text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Cá ăn gỗ hoặc Panaque là một chi cá phân bố tại vùng Nam Mỹ, chúng có đặc điểm đặc biệt là có thể ăn được gỗ. Đây là mới được phát hiện ở rừng nhiệt đới Amazon. Đặc điểm. Cá ăn gỗ có chiều dài cơ thể vào khoảng 70 – 80 cm và được bao bọc bởi lớp vảy cứng, dày như một bộ áo giáp sắt. Chúng có hàm răng sắc, nhọn, vô cùng khỏe, có khả năng gặm gỗ từ các thân cây đổ xuống dưới nước. Cá ăn gỗ sở hữu hàm răng chắc khỏe, giống như những chiếc thìa cạo. Thức ăn. Cá ăn gỗ theo tên gọi của chúng nhưng không tiêu hóa gỗ mà chỉ hấp thụ các loại chất hữu cơ có ở trong gỗ như tảo, các loại thực vật, động vật nhỏ sống bám trên gỗ. Phần gỗ còn lại sẽ bị thải loại ra khỏi cơ thể. Thời gian để chúng thải gỗ ra khỏi cơ thể của mình thường ít hơn 4 giờ đồng hồ. Đây được xem là một khoảng thời gian rất ngắn cho một loài động vật ăn gỗ. Khác với suy nghĩ rằng loài cá ăn gỗ này phải có một tổ hợp các loại vi khuẩn để giúp chúng tiêu hóa gỗ nhưng những vi sinh vật lại có ở chính dòng sông và trên các khúc gỗ. Khả năng ăn gỗ của loài cá này có thể xuất phát từ việc cạnh tranh nguồn thức ăn với các loại cá khác trong khu vực sông Amazon. Phân loài. "Cá tỳ bà hoàng gia (Panaque nigrolineatus)"
1
null
Dưới đây là bảng tổng hợp các công thức chuyển đổi và những điểm khác nhau giữa bảy thang đo nhiệt độ. Một số thang đo có thể đã lỗi thời và không còn được sử dụng nữa. So sánh giữa các thang đo nhiệt độ. Một số dữ liệu trong bảng trên đã được làm tròn.
1
null
Samsung Galaxy Tab 2 7.0 là máy tính bảng 7-inch chạy hệ điều hành Android sản xuất và phân phối bởi Samsung Electronics. Samsung Galaxy Tab 2 thuộc thế hệ thứ hai của dòng máy tính bảng Samsung Galaxy Tab series, bao gồm bản 10.1-inch, Galaxy Tab 2 10.1. Nó được công bố vào 13 tháng 2 năm 2012, và phát hành tại Mỹ vào 22 tháng 4 năm 2012. Nó là kết thừa của Samsung Galaxy Tab 7.0 Plus. Lịch sử. Galaxy Tab 2 7.0 được công bố vào 13 tháng 2 năm 2012,ra mắt cùng với Galaxy Tab 2 10.1 tại Mobile World Conference 2012. Ban đầu Samsung dự định phát hành vào tháng 3, nhưng vài trục trặc trong khâu phát triển hệ điều hành Android 4.0 Ice Cream Sandwich đã khiến ngày phát hành bị dời xuống cuối tháng 4. Samsung sau đó xác nhận rằng Galaxy Tab 2 7.0 sẽ phát hành vào 22 tháng 4, với mức giá $250 cho bản 8GB. Tính năng. Galaxy Tab 2 7.0 ban đầu ra mắt mới Android 4.0 Ice Cream Sandwich. Bản cập nhật Android 4.1.1 Jelly Bean được phát hành sau đó. Samsung tùy biến giao diện người dùng với "TouchWiz UX". Cũng như các ứng dụng từ Google, bao gồm Google Play, Gmail và YouTube, nó cho phép truy cập đến ứng dụng Samsung như ChatON, S Suggest và All Share Play. Galaxy Tab 2 7.0 có bản WiFi, biến thể WiFi với IR Blaster, và 3G & WiFi. Bộ nhớ trong từ 8 GB đến 32 GB tùy theo mẫu, với thẻ nhớ mở rộng microSD. Nó có màn hình 7-inch PLS LCD với độ phân giải 1.024x600 pixel, và cùng với hai máy ảnh trước-sau. Một tính năng bổ sung của Samsung là "Tìm điện thoại của tôi" cho phép theo dõi vị trí thiết bị di động của bạn nếu nó bị mất. Thiết bị này sử dụng các kết nối độc quyền của Samsung để kết nối sạc cáp USB/dữ liệu. Ngoài ra một bộ chuyển đổi có thể được sử dụng được thêm vào như USB OTG cho phép máy tính bảng lưu trữ như thiết bị USB. Các thiết bị USB Mass Storage có thể được đính kèm không cần phải cài thêm trình điều khiển. Ngoài ra hỗ trợ cho bàn phím và chuột có thế với cổng USB HID. Đón nhận. Galaxy Tab 2 7.0 đã được đón nhận theo hướng tính cực. The Verge - nhà phê bình David Pierce đã nhận xét, "Tab 2 mạnh hơn Kindle Fire hoặc máy tính bảng Nook, và bởi vì nó chạy phiên bản đầy đủ của Android nó là thiết bị có nhiều khả năng hơn nếu bạn quan đâm đến nhiều hơn là đọc." Cà Pierce và James Stables của TechRadar đều khen ngợi kích thước và cân nặng của thiết bị, cũng như mức giá thấp so với máy tính bảng đầy đủ khác. Đã có một số chỉ trích về chất lượng màn hình của nó, với Stables mô tả nó như là "đần độn và không phản hồi", và chuyên gia đánh giá David Ludlow so sánh độ phân giải thấp của nó với 2012 Google Nexus 7, mặc dù không nhìn thấy ấn tượng.
1
null
Vùng đất Princess Elizabeth () là một khu vực rộng lớn nằm ở Châu Nam Cực, nằm giữa kinh độ 73° Đông và Mũi Penck 87°43' Đông. Princess Elizabeth Land được định vị giữa 64°56'N và 90°00'N, giữa 73°35'Đ và 87°43'Đ. Nó được chia thành hai khu vực: Nó được giới hạn ở phía Tây bởi Thềm băng Amery, Mac. Robertson Land, và phía Đông bởi Vùng đất Wilhelm II. Vùng đất Princess Elizabeth được khám phá vào ngày 9, tháng 2 năm 1931, bởi British Australian and New Zealand Antarctic Research Expedition (BANZARE) (1929-1931) dưới thời của ngài Douglas Mawson. Vùng đất Princess Elizabeth được Mawson đặt theo tên của Công chúa Elizabeth, người sau này trở thành Nữ hoàng Elizabeth II.
1
null
Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 1954 được tổ chức tại Manila, Philippines từ 1 tháng 5 đến 8 tháng 5 năm 1954. Tất cả trận đấu tổ chức tại Sân vận động Tưởng niệm Rizal, mỗi trận 80 phút. Bốc thăm. Bốc thăm được tổ chức trước sự kiện một ngày.
1
null
Chi Cá sóc (tên khoa học: Oryzias) là một chi cá thuộc họ Cá sóc Adrianichthyidae. Chi này khoảng 32 loài. Ở Nam Bộ, Việt Nam ghi nhận có 3 loài: cá sóc ("Oryzias latipes"), cá sóc Hậu Giang ("Oryzias haugiangensis") và cá sóc Mê Công ("Oryzias mekongensis"). Các loài. Hiện tại có 33 loài được ghi nhận trong chi này:
1
null
Lời thì thầm của những bóng ma (tên gốc tiếng Anh: Ghost Whisperer) là một bộ phim truyền hình Mỹ, được nhà đài CBS sản xuất chiếu từ ngày 23/09/2005 - 21/05/2010. Bộ phim nói về: Có một đám cưới đẹp như mơ, cô dâu Melinda Gordon hào hứng bắt đầu một cuộc sống mới! Mọi thứ sẽ diễn ra êm đềm nếu như cô chủ cửa hàng đồ cổ thông minh không vô tình sở hữu một khả năng siêu nhiên: Melinda có thể trò chuyện với các hồn ma - những linh hồn oan khuất chưa thể siêu thoát! Khả năng này được phát hiện một cách tình cờ khi Melinda còn nhỏ và được mẹ cho tới tham dự tang lễ của một người thân. Đang đứng, cô chợt nghe thấy những lời thì thầm, nhắn nhủ từ phía những người đã khuất. Tò mò và ngỡ ngàng khôn tả, Melinda lặng lẽ tiến gần về phía gia chủ và thì thầm... Ấn tượng từ ngày còn nhỏ cùng những hàng loạt tình huống bất thường khiến Melinda vô cùng hoảng sợ: chợt tỉnh giấc lúc nửa đêm, những tiếng động lạ, những bóng người chập chờn, lúc ẩn lúc hiện... Đó chính là những bóng ma liều lĩnh đến tuyệt vọng luôn săn đuổi Melinda - người được gửi gắm sứ mệnh tháo gỡ nút thắt trong vô vàn uẩn khúc. Băn khoăn không hiểu nguyên nhân vì sao nhưng Melinda vẫn tìm đến thân nhân của những linh hồn đáng thương để tìm hiểu, thuyết phục họ tin vào câu chuyện của mình… Con người với những khả năng đặc biệt là đề tài không mới trong các phim truyền hình Mỹ nhưng để kết hợp những tình tiết kinh dị và tính nhân văn cho hấp dẫn thì không phải bộ phim nào cũng thành công. Sức lôi cuốn của "Lời thì thầm của những bóng ma" chính là mối quan hệ ấm áp, đầy tình người giữa Melinda với oan hồn còn vướng nợ với trần gian. Những tình huống "dở khóc dở cười" khi Melinda đi đến từng thân chủ của những người bạn "ma" để thuyết phục họ tin vào câu chuyện "không tưởng" của mình cũng là điểm hấp dẫn của bộ phim. Nội dung. Melinda Gordon là một phụ nữ trẻ sống ở thị trấn nhỏ Grandview, New York, người có khả năng nhìn thấy và giao tiếp với người chết - những oan hồn. Melinda sống với chồng, Jim Clancy (David Conrad), và con trai của mình, Aiden Lucas (Connor Gibbs). Cô sở hữu một cửa hàng đồ cổ tên là "Same As It Never Was Antiques". Những linh hồn oan khuất tìm sự giúp đỡ của Melinda trong việc gửi tin nhắn hoặc những việc làm chưa xong khi còn sống đến một ai đó hoặc người thân trong gia đình, và sau đó Melinda giúp họ đi vào Ánh sáng (hoặc còn được gọi là Ánh hào quang). Những linh hồn oan khuất với những việc chưa xong sau khi chết, và Melinda ở đây để giúp họ cảm thấy yên bình. Bộ phim có sự góp mặt của Aisha Tyler trong vai Andrea Marino, người bạn thân nhất của Melinda và cùng điều hành cửa hàng đồ cổ với cô ấy. Andrea là bi kịch khi là nạn nhân trong vụ tai nạn máy bay ở cuối mùa 1. Trong mùa thứ hai, Melinda gặp Delia Banks (Camryn Manheim), một doanh nhân bất động sản đang gặp khó khăn trở thành bạn Melinda và người cuối cùng đã đồng ý mở các cửa hàng đồ cổ chung với cô ấy. Delia bị sốc khi tìm hiểu về khả năng của Melinda, trong thực tế, lúc đầu cô tuyên bố Melinda cần sự giúp đỡ về tâm lý. Delia cuối cùng chấp nhận món quà của Melinda, mặc dù cô vẫn còn hoài nghi. Delia có cậu con trai tên là Ned Banks (Tyler Patrick Jones mùa 2-3, Christoph Sanders sau đó), người phát hiện ra món quà của Melinda từ lâu trước khi mẹ cậu biết về món quà ấy. Melinda cũng trở thành bạn Rick Payne (Jay Mohr), một giáo sư tại Đại học Rockland. Ông giúp Melinda giải quyết những xung đột của những hồn ma trong suốt mùa thứ hai và thứ ba. Ông trở thành khách mời trong buổi ra mắt mùa thứ tư cho một chuyến thám hiểm ở dãy Himalaya. Sản xuất. "Ghost Whisperer" được đồng làm việc bởi James Van Praagh, đồng thời một phần nhờ Mary Ann Winkowski. Sự phát triển của bộ phim quay trở lại trước 2 năm ra mắt. "Ghost Whisperer" được hãng Sander/Moses Productions sản xuất với sự kết hợp của hãng CBS Television Studios và hãng CBS Paramount Network Television (ở mùa 1 và 2).
1
null
Pyroxenit là một loại đá magma xâm nhập siêu mafic được cấu tạo chủ yếu bởi các khoáng vật thuộc nhóm pyroxen, như augit và diopside, hypersthen, bronzit hoặc enstatit. Chúng được xếp vào nhóm clinopyroxenit, orthopyroxenit, và websterit chứa cả hai loại pyroxen. Các họ hàng gần của nhóm này là hornblendit bao gồm chủ yếu là hornblend và các amphibole khác. Tham khảo. Sobolev, A. V., and others, 2007, "The amount of recycled crust in sources of mantle-derived melts", Science 316, p. 412-417 (abstract) Retrieved on ngày 6 tháng 10 năm 2007.
1
null
Mezzo hay "nữ trung" ("mezzo" nghĩa là "giữa") là một phân loại giọng hát. Có những loại Mezzo sau: 1. Lirico mezzo-soprano (nữ trung trữ tình):. Giọng này cũng khá phổ biến trên thế giới, với một số ca sĩ như Barbra Streisand, Jane Monheit, Lee Sun Hee, Donna Summer, Ethel Merman,Hebe Điền Phức Chân(Đài Loan)...
1
null
Contralto (giọng nữ trầm) là giọng được tạo bởi "contre" (trầm) và "alto" (cao) do trước đây "alto" là thiếu niên nam hoặc castrato.<br>Đây là giọng nữ trầm nhất, hát chủ yếu bằng giọng ngực. Giọng dày, trầm ấm. Chủ yếu đóng các vai phụ (vú già, người hầu) trong opera, vì vậy các "Contralto" thường chuyển sang hát các vai "Dramatic mezzo".<br> Quãng giọng cơ bản từ E3 đến E5. Đặc điểm của một nữ trầm gồm: Nữ trầm ít xuất hiện hơn rất nhiều so với nữ trung và nữ cao, đặc biệt là ở Việt Nam. Trong số các ca sĩ Việt hiện nay, chỉ đếm trên đầu ngón tay được một vài nữ trầm. 2. Nữ trầm trữ tình (Lirico contralto). Gồm: 3. Nữ trầm màu sắc (Coloratura contralto). Nữ trầm màu sắc gồm: Tham khảo. https://www.youtube.com/watch?v=ChlBNixbkF0 Karen Carpenter hát tông Contralto
1
null
Hypersthen là một khoáng vật silicat tạo đá phổ biến thuộc nhóm pyroxen thoi. Nó được tìm thấy trong các đá mácma xâm nhập và một số đá biến chất ở dạng các hòn đá và thiên thạch sắt. Nó tạo một loạt dung dịch rắn với các khoáng vật enstatit và ferrosilit, có thành phần nằm ở giữa hai khoáng vật trên. Enstatit tinh khiết không chứa sắt, trong khi ferrosillit không chứa magnesi; hypersthen là tên gọi khi có mặt một phần đáng kể hai khoáng vật trên với công thức hóa học là (Mg,Fe)SiO3.
1
null
Enstatit là một khoáng vật silicat cuối trong nhóm pyroxen có công thức hóa học (MgSiO3) - ferrosilit (FeSiO3). Các khoáng vật giàu magnesi trong loạt dung dịch rắn thường là các khoáng vật tạo đá phổ biến được tìm thấy trong các đá mácma và biến chất. Thành phần trung gian giữa hai khoáng vật trên từng được gọi là hypersthen, mặc dù tên gọi này hiện đã chính thức bị bác bỏ và được thay thế bằng orthopyroxen. Khi xác định thành phần thạch học hoặc hóa học sẽ cho ra tỉ lệ tương đối giữa enstatit (En) và ferrosilit (Fs) (e.g., En80Fs20).
1
null
Bronzit là một khoáng vật trong nhóm pyroxen cùng với enstatit và hypersthen đến orthopyroxen. Ngoài việc là một loại riêng biệt, nó thực sự là một biến thể chứa sắt của enstatite, đó là do sự thay thế một phần có ánh bán kim giống như đồng thau trên mặt cát khai.
1
null
Đá núi lửa (hay đá mácma phun trào) là một loại đá được hình thành khu mác ma phun ra từ núi lửa. Trong địa chất các đá núi lửa và các đá xâm nhập nông không phải lúc nào cũng được xem là riêng biệt. Đá núi lửa là một trong nhóm đá phổ biến nhất trên bề mặt Trái Đất, đặc biệt là trong các đại dương. Trên cạn, chúng rất phổ biến ở các ranh giới mảng và các tỉnh bazan lớn. Kiến trúc. Các đá núi lửa thường có kiến trúc hạt mịn hoặc ẩn tinh đến thủy tinh. Chúng thường chứa các thể tù của các đá khác và ban tinh. Ban tinh là các tinh thể lớn hơn so với khối nền và có thể được nhận dạng bằng mắt thường. Đá núi lửa thường có cấu tạo bọt do các lỗ trống để lại khi chúng nguội lạnh. Pumice (đá bọt) là một loại đá có độ lỗ rỗng rất lớn được tạo ra trong các vụ phun nổ.
1
null
Concerto số 2 cho piano cung Đô thứ, Op.18 là bản concerto nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Nga Sergei Vasilievich Rachmaninoff. Bản concerto này rất quan trọng với Rachmaninoff. Thứ nhất, đây là món quà ông dành tặng cho bác sĩ thôi miên trị liệu Nikolai Dalh, người giúp ông vượt qua cơn khủng hoảng tinh thần lớn nhất trong đời. Thứ hai, với sự thành công của mình, bản concerto này đã giúp tác giả của có niềm tin vào sự nghiệp âm nhạc ở phía trước trong hoàn cảnh bản giao hưởng số 1 của ông thất bại đầy đáng tiếc. Rõ ràng bản concerto này là sự chết đi sống lại của sự nghiệp của nhà soạn nhạc tài năng này. Tác phẩm này được ông sáng tác vào năm 1901, sau đó được ông biểu diễn với vai trò solo piano thành công mỹ mãn. Đây là concerto có 3 chương. Chương đầu tiên là chương moderato với những cảm xúc dạt dào, nâng lên rồi lại hạ xuống qua những nốt nhạc. Chương thứ hai là chương adagio sostenuto. Ở chương này, người nghe có thể cảm nhận sự trầm lắng, da diết. Dường như piano chỉ cất lên những nốt yếu ớt như để chấm nhẹ cho chương này. Chương cuối là chương allegro scherzando. Khác với 2 chương trước, chương này gồm những giai điệu nhanh đầy bất ngờ, sôi nổi, như để có sự hài hòa cho tác phẩm.
1
null
Z(4430) hạt meson cộng hưởng được phát hiện lần đầu tiên bởi thí nghiệm Belle vào năm 2007. Nó có khối lượng vào khoảng . Hạt cộng hưởng này sau đó được thí nghiệm LHCb xác nhận là tồn tại với ý nghĩa thống kê ở mức 13,9 σ. Nó mang điện tích âm (-1) và có thành phần gồm bốn hạt quark (quark duyên, phản quark duyên, quark xuống, phản quark lên), và thuộc về một trong các họ hạt tetraquark. Nó có số lượng tử spin-chẵn lẻ JP = 1+. Hạt này cùng với các hạt X(3872), Zc(3900) và Y(4140) được coi là các hadron ngoại lai được xác nhận bằng thực nghiệm, mặc dù Z(4430) là hạt đầu tiên có mức ý nghĩa thống kê cao cho phép có thể khẳng định là nó thực sự tồn tại.
1
null
Philomena là một bộ phim điện ảnh chính kịch hợp tác Anh - Mỹ - Pháp đạo diễn bởi Stephen Frears, dựa trên cuốn sách The Lost Child of Philomena Lee của nhà báo Martin Sixsmith. Với các diễn viên chính Judi Dench và Steve Coogan, bộ phim là câu chuyện về người phụ nữ 50 tuổi Philomena Lee trong hành trình tìm kiếm con trai của mình.  Bộ phim đã nhận được rất nhiều giải thưởng điện ảnh quốc tế. Coogan và Jeff Pope đã giành giải Kịch bản xuất sắc nhất sau khi bộ phim được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Venice lần thứ 70, đồng thời đoạt giải People’s Choice Award tại Liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2013. Tại lễ trao giải Oscar lần 86, Philomena giành đề cử tại 4 hạng mục, bao gồm Phim điện ảnh xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Judi Dench, Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất cho Coogan và Pope, và Nhạc phim hay nhất Desplat. Bộ phim cũng được đề cử tại 4 hạng mục tại Giải thưởng điện ảnh Anh quốc (BAFTA Awards) và 3 đề cử Quả cầu vàng (Golden Globes). Nội dung. Sau khi bị thôi việc là cố vấn chính phủ, nhà báo Martin Sixsmith dự định viết một cuốn sách về lịch sử Nga. Tại một buổi tiệc, anh gặp con gái của Philomena Lee. Cô đã đề nghị anh viết một cuốn sách về mẹ mình - người phụ nữ đã bị ép buộc từ bỏ đứa con trai bé nhỏ của mình, Anthony, 50 năm về trước. Mặc dù lúc đầu, Martin không quan tâm đến những câu chuyện hấp dẫn đời người, nhưng sau đó anh đã quyết định sẽ tham gia hành trình tìm kiếm cùng Philomena sau khi nghe câu chuyện bi ai của bà.  Năm 1951, sau cuộc tình chớp nhoáng với một người thanh niên trẻ, Philomena mang thai và với sự xấu hổ của người cha, bà đã được gửi vào Tu viện Sean Ross ở Roscrea, Ireland. Philomena sinh một bé trai nhưng bà không được phép chăm sóc con, đồng thời phải làm việc tại phòng giặt là trong vòng 4 năm để trả công cho việc sinh sống tại tu viện. Một ngày nọ, bà vô cùng tức giận khi phát hiện ra các sơ đã lén lút gửi con trai mình cho một cặp vợ chồng người nước ngoài, không cho họ cả cơ hội để nói lời tạm biệt. Philomena giữ bí mật về người con này trong vòng 50 năm, nhưng trong thời gian đó bà vẫn trở lại tu viện định kỳ, cố gắng tìm kiếm con trai mình. Tuy nhiên, lần này qua lần khác, các sơ không hé lộ dù chỉ một manh mối nhỏ nhất cho hành trình của bà.  Philomena, lần này, cùng Martin, quay lại tu viện với hy vọng có thể tìm được chút thông tin. Và họ tiếp tục thất vọng khi các sơ vẫn với cung cách lịch sự giả tạo của mình, mời họ trà bánh nhưng từ chối giúp đỡ, đồng thời tuyên bố rằng tất cả ghi chép về việc cho con nuôi đã mất trong một trận hỏa hoạn 5 năm về trước. Tuy nhiên, sau đó tại một quán rượu, một người bản địa đã tố cáo tu viện chủ ý tiêu hủy tất cả tài liệu che đậy trong một trận hỏa hoạn, và sự thật rằng hầu hết những đứa trẻ đã được bán với giá 1000 dollars cho những người My giàu có.  Martin tin rằng mọi hy vọng tìm kiếm tại Ireland đã bị thiêu rụi, và với sự giúp đỡ của tòa báo đang làm việc, anh đã có thể mời Philomena cùng đến Mỹ để tìm Anthony. Với nhiều nỗ lực, Martin đã khám phá ra Anthony được nhận nuôi bởi Doc và Marge Hess, những người sau đó đã đổi tên Anthony sang thành Michael. Michael trở thành một luật sư và là chuyên viên cao cấp dưới thời tổng thống Reagan và George H.W.Bush, nhưng buồn thay, anh đã mất 9 năm về trước.  Mặc dù vô cùng đau khổ, Philomena vẫn quyết định gặp gỡ những người quen biết Michael. Họ đã đến thăm một người đồng nghiệp cũ của anh và biết được anh là một người đồng tính và chết vì AIDS. Sau đó là cuộc gặp gỡ với Mary, người cũng được nhận nuôi cùng thời điểm với Michael bởi một gia đình. Nhờ những cuộc gặp này, Philomena và Martin đã biết được người yêu của Michael là Pete Olssen. Sau khi liên tục từ chối nói chuyện với Martin, Pete đã đồng ý gặp Philomena khi thấy bà đứng trước cửa nhà mình. Pete mời Philomena vào nhà và cho bà xem cuốn băng tiểu sử của Michael, lúc này, bà vô cùng bất ngờ và xúc động khi biết rằng Michael luôn trăn trở về mẹ đẻ của mình, và đã nhiều lần ghé lại tu viện với mong muốn tìm được bà. Nhưng cũng như với Philomena, các sơ từ chối giúp đỡ Michael và nói rằng họ đã không còn liên lạc với bà. Philomena cũng biết được rằng Michael đã được chôn cất tại nghĩa trang tu viện, đúng với mong muốn cuối cùng của anh "được chôn cất tại nơi mình đã sinh ra". Câu chuyện kết thúc tại nơi nó bắt đầu: tu viện. Martin nổi giận trước sơ Hildegard, người trực tiếp ngăn cản 2 mẹ con Philomena gặp nhau. Bà sơ này không hề ăn năn, ngược lại cho rằng mất con trai là tội lỗi mà Philomena bị trừng phạt vì sự hoang đàng của mình. Martin cho rằng sơ Hildegard phải xin lỗi, nhưng Philomena đã tha thứ cho bà ta. Cuối phim, Philomena thăm mộ con trai, Martin bày tỏ rằng mình sẽ không xuất bản cuốn sách, nhưng Philomena khích lệ anh tiếp tục vì "mọi người nên biết những gì đã diễn ra tại đây" Dư luận. Phản hồi dư luận. Philomena nhận được nhiều phản hồi tích cực sau khi phát hành. Rotten Tomatoes đánh giá bộ phim 92% "tươi ngon" dựa trên 170 bài phê bình, với điểm trung bình 7.9/10. Trang web này cũng nhận định "Dựa trên một câu chuyện có thật đầy sức mạnh, được dẫn dắt bởi lối diễn xuất hoàn hảo của Judi Dench và Steve Coogan, Philomena là bộ phim sâu sắc dành cho người trưởng thành". Metacritic đánh giá bộ phim 76/100 dựa trên 41 bài phê bình.  Kelly Torrance của tờ Washington Times cho rằng bộ phim "căn bản là thất bại", rằng nhà làm phim đã không cưỡng nổi cám dỗ vào những thứ giáo điều. Justin Chang của Variety đánh giá bộ phim " tự mãn nhưng hợp thị hiếu đám đông". Tuy nhiên ông cũng thừa nhận diễn xuất của Dench "đẹp và chuẩn mực" Rex Reed tòa soạn The New York Observer đánh giá rất cao bộ phim và cho rằng đây là bộ phim hay nhất năm 2013 "Tinh tế và xuyên thấu, mặc dù vẫn là những chủ đề sâu sắc, tôi tin Philomena sẽ không để bạn thất vọng... Chắc tôi sẽ quên nhiều bộ phim trong năm 2013, nhưng sẽ không bao giờ quên Philomena" Sự chính xác lịch sử. Trong phim, các sơ đã bị buộc tội "gửi đứa trẻ cho một gia đình Mỹ sau lưng Philomena". Sự thực là Philomena Lee đã 22 tuổi khi bà tình nguyện ký vào biên bản từ bỏ quyền nuôi con. Cũng trong phim, hành trình tìm kiếm con trai của bà được khắc hoa tại Mỹ. Ngoài đời, Philomena chưa bao giờ tới Mỹ cho tới tháng 11 năm 2013 bà đến Los Angeles, California để xem bộ phim được khởi chiếu tại đây.  Doanh thu. Cho đến tháng 2 năm 2014, bộ phim đã đoạt doanh thu 37,336,379 $ tại thị trường Bắc Mỹ và 61,241,406 $ tại thị trường hải ngoại, nâng tổng doanh thu lên 98,577,785 $. Lịch sử. Bộ phim sáng tạo trên những sự kiện có thật. Sơ Hildegard McNulty, nhân vật phản diện trong phim, được mô tả đã gặp nhà bà Sixsmith sau khi anh bắt đầu viết câu chuyện. Thực sự, McNulty chết năm 1995 trong khi Sixsmith bắt đầu tìm kiếm vào năm 2004. Cảnh cuối khi McNulty ngồi trên xe lăn đối diện với Philomena cũng là chi tiết giàu tính điện ảnh được thêm vào.  Sixsmith bày tỏ rằng màn khắc họa của Coogan "đồng cảm với mọi bất công giữa các tầng lớp xã hội", và thể hiện sự ngưỡng mộ của mình cho Philomena, người đã có đủ sức mạnh để vượt lên trên mọi chuyện đó. Tuy nhiên, anh cũng khá giận dữ khi thấy phiên bản điện ảnh của mình giống một người theo thuyết bất khả tri hơn là một người vô thần. 
1
null
Syngnathia là một dị tật bẩm sinh khá hiếm gây ra sự dính chặt giữa hàm trên và hàm dưới bằng những sợi gân. Trẻ sơ sinh có bệnh này thường được giải phẫu ngay sau khi sinh. Các nhà nghiên cứu khoa học có tìm ra một số bằng chứng về sự tương tác giữa gen Foxc1 đột biến và gen Fgf8 gây ra sự phát triển không cân đối của bộ răng hàm mặt của thai nhi. Cũng có một vài bằng chứng cho rằng đột biến mất chức năng của Foxc1 gen cũng dẫn tới bệnh này.
1
null
Joseph Antoine Ferdinand Plateau (1801-1883) là nhà vật lý người Bỉ. Năm 1829, ông đã phát hiện ra rằng: Trong khoảng thời gian là 0,1 giây, mắt của con người chúng ta vẫn còn cảm giác nhìn thấy vật. Đó là vì sau khi ánh sáng kích thích trên màng lưới tắt, ảnh hưởng của nó vẫn còn được lưu lại trong khoảng thời gian đó. Như vậy, Plateau đã phát hiện ra hiện tượng lưu ảnh của mắt. Hiện tượng này rất có ứng dụng trong đời sống.
1
null
Hiện tượng lưu ảnh ở mắt (hay còn gọi là sự lưu ảnh ở mắt) là hiện tượng của mắt con người chúng ta khi nhìn một vật nào đó. Lịch sử phát hiện. Hiện tượng lưu ảnh ở mắt được nhà vật lý người Bỉ Joseph Plateau phát hiện ra vào năm 1829. Ông nhận thấy rằng trong tầm khoảng 0,1 giây, chúng ta vẫn có cảm giác rằng ta đã nhìn thấy vật. Ông đã giải thích rằng do màng lưới của mắt vẫn còn lưu giữ ảnh dù ánh sáng kích thích không còn nữa. Như vậy, Plateau đã phát hiện ra một hiện tượng thú vị của vật lý cũng như của sinh học. Ứng dụng. Hiện tượng lưu ảnh ở mắt rất có tác dụng trong điện ảnh. Cụ thể, khi chiếu phim, cứ sau 0,033 hay 0,04 giây, người ta lại chiếu một frame phim. Khi đó, do hiện tượng nói trên, người xem có cảm giác rằng quá trình trong phim đang diễn ra liên tục.
1
null
Edme Mariotte (1620-12 tháng 5 năm 1684)là nhà vật lý, linh mục người Pháp. Ông là người độc lập với Robert Boyle phát hiên ra mối quan hệ giữa thể tích và áp suất trong quá trình đẳng nhiệt. Nhưng ông phát hiện ra điều đó muộn hơn. Nếu Boyle phát hiện được điều đó vào năm 1669 thì Mariotte lại tìm ra điều đó vào năm 1676. Vì vậy, người ta gọi định luật biểu hiện mối quan hệ trên là định luật Boyle hay định luật Boyle-Mariotte.
