text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Beautiful People là một bộ phim hài trào phúng phát hành năm 1999 do Jasmin Dizdar viết kịch bản và đạo diễn. Phim giành giải phim hay nhất tại hạng mục Un Certain Regard của Liên hoan phim Cannes và được đưa vào danh sách 1000 phim hay nhất của báo The New York Times. "'Beautiful People" lấy bối cảnh ở Luân Đôn trong thời kỳ Chiến tranh Bosnia. Cốt truyện. Ở Luân Đôn, tháng 10 năm 1993, đội tuyển Anh đang thi đấu với Hà Lan để tranh vé dự World Cup. Chiến tranh Bosnia đang trong giai đoạn đỉnh điểm, người tị nạn từ vùng Yugoslavia trước kia tràn tới. Đối thủ bóng đá và phe đối lập chính trị gây ra các cuộc đụng độ. Trong khi đó, cuộc sống của bốn gia đình người Anh bị xáo trộn theo nhiều cách khác nhau khi người tị nạn tới. Phản hồi. Bộ phim được chọn là một trong các ứng cử viên tranh giải ở hạng mục Un Certain Regard tại Liên hoan phim Cannes 1999. Nhà phê bình phim Roger Ebert cho bộ phim (ba trên bốn sao) trong bài đánh giá của mình.
1
null
Nuôi cá sấu hay mô hình trang trại cá sấu là việc thực hành chăn nuôi để khai thác, sử dụng các nguyên liệu, sản phẩm của cá sấu như da cá sấu, thịt cá sấu và các sản phẩm khác hoặc cung cấp để dùng cho mục đích câu cá sấu giải trí, trong đó da cá sấu là mặt hàng thượng hạng cho công nghiệp thuộc da và thời trang. Việc chăn nuôi cá sấu thường thông qua một cơ sở cho chăn nuôi theo hình thức trang trại và thường được bảo vệ an toàn nghiêm ngặt vì cá sấu là loài vật nuôi hung dữ, nếu sơ suất không an toàn thì đã có nhiều vụ cá sấu xổng chuồng, gây nguy hiểm cho cộng đồng. Lịch sử. Mặc dù không thực sự thuần hóa, nhưng cá sấu đã được nuôi trong các trang trại ít nhất là từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, đại đa số các doanh nghiệp đầu là các trang trại chủ yếu là để nhốt giữ cá sấu và cá sấu như một điểm thu hút khách du lịch thông qua hoạt động tham quan và câu cá sấu giải trí. Cá sấu Mỹ được đặt dưới sự bảo hộ chính thức vào năm 1967 cho nên cá sấu nuôi cho da trở thành lựa chọn khả thi nhất cho việc sản xuất thuộc da (ngoài săn bắn bất hợp pháp). Chủ yếu là tập trung ở Mỹ, phía Nam tiểu bang Louisiana, Florida và Georgia, việc thực hành nhanh chóng lan sang các quốc gia khác. Các cá thể cá sấu sông Nin được tìm thấy trong trang trại trên khắp châu Phi và cá sấu nước mặn được nuôi tại Úc và các khu vực khác. Các loại cá sấu Caiman thường có kích thước nhỏ thường không đủ giá trị thị trường để nuôi trong trang trại. Cá sấu và cá sấu nuôi đầu tiên phát triển từ nhu cầu về da, người ta có thể thu về hàng trăm đô la trên một mảnh da. Nhưng cá sấu bắt đầu được bán ra sau đó và vận chuyển trên toàn thế giới với các thị trường quen thuộc với thịt cá sấu. Ẩm thực Trung Quốc dựa trên y học cổ truyền Trung Quốc cho rằng thịt cá sấu là một loại thực phẩm chữa bệnh cho cảm lạnh và phòng chống ung thư, mặc dù không có bằng chứng khoa học để chứng minh điều này. Trên thế giới. Cá sấu trong thiên nhiên được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng được chăn nuôi vì mục đích thương mại, và da của chúng được thuộc làm da cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v, trong khi thịt cá sấu được coi là đặc sản đối với những người sành ăn. Các loài có giá trị thương mại chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin, trong khi con lai của cá sấu nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được chăn nuôi trong các trang trại ở châu Á. Việc chăn nuôi đã làm tăng số lượng cá sấu nước mặn ở Úc, do trứng thông thường được thu hoạch từ tự nhiên, vì thế những chủ sở hữu đất đai có động cơ thúc đẩy để bảo tồn môi trường sống của cá sấu. Vùng Louisiana, Mỹ là nơi sinh sống chủ yếu của loài cá sấu. Trung bình có khoảng 2 triệu con cá sấu sinh sống ở các vùng đầm lầy xung quanh khu vực này. ở Louisiana, người dân cũng tiến hành nuôi trồng với một số lượng lớn. Việc đánh bắt, giết hại và lột da cá sấu là một công việc quen thuộc của người dân ở Louisiana. cá sấu được bắt lên bờ, dùng băng dính bịt phần miệng hoặc bị bắn ngay lập tức khi mới bắt lên, sau đó, những người thợ sẽ tiến hành lột da. Phần da lột ra sẽ để riêng, cung cấp cho các cơ sở thuộc da, còn phật thịt sẽ được mang đi tiêu thụ. Ngành công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng cá sấu ở Louisiana phát triển rất thuận lợi. Lợi nhuận thu về từ công việc này từng tăng khoảng 50 triệu USD. Nhưng khoảng thời gian gần đây, do khủng hoảng kinh tế nên phần lợi nhuận này đã bị giảm sút, ảnh hưởng khá nhiều đến cuộc sống của người dân địa phương. Ở châu Phi, Các chương trình chăn nuôi cá sấu sông Nin để lấy da đã được thực hiện với kết quả tốt trong khu vực này và thậm chí các quốc gia có hạn ngạch cho xuất khẩu cũng dịch chuyển sang việc chăn nuôi cá sấu. Năm 1993, 80.000 cá sấu sông Nin đã được sử dụng để sản xuất da, chủ yếu từ chăn nuôi ở Zimbabwe và Nam Phi. Ngoài ra, Một số địa điểm nuôi cá sấu nổi tiếng như Puerto Princesa ở Philippines... Ở Việt Nam, phong trào nuôi cá sấu đã phát triển khá rầm rộ ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh cá sấu đang được nhiều người chọn nuôi vì đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao và giúp nhiều người thoát nghèo. Một số liệu thống kê cho biết, tổng đàn cá sấu nuôi tại 3 tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Long An khoảng 72.000 con, riêng tại Bạc Liêu lên đến 320.000 con và được gọi là thủ phủ của cá sấu. Đã có hàng ngàn hộ gia đình nuôi cá sấu nhưng đến nay cả nước chỉ có một vài trại nuôi cá sấu được phép xuất khẩu, đã có 125 trại hoặc hộ gia đình nuôi cá sấu đã đăng ký với chi cục kiểm lâm các địa phương. Còn số hộ gia đình nuôi cá sấu nhưng chưa đăng ký có thể lên đến hàng ngàn. Tại Thành phố Hồ Chí Minh có 53 tổ chức, cá nhân nuôi cá sấu với tổng đàn gần 173.000 con các loại trong đó có trại nuôi lên đến 20.000 con với khoảng 2.000 con đang đẻ và các trại nuôi với khoảng 30.000 con tại các xã quanh địa bàn huyện Củ Chi. Một trang trại ở Lạng Sơn có khoảng 400 con cá sấu, trong số đó 200 con có thể xuất khẩu ngoài ra cá sấu con được nuôi tại một số nơi ở Cần Thơ hoặc Sóc Trăng. Nuôi cá sấu từng giúp nhiều hộ gia đình ở Việt Nam vươn lên khá, giàu nhưng có thời điểm cá sấu cũng đang chịu cảnh rớt giá. Nuôi cá sấu còn gặp nhiều khó khăn và bất cập do sản phẩm không có đầu ra. Cá sấu thương phẩm được xuất mạnh qua Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch, vì người dân ở đây thích ăn thịt cá sấu còn nguyên da và đầu ra phần lớn phụ thuộc vào Trung Quốc. Một ước tính toàn tỉnh Cà Mau có khoảng 4.000 - 5.000 con cá sấu có trọng lượng từ 30 kg/con trở lên chưa bán được. Nhiều người cho rằng đây là một chiêu trò thâm độc của thương lái Trung Quốc trong việc thu mua cá sấu của người nông dân. Tại khu vực xung quanh hồ Trị An ở huyện Định Quán và huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đang rộ lên phong trào nuôi cá sấu đến mức nuôi cá sấu dễ như nuôi heo, cá sấu đang là con cá vàng giúp người nông dân thoát nghèo. Kỹ thuật nuôi. Cá sấu là loài dễ nuôi, hoàn toàn sinh sản và nuôi lớn lên từ trong trại nuôi, nguồn thức ăn chủ yếu là cá biển có giá thành thấp. Đến 80% giá trị của cá sấu nằm ở bộ da, hơn 10% từ thịt, còn lại là từ xương dùng để nấu cao, ngoài ra, nuôi cá sấu còn có thể kết hợp kinh doanh du lịch. Nhiều người thiết kế hệ thống nuôi cá sấu liên hoàn, kết hợp giữa cá sấu với các vật nuôi khác như gà, ếch, lợn, cá và cây ăn quả để tự giải quyết nguồn thức ăn cho cá sấu, tăng chất lượng sản phẩm và hạn chế chi phí không cần thiết. So với việc nuôi các con vật truyền thống lâu nay, thì cá sấu có nhiều ưu thế hơn, bởi cá sấu ít bệnh, ăn các loại thức ăn tạp, có giá thành rẻ, như cá mè, cá rô phi, cá trôi, lòng lợn, lòng bò, gà công nghiệp quá hạn sử dụng, nguồn thức ăn cho cá sấu ở miền núi cũng rất sẵn, kể cả khoai, mì, ngô hay các loài thú hoang nhỏ. Cá sấu ăn vào buổi chiều, thức ăn chủ yếu là cá rô. Nuôi cá sấu khó ở mỗi khâu chăm sóc con giống. Trong khoảng thời gian 1 năm đầu, cá cần được chăm sóc kỹ lưỡng về thức ăn (thức ăn phải được cắt nhỏ), vệ sinh chuồng trại, để ý đến sự thay đổi của thời tiết mà ngừa bệnh và trị bệnh. Khoảng 1 năm trở lên, cá phát triển nhanh chóng. Sau 20 tháng trở lên, cá đạt trọng lượng từ 15–20 kg/con, có thể xuất bán. Vào mùa cá sấu đẻ, mỗi năm chúng chỉ tập trung đẻ một lần từ khoảng tháng 3 đến tháng 5 sẽ chấm dứt, các ổ trứng được đưa vào lò ấp công nghiệp để xử lý cho nở đồng loạt thành đàn cá sấu con đây là công đoạn khó khăn. Ngoài ra có thể gặp rủi ro khi dưỡng da cho cá sấu bởi nếu phần da bụng cá sấu bị trầy xước sẽ làm mất giá trị khi chế biến hoặc những con cá sấu trong quá trình nuôi nhốt tập thể, chúng cắn nhau bị rách, hư da. Nguy cơ. Do bản chất hoang dã có tính dữ và có tính sát thương lớn nên trong suốt quá trình nuôi cá sấu phải đề phòng nguy hiểm cho con người, khi người chăn nuôi bước vào, mặc dù đứng ngoài lồng, có lưới sắt bảo vệ nhưng cũng phải né, thấy hơi người là cả đàn sạp vào cắn tới tấp, không có kỹ thuật thì nguy hiểm bình thường cá sấu chỉ ăn và ngủ, nhưng khi thấy có động tĩnh lạ hoặc bị trêu (ném, chọc, nhử đồ ăn quá lâu) thì sẽ rất nguy hiểm, chúng lao ra khỏi lớp rào thép. Ngoài ra, nguy cơ sổng chuồng của cá sấu tại các điểm nuôi là rất có khả năng xảy ra. Cá sấu sống theo bầy, một chuồng nuôi đến vài chục, thậm chí vài trăm con. Mỗi khi cho cá ăn hay vệ sinh chuồng trại, cá thường tập trung vào góc chuồng, chúng nằm chồng lên nhau và cùng bám vào lưới B40, nếu việc này lặp lại nhiều lần, lưới sẽ bị gãy, nếu người nuôi không chú ý thì cá sấu có thể thoát ra ngoài. Ở Cà Mau, các hộ dân nuôi cá sấu đa số những hộ nuôi quy mô nhỏ, chuồng trại đều không bảo đảm an toàn. Phần lớn diện tích chỉ từ 8 – 12 m2 nhưng số lượng nuôi từ 10-20 con cá sấu, mật độ như quá dày, hạn chế sự phát triển của cá. Đối với loại cá từ 1 năm tuổi trở lên, nguy cơ chuồng trại bị vỡ rất cao. Đặc điểm của cá sấu là rất khỏe khi chuồng trại hẹp, cá sấu thường cấu xé nhau để tranh ăn rất quyết liệt. Những lúc như vậy, chuồng hay bị vỡ, ảnh hưởng tới sự an toàn của những người dân xung quanh, người nuôi cá sấu phải ý thức được đây là loài động vật hoang dã rất hung dữ, một khi cá sấu xổng chuồng thì đe dọa tới an toàn tính mạng của con người. Tại Đồng Nai có hai vụ cá sấu sổng chuồng và lọt xuống hồ Trị An khiến người dân bất an, lo lắng. Chỉ trích. Tổ chức quốc tế Những người tranh đấu cho sự đối xử có đạo đức với động vật (PETA) công bố cuối năm 2016 một video mô tả điều họ gọi là: "Cái giá thật của "hàng xa xỉ" làm từ da cá sấu nuôi và giết ở Việt Nam". Trong đoạn video quay vào tháng 3 và 4 năm 2016, PETA cho biết hình ảnh quay tại hai trong số các trang trại cung cấp da cá sấu cho LVHM–công ty mẹ của Loius Vuitton và một vài thương hiệu lớn khác PETA tố cáo các điều kiện xấu nuôi nhố, cho biết tại một trang trại:
1
null
Jasmin Dizdar (sinh 8 tháng 6 năm 1961 ở Zenica) ilà nhà biên kịch, đạo diễn phim và nhà văn người Anh gốc Bosnia. Ông được biết đến với bộ phim "Beautiful People", bộ phim đã giành giải phim hay nhất ở hạng mục Un Certain Regard của Liên hoan phim Cannes. Bộ phim này cũng được xếp thứ 71 trong cuốn Cẩm nang 1000 phim hay nhất mọi thời đại của báo The New York Times.
1
null
Rắn hổ lục đầu giáo vàng (danh pháp hai phần: "Bothrops insularis") là một loài rắn hổ có nọc độc được tìm thấy tại Ilha da Queimada Grande, một hòn đảo nhỏ ngoài khơi bờ biển của bang São Paulo, Brazil. Tên của chúng được đặt theo màu vàng nâu cùng hình dạng đầu của nó, đặc trưng của các loài rắn thuộc chi "Bothrops". Không có phân loài nào của Rắn hổ lục đầu giáo vàng hiện đang được công nhận. Hình thái vật lý. Rắn hổ lục đầu giáo vàng phát triển và đạt tổng chiều dài trung bình khoảng 70 cm (28 in), và tối đa có thể đạt trên 118 cm (46 in). Chúng có cơ thể màu vàng nâu nhạt, phủ lên một loạt các vệt nhạt trên lưng hình tam giác hoặc tứ giác, rộng hay hẹp, xen kẽ hoặc liền thành một dải dọc theo lưng, tùy thuộc vào cá thể. Trong điều kiện nuôi nhốt, màu vàng này thường trở nên tối hơn, đó có thể là kết quả của việc kém lưu thông máu bị gây ra bởi điều hòa thân nhiệt không hiệu quả..Phần đầu có hai dải sọc sọc sau mắt rất rõ ràng. Bụng của loài này có màu vàng kem nhạt hoặc kem. Tên "lancehead" đề cập đến hình dạng đầu đặc biệt của tất cả các loài rắn trong chi Bothrops, đó là hơi dài và nhọn dần ở mũi. Rắn hổ lục đầu giáo vàng cũng có một cái đuôi dài hơn so với loài gần gũi nhất với chúng là "B. jararaca", đây rất có thể là một sự thích nghi để giúp cơ động hơn khi di chuyển qua các cây. Nọc độc. Vì loài rắn này chỉ được tìm thấy trong một khu vực không có con người sinh sống, nên chưa có báo cáo chính xác về một trường hợp nào mà con người bị loài rắn này cắn, nhưng chúng là loài gây ra cái chết nhiều hơn bất kỳ loài rắn nào khác ở Bắc hay Nam Mỹ. Ludwig Trutnau báo cáo bốn trường hợp bị cắn thì ba trong số đó tử vong. Tỷ lệ tử vong nếu bị Rắn hổ lục đầu giáo vàng cắn chỉ là 0,5-3% nếu bệnh nhân được điều trị kịp thời và 7% nếu bệnh nhân không được điều trị. Những ảnh hưởng từ nọc độc của chúng sẽ gây ra sưng, đau đầu, nôn mửa, bầm tím, xuất huyết máu trong nước tiểu, chảy máu đường ruột, suy thận, xuất huyết não và hoại tử nghiêm trọng tại các mô cơ bắp. Phân tích hóa học của nọc độc loài này cho thấy rằng, nó mạnh gấp 5 lần so với nọc độc của loài "B. jararaca và là loài độc nhất trong chi Bothrops. Phân tích cũng cho thấy, trong nọc độc của loài rắn này có chất độc Hemotoxin làm ăn mòn thịt và mô, giúp tiêu hóa con mồi dễ hơn trước khi nuốt.
1
null
Bối cảnh. Thuận Trị năm thứ 16 (năm 1659), Trịnh Thành Công bắc phạt Nam Kinh thất bại trở về Hạ Môn chỉnh đốn lại lực lượng. Quân Thanh tận dụng quân Trịnh vừa mới thất bại lớn, Thuận Trị đế hạ lệnh cho An Nam tướng quân Đạt Tố dẫn quân đến Phúc Kiến và phái thuộc hạ bát kỳ là Chiết Giang Minh An tướng Đạt Lễ đem lục doanh thủy quân đến ven biển Đông Nam. Tất cả do tự thân Đạt Tố chỉ huy, vọng tưởng toàn diện tiến công Hạ Môn, Kim Môn và tiêu diệt Trịnh Thành Công. Diễn biến. Năm Thuận Trị thứ 17 (năm 1660), Đạt Tố dẫn quân từ Tuyền Châu, kế hoạch phân quân Thanh làm ba lộ xuất kích. Từ Đồng An và Hải Đăng ba hướng xâm phạm Hạ Môn. Ngoài ra còn mệnh lệnh cho Tĩnh Nam Vương Cảnh Kế Mậu phái quân bắc từ Quãng Đông tiến lên phía Bắc vây tiểu quân Trịnh. Trịnh Thành Công sau khi phân tích cẩn thận, quyết định lấy công đối công với quân Thanh, đem quân đi nghênh địch. Cũng phái Trịnh Thái đem quân ra trấn thủ đảo Ngô (Đại Kim Môn) chống quân Thanh tấn công từ Quãng Đông. Phái bộ tướng Trần Bàng bảo vệ Cao Kỳ chống quân Thanh tấn công từ Đồng An. Tự mình dẫn quân chủ lực tập kết tại vùng biển Hải Môn nghênh chiến quân Thanh tiến công từ Hải Đăng. Ngày 10 tháng 5, quân Thanh xuất phát từ Lê Minh mở đầu cuộc tấn công, các tướng Trịnh là Chu Thụy và Trần Hiểu Sách chiến đấu anh dũng những trước thế mạnh của quân Thanh hai tướng tử trận. Thủy quân Thanh tấn công quân Trần Huy. Trần Huy lệnh bộ hạ dùng hỏa pháo bắn phá về phía quân Thanh, nhiều tàu chiến của quân Thanh bị thiêu cháy. Đến giữa trưa thì bỗng nhiên có gió thổi to, Trịnh Thành Công tự thân soái lĩnh chiến hạm xông vào chiến hạm đội quân Thanh đánh giết. Trịnh Thái cũng đem quân từ đảo Ngô về hợp lực tác chiến. Quân Trịnh anh dũng chiến đấu sỉ khí tăng lên, quân Thanh đại bại. Đạt Tố dẫn tàn quân bại trận chạy về Chương Châu. Quân Trịnh giành chiến thắng bảo về an toàn căn cứ địa Hạ Môn. Ảnh hưởng. Chiến dịch Hạ Môn đã gây tổn thất lớn cho thủy quân Thanh tại duyên hải Đông Nam, đồng thời ổn định lòng quân Trịnh tại Hạ Môn. Quân Thanh không dám tấn công quân Trịnh thêm một lần nữa. Trịnh Thành Công chủ ý đông chinh giải phóng Đài Loan, xây dựng căn cứ địa mới để tiếp tục kháng Thanh lâu dài.
1
null
Independence Day ("Ngày độc lập") là một bộ phim khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 1996 nói về thảm họa xâm lược của người ngoài hành tinh vào Trái Đất. Có sự xuất hiện của các ngôi sao điện ảnh như Will Smith, Bill Pullman, Jeff Goldblum, Mary McDonnell, Judd Hirsch, Margaret Colin, Randy Quaid, Robert Loggia, James Rebhorn, Vivica A. Fox, và Harry Connick, Jr. Câu chuyện nói về một nhóm người khác nhau trong sa mạc Nevada với phần còn lại người dân thế giới tham gia vào một cơ hội phản công cuối cùng vào ngày 4 tháng 7 - ngày Quốc khánh Hoa Kỳ. Được chỉ đạo bởi đạo diễn người Đức Roland Emmerich, người đồng sáng tác kịch bản với nhà sản xuất Dean Devlin. Lúc ở Stargate, châu Âu, Emmerich đã đưa ra ý tưởng cho bộ phim khi Fielding một câu hỏi về niềm tin của mình vào sự tồn tại của sự sống ngoài Trái Đất. Ông và Devlin đã quyết định ý tưởng bộ phim về một cuộc tấn công quy mô lớn khi nhận thấy rằng người ngoài hành tinh trong hầu hết các bộ phim khác di chuyển xa trong không gian bên ngoài nhưng vẫn còn bí ẩn khi đến Trái Đất. Nhiếp ảnh gia chính cho bộ phim bắt đầu quay vào tháng 7 năm 1995 tại thành phố New York, và bộ phim được chính thức hoàn thành vào ngày 20 tháng 6 năm 1996. Bộ phim dự kiến ​​khởi chiếu vào ngày 3 tháng 7 năm 1996, nhưng do sự mong đợi của nhiều người, một số rạp bắt đầu khởi chiếu vào tối ngày 2 tháng 7 năm 1996. Tổng doanh thu phòng vé từ cả trong nước và quốc tế là 816.969.268 $, tính đến nay, bộ phim có doanh thu xếp thứ 42 trong danh sách những phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại và đi đầu trong các bộ phim nói về thảm họa - khoa học viễn tưởng cuối những năm 1990. Nó đã giành được giải Oscar cho bộ phim kĩ xảo hay nhất, và cũng được đề cử cho phim hay nhất về hiệu ứng âm thanh. Ngày khởi chiếu phần 2 của "Independence Day" là ngày 1 tháng 7 năm 2016. Nội dung. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1996, một tàu mẹ khổng lồ của người ngoài hành tinh đến quỹ đạo Trái đất và triển khai nhiều đĩa, mỗi đĩa rộng 15 dặm (24 km) đảm nhiệm các vị trí trên các thành phố lớn của Trái đất. Đại úy Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ Steven Hiller được triển khai mặc dù đang nghỉ phép; bạn gái của anh, Jasmine Dubrow, lo lắng về người ngoài hành tinh, quyết định bỏ trốn khỏi Los Angeles cùng với con trai cô, Dylan. Tại thành phố New York , David Levinson, một kỹ thuật viên vệ tinh do MIT đào tạo, giải mã một tín hiệu được nhúng trong các đường truyền vệ tinh toàn cầu, nhận ra đó là đồng hồ đếm ngược của người ngoài hành tinh cho một cuộc tấn công phối hợp. Với sự giúp đỡ từ vợ cũ, Giám đốc Truyền thông Nhà Trắng Constance Spano, David và cha Julius đã có quyền truy cập vào Phòng Bầu dục và cảnh báo cho Tổng thống Thomas Whitmore về mối đe dọa. Whitmore ra lệnh sơ tán New York, Los Angeles và Washington, DC , nhưng đã quá muộn. Mỗi chiếc đĩa bắn ra một chùm tia hủy diệt duy nhất , gây ra một vụ nổ khổng lồ thiêu rụi thành phố được nhắm mục tiêu của mỗi chiếc đĩa, giết chết hàng triệu người. Whitmore, Levinsons và một số người khác trốn thoát trên Không lực Một khi Washington, New York, Los Angeles và các thành phố lớn khác trên thế giới bị phá hủy ngay lập tức. Jasmine, Dylan và con chó Boomer của họ trú ẩn trong một hốc tường kiểm tra của đường hầm, nổi lên sau khi sự phá hủy kết thúc. Vào ngày 3 tháng 7, các cuộc phản công chống lại những kẻ xâm lược ngoài hành tinh bắt đầu, nhưng các con tàu của họ được che chắn bởi các trường lực . Mỗi đĩa phóng ra một bầy máy bay chiến đấu với lá chắn riêng của chúng, chúng sẽ tiêu diệt các phi đội máy bay chiến đấu của con người và các căn cứ quân sự. Hiller, một trong những thủ lĩnh phi đội của nhiệm vụ, sống sót bằng cách dụ kẻ tấn công vào không gian kín của Grand Canyon trước khi phóng ra khỏi máy bay của hắn, khiến máy bay chiến đấu của đối phương rơi xuống sa mạc Mojave . Anh ta khuất phục người ngoài hành tinh bị bắn rơi và hạ cờ một đoàn người tị nạn, vận chuyển người ngoài hành tinh bất tỉnh đến Khu vực 51 , nơi nhóm của Whitmore đã hạ cánh. Bộ trưởng Quốc phòng Albert Nimzicki tiết lộ rằng một phe trong chính phủ đã tham gia vào một âm mưu UFO kể từ năm 1947, khi một trong những máy bay chiến đấu tấn công của quân xâm lược bị rơi ở Roswell . Khu vực 51 là nơi lưu giữ con tàu hiện đã được tân trang lại và ba xác chết người ngoài hành tinh được trục vớt sau vụ tai nạn. Khi nhà khoa học chính, Tiến sĩ Brackish Okun kiểm tra người ngoài hành tinh bị Steven bắt giữ, nó thức tỉnh, ngoại cảm xâm nhập tâm trí Okun, giết những người khác và phát động một cuộc tấn công tâm linh chống lại Whitmore. Sau mật vụ, các đặc vụ và nhân viên quân sự giết người ngoài hành tinh, Whitmore tiết lộ những gì anh học được khi họ liên kết với nhau: những kẻ xâm lược có kế hoạch xóa sổ các nền văn minh và tước đoạt tài nguyên thiên nhiên của Trái đất như chúng đã làm với nhiều hành tinh khác trước chúng. Whitmore miễn cưỡng cho phép tấn công hạt nhân nhằm vào một chiếc đĩa nằm phía trên Houston , như một cuộc thử nghiệm, nhưng chiếc đĩa vẫn sống sót. Jasmine và Dylan, đã chỉ huy một chiếc xe cứu hỏa, giải cứu những người sống sót khác, bao gồm cả Đệ nhất phu nhân Marilyn Whitmore bị thương nặng. Mặc dù sau đó họ được Hiller tìm thấy và đưa đến Khu vực 51, Marilyn đã chết ngay sau khi đoàn tụ với gia đình. Vào ngày 4 tháng 7 , lấy cảm hứng từ cha mình, David Levinson đã viết ra một loại virus máy tính có thể phá vỡ hệ điều hành 'lá chắn' của người ngoài hành tinh và lên kế hoạch đưa nó vào vai trò người mẹ từ chiếc máy bay chiến đấu người ngoài hành tinh đã được tân trang lại mà Hiller tình nguyện lái. Quân đội Hoa Kỳ liên lạc với các phi đội dù còn sống sót của các quốc gia khác nhau trên khắp thế giới thông qua mã Morse để tổ chức một cuộc phản công thống nhất chống lại người ngoài hành tinh. Với nhân lực quân sự thiếu hụt phi công, Whitmore và Tướng William Grey tranh thủ sự giúp đỡ của các tình nguyện viên có kinh nghiệm bay, bao gồm cả phi công chiến đấu đã nghỉ hưu Russell Casse, để bay các máy bay phản lực còn lại tại Khu vực 51; Whitmore dẫn đầu một cuộc tấn công vào một chiếc đĩa nằm dưới đế trong khi Gray giám sát nó. Hiller kết hôn với Jasmine với sự tham dự của David và Constance trước khi Hiller và Levinson lên đường thực hiện nhiệm vụ. Vào tàu mẹ, họ tải virus lên và triển khai tên lửa hạt nhân trên tàu, vô hiệu hóa hệ thống liên lạc của người ngoài hành tinh và quân tiếp viện sau khi con tàu bị phá hủy. Khi lá chắn của người ngoài hành tinh ngừng hoạt động, phi đội của Whitmore có thể chiến đấu với máy bay chiến đấu của kẻ thù, nhưng đạn dược của họ đã cạn kiệt trước khi có thể phá hủy chiếc đĩa. Khi chiếc đĩa chuẩn bị khai hỏa vào căn cứ, Russell có một quả tên lửa cuối cùng, nhưng không thể bắn do trục trặc bệ phóng; anh ta hy sinh bản thân bằng cách đâm máy bay phản lực của mình với tên lửa vào vũ khí của chiếc đĩa khi nó đang lao vào khai hỏa, phá hủy phi thuyền. Lực lượng quân sự của con người trên toàn thế giới được thông báo về điểm yếu quan trọng của tàu ngoài hành tinh và tiêu diệt những con khác.
1
null
Patricia Anne "Pattie" Boyd (sinh 17 tháng 3 năm 1944 tại Taunton) là người mẫu, nhiếp ảnh gia và nhà văn người Anh. Bà là người vợ đầu tiên của cả hai tay guitar nổi tiếng George Harrison và Eric Clapton. Tháng 8 năm 2007, bà cho ra mắt cuốn tự truyện "Wonderful Tonight". Những bức ảnh bà chụp Harrison và Clapton được tổng hợp trong cuốn "Through the Eye of a Muse" từng được trưng bày tại Dublin, Sydney, Toronto, Moscow, London và nhiều triển lãm tại Mỹ.
1
null
Christopher Paul O'Neill (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1974) là một doanh nhân người Anh - Mỹ sống và làm việc tại thành phố New York. Ông là chồng của Công chúa Madeleine của Thụy Điển. Thiếu thời. Christopher O'Neill sinh ra tại Luân Đôn, Anh. Ông là con trai của Paul Cesario O'Neill (1926-2004) - giám đốc một ngân hàng đầu tư người Mỹ đã sang định cư tại Anh thập niên 1960 để tiếp quản Ngân hàng "Oppenheimer Holdings" và người vợ thứ hai là Eva Maria O'Neill (nhũ danh Walter, sinh năm 1940 tại Áo). Christopher có hai người chị gái cùng mẹ khác cha (Tatjana d'Abo, Nữ Bá tước Natascha Abensberg-Traun) và ba người chị cùng cha khác mẹ (Stephanie, Annalisa và Karen O'Neill). Ông lớn lên tại Luân Đôn và St. Gallen, thỉnh thoảng có đến Áo và Đức để du lịch và là công dân của Mỹ và Anh. Giáo dục và sự nghiệp. Christopher O'Neill tốt nghiệp học viện "Institut auf dem Rosenberg" ở St. Gallen, Thụy Sĩ và lấy bằng cử nhân ngành Quan hệ quốc tế tại trường "Đại học Boston". Ông đồng thời cũng có bằng Thạc sĩ quản trị kinh doanh của "Trường Kinh doanh Columbia" ở New York. Ông từng là nhân viên của "N M Rothschild & Sons" và "Steinberg Asset Management". Hôn nhân. Công chúa Madeleine của Thụy Điển và Christopher O'Neill lần đầu tiên ra mắt công chúng là vào tháng 1 năm 2011. Lễ đính hôn của họ được công bố vào ngày 25 tháng 10 năm 2012. Cuối tháng 4 năm 2013; Hoàng gia Thụy Điển đã thông báo rằng lễ cưới của họ sẽ được tổ chức vào ngày 8 tháng 6 năm 2013 tại Nhà thờ Hoàng gia trực thuộc Cung điện Hoàng gia ở Stockholm, còn bữa tối sẽ được tổ chức tại Cung điện Drottningholm. Không giống như người anh cột chèo, Hoàng thân Daniel, Christopher không có bất cứ nhiệm vụ hay tước vị hoàng gia nào, bởi vì thành viên của Hoàng gia Thụy Điển phải mang quốc tịch Thụy Điển. Do đó, Christopher vẫn sẽ tiếp tục công việc kinh doanh của mình trong lĩnh vực tài chính. Cặp đôi dự định sẽ tiếp tục sống ở New York. Con gái đầu lòng của họ, Công chúa Leonore, Nữ Công tước xứ Gotland chào đời ngày 20 tháng 2 năm 2014 tại thành phố New York, Mỹ.
1
null
Võ Thập Lang () là bộ phim truyền hình tình cảm - hài, xen lẫn các pha võ thuật đẹp mắt của Trung Quốc, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên: Dương Thiên Hoa, Hoắc Kiến Hoa, Hồ Vũ Uy, Trương Manh, Bách Tuyết, Giả Nãi Lượng... Khai máy vào mùa hè năm 2006, bộ phim được khởi quay tại phim trường Qingsheng Studios ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc. Bên cạnh Tiếng Quan thoại, bộ phim còn được lồng thêm tiếng Quảng Đông để đáp ứng nhu cầu của khán giả ở Hồng Kông. Bộ phim được phát sóng lần đầu tiên ở Trung Quốc trên đài HKBTV năm 2007 và ở Đài Loan trên đài FTV năm 2008. Lấy bối cảnh Trung Hoa nửa đầu thế kỷ 20, bộ phim xoay quanh cuộc đời, tình bạn, những hoài bão và mối tình trắc trở của Võ Thập Lang - một cô gái cải nam trang. Nội dung. Tư tưởng "Trọng nam khinh nữ" vốn tồn tại bấy lâu trong quan niệm của không ít người và mọi rắc rối cũng nảy sinh từ đó. Phim "Võ Thập Lang" bắt đầu với câu chuyện về gia đình nhà họ Võ sinh được 9 người con đều là nữ. Đứng trước nguy cơ chồng đi lấy vợ bé, Võ phu nhân khi biết được đứa bé thứ 10 cũng là con gái, liền che giấu mọi người, nói rằng đứa bé là con trai. Võ Thập Lang (Dương Thiên Hoa) ra đời, từ nhỏ đến lớn đã luôn phải sống trong tình trạng "nữ cải nam trang". Dần dần, mọi hành động và tính cách của cô đều giống hệt như con trai. Lớn lên trong một gia đình có truyền thống võ học, cô được thừa hưởng từ cha lòng say mê võ thuật và luôn có tinh thần trọng nghĩa. Thập Lang và Lý Á Thọ (Hoắc Kiến Hoa) - một chàng trai mồ côi cha mẹ - từ nhỏ đã là huynh đệ tốt của nhau. Nhưng Á Thọ lại hoàn toàn không hề biết về thân phận của cô nên chỉ coi cô là huynh đệ tốt, mà không biết rằng Thập Lang đã thích anh từ lâu. Một ngày nọ, nhà họ Lôi - một gia đình quyền quý - chuyển đến thị trấn mở cuộc thi tỉ võ để kén rể. Á Thọ đã quyết tâm chiến thắng để lấy bằng được người đẹp và trở nên giàu có. Thập Lang vì muốn ngăn cản Á Thọ kết hôn nên cô chỉ còn cách tham gia cuộc thi hòng đánh bại Á Thọ. Không ngờ, "nam dạng" của cô lại rơi vào tầm ngắm của đại tiểu thư nhà họ Lôi - Lôi Tiểu Vũ (Trương Manh), và được chọn làm con rể. Còn "nữ dạng" của cô lại hút hồn công tử còn lại của nhà họ Lôi - Lôi Thanh Đại (Hồ Vũ Uy).
1
null
Ilha da Queimada Grande hay đảo Rắn là một hòn đảo có diện tích 43 ha ở Nam Đại Tây Dương và cách bờ biển bang São Paulo 35 km. Đảo này có hơn 400.000 con rắn trong đó có nhiều rắn độc. Hòn đảo này nổi tiếng là nơi sinh sống duy nhất của loài rắn hổ lục đầu giáo vàng độc nhất thế giới. Trên đảo này trên một mét vuông có tới 1 - năm con hổ lục đầu vàng. Loại rắn này khi trưởng thành có thể dài hơn nửa mét và nọc độc mạnh hơn 5 lần so với nọc rắn trong đất liền, do chúng chỉ ăn chim thay vì ăn động vật có vú. Những con rắn bị mắc kẹt trên đảo khi mực nước biển dâng cao bao phủ vùng đất nối liền với đất liền. Áp lực lựa chọn tiếp theo cho phép những con rắn thích nghi với môi trường mới của chúng, tăng nhanh về dân số và khiến hòn đảo trở nên nguy hiểm khi đến thăm công chúng. Queimada Grande đóng cửa với công chúng để bảo vệ quần thể rắn này; chỉ các đơn vị sau được đến đảo: Hải quân Brazil và các nhà nghiên cứu được chọn bởi Viện bảo tồn đa dạng sinh học Chico Mendes, đơn vị bảo tồn liên bang Brazil.
1
null
Con rối tay là dạng con rối mà nghệ sĩ có thể dùng tay để điều khiển bên trong nó. Con rối găng tay là một hình thức khác của con rối tay. Con rối ngón tay không phải là con rối tay vì người điều khiển chỉ dùng duy nhất ngón tay để làm con rối hoạt động.
1
null
Chú Tễu là một nhân vật con rối tiêu biểu trong hình thức múa rối nước tại Việt Nam. Thông thường, chú Tễu luôn có hình dáng to hơn các con rối khác. Theo một nghiên cứu, chú Tễu là nhân vật xuất hiện nhiều nhất và nổi tiếng nhất trong sân khấu kịch múa rối nước truyền thống của Việt Nam. Nguồn gốc. Chữ "Tễu" nghĩa là "tiếng cười" theo chữ Nôm. Theo nhiều nguồn, nghệ nhân Phan Văn Ngải là người đã làm ra chú Tễu. Nghệ nhân Nguyễn Thế Nghị phường rối Đào Thục giải thích Tễu là đại diện cho hình ảnh anh nông dân vùng Đồng bằng Bắc bộ, còn Anh Ba Khí ở phường Đào Thục là đại diện cho cả ba miền Bắc - Trung - Nam của Việt Nam, anh Ba Khí là biểu tượng cho cái khí phách người Việt. Tạo hình nhân vật. Dựa vào nét tạo hình, chú Tễu là nhân vật khoảng 7, 8 tuổi với thân hình đầy đặn, da trắng hồng và luôn vui vẻ. Chú Tễu thường đóng khố, lộ bộ ngực và bụng phệ. Để gây cười khán giả, chú Tễu đưa tay vung vẩy và quay đầu quy nghiêng ngửa. Vai trò trong cảnh diễn. Chú Tễu là một nhân vật táo bạo, luôn chế nhạo giễu cợt. Tễu là người ra mắt, người bình luận, người tự sự, và là người trách móc quan lại tham nhũng trong nhiều vở diễn. Ở các phường rối, Tễu là nhân vật phất cờ hay châm pháo. Một số người đề cập Tễu là mõ làng chuyên giúp đỡ người già, có người nghĩ Tễu là tên giết súc vật, người khác lại nói Tễu có cô vợ xinh đẹp. Trong văn hóa. Chú Tễu là nhân vật kể chuyện trong tác phẩm văn học tôn giáo"Chú Tễu kể chuyện tết Vu Lan"trong loạt"Chú Tễu kể chuyện Tết"của nhà văn Lê Phương Liên. Chú Tễu còn xuất hiện trong thơ ca, chẳng hạn bài "Tễu" của Hoàng Anh Tuấn (trích 4 câu thơ đầu):
1
null
là sêri manga được sáng tác bởi Motoo Abiko được phát hành dài kỳ từ năm 1964 đến năm 1988. Sau đó được chuyển thể thành một bộ phim truyền hình và phát sóng trên TV Asahi từ năm 1966 - 1968; một bộ anime của Shin-Ei Animation , phát sóng trên Asahi từ năm 1981 - 1987; một trò chơi điện tử của Hudson Soft; hai bộ phim hoạt hình của Shin-Ei và một bộ phim điện ảnh live-action. Bản làm lại của loạt phim hoạt hình năm 1981 do Shin-Ei và hãng hoạt hình Ấn Độ Reliance MediaWorks sản xuấtvà sau đó là Green Gold Animations đã phát sóng từ năm 2013. Nội dung. Kenichi là một cậu bé mười một tuổi học tại một trường sơ trung. Đôi khi cậu ta hơi cứng đầu và lười biếng, khiến cho bố mẹ và thầy giáo không yên tâm chút nào. Trong lúc đó, một cậu bé ninja tên là Hattori Kanzou kết bạn với Kenichi. Hattori lúc đó đã trở thành một phần của gia đình Mitsuba cùng vời người em gái Shinzou và chú chó ninja Shishimaru. Hattori giúp Kenichi giải quyết vấn đề của Kenichi, và luôn để mắt tới cậu ta, như một người bạn tốt. Yumeko được coi là 'người trong mộng' của Kenichi. Kemumaki, một ninja phái Kouga cùng với chú mèo ninja Kagechiyo luôn luôn gay rắc rối cho Kenichi. Kenichi nhờ Hattori trả thù. Mặc dù Hattori là một người bạn tốt, Kenichi thỉnh thoảng cãi vã với Hattori do một sự hiểu nhầm tạo ra bởi Kemumaki. Đôi khi Jippou và Tsubame giúp Hattori. Manga và anime. Manga. Loạt manga đầu tiên được xuất bản trên Kobunsha 's Shōnen vào năm 1964 và kết thúc vào năm 1968. Loạt manga thứ hai được Shogakukan xuất bản trên nhiều tạp chí dành cho trẻ em như CoroCoro Comic , Televi-Kun và những tạp chí khác từ năm 1981 đến năm 1988. Manga được nhà xuất bản Trẻ xuất bản tại Việt Nam với tên gọi Ninja Hactory với 27 tập truyện. Anime. Phim được phát mới lúc 15h từ thứ 2 đến thứ 6, bắt đầu từ 19/5/2014 trên kênh Disney Channel (Châu Á) (lồng tiếng bằng tiếng Anh) Ở Ấn Độ, phim được phát sóng trên kênh Nick TV, lồng Tiếng Anh và Tiếng Hindi. Tại Hàn Quốc, từ ngày 19 tháng 12 năm 2005, cho đến khi mùa thứ 5 được phát sóng trên kênh truyền hình Talent TV (hay còn gọi là JEI Talent Broadcasting, phát sóng lần đầu tiên vào năm 2005). Hiện tại, Cartoon Network Hàn Quốc đang phát sóng Ninja Hattori phiên bản từ 2012. Tại Việt Nam, phim được POPS Kids phát hành lại trên nền tảng kĩ thuật số và Youtube với phiên bản lồng tiếng Việt bởi Purpose Media. Một anime điện ảnh là Ninja Hattori-kun - Nhật ký ảnh nhẫn thuật (忍者ハットリくん ニンニン忍法絵日記の巻) sản xuất và phát hành năm 1982. Ngoài ra còn có 2 phim anime điện ảnh Ninja Hattori-kun vs Cậu bé siêu nhân bao gồm: Đại chiến ESP (忍者ハットリくん+パーマン 超能力ウォーズ) sản xuất và phát hành năm 1984 và Ninja quái thú Jippou và quả trứng phép màu (当時物 映画ハットリくん+パーマン 忍者怪獣ジッポウVSミラクル卵) sản xuất và phát hành năm 1985. Phim Live-action. Phim truyền hình. Phim truyền hình Ninja Hattori-kun được phát sóng trên TV Asahi do Toei sản xuất vào năm 1966 dưới dạng phim đen trắng: Phim điện ảnh. Nin x Nin: Ninja Hattori-kun, the Movie ("NIN×NIN 忍者ハットリくん THE MOVIE Nin x Nin: Ninja Hattori-kun, the Movie") là một bộ phim điện ảnh phiêu lưu hành động Nhật Bản năm 2004 dựa trênloạt manga Ninja Hattori-kun của Fujiko Fujio . Phim do Masayuki Suzuki đạo diễn và Shingo Katori đóng vai Kanzo Hattori.Tựa tiếng Anh chính thức của phim là Nin x Nin: The Ninja Star Hattori. Danh sách các tập anime Ninja Hattori-kun. Cũng như manga, Mỗi tập phim của Ninja Hattori-kun được đánh dấu với hậu tố "no maki" (の巻). Giai đoạn năm 1981. Các tập phim trong giai đoạn này chủ yếu đã phát sóng trên Disney Channel Asia với phiên bản lồng tiếng Anh và phụ đề tiếng Việt từ ngày 19 tháng 5 năm 2014 (mùa 5 tại Nhật Bản). Purpose Media lồng tiếng Việt và phát hành trên ứng dụng POPS Kids năm 2018 và Youtube năm 2022, chiếu liền 3 đoạn phim ngắn trong cùng 1 tập. Giai đoạn từ năm 2012. Giai đoạn này chiếu liền 2 đoạn phim ngắn trong cùng 1 tập Đón nhận. Quảng cáo. Năm 1982, Ninja Hattori-kun cho ra mắt sản phẩm như cốc uống nước, thuốc nhỏ mắt cho trẻ em, điều hòa Panasonic và đồ chơi. Trò chơi điện tử. Game phát hành năm 1986 do Hudson Soft phát triển và xuất bản độc quyền tại Nhật Bản cho Nintendo. Được dựa trên bộ manga cùng tên của Fujiko A. Fujio , sau này trở thành một loạt phim hoạt hình và nhượng quyền thương mại châu Á. Ra mắt thời điểm anime được phát sóng, đây là trò chơi Famicom bán chạy thứ năm được phát hành vào năm 1986, bán được khoảng 1.500.000 bản trong suốt thời gian phát hành. Cốt truyện bắt đầu khi cậu bé ninja Hattori Kanzo đang tìm kiếm chủ nhân của mình để hoàn thành khóa huấn luyện của mình. Trong khi tìm kiếm chủ nhân của mình, cậu gặp một cậu bé 10 tuổi tên là Mitsuba Kenichi và biến cậu ấy thành chủ nhân thay thế tạm thời của mình. Để phát triển sự tự tin của Kenichi, họ đã cùng nhau trải qua nhiều cuộc phiêu lưu. Trò chơi hướng đến khán giả nhí giống như cách mà manga và anime đã làm. Trong game, người chơi sẽ điều khiển Kanzo Hattori trong một trò chơi hành động. Hattori phải chạy sang phải qua nhiều địa hình khác nhau, nhưng chủ yếu là qua rừng. Ngoài việc sử dụng các phi tiêu, Hattori có thể tiếp cận một trong những kỹ thuật ninja (nhẫn phong thuật) khác, như Kagebashin, Happou no Shuriken... Trên thực tế, cậu học được tổng cộng 11 nhẫn phong thuật; tuy nhiên, trước tiên cậu phải thu thập các cuộn giấy cung cấp những khả năng đó trước khi cậu có thể sử dụng chúng. Do điều khiển chậm chạp, rất khó để vượt qua một số chướng ngại vật mà Hattori Kanzo sẽ phải đối mặt nếu không có các kỹ năng ninja để tăng cường khả năng di chuyển của cậu.
