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc" được lập, Chính phủ Trung Hoa dân quốc yêu cầu Marshall kêu gọi Đảng Cộng sản đàm phán bàn tròn lần thứ 3. Đảng Cộng sản cho rằng lời kêu gọi của Quốc dân không có thành ý, đại biểu Đảng Cộng sản tại Nam Kinh Lục Định Nhất trả lời "Xóa bỏ Hiến pháp ngụy quyền và khôi phục vị trí quân sự ngày 31/1/1946, tán thành khôi phục và đàm phán là tối thiểu". Đảng Cộng sản cho rằng Quốc Dân Đảng đang tìm cách đổ lỗi cho Đảng Cộng sản. Còn Chính phủ Trung Hoa dân quốc cho rằng "Chính phủ chúng tôi bất đắc dĩ buộc phải huy động, tham gia chống nổi loạn, đó là sự thực lịch sử". Tháng 1 năm 1947, Quốc quân tiến vào Lỗ Nam do chủ nhiệm Từ Châu Tiết Nhạc chỉ huy khi đó Trần Nghị đang chỉ huy quân Giải phóng tại Lỗ Nam. Tại chiến trường phía Đông Bắc, quân của Lâm Bưu và La Vinh Hoàn chiếm ưu thế, được tranh bị tốt vũ khí từ các cuộc tấn công. Mùa hè năm 1947, Quốc quân tuy liên tục giành thắng lợi tại các Địa, nhưng tại phòng địa Đông Bắc do rộng lớn nên thiếu hụt lượng lớn binh lực. Giao thông bị Quân giải phóng phá hủy, nên bị đưa vào thế bị động. Cuối tháng 2 cùng năm, Lâm Bưu vượt sông Tùng Hoa xâm lấn Giang Nam, đầu tháng 5 phát động tiến công ác liệt, ngày 17 chiếm được Hoài Đức, ngày 21 chiếm đồn Công Chủ, Vĩnh Cát, Trường Xuân, Tứ Bình Nhai lâm vào thế bị bao vây. Cuối tháng 2 năm 1947, đại diện Đảng Cộng sản tại Nam Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh bị trục xuất. Đảng Cộng sản đưa đại biểu di tản đến hết ngày 5/3 và dừng tờ "Tân hoa nhật báo" tại Trùng Khánh. Từ tháng 7 năm 1946 tới tháng 2 năm 1947, sau 8 tháng chiến đấu, quân Quốc dân đảng bị tiêu diệt 66 sư đoàn, mất 71 vạn quân, bị tổn thất nghiêm trọng. Quốc dân đảng tiến công trọng điểm, Giải phóng quân phản công cục bộ. Ngày 10 tháng 3, Quốc quân gồm 20 vạn tại Tây An, chủ nhiệm Hồ Tông Nam chỉ huy chia làm các cánh quân Lạc Xuyên, Nghi Xuyên tấn công Diên An. Giải phóng quân điều động 5.000 lính, bằng mìn và tường lũy kháng cự kiên cường. Ngày 19, Quốc quân tiến tới Diên An, Quốc quân giết và làm bị thương 16.000 quân Giải phóng, bắt hơn 10.000 làm tù binh. Trung ương Đảng Cộng sản chủ động rút quân khỏi Diên An, Bành Đức Hoài chỉ huy gần 20.000 quân dã chiến Tây Bắc tiến hành chiến tranh du kích tại cao nguyên Thiểm Bắc, bước đầu giành thắng lợi chiếm được Thanh Hóa Biêm, Dương Mã Hà, Sa Gia Điếm (Thiểm Tây). Tại phía nam Sơn Đông, Hác Bằng Cử thống lĩnh 20.000 quân Giải phóng quy hàng Quốc quân. Đầu tháng 4 tại tuyến đường sắt Tân Phổ đoạn từ Từ Châu tới Tế Nam được thông thương, Quốc quân bao vây Trần Nghị tại núi Nghi Mông. Cố Chúc Đồng thống lĩnh 60.000 quân tấn công. Do Quốc quân sử dụng chiến thuật tiến chắc, quân đội khống chế phạm vi những nơi chiếm đóng, vì vậy chiến thuật du kích của quân Giải phóng không được hiệu quả. Nhưng Túc Dụ đề xuất lấy Quân Giải phóng tại Sơn Đông làm chủ lực quyết chiến tiêu diệt chiến thuật của Quốc quân. Tại trận chiến Mạnh Lương, sư đoàn 74 chỉnh biên của Quốc quân bị đánh bại, sư đoàn trưởng Trương Linh Phủ tử trận. Đầu tháng 5, Hồ Tông Nam đã chiến đấu được 3 tháng, nhưng mục tiêu tiêu diệt Trung ương Đảng Cộng sản chưa đạt được. Tại Địa khu Hoa Bắc,quân Quốc quân không còn, Nhiếp Vinh Trăn thành lập Ban Dã chiến tiêu diệt,với nhiệm vụ cơ động tác chiến. Kể từ tháng 5/1947, Quân Giải phóng do Từ Hướng Tiến, Bành Đức Hoài bắt đầu bao vây Thái Nguyên, chủ tịch chính phủ tỉnh Sơn Tây Diêm Tích Sơn cố thủ. Tháng 6, Quốc quân tiếp tục tấn công từ hướng bắc Lỗ Nam, Quốc quân tiếp tục uy hiếp. Ngày 6/6,Giải phóng quân tiến công bao vây Nhiệt Hà, Xích Phong. Ngày 16/6 Quốc quân buộc phải bỏ tỉnh An Đông. Quân Giải phóng bắt đầu bao vây Liêu Ninh, Thẩm Dương. Từ tháng 6 tới tháng 7 bao vây Tứ Bình. Ngày 18/6, Hồ Liễu chỉ huy sư đoàn chỉnh biên số 11 chiếm trụ sở Đảng Cộng sản chi bộ Sơn Đông tại trấn Nam Ma. Quân của Lưu Bá Thừa và Đặng Tiểu Bình (gọi tắt quân Lưu Đặng) tại Lỗ Tây tiến công, Quốc quân bị ép tới phải gọi viện binh, Trần Nghị, Túc Dụ thừa thắng tấn công Nam Ma trấn nhưng do trời mưa to, đạn dược ẩm ướt, cuộc tiến công gặp khó khăn. Đồng thời Quốc quân tái điều binh tập hợp phá vòng vây, do tình thế nguy hiểm và tránh thương vong quân của Trần Nghị và Túc Dụ lui quân rút về Huệ Dân phía bắc sông Hoàng Hà. Bắt đầu từ mùa hè năm 1947, quân Giải phóng lấy lại ưu thế, bắt đầu tiến công trở lại. Ngày 30/6, Tư pháp viện Trung Hoa Dân Quốc, viện Kiểm sát Chính phủ Trung Hoa dân quốc ra lệnh bắt Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Ngày 31/7, Đảng Cộng sản chính thức sử dụng tên Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Sau 1 năm chiến đấu, quân Giải phóng Nhân dân đã đánh tan Quốc quân, cơ bản đập tan những cuộc tiến công trọng điểm. Tổng số quân của Quốc quân giảm từ 4.300.000 vào tháng 6/1946 xuống còn 3.730.000, tinh thần binh sĩ giảm sút và số lớn đầu hàng, 113 lữ đoàn bị tiêu diệt, quân tác chiến cơ động chỉ còn lại khá ít. Sau 1 năm, quân Giải phóng tăng từ 1.270.000 lên 1.950.000 người và quân chính quy phát triển gần 1 triệu. Giải phóng quân tiến công chiến lược và Quốc quân phòng ngự trọng điểm. Tại khu vực Trung Nguyên, ngày 30 tháng 6, quân Lưu Đặng vượt Hoàng Hà vào ban đêm, phát động chiến dịch Lỗ Tây Nam (Tây nam tỉnh Sơn Đông), đây là chiến dịch mở màn cho giai đoạn tiến công chiến lược của Giải phóng quân. Sau khi vượt sông Giải phóng quân bao vây Sư đoàn 55 Quốc quân Chỉnh biên tại Vận Thành, đồng thời quân Trần Túc tấn công Quốc quân từ phía Nam. Tấn công Phí Huyện, uy hiếp Duyện Châu. Đồng thời đại quân Lưu Đặng tấn công chiếm được Vận Thành, Tào Huyện, Tịnh Tương Dương Sơn nơi tập hợp quân của sư đoàn 66 quân chỉnh biên Quốc quân. Cuối tháng 7 bao vây tiêu diệt quân chỉnh biên 66 của Quốc quân tại Dương Sơn. Tháng 8 Quốc quân loại bỏ tuyến đường sắt Giao Tế (vịnh Giao Châu - Tế Nam) khỏi Giải phóng quân. Tháng 8, quân Lưu Đặng bao vây tấn công Quốc quân tại phía nam Trung Nguyên, tiến công vào khu vực Quốc quân suy yếu. Ngày 19/8 toàn quân vượt khu vực lũ lụt sông Hoàng Hà. Ngày 22 tháng 8, quân Giải phóng tại Hoa Trung do Trần Canh chỉ huy từ phía tây Hà Nam như Tây An, Mẫn Trì, Thiểm Huyện vượt sông Hoàng Hà, núi Ngưu Sơn, tấn công vây hãm Tung Huyện, Lạc Ninh, Đăng Phong, Lâm Nhữ, Lỗ Sơn, Phương Thành gặp Quốc quân bao vây tiêu diệt, cuối cùng phải lui về phía Bắc Hoàng Hà. Ngày 23 tháng 8 tấn công mạnh sông Nhữ. Ngày 26 tháng 8 thừa lúc sông Hoài gây ngập lụt, Giải phóng quân vượt sông tiến vào Đại Biệt Sơn và là chìa khóa chiến lược. Truy kích Quốc quân nhân nước sông Hoài dâng lên ngăn chặn lên phía bắc sông Hoài Đồng thời binh đoàn của Trần Canh, Tạ Phú Trị tại Mao Tân vượt sông tấn công Lạc Dương. Tháng 8 Mao Trạch Đông ra chỉ thị, quân Trần Túc vượt Hoàng Hà, phát động tiến công. Ngày 14 tháng 9 năm 1947, Quốc quân bị đẩy lùi về hướng tây. Rạng sáng, sư đoàn 50 Quốc quân bị đơn vị số 8 và sư đoàn độc lập số 1 đánh bại tại Lê Thụ Câu môn và buộc phải rút lui. Sư đoàn độc lập số 1 đã không truy kích sư đoàn 50 quốc quân mà tấn công sư đoàn 22 đang đồn trú phía trước, tiêu diệt Quốc quân tại giữa Dương Gia Trưởng Tử và Cựu môn. Sư đoàn 60 Quốc quân đồn trú gần đó ngay lập tức rút lui sau khi nghe tin 2 sư đoàn thất thủ, Giải phóng quân truy kích không kịp rút quân về phía tây tập hợp lực lượng. Trong khi củng cố đơn vị quân số 9 sắp xếp chỉn chu tại Kim Khê và Dương Gia Trưởng Tử gia cố lực lượng sẵn sàng ứng chiến với quân Quốc Dân đảng. Ngày 17 tháng 9 năm 1947, Quân đoàn 49 Quốc quân tấn công Kiến Xương từ Cẩm Châu. Khi Quân đoàn 49 tấn công Dương Gia Trưởng Tử, đơn vị số 8 và sư đoàn độc lập số 1 đang bao vây tại đó. Quốc quân gửi ra 2 lữ đoàn bao gồm 6 trung đoàn củng cố Quân đoàn 49, nhưng đơn vị đó bị sư đoàn 24 của đơn vị số 8 và sư đoàn 26 của đơn vị số 9 chặn lại tại Hồng Loa Hiện phía tây Kim Khê và khu vực Lão Biên, tây bắc Kim Khê. Ngày 22 tháng 9, Quân đoàn 49 phá vòng vây rút lui về phía nam, nhưng sau đó bị tiêu diệt hoàn toàn tại Lão Biên. Đảng Cộng sản ra lệnh cho đơn vị tiền tuyến số 2 phá hủy đường sắt từ Cẩm Châu tới Sơn Hải Quan, phá hủy thành công giảm đáng kể năng lực vận tải của Quốc quân. Những thất bại liên tục buộc Trần Thành đưa quân đoàn chỉnh biên số 6 từ Thiết Lĩnh đề củng cố Cẩm Châu, để lại 2 khu vực Từ Bình và Thiết Lĩnh dễ bị tấn công. Giải phóng quân lợi dụng tình hình ấy đưa 3 đơn vị tổng cộng 8 sư đoàn tấn công Tây Phong, Xương Đồ, Khai Nguyên và tiêu diệt quân đoàn 53 Quốc quân. Ba chiến dịch quyết chiến chiến lược. Chiến dịch Bình Tân. Vào mùa đông năm 1948, cán cân quân sự chuyển sang quân Giải phóng. Dã chiến quân đệ tứ do Lâm Bưu và La Vinh Hoàn tiến vào đồng bằng Hoa Bắc sau khi kết thúc chiến dịch Liêu Thẩm. Phó Tác Nghĩa và chính phủ Trung Hoa dân quốc đảng quyết định rút bỏ khỏi Thừa Đức, Bảo Định, Sơn Hải Quan và Tần Hoàng Đảo về Bắc Bình, Thiên Tân và Trương Gia Khẩu. Quốc Dân đảng hy vọng vào sức mạnh của mình và củng cố Từ Châu. Các lựa chọn khác là rút tới tỉnh Tuy Viễn. Trong việc chuẩn bị chiến dịch lực lượng Giải phóng quân đã đưa Dã chiến quân đệ nhất hướng tới Thái Nguyên. Cuộc tấn công vào Hohhot do Dã chiến quân đệ tam được triển khai từ huyện Tế Ninh hướng tới Bắc Bình. Ngày 29/11/1948 Quân giải phóng phát động tấn công Trương Gia Khẩu. Phó Tác Nghĩa ngay lập tức cho quân đoàn 35 tại Bắc Bình và quân đoàn 104 tại Hoài Lai củng cố bảo vệ Trương Gia Khẩu. Ngày 2/12, tập đoàn quân của Đảng Cộng sản tiến về hướng Trác Lộc. Dã chiến quân đệ tứ chiếm Mật Vân ngày 5/12 về tiếp tục hướng về Hoài Lai. Dã chiến quân đệ nhị hướng tới Trác Lộc. Bắc Bình có nguy cơ thất thủ, Phó Tác Nghĩa đưa quân đoàn 35 từ Trương Gia Khẩu và ra lệnh cho quân đoàn 104 từ Hoài Lai bảo vệ Bắc Bình. Quân đoàn 35 quốc quân bị bao vây bởi giải phóng quân tại Tân Bảo An khi đang rút về Bắc Bình. Ngay lập tức quân tiếp viện được gửi tới Bắc Bình nhằm hy vọng phá vòng vây cho quân đoàn 35. Tuy nhiên quân tiếp viện bị quân Giải phóng tiêu diệt chưa kịp tới thành phố. Sau đó quân giải phóng phát động tấn công Tân Bảo An để tiêu diện quân đoàn 35 quốc quân ngày 21/12 và chiếm được thị trấn với tối hôm sau. Tư lệnh Quách Cảnh Vân tự sát, phần còn lại của quốc quân rút về Trương Gia Khẩu. Sau khi chiếm Trương Gia Khẩu và Tân Bảo An, quân Giải phóng chỉnh đốn lực lượng quanh khu vực Thiên Tân bắt đầu từ 2/1/1949. Sau khi chiến dịch Hoài Hải kết thúc vào 10/1 quân giải phóng phát động tấn công vào Thiên Tân ngày 14/1. Thành phố