1
null
Cunning Single Lady (; lit. "Sly/Cunning/Devious Woman Who's Single Again") là phim truyền hình Hàn Quốc hài hước lãng mạn năm 2014 với sự góp mặt của diễn viên Lee Min-jung và Joo Sang-wook trong vai cặp đôi vợ chồng ly hôn người thắp sáng lại tình cảm của họ. Phim được phát sóng trên MBC vào thứ tư và thứ năm lúc 21:55 gồm 16 tập bắt đầu từ 27 tháng 2 năm 2014. Nội dung. Na Ae-ra lớn lên và tin rằng cô sinh ra chỉ xinh đẹp chứ không thông minh. Trong khi làm việc trong nhà hàng của gia đình cô, cô có tình cảm với Cha Jung-woo, một người đam mê kỹ thuật lập trình tốt nghiệp khóa học để thi vào công chức. Cô ấy muốn trở thành nội trợ và anh ấy hứa rằng cô sẽ được toại nguyện, họ đã lấy nhau. Trong lần kỉ niệm 100 ngày cưới, Jung-woo công bố rằng anh sẽ nghỉ việc bởi vì anh có ý tưởng kinh doanh mới. Việc kinh doanh của Jung-woo thất bại và Ae-ra phải vật lộn bằng cách làm nhiều công việc. Sau nhũng biến cố bi thảm từ áp lực trụ cột gia đình duy nhất và sống trong sự nghèo khổ, Ae-ra ly dị Jung-woo sau bốn năm chung sống. Ba năm sau khi lị dị, Ae-ra phát hiện rằng Jung-woo trở nên thành công và giàu có, trong khi cô ấy vẫn trả nợ tích luỹ trong quá trình hôn nhân của họ. Hài kịch bắt đầu khi Ae-ra lên kế hoạch trả thù, trong khi Jung-woo tin rằng Ae-ra muốn anh quay trở lại bởi vì anh đang giàu có. Tỷ suất người xem. Ở bảng dưới đây, con số màu xanh biểu hiện lượt đánh giá thấp và con số màu đỏ biểu hiện đánh giá cao.
1
null
Châu Thị Kim Xuân, thường được biết đến với nghệ danh Kim Xuân (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1956), là một nữ diễn viên điện ảnh người Việt Nam. Bà đã được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm 2019. Tiểu sử. Kim Xuân sinh năm 1956 tại Sài Gòn. Là con gái của nghệ sĩ Hề Vui Tươi. Vì sở hữu nhan sắc xinh đẹp nên khi mới tròn 20, bà đã được tuyển chọn vào lớp diễn viên kịch. Đời tư. Bà và chồng quen biết nhau vào cuối những năm 70. Lúc này, cả hai đều đang theo học tại lớp văn nghệ quần chúng. Sau khoảng thời gian yêu nhau, cả hai đã đi đến kết hôn vào năm 1980. Đến năm 1984, bà sinh con đầu lòng, là ca sĩ Huy Luân. Sự nghiệp. Đầu thập niên 70, Kim Xuân được khán giả biết đến mình qua bộ phim điện ảnh "Loan mắt nhung", bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Thụy Long với sự tham gia của nghệ sĩ Thanh Nga. Đến năm 1978, bà được ra mắt lần đầu tiên trên sân khấu kịch khi diễn cho những thanh niên xung phong lên đường ra trận. Hoạt động tại đoàn kịch được một thời gian thì bà được lên hàng đào chánh. Thời gian này bà ít hoạt động nghệ thuật hơn để chăm sóc cho gia đình, bà cũng nhận làm thêm hài kịch cùng nghệ sĩ Bảo Quốc và Duy Phương để kiếm thêm thu nhập. Có giai đoạn khó khăn, bà từng phải đi trải sạp bán áo quần ngoài chợ, chia sẻ cùng chồng để trang trải cuộc sống. Năm 1989, Kim Xuân quay trở lại màn ảnh. Tham gia vào bộ phim "Người đi tìm vàng", bà nhận được nhiều lời khen ngợi và chú ý từ khán giả. Tiếp sau đó là những bộ phim như: "Ngọc trong đá (1990), Ngôi sao cô đơn (1991)"... Đây đều là những tác phẩm đáng nhớ trong suốt sự nghiệp của bà. Năm 1992, bà đoạt giải diễn viên phụ xuất sắc do Hội Điện ảnh TP.HCM trao tặng. Đến năm 1993 bà tiếp tục tham gia nhiều bộ phim như "Giọt lệ chưa khô, Vĩnh biệt mùa hè, Vị đắng tình yêu, Nước mắt học trò"...nhờ những vai diễn này mà Kim Xuân nhận được giải thưởng diễn viên phụ xuất sắc do "Tạp chí Điện ảnh" bình chọn. Năm 1994, Kim Xuân bắt đầu chuyển hướng sang dòng phim truyền hình. Bộ phim đầu tiên mà bà tham gia có tên "Cánh chim mặt trời". Cũng trong năm này, bà tham gia thêm hai bộ phim khác là "Xương rồng đen" và "Cổ tích Việt Nam: Người hóa dế". Sau đó bà cũng rất tích cực hoạt động nghệ thuật khi tham gia các bộ phim như "Đồng tiền nhân nghĩa" (1995), "Giữa dòng" (1995), "Lời thề" (1996) và "Người đẹp Tây Đô" (1996): bộ phim đình đám của Việt Trinh. Đến năm 1997, bà đoạt được giải Mai Vàng nhờ vai diễn trong vở kịch "Mênh mông tình mẹ". Đưa bà trở thành diễn viên kì cựu có thể thành công ở ba lĩnh vực: Điện ảnh, Truyền hình, và Sân khấu kịch. Năm 1997, bà tham gia Sân khấu kịch Idecaf. Trong những năm qua, bà xuất hiện nhiều trên sân khấu, phim ảnh, truyền hình. Bà tham gia đủ thể loại với sự đa dạng trong tính cách từ vai chính, vai phụ, thậm chí vai rất phụ với nhiều độ tuổi khác nhau. Bà còn là giám khảo thường trực của Giải thưởng Ngôi Sao Xanh. Với những đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (2001) và nghệ sĩ nhân dân (2019) ở lĩnh vực Điện ảnh. Danh sách kịch. Tiêu biểu:
1
null
Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 1962 được tổ chức tại Jakarta, Indonesia từ 25 tháng 8 đến 4 tháng 9 năm 1962. Bốc thăm. Bốc thăm dành cho bóng đá được tổ chức vào 14 tháng 8 năm 1962. Myanmar rút lui và chính phủ Indonesia từ chối cấp thị thực cho các Đoàn đại biểu Israel và Đài Loan. Bốc thăm diễn ra vào 24 tháng 8 năm 1962. Đội. Bảng A - Indonesia - Việt Nam Cộng hòa - Malaysia - Philippines Bảng B - Thái Lan - Nhật Bản - Ấn Độ - Hàn Quốc ■ Chú thích: Theo một số tư liệu tham khảo từ Indonesia chỉ có 4 đội đá với nhau bằng cách bốc thăm (Ấn Độ, Hàn Quốc, Malaysia, Việt Nam Cộng hòa).
1
null
Loạt danh sách 100 năm... của Viện phim Mỹ là tập hợp các danh sách và các chương trình truyền hình đi kèm của đài CBS, trong đó Viện phim Mỹ vinh danh 100 năm các tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất của điện ảnh Hoa Kỳ. Các danh sách bao gồm:
1
null
Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ – phiên bản kỷ niệm 10 năm là phiên bản cập nhật năm 2007 của Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ. Danh sách đầu tiên ra mắt công chúng vào năm 1998. Phát sóng. Được công bố vào ngày 18 tháng 1 năm 2007, danh sách thứ mười của loạt danh sách 100 năm... của Viện phim Mỹ (AFI) tuyển chọn 100 tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại của Hoa Kỳ trong một chương trình truyền hình dài ba tiếng. Phát sóng vào ngày 20 tháng 6 năm 2007 trên đài CBS, người dẫn chương trình của sự kiện này là nam diễn viên từng giành giải Oscar Morgan Freeman. Chương trình ngoài ra còn có phần bình luận về các bộ phim kinh điển và các tác phẩm điện ảnh mới xuất sắc phát hành trong khoảng từ năm 1997 đến 2005. Cập nhật. Viện phim Mỹ sẽ tiếp tục ra mắt các phiên bản tiếp theo của danh sách này mười năm một lần để bổ sung các phim mới ra mắt có thể được xem là xuất sắc nhất. Tiêu chuẩn bình chọn. Viện phim Mỹ yêu cầu hội đồng bình chọn cân nhắc các tiêu chuẩn sau trong quá trình bầu chọn: Danh sách. Các phim bị loại khỏi danh sách. Các phim sau đã từng xuất hiện trong danh sách năm 1998 nhưng bị loại khỏi danh sách năm 2007:
1
null
HMS "Punjabi" (L21/F21) là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo người Punjab, một dân tộc sống tại khu vực Punjab giáp ranh giữa Ấn Độ và Pakistan. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II cho đến khi bị đắm do va chạm với thiết giáp hạm vào tháng 5 năm 1942. Thiết kế và chế tạo. "Punjabi" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Scotts Shipbuilding and Engineering Company ở Greenock, Scotland vào ngày 19 tháng 6 năm 1936 trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1935. Nó được đặt lườn vào ngày 1 tháng 10 năm 1936, và được hạ thủy vào ngày 18 tháng 12 năm 1937. "Punjabi" được hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 23 tháng 3 năm 1939 với chi phí 343.005 Bảng Anh, không tính đến vũ khí và thiết bị thông tin liên lạc do Bộ Hải quân Anh cung cấp. Lịch sử hoạt động. Trước chiến tranh. "Punjabi" được phân về Chi hạm đội Khu trục Tribal 2 thuộc Hạm đội Nhà, vốn được đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 6 vào tháng 4 năm 1939. Đang khi trong giai đoạn chạy thử máy, nó được huy động vào việc truy tìm và cứu giúp cho chiếc tàu ngầm vốn bị đắm trong vịnh Liverpool. Sau đó nó tham gia cùng Hạm đội Nhà trong các cuộc thực tập. Vùng biển nhà. Khi chiến tranh nổ ra vào tháng 9 năm 1939, "Punjabi" cùng chi hạm đội được bố trí vào các nhiệm vụ của Hạm đội Nhà, bao gồm tuần tra chống tàu ngầm và bảo vệ các đoàn tàu vận tải tại Khu vực tiếp cận phía Tây và Bắc Hải. Vào tháng 10, nó tham gia một nỗ lực không thành công để cứu hộ một thủy phi cơ Đức bị rơi. Vào ngày 2 tháng 12, nó bị hư hại cấu trúc mũi tàu do va chạm với chiếc tàu buôn SS "Lairdscrest" về phía Nam đảo Holy. Nó được sửa chữa tại xưởng tàu của hãng Alexander Stephen and Sons tại Govan từ ngày 15 tháng 12 đến cuối tháng 2 năm 1940, khi nó gia nhập trở lại chi hạm đội và đặt căn cứ tại Scapa Flow cho các nhiệm vụ tuần tra và hộ tống. Vào tháng 4, "Punjabi" tham gia một số cuộc điều động lực lượng của Hạm đội Nhà để truy tìm các tàu chiến Đức tại Bắc Hải và ngoài khơi bờ biển Na Uy. Vào ngày 8 tháng 4, nó hộ tống các thiết giáp hạm đi đến trợ giúp cho tàu khu trục vốn đang bị chiếc tàu tuần dương "Admiral Hipper" Đức tấn công. "Glowworm" cuối cùng đã húc vào "Admiral Hipper" trước khi bị đắm. "Punjabi" sau đó được bố trí ngoài khơi Narvik như lực lượng bảo vệ cho các hoạt động trong Trận Narvik thứ hai. Vào ngày 13 tháng 4, nó đụng độ với một số tàu khu trục Đức, bị bắn trúng sáu lần và bị loại khỏi vòng chiến trong vòng một giờ trước khi có thể tiếp tục hoạt động. Nó được sửa chữ tạm thời tại Skelfjord trước khi có thể quay trở lại xưởng tàu Devonport để được sửa chữa thêm. Khẩu pháo ở vị trí "X" của nó được thay thế bằng một khẩu pháo nòng đôi phòng không. Khi quay trở lại hoạt động vào tháng 6, "Punjabi" đặt căn cứ tại Plymouth. Vào ngày 17 tháng 6, nó tham gia triệt thoái binh lính Đồng Minh và thường dân khỏi Saint-Nazaire, rồi quay trở lại đó vào ngày 20 tháng 6 để triệt thoái binh lính Ba Lan. Đến ngày 9 tháng 8, nó được bố trí cùng các tàu khu trục thuộc Hạm đội Nhà trong việc hộ tống các tàu chiến chủ lực của Lực lượng H từ Gibraltar. Sang tháng 9, nó hộ tống cho các đoàn tàu vận tải quân sự tham gia Chiến dịch Menace, cuộc tấn công lên Dakar trên đường đi qua Khu vực Tiếp cận Tây Bắc. Nó cũng hộ tống cho chiếc tàu tuần dương quay trở về Anh sau khi chiếc này trúng ngư lôi và bị hư hại ngoài khơi Hebrides. Trong thời gian còn lại của năm, nó hoạt động cùng chi hạm đội. Vào tháng 2 năm 1941, "Punjabi" cùng chi hạm đội quay trở lại Scapa Flow trước khi nó được tái trang bị tại Rosyth trong tháng 3 và tháng 4. Công việc bao gồm bổ sung một dàn radar kiểu AVS của Không quân Hoàng gia Anh được cải biến để trang bị trên tàu. Vào cuối tháng 5, nó ở trong thành phần hộ tống cho các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Nhà trong việc săn đuổi chiếc thiết giáp hạm Đức "Bismarck" sau vụ đánh chìm chiếc tàu chiến-tuần dương . Vào ngày 27 tháng 7, nó cùng với tàu chị em hộ tống cho các tàu tuần dương và trong việc khảo sát khả năng sử dụng Spitsbergen như một căn cứ tiếp nhiên liệu cho các tàu hộ tống bảo vệ các đoàn tàu vận tải Bắc Cực đi sang Nga. Biển Bắc Cực. Vào ngày 1 tháng 8, "Punjabi" và "Tartar" cho triệt thoái thường dân Na Uy khỏi đảo Bear rồi thực hiện một cuộc càn quét ngoài khơi bờ biển Na Uy trước khi quay trở về Scapa Flow. Đến ngày 30 tháng 8, "Punjabi", và hộ tống cho tàu sân bay và tàu tuần dương trong một chiến dịch nhằm cung cấp cho Liên Xô máy bay tiêm kích Hawker Hurricane và nhân sự Không quân Hoàng gia. Sau đó nó tiếp tục các nhiệm vụ thường lệ của chi hạm đội trước khi bắt đầu một đợt tái trang bị vào tháng 12, tại xưởng tàu của hãng Hawthorn Leslie and Company ở Newcastle upon Tyne. Công việc kéo dài cho đến cuối tháng 1 năm 1942, bao gồm việc sửa chữa những hư hại cấu trúc và động cơ do áp lực nặng khi di chuyển tốc độ cao lúc thời tiết xấu. Vào tháng 3 năm 1942, "Punjabi" tham gia cùng các đơn vị khác của Hạm đội Nhà trong việc bảo vệ cho Đoàn tàu PQ-12 đi sang Nga và Đoàn tàu QP-8 quay trở về. Vào lúc này, người ta tin rằng chiếc thiết giáp hạm Đức "Tirpitz" đã ra khơi để đánh chặn các đoàn tàu vận tải. "Punjabi" là một trong số các tàu được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho việc truy tìm đối phương, trong thực ra "Tirpitz" đã quay trở về cảng. Nó được cho tách khỏi nhiệm vụ truy tìm vào ngày 11 tháng 3 để quay trở về Scapa Flow sau khi gặp trục trặc bánh lái. Đến tháng 4, nó hộ tống cho Đoàn tàu PQ-10 quay trở về. Vào ngày 12 tháng 4, nó bị tàu ngầm U-boat "U-453" tấn công nhưng bất thành. Nó hộ tống Đoàn tàu PQ-10 đi đến Iceland, và được cho tách ra khỏi nhiệm vụ sau khi đoàn tàu đến nơi vào ngày 21 tháng 4. Bị đắm. Vào ngày 26 tháng 4, "Punjabi" được bố trí trong thành phần hộ tống bảo vệ từ xa cho Đoàn tàu PQ-15; chúng khởi hành từ Hvalfjörður vào ngày 29 tháng 4. Đến ngày 1 tháng 5, nó bị thiết giáp hạm đâm trúng trong hoàn cảnh thời tiết sương mù dày đặc. "Punjabi" bị mũi chiếc thiết giáp hạm cắt làm đôi; 169 người trong số thủy thủ đoàn được cứu vớt từ phần phía trước của con tàu, và thêm 40 người khác được vớt từ mặt nước bởi các tàu hộ tống khác, bao gồm chiếc . Các thủy thủ ở phần phía sau của con tàu vốn bị chìm rất nhanh đã thiệt mạng khi các quả mìn sâu của nó phát nổ. 49 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng trong tai nạn này. Nó đắm ở tọa độ , trực tiếp ngay trên đường đi của chiếc thiết giáp hạm Hải quân , vốn phải đi qua giữa hai phần của chiếc tàu khu trục đang chìm. "Washington" bị hư hại nhẹ do việc phát nổ các quả mìn sâu, trong khi "King George V" bị hư hại nặng mũi tàu, và bị buộc phải quay trở lại cảng để sửa chữa.
1
null
HMS "Zulu" (L18/F18) là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II cho đến khi bị máy bay của Hải quân Ý đánh chìm sau cuộc đột kích đến Tobruk vào ngày 14 tháng 9 năm 1942. Thiết kế và chế tạo. "Zulu" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Alexander Stephen and Sons ở Glasgow, Scotland trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1935. Nó được đặt lườn vào ngày 10 tháng 8 năm 1936, được hạ thủy vào ngày 23 tháng 9 năm 1937, và được nhập biên chế vào ngày 7 tháng 9 năm 1938. Lịch sử hoạt động. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1942, "Zulu" cùng với , và đã đánh chìm tàu ngầm U-boat Đức "U-372" ngoài khơi Haifa. Vào ngày 14 tháng 9 năm 1942, tàu tuần dương hạng nhẹ , "Zulu" và "Sikh" tham gia vào Chiến dịch Agreement, một cuộc đổ bộ lực lượng đột kích comandos lên Tobruk do phe Trục chiếm giữ. Pháo phòng thủ duyên hải đối phương đã bắn trúng "Sikh" và nó bắt đầu chìm. Hạm trưởng của "Zulu", Trung tá Hải quân Richard Taylor White, đã cơ động con tàu để né tránh đồng thời tìm cách cứu hộ con tàu chị em, nối được một dây cáp và tìm cách kéo "Sikh" ra khỏi vùng nguy hiểm. "Sikh" cuối cùng bị đắm, nhưng "Zulu" cứu vớt được một số người sống sót. "Coventry" cũng bị hư hại do không kích bởi máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87, và buộc phải bỏ lại khi bị "Zulu" đánh đắm. Sau cùng "Zulu" trúng bom ném từ những máy bay tiêm kích Macchi C.200 "Saetta" của Không quân Ý (Regia Aeronautica), và đắm ở tọa độ vào ngày hôm sau.
1
null
HMS "Tartar" (L43/F43) là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, được gán biệt danh "Lucky Tartar" do nhiều lần thoát khỏi những tình huống nguy hiểm trong chiến tranh, và là một trong số chỉ có bốn chiếc trong tổng số 16 tàu khu trục lớp Tribal của Hải quân Hoàng gia sống sót qua cuộc xung đột. Thiết kế và chế tạo. "Tartar" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Swan Hunter & Wigham Richardson Ltd. ở Wallsend, Tyne and Wear vào ngày 12 tháng 6 năm 1936 trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1935. Nó được đặt lườn vào ngày 26 tháng 8 năm 1936 và được hạ thủy vào ngày 21 tháng 10 năm 1937, được trang bị để phục vụ như một soái hạm khu trục. Thoạt tiên mang ký hiệu lườn L43, nó được đổi thành F43 trước khi hoàn tất. "Tartar" được hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 10 tháng 3 năm 1939. Lịch sử hoạt động. Trước chiến tranh. Khi được đưa vào hoạt động, "Tartar" gia nhập Chi hạm đội Khu trục Tribal 2 trực thuộc Hạm đội Nhà, vốn được đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 6 vào tháng 4 năm 1939. Công việc chạy thử máy và huấn luyện của nó bị ngắt quãng do việc chiếc tàu ngầm bị đắm trong vịnh Liverpool vào ngày 1 tháng 6 năm 1939, và "Tartar" nằm trong số các tàu của Hạm đội Nhà được gửi đến hiện trường tai nạn để giúp vào việc tìm kiếm và cứu nạn. Nó đã phục vụ như sở chỉ huy của hoạt động cứu hộ. Các hoạt động thực tập tiếp theo đã bộc lộ một số khiếm khuyết, nên "Tartar" được sửa chữa tại xưởng tàu Devonport cho đến cuối tháng 7 năm 1939, và sau đó gia nhập Hạm đội Nhà tại Scapa Flow. Vùng biển nhà – Bắc Hải. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, "Tartar" thực hiện một số hoạt động của chi hạm đội, bao gồm việc bảo vệ các tàu chiến chủ lực, ngăn chặn các tàu vượt phong tỏa và tàu cướp tàu buôn đối phương, cũng như tuần tra chống tàu ngầm. Vào ngày 24 tháng 11, nó được bố trí cùng các tàu chiến khác của Hạm đội Nhà trong việc truy tìm các thiết giáp hạm hạng nhẹ Đức "Scharnhorst" và "Gneisenau" sau vụ đánh chìm chiếc . Vào tháng 12, nó bị rò rỉ nghiêm trọng do di chuyển với tốc độ cao trong lúc thời tiết xấu. Đây là một khiếm khuyết chung cho các tàu khu trục lớp Tribal, và "Tartar" được sửa chữa tại xưởng tàu của hãng Alexander Stephen and Sons ở Govan trên sông Clyde cho đến ngày 29 tháng 12. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1940, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi và về từ Na Uy cũng như bảo vệ các đơn vị của hạm đội. Vào tháng 3, nó cùng tàu chị em hộ tống cho chiếc băng qua Khu vực Tiếp cận phía Tây trong chuyến hải hành đầu tiên, trước khi được chuyển đến Rosyth để làm nhiệm vụ hộ tống vận tải. Trong tháng 4, "Tartar" đã hộ tống các đoàn tàu vận tải HN-24 và HN-25, xen kẻ với những lượt cho tách ra để truy tìm tàu chiến Đức hoạt động tại Bắc Hải. Sau đó nó hỗ trợ cho các hoạt động của quân Đồng Minh ngoài khơi Na Uy, bao gồm việc hộ tống cho chiếc tàu tuần dương bị hư hại và bảo vệ cho cuộc triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi Åndalsnes và Molde. Nó tiếp tục hoạt động ngoài khơi Na Uy cho đến cuối tháng 5, khi nó quay về Scapa Flow. Nó quay trở lại Bắc Hải vào đầu tháng 6, hộ tống cho tàu sân bay và thiết giáp hạm . Nó cũng hộ tống một số đoàn tàu vận tải triệt thoái của Đồng Minh, và tiến hành một cuộc truy tìm bất thành các thiết giáp hạm "Scharnhorst" và "Gneisenau" đối phương sau việc đánh chìm tàu sân bay đang trên đường từ Na Uy quay trở về Anh. "Tartar" sau đó làm nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm cùng các tàu chị em và . Vào ngày 19 tháng 6, nó cứu vớt những người sống sót từ một tàu buôn Bồ Đào Nha bị trúng ngư lôi, vào ngày 20 tháng 6 đã cùng với "Mashona" chiếm quyền kiểm soát các tàu khu trục Thụy Điển HSwMS "Romulus" và HSwMS "Remus". Sau các cuộc thương lượng ngoại giao căng thẳng, chúng cuối cùng được trao trả cho Thụy Điển. Cùng lúc đó, "Tartar" trở thành soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 6 khi chiếc tàu chị em được sửa chữa. Bản thân "Tartar" cũng cần được sửa chữa vào giữa tháng 7 sau khi bị hư hại bánh lái. Vào ngày 8 tháng 8, "Tartar" được tạm thời điều động sang Lực lượng H với nhiệm vụ hộ tống cho các con tàu đang hướng sang Gibraltar. Vào ngày 5 tháng 9, nó bảo vệ cho các tàu rải mìn thuộc Hải đội Rải mìn một trong các hoạt động rải mìn ở phía Bắc. Một đợt tái trang bị được tiếp nối tại Devonport vào tháng 10, bao gồm việc sửa chữa những rò rỉ nước nạp nồi hơi và thay thế tháp pháo tại vị trí "X" bằng một khẩu đội nòng đôi góc cao để cải thiện hỏa lực phòng không. Công việc kéo dài cho đến tháng 12, khi nó quay trở lại Scapa Flow trong vai trò soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 4. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1941, "Tartar" đã bảo vệ cho một số hoạt động rải mìn tại Bắc Hải. Vào ngày 1 tháng 3, nó là một trong những tàu khu trục hộ tống cho các tàu đổ bộ trong Chiến dịch Claymore lên quần đảo Lofoten, rồi hỗ trợ cho các hoạt động đổ bộ đột kích tại đây. Vào ngày 3 tháng 3, nó đánh chìm chiếc tàu buôn Đức ở tọa độ . Đang khi thực hiện nhiệm vụ này vào ngày 4 tháng 3, nó đã ngăn chặn chiếc tàu đánh cá vũ trang Đức "Krebbs" và chiếm giữ nó cùng toàn bộ thủy thủ đoàn. Họ tịch thu được một máy mật mã Enigma cùng các tài liệu hỗ trợ, và sau đó chuyển giao đến Bletchley Park để hỗ trợ cho các hoạt động giải mã đối phương. Sang tháng 5, "Tartar" được điều sang nhiệm vụ bảo vệ các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương, và đã hiện diện vào lúc đánh chìm thiết giáp hạm Đức "Bismarck". Sau đó vào ngày 28 tháng 5, "Tartar" đang quay trở về Scapa Flow cùng với "Mashona" khi chúng chịu đựng một cuộc không kích ác liệt về phía Tây Ireland. Báo cáo tác chiến của "Tartar" ghi lại: "...Tất cả các máy bay tấn công được tin là những chiếc Heinkel He-111. Thỉnh thoảng một chiếc F.W. Condor dõi theo từ phía đuôi. Ước lượng có khoảng 50 máy bay đã tham gia các cuộc tấn công trong suốt 13 giờ..." "Mashona" bị trúng bom và bị hư hại nặng, và cuối cùng bị lật úp, nhưng "Tartar" cũng đáp trả khi bắn rơi một máy bay ném bom He-111. "Tartar" đã cứu vớt được 14 sĩ quan cùng 215 thủy thủ của chiếc tàu chị em, và chuyển họ đến Greenock. Trong trận chiến này ""Tartar" đã sử dụng đồng hồ định thời kíp nổ để ngắm các khẩu pháo 4,7 inch của nó, và sử dụng hầu hết tất cả các vũ khí; pháo 4,7 inch từ hệ thống điều khiển hỏa lực trong khi pháo 4 inch và vũ khí tầm gần được ngắm độc lập. Tổng cộng con tàu đã sử dụng 290 quả đạn pháo 4,7 inch, 255 quả đạn 4 inch, 1000 quả pháo "pom-pom" và 750 đạn súng máy.5 inch…" Biển Bắc Cực. "Tartar" tiếp nối các nhiệm vụ cùng Hạm đội Nhà vào tháng 6, khi nó được phối thuộc vào một lực lượng nhỏ với mục tiêu truy lùng các tàu khảo sát thời tiết Đức để chiếm giữ máy mật mã Enigma cùng các tài liệu liên quan. Vào ngày 26 tháng 6, nó hộ tống cho tàu tuần dương cùng tàu khu trục HMS "Bedouin" khởi hành từ Scapa Flow để đi đến vùng biển ngoài khơi đảo Jan Mayen. Vào ngày 28 tháng 6, lực lượng đặc nhiệm phát hiện chiếc tàu khảo sát thời tiết "Lauenburg", và một đội đổ bộ của "Tartar" đã chiếm quyền kiểm soát con tàu, thu được những tài liệu quan trọng. "Tartar" sau đó đánh chìm "Lauenburg" bằng hải pháo. Vào ngày 27 tháng 7, nó tiến hành trinh sát Spitsbergen để xem xét khả năng sử dụng hòn đảo này như một căn cứ tiếp nhiên liệu cho các đoàn tàu vận tải đi sang Liên Xô. "Tartar" tiếp tục các hoạt động tại biển Bắc Cực trong suốt tháng 8. Vào ngày 2 tháng 8, nó phá hủy trạm thời tiết trên đảo Bear và di tản thường dân Nga từ đảo này đến Murmansk. "Tartar" đã tháp tùng tàu khu trục khi chiếc này đưa Vua George VI đến Scapa Flow. Vào ngày 17 tháng 8, nó hộ tống thiết giáp hạm đưa Thủ tướng Winston Churchill quay trở về sau cuộc Hội nghị Hiến chương Đại Tây Dương cùng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt. Không lâu sau đó, HMS "Prince of Wales" vượt qua một đoàn tàu vận tải hướng sang phía Đông gồm 73 chiếc, nó quay lại và băng qua đoàn tàu một lần nữa để Thủ tướng và các tàu buôn có thể chào đón lẫn nhau. Khi "Prince of Wales" về đến River Clyde, "Tartar" đón thủ tướng để đưa ông đến Greenock trong hành trình quay trở về London. Vào ngày 20 tháng 8, hộ tống cho các chiếc và RFA "Oligarch" đi đến Spitsbergen thiết lập một cứ điểm đồn trú. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nó tiếp tục hộ tống "Empress of Australia" đi đến Murmansk, chuyên chở những công dân Liên Xô và Na Uy ở đảo này. Sau đó chiếc tàu khu trục được đại tu và tái trang bị bởi hãng Green and Silley Weir, Royal Albert Dock, London, kéo dài từ tháng 9 đến giữa tháng 10. Công việc bao gồm dỡ cột ăn-ten chính nguyên thủy để cải thiện góc bắn hỏa lực phòng không, cắt ngắn ống khói phía sau, bố trí lại các vị trí thả mìn sâu và trang bị radar Kiểu 285 điều khiển hỏa lực dàn pháo chính. Nó quay trở về Scapa Flow sau khi hoàn tất việc đại tu, và trở thành soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 6. "Tartar" trải qua tháng 1 và tháng 2 năm 1942 hộ tống một loạt các đoàn tàu vận tải đi sang Nga, bao gồm PQ-7B, QP-5, PQ-12, PQ-13 và QP-9. Vào ngày 8 tháng 3, nó hộ tống các đơn vị thuộc Hạm đội Nhà trong một chiến dịch truy tìm không thành công thiết giáp hạm Đức "Tirpitz". Trong các hoạt động này, nó chịu đựng những hư hại ở tháp pháo phía trước do hoạt động ở tốc độ cao trong hoàn cảnh thời tiết xấu. Đến cuối tháng, nó đi đến Hull và được sửa chữa tại xưởng tàu của hãng Brigham and Cowan cho đến cuối tháng 6. Địa Trung Hải. Vào tháng 8, "Tartar" được điều động hỗ trợ các chiến dịch của Hải quân Hoàng gia tại Địa Trung Hải. Nó tham gia Chiến dịch Pedestal trong thành phần hộ tống; khi đoàn tàu vận tải chịu đựng các cuộc tấn công từ trên không và của tàu ngầm từ ngày 11 tháng 8, sau khi họ bị tàu ngầm Ý "Uarsciek" phát hiện. Vào ngày 12 tháng 8, "Tartar" tiến hành tấn công bằng mìn sâu để đánh đuổi tàu ngầm Ý "Granito", rồi cùng với chiếc đánh đuổi tàu ngầm Ý "Emo". Sau khi chiếc bị hư hại trong một cuộc không kích, "Tartar" đã tìm cách kéo nó quay trở lại Gibraltar. Trên đường đi, họ là mục tiêu của một cuộc tấn công bất thành bởi tàu ngầm Đức "U-73" vào ngày 13 tháng 8. Sau cuộc tấn công, và sau khi nhận thấy những nỗ lực nhằm cứu con tàu bị hư hại đã tỏ ra vô vọng, "Tartar" đã đón những thành viên của "Foresight" lên tàu, rồi phóng ngư lôi đánh đắm nó. Sau khi Chiến dịch Pedestal kết thúc, "Tartar" lên đường quay trở về để gia nhập trở lại Hạm đội Nhà tại Scapa Flow. Khi quay trở về vào tháng 9, "Tartar" hình thành nên lực lượng hộ tống cho Đoàn tàu PQ-18 rồi cho Đoàn tàu QP-14. Vào tháng 10, nó quay trở lại khu vực Địa Trung Hải tham gia Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Bắc Phi. Trong đợt bố trí này, từ ngày 8 đến ngày 30 tháng 11, nó đã hộ tống các đơn vị hạm đội và đoàn tàu vận tải cũng như tuần tra chống tàu ngầm. Nó sau đó được điều về Lực lượng Q tại Algiers, nơi nó được phân công đáng chặn các đoàn tàu vận tải tiếp liệu đối phương và hộ tống các đoàn tàu của Đồng Minh. Nó làm nhiệm vụ này cho đến tháng 2 năm 1943, cho dù phải chịu đựng nhiều cuộc tấn công của đối phương. Vào ngày 28 tháng 4, nó tấn công các tàu phóng lôi E-boat đối phương gần Marrettimo, Algérie, vào ngày 7 tháng 5, nó được bố trí cùng các tàu khu trục khác của Hạm đội Địa Trung Hải phong tỏa khu vực mũi Bon để ngăn chặn các tàu vận chuyển tìm cách triệt thoái binh lính đối phương khỏi Tunisia. Sang tháng 6, "Tartar" hỗ trợ các hoạt động ngoài khơi Pantellaria, vào tháng 7 đã hộ tống các đoàn tàu vận tải trong khuôn khổ Chiến dịch Husky, cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Sicily. Vào ngày 11 tháng 7, nó cứu vớt khoảng 200 người sống sót từ chiếc tàu bệnh viện , vốn bị các cuộc không kích của Đức đánh chìm ngoài khơi bãi đổ bộ. Sang ngày 12 tháng 7, nó đánh đắm chiếc tàu chở đạn dược "Baarn", vốn bốc cháy sau khi bị hư hại do không kích. Một ngày sau, nó kéo tàu khu trục quay trở lại Malta, sau khi "Eskimo" bị hư hại do không kích. Trong tháng 8, nó hỗ trợ cho việc Đồng Minh chiếm đóng Ý qua việc bảo vệ cho cuộc đổ bộ lên Calabria, và sau đó là cuộc đổ bộ lên Salerno. Vào ngày 19 tháng 9, nó bắn pháo chống trả một cuộc phản công của quân Đức, và sau đó chịu đựng cuộc tấn công của bom lượn điều khiển bằng vô tuyến. Nó quay trở về Anh vào cuối tháng 10, trải qua những tháng cuối năm 1943 và cho đến tháng 1 và tháng 2 năm 1944 được tái trang bị tại Devonport. Vùng biển nhà – Đổ bộ Normandy. Trong tháng 3 và tháng 4, "Tartar" đảm nhiệm vai trò soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 10 trực thuộc Bộ tư lệnh Plymouth, thực hiện các chuyến tuần tra chống tàu bè dọc bờ biển nước Pháp, cũng như hộ tống các tàu bè Đồng Minh vượt eo biển Manche. Trong tháng 5, nó cùng hộ tống cho chiếc trong các hoạt động rải mìn ngoài khơi bờ biển Pháp nhằm chuẩn bị cho cuộc Đổ bộ Normandy. Vào ngày 6 tháng 6, nó dẫn đầu Chi hạm đội Khu trục 10 đi vào eo biển Manche để ngăn chặn những ý định của Hải quân Đức can thiệp vào cuộc đổ bộ và việc di chuyển của các đoàn tàu trong Chiến dịch Neptune. Vào ngày 9 tháng 6, "Tartar" cùng Chi hạm đội Khu trục 10 có mặt trong Trận Ushant chống lại các tàu chiến Đức. Cho dù các tàu khu trục Đức "ZH1" và "Z32" bị đánh chìm, nó cũng bị hư hại do hỏa lực bắn trả. Cầu tàu bị bắn trúng và bốc cháy, cột ăn-ten chính bị gảy qua mạn và mọi thông tin liên lạc và radar bị cắt đứt; bốn người đã thiệt mạng và 12 người khác bị thương trong đó có Trung tá Jones. Con tàu quay trở về Devonport trong một thời gian ngắn để sửa chữa tạm thời, trước khi quay trở lại hoạt động tại khu vực eo biển. Vào ngày 7 tháng 7, nó đánh chặn và đối đầu các tàu quét mìn thuộc Chi hạm đội 46 Đức ngoài khơi quần đảo Channel, đánh chìm các tàu quét mìn M4601 và M4605. Sang ngày 6 tháng 8, "Tartar", HMS "Bellona", , HMCS "Haida" và HMCS "Iroquois" tấn công một đoàn tàu ngoài khơi Saint-Nazaire, đánh chìm các tàu quét mìn M263 và M486, tàu tuần tra "V414" và một tàu đổ bộ duyên hải cùng bốn tàu nhỏ. Viễn Đông. "Tartar" trải qua một đợt tái trang bị khác từ tháng 11 năm 1944 cho đến tháng 2 năm 1945, rồi được điều động sang phục vụ cùng Hạm đội Đông. Trong tháng 3, nó bảo vệ cho nhiều tàu sân bay hộ tống đi Gibraltar, rồi tiến hành các đợt thực tập tại Địa Trung Hải trước khi khởi hành đi Trincomalee thuộc Ceylon, đến nơi vào ngày 20 tháng 4. Thoạt tiên nó được phân về Chi hạm đội Khu trục 10, trong thành phần hộ tống các tàu chiến tham gia cuộc càn quét khu vực quần đảo Adaman và Nicobar; rồi sau đó nó tham gia bắn phá Car Nicobar và Port Blair, cũng như hỗ trợ cho Chiến dịch Dracula, cuộc đổ bộ lên Rangoon thuộc Miến Điện. Các hoạt động khác bao gồm hộ tống, tấn công tàu bè đối phương; diễn ra thường xuyên dưới các cuộc không kích của đối phương, nhưng chiếc tàu khu trục đã không chịu thiệt hại hay thương vong. Nó sau đó được đề cử để tham gia Chiến dịch Zipper, nhưng đã không được thực hiện, và hoạt động cho đến khi xung đột kết thúc. Nó hiện diện trong vịnh Tokyo vào lúc văn kiện đánh dấu Nhật Bản đầu hàng được ký kết trên thiết giáp hạm Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Sau chiến tranh. Khi chiến tranh kết thúc, "Tartar" lên đường đi Penang vào ngày 7 tháng 9, rồi tiếp tục hành trình quay trở về Anh, về đến Plymouth vào ngày 17 tháng 11. Nó được đưa về lực lượng dự bị vào đầu năm 1946, sử dụng như tàu nghỉ ngơi cho nhân sự Hạm đội Dự bị trước khi được đưa vào danh sách loại bỏ vào năm 1947. Nó được bán cho hãng BISCO vào ngày 6 tháng 1 năm 1948 để tháo dỡ, và được kéo đến xưởng tàu J Cashmere tại Newport, South Wales để tháo dỡ vào ngày 22 tháng 2.
