text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Conradin Kreutzer (hoặc Kreuzer) (1780-1849) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Đức. Cuộc đời và sự nghiệp. Conradin Kreutzer học luật tại Đại học Tổng hợp Freiberg, sau đó mới chuyển sang hoạt động âm nhạc. Ông là nhạc trưởng của nhiều dàn nhạc giao hưởng. Sáng tác. Conradin Kreutzer đã sáng tác:
1
null
Đảo Lady Musgrave là một hòn đảo san hô có diện tích 14 ha (35 mẫu Anh) thuộc Rạn san hô Great Barrier, với 1.192 ha (2.950 mẫu Anh) là các rạn san hô xung quanh. Đây là hòn đảo lớn thứ hai trong chuỗi các hòn đảo của Rạn san hô Great Barrier (sau đảo Lady Elliot). Hòn đảo này có thể dễ dàng ghé thăm từ thị trấn 1770, và nằm cách ​​khoảng 5 giờ di chuyển về phía bắc của Brisbane. Hòn đảo được đặt theo tên phu nhân của Sir Anthony Musgrave, thống đốc giai đoạn 1883-1888 của Queensland thời thuộc địa. Đảo Lady Musgrave và các khu vực bao quanh là một vườn quốc gia của Úc và có thể đến được bằng thuyền tham quan từ thị trấn 1770. Nó cũng là một phần của vùng chim quan trọng Capricornia Cays. Khái quát chung. Đảo Lady Musgrave là hòn đảo được nhiều người cắm trại nhất trong nhóm đảo Capricorn và Bunker, do vị trí neo đậu của tàu trong một đầm phá nửa kín và cùng dịch vụ phà tới đây thường xuyên. Hơn 10.000 khách mỗi ngày đã tới đảo bởi các nhà khai thác du lịch thương mại trong năm 1997. Ngoài ra, 1.278 trại của 8.008 người cắm trại đêm và khoảng 5.840 du khách tại các du thuyền trong năm đób đã đến đảo. Phải thừa nhận rằng, những con số về khách truy cập đến Đảo Lady Musgrave tại thời điểm đó đã vượt quá mức độ bền vững về mặt sinh thái. Thảm thực vật bao gồm "Pisonia grandis", "Tournefortia argentea", "Casuarina equisetifolia", và "Pandanus tectorius". Thảm thực vật là ít dày đặc hơn so với bãi cát lớn của nhóm đảo Capricorn. Cuối phía Nam của hòn đảo có một hồ nước lợ nhỏ. Hòn đảo nằm ở đầu phía Nam của một khu vực đầm phá lớn. Bằng thuyền từ Lady Musgrave, du khách có thể khám phá vùng đầm phá thông qua một kênh nước sâu.
1
null
Jean-Francois Le Sueur (hay Lesueur) (1760-1837) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà phê bình âm nhạc, nhà sư phạm người Pháp. Cuộc đời và sự nghiệp. Jean-Francois Le Sueur học âm nhạc khi đang hát trong dàn đồng ca nhà thờ ở Amiens. Le Sueur bước vào con đường âm nhạc với tư cách một nhạc công nhà thờ. Từ năm 1777 đến năm 1787, lần lượt Le Sueur là người phụ trách âm nhạc nhà nguyện của các nhà thờ tại Séez, Dijon và Tours. Năm 1786, ông là chỉ huy hợp xướng của Nhà tờ Đức Bà Paris, sử dụng một dàn nhạc lớn để tăng cường kịch tính trong trình diễn các bản mixa, motet, sau đó phải bãi bỏ vì có sự chống đối. Trong các năm 1787-1792, ông sống ở nông thôn, chuyên tâm vào các sáng tác. Trở về Paris năm 1793, ông là một trong những người đứng ra tổ chức những lễ hội lớn của Cách mạng Pháp. Năm 1795. Nhạc viện Paris được thành lập, Le Sueur trở thành một trong những thanh tra giáo dục của nhạc viện. Năm 1804, Le Sueur được phong chức nhạc trưởng của dàn nhạc cung đình của Napoléon Bonaparte. Khi dòng họ Bourbon trở lại ngai vàng, Le Sueur trở về Nhạc viện Paris và là giáo sư về môn sáng tác. Từ năm 1815, ông trở thành viện sĩ Viện Pháp quốc. Phong cách sáng tác. Jean-Francois Le Sueur là một trong những đại diện lớn của thể loại opera cứu rỗi và kinh dị. Các tác phẩm. Sau đây là những gì Le Sueur đã để lại:
1
null
Le Havre là một trò chơi trên bàn về sự phát triển của thành phố Le Havre. Trò chơi này do Uwe Rosenberg phát triển dựa theo các ý tưởng của các trò chơi "Caylus" and "Agricola" vào tháng 12 năm 2007. Trò chơi này được đưa ra Spiel 2008 với hai ngôn ngữ tiếng Đức và tiếng Anh Australia, do Lookout Games phát hành và Heidelberger Spieleverlag phân phối. Trò chơi được các thành viên BoardGameGeek đánh giá tốt với điểm trung bình 8.02/10.
1
null
Ruggiero (Ruggero) Leoncavallo (1857-1919) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano, thầy giáo hòa thanh người Ý. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái opera Ý hiện thực cuối thế kỷ XIX Cuộc đời và sự nghiệp. Ruggiero Leoncavallo học âm nhạc tại Nhạc viện Naples. Năm 1876, ông hoàn thành vở opera đầu tiên nhưng không thành công, phải chuyển sang dạy hát, đánh đàn cho các quán cà phê tại Anh, Pháp, Đức, Hà Lan và Ai Cập, đồng thời vẫn tiếp tục sáng tác. Sau khi hoàn thành vở opera Paillasse (Chiếc nệm rơm) dựa theo libretto ông tự viết, ông nổi tiếng khắp thế giới. Sau đó, ông đi lưu diễn khắp châu Âu và châu Mỹ, tự chỉ huy vở diễn của mình. Phong cách sáng tác. Ruggero Leoncavallo, trong các tác phẩm xuất sắc nhất của mình, luôn hướng về những chủ đề của những người bình dân, tô đậm những xung đột kịch tính, giai điệu giàu sức diễn cảm. Các sáng tác. Ruggiero Laoncavallo đã viết:
1
null
Sinh vật huyền thoại hay sinh vật thần thoại là những sinh vật, thường là động vật được mô tả trong các câu chuyện phi lịch sử, trong văn hóa dân gian, những câu chuyện thần thoại hoặc những truyền thuyết, huyền kỳ chưa được xác minh và đôi khi liên quan đến các hiện tượng siêu nhiên. Những động vật huyền thoại khác, chẳng hạn như rồng, phượng, kỳ lân đã được ghi lại trong lịch sử tự nhiên của các học giả khác nhau của thời cổ đại. Do thiếu các hóa thạch của những sinh vật, tính xác thực của các bản ghi chép lịch sử đã được thẩm vấn bởi nhà động vật học hiện đại và còn rất nhiều nghi vấn. Một số các sinh vật thần thoại cũng có thể là những sinh vật kỳ bí ("sinh vật thần bí" hay "sinh vật huyền bí") dù thuật ngữ này không đồng nghĩa với nhau. Thời Trung Cổ. Nguồn gốc của nhiều sinh vật huyền thoại có thể được tìm thấy trong các tác phẩm từ thời Trung Cổ. Những mô tả nổi lên như là cách để truyền đạt các khái niệm quan trọng và thông điệp thông qua biểu tượng và ẩn dụ chứ không phải là chức năng như giải thích theo nghĩa đen. Một sinh vật huyền thoại phổ biến mà phục vụ chức năng ngụ ngôn trong thời Trung Cổ là con rồng. Con rồng đã được xác định với con rắn, mặc dù thuộc tính của chúng được tăng cường rất nhiều. Con rồng được cho là đã được lớn hơn tất cả các loài động vật khác. Người ta tin rằng con rồng không có chất độc hại nhưng đã có thể giết bất cứ điều gì nó muốn mà không cần phải nọc độc. Kinh Thánh nói về con rồng trong liên hệ đến ma quỷ, và họ đã được sử dụng để biểu thị phạm tội nói chung trong thời Trung Cổ. Cộng đồng thời trung cổ không chỉ áp dụng các đặc tính huyền thoại với động vật tưởng tượng. Chó cũng đã mang nhiều ý nghĩa thần thoại. Người ta tin rằng trong mật một con chó đực đen có thể như một lá bùa bảo vệ một ngôi nhà từ các loại điều ác. Ngoài ra, đánh dấu vào từ tai trái của một con chó, đeo như một bùa hộ mệnh, được cho là làm giảm tất cả các cơn đau. Con voi được thường xuyên sử dụng cho các mục đích tượng trưng. Như với nhiều cách diễn giải của thế giới của trong thời Trung cổ, ý nghĩa của voi ám chỉ đến tôn giáo. Người ta nói rằng con voi minh họa vẻ đẹp thanh lịch của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa tấn phong voi, to lớn về kích thước.
1
null
Pietro Antonio Locatelli (sinh 03 tháng 9 năm 1695 tại Bergamo, mất ngày 30 tháng 3 năm 1764 tại Amsterdam) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ violin, nhà sư phạm người Ý. Cuộc đời và sự nghiệp. Pietro Locatelli là học trò Arcangelo Corelli. Locatelli định cư ở Armsterdam vào năm 1729. Ông đi lưu diễn ở nhiều quốc gia châu Âu. Phong cách âm nhạc. Pietro Locatelli là người hoàn thiện kỹ thuật chơi violin trong một số thủ pháp ông đã đi trước của Niccolò Paganini. Đồng thời, với các tác phẩm của mình, Locatelli đã đóng góp cho sự phát triển của hình thức sonata. Các sáng tác. Pietro Locatelli đã viết:
1
null
Edward Alexander MacDowell (1860-1908) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano, nhà sư phạm người Mỹ. Tiểu sử. Edward MacDowell học âm nhạc ở New York với Teresa Carenno, sau đó sang châu Âu học nhạc tại các Nhạc viện Paris và Frankfurt. Năm 1881, MacDowell dạy piano tại Nhạc viện Darmstadt, sống một thời gian ở Đức và làm quen với Franz Liszt. Nhờ đó, MacDowell được giúp đỡ để giới thiệu, công bố những tác phẩm của bản thân. Năm 1888, ông trở về Mỹ, sống một thời gian ở Boston. Từ năm 1896 đến năm 1904, ông là giáo sư âm nhạc tại Trường Đại học Tổng hợp Columbia Phong cách âm nhạc. Edward MacDowell là người đặt nền móng cho trường phái sáng tác âm nhạc chuyên nghiệp tại Mỹ. Ông chú trọng nhiều đến thể loại âm nhạc có tiểu đề. Ông cũng là một trong những người đi đầu trong việc sử dụng âm nhạc dân gian của người da đỏ và người da đen. Ngoài quan hệ với Liszt như nói ở trên, ông cũng là bạn của Edvard Grieg, nên có phần nào đó chịu ảnh hưởng của nhà soạn nhạc Na Uy này. Các sáng tác. Edward MacDowell viết .:
1
null
Sinh vật bí ẩn hay sinh vật kỳ bí (tiếng Anh: cryptid bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: κρύπτω/krypto có nghĩa là "bí ẩn") là một sinh vật hay thực vật mà sự tồn tại của chúng đã được nhắc đến nhưng chưa được phát hiện hoặc ghi nhận bởi cộng đồng khoa học. Sinh vật kỳ bí thường xuất hiện trong văn hóa dân gian và thần thoại, dẫn đến câu chuyện và niềm tin vô căn cứ về sự tồn tại của chúng. Nhiều loài động vật bị coi là đã tuyệt chủng hoặc dấu vết không rõ ràng song vẫn tồn tại dai dẳng trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Những ví dụ điển hình bao gồm Người tuyết Yeti ở Hy Mã Lạp Sơn, Quái vật hồ Loch Ness ở Scotland, Chân to (Bigfoot) ở Bắc Mỹ và Quỷ hút máu dê (Chupacabra) ở Mỹ Latinh, Dã nhân Yowie... Thuật ngữ này được đặt ra bởi John E. Wall trong một bức thư năm 1983 gửi đến Hiệp hội Quốc tế về động vật bí ẩn học (International Society of Cryptozoology), ông ta dùng thuật ngữ Cryptozoology với tiền tố "crypt-" là tiếng Hy Lạp có nghĩa là "ẩn" hoặc "bí mật". Tổng quan. "Cryptid" cũng đã được áp dụng với động vật mà sự tồn tại được chấp nhận bởi cộng đồng khoa học chẳng hạn như cá vây tay, một khi được cho là đã tuyệt chủng, và Okapi - Kỳ lân châu Phi, tại một thời điểm được cho là hoàn toàn hư cấu nhưng sự thật là nó có tồn tại. Sinh vật huyền thoại như kỳ lân và rồng đôi khi được mô tả như những sinh vật kỳ bí. Những người hoài nghi cho rằng bằng chứng về sự tồn tại của cryptids thường giới hạn bằng chứng hoặc các hình thức khác của chứng cứ không đủ để chịu được giám sát khoa học bình thường của cộng đồng động vật nói chung. Những người ủng hộ thì lại đồng ý rằng nhiều bằng chứng cryptozoological là yếu thế. Một số bằng chứng được đưa ra cho rằng cryptids như trò lừa đảo có chủ ý (ví dụ: Ảnh của quái vật hồ Loch Ness đã được xử lý). Nguồn gốc. Ông George M. Eberhart của Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ (American Library Association) tác giả của loạt bài "Journal of Scientific Exploration" đã nêu ra nguồn gốc của các loài vật kỳ bí này có thể là:
1
null
Gustave Charpentier (1860-1956) là nhà soạn nhạc người Pháp. Cuộc đời và sự nghiệp. Gustave Charpentier là học trò của Jules Massenet tại Nhạc viện Paris. Trong các năm 1887-1890, Charpentier ở Ý sau khi giành giải nhất trong cuộc thi Giải thưởng Rome. Ông gặt thành công lớn với vở opera "Louise", tác phẩm ông viết vào khoảng thời gian 1889-1896, trình diễn tại Paris năm 1900, sau đó được dàn dựng và trình diễn trên khắp thế giới. Charpentier còn sáng lập Nhạc viện bình dân, nơi mà những cô gái như nhân vật Louise trong vở opera trên có thể học âm nhạc và múa. Từ năm 1912, Charpentier trở thành viện sĩ Viện Pháp quốc. Các sáng tác. Gustave Charpentier đã để lại các tác phẩm:
1
null
Chlor monoxide là một hợp chất hoá học với công thức là ClO. Nó là một trong những nguyên nhân phá huỷ tầng ôzôn hiện nay. Khi ở tầng ozôn hay tâng bình lưu, nó phản ứng với ozôn tạo thành chlor monoxide và oxi: Cl· + O3 → ClO· + O2 Và là nguyên nhân làm suy giảm tầng ôzôn
1
null
Pietro Antonio Stefano Mascagni (1863-1945) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Ý. Ông là một trong những đại biểu xuất sắc của trường phái opera Ý hiện thực cuối thế kỷ XIX. Cuộc đời và sự nghiệp. Pietro Mascagni học âm nhạc tại Nhạc viện Milan trong các năm 1882-1884 và có các tác phẩm giao hưởng và hợp xướng được biểu diễn. Sau đó, Mascagni rời bỏ nhạc viện để đi lưu diễn cùng một gánh opera. Trong gánh này, ông trở thành nhạc trưởng. Tiếp theo, ông cư trú tại Cerignola, dạy piano và sáng tác. Tác phẩm nổi bật lúc này là vở opera 1 màn Cavalleria rusticana. Tác phẩm đã giành được giải nhất trong cuộc thi do Nhà xuất bản Sonzono tài trợ tổ chức, khiến tác giả của nó trở nên nổi tiếng (chỉ trong hơn 40 năm tác phẩm được trình diễn tới 13000 lần trên sân khấu nhiều quốc gia). Phong cách âm nhạc. Pietro Mascagni cùng với Ruggiero Leoncavallo sáng lập trào lưu âm nhạc hiện thực (tiếng Ý: versimo). Lĩnh vực sáng tác chủ yếu của Mascagni là opera. Trong những tá phẩm xuất sắc nhất, Mascagni đã thể hiện sự chân thực trong miêu tả tình cảm, ngôn ngữ âm nhạc dễ hiểu, mang nhiều tính sân khấu. Các sáng tác. Pietro Mascagni đã sáng tác: 17 vở opera, đáng chú ý có: Guglielmo Ratcliff (1885) Cavalleria rusticana (1890) Iris (1898) Các bản cantata, mixa Các tác phẩm thính phòng Danh mục tác phẩm. Các công trình dự định. Trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình, Mascagni dự tính viết nhiều vở opera. Sau đây là một danh sách đầy đủ của các dự án như vậy, mà không bao giờ được thực hiện:
1
null
Erik "Erkki" Gustaf Oskarsson Melartin (1875-1937) là nhà soạn nhạc, nhà sư phạm, nhạc trưởng người Phần Lan. Cuộc đời và sự nghiệp. Erkki Melartin học âm nhạc tại Nhạc viện Helsinki và tại Viên. Ông là giáo sư của Nhạc viện đó và trở thành giám đốc từ năm 1911-1936. Các tác phẩm. Erkki Malartin sáng tác : Liên kết ngoài. Song by Vilhelm Krag and Erkki Melartin
1
null
Danh sách kế vị ngai vàng vương thất Na Uy được lập nên để sẽ chọn ra nguyên thủ quốc gia tương lai của Vương quốc Na Uy. Danh sách được quy định tại Điều 6 của Hiến pháp Na Uy, được sửa đổi gần đây nhất là vào năm 1990. Việc lựa chọn người kế vị sẽ tuân theo "chế độ con trai trưởng thừa kế", được áp dụng đối với tất cả hậu duệ hợp pháp của Vua Harald V. Theo quy định từ năm 1971 đến năm 1990, Thái tử Haakon và các hậu duệ hợp pháp của ông sẽ được xếp trước chị gái của ông là Vương nữ Märtha Louise và các hậu duệ hợp pháp của bà. Tuy nhiên, theo "Đạo luật 1814" thì Vương nữ vẫn có quyền được kế vị ngai vàng nếu Đức vua đương nhiệm không có Vương tử. Từ năm 1990 đến nay Hiến pháp Na Uy quy định về quyền con trưởng, đảm bảo rằng ngôi vị sẽ thuộc về người con trưởng mà không phân biệt giới tính. Chỉ có những hậu duệ hợp pháp của Quân chủ đương nhiệm, cùng với các anh chị em của họ và các hậu duệ hợp pháp của họ mới có quyền được xếp vào danh sách kế vị ngai vàng. Cũng theo điều 6 của Hiến pháp Na Uy thì những người sinh từ năm 1971 trở về trước sẽ không được liệt kê vào danh sách kế vị ngai vàng. Điều này cũng có nghĩa là chị gái của Đức vua, Vương nữ Astrid và các hậu duệ của bà cùng với các hậu duệ của cố Vương nữ Ragnhild không có quyền được kế vị ngai vàng.
1
null
Giacomo Meyerbeer (tên khai sinh: Jacob Liebmann Beer) (1791-1864) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano, nhạc trưởng người Đức gốc Do Thái. Cuộc đời và sự nghiệp. Khi còn nhỏ, Giacomo Meyerbeer chơi piano, 11 tuổi đã công diễn bản concerto của Wolfgang Amadeus Mozart tại Berlin, 12 tuổi đã sáng tác bản concerto đầu tiên. Năm 1814, Meyerbeer đến Paris và London. Năm 1816, theo lời khuyên của Antonio Salieri, Meyerbeer sang Ý sống tới 8 năm, sáng tác 6 vở opera theo phong cách Ý. Năm 1824, Meyerbeer trở lại Paris, chẳng bao lâu nổi tiếng thế giới về sáng tác opera. Phong cách âm nhạc. Opera chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ sáng tác của Giacomo Meyerbeer. Ông là người (kết hợp với Eugène Scribe), người viết libretto) đã sáng tạo thể loại opera lịch sử-lãng mạn quy mô lớn, được gọi là grand-opera. Ông có nhiều sáng tạo trong việc định ra những nguyên tắc cấu trúc loại vở opera 5 màn dựa trên những tương phản kịch tính gay gắt, phân bổ chính xác những tình tiết và hiệu quả cho các màn, xử lý các bè hát đòi hỏi kỹ thuật thanh nhạc cao, phối dàn nhạc rất tinh tế và giàu màu ắc. Ông có ảnh hưởng tới sự phát triển của opera, tác động đến Richard Wagner, Giuseppe Verdi Các tác phẩm. Giacomo Meyerbeer đã sáng tác:
1
null
Hannah Quinlivan (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1993) với nghệ danh Côn Lăng là người mẫu, MC của kênh Channel V Đài Loan. Cha cô là người Úc còn mẹ cô mang hai dòng máu Đài Loan và Hàn Quốc. Côn Lăng bước chân vào làng giải trí bằng việc tham gia trong chương trình "Tôi yêu Hắc Sáp Hội" của kênh Channel V Đài Loan. Từ đây, cô và thành viên Candy Chen nhóm Hey Girl là bạn cùng trường trung học đã trở nên thân thiết, cùng với thành viên PingPing đã trở thành bộ ba ăn ý. Sau khi tốt nghiệp trường Trung học Nghề Trang Kính tại Tân Điếm, Tân Bắc, Đài Loan, Côn Lăng đã tham gia kỳ thi đại học. Côn Lăng từng theo học lớp sản xuất phim và diễn xuất tại New York Film Academy (Los Angeles) trong một thời gian ngắn Sau khi chương trình "Tôi yêu Hắc Sáp Hội" ngừng phát sóng, Côn Lăng bắt đầu chuyển sang làm người mẫu. Từ đây cô được giới truyền thông Đài Loan chú ý vì mối quan hệ với nam ca sĩ Jay Chou. Sau khi những bức ảnh chụp cả hai trên máy bay được công khai thì chuyện tình này luôn được truyền thông tập trung chú ý. Đời tư. Tháng 11 năm 2014, Hannah Quinlivan xác nhận đang hẹn hò với nam ca sĩ Châu Kiệt Luân. Hai người hẹn hò từ năm 2010, nhưng gặp nhau lần đầu năm cô 14 tuổi khi đang làm nhân viên cửa hàng quần áo mà Châu Kiệt Luân đầu tư. Tháng 12 năm 2014, Châu Kiệt Luân tuyên bố anh muốn tổ chức đám cưới vào sinh nhật lần thứ 36 của mình. Đám cưới của cặp đôi được lên kế hoạch bởi chuyên gia tổ chức tiệc Sarah Haywood ở Anh và được diễn ra tại Selby Abbey, North Yorkshire vào ngày 17 tháng 1 năm 2015, một ngày trước sinh nhật của Châu Kiệt Luân. Một buổi lễ riêng tư dành cho gia đình và bạn bè vào ngày 9 tháng 2 tại Đài Bắc. còn buổi tiệc tiếp đón thứ ba diễn ra tại Úc vào tháng 3 Theo trang Facebook chính thức của Châu Kiệt Luân thì cặp đôi đã đăng ký kết hôn từ tháng 7 năm 2014. Ngày 10 tháng 7 năm 2015, Côn Lăng sinh con gái Hathaway bằng phương pháp sinh mổ.
1
null
Quái vật đầm lầy là những sinh vật hư cấu hoặc huyền thoại được tưởng tượng hoặc lưu truyền là sinh sống trong các đầm lầy. Chúng là một yếu tố chính của tiểu thuyết phiêu lưu phương Tây trong nhiều năm. Giới thiệu. Chúng sống dưới nước và đôi khi nổi bề mặt, nhưng chỉ khi bị chọc tức. Trong thời hiện đại và huyền thoại dân gian Mỹ và huyền thoại một ví dụ đáng chú ý là người thằn lằn quái vật của tiểu bang Louisiana. Chúng dường như giống như Kelpie, Kappa, Quái vật hồ Loch Ness. Là một phần hình người, nó không phải là niềm tin phổ biến rằng họ có khả năng ngôn luận, nhưng trong một số trường hợp, họ đã có khả năng nói chuyện. Lồng vào cốt phổ biến của sinh vật đầm lầy xảy ra trong phương tiện truyền thông phổ biến như truyện tranh của Marvel và DC. Chúng cũng đã được đặc trưng trên phim cũ, đáng chú ý nhất của sinh vật từ Black Lagoon. Trong tất cả các trường hợp, họ hiển thị sức mạnh tự nhiên, khả năng thích ứng dưới nước và có thể nhổ nước bọt bùn và một thái độ đáng sợ xấu. Từ những năm 1940 đến những con quái vật đầm lầy hiện nay đã được sử dụng trong truyện tranh, một ví dụ đầu là Hillman Publications "The Heap. Sau đó cả hai DC Comics và Marvel tạo ra nhân vật tương tự: DC có Swamp Thing, được tạo ra bởi Len Wein và Berni Wrightson, trong khi Marvel đã Man-Thing, được tạo ra bởi Stan Lee, Gray Morrow, Roy Thomas, và Gerry Conway.
1
null
Moritz Moszkowski (1854-1925) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano người Đức, gốc Do Thái Ba Lan. Ông là em trai của nhà văn Đức nổi tiếng Alexander Moszkowski. Tiểu sử. Moritz Moszkowski học âm nhạc tại Breslau, Dresden, Berlin. Ông khởi nghiệp tại Berlin vào năm 1883, sau đó lưu diễn thành công tại nhiều quốc gia châu Âu. Năm 1899, ông được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin. Phong cách sáng tác. Moritz Moszkowski có lĩnh vực sáng tác chủ yếu là các tác phẩm cho piano. Những tác phẩm của ông cho piano đòi hỏi người chơi có kỹ thuật cao, nhiều tác phẩm giờ đây vẫn được sử dụng trong hòa nhạc và giảng dạy. Các sáng tác. Moritz Moszkowski viết opera, ballet, concerto cho piano, cho violin nổi tiếng nhất là bản Những vũ khúc Tây Ban Nha.
1
null
Samsung Galaxy Tab S 8.4 là máy tính bảng 8.4-inch chạy hệ điều hành Android sản xuất và phân phối bởi Samsung Electronics. Nó thuộc dòng "S" siêu cao cấp mới vượt qua giữa dòng Samsung Galaxy Tab và Samsung Galaxy S, nó còn bao gồm bản 10.5-inch, the Samsung Galaxy Tab S 10.5. Nó được công bố vào 12 tháng 6 năm 2014, và sẽ được phát hành vào tháng 7 năm 2014. Đây là máy tính bảng 8.4 inch thứ hai của Samsung với mục đích cạnh tranh trực tiếp với LG G Pad 8.3 và iPad Mini thế hệ 2. Lịch sử. Galaxy Tab S 8.4 được công bố vào 12 tháng 6 năm 2014. Nó được ra mắt cùng với Galaxy Tab S 10.5 tại Samsung Galaxy Premier 2014 ở New York. Tính năng. Galaxy Tab S 8.4 được phát hành cùng với Android 4.4.2 Kitkat. Samsung tùy biến giao diện với "TouchWiz UX". Cũng như bộ ứng dụng chuẩn của Google, nó có ứng dụng Samsung như ChatON, S Suggest, S Voice, S Translator, S Planner, WatchON, Smart Stay, Multi-Window, Group Play, All Share Play, Samsung Magazine, gói chuyên nghiệp, chế độ đa người dùng, SideSync 3.0, và quản lý Gear/Fit. Galaxy Tab S 8.4 có bản WiFi và biến thể 4G/LTE & WiFi. Bộ nhớ trong từ 16 GB đến 32 GB tùy theo sản phẩm, với khe thẻ nhớ mở rộng microSDXC lên đến 64 GB. Nó có màn hình Full HD Super AMOLED 8.4-inch với độ phân giải 2.560x1.600 pixel và mật độ điểm ảnh là 359 ppi. Nó có máy ảnh trước 2.1 MP không flash và máy ảnh sau 8.0 MP AF với LED flash. Nó có thể quay HD video.
1
null
Đồng Tước Đài (chữ Hán: 銅雀臺, Bính âm: Tóng Què Tái) có tên tiếng Anh chính thức là "The Assassins," là bộ phim điện ảnh cổ trang, dã sử Trung Quốc công chiếu năm 2012 với sự tham gia diễn xuất của Chu Nhuận Phát, Lưu Diệc Phi, Tô Hữu Bằng và Ngọc Mộc Hoành... Nội dung của bộ phim tập trung vào câu chuyện những năm cuối đời của Tào Tháo, khắc họa một khía cạnh mới về con người một nhân vật quan trọng trong lịch sử Trung Quốc này. Đồng Tước Đài chính là công trình được cho xây dựng bởi Tào Tháo vào năm 210 tại Nghiệp Thành, nước Hán (nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc). Cốt truyện. Linh Thư và Mục Thuận là 2 cô nhi bị Triều đình bắt về huấn luyện trở thành những sát thủ với mục đích cuối cùng là sát hại Tào Tháo. Linh Thư và Mục Thuận có tình cảm gắn bó với nhau. Trải qua tuổi thơ trong hầm ngục, ước mơ của Linh Thư là một ngày nào đó thoát khỏi mối ràng buộc với "vận mệnh thiên hạ" để được sống những ngày an nhàn, tự do bên Mục Thuận. Sau khi đã trưởng thành, vượt qua vòng kiểm tra sinh tử, cả hai được đưa vào cung cùng các sát thủ khác. Mục Thuận và các nam sát thủ bị cung trở thành thái giám. Trong khi đó, Linh Thư nhờ nhan sắc trời phú với gương mặt, ngữ âm rất giống với Điêu Thuyền được giao nhiệm vụ tiếp cận, lấy lòng và ám sát Tào Tháo. Với khuôn mặt, giọng nói của mình, Linh Thư được Tào Tháo đối xử vô cùng tử tế. Linh Thư với Tào Tháo luôn trong 2 tâm trạng, một mặt muốn kết liễu Tào Tháo để hoàn thành nhiệm vụ và chạy trốn cùng Mục Thuận, một mặt lại không muốn phụ tấm lòng của Tào Tháo với mình.
1
null
Cuộc bầu cử Quốc hội Kosovo diễn ra vào ngày 08 tháng 6 năm 2014, lúc này Kosovo bắt đầu cuộc bầu cử Quốc hội sớm. Các điểm bỏ phiếu mở cửa lúc 7h sáng nay (giờ địa phương) trên khắp Kosovo. Hơn 1,7 triệu cử tri Kosovo đã đăng ký tham gia bỏ phiếu trong đó tỷ lệ đi bầu cao trong 120.000 cử tri thuộc cộng đồng người Serb. Các điểm bỏ phiếu sẽ đóng cửa lúc 17h ngày 8 tháng 6 (giờ địa phương) và kết quả sơ bộ sẽ được công bố vào tuần tiếp theo. Qua kết quả bầu cử, ông Hashim Thaci cùng đảng của mình đã được công bố giành chiến thắng và tiếp tục nhiệm kỳ thứ 3. Tâm điểm. Cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnh người dân tộc Albania chiếm đa số và người Serbia thiểu số vẫn còn chia rẽ, hơn một thập niên sau cuộc xung đột. Trong cuộc bầu cử này, chú ý đều đổ dồn về khu vực miền Bắc, nơi cộng đồng thiểu số người Serbia sinh sống và tham gia bỏ phiếu lần đầu tiên kể từ khi Kosovo tuyên bố độc lập tách khỏi Serbia. Việc cộng đồng Serbia tham gia cuộc bỏ phiếu lần này được xem là động lực để thúc đẩy mong muốn gia nhập Liên minh châu Âu. Suốt chiến dịch tranh cử, tham nhũng có hệ thống và tình trạng khánh kiệt của nền kinh tế Kosovo liên tục đứng đầu danh sách lo ngại của cử tri. Kosovo hiện là một trong những người nghèo nhất châu Âu, với tỷ lệ thất nghiệp 35%, hơn một nửa trong số đó là thanh niên. Ông Hacim phải đối mặt với sự giận dữ của cử tri Kosovo trước tình trạng kinh tế suy giảm và tỷ lệ thất nghiệp cao.
1
null
Felip (Felipe) Pedrell (1841-1922) là nhà soạn nhạc nhà lý luận, người sưu tầm dân ca, nhà sư phạm người Tây Ban Nha Cuộc đời và sự nghiệp. Felip Pedrell học âm nhạc khi hát trong hợp xướng trẻ em Nhà thờ lớn Tortosa, sau đó tự học tiếp. Trong các năm 1873-1874, Pedrell chỉ huy một vở operetta tại Barcelona. Từ năm 1877 đến năm 1882, ông sống tại Paris. Năm 1882, ông trở lại Barcelona. Năm 1894, ông chuyển về Madrid, dạy học tại Nhạc viện Madrid từ năm 1895 đến năm 1903. Phong cách âm nhạc. Felip Pedrell là một trong những người sáng lập trường phái sáng tác mới và công tác nghiên cứu lý luận đương đại cho Tây Ban Nha. Các sáng tác. Felip Pedrell đã viết nhiều vở opera, tác phẩm cho dàn nhạc giao hưởng và tác phẩm âm nhạc nhà thờ.
1
null
Salvatore Sirigu (; sinh ngày 12 tháng 1 năm 1987 ) là cầu thủ bóng đá Ý đang chơi vị trí thủ môn ở Serie A cho câu lạc bộ Napoli và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Ở trận đấu đầu tiên của Ý tại World Cup 2014, anh đã đóng thế xuất sắc vị trí mà đội trưởng Gianluigi Buffon để lại do chấn thương.
1
null
"Peer Gynt," Op. 23 là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà soạn nhạc người Na Uy Edvard Grieg. Tác phẩm này xuất phát từ vở kịch cùng tên của nhà viết kịch Na Uy Henrik Ibsen. Grieg đã viết 23 khúc nhạc chên vào các hồi trong vở kịch đó, sau đó ông chuyển soạn cho piano 4 tay, rồi lại soạn thành 2 tổ khúc cho dàn nhạc giao hưởng. Đó là: Trong đó thì phần "Buổi sáng" và phần "Trong lâu đài của Thần núi" là hai phần nổi tiếng hơn cả. Đôi khi Peer Gynt còn được trình diễn thêm các phần:
1
null
Nền kinh tế của Kosovo là một nền kinh tế đang chuyển dịch. Kosovo từng là một phần của Liên Bang Nam Tư cũ với việc thừa hưởng những cơ sở hạ tầng hiện đại từ việc xây dựng kinh tế của Nam Tư từ những năm 1960 đến 1970, cho đến những năm 1990 thì khu vực này có dấu hiệu suy giảm do sự điều hành kém về kinh tế, chính trị cùng hàng loạt các vấn đề về xã hội, sắc tộc Kể từ năm 2008, Kosovo tuyên bố độc lập thì nền kinh tế của Kosovo có vẻ khá khẩm hơn trong một vài năm. Những năm đầu độc lập, Kosovo có nền kinh tế đổ nát và phụ thuộc vào viện trợ của các nước phương Tây. Cho đến trước thềm Bầu cử Quốc hội Kosovo, 2014, nền kinh tế nước này đang ở tình trạng khánh kiệt và là một trong những nền kinh tế yếu kém nhất châu Âu với tỷ lệ thất nghiệp 35%-45%, hơn một nửa trong số đó là thanh niên cùng với nạn tham nhũng. Cuộc bầu cử năm 2014 là động lực để thúc đẩy giấc mơ gia nhập Liên minh châu Âu của Kosovo của Hashim Thaci. Tổng quan. Lúc mới độc lập, Kinh tế Kosovo gặp rất nhiều khó khăn. Một năm sau khi tuyên bố độc lập, Kosovo vẫn là nơi lý tưởng cho buôn lậu và tham nhũng hoành hành, một nền kinh tế èo uột và đổ nát, với hơn 50% lực lượng lao động không có việc làm. Kinh tế Kosovo gần như phụ thuộc hoàn toàn viện trợ nước ngoài, chủ yếu là châu Âu. Tại Hội nghị quốc tế tài trợ cho Kosovo với sự tham dự của đại diện 65 nước, số tiền quốc tế cam kết tài trợ lên tới 1,2 tỷ euro. Nhưng đó mới chỉ là những khoản cam kết. Trên thực tế, chưa nhiều nhà đầu tư đến Kosovo và kế hoạch Pristina xin vay vốn từ các thiết chế tài chính quốc tế là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) chưa thể thực hiện. Vì, giới đầu tư không thể liều lĩnh đổ tiền vào một nơi mà nền kinh tế và chính trị thiếu chắc chắn, lại hoàn toàn phụ thuộc vào lòng hảo tâm của phương Tây và đồng minh. Ngay cả khi Pristina đã bỏ ra hàng triệu euro thuê các công ty quảng cáo chuyên nghiệp và có uy tín tiếp thị Kosovo là một quốc gia ổn định. Kosovo được tình báo Hoa Kỳ phân loại là một quốc gia đang phát triển, với GDP bình quân đầu người ước đạt 2.100 euro (2008). Do Kosovo là nơi có dự trữ than đá lớn thứ hai tại châu Âu, nó từng có công ty xuất khẩu lớn nhất (Trepča) tại Cộng hòa Liên bang Nam Tư Tuy nhiên, Kosovo lại là tỉnh nghèo nhất Nam Tư và nhận được sự trợ cấp đáng kể từ tất cả các nước cộng hòa khác của Nam Tư. Ngoài ra, trong thập niên 1990, các chính sách kinh tế tồi tệ, trừng phạt quốc tế, ngoại thương không đáng kể và xung đột sắc tộc đã tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế Kosovo. Sau khi đạt mức nhảy vọt vào năm 2000 và 2001, tốc độ tăng trưởng GDP của Kosovo đã có mức âm vào năm 2002 và 2003 và được dự kiến đạt 3% vào năm 2004–2005, với nguồn lực tăng trưởng trong nước không thể bù đắp được nguồn hỗ trợ từ bên ngoài. Lạm phát thấp, trong khi ngân sách đã thâm hụt lần đầu tiên vào năm 2004. Năm 2004, thâm hụt cán cân hàng hóa và dịch vụ là gần 70% tổng GDP. Kiều hối từ những người Kosovo sống ở nước ngoài chiếm khoảng 13% GDP, và viện trợ nước ngoài chiếm khoảng 34% GDP. Hầu hết sự phát triển kinh tế từ năm 1999 đến từ các lĩnh vực thương mại, bán lẻ và xây dựng. Khu vực kinh tế tư nhân đã nổi lên từ năm 1999 song chủ yếu vẫn có quy mô nhỏ. Lĩnh vực công nghiệp vẫn còn yếu và nguồn cung điện không ổn định. Tỉ lệ thất nghiệp vẫn còn rất cao, vào khoảng 40–50% lực lượng lao động. Sau những biến động về chính trị và đường lối, Chính sách kinh tế của Cộng hòa Kosovo hướng đến một hệ thống thương mại tự do. Trong bối cảnh này, chính phủ đã soạn thảo một khung pháp lý để đảm bảo việc thực thi các tiêu chuẩn châu Âu về khả năng cạnh tranh. và họ luôn hướng tới gia nhập vào Liên minh châu Âu. Euro là loại tiền tệ được Cộng hòa Kosovo sử dụng, song Kosovo không phải là thành viên chính thức của Eurozone. Đồng euro được Phái bộ Liên Hợp Quốc tại Kosovo cùng các cơ quan chính phủ sử dụng. Ban đầu, vào năm 1999, Kosovo chấp thuận lấy đồng mác Đức để thay thế dinar Nam Tư, và do đó chuyển sang euro khi nó thay thế mác Đức. Tuy nhiên, dinar Serbia vẫn được sử dụng tại các khu vực của người Serbia.
