text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Andriy Bohdanovych Deshchytsya (tiếng Ukraina: Андрій Богданович Дещиця) (ngày 22 tháng 9 năm 1965, Pervyatychi, tỉnh Lviv) là một nhà ngoại giao Ukraina, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Ukraina tại Phần Lan và Iceland, từ 27/2/2014 là ngoại trưởng Ukraina. Tiểu sử. Sinh ngày 22 tháng 9 năm 1965 tại tỉnh Lviv, A. B. Deshchytsia tốt nghiệp Đại học Quốc gia Franko Lviv Ivan (1989), Đại học Alberta (Edmonton, Canada) (1995). Ông có bằng thạc sĩ ngành lịch sử và bằng tiến sĩ ngành Khoa học chính trị (1995). Ông thông thạo tiếng Ukraina, tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Ba Lan. Sự nghiệp. 1996-1999 - thư ký báo chí, Bí thư thứ nhất của Đại sứ quán Ukraina tại Cộng hòa Ba Lan. 1999-2001 - Điều phối viên cao cấp của PAUCI (Sáng kiến hợp tác Ba Lan-Mỹ-Ukraina) 2001-2004 - Tham tán Đại sứ quán Ukraina tại Cộng hòa Phần Lan. 2004-2006 - Tham tán, công sứ-tham tán của Đại sứ quán Ukraina tại Cộng hòa Ba Lan. 2006-2008 - Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Ukraina. 2008-2012 - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Ukraine ở Cộng hòa Phần Lan và Iceland (đóng ở Phần Lan). 2012 - tháng 2 năm 2014 - Đại sứ lưu động. Tháng 1-tháng 12 năm 2013 - Đại diện đặc biệt của Chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) giải quyết xung đột. Ngày 19/6/2014, Quốc hội Ukraina đã quyết định cách chức ngoại trưởng A. B. Deshchitsa do những lời văng tục khi ông nói về Tổng thống Nga Putin trong cuộc biểu tình ở Kiev cuối tuần trước đó. Câu nói. Phát biểu trước đám đông phản đối vụ máy bay vận tải quân sự Ukraina bị bắn rơi, ông nói: "Tôi ủng hộ các bạn biểu tình… Đúng Putin là một khuilo" (khuilo là một từ tục tĩu trong tiếng Nga/Ukraina nghĩa là thằng khốn). Theo đại sứ Mỹ ở Ukraina làH Geoffrey Pyatt, thực ra D. B. Deshchytsia nói như vậy để vuốt ve người biểu tình và yêu cầu họ đừng sử dụng bạo lực hay biện pháp cực đoan. Ngày 19 tháng 6 năm 2014, A. B. Deschytsia bị bãi chức và thay bằng P. A. Klimkin, cựu đại sứ Ukraina ở Đức. Không có bình luận gì về việc liệu việc thay thế Deschytsia có liên quan gì đến việc văng tục về Putin hay không, nhưng truyền thông Ukraina nói rằng sự kiện thay thế nhân sự này đã được lên kế hoạch từ trước sự cố văng tục và nó là một phần trong việc cải tổ nội các sau khi Tổng thống Ukraina mới lên cầm quyền.
1
null
Bernd Michael Rode (sinh ngày 14 tháng 7 năm 1946) tại Innsbruck, Cộng hòa Áo là một giáo sư ngành hóa, quốc tịch Áo, người sáng lập ra Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á và Áo – sau này là Mạng lưới các trường Đại học Đông Nam Á và châu Âu (ASEA-UNINET). Tiểu sử. Bernd Michael Rode sinh ngày 14 tháng 7 năm 1946 tại thành phố Innsbruck, Cộng hòa Áo. Năm 1964, ông tốt nghiệp phổ thông trung học (Akademisches Gymnasium Innsbruck) và bắt đầu theo học ngành hóa học tại trường đại học Leopold-Franzens Innsbruck. Ông là một trong những nghiên cứu sinh xuất sắc nhất của trường đại học Leopold-Franzens Innsbruck, ông nhận bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1973. Từ năm 1973, Bernd Michael Rode bắt đầu sự nghiệp với vị trí trợ lý giáo sư tại Viện Hóa Phân tích Vô cơ của trường đại học Leopold-Franzens Innsbruck. Sau một thời gian nghiên cứu tại Đức (trường đại học Stuttgart và trường đại học Karlsruhe), ông trở thành Phó Giáo sư tại Innsbruck vào năm 1976. Sau khi nghiên cứu thêm 1 năm tại trường đại học Tokyo, GS. Rode bắt đầu sự nghiệp giáo sư của mình tại Viện Vô cơ Lý thuyết tại trường đại học Leopold-Franzens Innsbruck. Ông đảm nhiệm vị trí Trưởng Bộ môn Hóa Lý thuyết và Viện trưởng Viện Hóa Lý thuyết và Hóa Vô cơ đại cương đến năm 2011. Mặc dù nghỉ hưu vào năm 2011, GS. Rode vẫn rất tích cực trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh. Hoạt động nghiên cứu. Các thành tựu nghiên cứu khoa học của GS. Bernd Michael Rode được đánh dấu với 7 tập sách chuyên ngành, hơn 440 bài báo đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu quốc tế và 30 đầu sách khác. Theo trang web ISI Thomson về các trích dẫn khoa học, những nghiên cứu này đã nhận được trên 8.300 lượt trích dẫn (thống kê đến tháng 5 năm 2014) với chỉ số Hirsch 41. Các công trình nghiên cứu của GS. Rode trong lĩnh vực hóa lý thuyết, hóa tính toán và hóa vô cơ sinh học, chủ yếu tập trung vào các nội dung: Tặng thưởng và các danh hiệu. Với những đóng góp to lớn của mình cho các nước châu Âu, châu Á, GS. Rode đã nhận được nhiều tặng thưởng và danh hiệu cao quý. Trong số đó phải kể đến: Một số giải thưởng và danh hiệu quan trọng: Theo dự án Phả hệ Hóa Lý thuyết (The Theoretical Chemistry Genealogy Project) , GS. Bernd Michael Rode là giáo sư hướng dẫn luận văn tiến sĩ thành công nhất trong lĩnh vực Hóa lý thuyết ở các nước nói tiếng Đức . Từ năm 1976 đến năm 2011, GS. Rode đã hướng dẫn thành công không dưới 62 nghiên cứu sinh. Do mối quan hệ mật thiết giữa ông với các trường đại học Đông Nam Á, rất nhiều nghiên cứu sinh do ông hướng dẫn là người châu Á. ASEA-UNINET. Một trong những thành công lớn nhất của GS. Bernd Michael Rode là sáng lập ra Mạng lưới các trường đại học ASEA-UNINET (Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á và Áo - sau này là Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á và châu Âu) vào năm 1994. Việc sáng lập Mạng lưới ban đầu dựa trên các liên hệ giữa trường đại học Innsbruck, Áo với các trường đại học của Thái Lan từ những năm 1970. Vào những năm 1980, mối quan hệ này được mở rộng sang các trường đại học Innsbruck, đại học Viên, đại học Nông nghiệp Viên, đại học Chulalongkorn, đại học Mahidol, đại học Kasersart và đại học Chiang Mai. Với mục đích thống nhất các hợp tác song phương thành một mạng lưới đa phương, năm 1994, GS. Bernd Michael Rode đã mời các trường đại học của Áo, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam tham dư Phiên họp toàn thể đầu tiên của Mạng lưới ASEA-UNINET tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Khi mới thành lập, Mạng lưới chỉ bao gồm 25 trường đại học thành viên của Áo, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Hiện nay (tháng 5 năm 2014) hơn 70 trường đại học từ 16 nước châu Âu và các nước Đông Nam Á đã tham gia vào mạng lưới, trong đó có 10 trường đại học hàng đầu của Việt Nam. Trong khuôn khổ các hoạt động của Mạng lưới, nhiều dự án hợp tác nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học Việt Nam với các trường đại học châu Âu, mà trước hết là từ cộng hòa Áo đã được triển khai có hiệu qả, nhiều cán bộ Việt Nam đã được cấp học bổng nghiên cứu sinh, học bổng trao đổi, nghiên cứu ngắn hạn tại các trường đại học Áo. Liên hợp quốc và các vai trò khác. Cùng với các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển hợp tác quốc tế, GS. Bernd Michael Rode còn là đại diện nước Cộng hòa Áo trong Ủy ban Phát triển Khoa học Công nghệ Liên hợp quốc (UNCSTD), ông giữ vị trí Phó chủ tịch Ủy ban các giai đoạn 1998-2001, 2005-2008 và Chủ tịch Ủy ban trong 2 năm từ 2003-2005. GS. Rode cũng từng là Chủ tịch Viện liên bang Áo về Chuyển giao Giáo dục, Đào tạo, Công nghệ Quốc tế (BIB) trong 2 năm 2003 và 2004.
1
null
Sa giông mào phương Bắc ("Triturus cristatus") là một loài sa giông của họ Salamandridae, được tìm thấy tại châu Âu và một phần châu Á. Phân bố. Phạm vi phân bố của sa giông mào phương Bắc kéo dài từ Vương quốc Anh và Brittany ở phía tây băng qua hầu hết phần bắc châu Âu của dãy Alps và Biển Đen. Nó là loài lớn nhất và ít gặp nhất trong ba loài sa giông được tìm thấy tại quần đảo Anh và là một trong bốn động vật lưỡng cư được bảo vệ bởi Kế hoạch hành động đa dạng sinh học Anh. Một số loài liên quan chặt chẽ đã được trước đây được coi là phân loài của sa giông mào phương Bắc: Sa giông mào Ý ("Triturus carnifex"), Sa giông mào Donau ("Triturus dobrogicus") và Sa giông mào phương Nam ("Triturus karelinii").
1
null
Dmitriy Petrovich Maksutov ("Дмитрий Петрович Максутов", 10 tháng 5 năm 1832 - 21 tháng 3 năm 1889) là một chuẩn đô đốc của hải quân Đế quốc Nga và là thống đốc cuối cùng của vùng lãnh thổ Nga thuộc châu Mỹ (nay là Alaska) trước khi vùng này bị bán cho Hoa Kỳ Dmitriy Dmitriyevich Maksutov (1896-1964), người phát minh ra loại kính viễn vọng mang tên mình và là công trình sư của nhiều kính thiên văn quan trọng của Liên Xô, chính là cháu nội của D. P. Maksutov. Tiểu sử. D. P. Maksutov sinh ngày 10 tháng 5 năm 1832 tại Perm trong một gia đình quý tộc. Năm 1840 ông theo học trường Thiếu sinh hải quân và đến hết năm 1847 tốt nghiệp hàm chuẩn úy hải quân. Năm 1851 ông phục vụ trong giang đoàn Amur số 46 tại Siberia và Viễn Đông với quân hàm đại úy hải quân. Từng đi công tác ở nhiều nơi tại Thái Bình Dương, Nhật Bản, Okhotsk và biển Hoa Đông. Năm 1853, chiến tranh Krym bùng nổ. Vào tháng 6 năm 1854 D. P. Maksutov cùng với anh trai mình là Aleksandr Petrovich Maksutov tham gia bảo vệ pháo đài Petropavlovsk chống lại cuộc tấn công của liên quân Anh-Pháp. Ông chỉ huy hẩu đội pháo số 2 - khẩu đội mạnh nhất của pháo đài, còn anh trai Aleksandr chỉ huy khẩu đội pháo số 5 trên chiến hạm "Rạng đông" - lực lượng đóng vai trò quan trọng trong trận đánh. Cả hai anh em đều chiến đấu dũng cảm và lập nhiều chiến công, nhưng người anh trai Aleksandr đã hy sinh trong quá trình tác chiến. Sau trận đánh, hai anh em Maksutov đều được phong thưởng huân chương Thánh Grigory hạng 4. Một người anh em khác của Dmitriy, Pavel Petrovich Maksutov, tham gia trong trận chiến tại Biển Đen, tại Sevastopol và cũng được phong thưởng vì thành tích chiến đấu xuất sắc. Năm 1859, D. P. Maksutov được bổ nhiệm làm đại biện trong Công ty Nga-Mỹ và làm việc tại vùng lãnh thổ châu Mỹ thuộc Nga (Русская Америка, nay là bang Alaska thuộc Hoa Kỳ). Đầu năm 1863, Maksutov được triệu hồi về kinh đô Sankt-Peterburg, sau đó đến tháng 12 cùng năm ông được bổ nhiệm làm thống đốc vùng Mỹ châu thuộc Nga. Trước khi khởi hành không lâu, Maksutov kết hôn với bà Maria Vladimirova, con gái của cựu thống đốc Đông Siberia là B. Aleksandrovich. Ngày 26 tháng 5, hai vợ chồng đến Novoarkhangel'sk (nay là Sitka). Không lâu sau đó, người Nga bán vùng lãnh thổ châu Mỹ của mình cho Hoa Kỳ. Tin tức của vụ sang nhượng này bay đến vùng Alaska vào tháng 5 năm 1867, gây ra nhiều quan ngại và lo lắng trong cộng đồng cư dân Nga tại đây, kể cả D. P. Maksutov - theo lời kể thì ông này đã nổi điên lên khi nghe tin châu Mỹ thuộc Nga sắp về tay Hoa Kỳ. Thật ra thì việc đứng đầu khu vực này mang lại nhiều nguồn lợi béo bở cho Maksutov cũng như cho giới chủ và quan chức địa phương, bắt nguồn từ việc bóc lột cùng kiệt người lao động làm thuê cho họ. Có đơn thư tố cáo Maksutov về tội tham ô và những chính sách của ông đã gây hại cho kinh tế và đời sống người dân trong vùng. Ngày 6 tháng 10 năm 1867, lãnh thổ của Nga tại châu Mỹ chính thức đổi chủ, và cũng chính thức đổi tên thành Alaska. Lá cờ của Nga bị hạ xuống và thay vào đó là lá cờ Mỹ. Maksutov tiếp tục ở lại vùng đất này thêm một năm với tư cách là Quyền Lãnh sự Nga tại Sitka, tham gia tổ chức các chuyến hồi hương cho người Nga tại đây và xử lý các sự vụ ngoại giao liên quan đến việc chuyển nhượng. Năm 1869, Maksutov bàn giao lại công việc cho Fyodor Koskul và trở về Nga vào ngày 10 tháng 4. Ông tiếp tục phục vụ trong hải quân đến khi giải ngũ vào ngày 17 tháng 5 năm 1882 với quân hàm chuẩn đô đốc. Maksutov qua đời tại Sankt-Peterburg vào năm 1889 và được an táng ở mghĩa trang Novodevichy. Tên của Maksutov được đặt cho một con đường ở Sitka và một ở Petropavlovsk-Kamchatskiy.
1
null
Putin khuylo! (tiếng Ukraina: Путін хуйло, tiếng Nga: Путин хуйло, nghĩa chữ là: "Putin là một thằng đầu cặc") là tên một bài hát sửa lời và khẩu hiệu tục tĩu ở Ukraina để bày tỏ quan điểm chính trị và lòng yêu nước, đã trở thành phổ biến sau các sự kiện năm 2014 tại Ukraina. Trước đây, bài này là một bài hát của người hâm mộ FC Metalist Kharkiv. Vì là từ tục tĩu nên trong các văn bản chữ Kirin người ta thường viết là "х*йло". Bài hát sửa lời này được các trang mạng của Ukraina dịch lời sang ngôn ngữ khác, và nói rằng nó "trở nên phổ biến không chỉ trong Ukraina, mà còn ở nước ngoài, trong đó có México, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Trong số những người nổi tiếng hát bài hát có dân biểu Quốc hội Ukraina Oleh Lyashko và cựu ngoại trưởng Ukraina Andriy Bohdanovych Deshchytsya. Nguyên văn câu nói của A. B. Deshchytsia thật ra là "Đúng rồi, Putin là một khuilo, nhưng mọi người làm ơn giải tán đi ạ!", phát biểu với mục đích trấn an những người biểu tình chống Nga. Không lâu sau đó, tổng thống Ukraina đã bãi chức Deshchytsia, theo truyền thông chính thức của Ukraina thì việc bãi chức này đã được lên kế hoạch từ trước khi sự kiện văng tục này.
1
null
"Me and My Broken Heart" là một bài hát của nhóm nhạc nam đến từ Anh - Rixton. Viết lời bởi Benny Blanco, Ammar Malik, Steve Mac, Wayne Hector, và Rob Thomas, "Me and My Broken Heart" được phát hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2014 như là một đĩa đơn chính trong album phòng thu đầu tiên sắp được phát hành của nhóm. Bối cảnh và ra mắt. Hai thành viên của nhóm là Jake Roche và Danny Wilkin đã viết nhạc trong một chiếc xe của bố mẹ Wilkin vào ba năm trước khi nhóm chính thức được thành lập. Sau khi được giới thiệu về Charley Bagnall thông qua những người bạn chung, ba người gặp Lewi Morgan để sau đó thành lập nên nhóm Rixton. Sau khi có được lượng lớn người ủng hộ trên YouTube nhờ hát lại những ca khúc nổi tiếng của Taylor Swift, Chris Brown và Rita Ora giữa những người khác, nhóm được ký hợp đồng với Interscope Records và 3 công ty con thuộc nhãn hiệu thu âm này bởi giám đốc tài năng Scooter Braun và nhạc sĩ/nhà sản xuất thu âm, Benny Blanco. Khi được hỏi về việc ký hợp đồng với nhãn hiệu thu âm và những kinh nghiệm trong đĩa đơn mở rộng đầu tiên, Rixton nói rằng, "Quả là khác hẳn khi từ viết nhạc trong xe của Danny đến nhìn mọi người nghe nhạc của mình. Chúng tôi đã làm việc rất chăm chỉ và đang thu âm cho EP. Những bài hát thật sự rất sôi động và chúng tôi nghĩ có một thứ gì đó dành cho mọi người đây!". Sau khi làm việc với Benny Blanco trong phòng ghi âm, "Me and My Broken Heart" đã được phát hành như một đĩa đơn chính trong album phòng thu đầu tay sắp được phát hành của nhóm vào ngày 14 tháng 3 năm 2014. Đĩa đơn mở rộng đầu tiên của nhóm, cũng có tựa là "Me and My Broken Heart" sau đó được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2014. "Me and My Broken Heart" được phát hành trên radio vào ngày 11 tháng 3 năm 2014 ra mắt lần đầu tiên trên "KIIS FM" tại Los Angeles trong một chương trình của JoJo Wright. Sản xuất. "Me and My Broken Heart" thêm vào một vài đoạn trong đĩa đơn năm 2005 của Rob Thomas, "Lonely No More". Thành viên của nhóm là Jake Roche nói trên một bài báo của "Billboard": "Chúng tôi là fan hâm mộ cuồng nhiệt của anh ta, vì vậy chúng tôi đã có rất nhiều cảm hứng từ anh và muốn tặng anh ấy một sự bất ngờ". Mặc dù Thomas đã khẳng định về việc sử dụng lại này nhưng "Me and My Broken Heart" vẫn bị chỉ trích vì sử dụng lại những yếu tố trong bài hát của Thomas. Video âm nhạc. Video âm nhạc đi kèm của ca khúc, có độ dài khoảng 3 phút 16 giây, đã được phát hành vào ngày 27 tháng 3 năm 2014 thông qua tài khoản Vevo của nhóm trên YouTube. Video âm nhạc được thực hiện bởi đạo diễn Cameron Duddy, người đã từng làm việc với Bruno Mars và OneRepublic. Video tập trung diễn tả các thành viên trong nhóm, những người mà "chịu thua những cô gái xinh đẹp nhưng lừa đảo". Biểu diễn trực tiếp. Vào tháng 4 năm 2014, nhóm đã biểu diễn ca khúc tại đêm live show thứ hai của chương trình "The Voice". Vào tháng 5 năm 2014, nhóm xuất hiện trên tivi lần đầu tiên khi tham gia một talk show, và trình diễn ca khúc trong chương trình "The Ellen DeGeneres Show".
1
null
Chironomidae là một họ ruồi phân bố trên toàn cầu. Chúng có quan hệ rất gần với Ceratopogonidae, Simuliidae, và Thaumaleidae. Nhiều loài rất giống muỗi, nhưng chúng thiếu vảy cánh và miệng kéo dài của họ Culicidae. Phân họ và chi. Họ này được chia thành 11 phân họ: Aphroteniinae, Buchonomyiinae, Chilenomyinae, Chironominae, Diamesinae, Orthocladiinae, Podonominae, Prodiamesinae, Tanypodinae, Telmatogetoninae, Usambaromyiinae.
1
null
là nhân vật chính trong manga và bộ anime Gintama của tác giả Sorachi Hideaki, thường được gọi tắt là Gin. Anh là ông chủ của "Vạn Sự Ốc Gin-chan" (hay "Tiệm Vạn Năng", "Dân làm đủ nghề") cùng với hai đàn em là Shimura Shinpachi và Kagura. Tên của anh liên quan đến một truyền thuyết Nhật Bản – Kintaro, một đứa trẻ có sức mạnh phi thường ở thời Heian, Kintaro là bạn của tất cả các sinh vật trên ngọn núi cậu sinh sống, và còn đánh thắng cả gấu. Sau một vài sự kiện, đã trở thành một Samurai và lấy tên Sakata Kintoki. Sorachi-sensei đã giải đáp câu hỏi này trong mục giao lưu với độc giả và cũng nói thêm là không có ý định cho Gintoki thành hậu duệ của Kintaro. Đôi khi Gintoki cũng bị gọi là Kintoki, Sakamoto Tatsuma bao giờ cũng gọi nhầm tên Gintoki. Quá khứ. Quá khứ của Gin khá đau buồn và vẫn còn là một điều khá bí ẩn. Anh được Shouyo-sensei tìm thấy trên chiến trường lúc chừng mười tuổi, khi Gin đang ôm một thanh kiếm đẫm máu giữa bãi chiến trường đầy xác chết. Shouyou bảo: "Ta tới đây vì nghe đồn có một con quái vật ăn xác chết… nhưng không ngờ nó lại dễ thương như vậy!". Sau đó thì Gin được ông mang về nuôi nấng, dạy dỗ cùng với Katsura Kotarou, Takasugi Shinsuke, tất cả đều là học trò của ông. Nhưng cha mẹ anh là ai, anh sinh ra ở đâu và thế nào vẫn chưa được tiết lộ. Gintoki là một thiên tài về kiếm thuật, anh có cả tốc độ lẫn sức mạnh, có óc quan sát và rất nhạy bén khi chiến đấu. Cậu bé Gin đã dùng bản năng của mình để sinh tồn bằng kiếm từ khi bản thân còn chưa cao hơn nó. Gin là người mạnh nhất đạo trường của thầy Shouyo trước khi bị Takasugi đánh bại lần đầu tiên. Vào thời khắc Amanto tràn ngập nước Nhật, anh đã tham gia kháng chiến chống Amanto, cùng với Katsura Kotarou, Takasugi Shinsuke và Sakamoto Tatsuma, được biết đến như huyền thoại Shiroyasha (Bạch Dạ Xoa), là nỗi khiếp sợ với các Amanto, theo lời của Katsura mô tả "Người thanh niên với mái tóc bạc nhuốm máu trên chiến trường như hiện thân của quỷ thần. Cái tên ấy khét tiếng trong thế giới của bọn Amanto, đã gieo rắc nỗi khiếp sợ không chỉ với kẻ thù mà còn cả chiến hữu." (Chap 6/ Ep 6). Nhưng sau cuộc chiến, Gin biến mất khỏi chiến trường và gặp được bà Otose khi bà đang thăm mộ chồng, còn Gin là một kẻ lang thang. Gin xin bà bánh bao mà bà cúng chồng để ăn và để trả ơn, Gin hứa với Otose-san cùng người chồng quá cố của bà là sẽ bảo vệ bà cho tới lúc bà nhắm mắt xuôi tay. Sau đó, anh được bà cho thuê tầng 2 của căn nhà và lập ra "Vạn Sự Ốc Gin-chan" (万事屋銀ちゃん/"Yorozuya Gin-chan", còn gọi là "Tiệm Vạn Năng" hay "Dân làm đủ nghề Gin-chan"). Đặc điểm. Nhận dạng. Gin sinh ngày 10/10. Anh cao 177 cm, nặng 65 kg, có thể dễ dàng nhận ra anh với mái tóc quăn màu bạc bẩm sinh cùng với đôi mắt lừ đừ đến mức hiếm khi nhìn rõ màu mắt đỏ sậm mà các nhân vật trong truyện gọi là "cặp mắt cá chết". Ngay cả khi cau có hay lúc cười nham nhở lẫn khi nghiêm túc, mọi trạng thái khuôn mặt anh ta đều vô cùng hài hước với đôi mắt 1 kiểu trước sau như một. Trái ngược hình ảnh đạo mạo, lạnh lùng, đầy khí chất của một samurai chân chính, đôi mắt này của Gintoki hoàn toàn phù hợp với 1 kẻ “tâm hồn trẻ thơ trong thể xác đàn ông”. Anh luôn mặc bộ đồ đen viền đỏ, khoác ngoài kimono trắng có hoa văn uốn lượn màu xanh, hay buông thõng tay áo bên vai phải, bên hông đeo một thanh kiếm gỗ có ghi chữ "Hồ Touya", phương tiện đi lại của anh là chiếc Vespa xám có chữ Gin (銀 - "ngân") ở hai bên hông. Tính cách. Mặc dù là một thiên tài về kiếm thuật và đầu óc nhạy bén khi chiến đấu, nhưng trong cuộc sống bình thường, Gintoki lại không hề được xây dựng là một nhân vật chính hoàn hảo mà ngược lại vô cùng "lầy lội". Từ vẻ bên ngoài, Gintoki đã gây sốc khi là một con người lười nhác, sợ ma, thiếu trách nhiệm, bẩn bựa và khá vô dụng. Anh quái đản và kì quặc, thích đọc Jump, cuồng đồ ngọt, đặc biệt là sở thích rắc rất nhiều đậu đỏ lên đồ ăn. Tự gọi mình là "đứa trẻ trong thân xác một người đàn ông", anh ăn không ngồi rồi, gây rắc rối khắp nơi và luôn chọc ngoáy người khác và còn hay ăn quỵt tiền. Gintoki còn bị gọi là "đại vương quấy rối tình dục" vì những lần say quên trời quên đất và có những hành động quá trớn với các nhân vật nữ và khi tỉnh thì anh không còn nhớ gì. Ngày thường thu nhập của anh không cao, hay nợ tiền công nhân viên, thậm chí sửa xe còn không trả tiền. Gin từng tham gia cuộc kháng chiến chống lại Amanto và được biết đến với cái tên “Bạch dạ xoa“, là nỗi khiếp sợ với các Amanto nhưng giờ chỉ là một gã lông bông vô công rồi nghề mắc bênh đường huyết. Trong các tình huống bình thường anh sẵn sang đổ hết mọi tội lỗi cho đồng đội để tránh rắc rối hay dùng họ làm mồi nhử để thoát thân như một kẻ hèn nhát. Đã gần 30 nhưng chưa có ý định lấy vợ, thần tượng cô gái dự báo thời tiết buổi sáng trên TV, luôn luôn đổ lỗi cho đường tình duyên vì mái tóc xoăn trời sinh mặc dù xung quanh anh toàn các cô gái “xinh xắn” yêu quí mình. Tóm lại, đây là một con người đầy khuyết điểm và “bất tài vô dụng“. Gin có tính cách rất trẻ con và còn tự nhận mình là “tâm hồn trẻ thơ trong thể xác đàn ông”. Anh là người con người đơn giản, ngờ nghệch và hài hước. Anh rất thích đồ ngọt, bị cuồng sữa dâu và cơm đậu đỏ, đến nỗi bị cảnh báo là có nguy cơ bị tiểu đường. Gin cũng hay nhậu nhẹt, thường đi tới sáng mới về. Ngoài ra anh còn rất thích đọc Jump, là một fan hâm mộ của " chị gái thời tiết" Ketsuno Ana - cưới được chị và một mái tóc thẳng mượt chính là ước mơ của Gin-san. Là một kẻ sợ ma số một, dị ứng với mọi thứ chuyện ma quái hay phim kinh dị, sợ cả nha sĩ và lúc nào cũng đổ lỗi "đường tình kém duyên" cho cái đầu quăn của mình. Làm nhân vật chính của Gintama, cựu chiến sĩ nhương di Gintoki cũng là tượng đài huyền thoại cho các nhân vật nam bị bệnh lười của giới manga, anime. Anh lúc nào cũng ngủ nướng, uể oải, hay móc mũi búng người và trưng đôi mắt cá chết của mình ra mỗi khi có việc. Thậm chí trang phục cũng lười may, chỉ có hai ba bộ sao y bản chính từ một mẫu. Nếu như không phải vì nghèo sắp chết đói và thường xuyên bị bà chủ nhà siết cổ đòi nợ, chắc Gintoki sẽ chẳng thèm bước ra ngoài mà đi làm việc. Dù vậy, tuy anh lười nhưng anh ở một đẳng cấp khác rồi. Mọi người hãy biết ơn vì anh lười, chứ một quái vật như Gintoki mà chăm chỉ cà khịa, gây sự, thì trăm phần trăm manga gốc sẽ chuyển từ thể loại hài sang kinh dị máu me mất! Bình thường Gin vô cùng lười biếng nhưng khi đã làm việc rồi thì sẽ làm tới nơi tới chốn. Tuy tính cách có hơi "bựa", thích phá hoại, bày trò, chơi bẩn, chọc ngoáy người khác, nhưng lúc cần Gin luôn chứng tỏ mình là một người có trách nhiệm và đáng tin cậy. Từ khi rời khỏi cuộc chiến chống Amanto, Gin trở nên lười biếng, thong dong tận hưởng cuộc sống, tự nhận mình là một công dân gương mẫu của Edo. Nhưng có lẽ quá khứ vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới con người và hành động của Gin, trong chap 63/ Ep 42 (arc Umibozu), Gin thừa nhận rất muốn có một người cha, một gia đình biết quan tâm đến con cái như Umibozu, anh cũng rất kính trọng người thầy quá cố cùng những ký ức về thầy Yoshida Shouyou. Anh có một tinh thần võ sĩ đạo, một nguyên tắc sống, một linh hồn không thể bị bẻ gãy: Chiến đấu để bảo vệ linh hồn của mình" Anh tham gia chiến tranh không phải vì đất nước mà là vì nghe theo linh hồn mình mách bảo phải bảo vệ bạn bè, bảo vệ những học trò của Yoshida Shoyo. Sugita Tomokazu là một diễn viên lồng tiếng tài năng và biết cách ồn ào hấp dẫn, và anh ta đã “giải phóng” hết những gì có thể thông qua Sakata Gintoki, nhân vật chính siêu troll của “Gintama”. Series này sẽ chẳng bao giờ có thể hay đến thế nếu thiếu những pha rít lên của nhân vật này. Các mối quan hệ. Vạn Sự Ốc Gin-chan và quán rượu Otose. Shimura Shinpachi: Là một chàng thanh niên 16 tuổi đóng vai nghiêm túc đang học cách trở thành 1 samurai chân chính. Bị cả bộ truyện gọi là giá để kính và luôn bị các nhân vật khác trêu chọc về điều này. Ở cùng với Yorozuya, Shinpachi luôn là người phải nhắc nhở, dọn dẹp và phục vụ Gin và Kagura - hai kẻ lười biếng và có tật chuyên đi phá hoại. Cậu và người chị gái tên Shimura Tae sống tại một võ đường của gia đình và mong muốn khôi phục nó. Xuyên suốt bộ phim, Gin giống như là tia sáng màu bạc hướng dẫn Shinpachi tìm kiếm "thanh kiếm trong lòng". Shinpachi là fan hâm mộ cuồng nhiệt của Otsuu-chan (một cô ca sĩ trong truyện, tên thật là Terakado Tsuu). Kagura: Cô là người ngoài hành tinh thuộc tộc Yato nên rất nhạy cảm với ánh nắng mặt trời và luôn mang theo ô bên mình, là một cô bé xinh xắn với đôi mắt màu xanh dương và mái tóc màu cam luôn được búi hai bên bằng hai cái chụp tóc hình tròn. Cô bé mang trong mình sức khỏe và tốc độ phi thường, bản năng chiến đấu mạnh mẽ, năng lực phục hồi vô cùng nhanh của tộc Yato - dân tộc thiện chiến nhất vũ trụ, cùng với một cái dạ dày không đáy. Cô bé làm việc ở Vạn Sự Ốc để kiếm đủ tiền về nhà nhưng cửa hàng lại quá ế, đồng thời Gin cũng không bao giờ trả lương cho cô nên mong muốn đó trở nên xa vời, dần dần cô gắn bó với nơi này, coi nó như nhà của mình. Cô cùng với Shimura Shinpachi và Gin-san tạo nên Vạn Sự Ốc Gin-chan. Kagura nghe theo mọi lời mà Gin dạy, tính cách cũng phần nào bị ảnh hưởng bởi Gin, giống em gái nuôi của anh. Sadaharu: Sadaharu là một con chó khổng lồ màu trắng bị bỏ rơi và được Kagura nhận nuôi. Tên của nó do Kagura đặt theo tên con thú nuôi đầu tiên của cô. Rất thích gặm đầu Gin và cả Sakamoto. Otose (Terada Ayano): Otose là tên của mọi người khu phố thường hay gọi bà, tên thật của bà là Ayano. Bà gặp gỡ Gin ở bên cạnh mộ chồng mình lúc anh còn là kẻ lang thang, Gintoki đã hỏi xin đồ cúng Otose mang ra mộ chồng và đổi lại bằng lời hứa sẽ bảo vệ bà cho tới lúc bà mất. Cho Gin thuê nhà ở tầng 2 quán rượu, mặc dù tối ngày đòi tiền trọ dù biết Gintoki không có khả năng chi trả nhưng bà cũng không bao giờ đuổi Gin ra khỏi nhà. Catherine: Catherine là một Amanto ngoại hình giống một con mèo. Lúc đầu, ả có vẻ là một người làm thuê cần cù siêng năng ở quán rượu của Otose để giúp đỡ gia đình mình, nhưng Catherine nhanh chóng bị phát hiện là một tên trộm. Mặc dù vậy, Otose vẫn tiếp tục thuê Catherine làm việc sau khi cô được thả khỏi tù, và Catherine từ đó vô cùng trung thành với Otose. Tuy nhiên bản tánh của ả đanh đá cá cầy chẳng bao giờ đổi. Tama: Tama là một robot có cảm xúc được tìm thấy bởi Gin vào một lần đổ rác không đúng ngày. Cô được Otose nhận vào làm việc ở quán và được bà quan tâm không kém gì Gin với Catherine. Tama là một robot ngây thơ và ngọt ngào, cô có những cảm xúc không khác gì con người nhưng ít khi thể hiện nó. Nhóm Joy4. Katsura Kotarou: Là đồng môn cũ của Gintoki và cũng là học trò của thầy Shouyo, lớn lên cùng Gin và Takasugi. Anh có mái tóc dài như con gái, gương mặt thanh tú, phong thái điềm tĩnh nho nhã nhưng lại có một bộ óc khá bất thường. Có lúc Katsura là một thủ lĩnh tài ba, một "Cuồng loạn quý công tử" nhưng nhiều lúc anh chỉ là một tên ngớ ngẩn với nhiều trò không đỡ nổi. Khi Amanto đã chiếm được Nhật Bản, khác với Gin hay Takasugi, Katsura vẫn tiếp tục chống lại Amanto, duy trì nhóm "Nhương di chí sĩ", bị truy nã vì tham gia vào các hoạt động khủng bố chống lại Mạc Phủ, và trở thành một trong những mục tiêu truy đuổi hàng đầu của Shinsengumi. Dù tên là Katsura nhưng anh luôn bị gọi bằng biệt danh "Zura", dẫn đến câu cửa miệng "Zura janai, Katsura da!" (Không phải Zura, là Katsura!). Anh thường đi cùng sinh vật ngoài hành tinh bí hiểm nhất bộ truyện Gintama là Elizabeth. Zura tham gia vào không ít trò bựa với Gin và cũng lôi Vạn Sự Ốc vào vô số chuyện dở khóc dở cười vì tính não phẳng của mình. Anh tỏ ra là người hiểu rõ về Gin hơn nhiều người khác. Takasugi Shinsuke: Cũng là một đồng môn cũ của Gin. Đứng đầu Kiheitai (Binh đoàn quỷ) với 3 thành viên chính là Kawakami Bansai (河上 万斉), Kijima Matako (来島 また子), Takechi Henpeita (武市 变平太). Sau chiến tranh, Takasugi là người đi theo con đường cực đoan nhất trong số đồng môn của Gin. Dường như anh không còn mục tiêu sống nào khác, "đơn giản chỉ là muốn hủy diệt thế giới đã mục nát này" - thế giới đã cướp đi người thầy yêu quý và quan trọng nhất của anh, và cũng là thế giới mà Utsuro, một phiên bản khác của Shouyo-sensei, cũng là người thực sự giết thầy ấy, tạo ra. Takasugi và Gintoki lúc nào cũng đấu đá nhau, hễ gặp nhau là cãi cọ hoặc đấu một trận, chỉ khác là trước khi thầy Shouyo mất thì đó là những trận đấu giữa hai người bạn, còn sau này là những cuộc chiến không khoan nhượng giữa hai kẻ không còn chung lý tưởng. Sakamoto Tatsuma: Thành viên thứ tư của nhóm Joy4, đầu quắn giống Gin. Tuy không cùng lớn lên và học chung với ba người còn lại nhưng Tatsuma vẫn có mối liên kết sâu sắc với Gin, Katsura và Takasugi. Là một người tốt bụng, lạc quan ngay cả trong tình huống nguy hiểm nhất, lúc nào cũng có thể cười ha hả. Mặc dù có vẻ hơi ngớ ngẩn và mắc chứng say tàu xe nặng, nhưng Sakamoto lại là một thương gia cực kỳ thành công trong vũ trụ, thủ lĩnh của Kaientai. Anh tin rằng thương mại chính là cách tốt nhất để bảo vệ đất nước mình.