1
null
Edessa (; , , , ) là một thành phố cổ ở vùng Thượng Lưỡng Hà, do Seleukos I Nikator tái lập khoảng năm 302 TCN trên một khu dân cư đã có trước đó. Thành phố này còn được gọi là "Antiochia bên sông Callirhoe" từ thế kỷ 2 TCN. Đây cũng là kinh đô của vương quốc bán tự trị Osroene từ kh. 132 TCN, trước khi trực thuộc Đế quốc La Mã vào kh. 242 CN. Edessa là một trung tâm quan trọng của Kitô giáo Syriac thời sơ khởi. Tên gọi thời nay của thành phố là Urfa, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
1
null
Kongos là một ban nhạc alternative rock Nam Phi bao gồm bốn anh em: Johnny, Jesse, Dylan và Daniel Kongos. Tuổi thơ của họ ở thành phố London và Nam Phi. Họ sáng tác, thu âm và biểu diễn tại Phoenix, Arizona. Bốn người họ là con trai của John Kongos. Họ gốc Hy Lạp và đã học ở trường Greek Saheti ở Gauteng, Nam Phi.
1
null
Khí khổng, đôi khi cũng được gọi là khí khẩu hay lỗ thở, là một loại tế bào quan trọng của thực vật (chỉ có ở thực vật trên cạn, không có ở thực vật thủy sinh). Khí khổng có ở rất nhiều loài thực vật, đặc biệt là những cây sống ở vùng có khí hậu, thời tiết thuận lợi như ở vùng nhiệt đới. Nơi tồn tại. Khí khổng tập trung chủ yếu qua lá. Trong đó, mặt trên của lá tập trung ít khí khổng hơn so với mặt dưới. Sở dĩ phải có cấu tạo như vậy là bởi vì mặt trên của lá tiếp xúc với ánh sáng Mặt Trời nhiều hơn. Nếu mặt trên có nhiều khí khổng thì mặt trên sẽ thoát hơi nước nhanh hơn rất nhiều so với mặt dưới. Khi đó, lá sẽ mất nhiều nước hơn và nhanh khô héo rồi chết. Khí khổng được bố trí xen kẽ trên màng cutin. Riêng một số cây có lá mọc đứng (như cây ngô...) thì số lượng khí khổng ở mặt lá dưới sẽ không nhiều hơn ở mặt lá trên. Cấu tạo. Khí khổng là các tế bào có hình hạt đậu. Chúng gồm có 2 thành: thành mỏng và thành dày. Thành mỏng ở bên ngoài, còn thành dày nằm ở bên trong. Chính thành dày hình thành một cái lỗ ở giữa không bao giờ đóng hoàn toàn. Hoạt động. Thoát hơi nước. Khi no nước, thành mỏng của khí khổng căng ra khiến thành trong cũng phải cong theo, mở lỗ ở giữa. Còn ngược lại, khi mất nước, thành mỏng hết căng và thành dày duỗi thẳng, đóng lỗ giữa (tuy nhiên khí khổng không bao giờ đóng hoàn toàn). Cơ chế thoát hơi nước qua át hơi nước càng nhanh. Khi cây được chiếu sáng, khí khổng mở: độ mở của khí khổng tăng từ sáng đến trưa và nhỏ nhất lúc chiều tối. Ban đêm khí khổng vẫn hé mở. Trao đổi khí. Trong quá trình thoát hơi nước, khí khổng mở, tạo điều kiện cho khuếch tán vào bên trong lá, cung cấp nguyên liệu cho quá trình quang hợp Vai trò. Với những hoạt động nói trên, khí khổng có vai trò quan trọng đối với thực vật. Thoát hơi nước có 3 tác dụng chính. Một là, giúp vận chuyển nước và khoáng chất từ rễ lên khắp các cơ quan một cách dễ dàng, từ đó tạo liên kết giữa các bộ phận của cây và tạo độ cứng cho cây thân thảo. Hai là, tạo điều kiện để khí cacbonic khuếch tán vào lá, bắt đầu quá trình quang hợp. Ba là, hạ nhiệt cho cây. Trong khi đó, khí khổng lại đảm nhận vai trò lớn trong việc thoát hơi nước. Thế nên, khí khổng có vai trò không hề nhỏ đối với giới thực vật. Tuy nhiên, đây cũng là đường gây bệnh cho cây. Sự điều tiết đóng mở khí khổng. Khi cây chuyển từ ban đêm sang ban ngày hoặc từ trong bóng tối ra ngoài ánh sáng, trong tế bào hình hạt đậu xảy ra quá trình phân giải tinh bột thành đường, làm tăng hoạt tính thẩm thấu, tăng sự hút nước. Còn khi cây chuyển từ ngoài ánh sáng vào trong bóng tối thì xảy ra quá trình ngược lại, làm giảm sự hút nước của tế bào hình hạt đậu. Trong điều kiện khô hạn, hoặc đất bị nhiễm mặn thì tế bào bảo vệ tăng cường tích lũy abscisic (AAB), chất này ức chế enzyme amylase làm ức chế quá trình phân giải tinh bột thành đường, giảm sự hút nước của tế bào. Trong điều kiện mưa kéo dài, tế bào biểu bì no nước ép vào tế bào bảo vệ làm cho khí khổng đóng lại một cách bị động, khi tế bào biểu bì mất nước không còn ép vào tế bào bảo vệ nước thì khí khổng mở ra. Ion K+ làm tăng lượng nước trong tế bào khí khổng, tăng độ mở của khí khổng dẫn đến thoát hơi nước. Những thí nghiệm liên quan. Năm 1859, một nhà khoa học có tên là Gareau đã thiết kế một thiết bị đo lượng thoát hơi nước. Ông đã phát hiện ra rằng, mặt trên của lá thoát ít hơi nước hơn so với mặt dưới. (lượng khí khổng ở mặt trên của lá luôn ít hơn mặt dưới lá)
1
null
Trong hình học, ký hiệu H-M hay ký hiệu Hermann–Mauguin được dùng để biểu diễn các yếu tố đối xứng tâm, mặt và đường. Nó được đặt theo tên của nhà tinh thể học người Đức Carl Hermann (giới thiệu phương pháp này năm 1928) và nhà khoáng vật học người Pháp Charles-Victor Mauguin (ông hiệu chỉnh ký hiệu này năm 1931). Ký hiệu này đôi khi được xem là ký hiệu quốc tế, vì nó thích hợp theo tiêu chuẩn của "International Tables For Crystallography" kể từ phiên bản đầu tiên năm 1935. Ký hiệu Hermann–Mauguin, so với ký hiệu Schoenflies, được tham chiếu trong tinh thể học bởi vì nó dễ sử dụng bao gồm các yếu tố đối xứng chuyển đổi, và nó xác định hướng của các trục đối xứng.
1
null
Đa sắc là một hiện tượng quang học mà một chất thể hiện nhiều màu sắc khác nhau khi xem xét chúng ở các góc khác nhau, đặc biệt dưới ánh sáng phân cực. Tổng quan. Các tinh thể đẳng hướng sẽ có các tính chất quang học khác nhau theo hướng của ánh sáng. Sự phân cực của ánh sáng xác định hướng của trường điện từ, và các tinh thể sẽ phản xạ lại theo nhiều hướng khác nhau nếu góc tới thay đổi. Các kiểu tinh thể này có một hoặc hai trục quang học. Nếu sự hấp thụ ánh sáng thay đổi theo góc tới tương đối so với các trục quang học trong tinh thể thì tạo ra sự đa sắc. Các tinh thể đẳng hướng có khúc xạ kép ánh sáng nơi ánh sáng có sự phân cực khác nhau bị tinh thể bẻ cong khác nhau, và do đó theo những con đường khúc xạ khác nhau đi qua tinh thể. Những thành phần của tia sáng bị chia tách theo những đường khác nhau trong khoáng vật và truyền đi với những vật tốc khác nhau. Khi khoáng vật được quan sát ở những góc tới khác nhau, ánh sáng có sự kết hợp của những con đường khác hau và phân cực sẽ được thể hiện, mỗi loại sẽ có màu khác nhau được hấp thụ. Ở góc khác, ánh sáng đi qua tinh thể sẽ bao gồm các đường đi và sự phân cực, mỗi đường đi sẽ có màu riêng. Ánh sáng truyền quan khoáng vật sẽ có màu khác nhau khi nhìn ở những góc khác nhau, làm cho đá có vẻ như khác nhau. Trong khoáng vật học. Tính đa sắc là công cụ cực kỳ hữu ích trong khoáng vật học nhằm để xác định khoáng vật, vì các khoáng vật nhìn giống nhau nhưng rất khác biệt về tính đa sắc. Trong những trường hợp như thế, người ta dùng mẫu lát mỏng của khoáng vật và soi chúng dưới ánh sáng phân cực truyền qua bằng kính hiển vi thạch học. Một thiết bị khác dùng tính chất này để xác định các khoáng vật là kính lưỡng sắc.
1
null
Cộng hòa Nhân dân Ukraina là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng Tháng Hai, và đến tháng 6 thì họ tuyên bố quyền tự trị của Ukraina bên trong nước Nga. Quyền tự trị này sau đó được Chính phủ Lâm thời Nga công nhận. Sau Cách mạng Tháng Mười, Hội đồng Trung ương Ukraina lên án Bolshevik cướp chính quyền và tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Ukraina cùng lãnh thổ bao gồm khu vực gần tương ứng với tám tỉnh của Đế quốc Nga (Kyiv, Volyn, Kharkiv, Kherson, Yekaterinoslav, Poltava, Chernihiv và Podolia). Họ chính thức tuyên bố độc lập từ Nga vào ngày 22 tháng 1 năm 1918. Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi, nước cộng hòa trải qua một số biến đổi chính trị - từ nước cộng hòa thiên về xã hội chủ nghĩa do Hội đồng Trung ương Ukraina đứng đầu với Tổng Ban bí thư, đến nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa do đốc chính và Symon Petliura lãnh đạo. Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1918, chính quyền Xã hội chủ nghĩa của Cộng hòa Nhân dân Ukraina bị đình chỉ, sau khi bị Quốc gia Ukraina thân Đức của Pavlo Skoropadskyi lật đổ, người này được đại hội nông dân bầu làm Hetman của Ukraina. Sau khi Quốc gia Ukraina sụp đổ, Cộng hòa Nhân dân Ukraina tuyên bố thống nhất với Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina vào tháng 1 năm 1919. Sau Chiến tranh Ba Lan–Ukraina, nước này đã ký kết một liên minh với Cộng hòa Ba Lan thứ hai. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1920, nhà nước này mất phần lãnh thổ còn lại vào tay những người Bolshevik. Hòa ước Riga vào ngày 18 tháng 3 năm 1921 giữa Ba Lan, Nga Xô viết (cũng thay mặt cho Belarus Xô viết), và Ukraina Xô viết đã định đoạt số phận của Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Lịch sử. Làn sóng cách mạng. Vào ngày 10 tháng 6 năm 1917, Hội đồng Trung ương Ukraina tuyên bố quyền tự trị của nước này với tư cách là một phần của Cộng hòa Nga, theo phổ cập thứ nhất tại Đại hội quân sự toàn Ukraina. Cơ quan quản lý cao nhất của Cộng hòa Nhân dân Ukraina trở thành Tổng Ban bí thư do Volodymyr Vynnychenko đứng đầu. Thủ tướng Nga Alexander Kerensky đã công nhận Tổng Ban bí thư, bổ nhiệm đây làm cơ quan quản lý đại diện của Chính phủ Lâm thời Nga và hạn chế quyền hạn của nó đối với năm tỉnh: Volyn, Kyiv, Podolia, Chernihiv và Poltava. Lúc đầu, Vynnychenko phản đối và rời khỏi vị trí lãnh đạo Ban bí thư, nhưng cuối cùng đã quay lại để tập hợp lại Ban bí thư sau khi Hội đồng Trung ương chấp nhận "Kerensky Instruktsiya" và ban hành Phổ cập thứ hai. Sau Cách mạng Tháng Mười phe Kyiv của Đảng Bolshevik xúi giục cuộc nổi dậy ở Kyiv vào ngày 8 tháng 11 năm 1917 nhằm thiết lập quyền lực của Xô viết trong thành phố. Các lực lượng của Quân khu Kyiv đã cố gắng ngăn chặn, nhưng sau khi Hội đồng Trung ương ủng hộ đằng sau những người Bolshevik, quân Nga đã bị loại khỏi Kyiv. Sau khi trục xuất các lực lượng chính phủ Nga, Hội đồng Trung ương tuyên bố quyền tự trị rộng rãi hơn của Cộng hòa Ukraina, vẫn duy trì quan hệ với Nga, vào ngày 22 tháng 11 năm 1917. Lãnh thổ của nước cộng hòa được tuyên bố theo Phổ cập thứ ba vào ngày 20 tháng 11 năm 1917 (7 tháng 11 lịch cũ) của Hội đồng Trung ương, bao gồm các tỉnh: Volyn, Kyiv, Podolie, Chernihiv, Poltava, Kharkiv, Yekaterinoslav, Kherson, Taurida (không bao gồm Krym). Hội đồng Trung ương cũng tuyên bố rằng người dân của các tỉnh: Voronezh, Kholm, và Kursk được hoan nghênh gia nhập nước cộng hòa thông qua một cuộc trưng cầu dân ý. Hơn nữa, Hội đồng Trung ương trong Phổ cập của mình tuyên bố rằng vì không có chính phủ tại Cộng hòa Nga sau Cách mạng Tháng Mười nên họ tự xưng là cơ quan quản lý tối cao của lãnh thổ Ukraina cho đến khi trật tự tại Cộng hòa Nga có thể được khôi phục. Hội đồng Trung ương Ukraina gọi tất cả các hoạt động cách mạng như Cách mạng Tháng Mười là nội chiến và bày tỏ hy vọng giải quyết tình trạng hỗn loạn. Sau một thỏa thuận ngừng bắn ngắn, những người Bolshevik nhận ra rằng Hội đồng Trung ương không có ý định ủng hộ Cách mạng Bolshevik. Họ tái tổ chức thành Hội đồng Xô viết toàn Ukraina vào tháng 12 năm 1917 nhằm giành chính quyền. Hành động này thất bại do những người Bolshevik tương đối thiếu ủng hộ đại chúng tại Kyiv, nên họ chuyển đến Kharkiv. Những người Bolshevik Ukraina tuyên bố chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ukraina nằm ngoài vòng pháp luật và tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina với thủ đô tại Kyiv, tuyên bố rằng chính phủ của Bí thư Nhân dân Ukraina là chính phủ duy nhất trong nước. Hồng quân Bolshevik tiến từ Nga Xô viết vào Ukraina để ủng hộ chính quyền Xô viết địa phương. Khi mối quan hệ giữa các thành viên trong Hội đồng Trung ương trở nên xấu đi, một loạt các nước cộng hòa Xô viết khu vực trên lãnh thổ Ukraina tuyên bố độc lập và trung thành với Sovnarkom Petrograd (tức Nga Xô viết) như Cộng hòa Xô viết Odesa (miền nam Ukraina), Cộng hòa Donetsk–Kryvyi Rih (miền đông Ukraina). Cộng hòa Donetsk–Kryvyi Rih được thành lập theo sắc lệnh trực tiếp của Lenin với tư cách là một phần của Nga Xô viết, với thủ đô tại Kharkiv. Nghị định đó được Fyodor Sergeyev thực hiện thành công, ông trở thành chủ tịch chính quyền địa phương đồng thời gia nhập chính phủ Xô viết của Ukraina. Không giống như cộng hòa của Fyodor Sergeyev, Cộng hòa Odesa không được bất kỳ chính phủ Bolshevik nào khác công nhận, và theo sáng kiến ​​​​riêng của mình thì đã tham gia một cuộc xung đột quân sự với Romania để giành quyền kiểm soát Cộng hòa Dân chủ Moldavia, là lãnh thổ mà họ đang tranh chấp. Thời gian biểu. Thông tin sau đây dựa trên trưng bày của Bảo tàng về sự chiếm đóng của Xô viết tại Kyiv (Đài tưởng niệm tại Kyiv). Mùa xuân 1918. Vào tháng 4 năm 1918, quân đội trung thành với Cộng hòa Nhân dân Ukraina nắm quyền kiểm soát một số thành phố tại vùng Donbas. Độc lập. Do sự xâm lược từ nước Nga Xô viết, vào ngày 22 tháng 1 năm 1918, Hội đồng Trung ương Ukraina đã ban hành Phổ cập thứ tư (ngày 22 tháng 1 năm 1918), cắt đứt quan hệ với Bolshevik Nga và tuyên bố một quốc gia Ukraina có chủ quyền. Chưa đầy một tháng sau, ngày 9 tháng 2 năm 1918, Hồng quân chiếm lĩnh Kyiv. Bị những người Bolshevik bao vây và mất nhiều lãnh thổ, Hội đồng Trung ương Ukraina buộc phải tìm kiếm viện trợ nước ngoài và ký Hiệp định Brest-Litovsk vào ngày 9 tháng 2 năm 1918 để nhận được sự trợ giúp quân sự từ các đế quốc Đức và Áo-Hung. Đức đã giúp Quân đội Ukraina đẩy những người Bolshevik ra khỏi Ukraina. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1918, hội đồng của Cộng hòa Nhân dân Kuban đã chấp nhận nghị quyết thành lập liên minh liên bang Kuban với Ukraina khi các lực lượng Bolshevik tiến về phía Yekaterinodar. Nghị quyết đã được đồng ý chuyển cho chính phủ Ukraina phê chuẩn. Sau hiệp định Brest-Litovsk, Ukraina trở thành một lãnh thổ bảo hộ trên thực tế của Đế quốc Đức, vào thời điểm đó nó có vẻ có lợi hơn hơn là bị quân Xô viết tràn qua tàn phá. Đức lo lắng về việc chiến bại và đang cố gắng đẩy nhanh quá trình khai thác lương thực từ Ukraina, nên đã quyết định thành lập chính quyền của mình do Nguyên soái von Eichhorn đứng đầu thay thế Thượng tướng Alexander von Linsingen. Vào ngày 6 tháng 4, tư lệnh của Tập đoàn quân "Kijew" ban hành một mệnh lệnh trong đó ông giải thích ý định của mình để thực hiện các điều kiện của hiệp định. Tất nhiên, điều đó mâu thuẫn với luật pháp của chính phủ Ukraina, chính phủ đã hủy bỏ lệnh của ông. Đến tháng 4 năm 1918, cuộc tấn công Chiến dịch Faustschlag của Đức-Áo đã loại bỏ hoàn toàn những người Bolshevik khỏi Ukraina. Chiến thắng của Đức/Áo-Hung tại Ukraina là do sự thờ ơ của người dân địa phương và kỹ năng chiến đấu kém cỏi của quân Bolshevik so với quân Áo-Hung và Đức. Người Đức đã bắt giữ và giải tán Hội đồng Trung ương Ukraina vào ngày 29 tháng 4 năm 1918, để ngăn chặn các cuộc cải cách xã hội đang diễn ra và bắt đầu lại quá trình chuyển nguồn cung cấp lương thực sang Đức và Áo-Hung. Chính quyền Đức cũng đã bắt giữ Thủ tướng Ukraina Vsevolod Holubovych với tội danh khủng bố, và do đó giải tán Hội đồng Bộ trưởng Nhân dân. Trước đó, Hội đồng đã thông qua Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Trong khi diễn ra tất cả các sự kiện này, và một vài ngày trước khi có thay đổi quyền lực trong nước vào ngày 24 tháng 4 năm 1918, chính phủ Belarus xác nhận Phòng Thương mại Belarus tại Kyiv do Mitrofan Dovnar-Zapolsky đứng đầu theo sáng kiến ​​​​của Bộ trưởng Tài chính Belarus Pyotr Krechevsky. Quốc gia hetman. Sau cuộc đảo chính, Hội đồng Trung ương Ukraina bị thay thế bởi chính phủ bảo thủ của Hetman Pavlo Skoropadsky, và Cộng hòa Nhân dân Ukraina bị thay bằng một " Quốc gia Ukraina" ("Ukrainska derzhava"). Skoropadsky là một cựu sĩ quan của Đế quốc Nga, ông thành lập một chế độ ủng hộ các địa chủ lớn và tập trung quyền lực vào cấp lãnh đạo. Chính phủ này nhận được rất ít ủng hộ từ các nhà hoạt động Ukraina, nhưng không giống như Hội đồng Trung ương theo chủ nghĩa xã hội, chính phủ này có thể thành lập một tổ chức hành chính hiệu quả, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia và ký kết hiệp ước hòa bình với nước Nga Xô viết. Trong vài tháng, chính phủ hetman cũng đã in hàng triệu sách giáo khoa tiếng Ukraina, thành lập nhiều trường học Ukraina, hai trường đại học và Viện hàn lâm Khoa học Ukraina. Chính phủ Hetman cũng ủng hộ việc tịch thu các vùng đất nông dân trước đó được quốc hữu hóa từ các chủ điền trang giàu có, thường là với giúp đỡ từ quân đội Đức. Điều này dẫn đến tình trạng bất ổn, sự trỗi dậy của phong trào du kích nông dân, và một loạt các cuộc nổi dậy vũ trang quy mô lớn của quần chúng. Các cuộc đàm phán được tổ chức để thu hút sự ủng hộ từ các thành viên Hội đồng trước đây là Petliura và Vynnychenko, nhưng những nhà hoạt động này đã làm việc để lật đổ Skoropadsky. Vào ngày 30 tháng 7, một thành viên Đảng Xã hội-Cách mạng Cánh tả Nga là Boris Mikhailovich Donskoy, với sự giúp đỡ từ Đảng Xã hội-Cách mạng Cánh tả Ukraina đã thành công trong việc ám sát von Eichhorn, cho nổ tung ông ta ở trung tâm thành phố Kyiv. Do những nhà tài trợ của Skoropadsky là Đức và Áo-Hung sắp thua trong Thế chiến thứ nhất, Hetman đã thành lập một nội các mới gồm những người theo chủ nghĩa quân chủ Nga và cam kết liên kết với một nước Nga phi Bolshevik có thể có trong tương lai. Đáp lại, những người theo chủ nghĩa xã hội Ukraina đã công bố một chính phủ cách mạng mới là Đốc chính vào ngày 14 tháng 11 năm 1918. Đốc chính. Đốc chính giành được sự ủng hộ đại chúng rộng rãi, và được ủng hộ từ một số đơn vị quân đội của Skoropadsky, bao gồm cả Sư đoàn Serdiuk. Quân nổi dậy của họ bao vây Kyiv vào ngày 21 tháng 11. Sau ba tuần bế tắc, Skoropadsky từ chức để ủng hộ Hội đồng Bộ trưởng, cơ quan này đã đầu hàng lực lượng Cách mạng. Vào ngày 19 tháng 12 năm 1918, Đốc chính nắm quyền kiểm soát Kyiv. Những người Bolshevik từ Kursk xâm lược Ukraina vào cuối tháng 12 năm 1918, đó là nơi chính phủ Xô viết Ukraina mới được tái lập vào đầu tháng 11 cùng năm. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1919, Ukraina chính thức tuyên chiến với Nga trong khi chính phủ Xô viết Nga tiếp tục bác bỏ mọi tuyên bố xâm lược. Vào ngày 22 tháng 1 năm 1919, Đốc chính chính thức thống nhất với Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina, nhưng Tây Ukraina trên thực tế vẫn duy trì quân đội và chính phủ của riêng họ. Vào ngày 5 tháng 2, những người Bolshevik chiếm được Kyiv. Trong suốt năm 1919, Ukraina trải qua tình trạng hỗn loạn khi các quân đội khác nhau cố chiếm ưu thế, gồm của Cộng hòa Nhân dân Ukraina, những người Bolshevik, Bạch vệ, các thế lực nước ngoài thuộc phe Đồng minh Entente và Ba Lan, cũng như các lực lượng vô chính phủ như Nestor Makhno. Cuộc tấn công Kyiv sau đó do quân đội Ba Lan và lực lượng đồng minh Ukraina tổ chức đã không thể thay đổi tình hình. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1920, Đốc chính mất phần lãnh thổ còn lại vào tay những người Bolshevik ở Volyn, họ vượt biên sang Ba Lan và chấp nhận bị giam giữ. Vào tháng 3 năm 1921, Hòa ước Riga đã xác định phân chia quyền kiểm soát lãnh thổ Ukraina giữa Ba Lan, Nga Xô viết, và Ukraina Xô viết. Kết quả là vùng đất Galicia (Halychyna) cũng như phần lớn lãnh thổ Volyn được sáp nhập vào Ba Lan, trong khi các khu vực phía đông và nam trở thành một phần của Ukraina Xô viết. Sau thất bại quân sự và chính trị, Đốc chính tiếp tục duy trì quyền kiểm soát đối với một số lực lượng quân sự của mình. Phủ đầu một cuộc xâm lược đã được lên kế hoạch của đối thủ là Đại công tước Wilhelm của Áo, vào tháng 10 năm 1921, chính phủ lưu vong của Cộng hòa Nhân dân Ukraina phát động một loạt các cuộc tấn công du kích vào miền trung Ukraina xa về phía đông đến tỉnh Kyiv. Vào ngày 4 tháng 11, quân du kích của Đốc chính đã chiếm được Korosten và thu giữ nhiều quân nhu. Nhưng vào ngày 17 tháng 11 năm 1921, lực lượng này bị kỵ binh Bolshevik bao vây và tiêu diệt. Chống Bolshevik và các cuộc nổi dậy khác. Sau đây là danh sách nhiều cuộc nổi dậy diễn ra trong quá trình hình thành Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Một số trong số này phản đối chính phủ của Petlyura (chẳng hạn như sự vụ của Oskilko), một số chống lại việc thành lập chế độ Xô viết, một số diễn ra để loại bỏ lực lượng Entente. Theo tài liệu của Cheka, tại Ukraina đã diễn ra 268 cuộc nổi dậy từ năm 1917 đến năm 1932, trong đó trong hơn 100 huyện những người nông dân nổi loạn đã giết những người theo Cheka, những người cộng sản, và những người prodotryad vốn trưng thu lương thực bằng vũ lực giống như sung công hơn. Lưu vong. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ukraina hoạt động tại Warszawa, Paris, Weimar, Kissingen, München và Philadelphia. Sau khi bắt đầu Thế chiến II, Taras Bulba-Borovets với sự ủng hộ của Tổng thống Cộng hòa Nhân dân Ukraina lưu vong Andrii Livytskyi, đã vượt qua biên giới Đức-Xô và bắt đầu tổ chức các đơn vị quân đội Nổi dậy Ukraina trực thuộc Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Phiên họp khẩn cấp lần thứ 10 của Hội đồng Quốc gia Ukraina đã công nhận nhà nước Ukraina là thể chế kế thừa Cộng hòa Nhân dân Ukraina lưu vong và đồng ý chuyển giao quyền lực và vật tượng trưng của quyền lực nhà nước cho Tổng thống Ukraina mới đắc cử vào năm 1991. Công nhận quốc tế. Cộng hòa Nhân dân Ukraina đã được công nhận trên pháp lý vào tháng 2 năm 1918 bởi các quốc gia Liên minh Trung tâm trong Thế chiến I (Áo-Hung, Đức, Đế quốc Ottoman và Bulgaria) và bởi Bolshevik Nga, các nước vùng Baltic (Estonia, Latvia và Litva), Gruzia, Azerbaijan, Romania, Tiệp Khắc, và Tòa thánh. Các quốc gia đã công nhận trên thực tế là Thụy Sĩ, Thụy Điển, Đan Mạch, và Ba Tư. Cộng hòa Dân chủ Belarus công nhận cục bộ trên thực tế. Sau đó vào năm 1918, Nga Xô viết đã chọn rút lại sự công nhận của mình đối với Ukraina độc ​​lập, lấy các nghị định thư của Hiệp định Versailles làm biện minh cho hành động của họ. Năm 1920, Symon Petliura và Józef Piłsudski của Ba Lan ký Hiệp định Warszawa, trong đó cả hai quốc gia thiết lập biên giới dọc theo sông Zbruch. Các quốc gia trước đây công nhận Cộng hòa Nhân dân Ukraina đã chấm dứt mọi mối quan hệ với Chính phủ lưu vong sau khi họ công nhận Chính phủ Xô viết tại Kyiv. Nhân khẩu. Theo cuộc điều tra nhân khẩu gần nhất được thực hiện vào năm 1897, nước cộng hòa có dân số hơn 20 triệu người trong bảy tỉnh (guberniya) cũ của Đế quốc Nga, cộng với ba huyện (uyezd) của tỉnh Taurida nằm trên đại lục. Hành chính. Vào ngày 4 tháng 3 năm 1918, chính phủ Ukraina chấp nhận luật phân chia hành chính-lãnh thổ của Ukraina. Luật quy định rằng Ukraina được chia thành 32 zemlia (vùng đất) được quản lý bởi zemstvo tương ứng. Ba thành phố Kyiv, Kharkiv, Odesa có vị thế tương tự zemlia. Luật này không được thực hiện đầy đủ vì vào ngày 29 tháng 4 năm 1918 đã xảy ra cuộc đảo chính chống chủ nghĩa xã hội tại Kyiv, sau đó Hetman Pavlo Skoropadsky đã đảo ngược cuộc cải cách trở lại chính quyền kiểu guberniya. Lực lượng vũ trang. Trụ sở của các lực lượng vũ trang của nước cộng hòa được gọi là Tổng Bulawa và được cho là nằm tại Kyiv. Tất nhiên, do sự can thiệp liên tục từ sovnarkom Petrograd và Đế quốc Đức, vị trí vật lý của nó đã thay đổi (Kamyanets-Podilsky, Bila Tserkva, những nơi khác). Ba trung đoàn bộ binh Zaporizhia tiếp theo và Trung đoàn 3 Haidamaka của đội quân lớn nhất Ukraina, Quân đoàn Zaporizhia, sau đó được tổ chức lại thành Sư đoàn 1 Zaporizhia. Tiền tệ. Vào tháng 12 năm 1918, một đạo luật tạm thời về vấn đề tiền giấy nhà nước CHND Ukraina đã được thông qua. Theo luật này: "Tiền giấy phải được phát hành bằng karbovanets" (tiếng Ukraina: Карбованець). Mỗi karbovanets chứa 17,424 phần vàng nguyên chất và được chia thành hai " hrivna" (tiếng Ukraina: Гривня) hoặc 200 "shah" (tiếng Ukraina: Шаг). Có rất nhiều ngân hàng tại nước cộng hòa, trong số những ngân hàng phổ biến nhất là Ngân hàng Ukraina và Ngân hàng Soyuz được thành lập bởi Khrystofor Baranovsky, người lãnh đạo phong trào hợp tác xã.