1
null
Sông Ume (tiếng Thụy Điển: Ume älv hoặc Umeälven) là một trong những con sông chính ở miền bắc Thụy Điển. Sông này khoảng 460 km (290 dặm), và chảy theo hướng đông nam từ nguồn của nó, hồ Överuman ở biên giới Na Uy trong dãy núi Scandinavia. Trong phần lớn các khu vực, các tuyến đường E12 châu Âu, còn được gọi là Blå Vägen (Tuyến đường Xanh), chạy theo con sông này. Sông chảy qua hồ Storuman. Sau đó con sông này chảy vào vịnh Bothnia trên bờ biển phía đông của Thụy Điển tại thị trấn nhỏ Holmsund, ngay nơi tiếp giáp với thành phố Umeå. Chi lưu chính của nó là sông Vindel.
1
null
Peer Gynt là vở kịch của nhà viết kịch nổi tiếng người Na Uy Henrik Ibsen. Tác phẩm này được nhà soạn nhạc Na Uy Edvard Grieg viết 23 khúc nhạc chen vào các hồi của nó. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại Christiana, Đan Mạch vào năm 1876. Sau đó tác phẩm âm nhạc cùng tên của Grieg, được ông chuyển soạn cho piano bốn tay từ những khúc nhạc cho vở kịch trên, rồi soạn thành 2 tổ khúc, cũng rất nổi tiếng, gây tiếng tăm không hề nhỏ cho nhà soạn nhạc Bắc Âu này.
1
null
David Popper (1843-1913) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ cello người Séc. Cuộc đời và sự nghiệp. David Popper là học trò của Julius Goltermann tại Nhạc viện Praha. Năm 1863, Popper bắt đầu hoạt động biểu diễn, nhanh chóng nổi tiếng là một nghệ sĩ cello xuất sắc nhất thời đại. Năm 1867, ông xuất hiện lần đầu ở Viên và trở thành nghệ sĩ cello chính tại Vienna State Opera. Từ 1868-1870 ông cũng là một thành viên của Hellmesberger Quartet. Năm 1872, ông kết hôn với nghệ sĩ dương cầm Sophie Menter. Năm 1873, Popper từ chức của ông tại Hofoper để tiếp tục tour du lịch với vợ của mình trên một quy mô lớn hơn, đem lại cho các buổi hòa nhạc trên khắp châu Âu. Cũng trong năm này Liszt đề xuất một vị trí giảng dạy tại học viện của ông cho Popper. Từ năm 1896, ông trở thành giáo sư Viện Hàn lâm âm nhạc Budapest. Popper đã qua đời ở Baden. Các sáng tác. David Popper đã sáng tác: Ngoài ra, ông còn viết giáo trình cấp cao cho cello.
1
null
Rhapsody Hungary là bộ 19 tác phẩm của nhà soạn nhạc người Hungary Franz Liszt. Liszt đã viết các tác phẩm này trong khoảng thời gian từ năm 1846-1885. Trong số này có 12 bản đã được phối cho dàn nhạc giao hưởng, trong đó có công của Franz Doppler. Trong đó, bản rhapsody số 2 là bản nổi tiếng nhất.
1
null
André Ernest Modeste Grétry (1741-1813) là nhà soạn nhạc, nhà phê bình âm nhạc người Pháp gốc Bỉ. Cuộc đời và sự nghiệp. André Grétry học nhạc tại Liège. Năm 1759, Grétry sang Ý học tiếp, tốt nghiệp Viện Hàn lâm Âm nhạc Bologne. Năm 1766, ông sang Genève, Thụy Sĩ, từ đó làm theo lời khuyên của Voltaire chuyển sang Paris vào năm sau. Chẳng bao lâu Grétry trở thành một người sáng tác opera nổi tiếng. Năm 1795, ông nhậm chức thanh tra của Nhạc viện Paris khi đó mới được thành lập không lâu. Năm 1803, ông là viện sĩ Viện Pháp quốc. Phong cách âm nhạc. Sáng tác của André Grétry thể hiện những tư duy và thẩm mỹ của những tổ chức xã hội tiên tiến của Pháp lúc đó. Ông thường sử dụng những hình thức nhỏ của hát opera như arietta, romance, đưa nhiều âm hưởng tiếng nói vào các bè hát trong opera, áp dụng những yếu tố ngâm ngợi của Pháp. Ông có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của opera hài của Pháp. Các tác phẩm. André Grétry đã viết:
1
null
Hình thất giác đều là đa giác có 7 cạnh bằng nhau, 7 góc bằng nhau. Mỗi góc của hình thất giác đều có số đo là formula_1 (xấp xỉ 128.57142857142857142857142857143 °) Thất giác đều có 7 đỉnh nằm trên một đường tròn có bán kính bằng khoảng cách của giao điểm 7 đường trung trực đến các đỉnh của thất giác. Nếu nối các đỉnh EADGCFB hoặc AFDBGEC lại với nhau, ta sẽ thấy hai ngôi sao 7 cánh có chung 7 đỉnh nhưng không đồng dạng với nhau. Độ dài cạnh EA, EB, BF, FC, CG, GD, DA chính là độ dài các cạnh của ngôi sao 7 cánh được tính bằng hệ thức Sev. (từ "Sev." được lấy trong từ Seven) Sev. = formula_2 Ghi chú: Sev.: Độ dài các cạnh của ngôi sao 7 cánh (EADGCFB) R: Bán kính của đường tròn ngoại tiếp thất giác đều. Như vậy, 2R chính là đường kính của đường tròn đó. Còn độ dài mỗi cạnh FA, AC, CE, EG, GB, DB, FD trong ngôi sao 7 cánh còn lại được gọi là Ven. (tương tự như Sev., Ven. Cũng được lấy trong từ Seven) Ven. formula_3formula_4formula_4 Ghi chú: Ven.: Độ dài cạnh của ngôi sao 7 cánh. R: Bán kính của đường tròn ngoại tiếp thất giác đều. Như vậy, 2R chính là đường kính của đường tròn đó.
1
null
Richard Sư tử Tâm (tiếng Pháp: Richard Coeur-de-Lion) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Pháp gốc Bỉ André Grétry. Người viết lời cho tác phẩm là Michel-Jean Sedaine. Vở opera được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1784 tại Paris. Vào năm 1795, Ludwig van Beethoven đã sáng tác "8 biến tấu dựa theo khúc Romance "Cơn sốt cháy bỏng" trong Richard Sư tử Tâm dành cho piano".
1
null
Trong Toán học, hai đại lượng được gọi là có Tỷ số bạc hay Tỷ lệ bạc nếu tỷ số giữa tổng của 2 lần đại lượng lớn và đại lượng nhỏ với đại lượng lớn bằng tỷ số giữa đại lượng lớn với đại lượng nhỏ hơn. Tỷ lệ bạc thường được chỉ định bằng ký tự δS (delta S). Như hình bên phải, tỷ lệ bạc được biểu diễn như sau: Theo định nghĩa này, tỷ lệ bạc là một hằng số toán học vô tỷ, có giá trị bằng 1 + xấp xỉ 2.4142135623. Tương tự như Tỷ lệ vàng - giới hạn của tỷ số các số liên tiếp trong chuỗi số Fibonacci, Tỷ lệ bạc là giới hạn của tỷ số các số liên tiếp trong chuỗi số Pell. Tỷ lệ bạc có thể được xác định bằng liên phân số đơn giản sau [2; 2, 2, 2...]: Các dạng: Nhị phân: 10.0110101000001001111... Thập phân: 2.4142135623730950488... Thập lục phân: 2.6A09E667F3BCC908B2F... Liên phân số:formula_2 Dạng đại số: 1 + Tổng quát. Tỷ lệ vàng và tỷ lệ bạc là số thứ 2 và thứ 3 trong chuỗi số kim loại, chuỗi số được biểu diễn dạng tổng quát liên phân số như sau: Kích cỡ khổ giấy và Hình chữ nhật Bạc. Kích cỡ giấy theo tiêu chuẩn ISO 216 là hình chữ nhật có tỷ lệ 1: (xấp xỉ 1:1.4142135 hệ thập phân), thường gọi là "cỡ A4".
1
null
Coniopterygidae là một họ côn trùng có cánh trong bộ Cánh gân (Neuroptera). Họ này có khoảng 460 loài còn sinh tồn đã được biết đến. Hệ thống học. Nhiều loài hóa thạch trong họ này được phát hiện có tuổi từ kỷ Jura muộn. Hầu hết trong số chúng, cũng như các loài còn sinh tồn, là nhánh cơ bản hoặc có vị trí không chắc chắn về phát sinh loài trong họ này:
1
null
Vítězslav Novák (1870-1949) là nhà soạn nhạc, nhà sư phạm người Séc. Cuộc đời và sự nghiệp. Vítězslav Novák học âm nhạc tại Nhạc viện Praha, dưới sự hướng dẫn của Antonín Dvořák. Ở đó Dvořák dạy Novák sáng tác. Trong các năm 1909-1939, Novák là giáo sư của chính Nhạc viện, đào tạo ra nhiều nhà soạn nhạc của Séc. Phong cách sáng tác. Những tác phẩm đầu tiên của Novák chịu ảnh hưởng của Johannes Brahms, nhưng sau đó, Novák càng thể hiện rõ màu sắc dân tộc Séc khi chịu ảnh hưởng của Leoš Janáček. Các sáng tác. Vítězslav Novák đã để lại: Ngoài ra, ông còn viết Tuyển tập dân ca Slovak.
1
null
Samsung Galaxy Tab S 10.5 là máy tính bảng 10.5-inch chạy hệ điều hành Android sản xuất và phân phối bởi Samsung Electronics. Nó thuộc dòng "S" siêu cao cấp mới vượt qua giữa dòng Samsung Galaxy Tab và Samsung Galaxy S, nó còn bao gồm bản 8.4-inch, Samsung Galaxy Tab S 8.4. Nó được công bố vào 12 tháng 6 năm 2014, và sẽ được phát hành vào tháng 7 năm 2014. Đây là máy tính bảng 10.5-inch đầu tiên của Samsung với mục đích cạnh tranh trực tiếp với iPad Air. Lịch sử. Galaxy Tab S 10.5 được công bố vào 12 tháng 6 năm 2014. Nó được ra mắt cùng với Galaxy Tab S 8.4 tại Samsung Galaxy Premier 2014 ở New York. Tính năng. Galaxy Tab S 10.5 được phát hành cùng với Android 4.4.2 Kitkat. Samsung tùy biến giao diện với "TouchWiz UX". Cũng như bộ ứng dụng chuẩn của Google, nó có ứng dụng Samsung như ChatON, S Suggest, S Voice, S Translator, S Planner, WatchON, Smart Stay, Multi-Window, Group Play, All Share Play, Samsung Magazine, gói chuyên nghiệp, chế độ đa người dùng, SideSync 3.0, và quản lý Gear/Fit. Galaxy Tab S 10.5 có bản WiFi và biến thể 4G/LTE & WiFi. Bộ nhớ trong từ 16 GB đến 32 GB tùy theo sản phẩm, với khe thẻ nhớ mở rộng microSDXC lên đến 128 GB. Nó có màn hình Full HD Super AMOLED 10.5 inch Full HD Super AMOLED với độ phân giải 2.560x1.600 pixel và mật độ điểm ảnh là 359 ppi. Nó có máy ảnh trước 2.1 MP không flash và máy ảnh sau 8.0 MP AF với LED flash. Nó có thể quay HD video.
1
null
Rhapsody in Blue (khúc cuồng tưởng màu lam) là một nhạc phẩm của George Gershwin - nhạc sỹ người Mỹ gốc Do thái ở Nga - sáng tác năm 1924 cho dàn nhạc giao hưởng hiện đại biểu diễn cùng dương cầm. Nhạc phẩm này nổi tiếng vì là một tác phẩm đầu tiên trên Thế giới đã kết hợp các yếu tố của nhạc cổ điển với nhạc jazz hiện đại, viết cho dương cầm hòa tấu với dàn nhạc, nhưng lại không thuộc thể loại concerto thông thường. Ban đầu, nhạc phẩm được ủy quyền biểu diễn cho ban nhạc Paul Whiteman, công diễn lần đầu tiên trong buổi hòa nhạc có tựa đề "An Experiment in Modern Music" (thử nghiệm ở nhạc hiện đại) vào ngày 12 tháng 2 năm 1924, tại Aeolian Hall, thuộc thành phố New York. Lúc đó, ban nhạc Whiteman đã biểu diễn nhạc phẩm này với chính tác giả Gershwin chơi dương cầm. Về sau, nhà dàn dựng Ferde Grofé của Whiteman đã tạo dựng nhiều lần, trong đó có bản ghi âm năm 1926 và bản ghi âm với dàn nhạc giao hưởng năm 1942.
1
null
Điểm Feynman là một chuỗi sáu chữ số 9 bắt đầu ở vị trí thứ 762 sau dấu phẩy của số π. Nó được đặt theo tên của nhà vật lý Richard Feynman, người đã nói trong một bài giảng của ông rằng ông muốn nhớ các chữ số sau dấy phẩy của số π đến điểm này, để ông có thể đọc chúng cho người khác và nói "chín chín chín chín chín chín và vân vân", ngụ ý một cách đùa bỡn nói π là số hữu tỉ. Trong vài trăm chữ số đầu tiên của số Pi chứa khá nhiều đôi chữ số liên tiếp (được đánh dấu màu vàng trong hình), và một vài bộ ba (được đánh dấu màu xanh lá cây). Sự hiện diện của chuỗi sáu số 9 (được đánh dấu màu đỏ), được mệnh danh là "điểm Feynman", trong một mẫu nhỏ như vậy thì đây là một sự bất thường hấp dẫn. Thống kê liên quan. Chuỗi sáu chữ số giống nhau liên tiếp tiếp theo lại xuất hiện với chữ số 9, bắt đầu từ vị trí 193.034. Tiếp theo là sáu chữ số 8 giống nhau ở vị trí 222.299, và sáu chữ số 0 giống nhau ở vị trí 1.699.927. Một chuỗi chín chữ số 6 (666.666.666) xảy ra tại vị trí 45.681.781. Dãy 123456789 xuất hiện bắt đầu ở vị trí thứ 523.551.502 sau dấu phẩy. Đôi khi điểm Feynman được định nghĩa là lần xuất hiện đầu tiên của một dãy liên tiếp bốn hoặc năm chữ số giống nhau. Ví dụ, điểm Feynman đối với chữ số 7 là bốn chữ số 7 ở vị trí 1589. Chuỗi thập phân. 1001 chữ số đầu tiên của π (1000 chữ số thập phân), bao gồm điểm Feynman gạch dưới và màu đỏ:
1
null
Hiệp ước Tordesillas là một hiệp định được ký kết tại Tordesillas (nay thuộc tỉnh Valladolid, Tây Ban Nha) vào ngày 7 tháng 6 năm 1494 và chứng thực tại Setúbal, Bồ Đào Nha, chia các vùng đất mới được phát hiện bên ngoài châu Âu giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha dọc theo một kinh tuyến dài 370 league (2193 mét) phía tây của quần đảo Cabo Verde (ngoài khơi bờ biển phía tây của châu Phi). Tuyến phân chia này phân giới cắm mốc là khoảng giữa quần đảo Cape Verde (đã thuộc Bồ Đào Nha) và các đảo mà Christopher Columbus đã đổ bộ lên trong chuyến đi đầu tiên của mình (tuyên bố chủ quyền cho Tây Ban Nha), có tên trong hiệp ước là Cipangu và Antilia (Cuba và Hispaniola).
1
null
Ga Onsu (Tiếng Hàn: 온수역, Hanja: 溫水驛) hay Ga Onsu (Đại học Sungkonghoe) (Tiếng Hàn: 온수(성공회대입구)역, Hanja: 溫水(聖公會大入口)驛) là ga tàu điện ngầm và ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 và Tàu điện ngầm Seoul tuyến 7 ở Sugung-dong (Onsu-dong), Guro-gu, Seoul. Nó gần biên giới của Seoul và Bucheon. Bố trí ga. Tuyến số 7 (B2F). Các sân ga 1 và 4 được sử dụng cho các chuyến tàu đến và đi từ , và , và các sân ga 2 và 3 được sử dụng cho các chuyến tàu đến và đi từ nhà ga này. Vị trí của cửa thoát hiểm khác nhau đối với các chuyến tàu đến và đi từ Seongnam ở bên trái và bên phải đối với các chuyến tàu đến ga này.
1
null
HNLMS "Van Galen" (G84) là một tàu khu trục lớp N của Hải quân Hoàng gia Hà Lan trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo như là chiếc HMS "Noble" (G84), nhưng được nhập biên chế cùng Hải quân Hà Lan không lâu sau khi hoàn tất. "Van Galen" đã phục vụ cho đến xung đột kết thúc, được cho xuất biên chế vào tháng 10 năm 1956 và bán để tháo dỡ vào tháng 2 năm 1957.
1
null
Co cứng tử thi (tiếng Latinh: "rigor mortis", trong đó "rigor" nghĩa là "sự cứng", "mortis" nghĩa là "của cái chết") là một giai đoạn sau cái chết khi các khớp xương trở nên cứng và khó dịch chuyển, nguyên nhân là do từng phần của các cơ co lại. Co cứng tử thi ở người diễn ra sau 2 đến 3 giờ và đạt cực đại cứng sau 12 giờ rồi dần dần giảm đi xấp xỉ sau 24 giờ tính từ thời điểm chết. Tuy nhiên, tùy thuộc nhiệt độ cũng như các điều kiện khác, nếu môi trường ấm thì quá trình co cứng diễn ra nhanh hơn hoặc ngược lại. Co cứng tử thi có thể kéo dài xấp xỉ đến 72 giờ. Hóa sinh. Khi còn sống, các cơ trong cơ thể cần adenosin triphosphat (ATP) để chuyển từ trạng thái co sang trạng thái thư giãn bằng cách bơm calci ra khỏi tế bào. Tuy nhiên sau khi chết, hô hấp tế bào dừng lại dẫn đến cạn kiệt oxy vốn được dùng để sản xuất ATP. Không còn ATP, các hoạt động bơm SERCA trong màng lưới cơ tương ("sarcoplasmic reticulum") cũng chấm dứt khiến ion calci khuếch tán từ nơi có nồng độ cao về nơi có nồng độ thấp (trong đơn vị co duỗi cơ - "sarcomere"), kết hợp với troponin và tạo thành cầu nối ngang giữa các protein myosin và actin. Các cơ vì thế lâm vào trạng thái co cứng cho đến khi xác chết bị phân hủy bởi enzyme nội sinh hoặc do vi khuẩn tiết ra. Khi này các đầu myosin tan rã dần và kết thúc sự co cứng. Thay đổi vật lý. Vào thời điểm chết, cơ thể diễn ra một trạng thái gọi là "mềm nhũn sơ cấp", sau đó thì chuyển sang giai đoạn tất cả các cơ bắt đầu co cứng lại. Từ hai đến sáu giờ sau chết, hiện tượng co cứng tử thi bắt đầu ở mí mắt, cổ và hàm; bốn đến sáu giờ kế tiếp, co cứng tử thi lan đến những cơ khác và nội tạng. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự bắt đầu của quá trình co cứng tử thi là tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe và tầm vóc cơ. Nhiều trường hợp không quan sát thấy hiện tượng co cứng tử thi trên trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đã chết do khối cơ của chúng còn nhỏ. Ứng dụng trong công nghệ chế biến thịt. Co cứng tử thi đóng vai trò quan trọng trong công nghệ chế biến thịt, quyết định một phần đến độ mềm của thịt. Sau khi xẻ thịt, nếu ngay lập tức làm lạnh đến 15 °C thì sẽ xảy ra một hiện tượng gọi là "co ngắn lạnh", tức là các cơ trong tảng thịt sẽ co rút đến độ dài chỉ bằng 1/3 so với ban đầu. Nguyên nhân của co ngắn lạnh là sự giải phóng ion calci dự trữ trong lưới cơ tương của các sợi cơ dưới kích thích của nhiệt độ thấp. Các phân tử ATP còn lại trong tảng thịt cũng góp phần cùng ion calci để gây co cơ mãnh liệt. Nhằm ngăn chặn hiện tượng co ngắn lạnh, người ta áp dụng một biện pháp gọi là kích thích điện lên tảng thịt ngay sau khi xẻ thịt và lột da. Trong quá trình này, người ta dùng dòng điện xoay chiều tác động lên tảng thịt (ví dụ ở đây là thịt bò) để khiến nó co lại và duỗi ra, triệt tiêu dự trữ ATP trong tảng thịt, từ đó ngăn hiện tượng co ngắn lạnh. Ứng dụng trong pháp y. Mức độ co cứng tử thi được khoa học pháp y dùng để xác định gần đúng thời điểm chết và cũng để xác định liệu cái xác có bị di chuyển sau khi chết không. Trường hợp tử thi bị di chuyển sau khi chết (và trước khi diễn ra co cứng tử thi) thì khoa pháp y sẽ dựa vào kĩ thuật khác, chẳng hạn dựa vào hồ máu tử thi. Một số nhân tố có thể ảnh hưởng lên quá trình co cứng tử thi và các nhà điều tra cần xem xét chúng khi ước lượng thời điểm chết, chẳng hạn nhiệt độ môi trường xung quanh. Nhiệt độ cao thì co cứng diễn ra nhanh, ngược lại nhiệt độ thấp thì co cứng diễn ra chậm.
1
null
HMAS "Nestor" (G02) là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và nhập biên chế vào tháng 2 năm 1941 với một thủy thủ đoàn người Australia, "Nestor" được đặt hàng và vẫn dưới quyền sở hữu bởi chính phủ Anh Quốc. Nó trải qua hầu hết quãng đời phục vụ trong nhiệm vụ tuần tra và hộ tống tại Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Viễn Đông; từng phát hiện và đánh chìm tàu ngầm U-boat Đức "U-127" vào tháng 12 năm 1941. Trong Chiến dịch Vigorous hộ tống một đoàn tàu vận tải tăng viện cho Malta đang bị phong tỏa, "Nestor" bị hư hại nặng do do không kích, nên bị bỏ lại và bị đánh đắm vào ngày 15 tháng 6 năm 1942. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoàng gia Australia chưa từng hoạt động tại vùng biển Australia. Thiết kế và chế tạo. Lớp tàu khu trục N có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. "Nestor" có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng và chiều sâu tối đa của mớn nước là . Động lực được cung cấp bởi ba nồi hơi Admiralty nối liền với hai turbine hơi nước hộp số Parsons và dẫn động hai trục chân vịt, cho phép có được tổng công suất . "Nestor" có thể đạt tốc độ tối đa ; thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 226 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí của con tàu bao gồm sáu khẩu QF Mark XII trên ba tháp pháo nòng đôi, một khẩu QF Mark V, một khẩu đội QF 2 pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, bốn pháo Oerlikon 20 mm phòng không, bốn súng máy Vickers.50 inch trên bệ bốn nòng, bốn súng máy Lewis.303, mười ống phóng ngư lôi trên hai bệ năm nòng, hai máy phóng và một đường ray thả mìn sâu với 45 quả mìn được mang theo. Khẩu pháo 4 inch của "Nestor" sau này được tháo dỡ. "Nestor" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering ở Govan, Scotland vào ngày 26 tháng 7 năm 1939. Chiếc tàu khu trục được hạ thủy vào ngày 9 tháng 7 năm 1940 bởi con gái của một trong các giám đốc xưởng tàu, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 3 tháng 2 năm 1941. Cho dù nhập biên chế như một tàu Australia, "Nestor" vẫn là một tài sản của Hải quân Hoàng gia Anh. Con tàu được đặt tên theo Nestor, một hình tượng Thần thoại Hy Lạp, và với phí tổn hết 398.960 Bảng Anh. Lịch sử hoạt động. Trong khi chạy thử máy, "Nestor" được bố trí nhiều lượt hoạt động về phía Bắc quần đảo Anh trong tình trạng rất kém. Vào ngày 14 tháng 5, thủy thủ trên tàu đã làm binh biến để phản ứng lại việc say rượu của chỉ huy con tàu và hai sĩ quan cao cấp: họ tự giam mình trong phòng nghỉ và từ chối vận hành con tàu cho đến khi các sĩ quan bị cách chức. Vị bác sĩ trên tàu đã gặp gỡ đô đốc tại Scapa Flow nơi con tàu đặt căn cứ; đô đốc đã gửi thủy binh đến bắt giữ ba sĩ quan và bổ nhiệm chỉ huy mới cho con tàu. Sau khi hoàn tất chạy thử máy, "Nestor" được phân nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra tại Bắc Đại Tây Dương. Trong tháng 5, nó tham gia cuộc săn đuổi "Bismarck", nhưng phải chuyển hướng đến Iceland để tiếp nhiên liệu vào lúc lực lượng Đồng Minh phát hiện và đánh chìm chiếc thiết giáp hạm Đức. Nó được điều động sang Địa Trung Hải vào tháng 7, và đã tham gia các đoàn tàu vận tải tăng viện cho Malta đang bị phong tỏa, rồi làm nhiệm vụ hộ tống vận tải tại Nam Đại Tây Dương trước khi quay trở về Anh để tái trang bị vào tháng 10. Chiếc tàu khu trục quay trở lại nhiệm vụ hộ tống vận tải đi Malta vào tháng 12. Vào ngày 15 tháng 12, nó đụng độ với tàu ngầm U-boat "U-127" ngoài khơi mũi St. Vincent, và nó đã thành công trong việc tiêu diệt tàu ngầm đối phương bằng mìn sâu. Vào tháng 1 năm 1942, "Nestor" được điều sang Viễn Đông. Trong hành trình, nó cùng nhiều tàu chị em đã hộ tống cho tàu sân bay trong một nỗ lực chuyển giao máy bay đến Malaya. Sau đó, nó gia nhập Hạm đội Đông, và đặt căn cứ tại Colombo. Vào tháng 3 năm 1942, thị trấn Andover, Hampshire nhận đỡ đầu cho "Nestor" sau khi cư dân tại đây gây quỹ được 214.467 Bảng Anh trong Tuần lễ Tàu chiến. Một tấm biển đánh dấu mối quan hệ ngắn ngũi này có thể thấy tại Bảo tàng Andover. Đến tháng 5 năm 1942, chiếc tàu khu trục được điều động trở lại khu vực Địa Trung Hải. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1942, "Nestor" khởi hành từ Haifa trong thành phần một lực lượng hộ tống lớn cho Chiến dịch Vigorous, một đoàn tàu vận tải Malta bao gồm 11 tàu buôn chuyên chở thực phẩm, nhiên liệu và tiếp liệu cho hòn đảo đang bị phong tỏa. Không kích quấy phá của đối phương nhắm vào đoàn tàu bắt đầu hầu như ngay khi chúng rời cảng. Đến xế chiều ngày 15 tháng 6, đoàn tàu nhận được tin tức về một đoàn tàu vận tải thứ hai khởi hành từ phía Tây, Chiến dịch Harpoon, đã đến nơi thành công; và căn cứ vào cường độ không kích cũng như tin tức tình báo về một hạm đội Ý đang có mặt tại khu vực, người ta quyết định đổi hướng đoàn tàu Vigorous về phía Alexandria. Vào khoảng 18 giờ 00, đang khi ngoài khơi Crete, một máy bay ném bom Ý đã ném bom trúng "Nestor", làm thiệt mạng bốn thủy thủ và làm hỏng nặng phòng động cơ của chiếc tàu khu trục. Tàu khu trục bắt đầu kéo "Nestor", nhưng đến 05 giờ 30 phút ngày 16 tháng 6, lượng nước tràn vào con tàu lớn đến mức không thể phục hồi. Thủy thủ đoàn được cho chuyển sang "Javelin", và nó bị đánh đắm bằng mìn sâu ở tọa độ . "Nestor" trở thành chiếc tàu chiến Hải quân Hoàng gia Australia duy nhất chưa từng viếng thăm Australia. Chiếc chuông của con tàu được thu hồi, và được trưng bày tại bảo tàng của Căn cứ Hải quân .
1
null
HMAS "Napier" (G97/D13) là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và nhập biên chế với một thủy thủ đoàn người Australia, "Napier" được đặt hàng và vẫn dưới quyền sở hữu bởi chính phủ Anh Quốc. Nó đã phục vụ tại Địa Trung Hải trong năm 1941 trước khi được chuyển sang Hạm đội Đông vào đầu năm 1942, rồi sang khu vực Nam Đại Tây Dương vào đầu năm 1944. Đến năm 1945, con tàu được điều động sang Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc, và trải qua thời gian còn lại của chiến tranh chống Nhật Bản. Sau khi chiến tranh kết thúc, "Napier" được xuất biên chế và trả cho Anh. Nó bị bán vào năm 1955 và bị tháo dỡ năm 1956. Thiết kế và chế tạo. Lớp tàu khu trục N có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. "Napier" có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng và chiều sâu tối đa của mớn nước là . Động lực được cung cấp bởi ba nồi hơi Admiralty nối liền với hai turbine hơi nước hộp số Parsons và dẫn động hai trục chân vịt, cho phép có được tổng công suất . "Napier" có thể đạt tốc độ tối đa ; thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 226 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí của con tàu bao gồm sáu khẩu QF Mark XII trên ba tháp pháo nòng đôi, một khẩu QF Mark V, một khẩu đội QF 2 pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, bốn pháo Oerlikon 20 mm phòng không, bốn súng máy Vickers.50 inch trên bệ bốn nòng, bốn súng máy Lewis.303, mười ống phóng ngư lôi trên hai bệ năm nòng, hai máy phóng và một đường ray thả mìn sâu với 45 quả mìn được mang theo. Khẩu pháo 4 inch của "Napier" sau này được tháo dỡ. "Napier" là chiếc đầu tiên trong số tám chiếc lớp N được đặt lườn theo Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh, khi việc chế tạo được bắt đầu tại xưởng tàu của hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering ở Govan, Scotland vào ngày 26 tháng 7 năm 1939. Chiếc tàu khu trục được hạ thủy vào ngày 22 tháng 5 năm 1940 bởi phu nhân của một trong các giám đốc xưởng tàu, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 28 tháng 11 năm 1940. Cho dù nhập biên chế như một tàu Australia, "Napier" vẫn là một tài sản của Hải quân Hoàng gia Anh. Con tàu được đặt tên theo vị Đô đốc người Scotland Sir Charles Napier (1786-1860), với biểu trưng của con tàu được lấy từ gia huy của dòng họ Napier, và với phí tổn hết 403.960 Bảng Anh. Lịch sử hoạt động. Trong tuần lễ hoạt động đầu tiên của con tàu, nhiều thủy thủ đã đe dọa binh biến qua việc từ chối rời phòng ăn dưới hầm; sự cố được tháo dỡ khi các sĩ quan đe dọa một cách hài hước sẽ dùng dây lôi cổ họ ra khỏi phòng. Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy trên biển, con tàu trải qua những hoạt động đầu tiên trong chiến tranh như một tàu hộ tống vận tải tại Bắc Đại Tây Dương. "Napier" cùng với tàu chị em "Nestor" được điều sang Địa Trung Hải, đến nơi vừa kịp lúc để tham gia cuộc triệt thoái khỏi đảo Crete. Chiếc tàu khu trục được điều đến Port Said trong hai tháng rưỡi, phục vụ như tàu chỉ huy cho cuộc phòng thủ cảng vào ban đêm, trong khi được sửa chữa và tái trang bị vào ban ngày. Sau khi hoàn tất vào tháng 8, nó đảm trách vai trò soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 7. Trong thời gian còn lại của năm, "Napier" tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại tại Địa Trung Hải và Hồng Hải cũng như vận chuyển binh lính giữa Cộng hòa Síp và Haifa. Vào đầu năm 1942, "Napier", "Nestor" và "Nizam" được điều động sang Hạm đội Đông. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng là hộ tống cho tàu sân bay đi đến khu vực Malaya-Java. Đến tháng 6, "Napier" và "Nestor" quay trở lại Địa Trung Hải tham gia Chiến dịch Vigorous, một đoàn tàu vận tải lớn tăng viện cho Malta đang bị phong tỏa. "Napier" quay trở lại nhiệm vụ cùng Hạm đội Đông sau khi chuyến đi tăng viện không thành công, và vào tháng 9 đã tham gia Chiến dịch Madagascar, đặc biệt là trong việc Majunga đầu hàng và chiếm đóng Tamatave. Chiếc tàu khu trục thực hiện tuần tra khu vực Đông Ấn Độ Dương từ tháng 10 năm 1942 cho đến tháng 3 năm 1943, khi nó tham gia lực lượng tuần tra chống tàu ngầm Đại Tây Dương đặt căn cứ tại Nam Phi. Vào đầu năm 1944, "Napier" được phân về vùng biển Ấn Độ; rồi sau đó lên đường đi Australia cho một đợt tái trang bị kéo dài tại Williamstown, quay trở lại cùng Hạm đội Đông vào đầu tháng 11. Trong tháng 12, "Napier" hỗ trợ các chiến dịch của Lữ đoàn 74 Bộ binh Ấn Độ, là sở chỉ huy cho các hoạt động đổ bộ lên Akyab, Myebon và Ramree. Vào đầu năm 1945, "Napier" được điều động sang Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc, và thay đổi ký hiệu lườn từ G97 sang D13. Trong tháng 5, nó nằm trong thành phần hộ tống cho lực lượng tàu sân bay trong các cuộc không kích lên Sakishima. "Napier" đã có mặt trong vịnh Tokyo vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi buổi lễ ký kết văn kiện Nhật Bản đầu hàng diễn ra trên thiết giáp hạm ; và sau khi hỗ trợ cho các hoạt động đổ bộ chiếm đóng tại Nhật Bản, chiếc tàu khu trục quay trở về Sydney. "Napier" được tặng thưởng sáu danh hiệu Vinh dự Chiến trận cho thành tích hoạt động trong chiến tranh. Thủy thủ đoàn người Australia rời tàu vào ngày 25 tháng 10 năm 1945, và "Napier" được hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia Anh. Tuy nhiên con tàu không nhập biên chế trở lại, và được cho bán để tháo dỡ vào năm 1955. Nó được kéo đến Briton Ferry để tháo dỡ vào tháng 1 năm 1956.