bị chiếm sau 29 tiếng giao tranh, và quân đoàn 62 và 86 của Quốc Dân tổng cộng 130000 quân thuộc 10 sư đoàn bị tiêu diệt. Tư lệnh Quốc dân đảng Trần Trưởng Tiệp bị bắt. Lực lượng còn lại của Quốc dân gồm quân đoàn 17 và 5 sư đoàn khác thuộc quân đoàn 87 rút về phía nam Đường Cô bằng đường biển. Sau sự thất bại tại Thiên Tân, các lực lượng còn lại của Quốc dân tại Bắc Bình bị cô lập. Phó Tác Nghĩa quyết định thương lượng hòa bình vào ngày 21/1. Ngay tuần sau hơn 260.000 quân Quốc dân rút khỏi thành phố và đầu hàng ngay lập tức. Vào ngày 31/1 Dã chiến đệ tứ quân tiến vào Bắc Bình, kết thúc chiến dịch Bình Tân. Sau khi chiếm được Bắc Kinh, kinh đô biểu tượng của phong kiến Trung Hoa, quân Giải phóng Trung Hoa tổ chức duyệt binh. Một nhà quan sát người Mỹ tại đó nhận ra phần lớn các thiết bị quân sự hạng nặng trong cuộc duyệt binh như xe tăng, xe jeep... là các vũ khí cũ do Mỹ sản xuất trong Đệ nhị thế chiến. Đây là những vũ khí cũ mà trước đó người Mỹ viện trợ cho quân đội Tưởng Giới Thạch trong Đệ nhị thế chiến và chiến tranh Trung - Nhật để chống lại phát xít Nhật, và khi rút chạy Quốc quân đã vứt bỏ lại và các vũ khí này trở thành chiến lợi phẩm của Hồng quân Trung Quốc. Hồng quân chiến thắng. Trong phần lớn các trường hợp, vùng nông thôn xung quanh thành thị đã nằm dưới tầm ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ rất lâu trước đó, sự ủng hộ của người dân địa phương tạo điều kiện cho họ tiến công một cách dễ dàng. Đầu năm 1949, do tình hình thay đổi, để đáp ứng yêu cầu đàm phán hòa bình, Tưởng Giới Thạch tuyên bố ngày 21/1 sẽ từ chức, do Phó Tổng thống Lý Tông Nhân đảm nhận chức vụ Quyền Tổng thống. Ngày 5/2 Hành chính viện chuyển về văn phòng Quảng Châu. Nam Kinh chỉ còn lại văn phòng Đại Tổng thống. Ngày 1/4 Trương Trị bay tới Bắc Bình. 9 giờ sáng ngày 5/4 Hội nghị "Hòa đàm" trừ bị khai mạc. Đảng Cộng sản thông qua thương lượng trên cơ sở "Dự thảo Hiệp định hòa bình trong nước". Ngày 15/4 Hội nghị hòa đàm lần thứ 2 khai mạc, Chu Ân Lai sửa đổi một số điều trong hiệp định (là lần sửa đổi cuối cùng) "Hiệp định hòa bình trong nước", Trương Trị phải ký trước 20/4, cho dù bất kể chiến tranh hay hòa bình, quân Giải phóng không vượt quá sông Trường Giang. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản cũng quy định thời hạn, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc nhận định: "Một số tướng Quốc Dân Đảng cao cấp bị liệt vào tội phạm chiến tranh, và Chính phủ Trung Hoa dân quốc trong mọi khả năng không thể chấp thuận". Ngày 20/4 Ủy ban thường vụ Trung ương Quốc Dân Đảng Trung Quốc phát biểu tuyên bố lên án Đảng Cộng sản Trung Quốc "Hiệp định hòa bình trong nước" bóp méo sự thật. Ngày 21/4 Chủ tịch Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng Nhân dân Trung Quốc Mao Trạch Đông và Tổng Tư lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc Chu Đức ban lệnh Tổng tấn công, sau đó quân của Lâm Bưu, Bành Đức Hoài cùng một số đơn vị khác, áp sát Vũ Hán và Tây An. Quân Giải phóng huy động 1 triệu quân vượt sông Trường Giang, "chiến dịch độ giang" (vượt sông) bắt đầu. Ngày 22/4, quân của Lưu Bá Thừa chiếm Vu Hồ. Ngày 23/4 quân Giải phóng chiếm Nam Kinh, sự cai trị của Quốc dân đảng trong 22 năm đã kết thúc. Tiếp đó Giải phóng quân truy kích tàn quân của Quốc quân. Thủ đô của Quốc dân đảng là Nam Kinh đã mất, Tưởng Giới Thạch đã bỏ chạy nên lực lượng Quốc dân đảng ở khắp nơi mất hết tinh thần chiến đấu và tan vỡ hàng loạt. Cùng ngày Quốc quân rút khỏi Nam Kinh, Lý Tông Nhân bay tới Quế Lâm. Lý Tông Nhân nhất quyết không tới Quảng Đông xử lý công việc. Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hy tổ chức phòng tuyến Hoa Nam. Ngày 24/4 thành phố Thái Nguyên bị đánh phá, Quốc quân thất bại thảm hại,nhà cửa bị tàn phá hoàn toàn, người bị thương vong vô số. Cuối tháng 4, Lâm Bưu tiến quân hướng về Vũ Hán. Ngày 4/5/1949, quân của Trần Nghị vây hãm Hàng Châu. Ngày 8/5 quân của Bành Đức Hoài vây hãm Lan Châu, cùng ngày Lý Tông Nhân tới Quảng Châu, Trưởng quan Quân chính (Bộ trưởng Quốc phòng) Trung Hoa Bạch Sùng Hy dời văn phòng về Hành Dương. Ngày 16/5-17/5 Giải phóng quân tương kế diệu kế chiếm 3 trấn của Vũ Hán. Ngày 20/5 Hồ Tông Nam của Quốc quân rút khỏi Tây An. Các khu vực phía đông Cam Túc hoàn toàn do Giải phóng quân chiếm đóng. Ngày 21/5 quân của Lưu Bá Thừa vây hãm Nam Xương. Ngày 12 tháng 5, Quân giải phóng của Trần Nghị cũng bắt đầu tiến công Thượng Hải. Quân Giải phóng bị thương vong gần 60.000 quân. Đến ngày 27/5, Thượng Hải hoàn toàn thất thủ, tướng Quốc dân đảng Thương Ân Bá cùng 5 vạn tàn quân tháo chạy, hơn 15 vạn quân Quốc dân đảng bị tiêu diệt, đầu hàng hoặc bị bắt. Tới ngày 27/5, Quốc quân chủ động rút toàn bộ về Chu Sơn, Đài Loan. Cùng ngày, quân Mỹ đồn trú tại Thanh Đảo rút quân toàn bộ. Ngày 2/6 Quân Giải phóng chiếm Thanh Đảo. Ngày 3/6 Thái Nguyên bị vây hãm,Thanh Đảo mất giá trị quân sự, là thành trì bị cô lập tại Hoa Bắc,phòng thủ không dễ dành. Quốc quân tư động rút lui, toàn bộ quân dân vật tư rút về Đài Loan, Giải phóng quân chiếm được toàn bộ Hoa Bắc. Ngày 16/7 quân của Lâm Bưu chiếm Nghi Xương. Ngày 26/7 chiếm được Chu Châu. Ngày 29/7 chiếm được Thường Đức. Cuối tháng 7 năm 200.000 quân Giải phóng vào Cam Túc. Ngày 1/8/1949, Chủ tịch Chính phủ Hồ Nam, Tư lệnh binh đoàn số 1 Quốc quân Trần Minh Nhân và Chủ nhiệm văn phòng Trường Sa Trình Tiềm đầu hàng Đảng Cộng sản. Ngày 4/8 Trình Tiềm và Trần Minh Nhân tuyên bố tham gia vào Đảng Cộng sản. Ngày 5/8, Chính phủ ra lệnh cho Hoàng Kiệt làm Chủ tịch Chính phủ Hồ Nam, rút quân khỏi Trường Sa tập trung quân tại Hành Dương và vùng phụ cận. Ngày 16/8 Đệ nhị quân dã chiến chiếm Cống Châu. Ngày 17/8 Giải phóng quân do Trần Nghị chỉ huy bao vây Phúc Châu. Chính phủ Trung Hoa dân quốc ra lệnh cho Thang Ân Bá làm chủ trì quân chính Phúc Kiến, Thang ra lệnh cho quân chủ lực tập trung tại Hạ Môn. Ngày 24/8 Tưởng Giới Thạch bay tới Trùng Khánh, chủ trì Hội nghị nhân viên quân chính Tây Nam. Ngày 2/9/1949 Giải phóng quân chiếm Tây Ninh. Tháng 9, Giải phóng quân mở chiến dịch Hành Bảo (diễn ra tại Hành Dương và Bảo Khánh), chiến dịch Quảng Tây tiêu diệt được quân chủ lực của Bạch Sùng Hy. Ngày 20/9 Giải phóng quân chia làm 3 tấn công Hạ Môn,thương vong vô số.Ngày 21/9 Chủ tịch Chính phủ Tuy Viễn Đổng Kì Võ ra thông điệp đầu hàng Đảng Cộng sản.Ngày 25-26/9 Tổng tư lệnh Cảnh bị Tân Cương Đào Trĩ Nhạc và Chủ tịch Chính phủ Tân Cương Bào Nhĩ Hán tiếp nhận đề xuất 8 điều kiện hòa bình của Đảng Cộng sản, tướng lĩnh và binh sĩ hơn 70.000 tại Địch Hoa đồng ý về với Đảng Cộng sản, Tân Cương thuộc về Đảng Cộng sản mà không tốn 1 viên đạn. Ngày 28/9 Đệ nhất quân dã chiến chiếm Ngân Xuyên. Đệ nhất quân dã chiến chiếm được 4 tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Liêu Ninh, Thanh Hải. Ngày 5/10/1949, quân Giải phóng chiếm Thiều Quan. Ngày 8/10 chiếm Hành Dương. Ngày 12/10 Chính phủ Trung Hoa dân quốc tuyên bố rời Chính phủ về Trùng Khánh, Chính phủ Quảng Đông chuyển tới đảo Hải Nam. Ngày 13/10 rút khỏi Quảng Châu, đến tháng 10 quân Giải phóng chiếm Quảng Đông. Ngày 17/10 Quốc quân rút khỏi Hạ Môn, tập trung quân cố thủ Kim Môn. Trần Nghị đưa hải quân chiếm Hạ Môn. Ngày 23/10, Giải phóng quân phát lệnh tác chiến tiến quân Tứ Xuyên, Quý Châu. Ngày 25/10 Binh đoàn số 10 Giải phóng quân chuẩn bị tấn công Kim Môn, quân số lên tới 20.000 quân, khi đó Lý Lương Vinh chỉ huy binh đoàn 22 dã chiến phòng thủ gồm 20.000 quân. Ngày 1/11/1949, Giải phóng quân triển khai chiến dịch Tây Nam, từ Hồ Bắc Hồ Nam tiến quân về phía Tây Nam. Cùng ngày Lý Tông Nhân thấy tình hình xấu đi, bay từ Trùng Khánh về Côn Minh. Ngày 3/11 Đệ tam quân dã chiến đổ bộ lên Quần đảo Chu Sơn, Chiết Giang nhưng chiến dịch đổ bộ lên đảo thất bại, Quốc quân giành thắng lợi trụ vững trên đảo. Ngày 14/11 Tưởng Giới Thạch từ Đài Loan bay tới Trùng Khánh, trở lại Chính phủ. Cùng ngày,quân Giải phóng chiếm Quế Lâm. Ngày 15/11 chiếm Quý Dương. Ngày 20/11 Lý Tông Nhân dời khỏi Hồng Kông. Ngày 30/11 Giải phóng quân tấn công Trùng Khánh. Cùng ngày, Giải phóng quân chiếm Nam Ninh. Chính phủ Trung Hoa dân quốc rời về Thành Đô. Bạch Sùng Hy dời trụ sở về Hải Khẩu. Hoàng Kiệt dẫn tàn quân rút vào Việt Nam. Ngày 7/12 Chính phủ Trung Hoa dân quốc quyết định chuyển về Đài Bắc (Đài Loan), thiết lập căn cứ tại Tây Xương, đặt Bộ Tư lệnh tại Thành Đô. Ngày 10/12 Chủ tịch Chính phủ Tứ Xuyên Lưu Văn Huy, Đặng Tích Hầu, Chủ tịch Chính phủ Vân Nam Lư Hán đầu hàng Đảng Cộng sản tại Bành Châu, Côn Minh. Giải phóng quân tiến vào Vân Nam, Tứ Xuyên một cách hòa bình. Ngày 16/12, Giải phóng quân chiếm lĩnh Lạc Sơn phía nam Tứ Xuyên. Ngày 18/12 chiếm lĩnh Kiếm Các. Lưu Văn Huy chiếm lĩnh Nhã An chặn đường rút của Quốc quân. Thành Đô bị bao vây lo lắng, ngày 26/12 Quốc quân rút quân. Hồ Tông Nam chuyển trụ sở về Tây Xương tiếp tục chiến đấu. Ngày 27/12 Quân Giải phóng chiếm được Thành Đô, chiến dịch Tây Nam kết thúc, Giải phóng quân tiêu diệt được hơn 900.000 Quốc quân, Chính phủ Trung Hoa dân quốc tại đại lục và tập đoàn quân chủ lực chính thức bị tiêu diệt. Ngày 28/12, sau chiến dịch Tân Độ Khẩu, Sư đoàn 181 quân Giải phóng từ Phù Giang chiếm Tam Đài, ngay lập tức chiếm Miên Dương. Ngày 27/3/1950, Giải phóng quân tiến vào Tây Xương, sau 4 tháng chiến dịch Tây Xương kết thúc. Ngày 5/3 Đệ tứ quân dã chiến bắt đầu chiến dịch Hải Nam, bằng thuyền gỗ quân Giải phóng vượt eo Quỳnh Châu đổ bộ lên Hải Nam, tới 1/5 chiếm được đảo Hải Nam. Sau khi đổ bộ lên đảo các chiến dịch quy mô lớn gần như kết thúc. Thống nhất Trung Hoa lục địa. Trong gần 4 năm Quân Giải phóng đã tiêu diệt được hơn 8 triêu quân Quốc quân, giành thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, để thống nhất Trung Hoa lục địa thì vẫn còn phải chiến đấu với những lực lượng quân phiệt cát cứ tại các lãnh thổ phía tây (Tây Tạng, Tân Cương). Tại Tân Cương, Đệ Nhị Cộng hòa Turkestan tồn tại từ năm 1944 đến 1949 với sự giúp đỡ của Liên Xô. Nước cộng hòa này giải thể ngày 23/10/1949 khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tân Cương. Từ 6/10-24/10/1950, Quân Giải phóng phát động chiến dịch Qamdo. Giải phóng quân Hạ Long, Bành Đức Hoài, Trần Canh chia quân từ Tây Khang, Thanh Hải, Vân Nam tiến vào Tây Tạng. Ngày 19/10 chiếm được trung tâm chính trị kinh tế Qamdo phía Đông Tây Tạng, tiêu diệt được hơn chục nghìn quân Tây Tạng. Giải phóng quân mở rộng đường tiến vào Tây Tạng. Tháng 2/1951, Tây Tạng cử Ngapoi Ngawang Jigme làm đoàn đại biểu tới Bắc Kinh cùng Lý Duy