1
null
Thuyết "Ba đại diện" hoặc tư tưởng quan trọng "Ba đại diện" (chữ Hán: "三个代表" 重要思想, Hán-Việt: "Tam cá đại biểu" trọng yếu tư tưởng) là học thuyết do Giang Trạch Dân đưa ra. Học thuyết được giới thiệu vào Đại hội thứ 16 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (11/2002). Về mặt lý luận, thuyết Ba Đại diện một mặt là sự nối tiếp đường lối mở cửa của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình nhưng mặt khác cũng đánh dấu việc đảng Cộng sản Trung Quốc bỏ lại đằng sau thuyết đấu tranh giai cấp để nêu cao chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa. Hoàn cảnh ra đời. Tư duy "Ba Đại Diện" của Giang Tạc Mân xuất phát từ tác phẩm gốc của Karl Marx "Tư bản luận" tập 3, ban đầu được viết bằng tiếng Anh. Sự giải thích sau này về tư duy "Ba Đại Diện" của Giang Tạc Mân, ban đầu được phát hiện bởi sinh viên tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Pittsburgh Từ Điên Khánh năm 1984, ông tìm thấy sự không nhất quán giữa văn bản gốc tiếng Anh và bản dịch tiếng Trung của Lenin trong cuốn "Tư bản luận". Từ Điên Khánh sau này trở thành giáo sư Kinh tế tại Đại học Tây Ontario. Từ Điên Khánh là bạn học thuộc về Vương Hộ Ninh, và năm 1995, ông thảo luận về lý thuyết này với Vương Hộ Ninh, lúc đó Vương Hộ Ninh thành viên của Văn phòng Nghiên cứu Chính sách Trung ương, ông sau này đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ý niệm này trong các văn kiện nội bộ của đảng. Ngày 25/12/2000 ông phát biểu về đề tài này trước cán bộ cấp xã và huyện ở tỉnh Quảng Đông, chính thức là để tổng kết phong trào Nói chuyện về Học tập, Chính trị và Tính Chính đáng, một phong trào đẩy mạnh tự phê do ông Tăng Khánh Hồng, một người thân cận của ông Giang, tung ra năm 1999. Nhưng thuyết Ba Đại diện đã vượt xa mức độ của một bài phát biểu chưa tới một giờ đồng hồ và phần nào trở thành nền tảng cho hệ thống lý luận thời kỳ Giang Trạch Dân. Học thuyết được ra đời sau khi Giang Trạch Dân nắm quyền hơn 10 năm. Nội dung học thuyết. Học thuyết có nội dung:Đảng cộng sản Trung Quốc đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Năm 2002, Đại hội 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa thuyết Ba đại diện vào Điều lệ Đảng. Năm 2004 Quốc hội Trung Quốc cụ thể hóa Thuyết Ba đại diện thành những điều cơ bản của Hiến pháp sửa đổi đặt nền móng cho giải pháp chính trị của nước Trung Hoa tiến tới dân chủ, tự do. Theo Giang Trạch Dân, sau hơn 20 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân cao nhất thế giới, nhưng Đảng Cộng sản đang đứng trước thử thách mới: Đối nội có nhiều vấn đề nãy sinh mà nổi cộm nhất là nạn tham nhũng đã trở thành "quốc họa". Đối ngoại, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc phải tuân theo các quy tắc cạnh tranh quốc tế, các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa đều bị tác động. Do đó Đảng Cộng sản Trung Quốc cần có một lý luận mới để duy trì địa vị Đảng cầm quyền của dân tộc phù hợp với bối cảnh thế giới hiện đại. Ý nghĩa học thuyết. Trung Quốc vẫn còn nằm trong số nước đang phát triển, công nhân công nghiệp vẫn chiếm số đông. Tuy nhiên, thế giới đã bước vào thời kỳ hậu công nghiệp, lao động "cổ xanh" (giai cấp công nhân thời tư bản sơ khai mà Marx đã quan sát) chỉ còn từ 5 đến 10 % không còn là lực lượng sản xuất tiên tiến nữa mà phải nhường vai trò này cho những người lao động có trình độ kỹ thuật cao. Nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức với những "lao động bác học ". Thuyết Ba đại diện cung cấp lý luận bỏ qua quan điểm cũ "Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mạng lịch sử đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, thiết lập nền chuyên chính vô sản". Đây là bước phát triển lý luận, giải quyết nhận thức mới về Đảng cầm quyền của nước Trung Hoa hiện đại hóa: Trí thức và doanh nhân có vai trò là lực lượng sản xuất tiên tiến, kinh tế tư nhân đóng vai chủ đạo và nền kinh tế được chi phối bởi cơ chế thị trường. Đảng Cộng sản Trung Quốc phải là Đảng đại diện lực lượng sản xuất tiên tiến. Trước thời kỳ cải cách mở cửa, "nền văn hóa mới" do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo theo tư tưởng Mao Trạch Đông (Bàn về chủ nghĩa dân chủ mới viết năm 1943), thể hiện đầy đủ nhất trong cuộc Đại cách mạng văn hóa vô sản. Đó là nền văn hóa lấy chính trị làm thống soái, hoàn toàn phụ thuộc vào chính trị, loại bỏ văn hóa truyền thống và triệt để ngăn chặn ảnh hưởng của các nền văn hóa hiện đại có giá trị nhân văn và dân chủ của nhân loại tiến bộ. Cách mạng văn hóa vô sản lấy đấu tranh giai cấp liên tục làm lý tưởng sống, nội dung tạo dựng xã hội và sáng tạo văn học nghệ thuật. Kết quả là một xã hội đại loạn, một nền văn học minh họa thô thiển. Nay Quốc hội Trung Quốc thông qua sửa đổi Hiến pháp có 3 điểm lớn là: Bảo vệ quyền sở hữu tư nhân; Tôn trọng và bảo vệ nhân quyền; và cụ thể hóa lý thuyết Ba đại diện của Đảng cộng sản, trong đó có đại diện nền văn hóa tiên tiến. Trả lời phỏng vấn của The Sciense Monitor tháng 4 năm 2004, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch, Tổng giám đốc Invest Consult Group đã có lý khi cho rằng, Giang Trạch Dân "dùng thuật ngữ nền văn hóa tiên tiến để tránh đụng chạm trực tiếp đến chính trị". Và "Đảng cộng sản Trung Quốc thể hiện sự tiên tiến về chính trị do đó mới có hệ quả là thừa nhận quyền con người và hệ quả thứ hai là thừa nhận quyền sở hữu tư nhân các tài sản". Đúng vậy, nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa giải phóng cá nhân, đầy ý thức công dân, tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại, tất nhiên phải tương ứng với một thể chế chính trị tiên tiến, thực sự tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Đảng cộng sản Trung Quốc "đại diện cho lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc" tức là bỏ qua khái niệm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mao và hướng tới chủ nghĩa dân tộc và quốc gia Trung Quốc. Mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội Trung Quốc từ nay có thể yên tâm rằng Đảng cộng sản là trung tâm đoàn kết, là chỗ dựa về vật chất và tinh thần của họ. Thuyết Ba đại diện là một tổng thể có giá trị kim chỉ nam hành động của Đảng cộng sản Trung Quốc, ung cấp phương pháp luận cho công tác xây dựng Đảng, đáp ứng yêu cầu một Đảng lãnh đạo dân tộc ở thời kỳ hiện đại hóa đất nước, trong thế giới hậu công nghiệp. Trong cuộc trả lời phỏng vấn hãng AFP,Phó Chủ tịch Hồ Cẩm Đào (2002) nói về quan điểm của Chủ tịch Giang về cải cách kinh tế, trong đó có việc kết nạp giới doanh nhân vào Đảng, đã "tổng kết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng, chung đúc trí tuệ của Đảng, tuân thủ những nguyên tắc của chủ nghĩa Marx và phản ánh tình hình mới ở Trung Quốc cũng như trên thế giới," Ngày 10-10-2009, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 11, đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nói rằng: "Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng, ý nghĩa sống còn với Đảng và chế độ". Tham khảo thuyết Ba đại diện của Đảng cộng sản Trung Quốc có lẽ sẽ gợi cho chúng ta nhiều điều để hoạch định "bản thiết kế" xây dựng Đảng thích hợp cho dân tộc ta trong nhiệm kỳ Đại hội 11 này? Áp dụng thực tiễn. Năm 2004,Hiến pháp Trung Quốc sửa đổi đã thêm "tư duy Ba Đại Diện" vào cụm từ "con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với tính đặc sắc Trung Quốc và dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa Marx-Lenin, Tư tưởng Mao Trạch Đông và Lý luận Đặng Tiểu Bình" Đây là dấu hiệu của giai đoạn ông Giang Trạch Dân cầm quyền nêu ra thuyết Ba Đại diện nhằm mở rộng diễn đàn chính trị cho giới doanh gia tham chính. Từ đó đến nay, Trung Quốc đã có nhiều triệu phú ngồi trong Quốc hội và kinh tế của họ đang vươn lên hàng đầu thế giới.
1
null
Quan điểm phát triển khoa học (科学发展观, phiên âm Hán Việt: Khoa học phát triển quan) là một học thuyết của Hồ Cẩm Đào, nối tiếp học Thuyết Ba Đại Diện của Giang Trạch Dân. Học thuyết được đưa ra vào Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc (11/2012). Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng "3 đại diện", trở thành tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hoàn cảnh ra đời. Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc (11/2012), Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã trình bay bản báo cáo chính trị nhan đề "Kiên quyết tiến theo con đường Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, phấn đấu hoàn thành xây dựng toàn diện xã hội khá giả", trong đó khẳng định: "Hệ thống lý luận xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc là hệ thống lý luận khoa học, bao gồm Lý luận Đặng Tiểu Bình, Tư tưởng quan trọng "Ba đại diện", quan điểm phát triển khoa học là sự kiên trì và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lê và Tư tưởng Mao Trạch Đông".
1
null
Kính thiên văn cực lớn châu Âu - European Extremely Large Telescope (E-ELT) là một kính thiên văn mặt đất quan sát trong miền quang học và hồng ngoại gần có kích thước rất lớn, được Tổ chức Nghiên cứu vũ trụ châu Âu tại bán cầu Nam (ESO) nghiên cứu phát triển và xây dựng trên đỉnh núi Cerro Armazones trong sa mạc Atacama ở miền bắc Chile. Thiết kế của kính bao gồm một gương chính ghép từ nhiều mảnh nhỏ tạo thành gương có đường kính 39,3 mét, gương thứ cấp có đường kính 4,2 mét, và kính sẽ được hỗ trợ bởi hệ thống quang học thích ứng và nhiều thiết bị thu tín hiệu điện từ. Ngày 11 tháng 6 năm 2012, Ủy ban ESO đã phê chuẩn chương trình E-ELT để bắt đầu xây dựng kính thiên văn, và chỉ còn chờ sự phê chuẩn dự án ở một vài chính phủ các nước thành viên. Đa số các chính phủ đã ủng hộ cho dự án, và quyết định bật đèn xanh cho xây dựng E-ELT sẽ chủ yếu phụ thuộc vào chính phủ Brazil sẽ phê chuẩn kiến nghị gia nhập vào ESO. Với kính thiên văn này, các nhà thiên văn có thể quan sát được những giai đoạn sớm nhất trong sự hình thành các hệ hành tinh và xác định được các phân tử nước và hữu cơ tồn tại trong đĩa tiền hành tinh quay xung quanh các ngôi sao trẻ.
1
null
Konstantinos VI (, "Kōnstantinos VI"; 14 tháng 1, 771 – trước 805) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 780 đến 797. Nhiếp chính. Konstantinos VI là con trai duy nhất của Hoàng đế Leon IV và Irene thành Athena. Konstantinos được phụ hoàng phong làm đồng hoàng đế vào năm 776, rồi sau nối ngôi hoàng đế duy nhất vào năm 780 khi mới chín tuổi. Do tuổi còn quá nhỏ để mà trị quốc, Irene và Tổng quản Đại thần Staurakios đã thay mặt Konstantinos làm nhiếp chính. Năm 782, Konstantinos được hoàng thất đính hôn với Rotrude, con gái của vua Charlemagne xứ Frank với người vợ thứ ba của ông Hildegard. Chính Irene đã chấm dứt việc đính ước vào năm 788. Năm 787, Konstantinos đã ký sắc lệnh của Công đồng Nicaea thứ hai, nhưng ông dường như lại có thiện cảm với sự bài trừ thánh tượng. Rồi sau đó Konstantinos cũng bước sang tuổi 16, nhưng mẫu hậu lại không chịu từ bỏ quyền hành của mình. Sau khi đàn áp một âm mưu chống lại mình vào mùa xuân năm 790, Irene cố gắng để có được sự công nhận chính thức là hoàng hậu. Điều này phản tác dụng và với sự hỗ trợ quân sự Konstantinos cuối cùng cũng nắm được thực quyền trong tay vào năm 790, sau khi người Armenia nổi dậy chống lại Irene. Tuy nhiên, bà được phép giữ danh hiệu Hoàng hậu mà mãi đến năm 792 mới được công nhận. Triều đại. Một khi nắm quyền kiểm soát đất nước, Konstantinos đã chứng minh sự bất tài của một nhà cai trị tráng kiện. Quân đội của ông đã bị người Ả Rập đánh cho thảm bại và bản thân phải hứng chịu một thất bại nhục nhã dưới tay vua Kardam của Bulgaria trong trận Marcellae năm 792. Một động thái phát triển có lợi cho vị hoàng thúc là "Caesar" Nikephoros. Konstantinos bèn múc mắt thúc phụ và cắt lưỡi của bốn anh em họ khác để trừ hậu họa. Phe cánh người Armenia từng ủng hộ ông trước đây giờ dấy loạn sau khi hay tin hoàng đế chọc mù mắt tướng Alexios Mosele của họ. Konstantinos đưa binh trấn áp cuộc nổi dậy này với sự tàn ác cực đoan vào năm 793. Sau đó hoàng đế tiến hành ly dị Maria xứ Amnia vì không sinh con nối dõi cho ông và kết hôn với tình nhân Theodote, một hành động không được lòng dân và giáo luật bất hợp pháp đã gây ra cái gọi là "Tranh cãi Moechia". Mặc dù Thượng phụ Tarasios không công khai chống đối, ông cũng từ chối làm lễ kết hôn. Sự phản đối của dân chúng được bày tỏ bởi người chú của Theodote là Plato xứ Sakkoudion, thậm chí còn cắt đứt mối giao thiệp với Tarasios vì lập trường thụ động của mình. Do tính không khoan nhượng của Plato đã khiến ông bị tống giam, trong khi những người ủng hộ trong tu viện của ông đã bị đàn áp và đày đến Thessalonica. Sự "Tranh cãi Moechia" đã làm mất đi chút uy tín còn lại của hoàng đế đặc biệt là giới chức sắc, mà Irene lên tiếng bênh vực nhằm chống lại con mình. Ngày 19 tháng 4 năm 797, Konstantinos bị phe tạo phản ủng hộ mẫu hậu bắt giữ, chọc mù mắt rồi đem tống vào ngục nhằm ý định đưa Irene đăng quang như vị Hoàng hậu đầu tiên tại vị của Constantinopolis. Riêng Konstantinos chết vào lúc nào thì chưa biết chính xác; nhưng chắc chắn là phải trước năm 805, nhưng ông rất có khả năng đã chết vì những vết thương của mình ngay sau khi bị chọc mù mắt. Hoàng đế được chôn cất tại tu viện Thánh Euphrosyne mà Irene đã lập nên. Vào đầu những năm 820, Thomas người Slav đã mạo danh Konstantinos VI trong một nỗ lực tranh giành sự ủng hộ nhằm chống lại Mikhael II. Gia đình. Với người vợ đầu Maria xứ Amnia, Konstantinos VI có hai người con gái: Với tình nhân của ông và sau đó là người vợ thứ hai Theodote, Konstantinos VI có hai người con trai, cả hai đều chết trẻ:
1
null
God game (còn gọi là trò chơi mô phỏng thần thánh) là một dạng game đời sống nhân tạo thường để người chơi ở vị trí kiểm soát game trên một quy mô lớn, trong vai trò là một thực thể với sức mạnh thần thánh/siêu nhiên, hay một nhà lãnh đạo tuyệt vời, hoặc không có nhân vật cụ thể (như trong "Spore"), và đặt chúng phụ trách thiết lập trò chơi chứa các nhân vật tự trị để bảo vệ và ảnh hưởng. Điều này không phải là để bị nhầm lẫn với god mode, một trạng thái thường thấy trong nhiều trò chơi (thường là cấp cho người chơi thông qua việc sử dụng một kiểu gian lận hoặc được ban ơn như mở khóa phần thưởng trong game) trong đó nhân vật người chơi được ban cho tính vô địch, bất khả chiến bại hay cả hai. Định nghĩa. God game là một nhánh của thể loại game đời sống nhân tạo, nơi mà người chơi sử dụng sức mạnh siêu nhiên để ảnh hưởng gián tiếp đến một nhóm cư dân thờ phụng vị thần được mô phỏng. Thể loại tách biệt với dòng game chiến lược, bởi vì người chơi không thể bảo đơn vị cụ thể phải làm gì, mặc dù god game vẫn có thể liên quan đến sự cạnh tranh giữa những người chơi đối thủ. Thể loại cũng tách biệt dạng mô phỏng xây dựng và quản lý, bởi vì lối chơi xoay quanh phát triển và sử dụng sức mạnh siêu nhiên của mình để ảnh hưởng gián tiếp đến các tín đồ của họ. Thiết kế. God game cho phép người chơi vào vai của một vị thần với quyền năng hạn chế, tương tự như các vị thần từ thần thoại Hy Lạp cổ đại. Sức mạnh của người chơi đến từ các tín đồ mô phỏng, những người thường đơn giản hay thuộc bộ lạc trong tự nhiên. Nó khá phổ biến cho hầu hết mọi người trong god game trông y như nhau. Những god game ban đầu chỉ xuất hiện những mô hình nam nữ trưởng thành, trong khi "Black and White" còn có cả trẻ con. Người chơi phải tiết kiệm lượng quyền năng hoặc mana, có nguồn gốc từ kích cỡ và sự thịnh vượng của dân số các tín đồ. Người chơi tiêu thụ nguồn năng lượng này bằng cách sử dụng quyền hạn thần thánh để giúp tín đồ của họ, chẳng hạn như ban phước cho vụ mùa của họ hoặc làm phẳng dãy đồi để làm đất ruộng tốt hơn. Điều này dẫn đến một vòng phản hồi tích cực, tạo thêm nhiều quyền lực hơn cho phép người chơi làm cư dân sinh sôi nảy nở giúp họ đạt được nhiều quyền năng hơn. Tuy nhiên, những năng lực mạnh mẽ hơn thường đòi hỏi nhiều năng lượng hơn, thường dưới dạng thiên tai có thể gây thiệt hại cư dân của đối phương hơn là cải thiện cuộc sống cho các tín đồ của người chơi. Trò chơi thường sử dụng một góc nhìn từ trên xuống dưới, tương tự như một game chiến lược thời gian thực. God game được phân loại là một nhánh của dạng game đời sống nhân tạo bởi vì người chơi sẽ chăm nom dân số mô phỏng mà họ chỉ kiểm soát một cách gián tiếp. Dù god game chia sẻ phẩm chất với cả dạng game mô phỏng xây dựng và quản lý và game chiến lược thời gian thực, người chơi trong god game chỉ có thể thực hiện việc kiểm soát dân số của họ một cách gián tiếp. Họ không thể nói cho các đơn vị cụ thể phải làm gì, như đã thấy trong các game chiến lược, dù đôi lúc người chơi có thể cạnh tranh chống lại người chơi khác với sự ủng hộ từ dân chúng của mình. Hơn nữa, người chơi được trao quyền thần thánh lại không thấy trong các trò chơi xây dựng hoặc quản lý, chẳng hạn như khả năng kiểm soát thời tiết, biến đổi cảnh quan, và ban phước hay nguyền rủa những nhóm dân cư khác nhau. Lịch sử. Dù đã có nhiều ảnh hưởng lên thể loại god game, tựa game đầu tiên của thể loại này được nhắc đến chính là "Populous" từ năm 1989. Do Peter Molyneux của Bullfrog Productions phát triển, trò chơi đã thiết lập nên mẫu lối chơi mà quyền lực thần thánh của người chơi sẽ tăng tỷ lệ thuận với số dân các tín đồ của họ. Game nổi bật vì ban cho người chơi sức mạnh siêu nhiên về đất đai và thiên nhiên có thể được sử dụng với ý đồ tốt hay xấu, và một số của lối chơi này được mô phỏng bởi các game chiến lược thời gian thực khác với kiểm soát trực tiếp hơn. Sự pha trộn thể loại này đáng chú ý gồm god game hành động "ActRaiser" cho Super Nintendo vào năm 1990. Nó cũng có ảnh hưởng đến tựa game chiến lược thời gian thực lai "Dungeon Keeper", được phát triển bởi Molyneux vào năm 1997. "Black & White" của Molyneux đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ dòng game nổi tiếng "Populous".
1
null
2002 FIFA World Cup là trò chơi điện tử World Cup chính thức được xuất bản bởi EA Sports. Một sự pha trộn giữa các game engine của "FIFA 2002" và "FIFA 2003", trò chơi vẫn còn kết hợp các thanh năng lượng cho các pha sút bóng và bắt chéo, nhưng với một đường cong học tập dốc đứng và tuỳ biến các cơ hội bị trừ điểm bởi trọng tài trận đấu. Một số bộ dụng cụ được cấp phép, cùng với cầu thủ giống như tạc và sân vận động của World Cup 2002. Với một giao diện đẹp mắt, tất cả các công cụ trong "Fifa World Cup 2002" đều được tối ưu hoá nhằm tạo sự thuận tiện và dễ dàng cho người chơi. Rất nhiều các ứng dụng và các tương tác mới được đưa vào trò chơi, chức năng camera sẽ cho phép người chơi quan sát các trận đấu dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Rất nhiều tuỳ biến để người chơi lựa chọn từ màu áo, thời tiết, các sân vận động hay nếu thích họ có thể có tự tạo một cầu thủ mang tên mình và so tài với nhưng ngôi sao bóng đá, hiệu ứng thế giới thực trong game sẽ khiến cho người chơi cảm thấy như mình dang tham gia một trận đấu thực thụ. Không giống như các phiên bản trước đó trong loạt FIFA, trò chơi còn có bộ soundtrack nguyên gốc được thực hiện bởi Dàn nhạc Giao hưởng Vancouver. Game được phát hành cho Windows, PlayStation, PlayStation 2, GameCube và Xbox. Đội tuyển. Game có sự xuất hiện của 32 đội đủ điều kiện cho World Cup 2002 và 9 đội không đủ điều kiện. Đội đủ điều kiện: Đội không đủ điều kiện: Đón nhận. "2002 FIFA World Cup" đã nhận được lời đánh giá khá tích cực. GameSpot chấm cho phiên bản GameCube 7.4 điểm, trong khi IGN chấm số điểm 8.2/10. GameRankings thì chấm cho 80%. Ngay khi phát hành, tạp chí Famitsu đã chấm số điểm cho các phiên bản PlayStation 2, GameCube và Xbox của game là 30/40 từng cái. Kiện tụng. Bayern Munich và thủ môn quốc tế người Đức Oliver Kahn đã kiện thành công Electronic Arts vì tự tiện đưa họ vào trong game mà không có sự đồng ý trước mặc dù EA đạt một thỏa thuận với FIFPro, cơ quan đại diện cho tất cả các game thủ FIFA. Kết quả là, EA đã bị cấm bán các bản sao của game tại Đức và buộc phải bồi thường tài chính cho Kahn.
1
null
2006 FIFA World Cup là trò chơi video chính thức của World Cup 2006 được xuất bản bởi EA Sports. "2006 FIFA World Cup" được phát hành đồng thời trên GameCube, PC, PlayStation 2, Xbox và Xbox 360 vào ngày 24 tháng 4 năm 2006. Tại châu Âu game cũng được phát hành trên các hệ máy cầm tay Game Boy Advance và Nintendo DS cùng một lúc như các phiên bản console. Đây là tựa game cuối cùng được phát hành cho Xbox tại Nhật Bản. Như với một số phiên bản PlayStation Portable khác được phát hành sau vào ngày 22 tháng 5 năm 2006. Tại châu Âu, phiên bản này được phát hành ngày 19 tháng 5 năm 2006. Có chín hình bìa khu vực cụ thể xuất hiện một cầu thủ lớn từ mỗi khu vực. Microsoft đóng gói game với Xbox 360 tại Nhật Bản và châu Âu. Game còn được đóng gói với phiên bản đặt hàng trước khi phát hành để giới thiệu tại Ấn Độ trong những ngày khi cơn sốt World Cup lan tràn khắp nước. Trong bản đóng gói đặc trưng, có một phiên bản giới hạn gồm từ Adidas đóng gói bên trong. Lối chơi. Game cho phép người chơi tham gia trong World Cup 2006 tổ chức tại Đức bằng cách điều khiển một trong 127 đội tuyển quốc gia. Từ lần phát hành bản "2002 FIFA World Cup", giao diện chính đã được thiết kế lại và có nhiều lựa chọn hơn. Nó thậm chí còn bao gồm một bản đồ vệ tinh khi chọn lựa quốc gia để chơi theo kiểu Thân thiện. Hỗ trợ trực tuyến được cung cấp cho các trận đấu xếp hạng và không phân hạng trên PC, PlayStation 3, PlayStation 2, Xbox và Xbox 360. Dịch vụ trực tuyến cung cấp các phương thức như vận động hành lang, bảng xếp hạng và một chế độ thách thức toàn cầu mà người chơi có thể chơi qua hơn bốn mươi kịch bản World Cup lịch sử, và thậm chí thay đổi lịch sử. Bằng cách chơi trực tuyến và trong chế độ chơi đơn, các điểm chi tiêu cho các cửa hàng ảo có thể kiếm được để người chơi dùng mua đồng phục, các cầu thủ có thực, quả bóng, giầy ống khác nhau và các tùy chọn về lối chơi. Cũng như các phiên bản World Cup trước đây, các trận đấu trong chế độ World Cup sẽ được chơi theo thứ tự như tại World Cup ở Đức. Đón nhận. Cả IGN và GameSpot đều đánh giá một vài phiên bản của game trước khi phát hành ở Bắc Mỹ. Xếp hạng dưới đây là xếp hạng đạt được cho các hệ máy cụ thể với bảng xếp hạng IGN đầu tiên, sau đó là GameSpot. Game Rankings xếp hạng phiên bản Xbox 360 của trò chơi cao nhất ở mức 79%.
1
null
Hoàng đế México (Tây Ban Nha: Emperador de México) là người đứng đầu nhà nước và cai trị México trong hai lần không liên tiếp vào thế kỷ 19. Với Tuyên ngôn Độc lập của Đế quốc México từ Tây Ban Nha năm 1821, México đã trở thành một chế độ quân chủ là Đế quốc México thứ nhất (1822–1823). Nền quân chủ đã sớm thay thế bằng nền Cộng hòa México đầu tiên. Lần lượt, México trở lại thành một chế độ quân chủ vào thập niên 1860 dưới thời Đế quốc México thứ hai (1864–1867). Trong cả hai trường hợp của đế quốc, Hoàng đế trị vì bị lật đổ một cách cưỡng chế và về sau bị xử tử.
1
null
Bốn nguyên tắc cơ bản (tiếng Trung: 四项基本原则 "Tứ hạng cơ bản nguyên tắc") do Đặng Tiểu Bình đề xuất năm 1979, bốn vấn đề này không được phép tranh luận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 30 tháng 3 năm 1979 tại Vụ Công tác Lý luận Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã trình bày đề xuất này và được Ủy ban Trung ương Đảng đồng ý: Tháng 10 năm 1987, đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Đảng Cộng sản lần thứ 13 đưa "Bốn nguyên tắc cơ bản" vào dòng "Đảng tại xã hội chủ nghĩa sơ cấp gian đoạn đích cơ bản lộ tuyến" (con đường cơ bản của Đảng trong giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa).
1
null
Lorenzo Insigne (; sinh ngày 4 tháng 6 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyện nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền đạo cánh cho đội tuyển quốc gia Ý và câu lạc bộ Toronto FC tại Major League Soccer. Dù sở hữu chiều cao khiêm tốn, anh vẫn được đánh giá rất cao bởi khả năng sáng tạo, tốc độ, kỹ thuật và khả năng sút phạt. Insigne đại diện cho đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ý và ra mắt đội tuyển bóng đá quốc gia Ý vào tháng 9 năm 2012 và là thành phần đội tuyển Ý vô địch UEFA Euro 2020. Phong cách chơi. Insigne là tiền đạo có thể chơi theo sơ đồ 4-3-3 hoặc 4-2-3-1 ở cả hai cánh. Đồng đội cũ của anh tại Napoli và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Macedonia Goran Pandev xem anh là "Lionel Messi nước Ý". Đời tư. Insigne có ba anh em trai, đó là Roberto Insigne, Marco Insigne và Antonio Insigne, cả ba đều là cầu thủ bóng đá. Roberto Insigne cũng từng thi đấu cho Napoli. Ngày 31 tháng 12 năm 2012, Insigne kết hôn với Genoveffa "Jenny" Darone. Họ có với nhau hai đứa con là Carmine Insigne (sinh ngày 4 tháng 4 năm 2013) và Christian Insigne (sinh ngày 13 tháng 3 năm 2015).
1
null
Điện lưới hay Lưới điện là một mạng lưới liên kết với nhau để truyền tải và phân phối điện từ nhà máy điện đến người tiêu dùng. Thành phần của một lưới điện bao gồm các nhà máy/ trạm phát điện, các đường dây truyền tải điện cao thế kết nối các nguồn cung cấp và các trung tâm tiêu thụ, và các đường dây phân phối kết nối đến từng khách hàng sử dụng điện năng. Các nhà máy điện có thể được đặt gần nguồn nhiên liệu, cạnh một đập nước (thủy điện), hoặc ở địa điểm có thể tận dụng các nguồn năng lượng tái tạo, và thường nằm xa khu vực dân cư đông đúc. Các nhà máy điện thường được xây dựng ở quy mô lớn để tận dụng lợi thế của kinh tế quy mô. Điện năng được sản xuất và nâng áp lên mức điện thế cao trước khi kết nối với lưới truyền tải điện. Phần lớn của mạng lưới truyền tải điện được dùng để truyền tải điện qua quãng đường dài, đôi khi vượt biên giới quốc tế, đến các khách hàng bán buôn (thường là các công ty có quyền sở hữu mạng lưới phân phối điện địa phương).  Khi được truyền tải đến trạm biến áp, điện sẽ được hạ áp từ điện thế cao của mạng lưới truyền tải xuống điện thế thấp hơn của mạng lưới phân phối. Khi ra khỏi trạm biến áp, điện sẽ di chuyển vào đường dây của mạng lưới phân phối. Cuối cùng, khi đến điểm dịch vụ, điện sẽ một lần nữa được hạ áp từ điện phân phối xuống mức điện thế cần thiết của các thiết bị sử dụng điện.  Lịch sử. Khi còn sơ khai, điện năng được sản xuất gần thiết bị hoặc dịch vụ tiêu thụ điện năng. Những năm 1880, điện cạnh tranh với các nguồn năng lượng từ hơi nước, thủy lực và đặc biệt là khí than. Khí than đầu tiên cũng được sản xuất trên cơ sở của khách hàng nhưng sau đó phát triển thành các nhà máy khí hóa để tận dụng lợi thế của kinh tế quy mô. Ở các thành phố có nền công nghiệp phát triển trên thế giới, mạng lưới ống dẫn khí ga được lắp đặt để dùng cho thắp sáng. Nhưng đèn khí ga không những tỏa sáng kém, lãng phí nhiệt, làm nhiệt độ phòng tăng cao và khói, nó còn thải ra khí hydro và khí than cháy dở (carbon monoxide) độc hại. Những năm 1880, vì những lý do trên, thắp sáng bằng đèn điện đã nhanh chóng giành được nhiều lợi thế so với thắp sáng bằng khí than.   Các công ty dịch vụ điện năng đã dựa vào lợi thế của kinh tế quy mô và nâng cấp thành các nhà máy sản xuất điện tập trung, phân phối và cả hệ thống quản lý. Với truyền tải điện cao thế đường dài, việc kết nối các nhà máy để cân bằng tiêu thụ và cải thiện hệ số tiêu thụ đã trở thành hiện thực.  Ở Vương Quốc Anh, Charlez Merz, làm việc ở công ty tư vấn Merz & McLellan, đã xây dựng Nhà Máy Điện Neptune Bank tại Tyne, gần Newcastle năm 1901, và đến năm 1912, nó đã phát triển thành hệ thống điện cao thế tích hợp lớn nhất Châu Âu. Merz được chỉ định vào vị trí lãnh đạo của Ủy ban Quốc hội và các nghiên cứu của ông là khởi nguồn của Báo cáo Williamson năm 1918 với kết quả cuối cùng là Dự Luật Cung Cấp Điện năm 1919. Dự luật là bước đầu tiên để tiến đến hệ thống điện tích hợp. Đạo luật (Cung Cấp) Điện năm 1926 đã mở đường cho việc xây dựng Mạng lưới điện quốc gia. Ban Điện Trung ương đã chuẩn lại hệ thống cung cấp điện quốc gia và thành lập mạng lưới điện xoay chiều đồng bộ đầu tiên, chạy ở mức điện thế 132kV, 50 Hz. Mạng lưới bắt đầu được hoạt động như Lưới điện quốc gia từ năm 1938.  Những năm 1920, ở Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, các nhà cung cấp dịch vụ chung tay điều hành để giảm tải nhu cầu cao điểm và nguồn điện dự phòng. Năm 1934, Đạo Luật với các công ty cổ phần dịch vụ công ích của Hoa Kỳ được thông qua, cung cấp dịch vụ điện được công nhận là thương phẩm công quan trọng và được giám sát chặt chẽ. Đạo Luật Chính sách Năng lượng năm 1992 yêu cầu các chủ đường dây truyền tải điện cho phép các nhà sản xuất tiếp cận vào mạng lưới của họ và dẫn đến viêc tái cấu trúc cách thức vận hành của công nghiệp điện năng nhằm thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực sản xuất điện. Dịch vụ điện năng không còn được xây dựng theo mô hình độc quyền theo chiều dọc, mô hình mà sản xuất, truyền tải và phân phối được xử lý bởi một công ty duy nhất. Hiện tại, ba giai đoạn được phân chia cho các công ty khác nhau, với mục đích tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho truyền tải điện cao thế. Dự Luật Chính Sách Năng lượng năm 2005 cho phép ưu đãi và đảm bảo khoản vay cho việc sản xuất năng lượng thay thế và phát triển các công nghệ sáng tạo có thể tránh được khí thải nhà kính.   Ở Pháp, năng lượng điện được khai thác từ những năm 1890, với 700 khu dân cư năm 1919 và 36528 khu dân cư vào năm 1938. Cùng thời gian đó, những mạng lưới lân cận bắt đầu được kết nối: Paris vào năm 1907 ở điện thế 12kV, vùng Pyrenees vào năm 1923 ở điện thế 150kV và hầu hết toàn đất nước được kết nối vào năm 1938 ở mức điện thế 220kV. Đến năm 1946, mạng lưới điện của Pháp là mạng lưới dày đặc nhất thế giới. Cũng cùng năm đó, Chính phủ quốc hữu hóa công nghiệp điện năng bằng cách sáp nhập các công ty tư nhân thành Electricite de France (Tổng Công ty Điện Lực Pháp). Tần số được chuẩn hóa ở 50 Hz, và mang lưới 225kV thay thế mạng lưới 110kV và 120kV. Từ năm 1956, dòng điện tại các hộ gia đình được chuẩn hóa ở mức 220/380V, thay thế mức hiệu điện thế 127/220V trước đó. Trong những năm 1970, mạng lưới 440kV – mạng lưới tiêu chuẩn châu ÂU mới – được xây dựng. 