1
null
Hệ lục thập phân (Hệ đếm cơ số 60) là một hệ đếm lấy sáu mươi làm cơ sở của nó. Nó có nguồn gốc từ người Sumer cổ đại trong thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, nó được truyền lại cho người Babylon cổ đại, và nó vẫn được sử dụng - trong một dạng sửa đổi - cho các hệ đơn vị đo thời gian, góc độ, và tọa độ địa lý hiện nay. Số 60, một hợp số, có mười hai ước số, bao gồm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 10, 12, 15, 20, 30, 60, trong đó 2, 3, và 5 là các số nguyên tố. Với rất nhiều ước số như vậy, nhiều đại lượng liên quan đến con số sáu mươi đã được đơn giản hóa, chia nhỏ ra. Ví dụ, một giờ có thể được chia đều thành các phần 30 phút, 20 phút, 15 phút, 12 phút, 10 phút, 6 phút, 5 phút, 4 phút, 3 phút, 2 phút và 1 phút. 60 là số nhỏ nhất chia hết cho mọi số 1-6; nghĩa là, nó là bội số chung nhỏ nhất là 1, 2, 3, 4, 5, và 6. Trong bài viết này, tất cả các chữ số hệ lục thập phân được biểu diễn như là số thập phân, trừ trường hợp có ghi chú khác. Ví dụ, 10 có nghĩa là mười và 60 có nghĩa là sáu mươi. Cách dùng. Toán học Babylon. Không phải là dùng 60 ký tự riêng biệt cho chữ số. Thay vào đó là các hình ảnh, biểu tượng hình nêm hẹp đại diện cho đơn vị lên đến chín (Y, YY, YYY, YYYY... YYYYYYYYY) và một nhóm hình nêm rộng, dấu hình nêm đại diện cho đến năm chục (<, «, «<, ««, ««<). Phân số. Trong hệ thống sáu mươi, bất kỳ phân số trong đó mẫu số là một số thông thường (chỉ có 2, 3, và 5 trong nó tính nguyên tố) có thể được thể hiện một cách chính xác. Bảng dưới đây cho thấy các đại diện hệ lục thập phân của tất cả các phần phân đoạn của các loại này trong đó mẫu số là ít hơn 60. Các giá trị hệ lục thập phân trong bảng này có thể được hiểu là cho số phút và giây trong một phần nhất định của một giờ; Ví dụ, 1/9 của một giờ là 6 phút và 40 giây. Tuy nhiên, các đại diện của các phân số như số sáu mươi không phụ thuộc vào như một giải thích. Tuy nhiên con số mà không phải là hình thức thường xuyên hơn phức tạp lặp đi lặp lại các phân số. Ví dụ như:
1
null
Leó Szilárd ( 11 tháng 2 năm 1898 – 30 tháng 5 năm 1964) là một nhà vật lý, nhà phát minh người Mỹ gốc Hungary. Ông đề xuất phản ứng hạt nhân dây chuyền năm 1933, đăng ký phát minh ý tưởng về lò phản ứng hạt nhân với Enrico Fermi, và cuối năm 1939 viết một bức thư mà Albert Einstein ki tên đã dẫn tới Dự án Manhattan chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên, tuy nhiên sau này ông trở thành người tích cực vận động không sử dụng vũ khí hạt nhân. Ông cũng là người đầu tiên trình bày ý tưởng về kính hiển vi điện tử, máy gia tốc tuyến tính và cyclotron. Szilárd không tự mình xây dựng tất cả các thiết bị trên, và cũng không công bố ý tưởng của mình trên các tạp chí khoa học, cho nên công trạng đối với những phát minh này thường rơi vào tay người khác. Do đó, Szilárd chưa từng nhận được giải Nobel, nhưng người khác nhận được giải dựa trên hai phát minh của ông.
1
null
HMAS "Nizam" (G38/D15) là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và nhập biên chế với một thủy thủ đoàn người Australia, "Nizam" được đặt hàng và vẫn dưới quyền sở hữu bởi chính phủ Anh Quốc. Nó đã phục vụ tại Đại Tây Dương trước khi được chuyển sang Địa Trung Hải, nơi nó tham gia Trận Crete và Chiến dịch Syria-Lebanon, tiếp vận cho Tobruk và Malta. Sang năm 1942, nó tham gia Chiến dịch Vigorous và Trận Madagascar, rồi sang khu vực Ấn Độ Dương và Nam Đại Tây Dương vào năm 1943 truy tìm tàu bè và tàu ngầm Đức cũng như cứu vớt nạn nhân các cuộc tấn công của U-boat. Sau khi được đại tu tại Australia vào cuối năm 1944, mười thủy thủ đã bị sóng cuốn mất tích vào tháng 2 năm 1945, và nó trải qua thời gian còn lại của chiến tranh tại khu vực Philippines và New Guinea. Sau khi chiến tranh kết thúc, "Nizam" quay về Australia, được xuất biên chế và trả cho Anh. Nó không được cho hoạt động trở lại và bị tháo dỡ vào năm 1956. Thiết kế và chế tạo. Lớp tàu khu trục N có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. "Nizam" có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng và chiều sâu tối đa của mớn nước là . Động lực được cung cấp bởi ba nồi hơi Admiralty nối liền với hai turbine hơi nước hộp số Parsons và dẫn động hai trục chân vịt, cho phép có được tổng công suất . "Nizam" có thể đạt tốc độ tối đa ; thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 226 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí của con tàu bao gồm sáu khẩu QF Mark XII trên ba tháp pháo nòng đôi, một khẩu QF Mark V, một khẩu đội QF 2 pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, bốn pháo Oerlikon 20 mm phòng không, bốn súng máy Vickers.50 inch trên bệ bốn nòng, bốn súng máy Lewis.303, mười ống phóng ngư lôi trên hai bệ năm nòng, hai máy phóng và một đường ray thả mìn sâu với 45 quả mìn được mang theo. "Nizam" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng John Brown and Company, Ltd. ở Clydebank, Scotland vào ngày 26 tháng 7 năm 1939. Chiếc tàu khu trục được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1940 bởi phu nhân của Sir Holberry Mensforth, một giám đốc của hãng John Brown, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 19 tháng 12 năm 1940. Cho dù nhập biên chế như một tàu Australia, "Nizam" vẫn là một tài sản của Hải quân Hoàng gia Anh. Con tàu được đặt tên theo Sir Osman Ali Khan, vị Nizam của Hyderabad cuối cùng, người giúp đỡ tài chính vào việc chế tạo con tàu. Lịch sử hoạt động. Sau khi hoàn tất chạy thử máy, "Nizam" được điều đến Scapa Flow, nơi nó được phân nhiệm vụ bảo vệ hạm đội, nhưng nhanh chóng chuyển sang hộ tống các đoàn tàu vượt Đại Tây Dương. Vào tháng 4 năm 1941, nó tham gia một đoàn tàu vận tải đi Gibraltar, rồi đi vòng quanh Châu Phi để gặp gỡ các tàu chở quân "Queen Mary" và "Queen Elizabeth", và giúp hộ tống chúng đến Alexandria. Vào khoảng thời gian này, một số thủy thủ đã làm binh biến để phản kháng sự thay đổi thời biểu canh gác và ăn uống, bằng cách tự nhốt mình trong các phòng ăn. Sau các cuộc thương lượng giữa các thủy thủ và sĩ quan, vị hạm trưởng đồng ý phục hồi lại lịch canh gác cũ và quyết định không phạt các thủy thủ; sau đó họ quay trở lại làm việc. Vào ngày 21 tháng 5, "Nizam" tham gia bắn phá Scarpanto, rồi sau đó tham gia Trận Crete. Nó đã hai lần hộ tống cho chiếc tàu rải mìn chuyển lực lượng tăng viện cho hòn đảo, và sau đó tham gia vào việc triệt thoái lực lượng Đồng Minh khi đảo này thất thủ. Sau chiến dịch không thành công này, nó được phân vào Chiến dịch Syria-Li-băng trong ba tuần trước khi chuyển sang lực lượng Vận chuyển Tobruk, một lực lượng các tàu chiến Anh và Australia thực hiện các chuyến đi tiếp liệu cho lực lượng Đồng Minh bị vây hãm tại Tobruk. Nó đã thực hiện mười bốn chuyến đi trước khi bị hư hại vào ngày 14 tháng 9; nó được tàu khu trục kéo khỏi khu vực chiến sự, rồi thực hiện những sửa chữa tạm thời để có thể quay trở về Alexandria. Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, "Nizam" trải qua thời gian còn lại của năm 1941 hộ tống các Đoàn tàu vận tải Malta, tham gia các hoạt động bắn phá tại Bắc Phi, và chuyên chở binh lính đến Síp và Haifa. Sang đầu năm 1942, nó cùng tàu chị em HMAS "Napier" lên đường đi sang Singapore để gia nhập cùng tàu chị em HMAS "Nestor" trong thành phần hộ tống cho tàu sân bay . Đến tháng 6, các tàu khu trục lớp N đã tham gia lực lượng hộ tống cho Chiến dịch Vigorous, một đoàn tàu vận tải tăng viện lớn cho Malta, khi "Nestor" bị không kích đối phương đánh chìm. Sau đó "Nizam" và các tàu chị em được điều động tham gia Chiến dịch Madagascar vào tháng 9. Vào ngày 22 tháng 9, nó được phái đến Durban để tuần tra truy tìm tàu bè thuộc phe Vichy Pháp, bắt giữ một chiếc và buộc một chiếc khác phải tự đánh đắm trong một tuần lễ làm nhiệm vụ này. Chiếc tàu khu trục sau đó đi đến Simon's Town thuộc Nam Phi cho một đợt tái trang bị, vốn kéo dài cho đến cuối năm. Sau khi được tái trang bị, "Nizam" được phối thuộc cùng Hạm đội Đông và tham gia các cuộc càn quét tàu bè đối phương tại Ấn Độ Dương. Nó sau đó được điều động về khu vực Nam Đại Tây Dương để bảo vệ tàu bè. Vào ngày 13 tháng 7 năm 1943, chiếc tàu khu trục đã cứu vớt những người sống sót từ một tàu vận tải lớp "Liberty" Hoa Kỳ bị tàu ngầm Đức "U-511" đánh chìm. Sang ngày 31 tháng 7, nó lại cứu vớt những người sống sót từ một tàu buôn Anh bị tàu ngầm Đức "U-177" đánh chìm. Sau khi đưa những người Anh sống sót lên bờ, "Nizam" lên đường đi Australia, và đã thả neo tại Melbourne vào ngày 18 tháng 8 cho một đợt tái trang bị kéo dài tám tuần. Con tàu quay trở lại các hoạt động tại Ấn Độ Dương; và vào ngày 17 tháng 10 đã nổ súng tấn công bất thành một tàu ngầm U-boat Đức. Từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1944, chiếc tàu khu trục đặt căn cứ tại Kenya, rồi đến ngày 8 tháng 3 lại chuyển sang vịnh Bengal. Trong giai đoạn đặt căn cứ tại đây, nó tham gia Chiến dịch Cockpit, cuộc không kích bằng tàu sân bay xuống các cơ sở Nhật Bản tại Đông Nam Á. Vào tháng 11, nó lên đường đi Melbourne cho một đợt tái trang bị khác. Vào ngày 11 tháng 2 năm 1945, đang khi băng qua Great Australian Bight trong hoàn cảnh thời tiết xấu sau khi đại tu, "Nizam" bị một cơn sóng lớn đánh trúng khiến nó bị lật nghiêng gần 80 độ, quét mười thủy thủ rơi xuống biển; họ không bao giờ được tìm thấy. Trong năm 1945, "Nizam" được phân về các chiến trường Philippines và New Guinea trong thành phần Hạm đội Thái Bình Dương, khi ký hiệu lườn của nó được đổi từ G38 sang D15. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, nó được lệnh ngừng bắn, nhưng không lâu sau đó nó bị một máy bay chiến đấu Nhật Bản tấn công, vốn bị bắn rơi. Chiếc tàu khu trục có mặt trong vịnh Tokyo vào lúc Nhật Bản chính thức đầu hàng qua buổi lễ ký kết văn kiện tổ chức trên vào ngày 2 tháng 9. Chiếc tàu khu trục khởi hành đi Australia vào ngày 24 tháng 9. "Nizam" được cho xuất biên chế vào ngày 17 tháng 10 năm 1945 và được hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia Anh; thủy thủ đoàn của con tàu chuyển sang chiếc "Quadrant". Nó được tạm thời nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS "Nizam" trong chuyến đi quay về Anh. Con tàu không được cho hoạt động thường trực trở lại; nó bị bán vào năm 1955 và bị tháo dỡ vào năm 1956.
1
null
Bức thư Einstein–Szilard là một bức thư do Leó Szilárd chấp bút và Albert Einstein kí tên, đề ngày 2 tháng 8 năm 1939, gửi Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt nhằm cảnh báo nguy cơ Đức phát triển vũ khí hạt nhân và khuyên Hoa Kỳ khởi động chương trình hạt nhân riêng. Roosevelt lập tức chỉ đạo nghiên cứu về vũ khí hạt nhân, dẫn tới chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên thuộc Dự án Manhattan và vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Bối cảnh. Otto Hahn và Fritz Strassmann công bố phát hiện urani mà bị bắn neutron thì biến thành bari trên số ngày 6 tháng 1 năm 1939 của tạp chí khoa học "Naturwissenschaften." Lise Meitner xác định nó là phản ứng phân hạch trên số ngày 11 tháng 2 năm 1939 của tạp chí "Nature".Hiện tượng này được giới vật lý đặc biệt chú ý. Nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr đưa tin đến Hoa Kỳ tại Hội nghị Washington lần thứ năm về vật lý lý thuyết vào ngày 26 tháng 1 năm 1939. Kết quả ban đầu được nhiều nhà vật lý kiểm chứng, đáng kể là Enrico Fermi và John R. Dunning ở Đại học Columbia. Nhà vật lý người Hung Leó Szilárd nhận thấy có thể dùng phản ứng phân hạch các nguyên tử nặng để gây phản ứng dây chuyền hạt nhân mà sản sinh một lượng lớn năng lượng cho phát điện hoặc bom nguyên tử. Ông đã được cấp bằng sáng chế phát kiến này tại Luân Đôn từ năm 1933 sau khi được biết Ernest Rutherford đã chê bai thử nghiệm phát điện bằng cách dùng proton phân hạch lithi của nhóm nghiên cứu của ông vào năm 1932. Szilárd không gây được phản ứng dây chuyền bằng những nguyên tố nhẹ nhiều neutron. Tuy nhiên, trên lí thuyết thì nếu mỗi phản ứng trong dây chuyền sinh ra hơn một neutron thì số lượng phản ứng sẽ tăng theo cấp số nhân. Szilárd bắt tay với Fermi xây dựng một lò phản ứng hạt nhân tại Đại học Columbia, nơi George B. Pegram là trưởng khoa vật lý. Có tranh luận về lựa chọn đồng vị nào của urani: Fermi cho rằng có thể dùng urani-238 trong tự nhiên nhưng người khác cho rằng phải dùng urani-235. Sau khi thí nghiệm kiểm tra xong, Fermi và Szilárd kết luận có thể dùng urani tự nhiên để gây phản ứng dây chuyền nếu có một chất làm chậm neutron thích hợp. Thử nghiệm xác định hydro trong nước làm chậm neutron có hiệu quả nhưng thường bắt giữ neutron. Szilárd đề xuất dùng cacbon làm chất làm chậm Mặc dù cần phải có một lượng lớn cacbon và urani để xây dựng lò hạt nhân nhưng Szilárd tin rằng nỗ lực của nhóm sẽ thành công. Szilárd quan ngại Đức sẽ tiến hành thử nghiệm tương tự do nhà vật lý hạt nhân người Đức Siegfried Flügge đã đăng hai bài báo khoa học nổi tiếng về khả năng khai thác năng lượng hạt nhân vào năm 1939. Szilárd bàn với đồng nghiệp người Hung Eugene Wigner và quyết định sẽ cảnh báo Bỉ nguy cơ Đức xâm chiếm Congo thuộc Bỉ nhằm khai thác quặng urani. Wigner đề xuất Albert Einstein là người báo tin bởi Einstein quen Hoàng gia Bỉ. Szilárd đã hợp tác với Einstein chế tạo tủ lạnh Einstein từ năm 1926 đến năm 1930, biết rõ về Einstein nên đồng ý. Bức thư. Ngày 12 tháng 7 năm 1939, Wigner lái Szilárd đến nhà Einstein tại Long Island để thảo luận về vấn đề bom nguyên tử. Einstein nghe hai người đề cập khả năng chế tạo một quả bom, thốt lên: "Daran habe ich gar nicht gedacht" ("Tôi còn chưa nghĩ đến điều đó"). Szilárd đọc cho Wigner viết một bức thư bằng tiếng Đức gửi Đại sứ Bỉ tại Hoa Kỳ, Einstein là người kí tên. Ba người cũng viết thư gửi Bộ Ngoại giao trình bày kế hoạch của họ, xin nội hai tuần được hồi âm nếu Bộ Ngoại giao có ý kiến. Tuy nhiên, còn một vấn đề là làm sao thuyết phục được chính quyền Hoa Kỳ tài trợ nghiên cứu về urani. Nhà kinh tế học người Áo Gustav Stolper, một người bạn khác của Szilárd đề xuất họ nhờ Alexander Sachs bởi ông có thể gặp Roosevelt. Sachs bảo Szilárd đã bàn với Roosevelt về việc nghiên cứu urani nhưng Fermi và Pegram đều không đánh giá cao khả năng chế tạo được một quả bom nguyên tử. Sachs đồng ý chuyển bức thư đến Roosevelt nhưng khuyên nên có chữ kí của ai đó uy tín. Một lần nữa Einstein lại là lựa chọn hợp lý. Sachs và Szilárd lập tức thảo một bức thư đầy rẫy lỗi chính tả gửi Einstein. Szilárd ra lại Long Island vào ngày 2 tháng 8. Ngày hôm đó Wigner bận nên Szilárd phải nhờ Edward Teller, một nhà vật lý người Hung khác lái ông ra. Einstein đọc xong bản thảo, đọc cho Szilárd viết một bản bằng tiếng Đức. Sau khi về Đại học Columbia thì Szilárd đọc cho một tốc ký viên tên Janet Coatesworth viết bức thư bằng tiếng Anh. Khi nghe đến đoạn về một quả bom cực kì mạnh thì cô thầm nghĩ "hẳn mình làm việc cho một kẻ điên" mặc dù cuối bức thư có ghi "Kính thư, Albert Einstein". Cả bức thư tiếng Anh và một bản dài hơn đều được gửi đến Einstein kí tên. Bức thư đề ngày 2 tháng 8 và cảnh báo Roosevelt rằng: Bức thư đặc biệt cảnh báo về Đức: Vào thời điểm viết bức thư, ước tính cần phải có vài tấn vật liệu thì mới gây được một phản ứng dây chuyền phân hạch. Tuy nhiên, bảy tháng sau có một đột phá khoa học tại Anh ước tính lại khối lượng tới hạn là ít hơn 10 kg, mở khả năng không vận một quả bom nguyên tử. Chuyển thư. Szilárd nhận lại bức thư từ Einstein vào ngày 9 tháng 8, có chữ kí có Einstein. Ông đưa cả bản ngắn và bản dài của bức thư cho Sachs cùng với một bức thư của riêng ông vào ngày 15. Sachs xin được gặp Roosevelt nhưng chưa kịp sắp đặt thì Đức xâm lược Ba Lan, buộc chính quyền phải đối phó với khủng hoảng Chiến tranh thế giới thứ hai. Sachs đợi đến tháng 10 để cho Roosevelt có thể toàn tâm toàn ý cân nhắc bức thư và hẹn gặp vào ngày 11. Sachs gặp Roosevelt, thư ký của Roosevelt là Chuẩn tướng Lục quân Edwin "Pa" Watson và hai chuyên gia vũ khí là Trung tá Lục quân Keith F. Adamson và Trung tá Hải quân Gilbert C. Hoover. Roosevelt hóm hỉnh tóm tắt cuộc hội kiến là: "Alex, ông gặp tôi là để ngăn lũ Quốc Xã nổ chúng ta thành trăm mảnh". Roosevelt trả lời thư cảm ơn Einstein và báo cho ông biết rằng: Einstein gửi thêm hai bức thư đến Roosevelt vào ngày 7 tháng 3 và ngày 25 tháng 4 năm 1940 nhằm đề nghị hành động về nghiên cứu hạt nhân. Szilárd gửi một bức thư thứ tư đề ngày 25 tháng 3 năm 1945, có chữ kí của Einstein, khuyên Roosevelt gặp Szilárd để bàn về chính sách năng lượng hạt nhân nhưng Roosevelt qua đời vào ngày 12 tháng 4 năm 1945. Kết quả. Roosevelt quyết định thành lập Ủy ban Tham vấn về urani. Chủ tịch ủy ban là Giám đốc Viện Tiêu chuẩn Lyman James Briggs (nay là Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia), hai thành viên còn lại là Adamson và Hoover. Ủy ban Tham vấn họp lần đầu tiên vào ngày 21 tháng 10, có sự tham gia của Fred L. Mohler thuộc Viện Tiêu chuẩn, Richard B. Roberts thuộc Viện nghiên cứu Carnegie tại Washington, Szilárd, Teller và Wigner. Adamson không đánh giá cao khả năng chế tạo một quả bom nguyên tử nhưng đồng ý cấp 6.000 đô la Mỹ (tương đương 100.000 đô la Mỹ hiện nay) để tài trợ mua urani và than chì cho thử nghiệm của Szilárd và Fermi. Ủy ban Tham vấn về urani không có chủ trương phát triển vũ khí hạt nhân. Năm 1940, Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng Quốc gia được thành lập thay thế cho Ủy ban Tham vấn. Năm 1941, Cục Nghiên cứu và Phát triển khoa học được thành lập thay thế cho Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng Quốc gia. Sau khi nghiên cứu Bản ghi nhớ Frisch–Peierls và Báo cáo MAUD thì Roosevelt chỉ đạo tận dụng nguồn lực phát triển một quả bom từ tháng 1 năm 1942. Công binh Lục quân Hoa Kỳ tiếp quản nghiên cứu về phân hạch từ tháng 6 năm 1942, trở thành Dự án Manhattan. Einstein không được làm việc trong Dự án Manhattan. Ông bị xem là rủi ro an ninh do tư tưởng chủ hòa và danh tiếng của ông nên không được cấp thẩm quyền an ninh. Tuy nhiên, ít nhất một nguồn tin cho biết Einstein bí mật đóng góp một vài phương trình cho Dự án Manhattan. Einstein tiếp tục được tư vấn cho Cục Quân giới của Hải quân Hoa Kỳ. Ông không hề biết về mục tiêu chế tạo một quả bom nguyên tử và không có ảnh hưởng gì đối với chính sách sử dụng. Linus Pauling cho biết Einstein về sau hối hận đã kí bức thư dẫn tới việc chế tạo, sử dụng bom nguyên tử trong chiến tranh. Năm 1947, Einstein trả lời tạp chí "Newsweek" rằng "tôi mà biết rằng Đức sẽ không chế tạo được một quả bom nguyên tử thì tôi đã chẳng hé răng nửa lời".
1
null
HMAS "Norman" (G49/D16) là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và nhập biên chế với một thủy thủ đoàn người Australia, "Norman" được đặt hàng và vẫn dưới quyền sở hữu bởi chính phủ Anh Quốc. Nó từng tham gia Chiến dịch Vigorous và Trận Madagascar, nhưng trải qua hầu hết thời gian từ năm 1942 đến đầu năm 1945 tuần tra một các bình yên tại Ấn Độ Dương. Đến tháng 1 năm 1945, nó tham gia Mặt trận Miến Điện trước khi được điều từ Hạm đội Đông sang Hạm đội Thái Bình Dương. Trong tháng 4 và tháng 5, "Norman" tham gia Trận Okinawa, và trải qua thời gian còn lại của chiến tranh tuần tra tại đảo Manus. Sau khi chiến tranh kết thúc, "Norman" được hoàn trả cho Anh vào tháng 10 năm 1945. Nó không được cho hoạt động trở lại và bị tháo dỡ vào năm 1958. Thiết kế và chế tạo. Lớp tàu khu trục N có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. "Nizam" có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng và chiều sâu tối đa của mớn nước là . Động lực được cung cấp bởi ba nồi hơi Admiralty nối liền với hai turbine hơi nước hộp số Parsons và dẫn động hai trục chân vịt, cho phép có được tổng công suất . "Norman" có thể đạt tốc độ tối đa ; thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 226 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí của con tàu bao gồm sáu khẩu QF Mark XII trên ba tháp pháo nòng đôi, một khẩu QF Mark V, một khẩu đội QF 2 pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, bốn pháo Oerlikon 20 mm phòng không, bốn súng máy Vickers.50 inch trên bệ bốn nòng, bốn súng máy Lewis.303, mười ống phóng ngư lôi trên hai bệ năm nòng, hai máy phóng và một đường ray thả mìn sâu với 45 quả mìn được mang theo. Khẩu pháo 4 inch của "Norman" sau này được tháo dỡ. "Norman" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng John I. Thornycroft & Company ở Southampton, Anh Quốc vào ngày 27 tháng 7 năm 1939. Chiếc tàu khu trục được hạ thủy vào ngày 30 tháng 10 năm 1940, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 15 tháng 9 năm 1941. Cho dù nhập biên chế như một tàu Australia, "Norman" vẫn là một tài sản của Hải quân Hoàng gia Anh. Con tàu được đặt tên theo người Norman, và với phí tổn tổng cộng 402.939 Bảng Anh. Lịch sử hoạt động. "Norman" quay trở về Sydney vào tháng 10 năm 1945, được cho ngừng hoạt động và hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia Anh để đổi lấy chiếc tàu khu trục lớp Q HMAS "Queenborough". "Norman" không được cho tái hoạt động; thay vào đó, nó bị bán vào năm 1955 và bị tháo dỡ vào năm 1958.
1
null
HMAS "Nepal" (G25/D14) là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được hạ thủy năm 1941 như là chiếc "Norseman", nó bị hư hại nặng do một vụ không kích xưởng tàu John I. Thornycroft and Company, và trong khi sửa chữa được đổi tên thành "Nepal" nhằm ghi nhận những đóng góp của Nepal trong chiến tranh. Cho dù nhập biên chế cùng Hải quân Australia vào năm 1942, con tàu vẫn dưới quyền sở hữu bởi chính phủ Anh Quốc. Hầu hết các hoạt động trong chiến tranh của "Nepal" là cùng Hạm đội Đông Anh Quốc tại Ấn Độ Dương, tham gia Chiến dịch Madagascar năm 1942 và các chiến dịch không kích Cockpit và Transom vào năm 1944. Đến đầu năm 1945, nó được điều sang Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc và hoạt động cho đến khi chiến tranh kết thúc. Khi quay trở về Sydney vào tháng 10 năm 1945, "Nepal" được cho xuất biên chế và hoàn trả cho Anh Quốc. Nó không được cho hoạt động trở lại và bị tháo dỡ vào năm 1956. Thiết kế và chế tạo. Lớp tàu khu trục N có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. "Nepal" có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng và chiều sâu tối đa của mớn nước là . Động lực được cung cấp bởi ba nồi hơi Admiralty nối liền với hai turbine hơi nước hộp số Parsons và dẫn động hai trục chân vịt, cho phép có được tổng công suất . "Nepal" có thể đạt tốc độ tối đa ; thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 226 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí của con tàu bao gồm sáu khẩu QF Mark XII trên ba tháp pháo nòng đôi, một khẩu QF Mark V, một khẩu đội QF 2 pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, bốn pháo Oerlikon 20 mm phòng không, bốn súng máy Vickers.50 inch trên bệ bốn nòng, bốn súng máy Lewis.303, mười ống phóng ngư lôi trên hai bệ năm nòng, hai máy phóng và một đường ray thả mìn sâu với 45 quả mìn được mang theo. Khẩu pháo 4 inch của "Nepal" sau này được tháo dỡ. Chiếc tàu khu trục được đặt lườn như là chiếc "Norseman" tại xưởng tàu của hãng John I. Thornycroft and Company ở Woolston, Hampshire vào ngày 9 tháng 9 năm 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 12 năm 1941, nhưng vào cuối tháng lại bị hư hại nặng bởi một cuộc không kích xuống xưởng tàu; một quả bom ném trúng trực tiếp khiến nó hầu như bị vỡ làm đôi. Nó được sửa chữa, và vào lúc này được đổi tên thành "Nepal" nhằm vinh danh những đóng góp của Nepal trong chiến tranh. "Nepal" nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 11 tháng 5 năm 1942, và cho dù nhập biên chế như một tàu Australia, nó vẫn là một tài sản của Hải quân Hoàng gia Anh. Chi phí chế tạo con tàu là 402.939 Bảng Anh. Lịch sử hoạt động. Sau khi nhập biên chế, "Nepal" được phân về Hạm đội Nhà đặt căn cứ tại Scapa Flow. Trong thời gian này, nó tham gia đóng phim nhằm thể hiện chiếc tàu chiến hư cấu HMS "Torrin" trong bộ phim Anh "In Which We Serve". Vào tháng 7 năm 1942, chiếc tàu khu trục được điều về Hạm đội Đông, và khởi hành từ Scotland để đi Kenya. Trong tháng 9, nó tham gia giai đoạn sau của Chiến dịch Madagascar; và trong phần còn lại của năm 1942, chiếc tàu khu trục hoạt động hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm từ Kilindini. Vào tháng 3 năm 1943, nó lên đường đi Australia cho một đợt tái trang bị kéo dài hai tháng, từ tháng 4 đến tháng 5. "Nepal" quay trở lại Ấn Độ Dương vào tháng 6 năm 1943, và tiếp nối các hoạt động cùng Hạm đội Đông, lần này là từ Trincomalee. Vào tháng 4 năm 1944, chiếc tàu khu trục nằm trong thành phần hộ tống tàu sân bay trong Chiến dịch Cockpit, và một lần nữa vào tháng 5 trong Chiến dịch Transom. Đến tháng 8, nó quay trở về Australia để tái trang bị, rồi được phân công hộ tống tàu sân bay vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12. Từ ngày 7 tháng 12 năm 1944 đến ngày 12 tháng 2 năm 1945, nó cùng tàu chị em HMAS "Napier" tham gia hỗ trợ cho Lữ đoàn Bộ binh 74 Ấn Độ. Trong đợt hoạt động này, vào ngày 5 tháng 2, nó bị hư hại một chân vịt do va phải đá ngầm tại sông Kaleindaung, nhưng có thể tiếp tục hoạt động với một chân vịt cho đến khi kết thúc chiến dịch. Vào đầu tháng 3 năm 1945, "Nepal" được phân về Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc; ký hiệu lườn của nó được thay đổi từ G25 sang D14. Chiếc tàu khu trục ở lại cùng Hạm đội Thái Bình Dương cho đến khi Thế Chiến II kết thúc. Nó được tặng thưởng bốn Vinh dự Chiến trận. "Nepal" đi đến Sydney vào ngày 22 tháng 10 năm 1945, được cho xuất biên chế tại đây và hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia Anh cùng ngày hôm đó. Con tàu không được cho hoạt động trở lại; nó nằm trong thành phần dự bị cho đến năm 1955, khi nó được đưa vào danh sách loại bỏ và bị bán. "Nepal" bị tháo dỡ tại Briton Ferry thuộc xứ Wales vào tháng 1 năm 1956.
1
null
Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley (tiếng Anh: "Lawrence Berkeley National Laboratory", viết tắt là LBNL hoặc LBL) là một phòng thí nghiệm quốc gia của Hoa Kỳ, đặt ở Đồi Berkely gần Berkeley, California. Đây là nơi tiến hành các nghiên cứu khoa học công khai dưới danh nghĩa của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ. Nó được quản lý và vận hành bởi Đại học California, với học xá Berkeley nằm ngay cạnh đó. Các kế hoạch được trường đại học thông báo vào năm 2012 về việc một thành lập một học xá Berkeley Lab thứ hai bên cạnh học xá Berkeley trên mảnh đất nó sở hữu ở gần Richmond. Được thành lập bởi Ernest Lawrence để tập trung nghiên cứu cho Dự án Manhattan, Phòng thí nghiệm ngày nay trở thành một trung tâm nghiên cứu quốc tế với 14 lĩnh vực khác nhau và ngân 722 triệu đô la (năm 2013). Trong số các nhà khoa học từng làm việc cho phòng thí nghiệm 13 người đã nhận giải Nobel và hơn 50 người là thành viên Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Một trong những cựu giám đốc của phòng thí nghiệm, Steven Chu, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Năng lượng Hoa Kỳ dưới nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Barack Obama
1
null
ORP "Piorun" (G65) là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được Hải quân Hoàng gia Anh đặt lườn như là chiếc HMS "Nerissa, nó được giao cho Ba Lan như là chiếc "Piorun" (tiếng Ba Lan: "Tia chớp") vào năm 1940. Hoạt động nổi bật nhất của nó trong chiến tranh là đã đụng độ với "Bismarck" trong trận chiến sau cùng của chiếc thiết giáp hạm Đức. Sau chiến tranh nó được hoàn trả cho Anh như là chiếc HMS "Noble năm 1946 và bị tháo dỡ năm 1955. Thiết kế và chế tạo. Con tàu được chế tạo tại xưởng tàu của hãng John Brown & Company ở Clydebank, Glasgow. Nó được đặt lườn vào tháng 7 năm 1939, được hạ thủy vào ngày 7 tháng 5 năm 1940 và hoàn tất vào ngày 4 tháng 11 năm 1940. Thoạt tiên được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS "Nerissa", nó được chuyển giao cho chính phủ lưu vong Ba Lan để thay thế cho tàu khu trục ORP "Grom", vốn bị mất tại khu vực bờ biển Na Uy vào ngày 4 tháng 5 năm 1940.
1
null
Otto Robert Frisch (ngày 1 tháng 10 năm 1904 – 22 tháng 9 năm 1979) là một nhà vật lý người Do Thái quốc tịch Áo sau chuyển thành quốc Anh. Cùng với người cộng tác là Rudolf Peierls ông đã thiết kế nên cơ chế lý thuyết đầu tiên cho việc kích nổ một quả bom nguyên tử vào năm 1940. Ông là cháu của nhà vật lý nữ Lise Meitner Frisch là người Do Thái sinh ra ở Viên năm 1904, có cha là một họa sĩ và mẹ là một người chơi piano thính phòng. Ông thừa hưởng từ họ cả tài hội họa lẫn chơi đàn, nhưng giống như dì của mình là Lise Meitner, ông sớm có tình yêu đối với vật lý và bắt đầu nghiên cứu nó ở Đại học Viên, tốt nghiệp năm 1926 với nghiên cứu ảnh hưởng của electron trên các loại muối. Sau vài năm làm việc ở những phòng thí nghiệm mờ nhạt ở Đức, Frisch nhận một vị trí ở Hamburg dưới quyền nhà khoa học được giải Nobel Otto Stern. Ở đây ông nghiên cứu tán xạ nguyên tử và moment từ của proton Sau khi Hitler trở thành Thủ tướng Đức năm 1933, Frisch quyết định chuyển tới London nơi ông làm việc tại Cao đẳng Birkbeck, Đại học London về công nghệ buồng mây và phóng xạ nhân tạo. Sau đó ông dành 5 năm làm việc với Niels Bohr tại Copenhagen về vật lý hạt nhân, đặc biệt là vật lý neutron mà bấy giờ ông đã trở thành một chuyên gia hàng đầu. Vào dịp Giáng sinh năm 1938 ông tới thăm dì của mình Liser Meitner ở Kungälv. Họ thảo luận về tin Otto Hahn và Fritz Strassmann ở Berlin đã phát hiện thấy việc va đập neutron với hạt nhân uranium sinh ra Barium trong số các sản phẩm phụ. Hai người phỏng đoán rằng hạt nhân uranium phân tách làm đôi, giải thích quá trình và ước tính năng lượng giải phóng, và Frisch đã đặt ra thuật ngữ phân hạch cho quá trình này . Frisch trở lại Copenhagen, nơi ông nhanh chóng có thể cô lập các mảnh vỡ của phản ứng phân hạch. Ý tưởng cơ bạn cả một thí nghiệm chứng minh trực tiếp sự phân hạch đến từ một gợi ý của George Placzek. Hè năm 1939 Frisch rời Đan Mạch để tới Birmingham cho một chuyến đi mà ông dự tính là ngắn ngày, nhưng Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ khiến ông không thể quay về. Dưới ảnh hưởng của chiến tranh, ông cùng Rudolf Peierls soạn thảo Giác thư Frisch-Peierls, văn bảo đầu tiên xác định quá trình xảy ra một vụ nổ nguyên tử, sử dụng uranium-235 với khối lượng tới hạn tương đối nhỏ có thể để chế tạo thành bom. Giác thư này là cơ sở của Dự án Tube Alloys chế tạo bom nguyên tử của Anh, sau này sáp nhập vào Dự án Manhattan. Trong khuôn khổ dự án, Frisch tới Hoa Kỳ năm 1943 và ngay trước đó nhập quốc tịch Anh. Tại Los Alamos, Frisch tham gia vào nhóm xác định lượng uranium làm giàu cần thiết để tạo ra khối lượng tới hạn. Sau khi dự án kết thúc ông trở về Anh, đảm nhiệm chủ nhiệm bộ môn vật lý hạt nhân ở Cơ sở Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử ở Harwell, mặc dù phần lớn 30 năm sau đó ông chủ yếu giảng dạy ở Đại học Cambridge nơi ông giữ ghế Giáo sư Jackson về Triết học Tự nhiên và là một học giả ở Cao đẳng Trinity. Một trong những đóng góp cuối sự nghiệp của ông là việc phát minh ra một loại máy quét laser. Ông nghỉ hưu vào năm 1972. và mất năm 1979 ở Anh.