1
null
Hiện tượng quang học là bất kỳ sự kiện nào quan sát được là kết quả của sự tương tác giữa ánh sáng khả kiến và vật chất, hoặc từ chính bản chất của ánh sáng. Ảo tượng là một ví dụ về hiện tượng quang học. Hiện tượng quang học phổ biến thường do tương tác giữa ánh sáng từ Mặt Trời hoặc Mặt Trăng với khí quyển, mây, nước, bụi, và các hạt khác. Ví dụ phổ biến là cầu vồng, được tạo ra khi ánh sáng từ Mặt Trời bị phản xạ và khúc xạ qua các giọt nước. Một số hiện tượng khác, như tia chớp lục hay Fata Morgana cực kỳ hiếm gặp và chỉ có thể thấy được một vài địa điểm với điều kiện thích hợp, tới nỗi người ta nghĩ rằng chúng là hiện tượng thần thoại. Tất cả hiện tượng quang học đều có bản chất từ các hiện tượng lượng tử. Những hiện tượng quang học cơ bản nhất được gọi là các hiệu ứng quang học và là đề tài thú vị của môn quang học, chẳng hạn các màu sắc ánh sáng được tạo ra bằng lăng kính, thường được trình diễn trong các lớp học. Danh sách. Các hiện tượng quang học dưới đây bao gồm những hiện tượng được phát sinh từ các tính chất quang của khí quyển; cũng như các hiệu ứng quang học tự nhiên hoặc nhân tạo do tính chất quang của các vật thể hoặc của mắt người. Danh sách dưới đây cũng liệt kê một số "ảo ảnh thị giác" và một số hiện tượng chưa được giải thích nhưng có thể có nguyên nhân quang học. Có nhiều hiện tượng là kết quả của bản chất hạt hoặc bản chất sóng của ánh sáng. Một số hiện tượng không dễ nhận biết và chỉ có thể quan sát được bằng các phép đo chính xác bằng các dụng cụ khoa học. Một ví dụ nổi tiếng là sự uốn cong của tia sáng từ một ngôi sao bên cạnh Mặt Trời được quan sát lúc nhật thực toàn phần. Điều này chứng tỏ rằng không gian thực chất là cong, phù hợp với dự đoán của thuyết tương đối. Hiệu ứng quang học. Sau đây là các hiện tượng quang học chung nhất, được gọi là các hiệu ứng quang: Hiện tượng chưa được giải thích. Một số hiện tượng vẫn chưa được giải thích thỏa đáng và có thể là một dạng các hiện tượng quang học nói trên (khúc xạ khí quyển, hóa phát quang...). Nhưng một số người coi nhiều trong số các "bí ẩn" này chỉ đơn giản là những câu chuyện địa phương tạo ra nhằm thu hút khách du lịch hiếu kì nên không đáng để điều tra kỹ lưỡng.
1
null
Quỳnh Côi là thị trấn huyện lỵ của huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Thị trấn Quỳnh Côi có diện tích 1,22 km², dân số năm 1999 là 5.264 người,mật độ dân số đạt 4.315 người/km². Trước đây, các con đường của thị trấn được trồng rất nhiều cây dâu da nên còn được mệnh danh là "Thị trấn hoa dâu da". Những cây dâu da già có thể gọi là khổng lồ với tán lá rộng, che mát kín con đường trung tâm thị trấn. Mỗi mùa hoa nở, các con đường này chuyển sang sắc trắng của hoa dâu da nhìn rất đẹp và thơ mộng. Sau này khi mở rộng đường phố, những cây dâu da đa phần đã bị chặt bỏ, để lại không ít tiếc nuối cho nhiều thế hệ.
1
null
Hiệu kỳ quận Palekhsky (tiếng Nga: "Флаг Палехского района") là biểu tượng đặc trưng cho quận Palekhsky trực thuộc tỉnh Ivanovo (Liên bang Nga). Mẫu cờ này được phê chuẩn vào ngày 24 tháng 6 năm 2004 và nộp cho Cục Đăng ký Huy chương Quốc gia Liên bang Nga với mã số 1507. Đặc điểm. Lá cờ biểu trưng cho quận Palekhsky được thiết kế dựa trên huy hiệu của quận này, nó phản ánh bản sắc truyền thống cũng như lịch sử địa phương.
1
null
Dị tật tim bẩm sinh (CHD), còn được gọi là bất thường tim bẩm sinh hay bệnh tim bẩm sinh, là một sự cố về cấu trúc của tim tồn tại từ khi sinh. Các dấu hiệu và triệu chứng tùy thuộc vào kiểu cụ thể của dị tật. Triệu chứng có thể không có nhưng cũng có thể nguy hiểm tính mạng. Khi có thì triệu chừng có thể gồm thở nhanh, tím tái, khó lên cân, và cảm thấy mệt mỏi. Bệnh này không gây ra đau ngực. Đa số các vấn đề tim bẩm sinh không xảy ra đồng thời với các bệnh khác. Các biến chứng có thể xảy ra do dị tật tim có gồm suy tim. Nguyên nhân của một bất thường tim bẩm sinh thường không rõ. Một số ca nhất định có thể là do nhiễm trùng trong giai đoạn mang thai như nhiễm rubella, việc sử dụng một số loại dược phẩm hay các chất nhất định như rượu hay thuốc lá, bố mẹ có quan hệ cận huyết, hay tình trạng dinh dưỡng kém hoặc béo phì ở người mẹ. Có bố hoặc mẹ mắc bệnh tim bẩm sinh cũng là một yếu tố nguy cơ. Một số bệnh di truyền có liên quan đến dị tật tim bao gồm hội chứng Down, hội chứng Turner, và hội chứng Marfan. Các dị tật tim bẩm sinh được chia thành hai nhóm chính: các dị tật tim tím và các dị tật tim không phải tím, dựa vào việc bệnh nhi có khả năng chuyển màu tím tái hay không. Các bất thường có thể ở thành trong của tim, các van tim, hay các mạch máu lớn dẫn máu đến và đi khỏi tim. Các dị tật tim bẩm sỉnh có thể phòng ngừa tương đối như bằng vắcxin rubella, bổ sung iod vào muối, và bổ sung axít folic vào một số thực phẩm nhất định. Một số ca không cần điều trị. Một số ca có thể trị hiệu quả bằng các thủ thuật dùng ống thông luồn hay phẫu thuật tim. Đôi khi cần phải sử dụng cùng lúc nhiều loại can thiệp khác nhau. Đôi khi cần đến phẫu thuật ghép tim. Khi được điều trị phù hợp thì tiên lượng bệnh thường tốt, ngay cả đối với các dị tật phức tạp. Các bất thường tim bẩm sinh là dị tật bẩm sinh thường gặp nhất. Vào năm 2015 bệnh hiện diện ở 48.9 triệu người tính toàn thế giới. Nó tác động từ 4 đến 75 người trên mỗi 1.000 trẻ sinh ra tùy thuộc vào cách các bệnh này được chẩn đoán. Khoảng từ 6 đến 19 trên 1.000 có dị tật mức độ từ vừa đến nặng. Bệnh tim bẩm sinh là nguyên nhân hàng đầu của các ca tử vong liên quan dị tật bẩm sinh. Trong năm 2015 nó dẫn đến 303.300 cái chết, giảm so với 366.000 ca tử vong vào năm 1990. Dấu hiệu và triệu chứng. Các dấu hiệu và triệu chứng có mối liên hệ mật thiết đến các loại dị tật tim bẩm sinh. Các triệu chứng thường xuất hiện vào những năm đầu tiên, nhưng cũng có nhiều dị tật không biểu hiện lâm sàng sớm. Nhiều trẻ em không có dấu hiệu gì, trong khi một số khác có thể khó thở (hơi thở ngắn), tím tái, ngất, có tiếng thổi tại tim, chậm phát triển thể chất, biếng ăn hoặc nhiễm khuẩn hô hấp. Bệnh tim bẩm sinh với những bất thường trong cấu trúc tim, hình thành một triệu chứng thực thể gọi là tiếng thổi tại tim. Các tiếng thổi này có thể phát hiện qua thăm khám, tuy nhiên không phải tất cả các tiếng thổi đều do dị tật tim bẩm sinh.  Mối liên hệ giữa các triệu chứng. Bệnh tim bẩm sinh biểu hiện mối liên hệ giữa sự gia tăng các triệu chứng, gọi là Mối liên hệ VACTERL: V - Bất thường đốt sống (Vertebral anomalies) A - Hẹp hậu môn (Anal atresia)  C - Bất thường tim mạch (Cardiovascular anomalies) T - Lỗ rò khí thực quản (Tracheoesophageal fistula) E - Hẹp thực quản (Esophageal atresia) R - Bất thường thận (Renal (Kidney) and/or radial anomalies) L - Khuyết tật chi (Limbs defects) Thông liên thất, thông liên nhĩ, tứ chứng Fallot là những bệnh tim bẩm sinh phổ biến thể hiện VACTERL. VACTERL cũng biểu hiện trên một số tổn thương ít gặp hơn như Thân chung động mạch hay Chuyển gốc động mạch.  Nguyên nhân. Nguyên nhân dẫn đến bệnh tim bẩm sinh có thể do di truyền hoặc do môi trường tác động, nhưng đa số là do sự kết hợp của cả hai yếu tố đó.  Di truyền. Đã có nhiều tổn thương tim bẩm sinh do bất thường cấu trúc di truyền được phát hiện, có thể là đảo đoạn, mất đoạn hay thêm đoạn DNA. Các bất thường hay gặp nhất tại NST số 21, 13 và 18, chiếm khoảng 5 - 8 % trường hợp TBS, trong đó đột biến cấu trúc NST 21 là phổ biến nhất. Ngoài ra cũng đã phát hiện ra tổn thương tại một số NST khác, bao gồm đột biến cấu trúc nhánh dài nhiễm sắc thể số 22 (22q11, Hội chứng DiGeorge), nhánh dài NST số 1 (1q21), nhánh ngắn NST số 8 (8p23),   Chỉ có một số đột biến gen dẫn đến TBS được khám phá ra. Một số gen có mối liên hệ với cái dị tật riêng biệt. Đột biến protein cơ tim α-myosin chuỗi nặng (MYH6) liên quan đến thông liên nhĩ. Một vài protein có mối tương tác với MYH6 cũng liên quan đến các dị tật tim. Một số yếu tố khác, ví dụ gen homeobox (gen quy định trình tự phát triển bình thường của sinh vật) NKX2-5 cũng liên quan đến MYH6.  Một gen T-box khác, TBX 1, liên hệ với hội chứng DiGeorge (bao gồm TBS, bất sản tuyến ức và thương thận, bất thường xương sọ). Môi trường. Nhiều yếu tố môi trường có liên quan đến TBS đã được biết đến, bao gồm mẹ bị nhiễm khuẩn (Rubella), thuốc (rượu, hydatoin, lithium và thalidomide), và nhiều bệnh lý khác (đái đường, phenyl ceton niệu, và lupus ban đỏ hệ thống)  Mẹ bị béo phì. Nhiều nghiên cứu về chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI) trên những phụ nữ tiền mang thai hoặc đang trong thời gian mang thai đã chỉ ra rằng, những người béo phì (BMI ≥ 30) mang theo nguy cơ (có ý nghĩa thống kê) con sinh ra bị TBS nhiều hơn so với phụ nữ có cân nặng bình thường (BMI - 19-24,9). Nguy cơ trẻ bị TBS cũng nhiều hơn ở những trẻ có mẹ bị quá cân (BMI = 25 - 29,9), mặc dù vấn đề này vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Hơn thế nữa, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan tỷ lệ thuận giữa cân nặng của mẹ và nguy cơ TBS ở con. Dựa vào những dữ liệu trên, có thể thấy nếu người mẹ cố gắng đạt được chỉ số cân nặng bình thường cũng sẽ giảm nguy cơ con có dị tật tim bẩm sinh.  Chưa có một cơ chế sinh lý rõ ràng nào giải thích được mối tương quan giữa mẹ bị béo phì và con bị TBS. Ngược lại, đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra được sự liên quan giữa thiếu hụt folat và béo phì ở mẹ có liên hệ đến những dị tật này. Việc khám phá ra các cơ chế sinh lý cụ thể có thể làm giảm được tỉ lệ trẻ bị TBS. Tuần hoàn phôi thai. Cơ chế hình thành tim vô cùng phức tạp và bất cứ bất thường nào trong quá trình này cũng có thể dẫn đến dị tật tim bẩm sinh. Trình tự phát triển tế bào, di chuyển, chết theo chương trình (apoptosis) đã được nghiên cứu rộng rãi và các gen chi phối tiến trình này đang dần được sáng tỏ. Tim và hệ mạch xuất phát từ lá trong (mesoderm) và một phần lá ngoài (ectoderm) của trung biểu mô (mesenchyme) bào thai. Đến ngày thứ 19, ống tim nguyên thủy bắt đầu hình thành và ngay lập tức uốn cong thành hình chữ S về phía phải và gồm 4 phần: bè thất trái, bè thất phải, nón tim và thân động mạch. Đến ngày thứ 22, tim bắt đầu đập và đến ngày 24, máu bắt đầu lưu thông. Phân loại. Có nhiều hệ thống phân loại bệnh tim bẩm sinh. Năm 2000, Từ điển thuật ngữ tim bẩm sinh quốc tế đã đưa ra hệ thống phân loại như sau. Thiểu sản. Thiểu sản có thể xảy ra ở cả thất trái (thiểu sản thất trái) hay thất phải (thất phải), làm giảm khả năng bơm máu đi nuôi cơ thể của tim. Thiểu sản tim hiếm gặp nhưng đặc biệt nguy hiểm trong TBS. Trong cả hai trường hợp, sự tồn tại của ống động mạch giúp trẻ có khả năng sống sót cho đến khi có can thiệp phẫu thuật.  Cản trở dòng máu. Cản trở tuần hoàn xảy ra khi các van tim, đông mạch hay tĩnh mạch hẹp hoặc tắc hoàn toàn. Các tổn thương hay gặp bao gồm hẹp động mạch phổi, hẹp động mạch chủ, hẹp hay hở van động mạch và van nhĩ thất. Tổn thương vách ngăn. Vách ngăn được hình thành chia tim thành 2 nửa trái và phải. Tổn thương vách ngăn làm cho dòng máu có thể lưu thông được từ trái qua phải hoặc ngược lại. Thông liên thất là dị tật hay gặp nhất của TBS. Ngoài ra, thông liên nhĩ có thể gặp ở khoảng 30% người trưởng thành tuy nhiên không ảnh hưởng đến mặt chức năng của tim.  Bệnh lý tím. Được gọi là bệnh tim tím sớm do tím tái là biểu hiện lâm sàng gặp ở nhóm bệnh này, là hậu quả của việc thiếu oxy trong máu. Một số dị tật hay gặp bao gồm Tứ chứng Fallot, chuyển vị đại động mạch, thân chung động mạch. Phân loại của Hội Tim mạch Việt Nam. TBS không tím không shunt. - Bất thường bên trái tim: - Bất thường bên phải tim  TBS không tím có shunt. -Shunt ở tầng nhĩ: -Shunt ở tần thất: -Shunt động mạch chủ - tim phải: + Lỗ rò động mạch vành  Bệnh TBS tím sớm. -Có tăng tuần hoàn động mạch phổi:
1
null
Non-game là một loại phần mềm nằm trên ranh giới giữa video game, đồ chơi và các ứng dụng. Nguồn gốc thuật ngữ của trò chơi non-game do chủ tịch Nintendo Iwata Satoru tạo ra, mà ông mô tả như là "một hình thức giải trí thực thụ mà không có người chiến thắng hay thậm chí đi đến một kết thúc thực sự". Sự khác biệt chính giữa non-game và video game truyền thống là thiếu đi mục đích, mục tiêu và thử thách cụ thể. Điều này cho phép người chơi một mức độ tự thể hiện thông qua kiểu chơi dạng tự do, để họ có thể tự đặt mục tiêu riêng mà mình giành được. Non-game đặc biệt thành công trên các hệ máy Nintendo DS và Wii, nơi có một loạt các tựa game Nhật Bản đã lôi kéo một số lượng lớn các game thủ bình thường. Non-game đã tồn tại từ những ngày đầu của video game, dù chưa có một thuật ngữ cụ thể dành cho nó. Trong số những ví dụ sớm nhất là "Alien Garden" của Jaron Lanier (Epyx, 1982), "I, Robot" (Atari 1983) với sự xuất hiện một "chế độ ungame" đặc biệt gọi là "Doodle City" và "Psychedelia" của Jeff Minter (Llamasoft, 1984) với một sự tổng hợp tương tác nhẹ. Tựa game mô phỏng "SimCity" được gọi là một phần mềm đồ chơi của nhà sáng tạo Will Wright, vì không có mục tiêu cuối cùng trong phần chơi chính (kịch bản với mục tiêu tồn tại trong một số hiện thân của game, chẳng hạn như "Sim City 2000", nhưng đó không phải là trọng tâm). "Dr. Kawashima's Brain Training" ("") là một tựa game với một loạt các câu đố và bài tập được thiết kế để giúp người chơi phải động não. Thể loại MUD dù được thống trị bởi các game nhập vai máy tính, từ lâu đã đề cao nhiều non-game như những MUD xã hội, MUD mang tính giáo dục và người nói. "Second Life" cũng có thể được coi là một non-game, vì tính năng của nó cho phép sử dụng như trò chơi và ứng dụng như nhau. Một trong những ví dụ mới nhất của một non-game là trò "Wii Fit" của Nintendo cho phép người dùng làm bài tập và theo dõi cân nặng của mình mà không đòi hỏi lối chơi hướng đến mục tiêu. Korg DS-10 là một chương trình giả lập tổng hợp cho DS được thiết kế dành riêng cho việc sáng tác âm nhạc.
1
null
Vũ Hội là một xã thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Xã Vũ Hội được Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình đề xuất Chính phủ quy hoạch đưa lên Đô thị loại V trực thuộc huyện Vũ Thư theo Quyết định 733/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình đến năm 2020. Vị trí địa lý. Xã Vũ Hội có diện tích 5,75 km², dân số năm 2020 là 11.622 người, mật độ dân số đạt 2.021 người/km². Xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư là 1 xã nằm ngoại ô Thành phố Thái Bình thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng có địa hình bằng phẳng với độ cao trung bình là 9 mét so với mặt nước biển,cách trung tâm thành phố Thái Bình khoảng 3 km. Hành chính. Xã Vũ Hội nằm theo hình cánh cung bởi cánh cung là sông Kiến Giang và sông Kìm, dây cung là điểm nối từ xóm Phú Thứ trại giáp sông Kìm cho tới xóm Hiếu Thiện (đồng Kênh), chạy qua biển Địa phận thành phố Thái Bình. • Phía Đông giáp với xã Vũ Ninh huyện Kiến Xương. • Phía Tây giáp xã Vũ Phúc Thành phố Thái Bình • Phía Nam giáp xã Vũ Vinh và xã Việt Thuận • Phía Bắc giáp xã Vũ Chính Thành phố Thái Bình • Xã Vũ Hội có các xóm: Trung Lập, Năng An, Bình An, Năng Tĩnh, Phú Thứ, Đức Lân, Hiếu Thiện, Hưng Nhượng, Mỹ Am. Lịch sử. Trước khi chia làm 9 thôn, Vũ Hội có 4 xóm Am Trại, Mỹ Hưng, Cổng Vọng, Phú Lập. Xã Vũ Hội được tách ra từ tổng Hội Khê. Tổng Hội Khê nói riêng, làng Vũ Hội nói chung có truyền thống cách mạng, năm 1927 Làng đã có chi bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Làng có những người con trung kiên sớm giác ngộ cách mạng trước năm 1930. Những huyền thoại ấy có biệt danh " Nhật - Nguyệt- Hoàng- Kỳ - Cao - Chiếu- Diệu. Năm 1949 giặc Pháp đổ bộ vào Thái Bình, làng Vũ Hội là một trong những cái nôi kháng chiến chống Pháp. Pháo của Pháp kích từ sông Hồng vào khu nhà cụ Phu ở xóm Năng Tĩnh trúng hầm trú ẩn, rất nhiều thành viên trong gia đình thiệt mạng. Ngay cạnh trục đường tỉnh lộ 223 (ĐT. 454) phía nghĩa trang Liệt sỹ có ngôi chùa Phổ Quang bị Pháp đốt phá, nay đã được xây mới hoàn toàn. Kinh tế - Xã hội. Giáo dục. • Xã có 01 cơ sở Trường Mầm non Công lập; 01 cơ sở Trường Tiểu học cơ sở xã Vũ Hội và 01 Trường Trung học cơ sở xã Vũ Hội. Y tế. • Xã có trạm y tế nằm ngay trung tâm xã. • Hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất lẫn con người, do đó các chương trình chăm sóc sức khoẻ được thực hiện tốt, phục vụ đủ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân không để xảy ra dịch bệnh... Giao thông. • Xã có trục đường tỉnh ĐT.454 (đường 223 cũ) chạy dọc trung tâm xã, nối thành phố Thái Bình đi phà Sacao sang tỉnh Nam Định. Là tuyến giao thông liên tỉnh huyết mạch tấp nập người qua lại. Làng nghề truyền thống. Nghề làm bún truyền thống ở xã Vũ Hội, thành phố Thái Bình đã có từ lâu, ban đầu chỉ là một nghề phụ trong những ngày nông nhàn. Theo thời gian, nghề làm bún dần khẳng định chỗ đứng, đem lại thu nhập, giải quyết công ăn, việc làm cho hàng nghìn người dân. Từ xã thuần nông, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Vũ Hội (Vũ Thư) đã có những đổi thay ngoạn mục. Giá trị sản xuất từ ngành nghề TTCN chiếm 55% cơ cấu kinh tế, (nông nghiệp 25%, dịch vụ thương mại 20%). Toàn xã có 42 cơ sở sản xuất, trong đó 11 cơ sở sản xuất bún miến công suất 1-1,8 tấn/ngày. Nghề làm bún có từ xa xưa, cha truyền con nối. Thời ông bà xưa, nghề làm bún không chỉ khó nhọc còn rất công phu. Từ khâu đầu tiên (kén gạo) đến khâu cuối cùng (bắt sợi bún thành con bún) trải qua 13 công đoạn trong thời gian khoảng 7 ngày. Bí quyết tài tình là giữ bún không chua (mùa đông có thể để bún trong 2 ngày, mùa hè để 1 ngày). Ai cũng biết chỉ cần ngâm bột thật kỹ, thay nước nhiều lần, mùa hè tối thiểu ngâm gạo 3 ngày, mùa đông 7 ngày, kỹ hơn là ngâm bột nửa tháng, nhưng không phải gia đình nào cũng làm ra sợi bún có đủ tiêu chuẩn “thơm, mát dẻo, giòn”. Bây giờ, máy móc thay thế những khâu nặng nhọc, rút ngắn thời gian, tăng năng suất gấp 10-20 lần làm bún thủ công, nhưng về cơ bản vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt các công đoạn. Nhìn đôi tay bắt bún thoăn thoắt của họ, phần nào cho chúng tôi cảm nhận sự công phu của sợi bún dẻo thơm, chế từ hạt gạo cõng bao sương nắng. Mỗi ngày Vũ Hội sử dụng khoảng trên 2 tấn gạo chế biến bún, quanh năm số gạo sử dụng làm nghề tới 600- 700 tấn- một con số không hề nhỏ. Tận dụng phụ phẩm thừa từ làm bún, làm đậu, nấu rượu, những năm trước, chăn nuôi ở Vũ Hội khá phát triển. Chẳng có thứ quà nào từ bún có thể chế ra nhiều món đến thế: bún chả, bún nem, bún thang, bún ốc, bún riêu cua, bún ngan, bún vịt, bún măng, bún sườn, bún cá, bún bò, giò heo, bún mắm tôm… Nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất gắn với bảo vệ môi trường là một hướng đi đúng đắn mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho người dân và nền kinh tế địa phương mà còn góp phần duy trì, bảo đảm sự phát triển bền vững của một làng nghề truyền thống.
1
null
Vũ Tiến là một xã thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Xã Vũ Tiến có diện tích 7,83  km², dân số năm 2009 là 9.575 người, mật độ dân số đạt người/km². Xã Vũ Tiến nằm ở tả ngạn sông Hồng. phía đông giáp xã Vũ Đoài, phía tây và phía nam giáp với tỉnh Nam Định, phía bắc giáp xã Nguyên Xá, phía tây nam giáp xã Duy Nhất. Vũ Tiến có trung tâm thương mại chợ Bồng Tiên, là nơi giao thương, buôn bán của các tiểu thương trong xã với các xã lân cận. Tỷ lệ công dân theo đạo Thiên Chúa chiếm khoảng 44% gồm 4 giáo xứ tọa lạc đó là giáo xứ Bồng Tiên, Đông A, Trung Thành và An Châu. Xã Vũ Tiến hiện nay có 11 thôn gồm: Song Thủy, Đông Tiên, Văn Long, Ngọc Tiên, Quần Tiên, Bồng Lai, La Trạng, Tân Toản, Nam Tiên, Bát Tiên và Lục Tiên.
1
null
Quỳnh Hải là một xã thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Xã Quỳnh Hải có diện tích 5,9  km², dân số năm 2009 là người, mật độ dân số đạt 1.375 người/km². Gồm 7 thôn: An Phú 1, An Phú 2, Quảng Bá, Đoàn Xá, Lê Xá, Xuân Trạch và Cầu Xá.
1
null
Bóng đá tại Đại hội Thể thao châu Á 1982 được tổ chức tại New Delhi, Ấn Độ từ 20 tháng 11 đến 3 tháng 12 năm 1982. Trong giải này, 16 đội tham gia bóng đá nam. Vòng loại trực tiếp. Tranh vị trí 3. Ả Rập Saudi được trao huy chương đồng
1
null
Cá thu đao Đại Tây Dương, tên khoa học Scomberesox saurus, là một loài cá trong họ Scomberesocidae được tìm thấy tại Đại Tây Dương, cũng như tại Địa Trung Hải. Loài cá này lớn tới chiều dài 35 cm, với tối đa là 50 cm, nó có một cái hàm giống mỏ và có một hàng vây nhỏ phía sau lưng và vây bụng của chúng.Cá thu đao Đại Tây Dương sống gần bề mặt nước, và thường nhảy lên trên mặt nước. Phân loài. Có hai phân loài được viết tới trong loài này:
1
null
Cầu lông là cuộc thi ở Đại hội Thể thao châu Á 1998 ở Thammasat Gymnasium 2, Bangkok, Thái Lan từ 8 tháng 12 đến 17 tháng 12. Quốc gia tham dự. Tổng cộng 132 vận động viên từ 14 quốc gia hoàn thành bộ môn cầu lông tại Đại hội Thể thao châu Á 1998:
1
null
Một phân khối hay là xentimét khối, centimet khối (ký hiệu SI: cm³, ký hiệu khác: cc, ccm) tương ứng với thể tích một khối lập phương có số đo 1 cm x 1 cm x 1 cm. Nó dựa trên khối lượng của các đơn vị của hệ CGS, và là một đơn vị Hệ đo lường quốc tế chính thống. Một xentimét khối tương ứng với một khối lượng 1/1.000.000 () của một mét khối, tương đương 1/1.000 () của một lít, hoặc một ml; do đó, 1 cm3 ≡ 1 ml. Khối lượng của một centimet khối nước ở 3,98 °C (nhiệt độ mà tại đó nó đạt mật độ tối đa của nó) nặng đúng 1 gam. Cách viết tắt thông thường là cc và ccm không phải theo kiểu hệ đo lường quốc tế mà là cách viết thông tục ở một số hoàn cảnh. Nó là cách viết tắt cho "centimét khối". Ví dụ 'cc' thường được dùng để biểu thị thể tích động cơ của ô tô và xe máy "chiếc xe Mini Cooper có dung tích động cơ 1275 cc". Trong y tế, 'cc' cũng thường được dùng, ví dụ "mất 100 cc máu".
1
null
Artemisia I xứ Caria (480 TCN) là một nữ hoàng của xứ Halicarnassus phục vụ dưới trướng của Hoàng đế Xerxes của Ba Tư, người tham gia vào cuộc chiến xâm lược Hy Lạp. Lịch sử. Trong trận hải chiến Salamis, Xerxes cắt cử Nữ hoàng xứ Halicarnass Artemisia I đồng thời cũng là nữ tướng chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công vào phía Hy Lạp. Hạm đội Hy Lạp bị thua to khi trời gần sáng. Artemisia bắt được một viên tướng Hy Lạp, sai đem buộc vào mũi thuyền, cắt cổ cho máu chảy xuống biển để tạ ơn Thần Biển. Trong văn hóa. Trong văn hóa điện ảnh, bà được vào vai bởi nữ diễn viên Eva Green trong bộ phim . Bà là một người phụ nữ trẻ có gia đình bị người Hy Lạp giết chết nên mang lòng hận thù nặng nề, thề sẽ hủy diệt văn minh Hy Lạp. Bà là người tàn nhẫn, lạnh lùng, giỏi sử dụng gươm và có một chút bạo dâm.