Hán đại diện Chính phủ Nhân dân Trung ương đàm phán. Ngày 23/5/1951 Đoàn đại biểu tại Bắc Kinh đã ký "Hiệp ước thông báo biện pháp giải phóng hòa bình Tây Tạng giữa Chính phủ Nhân dân Trung ương và Chính phủ địa phương Tây Tạng". Ngày 1/12 Giải phóng quân do Trương Quốc Hoa, Phạm Minh tham gia lực lượng tại Lhasa, tới tháng 2 chiếm Gyangzê và Xigazê. Đảng Cộng sản tuyên bố giải phóng hòa bình Tây Tạng. Cho tới đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kiểm soát được toàn bộ Trung Quốc đại lục, trừ đảo Đài Loan vẫn thuộc Quốc dân đảng, kết thúc 40 năm chiến tranh phân liệt tại Trung Quốc kể từ khi nhà Thanh sụp đổ. Thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quân Giải phóng Nhân dân tiếp tục tiến công trên toàn Quốc, đồng thời Hội nghị Chính trị Hiệp thương được diễn ra từ ngày 21-30/9/1949 tại Bắc Bình, tham gia Hội nghị gồm Đảng Cộng sản, Đảng Dân Minh và các đảng phái chính trị dân chủ. Hội nghị thông qua Hiến pháp tạm thời, đồng thời chuẩn bị công tác thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,Bắc Bình được đổi tên thành Bắc Kinh và được chọn làm thủ đô. Hội nghị thống nhất Quốc hiệu,không sử dụng tên Trung Hoa Dân Quốc làm tên mới,sử dụng Quốc hiệu mới là Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa là tên của Nhà nước mới. Xác định ngày 1/10/1949 làm ngày cử hành nghi thức thành lập nước. 2 giờ chiều ngày 1/10/1949, cử hành hội nghị thứ nhất Ủy ban Chính phủ Nhân dân Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,theo "Cương lĩnh Cộng đồng Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc", Mao Trạch Đông trở thành Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Trung ương, Phó Chủ tịch bao gồm Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Tống Khánh Linh, Cao Cương, Lý Tế Thâm, Trương Lan; Chu Ân Lai trở thành Tổng lý Chính vụ viện Chính phủ Nhân dân Trung ương kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Chu Đức đảm nhiệm chức vụ Tổng Tư lệnh quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. 3 giờ chiều, nghi lễ thành lập chính thức bắt đầu. 30 vạn người dân đã tập hợp tại Quảng trường Thiên An Môn, mang cờ hoa, đèn lồng đủ màu sắc. 3 giờ chiều, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các lãnh đạo chủ yếu bước lên lễ đài trên lầu thành Thiên An Môn. Mao Trạch Đông nghiêm trang tuyên bố: "Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, chính phủ nhân dân Trung ương thành lập! Từ nay, nhân dân Trung Quốc đã vùng lên!". Trong âm thanh của bài Quốc ca “Nghĩa dũng quân tiến hành khúc”, quốc kỳ là lá cờ đỏ năm sao được kéo lên đỉnh cột cờ, 54 khẩu pháo nhất tề bắn 28 loạt, tuyên cáo sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 9/10 Hội nghị thứ nhất Ủy ban Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc khóa nhất khai mạc. Mã Tự Luân và Lâm Bá Cừ đề nghị lấy ngày 1/10 là ngày Quốc khánh, Mao Trạch Đông tán thành. Ngày 2/12 Chính phủ Nhân dân Trung ương quyết định "Thông báo quyết định Quốc khánh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", quyết định lấy ngày 1/10 hàng năm là ngày Quốc khánh. Mặt trận thứ 2. Cải cách ruộng đất. Trong giai đoạn này, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dựa vào Hiến pháp để lấy lòng người dân, đối đầu với Đảng Cộng sản. Tháng 4/1947 Chính phủ lâm thời chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp thông qua Nghị quyết của Hội nghị Chính trị Hiệp thương để sửa đổi, kết thúc chế độ độc Đảng, tiến hành cho phép các Đảng phái tham gia Chính phủ. Từ 21-23/11/1947 Quốc Dân Đảng tổ chức bầu cử lần đầu tiên Đại hội Quốc dân lần thứ 1, 3045 đại biểu trúng cử. Tháng 3/1948 Hội nghị thứ nhất Đại hội Quốc dân lần thứ 1 (Quốc hội khóa 1) được tiến hành để bầu Tổng thống và Phó Tổng thống. Tháng 5, Chính phủ Trung Hoa dân quốc chính thức hoạt động. Tháng 10/1945 Chính phủ Trung Hoa dân quốc công bố biện pháp giảm tô. Năm 1946 công bố "Luật Đất đai" Chính phủ mua đất từ các chủ sở hữu cung cấp cho người nghèo, đạt được đất cho dân cày. Năm 1948 Lập pháp Viện thông qua "Chương trình cải cách ruộng đất" quán triệt mục tiêu đất cho dân cày. Đến năm 1949 Chính phủ hoàn thành chương trình cải cách ruộng đất, dự kiến tới năm 1952 hoàn thành cơ bản mục tiêu đất cho dân cày. Đối với vùng chiếm đóng của Đảng Cộng sản để cải cách ruộng đất, tháng 10 năm 1946 Hành chính viện công bố "Biện pháp xử lý ruộng đất tại khu vực bình định", Đảng Cộng sản phải trả lại ruộng đất cho Chính phủ, Quốc quân chiếm sau, ruộng đất địa chủ không được quy hoàn toàn về nông dân. Do Đảng Cộng sản tiến hành chống lại chính sách, địa chủ và dân quân tham gia Quốc dân sau khi về quê, thực tế các địa chủ dùng mọi thủ đoạn để tránh tổn thất. Đảng Cộng sản trong thời kỳ kháng chiến ra chính sách giảm tô, giảm tức, ban bố "Luật Đất đai Trung Quốc". Chính sách cơ bản chia ruộng đất phù hợp với bần nông, trung nông, phù nông và địa chủ. Địa chủ và phù nông bị thu, địa chủ bị phê bình đấu tố do đã bóc lột làm cho bần nông và điền nông nghèo đói. Năm 1947, cải cách ruộng đất vào thời kỳ cao trào, thu đất đai của trung nông lại tiếp tục phân chia. Do đó nông thôn xuất hiện tình trạng khủng bố, báo cáo được gửi từ Tấn Tuy "Đa phần quần chúng hoảng loạn, sản xuất ngưng trệ, cộng với thảm họa tọa tình trạng nghiêm trọng. Phú nông, địa chủ chạy trốn, ngay đối với bần nông cũng bỏ chạy". Đến những bần nông cũng bị tịch thu ruộng đất. "Người dân dùng muối nước để chết, và dùng lửa để thiêu". Lòng người hoảng loạn. Sau báo cáo, ngày 25/12/1947 Mao Trạch Đông tại Thiểm Bắc đã ra chỉ thị triển khai để báo cáo với Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản, đề xuất phương châm cải cách ruộng đất "Bần nông liên hợp với trung nông tiêu diệt địa chủ giai cấp và quy tắc phú nông để đánh đổ chế độ phong kiến và bán phong kiến", nhấn mạnh "Kiên quyết duy trì đoàn kết trung nông, không gây tổn hại lợi ích trung nông", "cho dù phát sinh 1 hộ trung nông thành địa chủ, cũng phải xem xét sửa đổi toàn bộ". Sau đó Trung ương Đảng Cộng sản và Mao Trạch Đông đầu năm 1948 liên tục ban hành chỉ thị, yêu cầu duy trì các chính sách không gây bất lợi với trung nông, cho trung nông sở hữu cao hơn chút ít. Phân ra thứ bậc tân phú nông và cựu phú nông, xem xét của cải của tân phú nông đãi ngộ cho trung nông. Yêu cầu được khoán của các địa phương trong cải cách ruộng đất cho địa chủ và phú nông là 10% dân cư. Sau sửa chữa năm 1948, cải cách ruộng đất trở lại bình thường và có trật tự. Cải cách Tài chính. Cuộc chiến nổ ra, thâm hụt ngân sách Chính phủ Trung Hoa dân quốc gia tăng, buộc phải in thêm tiền dẫn tới tình trạng lạm phát tăng cao. Lượng vàng bị giảm sút đáng kể. Tháng 8/1948 Chính phủ phát hành "Kim viên khoán" trên danh nghĩa quy đổi ra vàng không giới hạn. Kim Viên Khoán được tung ra nhằm mục đích thu hút lượng vàng của người dân, thu đổi ngoại tệ. Do không có sự giới hạn cho sự quy đổi dẫn tới siêu lạm phát, nền kinh tế rơi vào hỗn loạn. Tới tháng 7/1949, 1 tỷ kim viên khoán cũng không đổi lấy được 1 USD, trong khi đó tháng 10/1948 1 tỷ kim viên bản tương đương 15 triệu lượng vàng. Tuy nhiên do tính toàn của Tưởng Giới Thạch về nguy cơ đại lục sẽ rơi vào tay của Đảng Cộng sản nên đã chuyển toàn bộ số vàng quy đổi được ra Đài Loan. Tưởng Giới Thạch đã vận chuyển hơn 40 triệu lượng vàng, trong đó có 14 triệu lượng về lại đại lục, trong đó khoảng 5 triệu lượng vàng được sử dụng cho quân đội, khoảng 6 triệu được chi tiêu cho chính phủ Trung Hoa dân quốc Đảng. Số vàng được cất giữ tại Đài Loan vào khoảng 35 triệu lượng, tương đương với 80 triệu quân dân mỗi người được chia 50 USD. Một phần số vàng này được dùng để hỗ trợ việc phát hành Tân Đài Tệ Quân Giải phóng ngày càng chiếm ưu thế trên chiến trường, để phát triển kinh tế cần có một đồng tiền thống nhất chung. Tháng 4/1947 Trung ương Đảng Cộng sản thành lập "ban kinh tế Hoa Bắc" do Đổng Tất Võ làm chủ nhiệm, với nhiệm vụ tái thống nhất kinh tế tại vùng giải phóng và ra đồng tiền chung. Tháng 10/1947 thành lập Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc lâm thời. Ngày 1/12/1948 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc được chính thức thành lập tại Thạch Gia Trang, Hà Bắc, đồng thời phát hành tờ Nhân dân tệ. Biểu tình sinh viên. Đảng Cộng sản Trung Quốc tại sau tuyền tuyến thông qua hoạt động bí mật của Đảng viên, kích động biểu tình trong tầng lớp sinh viên, đặc biệt tháng 5/1947 tại Thượng Hải, Nam Kinh sinh viên Đại học xuống đường tuần hành "Chống nạn đói, chống nội chiến", cuộc tuần hành của sinh viên đã bị quân đội đàn áp đẫm máu. Đảng Dân chủ Đồng minh Trung Quốc, đảng phái hỗ trợ Đảng Cộng sản vào tháng 10/1947 trước khi bị cấm đã phối hợp với Đảng Cộng sản tích cực tuần hành biểu tình cùng sinh viên đấu tranh. Ngày 15/8/1948 Bộ Giáo dục Chính phủ Trung Hoa dân quốc thống kê "học sinh sinh viên trong vòng 1 năm đã biểu tình tuần hành 109 lần, trì hoãn việc học tập 506 ngày, biểu tình trên 18 thành phố quan trọng". Danh sách các cuộc biểu tình lớn của học sinh sinh viên từ cuối năm 1946-10/1949 Tình báo và tuyên truyền. Ngoài ra, Đảng Cộng sản có đội ngũ tình báo trong Chính phủ Trung Hoa dân quốc như Lưu Phỉ, Hùng Hướng Huy, Quách Nhữ Côn cung cấp nhiều thông tin quan trọng cho sách lược của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra con gái của Phó Tác Nghĩa là Phó Đông Cúc là nữ tình báo trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thống kê thương vong. Trung Hoa Dân Quốc Quốc quân. Theo số liệu thống kê của Quân Giải phóng Nhân dân, tổng số quân Quốc quân bị tiêu diệt là 5542470 quân chính quy, 2528880 quân không chính quy. Tổng ước đạt hơn 8 triệu quân. Số quân bị tiêu diệt theo thời gian: Tổng kết Quốc quân bị thương vong 1711000, bắt làm tù binh 4587000, đầu hàng 634000, nổi dậy 847000, cải biên 293000. Tổng 8071520. Quân Giải phóng Nhân dân. Quân Giải phòng Nhân dân: Tử trận 260000 người, mất tích và đầu hàng 190000 người, 850000 người bị thương. Tổng số thương vong 1300000 người (bao gồm dân quân tiến tuyến) Ảnh hưởng. Di tản. Trước và sau cuộc Nội chiến, nhiều người Trung Quốc đã di tản khỏi Trung Quốc đại lục để tránh chiến tranh. Các điểm đến thường là Hong Kong thuộc Anh, Đài Loan, Hoa Kỳ. Trong số ấy có Hồ Thích, Kim Dung và Đường Đức Cương. Quan hệ quốc tế. Sau cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ điều chỉnh chính sách với Trung Quốc. Tổng thống Truman phát biểu ngày 5/1/1950 sẽ không bảo vệ Đài Loan, chỉ hỗ trợ kinh tế cho Đài Loan. Sau khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Hạm đội 7 Hoa Kỳ tiến vào eo biển Đài Loan, và sau đó thiết lập bảo vệ Đài Loan khỏi Đảng Cộng sản. Trung Quốc Đại lục tham gia phe Liên Xô, tiền hành cuộc đối đầu Đông-Tây. Phân vùng 2 bên. Sau khi kết thúc Nội chiến, Trung Quốc lục địa tạm thời ổn định, nhưng tại Tây Nam và một số hòn đảo tại Đông Nam vẫn có các cuộc xung đột lẻ tẻ. Sau khi giải phóng Thành Đô, quân Giải phóng Trung Quốc không thể tấn công quy mô lớn các trận chiến du kích của tàn dư còn lại của Quốc quân. Sư đoàn 93 Quốc quân rút về phía biên giới Thái Miến khu vực đang khủng hoảng. Năm 1954 Miến Điện yêu cầu Đài Loan rút quân ra Liên Hợp Quốc. Số quân đóng tại Miến Điện được đưa về Đài Loan, số quân còn lại vẫn đóng tại Bắc Thái. Do Thái Lan khi ấy chống Cộng sản nên đã cấp Quốc tịch Thái Lan cho số quân ấy. Phúc Kiến. Phúc Kiến khu vực giáp với eo biển Đài Loan. Là khu vực đối đầu trực tiếp của cả hai bên. Những năm 1950-1970 tập trung quân sự, kinh tế giảm sút. Sau những năm 1980, mối quan hệ 2 bên thay đổi, với sự mở cửa của kinh tế Trung Quốc, Phúc Kiến bắt đầu phát triển. Nguyên nhân thắng lợi của Đảng Cộng sản. Quốc dân đảng bắt đầu cuộc chiến với ưu thế áp đảo toàn diện: Với các ưu thế áp đảo này, về lý thuyết, Quốc dân đảng sẽ nhanh chóng giành thắng lợi. Nhưng trong thực tế, chiến cuộc càng kéo dài thì tình thế càng chuyển sang có lợi cho phía Đảng Cộng sản Trung Quốc, và cuối cùng thì Quốc dân đảng thất bại. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới kết quả này, gồm các nguyên nhân chính như sau: Chính sách hợp lý của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản thi hành chính sách cải cách ruộng đất, hứa hẹn ở vùng nông thôn với những nông dân cùng khổ và không có ruộng đất rằng nếu họ chiến đấu cho Đảng Cộng sản, họ sẽ giành được ruộng đất từ tay giới địa chủ. Chính sách này khiến cho Đảng Cộng sản Trung Quốc có được sự ủng hộ của nông dân và nguồn nhân lực hùng hậu để sử dụng trong chiến đấu cũng như vận tải tiếp tế, dù trước đó có bị tổn thất nặng nề trong các chiến dịch quân sự chống Nhật. Ví dụ, trong chiến dịch Hoài Hải họ đã có thể huy động tới 5.430.000 nông dân phục vụ vận tải, giúp họ chiến đấu chống lại quân chính quy Quốc dân đảng. Phần lớn người dân, nhất là ở nông thôn, sẵn sàng ủng hộ Mao Trạch Đông, không ít người đã hỗ trợ lương thực hoặc gia nhập quân đội của Mao Trạch Đông để chống lại Quốc dân đảng. Trong chiến tranh Trung-Nhật, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm chiến tranh. Lực lượng chủ lực của họ tăng lên gần 1 triệu quân, còn lực lượng dân quân tăng lên 2 triệu người. Vùng kiểm soát gồm 19 khu, chiếm tới 1/4 lãnh thổ Trung Quốc và 1/3 dân số - gồm nhiều thành phố và thị trấn quan trọng. Sau khi đánh bại quân Nhật, Liên Xô trao lại toàn bố số vũ khí thu được từ quân Nhật cho Đảng Cộng sản. Khi Liên Xô rút đi, vùng Đông Bắc Trung Quốc không có người kiểm soát, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã biết chớp thời cơ để tiếp quản nhiều thành phố Tính kỷ luật, mức độ trung thành, tinh thần dũng cảm, tín niệm chính trị, tác phong hoạt động và trình độ chuyên môn về chính trị, quân sự của Đảng cộng sản đều mạnh hơn hẳn so với Quốc dân đảng. Tinh thần tác chiến của quân nhân Đảng cộng sản cũng cao hơn quân nhân Quốc quân, vốn thường xảy ra các tiêu cực trong quân ngũ, cũng như các vụ đào ngũ và bỏ chạy giữa trận tiền. Chiến tranh càng kéo dài thì ngày càng nhiều tướng tài của Quốc dân đảng phản biến, nổi dậy, hoặc thay đổi lập trường, cung cấp tình báo và đầu quân cho phía Đảng Cộng sản. Ngoài tài thao lược quân sự của các tướng lĩnh Đảng cộng sản, tài lãnh đạo chính trị cơ biến quyền mưu của lãnh tụ Mao Trạch Đông cũng là một trong những ưu thế lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngoài công tác dân vận thì công tác địch vận, binh vận của Mao Trạch Đông và các đồng chí là xuất sắc và đóng góp to lớn cho sự chiến thắng của họ. Đảng Cộng sản Trung Hoa chia Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch thành "phái tiến bộ" và "phái phản động", đối với phái tiến bộ thì phải tận lực dùng đại nghĩa dân tộc để "xách phản", còn đối với phái phản động thì phải tận lực tiêu diệt. Về sau những quan chức Quốc Dân Đảng thức thời đều quy hàng Đảng Cộng sản. Sau cuộc chiến, thống kê cho thấy hơn 50% vũ khí và nhân sự (lãnh đạo, binh lính) đều từng phục vụ trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng và Quốc quân, trong đó hơn 20% đảng viên đã từng là đảng viên Quốc Dân Đảng hoặc đã từng có thời kỳ có hai thẻ đảng (lưỡng đảng tịch) cùng lúc. Cho thấy rằng có rất nhiều lợi thế của Quốc Dân Đảng (quân đông, tướng nhiều, vũ khí tốt) rốt cục đều trở thành phục vụ cho Đảng Cộng sản thay vì chính họ. Sự yếu kém của Quốc dân đảng. Một số chiến lược tiêu cực của quân Quốc Dân đảng trong thời kỳ chống Nhật đã gây mất lòng dân và gián tiếp tăng sức mạnh cho Đảng Cộng sản. Tiêu biểu là Sự kiện phá đê Hoa Viên Khẩu, quân Quốc dân đảng phá đê sông Hoàng Hà để ngăn quân Nhật, nhưng đã khiến 500.000 dân thường thiệt mạng vì lũ lụt. Vụ phá đê đã trở thành tiêu điểm để Đảng Cộng sản tuyên truyền về sự tàn nhẫn, yếu kém, coi thường sinh mạng nhân dân của Quốc dân đảng. Khu vực bị ngập lụt đã trở thành một khu tuyển dụng màu mỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, họ đã thực hiện cứu trợ và tận dụng sự thù hận của những người dân sống sót đối với Quốc Dân đảng để vận động nhân dân gia nhập hàng ngũ của mình. Vào thập niên 1940, khu vực này đã phát triển thành một căn cứ du kích quan trọng gọi là Căn cứ địa Dự Hoàn Tô (chữ Hán: , bính âm: "Yuwansu"). Các nhóm tư bản trong chính quyền Quốc dân đảng chiếm lĩnh hầu hết các nhà băng, nhà máy, cơ sở thương mại trước kia bị Nhật chiếm. Họ cũng tăng cường binh lực, tích trữ vật liệu chiến tranh, chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới với Đảng Cộng sản. Những hành động chuẩn bị vội vã và khắc nghiệt đó khiến cho đời sống dân chúng trở nên khó khăn, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tới 37,5% tại Thượng Hải. Tư bản quan liêu đứng đầu là "4 họ" lớn (Tưởng Giới Thạch, Tống Tử Văn, Khổng Tưởng Hi, Trần Lập Phu đại diện) đã chiếm đoạt hầu hết các ngân hàng, xí nghiệp, của cải. Đến tháng 5/1946, "4 họ" này đã chiếm trên 80% tổng số tư bản sản nghiệp trong toàn quốc, nắm 2/3 số ngân hàng (2446/3489 ngân hàng) cả nước và số tài sản của "4 họ" trị giá 20 tỷ USD (theo thời giá lúc bấy giờ). Sự khó khăn và bất bình đẳng về kinh tế khiến Quốc dân đảng đánh mất sự ủng hộ của dân chúng. Nạn lạm phát và giá lương thực thực phẩm tăng vọt. Các cải cách của Quốc dân đảng cũng thất bại bởi nạn tham nhũng, các quan chức Quốc dân đảng thường không quan tâm đến đời sống nhân dân địa phương, và thường ủng hộ giới địa chủ trong việc đánh thuế. Thời gian ấy trong dân gian có nhiều câu như "Đẳng trung ương, phán trung ương, trung ương lai liễu cảnh tao ương" (chờ trung ương, đợi trung ương, trung ương gây tai họa). Năm 1947, Quốc dân đảng ban hành một đạo luật buộc tất cả đàn ông có khả năng chiến đấu trong vùng họ kiểm soát đều cũng phải phục vụ trong quân đội. Các viên sĩ quan tham nhũng thường bán cho lái buôn phần gạo được cung cấp cho đơn vị của mình, gần 1/5 số lính mới đã chết vì đói ngay trong thời gian huấn luyện. Do bị đối xử tồi tệ, gần một nửa số lính mới đã trốn ra khỏi các trại huấn luyện, tinh thần chiến đấu của binh sĩ cũng xuống rất thấp, chẳng mấy ai muốn liều mạng bảo vệ một chế độ tham nhũng tới mức đó. Quốc dân đảng chủ yếu nhận được sự ủng hộ từ các tướng lĩnh quân phiệt, bang hội xã hội đen, tầng lớp thương buôn lớn và giai cấp tư sản tài phiệt, địa chủ hào phú. Song sự cộng tác miễn cưỡng có tính chất tạm thời để chống lại kẻ thù chung này vốn luôn lỏng lẻo và chưa bao giờ tín nhiệm lẫn nhau. Quốc dân đảng thường chia rẽ, đấu tranh bè phái, tranh giành quyền lực. Sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, Tưởng Giới Thạch chưa bao giờ có đủ tư cách lãnh đạo đối với các thế lực lớn mạnh nhưng hỗn tạp này. Bản thân Quốc Dân Đảng vốn đã là một hỗn hợp lỏng lẻo vụ lợi, không có lý tưởng sâu đậm. Họ là sự kết hợp của các thành phần vào đảng để mưu lợi cá nhân, để trả thù quân Nhật, vì yêu nước muốn bảo vệ quốc gia trước sự xâm lược của người Nhật, hoặc đơn giản vì bị bắt đi lính. Họ không có một lý tưởng rõ ràng và niềm tin chính trị mạnh mẽ như đối phương. Do đó, khi đã chứng kiến trực tiếp sự thối nát của Quốc Dân Đảng, sự trỗi dậy lớn mạnh dần lên của Đảng Cộng sản, họ thấy được xu thế chính trị tất bại của Tưởng và tất thắng của Đảng Cộng sản, nên tâm trí dễ dao động, lòng trung thành dễ lung lay. Tưởng Giới Thạch thực hiện các chính sách bài Cộng cực đoan như khủng bố trắng, thảm sát Thượng Hải, hành quyết và thanh lọc hoàn toàn người cộng sản và thân cộng ra khỏi Quốc dân đảng, đi ngược lại hoàn toàn với quốc sách chiến lược của cách mạng Trung Quốc do Tôn Trung Sơn đề ra là "liên Nga, dung Cộng, phù trợ công nông", đồng thời áp dụng chính sách nghị hòa và thoái lui với quân Nhật để tập trung diệt Cộng. Như vậy thì Quốc dân đảng dưới thời Tưởng cũng dần mất đi tính chính danh của mình về phía Đảng cộng sản. Sự cực đoan của Tưởng đã tạo cơ sở cho Đảng Cộng sản tuyên truyền rộng rãi tố cáo sự phản bội của ông đối với tâm nguyện của Tôn Trung Sơn, phản bội lại sự nghiệp của thầy. Từ đó Quốc Dân Đảng tuy có được sự ủng hộ lỏng lẻo đầy vụ lợi của các nhóm quân phiệt và bang hội giang hồ, song lại đánh mất sự ủng hộ của quảng đại quần chúng lương thiện và giới bình dân lao động tay chân bình thường đông đảo trong xã hội, nhất là lực lượng nông dân ở nông thôn. Ban đầu, giới sĩ phu trí thức khoa bảng ở thành thị ít ai biết đến hay chú ý đến Đảng Cộng sản, nhưng dần về sau Đảng Cộng sản dần chiếm được cảm tình và sự ủng hộ rộng rãi của giới trí thức thành thị. Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng được ủng hộ rộng rãi là nhờ các đường lối chính trị chính xác hợp tình hợp lý, các khẩu hiệu hợp lòng dân và theo sát thực tế thời sự, như ""Đoàn kết toàn quốc chống Nhật", "Công bằng bình đẳng cho công nông lao động", "Xóa bỏ cái cũ, xây dựng một nước Trung Hoa mới"". Quốc Dân Đảng chỉ tuyên truyền khẩu hiệu "đuổi Nhật, diệt Cộng", trong khi đó Đảng Cộng sản tuyên truyền khẩu hiệu "xây dựng một xã hội mới", hứa hẹn về một xã hội tốt đẹp hơn, một tương lai tươi sáng hơn, với mục tiêu dân giàu nước mạnh và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dần dần Đảng Cộng sản được nhân dân coi là phe chính nghĩa còn Quốc dân đảng bị coi là phe phi nghĩa trong mắt quần chúng và cả nội bộ Quốc Dân đảng, nhờ đó Đảng Cộng sản thu hút được người tốt, người tài, còn với Quốc Dân Đảng thì nổi lên một làn sóng "bỏ đảng theo Cộng", những người tốt, ưu tú, có tinh thần ái quốc, có tâm có tài trong Quốc Dân Đảng đều chuyển sang trận doanh của bên Đảng Cộng sản. Với sự thoái hóa biến chất của mình, Quốc Dân Đảng không còn thu hút được những hạt nhân tốt và sự ủng hộ rộng rãi trong xã hội Trung Quốc như thời Tôn Dật Tiên nữa. Họ chỉ còn thu hút được những thành phần cơ hội chính trị và quan chức tham nhũng, hai hàng, hoặc thông đồng với xã hội đen. Những thành phần này đi theo Quốc dân đảng chỉ đơn giản là vì mưu lợi cho bản thân, chứ không phải vì lý tưởng chính trị cách mạng cao cả hay chính nghĩa quốc dân. Phong trào "bỏ đảng theo Cộng" dâng lên mạnh mẽ trong nội bộ Trung Hoa Dân Quốc, từ quan đến lính, dẫn đến tình trạng đầu hàng, phản biến, nổi dậy, bỏ đảng, thay cờ, làm gián điệp, hoặc tự cướp lẫn nhau rồi bỏ trốn ra hải ngoại, gây nên cuộc khủng hoảng niềm tin to lớn trong Quốc dân đảng. Tháng 7/1947, George Marshall cử Tướng Albert Wedemeyer sang Trung Quốc thu thập tin tức từ chính quyền và dân chúng. Trong báo cáo gửi tổng thống Truman, Wedemeyer yêu cầu Tưởng phải cải tổ chính trị, nhưng cũng kêu gọi Mỹ tiếp tục ủng hộ quân sự và kinh tế. Báo cáo tới tay Truman nhưng ông bỏ qua nó và cho rằng đề nghị của Wedemeyer là thiếu thực tiễn khi muốn Mỹ ủng hộ chính quyền tham ô, bất tài, trong lúc châu Âu mới là ưu tiên của Mỹ lúc đó. Vào thời điểm cuối cuộc chiến, Tưởng Giới Thạch sai vợ là Tống Mỹ Linh sang Washington cầu viện khẩn cấp nhưng bị chính phủ Mỹ đối xử lạnh nhạt và từ chối. Một trong những lý do là vì người Mỹ nói riêng và cộng đồng thế giới nói chung lúc ấy đã quá chán nản và thiếu đi sự tôn trọng đối với một chính đảng tha hóa, bê bối, hỗn tạp và hỗn loạn như Quốc dân đảng thời Tưởng Giới Thạch. Đến tháng 12/1948, phía Mỹ đã kết luận rằng chẳng đáng để cứu chế độ Tưởng Giới Thạch, Đại sứ Mỹ John Leighton Stuart cho rằng Tưởng để mất lòng dân, và nếu cứ cố duy trì, Mỹ có thể "bị tố cáo vi phạm nguyên tắc dân chủ về quyền tự quyết khi giúp đỡ chế độ độc tài không đại diện cho ý chí của dân chúng". Tựu trung lại, nhân tố chủ yếu làm nên thắng lợi của Đảng Cộng sản là khả năng vận động, sự ủng hộ của dân chúng dành cho họ cao hơn hẳn đối thủ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại trong chiến tranh, còn quân đông đất rộng chỉ là nhân tố thứ yếu. Lịch sử Trung Quốc cho thấy "lòng dân" luôn là nhân tố chủ chốt quyết định thành bại: một triều đại mục nát, mất lòng dân thì dù quân đông đất rộng cũng phải sụp đổ và bị thay thế bởi triều đại mới, cuộc chiến này cũng không ngoại lệ.
1
null
Đồng hồ ABC (tiếng Anh: "ABC watch") là một loại thiết bị điện tử cầm tay, được thiết kế dưới dạng đồng hồ chỉ giờ đa chức năng có tích hợp các cảm biến. Tên gọi "ABC" là viết tắt từ các từ "Altimeter" (dụng cụ đo độ cao), "Barometer" (áp kế) và "Compass" (la bàn). Ngoài ra, tùy theo nhà sản xuất, đồng hồ ABC còn có thể được tích hợp thêm các chức năng khác như sử dụng pin năng lượng mặt trời, dự báo thời tiết, pha mặt trăng, pha sóng biển, định vị toàn cầu GPS... Đa số đồng hồ ABC là đồng hồ số điện tử, tuy nhiên cũng có một số loại đặc biệt dùng các kim (analog) để hiển thị thông số. Tuy nhiên, các thông số do đồng hồ ABC hiển thị được cảnh báo là sẽ không chính xác nếu không được cân chỉnh trước khi sử dụng. Công dụng. Đồng hồ ABC thường được ứng dụng trong các chuyến đi khám phá, dò đường, đo đạc. Nó đặc biệt được những người yêu thích xê dịch (trekking) tin dùng như là một công cụ đáng tin cậy và tiện lợi có thể thay thế la bàn chỉ đường. Vì vậy, đồng hồ ABC đặc biệt được những người thích du lịch khám phá (outdoor) yêu thích. Các hãng sản xuất. Các hãng sản xuất đồng hồ ABC nổi tiếng trên thế giới có thể kể đến Casio của Nhật Bản, hay Suunto của Phần Lan. Ngoài ra một số hãng khác như Garmin, Ciclosport, La Crosse Technology, Nike và Vestal .
1
null
Danh sách các quốc gia châu Mỹ theo GDP trên người 2012 là bảng thống kê về GDP trên người 2012 của 53 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Mỹ. Ngoài 35 quốc gia độc lập, là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn có các vùng lãnh thổ khác như: Greenland, Bermuda, Quần đảo Turks và Caicos, Quần đảo Cayman, Montserrat, Quần đảo Falkland, Aruba, Quần đảo Virgin thuộc Anh và Anguilla. Trong danh sách này, Canada là quốc gia có thu nhập bình quân trên người cao nhất châu Mỹ, với 52.300 USD/người, tiếp sau là Hoa Kỳ với 51.704 USD/người, Trinidad và Tobago với 19.373 USD/người. Nhưng nếu tính cả các vùng lãnh thổ thì Bermuda lại có thu nhập bình quân cao hơn cả, với 85.762 USD/người. Quốc gia có thu nhập bình quân trên người thấp nhất châu Mỹ năm 2012 là Haiti chỉ có 759 USD/người, xếp áp chót là Nicaragua với 1.733 USD/người. Bảng thống kê được trích số liệu từ nguồn GDP trên người 2012 của Quỹ tiền tệ Quốc tế-IMF, những lãnh thổ hay quốc gia không được IMF thống kê, được bổ sung từ các nguồn Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới-WB hay CIA Facebook.
1
null
Bắn cung là cuộc thi dưới dạng biểu diễn tại Đại hội Thể thao châu Á 1962 ở Sân vận động bóng đá Persija, Jakarta, Indonesia từ 28 tháng 8 đến 1 tháng 9 năm 1962. Quốc gia tham gia. Tổng cộng có 21 vận động viên từ 3 quốc gia hoàn tất trong nội dung bắn cung tại Đại hội Thể thao châu Á 1962:
1
null
Lỗ châu mai là một khe hở, nhưng không quá nhỏ, đủ có thể nhìn qua được. Lỗ châu mai thường được xây ở phía trên hay phần dưới của công trình quân sự như pháo đài, lô cốt... Cũng có thể thấy được lỗ châu mai trên các tháp pháo xe tăng, xe bọc thép... mà qua đó một xạ thủ có thể đặt súng, cung tên đặt vào khe hở và bắn trả đối phương. Các bức tường bên trong, phía sau lỗ châu mai thường được cắt bỏ ở một góc xiên (>30 độ) để các xạ thủ có một tầm nhìn và góc bắn rộng. Lỗ châu mai có rất nhiều dạng. Một dạng phổ biến và dễ nhận biết là hình chữ thập. Góc độ thẳng đứng và lỗ nhỏ cho phép cung thủ tự do thay đổi độ cao và hướng của tầm bắn nhưng lại làm cho phía quân của đối phương tấn công khó khăn hơn vì chỉ có một mục tiêu ngắm bắn khá nhỏ. Để tiêu diệt được kiểu phòng ngự này cần phải sử dụng số quân áp đảo mới có thể thắng. Lỗ châu mai thường có mặt trong các bức tường bao của các kiến trúc phòng ngự thời trung cổ. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi quân Đồng minh đổ bộ lên đảo trận Iwo Jima, quân Nhật đã áp dụng cách này để đánh trả đối phương. Quân Mỹ dù chiến thắng nhưng thiệt hại rất nhiều, một phần vì do chiến thuật của quân Nhật. Đặc biệt, cách cố thủ trong các lô cốt và dùng vũ khí đặt qua lỗ châu mai để tiêu diệt quân đối phương còn rất hiệu quả khi đối phó với chiến thuật biển người. Cách này được Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng trong chiến tranh biên giới Việt-Trung. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, khi quân Pháp sử dụng lỗ châu mai để cản bước tiến của Quân đội Việt Nam, anh hùng Phan Đình Giót đã lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai của quân Pháp, cách nơi anh đang băng bó khoảng 200m. Tiếng súng đạn bỗng im bặt, Phan Đình Giót đã hi sinh, toàn thân anh bị bom đạn kẻ thù bắn nát. Khi lỗ châu mai bị che lấp, hỏa điểm của quân Pháp bị dập tắt, bộ đội Việt Nam đã nhanh chóng xông lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam trong ngày 13 tháng 3. Đây là trận đánh mở màn thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Lịch sử. Các lỗ châu mai được cho là do Archimedes sáng chế để kháng cự quân Cộng hòa La Mã trong cuộc bao vây Syracuse ở 214-212 TCN. Khe hở này có chiều cao của một người đàn ông còn chiều rộng tương đương lòng bàn tay, cho phép bắn cung và bọ cạp (một động cơ bao vây cổ) từ bên trong các bức tường của thành phố. Các lỗ châu mai tiếp tục được áp dụng cho các pháo đài phòng thủ thời Đế quốc La Mã. Vào thời người Norman cai trị nước Anh, các lâu đài không còn sử dụng lỗ châu mai mà chỉ được giới thiệu lại với kiến trúc quân sự vào cuối thế kỷ 12, với những lâu đài Dover và Framlingham ở Anh, và Château Gaillard của Richard I ở Pháp. Trong những ví dụ sớm, các lỗ châu mai được bố trí để bảo vệ một số phần quan trọng trên bức tường lâu đài, chứ không phải là tất cả các mặt của nó. Đến thế kỷ 13, hầu hết các pháo đài ở Anh đều có hệ thống lỗ châu mai. Thiết kế. Ở dạng đơn giản, một lỗ châu mai là một khe dọc mỏng; Tuy nhiên, phụ thuộc các loại vũ khí khác nhau do quân phòng thủ sử dụng sẽ quyết định các hình thức của lỗ châu mai. Ví dụ, hở cho những chiếc cung cao để cho phép người sử dụng để bắn đứng lên và cho phép sử dụng cung 1,8 m, trong khi những cung thủ thường là đặt thấp xuống để dễ dàng hơn cho người sử dụng để bắn trong tư thế quỳ để hỗ trợ trọng lượng của các loại vũ khí. Nó đã được dùng để cho lỗ châu mai mở rộng đến một hình tam giác ở phía dưới, gọi là đuôi cá, để cho phép các hậu vệ đối phương một cái nhìn rõ ràng hơn về các cơ sở của bức tường. Ngay đằng sau khe có một hốc gọi là sự làm rộng; điều này cho phép một hậu vệ để có được gần khe mà không bị quá chật chội. Chiều rộng của khe quyết các lĩnh vực của lửa, nhưng các lĩnh vực của tầm nhìn có thể được tăng cường bằng việc bổ sung các lỗ ngang; họ cho phép hậu vệ để xem các mục tiêu trước khi nó được đưa vào phạm vi.  Thông thường, các khe ngang được cấp, trong đó tạo ra một hình chữ thập, nhưng ít phổ biến hơn là phải có các khe hở off-set (gọi là khe cắm traverse dời) như đã chứng minh trong phần còn lại của lâu đài trắng ở xứ Wales. Điều này đã được mô tả như là một bước tiến trong thiết kế vì nó cung cấp những kẻ tấn công với một mục tiêu nhỏ hơn;  Tuy nhiên, nó cũng đã được cho rằng đó là để cho phép các hậu vệ của lâu đài trắng để giữ cho kẻ tấn công vào tầm ngắm của họ trong thời gian dài vì dốc con hào bao quanh lâu đài. Khi một lỗ đặt súng liên kết với nhiều hơn một lỗ châu mai (trong trường hợp của Dover Castle, hậu vệ từ ba lỗ đặt súng có thể bắn xuyên qua các lỗ châu mai cùng) nó được gọi là một "nhiều lỗ châu mai". Một số arrowslits, chẳng hạn như những người ở Corfe Castle, có tủ gần đó để lưu trữ các mũi tên tùng và bu lông; chúng được thường nằm ở phía bên tay phải của khe để dễ truy cập và cho phép một tốc độ nhanh chóng của lửa.