1
null
Henry Agard Wallace (7 tháng 10 năm 1888-18 tháng 11 năm 1965) là Phó Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ (1941-1945), Bộ trưởng Nông nghiệp (1933-1940), và Bộ trưởng Thương mại (1945-1946). Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1948, Wallace từng là ứng viên của Đảng Tiến bộ. Tuổi trẻ. Gia đình Wallace mang gốc Scotland-Ireland theo dòng Trưởng lão, di cư từ Ulster, Ireland, tới Pennsylvania. Ông nội của Henry Agard Wallace, cũng tên là Henry Wallace, từng là một mục sư dòng Trưởng lão sở hữu một vùng đớt lớn ở Iowa, và cổ vũ cho việc phát triển "trang trại khoa học". Ông này tham gia vào các hội bảo vệ nông dân và từng là biên tập viên của "Iowa Homestead", tớ báo nông nghiệp quan trọng nhất của tiểu bang. Bố của Henry A. Wallace cũng tên là Henry Cantwell Wallace, một điền chủ, giáo sư đại học, từng làm Bộ trưởng Nông nghiệp Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống đảng Cộng hòa là Warren G. Harding và Calvin Coolidge. Henry Agard Wallace sinh ngày 7 tháng 10 năm 1888 tại một trang trại gần Orient, Iowa, ở Hạt Adair, Iowa, nhưng về sau gia đình chuyển tới Des Moines, Iowa. Mẹ của Wallace, tên thời con gái là May Brodhead, là một người cũng yêu cây trồng và ngoan đạo. Chịu ảnh hưởng của cha mẹ và một sinh viên gốc Phi, nhà thực vật học tương lai George Washington Carver sống tại nhà, từ nhỏ Wallace đã tìm hiểu thực vật và từ năm 15 tuổi đã tiến hành thí nghiệm trên các giống cây lai. Wallace vào học Đại học Tiểu bang Iowa ở Ames, Iowa, tốt nghiệp cử nhân ngành chăn nuôi năm 1910. Ông làm công việc biên tập do tờ báo riêng của gia đình, "Wallaces' Farmer" ở Des Moines từ 1910 tới 1924 và từ năm 1924 tới 1929 làm tỏng biên tập. Wallace tiến hành thí nghiệm với ngô lai năng suất cao và viết một số lượng bài báo đáng kể về nông nghiệp. Ông phát minh ra biểu đồ tỉ lệ lợn-ngô đầu tiên chỉ ra xu hướng hướng thị trường. Ông cũng nghiên cứu thống kê và đồng tác giả một bài viết quan trong với nhà thống kê học George W. Snedecor về các phương pháp phân tích tương quan và hồi quy Năm 1914, Wallace cưới Ilo Browne, và năm 1926, được trợ giúp từ khoản tiền thừa kế nhỏ vợ có được, ông lập nên Công ty Ngô Hi-Bred rất thành công và đưa ông thành một triệu phú. Công ty về sau trở thành một tập đoàn nông nghiệp với tên Pioneer Hi-Bred, được Tập đoàn DuPont mua lại năm 1999 với giá xấp xỉ 10 tỷ đô la. Sự nghiệp chính trị. Bộ trưởng Nông nghiệp. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt bổ hiệm Wallace làm Bộ trưởng Nông nghiệp Hoa Kỳ, vị trí mà cha ông từng nắm những năm 1921-1924. Henry A. Wallace từng trong danh sách đảng viên Cộng hòa cho đến năm 1936, nhưng từ lâu là một người thuộc phe tiến bộ và từng vận động cho ứng viên Dân chủ Al Smith. Ông là một trong ba người thuộc đảng Cộng hòa được Rooservelt bổ nhiệm làm thành viên nội các. Các chính sách nông nghiệp dưới thời Wallace gây ra tranh cãi: để tăng giá hàng lương thực ông tiến hành việc giết lợn, nhổ các cánh đồng bông, và trả tiền cho nông dân để họ bỏ hoang đất. Ông cũng vận động cho chính phủ mua tích trữ bình ổn thị trường nông nghiệp. Sử gia Arthur M. Schlesinger, người lên án Wallace trong nhiều lĩnh vực khác, lại gọi Wallace là "bộ trưởng nông nghiệp tốt nhất đất nước này từng có", trong khi Erich Rauchway phê phán Wallace và chính sách nông nghiệp thời cải cách kinh tế Roosevelt là quá ưu ái nông dân và duy trì một nền kinh tế trang trại lỗi thời Tranh cãi Roerich. Wallace từng trao đổi thư từ với Nicholas Roerich, một nghệ sĩ, triết gia di cư từ Nga. Roosevelt và Wallace đã vận động Quốc hội ủng hộ chương trình "Ngọn cờ Hòa bình" của Roerich, dẫn đến một hiệp ước trên châu Mỹ để bảo vệ các thể chế nghệ thuật và khoa học trên thế giới trước sự tàn phá của chiến tranh. Năm 1934, Bộ Nông nghiệp gửi Roerich trong một phái đoàn tới Trung Á để tìm các loại cỏ chịu hạn để tránh sự tái diễn của thảm họa Cơn bão Đen. Tuy nhiên khi đến đây Roerich gây rắc rối khi tìm cách hồi sinh vương quốc Phật giáo Shambhala trong truyền thuyết, do đó khiến các cường quốc có ảnh hưởng trong khu vực là Anh và Nhật Bản bất bình. Sau khi Wallace triệu hồi Roerich, chính phủ tiến hành điều tra ông này trốn thuế, nhưng nghệ sĩ này giữ một hộ chiếu Pháp đã tìm cách đi tới Ấn Độ. Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1940 mà Wallace ứng cử chức Phó Tổng thống, đảng Cộng hòa có được những bức thư Wallace gửi Roerich những năm 1930, gọi ông này là "Dear Guru" ("Bậc thầy đáng mến"), tuy rằng một số người tin rằng một số chứng cớ trong đó là ngụy tạo. Phe Cộng hòa đe dọa sẽ công bố những bức thư này cho công chúng để cho thấy khuynh hướng lập dị và tinh thần tôn giáo "lệch lạc" của Wallace, tuy nhiên đảng Dân chủ đe dọa đáp trả bằng cách tung ra thông tin về vụ ngoại tình giữa ứng viên Cộng hòa Wendell Willkie và nữ nhà văn Irita Van Doren. Do đó chuyện này xẹp xuống, nhưng đến cuối năm 1947 bị nhà báo Westbrook Pegler khơi ra và tạo ra một đòn dánh vào Wallace trong kì bầu cử Tổng thống sắp tới khi đó. Wallace từ chối bình luận về những lá thư này. Phó Tổng thống. Với vị thế một nhà cải cách tự do và người tham gia kiến tạo Chính sách kinh tế mới, Wallace được Roosevelt chọn làm ứng viên phó Tổng thống trong cuộc chạy đua bầu cử vào tháng 9 năm 1940. Tuy nhiên nhiều người thuộc cánh bảo thủ của Đảng Dân chủ không tin tưởng Wallace, đánh giá ông là mang đầu óc không tưởng, thần bí, hơn nữa từng là người của Đảng Cộng hòa. Nhiều đại cử tri đã phản đối liên danh với Wallace kịch liệt và chỉ chịu thôi khi Roosevelt dọa sẽ từ chối nhận đề cử ứng viên Tổng thống. Có người cho rằng Roosevelt chọn Wallace là nhằm tranh thủ phe tiến bộ của Đảng Cộng hòa, rằng họ có thể gia nhập liên minh cầm quyền theo bước Wallace Kết quả Wallace nhận được 59% trên tổng số 1100 đại cử tri tại đại hội đề cử của đảng, đánh bại Chủ tịch Hạ viện William B. Bankhead đến từ Alabama. Liên danh Roosevelt-Wallace đắc cử tháng 11 năm 1940 với tỉ lệ phiếu 449/531 phiếu đại cử tri và nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm 1941. Roosevelt bổ nhiệm Wallace làm chủ tịch của Hội đồng Chiến tranh Kinh tế và Hồi đồng Phân bổ và Ưu tiên Cung ứng năm 1941. Những vị trí này trở nên rất quan trọng khi Hoa Kỳ bước vào Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng cũng khiến Wallace thường xuyên va chạm với phe bảo thủ của đảng Dân chủ, nhất là Bộ trưởng Thương mại Jesse H. Jones. Ngày 8 tháng 5 năm 1942, Wallace có bài diễn văn nổi tiếng nhất trong sự nghiệp, về sau thường được gọi là "Thế kỷ của người Bình dân" ("Century of the Common Man") tại Hội Thế giới Tự do ở New York. Diễn văn này, dựa trên nền tảng Kitô giáo, vạch ra một viễn cảnh lạc quan về cục diện hậu Thế chiến sau khi đánh bại Đức Quốc xã. Ông kêu gọi cho một thế giới chia sẻ tài sản và chấm dứt chủ nghĩa thực dân cùng bóc lột kinh tế. Diễn văn này và sau đó với một quyển sách cùng tên đã khiến Wallace trở nên rất nổi tiếng, nhưng cũng đem lại cho ông nhiều mối thù địch trong giowiis lãnh đạo đảng, đảng Cộng hòa và cả giới doanh nghiệp. Wallace cũng có một diễn văn nổi tiếng khác, ủng hộ dập tắt cuộc bạo loạn phân biệt chủng tộc ở Detroit năm 1943. Năm 1943, Wallace có một chuyến đi hữu nghị tới Châu Mỹ Latinh, và thành công trong việc thuyết phục các nước chủ chốt tuyên chiến với Đức. Ông cũng yêu cầu Hội đồng Chiến tranh Kinh tế thêm các "điều khoản lao động" vào các hợp đồng với những nhà sản xuất Mỹ Latin, đòi hỏi phải trả lương công bằng và cung cấp điều kiện lao động an toàn cho công nhân, và Hoa Kỳ sẽ chi trả một nửa chi phí cần thiết cho việc cải thiện này. Sau khi gặp Vyacheslav Molotov, Wallace bắt đầu tiến hành một chuyến đi vào ngày 23 tháng 5 năm 1944 từ Alaska, đổ bộ tới Magadan thuộc Liên Xô, sau đó đi tới Mông Cổ và Trung Quốc. Phim tài liệu do Owen Lattimore tháp tùng Wallace cùng những báo chí thời đó tuyên truyền cho chuyến đi và mô tả Liên Xô một cách tích cực. Sau khi Wallace công khai giảng hòa với Jesse H. Jones và các viên chức cấp cao khác vào cuối năm 1944, Roosevelt rút ông khỏi các trách nhiệm thời chiến và dự định cho Wallace thay thế mình trên lá phiếu tổng thống. Một cuộc thăm dò của Viện Gallup tiến hành ngay trước cuộc Đề cử ứng viên Phó Tổng thống Đảng Dân chủ năm 1944 cho thấy 65% số người được hỏi ủng hộ Wallace và chỉ 2% ủng hộ đối thủ sau cùng của ông Harry S. Truman. Tại đại hội Đảng Dân chủ, ban đầu Wallace nhận được ủng hộ của phần lớn các đại biểu nhưng giới lãnh đạo đảng tìm cách vận động để cho Truman chiến thắng vào phút cuối cùng. Truman thay thế Wallace ở vị trí Phó Tổng thống vào ngày 12 tháng 4, kế nhiệm chức Tổng thống khi Franklin D. Roosevelt từ trần. Nói cách khác, Henry A. Wallace lỡ cơ hội trở thành Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ chỉ trong 82 ngày. Bộ trưởng Thương mại. Để xoa dịu Wallace, Roosevelt bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Thương mại tháng 3 năm 1945, và ông tiếp tục đảm nhiệm vị trí này trong thời gian đầu Truman cầm quyền. Trong một diễn văn ngày 12 tháng 4 năm 1946, Wallace nói rằng "bên cạnh ngôn ngữ chung và truyền thống văn học chung, chúng ta chẳng có gì chung với nước Anh đế quốc hơn là nước Nga cộng sản". Wallace khét tiếng là "nhẹ nhàng" khi nói về cộng sản, nhưng sự căm ghét những liên quan của nước Mỹ với Anh và châu Âu thì bấy giờ hầu hết các khuynh hướng chính trị đều tán thành. Tháng 9 năm 1946, Tổng thống Harry S. Truman sa thải ông do bất đồng về chính sách với Liên Xô. Ông là Phó Tổng thống Hoa Kỳ cuối cùng phục vụ trong nội các của một Tổng thống tiếp theo. Tranh cử Tổng thống năm 1948. Sau khi mất chức, Wallace trở thành biên tập cho tạp chí The New Republic, sử dụng lập trường của mình để lên án chính sách ngoại giao của Truman. Vào thời điểm Chiến tranh Lạnh bắt đầu, ông tiên đoán rằng nó sẽ đánh dấu "một thế kỷ của sợ hãi". Wallace rời vị trí biên tập năm 1948 để vận động bầu cử Tổng thống. Đảng Dân chủ phân hóa và phái tự do tách ra thành Đảng Tiến bộ ủng hộ đường lối của Wallace. Bên cạnh chống lại các chiến sách Chiến tranh Lạnh và Kế hoạch Marshall, chương trình tranh cử của ông cũng kêu gọi chống phân biệt với phụ nữ, cho người da đen quyền bỏ phiếu đầy đủ, chống lại các tập đoàn kinh tế và xây dựng hệ thống bảo hiểm chính phủ toàn quốc. Chiến dịch của ông là khác thường vào thời đó vì nó đưa ra các ứng viên người Mỹ gốc Phi bên cạnh những người da trắng cho các vị trí đại cử tri ở các tiểu bang miền Nam, hay việc ông từ chối xuất hiện những khán giả chia tách (giữa da đen và da trắng) hay ăn hoặc ở những nơi chia tách. Tạp chí Time mô tả ông đi lại phô trương ở nhiều thành phố miền Nam "với thư ký người Phi bên cạnh mình." Rất nhiều trứng và cà chua đã ném vào Wallace và những thành viên vận động cho ông trong chuyến đi, khiến Wallace bình luận rằng "Có một sợi xích dài liên kết những tên côn đồ vô danh trẻ tuổi ở North Carolina hay Alabama với những người đàn ông trong trang phục doanh nhân được may cắt trang trọng ở những trung tâm tài chính lớn ở New York hay Boston, nhưng người làm ra lợi nhuận dollars-&-cents bằng cách đẩy chủng tộc này chống chủng tộc khác ở miền nam xa xôi." Những bức thư cho Roerich được lưu hành để cản trở chiến dịch của ông. Các nhà báo H.L. Mencken và Dorothy Thompson, những người chống đối Chính sách kinh tế mới từ lâu, tìm cách gây thêm tổn hại thanh danh cho Wallace bằng cách tuyên bố ông và những người Tiến bộ chịu sự kiểm soát ngấm ngầm của Cộng sản. Đảng Cộng sản Hoa Kỳ không đưa ra ứng cử viên nào trong cuộc bầu cử này và đã ủng hộ Wallace. Việc Wallace từ chối không công khai bác bỏ sự ủng hộ đề cử của cộng sản khiến ông đánh mất sự ủng hộ của nhiều người chống cộng trong phái tự do. Kết quả là liên danh của Wallace với Thượng nghị sĩ Glen H. Taylor thất bại thảm hại: họ về thứ tư trong cuộc bầu cử với chỉ 2,4% phiếu phổ thông và không nhận được phiếu đại cử tri nào. Những năm cuối đời. Sau thất bại, Wallace từ bỏ phần nhiều hoạt động chính trị và quay về với quan tâm trồng trọt của mình, lui về sống ở South Salem, New York. Những năm về sau ông đạt được một số tiến bộ trong lĩnh vực nông học, bao gồm một việc nhân một giống gà mà từng có thời điểm chiếm đại đa số tất cả số gà đẻ trứng trên toàn cầu. Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Henry A. Wallace Beltsville, tổ hợp nghiên cứu nông nghiệp lớn nhất thế giới của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, được đặt theo tên ông. Năm 1950, khi Bắc Triều Tiên xâm lược Nam Triều Tiên, Wallace cắt đứt với Đảng Tiến bộ và ủng hộ nỗ lực của Liên Hợp Quốc do Hoa Kỳ đứng đầu trong Chiến tranh Triều Tiên. Trước đó, khi Vladimir Nikolayevich Petrov, một người bạn và là người sống sót trại gulag công bố những chi tiết của chuyến đi của Wallace tới Magadan, Wallace chính thức xin lỗi vì đã để Liên Xô lừa và ngụy tạo hiện trường. Dưới thời Chủ nghĩa McCarthy, ông phải ra điều trần tại Tiểu ban An ninh Nội địa của Thượng viện, và như ông viết trong nhật ký ông chỉ kém tay gangster Lucky Luciano trong các cuộc thăm dò dư luận về danh hiệu "người ít được tán thành nhất nước Mỹ". Năm 1952 Wallace xuất bản "Where I Was Wrong", trong đó ông giải thích thái độ dường như tin tưởng Liên Xô và Joseph Stalin bắt nguồn từ sự thiếu thông tin về tội ác của Stalin, và rằng từ giờ ông tự xem mình là người chống cộng. Ông viết một loạt lá thư cho nhưng người ông nghĩ là vu khống mình và kêu gọi ủng hộ Tổng thống Dwight D. Eisenhower tái đắc cử năm 1956. Năm 1961 Tổng thống John F. Kennedy mới được bầu mời ông tham gia buổi lễ nhậm chức, mặc dù Wallace từng ủng hộ đối thủ của Kenedy là Richard Nixon, khiến cho Wallace xúc động. Wallace lần đầu tiên thấy triệu chứng teo cơ bên vào năm 1964. Ông mất do bệnh này ở Danbury, Connecticut, ngày 18 tháng 11 năm 1965. Thi hài của ông được hỏa táng tại Nghĩa trang Grace ở Bridgeport, Connecticut, và tro được an táng tại Nghĩa trang Glendale, Des Moines, Iowa.
1
null
Ciro Immobile (; sinh ngày 20 tháng 2 năm 1990) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Lazio ở Serie A và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại Sorrento. Năm 2009, anh được Juventus mua lại, và sau đó cho ba câu lạc bộ mượn trước khi chuyển đến Genoa vào năm 2012. Sau một mùa giải tại đây, anh chuyển đến câu lạc bộ cùng thành phố với Juventus là Torino. Tại đây, anh đã giành được giải "Capocannoniere" (vua phá lưới Serie A) với 22 bàn thắng sau 33 trận. Sau mùa giải đột phá tại Torino, anh đã được Borussia Dortmund mua lại với giá 18 triệu Euro trước khi chuyển đến Sevilla vào năm 2015. Năm 2016, anh trở lại Torino theo dạng cho mượn và sau đó được bán cho Lazio vào tháng 7 năm đó. Trong mùa giải thứ hai khoác áo Lazio, anh đã lần thứ hai giành được giải "Capocannoniere", với 29 bàn sau 33 trận. Immobile ra mắt đội tuyển quốc gia Ý vào năm 2014, và được điền tên vào đội hình dự World Cup 2014, Euro 2016 và Euro 2020. Sự nghiệp câu lạc bộ. Khởi đầu. Sinh ra ở Torre Annunziata thuộc tỉnh Napoli, Immobile bắt đầu sự nghiệp của mình ở trường bóng đá "Torre Annunziata '88" trước khi chuyển sang "Maria Rosa" và cuối cùng là đội trẻ Salernitana tuy nhiên đã không thành công tại đây. Sau đó anh gia nhập Sorrento nơi mà anh có 30 bàn thắng trong đội trẻ U-17 mùa giải 2007–08, bao gồm cả cú đúp trong trận gặp Torino, điều này đã gây ấn tượng với các nhà tuyển trạch của Juventus. Năm 2008, ở tuổi 18, anh ký hợp đồng trị giá 80.000 Euro theo đề nghị của Ciro Ferrara. Ở Juventus, anh tiếp tục được chơi cho đội trẻ Đội trẻ Juventus F.C. ở giải "Primavera". Anh bắt đầu thi đấu cho đội trẻ Juventus năm 2009 và đá cặp với Ayub Daud, cùng nhau họ đã đưa đội bóng đến chức vô địch của Torneo di Viareggio 2009, cá nhân Immobile có 5 bàn thắng, hai trong số đó là ở trận chung kết. Vào ngày 14 tháng 3 năm 2009, Immobile ra mắt Serie A với trận thắng 4-1 trên sân nhà trước Bologna. Anh thay thế đội trưởng Alessandro Del Piero ở phút 89, và người đồng đội với anh ở đội trẻ là Daud cũng được vào sân khi thay Sebastian Giovinco một phút sau đó. Vào ngày 25 tháng 11 năm 2009, Immobile cũng lần đầu ra mắt một trận đấu ở châu Âu, một lần nữa anh vào sân ở hiệp hai thay cho Alessandro Del Piero ở UEFA Champions League khi Juventus gặp Bordeaux. Tháng 2 năm 2010, anh ghi hat-trick trong trận đấu với câu lạc bộ Empoli ở chung kết giải Torneo di Viareggio 2010, qua đó giành cú đúp danh hiệu của giải đấu. Cho mượn tại Siena và Grosseto. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2010, Immobile cùng với đồng đội Luca Marrone được cho A.C. Siena lúc đó đang thi đấu ở Serie B mượn. Đổi lại Juventus mượn Niccolò Giannetti, Leonardo Spinazzola và Marcel Büchel từ câu lạc bộ vùng Tuscany. Tuy nhiên, Immobile chưa bao giờ có mặt tại đội một, và vào tháng 1 năm 2011, anh rời Siena sau 4 lần ra sân và 1 bàn thắng. Sau khi rời Siena, anh tiếp tục được cho Grosseto mượn, một câu lạc bộ lúc đó đang thi đấu ở Serie B 2010–11. Cho mượn tại Pescara. Vào ngày 17 tháng 8 năm 2011, Immobile gia nhập câu lạc bộ Serie B Pescara theo dạng cho mượn dài hạn. Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 26 tháng 8 trong trận ra mắt Pescara gặp Hellas Verona ngay vòng đấu đầu tiên. Đến cuối "andata" Serie B 2011–12 (nửa đầu mùa giải), Immobile đã ghi được 14 bàn thắng. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2012, Genoa xác nhận rằng họ đã trả 4 triệu Euro cho một nửa quyền sở hữu cầu thủ từ Juventus sau khi chứng kiến anh ấy ở Serie B. Immobile kết thúc mùa giải với Pescara ở giải hạng hai của Ý với danh hiệu vô địch cùng một suất lên chơi tại Serie A. Anh cũng đã trở thành vua phá lưới của Serie B với tổng cộng 28 bàn thắng, nhiều hơn 7 bàn so với cầu thủ ghi bàn cao thứ hai là Marco Sau của Juve Stabia. Immobile cũng được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất năm của Serie B tại Gran Galà del Calcio 2012 cùng với các đồng đội Lorenzo Insigne và Marco Verratti. Genoa. Immobile chính thức trở thành một cầu thủ Genoa vào ngày 1 tháng 7 năm 2012 sau khi hợp đồng cho Pescara mượn hết hạn. Vào ngày 19 tháng 6 năm 2013, Genoa và Juventus một lần nữa gia hạn các thỏa thuận đồng sở hữu về trường hợp của Immobile và Boakye. Torino. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2013, Juventus đã mua một nửa sở hữu Immobile của Genoa với giá 2,75 triệu euro. Cùng ngày, anh bị bán cho đối thủ cùng thành phố Torino theo thỏa thuận đồng sở hữu mới trị giá 2,75 triệu euro. Anh ra mắt Torino ngay ở vòng đầu tiên của Coppa Italia trước câu lạc bộ cũ Pescara, và ghi bàn thắng đầu tiên của mùa giải. Anh đã vào sân trong trận ra mắt Serie A cho câu lạc bộ nhưng không ghi bàn cho đến ngày 7 tháng 10, trong trận hòa 2-2 với Sampdoria. Trước đó, Immobile cũng đã không ghi bàn tại Serie A kể từ tháng 12 năm 2012. Bàn thắng báo hiệu một phong độ khởi sắc của Immobile, với việc ghi thêm 12 bàn trong 15 trận tiếp theo, bao gồm cả cú đúp đầu tiên của anh ở Serie A trong trận đấu với Chievo Verona vào tháng 12. Vào ngày 22 tháng 3 năm 2014, Immobile đã lập hat-trick đầu tiên tại Serie A, trong chiến thắng 3-1 trước Livorno. Ba ngày sau, anh ghi bàn với một cú vô lê ngoạn mục bằng chân trái trong trận đấu với Roma tại Olimpico. Đến ngày 6 tháng 4, anh đã ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 2-1 trước Catania. Ngày 13 tháng 4, khi Genoa đang dẫn với tỉ số 1-0, cả Immobile và Alessio Cerci đều ghi bàn trong khoảng thời gian bù giờ để mang về chiến thắng 2-1 cho Torino. Anh một lần nữa ghi bàn ở vòng sau đó, trong trận hòa 3-3 trước Lazio. Trong ngày 27 tháng 4, Immobile ghi bàn trong trận đấu thứ sáu liên tiếp để đánh bại Udinese với tỉ số 2–0, qua đó giúp anh có được 21 bàn thắng trong mùa giải, bằng với thành tích ghi bàn trong một mùa của hai cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong một mùa cho Torino là Paolo Pulici và Francesco Graziani. Vào ngày 11 tháng 5, Immobile đã ghi bàn trong trận đấu áp chót của mùa giải trước Parma nhưng đã bị đuổi khỏi sân trong hiệp hai và bị treo giò trong trận đấu cuối cùng với Fiorentina. Kết thúc mùa giải, anh có 22 bàn thắng sau 33 lần ra sân, cộng thêm một bàn ghi được ở Coppa Italia 2013–14. Anh trở thành cầu thủ thứ hai của Torino giành được "Capocannoniere" sau Francesco Graziani xác lập trong mùa bóng 1976–77. Borussia Dortmund. Vào ngày 2 tháng 6 năm 2014, câu lạc bộ Bundesliga Borussia Dortmund tuyên bố hoàn tất bản hợp đồng với Immobile, mặc dù thỏa thuận đồng sở hữu giữa Torino và Juventus không được giải quyết. Chủ tịch của Torino là Urbano Cairo cáo buộc Juventus và Dortmund đã vi phạm quy định của FIFA liên quan đến chuyển nhượng vào ngày 10 tháng 5 năm 2014, mà Liên đoàn bóng đá Ý cũng tuyên bố rằng việc chuyển nhượng đó phải có sự đồng ý của các đồng sở hữu. Cairo cũng muốn giữ chân Immobile ít nhất thêm một mùa bởi thành tích và lợi nhuận thu được. Vào ngày 18 tháng 6 năm 2014, Juventus đã bán 50% quyền sở hữu còn lại của Immobile cho Torino với giá 8,035 triệu Euro. Torino sau đó tiết lộ trong hồ sơ tài chính của họ, rằng phí chuyển nhượng mà phía câu lạc bộ Đức phải trả là 17,955 triệu Euro. Vào ngày 13 tháng 8 năm 2014, Immobile ra mắt chính thức trong màu áo của Dortmund với tư cách là một tiền đạo trong đội hình xuất phát tại Siêu cúp bóng đá Đức 2014, trong trận gặp Bayern Munich. Trận đấu kết thúc với việc Borussia nâng cúp vô địch sau khi hạ đối thủ với tỷ số 2-0. Immobile có trận ra mắt Bundesliga vào ngày 23 tháng 8 năm 2014 khi Dortmund có trận thua 0-2 trước Bayer Leverkusen trên sân nhà. Vào ngày 16 tháng 9 năm 2014, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, mở ra chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Arsenal ở vòng bảng Champions League. Anh đã ghi 4 bàn thắng trong 6 trận đấu ở Champions League, trong chiến thắng 3–0 trước Anderlecht, 4–1 trên sân nhà trước Galatasaray và 1–1 trên sân nhà với Anderlecht, qua đó giúp Borussia vượt qua vòng bảng với tư cách nhất bảng. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2014, Immobile có pha kiến tạo đầu tiên và ghi bàn thứ hai trong trận hòa 2-2 trên sân nhà với Wolfsburg. Sevilla. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2015, Immobile gia nhập Sevilla theo dạng cho mượn sau một mùa chỉ ghi được 3 bàn thắng trong mùa giải đầu tiên tại Borussia Dortmund (tổng cộng 10 bàn sau 34 trận). Sevilla cũng có thể mua đứt anh nếu muốn. Anh ra mắt câu lạc bộ vào ngày 11 tháng 8 năm 2015 từ băng ghế dự bị khi vào sân thay thế Kevin Gameiro ở phút thứ 80 của trận Siêu cúp châu Âu 2015 đối đầu với Barcelona và có pha kiến tạo cho Yevhen Konoplyanka ghi bàn ở phút 81, qua đó đưa trận đấu đến hiệp phụ. Tuy nhiên, Barcelona đã giành chiến thắng 5-4 sau khi Pedro ghi bàn trong hiệp phụ. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2015, Immobile rời sân trên cáng với bình thở oxy và nẹp cổ sau khi mới chỉ thi đấu năm phút trong trận giao hữu với Watford tại Vicarage Road sau pha va chạm. Anh đã được đưa đến bệnh viện để kiểm tra và dần phục hồi. Sau đó, các bác sĩ đã xác định anh bị vỡ vách ngăn mũi. Ngày 8 tháng 11 năm 2015, Immobile đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Sevilla ở phút 36 khi họ bất ngờ đánh bại Real Madrid trên sân nhà với tỉ số 3-2. Trong tháng 11, Immobile được câu lạc bộ mua đứt với giá 11 triệu Euro cộng với 3 triệu Euro mượn đầu mùa. Cho mượn tại Torino. Ngày 14 tháng 1 năm 2016, Immobile trở lại Torino theo dạng cho mượn cho đến hết mùa giải 2015–16. Hai ngày sau khi ra mắt trở lại, anh đã ghi bàn thắng mở tỉ số trong chiến thắng 4-2 trên sân nhà trước Frosinone. Ngày 14 tháng 2, anh lập một cú đúp trong chiến thắng 3-1 trên sân khách trước Palermo. Ngày 22 tháng 3, các bác sĩ xác định anh bị chấn thương bắp đùi sau va chạm ở hiệp một trong trận derby với Juventus hai ngày trước đó, và anh sẽ phải ngồi ngoài một tháng. Lazio. Ngày 27 tháng 7 năm 2016, Immobile đã ký hợp đồng trị giá 8,75 triệu euro với Lazio (cộng thêm 700.000 Euro hoa hồng cho người đại diện). Ngày 21 tháng 8, Immobile đã ghi bàn trong trận mở màn của Lazio với chiến thắng 4-3 trên sân khách trước Atalanta. Immobile kết thúc mùa giải với 23 bàn thắng sau 36 lần ra sân cộng với 3 bàn ở Coppa Italia, vượt qua tổng số số bàn giúp anh giành "Capocannoniere" khi còn thi đấu cho Torino trong mùa giải 2013–14, mặc dù lần này nó không giúp anh giành được danh hiệu vua phá lưới Serie A, bởi Edin Džeko mùa giải đó đã ghi đến 29 bàn thắng cho Roma. Đến ngày 13 tháng 8 năm 2017, Immobile đã ghi được hai bàn thắng trong trận Siêu cúp bóng đá Ý 2017, Lazio giành chiến thắng chung cuộc với tỉ số 3-2 trước Juventus. Ngày 10 tháng 9, trong trận đấu thứ ba của Lazio trong mùa giải, anh lập hat-trick và và một kiến tạo trên sân nhà trong chiến thắng 4–1 trước Milan. Với thành tích ấn tượng đó, ngày 21 tháng 10, Lazio đã đề nghị một bản hợp đồng với Immobile cho đến năm 2022. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2018, Immobile đã ghi 4 bàn trong trận đấu với S.P.A.L., trở thành cầu thủ đầu tiên của Lazio ghi được hơn một hat-trick trong một mùa trong vòng 16 năm qua, kết thúc Lazio giành chiến thắng với tỉ số 5-2. Ngày 22 tháng 2 năm 2018, Immobile đã lập tiếp một hat-trick ở vòng bảng Europa League trên sân nhà ở lượt trận thứ hai khi gặp Steaua București, trận đấu kết thúc với chiến thắng 5-1 cho Lazio, qua đó giúp Lazio vượt qua vòng bảng để vào vòng 16 đội. Vào ngày 31 tháng 3 năm 2018, Immobile đã ghi hai bàn trong chiến thắng 6-2 trên sân nhà của Lazio trước Benevento, đó đã là bàn thắng thứ 36 của anh trong mùa giải trên mọi đấu trường, qua đó phá vỡ kỷ lục của Giorgio Chinaglia đã lập trước đó. Immobile kết thúc mùa giải với 29 bàn thắng sau 33 lần ra sân, giành "Capocannoniere" cùng với Mauro Icardi của Inter. Ngày 3 tháng 11 năm 2019, anh đã ghi bàn thắng thứ 100 cho Lazio trong chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Milan. Sự nghiệp quốc tế. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2014, anh nhận được cuộc gọi tới huấn luyện viên Cesare Prandelli của đội tuyển quốc gia Ý nhằm triệu tập anh chuẩn bị cho trận đấu với Tây Ban Nha ba ngày sau đó. Anh vào sân thay thế cho Alessio Cerci ở phút thứ 69 phút, cuối cùng trận đấu kết thúc với chiến thắng 1-0 dành cho Tây Ban Nha. Ngày 13 tháng 5 năm 2014, Immobile được điền tên trong đội hình sơ bộ 30 người chuẩn bị cho World Cup 2014, và đến ngày 1 tháng 6, anh có mặt trong danh sách rút gọn cuối cùng của đội hình 23 người tham dự giải. Vào ngày 8 tháng 6, anh lập một hat-trick trong trận đấu khởi động World Cup cuối cùng của Ý, chiến thắng 5-3 không chính thức trước câu lạc bộ Brazil Fluminense. Immobile đã ra mắt thi đấu trong trận mở màn thắng 2–1 trước Anh tại Manaus vào ngày 14 tháng 6, anh được chơi 17 phút cuối khi vào sân thay thế cho Mario Balotelli. Bàn thắng quốc tế chính thức đầu tiên của anh là trong chiến thắng giao hữu 2-0 trước Hà Lan vào ngày 4 tháng 9 năm 2014. Ngày 31 tháng 5 năm 2016, Immobile đã được ghi tên vào đội hình 23 cầu thủ của Conte tham dự Euro 2016. Năm 2020, anh cùng đội tuyển Ý lên ngôi vô địch Euro lần thứ hai sau khi vượt qua đội tuyển Anh ở trận chung kết.