1
null
Núi Châu Thới là một ngọn núi nằm ở tại phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Việt Nam. Được mệnh danh là ngọn núi trấn giữ xứ Đồng Nai, có thể nhìn được quang cảnh đồng bằng xung quanh tỉnh Biên Hòa xưa từ đỉnh núi. Khu vực này được xếp hạng danh thắng quốc gia ngày 21 tháng 4 năm 1989.. Dưới chân núi hiện có một hồ nước tự nhiên cùng tên và nhiều mỏ đá hiện đang được khai thác. Đặc điểm và lịch sử. Núi Châu Thới ở phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương"," cách thành phố Biên Hoà 4km, thành phố Thủ Dầu Một 20km, thành phố Hồ Chí Minh 24km, và đã được xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh Quốc gia ngày 21 tháng 4,1989. Di tích danh thắng núi Châu Thới cao 82m (so với mặt nước biển), chiếm diện tích 25ha nằm ở vùng đồng bằng gần khu dân cư của các tỉnh thành: Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Sách "Gia Định Thành Thông Chí" của Trịnh Hoài Đức đã viết: “Núi Chiêu Thới (Châu Thới) từng núi cao xanh, cây cối lâu đời rậm tốt, làm tấm bình phong triều về Trấn thành. Ở hang núi có hang hố và khe nước, dân núi ở quanh theo, trên có chùa Hội Sơn là chỗ thiền sư Khánh Long sáng tạo để tu hành, ngó xuống đại giang, du khách leo lên thưởng ngoạn có cảm tưởng tiêu dao ra ngoài cửa tục”. Sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" cũng miêu tả khá rõ núi và chùa Châu Thới gần giống như trên: “Núi Chiêu Thới tục gọi là núi Châu Thới, ở phía Nam huyện Phước Chính 21 dặm, từng núi cao tít làm bình phong cho tỉnh thành. Khoảng giữa núi Chiêu Thới có am Vân Tĩnh là nơi ni cô Lượng tĩnh tu, di chỉ nay vẫn còn. Đột khởi một gò cao bằng phẳng rộng rãi, ở bên có hang hố và nước khe chảy quanh, nhà của nhân dân ở quanh theo. Trên có chùa Hội Sơn là chỗ thiền sư Khánh Long trác tích tu hành. Năm Bính Thân, đạo Hoà Nghĩa là Lý Tài chiếm cứ Châu Thới tức là chỗ này. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) đem núi này liệt vào tự điển”. Châu Thới cổ tự. Nằm tọa lạc trên núi Châu Thới, thuộc địa phận xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây được mệnh danh là một thắng cảnh giữa một vùng đồng bằng rộng lớn. Với độ cao cách mặt nước biển 82m, ngôi chùa ẩn hiện sau rặng những hàng cây cối xanh rì, xung quanh có nhiều hồ nhân tạo tuyệt đẹp. Theo một số tài liệu ghi chép cho biết, ngôi chùa này được xây dựng vào khoảng năm 1612, đầu thế kỷ 17. Do thiền sư Khánh Long trên bước đường vân du hoằng pháp lên đồi Châu Thới đã nhìn thấy cảnh sông núi hữu tình, nhà Sư đã cất một thảo am nhỏ để tu tịnh. Sau một thời gian thì thảo am được gọi với cái tên là chùa Hội Sơn và cuối cùng là chùa Núi Châu Thới. Tuy nhiên lại có những tư liệu cho thấy ngôi chùa này được lập vào năm 1681. Nhưng cho dù được thành lập vào thời điểm nào thì chùa núi Châu Thới ở huyện Dĩ An hiện nay vẫn là ngôi chùa xưa nhất tại Bình Dương. Không những thế còn là ngôi chùa được hình thành sớm vào hàng đầu ở Nam Bộ. Đường mòn dẫn lên chùa là một bậc thang đá cao 220 bậc. Nằm ngay giữa cảnh quan thiên nhiên xanh mát, trên đường leo núi du khách có thể thường xuyên bắt gặp loài khỉ đuôi dài đi kiếm ăn hoặc chỉ đơn thuần lãng vãng xung quanh. Ngoài ra, hiện đã có một con đường cong vút theo sườn núi để cho xe máy chạy lên chùa.
1
null
Ngẫu nhiên nghĩa là thiếu một khuôn mẫu hay khả năng dự báo trong các sự kiện. Sự ngẫu nhiên cho thấy một sự vô thứ tự hoặc không gắn kết trong một chuỗi các ký hiệu hoặc bước, nấc; sao cho không có một khuôn mẫu hoặc sự kết hợp nào minh bạch dễ hiểu. Khái yếu. Ngẫu nhiên còn là một thuật ngữ được sử dụng trong toán học (và ít chính thức) có nghĩa là không có cách nào để dự đoán đáng tin cậy một kết quả (để biết điều gì sẽ xảy ra "trước khi" nó xảy ra) hoặc phán đoán một khuôn mẫu. Cái được chọn ngẫu nhiên thì được chọn mà không có ý thức về bất kỳ lý do nào, và do đó được cho là hoàn toàn tình cờ. Một ví dụ về một sự kiện ngẫu nhiên là chiến thắng xổ số. Con người không thể lập một danh sách ngẫu nhiên, bởi vì bộ não hoạt động theo khuôn mẫu. Máy tính, mặc dù thường được yêu cầu lập các danh sách ngẫu nhiên, nhưng nó cũng không thực sự lập một danh sách hoàn toàn ngẫu nhiên. Nếu một người hoặc máy tính nào đó được yêu cầu liên tục nói "sấp" hoặc "ngửa" một cách ngẫu nhiên, một người quan sát một cách sắc sảo hoặc máy tính được lập trình đúng cách cuối cùng có thể phán đoán xem từ tiếp theo sẽ là gì qua việc nhận biết các khuôn mẫu trong việc người nói lựa chọn "ngẫu nhiên" giữa hai từ. Đôi khi từ "ngẫu nhiên" được sử dụng một cách thoáng hơn. Có những trang web "truyện cười ngẫu nhiên", có nghĩa là: một loạt các câu chuyện cười về tất cả mọi thứ. Tạo các số ngẫu nhiên. Có nhiều cách thức mà một quá trình hoặc hệ thống có thể được xem là "ngẫu nhiên:" Nhiều ứng dụng của sự ngẫu nhiên đã dẫn đến nhiều phương pháp khác nhau để tạo ra dữ liệu ngẫu nhiên. Những phương pháp này có thể thay đổi dựa theo mức độ "không đoán trước được" hoặc ngẫu nhiên thống kê, và mức độ tạo ra các số ngẫu nhiên nhanh chóng. Trước khi có các máy tính toán tạo số ngẫu nhiên, tạo ra một lượng lớn các số ngẫu nhiên thích đáng (vốn quan trọng trong thống kê) đòi hỏi rất nhiều công việc. Kết quả đôi khi sẽ được thu thập và phân phối dưới dạng bảng số ngẫu nhiên. Máy tính có thể tạo số (có vẻ là) ngẫu nhiên. Có hai cách: Trong cách viết mật mã. Chuỗi các ký hiệu mã hóa phải ngẫu nhiên để được an toàn. Các chuỗi được tạo ra bởi một yếu tố tạo số ngẫu nhiên có lỗi sẽ có khả năng bị bẻ khoá (cracked).
1
null
JIN (-仁-) là một bộ phim truyền hình dài tập của Nhật Bản gồm 2 phần, phần đầu (11 tháng 10 - 20 tháng 12 năm 2009) và phần cuối (17 tháng 4 - 26 tháng 6 năm 2011) được phát sóng bởi đài TBS (Đài Truyền hình Tokyo) vào mỗi 9 giờ tối Chủ Nhật. Bộ phim xoay quanh câu chuyện của một thầy thuốc tên Jin Minakata, thủ vai bởi Takao Osawa. Phim được chuyển thể từ bộ manga cùng tên của tác giả Motoka Murakami. Lên sóng tại Nhật. Phần đầu ("Jin 1"). Phần đầu có 11 tập (tương tự phần sau), chủ yếu xoay quanh sóng gió mà Minakata Jin, một bác sĩ ngoại khoa ở Tokyo, đã phải đối mặt khi du hành thời gian ngược về thời Edo sau một tai nạn tình cờ. Sau khi cứu sống một samurai nhà Tachibana có tên là Kyotaro, Jin đã được chính gia đình đó giúp đỡ trong tình cảnh không có nhân thân rõ ràng. Bằng khả năng y thuật đến từ thời hiện đại của mình mà Jin đã cứu sống được nhiều người, kết thân được với nhiều nhân vật quan trọng lịch sử thời Edo và mở ra một y quán mang tên Jinyu-do thu nhận các học trò là những người đam mê y học và ngưỡng mộ tài năng của Jin. Vai chính Minakata Jin được đảm nhận bởi Takao Osawa, người trở lại trong một bộ phim truyền hình sau 8 năm kể từ "Mukashi no Otoko" (2001) (tạm dịch: "Lão Nhân"). Miki Nakatani, một trong những vai nữ chính cũng xuất hiện lại sau 7 năm kể từ "Otosan" (2003) (tạm dịch: "Mẹ"). Ngoài ra Haruka Ayase trong vai tiểu thư Saki Tachibana, từng đóng chung với Osawa trong "Ichi" (2008) ngay một năm trước đó. Phim được dẫn bởi lời đọc Kenichi Endo. Ở tập 5, tỉ suất khán giả truyền hình của phim đã đạt 20% lần đầu tiên trong lịch sử các bộ phim truyền hình phát vào tháng 10. Các tập sau đó phim vẫn giữ được tỉ suất khán giả cao, đặc biệt là tập cuối với 29.8%. JIN đã trở thành bộ phim với tỉ suất truyền hình cao nhất năm 2009. Chính nhờ những đón nhận tích cực từ công chúng mà phim đã đại thành công ở các hạng mục trao giải với 33 đề cử trong và ngoài Nhật Bản, chỉ tính riêng phần 1. Khi phần một kết thúc với nhiều dang dở, nhiều khán giả đã đặt nghi nhiều nghi vấn về phần kế tiếp của phim và việc chậm trễ trong thông báo chính thức trước truyền thông đã làm xuất hiện những ý kiến tiêu cực ở một nhóm dư luận nhỏ. Đầu năm 2010, một tờ báo tại Nhật có tên là Nikkan đưa tin JIN 2 sẽ trở lại vào mùa hè cùng năm nhưng ngay lập tức, nhà sản xuất của phim Akihiko Ishimaru đã phủ nhận thông tin này trên website chính thức. Ngày 27 và 28 tháng 12 năm 2010, phim đã được phát sóng lại trên truyền hình TBS với tựa mới Huyền thoại JIN (JIN-仁-レジェンド). Phần cuối ("Jin 2"). Phần 2 của Bác sĩ Jin được thông báo chính thức trước công chúng và truyền thông vào ngày 8 tháng 6 năm 2010 nhưng phải đợi tới một năm sau thì mới chính thức lên sóng tập đầu tiên với độ dài hơn hai tiếng (21:00-23:03). Bốn năm sau khi Jin đặt chân tới Edo, biến cố đầu tiên liên quan tới căn bệnh beriberi hoành hành ở Edo thời bấy giờ mà mẹ của Saki (trợ lý của Jin) mắc phải, sau đó là những nỗ lực của Jin để thay đổi tiến trình lịch sử và những diễn biến liên quan đến giai đoạn tiền Chiến tranh Boshin giữa các phe phái ở Nhật Bản. Lúc này, những cơn đau đầu của Jin đã tiến triển xấu và cho thấy dấu hiệu của một khối u não. Ở phần này, người dẫn truyện Edo được thay thế bởi Masayuki Imai. Bộ phim được vinh dự lên sóng vào đúng thời điểm TBS kỉ niệm 60 năm, trước đó, nhà sản xuất đã dự định sẽ chiếu phim ở 80 quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam vào năm 2014), ngoại trừ khu vực Nam Mỹ. Riêng tại Hàn Quốc, Châu Âu và Bắc Mỹ, Bác sĩ Jin 2 sẽ được chiếu ngay sau tháng 7. 11 tập của phần 2 tiếp tục duy trì được tỉ suất khán giả trung bình cao - hơn 20% ở cả hai vùng Kanto và Kansai, đặc biệt ở tập cuối, mặc dù kéo dài gần hai giờ đồng hồ (21:00-22:48) nhưng đã ghi nhận tỉ suất kỉ lục với 31.7% toàn quốc, khiến phim trở thành một trong những phim truyền hình được yêu thích nhất tại Nhật Bản năm 2011.
1
null
là loạt phim anime mới nhất dựa trên manga cùng tên của tác giả Fujiko F. Fujio. Được sản xuất bởi Shin-Ei Animation và Asatsu-DK, phim bắt đầu được phát sóng trên TV Asahi từ ngày 15 tháng 4 năm 2005. Phim cũng được phát sóng tại hơn 50 quốc gia khác trên toàn thế giới. Loạt phim này đôi khi được gọi là Phiên bản Mizuta (水田 版) ở châu Á, theo tên của Mizuta Wasabi, nữ diễn viên lồng tiếng cho Doraemon trong bộ phim này. Anime được cấp phép bản quyền bởi Viz Media. Bản lồng tiếng Anh do Bang Zoom! Entertainment sản xuất, được phát sóng trên Disney XD ở Hoa Kỳ với tên gọi "Doraemon: Gadget Cat From the Future" từ ngày 7 tháng 7 năm 2014 đến ngày 12 tháng 5 năm 2017. Phần thứ hai của bản lồng tiếng Anh được công chiếu trên Disney XD vào ngày 15 tháng 6 năm 2015 và kết thúc vào ngày 1 tháng 9 cùng năm. Tại Việt Nam, loạt phim bắt đầu được phát sóng trên HTV3 vào ngày 3 tháng 12 năm 2015, phim cũng được phát hành trên YouTube bởi POPS Kids vào năm 2017. TV Asahi hiện nắm quyền phân phối và cấp phép "Doraemon". Loạt phim cũng nhận về nhiều thành công tại Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và phần còn lại của châu Âu. Sản xuất. Dù bộ phim bám sát với nguyên tác manga, một vài thay đổi đã được thực hiện. Nhiều tình tiết chuyển thể từ các chương của manga đã được kéo dài hơn để có một cái kết hay và tăng giá trị giáo dục cho câu chuyện. Ngoài ra, một số yếu tố từ manga đã được giảm bớt. Một số ví dụ bao gồm tất cả các bảo bối của Doraemon có hình dạng và cách sử dụng giống như thuốc được thay đổi thành công cụ, thiết bị sử dụng; bố Nobita (người thường xuyên hút thuốc trong manga) hiếm khi hút thuốc trên phim. Các diễn viên lồng tiếng cho năm nhân vật chính, Doraemon, Nobita, Shizuka, Jaian và Suneo, được chọn ra từ tổng số 590 người ứng tuyển. TV Asahi tuyên bố vào năm 2005 rằng họ sẽ chọn những diễn viên lồng tiếng gần giống với những diễn viên lồng tiếng của loạt phim tiền nhiệm, nhằm ít có sự thay đổi đáng kể từ dàn diễn viên ban đầu sang dàn diễn viên mới. Tất cả các tình tiết và bản xem trước các tập tiếp theo trong tất cả các tập đều được cắt ngắn để phù hợp với thời lượng 30 phút trong các phiên bản quốc tế, ngoại trừ ở Hồng Kông, được cắt để vừa với thời lượng 15 phút. Kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2009, bộ phim được phát sóng theo định dạng độ nét cao. Vào tháng 7 năm 2017, loạt phim đã có một bản cập nhật đồ hoạ. Kể từ năm 2019, phim được phát sóng vào tối thứ bảy hằng tuần cùng với một bài hát chủ đề mới. Bản lồng tiếng ở Mỹ. Bản lồng tiếng Anh ở Mỹ của loạt phim này do Fujiko F. Fujio Pro, TV Asahi, Bang Zoom! Entertainment sản xuất, phân phối bởi Viz Media, đã được phát sóng trên Disney XD kể từ ngày 7 tháng 7 năm 2014 với tên "Doraemon: Gadget Cat from the Future" cùng một số thay đổi về tên gọi nhân vật và sở thích cá nhân. Bản lồng tiếng ở Vương quốc Anh. Loạt phim bắt đầu chiếu ở Vương quốc Anh vào ngày 17 tháng 8, 2015 trên kênh Boomerang. Nội dung. Doraemon là một chú mèo máy được Nobi Sewashi (Nobi Nobito), cháu năm đời của Nobi Nobita, gửi từ thế kỷ 22 về quá khứ của ông mình để giúp đỡ Nobita trở nên tiến bộ và giàu có, tức là cũng sẽ cải thiện hoàn cảnh của con cháu Nobita sau này. Còn ở hiện tại, Nobita là một cậu bé luôn thất bại ở trường học, và sau đó công ty phá sản, thất bại trong công việc, đẩy gia đình và con cháu sau này vào cảnh nợ nần. Các câu chuyện trong "Doraemon" thường có một chủ đề chung, đó là xoay quanh những rắc rối hay xảy ra với cậu bé Nobita học lớp năm, nhân vật chính thứ hai của bộ truyện. Doraemon có một chiếc túi thần kỳ trước bụng với đủ loại bảo bối của tương lai. Cốt truyện thường gặp nhất sẽ là Nobita trở về nhà khóc lóc với những rắc rối mà cậu gặp phải ở trường học hoặc với bạn bè. Sau khi bị cậu bé van nài hoặc thúc giục, Doraemon sẽ đưa ra một bảo bối giúp Nobita giải quyết những rắc rối của mình, hoặc là để trả đũa hay khoe khoang với bạn bè của cậu. Nobita sẽ lại thường đi quá xa so với dự định ban đầu của Doraemon, thậm chí với những bảo bối mới cậu còn gặp rắc rối lớn hơn trước đó. Đôi khi những người bạn của Nobita, thường là Honekawa Suneo hoặc Goda Takeshi (Jaian), lại lấy trộm những bảo bối và sử dụng chúng không đúng mục đích. Tuy nhiên thường thì ở cuối mỗi câu chuyện, những ai sử dụng sai mục đích bảo bối sẽ phải chịu hậu quả do mình gây ra, và người đọc sẽ rút ra được bài học từ đó. Âm nhạc. Nhạc mở đầu. Bộ truyện có các bài hát mở đầu mới, ngoại trừ tập đầu tiên. Hầu hết các phiên bản quốc tế của bộ truyện chỉ sử dụng bài hát chủ đề thứ 3. Ở Việt Nam, các bài hát được phổ lời tiếng Việt và được biểu diễn bởi Huyền Chi.
1
null
Mục từ "Motion capture" dẫn đến bài này. Ghi hình chuyển động () hay mocap là một công nghệ nắm bắt chuyển động từ một đối tượng hoặc một người. Chúng được áp dụng vào các lĩnh vực như quân sự, giải trí, thể thao, giải phẫu học, các ứng dụng y tế, hay để tạo tầm nhìn cho robot. Chúng thường được ứng dụng trong phim hoạt hình và trò chơi điện tử, ghi lại chuyển động của diễn viên và sử dụng các thông tin để áp dụng vào các nhân vật hoạt hình 3D hoặc 2D. Khi công nghệ mocap làm chuyển động của nhân vật như ngón tay hay mặt, chúng được gọi là chuyển động riêng hoặc motion tracking hay match moving. Trong quá trình ghi lại chuyển động, chuyển động của diễn viên được ghi rất nhiều lần trên một giây. Trong khi đó, các kỹ thuật trước đây chỉ sử dụng hình ảnh từ các camera để tính toán vị trí 3D, thường chỉ nhằm mục đích chụp chuyển động là để ghi lại chuyển động của diễn viên, không xuất hiện hình ảnh của nhân vật. Những "dữ liệu hoạt hình" này được ráp vào một mô hình 3D hoạt động như diễn viên. Kĩ thuật này được áp dụng vào các phim như "Chúa tể của những chiếc nhẫn" và "American Pop" và phim được sử dụng cho các bản ráp hình vẽ tay.
1
null
Thiếc(II) chloride là chất rắn dạng tinh thể màu trắng với công thức SnCl2. Hợp chất này bền ở dạng ngậm hai phân tử nước nhưng trong dung dịch nước thì bị thủy phân, đặc biệt trong nước nóng. SnCl2 được dùng nhiều để làm chất khử (trong dung dịch axit) và trong bể điện phân để mạ thiếc. Cần phân biệt thiếc(II) chloride với thiếc(IV) chloride (SnCl4). Cấu trúc hóa học. SnCl2 có một cặp electron không liên kết, làm cho phân tử ở trạng thái khí bị bẻ cong. Trong trạng thái rắn, SnCl2 kết tinh tạo thành các chuỗi liên kết thông qua các cầu chloride như thể hiện trong hình. Trạng thái ngậm nước đihydrat cũng là phối trí 3 chiều, với 1 phân tử nước liên kết vào nguyên tử thiếc và phân tử nước thứ hai liên kết với phân tử nước thứ nhất. Phần chính của phân tử chồng đống thành các lớp kép trong lưới tinh thể, với phân tử nước "thứ hai" xen vào giữa các lớp. SnCl2 có cấu trúc giống PbCl2, với hai dạng cấu trúc: chóp tứ diện và rutil. Dạng chóp tứ diện có các hằng số "a" = 0,842 nm, "b" = 0,439 nm, "c" = 1,194 nm, α = 90°, β = 91°, γ = 90°. Dạng rutil có các hằng số "a" = 0,74 nm, "b" = 0,437 nm, "c" = 0,881 nm, α = 90°, β = 90°, γ = 90°. Tính chất hóa học. Thiếc(II) chloride có thể hòa tan trong lượng nước nhỏ hơn trọng lượng của chính nó mà không có sự phân hủy rõ ràng nào, nhưng dung dịch loãng bị thủy phân tạo thành muối kiềm không tan: Vì thế nếu các dung dịch tinh khiết chứa thiếc(II) chloride được sử dụng thì nó phải được hòa tan trong axit clohydric (thường là bằng hay lớn hơn lượng mol của thiếc(II) chloride) để duy trì cân bằng về phía trái (sử dụng nguyên lý Le Chatelier). Các dung dịch của SnCl2 cũng không ổn định về phía oxy hóa bởi không khí: Điều này có thể ngăn chặn bằng cách lưu giữ dung dịch trên cả mảng thiếc kim loại. Có nhiều trường hợp cho thấy thiếc(II) chloride đóng vai trò của tác nhân khử, khử các muối bạc và vàng thành kim loại, và các muối sắt(III) thành sắt(II), chẳng hạn như: Nó cũng có thể khử các ion đồng(II) thành đồng(I). Dung dịch thiếc(II) chloride cũng có thể đơn giản chỉ phục vụ như nguồn cung cấp ion Sn2+ để tạo ra các hợp chất thiếc(II) khác thông qua các phản ứng tạo kết tủa. Chẳng hạn, phản ứng với natri sulfide tạo ra thiếc(II) sulfide, kết tủa màu nâu đen: Nếu base kim loại kiềm được thêm vào dung dịch SnCl2 thì ban đầu kết tủa màu trắng là thiếc(II) oxit ngậm nước được tạo ra; chất này sẽ bị hòa tan nếu còn base dư để tạo ra muối stanit, như natri stanit: SnCl2 khan có thể sử dụng để tạo ra một loạt các hợp chất thiếc(II) trong các dung môi không lỏng. Chẳng hạn, muối lithi của 4-metyl-2,6-đi-tert-butylphenol phản ứng với SnCl2 trong THF để tạo ra hợp chất Sn(OAr)2 (Ar = aryl) không gian hai chiều tuyến tính màu vàng. Thiếc(II) chloride cũng có thể có vai trò như một axit Lewis, tạo ra các phức chất với các phối tử như ion chloride, chẳng hạn: Phần lớn các phức chất này có cấu trúc hình chóp, và do các phức chất như SnCl3 có octet đầy đủ, vì thế ít có xu hướng thêm vào trên một phối tử. Tuy nhiên, cặp điện tử cô độc trong các phức chất như vậy lại dễ dàng tạo liên kết, và vì thế bản thân các phức chất có thể phản ứng như một base Lewis hay một phối tử. Điều này có thể thấy trong sản phẩm liên quan tới ferrocen như trong phản ứng sau: SnCl2 cũng có thể sử dụng để tạo ra một loạt các hợp chất chứa các liên kết kim loại - kim loại. Chẳng hạn, phản ứng với dicoban octacacbonyl: Điều chế. SnCl2 khan được điều chế bằng cách cho khí hydro chloride khô tác dụng với thiếc kim loại. Hợp chất đihydrat được điều chế bằng phản ứng tương tự nhưng sử dụng axit clohydric: Sau đó nước được làm bay hơi cẩn thận từ dung dịch axit để tạo ra các tinh thể SnCl2•2H2O. Đihydrat này cũng có thể khử nước thành dạng muối khan bằng cách sử dụng acetic anhydride ((CH3CO)2O). Sử dụng. Dung dịch thiếc(II) chloride chứa ít axit clohydric được sử dụng để mạ thiếc cho thép để tạo ra các sản phẩm sắt tây. Một hiệu điện thế giữa hai cực được tạo ra và thiếc kim loại được tạo ra ở catot thông qua quá trình điện phân. Thiếc(II) chloride cũng được dùng như là một loại thuốc cẩn màu trong lĩnh vực nhuộm màu vải sợi do nó tạo ra các màu sáng hơn cho một số loại thuốc nhuộm như phẩm yên chi. Thuốc cẩn màu này cũng từng được sử dụng đơn lẻ để làm tăng trọng lượng tơ lụa. Nó cũng được sử dụng làm chất xúc tác trong sản xuất axit polylactic (PLA) dẻo. Nó cũng được dùng làm chất xúc tác trong phản ứng giữa axeton và hydro peroxide để tạo ra dạng tứ phân của axeton peroxide. Thiếc(II) chloride cũng được dùng làm tác nhân khử. Điều này được thấy trong việc sử dụng nó để mạ bạc cho gương, trong đó bạc kim loại được kết tủa trên mặt kính: Phản ứng khử tương tự theo truyền thống được dùng để phát hiện ion Hg2+(dd). Chẳng hạn, nếu SnCl2 được thêm từng giọt vào dung dịch thủy ngân(II) chloride thì kết tủa màu trắng chứa thủy ngân(I) chloride được tạo ra; và khi thêm tiếp SnCl2 vào thì nó chuyển thành màu đen do thủy ngân kim loại được tạo ra. Thiếc(II) chloride cũng có thể dùng để kiểm tra sự có mặt của các hợp chất vàng. SnCl2 chuyển thành màu tía khi có vàng (xem "Tía Cassius"). Khi thủy ngân được phân tích bằng phổ hấp phụ nguyên tử thì người ta phải sử dụng phương pháp hơi lạnh với thiếc (II) chloride thường được dùng làm chất khử. Trong hóa hữu cơ, SnCl2 chủ yếu được dùng trong phản ứng khử Stephen, trong đó nitril bị khử (thông qua muối imidoyl chloride) thành imin dễ dàng bị thủy phân thành andehit. Phản ứng này thường làm việc tốt nhất với các nitril Aryl-CN thơm. Phản ứng tương tự (gọi là phương pháp Sonn-Müller) bắt đầu với một amit, được xử lý bằng PCl5 để tạo ra muối imidoyl chloride. Ngày nay phản ứng khử Stephen ít được sử dụng do nó chủ yếu đã bị thay thế bằng phản ứng khử diisobutyl nhôm hydride. Ngoài ra, SnCl2 cũng được sử dụng để khử có chọn lọc các nhóm nitro thơm thành các anilin. SnCl2 cũng có thể khử các quinon thành các hydroquinon. Thiếc(II) chloride cũng được thêm vào một số loại thực phẩm đóng hộp và đóng chai như là một loại phụ gia thực phẩm với số E là E512, trong đó nó có vai trò như là một tác nhân hãm màu và một chất chống oxy hóa. SnCl2 cũng được dùng trong chụp tâm thất nuclit phóng xạ của y học hạt nhân để khử tác nhân techneti-99m-pertechnetat (Tc-99m) phóng xạ để hỗ trợ trong liên kết các tế bào máu. Cuối cùng, dung dịch thiếc(II) chloride được nhiều người tinh chế kim loại quý nghiệp dư dùng làm thuốc thử vàng và nhóm kim loại platin (Ru, Rh, Pd, Os, Ir, Pt) trong các dung dịch. Hợp chất khác. SnCl2 còn tạo một số hợp chất với NH3, như 3SnCl2·2NH3 là tinh thể màu nâu nhạt-đỏ có tính ổn định cao nhất trong số các phức SnCl2–NH3, chỉ bị phân hủy chậm bởi nước, SnCl2·NH3 là chất rắn màu vàng hay SnCl2·2NH3 là tinh thể vàng. SnCl2 còn tạo một số hợp chất với N2H4, như SnCl2·2N2H4 là chất rắn màu nâu nhạt-trắng, không tan trong dung dịch NH3, bị phân hủy bởi nước, khi đun nóng lên sẽ gây nổ. SnCl2 còn tạo một số hợp chất với CO(NH2)2, như SnCl2·CO(NH2)2 là tinh thể không màu. SnCl2 còn tạo một số hợp chất với CS(NH2)2, như SnCl2·CS(NH2)2 là tinh thể không màu, các hằng số "a" = 0,5951 nm, "b" = 1,3937 nm, "c" = 0,8883 nm, α = 90°, β = 111,13°, γ = 90°; hay SnCl2·2CS(NH2)2 là tinh thể dạng lăng kính, dễ tan trong nước. SnCl2 còn tạo một số hợp chất với CSe(NH2)2, như SnCl2·2CSe(NH2)2 là tinh thể màu vàng, tan trong nước, DMF và DMSO tạo thành dung dịch không màu; bị phân hủy trong etanol và axeton, giải phóng seleni nguyên tố.
1
null
Cầu dẫn xe nâng lên container là thiết bị tạo độ dốc cho phép xe nâng chạy từ mặt đất lên thùng container khi còn trên rơmooc để bốc xếp hàng. Các loại cầu dẫn xe nâng lên container. Cầu dẫn loại có hai bánh loại lớn phía trước. Loại này với thiết kế thép chịu lực cho thời gian sử dụng lâu dài, ngoài ra độ dốc của cầu có thể thay đổi được. Với hệ thống bánh xe phía trước giúp cầu dễ dang di chuyển được. Cầu dẫn sử dụng chân chống có thể nâng hạ. Tương tự loại này sử dung chân chống với thiết kế có thể nâng hạ được tầm từ 1,3m đến 1,6m. Đa số là phù hợp với tất cả các loại container trên rơmooc. Loại khác. Ngoài ra còn có một số kiểu đặc biệt dành cho quân đội khi vận chuyển khí tài lên xe chuyên dụng, không nhất thiết là container.
1
null
Gia đình Walton là gia đình giàu nhất trên thế giới, do tiền thừa kế từ Bud và Sam Walton, hai anh em thành lập Walmart, doanh nghiệp bán lẻ lớn nhất trên thế giới. Ba người còn sống nổi tiếng nhất trong gia đình này (Jim, Rob, và Alice) thường được xếp trong danh sách "Forbes" 400 từ năm 2001; John (mất 2005) và Helen (mất 2007) cũng được xếp vào danh sách này khi còn sống. Sau khi John qua đời, vợ Christy thay mặt cho ông. Nhìn chung, gia đình Walton giữ hơn 50% cổ phần của công ty và có giá trị tải sàn ròng tổng cộng là 150 tỷ Mỹ kim (vào tháng 8 năm 2013). Vào năm 2010, sáu người trong gia đình Walton có giá trị tài sản ròng bằng 28% hoặc 41% gia đình Mỹ nhìn chung (tùy cách tính). Tiền của gia đình Walton. Theo "Forbes" 400, các tỷ phú hiện tại trong gia đình Walton là: Tổng cộng là 201,4 tỷ USD.
1
null
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Cần phân biệt thuật ngữ công chứng và Chứng thực, theo đó chứng thực là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính, hoặc chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực. Người Việt hải ngoại dùng danh từ thị thực chữ ký cho dịch vụ mà trong nước gọi là công chứng. Đặc điểm. Công chứng do cơ quan bổ trợ Tư pháp thực hiện ví dụ như phòng công chứng, văn phòng công chứng và công chứng bảo đảm nội dung của một hợp đồng, một giao dịch, công chứng viên chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó và qua việc bảo đảm tính hợp pháp để giảm thiểu rủi ro. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan, trường hợp một bên không thực hiện thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Ngoài ra văn bản công chứng thì có giá trị chứng cứ và những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh. Người có quyền yêu cầu công chứng quy định khác nhau ở các nước, trong đó tại Việt Nam thì người yêu cầu công chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài. Người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của tổ chức đó. Người yêu cầu công chứng phải có năng lực hành vi dân sự, xuất trình đủ các giấy tờ cần thiết liên quan đến việc công chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ đó. Được quy định rõ trong Luật Công Chứng 2014
1
null
Họ Cá căng là những loài cá thuộc họ Terapontidae (cũng đánh vần là Teraponidae, Theraponidae hoặc Therapontidae). Chúng được tìm thấy trong vùng nước nông ven biển ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, nơi chúng sinh sống trong môi trường sống nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Cá lớn có kích thước chiều dài lên tới 80 cm, chúng ăn các loài cá và động vật không xương. Họ cá căng thuộc loại cá ăn thịt, phân bố trong các vùng biển nhiệt đới, một số loài có lúc và nước ngọt. Một số loài có nhiều biến thái về màu sắc trong quá trình phát triển của cơ thể. Thân hình cá thuộc loại nhỏ và vừa, thịt rắn thơm ngon, có ý nghĩa kinh tế nhưng không cao. Hiên họ này có khoảng 52 loài trong 16 chi. Ở vịnh Bắc Bộ thuộc Việt Nam có 3 chi (Therapon, Pelates, Helotes) với 6 loài thuộc họ này. Các loài. Có ít nhất 52 loài:
1
null
Ốc nước ngọt là những loài ốc thuộc loài động vật nhuyễn thể nước ngọt cùng với các loại động vật thủy sinh nước ngọt như trai và các loại khác, tức là động vật hai mảnh vỏ nước ngọt. Cụ thể là một con ốc nước ngọt chính là một cấu trúc sinh học sống trong môi trường không phải là biển (nước ngọt) và môi trường sống nước chảy. Phần lớn các loài chân bụng nước ngọt có vỏ, với rất ít ngoại lệ. Một số nhóm ốc sống trong nước ngọt sử dụng mang để thở. Những loài khác cần nhô hay trồi lên bề mặt nước để hít thở không khí. Đa dạng. Theo các nỗ lực phân loại hiện nay, có khoảng 4.000 loài chân bụng nước ngọt (từ 3,795 đến 3,972). Ít nhất 33-38 dòng độc lập của lớp chân bụng đã sinh sống thành công môi trường nước ngọt. Không thể để xác định số lượng chính xác số lượng những loài nào, bởi vì việc phân loại chúng vẫn chưa được làm rõ trong họ Cerithioidea. Có từ sáu đến tám thuộc những loài độc lập ở Bắc Mỹ. Năm 2005, việc phân loại được thực hiện trên nguyên tắc phân loại của Bouchet & Rocroi (2005) sau đó thay đổi vào năm 2010 theo phân loại của Jörger. Ốc nước ngọt là vật chủ trung gian thường gắn liền với các bệnh sán nhiễm qua đường thức ăn gây bệnh ở gan, phổi, ruột người và động vật. Ước tính có tới 350 loài ốc có liên quan đến sức khoẻ con người và động vật. Ốc có thể được phân chia thành hai nhóm chính: Ốc thủy sinh chỉ sống được dưới nước và ốc lưỡng cư sống được cả trên cạn. Trong đó, nhiều loài là vật chủ trung gian của các loài sán ký sinh ở người như:
1
null
Ốc biển là một tên gọi chỉ chung cho các loài ốc thường sống trong môi trường nước mặn, nói cách khác động vật thân mềm sống ở biển. Lớp phân loại Gastropoda cũng bao gồm ốc sống trong môi trường sống khác, chẳng hạn như ốc sên đất và ốc nước ngọt. Nhiều loài ốc biển có thể ăn được và được khai thác, thu hoạch như các nguồn thực phẩm của con người. Ốc biển là loài chân bụng ở biển có vỏ. Những loài chân bụng biển không có vỏ, hoặc chỉ vỏ bên trong, được gọi bằng tên khác nhau như thông thường khác, bao gồm cả sên biển, thỏ biển, loài thân mềm, vv. Sự đa dạng về mặt sinh học trong các loài ốc biển là rất lớn. Tổng quát về nuôi, sinh sản, môi trường sống, hoặc những đặc điểm khác của ốc biển là không thể. Thay vào đó, chỉ có thể đánh giá qua từng chi, học... Độc tố. Nhiều loài ốc biển có thể mang độc tố, độc tố trong ốc biển có thể gây dị ứng, thậm chí ngộ độc tối cấp, nguy kịch cho người bệnh đặc biệt là vào đầu mùa. Tại Brunei, có năm trẻ em đã chết sau khi ăn ốc trám (hay còn gọi là ốc ôliu). Tại Đài Loan, 17 nạn nhân ngộ độc (một người tử vong) sau khi ăn món xào chế biến từ loài ốc bùn ca tút (Nassarius castus) và ốc bùn hình nón (N. conoides), Ở Việt Nam từng có 11 người phải nhập viện vì ăn ốc ruốc độc và ốc gạo. Người ta cũng đã tạo ra một loại thuốc giảm đau cực mạnh, hơn cả moóc phin từ nọc độc của loài ốc nón dưới biển. Một số loài ốc chỉ độc ở bộ phận nhất định (thường là tuyến nước bọt), việc ngộ độc với các loài này là do con người không loại bỏ phần độc trước khi ăn, nhưng cũng có những loài ốc luôn luôn độc và hết sức nguy hiểm đến tính mạng, có một số loài ốc biển thông thường không hề gây ngộ độc cho con người, nhưng đột nhiên trong thời điểm nào đó lại trở nên độc. Tùy từng loài ốc, bản chất độc tố có thể là saxitoxin (độc tố vi tảo tích lũy trong các sinh vật hai mảnh vỏ, một số loài cua rạn...), hoặc tetrodotoxin (độc tố cá nóc, mực đốm xanh hay con so...). Các loài ốc độc. Có ít nhất ba loài ốc cối (Conus) chứa độc tố dưới dạng nọc độc (venom) có khả năng gây chết người. Trong đời sống tự nhiên, ốc cối sử dụng độc tố làm vũ khí săn mồi, có khả năng gây tê liệt con mồi trong thời gian rất nhanh. Song độc tố này bị bất hoạt ở nhiệt độ cao nên không gây ra ngộ độc thực phẩm. Ốc nón, loài sinh vật thường cư trú ở những vùng biển ấm và nhiệt đới, sử dụng nọc độc cực mạnh của chúng để làm tê liệt con mồi. Nọc độc của ốc nón chứa hàng trăm protein tí hon, gọi là conotoxin, được phát hiện có tác dụng làm mất cảm giác đau ở người. Có nhiều loài ốc khác được ghi nhận là nguyên nhân của các vụ ngộ độc như ốc mặt trăng (turban), ốc đụn (the top of shells), ốc tù và (trumpet shells), ốc hương Nhật Bản (ivory snails), ốc trám (oliva), ốc bùn ca tút (Nassarius castus) và ốc bùn hình nón (N. conoides). Độc tố trong các loài ốc mặt trăng, ốc đụn và ốc trám đã được xác định là saxitoxin. Trong khi đó, độc tố của ốc tù và (Charronia sauliae), ốc hương Nhật Bản (Babylonia japonica), ốc tù và gai miệng đỏ (Tutufa lissostoma), ốc bùn (Niotha, Zeuxis), ốc ngọc (Natica và Polinices didyma) là tetrodotoxin. Ốc nón Conus geographus có thể phóng ra một loại chất độc đủ cho 10 cá thể tê liệt ngay tại chỗ. Tuy không trực tiếp tấn công con người nhưng nếu ai vô tình chọc tức chúng, ốc nón sẽ tự vệ bằng cách chĩa mũi tên chứa nọc độc vào đối thủ. Nọc độc của ốc nón cực mạnh và phức tạp, gọi chung là conotoxins là loại độc tố mạnh nhất thế giới trong dung dịch có chứa hỗn hợp chất độc thần kinh và một thành phần của insulin. Khi tiếp cận con mồi, ốc nón sẽ phóng ra một lưỡi móc, chích và làm tê liệt chúng. Chất độc cực mạnh này sẽ gần như ngay lập tức khiến nạn nhân tê liệt, run lẩy bẩy, tím tái, mắt mờ và ngừng thở chỉ sau vài giờ đồng hồ. Khuyến cáo. Để đề phòng ngộ độc do ốc biển, có khuyến cáo cho rằng không nên ăn các loài ốc biển lạ. Đối với các loại ốc biển khi sử dụng làm thức ăn đều phải sơ chế, chế biến bảo đảm an toàn: ngâm, thả vào môi trường để kích thích đào thải hết cặn bã, chất tiết trong ruột, tuyến bọt (nước muối nhạt, nước vôi nhạt, dấm ăn), rửa sạch bằng nước sạch, để ráo nước, đun chín kỹ và ăn ngay sau khi chế biến. Không ăn sống, ăn tái không qua sơ chế, vệ sinh sạch sẽ ốc. rất nhanh. Song độc tố này bị bất hoạt ở nhiệt độ cao nên không gây ra ngộ độc thực phẩm. Chọn mặt ốc để "né" "Tuyệt đối không ăn những loài nghi ngờ có độc hay chưa được kiểm chứng an toàn thực phẩm" Một số loài ốc chỉ độc ở bộ phận nhất định (thường là tuyến nước bọt). Sở dĩ dẫn đến ngộ độc với các loài này là do con người bất cẩn, không loại bỏ phần độc trước khi ăn. Nhưng cũng có những loài ốc luôn luôn độc và hết sức nguy hiểm đến tính mạng nếu chúng ta vô tình ăn chúng. Đáng lưu ý là có một số loài ốc biển thông thường không hề gây ngộ độc cho con người, nhưng đột nhiên trong thời điểm nào đó lại trở nên độc mà chúng ta chưa thể biết nguyên nhân. Gần đây, khá nhiều loài ốc được ghi nhận là nguyên nhân của các vụ ngộ độc như ốc mặt trăng (turban), ốc đụn (the top of shells), ốc tù và (trumpet shells), ốc hương Nhật Bản (ivory snails), ốc trám (oliva)... Tại Brunei, năm trẻ em đã chết sau khi ăn ốc trám (hay còn gọi là ốc ôliu). Tại Đài Loan, 17 nạn nhân ngộ độc (một người tử vong) sau khi ăn món xào chế biến từ loài ốc bùn ca tút (Nassarius castus) và ốc bùn hình nón (N. conoides). Tùy từng loài ốc, bản chất độc tố có thể là saxitoxin (độc tố vi tảo tích lũy trong các sinh vật hai mảnh vỏ, một số loài cua rạn...), hoặc tetrodotoxin (độc tố cá nóc, mực đốm xanh hay con so...). Độc tố trong các loài ốc mặt trăng, ốc đụn và ốc trám đã được xác định là saxitoxin. Trong khi đó, độc tố của ốc tù và (Charronia sauliae), ốc hương Nhật Bản (Babylonia japonica), ốc tù và gai miệng đỏ (Tutufa lissostoma), ốc bùn (Niotha, Zeuxis), ốc ngọc (Natica và Polinices didyma) lại là tetrodotoxin. Hai độc tố này đều thuộc loại độc tố thần kinh cực mạnh, không hề bị phân hủy, biến tính trong quá trình xử lý ở nhiệt độ cao nên vẫn tồn tại trong sản phẩm thức ăn đã được chế biến, xào nấu hay thậm chí kể cả sản phẩm cấp đông, đóng hộp. Làm gì khi bị ngộ độc? Sau khi ăn phải thực phẩm biển có chứa độc tố tetrodotoxin hay saxitoxin, triệu chứng ngộ độc xảy ra trong vòng 20 phút đến 3 giờ, nạn nhân có cảm giác tê, rát bỏng ở môi và đầu lưỡi. Hiện tượng tê, rát bỏng lan dần đến chân tay, đôi lúc có kèm đau đầu, đau bụng, đau cánh tay, đi đứng loạng choạng, nôn mửa dữ dội rồi khó thở, hôn mê, hô hấp ngưng trệ do bị tê liệt... Nạn nhân có thể chết sau 30 phút hoặc 8 giờ nếu không được cấp cứu kịp thời. Hiện chưa có thuốc giải đặc hiệu cho các trường hợp ngộ độc do độc tố tetrodotoxin và saxitoxin. Biện pháp chữa trị y khoa hữu hiệu nhất là kích thích phản ứng nôn cho nạn nhân (nôn càng nhiều càng tốt), súc rửa dạ dày bằng than hoạt tính để thải loại bớt chất độc. Nếu nạn nhân có biểu hiện khó thở, lập tức phải tiến hành hô hấp nhân tạo, cho thở bằng máy. Phòng bệnh hơn chữa bệnh nên trước hết chúng ta cần hết sức thận trọng, tránh tò mò cầm nắm, đụng chạm vào những loài ốc lạ, màu sắc sặc sỡ... Tuyệt đối không ăn những loài nghi ngờ có độc hay chưa được kiểm chứng an toàn thực phẩm. Mặt khác, sau khi ăn bất cứ loài ốc biển nào mà bạn cảm thấy có triệu chứng như đã mô tả ở trên, lập tức phải đến cơ sở y tế gần nhất để được hỗ trợ điều trị kịp thời, tránh xảy ra chuyện đáng tiếc.
1
null
Ốc cạn là một tên gọi chỉ chung cho bất kỳ trong vô số các loài ốc sống trên đất, như trái ngược với những loài sống ở nước mặn (ốc biển) và nước ngọt (ốc nước ngọt). Ốc đất là động vật thân mềm bụng có vỏ sống ở trên cạn (những con không có vỏ được gọi là sên trần.) Trong thực tế nhiều trường hợp khó để phân loại vì một số loài ốc có thể sống được trong hai môi trường cả nước và đất. Thực tế vỏ ốc còn được coi là xương của chúng. Vì vỏ ốc được tạo ra từ những lớp calci, tuy nhiên lớp xương này không hỗ trợ cho việc vận động của ốc mà như một áo giáp bảo vệ chúng khỏi những kẻ thù tự nhiên Đặc điểm. Phần lớn các ốc đất có một phổi và hít thở không khí. Tuy nhiên một thiểu số thuộc nhiều dòng cổ xưa, mà trong giải phẫu của chúng bao gồm một mang và một nắp mang. Như động vật thân mềm khác, ốc đất có một hoặc hai cặp xúc tu trên đầu. Ốc đất dao động đáng kể về kích thước của chúng. Các loài sống lớn nhất là ốc khổng lồ châu Phi Hầu hết các ốc đất có một hoặc hai cặp xúc tu trên đầu. Ốc đất có một cơ bắp chân mạnh mẽ và sử dụng chất nhầy để thu thập thông tin trên các bề mặt thô, và để giữ cho cơ thể mềm mại của chúng khỏi bị khô. Ốc đất di chuyển bằng cách trượt dọc trên chân cơ bắp của chúng, được bôi trơn bằng chất nhầy và phủ lông mao biểu mô. Chuyển động này được hỗ trợ bởi các cơn co thắt cơ bắp sóng di chuyển xuống bụng của bàn chân. Ốc tiết ra chất nhầy bên ngoài để giữ cho cơ thể mềm mại của chúng khỏi bị khô, chúng cũng tiết ra chất nhầy từ chân để hỗ trợ trong vận động bằng cách giảm ma sát và giúp làm giảm nguy cơ tổn thương cơ học từ các vật sắc nhọn, Trong một nỗ lực để bảo vệ mình chống lại kẻ thù, ốc đất rút lại phần mềm của chúng vào vỏ của họ khi nó đang nghỉ ngơi, một số chôn mình. Về sinh sản, phần lớn các ốc đất là lưỡng tính (có một bộ đầy đủ của các cơ quan sinh dục của cả hai giới). Ốc nhỏ nở ra với một lớp vỏ nhỏ tại chỗ, và vỏ xoắn phát triển như các bộ phận, hầu hết các vỏ ốc phát triển theo chiều thuận. Thiên địch. Ốc đất có nhiều kẻ thù tự nhiên, bao gồm các loài của tất cả các nhóm có xương sống đất, hai ví dụ là hoét và nhím. Một loạt các động vật có xương sống và không xương sống khác nhau săn ốc đất, và chúng được sử dụng làm thức ăn của con người trong các nền văn hóa ẩm thực khác nhau trên toàn thế giới, và thậm chí còn được nuôi trong các trang trại làm nguồn thực phẩm để cung cấp cho nhu cầu ăn ốc. Động vật ăn thịt không xương sống bao gồm ốc chặt đầu, bọ cánh cứng đất, đỉa, giun dẹp đất và thậm chí cả con sâu bướm ăn thịt (Hyposmocoma molluscivora). Các loài chim cũng bị thu hút bởi ốc, chúng sẽ moi và ăn phần chân ốc. Con người cũng đặt ra mối nguy hiểm lớn cho ốc trong tự nhiên. Ô nhiễm và phá hủy môi trường sống đã gây ra sự tuyệt chủng của một số lượng đáng kể các loài ốc trong những năm gần đây.