1
null
Bắn cung đã được tranh tài từ ngày 6 tháng 10 đến ngày 10 tháng 10 tại Đại hội Thể thao châu Á 1994 ở Công viên Senogawa, Hiroshima, Nhật Bản. Cuộc thi đấu chỉ bao gồm nội dung thi đấu cung một dây. Tổng cộng có 67 cung thủ từ 13 quốc gia được thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 1994, Hàn Quốc thống trị cuộc thi giành ba trong số bốn huy chương vàng. Các quốc gia đang tham gia. Tổng cộng có 67 vận động viên từ 13 quốc gia được thi đấu môn bắn cung tại Đại hội Thể thao châu Á 1994:
1
null
Bắn cung là cuộc thi diễn ra từ 6 tháng 10 đến 10 tháng 10 tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 ở Gangseo Archery Field, Busan, Hàn Quốc. Cuộc thi chỉ bao gồm nội dung bắn cung cong. Kết quả. Đơn nam. Trình độ chuyên môn. 6–7 tháng 10 Vòng loại trực tiếp. 9 tháng 10 Nam đồng đội. Trình độ chuyên môn. 6–7 tháng 10 Vòng loại trực tiếp. 10 tháng 10 Đơn nữ. Trình độ chuyên môn. 6–7 tháng 10 Vòng loại trực tiếp. 8 tháng 10 Nữ đồng đội. Trình độ chuyên môn. 6–7 tháng 10 Vòng loại trực tiếp. 10 tháng 10
1
null
Công chúa Sara bint Al Faisal của Jordan (sinh ngày 27 tháng 03 năm 1997) là con gái Hoàng tử Feisal bin Al Hussein và Công nương Alia Tabba, cô là cháu gái của vua Abdullah II của Jordan. Sara là em gái của công chúa Ayah bint Al Faisal và hoàng tử Omar bin Al Faisal, và là chị em sinh đôi với công chúa Aisha bint Al Faisal.
1
null
Bắn cung tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức ở Aoti Archery Range, Quảng Châu, Trung Quốc từ 19 tháng 11 đến 24 tháng 11 năm 2010. Kết quả. Đơn nam. Vòng loại. 20 tháng 11 Vòng loại trực tiếp. 24 tháng 11 Nam đồng đội. Vòng loại. 20 tháng 11 Vòng loại trực tiếp. 22 tháng 11 Đơn nữ. Vòng loại. 19 tháng 11 Vòng loại trực tiếp. 23 tháng 11 Nữ đồng đội. Vòng loại. 19 tháng 11 Vòng loại trực tiếp. 21 tháng 11
1
null
Công chúa Aisha bint Al Faisal của Jordan (sinh ngày 27 tháng 03 năm 1997, tại Amman) là con gái Hoàng tử Feisal bin Al Hussein và Công nương Alia Tabba, và là cháu gái của vua Abdullah II của Jordan. Cô là em gái của công chúa Ayah bint Al Faisal và hoàng tử Omar bin Al Faisal, và là chị xem sinh đôi với công chúa Sara bint Al Faisal. Cô theo học Trường Tú tài Amman, một trường tư ở Amman, Jordan.
1
null
Phản ứng Diet Coke và Mentos phun trào là phản ứng giữa một loại nước giải khát có ga và kẹo Mentos khiến nước có ga phun ngược ra khỏi bình chứa. "Rất nhiều lỗ nhỏ trên bề mặt kẹo Mentos (một thương hiệu kẹo cao su của hãng Perfetti Van Melle, Hà Lan) đã gây xúc tác cho việc giải phóng khí carbon dioxide (CO2) khỏi nước có ga. Kết quả cho việc này là sự tống ra liên tục một lượng lớn bọt. Dù bất cứ nước giải khát có ga nào cũng có khả năng tạo phản ứng này, Diet Coke (nước uống Coca cola không có đường) vẫn được dùng rất phổ biến vì nó cho kết quả tốt nhất." "Nguyên nhân". Khi Mentos tiếp xúc với Diet Coke, một phản ứng xảy ra gây hiện tượng tạo bọt liên tục. Đội "MythBusters" kết luận kali benzoate, đường hóa học, và CO2 trong Diet Coke, phối hợp với gelatin và gum arabic (phụ gia tạo đặc) trong kẹo Mentos, đều cùng đóng góp cho phản ứng tạo bọt. Cấu trúc của kẹo Mentos là nguyên nhân quan trọng nhất của việc phun trào do sự cấu tạo hạt nhân của nó. "MythBusters" báo cáo rằng khi cho Mentos hương trái cây với lớp vỏ trơn mịn như phủ sáp tham gia thì phản ứng gần như không xảy ra, trong khi Mentos bạc hà (không có lớp vỏ mịn) được cho vào thức uống có ga thì tạo thành một đợt phun trào mạnh mẽ. Theo "MythBusters", bề mặt của Mentos bạc hà có nhiều lỗ nhỏ li ti làm tăng diện tích bề mặt cho phản ứng (và do đó số lượng chất phản ứng tiếp xúc với nhau tăng), từ đó tạo điều kiện cho bóng khí CO2 hình thành liên tục đủ nhanh và nhiều cho đợt"phun trào". Giả thuyết này được thêm sự củng cố khi halit được sử dụng như một"chất làm mồi"để phản ứng xảy ra. Một bài báo của Tonya Coffey, một nhà vật lý tại Đại học bang Appalachian tại Boone, Bắc Carolina, xác nhận rằng các bề mặt gồ ghề của kẹo Mentos giúp tăng tốc độ phản ứng. Coffey cũng phát hiện ra rằng đường aspartam trong nước giải khát có ga ăn kiêng làm giảm sức căng bề mặt và gây ra một phản ứng lớn hơn, nhưng caffeine không làm tăng tốc độ phản ứng. Kỷ lục. Một kỷ lục Guinness thế giới cho 2.865 mạch nước phun đồng thời được xác lập vào ngày 17 tháng 10 năm 2010, trong một sự kiện được tổ chức bởi Perfetti Van Melle (hãng làm kẹo Mentos) tại khu liên hợp SM Mall of Asia tại Manila, Philippines.
1
null
HMS "Somali" (L33/F33/G33) là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, chiếm giữ được chiếc tàu đối phương đầu tiên trong chiến tranh, và tiếp tục hoạt động cho đến khi bị hư hại sau khi trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-703", và bị đắm vào ngày 25 tháng 9 năm 1942 tại biển Bắc Cực. Thiết kế và chế tạo. "Somali" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Swan Hunter & Wigham Richardson ở Wallsend, Tyne and Wear trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1935. Nó được đặt lườn vào ngày 26 tháng 8 năm 1936, được hạ thủy vào ngày 24 tháng 8 năm 1937, và nhập biên chế vào ngày 12 tháng 12 năm 1938. Lịch sử hoạt động. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1939, "Somali" đã chặn bắt chiếc tàu chở hàng Đức ở khoảng về phía Nam Iceland, trở thành chiếc tàu đầu tiên của đối phương bị bắt giữ như chiến lợi phẩm trong chiến tranh. Đến ngày 15 tháng 5 năm 1940, trong khuôn khổ chiến dịch Na Uy, nó đang đưa Đại tá William Fraser, Tư lệnh Lữ đoàn 24 Bộ binh Cận vệ quay trở lại Harstad sau một chuyến đi trinh sát đến Mo i Rana, khi nó bị máy bay Đức ném bom và bị hư hại. "Somali" buộc phải quay trở về Anh để sửa chữa với Fraser vẫn tiếp tục ở trên tàu, ông chỉ có thể đến được Harstad vào ngày 23 tháng 5. Sau đó, "Somali" trở thành soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 6 và trải qua phần lớn thời gian của mùa Đông năm 1940-1941 hộ tống các đợt càn quét của Hạm đội Nhà. Vào tháng 5 năm 1941, thủy thủ của nó đã đổ bộ lên chiếc tàu khảo sát thời tiết Đức "München"; trước đó thủy thủ của "München" đã ném máy giải mật mã Enigma xuống biển trong một bao có đồ dằn. Tuy nhiên, những tài liệu hướng dẫn sử dụng máy Enigma cùng các bảng mật mã vẫn còn lại trên tàu, giúp có được bước đột phá lớn cho các nhóm giải mã Đồng Minh. Vào ngày 13 tháng 8 năm 1942, "Somali" cứu được 105 người trên chiếc tàu hàng Hoa Kỳ , vốn trúng ngư lôi phóng từ các xuồng E-boat Đức đang khi tham gia Chiến dịch Pedestal, một đợt chuyển hàng tiếp liệu đến Malta đang bị đối phương phong tỏa tại Địa Trung Hải. Những người sống sót được đưa đến Gibraltar sau đó. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1942, "Somali" trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-703" đang khi hộ tống cho Đoàn tàu QP 14 đi sang Nga tại biển Bắc Cực. Nó bị đánh trúng vào phòng động cơ, và mặc dù được chiếc tàu chị em kéo đi, nó bị đắm ở tọa độ vào ngày 25 tháng 9 vì thời tiết quá xấu khiến thân tàu bị gảy làm đôi. Trong số 102 người có mặt trên tàu, chỉ có 35 người được cứu sống. "Somali" là chiếc tàu khu trục lớp Tribal cuối cùng của Hải quân Hoàng gia bị đánh chìm trong chiến tranh.
1
null
Vương Nguyên (chữ Hán: 王元, ? - ?), tên tự là Huệ Mạnh hay Du Ông, người Trường Lăng, quận Kinh Triệu, là tướng lãnh các lực lượng quân phiệt của Ngôi Hiêu ở Lũng và Công Tôn Thuật ở Thục cuối đời Tân, đầu đời Đông Hán. Phụng sự Ngôi Hiêu. Năm Kiến Vũ đầu tiên (25), Ngôi Hiêu ly khai chính quyền Canh Thủy, tái chiếm Lũng Hữu, sĩ đại phu vùng Tam Phụ (Kinh Triệu, Tả Phùng Dực, Hữu Phù Phong) tránh chiến loạn tìm đến, Nguyên cũng là một trong số đó, được nhiệm mệnh làm Đại tướng quân. Năm thứ 5 (29), sứ giả của Hán Quang Vũ đế là Lai Hấp đến gặp Ngôi Hiêu khuyên hàng, Hiêu thấy Lưu Vĩnh, Bành Sủng thất bại, bèn phái con trai là Tuân đến Lạc Dương làm con tin. Nguyên khuyên Hiêu rằng: "Xưa Canh Thủy đế định đô ở Trường An, tứ phương hưởng ứng, thiên hạ trông ngóng, mà vẫn không thể thái bình. Một mai (Quang Vũ đế) thất bại, đại vương sẽ bị liên lụy. Nay nam có Tử Dương, bắc có Văn Bá, đất đai rộng lớn, vương công mười mấy người, mà lại nghe theo lời kẻ nho sanh, bỏ qua thời cơ trời ban, nương nhờ nước lớn, để cầu vẹn toàn, ấy là đạp lên vết xe thất bại cũ, kế này không nên theo vậy. Nay Thiên Thủy giàu có, binh mã hùng mạnh, bắc thu Tây Hà, Thượng Quận, đông thu vùng Tam Phụ, lấy hết nước Tần ngày xưa, gồm cả sông núi. Nguyên xin đem một hòn đất vì đại vương mà đi về phía đông bịt kín Hàm Cốc quan (ý nói Hàm Cốc quan hiểm trở, rất dễ phòng thủ), ấy là một lúc mà được muôn đời. Nếu kế này không thi hành, thì cứ nuôi quân chăm ngựa, chiếm ải tự giữ, thêm một thời gian nữa, chờ xem tứ phương thay đổi, không làm được vương, tệ nhất cũng làm được bá. Xét ra, cá không ra khỏi vực (chỉ Hiêu), rồng thần thất thế (chỉ Quang Vũ đế), đều trở lại làm con giun như nhau cả." Hiêu thấy lời này hợp ý mình, bèn một mặt phái con tin đi, một mặt nắm quân tự giữ. Năm thứ 2 (26), Ngôi Hiêu thoái thác yêu cầu hợp quân chinh phạt Công Tôn Thuật ở Thục của Quang Vũ đế, sứ Hán là Lai Hấp mưu sát Hiêu thất bại, Nguyên đề nghị giết Hấp, nhưng bị bọn Vương Tuân ngăn cản. Ông nhận lệnh coi giữ Lũng Chì , chặt cây lấp đường, ngăn trở quân Hán. Nguyên giao chiến với tướng Hán là Sái Tuân, thất bại, chạy đến Tân Quan. Các cánh quân của Ngôi Hiêu cùng các cánh quân Hán hội họp giao chiến, quân Hán thua chạy. Nguyên và Hành Tuần đem 2 vạn bộ kỵ thừa thắng, chia nhau tiến đánh Tuần Ấp, huyện Khiên . Ông lại bị Sái Tuân đánh bại ở huyện Khiên. Năm thứ 8 (32), Ngôi Hiêu đưa quân giành lại Lược Dương đã bị Lai Hấp chiếm mất, còn Nguyên giữ Lũng Chì. Sau nhiều tháng không hạ được thành, quân Hán đến cứu, Hiêu thua chạy về Tây Thành và bị vây khốn. Ông chạy sang gặp Công Tôn Thuật cầu cứu, được cho mượn 5000 quân, đẩy lui quân Hán. Phụng sự Công Tôn thuật. Mùa xuân năm thứ 9 (33), Hiêu mất. Nguyên cùng bọn Chu Tông đưa con nhỏ của ông ta là Thuần lên kế thừa vương vị. Năm sau (34), quân Hán tiến đánh, bọn Chu Tông đưa Thuần ra hàng, ông chạy sang với Công Tôn Thuật, được làm Tướng quân, cùng Lãnh quân Hoàn An coi giữ Hà Trì . Năm thứ 11 (35), Nguyên, An giao chiến với Lai Hấp, Công Tôn Thuật phái thích khách giết được Hấp. Ông nhận lệnh đi theo bọn Duyên Sầm chống lại quân Hán. Sầm bị tướng Hán là Tang Cung đánh bại ở sông Thẩm. Sầm bỏ trốn về Thành Đô, Nguyên đầu hàng ở hương Bình Dương. Quy hàng nhà Hán. Ban đầu, Nguyên được nhiệm chức Thượng Thái lệnh, chuyển làm Đông Bình tướng. Về sau ông bị bắt giam về tội khai báo ruộng đất không thật, rồi chết ở trong ngục.