1
null
Câu lạc bộ bóng đá Bắc Kinh Bát Hỷ (tiếng Trung:北京八喜, bính âm: Běijīng Bāxǐ) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Trung Quốc hiện đang thi đấu tại Giải bóng đá hạng nhất Trung Quốc. Câu lạc bộ có trụ sở tại Bắc Kinh, sân nhà của đội bóng là Trung tâm thể thao Triều Dương với 8000 chỗ ngồi. Lịch sử. Câu lạc bộ bóng đá Bắc Kinh Bát Hỷ Bắc Kinh Bát Hỷ được thành lập vào năm 2004 bởi cựu cầu thủ bóng đá Trung Quốc Quách Duy Duy, Vương Đào và Quách Duy Kiện là một câu lạc bộ bóng đá nghiệp dư. Đến năm 2009 đội câu lạc bộ trẻ đủ điều kiện để tham gia vào câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp và bước vào giải bóng đá hạng nhì Trung Quốc. Chủ tịch đội bóng đã đưa Tào Hạn Đông quản lý đội bóng, tuy nhiên câu lạc bộ đứng thứ ba và bỏ lỡ giải đấu. Sau khi thất bại trong việc giành vé lên chơi giải bóng đá hạng nhì Trung Quốc để tiếp nhân việc giải thể đội bóng của câu lạc bộ Bắc Kinh Hoằng Đăng, đội bóng đã thăng hạng ở mùa giải 2010. Sân vận động. Sân nhà của Bắc Kinh Bát Hỷ là Trung tâm thể thao Triều Dương nằm trên đường số 77 Diêu Gia Viên ở quận Triều Dương. Sân vận động đã được sử dụng trong Thế vận hội Bắc Kinh 2008 và kết hợp sân tập golf, cửa hàng equistrian, địa điểm tổ chức bóng chày, tennis trong nhà và sân đào tạo. Bắc Kinh Bát Hỷ không đào tạo tại địa điểm này, nhưng câu lạc bộ bóng đá nghiệp dư Tử Cấm Thành thường chơi trận đấu cuối tuần tại sân nằm phía sau sân vận động chính.
1
null
Cervinae hay còn gọi là Hươu Cựu thế giới là một phân họ thuộc loài hươu nai phân bố ở các vùng Cựu lục địa (gồm châu Âu và châu Á và Bắc Châu Phi trước đây), phân họ này phân biệt với các loài hươu Tân Thế giới, phân bố ở châu Mỹ (Trung Mỹ đến Nam Mỹ). Bảng chi tiết. Bao gồm cả phân loài
1
null
"Laura Palmer" là một bài hát của ban nhạc Anh Bastille. Đây là đĩa đơn thứ năm từ album phòng thu đầu tay của họ, "Bad Blood", và là đĩa đơn tiếp theo sau đĩa đơn hit "Pompeii". Bài hát đã được phát hành trong năm 2011 như một bài hát trong EP tự phát hành cùng tên (cùng với các bài hát " Overjoyed ", " Things We Lost in the Fire " and "Get Home"). Nó đạt vị trí số 42 trên UK Singles Chart. Bài hát lấy tên từ một nhân vật trong series phim truyền hình Twin Peaks của David Lynch.
1
null
Hồ Nyos là một hồ miệng núi lửa nằm ở phía Tây Bắc Cameroon, cách Yaoundé về phía Tây Bắc khoảng Hồ Nyos là hồ nước sâu ở khu vực núi lửa ngưng hoạt động tại Cánh đồng núi lửa Oku dọc theo tuyến núi lửa hoạt động. Nước hồ có lượng khí CO2 bão hòa rất lớn và là nguyên nhân gây ra hiện tượng phun trào CO2 tại đây năm 1986 gây nên cái chết của 1700 người và 3500 gia súc xung quanh do ngạt thở. Phòng ngừa thảm hoa. Khi hồ Nyos bắt đầu tích tụ CO2 lần nữa, Chính phủ Cameroon đã sơ tán toàn bộ các làng trong bán kính 12 km quanh hồ và san phẳng khu vực này để ngăn người dân trở lại cho đến khi tìm ra cách làm cho hồ Nyos trở nên an toàn. Các nhà khoa học mất 10 năm nữa để tìm ra cách làm cho hồ thoát khí CO2 an toàn trước khi lại có một thảm họa tương tự xảy ra. Họ đã nhất trí kế hoạch thả một ống có đường kính 13 cm xuống độ sâu 182m, ngay trên đáy hồ. Sau đó, khi nước ở đáy hồ được bơm lên đỉnh ống, CO2 thoát ra trên đầu ống, bắn nước và khí lên cao tới 45m. Hiệu ứng ống khói sẽ kích hoạt phản ứng liên tục cho đến khi CO2 bốc hết. Ống đầu tiên được lắp đặt và thử nghiệm năm 1995 và sau khi thấy hoạt động an toàn, các nhà khoa học đã lắp một ống cố định năm 2001. Năm 2006, chiếc ống vẫn hoạt động và đưa gần 20 triệu mét khối CO2 vào không khí mỗi năm. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2006, lượng CO2 trong hồ Nyos đã giảm 13%. Các nhà khoa học cho rằng mức giảm này là quá ít. Hồ vẫn chứa một lượng CO2 nhiều hơn lượng đã bốc lên trong thảm họa năm 1986. Một điều đáng lo nữa là con đập tự nhiên ở phía bắc hồ Nyos đang bị xói mòn và có thể sập trong 5 năm. Nếu đập vỡ, 50 triệu mét khối nước có thể tràn ra từ hồ, nhấn chìm tới 10.000 người khi nó tràn qua các thung lũng bên dưới. Thảm họa vỡ đập mới chỉ là bắt đầu. Khi hồ mất đi một lượng nước lớn như vậy, mực nước có thể giảm tới 40m. Áp lực nước giữ CO2 ở lại đáy hồ sẽ không còn và sẽ lại gây ra một đợt phụt khí CO2 kinh hoàng hơn vụ năm 1986. Cuối cùng, giải pháp mà giới khoa học gấp rút thực hiện là vừa gia cố đập tự nhiên bằng bê tông vừa lắp thêm 4 ống hút nữa để giảm lượng CO2 về mức an toàn.
1
null
Đá phiến (hay còn gọi là diệp thạch, tiếng Anh: schist) là một loại đá biến chất cấp trung bình. Cần phân biệt đá phiến với đá bảng. Đá phiến bao gồm các hạt dạng tấm phẳng trung bình đến lớn được sắp xếp theo một phương nhất định (các hạt gần nhau gần như song song nhau). Nó được xác định khi có hơn 50% khoáng vật phẳng và kéo dài, thường xen kẽ giữa thạch anh và feldspar. Các khoáng vật dạng tấm này bao gồm mica, clorit, talc, hornblend, graphit, và các loại khác. Thạch anh thường ở dạng hạt kéo dài tạo thành dạng được gọi là đá phiến thạch anh hoặc diệp thạch thạch anh. Đá phiến thường chứa granat. Đá phiến hình thành ở nhiệt độ cao hơn và có hạt lớn hơn phyllit.
1
null
là loạt giải thưởng được trao bởi Viện Hàn lâm Nhật Bản cho các hạng mục điện ảnh diễn ra hàng năm từ năm 1978. Các hạng mục giải thưởng tương tự như Giải Oscar. Bức tượng giải thưởng có số đo là 27 cm × 11 cm × 11 cm (10.7 in × 4.4 in × 4.4 in).
1
null
Phyllit là một loại đá biến chất phân phiến được tạo ra từ slat do sự biến chất tiếp theo của các hạt mica rất mịn màu trắng làm cho chúng sắp xếp theo một hướng nhất định. Nó bao gồm chủ yếu là thạch anh, sericit, mica, và clorit. Các tinh thể than chì nhỏ, sericit, hoặc clorit, hoặc các hạt mica trắng mịn trong suốt, có ánh tơ, trên mặt cát khai được gọi là "ánh phyllit". Tên gọi từ tiếng Hy Lạp "phyllon", có nghĩa là "lá".
1
null
Sericit là các mica dạng hạt mịn, tương tự như muscovit, illit, hay paragonit. Sericit thường là khoáng vật thay thế từ orthoclase hay plagioclase feldspar trong các khu vực có sự thay thế nhiệt dịch đặc biệt liên quan đến các khoáng hóa đồng, thiếc hoặc tích tụ quặng nhiệt dịch khác. Sericit cũng có mặt ở dạng mica mịn trong các đá biến chất phyllit và schist. Tên gọi xuất xứ từ tiếng Latin "sericus", nghĩa là "giống như tơ".
1
null
Đá bảng hay đá phiến lớp (tiếng Anh: slate, tiếng Pháp: ardoise) là một loại đá biến chất đồng nhất phân biến, hạt mịn có nguồn gốc từ các đá trầm tích dạng đá phiến sét với thành phần bao gồm sét hoặc tro núi lửa trải qua quá trình biến chất khu vực cấp thấp. Nó là đá biến chất có tính phân phiến hạt rất mịn. Sự phân phiến có thể không trùng khớp với sự phân lớp của đá trầm tích nguyên thủy nhưng sự phân phiến này vuông góc với phương nén ép trong qua trình biến chất.. Cần phân biệt đá bảng với đá phiến. Thành phần khoáng vật. Đá bảng chủ yếu chứa các khoáng vật thạch anh và muscovit hoặc illit, thường có thêm biotit, clorit, hematit, và pyrit và ít hơn là apatit, graphit, kaolinit, magnetit, tourmalin, hoặc zircon cũng như feldspar.
1
null
Paragonit là một loại khoáng vật liên quan đến muscovit. Công thức hóa học của nó là NaAl2[(OH)2|AlSi3O10]. Một solvus rộng tách muscovit ra từ paragonit, vì vậy có ít dung dịch rắn cùng với vector Na+K+ và mica là thành phần trung gian chủ yếu phát triển đan xen nhau của hai mica riêng biệt, một là loại giàu K, và loại còn lại giàu Na. Paragonit là một khoáng vật phổ biến trong các đá biến chất thuộc tướng đá phiến lam cùng với các khoáng vật natri khác như albit, jadeit và glaucophan. Trong quá trình chuyển tiếp từ tướng đá phiến lam sang phiến lục, paragonit và glaucophan được chuyển thành clorit và albit. Khoáng vật này được mô tả đầu tiên năm 1843 cho mẫu ở núi Campione, Tessin, Thụy Sĩ. Tên gọi xuất phát từ tiếng Hy Lạp "paragon," nghĩa là "hiểu nhầm," do nó có vẻ bề ngoài tương tự như talc.
1
null
Cầu lông là cuộc thi tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 ở Busan, Hàn Quốc. Nội dung đơn, đôi, và đội được tổ chức dành cho nam và nữ. Đôi hỗn hợp cũng được dự thi. Tất cả đều tổ chức tại Gangseo Gymnasium. Quốc gia tham dự. Tổng cộng 120 vận động viên từ 16 quốc gia hoàn thành bộ môn cầu lông tại Đại hội Thể thao châu Á 2002:
1
null
Cầu lông là cuộc thi tại Đại hội Thể thao châu Á 2006 ở Doha, Qatar. Nội dung đơn, đôi, và đội được tổ chức cho cả nam và nữ. Đội hỗn hợp cũng được dự thi. Cuộc thi được tổ chức từ 30 tháng 11 đến 9 tháng 12. Tất cả nội dung đều tổ chức tại Aspire Hall 3. Quốc gia tham dự. Tổng cộng 162 vận động viên từ 20 quốc gia đã hoàn thành nội dung cầu lông tại Đại hội Thể thao châu Á 2006:
1
null
Cầu lông tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức tại Tianhe Gymnasium, Quảng Châu, Trung Quốc từ 13–21 tháng 11 năm 2010. Quốc gia tham dự. Tổng cộng 190 vận động viên từ 17 quốc gia hoàn tất bộ môn cầu lông tại Đại hội Thể thao châu Á 2010:
1
null
là một phim anime ngắn nằm trong chuỗi sê-ri về "Doraemon" của tác giả Fujiko F. Fujio. Phim được thực hiện bởi đạo diễn Watanabe Ayumu. Nội dung kể về ngày Doraemon buộc phải chia tay Nobita trở về tương lai và sự trở lại của Doraemon sau đó. Phim được công chiếu vào ngày 7 tháng 3 năm 1998. Sau đó được phát hành lại dưới dạng băng VHS vào ngày 1 tháng 3 năm 2000 chung một băng với phim ' Ngày 3 tháng 11 năm 2010 được phát hành dưới định dạng DVD, chung đĩa với ' và "Đội quân Doraemon: Đại chiến thuật côn trùng". Ca khúc chủ đề trong phim là "Aoi Sora Pocket sa" của Ōsugi Kumiko. Phim giành được giải Golden Gross lần thứ 26. Nội dung. Trên đường trở về nhà Nobita bị Jaian bắt nạt. May thay, Nobita đã thoát, trở về nhà và nói với Doraemon. Nhưng hôm nay, Doraemon có nhiều điều gì lạ. Sau khi hỏi kĩ Nobita mới biết là Doraemon phải trở về tương lai. Nobita nằng nặc không cho chú mèo đi. Nhưng số mệnh không thể thay đổi, tối đến, Nobita và Doraemon có bữa ăn thịnh soạn cuối cùng, cả hai đã "trăm phần trăm" bánh rán. Thấy khó ngủ và trăng đẹp, Nobita và Doraemon Cùng đi dạo. Và cuối cùng là đến bãi đất trống. Trời se lạnh và Doraemon hỏi Nobita là cậu ấy sẽ ổn khi không có mình bên cạnh. Nobita đã "ừm" không suy nghĩ. Vì xúc động với những lời nói Nobita,không muốn cậu ta nhìn thấy mình khóc Doraemon đã vội đi tìm chỗ khóc. Lúc sau, Jaian đến và cả hai có trận chiến kịch tính mà Doraemon không hề biết mãi cho đến khi trời đổ mưa và Doraemon nhìn thấy chính đôi tay Nobita đã đánh bại Jaian. Nobita đã nói Doraemon "Doraemon cậu thấy chưa? Chính tớ đã đánh bại Jaian đấy cho nên cậu hãy yên tâm trở về tương lai". Doraemon đã "ừm" trong ánh mắt kìm nén lại những giọt lệ đang dần rơi xuống. Doraemon đưa cậu về, Nobita đã kiệt sức vì trận đánh nên đã ngủ thiếp đi. Doraemon ngắm nhìn Nobita rất lâu rồi leo lên hộc tủ vẫy tay chào Nobita. Hôm sau là ngày Cá tháng tư nên Suneo và Jaian đã lừa Nobita nói là nhìn thấy Doraemon để trả thù chuyện hôm trước, Nobita rất đau khổ khi biết được sự thật. Cậu về nhà lấy nước nối dối USO 800 - bảo bối cuối cùng Doraemon để lại cho cậu - để trừng trị Jaian và Suneo, lúc đầu cậu thấy vui vì điều đó nhưng sau đó cậu thấy buồn vì Doraemon không bên cạnh. Cậu về nhà và mẹ cậu hỏi cậu đã tìm thấy Doraemon chưa, cậu bảo chưa và đi lên phòng. Khi mở cửa vào phòng thì cậu thấy Doraemon. Cả hai lệ oà, lúc đó Jaian và Suneo đến xin lỗi và Shizuka cũng đến.
1
null
Onyx là một biến thể có vân của canxedon. Màu sắc của các vân thay đổi từ trắng đến rất nhiều màu. Thông thường, các mẫu onyx có các vân màu đen và/hoặc trắng. Biến thể. Onyx được tạo thành bởi các vân canxedon với nhiều màu sắc khác nhau. Nó có dạng vi tinh bao gồm các hạt silica của thạch anh và moganit phát triển xen nhau. Các vân song song nhau, giống như các vân của agat.
1
null
Georg Wilhelm Richmann (tiếng Nga: Георг Вильгельм Рихман) (22/7/1711-6/8/1753) là nhà vật lý người Nga gốc Đức. Ông đã chết một cách rất thảm khốc khi thực hiện lại thí nghiệm về cánh diều nổi tiếng của nhà khoa học người Mỹ Benjamin Franklin (thí nghiệm được thực hiện vào năm 1752) Ông bị sét đánh khi đang làm thí nghiệm , Richmann đã bị thiệt mạng. Đây là trường hợp đầu tiên trong lịch sử điện từ học có người thiệt mạng khi làm thí nghiệm về điện từ học. Những sự hy sinh thảm khốc như thế không hiếm trong khoa học, đặc biệt là trong một ngành chứa đựng nhiều nguy hiểm như điện từ học.
1
null
Mùa bóng 2013-2014 là mùa bóng lần thứ 122 câu lạc bộ Liverpool tham gia trên các giải đấu và là mùa thứ 22 của giải ngoại hạng Anh. Đến những vòng đấu cuối, họ vẫn đang dẫn đầu bảng. Tuy nhiên trận thua một trận thua và một trận hòa ở những vòng cuối cùng là cú trượt ngã đáng tiếc và Liverpool đành an phận với vị trí á quân ở mùa giải này. Dù vậy họ cũng đạt được một số danh hiệu ở cấp độ cá nhân như Rodgers giành danh hiệu Huấn luyện viên xuất sắc, Suarez đoạt cú đúp Cầu thủ hay nhất Anh và hoàn tất cú ăn bốn danh hiệu cá nhân. Chiến thuật mới. Mùa này họ đội hình tấn công đáng gờm và họ khát vọng vô địch. Đội hình tấn công lý tưởng của Liverpool, trong đó Sturridge đá trung phong, Moses và Suarez đảm nhận hai cánh, Coutinho đá hộ công. Một nét mới trong lối chơi mùa này của Liverpool dưới triều đại của Brendan Rodgers chính là đội bóng này đã áp dụng lối chơi tiqui-taca. Brendan Rodgers tuyên bố sẽ áp dụng lối chơi này cho Liverpool với nhiều lo ngại khi khi mà hầu hết những cầu thủ quá quen với phong cách cổ điển lật cánh đánh đầu, đá giản biên, nhồi bóng và không chiến. Ông đã nhận ra lối chơi của Liverpool có thể áp dụng được vì cơ bản đây là đội bóng có lối chơi tấn công rực lửa, về nhân lực, ở vị trí thủ môn, Liverpool có Pepe Reina, được đánh giá cao hơn cả Victor Valdes. Glen Johnson tấn công đầy kỹ thuật như Daniel Alves. Daniel Agger có phong cách chơi bóng giống Pique, thích nhô cao tham gia tấn công, Luis Suarez từng được người Uruguay so sánh với Messi, dù bản thân Suarez thấy ngượng đến mức đỏ mặt vì sự so sánh này.
1
null
Bốn giao điểm của bốn đường: vĩ tuyến 45 Bắc, vĩ tuyến 45 Nam, đường kinh tuyến gốc và kinh tuyến 180 được gọi là các điểm 45x90. 45°B, 90°T. Điểm nổi tiếng và được viếng thăm nhiều nhất là điểm nằm ở thị trấn Rietbrock, Wisconsin. Một dấu mốc đã được ban quản lý công viên quận Marathon dựng lên tại đây. Nhờ các thiết bị GPS, dấu mốc đã được điều chỉnh lại, điểm 45x90 thực tế nằm ở phía sau và cách dấu mốc 324 m; người ta chọn vị trí của dấu mốc vì nó nằm sát với con đường. 45°B, 90°Đ. là điểm 45x90 nằm trên đất liền duy nhất còn lại. Nó nằm ở một vùng hoang vắng thuộc khu tự trị Tân Cương gần biên giới Mông Cổ, cách Ürümqi khoảng 240 km về phía Đông Bắc. Theo phân chia hành chính thì nó nằm trên ranh giới của hai quân Qitai và Qinggil. Greg Michaels (một người Mỹ) cùng với Ru Rong Zhao, tài xế taxi từ thị trấn gần đó, đã đi 110 km về phía Nam Tây-Nam, đặt chân đến vị trí 45x90 này vào ngày 13 tháng 4 năm 2004 và đã ghi lại chuyến đi này. Chuyến đi của họ chỉ ra rằng ở đấy không có bất kỳ cột mốc nào được xây dựng để đánh dấu vị trí 45x90 này. 45°N, 90°T và 45°N, 90°Đ. Hai điểm 45×90 còn lại nằm ở bán cầu nam, thuộc Thái Bình Dương và thuộc Ấn Độ Dương. Vào tháng 3 năm 2014, điểm 45x90 ở Ấn Độ Dương chính là điểm trung tâm của khu vực tìm kiếm chiếc máy bay mất tích 370 của Malaysia Airlines.
1
null
Benthophilus baeri là một loài cá thuộc họ Cá bống trắng trải rộng ở phía nam và trung biển Caspi, đến phía nam Lankaran. Loài này cũng được tìm thấy gần đảo Chechen, quần đảo Tyuleniy (Kazakhstan) và ở phía bắc Bakhtemirovskaya Borozdina. Loài sinh sống ở độ sâu . Con đực có chiều dài và con cái có chiều dài TL.
1
null
Eilhard Mitscherlich (1794-1863) là nhà hóa học người Đức. Ông là một trong những người đầu tiên điều chế benzen. Sau khi benzen được phát hiện vào năm 1825 bởi Michael Faraday, 1833, chính Mitscherlich đã điều chế benzen từ kali benzoat. Điều này đã góp phần mở ra một thời đại nghiên cứu một trong những chất quan trọng nhất đối với con người.
1
null
IP Camera (trong tiếng Anh là Internet Protocol Camera, viết tắt IP Camera), là một loại camera được điều khiển và sử dụng từ xa qua mạng. Mỗi Camera được có một địa chỉ IP có thể hoạt động độc lập hoặc kết hợp thành một hệ thống mà không bị giới hạn về số lượng camera. Lịch sử. IP Camera được thương mại hóa lần đầu vào năm 1996, bởi hãng Axis Communications Đặc điểm. IP Camera có ưu điểm thu được hình ảnh với độ nét và số megapixel cao. Một lợi thế của camera IP là khả năng sử dụng hệ thống dây mạng sẵn có để truyền điện (PoE) phục vụ cho hệ thống camera. Điều này được tuân theo tiêu chuẩn TIA/EIA-568-B với giới hạn khoảng cách từ switch tới camera là 100m. Lưu lượng tín hiệu IP cần lưu ý các vấn đề: băng thông, thay đổi tỉ lệ bit, kích thước file lớn, cân bằng tải, virus và độ trễ. Nếu mạng có vấn đề dù chỉ trong giây lát, hình ảnh sẽ bị gián đoạn hoặc kém chất lượng. Dữ liệu IP có thể được mã hóa và khó có thể biết được nội dung nếu bị đánh cắp. IP Camera đòi hỏi một số kỹ năng mạng cơ bản cho việc lắp đặt ở quy mô nhỏ. Nhưng ở những quy mô lớn hơn như doanh nghiệp, việc lắp đặt camera IP yêu cầu người lắp đặt phải trang bị kỹ năng và chuyên môn kỹ thuật nhiều hơn. IP Camera cần một NVR để giao tiếp với từng camera cụ thể. Mỗi khi muốn lắp đặt một camera mới, bạn cần đảm bảo rằng NVR có hỗ trợ cho camera đó. Bởi vì NVR có thể chỉ hỗ trợ một số camera giới hạn của một nhà sản xuất cụ thể. Ngày nay, chuẩn ONVIF được sử dụng chung cho tất cả camera và đầu ghi hình, giúp NVR và Camera IP hỗ trợ lẫn nhau. Một trong những ưu điểm của IP là nếu muốn thêm vào một camera IP mới, chỉ cần cắm vào bất kỳ kết nối mạng nào. Tuy nhiên, khi muốn mở rộng hệ thống camera lên quy mô lớn cho các doanh nghiệp, cần phải có những thiết bị quản lý chuyên dụng và băng thông cần thiết. IP Camera có thể đắt hơn gấp 3 lần so với camera bình thường. Việc lắp đặt hệ thống cho IP Camera có thể trở nên rất tốn kém bởi nó đòi hỏi phải có các switch và các thiết bị ngoại vi. Các loại camera:. Tùy theo chức năng của chúng, Camera IP thường được phân loại thành ba loại chính là camera cố định (fixed), camera varifocal và camera pan-tilt-zoom (PTZ). Camera cố định có góc nhìn cố định về đối tượng, trong khi camera varifocal có khả năng điều chỉnh zoom của hình ảnh từ xa. Ngoài ra, camera PTZ có khả năng điều chỉnh hướng của bộ phận camera theo bất kỳ hướng nào từ xa. Điều này có thể được sử dụng để theo dõi chuyển động hoặc điều chỉnh vùng giám sát thủ công. Camera IP có thể được thiết kế cho việc sử dụng trong nhà hoặc ngoài trời. Camera ngoài trời thường được xếp hạng IP65/IP67 để chống chịu điều kiện thời tiết ngoài trời. Camera IP có thể cung cấp nhiều công nghệ hình ảnh số khác nhau như camera đa cảm biến (multi-sensor), camera toàn cảnh (panoramic) và camera hồng ngoại (thermal imaging). Những vấn đề thường gặp. Trong thời gian gần đây, có khá nhiều vấn đề về IP Camera đã được báo cáo, nhưng tiêu biểu nhất là vấn đề kĩ thuật của hãng CCTV.
1
null
John Alexander Reina Newlands (1837-1898) là nhà hóa học người Anh. Vào năm 1864, ông tìm ra quy luật: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Đây là một trong những nghiên cứu quan trọng, tạo cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về bảng tuần hoàn. Tiểu sử. Newlands sinh ra ở Luân Đôn, Anh, là con trai của Bộ trưởng Giáo hội Trưởng Nhiệm Scotland và vợ người Ý.
1
null
Jamsil Arena (), còn được gọi là Sân vận động trong nhà Jamsil, là một nhà thi đấu thể thao nằm ở Seoul, Hàn Quốc. Nhà thi đấu này là một phần của Khu liên hợp thể thao Seoul. Nhà thi đấu có sức chứa 11.069 chỗ ngồi cho các trận đấu bóng rổ. Nhà thi đấu này được xây dựng từ tháng 12 năm 1976 đến tháng 4 năm 1979. Nơi đây thường được sử dụng cho các môn thể thao trong nhà cũng như các sự kiện giải trí. Đây là sân nhà của đội bóng rổ Seoul Samsung Thunders. Sự kiện. Năm 1985, giải bóng đá trong nhà đầu tiên của Hàn Quốc được tổ chức tại đây. Đại hội Thể thao châu Á 1986 đã sử dụng địa điểm này để đăng cai môn bóng chuyền. Năm 1988, Jamsil Arena tổ chức các trận thi đấu môn bóng chuyền và bóng rổ trong khuôn khổ Thế vận hội Mùa hè 1988. Ngoài ra, đây cũng là nơi làm lễ tuyên thệ nhậm chức cho Tổng thống Hàn Quốc Jeon Du-hwan vào đầu thập niên 1980. Jamsil Arena tổ chức nội dung bóng rổ và bóng chuyền của Thế vận hội Mùa hè 1988. Nó cũng được sử dụng để tổ chức sự kiện giải trí, bao gồm sự kiện và biểu diễn World Wrestling Entertainment (WWE), bởi Iron Maiden, Alicia Keys, Muse, Nine Inch Nails, Incubus, và nhóm nhạc Nhật Bản L'Arc-en-Ciel... Hòa nhạc. ! colspan=4|Danh sách các buổi hòa nhạc tại Nhà thi đấu Jamsil ! Năm !! Ngày tháng !! Nghệ sĩ !! Sự kiện
1
null
Sân vận động Gwangju Mudeung là một khu liên hợp thể thao ở Gwangju, Hàn Quốc. Sân vận động chính hiện được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân có sức chứa 30.000 người và được khánh thành vào năm 1966. Tại Thế vận hội Mùa hè 1988, sân đã tổ chức một số trận đấu môn bóng đá. Khu liên hợp này cũng bao gồm Sân vận động bóng chày Gwangju Mudeung và nhà thi đấu.
1
null
Sân vận động bóng chày Gwangju Mudeung là sân vận động bóng chày ở Gwangju, Hàn Quốc. Hiện nay nó được sử sụng để phục vụ cho hầu hết các trận bóng chày và là sân nhà của Kia Tigers, trước là Haitai Tigers. Sân vận động này là một trong những sân vận động lâu đời nhất của Hàn Quốc.
1
null
Corine Cécile Franco (tên thời con gái Petit) sinh năm 1983 tại La Rochelle, Pháp. Là nữ tuyển thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp, cô từng đứng đầu top 10 nữ cầu thủ xinh đẹp, hấp dẫn nhất World Cup 2011. Corine Franco hiện đang là cầu thủ của câu lạc bộ bóng đá nữ hàng đầu nước Pháp Olympique Lyonnais. Với chiều cao lý tưởng 1m78 cùng khuôn mặt khả ái, cô đã nhận được nhiều lời mời làm người mẫu cho các tạp chí nổi tiếng trên thế giới. Thống kê. "Tính đến 15/3/2012" Sự nghiệp quốc tế
1
null
Na Tiên (chữ Hán: 那先) hay còn được gọi là Na-già-tê-na (tiếng Phạn: "Nāgasena") là một tỉ-kheo Phật giáo đến từ vùng Kashmir và sống vào khoảng những năm 150 TCN. Ông đã trả lời những câu hỏi về Phật giáo được đặt ra bởi Menandros I (tiếng Pali: Milinda), nhà vua Ấn-Hy Lạp phía tây bắc Ấn Độ (tại Pakistan), được ghi lại trong Milindapanha ("Di Lan Đà vấn đạo" hay Na Tiên tỉ khâu kinh). Tên gọi "Na-Tiên" (那先) là tên phiên âm trong chữ Hán. Ông được tôn làm Khoái Nhĩ La hán (挖耳羅漢), một trong thập bát La hán của Phật giáo Đại thừa. Trong tiếng Phạn, "Nāga" mang nghĩa là rắn hổ mang, rắn, hay con rồng, và cũng có thể nói là rắn lai người, một siêu chủng tộc cổ, những người sáng lập trong truyền thuyết nhiều nước châu Á. "Sena" có nghĩa là quân đội. Do đó tên của ông có thể được dịch là "Quân đội của Nāga" hay "Đội quân rồng", nghĩa là một sự hiện diện siêu nhiên rất mạnh mẽ. Theo bộ kinh Di Lan Đà vấn đạo thì ông sinh ra tại làng Kajangala, dưới chân dãy Himalaya, ở vùng Tây bắc Ấn Độ, trong một gia đình Bà La Môn mà thân phụ tên là Soñuttara, các sư phụ gồm đại sư Rohana và Assagutta của tăng viện Vattaniya, Dharmarakshita của tăng viện Asoka Ārāma ở kinh đô Pātaliputta. Chính đại sư Dharmarakshita đã từng được A-dục vương phái đi truyền đạo ở Aparanta phía tây nước Ấn. Một vị thầy khác là đại sư Āyupāla của tăng viện Sankheyya gần Sāgala. Khi vua Menandros đến vấn kinh thì ông đang trụ trì tăng viện Sankheyya có đến 80 ngàn tỳ kheo lưu trú. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp. Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên. George Woodcock sau khi tìm hiểu hệ thống truyền thừa của Phật giáo trong vùng đã cho rằng Nagasena có thể là vị sư gốc Hy Lạp ở Bactria.
1
null
Cá nước ngọt là các loài cá sinh sống chủ yếu trong môi trường nước ngọt, chẳng hạn như sông và hồ, với độ mặn ít hơn 0.05%. Các môi trường sống này khác biệt rất nhiều với môi trường biển, chủ yếu là độ mặn của nước. Để tồn tại ở môi trường nước ngọt, các loài cá cần phải có sự thích ứng sinh lý học. Khoảng 41.24% các loài cá tìm thấy ở môi trường nước ngọt. Điều này chủ yếu do sự biệt hóa làm phân tán môi trường sống. Khi xử lý các hồ và ao nước, người ta có thể dùng các mô hình cơ bản giống nhau cho sự biệt hóa khi nghiên cứu địa lý sinh vật đảo.
1
null
Đại học Shinawatra (viết tắt: SIU) là một đại học tư nhân được thành lập bởi cựu thủ tướng Thái Lan, tiến sĩ Thaksin Shinawatra và các đồng sự với ý tưởng ban đầu hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Việc thiết kế và xây dựng môi trường học tập thân thiện được kế tục bởi tiến sĩ Soontorn Boonyatikarnin năm 1997. Năm sau đó, các kế hoạch đổi mới tiếp tiếp tục được giới thiệu tới công chúa Hoàng gia Mahachakri Sirindhorn và Bộ giáo dục Thái Lan để cấp phép phát triển cuối năm 1999.
1
null
Bóng bàn tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013 diễn ra tại Sân vận động trong nhà Wunna Theikdi, Naypyidaw, Myanmar từ ngày 17 đến 21 tháng 12. Huy chương. Các vận động viên giành huy chương. Tất cả các môn tại Đại hội đều thi đấu bằng hình thức đấu loại trực tiếp.