1
null
Chứng hoang tưởng hóa sói hay hiện tượng ám ảnh ma sói còn gọi là Hội chứng lâm sàng lycanthropy được định nghĩa là một hội chứng tâm thần lâm sàng tương đối hiếm có liên quan đến một ảo tưởng rằng những người bị ảnh hưởng có thể biến hóa hoặc chuyển đổi thành một động vật nói chung không phải con người nhưng thông thường là loài chó sói. Tên của nó được liên hệ với huyền thoại lycanthropy hay ma sói, một bệnh trạng siêu nhiên trong đó con người được biến đổi thể chất để từ hình người trở thành hình dạng chó sói. Cá nhân bị ảnh hưởng báo cáo một niềm tin ảo tưởng rằng họ đang trong quá trình chuyển đổi thành một con vật hoặc đã bị chuyển đổi thành một con vật. Nó đã được liên kết với sự thay đổi của tâm trí đi kèm với rối loạn tâm thần. Đại cương. Chứng bệnh này có khả năng bắt nguồn từ các bệnh não và thực chất nó bắt nguồn từ những ảnh hưởng của não. Những vùng não nhất định dường như giữ vai trò thiết yếu trong việc tạo ra cảm giác về tình trạng thể chất. Những vùng não này bao gồm cả các khu vực vỏ não chịu trách nhiệm về vận động và cảm giác. Khi những vùng não này có sự biến động, bệnh nhân sẽ có những cảm giác khác nhau như thấy cơ thể co rút lại, hoặc bị biến dạng ngực, hay thấy bị thiêu đốt đùi và lưng. Chứng hoang tưởng hóa sói nhìn chung được coi là một biểu hiện bất thường của một loại rối loạn khác, chẳng hạn như bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực hoặc trầm cảm nặng. Trong thực tế, trong số 56 trường hợp hoang tưởng biến hình thành động vật, 25% bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt, 23% được gán bị trầm cảm loạn thần kinh và khoảng 20% được cho là bị rối loạn lưỡng cực. Trong số các bệnh nhân, 34 là nam và 22 là nữ. Các triệu chứng của họ kéo dài từ một giờ tới vài thập niên. Các bệnh nhân đã cảm nhận sự thay đổi về ngoại hình của họ, ví dụ như một số nghĩ miệng và răng đã biến dạng hay ngực của họ giãn rộng. Số khác lại trải nghiệm cảm giác cơ thể teo nhỏ. Một số cảm thấy thiêu đốt ở vùng lưng và đùi. Ở một số bệnh nhân, ảo giác bắt nguồn từ những vấn đề tại vùng não liên quan, làm thay đổi sâu sắc nhận thức của họ về nhân dạng thể chất. Các chuyên gia tâm thần học có thể sử dụng điện não đò (EEG) hoặc các kỹ thuật kiểm tra hình ảnh não khác để phát hiện bất thường ở vùng não làm tăng ảo tưởng về cơ thể và cảm nhận về cái tôi. Lịch sử. Ý tưởng về người biến hình đã xuất hiện từ thời cổ xưa nhưng trong y học, nhiều trường hợp mắc chứng hoang tưởng hóa sói đã bị bỏ sót do người ta vẫn chưa hiểu rõ sự tồn tại cũng như đặc trưng của rối loạn này. Trên thực tế có ghi nhận một vài người có niềm tin mạnh mẽ rằng, bản thân đang trong quá trình biến đổi hình hài thành chó sói như họ cất tiếng hú, cào xé, cảm thấy lông bao phủ khắp cơ thể và móng tay, chân đang dài ra. Lời đồn. Bên cạnh đó, ma sói là nỗi ám ảnh của con người từ năm 1940, người ta hoàn toàn tin tưởng ma sói thực sự tồn tại và nó có lịch sử ra đời từ nhiều thế kỷ trước. Việc ám ảnh bị biến thành ma sói từ thời cổ xưa gây chú ý. Những câu chuyện từ thời Trung cổ ở châu Âu như một thanh niên 18 tuổi thừa nhận mình là một con sói còn trình bày với các thành viên của tòa án chi tiết các cuộc săn mồi của mình khi biến thành quái vật mỗi khi trăng tròn xuất hiện, hay một câu chuyện người đàn ông bí ẩn hoặc các vị thần đã biến con người thành ma sói như thế nào càng làm con người củng cố thêm niềm tin vào việc ma sói có thật. Tại thị trấn Elkhorn ở miền Nam nước Mỹ, các nhân chứng báo cáo với giới chức trách rằng họ đã nhìn thấy một con sói đứng thẳng trên hai chân giống như loài người, nó cao từ 1,5 - 2,4m. Một cô gái tuyên bố đã nhìn thấy một con ma sói đáng sợ khi tham gia bữa tiệc ngoài trời với bạn bè vào buổi đêm. Nhiều người dân địa phương cáo buộc sinh vật đó là ma sói và kể từ đó truyền thuyết, lời đồn ngày càng được lan truyền. Ghi nhận. Đã có 13 trường hợp ám ảnh ma sói như vậy được ghi nhận kể từ năm 1850. Một báo cáo từ Bệnh viện McLean báo cáo về một loạt các trường hợp có biểu hiện như là: Bắt nguồn từ việc chữa trị cho một bệnh nhân tin mình là ma sói, có người đã nghiên cứu tài liệu lưu trữ để tìm ra mức độ phổ biến của chứng bệnh này. Ông ta đã phát hiện, kể từ năm 1850, đã có 56 báo cáo mô tả về những trường hợp người tin họ đang biến hình thành động vật. Trong số đó, 13 báo cáo đáp ứng tiêu chuẩn về chứng hoang tưởng hóa sói. Căn bệnh ám chỉ người mắc không thực sự biến hình thành sói hoặc có khả năng làm điều đó. Những trường hợp còn lại là biến thể của chứng bệnh, với các bệnh nhân bị ám ảnh với suy nghĩ bản thân là chó, trăn, cóc hay ong. Số lượng ca mắc chứng hoang tưởng hóa sói thấp được ghi nhận rất thấp trong vòng 150 năm qua.
1
null
Than nâu hay còn gọi là than non là loại đá trầm tích có màu nâu có thể đốt cháy được, chúng được thành tạo từ quá trình nén cố kết than bùn một cách tự nhiên. Nó được xem là loại than đá có hạng thấp nhất do mức độ sinh hiện tương đối thấp của nó. Than này được khai thác ở Bulgaria, Kosovo, Hy Lạp, Đức, Ba Lan, Serbia, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, Canada, Ấn Độ, Úc và nhiều nơi khác ở châu Âu và nó được dùng chủ yếu phát nhiệt điện. 25,7% lượng điện của Đức từ các nhà máy than nâu, trong khi ở Hy Lạp, than nâu cung cấp khoảng 50% nhu cầu điện. Đặc điểm. Than nâu có hàm lượng cacbon khoảng 25-35%, độ ẩm cao khoảng 66%, và hàm lượng tro dao động từ 6% đến 19% so với than bitum là 6% đến 12%. Suất sinh nhiệt của than nâu trong khoảng khi ẩm. Năng lượng than nâu được tiêu thụ ở Hoa Kỳ trung bình , ở Victoria, Úc trung bình . Than nâu có hàm lượng vật chất dễ bay hơi cao nên nó dễ dàng chuyển sang các sản phẩm dạng khí và lỏng so với các loại than đá cao cấp khác. Tuy nhiên, do độ ẩm cao và nhạy cháy có thể gây ra các rủi ro trong vận chuyển và lưu trữ. Hiện được biết có quy trình hiệu quả loại bỏ độ ẩm bên trong cấu trúc của than nâu sẽ loại bỏ được rủy ro tự cháy so với than đá đen, sẽ chuyển đổi giá trị calori của than nâu thành giá trị nhiên liệu than đen quy đổi trong khi việc giảm đáng kể sự phát thải than nâu được hóa rắn tới mức tương tự hoặc tốt hơn than đen. Sử dụng. Do sinh năng lượng thấp và có độ ẩm cao, than nâu không có hiệu quả khi buôn bán trên thị trường quốc tế so với than cấp độ cao hơn. Nó thường được đốt trong các nhà máy nhiệt điện gần khu mỏ, như trong thung lũng Latrobe (Úc) và nhà máy Monticello của Luminant ở Texas. Do độ ẩm cao, lượng phát thải cacbon dioxide từ các nhà máy đốt than nâu truyền thống thường cao hơn nhiều so với than đen, lượng phát thải cao nhất trên thế giới là nhà máy điện Hazelwood, Victoria. Việc vận hành các nhà máy chạy than nâu truyền thống, đặc biệt là kết hợp với khai thác theo dãi, có thể có nhiều vấn đề về môi trường cần phải quan tâm. Địa chất. Than nâu bắt đầu tích tụ từ sự phân rã từng phần của thực vật, hoặc than bùn. Bị chôn vùi bên dưới các trầm tích khác làm cho nhiệt độ tăng, tùy thuộc vào gradient nhiệt độ và điều kiện kiến tạo và sự gia tăng áp suất. Các yếu tố này làm cố kết vật liệu và làm chúng mất nước và vật chất bay hơn (cơ bản là metan và cacbon dioxide). Quá trình này được gọi là sự hóa than, làm tăng hàm lượng cacbon, và lượng nhiệt của vật chất. Khi bị chôn vùi sâu hơn và trải qua thời gian lâu dài làm độ ẩm và chất bay hơi càng giảm, thậm chí có thể chuyển thành loại than đá cao cấp hơn như than bitum hoặc than anthracit. Các mỏ than nâu tất nhiên có tuổi trẻ hơn than đá, chúng được hình thành vào khoảng Đệ tam. Tài nguyên. Thung lũng ở bang Victoria, Úc chứa trữ lượng dự báo vào khoảng 65 tỉ tấn than nâu. Mỏ này tương đương 25% trữ lượng than nâu trên thế giới đã được biết đến. Vỉa than dày đến 100m, với nhiều vỉa than hầu như phát triển liên tục với bề dày than nâu lên đến 230 m. Các vỉa than bị phủ bởi lớp phủ rất mỏng (10 đến 20 m).
1
null
Cầu cạn Glenfinnan là một cầu cạn đường sắt trên tuyến đường sắt West Highland, thuộc làng Glenfinnan, Lochaber, Highland, Scotland. Nó được xây dựng từ tháng 7 năm 1897 tới tháng 10 năm 1898 thì hoàn thành, với chi phí 18.904 bảng Anh lúc bấy giờ. Nằm ở trên cùng của hồ Loch Shiel, phía Tây cao nguyên Scotland, cầu cạn nhìn ra Đài tưởng niệm Glenfinnan và hồ Loch Shiel. Xây dựng. Cầu cạn Glenfinnan là một phần của việc mở rộng về Mallaig của tuyến đường sắt West Highland được xây dựng giữa năm 1897 tới 1901. Công trình được xây dựng bởi công ty Sir Robert McAlpine với thiết kế kỹ thuật bao gồm 21 vòm, sử dụng bê tông là nguyên liệu chủ yếu. Mỗi vòm dài 15 mét và có chiều cao tối đa là 30 mét. Theo truyền thuyết, trong quá trình xây dựng, một người đánh xe ngựa đã thiệt mạng khi chiếc xe rơi xuống một trong những trụ vòm và bị chôn vùi trong bê tông. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, sự việc này xảy ra tại cầu cạn Loch Nan Uamh, gần Arisaig và người lái xe may mắn sống sót sau khi rơi xuống đường. Chức năng. Cầu cạn đường sắt kết nối Fort William và Mallaig, và là một con đường huyết mạch rất quan trọng cho ngành công nghiệp đánh cá địa phương nói riêng và nền kinh tế của toàn bộ khu vực Highland nói chung, đã bị suy giảm sau cuộc di cư bắt buộc dân cư ra khỏi vùng cao Highland của những năm 1800. Tuyến đường sắt được sử dụng bởi xe lửa chở khách do công ty điều hành xe lửa ScotRail tuyến từ Glasgow Queen Street tới Mallaig. Ngoài ra, vào mùa hè, đầu máy hơi nước Jacobite cũng hoạt động trên tuyến đường sắt này. Đây là sự kiện du lịch nổi tiếng trong khu vực, và cầu cạn là một trong những điểm tham quan chính của đoàn tàu. Văn hóa. Glenfinnan đã được sử dụng như một địa điểm trong một số bộ phim và phim truyền hình như "Ring of Bright Water", "Charlotte Gray", "Monarch of the Glen", "Stone of Destiny", "German Charlie und Louise", và ba phần của series phim Harry Potter. Cầu cạn Glenfinnan còn là hình ảnh được in trên một số tờ giấy bạc Scotland. Ngân hàng Scotland phát hành tờ 10 bảng vào tháng 9 năm 2007 có in hình cầu cạn Glenfinnan.
1
null
Vườn quốc gia Vùng đất ngập nước Kushiro (钏路湿原国立公园, "Kushiro-shitsugen Kokuritsu Koen ?") là một vườn quốc gia nằm ở phía đông của đảo Hokkaido, Nhật Bản. Nó được thành lập như là một vườn quốc gia vào ngày 31 tháng 7 năm 1987. Vườn quốc gia được biết đến với hệ sinh thái vùng đất ngập nước. Kushiro-shitsugen (vùng đất ngập nước Kushiro hoặc đầm lầy Kushiro) có diện tích 268,61 km² (103,71 dặm vuông) tại vùng đồng bằng Kushiro ("Kushiro-heiya"), khu vực có cánh đồng lau sậy lớn nhất Nhật Bản. Sông Kushiro dài 154 km (96 dặm) bắt nguồn từ hồ Kussharo có những đoạn uốn khúc qua vườn quốc gia. Trong Công ước Ramsar năm 1980, vườn quốc gia được đề cử như là một vùng đất có những đầm lầy than bùn. Năm 1967, vùng đất ngập nước đã được chỉ định là một tượng đài tự nhiên quốc gia. Vì lý do đó, việc tham quan vườn quốc gia bị hạn chế và quản lý nghiêm ngặt. Đây cũng chính là cảnh quan tiêu biểu nhất của Hokkaido được bảo tồn. Kushiro là nhà của hơn 600 loài thực vật. Lau sậy, cói, rêu than bùn vùng đất ngập nước, sủi đen là những loài thực vật chính tại vườn quốc gia. Hệ sinh thái ẩm ướt và đa dạng với những khúc sông uốn lượn qua lại, hồ cùng các đầm lầy than bùn. Về động vật, đây là nơi trú ẩn đối với nhiều loài hoang dã như sếu Nhật Bản ("Grus japonensis"), cá taimen Sakhalin ("Hucho perryi"), kỳ giông Siberia ("Salamandrella keyserlingii") và chuồn chuồn trán trắng Ezo ("Leucorrhinia intermedia ijimai").
1
null
Thương mại di động "(Tiếng Anh: Mobile commerce)", hay còn gọi là m-commerce được định nghĩa năm 1997 như là "Sự phân phối hàng hóa thương mại điện tử trực tiếp tới tay người tiêu dùng, ở bất cứ đâu, thông qua công nghệ không dây." Theo BI Intelligence thống kê vào tháng 1 năm 2013, 29% người dùng điện thoại di động đã thực hiện mua hàng qua di động của họ. Walmart ước lượng khoảng 40% lượt khách hàng ghé thăm trang Web mua sắm trực tuyến Walmart thông qua thiết bị di động. Ngân hàng Bank of America dự đoán sẽ có khoảng 67,1 tỷ USD được sử dụng để mua sắm thông qua những thiết bị di động tại châu Âu và Mỹ vào năm 2015. Lịch sử. Diễn đàn thương mại di động toàn cầu, bao gồm hơn 100 tổ chức, đã ra mắt hoàn toàn tại London vào ngày 10 tháng 11 năm 1997. Kevin Duffey được bầu làm Chủ tịch điều hành tại cuộc họp đầu tiên vào tháng 11 năm 1997. Cuộc họp được khai mạc bởi Tiến sĩ Mike Short, cựu chủ tịch Hiệp hội GSM, với những dự báo đầu tiên về thương mại di động từ Kevin Duffey (Giám đốc Viễn thông Tập đoàn của Logica) và Tom Alexander (sau này là CEO của Virgin Mobile và sau đó là Orange). Hơn 100 công ty đã tham gia Diễn đàn trong vòng một năm, nhiều nhóm thành lập thương mại di động của riêng họ, ví dụ: MasterCard và Motorola. Trong số một trăm công ty này, hai công ty đầu tiên là Logica và Cellnet (sau này trở thành O2). Các tổ chức thành viên như Nokia, Apple, Alcatel và Vodafone đã bắt đầu một loạt các thử nghiệm và hợp tác. Dịch vụ thương mại di động được giao lần đầu tiên vào năm 1997, khi hai máy bán hàng tự động Coca-Cola kích hoạt điện thoại di động đầu tiên được lắp đặt tại khu vực Helsinki ở Phần Lan. Các máy chấp nhận thanh toán qua tin nhắn văn bản SMS. Công việc này đã phát triển thành một số ứng dụng di động mới như dịch vụ ngân hàng dựa trên điện thoại di động đầu tiên được ra mắt vào năm 1997 bởi Merita Bank of Finland, cũng sử dụng SMS. Finnair check-in di động cũng là một cột mốc quan trọng, lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 2001. Máy chủ m-Commerce (tm) được phát triển vào cuối năm 1997 bởi Kevin Duffey và Andrew Tobin tại Logica đã giành giải thưởng Financial Times năm 1998 cho "sản phẩm di động sáng tạo nhất", trong một giải pháp được thực hiện với De La Ru, Motorola và Logica." Nhãn hiệu cho m-Commerce đã được nộp vào ngày 7 tháng 4 năm 1998. Năm 1998, doanh số đầu tiên của nội dung số dưới dạng tải xuống điện thoại di động đã được thực hiện khi nhạc chuông có thể tải xuống thương mại đầu tiên được tung ra ở Phần Lan bởi Radiolinja (hiện là một phần của Elisa Oyj). Hai nền tảng thương mại quốc gia lớn cho thương mại di động đã được ra mắt vào năm 1999: Tiền thông minh ở Philippines và dịch vụ Internet i-Mode của NTT DoCoMo tại Nhật Bản. i-Mode cung cấp gói chia sẻ doanh thu trong đó NTT DoCoMo giữ 9% phí người dùng đã trả cho nội dung và trả lại 91% cho chủ sở hữu nội dung. Các dịch vụ liên quan đến thương mại di động lan rộng nhanh chóng vào đầu năm 2000. Na Uy đã triển khai thanh toán bãi đậu xe di động. Áo cung cấp vé tàu qua thiết bị di động. Nhật Bản cung cấp dịch vụ mua vé máy bay di động. Vào tháng 4 năm 2002, dựa trên hoạt động của Diễn đàn thương mại di động toàn cầu (GMCF), Viện tiêu chuẩn viễn thông châu Âu (ETSI) đã chỉ định Joachim Hoffmann của Motorola phát triển các tiêu chuẩn chính thức cho thương mại di động. Khi bổ nhiệm ông Hoffman, ETSI dẫn lời các nhà phân tích trong ngành dự đoán rằng "thương mại điện tử đã sẵn sàng cho sự tăng trưởng theo cấp số nhân như vậy trong vài năm tới có thể đạt 200 tỷ USD vào năm 2004". Kể từ năm 2008, UCL Computer Science và Peter J. Bentley đã chứng minh tiềm năng cho các ứng dụng y tế trên thiết bị di động. Các thiết bị PDA và điện thoại di động đã trở nên phổ biến đến mức nhiều doanh nghiệp [chỉ định] bắt đầu sử dụng thương mại di động như một cách hiệu quả hơn để giao tiếp với khách hàng của họ. Để khai thác thị trường thương mại di động tiềm năng, các nhà sản xuất điện thoại di động như Nokia, Ericsson, Motorola và Qualcomm đang hợp tác với các nhà mạng như AT & T Wireless và Sprint để phát triển điện thoại thông minh hỗ trợ WAP. Điện thoại thông minh cung cấp khả năng fax, e-mail và điện thoại. "Lợi nhuận cho các nhà cung cấp thiết bị và nhà cung cấp bản lề trên các thiết bị di động cao cấp và các ứng dụng sát thủ đi kèm", Burchett nói Những người chấp nhận lâu năm, như thị trường giới trẻ, vốn nhạy cảm nhất về giá, cũng như cởi mở hơn đối với các ứng dụng và nội dung di động cao cấp, cũng phải là mục tiêu chính của các nhà cung cấp thiết bị. Kể từ khi iPhone ra mắt năm 2007, thương mại di động đã chuyển khỏi các hệ thống SMS và vào các ứng dụng thực tế. SMS có lỗ hổng bảo mật đáng kể và các vấn đề tắc nghẽn, mặc dù nó có sẵn rộng rãi và có thể truy cập được. Ngoài ra, những cải tiến về khả năng của các thiết bị di động hiện đại khiến cho việc đặt thêm gánh nặng tài nguyên lên thiết bị di động là điều khôn ngoan. Gần đây, các chủ doanh nghiệp "gạch vữa", và các nhà bán lẻ hộp lớn, đã nỗ lực tận dụng lợi thế của thương mại di động bằng cách sử dụng một số khả năng di động như dịch vụ dựa trên vị trí, quét mã vạch và thông báo đẩy để cải thiện trải nghiệm khách hàng mua sắm trong các cửa hàng vật lý. Bằng cách tạo ra cái được gọi là môi trường "gạch và nhấp", các nhà bán lẻ vật lý có thể cho phép khách hàng truy cập các lợi ích chung của việc mua sắm trực tuyến (như đánh giá sản phẩm, thông tin và phiếu giảm giá) trong khi vẫn mua sắm trong cửa hàng thực. Đây được coi là cầu nối giữa khoảng cách tạo ra bởi thương mại điện tử và mua sắm tại cửa hàng và đang được các nhà bán lẻ vật lý sử dụng như một cách để cạnh tranh với mức giá thấp hơn thường thấy thông qua các nhà bán lẻ trực tuyến. Vào giữa mùa hè 2013, các nhà bán lẻ "omnichannel" (những người có thương mại điện tử và bán hàng tại cửa hàng quan trọng) đã thấy từ 25% đến 30% lưu lượng truy cập đến các tài sản trực tuyến của họ có nguồn gốc từ thiết bị di động. Một số trang web bán lẻ chỉ chơi / trực tuyến thuần túy (đặc biệt là các trang web trong danh mục du lịch) cũng như các trang web bán hàng flash và các trang web giao dịch đã nhìn thấy từ 40% đến 50% lưu lượng truy cập (và đôi khi đáng kể hơn) bắt nguồn từ thiết bị di động. Ứng dụng Google Wallet Mobile App ra mắt vào tháng 9 năm 2011 và liên doanh thương mại điện tử được thành lập vào tháng 6 năm 2011 giữa Vodafone, O2, Orange và T-Mobile là những phát triển gần đây đáng chú ý. Phản ánh tầm quan trọng của thương mại điện tử, vào tháng 4 năm 2012, Ủy viên cạnh tranh của Ủy ban châu Âu đã ra lệnh điều tra chuyên sâu về liên doanh thương mại điện tử giữa Vodafone, O2, Orange và T-Mobile. Một cuộc khảo sát gần đây cho biết năm 2012, 41% khách hàng điện thoại thông minh đã mua các sản phẩm bán lẻ bằng thiết bị di động của họ. Sản phẩm và dịch vụ có sẵn. Chuyển tiền di động. Ở Kenya chuyển tiền chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng điện thoại di động. Đây là một sáng kiến của một công ty trị giá hàng triệu đô la ở Kenya có tên Safaricom. Hiện tại, các công ty liên quan là Safaricom và Airtel. Dịch vụ chuyển tiền di động ở Kenya hiện được hai công ty cung cấp dưới tên M-PESA và Airtel Money. Một hệ thống tương tự có tên MobilePay đã được Danske Bank tại Đan Mạch vận hành từ năm 2013. Nó đã trở nên phổ biến đáng kể với khoảng 1,6 triệu người dùng vào giữa năm 2015. Một hệ thống tương tự khác có tên Vipps đã được giới thiệu ở Na Uy vào năm 2015. Máy rút tiền tự động di động (ATM) là một loại ATM đặc biệt. Hầu hết các máy ATM đều có nghĩa là đứng yên và chúng thường được tìm thấy gắn liền với các tổ chức tài chính, trong các cửa hàng và trong trung tâm thương mại. Mặt khác, một máy ATM di động có nghĩa là được di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác. Loại ATM này thường được tìm thấy tại các sự kiện đặc biệt mà dịch vụ ATM chỉ cần tạm thời. Ví dụ, chúng có thể được tìm thấy tại các lễ hội, hội chợ và diễu hành. Chúng cũng có thể được sử dụng tại các hội thảo và hội thảo khi không có ATM thường xuyên gần đó. ATM di động thường là các thiết bị độc lập không cần tòa nhà hoặc vỏ bọc. Thông thường, ATM di động có thể được đặt ở bất kỳ vị trí nào và có thể truyền thông tin giao dịch không dây, do đó không cần phải có đường dây điện thoại tiện dụng. Tuy nhiên, các máy ATM di động có thể yêu cầu quyền truy cập vào một nguồn điện, mặc dù có một số khả năng chạy trên các nguồn năng lượng thay thế. Thông thường, các đơn vị này được xây dựng bằng vật liệu chịu thời tiết, vì vậy chúng có thể được sử dụng trong thực tế bất kỳ loại điều kiện thời tiết. Ngoài ra, các máy này thường có bộ phận sưởi ấm và điều hòa không khí bên trong giúp duy trì hoạt động của chúng bất chấp nhiệt độ của môi trường. Các dịch vụ tiền điện thoại di động cho các nhà khai thác, các nhà khai thác hiện đang tìm cách hiệu quả để triển khai và quản lý mạng lưới phân phối có thể hỗ trợ rút tiền và rút tiền Không giống như ATM truyền thống, sicap Mobile ATM đã được thiết kế đặc biệt để kết nối với các nền tảng tiền điện thoại di động và cung cấp chất lượng ATM cấp ngân hàng. Tại Hungary, Vodafone cho phép thanh toán bằng tiền mặt hoặc thẻ ngân hàng cho hóa đơn điện thoại hàng tháng. Thị trường Hungary là một nơi mà các khoản ghi nợ trực tiếp không phải là thông lệ tiêu chuẩn, do đó, cơ sở này giảm bớt gánh nặng xếp hàng cho một nửa số người trả sau của cơ sở thuê bao Vodafone ở Hungary. Bán vé di động. Vé có thể được gửi đến điện thoại di động bằng nhiều công nghệ. Người dùng sau đó có thể sử dụng vé của họ ngay lập tức, bằng cách xuất trình điện thoại di động của họ khi kiểm tra vé dưới dạng thẻ lên máy bay kỹ thuật số. Hầu hết số người dùng hiện đang chuyển sang công nghệ này. Ví dụ tốt nhất sẽ là IRCTC nơi vé đến dưới dạng SMS cho người dùng. Công nghệ mới như RFID hiện có thể được sử dụng để cung cấp trực tiếp một vé kỹ thuật số liên kết thông qua phần cứng thiết bị di động được liên kết với phần mềm có liên quan. Chứng từ di động, phiếu giảm giá và thẻ khách hàng thân thiết. Công nghệ bán vé di động cũng có thể được sử dụng để phân phối chứng từ, phiếu giảm giá và thẻ khách hàng thân thiết. Các mục này được thể hiện bằng mã thông báo ảo được gửi đến điện thoại di động. Một khách hàng giới thiệu điện thoại di động với một trong số các mã thông báo này tại điểm bán sẽ nhận được lợi ích giống như khi họ có mã thông báo truyền thống. Các cửa hàng có thể gửi phiếu giảm giá cho khách hàng sử dụng các dịch vụ dựa trên vị trí để xác định khi nào khách hàng ở gần. Sử dụng một thiết bị được kết nối và hiệu ứng mạng cũng có thể cho phép chơi game trong trải nghiệm mua sắm. Nội dung thu mua và đặt hàng. Hiện tại, nội dung thu mua và phân phối di động chủ yếu bao gồm bán nhạc chuông, hình nền, ứng dụng và trò chơi cho điện thoại di động. Sự hội tụ của điện thoại di động, máy nghe nhạc cầm tay và máy phát video vào một thiết bị duy nhất đang làm tăng việc mua và cung cấp các bản nhạc và video có độ dài đầy đủ. Tốc độ tải xuống khả dụng với mạng 4G giúp bạn có thể mua phim trên thiết bị di động trong vài giây. Dịch vụ dựa trên vị trí. Vị trí của người dùng điện thoại di động là một thông tin quan trọng được sử dụng trong các giao dịch thương mại di động hoặc thương mại di động. Biết vị trí của người dùng cho phép các dịch vụ dựa trên vị trí, chẳng hạn như: Dịch vụ thông tin. Một loạt các dịch vụ thông tin có thể được cung cấp cho người dùng điện thoại di động theo cách tương tự như nó được phân phối cho PC. Những dịch vụ này bao gồm: Thông tin giao thông tùy chỉnh, dựa trên các mẫu du lịch thực tế của người dùng, có thể được gửi đến thiết bị di động. Dữ liệu tùy chỉnh này hữu ích hơn so với phát báo cáo lưu lượng truy cập chung, nhưng không thực tế trước khi phát minh ra các thiết bị di động hiện đại do yêu cầu băng thông. Ngân hàng di động. "Bài chi tiết: Ngân hàng di động" Các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác sử dụng thương mại di động để cho phép khách hàng của họ truy cập thông tin tài khoản và thực hiện các giao dịch, chẳng hạn như mua cổ phiếu, chuyển tiền. Dịch vụ này thường được gọi là ngân hàng di động, hoặc ngân hàng di động. Môi giới di động. Dịch vụ thị trường chứng khoán được cung cấp qua thiết bị di động cũng trở nên phổ biến hơn và được gọi là Môi giới di động. Họ cho phép người đăng ký phản ứng với sự phát triển của thị trường một cách kịp thời và không phân biệt vị trí thực tế của họ. Đấu giá. Các giải pháp đấu giá ngược di động đã trở nên phổ biến. Không giống như đấu giá truyền thống, đấu giá ngược (hoặc đấu giá giá thấp) lập hóa đơn cho điện thoại của người tiêu dùng mỗi khi họ đặt giá thầu. Nhiều giải pháp thương mại SMS di động dựa trên mua hàng một lần hoặc đăng ký một lần; tuy nhiên, đấu giá ngược mang lại lợi nhuận cao cho nhà cung cấp dịch vụ di động vì họ yêu cầu người tiêu dùng thực hiện nhiều giao dịch trong một khoảng thời gian dài. Trình duyệt di động. "Bài chi tiết: Trình duyệt di động" Sử dụng trình duyệt di động, một trình duyệt World Wide Web trên thiết bị di động, khách hàng có thể mua sắm trực tuyến mà không cần phải ở máy tính cá nhân. Nhiều ứng dụng tiếp thị di động có khả năng định vị địa lý hiện đang phân phối các thông điệp tiếp thị cụ thể của người dùng đến đúng người vào đúng thời điểm. Mua hàng di động. Các thương nhân bán theo danh mục có thể chấp nhận đơn đặt hàng từ khách hàng điện tử, thông qua thiết bị di động của khách hàng. Trong một số trường hợp, thương nhân thậm chí có thể giao danh mục điện tử, thay vì gửi một danh mục giấy cho khách hàng. Người tiêu dùng thực hiện mua hàng trên thiết bị di động cũng có thể nhận được các dịch vụ và ưu đãi tăng giá trị gia tăng. Một số thương nhân cung cấp các trang web di động được tùy chỉnh cho màn hình nhỏ hơn và giao diện người dùng hạn chế của thiết bị di động. Thanh toán điện thoại di động trong ứng dụng. Thanh toán có thể được thực hiện trực tiếp bên trong một ứng dụng chạy trên hệ điều hành điện thoại thông minh phổ biến, chẳng hạn như Google Android. Công ty phân tích Gartner dự kiến các giao dịch mua trong ứng dụng sẽ thúc đẩy 41% doanh thu của cửa hàng ứng dụng (còn được gọi là nền tảng phân phối phần mềm di động) trong năm 2016. Mua trong ứng dụng có thể được sử dụng để mua hàng hóa ảo, nội dung mới và nội dung di động khác và cuối cùng được các nhà mạng di động lập hóa đơn thay vì chính các cửa hàng ứng dụng. Hệ thống thương mại di động IPX của Ericsson được 120 nhà mạng di động sử dụng để cung cấp các tùy chọn thanh toán như dùng thử trước khi mua, cho thuê và đăng ký. Tiếp thị và quảng cáo trên di động. Trong bối cảnh thương mại di động, tiếp thị di động đề cập đến tiếp thị được gửi đến các thiết bị di động. Các công ty đã báo cáo rằng họ thấy phản ứng tốt hơn từ các chiến dịch tiếp thị trên thiết bị di động so với các chiến dịch truyền thống. Lý do chính cho điều này là bản chất tức thời của việc ra quyết định của khách hàng mà các ứng dụng và trang web di động cho phép. Người tiêu dùng có thể nhận được một thông điệp tiếp thị hoặc phiếu giảm giá và trong vài giây, đưa ra quyết định mua và tiếp tục hoàn thành việc bán hàng - mà không làm gián đoạn hoạt động trong thế giới thực hiện tại của họ. Ví dụ, một bà mẹ bận rộn chăm sóc các công việc gia đình có con trong tay có thể nhận được thông điệp tiếp thị trên điện thoại di động về các sản phẩm dành cho trẻ em từ một cửa hàng địa phương. Cô ấy có thể và trong vài cú nhấp chuột, đặt hàng cho các nguồn cung cấp của mình mà không cần phải lên kế hoạch trước cho nó. Không cần phải lấy ví của cô ấy và săn thẻ tín dụng, không cần đăng nhập vào máy tính xách tay của cô ấy và cố gắng nhớ lại địa chỉ web của cửa hàng mà cô ấy đã ghé thăm tuần trước, và chắc chắn không cần phải tìm người trông trẻ để che chở cho cô ấy trong khi cô ấy chạy đến cửa hàng địa phương. Nghiên cứu chứng minh rằng người tiêu dùng của thị trường di động và hữu tuyến đại diện cho hai nhóm riêng biệt, những người bị điều khiển bởi các giá trị và hành vi khác nhau, và những người thể hiện các hồ sơ tâm lý và nhân khẩu học không giống nhau. Những khía cạnh nào thực sự phân biệt giữa một người mua sắm trực tuyến truyền thống từ nhà và một người mua sắm di động khi đang di chuyển ? Nghiên cứu cho thấy các cá nhân liên quan đến bốn chiều tình huống - thời gian, thời gian, bối cảnh xã hội và kiểm soát xác định mức độ phổ biến của họ như thế nào hoặc nằm ở vị trí người tiêu dùng. Những yếu tố này rất quan trọng trong việc kích hoạt thương mại điện tử từ thương mại điện tử. Do đó, thương mại di động thành công đòi hỏi phải phát triển các chiến dịch tiếp thị nhắm vào các kích thước cụ thể này và theo phân khúc người dùng. Ảnh hưởng đến thị trường người trẻ. Phương tiện di động là một lĩnh vực thay đổi nhanh chóng. Các công nghệ mới, như WiMax, hành động để tăng tốc đổi mới trong thương mại di động. Những người tiên phong trong quảng cáo di động bao gồm Vodafone, Orange và SK Telecom. Một nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hơn 70% người dùng thương mại di động dưới 25 tuổi, tính đến năm 2019. Thiết bị di động được sử dụng nhiều ở Hàn Quốc để tiến hành thương mại di động. Các công ty di động ở Hàn Quốc tin rằng công nghệ di động sẽ trở thành đồng nghĩa với lối sống của giới trẻ, dựa trên kinh nghiệm của họ với các thế hệ Hàn Quốc trước đây. "Lợi nhuận cho các nhà cung cấp thiết bị và nhà cung cấp bản lề trên các thiết bị di động cao cấp và các ứng dụng sát thủ đi kèm", Daniel Longfield nói. Phương thức thanh toán. "Bài chi tiết: Thanh toán di động" Người tiêu dùng có thể sử dụng nhiều hình thức thanh toán trong thương mại di động, bao gồm: Thiết kế ứng dụng. Thiết kế tương tác và thiết kế UX là cốt lõi của trải nghiệm thương mại điện tử từ quan niệm của nó, tạo ra các ứng dụng và trang web di động tạo ra các tương tác có thể sử dụng cao cho người dùng. Tuy nhiên, nhiều cuộc tranh luận đã xảy ra về trọng tâm cần được đưa ra cho các ứng dụng. Trong nghiên cứu gần đây, Parker và Wang đã chứng minh rằng trong các ứng dụng Thương mại thời trang, mức độ mà ứng dụng giúp người dùng mua sắm (tăng sự tiện lợi) là chức năng nổi bật nhất. Các ví dụ sử dụng như vậy có thể thông qua các tín hiệu thiết kế giúp người dùng tìm thấy sản phẩm của họ với tìm kiếm tối thiểu. Ngoài ra, mua sắm cho người khác là một động lực để tham gia vào các ứng dụng thương mại điện tử với ưu tiên lớn để tích hợp chặt chẽ với phương tiện truyền thông mạng xã hội. Thương mại ứng dụng. Sự phổ biến của các ứng dụng đã tạo ra sự lặp lại mới nhất của thương mại di động: thương mại ứng dụng. Điều này đề cập đến các giao dịch bán lẻ diễn ra trên một ứng dụng di động gốc. Thương mại ứng dụng được cho là hoạt động tốt hơn cả máy tính để bàn và web di động khi nói đến thời lượng duyệt và tương tác. Giá trị đơn hàng trung bình được báo cáo là lớn hơn với các ứng dụng bán lẻ so với thương mại điện tử truyền thống và tỷ lệ chuyển đổi trên các ứng dụng cao gấp đôi so với các trang web di động. Xu hướng mua sắm thiết bị di động. Các ứng dụng di động đóng vai trò là phương tiện để đảm bảo trải nghiệm người dùng tích cực, tương tác liền mạch và tăng doanh thu cho thương mại điện tử. Theo báo cáo của DesignRush, ứng dụng di động dự kiến sẽ tạo ra 189 tỷ đô la vào năm 2020. Hơn nữa, một nghiên cứu của Forrester cho thấy các thiết bị di động sẽ được tận dụng để tạo điều kiện cho doanh thu hơn 1 nghìn tỷ đô la trong năm 2018.
1
null
Chương trình Salyut (, , "Salute", nghĩa Việt ngữ là "Chào mừng") là chương trình trạm không gian đầu tiên được Liên Xô thực hiện, trong đó bao gồm một loạt bốn trạm không gian nghiên cứu khoa học và hai trạm không gian do thám quân sự có phi hành đoàn trong khoảng thời gian 15 năm, từ 1971 đến 1986. Hai trạm Salyut khác đã phóng thất bại. Salyut một mặt được thiết kế để thực hiện nghiên cứu dài hạn các vấn đề về cuộc sống trong vũ trụ và một loạt các thí nghiệm về thiên văn học, sinh học và tài nguyên Trái đất, mặt khác chương trình dân sự này đã được sử dụng như một vỏ bọc cho các trạm quân sự tuyệt mật Almaz đứng đằng sau dự án Salyut. Salyut 1, trạm đầu tiên trong chương trình, trở thành trạm không gian đầu tiên có phi hành đoàn trên thế giới. Salyut đã phá vỡ nhiều kỷ lục chuyến bay vũ trụ, trong đó có một số kỷ lục về thời gian, lần đầu tiên các phi hành đoàn bàn giao một trạm không gian trên quỹ đạo và một số kỷ lục ra ngoài khoảng không. Chương trình Salyut có vai trò quan trọng đối với sự phát triển công nghệ các trạm không gian từ cơ bản, giai đoạn phát triển kỹ thuật, từ trạm lắp rắp một cổng đến phức tạp - đa cổng, thành tiền đồn dài hạn trên quỹ đạo với năng lực khoa học ấn tượng, mà công nghệ tiếp tục được kế thừa cho đến nay. Cuối cùng, kinh nghiệm thu được từ các trạm Salyut tiếp tục mở đường cho các trạm không gian nhiều mô-đun như Mir và Trạm vũ trụ quốc tế, mà mỗi trạm đều sở hữu mô-đun tâm điểm có nguồn gốc từ Salyut. Mir-2 (DOS-8), tram vũ trụ cuối cùng của loạt Salyut, đã trở thành một trong các mô-đun đầu tiên của ISS. Mô-đun đầu tiên của ISS, Zarya do Nga chế tạo, phần lớn dựa vào công nghệ phát triển trong chương trình Salyut. Lịch sử của trạm không gian Salyut. Chương trình bao gồm hệ DOS (Trạm quỹ đạo bền vững - Durable Orbital Station) dân sự và OPS (Trạm quỹ đạo có người lái - Orbital Piloted Station) quân sự: Các trạm không gian Almaz-OPS (Алмаз - Diamond - Kim cương) đã được thiết kế từ tháng 10 năm 1964 của tổ chức OKB-52 của Vladimir Chelomei như trạm không gian quân sự, rất lâu trước khi chương trình Salyut bắt đầu. Đối với Salyut, sửa đổi nhỏ đã được thực hiện vào cổng nối của OPS để chứa tàu vũ trụ Soyuz ngoài tàu vũ trụ TKS. DOS-trạm không gian dân sự được thiết kế bởi OKB-1 của Sergei Korolev-đã có cạnh tranh khốc liệt trong ngành công nghiệp không gian của Liên Xô trong suốt thời gian của chương trình âm lịch có người lái của Liên Xô. Trong một nỗ lực của OKB-1 để bắt kịp với OKB-52, họ đã Almaz-OPS thiết kế thân tàu Chelomei và giao phối nó với các hệ thống có nguồn gốc từ Soyuz của mình. [2] Điều này đã được thực hiện bắt đầu với công việc khái niệm trong tháng 8 năm 1969. [3 ] Các hệ điều hành DOS khác với các mô-đun OPS trong một số khía cạnh, bao gồm các tấm năng lượng mặt trời thêm, phía trước và (trong Salyut 6 và 7) cổng nối phía sau cho tàu vũ trụ Soyuz và tàu vũ trụ TKS, và cuối cùng nhiều cổng nối trong hệ điều hành DOS-7 và hệ điều hành DOS-8 đính kèm thêm các mô-đun trạm không gian. Khi đã nhận ra rằng các trạm DOS dân sự sau này có thể không chỉ cung cấp một câu chuyện trang bìa cho chương trình Almaz quân sự, nhưng có thể được hoàn thành trong vòng một năm (và ít nhất một năm sớm hơn so với Almaz), chương trình Salyut bắt đầu vào ngày 15 tháng 2 năm 1970 -. với điều kiện chương trình âm lịch có người lái sẽ không bị [2] Tuy nhiên, các kỹ sư tại OKB-1 ngay lập tức chuyển từ L3 nỗ lực âm lịch tàu đổ bộ, được coi là một ngõ cụt, để bắt đầu làm việc trên hệ điều hành DOS - bất chấp lo ngại rằng nó sẽ giết Xô có người lái mặt trăng bắn. [3] Cuối cùng nó bật ra rằng Liên Xô N1 "mặt trăng Shot" tên lửa không bao giờ bay thành công, vì vậy quyết định OKB-1 từ bỏ Liên Xô chương trình âm lịch có người lái xấu số, và để lấy được một trạm không gian DOS từ hệ thống con Soyuz hiện có và một thân tàu Almaz / OPS được chứng minh là đúng: thời gian thực tế từ khi thành lập trạm của hệ điều hành DOS sự ra mắt của hệ điều hành DOS dựa trên Salyut 1 trạm không gian đầu tiên chỉ mất 16 tháng; trạm không gian đầu tiên của thế giới đã được đưa ra bởi Liên Xô, hai năm trước khi Skylab của Mỹ và trạm Almaz / OPS bay lần đầu tiên. Ban đầu các trạm không gian đã được đặt tên Zarya, từ Nga cho 'Dawn. Tuy nhiên, như sự ra mắt của trạm đầu tiên trong chương trình đã được chuẩn bị, nó đã nhận ra rằng điều này sẽ xung đột với các dấu hiệu cuộc gọi Zarya của trung tâm điều khiển chuyến bay (TsUP) trong Korolyov - do đó tên của trạm không gian đã được thay đổi để Salyut trong thời gian ngắn trước khi ra mắt của Salyut 1. [3] [4] Trong khi tổng cộng chín trạm không gian đã được đưa ra trong chương trình Salyut, với sáu người lái thành công, thiết lập một số hồ sơ trên đường đi, nó đã được các trạm Salyut 6 và Salyut 7 đã trở thành ngựa thồ của chương trình. Trong tổng số 1697 ngày của cư trú mà tất cả các đội Salyut đạt được, Salyut 6 và 7 chiếm 1499. Trong khi Skylab đã đặc trưng một cổng nối thứ hai, hai trạm Salyut đã trở thành người đầu tiên thực sự sử dụng hai cổng nối: Điều này làm cho nó có thể cho hai tàu vũ trụ Soyuz cập cảng cùng một lúc để trao đổi phi hành đoàn của trạm và cho Tiến tàu vũ trụ tiếp tế các trạm, cho phép lần đầu tiên một ("thường trú") nghề nghiệp liên tục của các trạm không gian. Di sản của chương trình Salyut tiếp tục sống trên trong lần đầu tiên đa module trạm không gian Mir với Mir Module Lõi ("DOS-7"), mà tích lũy 4592 ngày cư trú, và trong Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) với Zvezda module ("DOS-8"), mà như của ngày 21 Tháng 8 năm 2012 lũy kế 4.310 ngày cư trú. Hơn nữa, hàng hóa khối module trạm không gian chức năng đều bắt nguồn từ chương trình Almaz, với các mô-đun Zarya ISS vẫn đang hoạt động cùng với Zvezda. Các trạm không gian đầu tiên - thế hệ đầu tiên. Salyut 1 (DOS-1). Soyuz 10 mang theo những phi hành đoàn đầu tiên lên thăm Salyut 1, tuy nhiên do không thể kết nối với trạm không gian nên nhiệm vụ này bị hủy bỏ. Phi hành đoàn thứ hai lên Salyut 1 là Soyuz 11 và đã thành công kết nối với trạm. Các phi hành gia đã ở trên trạm và thực hiện các thử nghiệm trong vòng 23 ngày. Tuy nhiên các phi hành đoàn đã thiệt mạng trước khi quay lại Soyuz 11 và quay trở về Trái Đất vào ngày 30 tháng 6 năm 1971 - một van cân bằng áp suất trong các mô-đun hậu duệ của Soyuz đã mở quá sớm khi ba mô-đun của tàu vũ trụ tách ra, làm cả ba nghẹt thở. Salyut 1, trạm không gian đầu tiên trong lịch sử của chuyến bay không gian, được nhìn thấy ở đây với các cập cảng Soyuz 10 tàu vũ trụ. Salyut 1 đã được chuyển đến một quỹ đạo cao hơn giữa tháng Bảy và tháng 8 năm 1971 để đảm bảo rằng nó sẽ không bị phá hủy sớm thông qua phân rã quỹ đạo. Trong khi đó, Soyuz viên đã được đáng kể thiết kế lại để cho phép phù hợp với áp lực phải được đeo trong thời gian ra mắt, diễn tập lắp ghép, và tái nhập cảnh. [5] Tuy nhiên, Salyut 1 chạy ra khỏi nguồn cung cấp trước khi các nỗ lực tái thiết kế Soyuz đã được ký kết, và nó đã được quyết định sa thải các công cụ lần cuối cùng vào ngày 11 tháng Mười, giảm quỹ đạo của nó và bảo đảm việc phá hoại tái nhập cảnh trên Thái Bình Dương. Sau 175 ngày trong không gian, trạm không gian đầu tiên thực sự đã kết thúc. DOS-2. DOS-2 được phóng vào ngày 29 tháng 7 năm 1972 Nó tương tự như trong thiết kế để Salyut 1 Giai đoạn thứ hai của tên lửa Proton của nó thất bại.. DOS-2 không bao giờ chạm tới quỹ đạo và đâm vào Thái Bình Dương. Salyut 2 (OPS-1). Salyut 2 (OPS-1) (tiếng Nga: Салют-2; tiếng Anh: Salute 2) đã được đưa ra vào 04 tháng 4 năm 1973 Trạm không gian là, mặc dù nó "Salyut 2" định, dự kiến ​​sẽ được các trạm không gian quân sự đầu tiên, một phần của. các phân loại cao quân đội không gian chương trình trạm Almaz - chỉ định Salyut đã được lựa chọn để che giấu bản chất thật sự của nó. Mặc dù nó đã phóng thành công, trong vòng hai ngày, không người lái Salyut 2 bắt đầu mất áp lực và hệ thống điều khiển chuyến bay của mình thất bại; nguyên nhân của sự thất bại là có thể do mảnh đạn từ Proton tên lửa giai đoạn trên bị loại bỏ và phát nổ mà đâm trạm. Trên 11 Tháng tư năm 1973, bảy ngày sau khi ra mắt, một tai nạn không thể giải thích do cả hai tấm pin mặt trời được xé rời khỏi trạm không gian, cắt đứt tất cả các quyền lực. Salyut 2 lại vào ngày 28 tháng năm 1973. Cosmos 557 (DOS-3). Các mô-đun hệ điều hành DOS-3 đã được đưa ra vào ngày 11 tháng năm 1973 - ba ngày trước khi ra mắt của Skylab - và được dự kiến ​​sẽ trở thành trạm không gian dân sự tiếp theo với một định Salyut. Do sai sót trong hệ thống điều khiển bay khi ra khỏi phạm vi từ kiểm soát mặt đất, trạm quỹ đạo bắn động cơ hiệu chỉnh của nó cho đến khi nó tiêu thụ tất cả các nhiên liệu của nó. Kể từ khi tàu vũ trụ đã ở quỹ đạo và đã được đăng ký bởi radar phương Tây, Liên Xô cải trang ra mắt như "Cosmos 557" - nó đã được tiết lộ để có được một trạm Salyut chỉ sau này. Nó lại vào bầu khí quyển của Trái đất một tuần sau đó, và bị đốt cháy trên tái nhập cảnh. Salyut 3 (OPS-2). Salyut 3 (OPS-2) (tiếng Nga: Салют-3; tiếng Anh: Salute 3) đã được đưa ra vào ngày 25 tháng 6 năm 1974 như Salyut 2, nó cũng là một trạm không gian Almaz quân sự, mặc dù không giống như người tiền nhiệm của nó, nó đã được phóng thành công.. Nó được sử dụng để thử nghiệm một loạt các cảm biến trinh sát, trở về một hộp của bộ phim để phân tích. Trên 24 Tháng một năm 1975, sau khi các trạm đã được lệnh deorbit, thử nghiệm của on-board pháo 23 mm Nudelman máy bay (các nguồn khác [ai?] Nói rằng đó là một Nudelman NR-30 súng 30 mm) được thực hiện với kết quả tích cực tại dao động từ 3.000 m đến 500 m. [6] phi hành gia đã xác nhận rằng một vệ tinh mục tiêu đã bị phá hủy trong các thử nghiệm. [cần dẫn nguồn] Ngày hôm sau, các trạm được lệnh deorbit. Chỉ có một trong ba đội có ý định lên thành công và phi hành đoàn trạm, đưa ra bởi Soyuz 14; Soyuz 15 cố gắng đưa một phi hành đoàn thứ hai nhưng không bến. Tuy nhiên, đó là một thành công chung. Quỹ đạo của trạm bị hư hỏng, và nó lại vào bầu khí quyển trên 24 Tháng một năm 1975. Salyut 4 (DOS-4). Salyut 4 (DOS-4) (tiếng Nga: Салют-4; tiếng Anh: Salute 4) đã được đưa ra vào ngày 26 Tháng Mười Hai năm 1974 Đó là bản chất là một bản sao của hệ điều hành DOS-3, và không giống như anh chị em xấu số của nó, đó là một thành công hoàn toàn.. Hai đội đã ở lại trên tàu Salyut 4 (Soyuz 17 và Soyuz 18), trong đó có một thời hạn 63 ngày, và một Soyuz viên nang không người lái (Soyuz 20) vẫn cập cảng đến trạm trong ba tháng, chứng minh độ bền lâu dài của hệ thống. Salyut 4 được nhận tín hiệu dừng hoạt động ngày 02 Tháng Hai 1977, và tự hủy trong bầu khí quyển của Trái đất vào ngày hôm sau. Salyut 6 và Salyut 7 (DOS-5 và DOS-5). "Salyut-6" và "Salyut-7" được chế tạo bởi tổ hợp công nghiệp vũ trụ KB Korolev là hai trạm không gian mới có nhiều tính năng ưu việt hơn so với thế hệ Salyut 1 đến Salyut 5. Salyut 6 và Salyut 7 có hai mối ghép nối ở hai đầu trạm kèm theo các buồng chuyển đổi trước khi vào khoang tổ hợp. Nó cho phép 2 tàu vũ trụ ghép với trạm (tàu vũ trụ Soyuz (Союз - Liên Hợp), tàu vận tải Tiến bộ (Прогресс - Progress) và tàu vũ trụ thử nghiệm TKS do Almaz chế tạo) ở hai mối nối này. Nó cũng cho phép luân phiên thay thế các tàu vũ trụ sao cho trên trạm luôn luôn có một tàu chở người trong trạng thái thường trực để di tản các nhà du hành vũ trụ một khi trạm Salyut gặp sự cố có nguy cơ bị hủy diệt. Trạm có dung tích lớn gấp rưỡi các trạm trước đó, có khả năng chứa nhiều thiết bị cũng như các kho dự trữ để bổ sung nhiên liệu, các bình ắc quy, khí nén, nước uống, thực phẩm và nhu yếu phẩm khác đảm bảo cuộc sống và công tác dài ngày của các phi hành gia trên vũ trụ. Hệ thống động cơ riêng của trạm dùng ni tơ nén lỏng có thể giúp cho trạm nâng quỹ đạo hoặc xoay chuyển trong không gian khi cần một vị trí thuận lợi. Ngoài ra, trạm cũng có thể nâng quỹ đạo nhờ động cơ của các tàu "Tiến bộ" không người lái. Qua đó giúp kéo dài tuổi thọ của trạm trên không gian. Với hệ thống áo giáp vũ trụ kiểu mới, các phi công vũ trụ trên trạm có thể ra không gian để bảo trì và sửa chữa khi cần thiết. Salyut 6 được phóng ngày 29 tháng 9 năm 1977, kết thúc hoạt động ngày 29 tháng 7 năm 1982. Salyut 7 được phóng ngày 19 tháng 4 năm 1982, kết thúc hoạt động ngày 7 tháng 2 năm 1991. Đây là trạm có tuổi thọ cao nhất trong các thế hệ trạm không gian kiểu Salyut. Hậu thế của chương trình Salyut. Mô-đun Lõi của Mir (DOS-7). Mô đun lõi của Trạm Mir (Мир - Peace - Hòa bình) được phóng lên vào ngày 19 tháng 2 năm 1986, là mô-đun đầu tiên của trạm vũ trụ nhiều mô-đun đầu tiên trên thế giới-Trạm Mir. Vì mọi hoạt động của trạm Mir sẽ được chia ra cho các mô-đun khác sau này của Mir, thay vì tập trung vào 1 mô-đun duy nhất như các trạm Salyut trước, nên Mô-đun Lõi khá rộng rãi, có 2 buồng ngủ cho 2 phi hành gia và nhiều máy tính hơn các trạm Salyut trước. Một điểm khác nữa là Mô-đun Lõi có tới 6 cổng nối: 5 cổng nối ở một nút (node) ở trước mô-đun và 1 cổng nối ở sau mô-đun. Mô-đun Lõi, cùng cả trạm Mir, đã về và cháy trong khí quyển Trái Đất vào ngày 23 tháng 3 năm 2001. Mô-đun Dịch vụ (Service Module) Zvezda (DOS-8). Mô-đun Zvezda (Звезда - Star - Ngôi sao), trước đó dự kiến là mô-đun của trạm Mir-2, sau này trở thành mô-đun thứ 3 của Trạm Vũ trụ Quốc tế (International Space Station - ISS). Mô-đun cung cấp chỗ ngủ cho các phi hành gia, hệ thống hỗ trợ sự sống, điện năng và các động cơ đẩy để điều chỉnh quỹ đạo của trạm. Mô-đun được phóng lên vào ngày 26 tháng 7 năm 2000.