1
null
Nguyễn Hữu Cầu (năm 1947 - ngày 19 tháng 12 năm 2022), cựu sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, là người tù nhân lương tâm bị giam lâu nhất ở Việt Nam với tổng cộng 37 năm bị giam trong tù. Tiểu sử. Ông sinh năm 1947, quê quán ở Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nguyên là cựu đại úy Chủ Lực Quân, xuất thân khóa 6/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ra trường về phục vụ tại Tiểu Khu Quãng Nam, thuộc vùng 1 chiến thuật - quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông bị bắt làm tù binh sau khi vùng 1 chiến thuật thất thủ vào đầu tháng 4/1975, sau 30/4/1975 khi miền nam sụp đổ chuyển thành học tập cải tạo và được thả về vào cuối năm 1980, sau hơn 5 năm bị tù cải tạo. Sau đó, do làm đơn tố giác hai cán bộ đảng viên của tỉnh Kiên Giang hãm hiếp một số nữ thuyền nhân, ông bị đưa ra xét xử vào năm 1983 và bị kết án tử hình với tội danh "Chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam", bằng chứng dựa vào những bài thơ và các ca khúc do ông sáng tác. Bản án được giảm xuống thành tù chung thân đày biệt giam ở khu tù chính trị biệt giam, phân trại K2, Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai sau khi xử phúc thẩm năm 1985. Trải qua nhiều năm bị giam cầm, ông luôn giữ vững lập trường, cương quyết không nhận tội, không xin ân xá trước một bản án mà ông cho là vô lý. Dưới áp lực của Ủy ban Nhân quyền Quốc tế (Human Rights Watch), báo chí quốc tế, và do sức khỏe của ông ngày càng suy giảm: tim yếu, tai gần như điếc, một mắt bị mù lòa không còn thị lực, cuối cùng ông đã được nhà cầm quyền trả về nhà vào 9 giờ tối ngày 21 tháng 3 năm 2014. Thông tin khác. Sau chuyến thăm tù lần đầu tiên được biết mặt ông nội của mình vào năm 2013, cháu Trần Phan Yến Nhi, 14 tuổi, đã viết thư gởi Ủy ban Nhân quyền, lên tiếng kêu cứu và xin thế thân đi tù thay cho ông nội. Trong thời gian ở tù, ông cải sang đạo Công giáo vào năm 1986. Người rửa tội cho ông là linh mục Nguyễn Công Đoan trong cùng trại cải tạo. Ngoài tội danh chống phá, bản cáo trạng trong phiên tòa xét xử ông, dựa vào bài "Giọt nước mắt Chúa" do ông sáng tác, viết rằng:
1
null
Phun trào CO2 hay còn gọi là phun trào nước ngọt là một dạng thiên tai hiếm với lượng khí Cacbon dioxide (CO2) bất ngờ bốc lên từ hồ nước sâu, làm ngạt thở động vật và con người. Phun trào này có thể gây ra sóng thần ở hồ khi khí CO2 bốc lên. Các nhà khoa học tin rằng lở đất, các hoạt động núi lửa, hay các vụ nổ có thể gây ra như một vụ phun trào. Các hồ nước xả ra vụ phun trào CO2 được gọi là hồ phun trào. Một số đặc tính của hồ phun trào gồm: Các nhà khoa học gần đây đã xác định được các khảo sát về vụ phun trào làm nhiều người chết vào thập niên 1980 ở hồ Monoun và hồ Nyos có liên quan gián tiếp đến phun trào CO2, thực ra là các dạng rời rạc của các sự kiện thảm họa. Lịch sử thảm họa. Tới nay, hiện tượng phun trào CO2 chỉ được quan sát 2 lần. Lần đầu tiên ở Cameroon tại hồ Monoun năm 1984, gây ra cái chết của 38 người dân sinh sống gần khu vực đó. Lần thứ 2, phun trào gây chết người xảy ra ở khu vực gần hồ Nyos năm 1986, lần này hơn 80 triệu mét khối khí CO2 được giải phóng và gây nên cái chết của 1700 người và 3500 gia súc xung quanh do ngạt thở. Do tính chất sự kiện, rất khó xác định các phun trào CO2 có thể xảy ra nơi nào đó không. Tuy nhiên, hồ Kivu nằm giữa biên giới Cộng hòa Dân chủ Congo và Rwanda lại chứa rất lớn lượng khí CO2. Một số mẫu trầm tích lấy từ hồ này bởi giáo sư Robert Hecky ở đại học Michigan cho thấy các sinh vật sống trong hồ đã tuyệt chủng hàng ngàn năm trước và bị cuốn vào lòng hồ. Nguyên nhân. Để vụ phun trào CO2 xảy ra, hồ phun trào phải có lượng bão hòa khí ga. Hai nguyên nhân chính được biết đến, thành phần chủ yếu là Cacbon dioxide; tuy nhiên, ở hồ Kivu, các nhà khoa học đang xem xét sự liên quan về nồng độ lớn khí Mêtan. Khí CO2 có thể đến từ khí núi lửa bốc ra từ hồ hoặc từ quá trình phân hủy vật liệu hữu cơ. Trước khi hồ bão hòa khí, hồ giống như nước ngọt có ga khi mở ra: CO2 được phân rã trong nước. Ở cả hồ phun trào và nước ngọt, CO2 phân rã nhanh hơn tại định luật Henry áp suất cao. Đây là nguyên nhân khí bọt trong chai soda chỉ hình thành sau khi nắp chai được mở ra; áp suất được giải phóng và CO2 bốc ra từ dung dịch. Trong trường hợp ở hồ phun trào, mặt đáy hồ có áp suất cao; nếu đáy càng sâu thì áp suất càng cao ở đáy. Điều này nghĩa là lượng lớn CO2 có thể bốc ra ở hồ nước rộng và sâu. Thêm nữa, CO2 phân hủy nhanh hơn ở nước lạnh, chẳng hạn nơi đáy hồ. Sự thay đổi nhẹ nhiệt độ nước có thể dẫn đến việc giải phóng lượng lớn khí CO2.
1
null
Sân cận động Busan Gudeok (; Hanja: 釜山九德運動場) là một sân vận động đa năng ở Busan, Hàn Quốc. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân hiện có sức chứa 12.349 khán giả. Sân được khánh thành vào tháng 9 năm 1928. Tại Thế vận hội Mùa hè 1988, sân vận động đã tổ chức một số trận đấu môn bóng đá. Đây cũng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Á 1997. Tại Đại hội Thể thao Đông Á 1997, sân đã tổ chức lễ khai mạc và bế mạc, cũng như các nội dung thi đấu của môn điền kinh và các trận đấu môn bóng đá. Câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Busan IPark đã thi đấu các trận đấu trên sân nhà tại sân vận động này từ năm 1987 đến năm 2002 và từ năm 2015 đến nay. Ngoài ra, câu lạc bộ K3 League Busan Transport Corporation FC đã thi đấu các trận đấu trên sân nhà tại sân vận động này từ năm 2006 đến nay. Thế vận hội Mùa hè 1988. Tại Thế vận hội Mùa hè 1988, tám trận đấu môn bóng đá đã được tổ chức tại Sân vận động Gudeok, bao gồm cả ba trận đấu của Hàn Quốc và một trận bán kết. 180 cầu thủ đi cùng với 72 quan chức từ chín quốc gia đã thi đấu trong 11 ngày (từ ngày 17 tháng 9 đến ngày 27 tháng 9). Tổng cộng 146.320 khán giả đã theo dõi các trận đấu, trung bình 18.290 khán giả mỗi ngày. 675 triệu won đã được chi để cải tạo sân vận động trước Olympic, bao gồm nâng cấp bảng điểm điện tử và các cơ sở vật chất khác.
1
null
Sân vận động Masan () là một sân vận động đa năng ở Changwon, Hàn Quốc. Sân vận động có sức chứa 21.484 người. Sân được khánh thành vào năm 1982 và có nhà thi đấu, hồ bơi trong nhà, và sân quần vợt. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động đã bị phá hủy vào năm 2016.
1
null
Sân vận động bóng đá Ulsan Munsu (), có biệt danh là Sân vận động Big Crown, là một sân vận động bóng đá ở Ulsan, Hàn Quốc. Đây là sân nhà của Ulsan Hyundai FC. Sân vận động được xây dựng từ ngày 18 tháng 12 năm 1998 đến ngày 28 tháng 4 năm 2001 với tổng chi phí xây dựng là 151,4 tỷ won (116,5 triệu đô la Mỹ). Nằm tại một thành phố công nghiệp lớn, Sân vận động bóng đá Ulsan Munsu mang cả hình ảnh công nghiệp và thân thiện với môi trường. Hình dáng tổng thể của sân vận động này là hình vương miện tượng trưng cho Tân La và Bangudae Petroglyphs. Sân gồm 3 tầng và 2 tầng hầm với sức chứa 44.102 chỗ ngồi. Ngoài ra còn có sân vận động phụ với sức chứa 2.590 chỗ ngồi. Bên cạnh sân vận động là công viên Munsu với hồ nước, đài phun nước và các đường đua xe đạp, quảng trường quanh hồ. Sân đã thay thế Sân vận động Khu liên hợp Ulsan. Sân đã tổ chức một số trận đấu của Giải vô địch bóng đá thế giới 2002.
1
null
Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 được tổ chức ở Busan, Hàn Quốc từ 27 tháng 9 đến 13 tháng 9 năm 2002. Độ tuổi giới hạn cho đội nam là dưới 23, giống như độ tuổi giới hạn ở cuộc thi bóng đá ở Olympic Games, trong khi mỗi đội có thêm 3 cầu thủ dự bị. Jordan, Mông Cổ bỏ cuộc và Tajikistan bị cấm tham dự, họ được thay thế bởi Palestine, Afghanistan và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
1
null
Hàn Quốc là chủ nhà của Đại hội Thể thao châu Á 2002 tổ chức tại Busan từ 29 tháng 9 đến 14 tháng 10 năm 2002. Hàn Quốc đại diện cho Ủy ban Olympic Hàn Quốc, và đoàn đại biểu Hàn Quốc lớn nhất trong mùa này của Đại hội Thể thao châu Á. Phái đoàn gồm 1.008 người bao gồm 770 vận động viên – 460 nam, 310 nữ – và 238 chính thức (217 nam và 21 nữ). Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên lần đầu tiên tham dự sự kiện thể thao quốc tế tổ chức bởi Hàn Quốc. Cả hai quốc gia diễu hành cùng nhau tại lễ khai mạc với cờ Hàn Quốc thống nhất mô tả bán đảo Triều Tiên như hợp chủng Hàn Quốc. Vận động viên từ Hàn Quốc dẫn đầu huy chương đồng với 84 trong bảng huy chương chung. Hàn Quốc chiến thắng với 96 huy chương vàng, 80 huy chương bạc là tổng cộng là 260 huy chương, xếp vị trí thứ hai trong bảng huy chương. Bối cảnh. Hàn Quốc tổ chức Đại hội Thể thao châu Á lần thứ hai sau Đại hội Thể thao châu Á 1986 ở Seoul. Đại hội Thể thao châu Á 2002 (chính thức được biết đến như Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 14) là sự thành công về mặt chính trị cho nước chủ nhà như đây là lần đầu tiên trong lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tham dự sự kiện thể thao quốc tế tại nước láng giềng Hàn Quốc. Ủy ban Olympic Hàn Quốc, lựa chon một phái đoàn gồm 770 vận động viên (460 nam và 310 nữ) và 238 chính thức (217 nam và 21 nữ). Đây là phái đoàn lớn nhất của bất kỳ quốc gia trong Thế vận hội, so sánh với đoàn lớn thứ hai của Nhật Bản bao gồm 659 vận động viên và 329 chính thức. Tổng kết huy chương. Đoàn chủ nhà Hàn Quốc giành được tổng số 260 huy chương trong 38 môn thể thao và các ngành. Trong môn thể thao Taekwondo quốc tế, vận động viên Hàn Quốc nhận hầu hết các huy chương (12 vàng, 3 bạc và đồng).