1
null
Trang Nhung là ca sĩ của Việt Nam chuyên hát dòng nhạc nhẹ, dòng nhạc dân gian và dân gian đương đại, nhạc truyền thống. Sự nghiệp. Trang Nhung sinh ngày 24 tháng 08 năm 1973 tại Bãi Cháy, Hạ Long, Quảng Ninh. Trang Nhung thuộc thế hệ trước của ca sĩ Hồ Quỳnh Hương. Trang Nhung liên tục đại diện Quảng Ninh trong màu áo Bưu điện tỉnh tham gia thi trong các hội diễn. Trang Nhung từng học tại Học viện Âm nhạc Quốc gia. Tại Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc năm 1999, Trang Nhung cùng Hồ Quỳnh Hương là 2 giọng ca "được chú ý" và được đặc cách vào học tại trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật quân đội. Năm 2014, Trang Nhung đã sáng tác 7 ca khúc và ra album ca nhạc đặc biệt với chủ đề viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp. Các công đoạn hòa âm phối khí, thu âm được Trang Nhung hoàn thành trước khi tròn 100 ngày mất của Đại tướng Gia đình. Năm 1996, Trang Nhung lập gia đình cùng doanh nhân Ngô Nhật Phương (sinh 1960). Lúc đó, Trang Nhung đang là "giọng ca triển vọng" của tỉnh Quảng Ninh. Vợ chồng Trang Nhung có 4 người con và chưa tổ chức đám cưới bao giờ. Trang Nhung đã nhận lời cầu hôn của Phương vào ngày Phương bị tuyên án tù. Album. Trong 16 năm ca hát, Trang Nhung đã ra 9 album chính thức và những clip lẻ chuyên về dòng nhạc dân gian và dân gian đương đại, nhạc truyền thống:
1
null
Sau khi tiến vào thành phố Mosul của Iraq trong gần một tuần, vào đêm 9-10 tháng 6 năm 2014 lực lượng của Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Levant (ISIS, đôi khi được gọi là Isil), kết hợp với kết hợp với các chiến binh Sunni trung thành với cựu chính phủ Ba'ath và các bộ lạc chống chính phủ, nắm quyền kiểm soát hầu hết thành phố. Ước tính có khoảng 1.300 máy bay chiến đấu vũ trang chiếm giữ các văn phòng chính quyền tỉnh Nineveh, các cơ sở quân đội, và sân bay quốc tế Mosul. Khoảng 500.000 cư dân của thành phố Mosul được cho là đã chạy trốn thành phố. Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki đã kêu gọi tình trạng khẩn cấp quốc gia sau các vụ tấn công. Người ta báo cáo Mosul đã hoàn toàn thuộc kiểm soát của ISIS tay như tính đến ngày 10 tháng 6 năm 2014. Ngày hôm sau thành phố Tikrit cũng rơi vào tay quân nổi dậy, và họ đã đốt cháy tòa nhà chính quyền và giải thoát hàng trăm tù nhân khỏi nhà tù. Khi lực lượng an ninh Iraq chạy trốn về phía nam, lực lượng người Kurd đã thay thế vào chỗ trốn làm gia tăng tính nghiêm trọng của vấn đề tồn tại từ trước đối các vùng lãnh thổ tranh chấp Bắc Iraq, với phát biểu của với nghị sĩ người Kurd Shoresh Haji nói "Tôi hy vọng rằng các lãnh đạo người Kurd sẽ không bỏ lỡ cơ hội vàng này để mang trở lại vùng đất của người Kurd ở các vùng lãnh thổ tranh chấp về tay người Kurd".
1
null
Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (, chuyển tự: ', viết tắt: Da'ish hoặc Daesh, viết tắt theo tiếng Anh: ISIL); còn được biết đến với tên gọi Nhà nước Hồi giáo Iraq và Syria (ISIS) hay Nhà nước Hồi giáo (IS) – là một nhóm chiến binh Jihad, gồm các tay súng Hồi giáo cực đoan dòng Sunni cầm đầu các hoạt động không được công nhận ở Iraq và Syria. Trong tình trạng tự xưng và không được công nhận là một nhà nước độc lập, tổ chức này tuyên bố lãnh thổ của chúng bao gồm Iraq và Syria, với dự định tuyên bố lãnh thổ trong tương lai bao trùm cả khu vực Levant – tức cả Liban, Palestine, Israel, Jordan, Syria, Síp và nam Thổ Nhĩ Kỳ. Lịch sử. Tổ chức này tự xưng là Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL) vào ngày 29 tháng 6 năm 2014 đã tuyên bố thành lập một Khalifah (nhà nước Hồi giáo) trên lãnh thổ chiếm đóng của mình, Người lãnh đạo Abu Bakr al-Baghdadi tự cho mình là một Khalip. Tuy nhiên ở các nước Hồi giáo khác, tổ chức này hầu như không được chấp nhận là một Nhà nước có chủ quyền. Nhiều nguồn tiếng Việt dùng tên Nhà nước Hồi giáo ("Islamic State", viết tắt theo tiếng Anh: IS) – tên do nhóm chiến binh này đặt ra vào ngày 29 tháng 6 năm 2014 – nhưng danh xưng này bị chỉ trích mạnh mẽ, bị Liên Hợp Quốc, nhiều chính phủ các quốc gia và các nhóm Hồi giáo chính thống từ chối sử dụng. Tổ chức này được thành lập vào những năm đầu của cuộc chiến tranh Iraq (2003) và cam kết trung thành với al-Qaeda vào năm 2004. Nhóm này được hỗ trợ bởi một loạt các nhóm nổi dậy, trong đó bao gồm tổ chức tiền thân của nó, Hội đồng Mujahideen Shura,Al-Qaeda ở Iraq (AQI), Jaysh al-Fatiheen, Jund al-Sahaba, Katbiyan Ansar Al-Tawhid wal Sunnah, Jeish al-Taiifa al-Mansoura. Từ khoảng giữa năm 2013 ISIL và al-Qaeda đã có những tranh chấp với nhau. Vào tháng 2 năm 2014, sau 8 tháng tranh giành quyền lực, al-Qaeda đã cắt đứt mọi liên hệ với nhóm này. Nguồn gốc. Thủ lĩnh của ISIL là Abu Bakr al-Baghdadi - một công dân Iraq theo đạo Hồi dòng Sunni. Ông này nguyên là một tù nhân bị Mỹ và Iraq giam giữ tại trại giam Bucca, gần Umm Qasr - Iraq từ năm 2004 đến 2009. Sau khi được Mỹ thả trong một vụ đặc xá đáng ngờ, al-Baghdadi đã dần nổi lên trong hàng ngũ các thủ lĩnh Hồi giáo tham gia vào cuộc nội chiến Syria 2014, nhưng mục tiêu của al-Baghdadi không chỉ là lật đổ chính phủ Syria. Ngày 29/6/2014, sau khi vượt biên đánh tràn sang Iraq và chiếm được những mỏ dầu lớn ở miền Bắc nước này, thủ lĩnh al-Baghdadi đã quyết định hiện thực hóa giấc mơ của những người Hồi giáo thánh chiến là "lý tưởng tôn giáo thống trị và hợp nhất toàn cầu", bằng tuyên bố xây dựng "Nhà nước Hồi giáo" và cái tên IS (Islamic State) chính thức ra đời. Theo trang web cá nhân Global Research, cựu nhân viên Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA), Edward Snowden, đã tiết lộ rằng tình báo Anh, tình báo Mỹ và tình báo Israel (Mossad) đã làm việc với nhau để tạo ra ISIL, theo đó các tài liệu mật bị rò rỉ tiết lộ rằng nhà lãnh đạo ISIL, giáo sĩ Abu Bakr Al-Baghdadi, đã được huấn luyện quân sự trong suốt một năm dưới sự đào tạo của Mossad, bên cạnh các khóa học về thần học và nghệ thuật phát biểu Người đứng đầu Viện nghiên cứu vì hòa bình và thịnh vượng Ron Paul-một tổ chức tư nhân có khuynh hướng chống Mỹ, ông Daniel McAdams giải thích rằng: ""Thực ra, "phe ôn hòa" (trong cuộc nội chiến Syria) đã được trợ giúp bởi người Mỹ từ lâu, họ đã chiến đấu bên cạnh những người có liên hệ với Al-Qaeda, và sau này là với những chiến binh của ISIS."" Tuy nhiên, theo báo TIME, những thông tin trên là do IRNA ("Islamic Republic News Agency, Thông tấn xã Cộng hòa Hồi giáo", cơ quan thông tin chính thức trực thuộc nhà nước Iran) "pha chế" với mục đích tuyên truyền và cuộc phỏng vấn với Snowden nói trên bị nghi ngờ là không có thật. Cũng theo TIME, các quan chức chính phủ Iran và các nhà phân tích độc lập tại Iran cũng như những thông tin của IRNA đã dựa theo hay là thậm chí khởi đầu những tin đồn lan rộng trên mạng internet để cố khẳng định "bằng chứng dứt khoát" về nguồn gốc ISIS là của Mỹ và Israel dựng nên. Lãnh tụ tối cao Iran, Ali Khamenei đã từng cáo buộc Mỹ, Israel và Anh đứng đằng sau tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant tự xưng; ông cho rằng các nước này đã tạo ra Al-Qaeda và Da'esh (tức ISIL) nhằm tạo ra sự chia rẽ và sử dụng chúng trong cuộc chiến chống lại các nước Hồi giáo, nhưng rốt cục các tổ chức này lại quay sang chống lại Mỹ. Theo Jeffrey D. Sachs, Giám đốc Viện Địa Cầu tại Đại học Columbia, cố vấn đặc biệt của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, thì nguồn gốc thực sự của các chiến binh ISIL là những chiến binh thánh chiến Sunni được Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) huấn luyện và trang bị vũ khí thông qua Ả Rập Xê Út nhằm chống lại Iran và loại bỏ các chính quyền thân Nga tại Trung Đông. Nhưng về sau, các tay súng Sunni đó lại không nghe lệnh Mỹ nữa và tự tổ chức thành ISIL. Việc ISIL tồn tại dai dẳng và gây nhiều tội ác trong khi thực lực yếu hơn các quốc gia trong khu vực rất nhiều là do các cường quốc đang tập trung lật đổ chế độ Assad tại Syria, chứ ưu tiên của họ không phải là diệt ISIL. Mặc dù vào tháng 9 năm 2014, tổng thống Mỹ Barrack Obama đã cam kết “làm suy yếu và cuối cùng là tiêu diệt” ISIL, nhưng thay vào đó, Mỹ và các đồng minh của họ (bao gồm Ả-rập Xê-út, Thổ Nhĩ Kỳ và Israel) đều không coi ISIL là kẻ thù chính, thay vào đó họ tập trung nỗ lực vào việc lật đổ Tổng thống Syria Bashar al-Assad. Tư tưởng. Tư tưởng chiến đấu của ISIL là thiết lập một Nhà nước Hồi Giáo thống nhất toàn Trung Đông, tại đó những giá trị của Hồi Giáo sẽ được khôi phục như những ngày đầu của đạo Hồi, khi nhà tiên tri Muhammed còn tại thế. Những Nhà nước thế tục khác tại Trung Đông bị ISIL coi là sự đi ngược lại các nguyên tắc thánh khiết của Đạo Hồi. Đặc biệt người Hồi giáo dòng Shia bị ISIL coi là những kẻ phản đạo và sẽ phải bị trừng trị nếu không chấp nhận cải đạo sang Hồi giáo Sunni. Hậu thuẫn. Nhóm này có tiền có lẽ là nhờ tiền quyên góp được ở Qatar, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. và tiền lấy được trong kho của các nhà băng tại Iraq. Chúng cũng thu nhập thêm tiền bằng cách bán dầu thô từ những mỏ dầu chiếm đóng, những đồ cổ từ những nơi khảo cổ cũng như đã cướp được từ các bảo tàng viện hoặc bán các phụ nữ như là nô lệ, tăng "thuế" và "thuế hải quan" bắt cóc đòi tiền chuộc tống tiền, khủng bố và giết người. AFP dẫn tin tức từ Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ David Cohen cho biết, mỗi ngày ISIL kiếm được khoảng 1 triệu USD bằng cách bán dầu thô từ các mỏ dầu chiếm được từ tay chính phủ Iraq và Syria và bằng những tội ác khác, ISIL đã tích lũy tài sản với "tốc độ chưa từng có" từ nhiều nguồn khác nhau. ISIL hiện nay được Mỹ coi là "tổ chức khủng bố giàu có nhất và tinh vi về mặt tài chính nhất thế giới" Dầu thô từ các mỏ mà ISIL kiểm soát được bơm vào các đoàn xe lớn rồi chở sang Thổ Nhĩ Kỳ và "biến mất" ở đó, do vậy có nhiều nghi ngờ rằng Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã bí mật hợp tác với ISIL: họ được mua dầu từ ISIL với giá rẻ hơn giá thị trường thế giới, đổi lại ISIL có được nguồn tiền để tiếp tục trang trải phí chiến tranh. Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết ông đã chia sẻ thông tin tình báo về các khoản tài chính mà IS nhận được với những người đồng cấp G20. Theo ông Putin, IS đã nhận được hỗ trợ tài chính từ 40 quốc gia, bao gồm cả một số thành viên trong G20. Theo Jeffrey D. Sachs, với lực lượng vượt trội, Mỹ và phương Tây hoàn toàn đánh bại được ISIL. Vấn đề là Hoa Kỳ không thực sự muốn làm điều đó: các cuộc không kích ISIL được Mỹ thực hiện nhưng không hiệu quả, và Mỹ cũng từ chối hợp tác với Nga trong cuộc chiến chống lại ISIL. Nguyên nhân sâu xa là bởi Mỹ muốn lợi dụng ISIL để tiêu diệt chính phủ Syria, kẻ thù mà họ căm ghét hơn. Sự ra đời và tồn tại dai dẳng của ISIL nhấn mạnh ba sai lầm chiến lược trong chính sách đối ngoại của Mỹ: Bành trướng. Điều làm nên sự khác biệt của ISIL so với các tổ chức khủng bố Hồi giáo khác là tổ chức này không theo đuổi việc tổ chức các hành động khủng bố gây tiếng vang rồi rút lui. ISIL theo đuổi việc thành lập một nhà nước Hồi giáo theo tinh thần Thánh chiến. Thành công của ISIL (chỉ trong vòng 3 tháng đã chiếm một nửa Iraq) nằm ở tính kỷ luật cao và giàu lý tưởng tôn giáo của các chiến binh. Mặt khác, quân đội Iraq lại tỏ ra bạc nhược, tinh thần chiến đấu thấp do binh sĩ bất mãn bởi các vấn nạn tham nhũng, sự thiếu đoàn kết trong chính phủ (kết quả một cuộc điều tra sơ bộ cho thấy quân đội Iraq có ít nhất 50.000 "lính ma" nằm trong hệ thống trả lương của Bộ Quốc phòng Iraq). Tham nhũng tràn lan trong quân đội Iraq được cho là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của 4 trong số 14 sư đoàn quân đội nước này trước những đợt tấn công dữ dội của ISIL. Phóng viên chiến trường mô tả quân đội Iraq đã đào ngũ hàng loạt (chỉ khoảng 25% ở lại chiến đấu), và quân đội này "hầu như không còn tồn tại, họ không chiến đấu tốt ở mọi nơi" Một ví dụ là việc thành phố Mosul thất thủ: 30.000 quân Iraq được trang bị đầy đủ lại bị thua một nhóm chỉ 800 quân ISIL có trang bị kém hơn nhiều. Phần lớn binh sĩ, sĩ quan quân đội Iraq đã bỏ chạy trước khi ISIL tới. Quân ISIL chiếm thành phố mà chỉ mất khoảng 100 lính, trong khi bắt được trên 2.000 tù binh. Đó là sự bạc nhược về tinh thần của một đội quân được gây dựng theo kiểu chuyên nghiệp kiểu phương Tây, khi đi lính không phải là nghĩa vụ mà lại được coi là một nghề kiếm sống. Các chuyên gia tính toán, sau khi bị đánh bật khỏi Mosul, quân đội Iraq đã bỏ lại 40 vạn đơn vị vũ khí cho ISIL, bao gồm không chỉ vũ khí bộ binh, mà còn nhiều trang bị quân sự hạng nặng, hàng trăm xe quân sự hiện đại. Nhiều thành viên của ISIS giờ đã được trang bị không kém tiêu chuẩn binh sĩ hiện đại với quân phục, áo giáp chống đạn, thiết bị nhìn đêm và vũ khí cá nhân. Tờ Business Insider đưa tin về việc Omar al-Shishani, một trong những thủ lĩnh của ISIL, từng được đặc nhiệm Mỹ đào tạo để chống lại Nga trong cuộc chiến Gruzia năm 2008. Sau đó, Omar al-Shishani đã tìm đường sang Syria và gia nhập ISIL ở đó. Omar nhanh chóng sử dụng những kỹ năng quân sự đã được Mỹ huấn luyện để tổ chức các chiến dịch quân sự thành công cho ISIL Hậu phương của ISIS còn được đảm bảo theo tinh thần của thủ lĩnh ISIL, Abu Bakr al-Baghdadi, một giáo sĩ Hồi giáo có đầu óc tổ chức và tầm nhìn. Tại các vùng lãnh thổ do ISIL kiểm soát, luật Hồi giáo Sharia ngay lập tức có hiệu lực. Những giáo luật tuy hà khắc nhưng đã nhanh chóng ổn định tình hình ở nhiều vùng tại miền Bắc Iraq vốn chìm trong bất ổn trong hơn 10 năm qua do dự yếu kém của chính quyền địa phương. Và điểm quan trọng nhất là người dân Hồi giáo Sunni cảm thấy được đối xử công bằng, điều chưa từng có dưới chính phủ Iraq của người Shitte. Nền nông nghiệp của Iraq bị tàn phá 90% sau cuộc xâm chiếm của Mỹ vào năm 2003. Những đau khổ của cộng đồng người Iraq dòng Sunni ở nông thôn hoàn toàn đối nghịch với người Shia đang sống trong giàu sang ở Baghdad và các thành phố phía đông nhờ phục vụ cho chế độ Shia thân Mỹ Những người Iraq dòng Sunni đã chào đón ISIL như những người giải phóng, thậm chí còn tham gia hàng ngũ của ISIL nhằm chống lại chế độ áp bức bởi người Shia Điểm khác biệt nữa của ISIS là tại các vùng tạm chiếm, đại diện phong trào này luôn tìm cách trấn an người dân ở lại. Tại Mosul, ngay khi chiếm được thành phố, ISIS phát cho mỗi người dân một bình gas miễn phí để nấu nướng. Khi những người dân băn khoăn rằng làm sao họ có thể tin được ISIS, đại diện phong trào này trả lời: "Hãy cho chúng tôi thêm thời gian, chúng tôi sẽ nhanh chóng cung cấp số điện thoại. Khi mọi người cần chúng tôi sẽ lập tức giúp đỡ". Giới phân tích quốc tế đã thực sự bất ngờ khi thấy ISIL sở hữu một bộ máy công quyền và dân sự khá hoàn chỉnh có tòa án, cảnh sát, trường học và các tổ chức từ thiện. Tại vùng Al-Raqqa, ISIL đã xây dựng chợ, đường sá, các đường dây điện, trạm xá, bưu điện, bến xe… quản lý khí đốt để đảm bảo phân chia công bằng và tổ chức loạt các hoạt động cứu trợ từ thiện cho người dân địa phương. Theo báo An ninh thủ đô viết ngày 3 tháng 10 năm 2014, nhà nước Hồi giáo đã thành công trong việc gửi đi khắp toàn cầu một thông điệp rằng sự thống nhất của thế giới Hồi giáo và lý tưởng xây dựng một nhà nước Hồi giáo "hoàn toàn thánh khiết" là điều có thể. Hàng trăm ngàn thanh niên gốc Trung Đông, dù sinh ra và lớn lên ở châu Âu nhưng lại dành sự ngưỡng mộ cho IS, hàng chục ngàn trong số đó đã tình nguyện vượt biên tới Syria và Iraq để chiến đấu cho Nhà nước này. Nhờ nhiều người tình nguyện gia nhập từ cả Iraq, Syria lẫn nước ngoài (có cả người Hồi giáo sống ở Anh, Pháp, Nga, Úc, Thổ Nhĩ Kỳ...), quân số của ISIL tăng nhanh chóng. Tháng 6/2014, ISIL mới có khoảng 4.000 quân ở Iraq và vài ba ngàn ở Syria, nhưng đến tháng 9/2014, ước tính quân số của ISIL đã lên tới 100.000 và vẫn tiếp tục tăng . Bị đánh bại và hoạt động hiện tại Ngày 22/3/2019 Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố ISIL bị tiêu diệt 100% . Ngày nay ,chi nhánh của ISIL ( IS-K )vẫn hoạt động chống chính phủ Taliban (2021) nhưng quy mô chỉ là các cuộc tấn công khủng bố nhỏ . Nhóm là một nhóm đe dọa tiềm tàng cho chính phủ taliban ở Afganistan cũng như ở Iraq.
1
null
Andrzej Tadeusz Kosciuszko Bonawentura (Andrew Thaddeus Bonaventure Kosciuszko; sinh ngày 4 hoặc 12 tháng 2 năm 1746 - mất ngày 15 tháng 10 năm 1817) là một kỹ sư quân sự và chỉ huy quân sự người Ba Lan đã trở thành một anh hùng dân tộc ở Ba Lan, Litva, Belarus, và Hoa Kỳ. Ông đã tham gia chiến đấu trong cuộc chiến tranh của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva trong trận giữa Nga và Phổ, và phía Mỹ trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Là tư lệnh tối cao của lực lượng vũ trang quốc gia Ba Lan, ông đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Kosciuszko năm 1794. Kosciuszko sinh ra trong tháng 2 năm 1746 tại Ba Lan-Litva, trong một ngôi làng ngày nay nằm trong Belarus; người ta không biết ngày sinh chính xác của ông. Lúc 20, anh đã tốt nghiệp từ Corps of Cadets ở Warsaw, Ba Lan, nhưng sau khi sự bùng nổ của cuộc nội chiến liên quan đến Liên minh Bar năm 1768, Kosciuszko chuyển đến Pháp năm 1769 để theo đuổi nghiên cứu sâu hơn. Ông trở lại Ba Lan năm 1774, hai năm năm sau phân chia Ba Lan lần thứ nhất, làm gia sư trong gia đình Józef Sylwester Sosnowski. Sau khi Kosciuszko cố gắng chạy trốn với con gái chủ nhà và đã bị thuộc hạ của cha cô gái đánh nhừ tử, ông trở về Pháp. Trong năm 1776, Kosciuszko chuyển đến Bắc Mỹ, nơi ông đã tham gia vào Chiến tranh Cách mạng Mỹ với quân hàm đại tá Lục quân Lục địa. Là một kiến ​​trúc sư công binh tài năng, ông đã thiết kế và giám sát xây dựng các công sự tối tân, bao gồm cả những công sự ở West Point, New York. Năm 1783, để ghi nhận những đóng góp của ông, Quốc hội Lục địa đã phong ông hàm chuẩn tướng. Trở về Ba Lan vào năm 1784, Kosciuszko được phong hàm thiếu tướng quân đội Ba Lan-Litva vào năm 1789. Hai năm sau cuộc chiến tranh Ba Lan-Nga năm 1792 đã dẫn đến phân chia Ba Lan lần thứ hai, ông đã tổ chức và chỉ huy một cuộc nổi dậy chống lại Nga tháng 3 năm 1794. Quân đội Nga đã bắt ông trong trận Maciejowice vào tháng 10 năm 1794. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Kosciuszko tháng 11 đã dẫn đến việc phân Ba Lan lần thứ ba vào năm 1795, kết thúc sự tồn tại độc lập của Ba Lan trong 123 năm. Năm 1796, sau cái chết của Tsaritsa Catherine Đại đế, Kosciuszko đã được người kế vị Sa hoàng là Pavel I của Nga ân xá và ông đã di cư qua Hoa Kỳ. Là một người bạn thân của Thomas Jefferson, người mà ông có chung những lý tưởng nhân quyền, năm 1798 Kosciuszko đã viết di chúc hiến tài sản Mỹ của mình cho nền giáo dục và tự do của người nô lệ Mỹ. Ông đã trở về châu Âu và sống ở Thụy Sĩ cho đến khi qua đời. Việc thực hiện di chúc của ông tỏ ra khó khăn và quỹ từ số tiền ông để lại đã không được sử dụng đúng mục đích như ông đã ghi trong chúc thư.
1
null
Nguyễn Đình Cống là một giáo sư, tiến sĩ ngành xây dựng , nhà giáo nhân dân tại Đại học Xây dựng. Ông là một trong những kỹ sư đầu tiên ở Việt Nam chuyên về nghiên cứu Bê tông và các lĩnh vực khác trong Xây dựng. Ông đã có nhiều đóng góp cho công tác nghiên cứu giảng dạy đào tạo trong lĩnh vực Xây dựng. Ngoài ra ông cũng đi sâu vào nghiên cứu Phong thủy cũng như các môn huyền học mệnh lý khác ứng dụng vào thực tế. Ông cũng có mở các lớp dạy phong thủy sau khi về hưu. Tuy nhiều năm công tác trong Nhà nước nhưng sau khi về hưu, trong những năm gần đây, ông gây tranh cãi khi có nhiều bài viết trên trang cá nhân phản biện các chính sách của Đảng Cộng sản. Ông có nhiều bài chỉ trích những điều mà ông cho là sai lầm của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Gần đây, ông còn kêu gọi thực hiện đa nguyên, dân chủ trên trang mạng Bauxite. Tiểu sử. Ngày 3.2.2016 trên trang mạng cá nhân, ông tuyên bố ra khỏi đảng Cộng sản. Thông báo từ bỏ Đảng của giáo sư Nguyễn Đình Cống nhận được hơn 6000 like chỉ sau vài giờ đăng lên. Ý kiến. Theo BBC Việt ngữ, ngày 9.12.2015, ông cùng với 126 người khác, trong đó có các nhân vật như Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, TS Nguyễn Quang A, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Hoàng Tụy, GS Chu Hảo, GS Tương Lai, Huỳnh Tấn Mẫm, Hồ Ngọc Nhuận, GS Trần Văn Thọ, GS Nguyễn Đăng Hưng, Đại sứ Nguyễn Trung, GS Phạm Xuân Yêm..., đã gửi một bức thư ngỏ đến Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, các đại biểu dự Đại hội lần thứ XII và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Bức thư đề nghị ""đổi tên đảng (không gọi là Đảng Cộng sản); đổi tên nước (không gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa); trả lại tự do cho những người khác chính kiến đang bị giam giữ; chấm dứt sự trấn áp và ngăn chặn nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ theo Hiến pháp" đồng thời nêu ý kiến "Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin"". Các công trình nghiên cứu:. 1-Phương pháp thiết kế một số kết cấu bê tông cốt thép ngành Bưu điện (cột, xà, cống, bể) (1974). 2-Phương pháp thiết kế tháp ăng ten (tháp truyền hình, tháp chuyển tiếp, cao trên 100 mét) bằng bê tông cốt thép (1978). 3-Phân tích các sự cố hư hỏng cột Bê tông cốt thép của đường dây tải điện cao thế (1982). 4-Chủ trì soạn thảo Tiêu chuẩn thiết kế kết cấu bê tông cốt thép TCVN 5574 (1991). 5-Chủ trì nghiên cứu và thiết kế Kết cấu Rạp xiếc Hà nội- 1985- 1986 6-Lập công thức tính toán cấu kiện Bê tông cốt thép chịu nén lệch tâm xiên (2000-2008). 7-Nghiên cứu trạng thái giới hạn thứ hai của cấu kiện Bê tông cốt thép chịu xoắn (2004) 8- Nghiên cứu sự làm việc của cốt thép chịu kéo có trục cong (2005). 9- Nghiên cứu sự làm việc của bản Bê tông cốt thép chịu mô men uốn cục bộ (2006). Sách đã xuất bản. 1. Bê tông cốt thép (Giáo trình). Đồng tác giả. H- Nông nghiệp, 1963; Tái bản 1979. 2. Kết cấu bê tông cốt thép (Phần kết cấu nhà). Nguyễn Đình Cống (Chủ biên). H- Giáo dục, 1976. 3. Kết cấu bê tông cốt thép (Phần cơ bản). Nguyễn Đình Cống (Chủ biên). H- Xây dựng, 1986. 4. Kết cấu sàn bê tông cốt thép. Nguyễn Đình Cống. H- Khoa học và Kỹ thuật, 1992. 5. Giáo trình kết cấu bê tông cốt thép. Nguyễn Đình Cống. H- Xây dựng, 2004; Tái bản 2010. 6. Tính toán tiết diện cột bê tông cốt thép. Nguyễn Đình Cống. H- Xây dựng, 2006; Tái bản 2008. 7. Tính toán thực hành cấu kiện bê tông cốt thép. Hai tập. Nguyễn Đình Cống. H- Xây dựng, 2007. 8. Sàn sườn bê tông toàn khối. Nguyễn Đình Cống. H- Xây dựng, 2008. 9. Kết cấu công trình. Nguyễn Đình Cống (Chủ biên). H- Xây dựng, 2010. 10. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và sáng tạo. Nguyễn Đình Cống. H- Khoa học và Kỹ thuật, 2011. Năm 2017, ông cho xuất bản cuốn Hồi Ký của mình. Cuốn sách được ông dành nhiều thời gian và tâm huyết để hoàn thành khi ông đã ngoài 80 tuổi. Danh hiệu, giải thưởng. Được tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 1993. Được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân. Được tặng Giải thưởng Kova " Khoa học ứng dụng thực tế" năm 2013 với đề tài Tính toán cấu kiện Bê tông cốt thép ư chịu nén lệch tâm xiên. Gia đình.. Ông có bốn con gái 2 người làm việc trong ngành giáo dục còn 2 người lấy chồng và định cư ở châu Âu
1
null
Thelyphonida là một bộ hình nhện bao gồm các động vật không xương sống thường được gọi là bọ cạp roi hay bọ cạp giấm. Chúng thường được gọi là uropygi trong cộng đồng khoa học dựa trên một tên thay thế cho bộ, Uropygi (sau đó cũng có thể bao gồm cả thứ bộ Schizomida). Cái tên "bọ cạp roi" đề cập đến việc chúng nhìn giống bọ cạp thực sự và sở hữu một chiếc đuôi giống như cái roi, và "bọ cạp giấm" đề cập đến khả năng thải ra chất lỏng có mùi giấm, gây khó chịu, có chứa axit axetic của chúng khi bị tấn công. Mô tả. Bọ cạp roi có chiều dài từ 25 đến 85 mm, với hầu hết các loài có cơ thể không dài hơn 30 mm; loài lớn nhất, thuộc chi "Mastigoproctus", có thể đạt tới 85 mm. Tuy nhiên, do các chân, cặp càng và "roi", chúng có thể trông lớn hơn nhiều và mẫu vật nặng nhất nặng 12,4 g. Giống như các bộ có họ hàng Schizomida và Amblypygi, bọ cạp giấm chỉ sử dụng sáu chân để đi bộ, với hai chân đầu tiên đóng vai trò là cơ quan cảm giác giống như râu. Tất cả các loài cũng có cặp càng rất lớn giống như bọ cạp nhưng có thêm một gai lớn trên mỗi xương chày cổ tay. Chúng có một cặp mắt ở phía trước và ba mắt ở mỗi bên đầu, những điểm cũng được tìm thấy ở bọ cạp. Bọ cạp giấm không có tuyến nọc độc, nhưng chúng có các tuyến gần phía sau bụng có thể phun ra sự kết hợp giữa axit axetic và axit caprylic khi chúng bị làm phiền. Axit axetic làm cho chất lỏng chúng xịt ra có mùi giống như giấm, dẫn đến cái tên gọi phổ biến là "bọ cạp giấm". Hành vi. Bọ cạp giấm là loài ăn thịt, là những kẻ săn mồi về đêm, chủ yếu ăn côn trùng, cuốn chiếu, bọ cạp và các loài bộ Chân đều sống trên cạn, nhưng đôi khi cũng ăn giun và sên. "Mastigoproctus" đôi khi săn các động vật có xương sống nhỏ. Con mồi bị nghiền nát giữa những chiếc răng đặc biệt ở bên trong đoạn chân thứ hai của phần phụ phía trước. Bọ cạp giấm có ích trong việc kiểm soát dân số gián và dế. Con đực tiết ra một tế bào sinh tinh (một khối lượng hợp nhất của tinh trùng), được chuyển cho con cái sau hành vi tán tỉnh, trong đó con đực giữ phần cuối của đôi chân đầu tiên của con cái trong lớp vỏ của mình. Tế bào sinh tinh nằm trên mặt đất và được con cái lấy bằng bộ phận sinh dục của mình. Ở một số chi, con đực sau đó sử dụng bàn đạp của mình để đẩy tế bào sinh tinh vào cơ thể con cái. Sau một vài tháng, con cái sẽ đào một cái hang lớn và tự bịt kín bên trong. Có tới 40 trứng được đẻ ra, bên trong một lớp màng nuôi để giữ độ ẩm và bám vào ống sinh dục và đoạn thứ năm của ống dẫn trứng ở bụng con mẹ. Con cái ngừng ăn và giữ bụng của mình theo hình vòm hướng lên để lớp màng nuôi không chạm đất trong vài tháng tiếp theo, khi trứng phát triển thành hậu phôi thai. Phần phụ trở nên nhìn thấy được. Con non màu trắng nở ra từ hậu phôi thai leo lên lưng mẹ và bám vào đó bằng các mút đặc biệt. Sau lần lột xác đầu tiên, khi chúng trông giống như những con trưởng thành thu nhỏ nhưng có màu đỏ tươi, chúng sẽ rời khỏi hang. Con mẹ có thể sống thêm hai năm nữa. Con non phát triển chậm, trải qua bốn lần lột xác trong khoảng bốn năm trước khi trưởng thành. Chúng sống thêm đến bốn năm. Môi trường sống. Bọ cạp roi được tìm thấy ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, ngoại trừ Châu Âu và Úc. Ngoài ra, chỉ có một loài duy nhất được biết đến từ châu Phi: "Etienneus africanus", có lẽ là loài cổ Gondwana sống đặc hữu ở Senegal, Gambia và Guinea-Bissau. Chúng thường đào hang bằng cặp càng để vận chuyển con mồi đến đó. Chúng cũng có thể chui xuống các khúc gỗ, gỗ mục nát, đá và các mảnh vụn tự nhiên khác. Chúng thích những nơi ẩm ướt, tối tăm và tránh ánh sáng. "Mastigoproctus giganteus", bọ cạp roi khổng lồ, được tìm thấy ở những khu vực khô cằn hơn, bao gồm Arizona và New Mexico. Các loài. Tính đến năm 2006, hơn 100 loài bọ cạp giấm đã được mô tả trên toàn thế giới. Phân loại của bọ cạp giấm hiện chỉ bao gồm một họ còn tồn tại và một họ nghi ngờ đã bị tuyệt chủng:
1
null
Sân vận động Arena Corinthians, ở São Paulo, Brazil, là sân vận động của đội tuyển Sport Club Corinthians Paulista. Đây là sân vận động lớn thứ năm của giải Giải vô địch bóng đá Brasil 2014 và là sân vận động lớn thứ mười một ở Brazil, với sức chứa 48.234 chỗ ngồi. Tại giải vô địch bóng đá thế giới 2014, sân vận động này được gọi là "Arena de São Paulo" và là nơi diễn ra sáu trận đấu, trong đó có trận khai mạc vào ngày 12 tháng 6 năm 2014. Do yêu cầu phải có ít nhất 65.000 chỗ ngồi cho trận mở màn World Cup, một số ghế ngồi phụ đã được kê thêm, mặc dù sức chứa thiết kế của sân này chỉ đạt 61.606. Các ghế ngồi phụ sẽ được dỡ bỏ sau khi World Cup kết thúc. Sự kiện quốc tế. Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Sân vận động này sẽ là một trong những nơi diễn ra giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Tuy nhiên, theo quy định của FIFA, trong thời gian diễn ra giải đấu sân sẽ được gọi với tên gọi "Arena de São Paulo." Sân vận động sẽ là nơi diễn ra lễ khai mạc của giải và sau đó là trận mở màn giữa Brazil và Croatia, cùng với ba trận đấu vòng bảng, một trận đấu vòng 1-16 và một trận bán kết. Theo yêu cầu phải có ít nhất 65 000 chỗ ngồi cho trận khai mạc World Cup, sân đã được lắp thêm các chỗ ngồi tạm thời cho giải đấu, trong khi sức chứa tối đa của sân chỉ ở mức 61.606. Việc kê thêm ghế này yêu cầu ban tổ chức phải thuê màn hình riêng cho World Cup, bởi các màn hình ban đầu trở nên quá lớn khi có các chỗ ngồi lắp thêm. FIFA yêu cầu các màn hình phải nhỏ hơn ban đầu, với kích thước .
1
null
Overdose là mini-album thứ ba của nhóm nhạc nam Hàn-Trung Quốc EXO, được SM Entertainment phát hành vào ngày 7 tháng 5 năm 2014. Đây là album cuối cùng của nhóm có sự tham gia của hai thành viên Kris và Luhan, trước khi họ khởi kiện SM và chấm dứt hoạt động cùng nhóm. Bối cảnh và phát hành. Ban đầu "Overdose" được lên kế hoạch phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 2014 nhưng việc này đã được hoãn lại do thảm họa lật phà Sewol xảy ra vào ngày 16 tháng 4. Trước ngày phát hành, album nhận được lượng đơn hàng đặt trước cao nhất trong lịch sử tại Hàn Quốc với trên 660.000 bản. Album được phát hành vào ngày 7 tháng 5 năm 2014. Ở vị trí thứ 129, "Overdose" là album đạt thứ hạng cao nhất từ trước tới nay trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 đối với một nhóm nhạc nam Hàn Quốc. Quảng bá. Trước khi "Overdose" được phát hành, EXO đã tổ chức một showcase nhằm giới thiệu và quảng bá cho album tại sân vận động trong nhà Jamsil, Seoul vào ngày 15 tháng 4 năm 2014. Sau đó, hai nhóm nhỏ EXO-K và EXO-M bắt đầu quảng bá bài hát chủ đề "Overdose" lần lượt tại Hàn Quốc và Trung Quốc. Ngày 24 tháng 5 năm 2014, nhóm bắt đầu tổ chức chuyến lưu diễn đầu tiên của mình với tên gọi "The Lost Planet". Liên kết ngoài. [[Thể loại:EP của EXO]] [[Thể loại:EP năm 2014]] [[Thể loại:EP tiếng Triều Tiên]] [[Thể loại:EP của SM Entertainment]]
1
null
Sân vận động Estádio Plácido Aderaldo Castelo, còn gọi là Castelão () hay Gigante da Boa Vista, là một sân vận động bóng đá được mở cửa ngày 11 tháng 11 năm 1973 tại Fortaleza, Ceará, Brazil, với sức chứa tối đa 67.037 người. Sân vận động này do chính quyền bang Ceará quản lý, và là sân nhà của các đội bóng Ceará Sporting Club và Fortaleza Esporte Clube. Tên cũ của nó được đặt để vinh danh Plácido Aderaldo Castelo, người giữ chức vụ thống đốc bang Ceará từ ngày 12 tháng 9 năm 1966 đến ngày 15 tháng 3 năm 1971, và là người chỉ đạo việc xây dựng sân vận động này. Sự kiện thể thao. World Cup 2014. Sân vận động Castelao tổ chức 6 trận đấu tại World Cup 2014, bao gồm 4 trận ở vòng bảng, 1 trận ở vòng 16 đội và 1 trận tứ kết.