1
null
Slavek & Slavko là 2 linh vật chính thức của Euro 2012, được chính thức giới thiệu ngày 22 tháng 9 năm 2010. Tên của chú được ghép từ "Slavek", chữ viết tắt quốc tế của 2 nước, và "Slavko", có nghĩa là "số 20" trong nhiều thứ tiếng châu Âu. Có 2 màu đỏ-xanh là màu áo của tuyển Ba Lan & Ukraina. Ngày sinh của 2 linh vật này trùng với "ngày Thanh niên" ở Ba Lan & Ukraina. Còn năm 1990 đánh dấu cuộc bầu cử không phân biệt chủng tộc đầu tiên ở 2 đất nước này. Warner Bros là tác giả thiết kế linh vật. Khẩu hiệu chính thức của Slavek & Slavko là: "Lối chơi của Slavek & Slavko là lối chơi Fair Play. - Slavek & Slavko's game is Fair Play." Khẩu hiệu xuất hiện trên những bảng quảng cáo điện tử của UEFA Euro 2012.
1
null
Bệnh viện Tâm thần Hà Nội là bệnh viện công lập, trực thuộc sở Y tế Hà Nội. Bệnh viện dành cho người bệnh Tâm thần ở Sài Đồng, Long Biên, thành phố Hà Nội. Bệnh viện được thành lập theo quyết định số 3627/QĐ-UBND ngày 16 tháng 7 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
1
null
Trix & Flix là 2 linh vật chính thức của UEFA Euro 2008 , được chính thức giới thiệu vào ngày 27 tháng 9 năm 2006. Chúng là một cặp song sinh. Chúng còn là 1 từ ghép của các từ Trix & Flix. Tên Trix & Flix đã được chọn bởi hơn 1,7 triệu người hâm mộ bóng đá, nhiều hơn các tên như "Amijubi" (ghép từ Amizade - Tình bạn và Jubilo - Niềm vui) và "Zuzeco" (ghép từ Azul - Xanh và Ecologia - Sinh thái). Linh vật mang thông điệp các vấn đề về môi trường, sinh thái & thể thao đã trở nên phổ biến đối với các đội bóng đá trên toàn châu Âu. Ngày sinh của 2 linh vật này trùng với "ngày Thanh niên" ở Áo & Thụy Sĩ. Không có năm nào đánh dấu cuộc bầu cử không phân biệt chủng tộc đầu tiên ở quốc gia này. Warner Bros là tác giả thiết kế linh vật. Khẩu hiệu chính thức của Trix & Frix là: "Lối chơi của Trix & Flix là lối chơi Fair Play. - Trix & Flix's game is Fair Play." Khẩu hiệu xuất hiện trên những bảng quảng cáo điện tử của UEFA Euro 2008.
1
null
Phan Điện (1875-1945), thường gọi là Cố Điện hay Đầu xứ Điện, là một danh sĩ và chí sĩ Việt Nam đầu thế kỷ 20. Cuộc đời và sự nghiệp. Ông sinh năm Ất Hợi 1875, quê làng Tùng Ảnh, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), cư ngụ và sinh sống tại tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông thuộc đời thứ 21 họ Phan - Tùng Mai. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng lâu đời tại đất Nghệ Tĩnh, hậu duệ của Tiến sĩ Phan Dư Khánh (đỗ Tiến sĩ 1481) một danh thần triều Lê, đồng tộc với Tiến sĩ Phan Bá Đạt, Thượng thư triều Nguyễn, là những bậc đại khoa đương thời. Các bậc cha của ông đều tham gia phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp. Ông thuộc hàng nhà nho Nghệ Tĩnh vừa duy tân vừa thủ cựu, chống đối chế độ bảo hộ Pháp, căm ghét triều Nguyễn bất lực để mất nước. Sau cuộc khủng bố nghĩa quân Phan Đình Phùng do Nguyễn Thân cầm đầu, Phan Điện ra Bắc (Hà Đông) mưu sinh bằng nghề dạy học cho đến khi qua đời đầu năm Ất Dậu 1945. Ông thường tỏ nỗi bất bình của mình trước bọn xu phụ thực dân, bọn tay sai bán nước nên cuộc đời cũng như thơ văn ông đều tượng trưng cho tinh thần của giới trí thức chống đối cường quyền đang lộng hành trong xã hội. Ông để lại nhiều vần thơ tự sự và trào phúng tỏ rõ khí tiết của mình, nay đã biên soạn thành tập thơ Phan Điện. Hai con trai ông là Phan Anh và Phan Mỹ, đều là những trí thức danh tiếng tại Việt Nam giữa thế kỷ 20, từng giữ chức Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1
null
Phan Mỹ (1914-1981) là một nhà trí thức và chính khách Việt Nam thời hiện đại. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng Phủ Thủ tướng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là chính phủ Việt Nam thống nhất từ năm 1973 đến 1981. Thân thế sự nghiệp. Ông sinh năm 1914, nguyên quán tại xã Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Theo gia phả, ông thuộc đời thứ 22 họ Phan - Tùng Mai. Cha ông là Phan Điện, một danh sĩ có tiếng đầu thế kỷ 20. Anh trai của ông là Phan Anh, sau là luật sư và Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xuất thân trong một gia đình Nho học truyền thống, tuy nhiên cả hai anh em ông đều theo Tây học. Ngay từ khi còn học tại Đại học Luật Hà Nội, ông hoạt động đắc lực trong Tổng hội sinh viên, tham gia các tổ chức hoạt động xã hội, cộng tác viết bài cho báo Thanh Nghị của nhóm Vũ Đình Hòe, Vũ Phan Hiền, Phan Anh… Năm 1939, sau khi tốt nghiệp Cử nhân Luật, ông theo nghề giáo, dạy học ở các trường có tên tuổi ở Hà Nội như trường Gia Long, Thăng Long, Văn Lang và tham gia các phong trào yêu nước có xu hướng ủng hộ Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng 8, ông tham gia chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lần lượt giữ các chức vụ Thư ký Ủy ban Bảo vệ thành phố Hà Nội, Chánh án Tòa án Quân sự Hà Nội, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng (từ 16/11/1946, Phó Văn phòng là Nguyễn Thương). Từ năm 1947, ông lên Việt Bắc cùng chính phủ kháng chiến. Ngày 18/7/1947 ông Phan Mỹ, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, được cử chức Chánh Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, thay ông Nguyễn Văn Lưu. Năm 1960, ông là Thứ trưởng Bộ Thủy lợi và Điện lực và sau đó là Thứ trưởng Bộ Thủy lợi . Năm 1973, ông làm Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng cho đến năm 1981 (ngày 17-4-1973 giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng thay cho Đặng Thí). Ông qua đời năm 1981 tại Hà Nội.
1
null
Giai điệu tự hào là một chương trình truyền hình do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất, với mục đích giới thiệu tới công chúng những "báu vật quốc gia" - những ca khúc gắn liền với những dấu mốc lịch sử đáng nhớ của đất nước. Chương trình phát sóng trên VTV1 vào lúc 20 giờ 10 phút mỗi thứ Bảy cuối tháng. Chương trình được thực hiện trên cơ sở Việt hóa chương trình truyền hình "Tài sản quốc gia" (), chương trình nổi bật, đạt được nhiều thành công trong vòng 7 năm (từ năm 2009 đến năm 2016) của lịch sử truyền hình Nga. Khởi nguồn của chương trình. Ở Nga, "Tài sản quốc gia" không đơn thuần là một chương trình ca nhạc làm mới các ca khúc đã từng được yêu thích trong nhiều thập kỷ trước, điều đặc biệt nhất của chương trình lại nằm ở phần tọa đàm của các vị khách mời bình luận thuộc hai thế hệ đối lập già và trẻ. Sau mỗi tiết mục biểu diễn, họ chia sẻ những quan điểm cá nhân về bài hát, về ký ức văn hóa xã hội. Bởi có những trải nghiệm và quan điểm khác nhau nên những cuộc đối thoại, phản biện lúc tương đồng, khi lại mâu thuẫn đến nảy lửa. Ý tưởng mang chương trình về Việt Nam bắt nguồn từ ban lãnh đạo của Đài Truyền hình Việt Nam. Xem chương trình nguyên gốc, thấy được mức độ ảnh hưởng tích cực và sâu rộng của nó tới toàn bộ xã hội Nga, VTV quyết định mua lại bản quyền và sản xuất chương trình tại Việt Nam. Tháng 9 năm 2013, đại diện lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam đến khảo sát trực tiếp trường quay tại Moskva. Tháng 10 năm 2013, quá trình mua bản quyền hoàn tất, dự án được chính thức khởi động, hợp tác cùng với công ty Motion Media. Diện mạo của Chương trình Tài sản quốc gia ở Nga được hiệu chỉnh dần qua các tập, mùa phát sóng để tiến gần hơn với khán giả. Đây cũng là khó khăn lớn nhất của đội ngũ sản xuất khi bắt tay vào dự án lần này. Tổ chức chương trình. Ở mỗi số phát sóng, toàn bộ khách mời bình luận cùng các khán giả tại hiện trường ghi hình sẽ cùng bình chọn ra tác phẩm mang lại cho họ nhiều cảm xúc, hứng khởi. Kết quả bình chọn sẽ được kết hợp với tỷ lệ bình chọn qua tin nhắn của khán giả truyền hình. Tiết mục biểu diễn có tỷ lệ bình chọn tổng hợp cao nhất để bước vào đêm Gala Giai điệu Tự hào. (70% do khán giả trường quay bình chọn và 30% do khán giả nhắn tin bình chọn) "Giai điệu tự hào" có tổ chức bình chọn nhưng trên hết đó không phải là cuộc thi, cuộc đua thắng thua như những sân chơi ca nhạc khác. Mục đích của chương trình là ngợi ca, tôn vinh tác phẩm trong tổng thể bao gồm ca khúc, nghệ sĩ biểu diễn, dàn dựng sân khấu và bình luận. Ca sĩ xuất hiện trên sân khấu với vai trò là cầu nối, mang ca khúc đến với khán giả hiện đại. Khán giả nhiều thế hệ, dù đồng vọng hay phản biện, đều gặp nhau ở sự "tự hào, xúc cảm và yêu thương". Thành phần tham gia chương trình. Mỗi chương trình được phát sóng đều có sự xuất hiện của hai hội đồng bình luận, một gồm những người thuộc thế hệ lớn tuổi và một gồm những người trẻ tuổi. Các hội đồng bình luận sẽ đóng góp ý kiến, cảm nhận, kỉ niệm của cá nhân sau mỗi ca khúc được biểu diễn. "Giai điệu tự hào" 2. Năm 2016, sau một thời gian tạm nghỉ để đổi mới, "Giai điệu tự hào" quay trở lại với phiên bản thứ hai. "Giai điệu tự hào" phiên bản mới được giao cho Ban Thanh thiếu niên (VTV6) sản xuất. Chương trình sẽ được phát sóng vào mỗi tối thứ 7 cuối cùng của tháng trên VTV1. Hai MC của chương trình phiên bản mới là Diễm Quỳnh và Lại Văn Sâm. Phiên bản mới này có nhiều khác biệt so với phiên bản trước, trong đó hội đồng bình luận không còn phân chia lớn tuổi và trẻ tuổi. Cuối chương trình, một tiết mục xuất sắc nhất sẽ được chọn vào Gala. "Giai điệu tự hào" 3. Tháng 10 năm 2018, "Giai điệu tự hào" trở lại với phiên bản mới do Ban Sản xuất các chương trình giải trí (VTV3) sản xuất. Khác với các phiên bản trước kia được ghi hình và phát sóng sau đó, phiên bản lần này sẽ bao gồm các chương trình được truyền hình trực tiếp (trừ số tháng 5 năm 2019 được ghi hình và phát sóng sau đó 4 ngày do trùng vào quốc tang của Đại tướng Lê Đức Anh). Ban bình luận sẽ được áp dụng như phiên bản đầu tiên, bao gồm những người thế hệ lớn tuổi và những người thế hệ trẻ tuổi. Phiên bản lần này không còn cố định lịch phát sóng như các phiên bản trước, có tháng sẽ phát vào thứ 7 tuần cuối cùng hoặc đầu tháng. Đón nhận. So với những chương trình khác cùng thể loại, "Giai điệu tự hào" được đánh giá là sạch sẽ và chất lượng bởi chương trình tập trung vào nội dung và cảm xúc nhiều hơn là việc dùng nhiều chiêu trò để lôi kéo khán giả. Thông qua âm nhạc, chương trình đã truyền đến khán giả, nhất là giới trẻ tình yêu nước, tự hào về lịch sử của dân tộc bên cạnh việc tôn vinh những nhạc sĩ, nghệ sĩ cùng những tác phẩm âm nhạc đã gắn liền với nhiều thế hệ. Theo nhà phê bình âm nhạc Thụy Kha, nét đặc trưng của chương trình là phần bình luận của các khách mời lớn tuổi và trẻ tuổi. Với những trải nghiệm và quan điểm khác nhau, các cuộc đối thoại, phản biện lúc tương đồng, khi lại mâu thuẫn đến nảy lửa, tạo sức nóng đối với khán giả.
1
null
Entoloma hochstetteri là một loài nấm được tìm thấy tại New Zealand và Ấn Độ. Loài nấm nhỏ này có màu xanh đặc biệt. Màu xanh của quả thể là do ba sắc tố Azulene. "Entoloma hochstetteri" có độc hay không thì không rõ. Loài này là một trong sáu loại nấm bản địa xuất hiện trên một bộ tem nấm phát hành ở New Zealand vào năm 2002. Nó cũng được in trên mặt sau của tờ tiền $50, phát hành bởi Ngân hàng Nhà nước New Zealand vào năm 1990. Phân loại. Loài này ban đầu được miêu tả như "Hygrophorus hochstetteri" vào năm 1866 bởi nhà nấm học Áo Erwin Reichardt, trước khi được đổi thành tên hiện tại bởi vào năm 1962 bởi John Albert Stevenson. Nó được đặt tên theo tên nhà tự nhiên học người Đức Ferdinand von Hochstetter. Phân bố. "Entoloma hochstetteri" mọc trong rừng của phần phía tây của cả Đảo Bắc và Đảo Nam của New Zealand, nơi nó được liên kết với các loài "Nothofagus" và "Podocarpus". Nó cũng đã được tìm thấy trong Ấn Độ.
1
null
Lê Tự Đồng, tên thật là Lê Tự Đắc (1920–2011) là một tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao, quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc về Chính trị Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng), Chính ủy kiêm Bí thư Quân khu ủy Quân khu 4, Tư lệnh – Chính ủy kiêm Bí thư đảng ủy Quân khu Trị Thiên, Chính ủy Mặt trận B5.Đại biểu Quốc hội khóa 6, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Thân thế. Quê ở làng Kim Long, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông là con thứ 3 trong một gia đình có 5 chị em. Cha ông là viên chức sở canh nông, mất sớm. Một mình mẹ ông tần tảo làm ruộng, buôn bán nuôi các con và mất vào năm 1947. Anh ông là ông Lê Tự Nhiên sớm tham gia các hoạt động cách mạng sau này từng giữ các chức vụ Ủy viên thường vụ Thành ủy Sài Gòn–Chợ Lớn, rồi Ủy viên thường vụ khu ủy Trị Thiên rồi hy sinh. Sự nghiệp. Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, ông là Ủy viên Ban khởi nghĩa phụ trách công tác binh vận. Nhờ ông Tôn Quang Phiệt, một trí thức yêu nước có uy tín, ông đã liên hệ được với ông Phan Tử Lăng (sau này là Đại tá) chỉ huy trưởng bảo an Trung Kỳ của chính phủ Trần Trọng Kim. Ông cử người vào các đồn bảo an vận động binh lính. Đồng thời bộ phận binh vận dưới sự lãnh đạo của ông đã đặt cơ sở và cách mạng hóa được nhiều học viên của Trường thanh niên tiền tuyến một trường mà học viên toàn những trí thức, con em của quan lại nhà Nguyễn do chính phủ Trần Trọng Kim mở ra. Khi cách mạng tháng 8 nổ ra sinh viên của trường này đã góp phần không nhỏ cho khởi nghĩa giành chính quyền tại thành phố Huế mà nhiều người trong số đó đã trở thành những tướng lĩnh của Quân đội: Phan Hàm, Phan Hạo, Đoàn Huyên, Võ Quang Hồ, Mai Xuân Tần, Cao Văn Khánh... Cách mạng tháng 8 thành công, ông được bầu vào Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời Thừa Thiên phụ trách quân sự. Ngay sau khi cách mạng thành công, ông nhận nhiệm vụ quan trọng là tổ chức đưa Hoàng thân Suphanuvong từ Huế về Lào trực tiếp chỉ đạo cách mạng Lào. Ngày 15 tháng 10 năm 1945, Khu 4 được thành lập do các ông Lê Thiết Hùng (Thiếu tướng) rồi Nguyễn Sơn (Thiếu tướng) thay nhau làm khu trưởng, ông Trần Văn Quang (Thượng tướng) làm Chính ủy, ông được phân công nhiệm vụ đặc phái viên quân sự ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông tham gia chỉ huy và chiến đấu ở mặt trận Huế trên cương vị Chính ủy Trung đoàn 101 Trần Cao Vân là đơn vị chủ lực của Huế. Tháng 11 năm 1947, mặt trận Huế bị vỡ do tương quan lực lượng giữa QĐNDVN và Pháp quá chênh lệch, ông cùng Trung đoàn rút về chiến khu Hòa Mỹ và là lực lượng chủ chốt xây dựng và củng cố vùng chiến khu sau đó ông ra Thanh Hóa theo học ở Trường Quân chính liên khu. Đầu năm 1948, sau khóa học, ông được phân công về làm Chính ủy Trung đoàn 77 Thanh Hóa do ông Hùng Sơn làm Trung đoàn trường (sau này là Thiếu tướng). Sau đó, ông được cử tham gia Đoàn đại biểu quân sự Liên khu 4 do Chính ủy Trần Văn Quang làm trưởng đoàn, ra Việt Bắc dự hội nghị rèn cán chỉnh quân rồi được cử ở lại học một khóa quân sự tại Thái Nguyên, sau dời lên Tam Đảo do 2 ông Trần Tử Bình và Lê Thiết Hùng phụ trách. Sau đó ông vượt sông Hồng, qua Hà Đông vào Thanh Hóa nhận nhiệm vụ ở Khu 4. Ông được Tư lệnh Quân khu Nguyễn Sơn phân công giữ chức vụ Chính trị viên Phân khu Bình Trị Thiên Liên khu 4, Tỉnh đội Thừa Thiên Huế kiêm Chính ủy Trung đoàn 101. Mùa xuân 1950, thực hiện chủ trương của cấp trên, 2 trung đoàn 95 và 101 vào hoạt động ở vùng sâu Quảng Điền. Để chỉ huy thống nhất 2 đơn vị, Bộ chỉ huy Phân khu Bình Trị Thiên chỉ định ông Lê Bá Vận làm Chỉ huy trưởng, ông làm Chính ủy. Sau đó Trung đoàn 101 được giao nhiệm vụ vừa chủ động tác chiến bảo vệ mùa màng. Cụ thể là "công đồn diện viện" nhằm phá vỡ một mảng trong hệ thống đồn bốt Pháp nhằm đẩy mạnh phong trào kháng chiến, lấn sát vào thành phố Huế. Trung đoàn 101 và 95 cùng các đơn vị khác thống nhất thành Đại đoàn Bình Trị Thiên (đại đoàn 325). Tháng 7 năm 1953, ông được cử giữ chức Phó Chính ủy F325. Sau đó, tháng 1 năm 1955, ông được cử giữ chức Chính ủy Đại đoàn 316. Tập kết ra Bắc, ông được cử sang học ở Học viện Quân chính Lê-nin từ năm 1956 đến năm 1961 cùng các ông Đặng Vũ Hiệp, Vũ Chí Đạo... Sau khi về nước ông là chủ nhiệm khoa của Học viện quân chính, Chính ủy Trường sĩ quan Lục quân ở Sơn Tây (1961–1967) Tháng 9 năm 1968 là Phó Chính ủy Quân khu Hữu Ngạn. Cuối năm 1968 ông vượt sông Bến Hải vào Chiến trường Trị Thiên giữ chức vụ Phó Chính ủy Quân khu 4 kiêm Chính ủy Mặt trận B5. Trong chiến dịch Đường 9 Nam Lào (mặt trận 702), ông cùng đô đốc Giáp Văn Cương được giao phụ trách trực tiếp hướng Nam. Sau chiến dịch Quảng Trị, tháng 12 năm 1972 ông được phân công làm Chính ủy kiêm Bí thư Quân khu ủy Quân khu Trị Thiên. Từ năm 1974 đến 1975, ông được phân công giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Trị Thiên, kiêm Bí thư Khu ủy Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông được cử giữ chức vụ Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên. Rồi cho đến 1976, được điều ra giữ chức vụ Chính ủy Bí thư Quân khu ủy Quân khu 4. Đến năm 1977 thì được điều ra Hà Nội làm Phó Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao Năm 1990, ông về hưu. Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1982).
1
null
Niall James Horan (/ˈnaɪəl ˈhɔːrɪn/) (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1993) là một ca sĩ và nhạc sĩ người Ireland, được biết đến nhiều nhất với vai trò là thành viên của ban nhạc nam One Direction. Năm 2016, Horan ký hợp đồng thu âm với tư cách là nghệ sĩ solo với Capitol Records. Năm 2010, Horan đã tham gia thử giọng với tư cách là nghệ sĩ solo cho loạt thứ bảy của cuộc thi ca hát điện ảnh Anh "The X Factor".. Anh đã thất bại trong việc tiến bộ về thể loại "Boys" tại các "nhà của các giám khảo", nhưng sau khi giám khảo Nicole Scherzinger gợi ý rằng Niall tham gia One Direction, với Harry Styles, Zayn Malik, Liam Payne và Louis Tomlinson, nhóm đã trở thành hiện thực. Nhóm nhạc năm thành viên đã lọt vào vòng chung kết và đứng ở vị trí thứ ba. Mặc dù họ không giành chiến thắng, One Direction đã được Simon Cowell kí hợp đồng với hãng thu âm Syco.. Ban nhạc đã phát hành năm album thành công về mặt thương mại, trình diễn trên bốn chuyến lưu diễn khắp thế giới, và đã giành được "This Town" và "Slow Hands", được đưa vào album sắp ra mắt của anh. Trong sự nghiệp của mình với tư cách là thành viên của One Direction, Horan đã cùng sáng tác nhiều bài hát cho tất cả năm album của họ, bao gồm cả các đĩa đơn "Story of My Life" và "Night Changes". Anh cũng chơi guitar cho "Take Me Home". Tiểu sử. Niall James Horan sinh ngày 13 tháng 9 năm 1993 tại Mullingar, Ireland. Cha mẹ của anh, Bobby Horan và Maura Gallagher, ly dị khi cậu mới năm tuổi, nên cậu và anh trai Greg Horan phải sống trong cả hai ngôi nhà trong một thời gian. Sau đó, họ quyết định di chuyển chắc chắn với cha mình. Cậu đã học trường tiểu học của Trường Trung học Quốc gia St. Kenny, và khi còn nhỏ, Coláiste Mhuire, một cậu bé Công giáo Trường học mà cả hai đều nằm trong hoặc gần Mullingar. Horan bắt đầu chơi guitar khi anh trai của anh ấy có một ngày Giáng sinh nhưng không chơi được, vì vậy Horan bắt đầu chơi với nó và tự học cách làm điều đó bằng cách chơi nó trên YouTube. Dì của anh khám phá ra tài năng của mình vào một ngày nọ khi cô ấy ở trong xe với Niall khi anh ấy bắt đầu hát. Ban đầu cô nghĩ rằng đài phát thanh đã được bật. Là một thiếu niên, anh biểu diễn tại Trung tâm Nghệ thuật Mullingar (trong một quỹ gây quỹ cho đội bóng địa phương, Shamrocks). Anh cũng đã đóng một khe hỗ trợ với cựu thí sinh "X Factor" Lloyd Daniels và câu lạc bộ nổi tiếng ở Dublin. Sự nghiệp âm nhạc. 2010: X Factor. Năm 2010, khi mới mười sáu tuổi, Niall đã tham gia thử giọng cho loạt phim seventh series của "The X Factor" thứ tám tại Dublin. Anh đã hát "So Sick", và nhận được ý kiến ​​hỗn hợp từ các giám khảo. Louis Walsh đã ủng hộ ông, nhưng Cheryl Cole và thẩm phán khách Katy Perry, cảm thấy ông cần một thời gian để phát triển. Simon đã bỏ phiếu cho anh ta thông qua, Cheryl nói không, và Louis nhanh chóng thêm vào của mình, và để lại số phận của Niall lên đến Katy. Cô ấy quyết định bỏ phiếu đồng ý, và Niall đã được đưa qua bootcamp. Tại bootcamp, Niall đã hát "Champagne Supernova", nhưng không đủ điều kiện cho thể loại "Boys". Sau khi có ý kiến ​​từ thẩm phán Nicole Scherzinger, Niall được đưa vào một nhóm với bốn chàng trai khác, người cũng không thành công trong cuộc thi, nhưng vì họ quá giỏi để buông bỏ, các thẩm phán đã đồng ý với Nicole. Niall, cùng với Harry Styles, Liam Payne, Louis Tomlinson và Zayn Malik, đã thành lập One Direction. Các phong cách xuất hiện với tên ban nhạc, điều mà anh nghĩ sẽ nghe tốt khi người phát ngôn Peter Dickson đọc tên của họ trên các chương trình trực tiếp. Sau đó, nhóm họp nhau trong hai tuần để quen biết nhau và luyện tập. Với bài hát đủ tiêu chuẩn của họ tại "nhà của thẩm phán" và bài hát đầu tiên của nhóm, One Direction đã hát một bản acoustic của "Torn". Simon Cowell sau đó nhận xét rằng buổi trình diễn đã thuyết phục ông rằng nhóm "tự tin, vui vẻ, giống như một nhóm bạn, và cũng không kém phần sợ hãi." Trong bốn tuần đầu của chương trình trực tiếp, họ là hành động cuối cùng của Cowell trong cuộc thi. Trong suốt cuộc thi, ban nhạc biểu diễn nhiều ca khúc khác nhau như "My Life Would Suck Without You" và Bonnie Tyler's "Total Eclipse of the Heart" của Bonnie Tyler, nhanh chóng nổi tiếng ở Anh. Tuy nhiên, họ đã đứng ở vị trí thứ ba, đứng sau Á hậu Rebecca Ferguson và người chiến thắng Matt Cardle. 2010-16: Đột phá với One Direction. Theo The X Factor, một hướng đã được ký kết bởi Cowell với hợp đồng 2 triệu bản được báo cáo Syco. Họ bắt đầu thu âm album đầu tay vào tháng 1 năm 2011, họ bay tới Los Angeles để thu âm. Vào tháng 2 năm 2011, ban nhạc nam và những thí sinh khác trong bộ phim đã tham gia The X Factor Live Tour. Trong suốt chuyến lưu diễn, nhóm đã biểu diễn cho 500.000 người trên toàn nước Anh. Sau khi tour diễn kết thúc vào tháng 4 năm 2011, nhóm tiếp tục làm việc với album đầu tay. Việc ghi âm diễn ra ở Stockholm, London và Los Angeles, trong khi One Direction làm việc với các nhà sản xuất Carl Falk, Savan Kotecha, Steve Mac và Rami Yacoub, và những người khác. Năm 2011, họ phát hành album studio đầu tiên, "'Up All Night." Nó ra mắt ở vị trí đầu bảng Billboard 200 của Mỹ, bán được 176.000 bản trong tuần đầu tiên. Điều này dẫn đến One Direction trở thành ban nhạc Anh đầu tiên ra mắt album studio đầu tiên ở vị trí số một. Đĩa đơn đầu tiên của họ, "What Makes You Beautiful", đạt vị trí quán quân ở Ireland, Mexico và Anh. [7] [8] [9] Những single tiếp theo, "Gotta Be You", "One Thing" và "More than This", đã thành công vừa phải, thành công ở một số nước, nhưng không thành công ở những nước khác Để quảng bá cho album, họ bắt tay vào Up All Night Tour và phát hành DVD của tour diễn, . Vào tháng 11 năm 2012, họ phát hành album studio thứ hai của họ, "Take Me Home".. Album này có sự tiếp đón tốt hơn album đầu tiên của họ, đạt vị trí quán quân ở Anh và trở thành album đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng Anh. Nó cũng đạt vị trí đầu tiên ở Úc, Canada, Hoa Kỳ, Ireland và New Zealand "Live While We're Young", một trong những single, đạt vị trí số một ở Ireland và New Zealand, trong khi "Little Things" đạt vị trí số một ở Anh Đĩa đơn thứ ba, "Kiss You", đã xuất hiện trên nhiều bảng xếp hạng, nhưng chưa bao giờ đứng đầu. Ngoài ra, họ bắt tay vào chuyến lưu diễn thứ hai của họ, Take Me Home Tour, bao gồm bốn lục địa. Bộ phim This Is Us của họ, đạo diễn Morgan Spurlock, đã bị bắn trong suốt chuyến lưu diễn. Bộ phim thu về hơn 30 triệu đô la trên toàn thế giới vào ngày đầu tuần đầu tiên trong rạp chiếu phim. Họ cũng hát bài của Blondie tựa là "One Way or Another" và The Undertones' "Teenage Kicks" gọi là "One Way or Another (Teenage Kicks)", để gây quỹ cho Comic Relief. Album phòng thu thứ ba của nhóm, Midnight Memories, đã được phát hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2013. Album thứ tư của họ, Four, đã được phát hành vào ngày 17 tháng 11 năm 2014. Album này là album cuối cùng của One Direction với 5 phần. Album thứ năm của họ, Made in the A.M, đã được phát hành vào ngày 13 tháng 11 năm 2015. Nó đã đứng ở vị trí số một tại một số quận bao gồm cả Vương quốc Anh, đánh bại Mục đích của Justin Bieber. Album này là album cuối cùng của One Direction trước khi bị gián đoạn. Năm 2016-hiện tại: Album solo ra mắt. Tháng 9 năm 2016, Horan đã tuyên bố ký hợp đồng solo với Capitol Records. Vào ngày 29 tháng 9 năm 2016, Horan phát hành single solo đầu tay "This Town". Kể từ khi phát hành, nó đã đạt vị trí số 9 trên bảng xếp hạng Anh, [27] và số 20 trên "Billboard" Hot 100. Vào ngày 4 tháng 5 năm 2017, Horan phát hành đĩa đơn thứ hai "Slow Hands". Trong một cuộc phỏng vấn với Entertainment Weekly, Horan cho biết album mới sắp tới của anh được lấy cảm hứng từ các tác phẩm rock cổ điển, bao gồm Fleetwood Mac và The Eagles, "Bất cứ khi nào tôi cầm cây guitar, tôi sẽ luôn luôn chơi nhạc tự nhiên, và ngón tay chọn rất nhiều Và chơi kiểu folky phong cách đó. " Anh cũng mô tả bộ sưu tập này như một" folk-with-pop cảm thấy nó ". Ảnh hưởng. Trong một cuộc phỏng vấn với Digital Spy, Horan đã trích dẫn Michael Bublé là một trong những ảnh hưởng lớn nhất của anh bởi vì họ có lịch sử cuộc sống tương tự, khi anh được phát hiện bởi dì của ông và điều tương tự đã xảy ra với Bublé, ngoại trừ ông được cha khám phá. Horan cũng tuyên bố rằng anh là một "fan hâm mộ nhạc swing rất lớn", trích dẫn các nghệ sĩ yêu thích của mình như Frank Sinatra, Dean Martin, và Bublé.. Horan thích nhạc rock và là fan của The Eagles, Fleetwood Mac, Bon Jovi, và The Script. Cuộc sống cá nhân. Cha mẹ Horans đã ly dị và mẹ anh đã tái hôn. Anh có một anh trai tên là Greg. Horan là người ủng hộ giải Football League Championship ở Derby County. Niall là một fan hâm mộ lớn của môn golf; Anh có thể được nhìn thấy ở các sự kiện golf rất nhiều và đã tham gia vào giải đấu BMW PGA Championship Pro-Am tại Wentworth. Anh cũng thích xem tennis và cricket đôi khi; Anh đã có hai lần liên tiếp tham gia Australian Open và anh ấy cũng là bạn của Novak Djokovic và là người ủng hộ đội cricket Ireland. Horan rất thích chơi một số môn thể thao khi lớn lên, bao gồm golf, bóng đá và bóng đá Gaelic. Vào mùa hè năm 2010, trong khi chơi bóng đá với bạn bè, Horan bị chấn thương đầu gối và được chẩn đoán bằng đầu gối nổi. Vấn đề này lặp lại nhiều lần trong vài năm tới, bao gồm một sự kiện năm 2013, nơi anh đã vướng vào đầu gối của mình trong một buổi hòa nhạc ở Antwerp, Bỉ. Horan đã đến Mỹ để làm phẫu thuật tái tạo lớn vào tháng 1 năm 2014, sau khi tour diễn kết thúc. Sau cuộc giải phẫu, Horan được huấn luyện viên José Mourinho của Chelsea mời tham gia cuộc thi thể dục thể hình với Chelsea. Horan đã trải qua hơn bảy tuần liệu pháp vật lý với các thành viên trong nhóm và chuyên gia trị liệu vật lý của họ tại sân tập của họ ở Surrey. Horan đã tham gia vào thế giới thể thao nhiều lần trên các phương tiện truyền thông xã hội và vào ngày 8 tháng 4 năm 2015, ông đã thuê cadence cho vận động viên golf chuyên nghiệp Rory McIlroy cho cuộc thi Par 3 trước Cuộc thi Masters Masters vào năm 2015 tại Augusta, Georgia. Một đoạn video của Horan mất thăng bằng trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình với McIlroy đã lan truyền khắp Internet trong vài ngày sau khi giải đấu, khiến chính Horan phải tweet về sự sụp đổ này Augusta, Georgia. Năm 2016, Horan và nghệ sĩ chơi gôn Justin Rose đã tạo ra "Horan và Rose Gala", một sự kiện từ thiện hỗ trợ cho Nghiên cứu Ung thư Trẻ em Anh và Teens. Sự kiện được tổ chức bởi Kirsty Gallagher và Gaby Logan ở London, với bữa tối do Jamie Oliver nấu và buổi biểu diễn của Olly Murs vào ngày 29 và 30 tháng 5. Vào ngày 12 tháng 4, Rose đã đăng một bức ảnh của anh ta và Horan viết bài hát cho sự kiện này. Vào tháng 4 năm 2016, Horan được thông báo sẽ tham gia vào quỹ trợ giúp Soccer Aid 2016 cho UNICEF với tư cách là trợ lý và cầu thủ của đội Rest of the World. Nhóm của ông sẽ bao gồm Claudio Ranieri, Gordon Ramsay, Michael Sheen, Nicky Byrne, và Rickie Haywood Williams, trong số những người khác. Đội của Horan sẽ chơi với đồng đội Louis Tomlinson, người đang chơi cho đội tuyển Anh.
1
null
là một nhóm nhạc Jpop nữ đến từ Hiroshima, Nhật Bản, gồm các thành viên là: Ōmoto Ayano, Kashino Yuka và Nishiwaki Ayaka. Nhóm nhạc này đã ký hợp đồng với công ty giải trí Universal Music Japan từ năm 2012. Nhóm nhạc được thành lập vào khoảng đầu năm 2000 trong vai trò diễn viên tài năng trẻ học viện Hiroshima, và lần ra mắt của họ lần đầu tiên ở trong nước với bản hit "Omajinai Perori", phát hành vào ngày 21 tháng 3 năm 2002. Một năm sau họ đến Tokyo, bắt đầu làm việc với Yasukata Nakata và phát hành đĩa đơn toàn quốc đầu tiên, "Sweet Donuts" vào ngày 6 tháng 8 năm 2003. Vào năm 2005 họ có một hợp đồng hợp tác với trung tâm giải trí Tokuma Japan, và phát hành đĩa ra mắt chính thức của họ là "Linear Motor Girl" vào ngày 21 tháng 9. Tuy nhiên, cho đến năm 2008, khi ra mắt đĩa đơn thứ 7 của nhóm "Polyrhythm", được chọn làm bài hát chủ đề của chiến dịch tái chế bởi NHK, họ bắt đầu nhận được sự chú ý chính thức ở Nhật Bản. Đĩa đơn đạt vị trí số bảy trên bảng xếp hạng Oricon, trở thành Top 10 đĩa đơn đầu tiên của họ tại Nhật Bản, và từ đó thứ tám đĩa đơn "Baby Cruising Love" và tất cả các đĩa đơn tiếp theo của họ đã ra mắt trong Top 3 của bảng xếp hạng. Album phòng thu đầu tiên bản gốc của họ, Game, đã trở thành album đầu tiên mang vị trí #1 của họ tại Nhật Bản, và "Love The World", phát hành vào ngày 9 tháng 7 năm 2009, đĩa đơn đầu tiên của họ mang vị trí #1. Với doanh thu của đĩa đơn và album, nhóm đã bán được hơn 3 triệu bản, với 1,5 triệu album được bán riêng tại Nhật Bản như ở tháng 3, năm 2012.
1
null
Dấu chấm (.) là một dấu câu được sử dụng rộng rãi trên thế giới và là 1 trong 10 dấu câu của tiếng Việt. Dấu chấm dùng ở cuối câu tường thuật. Điều đó có nghĩa là câu đã kết thúc. Trong tiếng Việt, khi đọc, phải ngắt đoạn ở dấu chấm, là chỗ có quãng ngắt tương đối dài hơn, so với dấu phẩy, dấu chấm phẩy. Dấu chấm cũng là yếu tố tạo thành dấu khác, thường tên của dấu làm từ dấu chấm có chữ chấm trong đó như: dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than hay dấu chấm than (!), dấu chấm phẩy (;), dấu hai chấm (:)... Khi ba dấu chấm đứng kế nhau, chúng được gọi là dấu ba chấm. Khi dùng với số, dấu chấm thường dùng để phân tách phần nguyên và phần thập phân của số, ví dụ "1.234". Tại Việt Nam, người ta thường dùng dấu phẩy cho chức năng này. Dấu chấm có thể dùng để đánh dấu sự viết tắt: "Pty. Ltd." Các đại từ xưng hô trong tiếng Anh rất thường được viết tắt với dấu chấm: Mr.; Dr.; Mrs.;... Ngoài ra dấu chấm trên các nền tảng mạng xã hội Việt Nam có thể được hiểu như đánh giá hoặc nhận xét về chất lượng.