1
null
Thomas Andrew "Tom" Lehrer (sinh 9 tháng 4 năm 1928) là một nhạc sĩ, nghệ sĩ piano, nhà trào phúng và nhà toán học. Ông từng đồng thời giảng toán và nhạc kịch. Ông được biết đến nhiều nhất với những ca khúc hài hước, sinh động được ghi đĩa những năm 1950 và 1960. Công trình của ong thường nhại lại những ca khúc pop đương thời, mặc dù ông thường tạo ra giai điệu của riêng mình. Một ngoại lệ đáng chú ý là bài hát "The Elements" (Các Nguyên tố) trong đó ông đặt tên của các nguyên tố hóa học vào giai điệu của bài "Major-General's Song" từ album "Pirates of Penzance" của Gilbert và Sullivan. Các tác phẩm ban đầu của Lehrer thường liên quan tới các vấn đề không có tính thời sự và đáng chú ý về tính hài hước sâu cay trong những ca khúc như "Poisoning Pigeons in the Park" (Đầu độc bầy Bồ câu trong Công viên). Những năm 1960, ông sáng tác một số ca khúc liên quan tới các vấn đề xã hội và chính trị đương thời, đặc biệt khi ông viết cho phiên bản Mỹ của show truyền hình "That Was the Week That Was". Bất chấp những gợi nhắc và chủ đề có tính thời sự của chúng, sự phổ biến của những ca khúc này kéo dài; Lehrer từng nhắc lại lời giải thích từ một người bạn: "Cứ luôn dự đoán điều tệ nhất và anh sẽ được ca ngợi như một vị tiên tri." Đầu những năm 1970, ông giã từ việc biểu diễn cho công chúng để dành thời gian vào việc dạy toán và nhạc kịch ở Đại học California, Santa Cruz. Ông có hai buổi xuất hiện biểu diễn năm 1998 ở một gala show London kỉ niệm sự nghiệp của ông bầu Cameron Mackintosh. Tuổi trẻ. Lehrer sinh năm 1928 trong một gia đình Do Thái và lớn lên trong một quận giàu có ở Manhattan (New York). Cha ông, James Lehrer là một nhà sản xuất cà vạt tiên phong, đồng thời vận động tích cực cho tòa Thượng thẩm Do Thái Mặc dù được nuôi dạy trong môi trường Do Thái, Lehrer trở thành một người vô thần bất khả tri. Ông bắt đầu học piano cổ điển khi lên 7, nhưng quan tâm hơn nhiều tới nhạc pop đương thời. Cuối cùng mẹ ông cũng gửi ông tới một thầy dạy piano pop. Khi còn nhỏ, ông đã bắt đầu viết các điệu biểu diễn, thứ giúp ông trở thành một nhà soạn nhạc trào phúng những năm ở Harvard sau này. Lehrer vào học Trường Horace Mann ở Riverdale, Bronx. Ông cũng từng tham gia trại hè Androscogin, ban đầu là người cắm trại sau là chỉ huy. Lehrer được ghi nhận là một thần đồng và vào Đại học Harvard ở tuổi 15 sau khi tốt nghiệp trường dự bị Loomis Chaffee Khi đang là sinh viên ngành toán, ông bắt đầu viết các ca khúc hài hước để giải trí với bạn bè, bao gồm những bài như "Fight Fiercely, Harvard" (1945). Những ca khúc này về sau được đặt tên lại thành "The Physical Revue" nhại theo tên một tạp chí khoa học hàng đầu là "Physical Review". Sự nghiệp nghiên cứu. Lehrer nhận bằng hạng ưu ("magna cum laude", tức trong tốp 20%) ngành toán năm 1946, nhận bằng thạc sĩ năm sau đó khi mới 19 tuổi, và được giới thiệu vào hội danh dự Phi Beta Kappa của các sinh viên ưu tú. Ông từng dạy các lớp toán đại học ở MIT, Harvard và Wellesley. Ông ở lại Harvard làm luận văn tiến sĩ trong vài năm, nhưng dành nhiều thời gian cho sự nghiệp âm nhạc và làm việc như một nhà nghiên cứu ở Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos. Ông phục vụ trong Quân lực Hoa Kỳ từ 1955 tới 1957, làm việc cho Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA). (Lehrer về sau tuyên bố rằng ông đã phát minh ra công thức "Jell-O shots", một loại thạch có trộn rượu phổ biến, nhằm lách qua quy định hạn chế uống rượu hồi đó). Mặc dù nhận bằng thạc sĩ trong một thời kỳ mà những người đến tuổi đi lính thường không có bằng tốt nghiệp phổ thông, Lehrer đã phục vụ trong quân đội với tư cách lính trơn mà không phải sĩ quan, sau dần được thăng lên hạng Chuyên gia hạng ba, mà Lehrer tự coi là tương đương hạ sĩ. Năm 1960, Lehrer trở lại nghiên cứu toàn thời gian ở Harvard, nhưng từ bỏ viết luận văn năm 1965 về mode thống kê sau 15 năm làm việc dứt quãng. Từ năm 1962, ông dạy tại ngành khoa học chính trị ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Năm 1972, ông chuyển sang Đại học California ở Santa Cruz, dạy một khóa đại cương mang tên "Bản chất của Toán học" cho sinh viên các ngành nghệ thuật trong chương trình dạy học cách tân của trường này. Ông cũng dạy ngành nhạc kịch và thỉnh thoảng biểu diễn các ca khúc trong lớp học của mình Lớp giảng toán học cuối cùng của Lehrer (về chủ đề vô hạn) là vào năm 2001; ông cũng từ bỏ giới hàn lâm từ đây. nhưng nói rằng mình vẫn còn quan tâm tới lĩnh vực này và thảo luận với đồng nghiệp cũ ở Santa Cruz. Công bố toán học. Hiện nay trong dữ liệu của Hội Toán học Mỹ còn tìm thấy hai bài báo mà ông là tác giả:
1
null
Bóng bàn được tổ chức tại Đại hội Thể thao châu Á 1958 ở Đại học thể thao Waseda, Tokyo, Nhật Bản từ 25 tháng 5 đến 31 tháng 5 năm 1958. Nội dung thi bóng bàn gồm đội, đôi và đơn dành cho nam và nữ, cũng như đôi hỗn hợp.
1
null
Chương Đức Đậu Hoàng hậu (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi Chương Đức Đậu Thái hậu (章德竇太后), Đông Hán Đậu Thái hậu (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chương Đế Lưu Đát trong lịch sử Trung Quốc. Bà là một vị Hoàng hậu có ảnh hưởng đến tình hình chính trị trong suốt triều đại của chồng mình là Hán Chương Đế, tiếp đó đến thời của con trai ông là Hán Hòa Đế với tư cách là Hoàng thái hậu. Bà trực tiếp xen vào việc chính sự, can thiệp bằng thế lực ngoại thích qua anh trai bà Xa Kỵ đại tướng quân Đậu Hiến, vị tướng lừng lẫy với chiến tích đánh dẹp Hung Nô. Đậu Thái hậu là Thái hậu đầu tiên của Đông Hán thực hiện nhiếp chính, đã mở đầu cho một chuỗi liên tiếp việc ngoại thích nắm đại quyền nhà Hán qua các thời đại về sau. Thân thế. Chương Đức Thái hậu không rõ tên thật và năm sinh, bà xuất thân từ danh gia Phù Phong Đậu thị (扶風竇氏), người Phù Phong, Bình Lăng (扶風平陵; nay là Bảo Khê, Thiểm Tây). Tằng tổ phụ là Đông Hán Khai quốc công thần, nhậm Tư không, tước An Phong hầu Đậu Dung (竇融), vốn là hậu duệ 7 đời của Đậu Quảng Quốc (竇廣國) - em trai của Hiếu Văn Đậu hoàng hậu. Cả nhà ở tại Trường An, xuất nhập quý thích, liên kết làng xóm hào kiệt, lấy nhậm hiệp làm danh. Tổ phụ Đậu Mục (竇穆), cưới Nội Hoàng công chúa (內黃公主) nên được làm đến "Môn Thành Giáo úy" (城门校尉), thân phụ Đậu Huân (竇勳), nghênh thú Tỷ Dương công chúa (沘陽公主) - con gái của Đông Hải Cung vương Lưu Cương, con trai đầu của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú. Tỷ Dương công chúa sinh Đậu Hiến cùng Đậu thị; ngoài ra còn có Đậu Đốc (竇篤), Đậu Cảnh (竇景) cùng Đậu Côi (窦瑰) đều là con của thiếp thất. Do gia thế rất hiển hách nên ông nội và cha bà thấy bấy giờ khá là đắc ý. Sau đó, Đậu gia phạm trọng tội, bị bắt và xử tử, riêng Tỷ Dương công chúa và hai con gái được gia ân, cho phép ở lại kinh đô Lạc Dương. Do gia thế sa sút, Tỷ Dương công chúa thường mời các Tương công xem tướng vận, bọn họ nhìn vào đều nói Đậu thị nhất định sẽ đại tôn đại quý, không phải là một mệnh phụ bình thường. Lớn lên, Đậu thị vô cùng thông minh và xinh đẹp, 6 tuổi có thể đọc sách và biết chữ, sớm nổi tiếng khắp thành Lạc Dương. Nhập cung Hán. Năm Kiến Sơ thứ 2 (77), tháng 8, bà cùng em gái được tuyên vào trong Trường Lạc cung (長樂宮), phong độ dung mạo đều thực xuất chúng. Khi ấy, Hán Chương Đế nghe tiếng nhan sắc Đậu thị, nhiều lần hỏi các Phó mẫu (các Nữ quan dạy dỗ cung tần trong cung), ngay cả Mã Thái hậu khi trông thấy Đậu thị cũng cảm thấy người này thực khác thường, nên giữ lại ở trong Dịch đình. Khi đến Dịch đình, Đậu thị đã nhân đó đến Bắc cung Chương Đức điện (章德殿), Đậu thị thiên tính nhanh nhẹn, tận tâm mà biết ứng tiếp, trên dưới trước sau xã giao rất được thể diện, cho nên thanh danh từng ngày lan truyền ra. Năm Kiến Sơ thứ 3 (78), ngày 2 tháng 3, Hán Chương Đế ra chỉ lập bà làm Hoàng hậu, em gái làm Quý nhân, truy tôn cha bà Đậu Huân làm "An Thành Tư hầu" (安成思侯). Từ đó, Đậu thị chuyên sủng hậu cung, nhưng mãi mà Đậu hậu vẫn không có con. Mã Thái hậu rất yêu quý Tống Quý nhân, yêu cầu Hán Chương Đế phải lập con của Tống thị là Lưu Khánh làm Thái tử. Đậu hậu lúc đó không có con, nên bèn chọn con trai của Lương quý nhân là Hoàng tử Lưu Triệu làm con nuôi, hòng học tập theo Mã Thái hậu nhận nuôi Hán Chương đế trước đó. Sau khi Mã Thái hậu qua đời, Đậu hậu bèn lên kế hoạch phế truất Tống quý nhân cùng con trai là Thái tử Lưu Khánh. Bà bí mật nhờ anh là Đậu Hiến thu thập các bằng chứng phạm tội của nhà họ Tống, đồng thời mua chuộc các cung nữ, hoạn quan bên phía Tống Quý nhân. Năm Kiến Sơ thứ 6 (81), Tống Quý nhân lâm bệnh, cơn bệnh khiến bà rất thèm Chi Tơ hồng nên yêu cầu gia đình đưa vào cung. Nhân đó, Đậu hoàng hậu tố cáo Tống quý nhân đưa vật lạ vào cung để làm trò phù thủy trong cung. Các Hoàng đế nhà Hán sau sự kiện của Hán Vũ Đế, đã rất nhạy cảm đến chuyện đồng cốt, pháp sư ở trong cung, nên việc này khiến Hán Chương Đế nổi trận lôi đình, liền phế truất Thái tử Lưu Khánh. Tống Quý nhân bị phế và bị giải vào ngục, sau bị ép tự vẫn. Thái tử Lưu Khánh bị phế thành "Thanh Hà vương", còn Lưu Triệu được lập làm Thái tử, do Đậu hoàng hậu nuôi dưỡng. Năm thứ 7 (82), truy tặng cha của Đậu hậu làm "An Thành Tư hầu" (安成思侯). Nhà họ Lương của Lương Quý nhân có được cháu là Thái tử nên lấy làm vui mừng. Họ Đậu khi biết được, cảm thấy không vui vì tương lai sẽ cùng họ Lương san sẻ ảnh hưởng đến Lưu Triệu, Đậu hậu bèn tìm cách tiêu diệt luôn dòng họ Lương. Năm Kiến Sơ thứ 8 (83), Đậu hậu tố cáo Lương Tủng - cha của Lương Quý nhân nhiều tội trạng vô căn cứ nhưng Chương Đế vẫn tin, ra lệnh giam Lương Tủng vào ngục khiến ông chết trong đó. Lương Quý nhân đau buồn quá độ mà mất theo. Họ Đậu dần dần trở thành ngoại thích mới có thế lực. Khi Hán Chương Đế không còn tin dùng dòng họ Mã của Mã Thái hậu quá cố, ông thay thế bằng hai người anh của bà là Đậu Hiến và Đậu Đốc, Đậu Hiến nhậm chức "Thị trung" (侍中), kiêm "Dũng sĩ Trung lang tướng" (虎贲中郎将); còn Đậu Đốc nhậm "Hoàng môn Thị lang" (黄门侍郎). Hai anh em cùng mông thân hạnh, xuất nhập nội cung, lại có em gái làm Hoàng hậu nên khí thế hơn người. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngoại thích nhà Hán, thế lực của Hoàng hậu lại mạnh hơn thế lực của Thái hậu. Khi ấy Đậu Hiến áp bức Thấm Thủy công chúa Lưu Trí - con gái của Hán Minh Đế, thu mua luôn vườn rau của công chúa, công chúa sợ khí thế của Hiến mà nhẫn nhịn. Sau, Hán Chương Đế qua nơi đây, chỉ hỏi vườn rau, Đậu Hiến bị tội, Chương Đế khi ấy cực kỳ giận dữ. Đậu hậu phải tháo trâm rũ tóc, cầu tình Hoàng đế, Đậu Hiến mới được tha cho. Tuy lần này Đậu Hiến thoát, song từ đó Hán Chương Đế không còn trọng dụng Đậu Hiến nữa. Lâm triều. Năm Chương Hòa thứ 2 (88), Hán Chương Đế băng hà. Con trai là Thái tử Lưu Triệu mới 9 tuổi đăng cơ tức Hán Hòa Đế, Hoàng hậu Đậu thị trở thành Hoàng thái hậu. Do Hoàng đế còn nhỏ tuổi, Đậu Thái hậu lâm triều xưng chế, mở đầu cho việc Thái hậu nhiếp chính của thời Đông Hán. Ngay lập tức, Đậu Thái hậu nghĩ đến việc củng cố thế lực. Bà tôn mẹ làm Trưởng công chúa, ban thực ấp hơn 3.000 hộ. Đậu Hiến nhậm "Thị trung", đứng đầu ngoại thích họ Đậu, có thể xuất tuyên cáo mệnh; Đậu Đốc được Hán Chương Đế di chiếu làm "Hổ bí Trung lang tướng" (虎贲中郎将), còn Đậu Cảnh cùng Đậu Coi nhậm "Trung thường thị" (中常侍), cả nhà họ Đậu quyền khuynh thiên hạ. Thị trung Đậu Hiến rất giỏi dẫn dắt, ông thấy Thái úy Đặng Bưu là người ngay thẳng, nên vận động Đặng Bưu lên làm Thái phó, hễ khi Đậu Hiến muốn làm gì, đều vận động Đặng Bưu thay mình đề nghị lên triều đình, còn bản thân Hiến sẽ đích thân nói với Thái hậu. Mặc khác, Truân kỵ Giáo úy Hoàn Úc mấy thế hệ đều làm Đế sư, nên lần này Đậu Hiến liền đề cử Hoàn Úc làm thầy dạy cho Hán Hòa Đế. Trong ngoài hiệp trợ như vậy, căn cơ của Đậu Hiến thực vững. Đối với người làm mình phật ý, Đậu Hiến rất kì kèo thù dai. Khi ông đã có quyền thế, liền truy tìm kẻ đã xử chết cha ông là Yết Giải, bắt người này bị cách chức rồi chết thảm. Hay như Đô Hương hầu Lưu Sướng, được đến tham bái tang lễ của Chương Đế, sau rất được Đậu Thái hậu yêu thích, thường triệu vào cung. Đậu Hiến biết, sợ người này sẽ san sẻ chia phân quyền lực của mình, bèn sử dụng quân binh giết đi, còn đổ tội cho em trai là Lợi hầu Lưu Cương. Đậu Thái hậu cực kỳ giận dữ, từ đó không cho Đậu Hiến dự vào việc trong cung nữa. Biết Đậu Thái hậu tức giận, Đậu Hiến xin cầm quân đi đánh Bắc Hung Nô để chuộc tội và đã lập được đại công, ông được phong tước "Xa kỵ tướng quân" (車騎將軍), lĩnh binh cùng Cảnh Bình đi trấn áp Bắc Hung Nô. Cuộc chiến này Đậu Hiến toàn thắng trở về. Năm Vĩnh Nguyên nguyên niên (89), tháng 9, Đậu Thái hậu nhân danh Hán Hòa Đế, phong Đậu Hiến làm "Đại tướng quân" (大将军), phong làm "Vũ Dương hầu" (武暘侯), thực ấp 20.000 hộ. Đại tướng quân quan chức ở dưới Tam công, ấn Thái úy tiêu chuẩn thiết trí quan thuộc. Lúc này Đậu Hiến quyền trấn triều đình, nhóm công khanh cùng nghênh ý chỉ, tấu thỉnh triều đình để Đại tướng quân Đậu Hiến ở trên Tam công. Đậu Hiến hồi kinh, thiết trí khao ban thưởng tướng sĩ, những tử đệ của trưởng quan các quận đã tùy Đậu Hiến xuất chinh đều thăng lên làm "Thái tử Xá nhân". Ngoài Đậu Hiến, Đậu Đốc cũng thăng "Vệ úy", Đậu Cảnh cùng Đậu Côi nhậm "Thị trung", "Phụng xa", "Phò mã Đô úy"; chức tước cứ thế tăng lên hằng ngày, nên anh em 4 người bọn họ đều đại tu dinh thự, xe ngựa hàng vạn, cực kỳ xa xỉ. Năm Vĩnh Nguyên thứ 2 (90), triều đình ấn định tấn phong ngoại thích họ Đậu dự hàng Liệt hầu. Đậu Hiến phong "Quán quân hầu" (冠軍侯), thực ấp 20.000 hộ; còn Đậu Đốc phong "Yển hầu" (郾侯), Đậu Cảnh phong "Nhữ Dương hầu" (汝暘侯) và Đậu Côi phong "Hạ Dương hầu" (夏暘侯), mỗi vị 6.000 hộ thực ấp. Trong số này, riêng Đậu Hiến quyết không chịu nhận tước. Năm Vĩnh Nguyên thứ 4 (92), Đậu Hiến cùng vây cánh là Đặng Điệp, Đặng Lỗi, Quách Tử cùng Quách Hoàng bị hạch tội mưu nghịch, lệnh tru trảm. Sự việc chi tiết không được ghi trong chính sử, nhưng đại khái rằng Hán Hòa Đế dường như rất ghét Đậu Hiến vì sự chuyên quyền của ông ta. Bên cạnh đó, Thanh Hà Hiếu vương Lưu Khánh, anh trai của ông cùng hoạn quan Trịnh Chúng đã khích lệ cho ông dẫn đến ông ra lệnh quân lính bắt giam Đậu Hiến, thu hồi ấn tín Đại tướng quân, buộc Đậu Hiến cùng Đậu Đốc, Đậu Cảnh và Đậu Côi bị giam ở đất phong, sau đó tất cả đều bị lệnh phải tự sát. Theo đó, Hán Hòa Đế còn xử tử nhiều người họ Đậu khác nhưng vẫn tôn thờ Đậu Thái hậu rất hiếu thảo. Băng thệ nghị truất. Năm Vĩnh Nguyên thứ 9 (97), ngày 14 tháng 8, Hoàng thái hậu Đậu thị băng thệ. Không rõ bao nhiêu tuổi. Đậu Thái hậu còn chưa kịp mai táng, chị của Lương Quý nhân quá cố đã thượng thư trần thuật sự việc Lương Quý nhân uổng mạng khi xưa. Thái úy Trương Bô (张酺), Tư đồ Lưu Phương cùng Tư không Trương Phấn (张奋) thượng tấu, theo tiền lệ Hán Quang Vũ Đế truy phế Lữ hậu, xin không gia tôn thụy hiệu cho Đậu Thái hậu, cũng không cho Đậu Thái hậu an táng yên ổn, nhập vào hoàng lăng hợp táng cùng Hán Chương Đế. Hán Hòa Đế ban viết: Đối với Lương Quý nhân là mẹ đẻ, Hán Hòa Đế truy tôn bà ấy làm Cung Hoài hoàng hậu cùng gia quyến, truy tôn thụy hiệu cho Đậu Thái hậu là Chương Đức hoàng hậu (章德皇后), với một ý nghĩa "đoan chính", "hiền thục" đầy chất tôn trọng. Ngày 29 tháng 8, hợp táng Chương Đức hoàng hậu Đậu thị bên cạnh Hán Chương Đế trong Kính lăng (敬陵).
1
null
"Come with Me Now" là một bài hát của ban nhạc Nam Phi Kongos. Ban đầu phát hành vào năm 2011 như một đĩa đơn từ album "Lunatic" của họ, "Come with Me Now" có được thắng lợi thường mại tại Mỹ vào năm 2014, đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Alternative Songs và trở thành đĩa đơn đầu tiên của họ được xếp hạng tại Mỹ. Bối cảnh và phát hành. Năm 2011, Kongos phát hành album "Lunatic", trong đó có "Come with Me Now" được phát hành như một đĩa đơn. Ban nhạc biểu diễn bài hát trong khi mở màn cho ban nhạc Mỹ Linkin Park tại Nam Phi, "Come with Me Now" đã được người hâm mộ yêu thích mặc dù lúc đầu nó phải khó khăn để tìm người nghe ở Mỹ. Vào đầu tháng 1 năm 2014, bài hát bắt đầu được lên sóng radio tại Mỹ, tạo nên sự chú ý của các hãng đĩa lớn giúp ban nhạc ký hợp đồng với Epic Records. Nó được phát hành tại contemporary hit radio Mỹ vào ngày 15 Tháng tư năm 2014.
1
null
Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi Phế hậu Âm thị (廢后陰氏), là một Hoàng hậu nhà Hán, Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu. Sau Quang Vũ Quách hoàng hậu của Hán Quang Vũ Đế, bà là vị Hoàng hậu thứ hai của Đông Hán bị phế truất. Trong khi đó, bà lại có quan hệ họ hàng với Kế hậu của Quang Vũ Đế là Âm Lệ Hoa. Tiểu sử. Âm hoàng hậu xuất thân danh giá, dòng dõi gia tộc Tân Dã Âm thị (新野陰氏) ở huyện Tân Dã, quận Nam Dương, Hà Nam, có nguồn gốc từ Quản Trọng nước Tề. Bà là con gái của Âm Cương (陰綱), cháu nội của Âm Thức (陰識) - chính là anh trai cả của Quang Liệt Âm hoàng hậu, Kế hoàng hậu của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú. Theo Hậu Hán thư ghi lại, Hoàng hậu Âm thị từ nhỏ thông tuệ, giỏi đọc sách và các món nữ công gia chánh, cầm kì thi họa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 4 (92), Âm thị nhập cung, do là họ hàng với Quang Liệt hoàng hậu nên rất được chiếu cố, được phong làm Quý nhân, rất được Hán Hòa Đế sủng ái. Năm thứ Vĩnh Nguyên 8 (96), sau nhiều lần bàn định, Âm thị được lập làm Hoàng hậu. Ngoại thích họ Âm do đó cũng được gia ân, cha bà Âm Cương được phong "Ngô Phòng hầu" (吳房侯), quan tước đặc biệt chiếu cố, 3 người anh em của Âm hoàng hậu là Âm Dật (陰軼), Âm Phụ (陰輔) và Âm Xưởng (陰敞) đều vào cung phong làm "Hoàng môn Thị lang" (黃門侍郎). Bị phế. Cũng trong năm Vĩnh Nguyên thứ 8, cháu nội của Khai quốc công thần Đặng Vũ là Đặng Tuy tiến cung, phong Quý nhân. Từ khi Đặng Quý nhân xuất hiện, Âm hậu càng bị Hán Hòa Đế chán ghét do thói ghen tuông mù quáng. Trong khi Hán Hòa Đế đang hiếm muộn, Đặng Quý nhân luôn tạo điều kiện cho Hòa Đế ân ái với các phi tần khác thì Âm hoàng hậu lại ngăn cản, bắt Hòa Đế xa lánh cung phi. Đặng Quý nhân từ đó ngày càng nổi tiếng hiền đức ở trong cung. Năm Vĩnh Nguyên thứ 13 (101), Hán Hòa Đế lâm bệnh, ở trong Chương Đức cung, có ban lệnh: "Không ai được vào nếu không được gọi". Âm hậu thấy Hòa Đế bệnh nặng, bèn nói với mọi người rằng sau này Hòa Đế chết, mình được đắc chí trả thù Đặng Quý nhân. Có cung nữ thương Đặng Quý nhân bèn đi báo, Đặng Quý nhân ca thán: "Ta dụng tâm đối đãi Hoàng hậu, không những không được lòng cảm thương của người, lại bị xem là tội đồ. Ta tuy thân phận đàn bà, nhưng cũng xin như Chu Công thỉnh mệnh giúp bệnh Chu Vũ vương; Việt Cơ tự sát vì Sở Chiêu vương. Như thế, trên có thể báo đáp thiên ân của Hoàng đế, dưới có thể bảo toàn gia tộc họ Đặng tránh họa diệt môn, tránh cho bản thân ta bị biến thành Nhân trư nhục nhã". Năm Vĩnh Nguyên thứ 14 (102), có người tố cáo Âm hậu bí mật nhờ bà ngoại là Đặng Chu (鄧朱) nuôi độc trùng để hại Đặng Quý nhân. Hán Hòa Đế tức giận, lệnh cho Trung thường thị Trương Thận (張慎) và Thượng thư Trần Bao (陳褒) thẩm vấn Đặng Chu cùng những người có liên can. Hai người con của Đặng Chu tên là Phụng (奉), Nghi (毅) cùng em trai của Âm hậu là Âm Dật và Âm Phụ bị tra khảo. Phụng, Nghi và Âm Phụ bị chết trong ngục. Hán Hòa Đế cho rằng Âm hậu thất đức, bèn sai Tư đồ Lỗ Cung (魯恭) đến Trường Thu cung bảo sách và thu ấn Hoàng hậu, rồi ra chỉ đày bà vào Đồng cung (桐宮) - nơi giam giữ tội nhân. Năm đó, tháng 6, ngày Tân Mão, ra chỉ phế truất Hoàng hậu Âm thị, Ngô Phòng hầu Âm Cương tự sát; Âm Dật, Âm Xưởng cùng nhà ngoại của Âm hậu đều bị bãi chức, phải di dời đến nơi khác. Năm Vĩnh Nguyên thứ 15 (103), uất ức về việc bị phế, Âm thị qua đời, độ chừng 23 tuổi, được an táng ở Lâm Bình Đình bộ (臨平亭部). Vào năm Vĩnh Sơ thứ 4 (110), Đặng Thái hậu nắm quyền thiên hạ, ra chỉ những người trong nhà Âm hậu có thể quay về cố hương, trao trả lại tài sản cho họ hơn 500 vạn thạch.
1
null
An Tư Diêm Hoàng hậu (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng Diêm Thái hậu (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ sáu của Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là một Hoàng hậu có tham vọng, muốn nắm quyền triều đình Hán thông qua thế lực ngoại thích họ Diêm của dòng họ bà, nhưng kết cục thất bại và bi thảm. Thời đại Đông Hán dưới thời Diêm Thái hậu cùng ngoại thích thao túng đã vướng vào vòng xoáy tranh đấu gay gắt và mãnh liệt, khiến căn cơ của Đông Hán bị thương tổn. Tiểu sử. An Tư Diêm hoàng hậu, húy Cơ (姬), người Huỳnh Dương, Hà Nam, Trung Quốc, xuất thân danh môn. Tổ phụ là Thượng thư, Bộ binh Giáo úy Diêm Chương (閻章), một đại thần thời Hán Minh Đế Lưu Trang. Phụ thân Diêm Sướng (閻暢). Diêm thị gia tộc khi đó có hai người con gái là Quý nhân trong hậu cung của Hán Minh Đế. Diêm Chương thời Hán Minh Đế đã bị bãi chức do Minh Đế không muốn thế lực ngoại thích hoành hành. Theo Hậu Hán thư, Diêm Cơ còn nhỏ đã nối tiếng là có nhan sắc xinh đẹp và thông tuệ. Năm Vĩnh Sơ nguyên niên (107), Diêm thị vào hầu Hán An Đế Lưu Hỗ, được sủng ái, phong làm Quý nhân. Năm sau (108), lập làm Hoàng hậu, cha bà là Diêm Sướng được phong "Nghi Xuân hầu" (宜春侯), thực ấp 5.000 hộ. Diêm hậu có tính ghen, không lâu sau khi sắc phong, bà đã đầu độc chết Lý cung nhân, người đã sinh cho Hiếu An Đế vị hoàng tử duy nhất là Lưu Bảo. Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (120), ngày 11 tháng 4, dưới sự chủ trì của Đặng Thái hậu, Hoàng tử Lưu Bảo được lập làm Hoàng thái tử. Diêm hậu tuy độc sủng, nhưng vẫn không thể sinh con, nên đối với Thái tử Lưu Bảo rất bất mãn. Năm Kiến Quang nguyên niên (121), sau khi Đặng Thái hậu qua đời, Hán An Đế vào lúc này mới chính thức bước vào thời kỳ mà đích thân ông chấp chính. Ngay từ khi lên ngôi, Hán An Đế do hiềm khích với Đặng Thái hậu, muốn xóa sạch hình ảnh của bà trong triều nên đã thay thế bộ máy chính quyền cũ từ thời Đặng Thái hậu, thay thế bằng nhiều đại thần mà ông tin tưởng. Trong đó, đáng kể nhất là ông dòng ngoại thích của Diêm hậu, sau khi truy phong Diêm Sướng, các anh của Diêm hậu là Diêm Hiển (阎显), Diêm Cảnh (阎景), Diêm Diệu (阎耀) và Diêm Yến (阎晏) đều ngay lập tức được trọng dụng, ban cho tước Hầu. Trong những người này, Diêm Hiển có bản lĩnh và thế lực nhất, đầu tàu cho ngoại thích họ Diêm trong triều đình, sau khi Diêm Sướng qua đời đã thế tập 5.000 thực ấp từ tước Nghi Xuân hầu; sang năm Diên Quang nguyên niên (122) được cải phong "Trường Huyện hầu" (長縣侯), thực ấp 13.500 hộ, truy tôn mẹ của Diêm hậu làm "Huỳnh Dương quân" (滎陽君), các con của Diêm Hiển và Diêm Cảnh tuy còn nhỏ cũng được phong "Hoàng môn thị lang" (黃門侍郎). Trong suốt triều đại của Hán An Đế, Diêm hậu có ảnh hưởng đến An Đế rất lớn, nhiều việc làm của bà có ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị của triều đình nhà Hán. Năm Diên Quang thứ 3 (124), Diêm hậu cùng Đại trường thu Giang Kinh (江京) và Trung thường thị Phiền Phong (樊豐) đổ tội cho Thái tử Lưu Bảo, lúc đó mới 9 tuổi và khiến An Đế phế truất Thái tử, giáng làm Tế Âm vương (濟陰王). Mưu việc phế lập. Năm Diên Quang thứ 4 (125), mùa xuân, Diêm hậu cùng Hán An Đế đi lên tế bái Chương lăng, trên đường thì An Đế đổ bệnh. Sang ngày 10 tháng 3 ÂL, An Đế băng thệ tại huyện Diệp, thọ 31 tuổi. Diêm hậu không lập tức phát tang ông, mà triệu gọi anh là Diêm Hiển vào cung bàn bạc, nói:"Hiện giờ Hoàng đế đương trên đường giá băng, Tế Âm vương còn ở trong triều, nếu các quan biết Bệ hạ đã băng hà, tất sẽ phù trợ Tế Âm vương kế vị, thế thì thực sự là đại họa lâm đầu rồi!". Bọn họ bèn giấu chuyện An Đế đã băng hà, nói Hoàng đế bị bệnh cấp tính, thiết trí trong ngoài đều hoạt động như cũ. Ngày 13 tháng 3, xa giá trở về hoàng cung, sang ngày 14, Diêm hậu sai quan viên đến Tông miếu, Xã tắc, gỉ vờ cầu đảo cho Hoàng đế mau khỏi bệnh. Ngay tối đó, Diêm hậu bắt đầu tuyên bố An Đế giá băng, chính thức phát tang. Diêm hậu trở thành Hoàng thái hậu, lâm triều xưng chế, Diêm Hiển trở thành "Xa kỵ tướng quân", kiêm "Nghi đồng tam ti", nắm toàn quyền triều đình. Diêm Thái hậu cùng nhà họ Diêm mưu đồ độc tài triều đình, bèn chọn một người họ hàng xa trong hoàng thất là Bắc Hương hầu Lưu Ý, con của Tế Bắc Huệ vương Lưu Thọ, con thứ của Hán Chương Đế. Ngày 28 tháng 3, Lưu Ý vội vàng kế vị, sử gọi Đông Hán Tiền Thiếu Đế. Đông Hán Tiền Thiếu Đế Lưu Ý chỉ sống 7 tháng thì bệnh nặng. Diêm Hiển cùng Giang Kinh túc trực bên Lưu Ý, nhân khi không có người bèn mật mưu:"Bắc Hương hầu một khi bệnh không dậy nổi, người kế thừa Hoàng vị nên lập tức quyết định. Khi trước chúng ta không lập Tế Âm vương, bây giờ lại lập, tất sẽ mang oán hận. Chúng ta nên chọn một trong số các vị Vương tử dòng xa, đó mới là thượng sách!". Ngày 27 tháng 10, Lưu Ý băng hà. Ấu đế băng hà, Diêm Thái hậu và Diêm Hiển bàn nhau đưa quân vào chiếm lấy cung điện và chưa vội phát tang, còn điều động các con của Tế Bắc vương cùng Hà Gian vương vào kinh, mưu việc lựa người tôn lập. Hoạn quan Tôn Trình (孫程) biết mưu đó bèn liên kết với 18 hoàng môn quan, cùng nhau lập Lưu Bảo lên ngôi, tức là Hán Thuận Đế. Diêm Thái hậu cùng Diêm Hiển xua quân đội đánh với quân của Tôn Trình, kết quả Diêm Thái hậu đại bại. Dòng họ Diêm kể cả Diêm Hiển đều đã bị xử tử. Giam cầm và qua đời. Sau khi họ Diêm đại bại, Diêm Thái hậu bị giam cầm trong ly cung. Mới đầu, Nghị lang Trần Thiền (陈禅) cho rằng:"Diêm Thái hậu cùng Bệ hạ không có ân tình mẫu tử, thần kiến nghị nên dời Thái hậu đến chỗ khác, không nhận bái triều kiến". Các quần thần nghị luận việc này đều tán đồng, nhưng Tư Đồ duyện là Chu Cử (周举) lại nói: Năm Vĩnh Kiến nguyên niên (126), ngày 19 tháng 2, Diêm Thái hậu băng thệ, tại vị 12 năm, thụy hiệu là An Tư hoàng hậu (安思皇后). Sau đó, Hán Thuận Đế phát tang bà và cải táng ở Cung lăng (恭陵).