1
null
Wreck-it Ralph (tiếng Việt: Ráp-phờ đập phá) là một bộ phim hài hoạt hình vi tính 3D năm 2012 của Mỹ do hãng Walt Disney Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành. Đây là bộ phim thứ 52 trong series Walt Disney Animated Classics. Bộ phim được đạo diễn bởi Rich Moore, người đã chỉ đạo các tập phim của "The Simpsons" và "Futurama" kịch bản được viết bởi Jennifer Lee và Phil Johnston từ một câu chuyện của Moore, Johnston và Jim Reardon. John Lasseter từng là giám đốc điều hành sản xuất. Bộ phim có sự tham gia lồng tiếng của John C. Reilly, Sarah Silverman, Jack McBrayer, và Jane Lynch. Bộ phim kể về nhân vật phản diện Ralph trong một trò chơi arcade cùng tên, người đứng lên chống lại vai trò "kẻ xấu" của mình với giấc mơ trở thành một anh hùng. "Wreck-It Ralph" công chiếu đầu tiên tại Rạp El Capitan vào ngày 29 tháng 10 năm 2012, và công chiếu rộng rãi từ ngày 2 tháng 11. Bộ phim là một thành công cả về mặt chuyên môn lẫn thương mại, thu về 471 triệu đô la trên toàn thế giới so với kinh phí 165 triệu đô la và giành được giải Annie Awards cho hạng mục "Phim hoạt hình xuất sắc nhất", nhận được đề cử Quả Cầu Vàng cũng như Oscars cho hạng mục "Phim hoạt hình xuất sắc nhất". "Wreck-It Ralph" đã được phát hành trên đĩa Blu-ray và DVD vào ngày 05 Tháng 3 năm 2013. Đây là phần đầu tiên trong series "Wreck-It Ralph". Phần tiếp theo, "", được phát hành vào ngày 21 tháng 11 năm 2018. Nội dung. Khi cửa hàng trò chơi điện tử của Litwak đóng cửa vào ban đêm, các nhân vật trong các trò chơi trở lại bình thường và được tự do di chuyển đến các trò chơi khác thông qua đường dây điện. Ralph, nhân vật phản diện của trò chơi "Fix-It Felix Jr.", bị tẩy chay vì là nhân vật phản diện của trò chơi, trong khi anh hùng nổi tiếng Felix được khen ngợi và trao huy chương. Vào buổi gặp gỡ giữa các nhân vật phản diện từ các trò chơi, Ralph tiết lộ mong muốn của mình là không muốn tiếp tục làm nhân vật phản diện. Sau khi cư dân của trò chơi loại trừ Ralph khỏi bữa tiệc kỷ niệm lần thứ ba mươi của họ, anh ta bắt đầu kiếm cho mình một huy chương để có được sự tôn trọng của hàng xóm. Anh thấy một nhân vật từ trò chơi "Hero's Duty" và nghĩ mình sẽ vào trò chơi này để tìm một chiếc huy chương. Trong lúc này anh vô tình làm một con Bọ Máy, kẻ thù của trò chơi thoát ra ngoài. Trong khi đó, với Ralph mất tích, một game thủ báo với chủ cửa hàng trò chơi "Fix-It Felix" hình như đã bị hỏng. Trò chơi bị hỏng sẽ bị rút điện, các nhân vật của trò chơi sẽ trở thành vô gia cư, vì vậy Felix lên đường đi tìm Ralph. Ralph rơi vào "Sugar Rush", một vương quốc kẹo ngọt với trò chơi đua ô tô. Anh làm rơi mất huy chương vào tay Vanellope von Schweetz, một nhân vật bị lỗi lập trình muốn sử dụng huy chương của anh mua vé tham gia vào một cuộc đua để được có tên trong danh sách các nhân vật của trò chơi. Các tay đua khác, bao gồm cả người cai trị của trò chơi là Vua Kẹo, từ chối không cho Vanellope tham gia, tuyên bố cô không bao giờ được là một phần của trò chơi. Thông cảm cho Vanellope, Ralph giúp làm cho cô một chiếc xe và dạy cô làm thế nào để lái xe. Trong khi đó, Felix vào "Hero's Duty" và gặp Trung sĩ Calhoun, nhà lãnh đạo không vô nghĩa của trò chơi, người cảnh báo rằng những con Bọ Máy sẽ tiêu diệt bất kỳ trò chơi nào mà chúng xâm nhập. Khi tìm kiếm Ralph và Bọ Máy trong "Sugar Rush", Felix bắt đầu có cảm tình với Calhoun, vô tình nhắc cô nhớ đến vị hôn phu quá cố của mình, cô đẩy Felix ra khỏi phi thuyền. Calhoun tìm thấy một ổ trứng Bọ Máy dưới lòng đất, và Felix trở thành tù nhân trong lâu đài của Vua Kẹo. Tuyệt vọng, Vua Kẹo xâm nhập vào vùng hệ thống của "Sugar Rush" để lấy huy chương của Ralph và trả cho Ralph, và nói rằng nếu cho Vanellope tham gia cuộc đua sẽ là một thảm họa cho cô ấy và cả trò chơi. Lo sợ cho sự an toàn của Vanellope, Ralph phá hủy xe của Vanellope và trở lại trò chơi của mình, nhưng khi đó tất cả mọi người đã bỏ đi. Ralph sau đó vô tình nhìn thấy hình ảnh của Vanellope bên ngoài thùng máy của "Sugar Rush" và nhận ra cô ấy là một phần của trò chơi. Ralph trở lại "Sugar Rush", cứu Felix và Vanellope, nhờ Felix sửa chữa chiếc xe của Vanellope. Với cuộc đua đang diễn ra, Bọ Máy đang tấn công. Khi Vanellope bắt kịp Vua Kẹo, cô nhận ra ông ta thực ra là Turbo, một nhân vật trong một trò chơi đua xe lỗi thời phá hoại một trò chơi mới hơn vì ghen tuông, gây ra việc cả hai bị rút điện. Vanellope thoát khỏi Turbo, ông ta bị một con Bọ Máy nuốt vào bụng. Dân chúng chạy trốn khỏi "Sugar Rush", nhưng Vanellope không thể đi qua lối ra vì cô ấy vẫn còn lỗi. Calhoun nhận ra rằng trò chơi không thể cứu vãn vì không có ngọn đèn sáng để thu hút và tiêu diệt lũ Bọ Máy. Ralph đi về hướng Diet Coke Mountain, một ngọn núi lửa của trò chơi, nơi anh định để kẹo mentos phía trên miệng núi rơi vào hồ coke nóng phía dưới để gây ra một vụ phun trào như một ngọn đèn sáng tiêu diệt Bọ Máy. Trước khi anh có thể hoàn thành, Turbo biến thành Bọ Máy để tiêu diệt anh, ông ta mang Ralph lên bầu trời rồi thả xuống. Ralph rơi xuống phá vỡ miệng núi, có ý định hi sinh bản thân để cứu trò chơi. Vanellope sử dụng lỗi chập chờn của mình để cứu Ralph, và sự phun trào thu hút Turbo và lũ Bọ Máy dẫn tới sự hủy diệt của chúng. Vanellope vượt qua vạch đích, khôi phục lại bộ nhớ trò chơi và thân phận của cô là công chúa Vanellope, người cai trị của trò chơi và là nhân vật chính. Felix và Ralph trở lại trò chơi của họ và nó được cắm điện trở lại. Calhoun và Felix kết hôn, và các nhân vật của "Fix-It Felix, Jr" đã dành sự tôn trọng cho Ralph. Diễn viên lồng tiếng. Và các diễn viên khác, bao gồm: trong "Fix-It Felix, Jr" Nicerlanders, Edie McClurg vai Mary, Raymond Persi vai Thị trưởng Gene, Jess Harnell vai Don, Rachael Harris vai Deanna, và Skylar Astin vai Roy; Katie Lowes vai Candlehead, Jamie Elman vai Rancis Fluggerbutter, Josie Trinidad vai Jubileena Bing-Bing, và Cymbre Walk vai Crumbelina DiCaramello, tay đua trong "Sugar Rush"; Johnston vai Surge Protector, nhân viên an ninh Nhà ga trung tâm trò chơi; Stefanie Scott vai Moppet Girl, một game thủ trẻ, John DiMaggio vai Beard Papa, bảo vệ an ninh tại nhà máy sản xuất kẹo trong "Sugar Rush"; Raymond Persi vai một Zombie, Brian Kesinger vai một Cyborg (dựa trên Kano từ "Mortal Kombat"); và Martin Jarvis vai Saitine, một nhân vật phản diện ma quỷ, những người tham dự nhóm ủng hộ Bad-Anon; Tucker Gilmore vai Loa thông báo "Sugar Rush"; Brandon Scott vai Kohut, một người lính trong "Hero's Duty"; và Tim Mertens vai Tiến sĩ Brad Scott, một nhà khoa học và là chồng chưa cưới của Calhoun trong "Hero's Duty" (trong bản phát hành ở Anh Quốc nhân vật này lồng tiếng bởi Nick Grimshaw). Bộ phim có một số khách mời từ các trò chơi điện tử có thật, bao gồm: Root Beer Tapper (Maurice LaMarche), người phục vụ từ Quán bar của Tapper, Sonic the Hedgehog (Roger Craig Smith); Ryu (Kyle Hebert), Ken Masters (Reuben Langdon), M. Bison (Gerald C. Rivers), và Zangief (Rich Moore) từ "Street Fighter", Clyde (Kevin Deters) từ "Pac-Man", và Yuni Verse (Jamie Sparer Roberts) từ "Dance Dance Revolution". Một nhân vật mô phỏng theo phong cách của nhạc sĩ Skrillex xuất hiện trong "Fix-It Felix, Jr" với vai trò là DJ tại buổi tiệc kỷ niệm của trò chơi. Các vai khách mời và tham khảo. Ngoài các vai có thoại, "Wreck-It Ralph" sử dụng một số tài liệu tham khảo từ các trò chơi điện tử khác, bao gồm cả ký tự và hình ảnh gây cười. Tại cuộc họp của nhân vật phản diện, ngoài các nhân vật đã đề cập ở trên còn có: Bowser từ "Super Mario Bros.", Doctor Eggman từ "Sonic the Hedgehog", và Neff từ "Altered Beast". Các nhân vật từ "Q*bert", bao gồm Q*bert, Coily, Slick, Sam, và Ugg, được diễn tả như nhân vật "vô gia cư" và sau đó được gia nhập vào trò chơi của Ralph và Felix (Q*bert cũng nói với Felix tại một số thời điểm bằng cách sử dụng chữ ký tổng hợp sai ngữ pháp và ký hiệu bong bóng từ trò chơi của mình, được gọi là Q*bert-ese). Cảnh trong "Nhà ga trung tâm trò chơi" và "Quán bar Tapper" bao gồm Chun-Li, Cammy, và Blanka từ "Street Fighter", Pac-Man, Blinky, Pinky, Inky và từ "Pac-Man", Paperboy từ "Paperboy", hai mái chèo và bóng từ "Pong", Dig Dug, một Pooka và Fygar từ "Dig Dug", Qix từ "Qix", Frogger từ "Frogger", và Peter Pepper từ "BurgerTime". Ngoài ra, Lara Croft và Mario cũng được đề cập trong một số phân cảnh. Các cư dân của Nicerland và người phục vụ trong " Quán bar Tapper" là hoạt hình sử dụng chuyển động giật giật mà làm cho người xem cảm thấy sự hạn chế của các video game thế hệ cũ với đồ họa 8 và 16-bit. Vua Kẹo sử dụng Mã Konami trên một bộ điều khiển NES để truy cập vào vùng hệ thống của "Sugar Rush". Trong "Nhà ga trung tâm trò chơi" là các bức graffiti bao gồm "Aerith sống động" (lấy ý tưởng từ nhân vật Aerith Gainsborough của "Final Fantasy VII"). "Tất cả các nền tảng của họ là thuộc về chúng ta" (một cụm từ Engrish phổ biến từ trò chơi "Zero Wing"), "Sheng Long đã ở đây" (tham khảo một trò đùa Cá tháng Tư xung quanh nhân vật hư cấu Sheng Long từ "Street Fighter"), và "Jenkins" (Leeroy Jenkins từ "World of Warcraft"). Ngoài ra còn có một vài thứ liên quan đến loạt "Metal Gear" mà Ralph tìm thấy khi đang tìm kiếm huy chương tại quán "Tapper", đầu tiên là tìm thấy một Siêu nấm từ "Super Mario Bros.", và sau đó là "dấu chấm than" từ "Metal Gear" (với các hiệu ứng âm thanh tương ứng từ các trò chơi). Ông Litwak mặc áo sơ mi màu đen và trắng sọc của trọng tài, một cách tôn trọng cho bộ trang phục mang tính biểu tượng của Walter Day, người sáng lập "Twin Galaxies". Một trong những bài hát trong phần cuối phim là một tác phẩm gốc từ Buckner & Garcia, trước đây nổi tiếng với vài trò là bài hát chủ đề của các trò chơi vào những năm 1980.. Quá trình sản xuất. Ý tưởng về "Wreck-It Ralph" lần đầu tiên được phát triển tại Disney trong cuối những năm 1980, dưới tên "High Score". Kể từ đó, bộ phim đã được xây dựng và xem xét lại nhiều lần: Vào cuối những năm 1990, dự án đổi tên thành "Joe Jump", sau đó vào những năm 2000 là "Reboot Ralph". John Lasseter, người đứng đầu Walt Disney Animation Studios và điều hành sản xuất của bộ phim, mô tả "Wreck-It Ralph" là "một kẻ xấu từ một máy chơi game 8-bit đi một chặn đường dài để chứng minh rằng anh ấy là một chàng trai tốt". Một cách tương tự như "Who Framed Roger Rabbit" và những bộ phim "Toy Story", "Wreck-It Ralph" đặc biệt có sự xuất hiện của các khách mời đến từ các trò chơi có thật. Ví dụ, một cảnh trong phim cho thấy Ralph tham gia một nhóm ủng hộ các nhân vật phản diện khác nhau của các trò chơi, bao gồm Clyde từ "Pac-Man", bác sĩ Eggman từ "Sonic the Hedgehog", và Bowser từ "Super Mario Bros.". Rich Moore, đạo diễn của bộ phim, đã xác định rằng đối với một bộ phim về thế giới trò chơi điện tử mà muốn cho nó thực tế, " thì nó phải có nhân vật từ trò chơi thực sự tồn tại trong đó". Tuy nhiên, Moore tránh tạo ra các bộ phim xung quanh các nhân vật hiện tại, Moore cho rằng "có rất nhiều câu chuyện và đồ đạc gắn liền với nhân vật đó mà tôi cảm thấy một ai đó sẽ phải thất vọng vì sẽ rất dài dòng", và cho rằng đây là lý do tại sao bộ phim dựa trên nhượng quyền thương mại của các trò chơi điện tử mà không sử dụng quá sâu vào chúng. Thay vào đó, tập trung vào Ralph, phát triển nhân vật mới đại diện cho điện tử 8-bit là "gần giống như là cách tân", đem lại cho họ sự tự do để có thể phát triển các nhân vật ở hướng mới. Trước khi sản xuất, các nhân vật hiện tại đã được thêm vào những câu chuyện, hoặc ở những nơi mà họ sẽ có ý nghĩa để xuất hiện, hoặc các khách mời từ một danh sách các nhân vật được đề xuất bởi đội ngũ sáng tạo của bộ phim, với việc xem xét nếu hợp pháp sẽ có thể sử dụng các nhân vật đó. Công ty sau đó đã tìm ra người giữ bản quyền với mục đích xin phép sử dụng các nhân vật, cũng như làm việc với các công ty để đảm bảo nhân vật của họ đã được sử dụng công khai. Trong trường hợp của Nintendo, các tác giả đã sớm hình dung ra cuộc họp Bad-anon với Bowser là một nhân vật chính trong phân cảnh; theo Moore, Nintendo đã rất nhiệt tình đối với việc sử dụng này, trong đó nêu theo cách của Moore, "nếu có một nhóm được dành riêng để ủng hộ các nhân vật phản diện trong các trò chơi video, thì Bowser phải có trong nhóm đó!". Nintendo đã yêu cầu các nhà sản xuất cố gắng đưa ra một cảnh thích hợp tương tự cho Mario để đưa nhân vật của mình lên đó. Mặc dù họ có thể sử dụng nhân vật, nhưng các nhà sản xuất không thể tìm thấy một cảnh thích hợp cho Mario bởi đây là một nhân vật nếu xuất hiện có thể sẽ lấy đi đáng kể sự chú ý cho các nhân vật chính, và họ chọn không để nhân vật này lên phim. Moore vạch trần một tin đồn rằng nhân vật Mario và anh trai Luigi không lên phim được vì Nintendo yêu cầu tiền bản quyền quá cao, đạo diễn này nói rằng các tin đồn ban đầu là một trò đùa của John C. Reilly làm tại Comic-Con. Tiến sĩ Wily từ trò chơi "Mega Man" đã xuất hiện, nhưng đã bị cắt trong phiên bản cuối cùng của bộ phim. Nhìn chung, có khoảng 188 nhân vật trong bộ phim. Bản thảo kịch bản của phim là Ralph và Vanellope dành thời gian đi khắp nơi trong thế giới trò chơi để thu thập các đồng xu cho cô tham gia vòng đua "Sugar Rush", và đôi khi bao gồm chuyến du lịch của cặp đôi Felix. Trong những cảnh này, Ralph sẽ nói dối về mối quan hệ vừa chớm nở của Felix với Calhoun, cuối cùng Ralph trở nên chán nản và từ bỏ nhiệm vụ của mình để lấy lại được huy chương. Vào lúc này, trò chơi thứ tư xuất hiện, "Extreme Easy Living 2", sẽ được giới thiệu và được coi là một "nơi của chủ nghĩa khoái lạc" kết hợp giữa bản chất của "The Sims" và các khía cạnh ở trò chơi khách quan hơn của "Grand Theft Auto", theo Moore. Ralph sẽ đến đó để, chìm đắm trong tâm tư của mình, và sẽ tìm được hạnh phúc bằng cách đạt được nút "Like It" để có thể được chấp nhận ở nơi này. Moore nói rằng rất khó để xem xét trò chơi mới này, họ nhận thấy rằng nếu được giới thiệu vào nửa cuối của bộ phim sẽ là một điều quá khó khăn để người xem tiếp nhận. Họ tiếp tục gặp khó khăn để làm thế nào tạo ra một trò chơi có thể tạo sự giải trí cho khán giả, và mặc dù được coi là trò chơi được chạy trên máy tính xách tay của Litwak, nó quá phức tạp cho hành trình của Ralph. Nghiên cứu các phân cảnh "Sugar Rush" của bộ phim, nhóm phát triển đã đi tới triển lãm ISM Cologne, nhà máy sản xuất kẹo See's Cady, và các cơ sở sản xuất khác. Nhóm cũng tham khảo các nhiếp ảnh gia thực phẩm, sử dụng kinh nghiệm chuyên môn để làm cho thực phẩm xuất hiện hấp dẫn hơn. Các hiệu ứng đặc biệt, bao gồm từ "khói, bụi" có vẻ riêng biệt trong từng phân đoạn. Phát hành. Bộ phim ban đầu dự kiến ​​sẽ phát hành vào ngày 22 tháng 3 năm 2013, nhưng sau đó được thay đổi vào ngày 2 tháng 11 năm 2012 vì đã hoàn thành trước thời hạn. Khi phát hành tại rạp, bộ phim được chiếu mở màn bằng phim hoạt hình ngắn từng đoạt giải Oscars của Disney, Paperman. Chiến dịch quảng bá. Đoạn trailer đầu tiên cho "Wreck-It Ralph" đã được phát hành vào ngày 06 tháng 6 năm 2012, chiếu kèm với "" và "Rock of Age". Việc này diễn ra cùng lúc với Electronic Entertainment Expo 2012, Disney đã xây dựng máy chơi game "Flex-It Felix, Jr" hư cấu trên màn hình hiển thị trên sàn trình diễn. Disney cũng phát hành một phiên bản trò chơi "Fix-It Felix, Jr" trên nền trình duyệt, cũng như các phiên bản cho iOS và Android, với các phiên bản online dựa trên "Sugar Rush" và "Hero's Duty". Trailer thứ hai cho bộ phim được phát hành vào ngày 12 Tháng 9 năm 2012, chiếu kèm với "Finding Nemo 3D" và "Frankenweenie". Để quảng bá việc phát hành Blu-ray/DVD của "Wreck-It Ralph", đạo diễn Rich Moore đã sản xuất một bộ phim ngắn có tựa đề "". Phương tiện gia đình. "Wreck-It Ralph" đã được phát hành trên đĩa Blu-ray Disc (2D và 3D) và DVD tại Bắc Mỹ vào ngày 05 tháng 3 năm 2013 bởi Walt Disney Studios Home Entertainment. Bộ phim đã được bán dưới dạng tải kĩ thuật số tại một số khu vực nhất định vào ngày 12 tháng 2 năm 2013. Đón nhận. Doanh thu phòng vé. "Wreck-It Ralph" đã thu về 189,422,889 USD tại Bắc Mỹ, và 281,800,000 USD ở các nước khác, tổng doanh trên toàn thế giới của bộ phim là 471,222,889 USD. Đây là bộ phim có doanh thu cao thứ 14 phát hành trong năm 2012, bộ phim hoạt hình có doanh thu cao thứ 4 phát hành trong năm 2012. Tại Bắc Mỹ, phim ra mắt với 13.500.000 USD, một con số trên mức trung bình cho một bộ phim hoạt hình phát hành vào tháng 11. Trong tuần đầu công chiếu, bộ phim đứng đầu doanh thu phòng vé với $ 49 triệu USD, điều này làm cho "Wreck-it Ralph" trở thành bộ phim có doanh thu mở màn cao nhất của hãng Walt Disney Animation Studios cho đến năm 2013, khi bị vượt qua bởi bộ phim "Frozen" (67.400.000 USD). Bên ngoài Bắc Mỹ, "Wreck-It Ralph" thu được 12.000.000 vào cuối tuần đầu tiên từ 6 thị trường. Trong số tất cả các thị trường, ba thị trường lớn nhất được ghi nhận là Anh, Ireland và Malta (7.150.000 USD), Brazil (5.320.000 USD), Nga các nước SNG (5.270.000 USD). Trong tổng số doanh thu, ba thị trường lớn nhất là Anh, Ireland và Malta (36.200.000 USD), Nhật Bản (29.600.000 USD), và Úc (24.000.000 USD). Đánh giá chuyên môn. "Wreck-It Ralph" nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình. Trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes thống kê rằng có 86% các nhà phê bình cho bộ phim nhận xét tích cực từ 163 bài đánh giá, với điểm số trung bình là 7,4/10. Các trang phê bình đồng thuận: "không kém phần thú vị để cho trẻ em lẫn cha mẹ tham khảo". "Wreck-It Ralph" là một câu chuyện mạch lạc, một cuộc phiêu lưu đầy màu sắc được xây dựng trên các chủ đề quen thuộc với ký ức tuổi thơ của mỗi người. Trên trang Metacritic, bộ phim được gán mức bình thường trong số 100 đánh giá hàng đầu từ các nhà phê bình, điểm trung bình là 72 dựa trên 36 bài đánh giá, chỉ ra "nói chung thuận lợi". Bộ phim giành được điểm "A" từ khán giả được hỏi bởi trang CinemaScore. Nhạc phim. Nhạc nền của bộ phim được sáng tác bởi Henry Jackman. Bộ phim cũng sử dụng một số bài hát gốc của Owl City, AKB48, Skrillex và Buckner & Garcia. Trò chơi. Ngoài các phiên bản Flash của trò chơi "Fix-It Felix, Jr" trên nền trình duyệt, Disney đã phát hành tựa game "Wreck-it Ralph" dành cho Wii, Nintendo 3DS, và Nintendo DS. Trò chơi được sản xuất như sự hợp tác giữa Disney Interactive và Activision và có nội dung như là một "câu chuyện mở rộng" của bộ phim. Diễn ra sau các sự kiện của bộ phim, người chơi có thể vào vai Ralph hoặc Felix. Cấp độ trò chơi được dựa trên các địa điểm trong phim như "Fix-It Felix, Jr", "Hero's Duty", và "Sugar Rush" cũng như "Nhà ga trung tâm trò chơi". Trò chơi được phát hành cùng lúc với bộ phim, tháng 11 năm 2012. Trong tháng 10 năm 2012, Disney phát hành phiên bản trò chơi trên nền trình duyệt với các trò chơi "Hero's Duty" và "Sugar Rush" trên trang chủ chính thức của bộ phim. Một trò chơi trên điện thoại di động mang tên "Wreck-it Ralph" được phát hành vào tháng 11 năm 2012 cho hai hệ điều hành iOS và Android, và một phiên bản cho Windows Phone 8 gần một năm sau đó. Ban đầu, các trò chơi bao gồm ba mini-game, "Fix-it Felix, Jr", "Hero's Duty" và "Sweet Climber", sau này được bổ sung thêm "Turbo Time" và "Flight Command". Ralph cũng xuất hiện trong "Sega's Sonic & All-Stars Racing Transformed" với vai trò vai khách mời nhưng có thể điều khiển được..Ralph và Vanellope cũng xuất hiện trong Disney Infinity; Disney Store bắt đầu bán ra mô hình nhân vật Disney Infinity của Ralph và Vanellope vào ngày 07 Tháng 1 năm 2014. Một combo "toy box pack" của hai nhân vật với đĩa tùy biến "Sugar Rush" cũng được phát hành ngày 1 tháng 4 năm 2014 trên Disney Store. Phần tiếp theo. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 25 tháng 10 năm 2012, đạo diễn Rich Moore nói rằng ông và Disney có những ý tưởng về một phần tiếp theo có thể sẽ có thêm nhiều nhân vật mới và sẽ mở rộng sang cả game trực tuyến và các game console. Moore cũng nói rằng ông có kế hoạch đem cả Mario và Tron lên phần tiếp theo. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2014, nhà soạn nhạc của bộ phim Henry Jackman nói rằng một câu chuyện cho phần tiếp theo của phim đang được viết.
1
null
Mineirão (), tên chính thức là Sân vận động Thống đốc Magalhães Pinto (), là một sân vận động bóng đá nằm ở Belo Horizonte, Minas Gerais, Brasil. Đây là sân vận động lớn nhất ở bang Minas Gerais. Sân được khánh thành vào năm 1965. Đây là một trong những sân vận động tổ chức các trận đấu của Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 và Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Sân cũng tổ chức một số trận đấu môn bóng đá của Thế vận hội Mùa hè 2016. Sân vận động có sức chứa 61.846 khán giả. Sân thuộc sở hữu của bang Minas Gerais. Đây là sân nhà của Atlético Mineiro và Cruzeiro. World Cup 2014. Sân vận động được tổ chức 6 trận đấu tại World Cup 2014, bao gồm 4 trận ở vòng bảng, 1 trận ở vòng 16 đội và 1 trận bán kết.
1
null
Sân vận động José Pinheiro Borda (), còn được gọi là Sân vận động Beira-Rio () hay Gigante da Beira-Rio hoặc đơn giản là Beira-Rio, (, "Sân vận động bên sông") do sân nằm bên cạnh sông Guaíba, là một sân vận động bóng đá ở Porto Alegre, Brasil. Đây là sân nhà của đội bóng Sport Club Internacional. Sân thay thế sân vận động trước đây của đội Internacional, Sân vận động Eucaliptos. Sân được đặt theo tên của José Pinheiro Borda, một kỹ sư lớn tuổi người Bồ Đào Nha, người đã chịu trách nhiệm giám sát công việc xây dựng sân vận động nhưng đã qua đời trước khi sân được hoàn thành. Sân vận động Beira-Rio là một trong 12 địa điểm được sử dụng cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Sân đã tổ chức năm trận đấu trong giải đấu đó.
1
null
Sân vận động Itaipava Arena Fonte Nova còn được biết đến với tên gọi Complexo Esportivo Cultural Professor Octávio Mangabeira là sân vận động dành riêng cho bóng đá, lần đầu tiên được đưa vào sử dụng tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 và sau đó là Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Sân vận động này nằm ở Salvador, Bahia và có sức chứa tối đa 55 000 người. Sân vận động này cũng sẽ là một trong những địa điểm thi đấu môn bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2016. World Cup 2014. Sân vận động Itaipava Arena Fonte Nova tổ chức 6 trận đấu tại World Cup 2014, bao gồm 4 trận đấu ở vòng bảng, 1 trận ở vòng 16 đội và 1 trận tứ kết.
1
null
Emydidae hay còn gọi là rùa đầm lầy là một họ rùa. Trước đây, nhiều loài rùa châu Á được xếp vào họ này. Tuy nhiên, việc xem xét lại hệ thống phân loại, chúng đã được tách ra thành họ riêng. Hiện tại, Emydidae, trừ hai loài rùa hồ, phân bố hoàn toàn ở Tây bán cầu. Họ này có 10 chi 50 loài. Phân loại học. Họ này gồm 2 phân họ và 10 chi::
1
null
2MASS J0523-1403 là một sao lùn đỏ có khối lượng rất nhỏ cách trái đất khoảng 40 năm ánh sáng ở phía nam chòm sao Thiên Thố. Với cấp sao biểu kiến rất mờ 21.05 và nhiệt độ rất thấp 2074°K nó được nhìn thấy chủ yếu bởi kính viễn vọng nhạy cảm lớn. 2MASS J0523-1403 lần đầu tiên được quan sát thấy như một phần của Two Micron All-Sky Survey (2MASS).
1
null
Zalora là hệ thống bán lẻ thời trang và mỹ phẩm trực tuyến, với các sản phẩm quần áo thời trang, phụ kiện, giày dép, mỹ phẩm cho cả nam và nữ. Ngoài trụ sở vùng đặt tại Singapore, ZALORA còn có website bán hàng ở các thị trường Hong Kong, Singapore, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Brunei. Bên cạnh đó, ZALORA còn vận hành tập đoàn The Iconic của Úc và New Zealand. Đây là sự đầu tư lớn nhất của tập đoàn Rocket Internet tại Singapore. Lịch sử. 2012. Đầu năm 2012, website ZALORA có mặt tại Hong Kong, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam. 2013. Vào quý đầu tiên của năm 2013, ZALORA Malaysia cung cấp thêm dịch vụ giao hàng đến Brunei. Giữa năm 2013, ZALORA hoàn tất vòng huy động vốn đầu tiên, nhận được 100 triệu USD. Trong quý cuối của 2013, ZALORA cho ra đời nhãn hiệu thời trang độc quyền: Ezra by ZALORA. Đồng thời, ZALORA chính thức trở thành nhà phân phối trực tuyến duy nhất của River Island - thương hiệu thời trang đến từ Anh Quốc tại khu vực Đông Nam Á. ZALORA cũng tuyên bố hoàn tất vòng huy động vốn thứ hai, nhận tổng cộng 112 triệu USD. Nguồn kinh phí này sẽ dành để phát triển thị trường và tạo nguồn sản phẩm phong phú cho ZALORA. 2014. Trong quý đầu tiên của 2014, ZALORA công bố kế hoạch xây dựng Sàn Giao Dịch Thương mại Điện Tử.
1
null
Maud Angelica Behn (sinh ngày 29 tháng 4 năm 2003 tại Bệnh viện Đại học Rikshospitalet ở Oslo) là con gái lớn của Märtha Louise của Na Uy và nhà văn Ari Behn. Cô đồng thời cũng là cháu lớn nhất của Vua Harald V và Sonja, Vương hậu Na Uy. Maud đang đứng thứ 5 trong danh sách kế vị ngai vàng hoàng gia Na Uy, sau mẹ của cô là Märtha Louise của Na Uy. Cô đồng thời cũng đang đứng thứ 76 trong danh sách kế vị ngai vàng của 16 nước thuộc Khối thịnh vượng chung. Thiếu thời. Cô được đặt tên theo Vương nữ Maud của Liên hiệp Anh (Vương hậu Na Uy) - con gái út của Vua Edward VII của Anh. Cô được rửa tội vào ngày 2 tháng 7 năm 2003 tại Nhà nguyện thuộc Cung điện Hoàng gia, đúng 100 năm sau khi ông cố ngoại của cô là Vua Olav V của Na Uy ra đời. Cha mẹ đỡ đầu của cô bao gồm: Vua Harald V của Na Uy, Thái tử Haakon, Công chúa Alexandra xứ Sayn-Wittgenstein-Berleburg, Marianne Ulrichsen, nữ diễn viên Kåre Conradi, Anja Sabrina Bjørshol và chính trị gia người Na Uy Trond Giske. Maud Angelica Behn sống những năm đầu đời tại "Lommedalen", Bærum thuộc hạt Akershus, Na Uy. Đến năm 2004, cô cùng gia đình chuyển đến sống ở thành phố New York, Hoa Kỳ. Tuy nhiên sau đó, vào tháng 4 năm 2005, gia đình cô lại chuyển về Na Uy sinh sống để chuẩn bị chào đón thành viên mới là Leah Isadora. Tháng 9 năm 2008, cô có thêm một em gái nữa là Emma Tallulah. Tháng 9 năm 2012, gia đình cô chuyển sang định cư tại Islington, Luân Đôn, Anh. Giáo dục. Mùa thu năm 2009, cô đã bắt đầu theo học tại trường Bærum Waldorf ("Tiếng Na Uy: Steinerskolen i Bærum") ở Bærum, Na Uy.
1
null
Cố định đạm (thường được gọi là cố định nitơ) là quá trình biến đổi nitơ tự do (N2) trong khí quyển thành các hợp chất có nitơ. Sản phẩm ban đầu của quá trình này rất đa dạng: có thể là muối NH3, từ đó tạo nên amoni (NH4+) hoặc nhiều hợp chất khác. Điều này rất quan trọng vì nitơ tự do trong khí quyển là khí trơ, trong cấu tạo phân tử nó có liên kết ba giữa 2 nguyên tử rất bền vững, rất khó phản ứng với các hóa chất khác để tạo ra hợp chất mới, trong khi mà nguyên tố nitơ lại vô cùng cần thiết cho toàn bộ các loài thực vật, động vật cũng như nhiều dạng sống khác để tạo nên các hợp chất có vai trò sống còn cho mọi sinh vật như nucleotide trong DNA và RNA và các amino acid trong protein, ATP v.v. Quá trình cố định nitơ trong tự nhiên thường diễn ra theo nhiều con đường khác nhau: Con đường thứ nhất còn được gọi là "con đường phi sinh học";con đường thứ hai gọi là "con đường sinh học". Cố định phi sinh học. Nitơ có thể được cố định bằng cách kết hợp với oxy thành dạng NOx (nitrogen oxides), nhờ tác động của tia chớp (tia sét) sau đó kết hợp với nước tạo ra muối nitrit hoặc tạo nên axit nitric (HNO3) thấm xuống đất, tạo ra nhiều loại muối ở dạng nitrat cây rất dễ hấp thu. Sét thừa đủ năng lượng phá vỡ liên kết ba giữa 2 nguyên tử nitơ. Bởi thế, nông dân Việt Nam từ xa xưa đã có câu: "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên".