1
null
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2014–15 là mùa thứ 23 giải bóng đá cao nhất nước Anh được tổ chức kể khi đổi tên thành giải Ngoại hạng kể từ năm 1992. Lịch thi đấu mùa giải được công bố vào ngày 18 tháng 6 năm 2014. Mùa giải sẽ được tổ chức theo thể thức vòng tròn 2 lượt bắt đầu từ ngày 16 tháng 8 năm 2014 và kết thúc vào ngày 24 tháng 5 năm 2015. Manchester City là đương kim vô địch của giải đấu. Mùa giải gồm 20 đội bóng tham dự, bao gồm 17 đội bóng tham dự mùa giải trước, cộng thêm 3 đội lên hạng từ giải Hạng nhất Anh là: Leicester City F.C., Burnley F.C. và Queens Park Rangers F.C.. Vào ngày 3 tháng 5 năm 2015, Chelsea đã giành chức vô địch trước 3 vòng đấu sau khi giành chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Crystal Palace. Đây là danh hiệu đầu tiên của họ kể từ khi giải đấu năm 2010, danh hiệu thứ tư tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và danh hiệu thứ năm Giải bóng đá Anh nói chung. Đội bóng. Có tổng cộng 20 đội bóng sẽ thi đấu, trong đó có 17 đội từ mùa giải 2013–14 và 3 đội từ Hạng nhất Anh. Vào ngày 5 tháng 4 năm 2014, Leicester City giành quyền thăng hạng từ giải Football League Championship sau 10 năm vắng bóng Premier League. Họ vô địch sau khi hạ Bolton Wanderers vào ngày 22 tháng 4 năm 2014. Ngày 21 tháng 4 năm 2014, Burnley giành quyền thăng hạng Premier League với vị trí thứ 2 sau khi đánh bại Wigan Athletic. Ngày 24 tháng 5 năm 2014, Queens Park Rangers giành quyền thăng hạng cuối cùng sau khi chiến thắng 1-0 trong trận đấu loại trực tiếp bởi Derby County tại Sân vận động Wembley tại London. Ba đội lên hạng sẽ thay cho 3 đội xuống hạng là Leicester City, Burnley và Queens Park Rangers. Sân vận động. "Ghi chú: Xếp theo thứ tự bảng chữ cái " Kết quả. Giải thưởng. Giải thưởng thường niên. Đội hình xuất sắc nhất mùa giải của PFA. Đội hình xuất sắc nhất mùa giải của PFA:
1
null
Cơ sinh học nghiên cứu về cấu trúc, chức năng, chuyển động trong các khía cạnh cơ học của các hệ thống sinh học, ở mọi cấp độ thế giới sống từ toàn bộ sinh vật đến các cơ quan, tế bào và bào quan, sử dụng các phương pháp cơ học. Cơ sinh học là một nhánh của lý sinh học. Từ nguyên. Thuật ngữ "biomechanics" (1899) và "biomechanical" (1856) từ tiếng Hy Lạp cổ đại βίος "bios" "sự sống" và μηχανική, "mēchanikē" "mechanics" "cơ học", nhằm chỉ việc nghiên cứu các nguyên lý cơ học của các cơ quan cơ thể sống, một cách chi tiết về sự chuyển dời và cấu trúc của chúng. Phương pháp. Sinh cơ học gần gũi với lĩnh vực kỹ thuật vì nó thường sử dụng các công cụ truyền thống của kỹ thuật để phân tích hệ thống sinh học. Một số áp dụng của đơn giản của cơ học cổ điển cho vật liệu có thể mô tả gần đúng các ứng dụng cơ học của rất nhiều bộ phận hay hệ thống sinh học. Cơ học ứng dụng, bao gồm các phân nhánh như cơ học môi trường liên tục, cơ học về cơ cấu, cơ học kết cấu, tĩnh học và động học có thể dùng vào nghiên cứu Sinh cơ học. Cơ học ứng dụng với các phân ngành như cơ học môi trường liên tục, cơ học về cơ cấu, cơ học kết cấu tĩnh học, động học được áp dụng vào nghiên cứu Sinh cơ học. Hệ thống sinh học thường rất phức tạp, thường phải dùng các phương pháp số để tính toán chúng. Các nghiên cứu được hoàn thành khi thực hiện được các bước tính lặp tính toán dựa trên các giả thiết rồi mô phỏng, mô hình hóa được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Các phân mục nghiên cứu. Sinh cơ hoc nghiên cứu bao gồm: Cơ sinh học cho thể thao. Trong cơ sinh học cho thể thao, các đinh luật về cơ học được áp dụng cho các vận động viên để đạt được thành tích cao và để giảm chấn thương thể thao. Các yếu tố về kỹ thuật cơ khí (ví dụ, đồng hồ đo biến dạng), kỹ thuật điện (ví dụ, lọc kỹ thuật số), khoa học máy tính (ví dụ, phương pháp số), phân tích dáng đi (ví dụ, đo lực lên bề mặt), và thần kinh học lâm sàng (ví dụ, bề mặt EMG) là các phương pháp phổ biến được sử dụng trong cơ sinh học cho thể thao. Cơ sinh học trong thể thao, có thể nói là những hành động cơ bắp, khớp và xương của cơ thể trong quá trình thực hiện một nhiệm vụ, kỹ năng và/hoặc kỹ thuật nhất định. Hiểu biết đúng đắn của cơ sinh học liên quan đến kỹ năng thể thao có tác động lớn nhất đến thi đấu thể thao, phục hồi chức năng và phòng chống thương tích, cùng với môn thể thao ưu thế. Theo ghi nhận của bác sĩ Michael Yessis, người ta có thể nói rằng vận động viên tốt nhất là người thực hiện điều kỹ năng của mình là tốt nhất. Cơ sinh học môi trường liên tục. Phân tích cơ học của vật liệu sinh học và chất lỏng sinh học thường được thực hiện ra với các khái niệm của cơ học môi trường liên tục. Giả định này bị phá vỡ khi kích thước hay cấp độ của phần quan tâm tiếp cận theo các cấp độ của các chi tiết cấu trúc vi mô của vật liệu. Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất của vật liệu sinh học là cấu trúc phân cấp của họ. Nói cách khác, các đặc tính cơ học của các vật liệu này dựa trên hiện tượng vật lý xảy ra ở nhiều cấp độ, từ các phân tử tất lên đến mức mô và cơ quan. Vật liệu sinh học được xếp vào hai nhóm, các mô cứng và mềm. Biến dạng cơ học của mô cứng (như gỗ, vỏ và xương) có thể được phân tích với lý thuyết đàn hồi tuyến tính. Mặt khác, mô mềm (như da, gân, cơ và sụn) thường trải qua biến dạng lớn và do đó phân tích của họ dựa trên lý thuyết biến dạng lớn và máy tính mô phỏng bằng phần tử hữu hạn. Sự quan tâm về cơ học liên tục trong cơ sinh học được thúc đẩy bởi nhu cầu hiện thực trong sự phát triển của mô phỏng y tế.[6]:568 Phương pháp số cho Sinh cơ học. Trong thập kỷ qua phương pháp phần tử hữu hạn đã trở thành một cách để thay thế việc để đánh giá phẫu thuật trong cơ thể. Ưu điểm chính của tính toán bằng phương pháp số trong cơ sinh học là có thể xác định phản ứng bên trong của một giải phẫu mà không bị hạn chế về đạo đức.[9] Điều này đã dẫn đến mô hình phần tử hữu hạn dần đến mức trở thành phổ biến trong một số lĩnh vực Cơ Sinh học trong khi một số dự án thậm chí còn thông qua dự án về mã nguồn mở (ví dụ BioSpine).
1
null
Somniosus pacificus là một loài cá mập thuộc họ Somniosidae, tìm thấy trên toàn cầu, trên thềm lục địa và dốc ở vùng biển ôn đới giữa vĩ độ 70 ° N và 22 ° N, từ độ sâu tới 2.000 mét (6.600 ft). Chiều dài của loài cá này lên đến 4,4 m và cân nặng 888 kg. FishBase công nhận có cá thể cá mập này dài đến 7m. Kích thước cá trưởng thành trung bình là 3,65 m (12,0 ft) và 318–363 kg (701-800 lb). Săn mồi. Loài này được biết đến là loài ăn xác thối, chúng có thể lướt qua nước với ít chuyển động cơ thể và ít tiếng ồn tạo ra dưới nước làm cho chúng là những kẻ săn mồi thành công. Chúng ăn bằng cách hút và cắt đứt con mồi. Chúng có miệng lớn và răng có thể cắn nhỏ những con mồi quá cỡ không thể nuốt được.
1
null
Kỳ Vương chiến là một trong tám giải đấu tranh danh hiệu lớn của giới Shogi chuyên nghiệp Nhật Bản, được tổ chức bởi Liên đoàn Shogi Nhật Bản và Kyodo News. Giải đấu này được thành lập vào năm 1974 với tư cách là một giải đấu không danh hiệu và được nâng lên giải đấu danh hiệu vào năm 1975, với tiền thân là Giải xác định cao thủ mạnh nhất. Kỳ thủ chiến thắng loạt tranh ngôi 5 ván sẽ giành danh hiệu Kỳ Vương . Kể từ năm 2021, giải đấu được tài trợ bởi tập đoàn Konami và tập đoàn y dược Ōtsuka Pharmaceutical. Do đó, kể từ kỳ 48, tên chính thức của giải đấu là Kỳ Vương chiến - Cúp Konami Group. Về nhà tài trợ. Kỳ phổ của Kỳ Vương chiến được xuất bản trên tất cả các tờ báo có hợp đồng với Kyodo News, và các công ty đó cũng thay phiên tổ chức loạt tranh ngôi của Kỳ Vương chiến. Đa số các công ty này là đại diện của các tòa soạn địa phương, và không có công ty nào phát hành báo tại Tokyo. Trước đây, độc giả vẫn có thể tìm đọc kỳ phổ Kỳ Vương chiến qua tuần san "Sự thật". Ban đầu, các giải đấu được giới thiệu trên các tờ báo địa phương (còn gọi là "báo huyện"), chia làm 2 giải đấu: Giải xác định cao thủ mạnh nhất (dành cho các kỳ thủ hạng B trở lên) và Giải giao lưu kỳ thủ lâu năm và kỳ thủ mới (dành cho các kỳ thủ hạng C trở xuống và các kỳ thủ Tam đẳng), đều được Kyodo News tài trợ. Giải xác định cao thủ mạnh nhất trở thành Kỳ Vương chiến vào năm 1974 và trở thành một giải tranh danh hiệu chính thức vào năm 1975 sau đó. Giải giao lưu kỳ thủ lâu năm và kỳ thủ mới trở thành Danh Kỳ chiến và là vòng loại của Kỳ Vương chiến. Danh Kỳ chiến được sáp nhập vào Kỳ Vương chiến trong mùa giải 1981, và Thiên Vương chiến được sáp nhập vào năm 1993, chuyển đổi thể thức của Kỳ Vương chiến thành thể thức hiện tại. Thể thức. Khiêu chiến giả được xác định qua vòng Sơ loại - vòng Xác định Khiêu chiến giả - vòng Tái sinh và loạt Xác định Khiêu chiến giả. Khiêu chiến giả sẽ đấu một loạt 5 ván với đương kim Kỳ Vương, kỳ thủ nào thắng 3 ván trước sẽ trở thành Kỳ Vương mới. Tất cả các ván đấu của Kỳ Vương chiến, từ vòng Sơ loại đến loạt tranh ngôi đều có 4 tiếng thời gian (trước năm 1987 là 5 tiếng) cho mỗi bên, đấu trong 1 ngày. Vòng Sơ loại. Các kỳ thủ không thuộc diện hạt giống ở hạng B2 Thuận Vị chiến trở xuống cùng 1 Nữ lưu kỳ sĩ và Danh Nhân nghiệp dư sẽ đấu loại trực tiếp để xác định 8 kỳ thủ tiến vào vòng Xác định Khiêu chiến giả. Trước đây, 8 kỳ thủ này được xác định thông qua Danh Kỳ chiến. Ở kỳ 48, Satomi Kana Nữ lưu Ngũ quán đã tiến đến vòng Xác định Khiêu chiến giả. Tuy nhiên, chưa từng có Danh Nhân nghiệp dư nào làm được điều tương tự. Komaki Tsuyoshi Danh Nhân nghiệp dư từng tiến đến vòng bán kết của vòng Sơ loại và dừng chân ở đó. Kể từ tháng 2 năm 2021, kỳ thủ Nữ lưu hoặc nghiệp dư tiến đến tứ kết của vòng Xác định Khiêu chiến giả sẽ được quyền làm bài kiểm tra để lên chuyên. Thời gian cho mỗi bên ở vòng sơ loại là 4 tiếng, được tính theo thể thức đếm giây cho đến kỳ 48 và sẽ tính theo thể thức đồng hồ cờ vua từ kỳ 49. Vòng Xác định Khiêu chiến giả. Khoảng hơn 30 kỳ thủ bao gồm các kỳ thủ hạt giống và 8 kỳ thủ từ vòng Sơ loại thứ Nhất sẽ thi đấu để xác định Khiêu chiến giả. Các kỳ thủ hạt giống bao gồm: Các kỳ thủ từ vòng Sơ loại sẽ vào thẳng vòng 2, các kỳ thủ ở top 4 của kỳ trước vào thẳng vòng 3. Từ Bán kết đến loạt 2 ván Xác định Khiêu chiến giả. 1 kỳ thủ sẽ toàn thắng vượt qua vòng Xác định Khiêu chiến giả (nhánh thắng) và vào loạt Xác định Khiêu chiến giả. Từ vòng bán kết (nhánh thắng) trở đi, Kỳ Vương chiến sử dụng thể thức nhánh thắng - nhánh thua (loại kép). Đặc quyền dành cho kỳ thủ hết thời gian ở Free Class. Nếu kỳ thủ tiến đến top 4 của vòng Xác định Khiêu chiến giả đã hết thời gian ở Free Class, dù kỳ thủ không được tham gia các giải đấu khác nữa nhưng vẫn được tham gia Kỳ Vương chiến kỳ sau mà không phải giải nghệ. Loạt tranh ngôi 5 ván. Khiêu chiến giả thi đấu một loạt 5 ván với đương kim Kỳ Vương, kỳ thủ nào chiến thắng 3 ván trước sẽ trở thành Kỳ Vương mới. Loạt tranh ngôi được tổ chức tại các quán trọ và các địa điểm khác trên khắp cả nước, tuy nhiên vẫn có thể tổ chức tại Hội quán Shogi Tokyo hoặc Ōsaka như vòng sơ loại. Đồng thời, trong mỗi loạt tranh ngôi sẽ có 1 ván được tài trợ bởi nhật báo Hokkoku (thông thường là ván 2, trong năm 2019 là ván 1), ván này sẽ được tổ chức tại trụ sở của nhật báo. Loạt tranh ngôi được kênh Shogi của nhà đài Abema phát sóng trực tiếp. Cho đến năm 2020 nhà đài Niconico cũng phát sóng loạt tranh ngôi Kỳ Vương. Vĩnh thế Kỳ Vương. Danh hiệu Vĩnh thế của giải đấu này là Vĩnh thế Kỳ Vương , với điều kiện là giành danh hiệu Kỳ Vương 5 kỳ liên tiếp. Đây là danh hiệu Vĩnh thế duy nhất của Shogi chuyên nghiệp không có điều kiện tổng số kỳ danh hiệu giành được. Thời điểm nhận danh hiệu Vĩnh thế Kỳ Vương cũng tương tự các danh hiệu Vĩnh thế khác - nhận danh hiệu sau khi kỳ thủ giải nghệ. Cho đến nay, chỉ có 2 kỳ thủ chuyên nghiệp đủ điều kiện cho danh hiệu này - Habu Yoshiharu và Watanabe Akira. Kỷ lục. Tính đến thời điểm bắt đầu kỳ 49
1
null
Phân hủy là quá trình mà trong đó vật chất hữu cơ bị tan rã thành các dạng vật chất đơn giản hơn. Quá trình đóng vai trò hết sức quan trọng để quay vòng lượng vật chất hữu hạn chiếm chỗ trong quần xã. Xác chết của các sinh vật bắt đầu phân hủy không lâu sau khi chúng chết. Xác của mỗi loại sinh vật tuy rằng phân hủy theo cách khác nhau nhưng đều trải qua các giai đoạn giống nhau. Ngành khoa học nghiên cứu về sự phân hủy thường được gọi là mồ học (, phát xuất từ tiếng Hy Lạp τάφος (taphos), nghĩa là "cái mồ"). Phân hủy ở động vật. Phân hủy được xem là bắt đầu từ khi chết, gây bởi hai nhân tố: (1) tự phân ("autolysis") do các mô trong cơ thể bị tan rã dưới tác động của các hóa chất và enzym nội sinh; (2) thối rữa ("putrefaction") do các mô bị vi khuẩn bên ngoài hủy hoại. Trong quá trình phân hủy có giải phóng một số loại khí có mùi hôi thối đặc trưng. Các tác nhân chính tham gia quá trình phân hủy là vi khuẩn và nấm, bên cạnh đó còn có côn trùng và các sinh vật nhỏ bé khác. Các giai đoạn phân hủy. Có năm giai đoạn phân hủy, gồm: tươi, trương phình, thối rữa mạnh, thối rữa sâu và hóa khô. Các giai đoạn phân hủy này kết hợp với hai giai đoạn phân hủy hóa học đã nêu ở trên - tự phân và thối rữa. Xác tươi. Giai đoạn Tươi ("fresh") bắt đầu ngay khi tim ngừng đập. Máu không còn được tuần hoàn khắp cơ thể nên bây giờ tập trung về một số nơi, dưới tác động của trọng lực mà gây nên hiện tượng xác chết xám xịt lại (hoặc hồ máu tử thi). Trong vòng ba đến sáu giờ sau chết, các mô cơ bắt đầu co cứng và không thể duỗi ra được, đó là hiện tượng co cứng tử thi. Xác chết cũng dần mất nhiệt vào môi trường xung quanh khiến nhiệt độ xác chết giảm xuống, đó là hiện tượng mát lạnh tử thi. Khi tim ngừng đập, máu không còn tuần hoàn để mang oxy đến và rút cacbon dioxide khỏi các mô nữa. Hậu quả là độ pH giảm xuống, kết hợp với các thay đổi hóa học, khiến các tế bào mất dần sự toàn vẹn về mặt cấu trúc, kích hoạt sự giải phóng enzym tế bào gây tan rã các tế bào và mô xung quanh. Quá trình này gọi là tự phân. Trong giai đoạn Tươi, không có nhiều dấu hiệu phân hủy có thể quan sát được bằng mắt thường. Riêng tiến trình tự phân có thể gây ra một số chỗ phồng rộp trên bề mặt da. Lượng oxy ít ỏi sót lại trong cơ thể nhanh chóng cạn kiệt do trao đổi chất tế bào và hoạt động của các vi sinh vật hiếu khí có trong cơ quan hô hấp và dạ dày-ruột, tạo ra môi trường thuận lợi cho vi sinh vật kỵ khí sinh sôi nảy nở. Chúng tiêu thụ cacbonhydrat, chất béo, protein của cơ thể và tạo ra hàng loạt hợp chất như axit propionic, axit lactic, khí mêtan, hydrô sunfit và amôniac. Quá trình sinh sôi của vi sinh vật trong cơ thể được gọi là quá trình thối rữa, kéo theo sự bắt đầu của giai đoạn thứ hai trong quá trình phân hủy, đó là trương phình. Trương phình. Giai đoạn Trương phình ("bloat") có thể quan sát được bằng mắt thường. Trong giai đoạn này, hoạt động trao đổi chất của vi sinh vật kỵ khí liên tục diễn ra dẫn đến tích tụ các khí như hydrô sunfit, cacbon dioxide và mêtan trong xác chết, gây phình bụng và tạo ra hình dáng trương phình của xác chết. Các khí này cũng khiến những chất dịch tự nhiên trong cơ thể sủi bọt lên. Áp suất tăng khiến các chất dịch tràn khỏi các lỗ tự nhiên trên cơ thể - mũi, miệng, hậu môn. Sự tăng áp suất do khí sinh ra trong cơ thể cộng với việc lớp da mất tính toàn vẹn có thể khiến xác chết rách ra. Các vi sinh vật kỵ khí trong ruột chuyển hóa hemoglobin thành sulfhemoglobin và các sắc tố khác. Khí tích tụ trong xác chết lúc này đẩy các sulfhemoglobin đi khắp cơ thể thông qua hệ thống tuần hoàn và hệ bạch huyết, làm bề ngoài xác chết trông như nổi vân. Nếu côn trùng tiếp cận xác chết thì trứng của chúng có thể nở thành giòi trên xác và bắt đầu ăn các mô của xác, làm cho da của xác chết trượt bong ra còn lông thì tách khỏi da. Giòi và khí tích tụ làm rách toàn bộ da của xác chết khiến khí và chất dịch trong xác càng thoát nhiều ra môi trường xung quanh. Oxy cũng thông qua các vết rách mà xâm nhập trở lại cơ thể, càng tạo môi trường thuận lợi cho ấu trùng ruồi nhặng và vi sinh vật hiếu khí phát triển. Mùi hôi thối từ đám khí và chất dịch lan tỏa ra xung quanh. Thối rữa mạnh. Thối rữa mạnh hay (tự) thối rữa ("active decay") là giai đoạn mà khối lượng xác chết mất đi lớn nhất. Sự mất mát khối lượng xác chết là do hoạt động của giòi và các chất dịch phân hủy tràn ra môi trường xung quanh. Các mô tiếp tục hóa lỏng và mùi hôi thối tiếp tục bốc ra. Các chất lỏng tập trung xung quanh xác chết và tạo thành một khu vực gọi là "đảo phân hủy xác chết" ("cadaver decomposition island" - CDI). Kết thúc giai đoạn này, giòi cũng rời xác chết để biến thái thành nhộng. Thối rữa sâu. Thối rữa sâu ("advanced decay") là giai đoạn mà quá trình phân hủy gần như bị ngưng trệ do các vật chất phân hủy đã mất đi nhiều. Trong giai đoạn này hoạt động của côn trùng cũng giảm bớt. Quan sát bằng mắt sẽ thấy cây cỏ trong khu vực bao quanh xác chết cũng chết đi. Tại khu "đảo phân hủy xác chết" (CDI), diễn ra sự gia tăng hàm lượng cacbon và chất dinh dưỡng trong đất như phosphor, kali, calci và magiê; độ pH của đất cũng thay đổi, đồng thời lượng nitơ trong đất tăng mạnh. Hóa khô. Hóa khô ("dry") là giai đoạn mà cây cỏ có thể bắt đầu hồi sinh trong khu CDI và là dấu hiệu cho thấy rằng mức độ chất dinh dưỡng trong khu đất bao quanh xác chết vẫn chưa phục hội lại mức bình thường. Khi này xác chết chỉ còn lại da khô, sụn và xương từ từ hóa và mất màu nếu tiếp xúc với các yếu tố khác. Nếu tất cả các mô mềm đã biến mất khỏi xác chết thì người ta gọi là xác đã xương hóa ("skeletonization") hoàn toàn; nếu vẫn còn mô mềm trên xác chết thì gọi là xác đã hóa xương một phần. Phân hủy ở thực vật. Phân hủy trên thực vật cũng trải qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu của phân hủy thực vật là sự rỉ nước. Trong giai đoạn đầu phân hủy, có thể diễn ra sự vỡ nát thành nhiều mảnh nhỏ, khiến diện tích bề mặt tiếp xúc tăng lên và càng tạo điều kiện cho vi sinh vật tấn công. Phân hủy ở những cây nhỏ thường do các động vật không xương sống trong đất gây ra, còn phân hủy ở những cây lớn thường do các dạng sống ký sinh như côn trùng và nấm gây ra. Vi sinh vật làm biến đổi các thành phần hóa học của thực vật (xenlulô, hemi xenlulô, lignin). Mỗi hợp chất phân hủy với tốc độ khác nhau, tùy thuộc vào cấu tạo hóa học của chúng. Chẳng hạn, lignin ("chất gỗ") là thành phần của gỗ, khá khó bị phân hủy và thực thế chỉ bị phân hủy bởi một số loài nấm nhất định nào đó. Lignin là một trong những sản phẩm còn lại của thực vật phân hủy, có cấu tạo hóa học rất phức tạp và có tác động làm chậm quá trình phân hủy thực vật do vi sinh vật gây ra. Bên cạnh đó, nhiệt độ cũng là nhân tố quyết định tốc độ thối rữa của thực vật. Thối rữa diễn ra nhanh ở nơi ấm áp hơn là nơi lạnh lẽo. Ở các hệ sinh thái đồng cỏ bị lửa gây cháy thì côn trùng, mối, động vật có vú ăn cỏ và sự di chuyển của động vật trên cỏ là các tác nhân chủ yếu gây tan rã cơ thể thực vật, trong khi vi khuẩn và nấm thì đóng vai trò phân hủy ở cấp độ cao hơn. Trong quá trình thực vật phân hủy luôn có sự giải phóng khí cacbon dioxide. Phân hủy thực phẩm. Sự phân hủy của thực phẩm là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong ngành khoa học thực phẩm. Con người hay dùng chất bảo quản thực phẩm để làm chậm lại quá trình này. Thực phẩm bị vi khuẩn và nấm làm cho ôi thiu, phân hủy khiến mùi vị biến đổi và nhiễm độc. Cần áp dụng các biện pháp an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo quản một cách hợp lý để giữ thực phẩm được lâu hơn. Tầm quan trọng trong pháp y. Nghiên cứu về phân hủy cũng có vai trò quan trọng trong khoa học pháp y do nhu cầu xác định thời điểm và nguyên nhân cái chết. Ở Knoxville, Tennessee, Mỹ có một cơ sở nghiên cứu gọi là Cơ sở nghiên cứu nhân loại học Đại học Tennessee (gọi tắt là Body Farm) chuyên sắp đặt các xác chết ở nhiều vị trí khác nhau trong một khu đất gần trung tâm y khoa để nghiên cứu cách thức xác chết phân hủy dưới cac điều kiện khác nhau, thông qua đó đúc rút thêm hiểu biết về quá trình phân hủy. Các nhân tố ảnh hưởng. Sự tiếp xúc. Một xác chết nếu tiếp xúc với các nhân tố trong môi trường như nước, không khí thì sẽ phân hủy nhanh hơn, thu hút nhiều côn trùng đến hơn là một xác chết được chôn hoặc giấu kín trong một đồ tạo tác nào đó. Tốc độ và lối phân hủy xác động vật chịu ảnh hưởng nhiều từ các nhân tố xung quanh. Chúng là: Tốc độ phân hủy rất khác nhau trong mỗi trường hợp. Các nhân tố như nhiệt độ, độ ẩm và mùa đều có tính quyết định lên tốc độ phân hủy. Có một định luật gọi là định luật Casper (còn gọi là Tỉ lệ Casper): nếu tất cả các nhân tố đều như nhau thì một xác chết tiếp xúc với không khí sẽ phân hủy nhanh gấp đôi so với xác chết nhận chìm trong nước và nhanh gấp tám lần xác chết bị chôn dưới đất. Tốc độ phân hủy do vi khuẩn gây ra cũng lệ thuộc nhiệt độ môi trường xung quanh. Càng lạnh thì sự phân hủy diễn ra càng chậm. Biến số quan trọng nhất là sự tiếp xúc của xác với côn trùng, đặc biệt là ruồi. Một xác chết đầy đủ da thịt nằm ở vùng nhiệt đới có thể bị động vật không xương sống phân hủy chỉ còn bộ xương trong vòng hai tuần. Ngay bản thân bộ xương cũng không vững bền. Chất axít trong đất có thể biến xương thành những vật chất không thể nhận diện nổi. Đây là một nguyên nhân khiến người ta không tìm thấy xương người trong xác tàu "Titanic" chìm ở Đại Tây Dương ngay cả khi các loài ăn xác chết không thể tiếp cận một số khu vực trong tàu này. Dưới một số điều kiện nhất định (nhiệt độ mát mẻ bình thường, đất ẩm) thì xác chết có thể trải qua một quá trình gọi là xà phòng hóa, theo đó trên xác hình thành một chất sáp gọi là sáp mỡ (do các hóa chất trong đất phản ứng với protein và chất béo trong xác mà tạo thành). Sáp mỡ khiến quá trình phân hủy chậm lại do nó ngăn chặn vi khuẩn gây thối rữa. Trong các điều kiên cực kì khô hạn hoặc cực lạnh thì quá trình phân hủy bị ngưng trệ khiến xác chết được bảo quản thành xác ướp. Xác ướp đóng băng thường sẽ bắt đầu phân hủy trở lại khi bị rã đông (trường hợp Người băng Ötzi) trong khi các xác ướp "sấy khô" vẫn bền vững dù có tiếp xúc với hơi ẩm. Xác chết của trẻ sơ sinh chưa được ăn uống gì là một ngoại lệ. Do thiếu quần thể vi sinh vật trong cơ thể (vốn nắm vai trò chủ yếu gây phân hủy) nên xác loại này thường sẽ tự hóa xác ướp nếu được cất giữ trong điều kiện khô ráo. Bảo quản nhân tạo. Bảo quản xác là việc làm trì hoãn sự phân hủy xác người và động vật. Hóa chất dùng trong bảo quản xác có khả năng đánh bật đa số côn trùng và làm chậm quá trình thối rữa cho vi khuẩn gây ra bằng việc tiêu diệt hoặc "cố định" các protein tế bào để vi khuẩn không thể lấy đó làm nguồn dinh dưỡng. Trong các điều kiện môi trường đủ khô ráo thì xác được xử lý có thể hóa xác ướp, tuy nhiên số xác còn giữ được ngoại hình sau vài thập kỷ thì thường không nhiều. Một số xác được bảo quản hiện vẫn còn ngoại hình là: Bảo quản tự nhiên. Xác được chôn trong môi trường đủ khô ráo có thể được bảo quản tốt trong vài thập niên. Điều này đã được quan sát thấy trên xác của nhà hoạt động nhân quyền bị ám sát Medgar Evers. Xác ông vẫn nguyên vẹn sau hơn 30 năm, giúp các nhà điều tra có thể khám nghiệm chính xác nguyên nhân cái chết của ông khi vụ việc được mở lại hồ sơ vào thập niên 1990. Xác chết nhận chìm trong đầm lầy than bùn cũng có thể được bảo quản một cách tự nhiên. Nhiều trường hợp xác động vật có thể được bảo quản gần như hoàn hảo trong hổ phách.
1
null
Sabri Lamouchi (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1971 tại Lyon, Pháp) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đã từng chơi ở vị trí tiền vệ. Sinh ra ở Pháp, là người gốc Tunisia, nhưng ông chưa bao giờ đặt chân đến đó. Lamouchi đã có 12 lần ra sân cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Ông đã từng là huyến luyện viên của câu lạc bộ Al-Duhail tại giải Qatar Stars League . Sự nghiệp Câu lạc bộ. Lamouchi bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Alès ở Pháp. Trong khoảng thời gian ở đó, ông đã gây ấn tượng với Auxerre và chơi cho đội bóng này trong 4 năm. Sau đó ông tham gia Monaco trước khi bị chộp bởi Parma của Ý. Mặc dù ông chỉ có một mùa giải trung bình, ông lại một lần nữa di chuyển, lần này là đến gã khổng lồ của Ý Internazionale. Ông cũng đã tranh đấu ở đó và thất bại trong việc tìm kiếm một vị trí trong đội. Lamouchi có một khoảng thời gian ngắn chơi ở Genoa trước khi gia nhập Olympique de Marseille (cho mượn) trong năm tiếp theo. Vào tháng 1 năm 2006, hợp đồng cho mượn đã được chuyển thành sự di chuyển lâu dài. Ông chơi cho Olympique de Marseille sáu tháng nữa, cho đến khi ông tuyên bố rời khỏi câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 9 năm 2006, mặc dù hợp đồng đến tháng 6 năm 2007 mới hết hạn. Sau đó, Lamouchi chuyển tới Al-Rayyan và thi đấu ở giải Qatari League, và rồi ghi một bàn thắng ngoạn mục trong trận đầu tiên của mình. Mùa giải tiếp theo, ông chuyển đến Umm-Salal. Vào tháng 1 năm 2009, Lamouchi được chuyển nhượng đến Al-Kharitiyath. Sự nghiệp quốc tế. Lamouchi đã ra sân 12 lần và ghi 1 bàn thắng cho Đội tuyển Pháp. Ông đã có trận ra mắt vào năm 1996 và là cầu thủ góp mặt trong đội hình tham dự UEFA Euro của Pháp trong cùng năm đó. Ông cũng nằm trong đội hình sơ bộ 28 cầu thủ của Pháp trong FIFA World Cup 1998 trên sân nhà. Tuy nhiên ông là một trong 6 cầu thủ bị loại ra khỏi đội hình bởi huấn luyện viên trưởng Aime Jacquet ngay trước thềm giải đấu. Pháp đã trở thành nhà vô địch của giải. Đời sống cá nhân. Sabri Lamouchi ngày nay là một thành viên của câu lạc bộ Champions for Peace, một nhóm 54 cầu thủ nổi tiếng cam kết phục vụ hòa bình trên thế giới thông qua thể thao, được thành lập bởi Peace and Sport, một tổ chức quốc tế ở Monaco.
1
null
Mồ mả học (, phát xuất từ tiếng Hi Lạp τάφος ("taphos"), nghĩa là "cái mồ") là ngành khoa học nghiên cứu sự phân hủy diễn ra trên cơ thể sống qua thời gian và cách thức chúng hóa thạch (nếu có). Thuật ngữ này có từ 1940, do khoa học gia người Nga Ivan Efremov sử dụng để miêu tả môn khoa học nghiên cứu bước chuyển của các phần, các sản phẩm, các tàn tích của cơ thể sống từ sinh quyển sang thạch quyển, nói cách khác là sự hình thành hóa thạch.
1
null
Photuris pennsylvanica, Đom đóm Pennsylvania là một loài đóm đóm của Mỹ và Canada. Mô tả. "P. pennsylvanica" là một loài bọ hơi dẹp dài khoảng 0.75 inch (2 cm). Màu sắc chính của nó là màu đen, nhưng nó có hai đốm mắt màu đỏ sáng trên ngực, cũng như viền vàng trên ngực và cánh nó. Nó ăn thịt, hầu hết là côn trùng khác, nhưng cũng ăn các loài kh1c xương sống khác, chẳng hạn như ốc sên nếu có dịp. Đốt bụng cuối của nó màu trắng-vàng và có thể phát sáng.
1
null
5urprise (, phát âm: "Surprise") là một nhóm nhạc nam kiêm diễn viên thần tượng Hàn Quốc được thành lập năm 2013. Những thành viên của nhóm bao gồm Seo Kang-joon, Kang Tae-oh, Gong Myung, Yoo Il và Lee Tae-hwan. Sự nghiệp. Trước - Khi ra mắt:. Nhóm nhạc thần tượng 5urprise đã được thành lập bởi công ty tài năng Fantagio vào tháng 9 năm 2013, gồm 5 thành viên nam: Seo Kang-joon, Gong Myung, Yoo Il, Kang Tae-oh và Lee Tae-Hwan. Những thành viên của nhóm được lựa chọn thông qua "Actor's League" của công ty Fantagio, một chương trình tìm kiếm nhưng diễn viên tham vọng, tài năng, và họ được huấn luyện trong 2 năm trước khi ra mắt. Anh cả của nhóm là Yoo Il, sinh năm 1990, tiếp theo là Seo Kang Joon (1993), hai thành viên Kang Tae Oh và Gong Myung đều sinh năm 1994, còn em út là Lee Tae Hwan (1995). Tất cả đều là những diễn viên đầy tiềm năng, sở thích chủ yếu là xem phim điện ảnh và truyền hình. Ngoài ra, các chàng trai cũng chú trọng đến việc luyện tập giữ vóc dáng.  Phong cách Nhóm nhạc - Dự án đầu tiên:. Không giống những nhóm nhạc thần tượng khác khởi đầu sự nghiệp là ca sĩ sau đó lấn sân qua diễn xuất, 5urprise đã làm điều ngược lại. Trong dự án đầu tiên của mình, họ ra mắt ở vai trò diễn xuất trong phim "After School: Luck or Not" (còn được biết đến với các tên gọi: "After School Bokbulbok", "See You At School", "Roll the Dice", "After School Randomness", "I'll See You After School", tên tiếng Việt: "Đội đặc nhiệm học đường") của đạo diễn Jung Jung Hwa – chuyên gia tạo cơn sốt với những phim "mỹ nam" – người trước đây đã từng cộng tác với Jung Il Woo và Yoon Shi Yoon. Phim gồm 12 tập phim qua di động với mỗi tập dài 15 phút, và được xem thông qua Nate Hoppin, BTV, và T-Store trên smartphone và máy tính bảng. 5 chàng trai trong vai 5 thành viên của một câu lạc bộ học sinh trung học (Câu lạc bộ này nổi tiếng với trò rút thăm may mắn. Seo Kang Joon là trưởng nhóm, Lee Tae Hwan là "quân sư" của nhóm, Yoo Il là người đẹp trai nhất nhóm, Gong Myung vào vai một anh chàng nhạy cảm, còn Kang Tae Oh là thành viên cơ bắp nhất nhóm) gặp gỡ một cô gái không có bạn bè (được thể hiện bởi diễn viên Kim So-eun) và trong quá trình hoàn thành những "nhiệm vụ", họ đã xây dựng một tình bạn đẹp với nhau và đưa cô gái nhút nhát ra khỏi vỏ sò của mình. 5urprise đã thu âm bài hát "Hey U Come On" và trở thành nhạc phim của "After School: Luck or Not"." After School Luck or Not đã tung ra 2 poster đầu tiên vào ngày 14/8/2013. Poster thứ 1 cho thấy khía cạnh hài hước của phim khi các thành viên tạo dáng khá vui nhộn cho nhân vật mà mình thể hiện. Poster thứ 2 lại mang đến một cảm giác hoàn toàn khác biệt, do bối cảnh giống như ở thập niên 70, 80. Các thành viên nhìn thẳng vào ống kính với vẻ mặt hết sức nghiêm túc. Điểm chung duy nhất giữa hai poster có lẽ là trọng tâm của bộ phim, chiếc hộp rút thăm. Tuy 5 chàng tân binh vẫn chưa để lại ấn tượng gì rõ rệt với khán giả thông qua các clip nhá hàng song công ty quản lý Fantagio vẫn mạnh miệng tuyên bố: "5urprise sở hữu những ưu thế khác biệt so với mặt bằng các nhóm nhạc thần tượng hiện nay. Ngoài khả năng nhảy và hát, họ còn được luyện tập và trang bị những kỹ năng diễn xuất căn bản để trở thành một diễn viên giỏi". Hy vọng rằng, khi phim chính thức ra mắt, những lời quảng cáo này sẽ đúng với sự thực, để khán giả khỏi phải thất vọng. After School Luck or Not đã lên sóng vào đầu tháng 9/2013 và được làm Việt ngữ bởi Zing.tv. Sản phẩm âm nhạc - Sản phẩm phim:. Vào sáng ngày 16/10/2014, Công ty quản lý Fantagio thông báo với MBN Star: "5urprise dự định phát hành album vào tháng 11... Có nhiều khả năng đây sẽ là một mini album. Các thành viên hầu như đều đang quay phim truyền hình do đó chúng tôi phải điều chỉnh lịch làm việc của họ cho phù hợp". Trước màn ra mắt chính thức này, 5urprise từng khoe giọng qua một ca khúc soundtrack. Nổi bật nhất trong 5urprise là anh chàng diễn viên của "Cunning Single Lady" Seo Kang Jun. Hiện tại, Seo Kang Jun cũng đang bận bấm máy cho "What's With This Family" và "Roomate". Lee Tae-Hwan thì đã được khán giả biết đến qua "High School King", Kang Tae Oh qua bộ phim Việt - Hàn "Today's Youth"/"Forever Young" (tựa Việt: Tuổi Thanh Xuân). 5urprise đã phát hành single đầu tiên mang tên "From My Heart" vào ngày 18/11/2014. Với thế mạnh ngoại hình, 5urprise cho ra đời một MV làm người xem tha hồ đã mắt. Trong khi "From My Heart" chỉ là một bản Ballad Kpop thông thường, MV tập trung zoom vào gương mặt đẹp trai hút hồn của các thành viên. 5 chàng nhưng lại chỉ có một nàng, diễn viên trẻ cùng công ty Kim Sae Ron là người đảm nhận vai nữ duy nhất trong MV "From My Heart". Trước khi ra mắt, các thành viên của nhóm cũng đã xuất hiện trong video ca nhạc của nhóm nhạc pop nữ Hello Venus. Liên kết ngoài. Trang cá nhân thành viên:. __LUÔN_MỤC_LỤC__
1
null
Kha Chấn Đông (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1991) là nam diễn viên kiêm ca sĩ người Đài Loan. Anh được nhận giải "Nam diễn viên mới xuất sắc nhất" trong lễ trao "Giải Kim Mã" lần thứ 48 và Giải thưởng Truyền hình của Truyền thông Trung Quốc cho vai chính trong phim điện ảnh đầu tay "Cô gái năm ấy chúng ta cùng theo đuổi". Tháng 11 năm 2011, anh cho ra mắt album phòng thu đầu tiên là "Be Yourself".