1
null
Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc () gọi tắt là Quân ủy Trung ương Trung Quốc hoặc CMC (tiếng Anh: China Military Commitee) là cơ quan quân sự cấp cao nhất của Đảng lãnh đạo và quản lý Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung quốc. Chức năng chính là lãnh đạo trực tiếp lực lượng vũ trang quốc gia. Ủy ban Trung ương Đảng quyết định các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên. Năm 1982, Theo hiến pháp mới sửa đổi, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập Ủy ban Quân sự Trung ương. Mặc dù hiến pháp không đề cập đến mối quan hệ giữa Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng và Ủy ban Quân sự Trung ương Trung Quốc, nhưng trong thực tế qua các giai đoạn các phó Chủ tịch đều nắm cả hai Ủy ban. Và Chủ tịch mặc định là Tổng Bí thư. Danh sách Ủy ban Quân sự Trung ương Trung Quốc các khóa. Khóa 19. Ban lãnh đạo Quân ủy trung ương khóa 19 chỉ còn lại 7 thành viên, giảm 4 thành viên so với Quân ủy trung ương khóa 18. Trong đó biến động nhất là số lượng Ủy viên Quân ủy trung ương. Số lượng Ủy viên Quân ủy trung ương khóa 18 gồm 8 thành viên. Tuy nhiên, tại Đại hội 19 số lượng này đã giảm xuống còn 4 thành viên. Khóa 6. Ủy ban Quân sự Trung ương Cách mạng (tháng 8 năm 1937-tháng 8 năm 1945) Ủy ban Quân sự Trung ương (tháng 1 năm 1929-tháng 2 năm 1930)
1
null
Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog (tiếng Nga: "Донецко-Криворожская Советская Республика") là một thực thể chính trị tồn tại trong năm 1918 ứng với khu vực miền Đông Nam Ukraina hiện nay. Thực thể này là một giải pháp chính trị của CHXHCNXV Liên bang Nga trong giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc nội chiến. Quốc kỳ. Quốc kỳ Donetsk–Krivoy Rog là mẫu cờ có tỉ lệ 2:3 gồm ba sọc ngang đen - lam - đỏ rộng bằng nhau và xuyên suốt. Trong đó: Lá cờ này được ấn định lưu hành vào ngày 27 tháng 4 năm 1918.
1
null
Vệ tinh Bion hay chương trình không gian Bion (), cũng có tên là Biocosmos, là loạt vệ tinh sinh học của Liên Xô. Chúng là một phần của các vệ tinh Kosmos. Chương trình không gian Bion. Chương trình vệ tinh sinh học Liên Xô bắt đầu năm 1966 với Kosmos 110, và tiếp tục năm 1973 với Kosmos 6045.
1
null
Moganit là một loại khoáng vật silicat có công thức hóa học SiO2 (silic dioxide) được phát hiện năm 1984. Nó kết tinh theo hệ một nghiêng. Moganit được xem là một dạng đồng hình của thạch anh: có có cùng thành phần hóa học với thạch anh nhưng có cấu trúc tinh thể khác.
1
null
Seifertit là một loại khoáng vật silicat có công thức hóa học SiO2 và là một dạng đồng hình chặt của thạch anh. Nó chỉ được tìm thấy trong Martian và thiên thạch lunar ở đây nó được cho rằng đã hình thành từ tridymit hoặc cristobalit – các đồng hình khác của thạch anh – do kết quả của nhiệt trong quá trình tái nhận khí quyển và ảnh hưởng đến Trái Đất ở áp suất thấp nhất là 35 GPa. Nó cũng có thể được tạo ra trong phòng thí nghiệm bằng cách nén cristobalit trong một tế bào khuôn kim cương ở 40 GPa. Khoáng vật được đặt theo tên Friedrich Seifert (sinh năm 1941), người sáng lập nên Bayerisches Geoinstitut ở Đại học Bayreuth, Đức, và được công nhận chính thức bởi hiệp hội khoáng vật học Quốc tế.
1
null
Stishovit là một biến thể của thạch anh dạng bốn phương kết chặt cực kỳ cứng. Đây là loại rất hiếm gặp trên bề mặt Trái Đất. Tuy nhiên, nó có thể là một dạng phổ biến của silic dioxide trên Trái Đất, đặc biệt trong manti dưới. Stishovit được đặt theo tên Sergey M. Stishov, một nhà vật lý áp suất cao người Nga ông là người tổng hợp khoáng vật đầu tiên năm 1961. Nó được Edward C. T. Chao phát hiện trong một hố va chạm thiên thạch năm 1962.
1
null
Tham khảo. Vi tinh là một loại kiến trúc của đá, chúng là dạng tập hợp rất nhiều tinh thể nhỏ. Các tinh thể tự nhiên này chỉ có thể phát hiện được dưới kính hiển vi ở dạng mẫu lát mỏng dưới ánh sáng phân cực truyền qua. Trong số các đá trầm tích, chert và đá lửa có dạng vi tinh. Carbonado, một dang kim cương, cũng có dạng vi tinh. Các đá núi lửa đặc biệt là các đá có thành phần axit như felsit và rhyolit có thể có kiến trúc khối vi tinh có sự khác biệt với obsidian tinh khiết hoặc tachylyt là các loại thủy tinh tự nhiên. Onyx cũng có dạng vi tinh.
1
null
Jasper là một dạng canxedon, một loại biến thể đục, không tinh khiết của silica, thường có màu đỏ, vàng, nâu hoặc lục; và hiếm khi có màu xanh dương. Màu đỏ phổ biến của nó là do có chứa các ion sắt III. Khoáng vật vỡ tạo những bề mặt phẳng, và thường được sử dụng làm đá quý. Nó có thể được đánh bóng rất cao và được dùng làm bình hoa, con dấu và trang trí hộp. Nó có tỷ trọng từ 2,5 đến 2,9.
1
null
Sân vận động Hyochang là một sân vận động đa năng ở Hyochang-dong, Yongsan-gu, Seoul, Hàn Quốc. Sân hiện được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa 15.194 người. Sân được xây dựng vào tháng 10 năm 1960 cho Cúp bóng đá châu Á 1960.
1
null
Sân vận động Mokdong () là một khu liên hợp thể thao nằm ở Mok-dong, Yangcheon-gu, Seoul, Hàn Quốc. Khu liên hợp bao gồm một sân vận động đa năng, một sân vận động bóng chày và một sân băng nhân tạo. Khu liên hợp được khánh thành vào ngày 14 tháng 11 năm 1989. Sân vận động chính tổ chức các trận đấu bóng đá K League từ năm 1996 đến năm 2001. Cơ sở vật chất. Sân vận động Mokdong. Đây là một sân vận động đa năng và hiện được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá và điền kinh. Đây là sân nhà của Bucheon SK từ năm 1996 đến năm 2000. Sân vận động có sức chứa 25.000 khán giả (15.511 ghế ngồi) và được khánh thành vào năm 1989. Hiện tại, đây là sân nhà tạm thời của câu lạc bộ K League 2 Seoul E-Land FC. Câu lạc bộ dự kiến sẽ thi đấu các trận đấu trên sân nhà tại đây ít nhất cho đến cuối mùa giải 2023, do Sân vận động Olympic Seoul đang được cải tạo trong khoảng thời gian đó. Sân băng Mokdong. Sân băng Mokdong được sử dụng làm địa điểm quay bộ phim "Lovers in Paris" của Seoul Broadcasting System (SBS), nơi mà Ki-joo do Park Shin-yang thủ vai và Soo-hyuk do Lee Dong-gun thủ vai chơi khúc côn cầu trên băng. Các đội Daemyung Sangmu và Daemyung Killer Whales của Asia League Ice Hockey cũng từng sử dụng sân băng này.
1
null
Samsung Galaxy Tab 4 8.0 là máy tính bảng 8-inch chạy hệ điều hành Android sản xuất và phân phối bởi Samsung Electronics.Nó thuộc thế hệ thứ tư của dòng Samsung Galaxy Tab series, bao gồm bản 7-inch và 10.1-inch, Galaxy Tab 4 7.0 và Galaxy Tab 4 10.1. Nó được công bố vào 01 tháng 4 năm 2014, và vẫn chưa được phát hành. Không giống như máy tính bảng 7-inch và 10.1 inch, Galaxy Tab 4 8.0 chỉ là phiên bản thứ hai trong các thiết bị 8 inch. Lịch sử. Galaxy Tab 4 8.0 được công bố vào 01 tháng 4 năm 2014. Nó được ra mắt cùng với Galaxy Tab 4 7.0 và Galaxy Tab 4 10.1 trước Mobile World Conference 2014. Tính năng. Galaxy Tab 4 8.0 được phát hành cùng với Android 4.4.2 KitKat. Samsung tùy biến giao diện người dùng với "TouchWiz UX". Cùng với ứng dụng từ Google, bao gồm Google Play, Gmail và YouTube, cho phép truy cập vào ứng dụng của Samsung như ChatON, S Suggest, S Voice, S Translator, S Planner, Smart Remote, Smart Stay, Multi-Window, Group Play, và All Share Play. Galaxy Tab 4 8.0 có bản WiFi, biến thể 3G & WiFi, và 4G/LTE & WiFi. Bộ nhớ trong 16 GB đến 32 GB tùy theo mẫu, với thẻ nhớ mở rộng microSDXC. Nó có màn hình 8-inch WXGA TFT với độ phân giải 1.280x800 pixel. Nó có máy ảnh trước 1.3 MP không flash và 3.0 MP AF máy ảnh chính. Nó có khả năng quay video HD.
1
null
Danh sách các quốc gia châu Đại Dương theo GDP trên người 2012 là bảng thống kê về GDP trên người 2012 của 22 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Đại Dương. Ngoài 14 quốc gia độc lập, là thành viên của Liên Hợp Quốc, còn có các vùng lãnh thổ khác như: Quần đảo Cook, Niue, Guam, Quần đảo Bắc Mariana, Polynesia thuộc Pháp, Wallis và Futuna, New Caledonia và Samoa thuộc Mỹ. Trong danh sách này, Úc là quốc gia có thu nhập bình quân trên người cao nhất châu Đại Dương, với 67.036 USD/người, tiếp sau là New Zealand với 38.255 USD/người, Palau với 11.006 USD/người. Quốc gia có thu nhập bình quân trên người thấp nhất châu Đại Dương năm 2012 là Kiribati chỉ có 1.633 USD/người, xếp áp chót là Quần đảo Solomon với 1.763 USD/người. Bảng thống kê được trích số liệu từ nguồn GDP trên người 2012 của Quỹ tiền tệ Quốc tế-IMF, những lãnh thổ hay quốc gia không được IMF thống kê, được bổ sung từ các nguồn Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới-WB hay CIA Facebook.
1
null
Samsung Galaxy Tab 4 7.0 là máy tính bảng 7-inch chạy hệ điều hành Android sản xuất và phân phối bởi Samsung Electronics.Nó thuộc thế hệ thứ tư của dòng Samsung Galaxy Tab series, bao gồm bản 8-inch và 10.1-inch, Galaxy Tab 4 8.0 và Galaxy Tab 4 10.1. Nó được công bố vào 01 tháng 4 năm 2014, và vẫn chưa được phát hành. Lịch sử. Galaxy Tab 4 7.0 được công bố vào ngày 1 tháng 4 năm 2014. Nó được ra mắt cùng với Galaxy Tab 4 8.0 và Galaxy Tab 4 10.1 trước Mobile World Conference 2014. Tính năng. Galaxy Tab 4 7.0 phát hành với Android 4.4.2 KitKat. Samsung tùy biến giao diện người dùng với "TouchWiz UX". Cũng như ứng dụng từ Google, bao gồm Google Play, Gmail và YouTube, cho phép truy cập vào ứng dụng Samsung như ChatON, S Suggest, S Voice, S Translator, S Planner, Smart Remote, Smart Stay, Multi-Window, Group Play, và All Share Play. Galaxy Tab 4 7.0 có bản WiFi, biến thể 3G & WiFi, và 4G/LTE & WiFi. Bộ nhớ trong 8, 16, hoặc 32 GB tùy thuộc vào mẫu, với khe thẻ nhớ mở rộng microSDXC. Nó có màn hình 7-inch WXGA TFT độ phân giải 1.280x800 pixel. Nó có máy ảnh trước 1.3 MP front không flash và 3.0 MP AF máy ảnh chính. Nó có khả năng quay video HD.
1
null
Cá mắt trống (Danh pháp khoa học: Rhynchohyalus natalensis) là một loài cá có bốn mắt. Cấu tạo này có tầm nhìn 360 độ và dễ dàng quan sát hay phát hiện nhiều cá thể khác. Cá mắt trống được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1924. Đặc điểm. Cá mắt trống thường sống ở độ sâu 800-1.000 m so với mực nước biển, được tìm thấy ở vùng biển phía đông Đại Tây Dương, gần Cape Town, Nam Phi, tây Thái Bình Dương, giữa Australia và New Zealand Một con cá có thể phát triển chiều dài đến 18 cm. Khác với cấu tạo mắt của hầu hết các loài cá, cá mắt trống có đến 4 mắt. Hai mắt chính có hình trụ và hướng lên trên. Cặp mắt phụ nhỏ màu bạc, nằm ở hai bên đầu, hình bầu dục, hướng xuống phía dưới. Mắt giúp cá quan sát cả bên dưới, bên trên và hai bên cùng một lúc. Tầm nhìn 360 độ giúp cá phát hiện con mồi, kẻ thù và cả đối tượng tiềm năng. Trong môi trường tối dưới lòng biển sâu, hai đôi mắt này sẽ giúp cá nhìn được ánh sáng phát quang sinh học.
1
null