1
null
Ross Barkley (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1993) là cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Luton Town. Barkley bắt đầu sự nghiệp của mình tại Everton và được ra sân tại Premier League lần đầu tiên vào năm 2011. Anh cũng từng có khoảng thời gian thi đấu cho Sheffield Wednesday và Leeds United theo thỏa thuận cho mượn từ Everton. Tháng 1 năm 2018, anh chuyển đến Chelsea. Rời Chelsea vào mùa hè năm 2022, anh đến Pháp thi đấu một mùa giải cho Nice trước khi trở về Anh khoác áo Luton Town. Barkley lần đầu tiên được triệu tập vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh vào tháng 8 năm 2013 và có giải đấu lớn đầu tiên tham gia là World Cup 2014. Đến Euro 2016 anh tiếp tục được triệu tập nhưng không có cơ hội được ra sân. Sự nghiệp câu lạc bộ. Everton. Ross Barkley gia nhập Everton vào năm 11 tuổi. Anh được đưa vào đội bình dự bị của đội một Everton trong các trận đấu đầu tiên của mùa giải 2010-11 và được kỳ vọng sẽ sớm có trận ra mắt tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh trước khi bị gãy chân sau một pha va chạm trong trận đấu của đội tuyển U-19 Anh vào tháng 10 năm 2010. Anh trở lại sau chấn thương và có mặt trong đội một của Everton tham dự các trận giao hữu trước mùa giải 2011–12. Anh có trận đấu chính thức đầu tiên cho Everton và tại Premier League trong trận thua 1-0 trước Queens Park Rangers ngày 20 tháng 8 năm 2011. Màn trình diễn xuất sắc của Barkley trong trận này khiến cho cựu hậu vệ Martin Keown khen ngợi anh "[Barkley sẽ là] một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của đất nước này." Barkley ký hợp đồng mới có thời hạn bốn năm rưỡi với Everton vào tháng 12 năm 2011. Ngày 14 tháng 9 năm 2012, Barkley đến Sheffield Wednesday theo hợp đồng cho mượn có thời hạn một tháng và ngay lập tức được ra sân trong trận đấu với Brighton & Hove Albion. Một tuần sau đó trong trận đấu với Bolton Wanderers, anh có bàn thắng đầu tiên cho Wednesday. Sau mười ba trận đấu cho Wednesday, anh được Everton triệu hồi. Tháng 1 năm 2013, anh lại được đem cho Leeds United mượn và có trận đầu tiên cho Leeds gặp Barnsley. 2013-14. Barkley trở lại đội một Everton từ đầu mùa giải 2013-14. Anh trở thành cầu thủ đầu tiên của Everton ghi bàn tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2013-14 và đây cũng là bàn thắng đầu tiên của anh cho câu lạc bộ trong trận hòa 2-2 trước Norwich City. Ngày 30 tháng 9, anh có bàn thắng thứ hai với pha lập công trong chiến thắng 3-2 trước Newcastle United. Ngày 22 tháng 12, anh ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 2-1 trước Swansea City. Barkley có bàn thắng đầu tiên cho Everton tại đấu trường Cúp FA vào ngày 4 tháng 1 năm 2014 trong chiến thắng 4–0 trước Queens Park Rangers. Trong chiến thắng 3-0 của Everton trước Newcastle ngày 26 tháng 3, Barkley đã có bàn thắng tuyệt đẹp khi từ vị trí giữa sân đã đi bóng qua hàng loạt hậu vệ Newcastle trước khi dứt điểm chân trái hạ gục thủ thành Tim Krul. Ngày 18 tháng 4 năm 2014, anh có tên trong danh sách rút gọn sáu cầu thủ cho danh hiệu Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (PFA). Ngày 3 tháng 5 năm 2014, Barkley có bàn thắng thứ sáu trong mùa giải vào lưới Manchester City, được BBC Sport miêu tả là "ngoạn mục" và bàn thắng này đã được chọn là bàn thắng đẹp nhất trong mùa giải 2013-14 của câu lạc bộ Everton. 2014-15. Ngày 29 tháng 7 năm 2014, Barkley ký hợp đồng mới Everton, theo đó anh sẽ gắn bó với câu lạc bộ đến năm 2018. Ngay đầu mùa giải, Barkley bị chấn thương dây chằng đầu gối và phải nghỉ thi đấu 8 tháng. Đến ngày 18 tháng 10 năm 2014, trong trận đấu đầu tiên trở lại sau chấn thương gặp Aston Villa, anh đã chuyền cho tiền đạo Romelu Lukaku ghi bàn nâng tỉ số lên 2-0 trong chiến thắng 3-0 chung cuộc. Ngày 15 tháng 12, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trong chiến thắng 3-1 trước Queens Park Rangers. Ba tháng sau đó, anh có bàn thắng thứ hai, lần này là trong chiến thắng 3-0 trước Newcastle United. Barkley là người ghi bàn thắng đầu tiên cho Everton trong mùa giải 2016–17 trong trận hòa 1-1 với Tottenham Hotspur. Vào ngày cuối kỳ chuyển nhượng mùa hè 2017, anh đã tiến rất gần đến việc trở thành cầu thủ của Chelsea nhưng thương vụ bị đổ vỡ vào phút chót do chấn thương của Barkley và bản thân anh mong muốn có thêm cơ hội để cân nhắc quyết định chính thức. Cũng do chấn thương gân kheo, Barkley không thi đấu trong nửa đầu mùa giải 2017-18. Chelsea. Ngày 5 tháng 1 năm 2018, Barkley chính thức đến Chelsea với phí chuyển nhượng 15 triệu £ và bản hợp đồng có thời hạn 5 năm rưỡi. Anh khoác áo số 8 mà huyền thoại Frank Lampard của Chelsea để lại. 2018-19. Barkley có trận đấu đầu tiên cho Chelsea trong trận thua 2–1 trước Arsenal tại trận lượt về bán kết Cúp EFL ngày 24 tháng 1 khi anh vào sân thay cho Willian bị chấn thương phải rời sân ngay trong hiệp 1. Ngày 1 tháng 2, Barkley lần đầu được đá chính trong màu áo Chelsea trong trận đấu tại Premier League với AFC Bournemouth nhưng Chelsea đã bất ngờ để thua đậm 3-0. Anh có được danh hiệu đầu tiên cùng Chelsea khi kết thúc mùa giải 2017-18 là chức vô địch Cúp FA. Ngày 7 tháng 10 năm 2018, Barkley có được bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong trận thắng 3-0 trước Southampton bằng một pha đệm bóng cận thành. Anh còn có một đường chuyền thành bàn trong trận này. Ngày 20 tháng 10, sau khi vào sân thay cho Mateo Kovačić, Barkley giúp Chelsea cầm hòa Manchester United 2-2 với bàn thắng ở phút bù giờ cuối cùng 90+6. Anh tiếp tục duy trì phong độ cao với một đường chuyền thành bàn và một bàn thắng trong trận thắng 4-0 trước Burnley ngày 28 tháng 10 và đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp Barkley ghi bàn trong ba trận đấu liên tiếp tại Premier League. Ngày 15 tháng 2 năm 2019, Barkley có bàn thắng đầu tiên cho Chelsea tại đầu trường Châu Âu trong trận thắng Malmö 2-1 tại lượt đi vòng 32 đội UEFA Europa League 2018-19. Anh tiếp tục lập công ở trận lượt về để giúp Chelsea thắng 5-1 chung cuộc. Barkley ra sân ngay từ đầu trận Chung kết Cúp EFL 2019 với Manchester City, trận đấu mà Chelsea để thua 3-4 ở loạt sút luân lưu. Ngày 8 tháng 4, Barkley vào sân từ ghế dự bị đã có đường chuyền để Eden Hazard ấn định chiến thắng 2-0 trước West Ham United tại Premier League. Anh có được danh hiệu vô địch Châu Âu đầu tiên cùng với Chelsea sau khi vào sân ở những phút cuối trận Chung kết UEFA Europa League 2019 đánh bại Arsenal 4-1. 2019-20. Ngày 17 tháng 9 năm 2019, Barkley đá hỏng quả phạt đền ở những phút cuối trận đầu đầu tiên của tân huấn luyện viên Frank Lampard tại đấu trường UEFA Champions League gặp Valencia, khiến Chelsea phải chịu thất bại 1-0. Anh có pha lập công đầu tiên trong mùa giải ở trận thắng 7-1 trước Grimsby Town tại vòng 3 Cúp EFL 2019-20. Cuối tháng 11, anh bị huấn luyện viên Frank Lampard chỉ trích vì sự thiếu chuyên nghiệp khi có hành động cởi trần nhảy trong một quán bar ở Dubai trong bối cảnh đang bị chấn thương mắt cá không đủ thể lực tham gia trận đấu lượt 5 vòng bảng Champions League với Valencia. Ngày 5 tháng 1 năm 2020, Barkley là người ấn định chiến thắng 2-0 cho Chelsea trong trận đấu vòng 3 Cúp FA 2019–20 với Nottingham Forest. Đến trận đấu vòng 5 Cúp FA với Liverpool, anh có pha dốc bóng từ sát vạch giữa sân trước khi sút chéo góc đem về chiến thắng 2-0 cho Chelsea. Ngày 28 tháng 6, Chelsea lọt vào bán kết cup FA nhờ bàn thắng duy nhất của Barkley trong cuộc đối đầu với Leicester City. Ngày 4 tháng 7, anh ghi một bàn và kiến tạo một bàn để giúp Chelsea hạ Watford 3-0 ở vòng 33 Ngoại hạng Anh, qua đó trở lại top 4. Ngày 23 tháng 9 năm 2020, Barkley có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải mới tại trận thắng đậm Barnsley 6–0 vòng 3 Cúp EFL. Aston Villa (mượn). Ngày 30 tháng 9 năm 2020, Barkley được Chelsea đem cho Aston Villa mượn theo hợp đồng có thời hạn đến hết mùa bóng 2020-21. Ngày 4 tháng 10, ngay trong trận đấu đầu tiên cho Aston Villa, Barkley đã có một pha lập công trong chiến thắng khó tin 7-2 trước đương kim vô địch Giải Ngoại hạng Anh Liverpool. Hai tuần sau đó, anh ghi bàn thắng duy nhất trong cuộc đối đầu với Leicester City để đem về chiến thắng thứ tư liên tiếp cho Aston Villa tại Premier League và đội bóng của anh vươn lên vị trí nhì bảng. Ngày 8 tháng 11, trong chiến thắng 3-0 trước Arsenal, Barkley góp một kiến tạo cho Ollie Watkins và có 6 đường chuyển quyết định, được đánh giá là cầu thủ hay nhất trận. Vào cuối tháng 11, anh dính chấn thương gân khoeo chỉ sau 5 phút đầu tiên trận gặp Brighton và phải nghỉ thi đấu 7 trận tại Premier League, trước khi trở lại trong cuộc đối đầu Manchester City ngày 20 tháng 1 năm 2021. Ngày 30 tháng 1, Barkley có pha đánh đầu ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Southampton. Đây là bàn thắng bằng đầu đầu tiên của anh tại Premier League kể từ tháng 12 năm 2016. Trở lại Chelsea (2021-22). Barkley trở lại Chelsea trong mùa giải 2021-22. Ngày 14 tháng 5 năm 2022, anh được vào sân ở những phút cuối hiệp phụ thứ hai trận Chung kết Cúp FA 2022 với Liverpool và thực hiện thành công lượt sút luân lưu của mình nhưng chung cuộc Chelsea thất bại 6-5 sau 7 lượt sút. Ngày 22 tháng 5, trong trận đấu cuối cùng của Barkley cho Chelsea cũng là trận đấu cuối cùng của Chelsea dưới thời Roman Abramovich, anh là người ấn định chiến thắng 2-1 cho Chelsea. Barkley và Chelsea thống nhất chấm dứt hợp đồng ngày 29 tháng 8 năm 2022 sau khi Barkley ra sân 100 lần và ghi được 12 bàn thắng cho Chelsea. Nice. Ngày 4 tháng 9 năm 2022, Barkley gia nhập đội bóng thi đấu tại Ligue 1 là Nice theo dạng chuyển nhượng tự do. Ngày 10 tháng 6 năm 2023, Barkley chính thức sẽ rời Nice khi hết hạn hợp đồng vào cuối tháng 6 năm 2023, sau khi có 28 trận và ghi được 4 bàn tại đội bóng nước Pháp. Luton Town. Ngày 9 tháng 8 năm 2023, Barkley đồng ý chuyển tới khoác áo đội bóng mới thăng hạng Ngoại hạng Anh là Luton Town. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. Các đội trẻ. Năm 2008, khi mới 14 tuổi, Barkley đã được triệu tập vào đội tuyển U-16 Anh. Anh là thành viên của U-16 Anh tham dự Giải đấu Montaigu 2009, một giải đấu của các đội tuyển U-16 quốc gia và sau cùng đã đánh bại U-16 Đức trong trận chung kết để giành chức vô địch. Một năm sau đó, anh cùng đội tuyển U-17 Anh giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu khi đánh bại U-17 Tây Ban Nha 2-1 trong trận chung kết. Tháng 9 năm 2011, Barkley có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển U-21 Anh. Ngày 28 tháng 5 năm 2013, anh được huấn luyện viên Peter Taylor triệu tập vào đội hình tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2013. Anh ghi được một bàn thắng cho đội tuyển U-21 Anh trong chiến thắng 6-0 trước U-21 Scotland ngày 13 tháng 8 năm 2013. Đội tuyển quốc gia Anh. Barkley lần đầu tiên được triệu tập vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh vào tháng 8 năm 2013 và chính thức có trận đấu đầu tiên vào ngày 6 tháng 9 năm 2013 trong trận đấu tại khuôn khổ vòng loại World Cup 2014 với Moldova khi vào sân thay cho Jack Wilshere. Ngày 12 tháng 5 năm 2014, Barkley được huấn luyện viên Roy Hodgson đưa vào danh sách 23 cầu thủ Anh tham dự World Cup 2014 tại Brasil. Anh có trận đấu đầu tiên tại đấu trường World Cup khi vào sân thay cho Danny Welbeck trong trận thua 1-2 trước Ý ngày 14 tháng 6 năm 2014. Barkley có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Anh trong trận thắng 6–0 trước San Marino tại vòng loại Euro 2016 ngày 5 tháng 9 năm 2015. Ngày 25 tháng 3 năm 2019, anh lập một cú đúp và có một đường chuyền thành bàn giúp Anh thắng ngược 5-1 trên sân của Montenegro tại vòng loại Euro 2020. Đến ngày 14 tháng 10 năm 2019, anh có thêm một cú đúp nữa trong màu áo "Tam Sư", lần này là trong chiến thắng đậm Bulgaria 6-0 cũng tại vòng loại Euro 2020.
1
null
Nguyễn Văn Tre (1934-1971), thường đọc trại thành Che là một liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Thân thế và cuộc đời. Ông sinh năm 1934, trong gia đình nông dân nghèo ở làng Thanh Mỹ, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, từ năm 1956 gọi là xã Thanh Mỹ thuộc huyện Mỹ An, tỉnh Kiến Phong, đến năm 1974 lại thuộc về tỉnh Sa Đéc (nay là xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Thời trẻ, ông sớm hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tham gia lực lượng du kích tại địa phương chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông được biết nhiều với các bẫy phục kích đối phương bằng cách loại chông, lôi, trái gài tự tạo, chủ yếu ở vùng ấp Hưng Lợi quê ông. Tính chung từ năm 1965 - 1971, với các bẫy bằng trái gài, ông cùng các đồng đội đã thực hiện 250 lần phục kích, làm tử thương 150 binh sĩ đối phương (trong đó có 10 quân nhân Mỹ), làm bị thương hơn 200 người (có 20 quân nhân Mỹ). Dưới đây là vài trận tiêu biểu: - Mùa khô năm 1967, 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 VNCH hành quân vào xã, ông cùng đồng đội gài 1 trái pháo 105 ly và 20 lựu đạn tại gò cao, làm chết và bị thương 30 binh sĩ VNCH. - Mùa mưa năm 1969, 1 trung đoàn của sư đoàn 7 VNCH, chia nhiều mũi đánh vào vị trí tình nghi là điểm hội nghị Binh vận của tỉnh ở vườn bà Năm Phì (kênh Nguyễn Văn Tiếp B). Được giao nhiệm vụ bảo vệ hội nghị, ông cùng các du kích bám theo các mũi hành quân, gài lựu đạn ngăn chặn không cho đối phương vào. Đến tối, ông gỡ lựu đạn, đưa 60 đại biểu ra khỏi vòng vây an toàn, rồi trở lại gài lựu đạn. Đến sáng, phía VNCH tiếp tục hành quân vào, nhưng lọt vào bãi gài, bị tử thương 60 binh sĩ. Năm 1969, ông được bầu chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, được tặng 2 danh hiệu Dũng sĩ cấp ưu tú, nhiều Bằng khen, Giấy khen. Tháng 2 năm 1971, ông hy sinh, đang là Phó Bí thư Xã ủy, Chính trị viên Xã đội Thanh Mỹ. Vinh danh. Ngày 30 tháng 10 năm 1978, liệt sĩ Nguyễn Văn Tre được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ấp Hưng Lợi và xã Thanh Mỹ quê ông cũng được tặng danh hiệu Anh hùng. Tên ông được đặt tên trường tại quê và tên đường, tên cầu ở thành phố Cao Lãnh.
1
null
Malcolm Irving Glazer (15 tháng 8 năm 1928 – 28 tháng 5 năm 2014) là một doanh nhân người Mỹ và chủ sở hữu các đội thể thao. Ông là chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của First Allied Corporation, một công ty mẹ phục vụ cho lợi ích kinh doanh đa dạng của mình ông, và sở hữu cả Manchester United F.C. của Premier League và đội bóng bầu dục Mỹ Tampa Bay Buccaneers. Ngày 28 tháng 5 năm 2014 ông được gia đình thông báo đã qua đời ở tuổi 85 sau khi gặp nhiều vấn đề về sức khỏe từ sau lần đột quỵ vào tháng 4 năm 2006. Tiểu sử. Glazer đã được sinh ra tại Rochester, New York, con thứ năm trong gia đình bảy người con của người Mỹ gốc Do Thái nhập cư, Abraham và Hannah Glazer. Năm 1943, ông được thừa kế cửa hàng bán đồ trang sức của cha mình và xem sửa chữa kinh doanh.. Ông một thời gian ngắn tham dự Sampson College Rochester trước khi dấn thân toàn thời gian để đồ trang sức và xem sửa chữa. Cuộc sống cá nhân. Malcolm Glazer đã kết hôn với Linda Glazer từ năm 1961 cho đến khi ông qua đời vào năm 2014. Họ sống ở Palm Beach, Florida, và đã có năm người con trai và một người con gái: Nhà Glazer đã tham dự hội đường Palm Beach ở Palm Beach, Florida.
1
null
Counter-Strike Online 2 (viết tắt là CSO2) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất sắp tới và là phần tiếp theo của game năm 2008 "Counter-Strike Online", đồng thời còn là mục tiêu hướng tới thị trường game của châu Á. Game sử dụng Source engine cho phép đồ họa tốt hơn so với người tiền nhiệm của nó và các trang bị và vũ khí phức tạp hơn. Game cũng sẽ sử dụng phương thức kinh doanh free-to-play và vi thanh toán. "Counter-Strike Online 2" đã kết thúc quá trình Open Beta Test (OBT) kể từ tháng 12 năm 2013 và sẵn sàng cho khởi động thương mại hiện nay. Năm 2018, Các máy chủ của CSO2 đều đồng loạt đóng cửa. Thay vào đó, người chơi sẽ chỉ chơi các bản mod offline với máy (BOT). Muốn chơi online với nhau thì phải tạo các mạng LAN ảo. Vào ngày 26 tháng 8 năm 2022, GPlay đã phát hành CSO2 ở thị trường Việt Nam với phiên bản "Alpha test" mặc dù còn khá nhiều bug, ngôn ngữ, tính năng game còn chưa được cập nhật hết... Dự kiến game sẽ ra mắt chính thức vào tháng 9 tới. Nhưng rất tiếc là chỉ đến những tháng đầu năm 2023, NPH GPlay đã ngưng phát hành trò chơi này.
1
null
Counter-Strike Online (CSO hay CSOL) là một game "Counter-Strike" với mục tiêu hướng tới thị trường game châu Á được phát hành vào năm 2008. Game dựa trên "Counter-Strike" và được phát triển bởi Nexon Co. Ltd. với sự giám sát từ người giữ giấy phép Valve Corporation. Game sử dụng một mô hình vi thanh toán được quản lý bởi một phiên bản tùy chỉnh trong quá trình back-end của Steam. Phần tiếp theo. Ngày 5 tháng 4 năm 2012, Nexon và Valve tuyên bố hợp tác để phát triển "Counter-Strike Online 2", dựa trên một engine Source nâng cao và sẽ cung cấp đồ họa nâng cao, vật lý tác động mạnh mẽ cùng nhiều tính năng mới khác. Đã có xác nhận rằng "Counter-Strike Online 2" sử dụng cùng phiên bản Source như "". Tuy nhiên, nó không phải là một bản sao của "CS:GO" vì tất cả các tính năng trong trò chơi như mô hình, bản đồ và âm thanh đều được Nexon của Hàn Quốc xây dựng lại hoàn toàn. Phát hành tại Việt Nam. Đầu tháng 10 năm 2014, có nguồn tin cho hay FPT Online đưa "Counter-Strike Online" về phát hành tại thị trường Việt Nam. Dự kiến game sẽ đi vào hoạt động cuối năm 2014 hoặc đầu năm 2015. Sau đó, đại diện phía FPT Online từ chối trả lời cụ thể về vấn đề này, tuy nhiên hãng không phủ nhận tin đồn. Dư luận cũng lo ngại việc xuất hiện nhiều phần mềm gian lận tác động đến "Counter-Strike Online" sẽ khiến trò chơi gặp nhiều khó khăn khi về Việt Nam. Tháng 12 năm 2014,Go Play chính thức tuyên bố là nhà phát hành "Counter-Strike Online" tại Việt Nam.Ngày 13 tháng 3 năm 2015 chính thức ra mắt trang chủ game và ngày 26 tháng 3 năm 2015 chính thức ra mắt game Ngày 15 tháng 8 năm 2016,Go Play chính thức tuyên bố đóng cửa CSO vì số lượng người chơi ít
1
null
Nicholas Rodney "Nick" Drake (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1948 – mất ngày 25 tháng 11 năm 1974) là ca sĩ, nhạc sĩ người Anh, nổi tiếng với các sáng tác cho nhạc cụ mộc. Lúc sinh thời anh hoàn toàn thất bại trong việc có được người nghe, song sự nghiệp của anh sau này được đánh giá cao với rất nhiều ngưỡng mộ. Drake ký hợp đồng với hãng Island Records khi mới 20 tuổi và là sinh viên tại Đại học Cambridge để ra mắt album đầu tay "Five Leaves Left" vào năm 1969. Năm 1972, anh thực hiện 2 album tiếp theo, "Bryter Layter" và "Pink Moon" – vốn chỉ bán được tổng cộng hơn 5.000 bản trong lần đầu phát hành. Việc né tránh trình diễn trực tiếp cũng như thực hiện phỏng vấn cũng là lý do khiến Drake không thể có được thành công thương mại. Cũng không có bất cứ cảnh quay nào về anh khi trưởng thành, và chủ yếu ảnh chụp về anh là trong không gian tĩnh mịch hoặc từ thời thơ ấu. Drake sớm mắc chứng suy nhược, đặc biệt khi còn nhỏ. Điều này cũng thường được anh nhắc tới trong các ca khúc của mình. Trong quá trình hoàn thiện album " Pink Moon", Drake đều xa lánh các buổi trình diễn cũng như phòng thu để sống tại căn nhà của bố mẹ ở vùng đồng quê Warwickshire. Ngày 25 tháng 11 năm 1974, anh qua đời vì sốc thuốc khi sử dụng amitriptyline – một chất chống suy nhược – khi mới 26 tuổi. Nguyên nhân cái chết của anh là do tai nạn hay tự sát chưa bao giờ được sáng tỏ. Các sản phẩm của Drake vẫn tồn tại suốt thập niên 1970, song phải tới album "Fruit Tree" phát hành vào năm 1979, thành tựu của anh mới bắt đầu được nhìn nhận. Tới giữa thập niên 1980, phong cách của anh được công khai rộng rãi là niềm cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ như Robert Smith, David Sylvian và Peter Buck. Năm 1985, nhóm The Dream Academy đạt vị trí quán quân tại Anh với ca khúc "Life in a Northern Town" được viết để tưởng nhớ tới Drake. Đầu thập niên 1990, anh vẫn là hình mẫu của người nghệ sĩ "định mệnh lãng mạn" đối với báo chí và nền âm nhạc Anh và được coi là nghệ sĩ ảnh hưởng lớn tới những Kate Bush, Paul Weller, Beck và The Black Crowes sau này. Cuốn tiểu sử về anh được ra mắt vào năm 1997, theo sau đó là bộ phim tài liệu "A Stranger Among Us" (1998).
1
null
Trứng cá là trứng của các loài cá, thông thường nó là tập hợp một buồng trứng gồm rất nhiều trứng, trứng cá có thể được sinh sản và phát triển trong cơ thể cá hoặc có thể phát triển ở môi trường bên ngoài của các loài cá và động vật biển nhất định, chẳng hạn như tôm, sò điệp và nhím biển. Tổng quan. Như là một kiểu hải sản, hầu hết các loại cá ăn được có trứng, trứng của chúng đều có thể ăn được. Vị của chúng có thể từ béo bùi đến hơi đắng nhưng đa phần, để ăn được cần chế biến chín. Các loại trứng này thường được bọc trong phần bao dai, hình bầu dục, có tác dụng bảo vệ. Trứng cá được sử dụng như một thành phần trong nhiều món ăn nấu chín, nhiều loại trứng cá được dùng ăn sống, nhiều nhất là trong các món sushi. Không phải trứng của bất cứ loài cá nào cũng ngon và ăn được. Nhiều người thích trứng cá thích vì thành phần chất dinh dưỡng của loại thực phẩm này. Trứng của các động vật biển, chẳng hạn như trứng của cá tuyết, cá tầm và cá hồi là một nguồn tuyệt vời chứa nhiều axit béo omega-3. Trứng cá tầm là nguyên liệu cho món trứng cá muối thượng hạng. Một số loại. Trong đó, đắt đỏ và hiếm hoi nhất phải kể đến trứng cá hồi và trứng cá tầm. Trứng cá hồi có màu đỏ trong, bóng bẩy, ăn giòn sựt, nếu trứng tươi sẽ không có vị tanh. Người ta sẽ dùng kèm trứng với salad, ăn cùng bánh mì hoặc có thể được dùng kèm với trà hay cà phê cho một buổi điểm tâm. Trứng cá tầm đặc biệt là cá tầm Nga gồm cá tầm trắng (beluga), cá tầm đen (osetra) và cá tầm sevruga. Trứng của cá tầm trắng là có giá trị nhất vì nó to hơn trứng của các loại cá tầm còn lại và có màu từ xám đen tới xám nhạt. Trung bình một con cá tầm trắng phải có trên 20 năm tuổi mới bắt đầu có trứng, rất hiếm để thưởng thức được trứng cá tầm tươi. Trứng cá tầm đã nằm trong top 10 món ăn xa xỉ nhất hành tinh. Trước đây số lượng cá tầm tự nhiên khá lớn nên việc khai thác còn dễ dàng và sản lượng trứng hàng năm có thể đạt tới 3.000 tấn, nhưng cá tầm tự nhiên ngày càng khan hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng nên việc khác thác ngày càng giảm, chỉ dựa chủ yếu vào sản lượng nuôi. Sản lượng trứng cá tầm trên thế giới giảm mạnh, chỉ đạt 100 tấn/năm, trong khi nhu cầu lên tới khoảng 3.000 tấn/năm. Chế biến. Có rất nhiều loại trứng cá khác nhau được sử dụng trong các kiểu nấu ăn tùy theo những món này được nấu theo kiểu châu Âu như Bottarga Ý hay Hy Lạp hoặc theo kiểu Nhật Bản như Tarako Spaghetti. Một số loại trứng cá được dùng trong món sushi và các món ăn Nhật Bản. Đa số chúng được dùng tươi nhưng cũng có một số được nấu.
1
null
Oedipodium griffithianum là loài rêu duy nhất trong họ Oedipodiaceae và lớp của nó. Loài này được (Dicks.) Schwägr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1823. Oedipodium griffithianum phân bố ở các vùng khí hậu lạnh hơn của lục địa Á-Âu, cũng như Alaska, Washington, British Columbia, Yukon, Greenland, Newfoundland, Tierra del Fuego và "quần đảo Falkland". Liên kết ngoài.
1
null
Ngày 8 tháng 6 năm 2014, ít nhất 10 tay súng trang bị vũ khí tự động, máy phóng tên lửa, thuốc nổ và lựu đạn đã tấn công Sân bay quốc tế Jinnah ở Karachi, Sindh, Pakistan; 36 người thiệt mạng, trong đó có 10 kẻ khủng bố, và ít nhất 18 người khác bị thương. Diễn biến vụ việc. Vụ tấn công bắt đầu lúc 11 giờ 20 phút đêm ngày 8 tháng 6 và kéo dài tới khoảng 4 giờ rạng sáng ngày 9 tháng 6. Mười kẻ tấn công đột nhập qua một cửa kiểm soát an ninh bằng xe tải và tấn công nhà ga hàng hoá với vũ khí tự động, lựu đạn cầm tay, lựu đạn tên lửa đẩy và một số loại chất nổ khác. Các kẻ tấn công mặc trang phục các nhân viên an ninh, một số kẻ mặc áo có cài sẵn thuốc nổ. Chúng mặc đồng phục của lực lượng an ninh sân bay ASF, và dùng giấy tờ giả để đột nhập vào sân bay. Một quan chức tình báo Pakistan nói một số kẻ tấn công tìm cách bắt cóc máy bay nhưng không thành. Khoảng 90 phút sau khi cuộc tấn công bắt đầu, hàng trăm lính biệt kích đặc nhiệm có mặt tại hiện trường để chống trả những kẻ tấn công. Một số báo cáo cho biết những kẻ tấn công đã kiểm soát đường băng của sân bay. Trong vài giờ, tám trong số mười kẻ tấn công bị lính biệt kích bắn chết và hai tên còn lại tự kích hoạt chất nổ trong người khi bị vây hãm. Vòng vây được chính thức dỡ bỏ sau năm giờ; 36 người, trong đó có 10 kẻ tấn công, 11 nhân viên ASF, hai lính biệt kích Pakistan, một sĩ quan cảnh sát SIndh, và bốn nhân viên hãng hàng không quốc gia Pakistan (trong đó có hai kỹ sư máy bay trưởng) thiệt mạng trong vụ việc. Ít nhất 18 nhân viên an ninh bị thương và được chuyển tới Bệnh viện Abbasi Shaheed. Một máy bay của hãng hàng không quốc gia Pakistan, một máy bay của hãng Air Blue và một máy bay chở hàng của một hãng hàng không nước ngoài được cho là đã bị hư hỏng. Một quả lựu đạn tay cũng đã được sử dụng trong vụ tấn công ở Ispahani Hangar. Sau vụ tấn công, khu vực sân bay đã được phát quang và giao cho Cơ quan hàng không dân sự Pakistan và ASF quản lý. Trách nhiệm. Tehrik-i-Taliban Pakistan (TTP) đứng ra nhận trách nhiệm về vụ tấn công, coi đó là hành động trả đũa sau cái chết của cựu thủ lĩnh Hakimullah Mehsud, người bị giết trong một vụ tấn công bằng máy bay không người lái ở Bắc Waziristan hồi tháng 11 năm 2013.
1
null
Cá tuyết là tên gọi chi chung cho các loài cá trong chi Gadus, thuộc họ Gadidae (họ Cá tuyết). Cá tuyết cũng được sử dụng như một phần của tên gọi chung cho một số loài cá khác, và có những loài được đề xuất thuộc về chi Gadus nhưng không được gọi là cá tuyết (các loài cá minh thái Alaska). Vẫn có sự nhầm lẫn giữa cá tuyết (cod) và cá tuyết Patagonian (Patagonian toothfish). Thứ cá sau còn mắc tiền hơn nhiều so với thứ trước và không liên quan gì với nhau. Hai loài quan trọng nhất của cá tuyết chính là cá tuyết Đại Tây Dương (Gadus morhua) mà chúng sống trong vùng nước lạnh hơn và các vùng biển sâu hơn trong vùng Bắc Đại Tây Dương, và cá tuyết Thái Bình Dương (Gadus macrocephalus), được tìm thấy trong cả hai khu vực phía đông và phía tây của miền Bắc Thái Bình Dương. Gadus morhua được đặt tên bởi Linnaeus vào năm 1758. Đặc điểm. Tại thời điểm khác nhau trong quá khứ, phân loại bao gồm nhiều loài trong chi Gadus. Hầu hết trong số này được bây giờ hoặc là phân loại trong chi khác, hoặc đã được công nhận là chỉ đơn giản là hình thức của một trong ba loài. Tất cả các loài có một số tên gọi thông thường, hầu hết trong số họ kết thúc với từ "tuyết" (cod), trong khi các loài khác, liên quan chặt chẽ, có tên gọi thông thường khác (chẳng hạn như cá minh thái, cá tuyết chấm đen, vv.) Mặt khác, nhiều người, loài không liên quan khác cũng có tên gọi thông thường là cá tuyết. Cá tuyết phổ biến như một loại thực phẩm với hương vị nhẹ và dày đặc, thịt trắng và rời (cá thịt trắng). Gan cá tuyết được xử lý để làm dầu gan cá tuyết, một nguồn quan trọng cung cấp vitamin A, vitamin D, vitamin E và axit béo omega-3 (EPA và DHA). Người ta cũng đã từng bắt được cá tuyết lớn nhất thế giới. Con cá tuyết này dài 152 cm và nặng 47 kg. Con cá này đã phá vỡ kỉ lục trước đó vào năm 1969, khi một ngư dân tại New Hampshire (Mỹ) bắt được một con cá tuyết khác với cân nặng 44,3 kg. Năm 2012, cũng tại hòn đảo đã bắt được nó, người ta đã bắt được con cá tuyết dài 1,5m, nặng 42 kg và được ghi nhận là con cá tuyết nặng nhất từng được đánh bắt trên vùng biển châu u lúc đó.Vùng biển tại Nauy là nơi cá tuyết sinh sôi và phát triển tự do. Chúng có thể đạt cân nặng gấp 5 lần so với đồng loại sống tại các vùng biển của Anh (9 kg). Khai thác. Ở Vương quốc Anh, cá tuyết Đại Tây Dương là một trong những thành phần phổ biến nhất trong các loại cá và khoai tây chiên, cùng với cá tuyết đốm và cá bơn sao. Vào năm 2006, cá tuyết Đại Tây Dương là thu hoạch 23.000 tấn, chiếm một nửa tổng sản lượng thu hoạch. Nuôi cá tuyết Đại Tây Dương đã nhận được một số lượng đáng kể lãi suất do xu hướng chung của tăng giá cá tuyết cùng với việc giảm sản lượng đánh bắt tự nhiên. Khoảng 51% số lượng cá tuyết trong các chợ ở Hoa Kỳ có xuất xứ từ Trung Quốc, tương đương 70.7 triệu pound (khoảng 32 nghìn tấn) mỗi năm. Cá tuyết được người Nhật sử dụng nhiều, nên nổi danh với cách chế biến tinh tế của họ. Cá ướp sauce teriyaki rồi nướng được kể là món ngon, nhờ những hương vị tinh tế pha trong nước sauce. Căn bản của teriyaki là xì dầu lên men. Cá tuyết ở Việt Nam được liệt vào hàng đặc sản, hầu hết bán trong những nhà hàng. Cá tuyết là thực phẩm lạ miệng hơn cả được nhiều khách chọn. Giá của cá tuyết vào khoảng 1,2 triệu đồng Việt Nam/kg. Nhập vào Việt Nam là cá tuyết Nga, trước đây giá hơn cả triệu đồng/kg, giờ đây hạ xuống chỉ còn vài trăm ngàn. Cá tuyết đen tuyền mắc hơn cá tuyết đốm. Với giá dưới 300.000/kg, cá tuyết đã bắt đầu đi vào nhà hàng bình dân của Việt Nam. Thịt cá tuyết thơm như thịt càng ghẹ, càng cua, nhưng lại dai.
1
null
Cá tuyết Thái Bình Dương còn được gọi là cá tuyết xám (Danh pháp khoa học: Gadus macrocephalus) là loài cá tuyết phân bố tại vùng biển Thái Bình Dương, đây là một loài thực phẩm thương mại quan trọng. Nó có ba vây lưng riêng biệt, và râu cá giống cá trê như trên hàm dưới của nó. Nó tương tự như cá tuyết Đại Tây Dương. Nó được tìm thấy chủ yếu dọc theo thềm lục địa và dốc trên với một loạt xung quanh mép của Bắc Thái Bình Dương, từ Hoàng Hải tới eo biển Bering, dọc theo quần đảo Aleutian, và phía nam để về Los Angeles, xuống độ sâu 900 mét (~ 3.000 feet). Cá có thể phát triển lên đến 1m (39") và nặng tới 15 kg (33 lbs). Phân tích di truyền phân tử cho biết cá tuyết Thái Bình Dương và cá tuyết Greenland (Gadus ogac) từ vùng Greenland đến biển Bắc Cực là cùng loài. Sản lượng khai thác cá ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Hoa Kỳ và liên doanh thủy sản tăng từ dưới 1.000 tấn vào năm 1979 lên gần 91.000 tấn vào năm 1984 và đạt 430.196 tấn trong năm 1995. Ngày nay, sản lượng đánh bắt cá tuyết Thái Bình Dương được quy định chặt chẽ và có hạn mức.
1
null
Phương ngữ Seoul (서울말) hoặc Gyeonggi của Tiếng Hàn là nền tảng chuẩn ngôn ngữ của Triều Tiên và Hàn Quốc. Họ sử dụng tại Vùng thủ đô Seoul ở Hàn Quốc, bao gồm Seoul, Incheon, và Gyeonggi, cũng như tại Kaesŏng ở Triều Tiên. Các nguyên âm "e" và "ae" được sáp nhập lại cho những người nói trẻ. Độ dài nguyên âm không phân biệt một cách nhất quán, nếu có. Giữa những người trẻ tuổi hoặc trong ngữ cảnh không chính thức, yếu tố đứng sau "-do" (-도, "cũng"), "-ro" (-로, "để") và "-go" (-고, "và rồi") và từ phát sinh của họ có xu hướng phát âm với "-du" (-두), "-ru" (-루) và "-gu" (-구). Động từ kết thúc câu "-yo" có xu hướng được đọc với schwa, mà đôi khi phiên âm như "-yeo" (-여) trên mạng trong bối cảnh không chính thức. "Samchon" (삼촌, "chú") thường được phát âm như "samchun" (삼춘). Một số thanh niên nói tiếng địa phương Seoul có xu hướng kết thúc câu nghi vấn (câu hỏi) với "-nya?" (-냐?). Họ cũng sử dụng ngữ điệu độc đáo hơi khác nhau từ những người đọc bản tin truyền hình. Các kết thúc không chính thức "-eo" (-어) cũng được sử dụng khá phổ biến trong phương ngữ Seoul dùng để hỏi.
1
null
Pellia epiphylla là một loài rêu trong họ Pelliaceae. Loài này được (L.) Corda mô tả khoa học đầu tiên năm 1829. Nó xuất hiện ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Bắc Phi và một phần của Châu Á.  Nó phát triển thành từng mảng ở những nơi ẩm ướt, được che chở trên các chất nền trung tính hoặc axit. Nó là phổ biến trên bờ sông, suối và mương và cũng phát triển trong rừng ẩm ướt, đầm lầy và trên đá ướt. Mô tả. Thalli phân nhánh không đều và khá lớn, phát triển rộng tới hơn 1 cm và dài vài cm.  Chúng có màu xanh lá cây, đôi khi có tông màu đỏ hoặc tím. Chúng khá kỳ công với một midrib không xác định và không có mạng lưới tế bào có thể nhìn thấy trên bề mặt.  Có nhiều thân rễ dài ở mặt dưới của thallus nhưng không có vảy bụng. "Pellia epiphylla" là đơn sắc, với cả cơ quan sinh dục nam và nữ trên cùng một thallus. Các cơ quan nam nhỏ nằm rải rác dọc theo gân giữa trong khi các cơ quan nữ phát triển gần đầu thallus và được bao quanh bởi một vạt.  Nhà máy sản xuất các viên nang hình cầu, màu xanh đen được sinh ra trên thân cây được gọi là setae. Đây là những màu xanh nhạt và dài đến 5 cm. Sinh sản. Tế bào sinh bào tử trên thalli. Sự thụ tinh diễn ra khi không khí ẩm ướt. Các cơ quan sinh dục nam (antheridia) hấp thụ độ ẩm và vỡ ra, giải phóng tinh trùng. Tinh trùng bơi về phía cơ quan sinh dục nữ (archegonia) và thụ tinh cho noãn. Noãn đã thụ tinh phát triển thành một cây bào tử nhỏ còn sót lại với cây giao tử lớn hơn. Các bào tử chứa các bào tử bên trong một viên nang được giải phóng khi viên nang trưởng thành và tách ra. Các bào tử nảy mầm để tạo ra các giao tử mới.
1
null
Vườn quốc gia Shikotsu-Tōya (支笏洞爷国立公园 "Shikotsu Toya Kokuritsu Koen ?") là một vườn quốc gia ở phía tây của đảo Hokkaidō, Nhật Bản. Tên của vườn quốc gia được đặt theo tên của hai Hồ Shikotsu và Tōya. Tổng diện tích của vườn quốc gia là 993,02 km vuông. Vườn quốc gia còn nổi tiếng với suối nước nóng Noboribetsu cùng các đỉnh núi lửa Yōtei phủ đầy tuyết tuyệt đẹp. Vườn quốc gia được chia thành 5 khu vực:
1
null
Doctor (Bác sĩ) là tên một nhân vật trong bộ phim truyền hình dài tập của BBC về chủ đề khoa học giả tưởng mang tên "Doctor Who", nhân vật này cũng xuất hiện trong nhiều ngoại truyện có liên quan, kịch âm thanh và truyện tranh có kết nối với bộ phim. Trong bộ phim, "Doctor" là bí danh mà người ngoài hành tinh trăm tuổi này tự nhận, ông du hành xuyên không gian, thời gian trên chiếc TARDIS, thường là cùng với bạn đồng hành. Tính tới hiện tại, 12 diễn viên đã thay phiên nhau đảm nhận vai diễn Doctor trong suốt toàn bộ loạt phim, với sự thay đổi từ người này qua người khác được lý giải trong kịch bản là sự thay đổi diện mạo và tính cách của nhân vật gọi là "tái sinh (regeneration)", chức năng sinh học của chủng loài của ông cho phép họ thay đổi hoàn toàn cấu trúc tế bào và ngoại hình để hồi phục tất cả các chấn thương, lão hóa gây tử vong. Nhiều diễn viên đã đảm nhiệm vai diễn Doctor qua các thời kì, đem đến cho ông một diện mạo và nhân cách mới sau mỗi lần tái sinh. Nhân vật này nổi tiếng đến mức đã được tờ "Daily Telegraph" bình chọn là "Người ngoài hành tinh được yêu thích nhất ở Vương quốc Anh". Doctor đương nhiệm hiện nay là Doctor thứ mười ba. Diễn viên đảm nhận nhân vật này là Jodie Whittaker, người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử của phim đảm nhiệm vai diễn The Doctor. Xuất thân nhân vật. Trong cốt truyện hư cấu, Doctor là một "Time Lord" đến từ hành tinh "Gallifrey", ông có thể du hành qua không thời gian trong cỗ máy thời gian—"bên trong lớn hơn bên ngoài"—, gọi là Tàu TARDIS (Time And Relative Dimension(s) In Space) có hình dạng bên ngoài giống một bốt điện thoại của cảnh sát những năm 1963, và bị mắc kẹt ở hình dạng đó đến tận bây giờ. Doctor trốn khỏi hành tinh quê nhà của mình bằng cách đánh cắp một tàu TARDIS lỗi thời (như đã tiết lộ trong tập "The War Games" (1969) và lên màn ảnh cho thấy Doctor đầu tiên đang chọn một tàu để lái đi trong tập "The Name of the Doctor" (2013) nhờ dùng lại các hình ảnh cũ). Kể từ đó, Doctor khám phá toàn bộ vũ trụ cùng với bạn đồng hành phần lớn là con người, bạn đồng hành thường đóng vai trò như khán giả trải nghiệm. "Doctor" thật ra không phải là tên thật của nhân vật này, tên thật của ông chưa bao giờ được tiết lộ. Ông dùng tên này như một bí danh để tự gọi bản thân mà không có bất kì giải thích thỏa đáng nào. Cuộc sống thời trẻ của Doctor trên hành tinh Gallifrey được miêu tả rất ít. Trong loạt phim cũ, kể về thời gian ông học tại học viên, rằng ông thuộc về "Prydonian chapter of Time Lords", nổi tiếng xấu xa. Trong tập "The Sound of Drums", Doctor kể rằng Time Lord Academy tổ chức lễ kết nạp cho các đứa trẻ ở tuổi lên 8. Một đứa trẻ Time Lord phải nhìn sâu vào Untempered Schism, một lỗ hổng trong không thời gian mà từ đó có thể nhìn thấy Time Vortex. MỘt số được truyền cảm hứng, một số thì phát điên (ông gợi ý rằng điều đó đã xảy ra với kẻ thù của ông, Master), số còn lại thì bỏ trốn. Khi được hỏi ông thuộc trường hợp nào, ông trả lời rằng "Oh, tôi chính là người chạy trốn đó; Kể từ đó, tôi chưa bao giờ ngừng lại!". Trong tập "The Time Monster", Doctor kể rằng ông lớn lên trong một ngôi nhà cạnh núi, nơi đó có một nhà ẩn dật sống dưới gốc cây ngay sau ngôi nhà Doctor ở, và nhà ẩn dật này là người động viên ông và truyền cảm hứng cho ông mỗi khi ông tuyệt vọng. Sau này, ông có lần gặp lại người thầy thông thái này của mình, lần này là trên Trái đất là Cha K'anpo Rinpoche, trong tập "Planet of the Spiders". Cảm thấy thân thế của Doctor như vậy vẫn chưa có nhiều sức hấp dẫn dưới thời Doctor thứ 7, biên kịch Andrew Cartmel, Ben Aaronovitch và Marc Platt tìm cách phát triển một hướng mới cho loạt phim. Cartmel muốn biến nhân vật này trở nên "đen tối, bí ẩn và quyền lực hơn" và biến ông thành "một lần nữa hơn cả một Time Lord bình thường" – ý tưởng này được biết đến cái tên là "Cartmel Masterplan". Dưới thời Cartmel, bộ phim đang có định hướng đi theo cốt truyện này; tuy nhiên, bộ phim đột ngột bị ngừng sản xuất vào năm 1989 điều này làm cho ý tưởng này chưa bao giờ lên màn ảnh. Các đề xuất về xuất thân của Doctor sau này được tiết lộ trong một quyển tiểu thuyết của Platt năm 1997 mang tên "Lungbarrow", trong quyển sách này Doctor được nói đến với tên "the Other", một trong số những nhân vật bí ẩn của người Gallifrey, một trong số các nhà đồng sáng lập nên xã hội Time Lord cùng với Rassilon và Omega. Sau một lời nguyền bí ẩn làm cho cư dân trên Gallifrey trở nên vô sinh, nhân vật Other phát triển một thiết bị gọi là "Loom" dùng Công nghệ Sinh học để tạo ra thế hệ Time Lords mới; cháu gái của ông Susan là đứa trẻ Gallifrey cuối cùng được sinh ra một cách tự nhiên. Để trốn thoát khỏi cuộc chiến với Rassilon, Other nhảy vào "hệ thống Loom", ông bị phân rã ra thành ngàn mảnh và dần kết tụ lại thành Doctor. Gia đình. Thông tin về gia đình hay các người thân của Doctor rất hiếm khi xuất hiện trên phim. Trong suốt 2 seasons đầu tiên, ông du hành cùng cô cháu gái của mình, Susan Foreman, đây có lẽ là người thân duy nhất của Doctor từng xuất hiện trong loạt phim cũ, cô có gặp lại ông trong tập kỷ niệm "The Five Doctors". Trong tập phim ""Smith and Jones" (2006), Doctor nói rằng mình cũng có một người anh em. Trong suốt thời kì của Doctor thứ 2, khi được hỏi về gia đình của mình, Doctor nói rằng ký ức của ông về gia đình của mình vẫn còn sống mãi trong ông, nhưng nó chỉ xuất hiện khi ông thực sự muốn và nó vẫn ngủ yên trong tâm trí ông ("The Tomb of the Cybermen"). Trong tập "The Curse of Fenric," khi được hỏi rằng liệu ông đã từng có một gia đình hay không, Doctor thứ 7 trả lời rằng ông cũng không rõ nữa, điều này gián tiếp ám chỉ một số phận không rõ ràng xảy ra với người thân của ông. Trong bộ phim truyền hình năm 1996, Doctor thứ 8 lưu ý rằng ông có một nửa là con người, và phần người đó là từ mẹ của ông. Chi tiết này tạo sự mâu thuẫn với loạt phim cũ, trong loạt phim cũ Doctor được miêu tả là một Time Lord thuần chủng. Trong loạt phim mới, chi tiết này đã bị bác bỏ, và nhấn mạnh rằng Doctor hoàn toàn là một Time Lord. Trong suốt toàn bộ các tình huống của loạt phim mới, Doctor thường xuyên thay đổi chủ đề mỗi khi có người hỏi về gia đình của ông, như trong tập "Fear Her", "The Beast Below" và "A Good Man Goes to War". Trong tập "The Empty Child"", Dr. Constantine từng nói với ông rằng, "Trước khi cuộc chiến này bắt đầu, tôi từng là một người cha và là một người ông. Giờ đây tôi chẳng là gì cả. Bây giờ tôi là một bác sĩ." Doctor thứ 9 trả lời rằng, ""Yeah. Tôi hiểu cảm giác đó mà." Câu nói này ngụ ý rằng có lẽ gia đình của Doctor đã chết trong Time War, sự kiện này xảy ra ở giữa phim truyền hình và tập đầu tiên của loạt phim mới, "Rose"". Trong tập cuối cùng của Doctor thứ 10 "The End of Time", một nhân vật bí ẩn, được gọi là "The Woman" trên phần credits cuối phim, nhân vật này xuất hiện chớp nhoáng trong suốt 2 phần của tập này. Sau này bà ấy được tiết lộ là một Time Lady ở phe đối lập, bà phản đối kế hoạch trốn thoát khỏi Time War của "Hội đồng Tối cao Time Lord" với người chủ mưu là tổng thống Rasilon. Khi bà hé lộ gương mặt của mình, Doctor lập tức nhận ra bà là ai. Nhà sản xuất của bộ phim Julie Gardner từng bình luận vệ tập phim rằng, nhân vật này ban đầu được tạo ra như là một Time Lady đóng vai trò là mẹ của Doctor, tuy vậy cả cô và biên kịch Russell T. Davies đều từ chối tiết lộ danh tính thật của nhân vật này. Trong bộ phim, khi Wilfred hỏi rằng bà ta là ai, Doctor tiếp tục lãng tránh câu hỏi này, điều này làm cho tình tiết hết sức mập mờ. Trong "Doctor Who: The Writer's Tale – The Final Chapter", Russell T Davies nói rằng ông tạo ra nhân vật này để trở thành mẹ của Doctor, và diễn viên Claire Bloom đã được phân vai này khi dự tuyển phân vai. Trong loạt phim mới, Doctor làm ra vẻ như chuyện kết hôn với bà của Susan là chưa từng xảy ra. Trong tập ""The Wedding of River Song", ông chính thức kết hôn với một người bạn đồng hành của mình là River Song. Trong tập "The Name of the Doctor", Doctor nhắc cô rằng, vợ ông đang nằm sau tấm bia mộ kia, và dòng chữ khắc trên bia chính là tên của cô, khi đó Clara hỏi rằng liệu cô ấy có phải là "người cũ"". Trong tập "The End of Time" Doctor thứ 10 từ nói rằng mình đã kết hôn với Nữ hoàng Elizabeth I và nhận rằng hai người có quan hệ tình cảm sâu đậm, Doctor đùa rằng: "biệt hiệu của bà là "Nữ hoàng Đồng trinh" sẽ không còn nữa...". Đám cưới của họ chính thức được xuất hiện trên màn ảnh trong tập ""The Day of the Doctor" dù phải chống lại Zygons. Trong tập Giáng sinh năm 2010, "A Christmas Carol"", Doctor tình cờ kết hôn với Marilyn Monroe. Biên kịch Steven Moffat lưu ý rằng việc kết hôn với Elizabeth I và Marylin Monroe có thể là không nghiêm túc và ông không tính đến 2 lần này, câu hỏi đặt ra là Doctor đã từng có bao nhiêu người vợ, điều chắc chắn rằng Doctor đã kết hôn với bà của Susan và River Song. Phát triển nhân vật. Nhân vật Doctor được sáng tạo ra bởi Sydney Newman, Giám độc truyền hình của BBC. Định dạng của chương trình được phát triển dựa trên chương trình "The Troubleshooters" của biên kịch C. E. Webber được viết vào tháng 3 năm 1963, sau này ông đã góp phần phát triển dự án Doctor Who. Trong tài liệu của Webber's mô tả nhân vật chính là "Một người trung niên, từ 35–40, thỉnh thoảng hay có 'tính khí thất thường.' " Newman dựa trên ý tưởng này nhưng có vài thay đổi đáng kể so với phiên bản của Webber, Newman quyết định đặc tên nhân vật chính là Dr Who, một người đàn ông lớn tuổi, tình cờ đánh cắp một cỗ máy thời gian và chạy trốn khỏi một thế giới tương lai của mình. Không có bản ghi chép nào của Newman về ý tưởng này được cho là có từ hồi tháng 4 năm 1963, nhân vật Dr Who chỉ xuất hiện lần đầu tiêntrong các tài liệu có từ tháng 5 năm 1963 Nhân vật này được diễn lần đầu bởi William Hartnell vào năm 1963. Ở những buổi đầu của chương trình, không hề có một thông tin nào về nhân vật Doctor: thậm chí ngay cả tên của ông, và thực tế điều đó đến nay vẫn còn là bí ẩn. Trong tập đầu tiên, "An Unearthly Child," hai giáo viên của trường Coal Hill School ở London, là Barbara Wright và Ian Chesterton bị thu hút bởi một học sinh là Susan Foreman do có kiến thức khoa học khá đặc biệt. Họ theo dõi cô và được dẫn đến một bãi phế liệu ở số 76 Totter's Lane, họ gặp một ông lão kỳ lạ và nghe giọng nói của Susan vang vọng từ bên trong một cái bốt điện thoại cảnh sát màu xanh. Họ lập tức đẩy của vào và bước vào trong, họ phát hiện ra vẻ bề ngoài chỉ là để ngụy trang cho bên trong là một phi thuyền rộng lớn bất ngờ của tàu TARDIS. Người đàn ông lớn tuổi mà Susan gọi là "Ông" ("Grandfather") đã tìm cách bắt cóc Barbara và Ian để ngăn họ tiết lộ bí mật về tàu TARDIS, ông quyết định mang họ theo trong suốt chuyến hành trình không-thời gian của mình. Doctor đội một mái tóc giả màu trắng bạc và trang phục kiểu thời Edward, với chất giọng Anh đặc sệt". Hartnell rời khỏi vai diễn sau 3 năm chống chọi với sức khỏe đang dần sa sút, vai diễn được dể lại cho diễn viên Patrick Troughton. , bộ phim đã trãi qua 13 hóa thân của nhân vật Doctor. Hóa thân có nhiệm kỳ dài nhất thuộc về Doctor thứ tư, thủ diễn bởi Tom Baker trong 7 năm. Theo cốt truyện, sự thay đổi được giải thích là quá trình tái sinh, là một quá trình sinh học giúp chửa lành và hồi sinh Time Lord khi cần kề cái chết. Từ đó giúp Time Lord có một cơ thể hoàn toàn mới. Trong tập "The Deadly Assassin", khái niệm về giới hạn của các lần tái sinh được đặt ra, điều này làm cho Time Lords chỉ có thể tái sinh được 12 lần, có nghĩa là mỗi Time Lord sẽ chỉ có tối đa 13 hóa thân gồm cả hóa thân đầu tiên. Trong tập "The Time of the Doctor", Doctor được nhận một chu kỳ tái sinh mới từ các Time Lords qua khe nứt thời gian. Ông tái sinh thành Doctor thứ mười hai, diễn bởi Peter Capaldi. Quá trình phát triễn của bộ phim được kể lại trong phim tài liệu "An Adventure in Space and Time," đây là một phần của kỷ niệm 50 năm ngày ra đời "Doctor Who", bộ phim với diễn viên David Bradley thể hiện lại hành trình William Hartnell dến với vai diễn. Thể chất. John Smith Sự thay đổi ngoại hình. Diễn viên. Qua các thời kỳ khác nhau cũng như qua từng lần thay đổi diễn viên, tính cách của nhân vật thay đổi rất nhiều. Bảng dưới đây liệt kê các Doctor qua các thời kỳ: Sự trở lại với vai diễn. Trong một số ít dịp đặc biệt, các Doctor trước đó quay trở lại với vai diễn của mình, thường là diễn viên khách mời:
1
null
là một vườn quốc gia trong vùng Chūbu của hòn đảo chính Honshu, Nhật Bản đã hình thành xung quanh một số núi lửa đang hoạt động và không hoạt động. Nó trải dài trên các vùng núi các tỉnh Gunma, Nagano và Niigata. Tên của vườn quốc gia đề cập đến phạm vi hai ngọn núi trong đó. Nó được chia thành hai khu vực riêng biệt là: Khu vực Nam Niigata/Bắc Nagano và Khu vực Đông Nagano. Vườn Quốc gia Cao nguyên Jōshin'etsu được thành lập vào năm 1949, và mở rộng đáng kể vào năm 1956, bao gồm các khu vực miền núi Myoko-Togakushi. Từ nguyên học. Tên của vườn quốc gia bao gồm hai yếu tố. "Jōshin'etsu" là một chữ Hán viết tắt bao gồm ba nhân tố đại diện cho tên cũ của các tỉnh: Tỉnh Kōzuke (上野国?) ngày nay Gunma, tỉnh Shinano (信浓国?) ngày nay là tỉnh Nagano, và tỉnh Echigo (越后国?) ngày nay là Niigata. Thứ hai, "kōgen", có nghĩa là vùng cao nguyên. Khu vực Nam Niigata/Bắc Nagano. Khu vực tự nhiên ở đây còn được gọi là khu vực Myoko-Togakushi, bao gồm các núi lửa hoạt động như núi Myoko cao 2.466 mét (8.091 ft), Núi Kurohime cao 2.053 mét (6.736 ft), Núi Iizuna cao 1.917 mét (6.289 ft) và Núi Togakushi cao 1.911 mét (6,270 ft). Khu vực Đông Nagano. Đông Nagano hay Tây Nam dãy núi Chugoku bao gồm Núi Tanigawa cao 1.963 mét (6,440 ft) và hai núi lửa vẫn đang hoạt động là Núi Kusatsu-Shirane cao 2.162 mét (7,093 ft) và núi Asama cao 2.542 mét (8.340 ft). Trong đó, núi Asama là ngọn núi lửa hoạt động mạnh nhất trên đảo Honshu. Du lịch. Vườn quốc gia là một điểm đến du lịch phổ biến cho các hoạt động trượt tuyết, leo núi, đi bộ đường dài, và đặc biệt là có những suối nước nóng thích hợp cho nghỉ dưỡng và chữa bệnh. Khu vực Đông Nagano có các khu trượt tuyết nổi tiếng của Sugadaira và cao nguyên Shiga. Suối nước nóng Yamanouchi, bao gồm cả suối nước nóng Yudanaka ở miền Bắc và thị trấn nghỉ mát Karuizawa ở phía nam cũng là những địa điểm hấp dẫn du khách. Vườn quốc gia là một phần của khu dự trữ sinh quyển Minakami được UNESCO công nhận vào năm 2017.