1
null
Fantagio () là một công ty quản lý ở Hàn Quốc. Fantagio được thành lập năm 2008. Lịch sử. Thành lập năm 2008, công ty quản lý ban đầu có tên N.O.A (viết tắt của "Network of Asia", nghĩa là "mạng lưới của châu Á")trước khi đổi tên thành Fantagio vào tháng 6 năm 2011. Vào ngày 4 tháng 3 năm 2013, cựu quản lý nay trở thành CEO (Giám đốc điều hành) của Fantagio Na Byeong-jun đã mở ra "Managers' Academy" (Học viện quản lý) nhằm đào tạo đúng cách những người quản lý trong công việc điều hành, hỗ trợ và quảng bá cho các sao với một lịch trình hệ thống, bao gồm những lớp học dạy diễn viên các diễn xuất và lời nói, sản xuất phim và quan hệ truyền thông. Bên cạnh việc quản lý tài năng, Fantagio cũng đã mở rộng sang lĩnh vực phim ảnh, phim truyền hình, sản xuất, cùng với công ty con Fantagio Pictures đứng sau hỗ trợ "Love Fiction" (2011), "577 Project" (2011), "Silenced" (2011), "Fasten Your Seatbelt" (2013), After School: Lucky or Not (2013), và "Cunning Single Lady" (2014). Fantagio cũng đầu tư vào nhà hàng món tráng miệng thương hiệu Mango Six. Nghệ sĩ hiện tại. Diễn viên. Nguồn: Nghệ sĩ thu âm. Nhóm nhạc Nghệ sĩ solo
1
null
Hình tượng con sói là một motif phổ biến trong thần thoại của các dân tộc trên toàn lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ tương ứng với mức độ lịch sử phân bố của môi trường sống của những con sói. Trong một số ngôn ngữ châu Âu, sói (Wolf) tương ứng với sói xám được coi là chó sói thực sự, trong tiếng Việt, thuật ngữ sói hay chó sói được hiểu theo nghĩa khá rộng, bao gồm những loài hoang dã thuộc họ chó gồm tất cả các phân loài của chó sói xám, và các loài khác như sói đồng cỏ, sói đỏ, sói đỏ Bắc Mỹ, sói Ethiopia, thậm chí là chó sói đất, sói bờm, chó sói Tasmania, sói nhỏ, Sói quần đảo Falkland... trong các loài sói trên thì sói xám là động vật phổ biến trong văn hóa Âu-Á, tiếp đến là sói đồng cỏ trong văn hóa, thần thoại của người bản địa Bắc Mỹ. Sói đỏ được nhắc đến trong Sách Rừng xanh của Rudyard Kipling với vai là những con chó đỏ. Thuộc tính rõ ràng của các loài chó sói là bản chất của một động vật ăn thịt một kẻ săn mồi đáng sợ, và tương ứng với nó đó là sự liên quan mật thiết với sự nguy hiểm, phá hoại, gian ác vừa làm cho sói là biểu tượng của nam chiến binh trên một phương diện và là ma quỷ trên một phương diện khác. Chó sói là loài động vật ăn thịt đáng sợ với kỹ năng săn mồi sắc bén một cách có tổ chức với phương pháp tấn công cắn xé liên tiếp con mồi cho đến chết, và tiếng tru hú kéo dài trong đêm tối. Chúng thường được nhắc đến trong các truyền thuyết dân gian. Với nhiều nền văn hóa, chó sói tượng trưng cho sự dữ tợn, gian ác, những bí ẩn đen tối hắc ám và sự ác độc. Tuy nhiên, nơi khác, chúng rất được coi trọng và tượng trưng cho lòng sự nam tính, lòng dũng cảm, tinh thần tổ chức, phối hợp, kỷ luật, chiến lược, sự kiên trì. Sói xám. Sói xám là thành viên lớn nhất trong họ Chó và cũng là loài chó sói nổi tiếng nhất. Chiều cao vai của nó dao động trong khoảng từ 0,6m đến 0,9m (26–36 inch) và thông thường có trọng lượng từ 32 đến 62 kilôgam (70–135 pound). Sói xám được coi là động vật có vú ăn nhiều thịt nhất (so với trọng lượng cơ thể). Một ngày, một con sói xám hoang dã có thể ăn khối lượng thịt bằng một nửa cân nặng của mình. Sói xám là kẻ săn mồi dẻo dai, chúng săn mồi theo bầy đàn nên hiệu quả săn mồi của chúng rất cao. Sói xám rất dai sức, có thể săn bám mồi liên tục trong thời gian dài lên đến 3 giờ và chạy nhanh tới 65 km/h, Vừa chạy chúng vừa hú để gọi đồng bọn và cũng là để con mồi kinh khiếp, tự gục ngã. Loài sói này thường cất tiếng hú để giao tiếp với đồng loại, tiếng hú của chúng to và kéo dài, rất đáng sợ. Là động vật khá hung dữ. Khi đói và khan hiếm thức ăn, chúng có thể liều lĩnh tấn công vào các trang trại hay bản làng để bắt gia súc làm thức ăn và có thể tấn công con người bất kì lúc nào. Truyền thuyết. Sói chiếm giữ tầm quan trọng lớn trong các nền văn hóa và tôn giáo của các dân tộc du mục, cả hai thảo nguyên Á-Âu và của vùng đồng bằng Bắc Mỹ. Những người dân bản xứ nhiều vùng đã thần thánh hóa và sùng bái loài sói, coi nó như vật tổ, xuất phát từ những đặc điểm tự nhiên của chúng, đó chính là sức mạnh sự nam tính, tính đoàn kết, sự kiên trì và thành công. Ngày nay, người ta vẫn vinh danh loài dã thú bí ẩn này qua việc xăm hình chó sói lên người để thể hiện sức mạnh và sự kiên trì. Chúng cũng rất được tôn vinh là biểu tượng của thành công. Bản chất đi săn, dồn đuổi con mồi theo bầy đàn tượng trưng cho kỷ luật và lòng trung thành. Chó sói, biểu tượng của vẻ đẹp và sức mạnh, tượng trưng cho cả những điều tốt đẹp và xấu xa tàn ác. Trong thần thoại của người Norse, sói thường được nhắc đến. Sói còn là một trong những vị thần thuộc thần thoại Bắc Âu, trong truyền thống Bắc Âu nó là một trong hai đại diện cho các chiến binh hoặc là một biểu tượng của Odin. Người ta tin rằng Remus và Romulus hai người con trai của vị thần chiến tranh Ares những người sáng lập ra thành La Mã cổ đại, được một con sói cái nuôi dưỡng. Trong nhiều nền văn hóa đặc biệt là ở châu Âu, việc xác định các chiến binh với con sói (tôtem giáo) đã dẫn đến khái niệm Lycanthropy, nghi lễ thần thoại thể hiện sự kết hợp của người đàn ông và con chó sói. Trong thần thoại và truyền thuyết dân gian ở châu Âu, con sói có lẽ đã kết hợp với người đàn ông chiến binh để trở thành người sói hay ma sói (werewolf) mỗi khi trăng tròn. Nó có đặc điểm là một con người có khả năng biến hình trở thành sói hoặc là một con sói hình người và được gắn liền với sức mạnh, với tất cả những gì bẩn thỉu nhất như là hàm mập mạp và bàn tay lông lá và đầy móng vuốt và bộ lông màu đen. Người sói thường được nhắc đến là một người châu Âu, họ giết người để sinh tồn vì tất cả mọi người đều căm ghét và muốn giết người sói. Có truyền thuyết cho rằng chỉ có người sói là khắc tinh của ma cà rồng và chúng rất sợ và có thể chết vì viên đạn bạc. Người sói tiếp tục tồn tại trong văn hóa hiện đại và hư cấu với việc phim ảnh, sách báo và truyền hình gắn người sói với hình tượng một trong những tạo vật dễ sợ nhất và là nhân vật chính cho nhiều bộ phim kinh dị. Ở châu Á, người Mông Cổ tự nhận mình là hậu duệ của chó sói, theo họ thì tổ tiên của người Mông Cổ có nguồn gốc từ một con sói và một con hươu. Thành Cát Tư Hãn còn được tôn xưng là Đại mạc Thương Lang (con sói xanh của trời). Thị tộc Niohuru, hay Nữu Hỗ Lộc thị (tiếng Trung: 鈕祜祿氏; bính âm: Niǔhùlù shì) ở Mãn Châu đặt tên của bộ tộc mình theo tên con chó sói. Phiên âm tiếng Mãn: "Niohuru", nghĩa là "sói"), nhiều thành viên thị tộc đã cải sang họ "Lang" (cũng có nghĩa là "sói"). Người Kim cũng có một thứ vũ khí gọi là lang nha (gậy răng sói). Trong nền văn hóa du mục, sói là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần của người Mông Cổ, người Mông Cổ cho rằng sói chính là vị cứu tinh của đồng cỏ, là biểu tượng mà con người gửi gắm linh hồn... Trong văn học dân gian và tín ngưỡng truyền thốing Nhật Bản, sói Nhật Bản đóng một vai trò tích cực: Fujiwara no Hidehira được cho là đã được nuôi dưỡng bởi loài sói; đồng thời hình ảnh của sói cũng gắn liền với các thần núi trong Thần đạo: ví dụ nổi tiếng nhất là thần sói được thờ tại miếu Mitsumine ở thành phố Chichibu thuộc tỉnh Saitama. Trên huy hiệu. Hình ảnh con sói đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều hình thức trong huy hiệu trong thời Trung Cổ. Mặc dù thường bị chỉ trích như là một động vật hay bắt trộm và ăn thịt gia súc, thậm chí tấn công và ăn thịt con người, chó sói cũng được coi là một động vật tượng trưng cho lòng dũng cảm, nam tính và là linh vật thường xuyên xuất hiện trên cờ và gia huy của rất nhiều gia đình quý tộc. Nó thường tượng trưng cho phần thưởng của sự kiên trì. Sói thường xuyên xuất hiện trong nhiều huy hiệu ở Anh. Vua Edward IV (1442-1483) được sử dụng một con sói trắng cho một trong những phù hiệu của mình, cùng với một con sư tử trắng, biểu thị gốc của mình từ gia tộc Mortimer. Sói hoặc đầu sói thường được sử dụng cho biểu thị về tên tuổi như Videlou, de Lou, Lupus (trong triều đại của Edward III), Wolferston (Henry VI Roll, khoảng 1422-1461), Wolseley, Lovett, Wolfe. Sói cũng là đặc trưng trong các huy hiệu của các quốc gia lục địa châu Âu. Huy hiệu Tây Ban Nha thường được đại diện hình sói mang thi thể của con chiên đang ngoạm miệng hoặc cõng trên lưng. Sói cũng rất phổ biến trong huy hiệu ở nước Đức. Thị trấn Passau (Bavaria) biểu tượng bằng một con sói đỏ mang một lá chắn màu trắng. Ở Bang Saxony, một con sói đen là biểu tượng của gia tộc Von Wolfersdorf. Trong huy hiệu Ý, sự kiện Romulus và Remus bú sói được mô tả. Trong huy hiệu Pháp, Hoàng gia Wolfcatcher có phù hiệu chính thức hai đầu sói đối mặt với chính diện. Hiện nay, quốc huy của lực lượng ly khai ở Chechnya mang hình con chó sói, vì chó sói (borz) là Chechnya (hoặc Ichkerian) hiện thân quốc gia của quốc gia thế tục. Những người Hồi giáo đã gỡ bỏ nó và chế độ cầm quyền Nga gỡ bỏ nó hoàn toàn, nhưng chính phủ lưu vong vẫn sử dụng. Ngoài ra, nhiều hiệu khác của dân tộc Chechnya vẫn sử dụng con sói như một biểu tượng quốc huy. Nó không chỉ là con vật quốc gia, nhưng những người Chechnya được cho là biểu tượng khác nhau về những truyền thuyết về tổ tiên của họ được nuôi dưỡng bởi một con sói mẹ. Dòng khẩu hiệu nổi tiếng nhất là các thành viên của dân tộc Chechnya là "tự do và bình đẳng như những con sói". Dân gian. Trong văn hóa dân gian, hình ảnh phổ biến của chó sói bị ảnh hưởng đáng kể bởi các khuôn mẫu "con sói già hung ác" (Big Bad Wolf) từ những câu truyện ngụ ngôn Aesop, truyện cổ Grimm, truyện ngụ ngôn của Jean de La Fontaine, những câu chuyện cổ tích của nước Nga và nhiều câu chuyện dân gian ở các nước khác chẳng hạn như ở Việt Nam. Điều này cũng tương đồng với Thiên Chúa giáo nơi các biểu tượng Kitô giáo nơi con sói đại diện cho ma quỷ, hay điềm xấu trong khi con cừu hay con chiên là biểu tượng cho những tín hữu được tìm thấy thường xuyên trong văn học phương Tây. đôi khi kết hợp với các biểu tượng Kitô giáo như là con sói đại diện cho cái ác hay ma quỷ. Trong những câu chuyện này có thể kể đến như "Chó sói và bảy cậu bé", "Chó sói và cáo", "Chó sói và bảy chú dê con", "Chó sói và người", "Cáo làm cha đỡ đầu", "Chú bé chăn cừu và chó sói", "cô bé quàng khăn đỏ", "Chó già lừa chó Sói", "chó sói và gà trống", "sói đội lốt cừu", "Ba chú heo con", "chó sói và cừu non", "chó nhà và chó sói", "chó sói tự tử" và những câu chuyện cổ tích của Việt Nam như "Dê và sói", "Nai và sói", "mèo và sói", "dê con nhanh trí", "thỏ rừng và sói xám", "truyện cổ tích sói con". Trong những câu chuyện này, hình ảnh con sói được xây dựng khá tiêu cực và là nhân vật phản diện, chúng thường được mô tả là những con sói già, gầy ốm, lang lang, trong tình trạng đói bùng, đang rình mò kiếm ăn và đặc trưng chính là sự gian ác hay ức hiếp các con vật hiền lành khi chúng lâm vào tình thế hiểm nghèo. Nó là một tuyến trong trận đấu trí với các loài vật khác điển hình như các loài gia súc là cừu, dê, heo, chó nhà và các động vật khác như thỏ, nai, cáo, đặc biệt là các cặp đôi tiêu biểu là "sói và cừu", "sói và thỏ". Những câu chuyện kiểu này đề cao sự nhanh trí, thông minh và đoàn kết của những con vật chống lại sói và kết cục là luôn cho sói những bài học đáng đời và sói giống như những kẻ phàm ăn, tham lam và ngu dốt. Đây cũng là quan niệm của dân gian về động vật hay bắt trộm và ăn thịt gia súc, thậm chí tấn công và ăn thịt con người. Văn hóa đại chúng. Sói còn dùng để chỉ về Ấu sinh Hướng đạo các bé trai trong ngành này được gọi là Sói Con (Wolf Cubs) và thường được gọi đơn giản là Ấu (Cubbing), có thể có một số lý do để gọi ngành này là Sói Con vì sói là một trong các tên mà người bản xứ Mỹ đặt cho các trinh sát viên tài giỏi nhất của họ, Sói là tên của một khẩu pháo làm tại các xưởng xe lửa tại Mafeking. Vì vậy một đứa bé chưa đến tuổi để trở thành Sói hoặc một Hướng đạo sinh thật sự có thể làm một Sói Con. Trong nhiều tác phẩm văn học, sói cũng được thể hiện như: Nanh Trắng của Jack London kể về cuộc hành trình của một con chó sói lai chó nhà để trở thành một kẻ được khai hóa trong lãnh thổ Yukon của Canada trong thời kỳ đổ xô đi tìm vàng Klondike cuối thế kỷ 19. Tác phẩm Khiêu vũ với bầy sói, trong tác phẩm Sách Rừng xanh có nhân vật Akela là một con sói, thủ lĩnh của bầy sói rừng Seeonee và là người điều hành các buổi họp hội đồng của bầy. Trong một cuộc họp như vậy bầy đã nhận cho vào bầy một bé người tên là Mowgli làm thành viên của bầy và Akela trở thành một trong các người thầy của Mowgli. Akela có nghĩa là "đơn độc". Trong cuốn Wild Animals I Have Known (Những con thú hoang dã mà tôi biết đến), Seton kể lại câu chuyện về Lobo, một con sói lớn, sống ở gần trang trại nuôi súc vật Currumpaw tại New Mexico. Sói được thể hiện trong phim ảnh với những bộ phim như Khiêu vũ với bầy sói hay him The Wolf of Wall Street (tạm dịch: Con sói phố Wall) hoặc những bộ phim kinh dị như hồn sói 4, hồn sói 6, Hừng đông, Chạng vạng, Trăng non. Ngoài ra, từ những câu chuyện văn hóa này phản ảnh qua các phim hoạt hình thần tiên, cổ tích như Sói và bê, Hoàng tử Ivan và con Sói Xám (của Nga), Thỏ và Sói, Cái bóng của Sói (Việt Nam) Cừu vui vẻ và Sói xám (Trung Quốc) Arashi no Yoru ni (Nhật Bản). Trong trò chơi Đấu trường đẫm máu, nhân vật Yugo là một thanh niên hóa sói với đầy sức mạnh. Đặc biệt trong bộ phim Hãy đợi đấy!, Sói ban đầu được miêu tả như là một kẻ côn đồ (hooligan): một kẻ nghiện thuốc lá nặng và rất dễ dàng trở thành một kẻ dã man và phá hoại (chẳng hạn phá hoại một cách có chủ định các đồ vật triển lãm trong viện bảo tàng), ăn hiếp những người yếu đuối hơn và vi phạm luật pháp. Ở mặt khác, nhiều cố gắng của Sói nhằm bắt Thỏ thường được đặc trưng bằng các khả năng phi thường đối với nó như trượt băng nghệ thuật, vũ ba-lê và nhảy waltz lại minh chứng nó như là một người lịch sự, tao nhã. Sói cũng có thể chơi đàn ghi-ta rất giỏi và cưỡi xe môtô lớn, càng làm cho nó trở thành một nhân vật với tính cách phức tạp. Trong phần một, khi leo lên một tòa nhà cao để bắt Thỏ, Sói đã huýt sáo bài hát phổ biến và bất kính của những người leo núi, bài "Bài hát về người bạn". Nhưng cho dù có nhiều tài năng như vậy thì phần lớn các mưu đồ của Sói cuối cùng đều thất bại và đều có kết cục chống lại nó. Sói đồng cỏ. Sói đồng cỏ là một nhân vật phổ biến trong văn hóa dân gian và văn hóa đại chúng ở Bắc Mỹ, nơi hiện diện của loài động vật đặc hữu này. Những con sói đồng cỏ thần thoại rất phổ biến trong nhiều huyền thoại của các dân tộc bản địa của châu Mỹ. Nó xuất hiện trong rất nhiều câu chuyện dân gian và cả trong những nền văn hóa cổ, đặc biệt là truyền thuyết về Quỷ hút máu dê. Chó sói đồng cỏ là biểu tượng cho một đội bóng chày nổi tiếng ở Mỹ ở vùng Chicago. Loài sói, với vị thế trong nền văn hóa của người da đỏ, có vị trí trong nghệ thuật xăm, hình xăm chó sói phổ biến trong các bộ tộc da đỏ Bắc Mỹ. Ý nghĩa của hình xăm chó sói vừa mang tính tâm linh vừa thể hiện sự nam tính vì được xem là người đưa tin, báo hiệu những sự kiện sắp xảy ra. Về đặc điểm tự nhiên, sói đồng cỏ là loài vật săn mồi có ngoại hình mảnh mai nhưng lanh lợi và tháo vát và là động vật săn mồi lành nghề. Chúng có kích thước nhỏ bé bằng loài chó nhà nhỏ ở vùng Đông Nam Á (từ 9 – 22 kg, trung bình 14 kg) và có mõm hẹp, tai nhọn như cáo. Chúng là những động vật cơ hội, có thể kiên nhẫn bám theo đàn tuần lộc để chờ những con già yếu ngã xuống, Thức ăn của chúng rất đa dạng vì là loài ăn tạp, thông thường chúng ăn thịt song đôi khi chúng cũng những loại thực vật khác. Con mồi thường xuyên là các loài gặm nhấm như thỏ, chuột đồng, sóc và các loài như gà gô, ngỗng trời đôi khi cả hoẵng và cáo, thức ăn ưa thích của chúng là cừu hoặc thỏ, một số con sói già yếu, bị bệnh còn thâm nhập và tấn công vào đàn gia súc của con người. Từ đó, những đặc điểm thường được mô tả về sói đồng cỏ bao gồm sự lanh lợi, tinh ranh, và kẻ lường gạt là một mẫu hình của những kẻ ranh mãnh (trickster), lừa đảo, bịp bợm và hay chơi khăm. Nhân vật này thường là nam giới và nói chung là biết nói, mặc dù anh ta có thể có một số đặc điểm cơ thể con sói-như như lông thú, tai, mắt màu vàng, một cái đuôi và móng vuốt. Những huyền thoại và truyền thuyết trong đó bao gồm sói đồng cỏ khác nhau từ văn hóa đến văn hóa đa dạng của người da đỏ. Nó có thể đóng vai trò của một kẻ gây rối hoặc anh hùng và cũng thường xuất hiện trong thần thoại sáng tạo và những câu chuyện. Nhìn chung, sói đồng cỏ có nhiều điểm tương đồng với hình tượng loài quạ. Văn hóa bản địa. Ở California, sói đồng cỏ là đặc trưng trong văn hóa của các nhóm sau người sống trong khu vực được bao trùm bởi tiểu bang California: Karuk, Maidu Bắc California, Tongva Nam California, thần thoại Ohlone Bắc California, thần thoại Miwok ở Bắc California, và thần thoại Pomo Bắc California. Ở vùng Đại bình nguyên Bắc Mỹ, Sói đồng cỏ được tìm thấy trong các di sản văn hóa của những người dân khu vực này như thần thoại Crow, thần thoại Ho-Chunk (Ho-Chunk, Winnebago) và Menominee. Ở vùng Cao nguyên thì huyền thoại và những câu chuyện của sói đồng cỏ cũng được tìm thấy trong các nền văn hóa của khu vực cao nguyên như Chinookan (bao gồm cả những người Wishram và Multnomah), Flathead, Nez Perce, Nlaka'pamux, Syilx (Okanagan), St'at'imc, các Tsilhqot'in, và Yakama. Ở Vùng Tây Nam nước Mỹ, Sói cũng xuất hiện trong truyền thống của người Tohono O'odham ở Arizona, như một kết hợp của các nền văn hóa anh hùng Montezuma. Sói cũng xuất hiện trong một huyền thoại của người Apache về Bạch Sơn và sói chiến đấu với một cục sân" (một biến thể của chủ đề Tar-Baby) và trong các truyền thuyết tương tự của Zapotec và Popoluca ở Mexico. Trong văn hóa của người Navajo thì sói đồng cỏ (tiếng Navajo là mąii) là một nhân vật vô trách nhiệm và là những kẻ gây rắc rối đồng thời cũng là một trong những nhân vật quan trọng nhất và được kính trọng trong thần thoại Navajo. Mặc dù Neinilii là thần mưa của người Navajo nhưng sói đồng cỏ cũng có quyền năng tạo ra những cơn mưa. Tên nghi lễ sói đồng cỏ là Hashké Áłtsé có nghĩa là những kẻ la mắng đầu tiên. Trong thần thoại của người Navajo thì sói đồng cỏ trông giống như một con sói trong hình thức động vật và trông giống như một người đàn ông với một bộ ria mép trong hình dạng con người. Trong thần thoại của người Navajo, sói đồng cỏ chống lại sự đơn giản trong ngày và đêm mà động vật đang thức và động vật ngủ. Điều này dẫn đến việc tạo ra sự chuyển động của các ngôi sao, các giai đoạn âm lịch và tạo ra các tháng. Sói cũng tham gia những câu chuyện mà là về việc đặt tên các tháng. Câu chuyện sói chiến thắng con gấu (tiếng Navajo: Asdzání shash nádleehé) sói đã dùng thủ đoạn để lừa cô vợ của gấu nhằm có quan hệ tình dục với anh ta. Ngoài ra, Lễ Coyoteway là một buổi tế lễ để chữa bệnh. Người chữa lành hát một bài hát trong khi người được chữa lành phủ trong làn khói. Người được chữa lành sẽ vào vai của sói đồng cỏ và xin hối lỗi về những việc làm sai trái của mình để xin lành bệnh. Văn hóa hiện đại. Sói đồng cỏ đã được so sánh với cả thần Loki của Scandinavia cũng như Prometheus, người chia sẻ với sói đồng cỏ về lừa gạt để lửa thần bị đánh cắp từ các vị thần như một món quà cho nhân loại, và Anansi, một anh hùng văn hóa thần thoại từ thần thoại Tây Phi. Trong lục Á-Âu, chứ không phải là một con sói, một con cáo thường đặc trưng như một anh hùng gian trá, từ kitsune (cáo) trong những câu chuyện ở Nhật Bản với huyền kỳ Reynard ở Tây Âu. Tương đồng cũng có thể được rút ra với những kẻ trí trá khác, á thần Polynesian Maui, người cũng đã đánh cắp lửa cho nhân loại. Claude Lévi-Strauss, nhà nhân chủng học người Pháp đã đề xuất một lý thuyết cấu trúc đó cho thấy rằng sói đồng cỏ và quạ đã đạt được trạng thái huyền thoại bởi vì chúng là động vật trung gian hòa giải giữa sự sống và cái chết. Sói thông dụng trong nỗ lực hiện tại để giáo dục giới trẻ về ngôn ngữ Mỹ bản địa và văn hóa phương Tây. Trong văn hóa hiện đại có những câu chuyện mô tả Sói đồng cỏ xuất hiện như một nhân vật thần thoại trong và là những kẻ lường gạt người Mỹ bản địa, nó là nhân vật phản diện chính, người cố gắng phá hủy thế giới để thay đổi tình trạng của mình và tạo ra một vũ trụ tcủa riêng mình. Một đàn chó sói sa mạc Arizona được miêu tả là phiền hà khi họ quấy rối một cách hèn nhát Great Dane và bạn bè của mình trong cuốn sách Bill Wallace, Watchdog và chó sói Bắc Mỹ. Trong bộ truyện tranh webcomic Tòa án Gunnerkrigg, nó là một con sói thần thoại chuyển đến Vương quốc Anh và đã được sử dụng thủ đoạn gian trá của mình trên danh nghĩa của con. Bộ truyện tranh Coyote có nhân vật anh hùng tương tự như các phiên bản huyền thoại của sói đồng cỏ. Trong tác phẩm: The Iron Druid Chronicles Kevin Hearne (đặc biệt là trong cuốn sách thứ hai), Sói đồng cỏ được miêu tả như một vị thần lường gạt đã can thiệp cho người Mỹ bản địa để bảo vệ chúng từ một thiên thần sa ngã đã thoát khỏi địa ngục trong cuộc săn đuổi. Trong phim, có tồn tại một sói đồng cỏ riêng biệt cho mỗi bộ lạc người tin tưởng vào nó, và mỗi người có thể trở lại từ cõi chết bất cứ khi nào anh ta bị giết. Cuốn sách thứ tư của The Iron Druid Chronicles, sói đồng cỏ và Atticus làm một việc có liên quan đến việc giúp đỡ các tu sĩ đang bị đe dọa. Atticus sau đó giúp sói trong một nỗ lực mới cho người dân của mình.
1
null
Mike Chioda là một trọng tài trong "WWE" anh hiện đang làm trọng tài trong WWe anh là một trọng tại WWE chuyên nghiệp người Mỹ. Anh tham gia WWe vào năm 1989. Chioda cũng đã thi đấu trong một trận đấu thực tế hợp tác với "Chris Jericho" và "The Rock"để đưa các nhóm của nhóm The Dudley Boyz và trọng tài Nick Patrick vào một "Smackdown"và Mike Chioda thắng.Sau các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 Chioda mặt một áo lá cờ "Mỹ" và trên áo trọng tài của mình. Năm 2011. Tại sự kiện WWE Over The Limt 2011, The MIz bước đầu đánh bại John Cena sau khi Chioda ghi âm điện thoại di động giọng nói của "John Cena" được chơi vào microphone ông nghe nó ông ra lệnh cho trận đấu khởi động lại và "John Cena" đánh bại The Miz và vẫn giữ được đai Wwe Championship.Ngày 15 tháng 8 năm 2011 Chioda đã bị đình chỉ trong 30 ngày do vi phạm đầu tiên của chương trình sức khoẻ tài năng của WWE. Năm 2012 Ngày 1 tháng 4 anh sẽ là trọng tài giữa trận đấu John Cena và The Rock tại trận đấu Wrestlemania 28 và anh PIN The Rock.
1
null
Lãnh thổ Vịnh Jervis (; hay ) là một lãnh thổ của Thịnh vượng chung Úc nằm trên vịnh Jervis. Nó được tiểu bang New South Wales nhường lại cho chính quyền Thịnh vượng chung năm 1915 để cho thủ đô liên bang tại Canberra được có "đường ra biển". Lãnh thổ Vịnh Jervis là đơn vị hành chính nhỏ nhất trực thuộc chính quyền liên bang Úc. Nó bao gồm đất liền bằng và một khu bảo tồn biển có diện tích .
1
null
Stefan de Vrij (sinh ngày 5 tháng 2 năm 1992) là cầu thủ bóng đá người Hà Lan, thi đấu ở vị trí trung vệ tại câu lạc bộ đang thi đấu ở Serie A là Inter Milan và Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan. Sự nghiệp câu lạc bộ. Các đội trẻ. De Vrij lớn lên tại Ouderkerk aan den IJssel, miền nam Hà Lan. Anh khởi nghiệp tại câu lạc bộ địa phương VV Spirit ở vị trí tiền vệ, nơi cha anh là ông Jan de Vrij từng thi đấu, và thi đấu ở đây năm mùa bóng. Đến năm 10 tuổi, anh đến học viện đào tạo trẻ của Feyenoord Rotterdam và bắt đầu thi đấu ở vị trí hậu vệ. sau khi thi đấu cho đội U-15 Feyenoord, De Vrij đã được đưa thẳng lên đội U-17 mà không cần thi đấu cho đội U-16. Feyenoord. Vào tháng 6 năm 2009 khi 17 tuổi, De Vrij ký hợp đồng thi đấu chuyên nghiệp với Feyenoord. Anh có trận đấu đầu tiên cho đội một Feyenoord trong trận đấu tại Cúp KNVB với Harkemase Boys vào tháng 9 năm 2009 và có trận đấu đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá Hà Lan (Eredivisie) chỉ vài ngày sau đó với Groningen. Trong giai đoạn còn lại của mùa giải 2009-10, anh được huấn luyện viên Mario Been đưa vào đội hình chính và đã được thi đấu 17 trận tại Eredivisie. Trong mùa giải 2010-11, De Vrij chuyển từ vị trí hậu vệ cánh phải sang đá cặp trung vệ với đội trưởng Ron Vlaar. Sau khi Ron Vlaar đến Aston Villa vào mùa hè năm 2012, De Vrij trở thành đội trưởng của Feyenoord từ tháng 8 cùng năm. Tháng 5 năm 2013, anh gia hạn hợp đồng với Feyenoord đến năm 2015. Tuy nhiên đến tháng 10 năm 2013, anh đã bị huấn luyện viên Ronald Koeman tước băng đội trưởng Feyenoord và trao lại cho Graziano Pelle, vị trí đội phó thuộc về Jordy Clasie. Lazio. Ngày 30 tháng 7 năm 2014, De Vrij chuyển sang câu lạc bộ Lazio tại Serie A với phí chuyển nhượng không được tiết lộ. Anh có trận đấu ra mắt câu lạc bộ mới vào ngày 24 tháng 8 trong trận đấu vòng ba Coppa Italia và ghi được một bàn thắng trong thắng lợi 7–0 trước đội hạng dưới Bassano Virtus. Một tuần sau đó, anh có trận đấu đầu tiên tại Serie A nhưng không được như ý khi Lazio đã để thua A.C. Milan 1-3. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. De Vrij có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển U-16 Hà Lan vào năm 2007. Sau đó, anh được gọi vào đội tuyển U-17 Hà Lan tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu năm 2009, giải đấu mà U-17 Hà Lan đã lọt vào đến trận chung kết và để thua U-17 Đức 1-2 sau 120 phút thi đấu. Ngày 7 tháng 5 năm 2012, De Vrij được đưa vào danh sách 36 cầu thủ Hà Lan triệu tập sơ bộ cho Euro 2012 bởi huấn luyện viên Bert van Marwijk. Tuy nhiên anh đã không có tên trong danh sách 23 cầu thủ sau cùng. Ngày 15 tháng 8 năm 2012, De Vrij có trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan trong trận giao hữu thua Bỉ 4-2. Anh là một trong bốn hậu hậu vệ của Feyenood được huấn luyện viên Louis van Gaal triệu tập tham dự World Cup 2014 tại Brasil. Trong trận đấu đầu tiên của Hà Lan tại giải đấu với Tây Ban Nha vào ngày 13 tháng 6, trọng tài đã cho Tây Ban Nha được hưởng phạt đền khi nhận định tiền đạo Diego Costa đã bị De Vrij phạm lỗi trong vòng cấm. Tuy nhiên pha quay chậm lại cho thấy chính De Vrij đã bị Costa dẫm lên chân. Xabi Alonso từ quả phạt đền đó đã ghi bàn mở tỉ số cho Tây Ban Nha. Tuy nhiên kết thúc trận đấu, đội tuyển Hà Lan đã lội ngược dòng thành công với chiến thắng 5-1, trong đó chính De Vrij là người đã ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 3-1, đây cũng đồng thời là bàn thắng đầu tiên của anh cho đội tuyển quốc gia. Anh đã cùng đội tuyển Hà Lan giành vị trí hạng ba chung cuộc tại World Cup 2014 và cá nhân anh được FIFA chọn vào đội hình 11 cầu thủ tiêu biểu của giải đấu. Trong trận đấu đầu tiên của đội tuyển Hà Lan tại vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016 với Cộng hòa Séc vào ngày 9 tháng 9 năm 2014, De Vrij là người gỡ hòa 1-1 cho Hà Lan từ đường chuyền của Daley Blind nhưng chung cuộc Hà Lan đã bất ngờ để thua Cộng hòa Séc 2–1. Vì vậy, Hà Lan không thể có mặt tại Euro 2016 do chỉ xếp thứ tư chung cuộc với 13 điểm, 4 trận thắng, 1 trận hòa và 5 trận thua.