1
null
Thuận Liệt Lương Hoàng hậu (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là Đông Hán Lương Thái hậu (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế thứ 8 của Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Hán Thuận Đế niên thiếu giá băng, Lương hậu đăng vị Hoàng thái hậu, thực hiện lâm triều nhiếp chính liên tiếp dưới thời Hán Xung Đế, Hán Chất Đế và Hán Hoàn Đế. Trong thời gian nắm quyền, bà được đánh giá là uyên bác, lễ độ nhưng lại sai lầm khi trọng dụng anh trai là Lương Ký, dẫn đầu thế lực ngoại thích của họ Lương khiến triều chính rối ren tranh chấp. Thân thế. Thuận Liệt Lương hoàng hậu, húy Nạp (妠), sinh năm Diên Bình nguyên niên (106) thời Hán Thương Đế, quê quán ở Ô Thị, An Định (安定乌氏; nay là Bình Lương, tỉnh Cam Túc). Lương Nạp xuất thân danh môn, là gia tộc họ Lương hiển hách ở Ôn Thị, cũng là mẫu tộc của Cung Hoài hoàng hậu, sinh mẫu của Hán Hòa Đế. Tằng tổ Bao Thân Mẫn hầu Lương Tủng (梁竦) là sinh phụ của Cung Hoài hoàng hậu, tổ phụ Thừa Thị hầu Lương Ung (梁雍) là em trai của Cung Hoài hậu, do quan hệ thân thích nên làm đến chức "Thiếu phủ" (少府). Phụ thân Lương Thương (梁商), lãnh chức "Hoàng môn Thị lang" (黄门侍郎), kế vị tập tước "Thừa Thị hầu" (乘氏侯). Trong nhà có 3 anh trai là Lương Ký, Lương Bất Nghi (梁不疑) cùng Lương Mông (梁蒙); ngoài ra bà còn 3 chị em gồm còn chị cả Lương Điền (梁田), em gái Lương Nữ Oánh cùng Lương A Trọng (梁阿重). Từ nhỏ, Lương Nạp giỏi về làm nữ công, yêu thích đọc sách sử, khi 9 tuổi đã ngâm nga Luận ngữ, nghiên cứu Kinh Thi, đại nghĩa trong sách đều có thể lĩnh hội được. Tương truyền, Lương Nạp thường xuyên lấy "Liệt nữ đồ" mang theo bày biện bên cạnh, tự mình giám sát hành trạng. Lương Thương thấy con gái như vậy kinh ngạc, lén nói với các anh em của bà rằng:"Chúng ta theo nghiệp của tổ tiên, cứu tế Hà Tây, cứu được rất nhiều bá tánh. Dù Hoàng đế chưa từng hỏi qua, nhưng tích âm đức tất nhiên sẽ có điềm tốt báo đáp. Giả như may mắn ân huệ hậu thế, hoặc là sẽ khiến đứa nhỏ này thành người tôn quý!". Nhập cung Hán. Năm Vĩnh Kiến thứ 3 (128), Lương Nạp cùng cô cô được chọn vào dịch đình, lúc này bà chỉ 13 tuổi. Sau đó Hán Thuận Đế thấy bà vừa ý, phong làm Quý nhân. Lương Quý nhân rất được sủng ái, thường được triệu hạnh vào hầu Thuận Đế trong tẩm điện, thế nhưng bà lại hay nói với Thuận Đế rằng:"Đế vương đem hạnh phúc ấm no ban bố thiên hạ, ấy mới là đức. Hậu phi noi theo Chung tư, không đố kỵ ân sủng hoặc cầu mong chuyên phòng, ấy mới là nghĩa. Hậu tự đông đảo, ấy mới là phúc của hoàng thất. Hy vọng Bệ hạ mưa móc đều rơi, để chúng tần phi đều hưởng phúc phận, đó mới là điều đúng đắn của quân vương, mà thiếp thân cũng không bị tội chuyên sủng đố kỵ!". Bởi vậy Hán Thuận Đế đối với Lương Quý nhân rất kính trọng. Năm Vĩnh Kiến thứ 6, tức Dương Gia nguyên niên (131), ngày 28 tháng 1, quan viên đại thần tấu xin lập Lương Quý nhân làm Hoàng hậu, vì thế Lương Nạp ở Thọ An điện (壽安殿) tiến hành đại lễ lập Hậu. Không như các Hoàng hậu trước đó, Lương hoàng hậu không chủ trương xen vào việc triều chính của Hán Thuận Đế. Lương hậu trời thông minh hiền huệ, biết rõ mình được lập nhờ vào đức độ, nên không dùng sự hống hách đàn áp cung tần, ngược lại lại càng cẩn trọng tỉ mỉ. Mỗi khi có nhật thực hay nguyệt thực, bà đều thay áo, kiểm điểm tội lỗi, vì khi ấy những hiện tượng này bị xem là tai dị, không may mắn. Việc này khiến Hán Thuận Đế càng tin tưởng bà và dòng họ bà, nên cha bà là Lương Thương nhanh chóng được thăng làm đại thần trong triều. Thường Thị hầu Lương Thương là một vị quan thanh liêm, dưới quyền hạn của ông mọi việc kiện tụng, oan khuất đều được giãi bày, sau khi Lương hậu tiến cung đã được thăng đến chức "Thị trung" (侍中), kiêm "Truân kỵ Giáo úy" (屯骑校尉). Khi Lương hậu được lập Hậu, Lương Thương được ban Đặc tiến, sang năm bái "Chấp kim ngô" (执金吾). Năm Dương Gia thứ 2 (133), Thuận Đế muốn phong con trưởng của Lương Thương là Lương Ký - anh ruột của Lương hậu tước vị "Tương Ấp hầu" (襄邑侯), nhưng Lương Thương kiên quyết chối từ. Năm sau (134), Thuận Đế mệnh Lương Thương nhận chức "Đại tướng quân" (大将军), Lương Thương cáo bệnh không vào triều. Năm Dương Gia thứ 4 (135), Hán Thuận Đế phái sứ giả đến tận phủ nhà họ Lương, Lương Thương mới miễn cưỡng nhậm chức. Sang năm, Phu nhân Âm thị qua đời, triều đình tặng làm "Khai Phong quân" (開封君), ban cho ấn tín cùng dây triện. Bản thân Lương Thương rất thận trọng, ông cho rằng vì có con gái làm Hoàng hậu, ông mới có thân phận ngoại thích được phong Đại tướng quân, nên hết sức khiêm nhường, cực lực tiến hiền tài phục vụ triều đình. Tuy nhiên, ông cũng là người khá nhu nhược, để con trai Lương Ký phán đoán gần hết sự việc, Lương Ký vốn kiêu ngạo và tàn độc, lại thù hằn rất dai, do duyên cố của gia tộc mà dần lên đến chức "Chấp kim ngô" khi còn rất trẻ. Năm Vĩnh Hòa thứ 6 (141), Lương Thương qua đời, Hán Thuận Đế cùng Lương hậu đích thân tới dự tang nghi, ban cho 18 kiện phẩm khác nhau cùng tiền hai trăm vạn, bố ba ngàn thất. Khi lễ đưa ma diễn ra, Lương hậu đích thân đi tiễn, quan viên trong triều thương tiếc rất đông đảo, ông được ban thụy là "Trung" (忠). Sau khi Lương Thương mất, con trai Lương Ký lên thay chức vụ Đại tướng quân của ông. Từ đây, quyền hành đều rơi trong tay Lương Ký, em trai Lương Bất Nghi được phong làm Hà Nam doãn. Lâm triều xưng chế. Thời kỳ Xung Đế và Chất Đế. Năm Kiến Khang nguyên niên (144), ngày 6 tháng 8, Hán Thuận Đế băng hà, năm 30 tuổi. Khi ấy, quốc gia đang có nạn ở Dương Châu cùng Từ Châu, Lương hậu sợ phát tang sẽ gây đại loạn, nên triệu Trung thường thị là Lý Cố (李固) thương nghị. Lý Cố quả quyết nên phát tang, tránh làm việc như An Tư Diêm hoàng hậu khi xưa, Lương hậu nghe theo nên cho phát tang ngay trong đêm. Lương hậu không có con, do vậy lập Lưu Bỉnh là con của Ngu mỹ nhân nối ngôi, tức Hán Xung Đế. Hoàng đế chỉ mới 1 tuổi, nên Lương hậu trở thành Hoàng thái hậu. Do Xung Đế lên ngôi năm 2 tuổi, Lương Thái hậu lâm triều thực hiện nhiếp chính. Hoàng thái hậu mệnh Đại tướng quân Lương Ký, với Thái úy Lý Cố cùng Thái phó Triệu Tuấn (赵峻) 3 người tổng lãnh sự vụ triều đình. Lương Thái hậu nắm đại quyền nhiếp chính, bà tỏ ra là người uyên bác khi tin tưởng nhiều đại thần trụ cột liêm chính, khiến nền chính trị nhà Hán yên ổn. Tuy nhiên, bà cũng trọng dụng anh trai là Lương Ký, người mà chỉ lợi dụng địa vị của bà để trục lợi cho riêng mình. Lương Ký chức vụ Đại tướng quân quyền to, lại là anh trai của Hoàng thái hậu nên rất chuyên quyền, với sự độc đoán đó ông còn gạt Lương Thái hậu qua một bên, tự mình mở ra một thời kỳ ngoại thích họ Lương nắm đại quyền. Hán Xung Đế ở ngôi chỉ được một thời gian thì lâm trọng bệnh. Lương Thái hậu biết Hoàng đế sẽ không qua khỏi, bèn cùng anh trai Lương Ký quyết định triệu tập cháu 4 đời của Hán Chương Đế là Thanh Hà vương Lưu Toán (劉蒜) cùng con của Bắc Hải vương Lưu Hồng (劉鴻) là Lưu Toản (劉纘) về Lạc Dương. Năm Vĩnh Hy nguyên niên (145), ngày 6 tháng 1, Xung Đế băng thệ, năm 3 tuổi. Các đại thần như Thái úy Lý Cố khuyên nên lập Thanh Hà vương kế vị, nhưng Lương Ký chủ trương lập Lưu Toản vì Lưu Toản còn nhỏ, như thế sẽ có lợi cho họ Lương khống chế triều đình. Ngày 18 tháng 1, Lương Ký cầm cờ Tiết, lấy xa Vương Thanh nghênh đón Lưu Toản mới 8 tuổi nhập Nam Cung. Cùng ngày 19 tháng 1, phong Lương Toản làm "Kiến Bình hầu" (建平侯), sau tức Hoàng đế vị, sử gọi Hán Chất Đế. Lương Thái hậu lại nắm quyền nhiếp chính. Thuận-Xung nhị Đế lần lượt qua đời, Dương Châu cùng Từ Châu liên tục sinh biến, Lương Thái hậu toàn gặp chuyện không may nên tâm tình dao động, bà ủy thác toàn bộ công việc triều chính cho Tam vị phụ chính đại thần, trong đó Thái úy Lý Cố là người được bà tín nhiệm nhất, mỗi khi ông ta đưa ra kiến nghị thì bà đều tiếp thu, do có Lý Cố gánh vác mà tình hình trong nước rất tiến triển. Phàm là những quan lại làm chuyện ác, Lý Cố đều trừng trị cả, tông miếu và xã tắc an ninh. Đại tướng quân Lương Ký đối với việc này rất bất mãn, vì em gái cùng người mà ông ta không ưa đều liên kết lại để khống chế quyền lực của ông. Khi đó, Hán Xung Đế qua đời, tang nghi chưa định thế nào việc xây cất lăng tẩm, Lý Cố khuyên Thái hậu nên theo Khang lăng của Hán Thương Đế khi xưa để tiết kiệm quốc khố, Lương Thái hậu cũng đáp ứng. Lý Cố nắm quyền, từng bước bãi miễn một lượng lớn quan chức hơn 100 người, bọn họ cực hận Lý Cố, đều quay ra theo phe cánh Lương Ký để chống lại Lý Cố, đều viết thư nặc danh kể tội Lý Cố. Lương Ký đem những lá thư ấy trình lên Lương Thái hậu, nhưng bà kiêng quyết không nghe theo anh trai mà bảo vệ Lý Cố. Thế nhưng, Lương Thái hậu tâm tính cũng dễ mềm lòng, bà không có biện pháp ngăn chặn Lương Ký, lại quá tin dùng các hoạn quan, những tay chân do anh trai bà thu dụng, nên sĩ phu thiên hạ đối với Lương Thái hậu cũng có phần thất vọng. Hán Chất Đế tuy nhỏ tuổi nhưng khá thông minh. Biết sự chuyên quyền của Lương Ký, ông từng chỉ tay vào mặt Ký nói trước mặt quần thần:"Ngươi là ông tướng ngang ngược!". Lương Ký nghe vậy rất tức giận, âm mưu trả thù. Năm Bản Sơ nguyên niên (146), tháng 6, Lương Ký sai người đầu độc vào bát mỳ nước rồi dâng cho Chất Đế ăn. Khi dược tính phát tác, Chất Đế khó chịu lắm, phái người cấp tốc truyền triệu Lý Cố. Khi Lý Cố đến, đi đến ngự sàn hầu Chất Đế, dò hỏi nguyên nhân. Chất Đế khi ấy còn gượng được, nói:"Trẫm ăn qua bát canh, bụng khó chịu, cho Trẫm uống nước có thể khỏi". Lương Ký ở ngay bên cạnh liền nói:"Bây giờ cho uống nước, có thể nôn mửa". Khi dứt câu, Chất Đế giá băng. Lý Cố khóc rống lạy Chất Đế. Lương Ký sợ sự việc bại lộ, nên rất thống hận Lý Cố lắm. Tôn lập Hán Hoàn Đế. Năm Bản Sơ nguyên niên (146), tháng 6, Hán Chất Đế bị giết hại, năm đó 9 tuổi. Trước đó, Lương Thái hậu vào đầu năm ấy, mùa xuân đã triệu Lễ Ngô hầu Lưu Chí về Lạc Dương. Lưu Chí là tằng tôn của Hán Chương Đế, cháu nội Hà Gian Hiếu vương Lưu Khai (劉開) và là con của Lễ Ngô hầu Lưu Dực (劉翼); Lương Thái hậu dự định gả em gái Lương Nữ Oánh cho Lưu Chí để tăng quan hệ hôn nhân, nào ngờ Lương Ký lại đột ngột độc chết Hán Chất Đế. Sau khi Hán Chất Đế giá băng, Thái úy Lý Cố, Tư đồ Hồ Quảng (胡廣) cùng Tư không Triệu Giới (赵戒) viết thư báo cho Lương Ký, ông ta liền triệu tập Tam công, các Liệt hầu hưởng 2.000 thạch thực ấp cùng chúng quan viên thương nghị chọn người kế vị. Đám người Lý Cố đề nghị Thanh Hà vương Lý Toán (劉蒜) kế vị, còn Lương Ký đòi lập Lễ Ngô hầu Lưu Chí, ý kiến này liền bị bãi bỏ. Lương Ký giận mà không có lý do, đương đêm về phủ thì gặp Trung thường thị Tào Đằng bất mãn với Lưu Toán, nên hiến kế cho Lương Ký áp chế các quan viên. Ngày hôm sau, Lương Ký đem binh sĩ bao vây điện nghị sự, khiến cả phe của Lý Cố cũng hoảng sợ, không thể không đồng ý lập Lưu Chí. Lương Ký vào cung nói với Lương Thái hậu, vốn là Lương Thái hậu biết chuyện Lương Ký độc chết Chất Đế nhưng không thể để lộ ra, cũng không thể kết tội chính anh trai mình, Lương Thái hậu nghe theo Lương Ký để bảo toàn gia tộc, lập Lễ Ngô hầu Lưu Chí đăng vị, tức Hán Hoàn Đế. Lương Thái hậu tiếp tục lâm triều. Năm Kiến Hòa nguyên niên (147), Hán Hoàn Đế lập Lương Nữ Oánh làm Hoàng hậu. Lương Ký cùng đợt được gia tặng thêm thực ấp 13.000 hộ, gia tăng số người được đề cử từ Đại tướng quân phủ, ngoài ra số quan lại phục vụ trong Đại tướng quân phủ cũng gia tăng hơn so với Tam công. Em trai Lương Bất Nghị được phong "Dĩnh Âm hầu" (潁暘侯), Lương Mông phong "Tây Bình hầu" (西平侯), con trai Lương Ký là Lương Dận (梁胤) cũng được phong làm "Tương Ấp hầu" (襄邑侯), mỗi tước có thực ấp 10.000 hộ. Vào lúc này, thế lực của Lương Ký thực sự đã quá lớn, nên ông tìm cách giết Lý Cố. Cũng trong năm đó, có một đám Lưu Văn (劉文) ở Cam Lăng, Lưu Vị (劉鮪) ở quận Ngụy nổi lên tôn Lưu Toán làm Hoàng đế. Lương Ký nắm lấy thời cơ, đổ tội cho Lý Cổ dùng tà thuật phản loạn, giam vào ngục. Hoàng thái hậu Lương Nạp nghe trần tình của các môn sinh bảo vệ Lý Cố, nên phóng thích ông, khi ông ra khỏi tù thì đường sá hoan hô rung chuyển cả kinh sư. Lương Ký đối với việc này càng sợ, sau đó dùng hết mọi quan hệ và quyền lực bức chết Lý Cố trong tù. Hoàn chính và băng thệ. Năm Hòa Bình nguyên niên (150), ngày 20 tháng 2, Lương Thái hậu bệnh tình nghiêm trọng, vì thế cưỡi liễn xe đến Tuyên Đức điện, triệu kiến các quan lại trong triều cùng với các thành viên trong gia tộc Lương thị đến để tuyên bố hoàn chính cho Hán Hoàn Đế. Bà hạ chiếu thư nói: Ngày 22 tháng 2 năm ấy, Hoàng thái hậu Lương thị băng hà, tại vị 19 năm, chung niên 35 tuổi, thụy hiệu là Thuận Liệt hoàng hậu (顺烈皇后). Tháng 3 năm ấy, hợp táng cùng Hán Thuận Đế vào Hiến lăng (憲陵). Đại tướng quân Lương Ký tuy không còn Lương Thái hậu hậu thuẫn, nhưng vẫn còn em gái là Lương hoàng hậu trong cung nên Hán Hoàn Đế vẫn không thể tự tiện áp chế được, ông vì thế càng hống hách và khinh thường Thiên tử. Năm Diên Hi thứ 2 (159), Hoàng hậu Lương Nữ Oánh đột ngột qua đời. Hán Hoàn Đế như chờ thời cơ, sai người bắt Lương Ký cùng anh em họ Lương khác. Gia tộc họ Lương danh giá đều bị xử tử, chấm dứt thế lực ngoại thích họ Lương chuyên quyền gần hơn 20 năm.
1
null
Lục quân Hoàng gia Campuchia là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia với quân số khoảng 75.000 biên chế thành 11 sư đoàn bộ binh được trang bị thiết giáp tích hợp và hỗ trợ pháo binh. Lục quân Hoàng gia Campuchia thuộc thẩm quyền của Bộ Quốc phòng, do không thành lập các đơn vị tăng thiết giáp hay pháo binh riêng biệt nên tích hợp sẵn trong các quân khu. Tổ chức quân sự. Theo kế hoạch quân sự và các đơn vị hiện tại, mỗi khu vực có quân số khoảng 3.500 binh sĩ, mỗi sư đoàn có khoảng 7000 quân, phân bố trong các quân khu. Từng sư đoàn sẽ được bổ sung thêm một sư đoàn cơ động tăng cường tại Phnôm Pênh. Đất nước được chia thành sáu cho đến gần đây là năm quân khu, tương ứng với ba hoặc bốn tỉnh. Có những đơn vị đồn trú tại các thành phố lớn và các căn cứ quân sự lớn. Đại tướng Meas Sophea hiện là Tư lệnh Lục quân Hoàng gia Campuchia. Ông còn là Phó Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia. Quân đội với 11 sư đoàn được triển khai theo yêu cầu trên toàn quốc và trong các hoạt động với các căn cứ như sau: Mỗi quân khu dưới sự chỉ huy của một vị Thiếu tướng cùng với cấp phó quân hàm Chuẩn tướng. Mỗi tỉnh đều có một Bộ chỉ huy quân sự người đứng đầu mang quân hàm Đại tá. Năm 2009, một số tướng lĩnh hàm ba sao, trong đó có Đại tướng Hing Bun Hieng đã được thăng lên hàm bốn sao, cùng với việc thăng cấp các viên tư lệnh tại các tỉnh thành của đội Hiến binh, ủy viên quân sự và cảnh sát lên Chuẩn tướng. Việc đề bạt như vậy là một vinh dự được chính phủ trao tặng cho nỗ lực của họ trong bế tắc quân sự Campuchia-Thái Lan. Lực lượng đặc biệt đổ bộ đường không. Lực lượng đặc biệt đổ bộ đường không (lính dù), còn được gọi là SF-911, được biên chế thành 14 tiểu đoàn dưới sự chỉ huy trực tiếp từ Bộ Tư lệnh Lực lượng vũ trang Hoàng gia. Quân số của lực lượng đặc biệt khoảng 7.000 người. Căn cứ hoạt động của lực lượng đặc biệt đổ bộ đường không (lính dù) đơn vị 911 (SF-911) nằm gần làng Takethmey, xã Kambol, huyện Angsnoul, tỉnh Kandal. Đơn vị này nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Tối cao Quân đội Hoàng gia Campuchia. SF-911 có bảy chi nhánh với 14 tiểu đoàn được đặt dưới sự kiểm soát của họ. Các đơn vị sau đây được phân phối trong các Tiểu đoàn: Tổng số binh sĩ 6500 Nhóm Đặc nhiệm chống khủng bố 14 là đơn vị chống khủng bố chuyên biệt đầu tiên của Campuchia và là thành phần SWAT của SF-911. Nhóm Đặc nhiệm chống khủng bố 14 hỗ trợ thực thi pháp luật trong hoạt động phòng chống khủng bố. Chhab Peakdey là sĩ quan chỉ huy của lực lượng SF-911. SF thường xuyên tiến hành các khóa huấn luyện và tập trận chung như: Việc huấn luyện cũng được tiến hành ở Indonesia trong một chương trình đặc biệt tại Batujajar. Trung tâm huấn luyện quân sự Batujajar nằm cách 22 km từ Bandung (Tây Java), nơi mà những người lính lực lượng đặc biệt sẽ được huấn luyện nhảy dù và đổ bộ vùng chiến thuật. Quân hàm. Sau khi ra đời chính phủ liên hiệp và tái lập Vương quốc Campuchia, hệ thống quân hàm của Quân đội Hoàng gia Campuchia trở lại kiểu quân hàm quân đội Pháp truyền thống trước đây. Quân cảnh. Hiến binh hay "Quân cảnh", là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia có trách nhiệm duy trì trật tự công cộng và an ninh nội bộ ở Campuchia. Đơn vị bán quân sự này có quân số hơn 7.000 người được triển khai tại tất cả các tỉnh. Bộ Tư lệnh đặt tại Phnôm Pênh với hàng loạt mệnh lệnh của đơn vị thông qua Bộ Tư lệnh Tối cao Quân đội Hoàng gia Campuchia. Đội hiến binh được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của một sĩ quan chỉ huy với cấp bậc tương đương Trung tướng. Bộ Tư lệnh Tối cao có trách nhiệm giám sát tất cả các đơn vị hiến binh cũng như huấn luyện nói chung. Tư lệnh Hiến binh hiện nay là Trung tướng Sao Sokha, một cựu vệ sĩ và cố vấn cá nhân cho Thủ tướng Campuchia Hun Sen. Là một phần của Quân đội Hoàng gia Campuchia, đội Hiến binh nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Tối cao Hoàng gia Campuchia. Mặc dù đội Hiến binh không có sư đoàn cấp vùng nhưng lại có sư đoàn cấp tỉnh. Đội hiến binh giám sát tất cả 24 tỉnh, 186 huyện, làm việc với người dân địa phương. Đội hiến binh bao gồm: một nhóm cơ động gồm sáu đơn vị can thiệp, một tiểu đoàn xe thiết giáp, một kỵ binh và 4 lính bộ binh khác đóng quân tại Phnôm Pênh. Trường huấn luyện đội hiến binh nằm ở Khum Kombol, tỉnh Kandal. Số binh sĩ trong lực lượng đặc biệt của quân đội như sau Trang bị. Trang thiết bị Lục quân Campuchia khá lạc hậu, chủ yếu là các vũ khí được viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, gần đây Campuchia đã có những đầu tư đáng kể cho lực lượng bộ binh: Xe tăng chiến đấu chủ lực gồm: 150 xe T-54/55 có nguồn gốc từ Liên Xô. 40 xe T-55AM2 từ Cộng hòa Séc, 50 xe T-55AM2BP từ Ba Lan, 50 xe T-55A từ Ukraina; 200 xe Kiểu-59, 50 xe Kiểu-62, 10 xe Kiểu-63 từ Trung Quốc. Xe chiến đấu bộ binh có: 70 xe BMP-1, 250 xe BTR-60PB, 30 xe BTR-152 có nguồn gốc từ Liên Xô, 40 xe OT-64 Skot, 200 xe BDRM-2, 20 xe tăng lội nước PT-76, 20 xe thiết giáp M-113. Pháo binh các loại gồm có: 20 khẩu pháo chống tăng T-12 100mm, 10 pháo kéo xe D-74 122mm (Trung Quốc), 20 pháo M-30 122mm (Liên Xô), 100 pháo 2A18 D-30 122mm (Liên Xô), 30 pháo M-46 130mm, 100 pháo Type-59-1 (Trung Quốc sao chép M-46) 130mm (Trung Quốc). Pháo phản lực bắn loạt kéo xe gồm: 200 dàn Kiểu-63 107mm, 10 dàn Type-81 SPRL 122mm (bản sao của BM-21) có nguồn gốc từ Trung Quốc, 100 dàn BM-21 Grad 122mm, 20 dàn BM-13/16 132mm, 20 dàn BM-14 140mm. Năng lực phòng không của Quân đội Hoàng gia Campuchia rất hạn chế, gần như không đủ khả năng để chống lại các cuộc tập kích đường không tiềm tàng. Trang bị phần lớn là pháo phòng không và không có hệ thống tên lửa đối không nào, gồm 420 pháo phòng không các loại (100 khẩu ZSU-23-2 100 khẩu, 100 khẩu 61-K 37mm (Liên Xô), 100 khẩu Type-65/74 37mm (Trung Quốc), 100 khẩu AZP S-60 57mm (Liên Xô 10 khẩu KS-19 100mm. Theo một số nguồn tin, Campuchia có khoảng 3 hệ thống tên lửa đối không tầm trung SA-4. Tuy nhiên, số phận của loại tên lửa đối không này không rõ ràng nhiều khả năng không còn hoạt động. Gần đây, Quân đội Hoàng gia Campuchia đã tiếp nhận một số lượng tên lửa phòng không vác vai FN-6 từ Trung Quốc, SA-7 từ Nga. Trang bị cá nhân tiêu chuẩn cho binh lính quân đội Hoàng gia Campuchia chủ yếu có nguồn gốc từ Liên Xô với AKM, AKMS, Type-56/1/2 của Trung Quốc. Hiện nay lực lượng đặc biệt quân đội Hoàng gia đã được trang bị súng trường hiện đại QBZ-97 biến thể xuất khẩu của QBZ-95 của Trung Quốc, Pindad SS-1 của Indonesia. Quân đội chủ lực. Nghệ thuật chỉ đạo và học thuyết chiến thuật vẫn đang được định nghĩa là quá trình cải cách vẫn tiếp tục. Bề ngoài, việc tiếp tục cải tổ quân đội sẽ cung cấp các xe bọc thép được tích hợp cho mỗi sư đoàn bộ binh trong khu vực. Tuy nhiên, phần lớn địa hình của Campuchia đều không thích hợp cho các hoạt động của xe bọc thép và xe tăng đang không sử dụng được trong mùa mưa. Tất cả các OT-64 APC dường như chỉ còn giữ lại làm lực lượng dự bị Phnôm Pênh. Trong những năm 1990, để làm cho quân đội di động và cơ giới hóa hơn, đã có một dòng đều đặn các xe tăng, pháo tự hành, xe bọc thép (APC), và xe vận tải mới. Lục quân hiếm khi cho về hưu các mẫu vũ khí cũ kỹ và có xu hướng duy trì một lượng lớn kho trang thiết bị, giữ lại những mẫu cũ cùng với những nâng cấp trong lực lượng hoạt động hoặc dự trữ. Quân đội chủ yếu vẫn là một lực lượng bộ binh, mặc dù một chương trình hiện đại hóa thập kỷ dài đã cải thiện đáng kể tính di động và hỏa lực của quân đội Campuchia. Trang bị cho các đơn vị chính yếu trong quân đội do các nước Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô cung cấp. Quân trang bao gồm những loại vũ khí nhỏ xuất xứ từ Liên Xô, trong đó có súng trường tấn công AKM (phiên bản cập nhật của AK-47), súng máy hạng nhẹ RPD, súng máy đa năng PKM, Súng phóng lựu chống tăng 82mm RPG-2, Súng phóng lựu chống tăng 85mm RPG-7, súng trường tấn công kiểu 56 của Trung Quốc và các loại vũ khí dành cho tổ lái khác, bao gồm cả lựu pháo hạng trung và các loại vũ khí phòng không ở một số kích cỡ. Xe tăng trong các tiểu đoàn thiết giáp RCAF bao gồm T-54/55, tuy cũ nhưng lại là xe tăng chiến đấu chủ lực tầm cỡ của Liên Xô; xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76/Kiểu 63 và Kiểu 59, một chiếc tăng chiến đấu chủ lực của Trung Quốc, có thể lấy từ các nhà kho của Việt Nam. Pháo chống tăng đa năng trong lực lượng chính bao gồm BM-14 và BM-21. Xe chiến đấu bọc thép trong công binh xưởng của quân đội gồm một loạt xe thiết giáp BTR của Liên Xô và một số trang bị cũ kỹ của Mỹ chẳng hạn như: Xe bọc thép chở quân M106 và M113, hay do Việt Nam để lại hoặc bỏ lại từ những ngày hoạt động tại nước Cộng hòa Khmer trong cuộc nội chiến. Ngoài ra, Campuchia đang nhận được sự viện trợ quân sự đắc lực từ Trung Quốc với một số lượng lớn xe bọc thép, xe vận tải quân sự đã được chuyển giao. Tuy quân số và trang bị không hiện đại và phong phú như các quốc gia khác, nhưng quân đội Hoàng gia Campuchia tham gia khá nhiều hoạt động gìn giữ hòa bình dưới sự chỉ đạo của Liên Hợp Quốc tại Sudan, Congo, Chad, Haiti và Liban.Ngoài ra, Quân đội Hoàng gia Campuchia thường xuyên tham gia các cuộc tập trận cùng với Hải quân Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Singapore... kinh nghiệm tác chiến cũng vì thế được đánh giá là khá phong phú. Lực lượng đặc biệt. Trang bị của lực lượng đặc biệt khác với phần còn lại của quân đội. Ví dụ, súng trường AK-47 (Kiểu 56) mặc dù đáng tin cậy và phong phú, nhưng lại có độ chính xác kém và quá mạnh để các đơn vị tinh nhuệ thao tác an toàn chuyên dành cho chiến đấu tầm gần và tình huống con tin. Lực lượng này đã khẳng định là người sử dụng đầu tiên hàng loạt súng trường tấn công có băng đạn gắn phía sau hàng ngoại nhập QBZ-95 mới của Trung Quốc. Về mặt kỹ thuật súng trường này là một khẩu QBZ-97, Kiểu 97A bổ sung thêm điểm xạ 3 viên và khóa nòng mở, với một vỏ bọc khác nhau được Tập đoàn Jian She chế tạo dành cho xuất khẩu. Khí tài. Các loại vũ khí chiến đấu chính được sử dụng trong quân đội như minh họa trong bảng dưới đây.