1
null
Trong bộ phim truyền hình dài tập của BBC thuộc thể loại khoa học giả tưởng mang tên "Doctor Who", cụm từ "bạn đồng hành" dùng để chỉ các nhân vật du hành, tham gia vào các cuộc phiêu lưu cùng với nhân vật Doctor. Trong nhiều câu chuyện của "Doctor Who", các bạn đồng hành đóng vai trò như một khán giả. Họ đưa ra một cái nhìn khách quan và bao quát câu chuyện. Nhân vật bạn đồng hành thường đưa cốt truyện đi xa hơn và kịch tính hơn nhờ các câu hỏi hoặc vướng vào các rắc rối do chưa hiểu hết vấn đề, đôi khi là giúp đỡ, giải cứu hay thách thức Doctor. Tuy vậy, trong loạt phim tiếp nối từ năm 2005, cụm từ này ít được dùng nhiều trên phim. Doctor thường giới thiệu bạn đồng hành của mình như một "người bạn" hay "trợ lý". Lịch sử. Doctor luôn bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình với các người bạn đồng hành. Trong loạt phim cũ, lúc nào ông cũng du hành cùng từ 3 bạn đồng hành trở lên. Ở hiện thân thứ nhất, bạn đồng hành của Doctor là cô cháu gái của ông Susan Foreman (Carole Ann Ford). Tính trong toàn bộ loạt phim cũ, Doctor đã có đến trên 35 người bạn đồng hành mà đặc biệt là Sarah Jane Smith (Elisabeth Sladen), người đã gắn bó với loạt phim cũ và tham gia khách mời trong một số tập của loạt phim mới. Trong loạt phim mới bắt đầu từ 2005, Doctor thường chỉ du hành cùng một người bạn. Bạn đồng hành của Doctor thứ Chín và Mười phải kể đến Rose Tyler (Billie Piper), Martha Jones (Freema Agyeman), và Donna Noble (Catherine Tate). Bạn đồng hành của Doctor Mười một là Amy Pond (Karen Gillan) và Clara Oswin Oswald (Jenna-Louise Coleman). Thời kỳ của Doctor thứ Mười hai là Billy Potts (Pearl Mackie). Danh sách các bạn đồng hành. Doctor thứ chín (2005). Kể từ khi loạt phim được tái sản xuất sau thời gian dài ngưng phát sóng, sự đa dạng về chủng loài của bạn đồng hành không còn, bạn đồng hành trong loạt phim mới hầu hết chỉ giới hạn ở Con người của thế kỷ 21, không còn xuất hiện nhiều bạn đồng hành từ các chủng loài khác cũng như đến từ các thời gian khác trong quá khứ hay tương lai. Chỉ trừ có trường hợp là Professor River Song có thể xem là cùng chủng tộc với Doctor. Doctor thứ mười ba (2018 - nay). Vào tháng 10 năm 2017, BBC đã thông báo rằng Bradley Walsh, Mandip Gill và Tosin Cole sẽ vào vai các bạn đồng hành là Graham, Yasmin và Ryan tương ứng, và sẽ cùng Doctor thứ 13 là Jodie Whittaker du hành trong phần 11 của loạt phim Doctor Who ra mắt vào năm 2018.
1
null
S-Adenosylmethionine (SAM-e, SAMe, SAM, AdoMet, ademetionine) là một hợp chất thiên nhiên trong mọi tế bào còn sống và được sản xuất bằng cách nuôi tế bào các loại men, nấm. SAM được tìm ra đầu tiên ở Ý bởi G. L. Cantoni năm 1952. SAMe đã được bán theo toa bác sĩ ở các nước châu Âu từ năm 1975 để chữa viêm khớp và trầm cảm. Thuốc này khá đắt và phải dùng từ 400 mg tới 1200 mg mỗi ngày. Tác dụng phụ là gây khó chịu trong tiêu hóa, dễ bị tiêu chảy.
1
null
là một vườn quốc gia nằm tại Kyūshū, Nhật Bản. Nó bao gồm vịnh Kirishima-Kagoshima, một khu vực nổi tiếng với các hồ núi lửa, suối nước nóng và các hoạt động địa chất núi lửa nằm ở tỉnh Kagoshima và Miyazaki. Tổng diện tích là . Lịch sử. Vào ngày 16 tháng 3 năm 1934, nó lần đầu tiên được thành lập với tên gọi Vườn quốc gia Kirishima-Yaku. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2012, Yakushima được tách thành Vườn quốc gia Yakushima có diện tích riêng biệt và Vườn quốc gia Kirishima-Yaku được đổi tên thành vườn quốc gia Kirishima-Kinkowan. Khu vực này trở nên nổi tiếng là địa điểm trăng mật tại Nhật Bản khi Sakamoto Ryōma đã đưa vợ ông đến đó.
1
null
Solomon và Sheba (tiếng Anh: "Solomon and Sheba") là một bộ phim sử thi lãng mạn của đạo diễn King Vidor, được trình chiếu lần đầu vào năm 1959. Truyện phim dựa theo một sự tích trong Kinh Thánh Do Thái về cuộc đời vua Solomon. Nội dung. Trước khi băng hà, vua David nhận được mặc khải của Thiên Chúa phải chọn con trai thứ Solomon kế vị, anh của Solomon là Adonias bất bình và thề rằng sẽ tìm cách chiếm được ngai vàng. Trong khi đó Pharaoh Ai Cập có một giao ước với Nữ hoàng xứ Sheba, đồng ý nhượng một hải cảng tại Hồng Hải cho nàng, đổi lại nàng tìm cách quyến rũ và tiêu diệt Solomon, người đang trị vì nước Israel thịnh vượng bằng tài trí và đức độ của mình. Khi đã thành công và sắp đưa Solomon tới diệt vong thì Nữ hoàng Sheba lại cầu xin Thiên Chúa cứu Solomon, đổi lại, nàng sẽ từ bỏ hết các thần linh của mình để chỉ thờ một Thiên Chúa.
1
null
Vườn quốc gia Unzen-Amakusa (云仙天草国立公园 "Unzen-Amakusa Kokuritsu Koen ?") là một vườn quốc gia nằm ở các tỉnh Nagasaki, Kumamoto và Kagoshima, Nhật Bản. Được thành lập vào năm 1934, tên của nó có nguồn gốc từ núi Unzen, một núi lửa đang hoạt động nằm ở giữa bán đảo Shimabara, và quần đảo Amakusa trong biển Yatsushiro. Khu vực được kết nối chặt chẽ với lịch sử Kitô hữu tại Nhật Bản, và tại đây bao gồm nhiều lĩnh vực liên quan đến Kakure Kirishitan.
1
null
Lễ cưới của Vương nữ Madeleine, Nữ Công tước xứ Hälsingland và Gästrikland và doanh nhân người Mỹ gốc Anh Christopher O'Neill đã được tổ chức vào ngày 8 tháng 6 năm 2013 tại Stockholm, Thụy Điển. Tiểu sử. Vương nữ Madeleine là con gái út của Vua Carl XVI Gustaf và Silvia, Vương hậu Thụy Điển. Cô đứng thứ 4 trong danh sách kế vị ngai vàng của Vương thất Thụy Điển. Năm 2009, cô đính hôn với luật sư người Thụy Điển Jonas Bergström. Lễ cưới được ấn định sẽ tổ chức vào năm 2010, sau lễ cưới của Thái nữ Victoria và Daniel Westling vào tháng 6. Tuy nhiên, họ đã chia tay vào tháng 4 năm 2010. Sau đó, công chúa Madeleine chuyển đến sống ở thành phố New York, nơi cô gặp chuyên viên tài chính người Mỹ gốc Anh Christopher O'Neill. Họ lần đầu tiên công khai mối quan hệ vào tháng 1 năm 2011. Lễ đính hôn của họ được Vương thất Thụy Điển công bố vào ngày 25 tháng 10 năm 2012. Buổi lễ. Lễ cưới được cử hành vào ngày 8 tháng 6 năm 2013 tại "Nhà thờ Cung điện Hoàng gia" ở Stockholm, Thụy Điển. Các đài STV, TV4 và TV4 News đã truyền hình trực tiếp các nghi thức của lễ cưới đến toàn bộ người dân Thụy Điển. Công chúa Madeleine xuất hiện với chiếc váy cưới trắng tinh khôi của nhà thiết kế thời trang hàng đầu người Ý Valentino. Tước hiệu và kế vị. Madeleine sẽ không lấy theo họ "O'Neill" mà vẫn giữ nguyên tên (không có họ) và tước hiệu của mình là "Royal Highness". Christopher O'Neill cũng không đổi họ của mình sang họ "Bernadotte" giống như người anh cột chèo là Vương thân Daniel Westling Bernadotte, phu quân của Victoria, Thái nữ của Thụy Điển. Tháng 5 năm 2013, Vương thất Thụy Điển công bố rằng Christopher O'Neill đã đề nghị được từ bỏ tước hiệu vương gia, bởi vì thành viên của Vương thất Thụy Điển phải mang quốc tịch nước này và phải từ bỏ mọi công việc kinh doanh hiện thời. Do đó, Christopher sẽ không trở thành Vương "thân của Thụy Điển" hay "Công tước xứ Hälsingland và Gästrikland". Christopher là một tín đồ của Giáo hội Công giáo và cặp đôi dự định sẽ tiếp tục sống tại thành phố New York sau lễ cưới. Tuy nhiên, con cái của họ phải là tín đồ của Giáo hội Luther và được nuôi dạy tại Thụy Điển giống như mẹ thì mới có quyền được liệt kê vào danh sách kế vị ngai vàng của Vương gia Thụy Điển.
1
null
là một diễn viên Nhật Bản. Tiểu sử. Sinh ra trong một gia đình khá giả, có bố là bác sĩ và là nhà nghiên cứu nổi tiếng trong giới y khoa. Năm 7 tuổi, Yuki cùng gia đình chuyển tới Canada sinh sống. Sau khi tốt nghiệp cấp 2 tại Canada, Yuki một mình tới New York theo học cấp 3. Tại đây, ngay từ năm thứ nhất, Yuki đã tham gia Breakdance và trở thành thành viên đội bóng rổ của trường. Năm 19 tuổi, Yuki trở về Nhật Bản và theo học tại Đại học Keio chuyên ngành Khoa học kỹ thuật. Ngay từ nhỏ Yuki đã thể hiện mong muốn trở thành bác sĩ như bố nên cậu chọn ngành Khoa học và công nghệ với ý định theo ngành bác sĩ trong tương lai. Trở về Nhật Bản và thành công bước đầu tại Đại học Keio. Trở lại Nhật Bản, Yuki gặp vấn đề trong việc thích ứng lại với văn hóa và nếp sống Nhật. Cách nói chuyện, nhìn nhận và đánh giá vấn đề đầy tự tin và cởi mở theo văn hóa phương Tây khiến Yuki gặp nhiều rắc rối trong giao tiếp, thường bị hiểu lầm là vô lễ. Bởi vậy Yuki đã nỗ lực rất nhiều để cải thiện và thích nghi. Theo Yuki nói thì cuộc sống học đường của Yuki khá vất vả, khắc nghiệt trong môi trường có tính cạnh tranh, ganh đua cao. Khi đó cuộc sống chỉ gói gọn trong việc cả ngày học và nghiên cứu trên trường, tối về phòng tập nhảy cùng đội đến khuya thì về ăn cơm. Tháng 11 năm 2009, Furukawa Yuki đạt giải trong cuộc thi "Mr. Keio", một cuộc thi nổi tiếng, diễn ra thường niên tại đại học Keio. Tháng 3.2010, Yuki đã nhận được giải thưởng đặc biệt của cuộc thi "kỷ niệm 50 năm của công ty diễn xuất Horipo" vì khả năng diễn xuất cũng như kỹ năng Tiếng Anh của cậu được đánh giá rất cao. Năm 2011, Yuki trở lại New York để theo học thạc sĩ ngành thiết kế hệ thống kỹ thuật. Tham gia Itazura na Kiss. Với vai diễn Irie Naoki trong phim Itazura na Kiss, Yuki đã được đạo diễn Nagata lựa chọn ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc qua webcam (khi đó Yuki đang ở London). Đạo diễn cho biết Furukawa Yuki trong đời sống thực tế rất gần giống với nhân vật Irie Naoki của manga. Khi được chọn làm nam diễn viên chính, vừa lộ diện đã bị "ném đá" vì ... quá xấu. Ngạc nhiên hơn, khi bộ phim lên sóng, không ít khán giả lại quay sang ca ngợi Furukawa Yuki "càng nhìn càng thấy đẹp trai". Sau thành công của bộ phim, vào ngày 21 tháng 7 năm 2013, Yuki đã có một cuộc họp fan hâm mộ tại Thượng Hải, Trung Quốc. Anh cũng có lập fanpage trên Weibo-một mạng xã hội Trung Quốc và trong vòng chưa đầy bốn tháng sau khi lập, số lượng người theo dõi đã tăng lên hơn 600.000 người.
1
null
"How Your Mother Met Me" (tạm dịch: "Khi mẹ gặp Cha") là tập phim thứ mười sáu trong phần phim thứ chín và là tập phim thứ 200 theo tổng thể của loạt phim hài kịch tình huống truyền hình dài tập "How I Met Your Mother". Đây là tập phim duy nhất có cảnh dạo đầu phim có sự xuất hiện của nhân vật "người Mẹ". Tập phim này đã được công chiếu ngày 21 tháng 1 năm 2014. Nội dung tập phim chủ yếu tập trung vào vai diễn của Cristin Milioti trong vai người Mẹ và cách mà một vài sự kiện cuộc sống của cô đã gắn liền với Ted Mosby và những người bạn của anh. Tập phim được đánh giá cao bởi người xem và các nhà phê bình, nhiều người gọi đây là tập xuất sắc nhất của phần 9. Nội dung. Người Mẹ mừng sinh nhật lần thứ 21 của mình vào tháng 9 năm 2005, (trùng với ngày Tập phim mở đầu của bộ phim được công chiếu) tại một quán bar giống như quán MacLaren's nhưng lại nằm ở Bờ Đông cùng lúc khi Barney (Neil Patrick Harris) và Ted (Josh Radnor) chuẩn bị chơi trò "Have you met Ted?" tại quán MacLaren's nổi tiếng hơn tại Bờ Tây mà Ted và các bạn của anh thường lui tới. Người Mẹ, cùng với bạn cùng phòng Kelly (Ahna O'Reilly) (người đã đến nhầm quán MacLaren's) đang đợi Max, bạn trai của cô đến, cho đến khi cô nhận được cuộc gọi xác minh với cô rằng anh đã mất. Sau khi quay trở lại căn hộ của mình, cô mở món quà cuối của Max cho cô - một cây đàn ukulele. Hai năm sau ngày Max mất, vào ngày Thánh Patrick năm đó, cô được cô bạn cùng phòng khuyên nên đi ra ngoài và hẹn hò trở lại và cô ta dắt cô theo đến quán bar mà Ted và Barney đang tiệc tùng. Cả hai cô gái đều va phải Mitch (Adam Paul), thầy dạy nhạc cũ của cô, cũng là người dạy nhạc tại trường Bronx sau này. Vì công việc hiện tại của anh, người Mẹ ngỏ ý đưa Mitch lại cây đàn vi-ô-lông của mình và họ trở về căn hộ của cô. Tuy nhiên, Người Mẹ lại bị bất ngờ khi Mitch lại giở chiêu The Naked Man. Cô phẫn nộ trước hành động của anh, nhưng anh lại khuyên cô nên theo đuổi ước mơ của mình. Cô nhớ lại cây dù vàng mình để lại ở quán bar và ra ngoài để lấy lại nó, để lại Kelly ở lại và lên giường với Mitch. Cô chỉ được biết rằng "một gã vô tâm" đã lấy mất cây dù của mình. Người Mẹ theo đuổi ước muốn chấm dứt sự đói nghèo bằng việc tham gia học một lớp Kinh tế tại trường Đại học. Vào mùa thu năm 2009, người Mẹlần đầu tham gia học lớp Kinh tế 305 và gặp Cindy (Rachel Bilson), người mà sau đó dọn vào ở chung phòng với cô. Họ thấy Ted vào lớp, nhưng sau đó người Mẹ nghĩ cô đến nhầm lớp khi anh thông báo môn học và chạy ra ngoài. Cô sau đó chạy lại vào phòng học khi thấy anh chạy nhào đến chỗ lớp học thật sự. Vài tháng sau, cô lấy lại được cái dù của mình. Cindy kể cho cô nghe cách chia tay gã "giáo sư khoa kiến trúc", sau đó vô tình hôn người Mẹ và từ đó bộc lộ giới tính thật của mình. Một thời gian sau đó, một người đàn ông tên là Darren tiếp xúc với người Mẹ và được tham gia nhóm nhạc của cô, tuy vậy, Darren chiếm lấy nhóm nhạc của cô và đưa người Mẹ thành người dọn đồ cho nhóm nhạc. Sau đó, người Mẹ gặp được Louis và ngỏ ý muốn đãi cô một ly rượu, nhưng trong quán bar, người Mẹ nói mình chưa sẵn sàng để hẹn hò trở lại vì những mất mát quá lớn trước đây. Louis nhắc nếu cô muốn thay đổi thì hãy gọi cho anh và cô đã rời đi trước khi Ted xuất hiện cùng với Lily và Barney trong chiếc váy xanh. Họ sau đó hẹn hò với nhau, nhưng họ chưa thật sự là một cặp hoàn hảo. Khi ban nhạc của cô được đặt để chơi trong đám cưới của Barney và Robin; cô ở lại căn hộ của Louis cách Farhampton Inn không xa. Một phân cảnh tương lai trong đêm đám cưới được hé lộ, người Mẹ tìm ra tờ quảng cáo của Darren để tuyển người chơi guitar bass thay thế cô và chạy đến Inn để phân trần với anh ta, mà sau đó, đã cho Marshall và Marvin quá giang. Sau khi thấy Darren bị quả báo, cô trở lại căn hộ của Louis, nơi anh cầu hôn cô, nhưng cô bỏ ra ngoài để suy nghĩ về điều đó. Cô bắt đầu nói chuyện với Max và xin ý kiến của anh về việc bước tiếp trong cuộc sống của cô. Sau khi nhận cơn gió là câu trả lời, cô từ biệt anh lần cuối và từ chối lời cầu hôn của Louis, sau đó đến nhận phòng tại Farhampton Inn. Ở ban công, cô chơi đàn ukulele và hát bản "La Vie en Rose". Ted nghe được từ phòng mình (khi Ted Tương lai nói rằng đó là lần đầu và cũng là lần anh yêu thích nhất khi được nghe vợ tương lai của mình hát bài hát này) và sau đó trở vào trong để kể cho Barney nghe, nhưng Barney lại biến mất. Sản xuất tập phim. Trong nhiều lần phỏng vấn trước khi tập phim này lên sóng, Carter Bays khẳng định tập phim này sẽ là "một chuyến đi vui vẻ xuyên suốt loạt phim từ một người từ đầu đã không phải trong nhóm bạn". Anh cũng nói thêm rằng họ sẽ sử dụng vài "mánh vui" để thêm thắt những cảnh từ tập mở đầu và những tập phim khác trước đây. Khác với tập phim thứ 100 trước đây mà Bays miêu tả là một tập ăn mừng của cả dàn phim, anh khẳng định tập phim thứ 200 này "là một câu chuyện hoàn toàn khác... nhưng khiến anh cảm thấy là một điều nên thực hiện để làm câu chuyện của loạt phim trở nên hoàn hảo hơn." Blog của Barney. Barney đăng một bài gồm những câu thường nói trong các ngày nghỉ. Đánh giá chuyên môn. Bill Kuchman từ "Popculturology" gọi tập phim này là "một chiến thắng lớn", khi nói, "Khi xem tập 'How Your Mother Met Me,' HIMYM làm nên một điều tuyệt diệu. Họ không chỉ khiến chúng tôi động lòng thêm lần nữa bằng một tập phim, mà họ còn hoàn thiện việc giới thiệu một khán giả mới đến cho người xem." Donna Bowman từ "The AV Club" cho tập phim điểm A-. Max Nicholson từ IGN cho tập phim điểm 8.5/10, khi nói nó đã vén bức màn về thân thế đầy bi kịch, hài hước và phấn khích của người Mẹ. Alan Sepinwall từ "HitFix" đề cao tập phim này, khi nói, "Nếu đánh giá dưới dạng một tập phim, thì "How Your Mother Met Me" thật sự khá tuyệt... Nó làm tốt cả về việc tường thuật lại câu chuyện của người Mẹ trong vòng 7 năm qua, lẫn việc thêu dệt câu chuyện của cô trong những tập tiếp theo trong loạt phim. " Kaitlin Thomas đến từ TV.com cũng cho tập phim một đánh giá tích cực khi cho rằng ""How Your Mother Met Me" là một tập phim thứ 200 tuyệt vời dành cho How I Met Your Mother. Nó đlà một điều khác biệt, nhưng cũng đồng thời là một điểm nhất lâu dài." Kevin Fitzpatrick từ "Screencrush" đề cao tập phim và nhấn mạnh dàn biên kịch cho bộ phim về việc xây dựng nội dung thân thế của người Mẹ
1
null
Ủy ban Năm Nghị sĩ của Quốc hội Lục địa thứ hai, đã dự thảo và điều trần trước Quốc hội Lục địa của 13 bang thuộc địa Mỹ, một văn bản Tuyên bố nền độc lập của Hoa Kỳ (13 bang thuộc địa Mỹ) ngày 4 tháng 7 năm 1776, tách khỏi Anh Quốc. Ủy ban dự thảo Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ này hoạt động từ ngày 11 tháng 6 năm 1776 cho đến ngày 5 Tháng 7 năm 1776, ngày mà Tuyên ngôn được xuất bản . Ủy ban này gồm 5 ngài nghị sĩ Quốc hội Lục địa là:Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman, và quan chưởng ấn Robert R. Livingston.
1
null
Xoài thanh ca (danh pháp khoa học: Mangifera mekongensis) là một loài thực vật thuộc họ Anacardiaceae. Đây là loài đặc hữu của vùng đồng bằng sông Cửu Long (Mekong) thuộc miền Nam Việt Nam. Quả xoài dài, đầu hơi cong lại, thịt thơm ngon. Khi ăn thì lột vỏ rồi mút cho hết phần thịt nên còn gọi là "xoài mút".
1
null
Teratohyla là một chi ếch nhỏ trong phân họ Centroleninae của họ Centrolenidae. Chi này có một thời gian được gộp vào "Centrolenella" rồi "Cochranella", nhưng đến năm 2009 được tách riêng. Những loài này phân bố ở vùng đất thấp của Trung Mỹ, từ Honduras về phía nam đến Thái Bình Dương và vùng đất thấp nhiệt đới ẩm ướt Amazon của Nam Mỹ. Loài. Có năm loài trong chi này: Tuy nhiên, trang AmphibiaWeb đặt "Teratohyla adenocheira" vào chi "Cochranella".
1
null
Bàng Dục (chữ Hán: 庞淯, ? - ?), tự Tử Dị, người huyện Biểu Thị, quận Tửu Tuyền, quan viên tập đoàn quân phiệt Tào Tháo cuối đời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc. Cuộc đời và sự nghiệp. Mẹ Dục là Bàng Nga Thân, liệt nữ nổi tiếng thời bấy giờ. Ban đầu Dục làm Lương Châu tùng sự, giữ chức Phá Khương trưởng (huyện Phá Khương thuộc quận Kim Thành, Lương Châu). Khi thái thú Vũ Uy Trương Mãnh nổi dậy, giết thứ sử Lương Châu Hàm Đan Thương (209), hạ lệnh giết bất kỳ ai dám đến viếng tang của Thương. Dục nghe tin, bỏ chức, đêm ngày chạy đến, kêu khóc ở nơi Thương bị hại; giắt trủy thủ đi tìm giết Mãnh. Mãnh thấy Dục là nghĩa sĩ, hạ lệnh không được làm hại, vì thế Dục có thể để tang cho Thương. Sau đó, thái thú Tửu Tuyền Từ Ấp lấy Dục làm Chủ bộ. Bấy giờ cường hào nhân buổi loạn lạc, quen thói giấu diếm số tráng đinh trong hộ tịch để trốn thuế, chống đối chính quyền. Từ Ấp mạnh tay trấn ấp cường hào họ Hoàng trong quận, một thành viên họ Hoàng là Hoàng Ngang ở nơi khác nên thoát được, tập hợp hơn ngàn người bao vây quận thành. Dục bỏ vợ con, trong đêm trèo thành ra ngoài, cầu viện binh ở 2 quận Trương Dịch, Đôn Hoàng. Nhưng 2 quận e ngại bọn cường hào, tìm cớ thoái thác. Dục đòi tự sát, khiến họ cảm động, nhận lời giúp quân, thì thành quận Tửu Tuyền đã vỡ, Từ Ấp bị giết. Dục nhặt xác của Ấp, đưa về Tửu Tuyền, để tang 3 năm. Tào Tháo nghe được việc này, triệu làm Duyện thuộc. Tào Phi lên ngôi, Dục được bái làm Phụ mã đô úy, thăng thái thú Tây Hải, ban tước Quan nội hầu. Về sau được triệu về, bái làm Trung tán đại phu. Không rõ Dục mất khi nào, con là Bàng Tăng được kế tự.
1
null
Trương Mãnh (chữ Hán: 張猛, ? – 210), tên tự là Thúc Uy, người huyện Uyên Tuyền, quận Đôn Hoàng , quan viên cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông bất hòa với thượng cấp của mình là Hàm Đan Thương, bèn nổi dậy giết chết ông ta, cuối cùng bị tướng quân Hàn Toại trấn áp. Thân thế. Ông nội Trương Mãnh là Trương Đôn, làm đến chức Thái thú Hán Dương. Cha ông là danh thần Trương Hoán, một trong "Lương Châu tam minh" (cùng Hoàng Phủ Quy, Đoàn Quýnh). Hoán nhiều năm làm thái thú Vũ Uy, được nhân dân ở đây làm lập từ thờ phụng. Mãnh là con trai thứ ba của Hoán, anh cả là nhà thư pháp Trương Chi, đương thời ca ngợi là "Thảo thánh"; anh thứ là Trương Xưởng, làm đến Hoàng môn thị lang. Cuộc đời và sự nghiệp. Đầu những năm Kiến An (196 – 220), Trương Mãnh làm công tào ở quận, thấy 4 quận Hà Tây cách xa Lương Châu, lại bị bọn cướp ven Hoàng Hà ngăn trở, nên dâng thư xin đặt riêng một châu. Năm thứ 14 (209), có chiếu lấy người quận Trần Lưu là Hàm Đan Thương làm Ung Châu thứ sử, quản lý 4 quận Hà Tây. Khi ấy chức Vũ Uy thái thú đang khuyết, có chiếu cho rằng cha Mãnh được kính trọng ở Hà Tây, nên bổ nhiệm Mãnh vào vị trí ấy. Thương, Mãnh cùng lên đường nhiệm chức. Hai người bằng tuổi, từ trước đã có bất hòa, trên đường đi không ngừng xung đột. Đến nơi, Mãnh phát giác Thương tìm cớ giết mình, lập tức phát binh tấn công. Bởi nhiệm sở của hai người gần nhau , Thương không chạy kịp, trèo lên mái nhà, gọi to thỉnh cầu Mãnh hòa giải. Mãnh gọi Thương đến gặp mặt, trách mắng ông ta, rồi giao cho Đốc bưu trông coi. Sau đó Thương muốn bỏ trốn, nên bị giết. Năm sau (210), tướng quân Hàn Toại tiến đánh Mãnh, ông phát binh chống lại, nhưng quân dân Hà Tây sợ Toại, quay lại tấn công Mãnh. Mãnh biết mình không thoát, lên lầu tự thiêu mà chết. Dật sự. Khi Trương Hoán còn làm Vũ Uy thái thú, Mãnh đang ở trong bụng mẹ. Người mẹ mơ thấy mình đeo ấn thụ của Hoán, lên đàn ca hát, bèn kể lại với chồng. Hoán hỏi người giải mộng, người ấy nói: "Phu nhân sắp sanh con trai, về sau nếu hắn làm quan ở quận này, ắt chết ở chức này đấy!"
1
null
Bàng Nga Thân (chữ Hán: 庞娥亲), còn gọi Bàng Nga hay Triệu Nga, là một liệt nữ nổi tiếng vì báo thù giết cha cuối đời Đông Hán. Cuộc đời và sự tích. Bà vốn họ Triệu, tên là Nga, người huyện Lộc Phúc, quận Tửu Tuyền được gả cho người huyện Biểu Thị là Bàng Tử Hạ, sinh ra Bàng Dục, nên thường được gọi theo họ của chồng. Bàng Dục về sau nổi tiếng là một tấm gương trung liệt. Cha Nga Thân là Triệu An hay Triệu Quân An bị người cùng huyện là Lý Thọ giết chết. Anh em của bà có ba người, đều muốn báo thù, nên Thọ phòng bị rất cẩn thận. Gặp dịch bệnh, 3 anh em họ Triệu đều chết, Thọ mời cả họ đến ăn mừng, nói rằng: "Đàn ông họ Triệu chết sạch cả rồi, chỉ còn đàn bà yếu đuối, còn gì phải lo!". Con trai Nga Thân là Bàng Dục nghe được lời ấy, về bẩm lại với mẹ. Bà vốn có lòng báo thù, nghe được lời ấy, phẫn uất kêu khóc, lớn tiếng khẳng định sẽ báo thù. Lý Thọ nghe được, lúc nào cũng cưỡi ngựa mang đao như trước. Nga Thân bỏ bê việc nhà, đi lại dò xét Lý Thọ. Bà lưng giắt đao dài, tay cắp đao ngắn, trong đêm mấy lần mài đao, nghiến răng kèn kẹt, than thở không thôi. Trong nhà và láng giềng vừa chê cười, vừa can ngăn, Nga Thân càng quyết tâm. Thượng tuần tháng 2 ÂL năm Quang Hòa thứ 2 (179), giữa lúc ban ngày, bà cưỡi xe chặn đầu ngựa Lý Thọ ở Đô Đình, xuống xe quát mắng. Lý Thọ kinh ngạc, quày ngựa bỏ chạy, Nga Thân đuổi theo chém trúng ngựa của ông ta, con ngựa lồng lên, hất Lý Thọ ngã xuống con ngòi bên đường. Nga Thân sấn đến vung đao chém xuống, thanh đao mắc vào cái cây bên đường, gãy làm đôi. Lý Thọ gượng dậy, Nga Thân muốn giật lấy thanh đao ông ta đeo bên mình, Lý Thọ vừa giữ chặt vừa tri hô, rồi tìm cách nhảy lên bờ. Nga Thân túm lấy Lý Thọ, đấm ông ta ngã nhào, giật lấy thanh đao, cắt đầu Lý Thọ. Giết được Lý Thọ, Nga Thân đi thẳng đến huyện đường đầu thú, sắc mặt thản nhiên. Lộc Phúc (huyện) trưởng Doãn Gia (người quận Hán Dương) không đành lòng, bèn cởi ấn thụ, tỏ ý rời chức để không xét xử, nhưng Nga Thân kiên quyết chịu tội. Dân chúng nghe tin, kéo đến càng lúc càng đông, không ai không cảm thán khen ngợi bà. Huyện úy không dám bắt giữ Nga Thân, ngầm khuyên bà đi khỏi huyện đường lại không được, bèn cưỡng ép bà về nhà. Lương Châu thứ sử Chu Hồng, Tửu Tuyền thái thú Lưu Ban dâng biểu tâu lên việc này, nên Nga Thân được triều đình xá miễn. Bọn Chu Hồng cho xẻ đá lập bia, đặt bên cổng nhà để nêu cao tấm gương liệt nghĩa. Thái thường Trương Hoán Quý (người quận Hoằng Nông) đến tận nhà để thăm hỏi, biếu 20 tấm lụa. Về sau Hoàng môn thị lang Lương Khoan (người quận An Định) dò hỏi việc này, ghi lại làm truyện.
1
null
Viện Thông tin Khoa học (Institute for Scientific Information, viết tắt: ISI) được thành lập bởi Eugene Garfield vào năm 1960. ISI được Thomson Scientific & Healthcare mua lại vào năm 1992, được biết đến với tên Thomson ISI và hiện nay là một phần của Intellectual Property & Science business thuộc Thomson Reuters. ISI cung cấp các dịch vụ cơ sở dữ liệu thư mục. Sản phẩm của nó: chỉ mục trích dẫn và phân tích, một lĩnh vực tiên phong của Garfield. Nó duy trì cơ sở dữ liệu trích dẫn bao gồm hàng ngàn tạp chí khoa học, trong đó có sự tiếp nối của dịch vụ lâu năm lập chỉ mục in của nó dựa trên chỉ số trích dẫn khoa học (SCI), cũng như chỉ số trích dẫn khoa học xã hội (SSCI), và Nghệ thuật và Nhân văn Citation Index (AHCI). Tất cả trong số này là có sẵn thông qua web của dịch vụ cơ sở dữ liệu kiến ​​thức của ISI. Cơ sở dữ liệu này cho phép một nhà nghiên cứu xác định được bài báo đã được trích dẫn thường xuyên nhất, và những người đã trích dẫn chúng. Cơ sở dữ liệu không chỉ cung cấp một biện pháp khách quan về tác động học tập trong các giấy tờ được lập chỉ mục trong nó, nhưng cũng làm tăng tác động của họ bằng cách làm cho chúng rõ ràng hơn và cung cấp cho họ một nhãn hiệu chất lượng. Là một số bằng chứng cho thấy xuất hiện trong cơ sở dữ liệu này có thể tăng gấp đôi số lượng trích dẫn nhận được một bài báo nhất định. ISI cũng xuất bản các báo cáo trích dẫn Tạp chí hàng năm mà danh sách Impact Factor của mỗi tạp chí mà nó theo dõi. Trong cộng đồng khoa học, Impact Factor đóng một vai trò lớn trong việc xác định danh tiếng gắn liền với nghiên cứu được công bố của một nhà khoa học. Danh sách hơn 14.000 tạp chí được duy trì bởi ISI. Danh sách bao gồm hơn 1100 các tạp chí nghệ thuật và nhân văn cũng như các tạp chí khoa học. Danh sách được dựa trên tiêu chí lựa chọn công bố và là một chỉ số quan trọng của chất lượng tạp chí và tác động. ISI xuất bản Science Watch, một bản tin mỗi hai tháng trong đó xác định các bài báo công bố trong hai năm trước đó như là "bài báo tiềm năng" trong mỗi 22 lĩnh vực rộng lớn của khoa học, như: Toán học (bao gồm cả Thống kê), Kỹ thuật, Sinh học, Hóa học, và Vật lý. Chỉ định được dựa trên số lượng trích dẫn và sự gia tăng lớn nhất từ ​​một hai tháng một lần cập nhật tiếp theo. Bài viết về các bài thường bao gồm ý kiến ​​của các tác giả. ISI cũng xuất bản một danh sách các nhà nghiên cứu được trích dẫn nhiều, một trong những yếu tố bao gồm trong Bảng xếp hạng học thuật của trường Đại học Thế giới được xuất bản bởi trường Jiao Tong Thượng Hải University.
1
null
Hương liệu trong thực phẩm là những cảm nhận của các giác quan đối với thực phẩm, và được xác định chủ yếu nhờ vào những cảm quan hóa học của vị và mùi. "Hệ thần kinh sinh ba", có nhiệm vụ phát hiện các kích thích hóa học trong miệng và cuống họng, cũng như cảm nhận về nhiệt độ và kết cấu của thực phẩm, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhận thức nói chung đối với thực phẩm. Hương vị của thực phẩm, với cách hiểu như trên, có thể được thay thế bằng hương liệu tự nhiên hoặc hương liệu nhân tạo. Hương liệu được định nghĩa là một hợp chất cung cấp hương vị giống như hương vị của một chất khác, hoặc thay thế hay làm đậm những đặc tính của chất đó, làm cho nó trở nên ngọt, chua, nồng... hơn. "Mùi" và "vị". Trong ba cảm nhận về hóa học, mùi là yếu tố quyết định đến hương vị của mỗi thành phần trong thực phẩm. Trong khi vị của món ăn chỉ giới hạn trong 5 vị cơ bản: ngọt, chua, đắng, mặn và umami (vị ngọt thịt); và 2 cảm giác cơ bản là cay và chát; thì mùi của món ăn gần như không có giới hạn. Chính vì thế, hương vị của một loại thực phẩm có thể dễ dàng được thay thế bằng cách thay đổi mùi hương có trong đó, và giữ lại các vị cơ bản của món ăn. Không có gì minh họa cho vấn đề này rõ ràng hơn bằng các loại thạch dùng hương nhân tạo, nước giải khát và kẹo các loại... vốn được tạo ra với những vị hoàn toàn tương tự nhau, nhưng lại khác nhau hoàn toàn về mùi vì chúng sử dụng những hương liệu khác nhau. Việc tạo hương cho những thực phẩm thương mại được thực hiện bởi những chuyên gia về hương (flavorist) tại các Nhà Hương(flavor house). Tạo hương. Mặc dù thuật ngữ "tạo hương" ("flavoring" hoặc "flavorant") trong ngôn ngữ phổ thông đơn thuần chỉ việc kết hợp các cảm quan hóa học của mùi và vị, hay nói một cách dễ hiểu là kết hợp các gia vị (hành, tiêu, tỏi, ớt, v.v...) để tạo nên hương vị đặc trưng cho món ăn, thì những thuật ngữ này còn được sử dụng trong ngành công nghiệp hương liệu và nguyên liệu thực phẩm để chỉ việc tạo ra các hỗn hợp hóa chất hoặc chiết xuất có thể ăn được dùng cho việc thay thế hương vị của thực phẩm thông qua mùi và vị. Vì lý do chi phí cao và sự khan hiếm nguồn chiết xuất của hương tự nhiên, hầu hết các sản phẩm hương liệu thương mại đều được phân loại ở dạng "Có đặc điểm tự nhiên", nghĩa là chúng chứa những hợp chất hóa học tương đương với hương tự nhiên mà chúng được tạo ra để thay thế, nhưng chúng được tổng hợp nhân tạo từ hóa chất trong phòng thí nghiệm, hơn là được chiết xuất trực tiếp từ nguồn tự nhiên. Việc nhận biết các hương liệu có đặc điểm tự nhiên được thực hiện bằng những công nghệ hiện đại, ví dụ như kỹ thuật Headspace. Quá trình tạo hương tập trung vào việc thay thế các hương vị của sản phẩm tự nhiên, như các loại thịt và rau củ, hay tạo ra những hương vị không có trong tự nhiên hoặc hương tự nhiên quá yếu, như trong kẹo, bánh snacks. Một vài sản phẩm thương mại tồn tại để kích thích các giác quan sinh ba, vì chúng là những hương khá bén, đặc và thông thường hơi khó chịu. Phân loại hương liệu. Có ba loại hương liệu cơ bản trong ngành thực phẩm, được định nghĩa và áp dụng trong khối EU và tại Úc: Những quy định đối với Hương tự nhiên. Vương Quốc Anh Luật Thực Phẩm định nghĩa Hương tự nhiên: Những quy định trong Luật Liên Bang Hoa Kỳ miêu tả Hương tự nhiên: Quan điểm trong luật của khối EU (European Union) về Hương tự nhiên có đôi chút khác biệt. Các hương nhân tạo cụ thể được đặt một số E (E number) và có thể được dán trên nhãn sản phẩm. Đánh giá cảm quan hương liệu. Chỉ có con người mới có thể tích hợp 5 giác quan: thị giác, khứu giác, vị giác, thính giác, xúc giác để cảm nhận mùi khi sử dụng một loại thực phẩm nào đó. Những lợi thế khi con người trực tiếp đánh giá Hương Liệu Những hạn chế khi con người trực tiếp đánh giá Hương Liệu Ngoài ra, từng cá nhân đánh giá Hương liệu sẽ bị tác động theo từng thời điểm về tâm trạng, thời tiết, đồ ăn, thức uống mà họ sử dụng trước đó, v.v... Những thay đổi về điều kiện thử nghiệm ảnh hưởng đến nhận thức của người đánh giá như nhiệt độ, ánh sáng, mùi hương... mọi yếu tố trên sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến sự kích thích và phản hồi của các giác quan.