1
null
Cộng hòa chuối (tiếng Anh: "banana republic") là một thuật ngữ khoa học chính trị dùng để chỉ quốc gia có nền chính trị bất ổn ở Mỹ Latinh với nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu một loại sản phẩm hữu hạn nhất định nào đó, ví dụ như chuối, khoáng sản... Thông thường, xã hội trong một nước cộng hòa chuối sẽ có sự phân hóa, thường là gồm một tầng lớp lao động đông đảo nhưng nghèo khổ và một tầng lớp thống trị gồm các thương gia, chính trị gia và tướng lĩnh quân sự giàu có. Bọn quả đầu (hay đầu sỏ, tiếng Anh: "oligarch") thống trị này kiểm soát khu vực một (hay khu vực sản xuất sơ khai) của nền kinh tế bằng cách bóc lột sức lao động nhân dân; như vậy, cụm từ "cộng hòa chuối" là một thuật ngữ mang thái độ miệt thị đối với nền độc tài chuyên xúi giục và ủng hộ cho văn hóa lót tay, đưa hối lộ, sự bóc lột các đồn điền nông nghiệp diện rộng, đặc biệt là trong khai thác chuối. Trong lãnh vực kinh tế, một nước cộng hòa chuối là một quốc gia có nền kinh tế theo chủ nghĩa tư bản nhà nước, một mô hình kinh tế mà đất nước đang hoạt động như một doanh nghiệp thương mại tư nhân cho lợi nhuận độc quyền của giai cấp thống trị. Một sự bóc lột như vậy được thực hiện bằng sự thông đồng giữa Nhà nước và những công ty độc quyền kinh tế được hưởng ân huệ, trong đó lợi nhuận thu được từ việc khai thác tư nhân đối với các vùng đất công cộng là sở hữu tư nhân, trong khi các khoản nợ phát sinh từ đó ra là trách nhiệm tài chính của tài sản công cộng. Một nền kinh tế mất cân đối như vậy bị hạn chế bởi sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa thành phố và quốc gia, và thường làm giảm giá trị tiền tệ quốc gia, do đó làm cho đất nước không đủ điều kiện cho tín dụng phát triển quốc tế. Nguồn gốc. Nhà văn người Mỹ O. Henry là người đặt ra thuật ngữ "cộng hòa chuối" nhằm miêu tả nước cộng hòa giả tưởng Anchuria trong quyển sách "Cabbages and Kings" (1904). Cuốn sách là một tuyển tập các truyện ngắn có chủ đề liên quan với nhau, lấy cảm hứng từ những trải nghiệm ông thu được ở đất nước Honduras giai đoạn 1896-1897 khi ông đang bị truy nã ở Mỹ vì tội biển thủ. Trong khoa học chính trị, thuật ngữ này mang nghĩa tiêu cực khi miêu tả nền độc tài mang tính nô lệ mà ở đó xúi giục hoặc hỗ trợ hành vi chi tiền đút lót, khai thác đồn điền trên quy mô lớn, đặc biệt là trồng chuối. Trong kinh tế học, thuật ngữ này để chỉ một quốc gia được điều hành như một công ty thương mại vì lợi nhuận riêng, bị tác động bởi sự thông đồng giữa nhà nước và các trùm độc quyền, lợi nhuận từ khai thác đất công thì rơi vào túi tư nhân còn các nghĩa vụ nợ thì toàn dân phải gánh. Loại nền kinh tế thiếu cân bằng như thế khó phát triển vì sự phát triển thiếu công bằng xã hội giữa thành thị và nông thôn, có xu hướng gây trượt giá đồng nội tệ, khiến quốc gia không thể hoàn trả tín dụng hỗ trợ phát triển vay của quốc tế. Nhân viên chính phủ thì lợi dụng vị trí để thu lợi bất chính (biển thủ, lừa đảo, hối lộ...), hậu quả là nhân dân lao động làm công ăn lương phải trả nợ vay để bù đắp thâm hụt ngân sách.
1
null
Chuyên chính dân chủ nhân dân là sự thống trị về chính trị của nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các cá nhân thân sĩ, lấy công nhân, nông dân và trí thức yêu nước làm nền tảng do Đảng Cộng sản, đại diện tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo. Chuyên chính dân chủ nhân dân là thành quả thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ lịch sử của Chuyên chính dân chủ nhân dân là "chuyên chính dân chủ nhân dân, tức là dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân... nhân dân lao động nắm chính quyền, chuyên chính với bọn bóc lột, tức là số đông nhân dân lao động chuyên chính với số ít bọn bóc lột... khi bên trong không còn giai cấp, không còn người bóc lột người nữa, và trên cơ sở quyền sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất được thực hiện, con người đã được giáo dục có trình độ tiến lên cộng sản chủ nghĩa và bên ngoài không còn đế quốc nữa, lúc đó chuyên chính không còn lý do tồn tại sẽ trở thành vô dụng và tự thủ tiêu đi". Lịch sử. Lenin là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về sự kết hợp giữa nền dân chủ nhân dân và chuyên chính vô sản. Theo Lenin thì "Chuyên chính vô sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu - chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản". Khái niệm này nổi tiếng nhất và trở thành phổ biến khi được Mao Trạch Đông sử dụng ngày 30 tháng 6 năm 1949, nhân kỷ niệm 28 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Mao đã diễn giải ý tưởng của mình về chế độ "Chuyên chính dân chủ nhân dân" cũng như bác bỏ những lời chỉ trích và phản bác về những hậu quả mà ông sẽ phải đối mặt. Những quốc gia áp dụng. Tại Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945 là nhà nước Chuyên chính dân chủ nhân dân thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo tiền đề đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo giải thích của Hồ Chí Minh, trong bài viết đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 316, ngày 8 tháng 2 năm 1957 thì Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2-1951) đã ghi: Các nước khác. Tại Trung Quốc, khái niệm này được đưa vào Hiến pháp. Mao Trạch Đông cho rằng "chuyên chính dân chủ nhân dân" là khái niệm kế thừa chủ nghĩa Marx-Lenin. Năm 1905, Lenin đã từ chối áp dụng phương án "Công nông Cách mạng Dân chủ Chuyên chính" trên toàn Nga là chế độ Vô sản chuyên chính. Những năm 20-30 của thế kỷ thứ 20 Đảng Cộng sản Trung Quốc và đảng cộng sản một số nước châu Á đã vận dụng khái niệm này để chỉ đạo phong trào cách mạng tại nước họ.
1
null
Rosemead là một thành phố trong Quận Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Theo điều tra dân năm 2010, thành phố có dân số là 53.764. Rosemead là một phần của một nhóm các thành phố, cùng với Arcadia, Temple City, Monterey Park, San Marino và San Gabriel, ở phía tây San Gabriel Valley với dân số gốc châu Á đang phát triển. Tại đây từng có một thị trưởng Người Mỹ gốc Việt là John Trần.
1
null
Thông cáo chung được ký giữa chính quyền Việt Nam Cộng hòa với Phật giáo sau biến cố Phật giáo, 1963. Theo chỉ đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền đề nghị Ủy ban Liên Phái và Ủy ban Liên Bộ đàm phán để giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo. Phái đoàn Ủy ban Liên Bộ do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ làm trưởng đoàn và phái đoàn Ủy ban Liên Phái do thiền sư Thiện Minh làm trưởng đoàn họp từ ngày 14/6/1963 đến 2 giờ sáng ngày 16/6/1963. Sau 30 giờ làm việc, hai phái đoàn ra bản Thông cáo chung với sự chấp thuận của Chủ tịch Tổng Hội Phật giáo Việt Nam thiền sư Tịnh Khiết và Tổng thống Ngô Đình Diệm.
1
null
John Trần (Tiếng Việt: "Trần Diệc Tuyền" sinh ngày 20 tháng 11 năm 1975) là một cựu chính trị gia Người Mỹ gốc Việt phục vụ trong hội đồng thành phố Rosemead, California là thị trưởng người Mỹ gốc Á đầu tiên của thành phố đó. Anh được bầu vào hội đồng quản lý Thành phố Rosemead và tháng 3 năm 2005 sau đó chỉ phục vụ một nhiệm kỳ. Anh là Người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào hội đồng quản lý Thành phố. Cũng như nhiều thành phố khác ở tiểu bang California. Anh được Hội đồng Quản lý Thành phố bổ nhiệm làm Thị trưởng của thành phố Rosemead vào tháng 3 năm 2007. Anh tái ứng cử vào Hội đồng Quản lý Thành phố này vào tháng 3 năm 2009 nhưng đã thua đối thủ của mình là Sandra Armenta.
1
null
Quốc lộ 37B là tuyến đường bộ nối 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Hà Nam có chiều dài toàn tuyến là 139 km. Quốc lộ 37B nối liền mạng lưới giao thông đường bộ giữa ba tỉnh với cảng Diêm Điền, nhà máy Nhiệt Điện Thái Bình, kết nối các khu du lịch Đồng Châu, cồn Vành, Cồn Đen (tỉnh Thái Bình), bãi tắm Quất Lâm (Nam Định) và kết nối điểm di tích lịch sử nổi tiếng như Đền Hét (Thái Bình), Phủ Dầy (Nam Định)... Hướng tuyến. Tuyến đường Quốc lộ 37B có điểm đầu tại Cảng Diêm Điền thuộc thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và điểm cuối giao với QL.38 tại Km77 thuộc thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Tuyến đường đoạn đi qua địa phận các tỉnh: Tình trạng kỹ thuật. Cấp III đồng bằng đoạn chạy qua địa phận tỉnh Nam Định từ thị trấn Ngô Đồng đến thị trấn Gôi Cấp III đồng bằng đang trong giai đoạn xây dựng trên địa phận tỉnh Thái Bình từ thị trấn Diêm Điền đến thị trấn Thanh Nê.
1
null
Hylaea anastomosaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.được Linnaeus mô tả khoa học năm 1758. Đặc điểm. Con non sống dưới dạng sâu bướm, thức ăn chủ yếu là lá kim. Con trưởng thành sống về đêm, bị thu hút bởi ánh sáng. Môi trường sống. Chúng sống ở rừng lá kim và ở những khu vực có cây lá kim như vùng đất ngập nước Bắc Âu. Độ cao dao động từ mực nước biển đến 1300 m ở Trung Âu (Ebert 2003) và lên tới 2300 m ở Pyrenees.
1
null
Stephan El Shaarawy (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh cho câu lạc bộ Serie A Roma và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Anh ta có biệt danh là "Il Faraone" (Pharaoh), vì cha anh là người Ai Cập. El Shaarawy bắt đầu sự nghiệp của mình tại Genoa, và được Milan ký hợp đồng vào năm 2011 sau khi cho mượn thành công tại Padova. Thường được coi là một trong những cầu thủ trẻ triển vọng nhất trong thế hệ của mình, El Shaarawy đã có bước đột phá trong nửa đầu mùa giải 2012–13. Sau một thời gian dài phải nghỉ thi đấu vì chấn thương, anh ấy đã trải qua mùa giải 2015–16 dưới dạng cho mượn với Monaco và sau đó là Roma, ký hợp đồng vĩnh viễn với câu lạc bộ thứ hai vào cuối mùa giải. Năm 2019, anh chuyển đến câu lạc bộ Trung Quốc Thượng Hải Thân Hoa, trước khi trở lại Roma mười tám tháng sau đó. Trên bình diện quốc tế, El Shaarawy đã đại diện cho Ý từ cấp độ U-16 đến U-21. Vào tháng 8 năm 2012, anh ra mắt đội một trong trận giao hữu với Anh, và vào tháng 11 năm đó, anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào lưới Pháp. Anh ấy đã đại diện cho Ý tại FIFA Confederations Cup 2013, nơi họ kết thúc ở vị trí thứ ba và tại UEFA Euro 2016. Niên thiếu. Stephan El Shaarawy sinh ngày 27 tháng 10 năm 1992 tại thành phố Savona của Ý, có cha là người Ai Cập và mẹ là người Ý gốc Thụy Sĩ. Phong cách thi đấu. Kể từ mùa giải đột phá của anh ấy, El Shaarawy được coi là một cầu thủ mới nổi, có khả năng đạt đẳng cấp thế giới và là một trong những cầu thủ trẻ tài năng và triển vọng nhất của Ý. Là một tiền đạo đa năng và chăm chỉ, anh ấy chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ cánh trái , vị trí cho phép anh ấy băng vào khu trung tâm bằng chân phải khỏe hơn của mình và thực hiện một cú sút vào khung thành hoặc tạo cơ hội cho đồng đội; anh ấy cũng có thể chơi ở vị trí tiền vệ tấn công, tiền đạo thứ hai, tiền đạo cánh phải, tiền đạo trung tâm, hoặc thậm chí là tiền đạo cắm, nhờ nhãn quan ghi bàn của anh ấy. Eric Steitz đã lưu ý rằng El Shaarawy chủ yếu được biết đến với tốc độ và sự nhanh nhẹn, cũng như "khả năng rê bóng xuất sắc và năng lực kỹ thuật" của anh ấy. Anh ấy cũng tuyên bố rằng El Shaarawy thường thể hiện sức mạnh sút xa và khả năng ghi bàn của mình bằng những cú sút từ ngoài vòng cấm, đồng thời mô tả cầu thủ này là một "người chuyền trên mức trung bình", người "tạo ra khoảng trống bằng một đường chuyền chắc chắn". lần chạm đầu tiên". Phong cách chơi bóng của El Shaarawy đã được so sánh với người đoạt giải Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA Cristiano Ronaldo. El Shaarawy coi cựu cầu thủ của Milan, Kaká là hình mẫu của mình. Huyền thoại Milan José Altafini đã so sánh El Shaarawy với tuyển thủ Brasil Neymar và người sáu lần giành Quả bóng vàng Lionel Messi: "El Shaarawy làm tôi nhớ đến Neymar và Messi. Họ có trọng tâm thấp. Họ chơi với bóng dính chặt vào chân họ. Anh ấy đã chứng minh rằng mình là một cầu thủ giỏi. Điều quan trọng là không nên dồn ép anh ấy quá nhiều". Tuy nhiên, bất chấp tài năng của mình, anh ấy thường xuyên phải vật lộn với những chấn thương. Tài trợ. Vào năm 2012, El Shaarawy đã ký hợp đồng tài trợ với nhà cung cấp trang phục và thiết bị thể thao của Mỹ, Nike. Anh ấy đã xuất hiện trong một quảng cáo cho Nike Green Speed ​​II mới cùng với Mario Götze, Eden Hazard, Raheem Sterling, Christian Eriksen và Theo Walcott vào tháng 11 năm 2012. El Shaarawy xuất hiện trên trang bìa "FIFA 14" của Ý, cùng với ngôi sao trang bìa toàn cầu Lionel Messi.
1
null
Phó Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (中华人民共和国国务院副总理) hay còn được gọi là Phó Thủ tướng Quốc vụ viện là chức vụ quan trọng cấu thành Quốc Vụ viện, Quốc vụ viện Thường vụ Hội nghị, là lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo luật "Tổ chức Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" quy định Phó Tổng lý giúp đỡ Tổng lý trong công việc. Phó Tổng lý do Tổng lý đề xuất và được Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc bầu theo hệ thống phổ thông đầu phiếu, do Chủ tịch nước căn cứ vào Hội nghị Nhân Đại Toàn quốc bổ nhiệm. Như các thành viên khác thuộc Quốc vụ viện, Phó Tổng lý có nhiệm kỳ 5 năm, liên tiếp không quá 2 nhiệm kỳ. Trong thời gian Tổng lý đi thăm nước ngoài, Phó Tổng lý phụ trách quản lý toàn bộ công việc của Tổng lý. Kể từ Quốc vụ viện thứ 7 Nội các của Lý Bằng bắt đầu, Phó Tổng lý đều do Ủy viên Bộ Chính trị đảm nhiệm và Phó Tổng lý thứ nhất là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.
1
null
Cảnh Điềm (chữ Hán: 景甜, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1988) là nữ diễn viên người Trung Quốc đã tốt nghiệp tại Học viện Điện ảnh Bắc Kinh. Tiểu sử. Cảnh Điềm sinh năm 1988 ở Tây An, Thiểm Tây. Từ nhỏ vì sức khỏe yếu nên gia đình quyết định cho cô đi học khiêu vũ ở Đoàn nghệ thuật Tiểu Thiên Nga tỉnh Thiểm Tây. Năm 2000, Cảnh Điềm theo học tại Học viện vũ đạo Bắc Kinh, ngành múa dân gian Trung Quốc Tháng 12 năm 2006, Cảnh Điềm cho ra album nhạc đầu tay có tựa đề "Who are you". Nhờ đó mà cô được khán giả biết đến . Tháng 6 năm 2007, Cảnh Điềm được mời làm người phát ngôn cho hoa anh đào Tây Bắc . Cùng năm đó, cô trở thành sinh viên của Học viện Điện ảnh Bắc Kinh. Sự nghiệp diễn viên của cô bắt đầu từ đó . Sự nghiệp. Năm 2008, Cảnh Điềm lần đầu tiên xuất hiện trong bộ phim "Sử thi một người con gái", đóng với Triệu Vy và Lưu Diệp. Cô vào vai Âu Dương Tuyết, con gái của Triệu Vy, là một người bướng bỉnh, nhạy cảm, nổi loạn nhưng mạnh mẽ. Năm 2009, đạo diễn Lưu Tâm Cương đã mời Cảnh Điềm thủ vai Y La trong phim "Tôn Tử đại truyện" vì cô có ngoại hình và tính cách khá giống nhân vật trong phim . Năm 2010, Cảnh Điềm đóng vai nữ chính trong bộ phim điện ảnh "Cô chủ xinh đẹp của tôi". Trong phim cô đóng hai vai, một là cô gái trong sáng đáng yêu, một là sếp nữ quyến rũ xinh đẹp . Năm 2011, cô vào vai chính Điền Tịch trong bộ phim "Chiến Quốc", đóng với Tôn Hồng Lôi, Kim Hee-sun. Năm 2013, Cảnh Điềm đóng vai nữ chính trong một loạt phim điện ảnh nổi tiếng như "Thân phận đặc biệt" (đóng cặp với Chân Tử Đan) , "Câu chuyện cảnh sát 2013" (đóng cặp với Thành Long) và "Đổ thành phong vân" (đóng với Châu Nhuận Phát và Tạ Đình Phong) . Cả ba bộ phim đều đạt doanh thu phòng vé rất cao và Cảnh Điềm cũng được ủng hộ nhiều hơn. Năm 2014, Cảnh Điềm chính thức lấn sân sang phim truyền hình. Trong "Ban Thục truyền kỳ", cô vào vai Ban Thục, một người con gái bị lạc cha mẹ ở sa mạc khi còn nhỏ. Sau khi biết được thân phận của mình, Ban Thục trở về kinh thành. Để được mọi người công nhận mình là người nhà họ Ban, cô phải trải qua một cuộc khảo nghiệm, đó là trở thành giáo viên dạy dỗ cho con cái nhà vương tôn quý tộc. Cũng trong năm 2014, Cảnh Điềm còn đóng vai nữ chính Đại Ngọc Nhi trong bộ phim "Đại Ngọc Nhi truyền kỳ". Đại Ngọc Nhi ban đầu là một người con gái xinh đẹp, ngây thơ, nhưng trải qua nhiều biến cố thăng trầm đã trở thành một người phụ nữ quyền lực nhất dưới triều Thanh. Năm 2015, Cảnh Điềm thủ vai chính trong bộ phim "Trường Thành" của đạo diễn Trương Nghệ Mưu, hợp tác với các diễn viên như Lưu Đức Hoa và Matt Damon. Năm 2017, cô góp mặt trong hai dự án điện ảnh lớn là "Kong:" "Đảo Đầu lâu" cùng "Thanh Hòa nam cao". Cũng trong năm này, Cảnh Điềm thủ vai nữ chính trong bộ phim cổ trang "Đại Đường vinh diệu" đóng cặp với Nhậm Gia Luân, bộ phim đã thành công tạo được tiếng vang và giúp cô được yêu thích hơn. Năm 2018, Cảnh Điềm xuất hiện trong bom tấn điện ảnh . và cô còn đảm nhiệm vai nữ chính trong bộ phim Hỏa Vương. Năm 2019, cô hợp tác cùng Trần Hiểu trong bộ phim "Chuyến du lịch gặp được tình yêu." Đầu năm 2021, bộ phim "Tư Đằng" do Cảnh Điềm đóng chính đã tạo nên một cơn sốt, và thành công của bộ phim đã đẩy danh tiếng của cô lên cao.
1
null
San Antonio Spurs là đội bóng rổ chuyên nghiệp của Mỹ đặt trụ sở tại thành phố San Antonio, Texas. Đội bóng này trực thuộc vùng Tây Nam và phân khu miền Tây của Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia Mỹ (NBA). Spurs là một trong số 4 câu lạc bộ của Hiệp hội Bóng rổ Mỹ (ABA) đã gia nhập NBA sau sự kiện tranh chấp giữa ABA và NBA vào năm 1976 và là câu lạc bộ duy nhất từ ABA giành chức vô địch NBA. 5 chức vô địch NBA của Spurs cũng giúp họ là đội bóng giàu thành tích thứ 4 lịch sử giải đấu chỉ sau Boston Celtics (17), Los Angeles Lakers (16) và Chicago Bulls (6). Spurs cũng có số hội viên tích cực đứng thứ 2, đội bóng có tỉ lệ chiến thắng cao nhất chỉ sau Los Angeles Lakers và là đội bóng duy nhất có thành tích đối đầu ít nhất là hòa trước các đội bóng khác của giải NBA. Sau 38 mùa giải kể từ 1976–1977, Spurs đã giành được 20 danh hiệu vùng Tây Nam. Họ cũng tham gia vòng playoff 24 trong tổng số 25 mùa (kể từ 1989-1990) và chỉ bỏ lỡ 4 lần kể từ khi gia nhập NBA. Họ chưa bao giờ bỏ lỡ vòng playoff 17 mùa gần đây kể từ khi Tim Duncan tới đội bóng vào năm 1997. Với trận thắng thứ 50 trong mùa giải 2013-2014, họ đã gia tăng số mùa giải có hơn 50 trận thắng tới con số 15 (mùa 1998-1999 họ có được 50 trận thắng trên tổng số 82 trận đấu với tỉ lệ thắng 0,74). Huấn luyện viên hiện tại Gregg Popovich, thay thế Bob Hill từ năm 1996, là người có thời gian dẫn dắt đội bóng lâu nhất từ trước tới nay. Sân vận động. Dallas (Texas) Chaparrals San Antonio Spurs Đội hình. Số áo treo vĩnh viễn. 1 "Cũng có tên trong Hall of Famers." Kỷ lục câu lạc bộ. In đậm là cầu thủ vẫn còn thi đấu. "Tên*" là cầu thủ ghi bàn trong quãng thời gian ABA. "Nghiêng" là cầu thủ vẫn còn thi đấu song không tiếp tục cho câu lạc bộ. Điểm số (mùa giải chính thức) (tính tới hết mùa 2013–2014) Thống kê khác (mùa giải chính thức) (tính tới hết mùa 2013–14) Số phút thi đấu Rebound Assist Steal Block Huấn luyện viên. 1Trong mùa giải 1996–97, Bob Hill huấn luyện 18 trận đấu chính thức. Hill bị sa thải 10 tháng 12 năm 1996, và Gregg Popovich huấn luyện 64 trận còn lại. 2Trong mùa giải 1992–93, Jerry Tarkanian huấn luyện 20 trận đấu chính thức. Tarkanian bị sa thải ngày 18 tháng 12 năm 1992. Rex Hughes dẫn dắt đội bóng đúng 1 trận, còn John Lucas huấn luyện 64 trận còn lại. 3Trong mùa giải 1991–92, Larry Brown huấn luyện 38 trận đấu chính thức. Brown bị sa thải ngày 21 tháng 1 năm 1992, và Bob Bass huấn luyện 44 trận còn lại. 4Trong mùa giải 1983–84, Morris McHone huấn luyện 31 trận đấu chính thức. McHone bị sa thải ngày 28 tháng 12 năm 1983, và Bob Bass huấn luyện 51 trận còn lại. 5Trong mùa giải 1979–80, Doug Moe huấn luyện 66 trận đấu chính thức. Moe bị sa thải ngày 1 tháng 3 năm 1980, và Bob Bass huấn luyện 16 trận còn lại. </small> Liên kết ngoài.
1
null
Trafford là một khu tự quản vùng đô thị của Đại Manchester, Anh Quốc. Với dân số ước tính vào khoảng 211.800 vào năm 2006, quận Trafford trải rộng và bao gồm các thị trấn của Altrincham, Partington, Sale, Stretford, và Urmston. Quận Trafford được thành lập vào ngày 1/4/1974 bởi Đạo luật chính quyền địa phương 1972 về việc hợp nhất các thị trấn của các quận cũ Altrincham, Sale, và Stretford, thị trấn của các quận nội thành Bowdon, Hale, Urmston và một phần của huyện Bucklow. Trước đây, tất cả vùng Cheshire, một phần của Stretford và Urmston đều thuộc quận cũ Lancashire. Con sông Mersey chảy qua các quận, tách quận Trafford thành Bắc Trafford và Nam Trafford. Trong lịch sử, con sông Mersey này cũng đã từng đóng vai trò là đường phân chia ranh giới giữa các quận cũ Lancashire và Cheshire.
1
null
Giải Palm Dog là một giải thưởng phụ thường niên do các nhà phê bình điện ảnh quốc tế trao tặng trong Liên hoan phim Cannes. Begun in 2001 by Toby Rose, được trao cho màn trình diễn xuất sắc nhất của chó (thật hoặc hoạt hình) hoặc của một đàn chó trong liên hoan. Giải gồm một chiếc vòng cổ bằng da cho chó có chữ "PALM DOG". Tên của giải này là một cách chơi chữ với giải Cành cọ vàng (Palm), giải thưởng cao quý nhất của liên hoan. Lần đầu tiên được đưa tin vào tháng 6 năm 2002, giải Palm Dog được một số trang tin tức lớn khắp thế giới đưa tin, trong đó có "Financial Times Deutschland", "Sydney Morning Herald", "The New York Times", BBC, "The Los Angeles Times", và ABC News. Năm 2012 ban giám khảo bình chọn giải Palm Dog gồm nhà phê bình phim Kate Muir của báo "The Times", Robbie Collin của báo "The Daily Telegraph", Peter Bradshaw của báo "The Guardian" và Charles Gant của báo "Heat Magazine".
1
null
Macaria brunneata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.. Được mô tả lần đầu tiên vào năm 1784 bởi Carl Peter Thunberg. Loài này được tìm thấy ở Siberia, Nhật Bản, phía bắc và miền núi của Bắc Mỹ và khắp châu Âu. Ở Anh, loài này phần lớn hoặc hoàn toàn sống trong các khu rừng già miền trung.
1
null
Dries Mertens (, sinh ngày 6 tháng 5 năm 1987) là cầu thủ tiền vệ cánh người Bỉ hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Galatasaray tại Süper Lig và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ. Trước khi đến Napoli, Mertens đã từng thi đấu cho các câu lạc bộ K.A.A. Gent, Eendracht Aalst, AGOVV Apeldoorn, FC Utrecht và PSV Eindhoven. Anh là thành viên đội tuyển Bỉ tham gia các giải đấu lớn World Cup 2014, Euro 2016 và World Cup 2018. Sự nghiệp câu lạc bộ. Các đội trẻ. Mertens từng gia nhập học viện đào tạo bóng đá của câu lạc bộ quê nhà Stade Leuven và sau đó là Anderlecht. Tuy nhiên, huấn luyện viên đội trẻ của Anderlecht đánh giá anh không đủ chiều cao và sức mạnh để trở thành cầu thủ chuyên nghiệp dù có kỹ thuật rê dắt và sút bóng nên Merterns đã đến Gent. Tại Gent, ban huấn luyện câu lạc bộ này tiếp tục có đánh giá tương tự như Anderlecht. Do đó, Gent đã cho câu lạc bộ tại giải hạng ba Bỉ là Eendracht Aalst mượn anh và cuối mùa bóng 2005-06, anh được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Eendracht Aalst. Tuy nhiên điều này vẫn không giúp Mertens được tiếp tục thi đấu cho Gent và anh phải đến Hà Lan thi đấu cho câu lạc bộ AGOVV Apeldoorn. AGOVV và Utrecht. Tại AGOVV, anh trở thành trụ cột của đội bóng này tại giải hạng nhì Hà Lan với vai trò đội trưởng. Năm 2009, anh được trao giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất giải hạng nhì Hà Lan. Ngày 25 tháng 5 năm 2009, câu lạc bộ thi đấu tại Eredivisie FC Utrecht đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng Mertens với AGOVV bằng mức phí chuyển nhượng 600.000 €. Anh rời AGOVV với 28 bàn thắng sau 103 trận. Mertens thi đấu cực kỳ thành công trong màu áo Utrecht tại mùa giải mùa giải 2010-11 với 13 bàn thắng và 17 đường kiến tạo thành bàn. Anh chỉ đứng sau tiền đạo Luis Suárez của Ajax Amsterdam trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất Eredivisie mùa giải đó. PSV Eindhoven. Ngày 28 tháng 6 năm 2011, Mertens và người đồng đội tại Utrecht là Kevin Strootman đồng thời chuyển đến thi đấu cho PSV Eindhoven với mức chuyển nhượng tổng cộng là 13 triệu €. Mertens có hat-trick đầu tiên cho PSV vào ngày 28 tháng 8 năm 2011 trong trận đấu với Excelsior. Sau đó, anh ghi đến bốn bàn trong chiến thắng hủy diệt 7-1 trước Roda JC ngày 24 tháng 9 năm 2011. Đến tháng 1 năm 2012, Mertens đã có 13 bàn thắng và 11 đường chuyền kiến tạo ở Eredivisie, đóng góp gần 50% trong số 48 bàn thắng của PSV tại Eredivisie. Kết thúc mùa giải đầu tiên cho PSV, anh có 21 bàn thắng sau 33 trận tại Eredivisie và ghi bàn trong trận chung kết Cúp KNVB với Heracles Almelo để đem về chiến thắng 3-0 chung cuộc cho PSV. Tháng 8 năm 2012, anh cùng PSV giành tiếp chức vô địch Cúp Johan Cruyff (Siêu cúp bóng đá Hà Lan). Ngày 30 tháng 9 năm 2012, Mertens và Jürgen Locadia mỗi người lập một hat-trick giúp PSV đánh bại VVV Venlo 6–0. Trong hai mùa giải thi đấu cho PSV, anh ghi được 45 bàn thắng và có 43 pha kiến tạo thành bàn trong 88 trận đấu. Napoli. Ngày 24 tháng 6 năm 2013, câu lạc bộ PSV Eindhoven xác nhận Mertens đã chính thức gia nhập Napoli theo bản hợp đồng năm năm với giá trị chuyển nhượng 9,5 triệu € và cũng là cầu thủ đầu tiên mà Rafael Benítez mang về trên cương vị tân huấn luyện viên trưởng của Napoli. Anh có trận đấu đầu tiên tại Serie A vào ngày 25 tháng 8 năm 2013 trong chiến thắng 3-0 trước Bologna. Bàn thắng đầu tiên của anh cho Napoli diễn ra vào ngày 30 tháng 10, ấn định chiến thắng 2-1 trước Fiorentina. Ngày 6 tháng 1 năm 2014, Mertens lập cú đúp trong hiệp hai giúp Napoli đánh bại Sampdoria 2-0. Anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2-0 trước đội đầu bảng Juventus vào ngày 30 tháng 3. Trong trận chung kết Cúp quốc gia Ý 2013–14 ngày 3 tháng 5 năm 2014, Mertens vào sân từ băng ghế dự bị thay cho Marek Hamšík ở phút 64 đã giúp Napoli bảo đảm chiến thắng bằng bàn nâng tỉ số lên 3–1 trước Fiorentina. Anh có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2014-15 với cú đúp vào lưới Sparta Praha để đem về chiến thắng mở màn cho Napoli tại UEFA Europa League 2014-15. Đến trận đấu cuối cùng của vòng bảng với Bratislava, anh là người mở tỉ số trong chiến thắng chung cuộc 3-0 của Napoli để giúp đội bóng Ý kết thúc vòng bảng với vị trí nhất bảng. Ngày 18 tháng 5 năm 2015, Mertens có cú đúp trong trận thắng 3-2 trước Cesena để giúp Napoli duy trì vị trí tham dự UEFA Champions League mùa giải sau nhưng thất bại trước Juventus và Lazio ở hai vòng đấu sau cùng đã đẩy Napoli xuống hạng 5 chung cuộc nên mất suất. Napoli khởi đầu UEFA Europa League 2015-16 với thắng lợi 5-0 trước Club Brugge, trong đó Mertens ghi được hai bàn thắng. Anh tiếp tục có cú đúp nữa tại giải đấu này trong trận thắng 5-2 trước Legia Warsaw ngày 10 tháng 12 năm 2015. Trong trận đấu đầu tiên của Napoli tại Serie A 2016-17 với Pescara, Mertens ghi được hai bàn thắng chỉ trong vòng ba phút để giúp Napoli giành lại 1 điểm. Tại trận đấu thứ hai vòng bảng UEFA Champions League 2016-17 với Benfica ngày 28 tháng 9 năm 2016, anh lập được cú đúp, trong đó có một quả sút phạt trực tiếp đẹp mắt để đem về chiến thắng 4-2 cho Napoli. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. Ngày 1 tháng 10 năm 2010, Mertens được triệu tập vào đội tuyển Bỉ tham dự hai trận đấu vòng loại Euro 2012 với Kazakhstan và Áo bởi huấn luyện viên Georges Leekens. Nhưng phải đến ngày 9 tháng 2 năm 2011 anh mới có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Bỉ trong trận giao hữu với Phần Lan. Bàn thắng đầu tiên của anh cho đội tuyển Bỉ cũng đến trong một trận giao hữu, trận đấu với Hà Lan ngày 15 tháng 8 năm 2012 và chung cuộc Bỉ đã thắng 4-2. World Cup 2014. Ngày 13 tháng 5 năm 2014, anh được triệu tập vào đội hình đội tuyển Bỉ tham dự World Cup 2014 tại Brasil. Anh đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu giao hữu trước giải đấu với Tunisia. Tại trận mở màn của đội tuyển Bỉ tại World Cup 2014 với Algeria tại Belo Horizonte, Mertens vào sân thay cho Nacer Chadli đã ấn định chiến thắng chung cuộc 2-1 cho đội tuyển Bỉ ở phút thứ 80 của trận đấu. Tuyển Bỉ sau cùng đã vào đến tứ kết của giải đấu trước khi để thua Argentina với tỉ số tối thiểu 0-1 bằng bàn thắng duy nhất của tiền đạo Gonzalo Higuain. Euro 2016. Anh tiếp tục được huấn luyện viên Marc Wilmots triệu tập tham dự Euro 2016 trên đất Pháp. Tại giải đấu này, anh không ghi được bàn thắng nào nhưng đã có những đường kiến tạo thành bàn để giúp Bỉ lọt vào tứ kết và thua xứ với tỉ số 1-3. Cá nhân Mertens không để lại dấu ấn gì. World Cup 2018. Đây là giải đấu quốc tế lần thứ hai trong sự nghiệp của Mertens. Ở lượt trận đầu bảng G gặp tân binh , anh là người bàn thắng mở tỉ số trước và chung cuộc Bỉ thắng Panama với tỉ số 3-0. Đội tuyển Bỉ sau đó kết thúc giải với vị trí thứ ba chung cuộc. Phong cách thi đấu. Mertens là cầu thủ thuận chân phải nhưng chủ yếu thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh trái với khả năng ghi bàn tốt. Mặc dù chiều cao chỉ có 1,69m, nhưng nhờ trọng tâm thấp, Mertens có khả năng khống chế bóng tốt và tốc độ để vượt qua đối phương. Phong cách dứt điểm của Mertens có thể so sánh với tiền vệ người Hà Lan Arjen Robben ở điểm từ cánh ngoặt bóng vào bên trong rồi tung ra những cú sút. Điểm mạnh khác của Mertens là khả năng kiến tạo với những đường chuyền dài hoặc những pha phối hợp bật tường. Anh cũng là một chuyên gia xử lý bóng chết. Điểm yếu của anh là khả năng phòng ngự do thiếu khả năng tắc bóng cũng như đánh chặn và là một vấn đề khi đội bóng của anh đối đầu với các đội mạnh hơn. Danh hiệu. Câu lạc bộ. PSV Napoli Galatasaray
1
null
Nicklas Pedersen (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1987) là một tiền đạo bóng đá chuyên nghiệp của Đan Mạch, hiện đang chơi cho KV Oostende ở giải vô địch bóng đá Đan Mạch. Sự nghiệp. Pedersen bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình với Herfølge BK trong Giải hạng 1 Đan Mạch. Anh đã chơi lần đầu trong đội tuyển bóng đá quốc gia U-21 Đan Mạch vào tháng 8 năm 2007, và có bước đột phá cá nhân với câu lạc bộ Superliga Đan Mạch Nordsjælland vào tháng 9 năm 2007. Trong tháng 1 năm 2009, Pedersen ký hợp đồng với câu lạc bộ bóng đá Hà Lan FC Groningen. FC Groningen trả FC Nordsjælland 2.200.000 € cho vụ chuyển nhượng này.