1
null
Matteo Darmian (; sinh ngày 3 tháng 12 năm 1989) là cầu thủ bóng đá Ý chơi ở vị trí hậu vệ cánh cho câu lạc bộ Inter Milan và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Mặc dù, Darmian bắt đầu sự nghiệp ở ví trị trung vệ, anh hiện nay chơi ở cả hai vị trí hậu vệ trái và phải. Anh bắt đầu sự nghiệp trong màu áo Câu lạc bộ A.C. Milan, anh tham dự giải Serie A năm 17 tuổi. Năm 2009, anh thi đấu cho Calcio Padova, đội bóng mà anh đã giúp tránh xuống hạng Serie B trong mùa giải duy nhất của anh ấy ở đó. Sau đó anh trở lại Serie A với Palermo và một năm sau đó với Torino. Anh chuyển đến Manchester United vào tháng 7 năm 2015. Anh tham dự hầu hết các nhóm tuổi trong màu áo đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Darmian ra mắt đội tuyển bóng đá quốc gia Ý vào tháng 5 năm 2014 ở FIFA World Cup 2014. Tuổi thơ. Sinh ra trong một gia đình có nguồn gốc Armenia, Anh lớn lên chơi bóng đá tại quảng trường chính ở Rescaldina và được đào tạo bởi người cha Giovanni (là một trong những huấn luyện viên của Oratorio). Anh được phát hiện bởi thủ môn Beniamino Abate (một thủ môn cũ của A.C. Milan có nhiệm vụ dò thám các tài năng trẻ ở vùng Lombardy). Đến Manchester United. Vào ngày 10 tháng 7 năm 2015, Huấn luyện viên Manchester United là ông Louis van Gaal khẳng định với truyền thông ý định của câu lạc bộ là chiêu mộ Darmian từ Torino, trong buổi họp báo ra mắt tân binh Memphis Depay. Ông có được chữ ký hợp lệ của Darmian vào ngày hôm sau với giá chuyển nhượng 12,9 triệu Bảng Anh. Parma. Ngày 2 tháng 9 năm 2019, Darmian trở về Ý thi đấu cho câu lạc bộ Parma theo bản hợp đồng có thời hạn 4 năm. Phong cách chơi bóng. Mặc dù, anh khởi đầu chơi ở vị trí Trung vệ, trong những năm gần đây "Darmian" đã chơi hậu vệ ở hai cánh nhưng anh thích chơi bên phải hơn. Anh được biết đến với công thủ toàn diện, nhãn quang chiến thuật, tốc độ và nền tảng thể lực tốt, các thông số trận đấu được so sánh với hậu vệ cánh huyền thoại người Ý Antonio Cabrini và Paolo Maldini. Trong mùa giải 2012-13, "Darmian" Tắc bóng thành công mỗi trận (5.3) đứng đầu năm giải đấu của Châu Âu. Danh hiệu. Câu lạc bộ. Manchester United Inter Milan Quốc gia. U-20 Ý Đội tuyển quốc gia Ý
1
null
Jean Baptiste Bourguignon d'Anville (sinh tại Paris ngày 11 tháng 7 năm 1697 - 28 tháng 1 năm 1782) là một nhà địa lý và nhà bản đồ người Pháp. Ông đã cải thiện đáng kể các tiêu chuẩn của vẽ bản đồ. Bản đồ địa lý cổ xưa của ông, đặc trưng bởi cẩn thận, công trình chính xác và chủ yếu dựa trên các nghiên cứu gốc là đặc biệt có giá trị.
1
null
Alicja Bachleda-Curuś (pron. ; sinh ngày 12 tháng 5 năm 1983) là nữ diễn viên và ca sĩ người Ba Lan, đã xuất hiện trong các phim "September Eleven 1683", "Trade", "Ondine", "Pan Tadeusz" và "Syzyfowe Prace". Thời niên thiếu. Bachleda-Curuś sinh tại Tampico, México, là con gái của Lidia và Tadeusz Bachleda-Curuś - một nhà địa chất học – lúc đó đang làm việc ở México. Cô có người chú/bác là Adam Bachleda-Curuś, cựu thị trưởng thành phố Zakopane ở Ba Lan. Cô lớn lên ở Ba Lan, theo học ở "Học viện quốc gia múa Ba lê" tại thành phố Kraków từ năm 1989 tới năm 1998, sau đó vào học ở "Phân khoa Thanh nhạc" của "Học viện quốc gia âm nhạc" tại Kraków từ năm 1998 tới năm 2000 Bachleda đã học diễn xuất ở Lee Strasberg Theatre and Film Institute tại thành phố New York, Hoa Kỳ. Sự nghiệp diễn xuất. Ở tuổi 15, Bachleda đã đóng vai chính trong phim "Pan Tadeusz" (1999) của Andrzej Wajda – nhà đạo diễn Ba Lan từng đoạt Giải Oscar. Bốn năm sau, cô đóng một vai trong bộ phim truyền hình nhiều tập "Na dobre i na złe" của Ba Lan. Năm 2004 Bachleda sang Đức diễn xuất trong phim Sommersturm (Bão mùa Hè) của đạo diễn Marco Kreuzpaintner. Năm 2007 cô trở về Mexico đóng vai Veronica, một du khách Ba Lan bị bắt cóc trong phim Trade cũng của đạo diễn Marco Kreuzpaintner, do diễn viên Kevin Kline đóng vai chính, đề cập tới nạn buôn người. Sau đó Bachleda trở về châu Âu đóng vai một cô gái Do Thái ở vùng Transilvania, România trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai trong phim "Der geköpfte Hahn". Năm 2009 cô đóng phim "Ondine", nói về một ngư dân người Ireland cho rằng mình đã bắt được một selkie, sinh vật huyền thoại nửa người nửa hải cẩu. Năm 2010 cô xuất hiện trong phim "The Girl Is in Trouble" của đạo diễn Julius Onah. Năm 2011 đóng vai Eleonora Habsburżanka, hoàng hậu Ba Lan trong phim "September Eleven 1683" của đạo diễn người Ý "Renzo Martinelli". Cả hai phim này đều phát hành trong năm 2012. Đời tư. Bachleda sống chung với nam diễn viên người Ireland Colin Farrell. Ngày 7.10.2009 cô sinh cậu con trai - Henry Tadeusz Farrell - ở Los Angeles, California. Đứa bé được rửa tội ngày 29.12.2009 ở Nhhà thờ Đức Mẹ thăm viếng, Kraków. Trước đó vào ngày 15.10.2010 có tin nói rằng Farrell đã lìa Bachleda-Curuś từ vài tháng trước. Ít lâu sau, tin này đã được xác nhận.
1
null
Planck là kính thiên văn không gian phát triển và quản lý bởi Cơ quan không gian châu Âu (ESA), được thiết kế để quan sát tính phi đẳng hướng trong bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) tại tần số vi ba và hồng ngoại ở mức phân giải và độ nhạy cao. Dự án ban đầu có mã hiệu COBRAS/SAMBA, sau đó được lấy theo tên nhà vật lý học người Đức Max Planck (1858–1947), người nhận Giải Nobel vật lý năm 1918. Tàu Planck được Thales Alenia Space lắp ráp tại Trung tâm không gian Cannes Mandelieu phóng lên vào tháng 5 năm 2009 cùng với Kính thiên văn không gian Herschel bằng tên lửa Ariane 5. Dự án nằm trong chương trình Khoa học Chân trời 2000 có mức đầu tư tầm trung (M3) của ESA. Con tàu đến quỹ đạo quay quanh điểm L2 của hệ Trái Đất - Mặt Trời vào tháng 7. Nó đã hoàn tất một vài lần quét khảo sát toàn bộ bầu trời. Tàu Planck giúp bổ sung và nâng độ chính xác của kết quả thu được từ Tàu thăm dò vi sóng phi đẳng hướng Wilkinson (WMAP) của NASA, mà trước đó nó đã đo sự bất đẳng hướng ở mức độ phân giải góc lớn hơn với độ nhạy thấp hơn. Dữ liệu từ Planck mang lại thông tin giúp các nhà khoa học kiểm chứng một số lý thuyết về vũ trụ cũng như có được dữ liệu chính xác hơn về thành phần, cấu trúc và nguồn gốc hình thành cấu trúc lớn của vũ trụ. Tháng 10 năm 2013, khi đã hoàn thành nhiệm vụ, tàu Planck được điều khiển bay vào quỹ đạo quanh Mặt Trời nhằm tránh bất cứ sự ảnh hưởng nào đến tín hiệu thu nhận từ các phi vụ khác.
1
null
Chaîne des Puys () là một chuỗi các núi lửa nằm dọc theo hướng bắc-nam, bao gồm các núi lửa hình nón cụt, nón xỉ, mái vòm dung nham và các hồ maar được tạo thành từ các miệng núi lửa nằm ở Khối núi Trung tâm của Pháp. Chuỗi các núi lửa này nằm trên khu vực dài khoảng 40 km (25 dặm) bao gồm 48 núi lửa hình nón cụt, 8 mái vòm dung nham, 15 các hồ Maar và miệng núi lửa. Điểm cao nhất của nó là mái vòm dung nham Puy de Dôme nằm ​​gần giữa của chuỗi núi lửa ở độ cao . Tên của dãy núi này xuất phát từ tiếng Pháp, "puy" có nghĩa là dãy núi lửa có mặt nghiêng tròn. Một ngày vào năm 4040 TCN được cho là khoảng thời gian cuối cùng của núi lửa. Năm 2018, chuỗi núi lửa này được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Hình thành. Chuỗi núi lửa này được cho là hình thành khoảng 95.000 năm trước và hoạt động núi lửa hình thành dãy núi đã dừng lại từ khoảng 10.000 năm trước. Phần lớn các đỉnh hình nón được hình thành do các vụ phun trào Strombilian và những đỉnh hình nón này thường có các miệng núi lửa được thấy rõ ràng. Tuy nhiên, Puy de Dôme được tạo ra bởi một vụ phun trào Peléan với những vụ phun trào đột ngột, cực kỳ dữ dội tuy khoảng cách giữa các lần phun trào khá xa nhau. Nghiên cứu. Đây là chuỗi núi lửa nổi tiếng nhất trong lịch sử vì nó là chủ đề của các nghiên cứu tiên phong của nhà địa chất học người Anh George Julius Poulett Scrope, bắt đầu từ những năm 1820. Năm 1827, ông xuất cuốn Hồi ký kinh điển về địa chất tại Khối núi Trung tâm của Pháp, bao gồm cả các núi lửa Auvergne, Velay và Vivarais. Cuốn sách này là giới thiệu công bố rộng rãi về Chaîne des Puys, và các phân tích trong đó đặt nền móng cho rất nhiều các nguyên tắc cơ bản về núi lửa.
1
null
Thiên kiến (tiếng Anh: bias) Thiên trong thiên vị, kiến trong ý kiến là xu hướng giữ hoặc nói một quan điểm không đầy đủ, thường đi kèm với sự từ chối xem xét các góc nhìn khác hoặc là không sẵn lòng tiếp nhận những thông tin mới, đặc biệt khi thông tin mới không thuận theo quan điểm cũ. Người ta có thể thiên kiến hướng về hay chống lại một quan điểm, một người, chủng tộc, tôn giáo, giai cấp hay đảng phái v.v... Thiên kiến cũng có nghĩa là cách nhìn phiến diện, không trung lập, không mở, đôi khi là duy ý chí. Thiên kiến có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức và đôi khi được coi là đồng nghĩa với định kiến hay là cố chấp.
1
null
Kính thiên văn không gian Herschel là đài quan sát không gian do Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) chế tạo và vận hành. Nó hoạt động trong giai đoạn 2009 đến 2013, và là kính thiên văn hồng ngoại lớn nhất từng được phóng lên (cho đến 2014), mang theo một gương đường kính 3,5 m cùng với các thiết bị nhạy với dải sóng hồng ngoại xa và dưới milimét (55–672 µm). Herschel là một trong bốn dự án lớn thuộc chương trình khoa học của ESA, cùng với dự án Rosetta, Planck, và Gaia. NASA là một đối tác trong dự án Herschel, cùng với các cơ quan nghiên cứu của Hoa Kỳ; họ cung cấp các công nghệ cần thiết và tài trợ cho Trung tâm Khoa học NASA Herschel (NHSC) tại Trung tâm Phân tích và Xử lý dữ liệu hồng ngoại. Kính Herschel được phóng lên vào ngày 14 tháng 5 năm 2009 cùng với tàu Planck, nó đến quỹ đạo quanh điểm Lagrange (L2) của hệ Trái Đất – Mặt Trời, cách Trái Đất 1.500.000 km, khoảng hai tháng sau đó. Herschel đặt tên theo nhà thiên văn học William Herschel, người đã phát hiện ra sóng hồng ngoại và Sao Hải Vương, cũng như của em ông và là cộng sự, bà Caroline Herschel. Con tàu có khả năng quan sát những vật thể lạnh nhất và nhiều bụi nhất trong vũ trụ; ví dụ như những tổ kén nơi sản sinh các sao và các thiên hà nhiều bụi nơi hình thành ra các ngôi sao mới. Nó cũng nhìn qua được những đám mây bụi để quan sát những phân tử góp phần hình thành lên sự sống như nước, oxy. Thời gian hoạt động của kính thiên văn không gian Herschel phụ thuộc vào khoảng thời gian mà các thiết bị của nó được giữ lạnh; tức là khi heli lỏng bị cạn kiệt, các thiết bị của nó sẽ không thể hoạt động bình thường được nữa. Kế hoạch hoạt động của Herschel là 3,5 năm (cho đến cuối 2012). Con tàu vẫn tiếp tục hoạt động cho đến 29 tháng 4 năm 2013, khi Herschel cạn hết khí làm lạnh.
1
null
Namhansanseong (có nghĩa là "Pháo đài núi Namhan") là một công viên pháo đài nằm ở độ cao 480 mét so với mực nước biển, ngay phía đông nam của thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Nó nằm trên đỉnh núi Namhan bao gồm các công sự và một số đền thờ thế kỷ 17. Pháo đài đã được công nhận là Di sản thế giới của UNESCO vào năm 2014. Lịch sử. Có sự gắn kết giữa Namhansanseong với Onjo, người sáng lập ra Bách Tế. Năm 672, một pháo đài được gọi là Jujangseong (Hanja:昼长城) được xây dựng trên rìa phía tây của núi Namhan để bảo vệ Silla trước Nhà Đường. Sau đó, pháo đài được đổi tên thành Iljangseong (Hanja:日长城). Vua Cao Ly sau đó đã sửa chữa nó như một tiền đồn phòng thủ cho Gwangju. Hầu hết các pháo đài tồn tại đến ngày nay ở Hàn Quốc được xây dựng trong thời kỳ Joseon. Kế hoạch xây dựng pháo đài bắt đầu từ năm 1624, khi Mãn Châu đang đe dọa tới nhà Minh ở Trung Quốc. Vào năm 1636, trong thời gian các cuộc xâm lược lần thứ hai của người Mãn, vua Nhân Tổ của Joseon đã tị nạn tại pháo đài trong một nỗ lực chống lại sự thống trị của hoàng đế Nhà Thanh Hoàng Thái Cực, sau cuộc xâm lược của người Mãn đầu tiên vào năm 1627. Ông chạy trốn với gia quyến cùng 13.800 binh sĩ đến Namhansanseong. Người Mãn đã không thể để khuất phục được pháo đài, nhưng sau 45 ngày bị bao vây, lương thực thực phẩm cạn kiệt thì cuối cùng nhà vua đã buộc phải đầu hàng. Con trai của ông bị giữ làm con tin. Tượng đài Samjeondo (Hanja:三田渡碑) được xây dựng trên tuyến đường phía nam từ Seoul đến Namhansanseong để đánh dấu sự kiện này. Sau khi người Mãn rút lui, Namhanseong vẫn bị ảnh hưởng cho đến khi triều đại của vua Sukjong, người đã mở rộng pháo đài và thêm Pongamseong ở góc phía đông bắc khu vực pháo đài vào năm 1686. Hanbongseong sau đó cũng được xây dựng dọc theo sườn núi phía đông của pháo đài vào năm 1693. Lan can bằng gạch màu xám được thêm vào năm 1778, dưới thời trị vì của vua Jeongjo. Công viên Namhansanseong. Pháo đài đã không sử dụng và từ từ suy tàn cho đến năm 1954, khi nó được xác định là vườn quốc gia (Vườn quốc gia Bukhansan) và công việc sửa chữa đã được thực hiện một cách thuận lợi. Khu vực pháo đài còn bao gồm 9 ngôi đền, cũng như khu vực chỉ huy và các tháp canh. Tuy nhiên, chỉ còn duy nhất khu vực chỉ huy Seojangdae (西 将 台), và ngôi đền Changgyeongsa vẫn còn. Gần cổng phía nam và các bức tường của pháo đài cũng có một ngôi đền khác. Các cổng phía bắc, phía nam và phía đông của pháo đài được khôi phục.
1
null
Ernst Gräfenberg (26 tháng 9 năm 1881 – 28 tháng 10 năm 1957) là một bác sĩ phụ khoa người Đức. Tiểu sử. Ernst Gräfenberg là con trai út của Salomon Gräfenberg, người mà có một tiệm đồ sắt ở Adelebsen. Sau khi học tiểu học tại Adelebsen, Ernst 1892 chuyển sang học tại trường mà bây giờ là Max-Planck-Gymnasium ở Göttingen, nơi ông lấy bằng tú tài vào năm 1900. Gräfenberg sau đó học Y khoa tại đại học ở Göttingen và München. Ông lấy bằng tiến sĩ vào ngày 10 tháng 3 năm 1905 tại Göttingen với một nghiên cứu về đề tài "„ Sự phát triển xương, bắp thịt và thần kinh của tay và các bắp thịt của phần trên của cánh tay điều khiển sự cử động của bàn tay"". Nghiên cứu này đã đạt được giải của quỹ Petsche. Sau khi lấy bằng tiến sĩ y khoa ông làm việc một thời gian ngắn tại bệnh viện nhãn khoa của đại học Würzburg, và cùng năm đã chuyển qua bệnh viện phụ khoa của đại học Christian-Albrechts ở Kiel. Ở đó ông trở thành học trò của Richard Werth và từ năm 1908 của Johannes Pfannenstiel. Trong thời gian ở Kiel ông cho công bố nghiên cứu về sự thụ thai và về sự lan truyền của tế bào ung thư qua máu (Gräfenberg-Theorie). Sau khi chuyển về làm việc tại Berlin vào năm 1910 ông làm trưởng khoa phụ khoa và phụ sản tại nhà thương ở Berlin-Britz và mở nhà thương tư tại Berlin-Schöneberg. Ernst Gräfenberg đã tình nguyện tham gia vào quân đội Đức trong Đệ Nhất thế chiến. Với chức sĩ quan cứu thương ông được huy chương "Eisernes Kreuz" hạng nhì và hạng nhất. Sau khi chiến tranh chấm dứt ông trở về làm việc tại phòng mạch của mình ở Berlin. 1921 ông làm đám cưới với cô Rosa Goldschmidt (* 24 tháng 7 năm 1898 tại Mannheim). Cuộc hôn nhân không có con được ly dị vào năm 1924. Rosa sau đó cưới bác sĩ Franz Ullstein, con trai của Leopold Ullstein, và lần thứ 3 với Armin Wolrad Widekind Bela Erich Maria Gottschalk Graf von Waldeck. Bà được biết tới là nhà văn Rosie Waldeck.
1
null
Sói tấn công chỉ về những vụ tấn công lên người của các loài sói và các cuộc tấn công vào các gia súc, vật nuôi của con người. Một thống kê trên toàn thế giới năm 2002 theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Thiên nhiên Na Uy cho thấy 90% nạn nhân của các cuộc tấn công và ăn thịt là trẻ em dưới 18 tuổi, đặc biệt là ở độ tuổi dưới 10. Trong những trường hợp hiếm hoi mà người lớn thiệt mạng thì nạn nhân là hầu như luôn luôn là phụ nữ. Điều này phù hợp với chiến lược săn mồi của sói, trong đó nó nhắm vào các loại con mồi yếu nhất và dễ bị tổn thương nhất. Các chuyên gia có thể phân biệt giữa các cuộc tấn công con sói bị giam cầm và hoang dã. Tổng quan. Nỗi sợ hãi của những con sói đã được phổ biến trong nhiều xã hội, mặc dù con người không phải là một phần của con mồi tự nhiên của con sói Sói xám. Sói xám nhiều nhất ở khu vực Bắc Mỹ và vùng đan xen giữa hai đại lục Á-Âu, là loài sói hung dữ, có thể tấn công con người bất kì lúc nào Các cuộc tấn công sói xám rất nguy hiểm không chỉ cho các nạn nhân, mà còn cho những kẻ tấn công, những kẻ tấn công thường sau đó bị giết, hoặc thậm chí tuyệt chủng do sự trả đũa của con người. Kết quả là, những con sói ngày nay có xu hướng sống chủ yếu xa rời những nơi con người sống hoặc né tránh con người. Quốc gia có ghi chép lịch sử nhiều vụ nhất là Pháp, nơi có gần 7.600 cuộc tấn công gây tử vong đã được ghi lại trong 1200-1920 (Xem thêm Quái thú Gévaudan). Trong thời hiện đại, chúng xảy ra thường xuyên nhất ở Ấn Độ và các nước láng giềng. Có rất ít tài liệu lịch sử ghi lại các cuộc tấn công con sói ở Bắc Mỹ. Trong nửa thế kỷ tính đến năm 2002, đã có tám cuộc tấn công gây tử vong ở châu Âu và Nga, nhưng không có ai ở Bắc Mỹ, và hơn 200 nạn nhân ở phía nam châu Á. Các chuyên gia phân loại những con sói tấn công thành các loại khác nhau, bao gồm cả nhiễm bệnh dại, ăn thịt người, gây hấn, và tự vệ. Con sói dại có lẽ là nguy hiểm nhất của động vật dại với vết cắn của chó sói dại là 15 lần nguy hiểm. Con sói dại thường hành động một mình, đi khoảng cách lớn và thường cắn nhiều người và vật nuôi. Hầu hết các cuộc tấn công con sói dại xảy ra trong thời gian mùa xuân và mùa thu. Không giống như các vụ tấn công ăn thịt, các nạn nhân của những con sói dại không bị ăn thịt, và các cuộc tấn công thường chỉ xảy ra trong một ngày duy nhất. Ngoài ra, các nạn nhân được chọn ngẫu nhiên, mặc dù phần lớn các trường hợp liên quan đến nam giới trưởng thành. Sói đồng cỏ. Ở Bắc Mỹ, Thông thường, sói đồng cỏ Bắc Mỹ rất sợ người hiếm khi chúng xuất hiện và tấn công con người, sói đồng cỏ cũng gây rất ít phiền toái đối với con người, trừ khi chúng ăn vụng thức ăn của các loài vật khác trong các nhà máy dẫn đến xung đột. Một số con sói già, yếu bệnh hoạn còn thâm nhập vào các trang trại và tấn công vào các con gia súc như cừu, dê và gây nên hoảng loạn cho con người về truyền thuyết quái vật quỷ hút máu dê. Tuy vậy loài vật này được ghi nhận là đã gây ra một số vụ tấn công nhằm vào con người, đặc biệt là ở nước Mỹ. Người ta đã chỉ ra, thủ phạm tấn công người thường xuyên chính là những con sói đồng cỏ phía Đông(Canis latrans "var.") chúng tấn công những người tham gia trong các cuộc tấn công ở phía đông bắc Bắc Mỹ, bao gồm Pennsylvania, New York, New England, và phía đông Canada. Nhìn chung, các cuộc tấn công sói đồng cỏ đối với con người là không phổ biến và hiếm khi gây ra thương tích nghiêm trọng, do kích thước tương đối nhỏ của sói đồng cỏ, nhưng đã ngày càng thường xuyên, đặc biệt là trong tiểu bang California. Trong khoảng 30 năm dẫn đến tháng 3 năm 2006, ít nhất 160 cuộc tấn công xảy ra ở Hoa Kỳ, chủ yếu ở khu vực Quận Los Angeles. Trong khi 41 cuộc tấn công xảy ra trong giai đoạn 1988-1997, 48 cuộc tấn công đã được xác nhận từ năm 1998 đến năm 2003. Phần lớn các sự cố xảy ra tại miền Nam California gần giao diện ngoại ô-Wildland. Tại vùng Chicago, trong vòng những năm 1990, liên tục xảy ra tình trạng những người hoặc những con vật khác bị làm phiền bởi loài sói này, nguyên nhân là do một số con chó sói bị lạc đường nên gây rối với con người. Do kích thước nhỏ của những con sói đồng cỏ, các cuộc tấn công sói có xu hướng là một mối đe dọa lớn hơn cho trẻ em hơn thay vì là người lớn. Trong khi bộ lông rậm rạp của chúng có thể làm cho chúng nhìn khá lớn, nhưng chúng hiếm khi nặng hơn 35 £. Ngoài ra, không giống như một số con sói khác, chẳng hạn như con sói xám, sói đồng cỏ có số lượng là tương đối ít trong một đàn để săn trong điều kiện có một đàn đủ lớn để có thể hạ gục một con người hoàn toàn trưởng thành. Một sự kiện đau thương được ghi nhận là Tài năng âm nhạc người Canada là Taylor Mitchell vào năm 19 tuổi đã bất ngờ bị hai con sói đồng cỏ tấn công trong lúc đi dạo và đã qua đời do vết thương quá nặng, một trong hai con chó sói đã bị nhân viên bảo vệ bắn hạ, con kia chạy thoát. Những con chó sói đô thị đang mất đi sự sợ hãi của chúng về con người, điều đó được cho là tiếp tục trở nên tồi tệ bởi những người cố ý hoặc vô ý chó sói đồng cỏ ăn. Trong tình huống như vậy, một số chó sói đã bắt đầu hành động tích cực đối với con người, đuổi theo người chạy bộ và đi xe đạp, người đi bộ phải đối mặt con sói và chúng rình rập trẻ em, chó sói trong các khu vực này đôi khi sẽ nhắm mục tiêu trẻ em nhỏ, chủ yếu ở độ tuổi dưới 10, mặc dù một số người lớn đã bị cắn. Sói lửa. Ở một số nước như Việt Nam, đã từng ghi nhận những cuộc tấn công của loài sói lửa. Khi còn phân bố đông đảo ở các vùng núi phía bắc Việt Nam, nhất là vùng Sơn La, sói lửa xung đột và gây hấn với người dân bản địa ở đây, chúng tấn công vào các làng bản và giết hại gia súc của người dân. Nguyên nhân chính là do rừng bắt đầu bị tàn phá, thú rừng bị bắn hạ nhiều, đàn sói lửa không có mồi ăn, nên chúng mới tìm đến đàn bò, đàn trâu, đàn gà, đàn lợn. Chó sói lửa là ác mộng của dân bản vùng Tây Bắc, vì nó giết hại quá nhiều trâu, bò. Có gia đình thiệt hại hàng trăm triệu vì sói ăn hết mất cả đàn trâu, bò. Cá biệt ở bản Púm, xã Pha Kinh, Quỳnh Nhai, Sơn La giáp với vùng Huổi Luông, hầu như năm nào người dân trong bản cũng mất khoảng 20 trâu, bò, nhiều năm mất đến 40 con và có năm mất đến 50 con và hầu như nhà nào cũng từng bị thiệt hại trâu bò vì sói lửa, có ngày chúng ăn thịt liền năm con, đặc biệt là đợt tấn công mãnh liệt vào tháng 8 năm 2004, chỉ trong một buổi chiều tối đã có sáu con trâu trong đó có 05 trâu mộng, bốn con nghé, bảy con bò bị giết hại do sói lửa. Sau đó đàn sói này sau khi giết hại trâu, bò ở cánh rừng khu vực bản Púm (xã Pha Khinh), đàn sói kéo lên hướng Bắc, giết hại vô số trâu, bò ở bản Hé (xã Mường Chiên), cách huyện lỵ Quỳnh Nhai (Sơn La). Một số vụ việc. Năm 2012, cảnh thời tiết dị thường tiếp diễn đã cả tuần lễ ở Tadjikistan, băng giá ghê gớm dài ngày đã khiến lũ sói chuyên sống ở vùng núi giờ đây mò xuống săn mồi ở gần các điểm dân cư. Đã ghi nhận một số trường hợp sói dữ tấn công gia súc. Tại vườn thú Belgrade, Serbia xảy ra vụ chó sói tấn công bé gái 2 tuổi. Một con sói 10 tháng tuổi được dắt đi dạo bởi một tình nguyện viên đã bất ngờ tấn công bé gái 2 tuổi. Cô bé đã được đưa đến Bệnh viện Nhi ở Belgrade ngay sau đó. Vụ một người đàn ông ở Anh may mắn thoát chết sau khi bị một con sói xông vào nhà vệ sinh và cắn ở tay. Nạn nhân đang ngồi trong nhà vệ sinh thì con sói bất ngờ chui vào. Hoảng sợ, ông lao ra ngoài và bị con sói đuổi chạy quanh phòng khách. Con mèo cưng của gia đình, cũng bị sói tấn công nằm trên cổ nó sau khi bị cắn chảy máu. Con sói sau đó ngoạm lấy tay khiến nạn nhân chật vật mãi vẫn không thoát được. Vợ của nạn nhân cũng cố gắng giải cứu cho chồng nhưng cuối cùng lại bị con vật quay ra cắn vào ngón tay. Sau đó ông lái xe đến bệnh viện để được sơ cứu các vết rách và bầm tím trên da. Vụ một nhân viên 30 tuổi tại vườn thủ lớn nhất Thụy Điển đã thiệt mạng sau khi cố gắng tiếp cận đàn sói và cho chúng ăn trong khu vực cách ly. Có tổng cộng tám con sói trong khu vực này và cô bị bầy sói tấn công đến chết, cô bị chúng bao vây rồi tấn công, khoảng 10 phút sau, lực lượng cứu bộ nhận được tin báo nhưng không thể tiếp cận nạn nhân do e ngại bầy sói hung hãn. Lúc đưa được thi thể nữ nhân viên bị tấn công ra khỏi chuồng thú thì đã quá muộn. Chị qua đời vì bị thương quá nặng. Vụ tấn công được phát giác khi các nhân viên trong công viên này không thể liên lạc được với nạn nhân qua bộ đàm. Vụ sói tấn công một bà già 56 tuổi, làm nghề chăn bò ở Dagestan. Tuy nhiên con sói đã thiệt mạng vì bị bà ngoại đánh chó sói chết tại chỗ. Bà đã chụp lấy chó sói khi thấy nó tấn công một con bò của bà. Con sói nhe hàm răng sắc nhọn tấn công bà từ phía bên trái nhưng bị đáp trả bằng những cú đấm liên hồi, đến khi bị con sói lao vào cắn vào chân, bà liền vớ lấy một chiếc rìu đập mạnh vào đầu sói cho đến khi nó chết hẳn.
1
null
Perga hoặc Perge (tiếng Hy Lạp: Πέργη Perge, Thổ Nhĩ Kỳ: Perge) là một thành phố Hy Lạp cổ đại tại Anatolia, từng là thủ đô của Pamphylia, ngày nay thuộc tỉnh Antalya, trên bờ biển Địa Trung Hải phía tây nam của Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay, nó là một khu vực khảo cổ lớn trên đồng bằng ven biển, cách thành phố Antalya chỉ khoảng 15 km (9,3 dặm) về phía đông. Tại đây có một Acropolis niên đại thời đại đồ đồng. Lịch sử. Vào năm 46 TCN, theo Sách Công vụ Tông đồ, Thánh Phaolô đến Perga,rồi tiếp tục đến Antiocheia trong Pisidia, sau đó quay trở lại Perga nơi ông giảng Lời của Chúa. Sau đó, ông rời thành phố và đi đến Attaleia. Trong nửa đầu của thế kỷ thứ 4, dưới triều đại của Constantinus Đại đế (324-337), Perga trở thành một trung tâm quan trọng của Kitô giáo, tôn giáo sớm trở thành tôn giáo chính thức của Đế chế La Mã. Thành phố vẫn giữ được vai trò như là một trung tâm Kitô giáo trong thế kỷ thứ 5 và 6. Lịch sử Giáo hội. Thánh Phaolô và người đồng hành của ông là Thánh Barnabas đã hai lần viếng thăm Perga, sự kiện được ghi trong sách Kinh Thánh và Công vụ Tông đồ. Trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của họ, nơi đây họ đã giảng "Lời của Chúa" trước khi đi về phía tây nam đến Antioch bằng thuyền buồm từ Attalia (ngày nay là thành phố Antalya). Phaolô và Barnabas đến Perge trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của họ, nhưng có lẽ thời gian ở đó ngắn, và không có vẻ như họ đã giảng đạo ở đó. Khi trở về từ Pisidia, Phao-lô đã giảng tại Perge. Tàn tích. Perga ngày hôm nay một địa điểm khảo cổ và một điểm thu hút khách du lịch, thường được gọi là Eski Kalessi. Perge cổ đại một trong những thành phố chính của vùng Pamphylia, nằm giữa sông Catarrhactes và Cestrus. Tàn tích của nó bao gồm một nhà hát, một trường đấu vật, Đền Artemis và hai nhà thờ khác. Trong đó, đền thờ Artemis nằm bên ngoài thị trấn. Nhà thiên văn và toán học Apollonius của Pergaeus là cư dân cổ đại nổi tiếng nhất của Perge.
1
null
Langhe (hay theo ngôn ngữ địa phương Langa, Mons Langa và Bassa Langa) là một khu vực đồi núi ở phía nam và phía đông của sông Tanaro trong tỉnh Cuneo, vùng Piemonte, phía Bắc Ý. Khu vực nổi tiếng với rượu vang, pho mát, và nấm cục, đặc biệt là nấm cục trắng của Alba. Các vùng nông thôn xuất hiện trong các tác phẩm của Beppe Fenoglio và Cesare Pavese, những người được sinh ra ở Santo Stefano Belbo. Cảnh quan văn hóa với những vườn nho tại Langhe đã trở thành một phần của di sản thế giới của UNESCO vào năm 2014.
1
null
Ngày 14/6/2014, một phi cơ vận tải quân sự Ilyushin Il-76 của Không quân Ukraina bị lực lượng ly khai dùng súng máy phòng không hạng nặng Theo văn phòng công tố Ukraina, chiếc máy bay bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không. được cho là của Cộng hòa Nhân dân Luhansk tự xưng bắn rơi trong lúc Ukraina đang tiến hành chiến dịch "chống khủng bố" chống lại nước Cộng hòa nhân dân Luhansk và Cộng hòa Nhân dân Donetsk, trong Luhansk và Donetsk ở Đông Ukraina. Chiếc máy bay bị bắn rơi khi đang tiếp cận sân bay quốc tế Luhansk ở Luhansk, Đông Ukraina. Máy bay khi đó chở theo quân nhân, thiết bị máy móc và thực phẩm. Toàn bộ 49 người có mặt trên máy bay đã thiệt mạng, gồm 40 quân sĩ và 9 phi hành đoàn. Máy bay bị rơi. Chiếc máy bay bị bắn rơi là một chiếc Ilyushin Il-76MD của Không quân Ukraina, số đăng ký 76777, msn 0083482490. Chiếc máy bay đã bay lần đầu tiên bay vào năm 1988. Ban đầu hoạt động cho Aeroflot với số đăng ký CCCP-76777, chiếc máy bay đã sau đó phục vụ trong Không quân Ukraina, Azov-Azia Aircompany và Avilond TAC với số đăng ký UR-76777 trước khi phục vụ với Payam Air với số đăng ký EP-TPY. Kế hoạch mua lại bởi Công ty dịch vụ bay ATI đã không được tiến hành, và chiếc máy bay được Không quân Ukraina mua lại.
1
null
Sân bay quốc tế Corfu, "Ioannis Kapodistrias" (tiếng Hy Lạp: Κρατικός Αερολιμένας Κέρκυρας, "Ιωάννης Καποδίστριας") hay Sân bay quốc tế Ioannis Kapodistrias (Capodistrias) (mã sân bay IATA: CFU, mã sân bay ICAO: LGKR) là một sân bay thuộc chính phủ trên đảo thuộc Hy Lạp Corfu ở Kerkyra, phục vụ cả các chuyến bay thường lệ và thuê chuyến từ các thành phố châu Âu. Thời điểm hoạt động cao điểm của sân bay này là vào mùa hè, giữa tháng 4 và tháng 10.