1
null
Lịch sử tiến hóa của thực vật là kết quả của việc gia tăng sự phức tạp của cấp tiến hóa từ bè tảo qua rêu, thạch tùng, dương xỉ đến thực vật hạt trần và thực vật hạt kín ngày nay. Vào kỷ Ordovic (cách nay khoảng ) thực vật trên cạn đầu tiên xuất hiện. Chúng bắt đầu đa dạng hóa vào cuối kỷ Silur (khoảng triệu năm trước), và kết quả của sự đa dạng hóa này đã được thể hiện một cách ấn tượng trong các tổ hợp hóa thạch đầu kỷ Devon trong Rhynie chert. Loại đá chert đã bảo tồn các thực vật thời kỳ đầu chi tiết đến mức độ tế bào, được hóa đá trong các suối núi lửa. Vào giữ kỷ Devon, hầu hết các đặc điểm của thực vật được công nhận như hiện tại đã có như bộ rễ, lá và gỗ thứ. Các thực vật không có bào tử cuối Devon như "Archaeopteris" đã đạt đến cấp độ tinh tế cho phép chúng tạo thành những rừng cây cao. Vào cuối Devon, hạt đã tiến hóa. Sự tiến hóa vượt bậc tiếp tục vào kỷ Cacbon và đang diễn ra như ngày nay. Hầu hết các nhóm thực vật được bảo tồn tương đối nguyên vẹn qua sự kiện tuyệt chủng Permi-Trias, mặc dù cấu trúc của các quần xã đã thay đổi. Điều này có lẽ đã tạo điêu kiện cho sự xuất hiệt của thực vật có hoa trong kỷ Trias (~), và sự đa dạng hóa của chúng sau đó trong kỷ Creta và trong Paleogene. Các nhóm thực vật chính tiến hóa gần đây là cỏ, chúng trở nên quan trọng trong Paleogen giữa, vào khoảng . Cỏ cùng với các nhóm khác đã tiến hóa theo cơ chế mới về trao đổi chất để tồn tại trong điều kiệm môi trường có ít CO2 và nóng, ẩm của các vùng nhiệt đới trong khoảng gần đây. Xâm chiếm trên cạn. Thực vật trên cạn tiến hóa từ nhóm tảo lục, có lẽ vào khoảng ; những tính toán về phân tử cho rằng nguồn gốc của chúng thậm chí còn sớm hơn vào khoảng . Các họ hàng gần nhất còn sinh tồn của chúng là Rêu, đặc biệt là Charales; cho rằng sinh cảnh của Charales đã thay đổi một ít kể từ sự phân chia của các nhánh, điều này có nghĩa là thực vật trên cạn đã tiến hóa từ tảo sợi phân nhánh sống trong môi trường nước ngọt nông, có lẽ ven các bờ hồ bị khô theo mùa. Tảo có thể có vòng đời đơn bội: có thể chỉ có nhiễm sắc thể bắt cập rất ngắn (trong điều kiện lưỡng bội), khi noãn và tinh trùng được hợp nhất đầu tiên tạo thành hợp tử; hợp tử này có thể đã phân chi ngay theo cơ chế giảm phân tạo ra các tế bào có phân nửa số nhiễm sắc thể lẻ (trong điều kiện đơn bội). Sự cộng sinh với nấm có lẽ đã giúp thực vật thời kỳ đầu này thích nghi với những áp lực của môi trường trên cạn. Thực vật không phải là nhóm quang hợp đầu tiên trên cạn; tốc độ phong hóa cho thấy rằng sinh vật đã từng sống trên đất liền vào khoảng , và các hóa thạch vi sinh vật đã từng được phát hiện trong các trầm tích hồ nước ngọt vào , nhưng sự ghi nhận về đồng vị cacbon cho thấy rằng chúng quá khan hiếm để tác động đến sự tích tụ của các đồng vị này trong khí quyển cho đến thời gian khoảng . Các sinh vật này, mặc dù là đa dạng về phát sinh loài, có lẽ là nhỏ và đơn giản, chỉ lớn hơn "cụm tảo" một chút. Bằng chứng đầu tiên về thực vật trên cạn là các bào tử tảo vào Ordovic giữa (tầng Llanvirn sớm, ~). Các bào tử này, được gọi là cryptospore, đã được tạo ra hoặc là đơn lẻ (monads), ở dạng cặp (diads) hoặc các bộ bốn (tetrad), và vi cấu trúc của chúng giống với vi cấu trúc của các bào tử Rêu tản hiện đại, điều này cho thấy rằng chúng có cùng cấp tổ chức. Chúng được cấp tạo từ sporopollenin – là một bằng chứng khác về mối quan hệ với thực vật có phôi. Có thể 'sự ngộ độc' khí quyển đã ngăn cản sinh vật nhân chuẩn xâm chiếm trên cạn trước nhóm này, hoặc chỉ đơn giản rằng chúng mất quá nhiều thời gian cho sự phức tạp cần có để tiến hóa. Các bào tử chữ Y tương tự như của thực vật có mạch xuất hiện ngay sau đó, trong các đá tuổi Ordovic giữa. Về tính chính xác khi nào thì tetrad phân chia, mỗi bào tử bộ tứ có thể mang một "dấu chữ Y", phản ánh các điểm mà tại đó mỗi tế bào bị đè bẹp bởi các tế bào bên cạnh. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi các thành bào tử phải đủ mạnh và có khả năng chống chịu ở thời gian đầu. Chự chịu đực này có quan hệ mật thiết với mức độ chống khô hạn của thành ngoài tế bào-một đặc điểm có tác dụng khi các bào tử phải chịu đựng sống sót ngoài môi trường nước. Thực vậy. thậm chí các thực vật có phôi này đã từng trở về môi trường nước mà không còn thành bảo vệ, do đó chúng không mang những khía chữ Y. Một nghiên cứu kỹ về bào tử tảo cho thấy rằng không có các bào tử có chữ Y, hoặc thành của chúng không đủ để bảo vệ hoặc trong trường hợp hiếp gặp này, các bào tử phát tan trước khi chúng bị đè bẹp đủ để phát triển dấu chữ Y, hoặc không phù hợp với bộ bốn tứ diện. Các tổ hợp hóa thạch lớn của thực vật trên cạn là Thallus, chúng phát triển trên các vùng đất ngập nước bồi tích và được tìm thấy ở dạng bao phủ hầu hết các đồng lụt vào Silur sớm. Chúng chỉ có thể sống sót khi mặt đất ngập sũng nước. Cũng có mặt những bè vi sinh vật.
1
null
Vũ trụ trong Doctor Who là một vũ trụ tưởng tượng được thiết lập trong bộ phim truyền hình "Doctor Who", cùng phim "Torchwood", và "The Sarah Jane Adventures". Từ Whoniverse được ghép từ chữ "Who" và "universe", được dùng để diễn tả các khái niệm cũng như hiện tượng, sự kiện diễn ra trong loạt phim "Doctor Who" và các phim liên quan. Trong Vũ trụ của Doctor Who có một lượng lớn các sinh vật sống có trí tuệ được giới thiệu, bao gồm cả Time Lords, loài Daleks, và Cybermen, và còn có Sontarans, Silurians, Ice Warriors, và Weeping Angels, các nhân vật này thay phiên nhau xuất hiện trong nhiều tập phim. Nhờ vào cốt truyện du hành thời gian, Vũ trụ của Doctor Who được thiết lập và trải dài, bao phủ xuyên suốt các cột mốc quan trọng như sự kiện Big Bang trong tập "Terminus" (1983) cho đến sự kiện các ngôi sao lụi tàn vào năm "100 nghìn tỉ (trilion) năm" trong tập "Utopia" (2007). Và nhiều sự kiện quan trọng khác như "Time War", hay sự hình thành Trái Đất và các sự kiện Trái Đất bị thiêu cháy vào năm "5 tỉ" trong tập ""The End of the World" (2005), và sự tái cấu trúc lại vũ trụ trong tập "The Pandorica Opens/The Big Bang"". Các khái niệm. TARDIS. Tàu TARDIS ( (Time and Relative Dimension in Space) vừa là một cỗ máy thời gian và con tàu vũ trụ. Tàu TARDIS là một sản phẩm công nghệ tiến tiến của "Time Lord" một nền văn minh ngoài Trái Đất. Khi điều khiển đúng cách, TARDIS có thể đưa nhà du hành đi đến bất cứ thời điểm nào trong dòng thời gian và bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Kết cấu bên trong của TARDIS luôn luôn lớn hơn bên ngoài ("It's bigger on the inside"), nó có thể hòa nhập tuyệt đối với môi trường bên ngoài bằng cách sử dụng chức năng "chameleon circuit" (thay đổi hình dạng). Các cỗ máy TARDIS cũng có một mức độ tri giác nhất định (Doctor thường gọi TARDIS là "cô ấy") và phi thuyền này còn cung cấp nhiều công cụ trợ giúp có thể kể đến là Universal Translation System (Hệ thống Thông dịch Hoàn toàn) giúp chuyển ngữ bất kể nơi nào mà Doctor đặt chân tới. Trong phim, phi thuyền của Doctor là một cỗ máy lỗi thời và không đáng tin cậy mang số hiệu TT Type 40, Mark 1 TARDIS. Mạch "chameleon circuit" của nó bị hỏng, làm cho nó mắc kẹt ở hình dạng một buồng điện thoại kiểu thập kỷ 1960s ở London sau khi viếng thăm nơi này vào năm 1963. Hình dạng ban đầu trước khi ngụy trang của TARDIS là một chiếc hộc hình trụ tròn. Tàu TARDIS của Doctor trong toàn bộ phim thường được miêu tả là bị đánh cắp khỏi hành tinh quê nhà của các Time Lords, "Gallifrey", đây là một con tàu cũ kỹ, ngừng hoạt động và bị bỏ hoang, vô chủ. Tuy vậy, sau sự kiện trong tập "The Doctor's Wife" (2011), ý thức của con tàu dưới dạng một cơ thể người tạm thời trong thời gian ngắn tên Idris tiết lộ rằng cô không bị đánh cắp, cô ấy tự nguyện và đó là ý muốn của cô ấy. Hơn thế nữa, cô tự nhận rằng mình mới là người bắt cóc Doctor chứ không phải ngược lại. Cô cũng tiết lộ rằng, mình luôn đưa Doctor tới "nơi mà ông cần tới" thay vì "nơi mà ông muốn tới". Điều này lý giải vì sao TARDIS thường đưa ông đi tới những thời điểm mà ông không lường trước được. Mặc dù tàu "TARDIS" là một kiểu phi thuyền hơn là tên của con tàu, tuy vậy tàu của Doctor vẫn thường được gọi với tên xác định là "The TARDIS", trong nhiều trường hợp, tàu cũng được gọi đơn giản là ""phi thuyền", "chiếc hộp màu xanh", hay "buồng điện thoại". Ở hiện thân thứ 11 của mình, Doctor được TARDIS cho biết rằng cô tên là "Sex"y", trong tập "The Doctor's Wife", Doctor nói rằng chỉ có thể gọi tên đó khi chỉ có hai người và điều đó làm Doctor xấu hổ. Tua vít sóng âm - Sonic screwdriver. Tua vít sóng âm "(Sonic screwdriver)" là một dụng cụ hư cấu trong "Doctor Who" cũng như các ngoại truyện. Đây là một dụng cụ đa chức năng được sử dụng bởi các Doctor. Doctor dùng tua vít này để mở khóa, quét các cá thể lạ, sinh vật, kiểm soát các thiết bị máy móc dù nó được tạo ra bằng bất kì công nghệ nào. Tuy vậy, nó không có tác dụng trên gỗ. Như TARDIS, nó đã trở thành một trong những biểu tượng của chương trình, chúng xuất hiện trong hai ngoại truyện của phim là The Sarah Jane Adventures và Torchwood, tuy với hình dạng khác và vài điểm khác biệt như: son môi sóng âm (Sonic lipstick) của Sarah Jane, Blaster sóng âm, bút sóng âm, và bộ điều biến sóng âm. Tua vít sóng âm lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1968, được dùng xuyên suốt nhiệm kỳ của Doctor thứ hai. Nó trở nên kém nổi bật từ đầu nhiệm kỳ của Doctor thứ ba cho đến năm 1977. Tua vít dần bị loại bỏ dưới các thời của các Doctor sau này. Thiết bị này chỉ xuất hiện trở lại vào thời của Doctor thứ 8 trong Doctor Who năm 1996, và trở nên quan trọng hơn kể từ loạt phim từ năm 2005. Trong suốt loạt phim, có nhiều phiên bản khác nhau của tua vít sóng âm, dưới thời các Doctor khác nhau thiết bị này đều có sự thay đổi. Thường thì nó bị phá hủy và các Doctor nâng cấp nó lên ở phiên bản tốt hơn. Trên thực tế Doctor thứ năm đã quyết định không dùng tua vít của mình nữa sau khi nó bị phá hủy. Time Votex - Vòng xoáy thời gian. "Time vortex" hay Vòng xoáy thời gian (đôi khi gọi là "vòng xoáy không thời gian") là một khái niệm dùng để chỉ một con đường ngắn nhất đùng để du hành thời gian, nó cho phép các cỗ máy như tàu TARDIS và các cỗ máy thời gian (như vòng tay thời gian từng được dùng để du hành bởi River Song và Captain Jack Harkness). Trong khoa học hiện đại, khái niệm này tương đồng với lỗ giun trong không-thời gian. Time War - Đại chiến thời gian. Trong loạt phim tiếp nối của "Doctor Who" từ năm 2005, cuộc chiến này được mô tả là một sự kiện đã xảy ra giữa thời gian phát hành bộ phim năm 1996 và phần 1 của "Doctor Who năm 2005". Cuộc chiến được nhắc đến nhiều lần trong suốt loạt phim mới từ phần 1 cho đến hiện tại, nhưng chưa bao giờ xuất hiện thực sự trên màn ảnh cho tới tập phim đặc biệt kỷ niệm 50 năm phát sóng. Các sự kiện trong cuộc chiến cũng như quá trình của nó chưa bao giờ được giải thích mà chỉ xuất hiện rải rác trong các tập đưa ra nhiều gợi mở. Cho đến câu chuyện 2 tập "The End of Time" (2009) tiết lộ rằng chính các nhà lãnh đạo độc tài của Time Lord là phe đã kết thúc cuộc chiến. Đỉnh điểm và kết thúc của cuộc chiến Time War cuối cùng cũng được hé lộ trong tập phim đặc biệt kỷ niệm "The Day of the Doctor", qua đó tiết lộ một phần định mệnh của các Time Lords. "Last Great Time War" (Cuộc đại chiến thời gian cuối cùng) là cuộc chiến giữa Time Lord của hành tinh Gallifrey chống lại loại Dalek của hành tinh Skaro. Nguyên nhân cụ thể của việc xảy ra cuộc xung đột trên vẫn chưa thực sự rõ ràng, nhưng theo biên kịch Russell T Davies, lý do cơ bản là vào những thời khắc đầu tiên của cuộc gặp gỡ giữa Doctor với loài Daleks trong tập "Genesis of the Daleks" (1975). Các Time Lord đã lường trước được các khả năng của loài Daleks và toan tính thôn tính cả vũ trụ nên họ đã gửi Doctor thứ 4 về quá khứ với mục đích là ngăn chặn sự ra đời của loại Daleks, điều này là làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Dalek, làm chúng kém linh hoạt hơn, và tìm ra nhưng điểm yếu của chúng để tạo ra lợi thế sau này. Tuy vậy Doctor thứ 4 đã không thành công và sự phát triển của Dalek chỉ bị chậm lại. Để trả thù cho sứ mệnh bất thành mà Doctor đã gây ra cho mình, Daleks đã thâm nhập vào "High Council of the Time Lords" (Hội đồng tối cao Time Lord) bằng một bản sao của Doctor thứ 5 trong tập "Resurrection of the Daleks" (Dalek phục sinh) (1984), tiếp sau đó là tuyên bố tiến hành chiến dịch được vạch ra bởi "Dalek Emperors" (Hoàng đế Dalek) trong tập "Remembrance of the Daleks" (1988). Hai sự kiện cụ thể dẫn đến chiến tranh có thể kể đến đó chính là hiệp hước hòa bình đã cố gắn được ký kết giữa President Romana dưới thời "Act of Master Restitution". Các vũ khí mà Time Lords dùng để chiến đấu phải kể đến: Bowships, Black Hole Carriers và N-Forms. Torchwood Institute - Viện nghiên cứu Torchwood. Viện nghiên cứu Torchwood được thành lập bởi Victoria của Anh trong tập "Tooth and Claw" do Russell T. Davies viết. Tổ chức này xuất hiện trong thời kỳ của Doctor thứ mười (2006). Trong tập phim, Doctor thứ mười (David Tennant) cùng người bạn đồng hành là Rose Tyler (Billie Piper), hai người cùng du hành ngược về quá khứ và gặp Victoria của Anh, giúp bà chống lại một người-hóa-sói. Victoria của Anh lập nên trường Torchwood với mục đích ban đầu là chống lại Doctor, nhưng về sau, viện này góp phần hỗ trợ doctor. Viện Torchwood chuyên nghiên cứu về công nghệ ngoài hành tinh, trong đó có cả TARDIS UNIT. UNIT (Unified Nations Intelligence Taskforce): lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ thống nhất LHQ—là một tổ chức quân sự được tổ chức dưới sự bảo hộ của Liên Hợp Quốc. Nhiệm vụ chính là điều tra và chống lại các mối nguy hiểm mang tính huyền bí ở ngoài Trái Đất. UNIT không phải là tổ chức phòng thủ các mối nguy hại ngoài hành tinh duy nhất, nhưng là tổ chức mà The Doctor có liên quan nhất. Ban đầu, UNIT mang tên LONGBOW. Tổ chức này được thành lập bởi người tiền nhiệm của United Nation, là the League of Nations. LONGBOW giải quyết các vấn đề ngoài Trái Đất, nhưng tổ chức này đã bị giải tán khi The League of Nation thất bại trong việc ngăn chặn thế chiến II bùng nổ. Time Lord - Chúa tể thời gian. Time Lord là một nền văn minh cổ đại ngoài Trái Đất của các sinh vật có hình dáng giống con người hay là người Gallifrey, mà Doctor và Master là một thành viên của chủng loài này. Họ phát triển nền khoa học tiên tiến có thể chi phối thời gian, họ tạo ra các thiết bị gọi là TARDIS có`thể dùng để du hành thời gian. Tuy vậy họ cũng phải tuân theo một số luật lệ như không được can thiệp vào các cột mốc thiết yếu trong sự phát triển của vũ trụ hay sự phát triển của loài khác cũng như thái độ trung lập. Dù vậy đôi khi Doctor vi phạm điều này, ông cũng can thiệp vào các mốc sự kiện quan trọng khiến nó thay đổi, miễn là ông không đi vào dòng thời gian của chính mình. Khi bộ phim bắt đầu vào năm 1963, Doctor chỉ đơn giản được xác định là một người ngoài hành tinh. Hành tinh quê nhà cùng chủng loài của ông vẫn chưa xác định. Sáu năm sau, trong tập "The War Games" (1969), một người ngoài hành tinh đến từ thế giới của ông và tự gọi mình là một Time Lord, và phải 5 năm sau thì hành tinh quê nhà của ông là Gallifrey mới được tiết lộ trong tập ""The Time Warrior". Thể chất của Time Lord. Ngoại trừ vẻ bề ngoài giống con người, TIme Lord có nhiều điểm khác biệt với con người về mặt thể chất. Họ có 2 quả tim và có nhịp đập khoảng 170 lần/phút, nhiệt độ cơ thể trung bình của họ vào khoảng 15 độ C, và họ có thể sống sót trong chân không, tuy nhiên nếu điều kiện chân không kéo dài thì họ cần có dưỡng khí hoặc là chết ngạt. Họ cũng có khả năng nghe được các sóng âm thanh có tần số cao. Time Lord có khả năng tái sinh. Khi già yếu hay bị trúng độc dẫn đến cái chết, họ có khả năng tự thay đổi cấu trúc tế bào trong cơ thể, làm trẻ hóa và tái tạo dưới một hình hài mới. Tuy vậy sự tái sinh chỉ có giới hạn là 12 lần và sau mỗi lần tái sinh, tính cách và hành động của họ cũng bị thay đổi ít nhiều. Time Lord sống sót. Trong loạt phim mới năm 2005, hành tinh Gallifrey bị hủy diệt bởi các Time Lord trong Time War - Cuộc chiến Thời gian với loài Daleks, họ buộc phải tiêu diệt chính mình để đảm bảo loài Daleks không thể tồn tại. Chỉ có 2 Time Lord sống sót sau trận chiến đó là Doctor và Master. Ngoài ra, "Jenny" con gái "nhân bản vô tính"" của Doctor cũng có thể xem là một Time Lord sống sót. Số phận của một vài Time Lord khác vẫn chưa xác định. "Romana" ("Romanadvoratrelundar") là một bạn đồng hành cũ của Doctor, lần cuối cùng cô xuất hiện thì cô đang sống tại một chiều song song. Cháu gái của Doctor, Susan sống với người mình yêu David Campbell ở thế kỷ 22 như trong tập ""The Dalek Invasion Of Earth". Các hành tinh và các chủng tộc. Trái Đất song song từng được viếng thăm bởi Doctor thứ ba trong tập "Inferno", phiên bản Trái Đất này bị hủy diệt bởi một ngọn núi lửa phun trào sau khi Doctor rời khỏi. Một "Trái Đất song song" khác (Doctor gọi là Thế giới của Pete) từng được Doctor thứ mười, Rose và Mickey tình cờ lạc đến trong tập "Rise of the Cybermen", "The Age of Steel", "Doomsday" và "Journey's End". Một phiên bản "Trái Đất song song" khác được gọi là Terra Nova từng được Doctor thứ sáu, Peri và Rani đặt chân đến trong tập "State of Change". Mặt trăng là một vệ tinh tự nhiên của Trái Đất. Trong tập "Smith and Jones", bệnh viện nơi Martha làm việc bất ngờ bị dịch chuyển lên đây. Kể từ thế kỷ 21 trở về sau, nơi đây là tiền dồn của nhiều nhà khoa học, điển hình là Trung tâm điều khiển thời tiết (tập "The Moonbase") và Trung tâm Vận chuyển (tập "The Seeds of Death"). Đến thế kỷ 26, đây là nơi giam giữ các tù nhân chính trị của loài người (tập "Frontier in Space"). Mặt trăng bị hủy diệt trong một tương lai xa trong "Doctor Who Magazine" câu chuyện "Wormwood". Trong tập "Dinosaurs on a Spaceship" Doctor khuyên rằng: "Đừng cố gắng chinh phục Mặt trăng, nếu không loài người sẽ phải nhận một kết cục đau buồn"" và nhấn mạnh rằng nơi đây có tồn tại sinh vật bản địa có trí khôn. Hành tinh Sao Hỏa là hành tinh thứ tư tính từ hệ Mặt trời của chúng ta. Sao Hỏa được miêu tả là hành tinh quê nhà của Ice Warriors. Trong tập "Image of the Fendahl" (1977), Doctor thứ 4 kể rằng 9 triệu năm trước khi thế kỷ 20 bắt đầu, một thực thể độc ác được biết với tên Fendahl, trong cuộc chạy trốn từ hành tinh thứ năm trong hệ Mặt trời, ngang qua Sao Hỏa và trên đường đến Trái Đất, để tránh sự truy đuổi của Time Lords, chúng đã bẫy hành tinh này mãi mãi trong một vòng lặp thời gian. Sao Hỏa thời điểm đó được miêu tả như một hành tinh "chết", nhưng mặt khác nó lại là nhà của một nền văn minh gọi là Ice Warriors, họ rất hiếu chiến, và cao ngạo, họ có khả năng du hành vũ trụ. Khi hành tinh này ngày càng trở nên khắc nghiệt, Ice Warriors cử một đoàn thám hiểm đến Trái Đất, nhưng không may là phi thuyền của họ bị rơi và đóng băng trong một sông băng, và không thể báo cáo về được trong tập ("The Ice Warriors", 1967). Hành tinh Gallifrey là hành tinh quê nhà của Doctor và các Time Lords. Hành tinh này nằm trong một hệ sao đôi (tập "Gridlock") thuộc chòm sao Kasterborous (tập "Pyramids of Mars", "Attack of the Cybermen" và "Voyage of the Damned"), và có tọa độ thiên văn là 10-0-11-0-0 gần 0-2 tính từ trung tâm thiên hà Zero (tập "Pyramids of Mars" (1975), "Full Circle" (1980) và trong tập "The Family of Blood" (2007)), cách Trái Đất 250 triệu năm ánh sáng (trong phần mở đầu tập phim truyền hình năm 1996), hoặc cách 29 ngàn năm ánh sáng (theo loạt phim cũ). Điều này làm cho vị trí của hành tinh này vượt ra ngoài Dãy Ngân hà của chúng ta, cách khoảng 100 năm ánh sáng theo đường kính, xa ra khỏi Nhóm Sao Địa phương và vượt ra ngoài Siêu đám thiên hà Xử Nữ; tuy vậy nó vẫn nằm trong Phức Siêu đám thiên hà Song Ngư - Kình Ngư. Nhìn từ không gian, Gallifrey có màu vàng cam. Hành tinh được bao bọc bởi một bức màn gọi là ""Trường lượng tử". Cháu gái của Doctor là Susan từng miêu tả Gallifrey rằng đó là một hành tinh sáng chói, với những cái cây có lá bạc, bầu trời có màu cam rực lửa vào ban đêm. Vị trí của hành tinh Gallifrey trong loạt phim mới năm 2005 có nhiều bí ẩn. Trong Series 1, Doctor đã kể rằng hành tinh bị hủy diệt hoàn toàn với cư dân trên đó cùng với Dalek Empire, bởi chính Doctor trong Time War. Hành tinh này không được nhắc đến cho đến tập "The Runaway Bride", tuy vậy nó xuất hiện hết sức ấn tượng trong tập "The End of Time". Nó cũng xuất hiện chớp nhoáng trong tập cuối của series 7, "The Name of the Doctor", đoạn xuất hiện này thể hiện Doctor thứ nhất và Susan đang đánh cắp tàu TARDIS trong bãi tàu cũ. Gallifrey được tiết lộ vẫn còn tồn tại trong cái kết của "The Day of the Doctor", hành tinh bị đóng băng trong một nếp gấp thời gian ở một vũ trụ khác. Hành tinh Skaro: là hành tinh quê nhà của loài Daleks. Trong tập "The Daleks" (1963), hành tinh Skaro được miêu tả là hành tinh thứ 12 tính từ mặt trời của nó, trong tập "Genesis of the Daleks" (1975) Skaro thuộc "Thiên hà thứ 7"". Hành tinh này có nhiều mặt trăng gồm: Flidor, Falkus và Omega Mysterium. Falkus là nơi mà Daleks thường chọn làm chốn ẩn nấp. Falkus và Omega Mysterium cũng thường được nhắc đến trong các vở kịch âm thanh của Big Finish Productions ("I, Davros" audio dramas ' and '). Trong tập "Destiny of the Daleks" (1979) người Movellans nói rằng Skaro nằm ở D–5–Gamma–Z–Alpha. Hành tinh này là sáng tạo của biên kịch Terry Nation. Hành tinh Mondas là quê nhà của loài Cybermen, một dạng sinh vật cơ khí hóa. Mondas xuất hiện lần đầu tiên trong tập "The Tenth Planet"(1966). Trong tập "The Tenth Planet", một nhà phi hành gia New Zealand đã phát hiện ra một hành tinh mới kế cạnh Trái Đất, có bán kính nằm giữa Sao Hỏa và Sao Kim. Khi Cybermen đề cập đến tên của hành tinh mình, Tiến sĩ Barclay thắc mắc liệu cái tên Mondas có phải là một cái tên cổ của Trái Đất không (c.f. the Latin "mundus"). Cyberman khẳng định rằng, một triệu năm trước, Mondas và Trái Đất là hai hành tinh sinh đôi, sau đó Mondas bị trôi dạt trong không gian. Trong hai tập phim ""Rise of the Cybermen" và "The Age of Steel" (2006) đã giới thiệu loài Cybermen với hình dạng được nâng cấp và xuất xứ từ Trái Đất ở "vũ trụ song song"", chứ không còn là ở hành tinh Mondas nữa. Doctor thứ 10 ám chỉ tới Mondas khi anh giải thích rằng Cybermen ở vũ trụ này có xuất phát điểm từ một hành tinh "giống như" Trái Đất. Hành tinh Telos là một hành tinh cằn cỗi và có nhiều núi khổng lồ, ít có dấu hiệu của sự sinh trưởng của thực vật. Hành tinh này bị xâm chiếm bởi Cybermen và mỉa mai thay nó lại là nấm mồ sẽ chôn vùi Cybermen. Hành tinh này lần đầu xuất hiện trong tập "The Tomb of the Cybermen" (1967) và "Attack of the Cybermen" (1985). Hành tinh Vortis xuất hiện lần đầu tiên trong tập "The Web Planet" (1965), thuộc Thiên hà Isop. Dân cư sinh sống trên "The Web Planet" (Vortis) gồm có 2 chủng loài, một loài có dạng "giống kiến" tên là Zarbi và một loài có dạng "giống bướm" tên Menoptra. Hành tinh này được miêu tả khá lạnh và tối, thiếu sức sống, nhưng những điều kiện này vẫn hỗ trợ một bầu khí quyển để thở, có nước và thực phẩm. Trước khi có sự xuất hiện của tên "Animus" nham hiểm đã chiếm lấy quyền kiểm soát hành tinh, hành tinh Vortis từng được bao phủ bởi một thảm rừng hoa, và loài Menoptra từng hy vọng có ngày sẽ trở lại nơi này. Nhiều năm sau, sau khi Animus kiểm soát,nơi này gần như hoang tàn, hành tinh Vortis bị trôi dạt đến "Hệ sao Rhumos" và đã nổ ra các trận chiến với người Rhumons, họ xem đây là một vùng lãnh thổ tranh chấp. Animus sống sót sau trận chiến, nhờ sự can thiệp của một nhà du hành thời gian, ông đã đem lại hòa bình cho thế giới hỗn độn này. Hành tinh này là sáng tạo của biên kịch Bill Strutton. Hành tinh Trenzalore là một hành tinh được đề cập trong tập ""The Wedding of River Song" và sau đó xuất hiện trong tập "The Name of the Doctor". Sao đôi Alpha Centauri là một cặp sao trong hệ sao là nơi cư ngụ của loài Alpha Centauri, từng xuất hiện trong tập "The Curse of Peladon" và "The Monster of Peladon". Tên hành tinh của người Alpha Centauri chưa được tiết lộ. Thiên hà Tiên Nữ là thiên hà quê nhà của loài "Sabalom Glitz" và "Sleepers" trong tập "The Trial of a Time Lord". Thiên hà này từng được viếng thăm bởi Doctor trong quyển tiểu thuyết "Doctor Who and the Invasion from Space". Trong tập "The Ark in Space" đây được cho là hành tinh quê nhà của loài Wirrn. Thiên hà thứ Năm là lãnh thổ của loài Zephon, Chủ nhân của "Thiên hà Thứ năm", trong câu chuyện "The Daleks' Master Plan". Không rõ đây có phải là cùng một "Thiên hà Thứ năm", nơi mà có cuộc chiến xảy ra với tộc Federation trong tập "The Monster of Peladon". Medusa Cascade là tên của một vết nứt trong vũ trụ, hay vết nứt không-thời gian. Master từng nói rằng chính Doctor đã vá lại vết nứt này trong tập "Last of the Time Lords"". Nơi đây có "Mặt trăng vỡ thứ 15" như trong tập ""The Sontaran Stratagem". Trong tập "The Stolen Earth", đây là nơi Davros và các Daleks lưu giữ 27 hành tinh bị đánh cắp xung quanh Davros' Crucible. Nơi đây cũng được nhắc đến bởi Evelina trong tập "The Fires of Pompeii" khi cô nhắc nhở với Doctor:"Danh tính của ngài được giấu kín. Nó thiêu rụi các vì sao, tại nơi là Cascade of Medusa"". E-Space, hay "Exo-Space", là một vũ trụ khác liên kết với vũ trụ chúng ta bằng Charged Vacuum Emboitments. Tinh vân Đầu Ngựa là một tinh vân có thật được biên kịch Russell T Davies miêu tả rằng đây là quê nhà của loài Ood, hay Oodsphere . Kẻ thù. Kẻ thù của Doctor thường rất đa dạng, ở mỗi tập anh đều phải đối mặt với những kẻ thù khác nhau. Trong loạt phim mới từ 2005, nhà sản xuất của phim là Russell T Davies đã lên kế hoạch để cho xuất hiện lần lượt các kẻ thù tiêu biểu điển hình của Doctor: Trong các tập đặc biệt phát sóng trong giai đoạn 2009–10 là các Chúa tể thời gian (Time Lord - Rassilon), những người thuộc chủng tộc của ông nhưng đã bị tuyệt chủng trong Chiến tranh thời gian (Time War), nay quay trở lại từ quá khứ. Kế tiếp thành công của Davies, Steven Moffat tiếp tục đưa các nhân vật khác trở lại như: Dù không phải là kẻ thù của Doctor, vẫn có một số chủng tộc ngoài hành tinh khác thường xuyên xuất hiện: loài Slitheen (Raxacoricofallapatorian), Người Ood, Judoon, Weeping Angels và Silence. Loài Dalek. Loài Dalek lần đầu tiên xuất hiện trong câu chuyện thứ hai của bộ phim, từ năm 1963, là kẻ thù lâu đời nhất của "Doctor Who". Daleks từng là chủng tộc "Kaled" thuộc hành tinh "Skaro", bị đột biến bởi một nhà khoa học tên là "Davros" vào năm cuối trong cuộc chiến tranh với chủng tộc "Thals", sau này chúng đã tiêu diệt tất cả loại "Thals" và hủy diệt toàn bộ hành tinh quê nhà của chúng. Chúng được đặt trong một cỗ xe cơ khí di động như một chiếc xe tăng nhưng lại có hình dáng của một lọ đựng hạt tiêu khổng lồ. Hình dáng thực sự của chúng trông giống như một con bạch tuộc khổng lồ với đôi mắt và bộ não lớn có thể nhìn thấy được. Áo giáp của chúng chỉ có một con mắt duy nhất cho phép chúng có thể nhìn, một đầu giác mút như một cánh tay, và một loại vũ khí có độ sát thương mạnh hình như một dụng cụ đánh trứng. Điểm yếu duy nhất của chúng là đôi mắt, chúng có thể dễ bị tấn công vào đó bởi súng và thậm chí là gậy bóng chày, điều đó sẽ làm chúng mù và phát điên. Chúng dễ được nhận ra mỗi khi xuất hiện bằng tiếng kim loại cũng như lúc nào cũng nói "exterminate", vai trò chính của chúng là tiêu diệt tất cà các chủng loài không phải là Dalek, quan trọng nhất là cuộc tấn công các Time Lord ("Chúa tể thời gian") trong một cuộc chiến từng xảy ra nhưng chưa bao giờ được kể đến - Time War ("Chiến tranh thời gian"). Lần xuất hiện gần đây nhất của Dalek là vào năm 2012 trong tập ""Asylum of the Daleks" ("Trại tị nạn Dalek"). Và chúng sẽ vẫn là một loài quái vật mà "The Doctor" phải đối mặt. Nhân vật Davros cũng là một nhận vật đáng chú ý kể từ khi tập "Genesis of the Daleks", ("Kỷ nguyên của Dalek") phát sóng. Loài Dalek được sáng tạo ra bởi biên kịch Terry Nation (người đã dự định cho chúng mang hình bóng và phong thái của Đức Quốc xã) và nhà thiết kế của đài BBC Raymond Cusick. Dalek xuất hiện lần đầu tiên trong loạt phim thứ hai của bộ phim, "The Daleks" (1963–64). Dalek xuất hiện trên một con tem kỉ niệm tại Anh Quốc vào năm 1999. Trong loạt phim mới, Dalek xuất hiện với nhiều màu sắc hơn; mỗi màu của chúng thể hiện được cấp bậc của chúng trong chủng loài mình. Năm 2012, tập phim "Asylum of the Daleks"", tất cả các thế hệ của chủng loài Dalek đã lần lượt xuất hiện. Cyberman. Loài "Cybermen" ban đầu là "chủng tộc Cyborg". Cybermen nguyên bản là một sinh vật sống bình thường có nhân dạng giống con người, họ sống trên một hành tinh sinh đôi với "Trái Đất" mang tên "Mondas", tuy vậy, công nghệ ngày càng phát triển họ bắt đầu cấy ghép và thay thế các bộ phận trên cơ thể họ bằng các bộ phận nhân tạo như một cách để sống lâu hơn và kéo dài tuổi thọ. Cuộc chạy đua nâng cấp chính chủng loại của mình làm cho bản thân họ tư duy lạnh lùng và toan tính hơn, mọi cảm xúc của con người dần mất đi và bị loại bỏ triệt để. Trong loạt phim tiếp nối bắt đầu từ 2005, loại Cybermen trở lại trong một phiên bản tại "thế giới song song", chúng xuất hiện ở phần 2 năm 2006 trong 2 tập là "Rise of the Cybermen" và "The Age of Steel" và tiếp tục là kẻ thù của Doctor trong nhiều tập kể từ đó. Các thiết kế lại của Cyberman xuất hiện trong tập phim năm 2013 là "Nightmare in Silver" cho thấy công nghệ tiên tiến của Cybermen đã phát triển rất nhanh, chúng có thể tự nâng cấp bản thân mình ngay tức thì để sửa chữa những hư hỏng và sai sót. Cyberman cũng xuất hiện trong một bộ phim spin-off của "Doctor Who" là "Torchwood" trong tập "Cyberwoman" (2006). Nhân vật này được sáng tạo bởi Dr. Kit Pedler (Cố vấn Khoa học không chính thức của loạt phim) và Gerry Davis năm 1966, xuất hiện lần đầu trong câu chuyện "The Tenth Planet", cũng là câu chuyện cuối cùng dưới thời của William Hartnell trong vai "Doctor thứ nhất". Master - Thạc sĩ. Master cũng là một "Time Lord" như Doctor. Tuy vậy lại là một phiên bản đen tối hơn, và là kẻ thù không đội trời chung của Doctor. Giống như motip "Professor Moriarty thường chống lại Doctor's Sherlock Holmes", nhân vật này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1971. Mục đích của nhân vật này là muốn thống trị toàn vũ trụ (trong tập "The Deadly Assassin" ông ta thể hiện tham vọng muốn trở thành "the master of all matter", và trong tập "The Sound of Drums" ông ta thừa nhận đó là lý do tại sao ông tự gọi mình là "Master"). Mục tiêu thứ hai cũng không kém phần quan trọng với ông là tìm mọi cách để tiêu diệt và làm tổn thương Doctor. Vẻ bề ngoài ban đầu của nhân vật (vẫn phổ biến trước năm 1996) rất giống nhân vật Svengali cổ điển trong một bộ trang phục jacket Nehru đen với ria mép và râu quai nón. Ba phần có sự xuất hiện đầu tiên của Master bắt đầu từ tập "Terror of the Autons", Master (đóng bởi Delgado) ông xuất hiện 8 tập trong số 15 tập của câu chuyện này. Trong phần đầu tiên có sự xuất hiện của Master ông luôn có mặt trong các chuyến phiêu lưu của Doctor, luôn tốn mất ở phút cuối cùng trước khi bị bắt trong tập "The Dæmons" (1971), trốn thoát khỏi nhà tù trong tập "The Sea Devils" (1972). Ông thường dùng thuật cải trang và tẩy não trong lúc làm việc hay lên kế hoạch tác chiến với người trong xã hội bình thường. Ông cũng lợi dụng các chủng tộc ngoài hành tinh khác cũng như vũ lực để thực hiện ý đồ chinh phục của mình, chẳng hạn như Autons và Dæmons. Sự diễn xuất của Delgado trong vai Master được mô tả là ngọt ngào, quyến rủ rất có nội tâm và chiều sâu, có thể giết một ai đó một cách vô cùng lịch lãm. Cảnh cuối cùng của Delgado trên màn ảnh trong vai Master là trong tập "Frontier in Space", trong lúc ông đang hợp tác với Dalek và "Ogron" để kích động một cuộc chiến tranh giữa Loài Người và "Đế chế Draconian". Vai của ông kết thúc với cảnh ông đang bắn Doctor và biến mất sau đó. Trở về thời thơ ấu của Master trong tập "The Sound of Drums" (2007) và "The End of Time" (2009–2010), một cảnh nhỏ cho thấy Master lên 8 tuổi. Một nghi lễ của Time Lord mà mọi công dân trẻ đều phải tham dự, đứa bé nhìn vào một cái hố sâu trống rỗng trong không thời gian được gọi là "Untempered Schism", từ đó có thể nhìn thấy toàn bộ "Vortex" (Vòng xoáy thời gian). Doctor nhận định rằng nhìn thẳng vào trong "time vortex" có thể khiến một số Time Lords phát điên, điều đó có thể lý giải cho những hành động mà Master gây ra cũng nhưng việc lúc nào trong đầu Master cũng nghe được "bốn hồi trống", mà Master gọi chúng là "Drums of War" ("Hồi trống khai trận"). Tiếng trống đó sau này được tiết lộ là một tính hiệu gợi nhớ mà các Time Lords đã để lại trong tâm trí Master trong suốt "Time War". Trong tập "The End of Time", Lord President của Time Lords xác nhận rằng âm thanh đó chính là nhịp tim đập của Time Lord. Tương tự như Doctor, vai của Master được diễn bởi nhiều diễn viên khác nhau, lý do để kết nối sự thay đổi diễn viên này cũng là do ông là Time Lord và cũng có khả năng tái sinh như Doctor. Diễn viên đầu tiên thủ diễn vai này là Roger Delgado, ông tiếp tục đảm nhiệm vai cho tới khi ông qua đời năm 1973. Tiếp đó, vai được diễn bởi Peter Pratt và Geoffrey Beevers cho tới khi Anthony Ainley nhận vai và tiếp tục đảm nhiệm nhân vật này cho tới khi loạt phim Doctor Who bị dừng sản xuất năm 1989. Master trở lại với màn ảnh vào năm 1996 trong một phim "Doctor Who", và được diễn bởi diễn viên người Hoa Kỳ Eric Roberts. Master cũng xuất hiện trong loạt phim mới năm 2005, thủ vai này trong vòng 1 tập là diễn viên Derek Jacobi dưới nhân dạng con người là Dr. Yana (do dùng Chameleon Arch có thể lưu giữ cơ thể và ký ức của một Time Lord và một chiếc đồng hồ, biến người đó thành một người hoàn toàn bình thường, người đó chỉ trở lại trạng thái ban đầu khi mở chiếc đồng hồ ra) trước khi nhân vật bắt đầu tái sinh, kể từ đó John Simm đảm nhận vai cho tới năm 2014 thì được Michelle Gomez (master nữ đầu tiên) thay thế. Silurian - Reptilia Human hay Người Thằn lằn. Silurian là một chủng tộc thuộc loài bò sát có hình dáng của con người, xuất hiện lần đầu tiên trong tập ""Doctor Who and the Silurian" (1970). Họ được miêu tả là một chủng loài tiến bộ với nền khoa học kỹ thuật cao, sinh sống trên Trái Đất ở buổi bình minh của loài người. Họ dự đoán sẽ có một biến cố trên Trái Đất (sự bắt giữ Mặt trăng của Trái Đất), họ chọn cách đưa toàn bộ chủng loài của mình vào trạng thái ngủ đông để bảo tồn giống nòi. Trong loạt phim cũ, họ được miêu tả là có 3 mắt và có một người họ hàng xa cũng thuộc loài bò sát là "Sea Devils". Loài Silurian quay trở lại với loạt phim mới với hình dáng được cải tiến hơn, con mắt thứ 3 biến mất thay vào đó là họ đeo một chiếc mặt nạ trong tập kép "The Hungry Earth/Cold Blood". Họ bị đánh thức bởi một dàn khoan dầu vào năm 2020. Do hiểu lầm rằng đó là một sự tấn công, họ đã bắt cóc một cậu bé làm con tin. Sau khi giải quyết xong hiểu lầm, Doctor yêu cầu con người và Silurian ngồi vào bàn đàm phán và hứa sẽ chia sẻ cuộc sống trên Trái Đất này với nhau khi người Silurian được đánh thức một lần nữa sau một ngàn năm nữa. Một người Silurian là "Madame Vastra", là một thám tử sống vào thời Victoria của Anh. Cô là bạn của Doctor và thường được Doctor nhờ giúp đỡ. Cô sống cùng với một người bạn là cô hầu và cũng là người tình, "Jenny Flint". Và một người Sontaran tên "Strax" làm quản gia. Great Intelligence. Great Intelligence là một nhân vật phản diện không có một cơ thể thực sự, tuy vậy nhân vật này có thể giao tiếp bằng cách chiếm lấy cơ thể của một người khác, nhân vật này xuất hiện dưới nhiều hình thái khác nhau xuyên suốt loạt phim. "Great Intelligence" là nhân vật được sáng tạo bởi biên kịch Henry Lincoln và Mervyn Haisman xuất hiện lần đầu tiên năm 1967 trong loạt tập "The Abominable Snowmen", trong tập này hắn phải đối đầu với Doctor thứ hai và hai bạn đồng hành là Jamie và Victoria. Hắn cố tìm lấy một cơ thể thực sự để thống trị Trái Đất, hắn dùng các con robot Yeti giả làm các sinh vật huyền bí. Ban đầu, Great Intelligence chỉ dùng chúng để hù dọa mọi người, sau đó hắn phát triển chúng lên thành một binh đoàn. Great Intelligence và Yeti tiếp tục trở lại trong phần sau đó là tập "The Web of Fear". "Great Intelligence" tiếp tục trở lại trong loạt phim mới và năm 2012 trong tập đặc biệt Giáng sinh "The Snowmen"", được thể hiện bởi giọng của Sir Ian McKellen, tập Giáng sinh này kể về sự khởi đầu của nhân vật này. Richard E Grant tiếp tục đảm nhận vai diễn tiếp đó khi nhân vật chiếm được thể xác của Dr. Simeon trong phần 7.
1
null
Bathynomus giganteus là một loài Malacostraca. Loài này đã được Milne Edwards mô tả khoa học năm 1879. "Bathynomus giganteus" thuộc chi "Bathynomus", họ Cirolanidae. Loài này sinh sống ở vịnh Mexico. Bathynomus giganteus có chiều dài trung bình từ 19 – 36 cm. Tuy nhiên, chúng có thể đạt chiều dài tối đa tới 40 cm và cân nặng 1,7 kg. "Bathynomus" là sinh vật đáy và có nhiều ở các vùng nước lạnh có độ sâu 310–2140 m ở Tây Đại Tây Dương, bao gồm vịnh Mexico và Caribe. Đây là loài đầu tiên của " Bathynomus " được mô tả và theo lịch sử, nó được báo cáo từ các đại dương khác, nhưng chúng hiện được công nhận là các loài liên quan chặt chẽ khác. Kích thước lớn bất thường của " Bathynomus " được cho là do một hiệu ứng được gọi là hiện tượng khổng lồ biển sâu, nơi các động vật không xương sống sống ở vùng nước sâu lạnh giá có xu hướng phát triển lớn hơn và có tuổi thọ dài hơn. Đây là một hải sản có giá cao tại thị trường Việt Nam, giá bán cao hơn tôm hùm.
1
null
Á Tế Á ca (nghĩa là "Bài ca châu Á"), còn có tên gọi khác là Đề tỉnh quốc dân ca (Bài ca thức tỉnh quốc dân), Nam hải bô thần ca (Bài ca của một bề tôi trốn tránh người biển Nam), là một bài thơ diễn ca yêu nước được lưu truyền tại Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Trong ba tên gọi khác nhau đã biết của bài thơ tên gọi "Á Tế Á ca" được nhiều người biết đến hơn cả. Cho đến này vẫn chưa rõ tác giả của bài thơ này là ai, người thì cho là Nguyễn Thiện Thuật, người khác thì cho là Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Dương Bá Trạc. Các truyền bản. Bài thơ này có 4 truyền bản: Ý nghĩa lịch sử. Bài ca thể hiện hình ảnh xã hội Việt Nam trước năm 1945, một xã hội bất công, áp bức, cần thức tỉnh những con dân nô lệ phải nổi dậy lật đổ dưới chế độ thực dân Pháp. Bài ca đồng thời ca ngợi thành công của cuộc duy tân Nhật Bản từ thời Minh Trị như một tấm gương của châu Á, nhất là một tấm gương cho Việt Nam và các nước Đông Dương đang đau khổ. Nó trở thành một trong những bài nổi tiếng nhất của phong trào Duy tân yêu nước đầu TK XX. Bài thơ được truyền tụng rộng rãi trong dân chúng, được trường Đông Kinh Nghĩa Thục dùng làm tài liệu học tập, bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh và được bí mật cho in và gửi đi khắp nơi. Sau này bài thơ được đưa vào hầu hết các tuyển tập văn học đầu TK XX. Trước 1975, sách giáo khoa phổ thông ở miền Bắc cũng đưa một trích đoạn bài thơ này vào sách Trích giảng văn học, nên rất được nhiều người thuộc.