1
null
Jean-Christophe là bộ tiểu thuyết trường thiên dài 10 tập của nhà văn Romain Rolland, xuất bản trong những năm 1904-1912. Bộ tiểu thuyết là lý do chính giúp tác giả nhận được Giải Nobel Văn học năm 1915. Tập cuối cùng của bộ truyện cũng giành giải thượng Viện Hàn lâm Pháp năm 1912. Nhiều nét dựa trên cuộc đời của Beethoven (người mà Rolland vừa viết tiểu sử), Jean-Christophe đặt vào bối cảnh nước Đức-Pháp cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, đặc biệt là nhiều khía cạnh của xã hội Pháp dưới thời Đệ tam Cộng hòa mà tác giả muốn lên án. Nhiều chương đoạn trong tác phẩm được dành cho phê bình nghệ thuật, từ âm nhạc, thi ca tới kiến trúc, hội họa châu Âu. Tóm tắt cốt truyện. Jean-Christophe Kraft sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, ông và cha đều là nhạc công trong dàn nhạc cung đình của vương công một xứ miền nam Đức. Sớm tỏ ra có năng khiếu soạn nhạc và chơi nhạc, năm 7 tuổi rưỡi cậu đã biểu diễn lần đầu ở nhà hát địa phương. Ông nội mất, cha ngày càng nghiện rượu rồi cũng một ngày bị chết đuối, từ khi còn rất nhỏ Jean-Christophe đã là tay vĩ cầm thủ số 2 trong dàn nhạc cung đình để nuôi gia đình gồm mẹ và 2 em trai. Cậu không được học hành cũng như dạy dỗ các lễ nghi cư xử. Ở tuổi thiếu niên cậu đi dạy nhạc cho con cái nhà giàu để kiếm thêm tiền cho gia đình. Người bạn đầu tiên của cậu là Otto, một cậu bé con nhà giàu luôn khâm phục Kraft và phát triển một tình cảm thân thiết đến nỗi cả hai bị xấu hổ phải tránh mặt nhau. Ở tuổi 15, lần đầu tiên cậu nhận được sự quan tâm của phụ nữ. Một bà quý tộc, Josepha von Kerich mới góa chồng đưa con gái là Minna về nhà ở nông thôn, sát cạnh nhà cậu, chịu tang. Cảm mến tài năng của Jean-Christophe, bà cho phép cậu sang chơi với Minna và dạy cậu học. Khi Minna và Jean-Michel phát triển tình yêu trẻ con, bà tìm cách chia lìa hai người và Minna sớm quên cậu sau một chuyến nghỉ đông. Khi nhà chỉ còn mấy mẹ con, họ phải bán nhà đến thuê tại gia đình Euler, sống với những người ồn ào và giàu định kiến. Jean-Christophe có tình cảm với Sabine, một thiếu phụ góa với đứa con nhỏ 9 tuổi thường xuyên bị mọi người hắt hủi. Sabine cũng có tình cảm với Jean-Michel nhưng họ chưa kịp thổ lộ với nhau thì Sabine mất. Thấy tuyệt vọng vì cuộc sống bức bối, Jean-Christophe trở nên sống bất chấp, có quan hệ yêu đương với một cô gái bán hàng ở chợ nhiều đam mê (Ada), bị xúi giúc viết báo khuynh hướng xã hội và bị cả thị trấn và sau đó là lâu đài quay lưng lại. Mất việc ở lâu đài cùng mất các chỗ dạy thêm, đời sống của anh trở nên khốn quẫn. Một ngày tham gia vào một vụ phản kháng binh lính cướp bóc ở một làng quê, Jean-Christophe buộc phải trốn khỏi quê hương. Một nhạc sĩ lớn nhất đương thời, thần tượng của Kraft hồi nhỏ, đã từ chối chấp nhận bảo trợ anh, buộc anh phải đi đến Pháp, nơi anh không biết một ai và mãi từ bỏ họ Kraft. Ở Paris, thời gian đầu Jean-Christophe bị một tay nhạc sĩ Do Thái bóc lột viết nhạc thuê với giá rẻ mạt, trước khi có thể bắt đầu sống bằng tài năng của mình. Anh làm quen với Olivier Jeannin, một nhà thơ trẻ hâm mộ anh và có một người chị là Antoinette với tình yêu thầm kín dành cho anh từ lâu nhưng đã qua đời vì lao động quá sức để nuôi em. Hai anh em sống với nhau thân thiết cho đến khi Olivier thành danh, lấy một người vợ kiêu kỳ đẩy anh này tới cái chết. Jean-Christophe tuy chia sẻ với tình cảnh khốn cùng của những người lao động nhưng không tán thành đường lối của những người tự gọi mình là "xã hội", nhưng tham gia nhiệt tình khi cách mạng bùng lên. Bị đàn áp, ông lưu lạc sang Ý và rồi Thụy Sĩ, trước khi trở về Pháp với vinh quang rực rỡ, lúc các tác phẩm của anh cuối cùng được công chúng nhìn nhận giá trị. Ở Ý ông sống với người yêu, một cô bé mồ côi Cécile trở thành nữ hầu tước, nhưng họ không bao giờ lấy nhau. Ông mất ở Paris sau khi chứng kiến con gái của Cécile và con nuôi của ông, tức con trai của Olivier, sống bên nhau hạnh phúc. Các tập truyện. Truyện gồm 10 tập: Bộ tiểu thuyết đôi khi chia làm 3 phần, 4 tập đầu gọi chung là "Jean-Christophe", 3 tập sau là "Jean-Christophe ở Paris" và 3 tập cuối là "Kết thúc cuộc hành trình". Bộ tiểu thuyết này được dịch sang tiếng Việt làm 4 tập bởi Tảo Trang, Nguyễn Xuân Huy, Trần Hữu Mai, in bởi Nhà xuất bản Văn học từ năm 1976 tới 1981.
1
null
AirAsia India là một hãng hàng không giá rẻ Ấn Độ-Malaysia. Hãng hàng không này bắt đầu hoạt động vào ngày 12 tháng 6 năm 2014. AirAsia India là hãng hàng không đầu tiên có vốn nước ngoài tại quốc gia này. AirAsia India được thành lập bởi sự hợp tác giữa Tập đoàn Tata Group của Ấn Độ với hãng hàng không giá rẻ AirAsia. Đây là một liên doanh với Air Asia Berhad nắm giữ 49% cổ phần, Tata Sons nắm giữ 30% và Telestra Tradeplace nắm phần cổ phần còn lại 21% trong hãng hàng không này. Liên doanh cũng sẽ đánh dấu trở lại ngành hàng không của Tata sau 60 năm. Hãng hàng không này sẽ hoạt động với mức chi phí thấp nhất thế giới với chỉ 1,25 rupee Ấn Độ (2,1 cent dollar Mỹ)/chỗ ngồi/km và một số tải và điểm hòa vốn với tỷ lệ ghế có khách 52%. Hãng sẽ hedging nhiên liệu (mua nhiên liệu với giá cố định) trong 3 năm tới. Hãng cũng dự tính thời gian cách quãng giữa hai chuyến bay kế nhau của một tàu bay là 25 phút.
1
null
10370 Hylonome (; từ ) là một hành tinh nhỏ trong hệ Mặt Trời có quỹ đạo ngoài hệ Mặt Trời. Nó thuộc lớp các thiên thể đóng băng được gọi là centaur, với một quỹ đạo cắt ngang quỹ đạo của Sao Hải Vương và của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện vào ngày 27 tháng 2 năm 1995. 10370 Hylonome được đặt tên theo Hylonome, một nữ nhân mã trong Thần thoại Hy Lạp. Quan sát này được thực hiện qua ánh sáng hồng ngoại bởi Kính viễn vọng không gian Spitzer cho thấy đường kính của cộng hoặc trừ 20 km (50 tới 90 km đường kính), hoặc bán kính 35 km. Quỹ đạo. Quỹ đạo của các hành tinh vi hình centaur là bị nhiễu loạn bởi các hành tinh khổng lồ. Hiện nay Sao Thiên Vương kiểm soát điểm trong quỹ đạo của Hylonome và Sao Hải Vương thì kiểm soát điểm viễn nhật của nó. Người ta ước tính nó có một quỹ đạo tương đối lâu dài với khoảng 6,37 triệu năm. Trong năm 3478, Hylonome sẽ vượt qua trong khoảng ~85Gm so với Sao Thiên Vương và bán trục lớn của nó sẽ được giảm xuống thành 23,5 AU.
1
null
Lịch sự (hay còn gọi phép lịch sự, tiếng Anh: "politeness") là cách cư xử hay phép xã giao tốt trong xã hội loài người. Mục đích của phép lịch sự là làm thỏa mãn và hài lòng các bên. Định nghĩa từ. Từ tiếng Anh sát nghĩa nhất với từ lịch sự trong tiếng Việt là "politeness". Theo Hoàng Phê vài nhà nghiên cứu, lịch sự mang nghĩa là "có cách cư xử lịch thiệp và biết tuân theo lề lối chuẩn mực xã hội trong giao tiếp". Theo quan điểm truyền thống Việt Nam thì lịch sự còn bao gồm khái niệm "lễ", một từ Hán Việt có gốc là chữ "li" nghĩa là "lễ nghi". Phân loại. Hai nhà nhân chủng học Penelope Brown và Stephen Levinson xác định có hai loại lịch sự dựa trên khái niệm của Erving Goffman theo biểu cảm khuôn mặt: Theo vài nghiên cứu thì phụ nữ có vẻ dùng nhiều cử chỉ lịch sự hơn đàn ông, mặc dù sự khác biệt chính xác đó là không rõ ràng. Đa số nghiên cứu hiện tại cho thấy sự khác biệt giới tính ở cách sử dụng phép lịch sự thì rất phức tạp.
1
null
Hylonome là một nữ nhân mã trong Thần thoại Hy Lạp. Cô ta đã có mặt tại cuộc chiến chống lại Lapiths, nơi cô ta lạc mất người chồng là nhân mã Cyllarus. Đau khổ vì mất chồng, cô đã hy sinh mạng sống của mình để cứu lấy người chồng.
1
null
SOAP (viết tắt từ tiếng Anh "Simple Object Access Protocol") là một giao thức do W3C định nghĩa . SOAP áp dụng XML để xác định dữ liệu dạng văn bản (plain text) qua HTTP và SMTP. Web Service dùng SOAP trong quá trình truyền tải dữ liệu. SOAP không phụ thuộc ngôn ngữ lập trình hay bất cứ nền tảng nào vì nó dùng XML. Ví dụ. POST /InStock HTTP/1.1 Host: www.example.org Content-Type: application/soap+xml; charset=utf-8 Content-Length: 299 SOAPAction: "http://www.w3.org/2003/05/soap-envelope" <?xml version="1.0"?> <soap:Envelope xmlns:soap="http://www.w3.org/2003/05/soap-envelope"> <soap:Header> </soap:Header> <soap:Body> <m:GetStockPrice xmlns:m="http://www.example.org/stock"> <m:StockName>IBM</m:StockName> </m:GetStockPrice> </soap:Body> </soap:Envelope>
1
null
Tiểu hành tinh cắt ngang quỹ đạo Sao Thiên Vương là hành tinh nhỏ mà quỹ đạo của nó đi ngang qua quỹ đạo của Sao Thiên Vương. Số lượng các thiên thể loại nầy (vào năm 2005) đã được liệt kê thành dánh sách dưới đây. Hầu hết chúng đều là hành tinh vi hình. Chú ý: † cắt qua bên trong; ‡ cắt qua bên ngoài
1
null
Sciadia interrupta là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Hình dáng. bướm Sciadia interrupta có 4 cánh hai cánh trên đặt bên trên hai cánh dưới,toàn bộ cánh có màu xám có một vài chỗ có thể màu đen nhạt . Không như những loại bướm đêm khác thân của Sciadia interrupta có hình thoi to gấp từ hai đến ba lần so với loại bướm đêm bình thường.Sciadia interrupta thường làm tổ trong khe đá hoặc trong các tán lá. Khi trứng của nó nở, sẽ ra một vật màu trắng,to
1
null
Dicaeum kuehni là một loài chim đặc hữu của quần đảo Wakatobi của Indonesia. Trước năm 2014, nó được coi là một phân loài của dicaeum celebicum ("Dicaeum celebicum kuehni"). Đặc điểm sinh học. Đây là loài dị hình lưỡng tính. Chim trống có lông màu xám đen trên lưng và đuôi, lông màu trắng trên bụng, và lông màu đỏ ở cằm. Chim mái có lông màu xám vừa trên lưng và đuôi, màu xám nhẹ đến trắng trên bụng và cằm. So với loài có mối quan hệ gần gũi nhất là "dicaeum celebicum", loài này lớn hơn đáng kể: nó có đôi cánh dài hơn, mỏ dài hơn, hộp sọ dài hơn, và nặng hơn. Ngoài ra, còn có những điểm khác biệt nhỏ về màu sắc: so với "dicaeum celebicum" thì "dicaeum kuehni" trống có lông trên xanh hơn, lông bên nhạt hơn, và vùng lông màu đỏ xuống dưới nhiều hơn. Đối với con mái thì không có sự khác biệt nhiều về màu giữa hai loài. Loài này sống ở quần đảo Wakatobi, và mặc dù khu vực này thuộc Vườn quốc gia Wakatobi, nhưng môi trường vẫn không được bảo vệ. Thức ăn của chúng chủ yếu là trái cây.
1
null
Ansenmô của Canterbury (khoảng 1033-21 tháng 4 năm 1109), còn gọi là Ansenmô thành Aosta theo nơi sinh của ông, hay Ansenmô xứ Bec theo tu viện, là một tu sỹ, nhà triết học, giám chức giáo hội dòng Biển Đức. Ông là tổng giám mục Canterbury từ năm 1093 đến năm 1109. Được coi là người sáng lập triết học kinh viện, ông đã có ảnh hưởng lớn đến nền thần học phương Tây. Không chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Ansenmô còn để ý và lo lắng cho người nghèo. Ông là người đầu tiên trong Giáo hội chống đối việc buôn bán nô lệ. Cuộc đời. Ansenmô thành Canterbury ra đời tại thành phố Aosta thuộc Vương quốc Burgundia. Khi được 20 tuổi, Ansenmô rời đến thủ đô Paris của Pháp. Vào năm 1059, ông đến Normandy vì danh tiếng của Lanfranc. Năm sau, Ansenmô trở thành tu sĩ. Năm 1063, Ansenmô được lựa chọn là phó bề trên của Tu viện Caen. 15 năm sau, khi tu viện trưởng của Tu viện Bec là Herluin qua đời, ông lại được chọn là tu viện trưởng. Trong khoảng thời gian Ansenmô cầm quyền, Bec là trung tâm học tập nổi tiếng, dù cho ông không quan tâm nhiều đến việc thu hút sinh viên từ bên ngoài vào. Khi 60 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tổng giám mục của Canterbury vào năm 1093. Lúc đầu việc bổ nhiệm ông bị vua Anh là William Rufus chống đối nhưng sau đó phải chấp nhận. Sau cùng Ansenmô phải đi lưu đày cho đến khi Rufus từ trần năm 1100. Henry I của Anh, là em và là người kế vị Rufus gọi về nước Anh. Tuy nhiên, Ansenmô lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của hàng giám mục, do đó ông lại phải đi lưu đày 3 năm ở Roma. Và ngài đã được Hội đồng quốc gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người. Ông qua đời ở Canterbury, Anh quốc năm 1109, và được phong thánh năm 1494. Sự nghiệp. Tóm tắt chung. Nói chung, tư tưởng của Anselmô đậm chất tính thần thánh. Đặc điểm nổi bật nhất trong triết học của Anselmô thành Cantubury đó là chủ nghĩa kinh viện. Anselmô nổi tiếng với nghiên cứu về chứng lý hữu thể luận về sự hiện hữu của Thượng đế. Về thần học, nói chúng Anselmô luôn ca ngợi Thượng đế như một sự hoàn hảo, vĩnh hằng, một chân lý bất diệt; toàn thể mọi sự vật đều phải tuân theo Ngài. Các tư tưởng. Suy nghĩ về triết học. Chứng lý hữu thể luận. Đây là nhận thức có xuất phát từ kinh nghiệm tôn giáo của Anselm. Theo ý của Anselm, bất kỳ một hữu thể nào nếu muốn hoàn hảo thì phải có sự hiện hữu. Suy ra, Thượng đế phải có sự hiện hữu vì Ngài là một sự hoàn hảo. Trọng tâm của luận cứ nằm trong câu nói nổi tiếng sau đây: "Không thể quan niệm một cái gì đó lớn hơn nó được". Diễn giải câu này, ta có thể nói là không có một ý niệm nào có thể cao hơn Thượng đế mà con người có thể nghĩ ra được. Đây cũng là một cách kết luận rằng sự hiện hữu phải xuất phát từ yếu tính. Chúng ta có thể hiểu hơn về hữu thể luận trong suy nghĩ của Anselm qua hai đoạn trích sau. Khác. Ngoài những nghiên cứu về hữu thể luận, Anselm là tác giả của chứng lý vũ trụ luận và cứu cánh luận về sự hiện hữu của Thượng đế. Suy nghĩ về thần học. Đồng quan điểm với Augustine về Plato. Ở điểm này, Anselm chịu ảnh hưởng không hề nhỏ từ Augustine xứ Hippo. Ảnh hưởng này còn lớn đến nỗi Anselm được gọi là một "Augustine thứ hai". Danh xưng mà người đời dành cho ông này quả là không sai, bởi vì cũng giống như Augustine, Anselm tin rằng những ý tưởng biệt lập của Plato có hiện hữu. Chưa hết, khởi điểm tư tưởng của cả Augustine và Anselm đều cùng chung những nguyên tắc. Giải thích ra có nghĩa là các tín lý Cơ đốc giáo phải tin đã, rồi mới được giải thích và tranh luận. Tuy chịu ảnh hưởng từ Augustine và mượn tư tưởng của Augustine, Anselm đã dùng một phép biện chứng sắc bén và mang tinh thần đạo đức để nói về tư tưởng trên. Tội lỗi của con người và sự công chính của Thượng đế. Anselm đã nói rằng tội lỗi của con người đã xúc phạm sự công chính của Thượng đế. Và chừng nào sự công chính của Ngài chưa trở lại, chừng đó Ngài sẽ không cứu rỗi con người. Thế nên, Jesus được phái xuống, chết đi và sống lại là sự chuộc lại sự công chính của Thượng đế. Đến đây, Anselm đã xây dựng một trong những lý thuyết về sự đền tội đáng chú ý nhất lịch sử.
1
null
Planes là một bộ phim hoạt hình 3D hài thể thao được dựng hình bằng vi tính của Mỹ do DisneyToon Stuios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành. Đây là phim lấy cảm hứng từ loạt phim "Cars" của Pixar và là phần đầu tiên trong bộ ba phần được lên kế hoạch sản xuất. Mặc dù không được sản xuất bởi Pixar, nhưng bộ phim đã được điều hành sản xuất bởi giám đốc sáng tạo của Pixar - John Lasseter, người đã đạo diễn loạt phim "Cars". Giống như hầu hết các bộ phim của DisneyToon, "Planes" ban đầu được dự định phát hành dưới dạng DVD, nhưng sau đó vào ngày 9 tháng 8 năm 2013 bộ phim được phát hành rộng rãi tại các rạp chiếu phim với các định dạng Disney Digital 3D và RealD 3D với tổng doanh thu toàn thế giới đạt 219,788,712 USD. Phần tiếp theo của bộ phim với tên gọi "", dự kiến phát hành tại các rạp phim vào 18 tháng 7 năm 2014. Cốt truyện. Dusty Crophopper là một máy bay chuyên phun thuốc trừ sâu cho cây trồng làm việc tại cánh một đồng ngô và thường xuyên thử tài nhào lộn trên không trong thời gian rãnh rỗi của mình, ước mơ của anh ta là trở thành một tay đua. Giấc mơ của anh ta bị xem là vớ vẩn bởi ông chủ Leadbottom và người bạn thợ máy/xe nâng của mình, Dottie. Tuy nhiên, anh ta được ủng hộ bởi người bạn xe tải nhiên liệu của mình, Chug. Dusty và Chug cùng nhau tập luyện cho vòng loại sắp tới của giải đua Toàn cầu Wings. Vào đêm trước khi diễn ra vòng loại, Dusty đến hỏi một cựu máy bay hải quân sống ẩn dật tên là Skipper Riley làm thế nào để bay giỏi nhưng bị Skipper từ chối. Dusty tiến vào vòng loại, mặc dù bị khán giả chế giễu mình là một máy bay phun thuốc, nhưng Dusty cố gắng không quan tâm và tập trung để hoàn thành phần thi của mình thật tốt. Sáng hôm sau, Skipper đến thăm Dusty và cố gắng khuyên rằng Dusty nên rút khỏi cuộc đua, nhưng khi Dusty giải thích anh ta muốn chứng minh mình không chỉ là một máy bay phun thuốc, Skipper đã quyết định chỉ dạy Dusty cách điều khiển tốc độ và sự nhanh nhẹn của mình. Trong khi tập luyện, Dusty thừa nhận mình sợ độ cao. Tuy nhiên họ vẫn tiếp tục tập luyện cho tới khi nó hoàn thành. Dusty tham dự cuộc hợp báo của cuộc đua tại sân bay John F. Kennedy, nơi anh ta kết bạn với một máy bay đua đến từ México có tính lập dị nhưng trung thành tên El Chupacabra, người cuối cùng rơi vào tình yêu với một tay đua xinh đẹp người Canada gốc Pháp tên là Rochelle. Dusty sau đó đụng độ một đối thủ kiêu ngạo 3 lần đoạt giải vô địch, máy bay Ripslinger, một kẻ chỉ xem Dusty như một máy bay phun thuốc. Dusty lúc này cũng rơi vào tình yêu với một chiếc máy bay đua tên là Ishani. Trong chặng đầu tiên của cuộc đua từ New York đến Iceland, chứng sợ độ cao của Dusty khiến cho anh ta kết thúc ở vị trí cuối cùng. Trong chặng thứ hai của cuộc đua ở Đức, Dusty cho thấy sự tiến bộ của mình bằng việc đuổi kịp các tay đua khác. Trong chặng đua ở Ấn Độ, Ishani cho Dusty một số lời khuyên làm thế nào để bay thấp qua dãy Himalaya bằng cách bay theo một số đường ray xe lửa. Tuy nhiên, sau khi gặp phải một đường hầm và hầu như không có khả năng bay qua nó, Dusty nhận ra Ishani cố tình cho anh ta lời khuyên xấu để có được một bộ cánh quạt mới từ Ripslinger và anh ta bắt đầu tránh xa cô. Cuộc đua tiếp tục, Dusty cố gắng để có được vị trí đầu tiên. Tại Thượng Hải, Dusty tìm cách để giúp El Chupacabra giành chiến thắng trước Rochelle bằng một bài hát lãng mạn. Trong chặng đua thứ 6 qua Thái Bình Dương, tay sai của Ripslinger, Ned và Zed, theo mệnh lệnh của Ripslinger, phá hoại ăng-ten định hướng của Dusty. Bị mất phương hướng và cạn nhiên liệu, một cách kì diệu Dusty bay ngang qua tàu sân bay USS Flysenhower (lấy cảm cảm hứng từ tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower mã hiệu CVN-69 ở ngoài đời thực) cho phép anh ta hạ cánh để sửa chữa ăng-ten và tiếp nhiên liệu. Trong khi ở trên tàu, Dusty vô tình nhìn thấy một hội trường được thành lập cho phi đội Jolly Wrenches của Skipper, nhưng anh phát hiện ra là Skipper chỉ thực hiện duy nhất một nhiệm vụ, đó là nhiệm vụ tuần tra ở kênh đào Glendal, điều này mâu thuẫn với danh tiếng trước đây của Skipper như một cựu chiến binh đã tham gia nhiều trận đánh trong cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ 2. Sau đó Dusty buộc phải cất cánh để tiếp tục và phải chống chọi một cơn bão đang tới. Dusty bị phân tâm do suy nghĩ của mình về Skipper nên anh đâm xuống đại dương nhưng cuối cùng được giải cứu. Dusty được đưa tới México để gặp bạn bè của mình nhưng anh bị hư hỏng nghiêm trọng và không bao giờ có thể bay một lần nữa. Skipper thú nhận với Dusty rằng ông đã thực sự chỉ bay duy nhất một nhiệm vụ trong trận Thái Bình Dương, nơi toàn bộ phi đội gồm các học viên của mình đã bị giết chết trong một cuộc tấn công vào 1 hạm đội tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Skipper là người sống sót duy nhất, nhưng bị giằng xé bởi cảm giác tội lỗi của mình, ông không bao giờ dám đào tạo máy bay khác hoặc bay một lần nào nữa. Mất niềm tin và đau khổ, Dusty quyết định rút khỏi cuộc đua, nhưng anh nhận được nhiều lời khuyến khích từ bạn bè của mình và người hâm mộ để anh tiếp tục đua và tất cả hiến tặng các bộ phận để sửa chữa Dusty. Với sự thay đổi của trái tim và tinh thần phục hồi, Dusty đã quyết tâm để giành chiến thắng cuộc đua nhưng Ripslinger vẫn không từ bỏ âm mưu và sẽ phá hoại bất cứ ai cản đường chiến thắng của mình. Ripslinger và đồng bọn của mình phục kích Dusty, nhưng bị cản trở bởi Skipper, người đã vượt qua mặc cảm tội lỗi của mình và đã đến giúp đỡ Dusty. Khi cố gắng để bắt kịp với Ripslinger, Dusty chinh phục nỗi sợ hãi độ cao khi động cơ của anh bắt đầu mất đi sức mạnh. Cả Dusty và Ripslinger đều vào vòng chung kết ở New York và Ripslinger dường như đã nắm trọn chiến thắng, thể hiện mình là giỏi nhất Ripslinger bay chậm lại để người hâm mộ chụp ảnh. Dusty cố gắng để qua mặt đối thủ và giành chiến thắng cuộc đua trong khi Ripslinger đâm vào một số nhà vệ sinh di động. Dusty nhận được những chúc mừng của bạn bè và người hâm mộ của mình và Skipper cảm ơn anh vì đã cho ông sự tự tin để bay một lần nữa. Skipper tái gia nhập lực lượng hải quân với Dusty như trợ thủ của mình và họ có một chuyến bay với nhau, kết thúc câu chuyện. Quá trình sản xuất. Planes được dựa trên ý tưởng được tạo ra bởi John Lasseter. Mặc dù Pixar không sản xuất bộ phim, nhưng Lasseter, giám đốc sáng tạo của cả hai hãng phim Pixar và Walt Disney Animation Studios và là giám đốc sản xuất của "Cars" và "Cars 2", cũng là giám đốc sản xuất của bộ phim. Các tác giả đã rất cố gắng để tạo ra một bộ phim lấy ý tưởng từ "Cars" nhưng hoàn toàn không liên quan tới "Cars". Nhóm làm phim cũng tiến hành nghiên cứu bằng cách phỏng vấn một số người lái của các loại máy bay được sử dụng trong bộ phim.. Jon Cryer ban đầu đã được công bố sẽ lồng tiếng cho nhân vật chính Dusty, nhưng sau đó bị hủy và được thay thế bởi Dane Cook. Một phiên bản sửa đổi của teaser trailer cho bộ phim (giọng của Cook thay cho giọng của Cryer) được phát hành vào ngày 27 tháng 2 năm 2013. Tuy nhiên Cryer cũng được tính vào phim cho phần "câu chuyện bổ sung", cùng với Bobs Gannaway. Phát hành. "Planes" được lên kế hoạch phát hành ở Bắc Mỹ dưới định dạng DVD trong mùa thu 2013, trong khi đó phát hành tại các rạp ở châu Âu, nhưng cuối cùng Disney quyết định để cho bộ phim ra rạp trên toàn cầu. Đây là bộ phim đầu tiên của DisneyToon Studios phát hành tại các rạp ở Bắc Mỹ kể từ "Heffalump Movie Pooh" vào năm 2005. Bộ phim công chiếu vào ngày 02 tháng 8 năm 2013, tại một buổi chiếu đặc biệt ở Nhà hát Fly-In trong khuôn khổ EAA AirVenture Oshkosh, một sự kiện thường niên của những người đam mê hàng không ở Oshkosh, Wisconsin. Cùng với buổi chiếu đặc biệt của bộ phim, Disney đã mang đến một Dusty phiên bản thực để tham gia hoạt động. Phiên bản đời thực của Dusty là một máy bay Air Tracto AT-400A người lái sử dụng trong nông nghiệp thuộc sở hữu của Rusty Lindema. Bộ phim được phát hành rộng rãi tại các rạp chiếu phim vào ngày 09 tháng 8 năm 2013, khi nó cũng được trình chiếu tại hội chợ triển lãm D23 ở Anaheim, California, một hội nghị hai năm một lần cho người hâm mộ Disney. "Planes" đã được phát hành bởi Walt Disney Studios Home Entertainment dưới định dạng DVD, Blu-ray và Blu-ray 3D vào ngày 19 tháng 11 năm 2013. Phần cộng thêm của đĩa Blu-ray bao gồm "Song Franz"; một chuỗi thay thế được sản xuất dành riêng cho Blu-ray và phiên bản HD digital, phim "Klay's Fight Plan" mà sau cuộc hành trình cá nhân của đạo diễn Klay Hall trong quá trình làm phim, hai cảnh bị xóa với lời giới thiệu của đạo diễn và nhà sản xuất, các nhân vật phim, và "Top Ten Flyers", một đồng hồ đếm ngược phi công vĩ đại nhất trong lịch sử được tạo ra bởi Colin Cowherd. Đón nhận. Ý kiến chuyên môn. "Planes" nhận được đánh giá tiêu cực từ các nhà phê bình. Trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes thống kê rằng có 27% các nhà phê bình cho bộ phim nhận xét tiêu cực từ 112 bài đánh giá, với điểm số trung bình là 4,6/10. Sự đồng thuận giữa các trang đánh giá cho rằng: "Máy bay có đủ màu sắc tươi sáng, tiếng nói ngốc nghếch, và hình ảnh động mượt mà để đánh lạc hướng một số khán giả trẻ cho 92 phút - và có thể bán rất nhiều đồ chơi - nhưng trên hết, đó là một sự thất vọng đối với Disney". Một trang đánh giá khác, Metacritic, gán một đánh giá bình thường trong số 100 đánh giá hàng đầu từ các nhà phê bình, cho điểm trung bình 39 dựa trên 32 đánh giá, chỉ ra "nói chung không thuận lợi". Tuy nhiên, bộ phim giành được một điểm "A" từ khán giả được hỏi bởi trang CinemaScore. Doanh thu phòng vé. "Planes" đã thu về 90,288,712 USD tại Bắc Mỹ và Canada, 129,500,000 USD ở các quốc gia khác, tổng doanh thu toàn cầu của bộ phim là 219,788,712 USD. Doanh thu 3 ngày cuối tuần đầu tiên của phim là 22,232,291 USD, xếp sau "Elysium" và "We're the Millers". Nhạc phim. Nhạc nền của bộ phim được sáng tác bởi Mark Mancina. Nhạc phim được phát hành bởi Walt Disney Records vào ngày 6 tháng 8 năm 2013. Trò chơi. "Disney's Planes" do Disney Interactive phát hành vào ngày 6 tháng 8 năm 2013, một video game dựa trên bộ phim. Trò chơi được phát hành trên Wii U, Wii, Nintendo 3DS, và Nintendo DS. Phần tiếp theo. Phần tiếp theo của bộ phim, "Planes: Fire & Rescue" dự kiến phát hành tại các rạp phim vào ngày 18 tháng 7 năm 2014. Bobs Gannaway tác giả của "Jake and the Never Land Pirates", sẽ chỉ đạo bộ phim. Dane Cook sẽ tiếp tục nhận vai Dusty trong khi sẽ bổ sung thêm Julie Bowen vào vai Lil' Dipper. Mark Mancina sẽ một lần nữa đảm nhiệm vai trò sản xuất âm nhạc cho bộ phim.
1
null
Jennifer Michelle Lee (sinh năm 1971) là một nhà biên kịch, đạo diễn người Mỹ, và hiện là Giám đốc sáng tạo của Walt Disney Animation Studios. Cô là đồng biên kịch của bộ phim "Ráp-phờ đập phá" (2012), biên kịch kiêm đồng đạo diễn của bộ phim hoạt hình từng đoạt giải Oscars năm 2013, "Nữ hoàng băng giá" Lee là nữ đạo diễn đầu tiên đạo diễn một bộ phim của Walt Disney Animation Studios, nhà biên kịch đầu tiên trở thành đạo diễn ở một hãng hoạt hình lớn và cũng là nữ đạo diễn đầu tiên có một bộ phim đạt doanh thu hơn 1 tỉ đô la. Tiểu sử và sự nghiệp. Lee năm 1971 tại Barrington, là con của Linda Lee và Saverio Rebecchi. Sau khi cha mẹ ly dị, Lee và chị gái, Amy, sống cùng với mẹ tại East Providence, Rhode Island. Cả Lee và chị gái đều tốt nghiệp từ trường trung học East Providence và đại học New Hampshire. Lee tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành văn học Anh in 1992 rồi chuyển tới thành phố New York nơi cô làm việc như với vai trò họa sĩ đồ họa, thiết kế các loại bìa sách nói và DVD cho nhà xuất bản Random House. Sau khi mất người thân vào năm 20 tuổi, Lee mong muốn được kể những câu chuyện của riêng mình. Khoảng 30 tuổi, cô ghi danh vào trường đại học nghệ thuật Columbia và lấy bằng thạc sĩ mỹ thuật chuyên ngành phim. Tại đây Lee gặp gỡ Phil Johnston, người cộng tác viết kịch bản bộ phim "Ráp-phờ đập phá" cùng với cô trong tương lai. Lee tốt nghiệp Columbia vào năm 2005 và ở tại thành phố New York, nơi cô có những kinh nghiệp đầu tiên với điện ảnh khi làm việc với tư cách trợ lý đạo diễn và nhà sản xuất cho bộ phim ngăn "A Thousand Word" vào năm 2004. Tháng 3 năm 2011, Johnston gọi điện đề nghị Lee giúp mình viết kịch bản cho "Ráp-phờ đập phá" tại Walt Disney Animation Studios ở Burbank, California. Ban đầu, hợp đồng viết kịch bản chỉ kéo dài trong 8 tuần. Tuy nhiên sau đó, Lee được yêu cầu ở lại cho đến khi quá trình sản xuất kết thúc. Bộ phim nhận được phản hồi tích cực về mặt chuyên môn lẫn thương mại, mang về cho Lee giải Kịch bản phim xuất sắc nhất tại giải thưởng Annie lần thứ 40 năm 2013. Tháng 3 năm 2012, Lee được Peter Del Vecho mời viết kịch bản cho "Nữ hoàng băng giá". Lee đã tham gia rất tích cực trong quá trình phát triển tiền kỳ của phim, cộng tác một cách chặt chẽ và xuất sắc với đạo diễn của bộ phim là Chris Buck cũng như hai nhà viết bài hát, Robert Lopez và Kristen Anderson-Lopez. Cô đã mang tới rất nhiều sự sáng tạo cho bộ phim so với trước đó. Nhà sản xuất của phim sau đó đã mời cô làm đạo diễn cho bộ phim cùng với Buck. Thông báo chính thức được đưa ra vào ngày 30 tháng 11 năm 2012, giúp Lee trở thành người phụ nữ đầu tiên đạo diễn một phim hoạt hình dài do Walt Disney Animation Studios sản xuất. "Nữ hoàng băng giá" được phát hành rộng rãi tại Bắc Mỹ vào 27 tháng 11 năm 2013. Bộ phim đã lập được kỷ lục doanh thu khi thu về 1,274 tỷ đô la sau thời gian công chiếu, vượt qua "Câu chuyện đồ chơi 3" để trở thành phim hoạt hình có doanh thu cao nhất mọi thời đại, phim có doanh thu cao thứ 5 mọi thời đại, và là phim có doanh thu cao thứ nhất trong số các phim do Walt Disney Animation Studios sản xuất. Phim cũng giành được phản hồi vô cùng tích cực từ giới chuyên môn, giành được rất nhiều giải thưởng trong đó có giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất năm 2014. Ngày 17 tháng 5 năm 2014, Lee đã đọc một bài diễn văn trong lễ tốt nghiệp của đại học New Hampshire, trường cũ của cô. Cô tiết lộ mình từng phải đấu tranh với sự tự ti khi lớn lên, và sau đó vào tháng 4 trong năm cuối của cô tại đại học, bạn trai của cô bị chết trong một tai nạn thuyền, khiến cho cô cảm thấy "không chút nghi ngờ, chỉ còn lại sự đau khổ...và trong khoảnh khắc...(tôi biết rằng) tốt hơn hết không nên lãng phí một giây nào để nghi ngờ bảo thân mình nữa." Nhiều năm sau, những kỷ niệm này giúp Lee vượt qua nỗi nghi ngờ ban đầu rằng liệu cô có đủ tốt để đăng ký vào đại học Columbia. Tại Columbia, Johnston nhận ra Lee rất tài năng nhưng không tự tin, và một ngày đã đề nghị cô "hứa rằng...sẽ không từ bỏ công việc của mình; chỉ cần biết rằng mình có đủ khả năng và cứ thế tiếp tục." Lee kết luận: "Tôi học được một điều đó là sự tự ti là một trong những điều gây hại nhất. Nó khiến bạn bảo thủ thay vì cởi mở, phản kháng thay vì tích cực. Sự tự ti mang tính phá hoại và tàn nhẫn và niềm hy vọng của tôi hôm nay là chúng ta có thể cùng nhau đồng ý rằng sẽ không tiếp tục tự ti và ngờ vực bản thân nữa...Hãy biết rằng, kể từ nay, chúng ta hoàn toàn đủ khả năng và tôi dám nói rằng còn hơn thế." Đại học New Hampshire đã trao cho cô danh hiệu tiến sĩ danh dự. Tháng 8 năm 2014, tạp chí Variety cho biết dự án tiếp theo của Lee là một bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết năm 1962 của Madeleine L'Engle là "A Wrinkle in Time". Catherine Hand, giám đốc sản xuất của phiên bản truyền hình năm 2003 và Jim Whitaker sẽ hợp tác sản xuất phiên bản chuyển thể của Lee cho Disney. Sau khi thông tin được đưa ra, Lee viết trên Twitter: "Yêu thích cuốn sách này trong suốt 30 năm. Việc viết kịch bản cho bộ phim như là cả thế giới đối với tôi." "A Wrinkle in Time" được phát hành vào tháng 3 năm 2018. Vào tháng 9 năm 2014, Lee và đạo diễn Chris Buck được thông báo sẽ cùng đạo diễn một bộ phim hoạt hình ngắn với các nhân vật từ "Nữ hoàng băng giá" có tên là "Frozen Fever". Phim được ra mắt vào tháng 3 năm 2015. Lee nằm trong đội ngũ "Lãnh đạo sáng tạo" của Disney cho bộ phim "Biệt đội Big Hero 6" và "Hành trình của Moana", và là một trong những người đóng góp vào cốt truyện của "Phi vụ động trời". Ngày 12 tháng 3, 2015, Disney thông báo Lee và Buck sẽ cùng đạo diễn phần phim tiếp theo của "Nữ hoàng băng giá". Vào tháng 6 năm 2018, Lee trở thành giám đốc sáng tạo Walt Disney Animation Studios, sau khi John Lasseter rời khỏi công ty. Cuộc sống cá nhân. Lee kết hôn với Robert Joseph Monn vào năm 1999 (hiện tại họ đã ly dị). Họ có một cô con gái tên là Agatha Lee Monn (sinh năm 2003), người đã thể hiện bài hát "Do you want to build a snowman" trong bộ phim "Nữ hoàng băng giá". Lee và con gái hiện đang sống ở thung lũng San Fernando.