1
null
Si Giám (chữ Hán: 郗鉴, 269 – 339), tự Đạo Huy, người huyện Kim Hương, quận Cao Bình , là tướng lĩnh, đại thần nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn Vương Đôn, Tô Tuấn. Bước vào quan trường. Si Giám là chút của Ngự sử đại phu Si Lự nhà Hán. Ông sớm mất cha, nhà nghèo, học khắp các sách, trong lúc cày ruộng vẫn không ngừng ngâm vịnh. Giám nhờ học vấn mà nổi tiếng, không chịu ra làm quan ở châu. Ông được Triệu vương Tư Mã Luân gọi làm Duyện, biết Luân chẳng có ý muốn làm bề tôi, xưng bệnh rời chức. Khi Luân soán ngôi (301), đồng đảng đều được thăng thưởng, chỉ có Giám đóng cửa giữ mình, không chịu thất tiết. Tấn Huệ đế phục vị, được làm Tham tư không quân sự , dần thăng đến Thái tử Trung xá nhân, Trung thư Thị lang. Đông Hải vương Tư Mã Việt gọi làm Chủ bộ, đề cử hiền lương, Giám không đến. Chinh đông tướng quân Cẩu Hi gọi làm Tùng sự Trung lang. Hi cùng Việt đang tranh giành quyền chính, nên Giám không nhận lời. Anh họ là Si Húc, làm biệt giá của Hi, sợ vạ đến mình, khuyên Giám nhận lời, ông rốt cục không đổi ý, Hi cũng không ép. Lãnh đạo lưu dân. Khi kinh sư thất thủ (311), trộm cướp nổi lên như ong, Giám bị giặc cướp là Trần Ngọ bắt giữ. Người cùng ấp là Trương Thực từng muốn kết giao với Giám, bị ông từ chối. Đến nay, Thực được Ngọ sai đến xem xét bệnh tình của Giám, ông hỏi Thực sao lại giúp kẻ loạn tặc, Thực cả thẹn mà lui. Ngọ cho rằng Giám có tiếng ở đời, muốn ép làm chúa, Giám trốn thoát được. Sau khi đảng Ngọ của tan rã, Giám trở về quê nhà. Bấy giờ có nạn đói, sĩ phu ở châu kính trọng Giám, cùng nhau giúp đỡ ông. Giám lại đem những gì mình có chia cho cô nhi, người già trong làng, cứu giúp được rất nhiều người. Hơn ngàn gia đình cùng cử Giám làm chúa, đi tị nạn ở Dịch Sơn thuộc đất Lỗ. Trấn thủ Duyện Châu. Lang Da vương Tư Mã Duệ vừa nắm vùng Giang Tả, thừa chế tạm cho Giám làm Long Tương tướng quân, Thứ sử Duyện Châu, giữ Trâu Sơn. Khi ấy Tuân Phiên dùng Lý Thuật, Lưu Côn dùng con anh mình là Lưu Diễn, đều làm Duyện Châu thứ sử; thành ra có 3 thế lực chia nhau Duyện Châu, đều mang danh nghĩa nằm dưới chính quyền Tây Tấn, nhưng chiếm lấy một quận mà cát cứ, thi hành chính sách riêng rẽ, không biết đến nhau. Lại thêm lực lượng người Hồ của Từ Kham và Thạch Lặc từ hai mặt xâm lấn, hằng ngày đều xảy ra chiến sự, không thể trông mong vào sự giúp đỡ nào khác. Trăm họ Duyện Châu đói kém, đến nỗi phải ăn cả xác chuột trên đồng, nhưng ngày càng nhiều người tìm đến nương nhờ Giám. Sau 3 năm, lực lượng của Giám lên đến mấy vạn, Tư Mã Duệ bèn gia cho ông làm Phụ Quốc tướng quân, đô đốc Duyện Châu chư quân sự. Về triều nhậm chức. Năm 322, Giám được triệu về làm Lãnh Quân tướng quân, đến Kiến Khang, được chuyển làm Thượng thư, nhưng có bệnh nên không nhận chức. Minh Đế nối ngôi (323), Vương Đôn chuyên quyền, chèn ép trong ngoài, Minh Đế muốn dựa vào Giám làm ngoại viện, do vậy bái ông làm An Tây tướng quân, Thứ sử Duyện Châu, Đô đốc Dương Châu, Giang Tây chư quân, Giả tiết, trấn thủ Hợp Phì. Đôn e ngại, dâng biểu lấy Giám làm Thượng thư lệnh, gọi về triều. Trên đường về, Giám ghé qua Cô Thục, cùng Đôn gặp mặt. Sau khi trò chuyện, thấy Giám kiên trung với triều đình, Đôn bực tức, không gặp mặt nữa, cũng không cho đi. Bộ hạ của Đôn hàng ngày đều tìm cách khuyên Đôn giết Giám, nhưng ông vẫn thản nhiên, không tỏ ra sợ sệt. Đôn phải thừa nhận với Tiền Phượng rằng danh vọng của Giám quá lớn, không thể làm hại, nên để ông về kinh sư. Sau khi về triều, Giám cùng đế bàn mưu diệt Đôn. Dẹp loạn Vương Đôn. Khi Tiền Phượng uy hiếp kinh sư (324), Tấn Minh Đế cho Giám tạm giữ cờ tiết, gia Vệ tướng quân, Đô đốc Tùng giá chư quân sự. Giám cho rằng việc chưa đến mức hoàng đế phải thân chinh, nên cố từ các chức vụ quân sự để can ngăn. Triều thần cho rằng lực lượng của bọn Vương Hàm, Tiền Phượng rất lớn, Uyển Thành nhỏ mà không chắc thì khó giữ, nên nhân lúc trận thế của địch chưa lập mà đưa đại quân ra đánh. Giám phản đối rằng đài quân khó lòng địch nổi phản quân, không bằng cố thủ, đợi phản quân từ xa đến sẽ bị cạn lương, lại thêm quân cần vương các nơi nổi dậy rồi hãy đánh dẹp. Minh Đế nghe theo, cho Giám dùng tư cách Thượng thư lệnh để chỉ huy các đồn doanh. Phụ chính đại thần. Bình xong bọn Tiền Phượng, Si Giám được phong Cao Bình hầu, ban 4800 xúc lụa. Ôn Kiệu xin tha cho quan viên dưới trướng Vương Đôn, Giám nhận xét bọn họ tuy bị Đôn ép buộc, nhưng chẳng có nghĩa cử nào, xứng đáng bị trách phạt. Ôn Kiệu lại xin tha cho bà mẹ của Tiền Phượng đã 80 tuổi, Giám đồng tình. Minh Đế thấy Giám có tài năng và danh vọng, mọi thứ lớn nhỏ đều hỏi ông; ban chiếu cho Giám thảo riêng biểu, sớ để dâng lên, nhằm giúp công việc của ông trở nên đơn giản. Vương Đạo bàn việc truy tặng quan chức cho Chu Trát – bị Vương Đôn giết chết, Giám cho rằng như thế là thưởng phạt không hợp lý, vì Trát đã mở cửa thành Thạch Đầu đầu hàng khi Vương Đôn tấn công kinh sư lần đầu tiên. Đạo không nghe, Giám chỉ trích việc này, triều thần không phản đối ông, cũng không hưởng ứng. Ít lâu sau được thăng làm Xa Kỵ tướng quân, Đô đốc Từ Duyện Thanh 3 châu quân sự, Duyện Châu thứ sử, Giả tiết, trấn thủ Quảng Lăng. Đến khi Tấn Minh Đế băng (325), Giám cùng bọn Vương Đạo, Biện Khổn, Ôn Kiệu, Dữu Lượng, Lục Diệp cùng nhận di chiếu, giúp thiếu chủ; được tiến vị Xa Kỵ đại tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, gia Tán Kỵ thường thị. Dẹp loạn Tô Tuấn. Năm 326, được lãnh Từ Châu thứ sử. Khi Tổ Ước, Tô Tuấn nổi loạn (327), Giám muốn đưa quân về đông cứu viện. Dữu Lượng lấy cớ đề phòng phương bắc mà không cho. Vì thế Giám sai tư mã Lưu Củ lãnh 3000 người bảo vệ kinh sư. Năm sau (328) kinh sư thất thủ, Củ bèn lui về. Trung thư lệnh Dữu Lượng tuyên khẩu chiếu của Dữu thái hậu, tiến Giám làm Tư không. Giám liền kề với người phương bắc, thành cô lương hết, lòng người sợ hãi, tình thế bất an; đến nay nhận chiếu thì rơi nước mắt, lập đàn tràng, giết ngựa trắng tế cờ, tập hợp ba quân, thề nguyền sẽ giết bọn Tổ Ước, Tô Tuấn để cần vương; ông ở trên đàn, lời lẽ khẳng khái, mọi người đều tranh nhau hưởng ứng. Giám bèn sai bọn tướng quân Hạ Hầu Trường đi gặp Bình Nam tướng quân Ôn Kiệu, nhận định phản quân muốn ép hoàng đế về quận Cối Kê ở phía đông, mà miền đông là vựa lúa của Đông Tấn; từ đó kiến nghị lập doanh lũy ở nơi yếu hại, nhằm ngăn giặc bỏ chạy, cắt đường vận lương của chúng; đồng thời tiến hành ‘vườn không nhà trống’, trấn thủ Kinh Khẩu chờ giặc cạn lương mà tan rã. Kiệu rất lấy làm phải. Khi Đào Khản làm minh chủ, tiến Giám làm đô đốc Dương Châu 8 quận quân sự, Phủ quân tướng quân Vương Thư, Phụ quân tướng quân Ngu Đàm đều chịu sự chỉ huy của ông. Giám vượt Trường Giang, hội quân với Đào Khản ở Gia Tử Phổ. Giám nhận lệnh đắp lũy Bạch Thạch rồi giữ nơi ấy. Gặp lúc Thư, Đàm thua trận, Giám cùng Hậu tướng quân Quách Mặc lui về Đan Đồ, lập ba lũy Đại Nghiệp, Khúc A, Sính Đình để chống địch. Khi tướng lãnh phản quân là Trương Kiện đến đánh Đại Nghiệp, trong thành thiếu nước, Quách Mặc quẫn bách, bèn đột vây mà ra, ba quân sợ hãi. Tham quân Tào Nạp cho rằng lũy Đại Nghiệp là chỗ hiểm yếu nhất Kinh Khẩu, nếu không giữ được thì giặc sẽ theo lối ấy ập đến, khuyên Giám lui về Quảng Lăng để chờ cơ hội khác mà dấy binh. Giám tập hợp chư tướng kể tội Nạp làm rối lòng quân mà đòi chém, mãi mới chịu tha. Đến lúc Tô Tuấn bị giết, Đại Nghiệp mới được giải vây. Khi bọn Tô Dật chạy đi Ngô Hưng (329), Giám sai tham quân Lý Hoành đuổi theo chém được, thu hàng hơn vạn nam, nữ. Được bái làm Tư không, gia Thị trung, giải nhiệm 8 quận đô đốc, thay phong Nam Xương huyện công, tước cũ dành cho con trai ông là Đàm. Trấn thủ Kinh Khẩu. Tướng Hậu Triệu là Lưu Chinh đưa mấy ngàn quân vượt bể quấy nhiễu các huyện đông nam (331), Giám bèn đồn trú Kinh Khẩu, được gia Đô đốc chư quân sự của Tấn Lăng, Ngô Quận thuộc Dương Châu, soái quân đánh dẹp. Năm 338, Si Giám được tiến vị làm Thái úy. Năm sau, Giám bệnh nặng, dâng sớ tiến cử Thái Mô làm Thứ sử Từ Châu, cháu trai Si Mại làm Thứ sử Duyện Châu. Hưởng thọ 71 tuổi, Tấn Thành Đế thương khóc ở triều đường từ sớm đến trưa, sai ngự sử cầm cờ tiết coi việc tang, truy tặng tương tự như Ôn Kiệu, cho làm Thái tể, thụy là Văn Thành.
1
null
Fernando Rubén Gago (Phát âm tiếng Tây Ban Nha: [ferˈnando ɣaɣo]; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1986) là một cựu cầu thủ bóng đá người Argentina chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Anh đang làm và huấn luyện viên cho câu lạc bộ Racing Club. Anh từng tham gia Giải vô địch bóng đá thế giới năm 2014 tại Brasil, Copa América 2007 và 2011 cũng đồng thời thi đấu tại Olympic Bắc Kinh 2008. Gago từng chơi cho Valencia nhưng đến lúc 26 tuổi, anh đã không thể hoà nhập với cuộc sống tại Valencia kể từ cuộc chuyển nhượng trị giá 3.5 triệu euro của anh từ Real Madrid hồi tháng 7 năm 2012 và muốn được ra đi. Manchester City đã từng chuẩn bị một món tiền vào khoảng 15 triệu bảng để chiêu mộ anh nhưng việc chuyển nhượng đã không diễn ra. Anh đã bị Jose Mourinho đẩy đi sau khi ông mua Xabi Alonso và Sami Khedira về để bổ sung lực lượng. Cuộc sống cá nhân. Gago, Sergio Agüero và Lionel Messi đều từng là đồng đội của nhau khi còn nhỏ ở Argentina. Ba người họ đã cùng nhau vô địch FIFA World Youth Championship 2005 tại Hà Lan. Fernando Gago cũng là một người đam mê văn học và nghệ thuật. Điều đầu tiên anh làm sau khi hạ cánh ở Tây Ban Nha là ghé thăm Bảo tàng Prado. Gago đã kết hôn với vận động viên quần vợt chuyên nghiệp Gisela Dulko, họ có hai con trai, Mateo, sinh ngày 9 tháng 6 năm 2013 và Daniele, sinh ngày 19 tháng 4 năm 2018 và một cô con gái, Antonella, sinh năm 2015.
1
null
Augusto Matías Fernández (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentine đang chơi cho câu lạc bộ Beijing Renhe tại CSL trong vai trò tiền vệ cánh phải. Sinh ra tại Pergamino, Fernández bắt đầu sự nghiệp chơi bóng cho câu lạc bộ River Plate vào 2006. Vào ngày 28 tháng 8 năm 2009, sau khi Gonzalo Bergessio gia nhập câu lạc bộ AS Saint-Etienne, Fernández được cho mượn. Vào ngày 9 tháng 8 năm 2012, Fernández gia nhập vào La Liga và chơi cho câu lạc bộ Celta Vigo. Anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Argentina tham dự Giải bóng đá vô địch thế giới 2014, giải đấu mà anh và các đồng đội giành vị trí á quân sau khi để thua đội tuyển Đức với tỉ số 0-1.
1
null
Lucas Rodrigo Biglia (; (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Argentina, hiện đang chơi cho câu lạc bộ AC Milan và là tuyển thủ Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Sự nghiệp thi đấu quốc tế của anh bắt đầu vào năm 2011 trong màu áo của đội U20 Argentine tham dự giải vô địch bóng đá trẻ thế giới. Biglia bắt đầu sự nghiệp thi đấu của anh ấy tại cuâ lạc bộ Argentinos Juniors, vào năm 2005, anh chuyển đến câu lạc bộ Independiente. Vào tháng 7 năm 2006, anh đăng ký gia nhập giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ trong màu áo của câu lạc bộ Anderlecht trong một bản hợp đồng giá trị 4 năm. Ngày 23 tháng 7 năm 2013 đến ngày 1 tháng 6 năm 2017, anh gia nhập câu lạc bộ Lazio. Ngày 1 tháng 8 năm 2017, anh gia nhập câu lạc bộ A.C. Milan. Anh là thành viên của đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina giành ngôi á quân World Cup 2014, Copa América 2015 và Copa América Centenario 2016.
1
null
José Ernesto Sosa (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1985) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina, người đang chơi cho câu lạc bộ Atlético Madrid ở giải La Liga, từ một hợp đồng cho mượn bởi câu lạc bộ Metalist Kharkiv, anh đang thi đấu ở vị trí trung vệ. Sosa chơi bóng cho câu lạc bộ Estudiantes từ năm 2002 cho đến năm 2007. Anh rất được huấn huyện viên Carlos Bilardo ưa thích cùng với Marcelo Carrusca giúp anh bắt đầu thi đấu tại giải bóng đá Argentine. Ngày 24 tháng 3 năm 2007, anh được giới thiệu đến câu lạc bộ Bayern Munich, và Estudiantes nhận 6 triệu bảng để có anh trong kỳ chuyển nhượng theo hình thức cho mượn. Ngày 26 tháng 7 năm 2011, anh gia nhập câu lạc bộ Metalist Kharkiv của Uckraine. Sosa chơi cho đội tuyển U20 Argentine và tham dự giải vô địch U20 thế giới năm 2003. Huấn luyện viên Alfio Basile đã gọi anh vào đội tuyển quốc gia trong năm 2007. Sosa gọi đó là ngày Thứ ba không thể nào quên (trong cuộc đời mình). Nhưng sau đó anh không được gọi thi đấu tại World Cup 2010 dưới thời kỳ của Diego Maradona nhưng dưới thời kỳ của huấn luyện viên Alejandro Sabella, anh lại được gọi vào đội tuyển tham dự giải vô địch bóng đá thế giới năm 2014 tại Brasil.
1
null
Éver Maximiliano David Banega (sinh ngày 29 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina, hiện đang chơi cho câu lạc bộ Al Shabab ở vị trí tiền vệ trung tâm. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại Boca Juniors, và chơi cho Valencia vào năm 2008. Sinh ra tại Rosario, Santa Fe, Banega bắt đầu sự nghiệp của mình với Boca Juniors, sau khi Fernando Gago chuyển đến Real Madrid vào tháng 1 năm 2007, thì anh ấy đã chơi thế tốt vị trí của Gago để lại. Ngày 5 tháng 1 năm 2008, Banega đến Tây Ban Nha và chơi cho Valencia CF trong một bản hợp đồng 20 triệu bảng. Sau đó anh được cho mượn đến câu lạc bộ Atlético Madrid trong mùa giải 2008-2009. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2014 Banega được cho mượn đến Newell's Old Boys quê hương của anh trong mùa giải 2013-2014. Anh cũng tham dự đội U20 Argentine, nhưng không được triệu tập tham dự Cúp bóng đá thế giới năm 2010 ở Nam Phi dưới thời của Diego Maradona. Năm 2014, anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia tham dự World Cup 2014 tại Brasil
1
null
José María Basanta Pavone (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá người Argentine đang chơi ở vị trí hậu vệ trong màu áo câu lạc bộ CF Monterrey ở Mexico. Basanta bắt đầu sự nghiệp của anh ấy tại câu lạc bộ Estudiantes vào năm 2003 trước khi gia nhập Olimpo de Bahía Blanca một câu lạc bộ hạng 2 của Argentine vào năm 2006. Basanta đã giúp sức cho Olimpo thắng lợi ở cả hai giải Apertura và Clausura. Sau đó anh gia nhập trở lại Estudiantes vào năm 2007. Và năm 2008, anh được bán tới Monterrey, kể từ sau đó, Basanta đã có sự thành công vào năm 2009 và năm 2010 tại giải Apertura. Basanta cũng có người họ hàng là Mariano và Gonzalo Pavone cũng là những cầu thủ bóng đá. Năm 2014, anh được gọi vào đội tuyển quốc gia Argentina tham dự giải vô địch vóng đá thế giới 2014 tại Brasil.
1
null
Nicolás Hernán Gonzalo Otamendi (sinh ngày 12 tháng 2 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina, hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Benfica tại Primeira Liga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina ở vị trí trung vệ. Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của anh ấy bắt đầu từ câu lạc bộ Atlético Vélez Sársfield và Porto, anh cũng đã có những thành công nhất định khi chơi trong màu áo của 02 câu lạc bộ này. Anh được gọi lên đội tuyển quốc gia Argentine kể từ năm 2009. Năm 2014, anh có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 tại Brasil. Anh sinh ra tại Buenos Aires, Otamendi chơi cho giải hạng Nhất Argentine và ra mắt trong màu áo của câu lạc bộ Club Atlético Vélez Sársfield vào ngày 23 tháng 8 năm 2010, Otamendi được chuyển đến Bồ Đào Nha và chơi cho câu lạc bộ F.C. Porto với khoải phí 4 triệu Euro trong một bản hợp đồng đã ký kết với thời hạn 5 năm. Vào ngày 5 tháng 2 năm 2014, Otamendi được bán tới Valencia CF tại giải La Liga với một hợp đồng 05 năm có giá trị 12 triệu Euro bắt đầu từ ngày 1 tháng 6. Vào tháng 3 năm 2009, Otamendi được gọi vào đội tuyển quốc gia Argentina dưới thời của huấn luyện viên Diego Maradona và cho ra sân trong trận giao hữu với Panama. Anh cùng đội tuyển Argentina góp mặt tại các giải đấu lớn là Copa América 2015, Copa América Centenario 2016, World Cup 2018, Copa América 2019, Copa América 2021 và World Cup 2022, trong đó thành tích cao nhất là chức vô địch Copa América 2021 và World Cup 2022. Danh hiệu. Vélez Porto Manchester City Argentina Cá nhân
1
null
Ezequiel Marcelo Garay González (; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1986) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina từng thi đấu ở vị trí trung vệ. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu cho câu lạc bộ Newell's Old Boys nhưng sau đó đã chuyển đến Tây Ban Nha lúc 19 tuổi. Kể từ đó anh đã chơi tại La Liga tổng cộng đến nay lên đến 109 trận và có được 15 bàn thắng, với câu lạc bộ Racing de Santander và Real Madrid. Vào năm 2011, anh chuyển đến Benfica. Sự nghiệp. Garay sinh ra tại Rosario, Santa Fe. Vào năm 18, anh ra mắt trong màu áo của câu lạc bộ quê nhà Newell's Old Boys, trong giải bóng đá vô địch quốc gia Argentine. Trận đấu đầu tiên của anh ấy là trận gặp câu lạc bộ Club de Gimnasia y Esgrima La Plata, trong mùa giải 2004-2005. Vào tháng 12 năm 2005, Garay gia nhập La Liga và chơi cho câu lạc bộ Racing de Santander, và đã đạt được một số thành công trong màu áo câu lạc bộ này. Vào ngày 18 tháng 5 năm 2008, Racing bán Garay cho Real Madrid, nhưng sau đó nhận lại anh ở mùa giải 2008-2009 bằng hình thức cho mượn. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2011, Garay chuyển đến S.L. Benfica ở Bồ Đào Nha. Tại giải vô địch bóng đá trẻ thế giới năm 2005, Garay đã giúp đội U20 Argentine vô địch giải U20 thế giới tại Hà Lan. Trong giải này còn có sự góp mặt của Sergio Agüero, Fernando Gago, Lionel Messi và Oscar Ustari. Năm 2014, anh được gọi vào đội tuyển quốc gia tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới năm 2014 tổ chức tại Brasil.
1
null
Faustino Marcos Alberto Rojo (sinh ngày 24 tháng 3 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Argentina hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ hoặc hậu vệ trái, và đồng thời là đội trưởng của câu lạc bộ Argentina Boca Juniors. Anh bắt đầu sự nghiệp chơi bóng tại câu lạc bộ địa phương Estudiantes de La Plata. Tại đây, anh giành được 1 Copa Libertadores vào năm 2009, chơi trong trận Chung kết FIFA Club World Cup vào cuối năm đó và giành chức vô địch giải Primera của Argentina vào năm 2010. Sau một thời gian ngắn với Spartak Moscow, anh gia nhập Sporting CP vào năm 2012 trước khi chuyển đến Manchester United với giá 16 triệu £ hai năm sau đó. Anh đã giành được 4 danh hiệu với câu lạc bộ nước Anh, bao gồm Cúp FA 2015–16; Siêu cúp Anh, Cúp EFL và UEFA Europa League vào mùa 2016–17. Rojo lần đầu khoác áo đội tuyển quốc gia Argentina vào năm 2011 và kể từ đó anh đã có hơn 60 lần khoác áo đội tuyển. Anh là thành viên của Argentina tham dự World Cup 2014, Copa América 2015, 2016 và World Cup 2018. Sự nghiệp câu lạc bộ. Marcos Rojo sinh ra và lớn lên tại La Plata, Argentina. Anh gia nhập câu lạc bộ Estudiantes lúc lên 10 theo hình thức đào tạo tài năng trẻ. Năm 2009, Rojo đã được quảng bá rao bán cho nhiều câu lạc bộ. Trong suốt thời gian chơi cho Estudiantes, cầu thủ người Argentina này đã giành được Copa Libertadores. Spartak Moscow. Tháng 12 năm 2010, Rojo ký hợp đồng 5 năm với Spartak Moscow. Thời gian chơi bóng ở Nga là khoảng thời gian không thành công của tài năng sinh năm 1990. Sporting Lisbon. Kết thúc mùa giải 2011–12, Rojo chuyển đến câu lạc bộ Sporting CP. Manchester United. Từ ngày 20/8/2014, Marcos Rojo chính thức gia nhập Manchester United với mức phí chuyển nhượng khoảng 16.5 triệu bảng và trở thành tân binh thứ ba của Manchester United. Anh có thể thi đấu trung vệ lẫn hậu vệ trái. Chỉ sau vài vòng đấu đầu tiên của mình tại Ngoại hạng Anh, anh đã nhanh chóng hòa nhập và trở thành một trong những trụ cột của Quỷ đỏ. Boca Juniors. Ngày 2/2/2021, trang chủ của Man Utd đã chính thức thông báo Rojo quyết định rời khỏi đội chủ sân Old Trafford, quay về quê nhà thi đấu cho câu lạc bộ Boca Juniors. Mức phí chuyển nhượng của thương vụ này không được tiết lộ. Sau khi tạm biệt nửa đỏ thành Manchester, anh cũng thay đổi luôn số áo đấu, chuyển từ số 16 sang số 6. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. Ngày 9 tháng 3 năm 2011, Rojo được triệu tập lần đầu tiên vào đội tuyển quốc gia Argentina và có một trận đấu giao hữu với . Năm 2014, anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Argentina tham dự World Cup 2014 tại Brasil dưới thời của huấn luyện viên Alejandro Sabella. Cầu thủ này đã có một giải đấu khá thành công khi cùng Lionel Messi và các đồng đội giành vị trí á quân chung cuộc, và họ chỉ để thua trước đội tuyển Đức tại trận chung kết với tỉ số 1-0 nhờ pha lập công duy nhất của cầu thủ Mario Götze ở phút 113. Năm 2018, Rojo lại tiếp tục được gọi vào đội tuyển quốc gia tham dự giải đấu World Cup 2018 trên đất Nga, lần này được dẫn dắt bởi huấn luyện viên Jorge Sampaoli. Tại kỳ World Cup lần này, anh chỉ có được một bàn thắng trong trận gặp ở vòng bảng, và Argentina đã phải nói lời chia tay giải đấu sớm sau khi họ thua đội tuyển Pháp 4-3 ở vòng 16 đội. Đời sống cá nhân. Rojo đã kết hôn với Eugenia Lusardo, một người mẫu nội y. Họ có với nhau một cô con gái. Rojo có một số hình xăm, trong đó có các từ tiếng Anh "Pride" (tự hào) và "Glory" (vinh quang) trên mỗi đùi.
1
null
Federico Fernández (; sinh ngày 21 tháng 2 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina, hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Newcastle United. Anh bắt đầu sự nghiệp tại Estudiantes de La Plata trước khi chuyển đến Napoli vào năm 2011. Anh được cho mượn tại Getafe, trước khi gia nhập Swansea City vào năm 2014. Fernández ra mắt đội tuyển quốc gia vào năm 2009 và từ đó đã có hơn 30 lần ra sân và ghi được 3 bàn thắng. Anh là thành viên của đội tuyển Argentina giành ngôi á quân World Cup 2014. Tiểu sử. Federico có nguồn gốc từ Ý: ông cố của mẹ anh là người gốc Lacesonia, tỉnh Avellino. Cho nên anh có hộ chiếu Ý. Sự nghiệp câu lạc bộ. Newcastle United. Ngày 9 tháng 8 năm 2018, Fernández gia nhập Newcastle United theo bản hợp đồng có thời hạn 2 năm. Điều này giúp anh tái hợp với ông thầy cũ Rafa Benítez khi cả hai từng làm việc với nhau tại Napoli. Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League vào ngày 2 tháng 11 năm 2019 trong chiến thắng 3-2 trên sân của West Ham. Bàn thắng thứ 2 anh ghi cho NUFC lại đến từ chiến thắng 2-1 trên sân nhà gặp Southampton cũng tại khuôn khổ giải ngoại hạng Anh.
1
null
Enzo Nicolás Pérez còn biết đến với tên gọi đơn giản hơn là Enzo Pérez (; sinh ngày 22 tháng 3 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina đang chơi ở vị trí trung vệ và thủ môn cho câu lạc bộ River Plate ở giải bóng đá Argentina. Pérez bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Deportivo Maipú, giống như cha của anh ta, anh ấy bắt đầu sự nghiệp chơi bóng chuyên nghiệp tại câu lạc bộ Godoy Cruz, nơi mà anh ấy đã viết nên tên tuổi của mình trong lịch sử của câu lạc bộ bằng việc ghi bàn ở phút thứ năm của trận đấu trong trận hòa 1-1 với câu lạc bộ Atlético Belgrano vào ngày 9 tháng 12 năm 2006. Đây là bàn thắng đầu tiên của Godoy Cruz tại giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina. Tổng kết mùa giải anh đã ghi cả thảy 12 bàn thắng cho câu lạc bộ, trong đó phần lớn được thực hiện từ chấm phạt đền. Năm 2007, Pérez gia nhập câu lạc bộ Estudiantes de La Plata. Năm 2014, anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia tham dự World Cup 2014. Thống kê sự nghiệp. Câu lạc bộ. 1 2
1
null
Sergio Germán Romero (sinh ngày 22 tháng 2 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Argentina chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Boca Juniors ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina. Anh đã ra sân 96 trận đấu cho đội tuyển quốc gia Argentina từ năm 2009. Romero là thành viên của đội tuyển Argentina tham dự 2 kỳ World Cup và hai kỳ Copa América. Đội tuyển bóng đá Argentina khi đó đều giành vị trí á quân tại mỗi giải đấu. Anh là thành viên của đội tuyển Olympic Argentina giành huy chương vàng tại Bắc Kinh 2008. Gia đình. Sergio Romero sinh ra và lớn lên tại Bernardo de Irigoyen, Misiones, Argentina. Anh có hai người anh trai chơi bóng rổ, Romero còn có biệt hiệu 'chiquito'. Romero kết hôn với nữ ca sĩ, người mẫu, diễn viên Eliana Guercio, họ có với nhau một cô con gái. Sự nghiệp câu lạc bộ. Racing Club de Avellaneda. Romero gia nhập Racing Club de Avellaneda vào lúc 19 tuổi vào năm 2006. Romero ra mắt với Racing Club de Avellaneda. AZ Alkmaar. Trong năm 2007, Romeo ký hợp đồng với câu lạc bộ bóng đá AZ của huấn luyện viên Louis van Gaal. Do anh bị chấn thương nên lựa chọn ban đầu đó là thủ môn đầu Boy Waterman, Romero có trận tại giải Giải vô địch bóng đá Hà Lan vào ngày 30 tháng 9 khi đối đầu với Heracles Almelo, cuối cùng anh trở thành một trụ cột của đội AZ. Trong mùa giải 2008-09, Romero giữ sạch lưới 950 phút cho AZ từ tháng 10 đến tháng 12. Tuy nhiên, vào ngày 5 tháng 3 năm 2009, anh đã mắc một sai lầm khi bị cầu thủ Nourdin Boukhari của đội NAC Breda nâng tỉ số 2-1 ở vòng tứ kết KNVB Cup. Anh phản ứng sau khi trận đấu kết thúc bằng cách đấm vào cửa và tường của phòng thay đồ khiến gãy xương ở tay và phải chữa trị một thời gian quan trọng của mùa giải. ÔAnh trở lại vào ngày 26 tháng 4 sau khi thủ môn Joey Didulica đã bị chấn thương trong một cuộc va chạm với Luis Suárez. Cuối cùng AZ cũng giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá Hà Lan, anh có trận ra mắt với các câu lạc bộ ở đấu trường UEFA Champions League và UEFA Europa League ở mùa giải sau. Sampdoria. Ngày 22 tháng 8 năm 2011, Romero đã được ký kết hợp đồng với câu lạc bộ UC Sampdoria, đội bóng bị xuống hạng mùa trước phải xuống thi đấu giải Serie B. Anh có trận ra mắt 4 ngày sau đó trên sân nhà khi tiếp đón Calcio Padova. Mùa giải kết thúc, Sampdoria ở vị trí thứ sáu và sau khi giành chiến thắng trước U.S. Sassuolo Calcio và AS Varese 1910 trong trận đấu loại, đội bóng giành suất lên hạng Serie A. Đối với mùa giải 2013-14, Romero được đem đi cho mượn ở AS Monaco của giải Ligue 1 nhưng chỉ là sự lựa chọn thứ hai sau thủ môn Danijel Subasic. anh đã chơi 3 trận giúp đội hoàn thành ngôi nhì giải đấu sau Paris Saint-Germain. Sau khi trở về Sampdoria, anh cũng thường xuyên bắt dự bị cho thủ môn Emiliano Viviano. Manchester United. Ngày 27 tháng 7 năm 2015, Manchester United hoàn tất việc ký kết với Romero theo dạng chuyển nhượng tự do. Anh đã ký hợp đồng 3 năm với điều khoản gia hạn thêm một năm nữa và tái hợp với huấn luyện viên cũ Louis van Gaal. Thi đấu quốc tế. Romero cũng được gọi vào đội tuyển trẻ Argentina tại Giải bóng đá trẻ Nam Mỹ 2007 ở Paraguay và tham gia Giải U20 thế giới tại Canada. Ngày 8 tháng 8 năm 2007, Romero lần đầu tiên được bắt chính cho đội tuyển Argentina trong trận đấu giao hữu với Na Uy và Úc khi đó Argentina đều giành chiến thắng. Năm 2008, anh thay thế cho thủ môn Oscar Ustari tại Bắc Kinh 2008. Romero được gọi vào đội tuyển Argentina được dẫn dắt bởi Diego Maradona, ra mắt huấn luyện viên mới vào ngày 9 tháng 9 năm 2009 trong trận chiến thắng 1–0 tại vòng loại World Cup 2010 gặp Paraguay và chơi trong trận thắng trước Uruguay tại Montevideo khi đó Argentina lọt vào vòng chung kết Giải bóng đá vô địch thế giới 2010. Anh đã ra sân tất cả năm trận tại World Cup 2010 khi đó Argentina dừng chân ở vòng tứ kết. Romero là một sự lựa chọn cho vị trí thủ môn của huấn luyện viên Sergio Batista tham dự Copa América 2011 khi đó Argentina là chủ nhà, để thua Uruguay trên chấm phạt đền trong trận tứ kết. Anh vẫn giữ được vị trí thủ môn của mình như là lựa chọn số một dưới thời Huấn luyện viên mới Alejandro Sabella cho cho vòng loại FIFA World Cup 2014. Romeo là thủ môn bắt chính của đội tuyển bóng đá tham dự vòng chung kết Giải bóng đá vô địch thế giới 2014. Trong trận bán kết, anh được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu bởi đã cản phá thành công hai cú sút luân lưu 11m của Ron Vlaar và Wesley Sneijder, giúp cho tuyển Argentina giành chiến thắng 4-2 trong loạt sút luân lưu 11m để lọt vào trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Vào ngày 11 tháng 7, Romero có tên trong danh sách rút gọn ba cầu thủ xuất sắc nhất của FIFA, giải thưởng cho thủ môn tốt nhất của giải đấu do màn trình diễn của mình khi dẫn dắt đội bóng vào đến trận chung kết. Tại Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015, Romero cản phá cú sút luân lưu 11m của cầu thủ Juan Camilo Zúñiga trong loạt sút luân lưu sau khi trận đấu ở vòng tứ kết kết thúc không bàn thắng, giúp đội tuyển bóng đá Argentina giành chiến thắng trước Colombia ở Viña del Mar. Sau kì World Cup 2018 không thành công của đội tuyển Argentina (thất bại trước với tỉ số 3-4 (đội sau đó đăng quang)), Sergio Romero chính thức chia tay đội tuyển quốc gia sau 9 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 96 trận. Đời tư. Mặc dù cao 6 feet 4 inch (1,93 m), Romero có biệt danh là "Chiquito" vì anh tương đối thấp so với các anh trai của mình, đặc biệt là Diego Romero, một cầu thủ bóng rổ cao đến 6 feet 9 inch (2,06 m). Anh kết hôn với Eliana Guercio, người Argentina. Tháng 9 năm 2012, Sergio Romero lên chức bố lần thứ 2 khi vợ anh sinh đứa con thứ hai khiến anh bỏ lỡ một trận đấu. Thành tích. Câu lạc bộ. Manchester United
1
null
Feijoada là một món ăn phổ biến ở Bồ Đào Nha và một số quốc gia và vùng lãnh thổ từng là thuộc địa Bồ Đào Nha như Brasil, Angola, Ma Cao, Mozambique, Goa nhưng có mùi vị khác nhau theo khu vực. Món ăn này được chế biến từ đậu đen, thịt xông khói và một số bộ phận từ lợn như lưỡi, tai hay đuôi. Món ăn này được người dân Brasil sử dụng khá nhiều vào các buổi trưa. Các thành phần cơ bản chế biến món feijoada là đậu với thịt lợn tươi hoặc thịt bò tươi. Ở phía tây bắc Bồ Đào Nha (chủ yếu là Minho và Douro Litoral), nó thường được làm bằng đậu que; ở phía đông bắc (Tras-os-Montes), người ta dùng đậu tây, và bao gồm các loại rau khác như cà chua, cà rốt, và cải bắp. Món hầm này được đun bằng nồi đất dày bằng lửa nhỏ.
1
null
Quindim là một món tráng miệng phổ biến ở Brasil. Quindim là loại bánh được làm từ lòng đỏ trứng, đường ăn, nước cốt dừa và bơ. Theo công thức truyền thống, bơ được đun cho tan chảy rồi trộn với các thành phần còn lại sau đó để qua đêm trước khi đem nướng. Bánh được nướng ở nhiệt độ 150 – 180 độ C cho tới khi lớp vỏ bên ngoài chuyển thành màu nâu vàng.
1
null
Acarajé là một món ăn trong ẩm thực Brasil và ẩm thực Nigeria. Đậu trắng được nghiền nhỏ sau đó nặn thành hình cầu với phần nhân bên trong làm từ tôm và dầu giấm sau đó đem chiên trong dầu cọ. Bánh Acarje thường được ăn với salad làm bằng cà chua, tương ớt và tôm chiên. Ở Brasil người ta còn chế biến món Acaraje chay với thành phần làm từ ớt và cà chua.
1
null