1
null
Cơm gà là món ăn được chế biến và trình bày với hình thức cơm và thịt gà. Cơm có thể dùng là cơm trắng hoặc cơm chiên, cơm rang và thịt gà được trình bày thông thường là đùi gà hay cánh gà. Món cơm gà tương đối dễ làm và phổ biến. Nhưng tùy theo từng quốc gia và tập tục địa phương mà có những phương cách thực hiện khác nhau. Trên thế giới. Châu Mỹ Latin. Cơm gà cũng là một món ẩm thực truyền thống của Tây Ban Nha và các nước châu Mỹ Latin đặc biệt là Colombia, Cuba, Costa Rica, Honduras, Nicaragua, Venezuela, Panama, Peru và Puerto Rico. Tại Cộng hòa Dominica nó được gọi là "locrio de pollo" và Saint Martin nơi nó được gọi là "lokri" hay "locreo", nhìn chung các nước này có món cơm gà với tên gọi là Arroz con pollo (có nghĩa là cơm ăn với gà). Có một số tranh luận nguồn gốc của nó là ở Tây Ban Nha hay là Puerto Rico. Puerto Rico coi nó như một trong những công thức nấu ăn cổ điển của đất nước này, có những lưu ý về thành phần Bia và Cari hiếm khi được sử dụng trong nấu ăn Tây Ban Nha và không bao giờ trong món arroz con Pollo. Cari thường được sử dụng trong ẩm thực Puerto Rico nấu ăn đặc biệt trong các món cơm như arroz con gandules (gạo với thịt lợn và đậu pigeon) và arroz con Maiz (gạo với ngô và xúc xích). Bia có trong nhiều món ăn Puerto Rico như Pollo guisado (gà hầm) và asopao de Pollo (cơm gà hầm). Arroz con Pollo và món cơm Puerto Rico được đánh giá cao nhất. Nhà thực phẩm học Elisabeth Lambert Ortiz, trong khi đề cập vào các khía cạnh quốc tế của món ăn này đã lưu ý rằng nguồn gốc của nó ở Tây Ban Nha dưới dạng cơm thập cẩm và đã được phản ánh là có ảnh hưởng quốc tế trong việc hình thành món ăn, gà được đưa từ Ấn Độ và gạo từ châu Á thông qua việc giới thiệu từ các thương nhân Phoenicia còn cà chua và ớt (còn gọi là sofrito) lại là của người bản địa ở châu Mỹ. Châu Á. Ấn Độ. Ở Ấn Độ, món ăn cơm gà còn có tên gọi là Biriyani, hay còn được biết đến là món cơm gà chiên hoặc cơm gà nướng. Ngoài gạo Basmati, cơm còn được pha trộn với hành tím, thì là, quế, đậu Hà Lan, hạt điều, gừng, là món ăn tốt cho những người muốn giảm cân vì hàm lượng calo rất thấp. Brunei. Ở Brunei, có món cơm gà nướng Brunei khi đến chợ đêm ở Brunei, du khách sẽ thưởng thức món cơm gà nướng ở đây. Phần ăn khá đơn giản với cơm trắng, một phần thịt gà nướng vàng cùng ít dưa leo, cà chua. Malaysia và Singapore. Tại Malaysia, có món Cơm gà Hải Nam tại các quán ăn đường phố, vì Xuất thân của món ăn này là các cư dân từ đảo Hải Nam, Trung Quốc. và ở Singapore cũng thường thấy món ăn này, nên nó còn có tên gọi khác là cơm gà Hải Nam Singapore. Một phần cơm gà gồm có cơm dẻo nấu từ nước dùng gà, thịt gà thái miếng, chén muối tiêu chanh và chén nước dùng. Nhật Bản. Ở Nhật Bản có món cơm gà Nhật Bản (Oyakodon, trong đó "Oya" có nghĩa là "bố mẹ" tức thịt gà, "ko" có nghĩa là "con" tức trứng gà, còn "don" là tên gọi chung của các nguyên liệu ăn kèm). Món này phải ăn lúc còn nóng thì mới thưởng thức hết vị thơm ngon. Điểm đáng chú ý nhất chính là thịt gà, từng miếng thịt gà chín mềm nhưng không bở, được thấm nước sốt vừa đậm lại có vị hơi cay. Việt Nam. Ở Việt Nam, ngày nay món cơm gà đã trở thành phổ biến, cơm gà vùng miền nào ở Việt Nam cũng có nhưng mỗi nơi chế biến mỗi khác, đáng chú ý là món cơm gà Phan Rang hấp dẫn không chỉ do cách nấu mà còn do chất lượng thịt gà. Nhìn chung, cơm gà là món dễ nấu nhưng không phải ai nấu cũng ngon vì phụ thuộc vào thịt gà, chẳng hạn như gà thả vườn bắp thịt rắn chắc do vận động nhiều, da bên ngoài có màu vàng tự nhiên trong khi đó những con gà công nghiệp bắp thịt thường nhão do thiếu vận động và ít tiếp xúc ánh nắng nên da thường có màu trắng và như vậy sẽ có sự khác biệt về chất lượng. Ngoài ra, yếu tố nước luộc gà thanh ngọt thấm vào từng hạt cơm là bí quyết không chỉ giúp hạt cơm chín mềm, thơm béo mà còn có màu vàng ươm đẹp mắt. Cơm gà ở Việt Nam còn có các hình thức như cơm gà xối mỡ, đây là món quen thuộc với người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh, món này đã có mặt ở đây từ lâu. Trong chế biến, xối mỡ có nghĩa là gà cho vào vỉ nướng rồi rưới mỡ lên liên tục, và nhờ thế gà vừa chín vừa ráo mỡ, ăn không ngán. Gà xối mỡ có ưu điểm là giòn rụm sâu và đến cả phần xương, phần da bên ngoài thì béo ngậy. Ngoài ra, cơm gà giá rẻ ở Việt Nam còn được bày bán trong các siêu thị với giá cả phải chăng so với các quán bình dân.
1
null
America's Next Top Model, Mùa thi 19 (còn được gọi là America's Next Top Model: Nữ sinh đại học) là mùa thi thứ 19 của chương trình thực tế "America's Next Top Model" phát sóng vào ngày 24 tháng 8 năm 2012 trên The CW. Chương trình đặc biệt dành cho 13 cô gái tiềm năng đều đang là học sinh, sinh viên của các trường đại học có ước mơ trở thành người mẫu chuyên nghiệp. Trong mỗi tuần thi, các thí sinh sẽ nhận được điểm số đánh giá từ Tyra, Kelly và Rob cho phần thể hiện của họ trong những thử thách và chụp hình. Những điểm số này cùng với điểm trung bình từ người hâm mộ do Bryanboy công bố sẽ xác định những người ở lại trong cuộc thi mỗi tuần. Cô gái với số điểm thấp nhất sẽ bị loại khỏi cuộc thi. Tuy nhiên, trong 6 tuần đầu tiên các cô gái bị loại vẫn có thể tham gia chụp ảnh, và ảnh của họ sẽ được bầu chọn tiếp tục từ người hâm mộ. Cô gái có số điểm truyền thông cao nhất trong số các cô gái đã bị loại sẽ có cơ hội trở lại tham gia tiếp cuộc thi. Điểm đến quốc tế của mùa này là Ocho Rios dành cho top 6. Người chiến thắng mùa này là cô gái Laura James, 21 tuổi, đến từ Cambridge, New York và đại diện Trường Cao đẳng Paul Smith. Giải thưởng của cô trong mùa thi này là: Đinh dạng chương trình. Thành phần ban giám khảo đã không còn Nigel Barker, Ms J. và Jay Manuel. Ban giám khảo mới sẽ bao gồm Tyra Banks và Kelly Cutrone. Siêu mẫu Rob Evans sẽ thay thế cho vị trí của Ms J. Alexander. Mùa thi có thêm sự bình chọn công khai từ khán giả sẽ góp phần quan trọng trong việc đi hay ở của thí sinh, và Bryanboy sẽ là người đại diện ban giám khảo để thông báo số điểm mà khán giả và fan bình chọn cho thí sinh trong tuần. Đây là mùa thi đầu tiên có 4 thành viên BGK thường trực mà không có giám khảo khách mời. Ngoài ra, giám đốc sáng tạo Mr Jay Manuel cũng được thay thế bởi Johnny Wujek.
1
null
Nguyễn Văn Vóc (1942-1968) là một Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Thân thế cuộc đời. Ông có tên thường dùng là Lê Hồng, sinh năm 1942, quê ở ấp An Lợi, xã Thanh Mỹ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, sau năm 1956 thuộc về huyện Mỹ An, tỉnh Kiến Phong, đến năm 1974 lại thuộc về tỉnh Sa Đéc (nay thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo. Chịu ảnh hưởng của gia đình, vốn có nhiều người thân từng hoạt động cho Việt Minh, đầu thập niên 1960, ông bắt đầu tham gia hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Ban đầu ông được tiếp nhận vào công tác bảo vệ ở đơn vị Giao bưu tỉnh Kiến Phong. Năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Tiểu đội phó, Trung đội giao liên B412, giữ nhiệm vụ đưa rước "khách đặc biệt" (tức các cán bộ, lãnh đạo quan trọng của Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam). Suốt những năm 1964 - 1968, ông nhiều lần tham gia và tổ chức đưa các cán bộ lãnh đạo cấp cao xuống chiến trường, vượt qua các tuyến phòng thủ, chốt chặn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở biên giới, qua Đồng Tháp Mười, xuống Mỹ Tho, Bến Tre và các tỉnh Tây Nam bộ. Trong tuyến công tác từ ngày 13 đến 16 tháng 5 năm 1968, ông cùng các đồng đội trong Đội giao liên B412 đã bảo vệ và đưa đoàn khách gồm 5 cán bộ, trong đó có 4 cán bộ là Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh uỷ các tỉnh: Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Kiến Phong và ông Tám Dần là Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 8 từ chiến trường về Trung ương cục. Tuy nhiên, rạng sáng 16 tháng 5 năm 1968, khi đoàn đến địa bàn ngã tư Công Đông (nay thuộc xã Tân Công Sính, huyện Tam Nông) thì gặp ngay cuộc đổ quân của một đơn vị thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Phía Việt Nam Cộng hòa liên tục tăng viện đến cấp tiểu đoàn để tổ chức bao vây. Hai bên chạm súng quyết liệt hơn nửa ngày trời với 7 lượt giao tranh. Tuy nhiên do lực lượng chênh lệch và nhằm bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ đoàn khách, ông tình nguyện ở lại để chặn đối phương, để các đồng đội phá vây, bí mật dẫn đoàn khách rút khỏi trận địa an toàn. Một mình ông ở lại chiến đấu, cố gắng nghi binh ngăn chặn đối phương cho đến khi tử trận. Vinh danh. Ông được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1997.
1
null
là một loại bánh nướng ăn nhẹ có hình cầu làm bằng bột mì với nhân bạch tuộc, nướng trong chảo takoyakiki. Thành phần chính của nhân bánh là bạch tuộc băm hay thái hạt lựu (hoặc nhân hoàn toàn là phô mai) có thể độn thêm một số thứ khác và rắc thêm một số gia vị cũng như còn được tẩm với nước sốt tùy vào công thức mà chúng có thể khác nhau. Lịch sử. Takoyaki ban đầu được bán tại Osaka, nơi ở của một người bán thức ăn đường phố có tên Endo Tomekichi. Ông thường làm món bánh nướng bọc nhân thịt bò chấm nước tương, nhưng sau khi ăn thử món akashiyaki và bị ấn tượng mạnh vào năm 1935 thì ông đã chuyển sang làm nhân bạch tuộc và gọi nó là takoyaki. Món này sau đó đã trở nên nổi tiếng tại vùng Kinki trước khi lan ra toàn Nhật Bản. Các tạp chí bắt đầu giới thiệu về nó trước chiến tranh thế giới thứ hai như một món ăn đặc sản của Osaka làm cho những người nấu món này cũng nhiều hơn. Ban đầu món ăn được bán trong các quầy chế biến thực phẩm yatai tại các dịp lễ hội nhưng sau đó các nhà hàng chuyên phục vụ takoyaki đã mọc lên và đến năm 1955 thì đã có 5000 nhà hàng và quán ăn phục vụ món này riêng ở Osaka. Hiện tại thì takoyaki cũng được bán thành các vỉ/phần làm sẵn tại siêu thị. Cũng như gần đây thì loại bánh này bắt đầu đi ra ngoài Nhật Bản đến các nước khác. Cách ăn ban đầu của takoyaki là cứ bỏ vào miệng nhai chứ không có nước sốt. Nước sốt của món này chỉ bắt đầu được làm sau chiến tranh thế giới thứ hai, vào năm 1948. Các cửa hàng khác nhau có thể điều chế nước sốt theo công thức riêng với các hương vị khác nhau. Chảo nướng. Chảo nướng takoyaki được gọi là takoyakiki (たこ焼き器) hay ít dùng hơn là takoyaki-nabe (たこ焼き鍋) được làm bằng gang với các lỗ hình bán cầu. Khối lượng lớn giúp chảo nóng đều. Khi nửa mặt đã chín thì người nấu sẽ xoay mặt các bánh để nướng phần phía chưa nấu. Chảo dùng ga đã được giới thiệu thay cho nướng bằng than để tiện cho việc di chuyển nấu nướng bày bán đến các lễ hội hay ngoài đường. Còn trong nhà thì có các loại dùng điện hay nấu trên bếp.
1
null
Anton Stepanovich Arensky (1861-1906) (tiếng Nga: Антон Степанович Аренский) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano và là giáo sư âm nhạc người Nga. Cuộc đời và sự nghiệp. Ông sinh ở Novgorod, Nga. Ông học nhạc từ rất sớm và đã sáng tác một số bài hát khi lên 9 tuổi. Năm 1879, ông học tại nhạc viện Saint Petersburg. Anton Arensky học âm nhạc ở Nikolay Rimsky-Korsakov tại thành phố Sankt Petersburg sau đó ông trở thành giáo sư về hòa thanh và phức điệu tại Nhạc viện Moskva. Năm 1895 ông trở về Saint Petersburg và hoạt động như một nghệ sĩ dương cầm, nhạc trưởng và sàng tác. Ông qua đời vì bệnh lao ở tuổi 44. Các tác phẩm. Các tác phẩm nổi tiếng hơn cả của Anton Arensky gồm có: Ngoài ra còn có 2 string quartet, 1 string quintet cho piano.
1
null
Siêu nhí Karate ( - The Kung Fu Dream", tên tiếng Anh: The Karate Kid, hay Karate Kid 5) là một bộ phim võ thuật của Mỹ, Trung Quốc hợp tác sản xuất năm 2010 và cũng là phiên bản làm lại từ một bộ phim cùng tên năm 1984. Đây là phần thứ năm của loạt phim "Karate Kid". Bộ phim được chỉ đạo bởi đạo diễn Harald Zwart. Bộ phim được quay tại Bắc Kinh, Trung Quốc; quay phim bắt đầu vào tháng 7 năm 2009 và kết thúc vào ngày 16 tháng 10 năm 2009. "The Karate Kid" được phát hành tại các rạp ở Mỹ vào ngày 11 tháng 6 năm 2010. Nội dung. Dre Parker, một cậu bé 12 tuổi và người mẹ góa chồng Sherry, đang rời Detroit để đến Bắc Kinh sau khi Sherry được chuyển việc tại một nhà máy sản xuất ô tô. Dre đi đến một công viên gần đó, nơi anh nhìn thấy một nghệ sĩ vĩ cầm trẻ tuổi, Mỹ Anh, người đã đáp lại sự chú ý của anh, nhưng một cậu bé 14 tuổi tên Trình, một thần đồng Kung Fu nổi loạn có gia đình thân thiết với gia đình Mỹ Anh, có mối hận thù với Dre và giữ họ xa nhau bằng cách tấn công, trêu chọc và bắt nạt Dre mỗi khi có cơ hội. Sau chuyến đi thực tế của trường đến Tử Cấm Thành, Dre ném một xô nước bẩn lên người Trình và đồng bọn của hắn ta để trả thù, khiến họ phẫn nộ. Họ đuổi theo và cuối cùng dồn anh ta tại một con hẻm nhỏ, và đánh đập dã man Dre cho đến khi anh ta được cứu bởi người bảo trì, ông Hán, người đã can thiệp và chống đỡ các bọn trẻ và tiết lộ mình là một bậc thầy Kung Fu. Ông Hán chữa lành vết thương cho Dre bằng phương pháp giác hơi bằng lửa của Y học cổ đại Trung Quốc trong khi giải thích rằng Cheng và những người bạn của anh ấy không phải là xấu, mà là do sư phụ Lí của họ, người đã dạy các học trò của mình nên nhẫn tâm với kẻ thù của họ. Bị hấp dẫn, Dre hỏi liệu chú Hán có thể dạy cậu Kung Fu hay không. Hán từ chối và thay vào đó đưa anh đến gặp Lí tại võ đường Long Đấu để làm hòa. Lí gay gắt từ chối lời đề nghị hòa bình và thách thức Han hoặc Dre đánh nhau với Trình. Thay vào đó, ông Han phản đối việc Dre thi đấu một chọi một với các học trò của Lí tại giải Kung Fu mở rộng sắp tới, yêu cầu các học trò của ông để Dre một mình tập luyện cho giải đấu. Lí miễn cưỡng đồng ý với các điều khoản miễn là Dre xuất hiện tại giải đấu, cảnh báo họ rằng nếu họ không xuất hiện, anh ta sẽ tự làm tổn thương họ. Ông Hán hứa sẽ dạy Dre Kung Fu và bắt đầu huấn luyện anh ta bằng cách nhấn mạnh các động tác áp dụng cho cuộc sống nói chung. Ông truyền tải rằng sự thanh thản và trưởng thành, chứ không phải những cú đấm và sức mạnh, mới là chìa khóa thực sự để làm chủ võ thuật. Ông dạy điều này bằng cách để Dre thực hiện các chuyển động lặp đi lặp lại bằng cách sử dụng áo khoác của mình, qua đó Dre phát triển trí nhớ cơ bắp. Hán đưa Dre đến một ngôi đền Đạo giáo trên dãy núi Võ Đang. Ở đó, Dre chứng kiến ​​một người phụ nữ làm rắn hổ mang phản ánh chuyển động của cô ấy và sau đó uống nước từ một giếng cổ của Đạo giáo. Sau nhiều tuần luyện tập mệt mỏi và vất vả, chú Hán đã sớm cho Dre một ngày nghỉ. Dre đến gặp Mỹ Anh, thuyết phục cô ấy nghỉ học cho một ngày vui vẻ. Cô ấy đã gần đến muộn cho một buổi thử giọng violin đã được đẩy lên một ngày mà cô ấy không hề hay biết. Do đó, cha mẹ cô cho rằng Dre là người có ảnh hưởng xấu và cấm cô gặp lại cậu. Dre đến gặp anh Hán, nhưng thấy anh có vẻ say xỉn và chán nản, đập phá chiếc xe đang sửa trong nước mắt giải thích với Dre rằng anh đã đâm chiếc xe tương tự cách đây nhiều năm, và rằng vợ và con trai 10 tuổi của anh đã thiệt mạng trong vụ tai nạn. Ông sửa xe hàng năm nhưng đập nó để nhắc nhở bản thân về những gì đã xảy ra; điều này truyền cảm hứng cho Dre để tập luyện chăm chỉ hơn để giúp giáo viên của mình vượt qua tổn thương và vượt qua sự cố. Ông Hán hỗ trợ Dre viết và đọc lại lời xin lỗi bằng tiếng Quan thoại cho cha của Mỹ Anh, người đã chấp nhận món quà và lời xin lỗi của Dre, đồng thời hứa rằng Mỹ Anh sẽ tham dự giải đấu để cổ vũ Dre. Tại giải đấu, Dre thiếu tự tin chậm đạt được vị trí ngang bằng với đối thủ của mình nhưng sớm bắt đầu đánh bại họ và tiến vào bán kết. Trình cũng làm điều tương tự bằng cách kết liễu đối thủ một cách thô bạo. Dre sau đó đánh các học trò của Sư phụ Lí, khiến Lí ra lệnh cho một trong những học trò của mình tên là Lương, đối thủ ở trận bán kết của Dre, làm bị thương Dre. Lương miễn cưỡng làm điều đó bằng cách tung một loạt đòn làm tê liệt vào chân của Dre, kết quả là cậu ta bị loại. Dre tiến vào trận chung kết gặp Trình nhưng có thời gian hạn chế để trở lại võ đài, nếu không Trình sẽ đoạt cúp theo mặc định. Dre cầu xin ông Han chữa lành chân bằng phương pháp giác hơi bằng lửa. Ông Hán miễn cưỡng làm như vậy khi Dre nói với ông rằng cậu chỉ muốn vượt qua nỗi sợ hãi của mình. Vì vậy, Dre sẵn sàng để đối mặt với Trình trong trận chung kết. Trận đấu trở lại với việc Dre dẫn trước 2 chọi 1. Theo lệnh của Lí, Cheng tấn công vào chân bị thương của Dre bằng một cú đá mạnh, do đó khiến Dre mất thăng bằng. Mỗi bên bị cầm hòa hai điểm, với điểm tiếp theo để xác định nhà vô địch, Dre cố gắng vùng vẫy nhưng cố gắng đứng dậy và sử dụng thế con rắn được sử dụng bởi người phụ nữ ở ngôi đền. Chiêu thức thành công, Trình thay đổi kỹ thuật và tấn công Dre, người thực hiện cú lộn ngược và bắt Trình ở giữa không trung bằng một cú đá vào đầu đánh bại Trình và Dre giành chiến thắng trong giải đấu cùng với sự tôn trọng của Trình và các bạn cùng lớp. Trình trao cho Dre chiếc cúp và tất cả các học viên của Long Đấu cúi đầu kính trọng ông Hán, chấp nhận ông làm sư phụ mới của họ, để lại Lí bị đánh bại. Kết thúc bộ phim, Dre và ông Hán đi dạo vui vẻ. Cái kết thay thế. Trong đoạn kết thay thế này, Sư phụ Lí đã giơ tay tát Trình vì đã không đánh Dre trong giải đấu (ông sử dụng phương pháp này để trừng phạt các đồ đệ của mình), nhưng ông đã bị ngăn lại và khiển trách bởi ông Han, người cho rằng các học trò của Sư phụ Lí đã phải chịu đựng quá nhiều dưới bàn tay của mình. Điều này cuối cùng dẫn đến một trận chiến Kung Fu giữa ông Hán và Sư phụ Lí, người cuối cùng phải đối mặt với một khán giả ngạc nhiên, những con Rồng chiến sợ hãi và một Dre bị sốc, bối rối và bị thương, người thậm chí phải đi khập khiễng , cố gắng đi đến chỗ anh Hán đang đánh nhau mà không hiểu chuyện gì xảy ra. Ông Hán và Sư phụ Lí đối đầu trong một cuộc đấu Kung Fu, bắt đầu ở giữa khán giả, đi lên khán đài (nơi Sư phụ Lí xô ngã một cậu bé và ông Hán đã cứu cậu ta khỏi bị thương nặng), họ đi quay lại khán giả, nơi ông Han yêu cầu những người trong khán giả tránh xa để họ không bị Sư phụ Lí tấn công và đó là nơi Sư phụ Lí ném băng ghế gỗ vào ông Han và một số người trên khán đài. Cả hai kết thúc bằng cách sử dụng hai chiếc ghế dài bằng gỗ và đánh nhau bằng những chiếc ghế dài này, trong đó ông Hán cố gắng kết thúc, hạ gục Sư phụ Lí bằng băng ghế của mình và bất động. Đội Long Đấu (đội võ sĩ của Sư phụ Lí) cố gắng đến gần chủ nhân của chúng, nhưng cuối cùng chúng lại rút đi sau khi ông Hán trừng mắt nhìn chúng đầy đe dọa. Nghĩ rằng họ đã kết thúc, ông loại bỏ băng ghế trên cùng của Sư phụ Lý, không biết rằng anh ta sẽ tấn công một lần nữa, dẫn đến hiệp thứ 2 của cuộc đối đầu, khi Sư phụ Lý đá ông Han về phía có một số vũ khí kung fu, nơi cả hai đánh nhau, cố gắng chiến đấu và cố gắng hạ gục nhau. Cuộc đối đầu này kết thúc khi một võ sư kung fu già (và có thể là người tổ chức giải đấu võ thuật này) đang ngồi, người đã sợ hãi và bị sốc trước cuộc đối đầu này giữa Han và Li, kết thúc nhanh chóng như không ở giữa điều này. bắn chéo. Trong một đòn cuối cùng, ông Han đá Sư phụ Lí khỏi sân khấu nơi vị sư phụ cũ đang ngồi và tức giận, nhảy từ sân khấu về phía Sư phụ Lí, đè ông xuống và giơ nắm đấm lên nói chống lại Sư phụ Lí bằng tiếng Quan thoại với giọng điệu đe dọa: "Không dừng lại khi kẻ thù của chúng ta bị hạ gục. Không nhân nhượng. Không thương xót trong trường quay. Không nhân nhượng trong cuộc cạnh tranh. Không nhân nhượng trong cuộc sống. Kẻ thù của chúng ta đáng bị đau ". Dre và đội Long Đấu quan sát từ xa. Một trong những thành viên của Long Đấu, người đã có đủ sự ngược đãi của Sư phụ Lí, tức giận bảo ông Hán hãy hạ gục Sư phụ Lí. Tuy nhiên, ông bị chặn lại bởi Dre, người nói rằng Sư phụ Lí đã bị đánh đủ. Sau đó, Dre tập tễnh bước xuống khỏi đấu trường và anh và ông Han được Cheng và những con rồng chiến đấu chúc mừng không chỉ vì đã giành chiến thắng trong giải đấu, mà còn dạy cho ông thầy bạo hành của họ một bài học. Cuối cùng, rời khỏi đấu trường, Sherry (mẹ của Dre), cùng với Mỹ Anh, rời đi với chiếc cúp giải đấu mà Dre giành được, nhưng không phải trước khi đấm Sư phụ Lí vì hành động của học trò chống lại Dre. Sản xuất. Phát triển. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2008, "Variety" đưa tin rằng công việc làm lại "Karate Kid" đã bắt đầu. "Variety" tuyên bố rằng bộ phim mới do Will Smith sản xuất "đã được tân trang lại như một phương tiện ngôi sao cho Jaden Smith" và nó sẽ "mượn các yếu tố từ cốt truyện gốc, trong đó một thanh niên bị bắt nạt học cách tự đứng lên với sự giúp đỡ của một người cố vấn lập dị." Vào ngày 22 tháng 6 năm 2009, Thành Long nói với một đám đông buổi hòa nhạc ở Phố Tàu ở Los Angeles rằng anh sẽ đến Bắc Kinh để quay bộ phim làm lại với tư cách là giáo viên của Jaden Smith. Mặc dù vẫn giữ nguyên tựa gốc nhưng bản làm lại năm 2010 không có môn võ karate đến từ Okinawa (Nhật Bản) mà tập trung vào việc nhân vật chính học kung fu ở Trung Quốc. Thành Long nói với những người phỏng vấn rằng các thành viên trong phim thường gọi bộ phim là "The Kung Fu Kid" , và anh ấy tin rằng bộ phim sẽ chỉ được gọi là "The Karate Kid" ở Mỹ, và "The Kung Fu Kid" ở Trung Quốc. Giả thuyết này đúng ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nơi bộ phim có tựa là "Giấc mơ Kung Fu" ( tiếng Trung :功夫 梦). Ở Nhật Bản  và Hàn Quốc, Bộ phim được đặt tên là "Best Kid" (Tiếng Nhật :ベ ス ト ・ キ ッ ド; Tiếng Hàn : 베스트 키드) theo tên địa phương của bộ phim năm 1984 ở cả hai quốc gia. Sony đã cân nhắc việc thay đổi tiêu đề của bộ phim, nhưng Jerry Weintraub, một trong những nhà sản xuất, đã bác bỏ ý kiến ​​này. Weintraub cũng là nhà sản xuất của "Karate Kid" gốc . Quay phim. Chính phủ Trung Quốc đã cho phép các nhà làm phim tiếp cận Tử Cấm Thành , Vạn Lý Trường Thành và Dãy núi Võ Đang . Trong một số trường hợp, các nhà làm phim đã phải thương lượng với những cư dân không quen với hoạt động quay phim.  Phim bắt đầu được quay vào tháng 7 năm 2009. Giải thưởng. J-14 Teen Icon Awards 2010 People's Choice Awards 2011 2011 Kids' Choice Awards 2011 MTV Video Music Aid Japan 2011 MTV Movie Awards 32nd Young Artist Awards 2010 Teen Choice Awards
1
null
Ruby Ring () là bộ phim truyền hình truyền hình dài tập năm 2013 của Hàn Quốc với sự góp mặt của Lee So-yeon, Im Jung-eun,Kim Suk-hoon và Park Kwang-hyun. Bộ phim được chiếu ở đài KBS2 từ thứ hai đến thứ sáu vào lúc 19:45, dài 95 tập bắt đầu từ ngày 19 tháng 8 năm 2013. Phim được lồng tiếng Việt với tên gọi Đánh cắp hạnh phúc, phát sóng trên kênh HTV2 và D Drama. Tình tiết. Tuy Ruby và Runa là 2 chị em ruột, nhưng lại có tính cách đối lập nhau. Ruby là 1 cô gái xinh đẹp, tốt bụng và đang hạnh phúc trong tình yêu với vị hôn phu là Gyeong Min. Trong khi Runa lại là 1 cô gái ích kỷ và đầy tham vọng. Cận kề ngày cưới, Ruby – Runa cùng lên Seoul giải quyết việc riêng: Ruby về ra mắt gia đình nhà chồng, Runa nhận được lời mời làm MC cho một chương trình nổi tiếng, thu hút nhiều khán giả. Nhưng không thể ngờ, định mệnh lại đẩy họ vào tai nạn thảm khốc. Khuôn mặt cả hai biến dạng hoàn toàn khiến việc định danh chỉ đành trông cậy vào bộ trang phục. Song, đau đớn thay, không ai biết hai chị em đã đổi quần áo cho nhau trước lúc lên đường. Thậm chí, chiếc nhẫn đính hôn mang viên ngọc quý trùng tên Ruby lại nằm trên tay Runa càng khiến sai lầm nối tiếp trong việc tái tạo gương mặt. Từ đây, Ruby – Runa chính thức hoán đổi diện mạo cho nhau. Runa tỉnh lại, biết được sự thật, quyết định giữ kín trong lòng, "thuận nước đẩy thuyển". Cuộc sống của 2 chị em bỗng chốc bị đảo lộn sau khi họ bị tai nạn. Một chuỗi những bi kịch liên tiếp xảy ra khi Runa cũng đem lòng yêu Gyeong Min và quyết tâm giành lấy anh sau khi mang gương mặt của Ruby… Chỉ vì một chiếc nhẫn mà số phận của hai con người bị tráo đổi. Hạnh phúc trong tầm tay bỗng nhiên vụt mất. Liệu mất mát, đau khổ có biến họ trở nên độc ác và tàn nhẫn bất chấp tình thân?
1
null
Daniel Francois Esprit Auber (1782-1871) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Pháp. Cuộc đời và sự nghiệp. Daniel Auber sớm bước vào hoạt động sáng tác, được Luigi Cheburini chú ý đến và nhận làm học trò. Khoảng giữa thập niên 1820, Auber nổi tiếng về các tác phẩm opera. Năm 1829, Auber được bầu là viện sĩ Viện Pháp quốc. Từ năm 1842, ông trở thành giám đốc Nhạc viện Paris cho đến cuối đời. Phong cách sáng tác. Daniel Auber sáng tác chủ yếu opera, đặc biệt là opera hài. Ông đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển thể loại này, một phần là nhờ sự cộng tác với nhà viết kịch và libretto tài năng Augustin Eugène Scribe. Các tác phẩm. Daniel Auber sáng tác 49 vở opera, nổi bật có:
1
null
Pyura chilensis, được gọi piure trong tiếng Tây Ban Nha, là một loài động vật của họ Pyuridae. Nó được mô tả năm 1782 bởi Juan Ignacio Molina. Mô tả. "Pyura chilensis" là một loài động vật sống đuôi tương tự như một khối cơ quan bên trong một tảng đá. Nó thường được tìm thấy trong tụ tập dày đặc trên các bãi biển của Chile và Peru. Nó kiếm ăn bằng cách hút nước biển và lọc ra các vi sinh vật. "P. chilensis" có một số đặc điểm cơ bản chung của động vật có xương sống như có dây sống và khoang hầu. Nó sinh ra là con đực, trở thành lưỡng tính khi lớn lên và sinh sản bằng cách tung những đám mây tinh trùng và trứng vào nước xung quanh. Nếu nó ở một mình, nó sẽ sinh sản bằng cách tự thụ tinh. Máu của nó chứa nồng độ cao của vanadi, có thể là mười triệu lần tìm thấy trong nước biển xung quanh; mặc dù nguồn và chức năng của nguyên tố này không rõ. Ngư nghiệp. Trên bờ biển Chile, các đàn "P. chilensis" được đánh bắt rất nhiều. Loài động vật này cũng là một trong những nguồn thực phẩm chính đối với các loài thủy sản địa phương khác như bào ngư Chile ("Concholepas concholepas"), sự gia tăng mạnh của bào ngư Chile đã đe dọa và hạn chế nghiêm trọng sự tăng trưởng của "P. chilensis" trong hơn hai thập kỷ. Ngư dân địa phương thường mặc "wet suit" và kính bảo hộ để thu gom chúng, chủ yếu ở vùng núi đá gần bờ, nhưng đôi khi xa hơn ra biển. Ngư dân thường cắt "P. chilensis" thành lát với cưa tay, sau đó sử dụng ngón tay để kéo vòi hút (mà họ gọi là "tetas", hoặc "vú") từ vỏ. Thịt thường được bán khi còn tươi, nhưng có thể được đóng hộp. Nó được xuất khẩu sang nhiều nước, đến năm 2007, Thụy Điển (32,5%) và Nhật Bản (24,2%). Ẩm thực. Thịt, có một hương vị mạnh, có thể ăn sống hoặc nấu chín. Hương vị của nó được mô tả là tương tự như của iod hay "một cái gì đó giống như một con nhím biển mặc dù ít tinh tế trong hương vị" và "hơi đắng, vị như xà phòng". Nó thường được cắt thành miếng nhỏ, và pha thêm gia vị với hành tây, rau mùi, và chanh vàng. Thái nhỏ và dun sôi, nó được phục vụ như một phần của nhiều món ăn, đặc biệt là "arroz con piure picado", hay "cơm với piure thái nhỏ". Nó cũng có thể được chiên và ăn với bánh mì. Có những lo ngại về sự an toàn của việc ăn "P. chilensis", như nồng độ cao của vanadi, lên đến 1,9 mg/ kg được tìm thấy trong huyết tương khô. Vanadi là một kim loại nặng, được coi là độc hại. Chế độ ăn uống trung bình cung cấp một lượng nhỏ vanadi; thường 6-18 microgram (µg). Theo Đại học Trung tâm Y tế Maryland, vanadi có thể gây tổn thương gan ở liều lương cao 1,8 mg hoặc nhiều hơn mỗi ngày. Không có nghiên cứu chuyên sâu đã được thực hiện để xác định số lượng vanadi chứa trong máu hoặc mô của "P. chilensis", cũng không trong các món ăn điển hình có chứa thịt của nó.
1
null
Danh sách kế vị ngai vàng Hoàng gia Thụy Điển được hình thành dựa trên "Đạo luật Kế vị của Thụy Điển" () do "Quốc hội Thụy Điển" và Vua Karl XIII phê chuẩn và thông qua tại Örebro năm 1810. Năm 1979, "Quốc hội Thụy Điển" đã thông qua một số sửa đổi của "Luật Kế vị". Theo đó, con trưởng của Quốc vương, dù là Hoàng tử hay Công chúa, đều sẽ trở thành người kế vị ngai vàng tiếp theo của Hoàng gia Thụy Điển. Sửa đổi chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1980, đưa Thụy Điển trở thành quốc gia có người kế vị là nữ giới đầu tiên trên thế giới. Trước đó, chỉ có các hoàng nam mới được kế vị ngai vàng hoàng gia. Quyền kế vị hợp pháp. Theo "Đạo luật Kế vị", chỉ có con cháu của Vua Carl XVI Gustaf, là tín đồ của Giáo hội Thụy Điển và được nuôi dạy tại Thụy Điển mới có quyền hợp pháp để kế vị ngai vàng. Một người và hậu duệ của người đó sẽ mất đi quyền kế vị ngai vàng hợp pháp nếu như:
1
null
Buxbaumia (tên tiếng Anh là Bug moss, Bug-on-a-stick, Humpbacked elves, và Elf-cap moss) là một chi rêu trong họ Buxbaumiaceae. Nó được đặt tên lần đầu bởi Albrecht von Haller (1742) và sau đó được tái danh bởi Johann Hedwig (1801) bằng tên hiện nay để vinh danh Johann Christian Buxbaum, người đã phát hiện ra chi rêu này năm 1712. Phân loại. Chi "Buxbaumia" có 12 loài: Liên kết ngoài.
1
null
Diphyscium là một chi rêu trong họ Buxbaumiaceae. Có 15 loài trong chi "Diphyscium". Tuy nhiên, 2 trong số này ở Đông Nam Á được đây được xếp vào chi "Theriotia", và 1 loài ở Chile trước đây được tách ra từ chi "Muscoflorschuetzia". Năm 2003, Magombo đã đề xuất phân loại lại 15 loài này vào 1 chi "Diphyscium". Liên kết ngoài.
1
null
Hepatica hay cây Chương nhĩ tế tân, cây lá gan (can diệp - do hình dạng của lá rất giống gan người (tiếng Hy Lạp, hepar là gan)), là một loài cây lâu năm thuộc họ Mao lương, phân bố ở Trung và Bắc Âu, châu Á và phía Đông của Bắc Mỹ. Hoa lưỡng tính với đài hoa có nhiều màu sặc sỡ (trong tự nhiên thường gặp các màu hồng, xanh lam, trắng hay tím), với các lá bắc (thường là 3 lá bắc) màu xanh lá có nhiều lông tơ. Hoa thường mọc đơn, bắt đầu nở vào cuối đông, đầu xuân. Lá mọc sát đất, thường chia ba thùy và tồn tại suốt mùa đông. "Hepatica" được trồng nhiều ở Nhật Bản từ thế kỷ XVIII (thời kỳ Ê-đô), và được lai tạo thành các giống mới với lượng cánh nhiều hơn và màu sắc đa dạng hơn. Trước đây, cây lá gan được dùng làm dược thảo. Dựa trên lý thuyết về thực bổ, người ta cho rằng nó có thể trị các bệnh rối loạn về gan. Khá độc nếu dùng với liều lượng lớn, nhưng nó vẫn được dùng giảm đau và làm se với các vết thương chậm lành. Các loài. Phân loại Mabuchi (2005):. Phân loại ITIS:
1
null
Pleurozia là một chi rêu tản trong họ Pleuroziaceae. Phân loại. Danh sách 12 loài dưới đây lấy theo Thiers (1993), Söderström "et al." (2016) Tuy nhiên, The Plant List coi "P. caledonica", "P. heterophylla" như là chưa dung giải và không đề cập tới "P. pocsii", đồng thời coi các loài sau đây là được chấp nhận: "P. arcuata", "P. giganteoides", "Eupleurozia giganteoides", "E. paradoxa", "E. simplicissima". Đặc điểm. Các loài của chi này khi xét tổng thể là khác biệt về bề ngoài và phân bố rộng. Các thùy lá dưới của "Pleurozia" hợp nhất lại, tạo thành một túi nước khép kín được che phủ bởi một nắp có thể dịch chuyển, tương tự về cấu trúc như những gì thấy ở chi thực vật hạt kín "Utricularia" (Lentibulariaceae). Các túi này từng được cho là có vai trò trong việc tích trữ nước, nhưng nghiên cứu năm 2005 đối với "Pleurozia purpurea" lại thấy rằng các túi thu hút và bẫy trùng lông (Ciliophora), theo cách thức tương tự như "Utricularia". Các quan sát tại chỗ ("in situ") cũng khám phá một lượng lớn con mồi bị bẫy bên trong các túi, gợi ý rằng loài này thu được một số lợi ích từ cách phát triển theo kiểu ăn thịt. Sau "Colura", đây là báo cáo thứ hai về ăn thịt động vật trong số các loài rêu tản.
1
null
Polytrichum là một chi rêu trong họ Polytrichaceae, có phạm vi phân bố toàn cầu. Phân loại. Chi "Polytrichastrum" được tách ra từ "Polytrichum" năm 1971 dựa trên sự khác nhau về cấu trúc của peristome (cơ quan đều khiển việc giải phóng bào tử). Tuy nhiên, tài liệu nghiên cứu di truyền và hình thái năm 2010 cho thấy nên chuyển một số loại trở lại "Polytrichum".
1
null
Ptilidium là một chi rêu tản, và là chi duy nhất trong họ Ptilidiaceae. Chi này gồm ba loài: "Ptilidium californicum", "Ptilidium ciliare", và "Ptilidium pulcherrimum". Chúng phân bố khắp vùng cực và cận cực, với những quần thể riêng rẽ ở New Zealand và Tierra del Fuego. Phân tích phân tử cho thấy chúng có ít họ hàng gần và tách ra khá sớm khỏi phần còn lại của bộ Jungermanniales.
1
null
Manon Lescaut (tiếng Pháp: "L'Histoire du Chevalier des Grieux et de Manon Lescaut", có nghĩa là "Lịch sử của Chevalier xứ Grieux và Manon Lescaut") còn được xuất bản ở Việt Nam với tên Mai-nương Lệ-cốt, là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn người Pháp Abbé Prévost. Tác phẩm được xuất bản vào năm 1731 và là phần thứ bảy cũng là phần cuối của Mémoires et aventures d'un homme de qualité (tiếng Việt: Hồi ức và cuộc phiêu lưu của một người đàn ông có phẩm giá). Nó nhận nhiều sự chỉ trích về một số chi tiết nên sau đó Prevost đã viết lại nó vào năm 1753 và đã bỏ qua những chi tiết tai tiếng và thêm vào một vài chi tiết nhẹ nhàng hơn. Cốt truyện của tác phẩm đã được dựng thành nhiều vở opera. Đầu tiên là vở opera cùng tên của Daniel Auber được viết vào năm 1856. Tiếp theo là vở Manon của Jules Massenet, được sáng tác vào năm 1882-1883 và vở cùng tên với cuốn tiểu thuyết của Giacomo Puccini, vở này được sáng tác vào năm 1890-1892. Cuối cùng là vở Boulevard Solitude của Hans Werner Henze, tác phẩm này ra mắt khán thính giả vào ngày 17 tháng 2 năm 1952. Ngoài ra, cuốn tiểu thuyết còn là đề tài cho vở ballet Lịch sử của Manon (dựa trên âm nhạc của Massenet) và vở cùng tên (của Jean-Louis Aumer). Đồng thời, cuốn tiểu thuyết còn là chủ đề cho bộ phim cùng tên của Vítězslav Nezval (có chút sửa chữa để hoàn thiện hơn về mặt nghệ thuật).
1
null
Manon Lescaut là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Ý Giacomo Puccini. Những người viết lời cho tác phẩm gồm có Giuseppe Giacosa, Domenico Oliva, Luigi Illica, Marco Praga và Giulio Ricordi. Tác phẩm được viết dựa theo cốt truyện của cuốn tiểu thuyết cùng tên của Abbé Prévost. Vở opera được sáng tác vào năm 1890-1892 và có lần trình diễn đầu tiên tại Turin vào năm 1893.
1
null
Cầu Văn Phú là một cây cầu bắc qua sông Hồng tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, Việt Nam. Cầu nằm ở phía đông nam thành phố Yên Bái, nối liền hai xã Văn Phú và Giới Phiên. Cầu Văn Phú có chiều dài 475 m với 4 nhịp dầm bê tông dự ứng lực, chiều rộng cầu là 10 m. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 2002 và hoàn thành năm 2004.
1
null
Di tích chiến khu Vần là một mốc son của sự kiện lịch sử Yên Bái nói riêng và của vùng Tây Bắc nói chung. Chiến khu Vần đã có vai trò quyết định trong việc chuẩn bị lực lượng để đấu tranh giành chính quyền cách mạng ở hai tỉnh Phú Thọ - Yên Bái và huyện Phù Yên (Sơn La) đồng thời là căn cứ đảm bảo cho địa phương trong công cuộc chuẩn bị đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp quyết liệt (1946 - 1954), là nơi thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ, nơi hình thành và ra đời của Đảng bộ tỉnh Yên Bái. Vị trí. Chiến khu Vần là một vùng đất khá rộng, nằm ở phía Nam huyện Trấn Yên và Đông Nam huyện Văn Chấn. Trước năm 1945, Chiến khu Vần nằm ở địa bàn của 3 tổng là: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc Văn Chấn có cự ly dài từ Bắc xuống Nam là 23 km và từ Đông sang Tây 18 km (tính theo nơi dài rộng nhất và nằm ở toạ độ là: vĩ độ 21034'; kinh độ là: 104054'40"). Di tích chiến khu cách mạng Vần nằm ở Phía Nam tỉnh lỵ Yên Bái, cách Thành phố Yên Bái 16 km (đường chim bay), 30 km (đường trải nhựa lộ tỉnh). Du khách có thể đến tham quan, nghiên cứu di tích, sinh thái, hang động, … bằng các phương tiện ôtô, xe máy theo ba con đường dưới đây đều thuận lợi: - Từ TP Yên Bái vào - Từ Văn Chấn rẽ ra Mỵ - Từ Hiền Lương (Sông Thao - Phú Thọ) lên Địa điểm làng Đồng Yếng (Vân Hội), nằm cách làng Vần 5 km về phía Đông và đến bằng đường ôtô, xe máy bằng 3 đường: - Từ TP Yên Bái vào khoảng 30 km - Từ làng Vần ra khoảng 5 km - Từ Hiền Lương (Phú Thọ) lên khoảng 4 km là tới địa điểm di tích. Lịch sử. Lịch sử vùng chiến khu trải qua thời gian, địa danh địa giới có nhiều thay đổi, trước đây vùng đất này thuộc huyện Văn Chấn, nay thuộc huyện Trấn Yên. Năm 1945, xã Vân Hội ngày nay có tên gọi là xã Minh Phú. Ngày 6/1/1946, liên xã Minh Phú - Đồng Phú - Phú Thịnh - Phú Lương gọi là xã Việt Cường. Địa bàn chính. Căn cứ cách mạng kiểu chiến khu có quy mô khá rộng trong đó có 2 vùng quan trọng nhất là làng Vần và làng Đồng Yếng. Hình thành chiến khu. Từ nhận định tình hình chu đáo, biết địch biết ta và nhân dân vùng đất này vốn có truyền thống đấu tranh chống áp bức bóc lột và ngoại xâm của các tộc người, việc lựa chọn vùng đất ươm mầm cách mạng nơi đây sẽ sớm nảy mầm. Xưa vùng đất này chỉ có 3 tộc người: Kinh, Tày và Dao, có truyền thống gắn bó đoàn kết, thủy chung. Từ khi Mặt trời Cách mạng soi rọi đến đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, tinh thần nhân dân sẵn sàng ủng hộ và đi theo cách mạng. Sau khi nhận định tình hình vị trí địa lý và tinh thần của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của xứ uỷ Bắc Kỳ, khi thành lập đội du kích Âu Cơ đã chuyển lên Đồng Yếng rồi vào làng Vần. Lấy Vần làm trung tâm chỉ huy, lấy Đồng Yếng làm trung tâm huấn luyện quân sự cho hình thành chiến khu. Lãnh đạo chiến khu gồm có các đồng chí: Trần Quang Bình, Bình Phương, Ngô Minh Loan, Nguyễn Phúc, Trấn Đức Sắc (tức GS Văn Tân). Chiến khu cũng là nơi an toàn đón các đồng chí cách mạng kiên  trung vượt ngục nhà tù Sơn La về và một số hoạt động ở miền xuôi bị lộ lên tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Một sự kiện trọng đại đã diễn ra tại đây, ngày 30/6/1945 ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) được thành lập - một mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự hình thành chiến khu do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư lãnh đạo cách mạng tại hai tỉnh Yên Bái và Phú Thọ. Từ đây đã phát triển rộng lên Lào Cai và một phần Sơn La. Tại đây, lực lượng Đảng hoạt động có tổ chức, có nền nếp để củng cố phát triển mạnh nên lần lượt ra đời các tổ chức như: Cứu quốc của Việt Minh, Uỷ ban cách mạng lâm thời, chiến khu được thành lập. Đội du kích phát triển mạnh đã đánh bại chính quyền địch tan rã và đánh bại các cuộc tấn công của nguỵ quân, quân Nhật. Đồng thời đã giác ngộ được các chánh phó tổng đi theo và ủng hộ cách mạng, bảo vệ vững chắc an toàn căn cứ cách mạng chiến khu. Khi thời cơ đến, từ chiến khu quân cách mạng đã tiến toả ra 3 hướng đi Phú Thọ, Yên Bái và Nghĩa Lộ, để phá kho thóc Nhật chia cho nhân dân đang lúc đói khổ. Nhân dân càng tin tưởng đi theo cách mạng đánh đổ chính quyền địch, giải phóng và lập nên chính quyền cách mạng ở 3 tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và Phù Yên (Sơn La) góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc tổng khởi nghĩa có một không hai của lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945. Địa điểm lịch sử quan trọng. Một số địa điểm diễn ra sự kiện lịch sử quan trọng của chiến khu được nhân dân trân trọng giữ gìn như: khu nhà của Ông Trần Đình Khánh, cây vải của Ông Đình Trung, Đình Làng Vần, cây gạo, cây sữa, Hang Dơi, …Đình Làng Dọc gắn với sự kiện ở làng Vần, Đồng Yếng, Đình Vân Hội, thác Vân Hội xã Vân Hội.
1
null
Ngày Thầy thuốc Việt Nam là ngày 27 tháng 2, bắt đầu từ sau năm 1955, gắn với sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị cán bộ ngành y tế. Bộ Y tế Việt Nam đã lấy ngày 27 tháng 2 làm ngày truyền thống của ngành. Ngày 6 tháng 2 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã đưa ra quyết định ngày 27 tháng 2 hằng năm là "Ngày Thầy thuốc Việt Nam" nhằm nêu cao trách nhiệm và tài trí của người cán bộ y tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm đó trở đi, ngày 27 tháng 2 được xem là ngày tôn vinh các y, bác sĩ và những người đang làm việc trong ngành y tế tại Việt Nam và được gọi là Ngày Thầy thuốc Việt Nam. Đến ngày này có nhiều hoạt động thăm hỏi, chúc sức khỏe, động viên dành cho đội ngũ cán bộ y tế.
1
null