1
null
Đài quan sát Mauna Kea (MKO) là một loạt các cơ sở nghiên cứu thiên văn học độc lập trên đỉnh núi Mauna Kea ở Đảo lớn của Hawaii, Hoa Kỳ. Các cơ sở được đặt tại vùng đất đặc biệt được gọi là "Astronomy Precinct" (Phân khu Thiên văn học), nằm trong Khu bảo tồn Khoa học Mauna Kea. Phân khu Thiên văn học được thành lập vào năm 1967 và nằm trong khu đất được bảo vệ bởi Đạo luật Bảo tồn Lịch sử năm 1966 nhằm giữ gìn ý nghĩa văn hóa của Hawaii. Vị trí ở đây rất lý tưởng vì nó là một nơi tối, quan sát thiên văn tốt, độ ẩm thấp và nằm cao hơn hầu hết hơi nước trong khí quyển, thời tiết tốt và nằm gần xích đạo. Quyền sở hữu. Đại học Hawaii quản lý và cho mướn khu vực này cho một số cơ sở đa quốc gia mà họ đã đầu tư hơn 2 tỷ Mỹ kim vào khoa học và công nghệ. Vị trí tọa lạc. Vì nằm cao và độc lập giữa Thái Bình Dương nên làm cho Mauna Kea trở thành một trong những địa điểm tốt nhất trên Trái Đất cho thiên văn học trên mặt đất. Nó là một địa điểm lý tưởng cho các quan sát sóng dưới milimet, quan sát hồng ngoại và quan sát quang học. Thống kê các quan sát cho thấy Mauna Kea là nơi tốt nhất về quan sát quang học và cho hình ảnh qua quan sát hồng ngoại với chất lượng cao, thí dụ như là CFHT quan sát thấy trung bình 0,43 cung giây. Nhà ở cho những nhà nghiên cứu thiên văn học được đặt tại Trung tâm Thiên văn học Quốc tế Onizuka (thường được gọi là Hale Pōhaku), 11,2 cây số đường dốc trải nhựa từ đỉnh núi cao 2835 mét so với mặt nước biển. Một trạm thông tin về khách du lịch nằm gần đó. Đỉnh Mauna Kea thì cao cho nên khách du lịch nên nghỉ chân ở trạm khoảng 30 phút để thích nghi với điều kiện khí quyển ở đây trước khi tiếp tục lên đỉnh núi, và các nhà khoa học thường ở lại tại Hale Pōhaku 8 tiếng hoặc hơn trước khi thực hiện một đêm quan sát tại đỉnh núi và đem theo các thiết bị thiên văn cần thiết. Các kính viễn vọng. Các kính viễn vọng ở đỉnh Mauna Kea được tài trợ bởi các tổ chức chính phủ từ các quốc gia khác nhau. Đại học Hawaii quản lý trực tiếp hai kính trong tổng cộng có 12 kính tại đỉnh núi. Động đất năm 2006 ở Hawaii. Một số lượng kính bị hư hại vào ngày 15 tháng 10 năm 2006 sau trận động đất cùng ngày. Cả CFHT và Đài quan sát W. M. Keck đã hoạt động trở lại và phát trực tuyến vào ngày 19 tháng 10.
1
null
Joan de Beauvoir de Havilland (22 tháng 10 năm 1917 – 15 tháng 12 năm 2013), nghệ danh Joan Fontaine, là nữ diễn viên người Mỹ gốc Anh. Fontaine bắt đầu sự nghiệp trên sân khấu từ năm 1935 khi ký hợp đồng với RKO Pictures trong cùng năm. Năm 1941, bà được đề cử Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất về vai diễn trong phim "Rebecca", do Alfred Hitchcock đạo diễn. Năm sau, bà đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim "Suspicion" (1941) của Hitchcock, khiến cho Fontaine trở thành diễn viên duy nhất từ xưa tới nay đoạt giải Oscar này trong một phim do Hitchcock đạo diễn. Fontaine và người chị Olivia de Havilland là cặp chị em duy nhất cùng đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Trong thập niên 1940 và thập niên 1990, Fontaine tiếp tục sự nghiệp diễn xuất trên sân khấu, trên truyền thanh, truyền hình và điện ảnh. Năm 1978 bà phát hành quyển tự truyện "No Bed of Roses". Fontaine đã xuất hiện trên phim lần chót vào năm 1994, sau một sự nghiệp kéo dài hơn 50 năm. Sinh tại Nhật Bản, hai chị em di chuyển sang California năm 1919. Fontaine sống tại ngôi biệt thự riêng Villa Fontana ở thành phố Carmel-by-the-Sea, Quận Monterey, California. Tại đây, bà đã qua đời năm 2013, thọ 96 tuổi. Thời niên thiếu. Joan de Havilland sinh tại Tokyo, Nhật Bản, trong một gia đình người Anh. Cha bà – ông Walter Augustus de Havilland (31tháng 8 năm 1872 – 23 tháng 5 năm 1968), tốt nghiệp ở Đại học Cambridge và đã làm giáo sư môn tiếng Anh ở Đại học Tokyo trước khi làm luật sư hành nghề ở Nhật Bản. Mẹ của Joan – bà Lilian Augusta (nhũ danh Ruse; 11 tháng 6 năm 1886 – 20 tháng 2 năm 1975), học ở Royal Academy of Dramatic Art tại London, đã từng làm nữ diễn viên kịch nghệ, rồi bỏ nghề để theo chồng sang Tokyo. Bà đã trở lại sân khấu với nghệ danh "Lillian Fontaine" sau khi 2 cô con gái thành đạt trong thập niên 1940. Người chú/bác bên nội của Joan là Sir Geoffrey de Havilland (1882 – 1965), một nhà thiết kế máy bay nổi tiếng về loại máy bay De Havilland Mosquito, và là người sáng lập công ty máy bay mang tên ông. Ông nội của Fontaine – mục sư Charles Richard de Havilland xuất thân từ một gia đình ở Guernsey, Quần đảo Eo Biển. Cha mẹ của Fontaine kết hôn năm 1914 và ly thân năm 1919, khi Lilian quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân sau khi phát hiện việc chồng mình làm tình với các cô gái geisha; tuy nhiên, mãi tới tháng 2 năm 1925, thủ tục ly dị mới hoàn tất. Theo lời khuyên của một thầy thuốc, Lilian de Havilland đưa Joan – lúc đó là một đứa trẻ ốm yếu, bị chứng thiếu máu sau khi bị bệnh sởi và bị nhiễm streptococcal (khuẩn liên cầu) cùng người chị, Olivia, sang Hoa Kỳ. Gia đình định cư ở Saratoga, California, và sức khỏe của Fontaine được cải thiện đáng kể. Fontaine học tại Los Gatos High School. Khi lên 16 tuổi, Fontaine trở về Nhật Bản sống với người cha. Tại đây Fontaine theo học trường American School in Japan và tốt nghiệp năm 1935. Sự nghiệp. Fontaine bắt đầu sự nghiệp sân khấu trong vở "Call It a Day" của tác giả Dodie Smith năm 1935 và sớm ký hợp đồng với Công ty điện ảnh RKO Pictures (Radio-Keith-Orpheum Pictures). Bà xuất hiện lần đầu trên phim "No More Ladies" (cũng năm 1935) trong vai Caroline, một vai nhỏ, ghi nghệ danh là "Joan Burfield". Sau đó, bà đóng thêm mấy vai nhỏ trong các phim "A Million to One" và "Quality Street" (vai Charlotte Parrat, không ghi tên) do Katharine Hepburn đóng vai chính. Cả hai phim đều sản xuất trong năm 1937. Công ty "RKO Pictures" coi Fontaine như một ngôi sao đang lên, cho bà đóng vai chính trong phim "The Man Who Found Himself" (cùng năm 1937), và quảng cáo bà như "một nhân vật mới của RKO Pictures" sau phần gìới thiệu các người tham gia phim này trên màn ảnh. Sau đó Fontaine đóng vai chính cùng với Fred Astaire trong phim "A Damsel in Distress" (1937) – phim đầu tiên của Fred Astaire với Công ty RKO Pictures mà không có Ginger Rogers, tuy nhiên khán giả đã bị thất vọng và phim này thất bại. Fontaine tiếp tục đóng các vai nhỏ trên nhiều phim, trong đó có phim "The Women" (1939), nhưng không gây được ấn tượng lớn, nên bà bị sa thải khi hợp đồng hết hạn trong năm 1939. Vận may của Fontaine đã đến trong dịp bà tham dự một bữa tiệc buổi tối, khi bà thấy mình ngồi bên cạnh nhà sản xuất phim David O. Selznick. Fontaine và Selznick bắt đầu thảo luận về cuốn tiểu thuyết Rebecca của Daphne du Maurier, và Selznick yêu cầu bà tham gia buổi diễn thử vai một nữ anh hùng vô danh. Fontaine đã phải chịu đựng một loạt 6 tháng mệt mỏi về các buổi diễn thử bộ phim, cùng với hàng trăm diễn viên khác, trước khi đoạt được vai diễn, trước sinh nhật thứ 22 của mình. Phim "Rebecca", do Laurence Olivier và Fontaine đóng vai chính, đánh dấu sự khởi đầu của đạo diễn người Anh Alfred Hitchcock trên đất Mỹ. Năm 1940, khi phim được phát hành đã có nhiều bài bình luận khen ngợi, và Fontaine được đề cử cho Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, (nhưng Fontaine không đoạt giải này trong năm đó, mà là Ginger Rogers đoạt giải về vai diễn trong phim "Kitty Foyle"). Tuy nhiên, năm sau Fontaine đã đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất về vai Lina McLaidlaw Aysgarth trong phim "Suspicion", đóng cặp với Cary Grant, cũng do Hitchcock đạo diễn. Đây là giải Oscar về diễn xuất duy nhất trong một phim do Hitchcock đạo diễn. Trong thập niên 1940, Fontaine rất xuất sắc trong các phim lãng mạn đầy kịch tính. Trong số các bộ phim đáng nhớ của bà trong thời gian này là phim The Constant Nymph (1943) (mà bà đã được đề cử lần thứ 3 cho Giải Oscar),Jane Eyre" (1943), "Ivy" (1947) và "Letter from an Unknown Woman" (1948). Trong thập niên 1950 sự thành công về điện ảnh của Fontaine hơi bị giảm sút, và bà cũng bắt đầu xuất hiện trên truyền hình và trên sân khấu. Bà nhận được các bài bình luận tốt cho vai Laura trên sân khấu Broadway vào năm 1954 trong vở Tea and Sympathy đóng cặp với Anthony Perkins. Bà cũng xuất hiện trong rất nhiều show phát thanh trong thập niên 1940 cho "Lux Radio Theater". Trong thập niên 1960, Fontaine xuất hiện trong nhiều vở kịch, trong đó có "Private Lives", "Cactus Flower" và vở "The Lion in Winter" của Áo. Phim kịch chót của Fontaine là phim "The Witches" (1966), trong đó bà cũng là người đồng sản xuất. Fontaine cũng tiếp tục diễn xuất trên phim và truyền hình trong các thập niên 1970 và 1980, và được đề cử cho Giải Emmy về vai diễn trong loạt phim truyền hình tình cảm ướt át "Ryan's Hope" năm 1980. Vai diễn cuối cùng của Fontaine trên truyền hình là trong phim truyền hình "Good King Wenceslas" năm 1994, sau đó bà lui về nghỉ hưu tại ngôi biệt thự riêng Villa Fontana, ở Carmel-by-the-Sea, California, dành thời giờ chăm sóc các con chó và ngôi vườn của mình. Đời tư. Fontaine giữ 2 quốc tịch Anh và Mỹ; bà là công dân Anh từ khi mới sinh (cha mẹ đều là người Anh) và nhập quốc tịch Mỹ trong tháng 4 năm 1943. Hôn nhân và các con. Fontaine đã kết hôn và ly dị 4 lần. Cuộc hôn nhân đầu tiên của bà là với nam diễn viên Brian Aherne, năm 1939 ở Del Monte, California; họ ly dị trong tháng 4 năm 1945. Tháng 5 năm 1946, bà tái hôn với nam diễn viên kiêm nhà sản xuất điện ảnh William Dozier ở thành phố Mexico. Họ có một con gái, Deborah Leslie, sinh năm 1948; họ ly thân năm 1949. Năm sau, Fontaine nộp đơn xin ly dị với lý do là Dozier đã bỏ bê vợ con. Thủ tục ly dị đã hoàn tất trong tháng 1 năm 1951. Cuộc hôn nhân thứ ba của Fontaine là với nhà sản xuất phim kiêm nhà văn Collier Young ngày 12.11.1952. Họ ly thân trong tháng 5 năm 1960, và Fontaine nộp đơn xin ly dị tháng 11 năm 1960. Thủ tục ly dị hoàn tất trong tháng 1 năm 1961. Cuộc hôn nhân thứ 4 và cuối cùng của Fontaine là với Alfred Wright, Jr. - biên tập viên môn golf của tạp chí thể thao Sports Illustrated - ngày 23.1.1964 ở Elkton, Maryland; họ ly dị năm 1969. Năm 1951, khi sang Nam Mỹ dự một liên hoan phim, Fontaine đã gặp một bé gái Peru 4 tuổi tên là Martita, và đã nhận bé gái này làm con nuôi không chính thức. Fontaine đã gặp Martita khi đến thăm di tích Đế quốc Inca, nơi cha Martita đã làm việc như một người làm thuê chăm sóc nhà cửa. Cha mẹ của Martita đồng ý cho Fontaine làm người giám hộ hợp pháp của Martita để cung cấp cho con mình một cuộc sống tốt hơn. Fontaine đã hứa với bố mẹ Martita rằng sẽ cho Martita trở về Peru thăm cha mẹ khi Martita lên 16 tuổi. Khi Martita 16 tuổi, Fontaine mua cho cô một vé khứ hồi về Peru thăm cha mẹ, nhưng Martita từ chối đi Peru và bỏ nhà ra đi. Sau vụ việc này Fontaine đã cắt đứt liên hệ với Martita. Khi quảng cáo quyển tự truyện của mình vào năm 1978, Fontaine đã đề cập tới vụ này và nói: "Tôi sẽ không nhìn nhận con gái nuôi, nếu nó không trở về thăm bố mẹ đẻ của nó. Tôi đã hứa với bố mẹ nó. Tôi không tha thứ cho ai làm cho tôi trở thành thất hứa". Sự kình địch giữa 2 chị em. Fontaine và người chị, Olivia de Havilland, là cặp chị em duy nhất đã cùng đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. De Havilland trở thành nữ diễn viên trước; khi Fontaine tìm cách làm theo người chị thì bà mẹ - được cho là thiên vị cô chị hơn – đã không cho Fontaine sử dụng tên họ. Sau đó, Fontaine đã nghĩ ra một cái tên khác, lúc đầu là Joan Burfield, và sau đó là Joan Fontaine. Nhà viết tiểu sử Charles Higham ghi nhận là hai chị em đã có một mối quan hệ khó chịu từ thời thơ ấu, khi cô chị xé quần áo mà Fontaine phải mặc thừa (của chị), sau đó buộc Fontaine phải may lại quần áo bị xé rách. Phần lớn sự va chạm giữa hai chị em được cho là bắt nguồn từ việc Fontaine cho rằng bà mẹ đã yêu thích người chị hơn. Cả hai chị em De Havilland và Fontaine đều được đề cử cho Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất năm 1942. Fontaine đã đoạt giải này trong vai Lina McLaidlaw Aysgarth ở phim "Suspicion" của đạo diễn Alfred Hitchcock (còn De Havilland trong vai diễn ở phim "Hold Back the Dawn" thì không đoạt giải). Higham đã mô tả các sự kiện của lễ trao giải, nói rằng khi Fontaine bước lên sân khấu để nhận giải thưởng, đã dứt khoát từ chối ý định chúc mừng của De Havilland và rằng De Havilland vừa bị xúc phạm lẫn xấu hổ bởi sự việc trên. Vài năm sau, de Havilland còn nhớ thái độ khinh thường đó và đã đòi trả thù bằng cách lướt qua Fontaine, đang chìa tay chờ, mà không bắt tay Fontaine, vì De Havilland được cho là bực bội về một lời nhận xét của Fontaine về ông chồng của De Havilland. Mối quan hệ của họ tiếp tục xấu đi sau hai sự việc trên. Higham nói rằng điều này hầu như là giọt nước cuối cùng làm tràn ly khiến họ hận nhau suốt đời, tuy nhiên 2 chị em không hoàn toàn chấm dứt nói chuyện với nhau cho đến năm 1975. Cả hai chị em hầu như đều từ chối bình luận công khai về mối quan hệ của họ. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn năm 1978, Fontaine đã nói về sự cạnh tranh giữa 2 chị em: "Tôi kết hôn trước, đoạt giải Oscar trước Olivia, và nếu tôi chết trước, thì chắc chắn chị ấy sẽ giận tái người vì tôi cũng lại thắng chị ấy!" Năm sau, trong một cuộc phỏng vấn năm 1979, Fontaine nói rằng nguyên nhân bà và chị bà ngừng nói chuyện với nhau là vì De Havilland muốn bà mẹ của họ (bị ung thư) được điều trị bằng phẫu thuật, trong khi Fontaine không đồng ý vì bà cụ đã 88 tuổi, quá già rồi. Fontaine nói rằng sau khi bà mẹ qua đời, De Haviland đã không chịu bỏ công tìm ra nơi Fontaine đang hiện diện (Fontaine trên đường đi lưu diễn một vở kịch), mà chỉ gửi một bức điện tín cho Fontaine; bức điện tín này mãi 2 tuần lễ sau mới tới trạm lưu diễn tiếp theo của Fontaine. Theo Fontaine, De Havilland đã không mời Fontaine tới dự lễ tưởng niệm bà mẹ của họ. Còn De Havilland thì nói rằng mình đã thông báo cho Fontaine, nhưng Fontaine đã phớt lờ, nói rằng mình quá bận, không thể đến dự được. Higham ghi rằng Fontaine cũng đã có một mối quan hệ lạnh nhạt với các con gái của mình, có thể bởi vì bà phát hiện ra rằng chúng đã bí mật duy trì một mối quan hệ với De Havilland. Từ trần. Ngày 15.12.2013, Fontaine qua đời bởi cái chết tự nhiên, tại ngôi biệt thự riêng của bà ở Carmel-by-the-Sea, California, thọ 96 tuổi. Sau khi Fontaine qua đời, Olivia de Havilland đưa ra lời tuyên bố rằng bà "bị sốc và đau buồn" khi nhận tin này.
1
null
Thetidia smaragdaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Phạm vi phân bố loài này trên toàn khu vực Palearctic với ghi nhận từ nhiều nước châu Âu. Phân loài Anh Thetidia smaragdaria maritima được nhìn thấy lần cuối cùng vào năm 1991. Trong năm 2004, mẫu vật đầu tiên được thu thập từ Thụy Điển. Sải cánh dài 27–35 mm. Có một lứa mỗi năm với bướm trưởng thành bay từ giữa tháng sáu đến giữa tháng bảy. Ấu trùng ăn Artemisia maritima và Achillea millefolium. Ấu trùng có thể được tìm thấy từ tháng 7 đến tháng 6 năm tiếp theo
1
null
Kính viễn vọng Canada–France–Hawaii (hay Kính viễn vọng Canada–Pháp–Hawaii, hay CFHT) được tọa lạc gần đỉnh núi Mauna Kea ở Đảo Hawaii thuộc Hawaii, có độ cao 4,204 mét và là một trong những đài quan sát thuộc Đài quan sát Mauna Kea. Hoạt động từ năm 1979, kính viễn vọng có khẩu độ sử dụng là 3,58 mét. Đây là một sự hợp tác bởi thỏa thuận ba bên, gồm Đại học Hawaii, Hội đồng nghiên cứu quốc gia ở Canada và Centre National de la Recherche Scientifique (CNRS) ở Pháp. CFHT cũng có quan hệ đối tác với Đài quan sát thiên văn quốc gia Trung Hoa (NAOC), Viện Thiên văn học và Vật lý thiên văn của Học viện Sinica (ASIAA) ở Đài Loan, Laboratório Nacional de Astrofisica (LNA) ở Brazil và Viện Khoa học Thiên văn và Vũ trụ Hàn Quốc (KASI) ở Hàn Quốc. Sự đóng góp của các đối tác gây quỹ CFHT nhằm trang bị các thiết bị trong tương lai. Gần đây, CFHT cho phép các nhà thiên văn từ bảy quốc gia đối tác sử dụng nó. Các nhà thiên văn học từ Liên minh Châu Âu cũng có thể gởi đề nghị qua Mạng lưới điều phối hồng ngoại cho Thiên văn học (OPTICON) thông qua chương trình. CFHT hiện đang khai thác bốn công cụ: Những thiết bị tương lai cho CFHT đã được lên kế hoạch bao gồm SITELLE, một máy quang phổ biến đổi ôm nhiệt (fourier) và SPIRou, phổ kế phân cự cận hồng ngoại. Một dự án cũng đang được tiến hành để tân trang một số ống kính quang học của MegaCam. CFHT hợp tác với Coelum Astronomia để duy trì một trang web được gọi là "Hawaiian Starlight" (Ánh sáng sao Hawaii), trong đó cung cấp các phiên bản hình ảnh chất lượng cực kỳ cao trong các định dạng khác nhau, kể cả hình ảnh để làm lịch hằng năm.
1
null
Cameron Forbes Kerry (sinh ngày 06 tháng 9 năm 1950) là một chính trị gia Mỹ. Ông là em trai của John Kerry và là Tổng Cố vấn của Bộ Thương mại Hoa Kỳ. Ông được bổ nhiệm làm Quyền Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ từ ngày 01 tháng 6 năm 2013 và tiếp tục vị trí của mình là Luật sư sau ngày 26 tháng 6 năm 2013 khi Penny Pritzker tuyên thệ nhậm chức Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ thứ 38. Là luật sư trưởng của Bộ Thương mại, Cameron Kerry là cố vấn pháp lý chủ yếu để các Bộ trưởng Thương mại và thứ ba xếp hạng nhân viên thư ký. Tổng thống Obama đề cử ông vào ngày 20 tháng 4 năm 2009 và ông đã được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận vào ngày 21 tháng 5 năm 2009. Ông là giám đốc pháp lý của Bộ và giám sát công việc của hơn 325 luật sư trong 14 văn phòng đã cung cấp tư vấn pháp lý cho tất cả các thành phần của Cục. Kerry là giám đốc đạo đức của Bộ, và đồng chủ trì chính sách Internet Task Force của Bộ trưởng, trong đó tập hợp các cơ quan thương mại với chuyên môn trên mạng Internet trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21. Sự nghiệp. Năm 2004, Cameron Kerry là một cố vấn có ảnh hưởng trong chiến dịch tranh cử của anh trai. Kerry đã đóng một vai trò trong việc quyết định đằng sau hậu trường và như là một thay thế chiến dịch. Năm 1983, Cameron Kerry chuyển đổi từ Công giáo La Mã sang Do Thái giáo trước khi kết hôn với Kathy Weinman. Năm 2013, ông làm Quyền Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ sau khi Quyền Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ lúc đó là Rebecca Blank từ chức. Tranh cãi. Ngày 18 tháng 9 năm 1972, một ngày trước khi cuộc bầu cử sơ trong đó John Kerry đang tìm kiếm đề cử huyện mình trong cuộc đua của mình vào Hạ viện Hoa Kỳ, Cameron Kerry và Thomas J. Vallely đã bị bắt trong tầng hầm của tòa nhà là nơi ở của John Kerry và trụ sở chiến dịch đối thủ Anthony R. DiFruscia của Cameron. Ông bị buộc tội đột nhập. Một tháng sau đó, những chi phí đã được giảm xuống sau khi chiến dịch Kerry giải thích rằng Cameron là trong tòa nhà để điều tra tin đồn rằng đường dây điện thoại chiến dịch của anh trai mình.
1
null
Carmina Burana (/ k ɑr m ɨ n ə b ʊ r ɑ ː n ə /), Latin cho "bài hát từ Beuern" (viết tắt: Benediktbeuern), là tên gọi cho một bản thảo tuyển tập 254 bài thơ, đa phần được5 viết vào thế kỷ 11 và 12, một số ít được viết vào thế kỷ 13. Các tác phẩm chủ yếu mang tính trào phúng, báng bổ. Do là một tuyển tập được tập hợp qua hơn 200 năm nên ngôn ngữ sử dụng trong tuyển tập cũng rất hỗn loạn, phần lớn được viết bằng tiếng Latin trung cổ, một số viết bằng tiếng Đức Thượng kỳ và tiếng Pháp cổ, thậm chí viết trộn lẫn giữa cả ba ngôn ngữ trên Tuyển tập bao gồm những bài thơ do Goliards, một nhóm sinh viên và giáo sĩ trẻ theo học tại các trường đại học khắp Tây Âu khoảng giữa thế kỷ 11 và 12, viết nhầm châm biếm thực tại của Giáo hội Công giáo đương thời. Tuyển tậo gìn giữ tác phẩm của một số tác gia danh tiếng như Peter xứ Blois, Walter xứ Châtillon, và một nhà thơ vô danh, được nhắc tới với cái tên Archipoeta, Đại Thi hào. Tuyển tập được tìm thấy năm 1803 ở Tu viện Benediktbeuern, Bavaria, sau được chuyển về Thư viện Bang Bavaria ở Munich. Cùng với tuyển tập "Carmina Cantabrigiensia" ở Cambrigde, Carmina Burana được công nhận như một trong các thành tựu quan trọng nhất của phong trào Golliard. Tuyển tập đại diện cho một nền văn hóa quốc gia ở Châu Âu Trung cổ, với thơ văn tập hợp từ Occitania, Pháp, Anh, Scotland, Aragon, Castile và Đế chế La Mã thần thánh. Hai mươi bốn bài thơ trong tuyển tập được Carl Orff chọn ra để phổ thành bản cantata cùng tên năm 1936. Bản cantata này nhanh chóng được phổ biến khắp thế giới, nhất là phần mở đầu phổ nhạc bài thơ "O Fortuna" (Fortuna là Nữ Thần Vận Mệnh trong thần thoại La Mã) được sử dụng rộng rãi trong phim ảnh đến tận ngày nay. Bản thảo. Carmina Burana (viết tắt là CB) là một bản thảo được viết năm 1230 bởi hai thầy thông giáo trên 119 tờ giấy da. Vào cuối thời trung cổ các trang viết tay được tuyển tập lại thành tập "Codex Buranus". Nghiên cứu cũ cho rằng bản thảo được viết tại nơi nó được tìm thấy ở Benediktbeuern. Tuy nhiên ngày nay các học giả về Carmina Burana có những ý kiến khác nhau về vị trí của bản thảo xuất xứ. Tác giả. Hầu như không có gì được biết về các tác giả của Carmina Burana, chỉ có một vài bài hát có thể được gán cho tác giả cụ thể. Có một số tác giả được nhắc đến như Hugh Primas of Orléans, Archipoeta, Walter of Châtillon, Petrus Blesensis, Dietmar von Aist, Heinrich von Morungen, Walther von der Vogelweide, Neidhart von Reuental. Chủ đề. Nhìn chung, các tác phẩm chứa trong Carmina Burana có thể được sắp xếp thành bốn nhóm theo chủ đề: Tuy nhiên, có nhiều trường hợp ngoại lệ. CB 122-134, được phân loại như các bài hát tình yêu nhưng thực sự là: chúng có chứa một bài hát để tang người chết, một châm biếm và hai câu chuyện giáo dục về tên của các loài động vật. Các mảnh đính kèm có 21 bài hát thiêng liêng: các nhóm chuyên đề lớn hơn cũng có thể được chia nhỏ hơn nữa, ví dụ, kết thúc của thế giới (CB 24-31), các bài hát về các cuộc thập tự chinh (CB 46-52) hoặc làm lại các bài viết từ thời cổ đại (CB 97-102). Các chủ đề khác bao gồm: phê phán sự tham lam trong nhà thờ với nền kinh tế tiền tệ (CB 1-11, 39, 41-45); những lời than vãn về số phận con người (CB 14-18); cái chết (CB 122-131); hân hoan chào đón mùa xuân (CB 132, 135, 137, 138, 161); dâm dục (CB 79, 90, 157-158), tình yêu (CB 60, 62, và 166). Liên kết ngoài. Một số ca khúc từ Carmina Burana
1
null
Phao thi hay còn gọi là phao cứu sinh... là những ghi chú ngắn dùng để tham khảo, gợi nhớ hoặc ghi chép. Phao thi thường là một công cụ hỗ trợ việc gian lận trong các cuộc thi cử và được bí mật sử dụng trong phòng thi mà không có sự cho phép của giám thị. Tên gọi "phao" bắt nguồn từ hình ảnh người đang chết đuối với được phao mà giữ được tính mạng. Áp dụng vào thi cử, điều này ám chỉ việc người tham gia thi cử đang đối mặt với nguy cơ thi rớt thì thoát nạn nhờ sự giúp đỡ của tài liệu và thi đậu dù không có thực chất. Các sinh viên hiện đại thường in phao dưới dạng giấy nhỏ, cỡ chữ siêu nhỏ, nằm gọn trong bàn tay hoặc các góc khuất ánh nhìn của giám thị. Ngoài ra, với công nghệ hiện đại, phao thi có thể lưu dưới dạng văn bản điện tử trong các máy tính cầm tay hoặc thiết bị điện tử. Điều này dẫn đến việc cấm gắt gao các loại điện thoại hay thiết bị điện tử bị "tình nghi" trong các kỳ thi quan trọng ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở các bậc học cao hơn, khi học thuộc lòng không quan trọng bằng học hiểu, phao thi có thể được sử dụng hợp pháp. Một dạng phao hợp pháp tiêu biểu là một tờ giấy quy định sẵn kích thước để sinh viên muốn ghi gì thì ghi rồi mang vào phòng thi. Kích thước cố định của tờ giấy đảm bảo sinh viên không thể ghi hết tất cả kiến thức vào dẫn đến việc nếu không học hành nghiêm túc thì dù xem phao cũng không hiểu gì. Cần phân biệt việc này với việc "thi đề mở", khi mà sinh viên được giở sách và tài liệu chính thức trong phòng thi. Ngoài ra, trong tiếng Anh, từ "cheat sheet" (phao) được mở rộng cho các loại phao sử dụng mà không rõ là có phạm luật hay không. Những loại giấy ghi chú hoặc tài liệu tham khảo đôi khi cũng bị gọi là cheat sheet nếu nó ngắn và có thông tin tham khảo về các thuật ngữ, mệnh lệnh hay ký hiệu mà người dùng được yêu cầu phải biết nhưng không cần phải thuộc lòng, ví dụ như danh sách phím tắt của một chương trình máy vi tính hay tình huống dùng "phao" của thủ môn trong Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Trên thế giới. Phao thi được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nó thường được gắn liền với các sinh viên, nhưng những người ở các độ tuổi và nghề nghiệp khác nhau cũng sử dụng. Phao thi đặc biệt nổi bật tại Trung Quốc, đặc biệt là trong các cuộc thi đại học (gọi là gaokao - Cao khảo), vốn được coi là "kì thi quan trọng nhất mỗi công dân Trung Hoa có thể tham gia". Với những tính chất khắc nghiệt của cuộc thi, việc dùng phao thi, nhất là phao công nghệ cao, phổ biến tới mức đã có trường hợp hơn 2000 sinh viên trút giận lên các giám thị coi thi vì không cho họ gian lận. Họ đã ném đá vào giám thị và gào thét rằng "chúng tôi muốn công bằng, Sẽ không có công bằng nếu các anh không cho chúng tôi... gian lận". Trong số các phao thi bị bắt quả tang đang được sử dụng, chính quyền gặp phải rất nhiều loại "máy truyền phao" mang tính chất bí mật như các máy quay và máy thâu phát tín hiệu siêu nhỏ gắn trong kính mắt, đồng xu, cục tẩy, và thậm chí là áo ngực phụ nữ để truyền phao từ bên ngoài vào phòng thi. Có thiết bị có giá lên đến 2.500 đô la Mỹ. Có thí sinh còn mang vào cả một hệ thống cực kỳ công phu gồm ăng-ten, tai nghe, pin, điện thoại truyền phát, bút bi chụp hình. Cả hệ thống được gắn vào một cái áo ba lỗ. Để đấu trí với các sĩ tử, cảnh sát đã được huy động để truy quét các nhóm dùng công nghệ không dây để truyền phao vào phòng thi trong khi giám thị dùng máy dò sóng và máy dò kim loại để phát hiện các đường truyền phát thông tin không dây từ trong phòng thi ra ngoài. Các cuộc triển lãm phao thi đã được tổ chức thu hút nhiều khách tham quan với các loại phao đa dạng từ hình thức đến nội dung. Một triển lãm "phao thi" tại trung tâm mua sắm tại thành phố Yekaterinburg của Nga đã giới thiệu hơn một trăm năm mươi cách gian lận thi cử. Tất cả phao trưng bày đều là các thiết kế gốc của những học sinh, sinh viên sử dụng thành công tại các kỳ thi trong những năm khác nhau với đủ chiêu thức hoạt động như: gấp hình đàn gió, dùng nước in chữ siêu nhỏ lên băng dính trong suốt, giấu dưới móng tay giả hay cho trực thăng đồ chơi đưa vào khi giám thị phân tâm. Triển lãm này được cho là phá vỡ mọi kỷ lục về lượng khách đến tham quan. Tại Đức, một triển lãm được tổ chức tại Bảo tàng truyền thông Frankfurt đã giới thiệu một nghìn loại phao từ khắp nơi trên thế giới được sinh viên sáng tạo trong hàng trăm năm qua. Trong số các hiện vật khác thường nhất có phao đặc biệt trên nhãn chai Fanta. Theo người phụ trách, khoảng 20% sinh viên ở Đức dùng phao khi thi và chỉ 1/5 bị phát hiện. Một học sinh trung học ở Kazakhstan cũng "nổi tiếng" khi bị tịch thu "phao thi" tự chế có chiều dài 11 mét, chứa 25.000 đáp án cho tất cả các môn thi. Một tình huống dùng phao gây sự chú ý lớn là tình huống dùng "phao" của thủ môn Jens Lehmann của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức trong trận tứ kết với đội Argentina tại giải vô địch thế giới World Cup vào ngày 30 tháng 6 năm 2006. Trước sự tấn công của đội Argentina, hàng triệu người xem trên thế giới đã chứng kiến Jens Lehmann rút trong vớ ra mẩu giấy viết bằng bút chì dài khoảng 9 – 10 inch để đọc rồi cất vào chỗ cũ. Cái "phao" đó về sau được tiết lộ là chứa lời mách nước của huấn luyện viên về cách tấn công sút phạt đền của các cầu thủ Argentina. Lehmann đã cứu hai quả phạt đền và được ca ngợi. Tại một cuộc đấu giá, Công ty Energie Baden-Wuerttenberg mua cái phao với giá một triệu Euro và quyên tặng nó cho bảo tàng lịch sử tại Bonn. Số tiền một triệu euro dùng mua phao được dùng làm từ thiện. Tại Việt Nam. Phao thi hiện vẫn còn là một hiện tượng tiêu cực thường thấy tại Việt Nam. Bất chấp các biện pháp nghiêm ngặt được áp dụng, việc sử dụng phao vẫn xuất hiện và gây nhiều sự bức xúc trong dư luận. Các vùng dùng phao gần như công khai thường là các vùng sâu hoặc các khu vực có sự làm việc thiếu nghiêm túc hoặc tiêu cực của hội đồng coi thi. Các hiện tượng ném phao thi, dùng thang đưa phao vào phòng thi, "phao" thi dùng xong vứt "trắng sân trường", bán "phao" công khai, clip quay cảnh tiêu cực có cảnh dùng phao... đã nhận nhiều sự quan tâm của dư luận. Có những cửa hàng đã bán công khai phao với giá 1,8 triệu đồng một bộ.