1
null
Không quân Hoàng gia Campuchia là một quân chủng của Quân đội Hoàng gia Campuchia chịu trách nhiệm điều hành tất cả các máy bay quân sự ở Campuchia, với quy mô rất khiêm tốn, năng lực tác chiến được đánh giá thấp nhất khu vực Đông Nam Á. Quân số của lực lượng vào khoảng 2.500 người, 35 máy bay các loại, các máy bay đang hoạt động chủ yếu là các loại máy bay vận tải và trực thăng. Không quân Hoàng gia đang hoạt động với vai trò cung cấp cầu vận tải đường không là chủ yếu, năng lực tấn công đường không rất hạn chế. Tổ chức. Không quân Hoàng gia Campuchia dưới sự chỉ huy của Trung tướng Soeung Samnang cùng với bốn Phó tư lệnh dưới quyền ông. Không quân hiện thuộc thẩm quyền của Bộ Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Không quân nằm ở sân bay quốc tế Phnôm Pênh và vẫn còn đóng quân tại căn cứ không quân Pochentong. Những chiếc máy bay hoạt động duy nhất ở căn cứ không quân Pochentong là từ các phi đội VIP. Bảo dưỡng máy bay trực thăng cũng tại Pochentong. Các trực thăng Mi-8, Mil Mi-26 Halo và Mi-17 từ phi đội trực thăng đều đóng tại sân bay Quốc tế Siem Reap. Lịch sử. Vào đầu năm 1990, các loại trực thăng Mi-8, Mil Mi-26 Halo và Mi-17 đều phục vụ trong lực lượng không quân, cũng như máy bay vận tải Harbin Y-12 và BN-2 Islander. Một đơn vị vận tải VIP được thành lập vào năm 1995 sử dụng An-24RV và Beech 200 Super King Air. Năm 2000 một thỏa thuận đã được thực hiện với Ngành công nghiệp Hàng không Israel để đại tu MIG 21 và chứng kiến việc chuyển giao máy bay L-39C Albatross dùng để huấn luyện bay và đưa vào phục vụ trong thời gian 1995-2000. Trang bị. Chỉ có các loại trực thăng Mi-8, Mi-26 Halo và Mi-17 là hiện vẫn còn dùng được. Phi đội VIP gồm các trực thăng và máy bay chở khách đều nằm dưới sự kiểm soát của các cơ quan dân sự.
1
null
Hiến binh Hoàng gia Campuchia hay "Quân cảnh", là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia chịu trách nhiệm về các vấn đề an ninh trật tự trong nước Campuchia. Đơn vị bán quân sự này có quân số hơn 7.000 người được triển khai tại tất cả các tỉnh. Bộ Tư lệnh đặt tại Phnôm Pênh với hàng loạt mệnh lệnh của đơn vị thông qua Bộ Tư lệnh Tối cao Quân đội Hoàng gia Campuchia. Đội hiến binh được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của một sĩ quan chỉ huy với cấp bậc tương đương Trung tướng. Bộ Tư lệnh Tối cao có trách nhiệm giám sát tất cả các đơn vị hiến binh cũng như huấn luyện nói chung. Tư lệnh Hiến binh hiện nay là Trung tướng Sao Sokha, một cựu vệ sĩ và cố vấn cá nhân cho Thủ tướng Campuchia Hun Sen. Nhiệm vụ. Nhiệm vụ của Hiến binh Hoàng gia là: Nhiệm vụ dân sự bao gồm: cung cấp an ninh và trật tự công cộng, điều tra và ngăn chặn tội phạm có tổ chức, khủng bố và các nhóm bạo lực khác; bảo vệ nhà nước và sở hữu tư nhân; giúp đỡ và hỗ trợ người dân và các lực lượng khẩn cấp khác trong trường hợp khẩn cấp, thiên tai, bất ổn xã hội và xung đột vũ trang. Nhiệm vụ quân sự bao gồm: giữ gìn và bảo vệ an ninh quốc gia, nhà nước, tài sản, hòa bình và trật tự công cộng; hỗ trợ các lực lượng an ninh khác trong trường hợp khẩn cấp, tình trạng bất ổn dân sự, chiến tranh; đàn áp các cuộc bạo loạn; củng cố tình trạng thiết quân luật và động viên; chiến đấu và bắt giữ những tên tội phạm bị nghi ngờ, những kẻ khủng bố và các nhóm bạo lực khác. Tổ chức. Hiến binh Hoàng gia được biên chế thành 8 tiểu đoàn, quân số mỗi tiểu đoàn từ 500 - 1000 cảnh sát. Bộ Tư lệnh đặt tại Phnôm Pênh. Đội hiến binh giám sát tất cả 24 tỉnh, 186 huyện, làm việc với người dân địa phương. Các đơn vị bao gồm: một nhóm cơ động, một kỵ binh và 4 bộ binh với các căn cứ ở Phnôm Pênh. Trường huấn luyện hiến binh thuộc xã Kambol, tỉnh Kandal. Trang bị. Các loại vũ khí tiêu chuẩn của Hiến binh Hoàng gia Campuchia khá đa dạng gồm súng ngắn Makarov PMM 9mm, súng trường tấn công Kiểu 56-2, súng trường tấn công M16A1 với súng phóng lựu M203, súng trường tấn công AKMS và súng trường tấn công Kiểu 56. Thường thì sĩ quan PM và lái xe được giao loại 56-2 và pháo thủ là súng máy đa năng PKM. Một kíp lái hoặc các loại vũ khí trên xe gồm súng máy đa năng Kiểu 80 trên chân máy với 250 băng đạn và súng máy hạng nặng Kiểu 77. Những nhóm súng chống tăng không giật thường mang theo ít nhất một khẩu B-40 hoặc RPG-7D.
1
null
Thế giới mở (tiếng Anh: "open world") là những video game được thiết kế theo cách mà người chơi có thể đi lại tự do trong một thế giới ảo và khá tự do trong việc quyết định khi nào và làm thế nào để hoàn thành các nhiệm vụ. Thế giới trong các game này thường khá rộng, và có nhiều thứ (người hay vật) mà người chơi có thể tương tác. Thuật ngữ đi rong tự do (free roam) còn có cách gọi khác như là sandbox và free-roaming. "Thế giới mở" và "lang thang tự do" còn đưa ra sự vắng mặt của các rào cản nhân tạo, trái ngược với những bức tường vô hình và màn hình chờ vốn phổ biến trong các thiết kế cấp độ tuyến tính. Một trò chơi "thế giới mở" không nhất thiết bao hàm ý của một sandbox. Theo đúng kiểu "sandbox", người chơi có các công cụ để thay đổi chính thế giới đó và tạo ra cách chơi của riêng mình. Nhìn chung các game thế giới mở vẫn thi hành một số hạn chế trong môi trường game, hoặc là do hạn chế kỹ thuật tuyệt đối hay những hạn chế trong game (chẳng hạn như khu vực bị khóa) bị áp đặt bởi một tuyến tính của trò chơi. Một số tựa game nổi tiếng gần đây nhất có thế giới mở bao gồm: Genshin Impact, "Xenoblade Chronicles X", "Final Fantasy XV", ', "Watch Dogs 2", ', ', ', "Horizon Zero Dawn", "Grand Theft Auto V" và "". Lối chơi và thiết kế. Một thế giới mở là một màn chơi hoặc trò chơi được thiết kế theo kiểu phi tuyến tính, khu vực mở rộng lớn với nhiều cách để đạt được mục tiêu. Một số trò chơi được thiết kế với cả cấp độ truyền thống và thế giới mở. Một thế giới mở tạo điều kiện khám phá lớn hơn một loạt các màn chơi nhỏ hơn, hoặc một mức độ với những thách thức tuyến tính hơn. Giới phê bình đã đánh giá chất lượng của một thế giới mở dựa vào việc có những cách thú vị cho người chơi tương tác với mức độ rộng lớn hơn khi họ bỏ qua mục tiêu chính của mình. Một số trò chơi thường sử dụng các bối cảnh có thực cho việc tạo dựng một thế giới mở, chẳng hạn như thành phố New York. Một thách thức thiết kế chủ yếu nhằm cân bằng sự tự do của một thế giới mở với cấu trúc của một cốt truyện đầy kịch tính. Kể từ khi người chơi có thể thực hiện những hành động mà các nhà thiết kế trò chơi không mong đợi, các tác giả viết kịch bản của trò chơi phải tìm cách sáng tạo để áp đặt một cốt truyện lên người chơi mà không cần can thiệp vào tự do của họ. Như vậy, trò chơi với thế giới mở đôi khi sẽ phá vỡ câu chuyện của game vào một loạt các nhiệm vụ, hoặc có một cốt truyện nhìn chung đơn giản hơn nhiều. Những game khác thay vì cung cấp các nhiệm vụ phụ cho người chơi mà không làm gián đoạn cốt truyện chính. Hầu hết các game thế giới mở đều làm cho nhân vật mờ nhạt để người chơi có thể nêu lên những suy nghĩ của mình, mặc dù một số trò chơi như "" thì đưa sự phát triển nhân vật và hội thoại nhiều hơn. Viết vào năm 2005, David Braben đã mô tả cấu trúc câu chuyện của trò chơi điện tử hiện nay là có "chút sự khác biệt với những câu chuyện về những bộ phim của Harold Lloyd vào những năm 1920", và được coi là những câu chuyện có đoạn kết mở thực sự là "Chén Thánh mà chúng tôi đang tìm kiếm trong dòng game thế hệ thứ năm". Những game với thế giới mở thường cho người chơi mạng sống vô hạn hoặc tiếp nối, dù các game như "Blaster Master" buộc người chơi phải bắt đầu từ lúc đầu nếu họ phải chết quá nhiều lần. Ngoài ra còn có một nguy cơ mà người chơi có thể bị mất khi họ khám phá một mở thế giới; do đó các nhà thiết kế đôi lúc cố gắng thay đổi thế giới mở thành những khu vực dễ quản lý. Thế hệ thủ tục và tính nổi bật. Thế hệ thủ tục ("Procedural generation") đề cập đến nội dung tạo ra thông qua thuật toán chứ không phải bằng tay, và thường được sử dụng để tạo ra các màn chơi và nội dung khác. Trong khi thế hệ thủ tục không đảm bảo rằng một trò chơi hoặc trình tự của các màn chơi theo hướng phi tuyến tính, nó là một yếu tố quan trọng trong việc giảm thời gian phát triển trò chơi, và mở ra con đường có thể tạo ra thế giới game liền mạch lớn và nhiều hơn hoặc sự nổi trội ít độc đáo và sử dụng ít nguồn lực hơn. Loại thế hệ thủ tục này còn được gọi là "xây dựng thế giới" (worldbuilding), tho đó thì các quy định chung đều được sử dụng để xây dựng một thế giới đáng tin cậy. Hầu hết các game 4X và roguelike sử dụng các thế hệ thủ tục ở một mức độ để tạo ra các màn chơi. "SpeedTree" là một ví dụ về một công cụ phát triển theo định hướng được dùng trong quá trình phát triển "" và nhằm đẩy mạnh quá trình thiết kế cấp bậc. Thế hệ thủ tục cũng dành cho các nhà phát triển của "Elite", David Braben và Ian Bell, để phù hợp với toàn bộ trò chơi, bao gồm cả hàng ngàn hành tinh, hàng chục mặt hàng thương mại, nhiều loại tàu và hệ thống kinh tế hợp lý chỉ ngốn có 22 KB bộ nhớ. Tính nổi bật đề cập đến những tình huống phức tạp trong một video game mà độ nổi bật (hoặc dự kiến ​​hoặc đột xuất) từ sự tương tác của các cơ chế game tương đối đơn giản. Theo Peter Molyneux, lối chơi nổi bật xuất hiện ở bất cứ nơi nào mà game có một hệ thống [[mô phỏng tốt cho phép người chơi hòa mình trên thế giới và nó đáp ứng được những hành động của họ trên thực tế. Đó là những gì khiến cho "[[SimCity]]" và "[[The Sims]]" hấp dẫn người chơi. Tương tự như vậy, để có thể tự do tương tác với các cư dân của thành phố trong "[[Dòng trò chơi Grand Theft Auto|Grand Theft Auto]]" đã thêm vào một chiều hướng bổ sung cho dòng game này. Trong những năm gần đây các nhà thiết kế game đã cố gắng khuyến khích lối chơi nổi bật bằng cách cung cấp các công cụ cho người chơi để mở rộng trò chơi thông qua những hành động của mình. Ví dụ như [[trình duyệt web]] trong game "[[EVE Online]]" và "[[The Matrix Online]]"; Công cụ tích hợp [[XML]] và [[ngôn ngữ lập trình]] trong "[[Second Life]]"; chuyển đổi tỷ giá hối đoái trong "[[Entropia Universe]]"; cùng hệ thống đối tượng và ngữ pháp phức tạp được sử dụng để giải quyết các câu đố trong "[[Scribblenauts]]". Ví dụ khác về tính nổi bật bao gồm sự tương tác giữa vật lý và [[trí tuệ nhân tạo]]. Một thách thức vẫn còn phải giải quyết là làm thế nào để kể một câu chuyện hấp dẫn sử dụng duy nhất công nghệ nổi bật. Trong mục [[op-ed]] dành cho [[BBC News]], [[David Braben]], đồng tác giả của "Elite" đã gọi kiểu thiết kế game có kết thúc mở thực sự là "Chén Thánh" của video game hiện đại, trích dẫn các game như "Elite" và dòng "Grand Theft Auto" như những bước đi đầu tiên theo hướng đó. [[Peter Molyneux]] cũng tuyên bố rằng ông tin tưởng tính nổi bật (hoặc lối chơi nổi bật) là nơi phát triển video game sẽ dẫn đầu trong tương lai. Ông đã cố gắng để thực hiện lối chơi thế giới mở ở một mức độ rộng lớn trong một số game của mình, đặc biệt là "[[Black & White]]" và "[[Fable]]". Lịch sử. [[Tập tin:Turbo esprit cpc.png|thumb|200px|left|Hình ảnh của game "[[Turbo Esprit]]" (1986)]] "[[Ultima I: The First Age of Darkness]]" được Richard Garriot phát triển cho hãng [[Origin Systems]] và phát hành vào năm 1981, có lẽ là trò chơi máy tính thế giới mở thực sự đầu tiên. Phiên bản thứ ba trong dòng game "[[Ultima III: Exodus]]" tiếp tục mở rộng về các khái niệm thế giới mở của bản gốc, và giới thiệu các phương thức vận tải khác như cưỡi ngựa, đi thuyền có thể được xem là ví dụ đầu tiên của lối chơi sandbox. Game [[mô phỏng vũ trụ]] "[[Elite (trò chơi điện tử)|Elite]]" thường được cho là nhà tiên phong trong khái niệm game thế giới mở vào năm 1984. Có một số game ban đầu cung cấp cho người chơi khả năng khám phá một thế giới mở khi đang lái xe. "[[New York City]]" (1984), "[[Miami Vice]]" và sau là "[[APB]]" (1987) mở rộng định dạng này, trong khi "[[Turbo Esprit]]" (1986) giới thiệu một môi trường thành phố mở góc nhìn 3D từ đằng sau, và được trích dẫn là có ảnh hưởng lớn đến "Grand Theft Auto". "[[Hunter]]" (1991) được mô tả như là tựa game sandbox đầu tiên có tính năng full 3D với đồ họa góc nhìn thứ ba. "[[Wasteland]]" do hãng [[Interplay Productions]] phát hành vào năm 1988, là một nhà tiên phong quan trọng khác trong lối chơi thế giới mở. Trò chơi chứa đựng một thế giới mở rộng lớn, nơi mà hành động của người chơi để lại ảnh hưởng lâu dài và bền vững, bảo vệ những khu vực ở bang mà người chơi để lại đó. Đây là game có lối chơi phi tuyến tính, người chơi có thể khám phá sâu rộng thế giới ngay từ đầu, và giải quyết các quest và nhiệm vụ bất kỳ lúc nào, với các quest thường có nhiều giải pháp khác nhau để hoàn thành. Người chơi cũng có khả năng tương tác với thế giới theo những cách khác, sử dụng các công cụ như dây thừng và xẻng để tiến hành; một ví dụ ban đầu của lối chơi theo đúng phong cách sandbox. Bản đồ trong "[[Quarantine]]" (1994) có nhiều địa điểm để chọn nhiệm vụ và còn phổ biến chiến thuật lái xe bắn súng bằng cách sử dụng UZI bắn ra từ cửa sổ bên. "[[Super Mario]]" của [[Nintendo 64]] (1996) được coi là mang tính cách mạng cho thế giới free-roaming kết thúc mở 3D hiếm khi được nhìn thấy trong các game 3D trước đây, cùng với điều khiển [[cần analog]] và [[Hệ thống camera ảo|điều khiển camera]]. Những ví dụ 3D thuở sơ khai khác bao gồm "[[The Legend of Zelda: Ocarina of Time|Ocarina of Time]]" (1998) và "[[The Legend of Zelda: Majora's Mask|Majora's Mask]]" (2000) của dòng "[[The Legend of Zelda|Legend of Zelda]]", "[[Body Harvest]]" (1998) của [[Rockstar North|DMA Design]] (Rockstar North), "[[Midtown Madness]]" (1999) của [[Rockstar San Diego|Angel Studios]] (Rockstar San Diego) và "[[Midnight Club: Street Racing]]" (2000), "[[Driver (trò chơi điện tử)|Driver]]" (1999) của [[Ubisoft Reflections|Reflections Interactive]] (Ubisoft Reflections) và các game của [[Rare Ltd.|Rareware]] như "[[Banjo-Kazooie]]" (1998), "[[Donkey Kong 64]]" (1999) và "[[Banjo-Tooie]]" (2000). Thế kỷ 21. Tựa game [[Trò chơi phiêu lưu|phiêu lưu]] đầy tham vọng "[[Shenmue]]" của [[Sega]] (1999) là một bước tiến lớn đối với lối chơi thế giới mở 3D, và được coi là người khởi đầu cho thể loại phụ "thành phố mở", được chào đón kiểu như một game "FREE" (Full Reactive Eyes Entertainment) đưa ra mức độ tự do tuyệt vời của người chơi, buộc họ phải kiên nhẫn khám phá một thành phố sandbox mở rộng với [[Thế giới liên tục|chu kỳ ngày đêm]] riêng của mình, thay đổi thời tiết và những nhân vật không phải người chơi ([[NPC]]) được lồng tiếng đầy đủ hay nói về thói quen hàng ngày của họ. Môi trường tương tác rộng lớn của game, vô số lựa chọn, mức độ chi tiết và phạm vi khai phá tự do thành phố của nó đã được so sánh với các tựa game sandbox về sau như "Grand Theft Auto III" và phần tiếp theo, loạt game "[[Yakuza (sê-ri trò chơi)|Yakuza]]" của Sega, "[[Fallout 3]]" và "[[Deadly Premonition]]". "[[S.T.A.L.K.E.R.: Shadow of Chernobyl]]" do [[GSC Game World]] phát triển vào năm 2009, nối tiếp qua hai phần sau gồm một phần trước sự kiện bản gốc và một phần tiếp theo. Phong cách thế giới tự do của khu vực được chia thành các bản đồ lớn như từng vùng và người chơi có thể đi từ nơi này sang nơi khác, tùy thuộc vào các nhiệm vụ cần thiết hoặc ngẫu hứng. Dòng game đã để lại những ảnh hưởng văn hóa lớn nhất là "[[Dòng trò chơi Grand Theft Auto|Grand Theft Auto]]", với hơn 125 triệu bản được bán ra. "Grand Theft Auto III" kết hợp các yếu tố từ các phiên bản trước và hợp nhất chúng lại với nhau thành một thứ kinh nghiệm chìm đắm mới. Ví dụ, các đài phát thanh đã được thực hiện trước đó trong các trò chơi như "[[Out Run]]" của Sega (1986) và "[[SimCopter]]" của [[Maxis]] (1996), các nhiệm vụ kết thúc mở dựa trên hoạt động của một chiếc taxi taxi trong một môi trường sandbox là cơ sở cho tựa game "[[Crazy Taxi]]" của Sega (1999), khả năng đánh bại hoặc giết chết các nhân vật không phải người chơi (NPC) quay trở lại các tựa game như "[[Portopia]]" (1983), "[[Hydlide II]]" (1985), "[[Final Fantasy Adventure]]" (1991) và những [[Trò chơi bắng súng nhẹ|trò bắn súng nhẹ]] khác nhau, cùng cách thức mà người chơi vượt qua những người đi bộ và bị [[cảnh sát]] truy đuổi đã được so sánh với "[[Pac-Man]]" (1980). Sau khi phát hành "Grand Theft Auto III", nhiều game sử dụng kiểu chơi thế giới mở 3D thường bị mang tai tiếng như là những [[Bản sao Grand Theft Auto|bản sao "Grand Theft Auto"]], giống như bao nhiêu game [[bắn súng góc nhìn thứ nhất]] lúc ban đầu cũng được gọi là "bản sao "[[Doom]]"". Một tựa game thế giới mở nổi tiếng khác là "[[Minecraft]]" đã bán được hơn 13.350.376 bản cho [[Máy tính cá nhân|PC]], [[Mac]] và [[Linux]] và 2 tỉ giờ chơi trên Xbox 360. Hơn nữa, đã có một số trò chơi ban đầu được cung cấp cho người chơi khả năng khám phá một thế giới mở trong khi lái xe. "[[Turbo Esprit]]" cung cấp một môi trường thành phố free-roaming 3D vào năm 1986 và được trích dẫn như là một trong những trò có ảnh hưởng lớn đến "Grand Theft Auto". "[[TX-1]]" (1983), "[[The Battle-Road]]" (1984) và "[[Out Run]]" (1986) là những game lái xe phi tuyến tính cho phép người chơi lái xe xuyên qua nhiều con đường khác nhau dẫn đến các tuyến đường có thể khác nhau và [[Nhiều kết thúc|điểm đến cuối cùng]]. Nhiều dòng game đua xe theo phong cách [[Game arcade|arcade]] chính thống (trái ngược với mô phỏng) đã biến thành các game thế giới mở vào những năm 2010. Tuy vậy, "Grand Theft Auto" lại không phải là tựa game thế giới mở đầu tiên cũng như cuối cùng. Một ví dụ khác đáng chú ý là dòng game "[[The Elder Scrolls|Elder Scrolls]]" có thế giới ngày càng rộng lớn và đặc biệt đa dạng cung cấp đủ nhiệm vụ và khả năng chơi tới hàng trăm giờ bất chấp lợi ích của việc du hành nhanh gần như bằng không. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Trò chơi điện tử thế giới mở| ]] [[Thể loại:Thiết kế trò chơi điện tử]] [[Thể loại:Lối chơi trò chơi điện tử]] [[Thể loại:Thể loại trò chơi điện tử]] [[Thể loại:Thuật ngữ trò chơi điện tử]]
1
null
Phạm Toàn (1932 – 26 tháng 6 năm 2019) là một nhà giáo, nhà văn và dịch giả người Việt Nam.. Ông được biết tới nhờ những hoạt động chính trị và các cống hiến trong lĩnh vực giáo dục. Vào năm 2009, ông cùng với giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Nguyễn Thế Hùng, thành lập ra trang mạng Bauxite Việt Nam để phản đối khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Ông cùng với Giáo sư Ngô Bảo Châu, và Giáo sư toán học Vũ Hà Văn, mở một trang mạng giáo dục với tên là "Học thế nào" chính thức hoạt động vào ngày 1 tháng 5 năm 2013 với kỳ vọng đóng góp vào việc tìm ra phương hướng giải quyết các vấn đề của giáo dục Việt Nam. Tiểu sử. Phạm Toàn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, đến năm 1946 ông đi bộ đội. Cuối năm 1951 ông được cho phép đi học sư phạm cao đẳng. Được giải văn xuôi 1952 ở trường Sư phạm, với tên là Châu Diên, nhại phát âm tiếng Tàu của "Hút thuốc lá" (抽煙).. Ông cũng được giải thưởng truyện ngắn (2 lần đoạt hạng nhì năm 1959, và giải khuyến khích năm 1962). Ông đi thực tế học tập người lao động ở Đoàn địa chất 32 (từ 1962–1964), và Nhà máy xi măng Hải Phòng (1964–1966). Sau đó ông nghiên cứu giáo dục tiểu học từ 1967 cho đến khi qua đời. Tháng 4/2009, ông cùng GS Nguyễn Huệ Chi, GS.TS Nguyễn Thế Hùng khởi xướng trang mạng Bauxite Việt Nam để bày tỏ quan điểm về dự án bauxite Tây Nguyên cũng như các vấn đề chính trị, xã hội khác. Ông cùng những người tâm huyết lập ra Nhóm làm sách Cánh Buồm: xây dựng bộ sách 36 cuốn cho 6 lớp tiểu học, nhằm cải cách giáo dục phổ thông xuống còn 10 năm học. Nhà giáo Phạm Toàn qua đời ngày 26 tháng 6 năm 2019.
1
null
Bóng bàn được tổ chức tại Đại hội Thể thao châu Á 1998 ở Bangkok, Thái Lan từ 6 tháng 12 đến 20 tháng 12 năm 1998. Trung Quốc duy trì ưu thế của mình trong bộ môn này và giành tổng cộng 9 huy chương, với 6 huy chương vàng. Kim Taek-Soo của Hàn Quốc là người chơi duy nhất không phải là người Trung Quốc đạt được huy chương vàng, và huy chương của anh Hàn Quốc xếp thứ hai trong bảng xếp hạng. CHDCND Triều Tiên và Hồng Kông cả hai đều đạt được một huy chương bạc và một huy chương đồng, và xếp vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng.
1
null
Bóng bàn được tổ chức từ 1 tháng 10 đến 9 tháng 10 tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 ở Ulsan Dongcheon Arena, Hàn Quốc. Quốc gia tham dự. Tổng cộng 105 vận động viên từ 18 quốc gia hoàn thành nội dung bóng bàn tại Đại hội Thể thao châu Á 2002:
1
null
Bóng bàn tổ chức cho nam và nữ tại Đại hội Thể thao châu Á 2006 ở Doha, Qatar từ 29 tháng 11 đến 7 tháng 12. Nó là một trong sáu môn thể thao bắt đầu trước Lễ khai mạc vào 1 tháng 12. Nội dung đơn, đôi và đội được tổ chức với tất cả địa điểm thi là hội trường trong nhà Al-Arabi. Quốc gia tham dự. Tổng cộng 143 vận động viên từ 22 quốc gia hoàn thành nội dung bóng bàn tại Đại hội Thể thao châu Á 2006:
1
null
Bóng bàn tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức ở Quảng Châu, Trung Quốc từ 13 tháng 11 đến 20, 2010. Nội dung đơn, đôi và đội được tổ chức tại Guangzhou Gymnasium. Quốc gia tham dự. Tổng 172 vận động viên từ 29 tham dự môn bóng bàn tại Đại hội Thể thao châu Á 2010:
1
null
Vùng liên bang Krym () là một vùng liên bang của Nga. Vùng được thành lập vào ngày 21 tháng 3 năm 2014 sau sự sáp nhập của Krym vào Liên bang Nga. Vùng bao gồm Cộng hòa Krym và thành phố liên bang Sevastopol, Ukraina tuyên bố chủ quyền đối với cả hai nơi này. Oleg Belaventsev được bổ nhiệm làm phái viên tổng thống. Trung tâm hành chính của vùng liên bang là Simferopol. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2016, Vùng liên bang Krym đã bị bãi bỏ và sáp nhập vào Vùng liên bang Phía Nam, để "tăng hiệu quả công việc của các cơ quan nhà nước liên bang".
1
null
Sân vận động Goyang là một sân vận động đa năng ở Goyang, Hàn Quốc. Sân được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Đây là sân nhà của Goyang Zaicro FC thuộc K League Challenge từ năm 2013 đến năm 2016. Sân vận động có sức chứa 41.311 người. Sân được xây dựng vào năm 2003. Sân đôi khi cũng được sử dụng cho các trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc.
1
null
Samsung Focus S là smartphone dạng thanh chạy hệ điều hành Windows Phone 7.5 (tên mã "Mango") của Microsoft. Nó là kết thừa của Samsung Focus, và nó được phát hành vào 6 tháng 11 năm 2011 tại Mỹ. Hiện nay, Focus S vẫn có sẵn thông qua AT&T. Phần cứng và màn hình. Màn hình rộng 4.3-inch, WVGA (480 x 800 pixel). Không giống như những sản phẩm trước, nó sử sụng chuẩn RGB thay vì PenTile. Màn hình có góc nhìn cao. Dưới màn hình là ba phím cảm ứng điện dung cho trở về, bắt đầu, và tìm kiếm, có thể thấy trên các Windows Phones khác. Ở trên là loa nghe, cảm biến ánh sáng, và máy ảnh trước. Bên cạnh điện thoại là phím home và phím chụp ảnh, nguồn/ngủ/mở khóa (bên phải), và âm lượng (bên trái). Tiện ích. Samsung Focus S sử dụng vi xử lý 1.4 GHz Qualcomm. Windows Phone 7.5 đã sửa một số lỗi nhỏ so với phiên bản trước.
1
null
Prioniodontida là một nhánh lớn của conodonta bao gồm 2 lớp tiến hóa lớn; Prioniodinina và Ozarkodinina. Nó bao gồm nhiều conodont nổi tiếng, chẳng hạn "Promissum" (Prioniodinina) có mặt trong tầng đá phiến sét Soom. Phát sinh học. Đây là biểu đồ gần đây của Prioniodontida, đã đơn giản hóa theo Donoghue et al., (2008).
1
null
Epandros (tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua Ấn-Hy Lạp. Ông có thể là có họ hàng với Menandros I, và việc tìm thấy tiền xu của ông dường như chỉ ra rằng ông đã cai trị trong khu vực Punjab. Thời gian cai trị. Bopearachchi cho rằng Epandros cai trị khoảng từ năm 95 đến 90 TCN và R. C. Senior cho là vào khoảng năm 80 TCN. Số lượng tiền xu ít ỏi của ông cho thấy rằng ông cai trị không lâu và/hoặc ông chỉ cai trị trong một vùng đất nhỏ. Những đồng tiền của Epandros. Những đồng đrama bạc của Epandros vẽ hình ông ở mặt trước còn mặt sau có hình nữ thần Athena đang chiến đấu theo kiểu Menandros I. Có thể qua đây, người ta đoán Epandros là con cháu của vị vua nổi tiếng này, song danh hiệu "Nikephoros" ("Người chiến thắng") lại chỉ có ông sử dụng: những người khác thường là "Soter" (Vị cứu tinh). Ông không cho đúc tiền kiểu Attic (đơn ngữ). Ngoài ra Epandros còn cho đúc chồng lên tiền của Strato I và Philoxenos.
1
null
Hồ Urmia (, "Daryache-ye Orumiye", , Tiếng Kurd Wermy, "Urmia Lich"; tên cổ đại: "Hồ Matiene") là một hồ nước mặn ở tây bắc Iran gần biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ. Hồ nằm ở giữa các tỉnh Đông Azarbaijan và Tây Azerbaijan, phần tương tự phía tây nam biển Caspi. Nó là hồ nước lớn nhất Trung Đông là và hồ nước mặn lớn thứ 6 trên thế giới với diện tích bề mặt xấp xỉ 5,200 km² (2,000 mile²), chiều dài length, , và độ sâu 16 m (52 ft).
1
null