1
null
Cá sấu ăn thịt người hay cá sấu giết người, cá sấu tấn công người là thuật ngữ chỉ về những cuộc tấn công của các loại cá sấu đối với con người trong môi trường sống của chúng hoặc những sự cố xảy ra trong việc nuôi, nhốt cá sấu. Thông thường những cuộc tấn công này kết thúc bằng một thảm kịch với việc con người bị ăn thịt một cách rùng rợn. Chỉ có 6 trong số 23 loài cá sấu được coi là nguy hiểm cho con người trưởng thành và chỉ có cá thể dài đến 2 mét (6,6 ft) hoặc nhiều hơn mới đại diện cho một mối nguy hiểm nghiêm trọng cho con người, những con cá sấu nhỏ hơn được coi là không có khả năng giết chết một người. Tuy nhiên, ngay cả những loài nhỏ nhất có thể gây ra vết cắn đau đớn cần phải khâu nếu bị cắn mạnh. Ngoài ra, một đứa trẻ nhỏ có thể có kích thước tương tự như con mồi của một số loài cá sấu mà không có khả năng săn những người trưởng thành. Ước tính có 1000 người bị giết bởi cá sấu mỗi năm. Sáu loài cá sấu có thể gây nguy hiểm cho con người là: Hai loài cá sấu nổi tiếng trong việc tấn công và ăn thịt người là cá sấu sông Nin và cá sấu nước mặn. Mỗi năm, hàng trăm cuộc tấn công chết được cho là do cá sấu sông Nile ở trong tiểu vùng cận Sahara ở châu Phi, chúng tấn công và ăn thịt người nhiều hơn bất kỳ động vật ăn thịt hoang dã khác tấn công con người để ăn thịt, cũng có nhiều cuộc tấn công của cá sấu nước mặn ở Úc. Một thống kê mới nhất trong đầu năm 2014 có đến 66 vụ cá sấu tấn công chết người trên toàn cầu. Ngoài ra, cá sấu mõm ngắn và có thể cả Cá sấu đen (là loài đang nguy cấp trong sách đỏ của IUCN) cũng là những loài gây nguy hiểm cho con người. Một sự so sánh với cá mập thì cá sấu nguy hiểm với con người nhiều hơn gấp 168 lần. Tình hình chung. Người ta ước tính rằng mỗi năm có hàng trăm người chết vì các cuộc tấn công cá sấu ở châu Phi, nhiều nạn nhân trong các cuộc tấn công không bao giờ được báo cáo trong các phương tiện truyền thông. Không có hệ thống báo cáo chính xác tại chỗ, các cuộc tấn công cá sấu ở châu Phi rất khó để theo dõi và rất ít được ghi chép ở đây do đó phần lớn các cuộc tấn công được ghi nhận dưới đây đã xảy ra ở Đông Nam Á và Úc. Không giống như các loài cá sấu ăn thịt người, chẳng hạn như cá sấu nước mặn, cuộc sống cá sấu sông Nile gần quần thể người, vì vậy tiếp xúc thường xuyên hơn. Thực tế là có rất nhiều người dân tương sống trong lưu vực sông Nile ở Đông Phi và mức sống nghèo đói, thu nhập khó khăn của họ đã đẩy họ phụ thuộc vào tự nhiên, họ kiếm sống trên những khu vực có cá sấu sinh sống và điều đó dẫn đến tỷ lệ bị cá sấu tấn công cao. Mặc dù hầu hết các cuộc tấn công không được báo cáo, cá sấu sông Nile được ước tính giết chết hàng trăm (thậm chí hàng nghìn) người mỗi năm, nhiều hơn tất cả các loài cá sấu khác cộng lại. Một nghiên cứu thừa nhận số lượng các cuộc tấn công của cá sấu sông Nile mỗi năm lên đến 275-745 vụ trong đó 63% nạn nhân tử vong, như trái ngược với ước tính có khoảng 30 cuộc tấn công mỗi năm con cá sấu nước mặn, trong đó 50% là tử vong. Trong cả hai loài, kích thước trung bình của cá sấu tham gia vào các cuộc tấn công không gây tử vong là khoảng 3 m (9,8 ft) như trái ngược với một loạt báo cáo từ 2,5–5 m (8,2–16 ft) hoặc lớn hơn cho cá sấu chịu trách nhiệm về các cuộc tấn công gây tử vong. Vì đa số các cuộc tấn công gây tử vong được cho là ăn thịt trong tự nhiên, cá sấu sông Nile có thể được coi là động vật ăn thịt nhiều nhất của con người các loài động vật hoang dã. Ở New Guinea, các cuộc tấn công cá sấu nước mặn Borneo và thường xảy ra. Các con cá sấu đầm lầy cũng rất nguy hiểm đối với con người, chúng cũng giết chết nhiều người ở Ấn Độ mỗi năm. Cá sấu Mỹ được coi là ít hung hăng. Chỉ có một số ít (chưa được xác minh) các trường hợp cá sấu Mỹ từng bị tấn công con người đã được báo cáo. Cá sấu Caiman cũng phải chịu trách nhiệm cho một số trường hợp tử vong được ghi nhận mỗi năm trong lưu vực sông Amazon và các khu vực xung quanh. Con cá sấu mõm ngắn Mỹ chịu trách nhiệm cho nhiều trường hợp tử vong của con người, với hầu hết xảy ra ở bang Florida trong một khu vực của khu dân cư dày đặc (miền đông nam Hoa Kỳ, đặc biệt là Hoa Kỳ), cá sấu Mỹ hiếm khi tấn công con người để ăn thịt mặc dù chúng là động vật cơ hội. Không giống như cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nile, hầu hết các con cá sấu mõm ngắn dường như tránh tiếp xúc với con người nếu có thể, đặc biệt là nếu chúng đã bị săn bắt. Cá sấu Xiêm thuần chủng nói chung không gây nguy hiểm cho con người, và không có trường hợp cá sấu tấn công người khi không bị khiêu khích nào được ghi nhận. Các vụ tấn công của loài cá sấu hung dữ dọc con sông lớn thứ tư châu Phi là sông Zambezi buộc chính quyền Mozambique phải phát động một cuộc săn bắt lớn, nhằm giảm thiểu những nguy hiểm cho người dân. Hơn ba năm đã bắt được và cho giết những con cá sấu dài đến 6 mét ở sông Zambezi, thuộc trung tâm tỉnh Sofala, họ đã tiêu diệt 51 con cá sấu, bắt được 15 con và thu thập 9.600 quả trứng. Năm 2010 có ít nhất 13 người thiệt mạng do bị cá sấu sông Zambezi tấn công. Vùng Lãnh thổ Bắc Úc có nhiều cá sấu và số lượng cá sấu tại đây không ngừng gia tăng nhờ vào đạo luật bảo vệ động vật của Úc áp dụng kể từ năm 1971.Chính quyền Úc ước tính có đến 75.000-100.000 con cá sấu tại vùng Lãnh thổ Bắc Úc. Hàng năm tại Florida có khoảng 5 người bị cá sấu cắn trong khoảng thời gian cá sấu hoạt động mạnh nhất trong năm do mực nước các sông lên đỉnh. Năm 2005, tại bang Florida, Mỹ, có tới 18.000 cuộc điện thoại của dân chúng tới chính quyền để than phiền về cá sấu. Trong số 18.000 vụ bị cá sấu quấy rầy, những người bắt cá sấu chuyên nghiệp đã bắt được khoảng 7.700 con, và nỗi sợ cá sấu của người dân ngày càng gia tăng, vì đã có 3 vụ cá sấu giết người ở Florida. Có 1 vụ chính thức được chính quyền tiểu bang công nhận là do cá sấu gây ra, các vụ cá sấu cắn vô cớ chỉ là 7 vụ trong năm 2005 Đặc tính. Cá sấu là một trong những động vật săn mồi nguy hiểm hàng đầu trong tự nhiên, với sức mạnh và kỹ năng của mình, chúng có thể tấn công bất cứ con vật nào đang uống nước hoặc bơi qua các dòng sông, đầm lầy, chỉ trừ những con voi hoặc hà mã trưởng thành nếu số lượng cá sấu không quá nhiều. Mặc dù có vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của chúng, Chúng có thể bơi khá nhanh với vận tốc 20 mph (32 km/h) Chúng bất thình lình tấn công con mồi. Cá sấu rất nhanh nhẹn khi khoảng cách ngắn, thậm chí ngoài môi trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt, tất cả những con cá sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe. Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục, chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn công chớp nhoáng. Sau khi dùng cú đớp trời giáng của mình, con cá sấu kéo nạn nhận xuống con sông để nhấn chìm tới ngạt thở. Sau đó, để xé mồi, nó ngoạm chặt miếng thịt rồi xoay người nhiều vòng để dứt thịt ra, thường thì con mồi bị giết ngay sau một cú cắn bởi hàm rắng chắc khỏe của chúng, sau đó con mồi được kéo xuống nước. Chúng ngoạm các con mồi như thế bằng trong các hàm cực khỏe và kéo con mồi xuống nước, và cố gắng giữ con mồi ở đó cho đến khi chúng bị chết đuối vì ngạt thở. Khi con mồi của chúng đã chết, chúng xé toạc và ăn từng tảng thịt to. Khi nhóm cá sấu sông Nin chia sẻ thức ăn, chúng sử dụng nhau như là đòn bẩy, cắn sâu vào cơ thể con mồi và sau đó vặn xoắn cơ thể chúng để tách ra những lớp thịt lớn. Chúng cũng có thể tạo ra đòn bẩy cần thiết bằng cách hãm con mồi ở dưới các tảng đá hay cành cây, trước khi cắn xé và vặn mình. Cá sấu hiếm khi tấn công con mồi khi ở trên cạn do hạn chế về tốc độ di chuyển. Chúng di chuyển trên mặt đất với vận tốc nhỏ hơn khá nhiều so với ở dưới nước, chỉ khoảng 13 – 14 km/h, ngay cả loài cá sấu nhanh nhất cũng chỉ có tốc độ 17 km/h. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng không thể săn mồi trên cạn. Loài bò sát này có khả năng gia tốc cực kỳ đáng sợ. Cá sấu có thể đạt được vận tốc 12 m/s trong 0.25 giây. Điều này có nghĩa là trong bán kính khoảng 4m đổ lại, cá sấu có thể kết liễu con mồi một cách chớp nhoáng trước khi nạn nhân kịp nhận ra là đang bị tấn công. Cá sấu mõm ngắn Mỹ di chuyển rất nhanh trong nước, trong khi chúng đang di chuyển chậm về bờ đất, chúng có thể lao nhanh tới trongkhoảng cách ngắn rất nhanh chóng. Chúng có năm móng vuốt trên mỗi chân trước và trên mỗi bàn chân phía sau. Cá sấu mõm ngắn Mỹ được các phòng thí nghiệm đo đạc và cho rằng nó cắn mạnh nhất của bất kỳ sinh vật sống, với lực táp được đo lên tới 9.452 newton trong điều kiện phòng thí nghiệm. Cần lưu ý rằng thí nghiệm này đã không (tại thời điểm bài báo được công bố) được nhân rộng trong bất kỳ cá sấu khác. Chính những cái bướu nhỏ ở hàm dưới của cá sấu được chứng minh là nhạy cảm hơn cả đầu ngón tay người, cho phép chúng có thể dùng miệng cắp cá sấu con một cách nhẹ nhàng, trong khi dễ dàng tung ra cú đớp chết người. Nó có những đầu mút dây thần kinh nhạy cảm, có khả năng phát hiện nhanh chóng sự chuyển động hoặc áp lực từ bên ngoài tác động lên bướu, xuất phát từ dây thần kinh sinh ba nhô ra trực tiếp từ sọ. Cấu trúc của bướu giúp cá sấu thực hiện cú đớp mồi trong 50 phần triệu giây kể từ khi bị đánh động. Với tốc độ kinh hoàng như vậy, hầu như không có con mồi nào thoát khỏi cú tấn công chết người của cá sấu. Cá sấu nước mặn sở hữu cơ thể lớn nhất trong các loài bò sát còn tồn tại trên địa cầu. Một con cá sấu đực trưởng thành thường có chiều dài hơn 5 m và trọng lượng 450 kg, con người vẫn có thể gặp những con cá sấu trưởng thành có chiều dài 7 m và trọng lượng tới 1 tấn. Dù cơ thể nặng nề nhưng cá sấu nước mặn có thể di chuyển nhanh nhẹn như một con cá heo. Con người gần như không thể chống lại chúng khi ở dưới nước. Một con cá sấu nước mặn trưởng thành có thể dễ dàng hạ gục 1 người chỉ trong chớp mắt. Cá sấu nước mặn vẫn được coi là động vật ăn thịt nguy hiểm và hiếu chiến nhất trên Trái Đất. Trên các bờ biển Australia các vụ tấn công của cá sấu nước mặn làm chết nhiều người hơn so với các vụ tấn công của cá mập trắng khổng lồ. Cá sấu là sinh vật có bộ hàm khủng khiếp, cú đớp của nó có sức mạnh tương đương 13.172 Newton (1.342 kg lực) trở thành nỗi khiếp sợ của bất cứ con mồi nào bén mảng lãnh địa của nó. Loài bò sát này có những miếng cắn mạnh nhất trong thế giới động vật, những con cá sấu lớn có thể cắn với một lực trên 2.500 kg, chẳng hạn như một con cá sấu nước mặn lớn đã ngoạm vào cổ, kéo xuống nước và giết chết con ngựa đực nặng một tấn có sức kéo 2.000 kg và bộ hàm của nó có khả năng nghiền nát xương sọ của con trâu hay cái mai rùa chỉ trong vài giây bên cạnh đó, khi ở dưới nước, cú đớp của sát thủ đầm lầy rất đáng sợ, kết hợp với khả năng vặn mình xoay tròn trên mặt nước khiến con mồi nhanh chóng bị chết. Loài cá sấu nước mặn ở châu Úc (cá sấu cửa sông) hung hăng nhất so với 6 loài khác trên thế giới, chúng hung hăng hơn hẳn cá sấu châu Mỹ. Những loài cá sấu nước mặn cũng được cho là rất hung hãn được tìm thấy ở Papua New Guinea, Nam Mỹ và Đông Nam Á. Riêng về loài cá sấu nước ngọt tại Úc xếp thứ năm về tính hung bạo, đứng trên hai loài liền kề là cá sấu Mỹ và cá sấu Ấn Độ. Cá sấu đặc biệt hung hăng khi kẻ lạ xâm nhập vào môi trường sống của chúng, nhất là vào mùa giao phối. Cái hàm mạnh mẽ của cá sấu đực có thể cắn nát đầu của động vật lạ. những con cá sấu nước mặn có kính cỡ chừng 2 mét thì ít tấn công con người, nhưng những con từ 4 mét trở lên thì phải hết sức thận trọng với chúng. Một số vụ việc. Việt Nam. Tại miền Nam Việt Nam, tài liệu cổ ghi chép về cá sấu ở Nam Bộ là Gia Định thành thông chí có ghi rằng: Ngoài cửa sông có nhiều cá sấu, có con to bằng chiếc xuồng, tính rất hung dữ, người đi qua phải coi chừng. Dân trong vùng phàm có những ngòi nhỏ, dùng chở gạo củi, hay tưới rửa, thì ở miệng ngòi phải trồng cọc dày kín, để ngăn dòng nước cho khỏi nạn cá sấu. Một số nơi như: Một số con cá sấu. Con cá sấu Eric là một con cá to lớn, dài 5 mét, bị bẫy và được chuyển đến Darwin sau khi bị nghi đã giết hai đứa bé thuộc cộng đồng Territory trong thập niên 1980. Sau đó nó cắn đứt đầu hai con cá sấu cái mà nó được nhốt chung để sinh sản. Năm 1989, nó được gởi tới công viên bò sát Úc ở NSW, nơi nó được đặt tên theo người sáng lập công viên Eric Worrell. Eric chết năm 2007 vì bị nhiễm trùng, sau khi các bác sĩ phẫu thuật tại sở thú bị mất điện vì bão trong khu vực vào thời điểm đó. Một con cá sấu ăn thịt người bí ẩn có tên là Tom hai ngón là con cá sấu Mỹ đực khổng lồ lang thang khắp vùng đầm lầy giáp ranh giữa hai bang Alabama và Florida trong thập kỷ 20 thế kỷ XX. Nhiều người nhìn thấy một con cá sấu đực khổng lồ tắm nắng ở các bờ hồ, và nghe tiếng gầm của nó mỗi buổi sáng. Họ nhận diện ra nó là Tom vì dấu hai ngón để lại trên bùn và cát. Nó mất tất cả ngoại trừ hai ngón ở phía trái, do bị dính vào một chiếc bẫy bằng sắt và để lại mọi dấu vết nhận biết trên bùn, vì thế nó được gọi là "Tom hai ngón". Nó dài bốn mét rưỡi. Tom đã ăn vài chục con bò, con la và tất nhiên là con người, đặc biệt là phụ nữ bị chụp khi họ đang giặt quần áo dưới sông. Một nông dân cố giết nó bằng thuốc nổ, ông quyết định ném 15 thùng chứa đầy thuốc nổ xuống dưới hồ được cho là Tom đang ẩn náu. Vụ nổ giết mọi thứ trong hồ, ngoại trừ Tom. Ngay sau vụ nổ, người nông dân và con trai của ông nghe tiếng kêu khủng khiếp và những tiếng vẫy nước rất mạnh từ cái hồ bên cạnh. Họ vội chạy tới nơi và thấy đôi mắt đỏ lòm của Tom trước khi nó biến mất bên dưới mặt nước. Tiếng kêu sau này được giải thích khi một nửa thân chưa bị ăn hết của cô con cái trẻ con người nông dân xuất hiện gần bờ. Cassius là con cá sấu khổng lồ đang nuôi nhốt, sau cái chết của Lolong, cá sấu Cassius là con cá sấu lớn nhất thế giới đang nuôi nhốt, dài 5,6 mét. Nó bị bắt ở sông Finness vào năm 1984 bởi Grahame Webb, sau khi nó tấn công rất nhiều thuyền máy gắn ngoài, hiện nay nó sống ở đó nên nhiều người Queensland nói cá sấu Cassius là của họ, nhưng thực tế nó bắt được ở Northern Territory, nó được bán cho một trại nuôi cá sấu ở bắc Queensland vào năm 1987. Trong văn hóa. Cá sấu tấn công người được ghi nhận trong văn hóa của nhiều nước trên thế giới, là sát thủ đầm lầy, quái vật tượng trưng cho sự chết chóc, rùng rợn, các loài cá sấu còn là đề tài cho nhiều bộ phim kinh dị, nhìn chung bối cảnh của các bộ phim đa dạng phong phú nhưng khung cảnh chính là những đầm lầy, ao hồ nơi có những con cá sâu nguy hiểm, khổng lồ và hay thình lình tấn công đến thót tim. Một số bộ phim có thể kể đến là: "Cá sấu ăn thit người 2" hay "cá sấu chúa 2" (tựa gốc: "Alligator II: The Mutation" năm 1991), phim có nội dung cuộc truy tìm một con cá sấu mõm ngắn sống trong cống nước của một thành phố, cống nước này thông với hồ nước ở công viên Regent. Một tập đoàn sản xuất hóa chất đã xả thải các chất hóa học của họ xuống cống nước và làm cho con cá sấu này to lớn dị thường. Nó đã tấn công và giết những người ăn mày cư ngụ trong cống. Thanh tra David Hodges, một cán bộ cương trực, có trách nhiệm trong công tác luôn quan tâm và theo dấu con cá sấu mà lúc đầu anh nghi ngờ là một con quái vật vì những vết căn khủng khiếp của nó, được sự giúp đỡ của vợ anh là một nhà động vật học, cùng một nhóm người, anh đã truy tìm được con quái vật. Những kẻ thủ ác ám lợi của công ty hóa chất đã bị con cá sấu giết chết. Con cá sấu cuối cùng bị tiêu diệt trong đường cống ngầm bằng một phát rốc-két trước khi nó thoát về với tự nhiên. "Sấu độc" hoặc "Cá sấu sát thủ" (tựa tiếng Anh: "Rogue") vào năm 2007. Mác phim chính thức của Rogue là How Fast Can You Swim? (dịch sang tiếng Việt: "Bạn có thể bơi nhanh như thế nào"? Hay "bơi đâu cho thoát"). Phim này dựa theo một câu chuyện có thật của con cá sấu tên Sweetheart - một con cá sấu dài 5,1m ở Úc chuyên tấn công các thuyền đánh cá vào những năm 1970. Phim kể về những du khách đi vào lãnh thổ của một con cá sấu khổng lồ hung tợn, chuyên giết người ăn thịt, trước kia nó đã từng ăn thịt rất nhiều người và trâu bò của ngôi làng gần đó, nó đã chọc thủng đáy thuyền của những du khách nhằm mục đích không cho họ về mà phải ở lại làm bữa ăn tối của nó. Trong bộ phim Trở về Eden của Úc cũng có cảnh cá sấu tấn công, một nữ nhân vật độc địa đã thả một con cá sấu vào hồ bơi để tấn công tình địch của mình. Stephany Harper được thừa hưởng cùng với gia tài khổng lồ của người cha là nơi cô muốn xây dựng một thiên đường thực sự với người chồng mà cô yêu say đắm là Greg Marsdan. Nhưng cũng chính ở Eden, trong tuần trăng mật, khi đã nằm trong hàm cá sấu, cô mới nhìn thấy bộ mặt thật của chồng và người bạn gái thân thiết nhất – Jilly, họ đã đồng lõa và thản nhiên nhìn cô giãy giụa...Với bộ mặt bị cá sấu cắn nát và một trái tim còn tan nát hơn thế, Stephany đã trở lại với Eden để phục thù. Loạt phim kinh dị: Lake Placid (1999) kể về những con cá sấu khổng lồ ban đầu được nuôi dưỡng trong hồ bởi một bà già. Bộ phim đầu tiên được trình chiếu năm 1999, tiếp theo là Lake Placid 2 (2007), Lake Placid 3 (2010) và Lake Placid: The Final Chapter (2012). Ngoài ra còn các bộ phim như Black Water – "đầm lầy tử thần" (2007), "Cá sấu triệu đô" – tựa gốc: Million Dollar Crocodile (2012), "Primeval" (2007) là bộ phim kinh dị dựa trên đề tài về con cá sấu ăn thịt người hàng loạt ở Burundi có tên là Gustave. "Đầm cá sấu" ("Alligator Alley") năm 2013, Bộ phim kể về cuộc chiến khốc liệt giữa cư dân vùng đầm lầy ở Luoisiana với cá sấu, một trong những loài quái vật đáng sợ nhất của tự nhiên. Do biến đổi khí hậu, chúng trở nên hung tợn và bắt đầu tấn công con người.
1
null
Reuven "Ruby" Rivlin (, ; sinh 9 tháng 9 năm 1939) là một chính khách Israel. Trong cuộc bầu cử ngày 10 tháng 6 năm 2014, ông đã đắc cử chức tổng thống Israel. Ông là một đảng viên của đảng Likud. Rivlin là Bộ trưởng Bộ Thông tin giai đoạn 2001-2003 và sau đó là chủ tịch của Knesset giai đoạn 2003-2006 và một lần nữa 2009-2013. Ông tốt nghiệp luật tại Đại học Hebrew Jerusalem và làm luật sư. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2014, ông được bầu làm Tổng thống thứ 10 của Israel. Tiểu sử. Reuven Rivlin đã được sinh ra tại Jerusalem. Ông đã nhận được bằng luật của Đại học Hebrew Jerusalem và làm việc như một luật sư. Ông là một hậu duệ của học sinh của Vilna Gaon, con trai của Yosef Yoel Rivlin và một thành viên của gia đình Rivlin. Ông kết hôn với Nechama (sinh ngày 05 tháng 6 năm 1945) và có bốn người con. Ông là một người ăn chay kể từ cuối những năm 1960. Rivlin được biết đến như một người ủng hộ của Beitar Jerusalem câu lạc bộ bóng đá, đôi khi được mô tả là "-Hầu hết dày dạn-Beitar-fan hâm mộ", kể từ khi ông lần đầu tiên nhìn thấy một trò chơi của Beitar vào năm 1946 khi ông 7 tuổi. Sự nghiệp chính trị. Tổng thống. Rivlin đã được bầu làm Tổng thống thứ 10 của Israel vào ngày 10 tháng 6 năm 2014 nhận được sự hỗ trợ của 63 MKS trong một cuộc bỏ phiếu dòng chảy đối với MK Meir Sheetrit. Rivlin sẽ được tuyên thệ nhậm chức vào ngày 24 tháng 7 năm 2014 thay thế Shimon Peres. Sau khi được bầu làm tổng thống thứ 10, ông ngay lập tức không còn là một thành viên của Quốc hội Israel.
1
null
Cá trích tròn hay cá trích lầm (Danh pháp khoa học: Sardinella aurita) là loài cá trích trong họ Cá trích. Chúng được tìm thấy ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Đặc điểm. Cá trích tròn có mình tròn, ít vảy, nhiều thịt hơn nhưng thịt cá đỏ và không thơm ngon. Chúng có một vệt đặc biệt kéo dài theo kích thước cơ thể, bụng tương đối tròn. Đây là một trong những loài cá trích lớn nhất, trung bình từ 23 đến 28 cm, nó có tám tia vây bụng và một vàng qua đường trung tâm mờ nhạt. Cá trích tròn thích vùng nước ấm, và vùng nước nông khoảng 24 °C, đến độ sâu 350 m. Đó là một loài cá nổi nhỏ sống ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của miền tây và đông Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Địa Trung Hải và, đôi khi, Biển Đen. Tuyến sinh dục bắt đầu phát triển vào tháng Tư, và hoàn toàn trưởng thành một tháng sau đó. Nó là một loài ăn thực vật phù du và động vật phù du như chân chèo. Cá trích tròn đã trải qua một sự bùng nổ lớn trong dân số đánh bắt khoảng năm 1990. Tuy nhiên, con số của nó đã rất ổn định qua nhiều năm qua. Trung bình 1,3 tấn cho mỗi chuyến đi trong bốn năm qua. Sản lượng cá đánh bắt năm 1983 đạt 1.983.000 tấn.
1
null
Cá trích Madeiran (Danh pháp khoa học: Sardinella maderensis) là một loài cá vây tia trong chi cá trích được tìm thấy ở phía Đông Đại Tây Dương và Đông Nam Địa Trung Hải. Đặc điểm. S. madarensis là một cá trích rõ ràng với cấu trúc thon dài, những con cá có một số trung bình của Lược mang ở và tia vây ngực trên của họ có màu trắng ở phía bên ngoài với một lớp màng đen ở giữa. Họ rất khó phân biệt với Sardinella aurita ngoại trừ những con cá chỉ có 7 tia trên vây chậu của chúng và không có điểm đen trên phần sau của nắp mang của nó. Chúng cũng có một vây đuôi màu xám. Các con có thể thích nghi với độ mặn rất thấp khi chúng di cư vào các vùng cửa sông và đầm phá và dành phần lớn cuộc sống của chúng gần bề mặt của nước. Chúng ăn thực vật phù du và ấu trùng cá. Đây là một số trong những loài cá lớn hơn trong chi này và phát triển đến 35 cm. Việc đánh bắt đã giảm từ 1,8 tấn cho mỗi chuyến đi trong năm 2003 xuống 1,5 tấn trong hai năm tiếp theo. Trong suốt mười năm qua, kích thước trung bình của các con cá đã giảm xuống từ 35 cm đến 32 cm.
1
null
Khu dự trữ sinh quyển Río Plátano là khu bảo tồn tự nhiên có diện tích 5.250 km ² nằm ở Mosquitia, khu vực bên bờ biển Caribê của Honduras. Hầu hết diện tích đất của khu bảo tồn này chạy dọc theo sông Plátano. Khu bảo tồn có những khu rừng lớn nhất tại Honduras, là nhà của một số loài đang bị đe dọa. Nó đã được công nhận là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 1982. Khu bảo tồn này bao gồm cả miền núi và đồng bằng với những khu rừng mưa nhiệt đới, các động vật hoang dã và đời sống thực vật rất đa dạng, với hơn 2000 loài thực vật.Nơi đây là một phần của hành lang sinh học Trung Mỹ trải dài từ phía nam Mexico tới Trung Mỹ. Mặc dù khu dự trữ bao gồm một phần lớn các khu rừng của Honduras, nhưng ghi nhận về sự đa dạng sinh học bên trong nó là rất ít tài liệu. Trong khi kế hoạch quản lý trước đây đã chứng minh điều này, một cuộc điều tra tiếp tục diễn ra trong tương lai để bảo tồn và giữ an toàn cho khu dự trữ có giá trị đặc biệt này. Hiện nay, các mối đe dọa đến việc bảo tồn bao gồm săn bắn hợp pháp, khai thác gỗ và tình trạng chăn thả gia súc. Thám hiểm đi bè gần đây trên sông Platano từ đầu nguồn thông qua các vùng đệm, vùng lõi đã ghi nhận việc chăn thả gia súc trong vùng lõi, câu cá thương mại và các trại săn bắn dọc theo sông, khai thác gỗ gần khu rừng Las Marias. Lịch sử. Năm 1960, khu vực này được đặt tên là "Khu dự trữ khảo cổ Cuidad Blanca", theo tên của thành phố huyền thoại cổ xưa Ciudad Blanca (Thành phố Trắng). Sau đó, nó đã được đổi tên thành "Khu dự trữ sinh quyển Río Plátano" vào năm 1980 và được bổ sung vào danh sách di sản thế giới vào năm 1982. Một kế hoạch quản lý và phát triển được đưa ra vào năm 1980 và thực hiện vào năm 1987 do Bộ Tài nguyên. Năm 1997, thêm 3250 km ² được chỉ định là vùng đệm cho khu bảo tồn. Năm 1997, Ngân hàng Phát triển Đức đã bắt đầu một kế hoạch sẽ mở rộng đáng kể thêm Khu dự trữ sông Patuca và khu dự trữ sinh quyển Bosawas ở Nicaragua. Hiện nay, kế hoạch của Đức đã bị trì hoãn. Địa điểm khảo cổ. Khu vực còn có hơn 200 địa điểm khảo cổ, bao gồm cả các điểm mà Christopher Columbus lần đầu tiên đến đất liền nước Mỹ. Khu bảo tồn cũng có các khu định cư bị phá hoại, bao gồm các tòa nhà, đường sá, đá chạm khắc và hài cốt. Vài trong số các địa điểm khảo cổ được bảo vệ trên thực tế đã bị đánh cắp một số yếu tố quan trọng. Mặc dù giá trị khảo cổ trong khu vực ban đầu đóng một vai trò lớn trong sự hình thành của khu bảo tồn, nhưng tập trung chủ yếu hiện nay của khu bảo tồn là vào việc bảo vệ rừng và các loài động thực vật quý hiếm. Theo truyền thuyết, thành phố Ciudad Blanca nằm trong khu vực này. Trong những năm qua, nhiều nhà khảo cổ học nghiệp dư lẫn chuyên nghiệp đã tuyên bố là tìm thấy nó, nhưng không ai đưa ra được những bằng chứng đáng tin cậy và hầu hết các chuyên gia vẫn còn hoài về sự tồn tại thực hư của nó. Động thực vật. Khu dự trữ chứa phần diện tích còn sót lại lớn nhất những cánh rừng mưa nhiệt đới ở Honduras và là một trong số ít còn lại ở Trung Mỹ, với nhiều loài đang bị đe dọa. Mặc dù có một số lượng ngày càng tăng những nghiên cứu về sự đa dạng sinh học trong khu bảo tồn, các kế hoạch quản lý hiện nay nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu thêm về hệ thực vật và động vật trong khu vực. Thực vật. Các hệ sinh thái quan trọng bao gồm rừng ngập mặn, đầm lầy nước ngọt, đồng cỏ cói, thông thảo nguyên, rừng phòng hộ và các khu rừng mưa nhiệt đới. Có một số lượng đa dạng của hệ thực vật, ước tính khoảng hơn 2.000 loài thực vật có mạch, mặc dù số loài biết đến vẫn ít nhưng người ta tin rừng có nhiều loài mới chưa được khám phá có mặt tại đây. Có hai hệ sinh thái rừng ngập mặn lớn dọc theo bờ biển là Đầm phá Brus và Iban. Khu vực đầm phá Brus có diện tích 120 km ² là khu vực nước lợ và khu vực đầm phá Iban có diện tích 63 km ² là khu vực đầm phá nước ngọt. Rừng ngập mặn có giá trị và dễ bị hủy hoại, vì vậy nó là một phần quan trọng của các giá trị bảo tồn tại đây. Hơn nữa trong khu vực đất nội địa của khu bảo tồn bao gồm các đồng cỏ cói và thảo nguyên, phụ thuộc vào nguồn nước sẵn có. Dọc theo lưu vực các con sông, thảm thực vật là rừng ẩm ướt dày, tuy nhiên việc nghiên cứu tại đây còn hạn chế. Động vật. Các loài động vật ghi nhận trong khu vực bao gồm 39 loài động vật có vú, 377 loài chim và 126 loài bò sát và lưỡng cư. Khu vực này là phong phú với các loài chim, trong đó có kền kền vua, đại bàng Harpy, "Crax rubra", Chim cổ mào, Vẹt hồng, vẹt đuôi dài và "Vẹt xanh lá" Các loài đại diện cho linh trưởng và động vật có vú bao gồm Khỉ mũ trắng, Khỉ rú và Khỉ nhện, Lười cổ nâu, Paca, Kinkajou, Coati, Rái cá Trung Mỹ, Báo sư tử, lợn lòi Pecari, lợn lòi Pecari môi trắng và hươu đỏ. Các loài quý hiếm đang bị đe dọa bao gồm thú ăn kiến khổng lồ, báo đốm Mỹ, mèo gấm Ocelot, Mèo đốm Margay, Lợn biển Tây Ấn, và heo vòi Trung Mỹ. Do môi trường giáo dục ở Honduras, vì vậy rất khó để bảo vệ các loài đang bị đe dọa. Ngoài ra, cái nghèo lan rộng và thiếu nghiên cứu chính xác về các hệ sinh thái làm cho việc bảo vệ ngày càng khó khăn. Trong khi các chương trình bảo tồn đạt được mục tiêu riêng, nhưng do không có kế hoạch quản lý hay công tác bảo vệ thành công các loài trực tiếp. Bảo tồn. Mặc dù nó đã được loại ra khỏi danh sách di sản thế giới bị đe dọa, nhưng khu dự trữ vẫn còn phải đối mặt với một vài mối đe dọa. Khai thác gỗ và phát triển tiếp tục là vấn đề chính, và tình hình càng trầm trọng hơn bởi một dân số ngày càng tăng từ khu vực nghèo của Honduras hoặc người tị nạn từ Nicaragua đã tới đây để khai thác gỗ và săn bắn bất hợp pháp.
1
null
Lợn hoang hay lợn thả rông là một thuật ngữ mô tả về bất kỳ những con lợn hay loại lợn hoang dã, heo rừng hoặc lợn đi hoang, lợn thả rông ở Bắc Mỹ, chúng thuộc nhóm súc vật hoang (tức những con vật đã được thuần hóa nhưng đã trở lại với môi trường hoang dã). Heo rừng (Sus scrofa scrofa) đôi khi được gọi là "lợn Nga" hay lợn lưng dao cạo. Thuật ngữ "lợn hoang" cũng đã xuất hiện tại Úc, để mô tả động vật như thế. Những con lợn hoang được cho là mối nguy hại rất lớn ở Hoa Kỳ, người ta xem chúng như một loài xâm lấn, loài gây hại vì đã gây ra thiệt hại cho nền nông nghiệp cũng như cả tính mạng, sức khỏe của cư dân. Lịch sử. Lợn nhà đầu tiên được du nhập đến châu Mỹ vào thế kỷ thứ mười sáu. Christopher Columbus được biết là đã cố ý phát tán heo nhà ở Tây Ấn trong chuyến đi thứ hai của mình để là nguồn thực phẩm dự trữ cung cấp cho các cuộc thám hiểm trong tương lai với một nguồn cung cấp thực phẩm miễn phí. Hernando de Soto được biết là đã du nhập lợn nhà Á-Âu đến Florida năm 1539, mặc dù Juan Ponce de León có thể đã du nhập những con lợn đầu tiên vào đất liền Florida vào năm 1521. Như vậy Người Tây Ban Nha đem lợn rừng tới Bắc Mỹ trong thế kỷ 16 để phục vụ hoạt động săn bắn. Việc thực hành du nhập lợn nhà vào Tân thế giới được tiếp tục trong suốt các giai đoạn thám hiểm của thế kỷ XVI và XVII. Người ta cho rằng heo rừng hoang dã Á-Âu (Sus scrofa scrofa), mà ban đầu dao động từ Anh sang châu Âu Nga có thể có cũng đã được du nhập vào thế kỷ 19 số lượng của chúng đã nhiều trong miền Nam Hoa Kỳ rằng họ đã trở thành một động vật phổ biến để đi săn. Ở Nam Mỹ, trong thời gian đầu thế kỷ XX, lợn đã được du nhập tại Uruguay cho mục đích săn bắn và cuối cùng vượt qua biên giới vào Brazil trong những năm 1990, nhanh chóng trở thành một loài xâm lấn. Mặc dù sự hiện diện của chúng như là một dịch hại đã được đã được chú ý bởi báo chí ngay từ năm 1994. Mới được thành lập nhưng quần thể heo rừng Brazil là không nên nhầm lẫn với dân lâu đời của lợn nhà hoang dã, mà đã tồn tại chủ yếu ở Pantanal trong hơn một trăm năm, cùng với loài peccarie bản địa. Thực trạng. Tại Mỹ, hiện nay, khoảng 5 triệu con lợn hoang đang tung hoành khắp quốc gia này và trở thành vấn đề lớn đối với giới chức nước này. Số lượng lợn rừng đạt mức cao nhất tại bang Texas. Lợn hoang có mặt tại ba phần tư số bang. Số lượng của chúng đang tăng nhanh chóng ở nhiều khu vực, chúng gây nên thiệt hại kinh tế 1,5 tỷ USD mỗi năm những thiệt hại mà chúng gây ra. Khả năng sinh sản cao là yếu tố chính giúp lợn hoang sinh sôi mạnh mẽ. Sau khi chào đời 6 tháng, lợn cái đã có thể mang thai. Chúng sinh ra trung bình sáu con mỗi lứa và mỗi năm chúng đẻ trung bình 1,5 lứa. Số lượng lợn hoang sẽ tăng gấp ba trong 5 năm tới nếu chính quyền không áp dụng các biện pháp mạnh. Trong môi trường hoang dã, trọng lượng của lợn có thể đạt tới 136 kg trở lên, chúng khá hung dữ đối với người và thú nuôi. Chúng có thể gây nên nhiều mối họa đối với thiên nhiên, ví dụ như ăn những động vật nguy cấp hay phát tán những loài cỏ xâm lấn, truyền hơn 30 loại bệnh cho con người, gia súc và các động vật hoang dã khác. Thói quen đào đất và ăn rễ cây của chúng làm giảm năng suất cây trồng trong nông trại. Những chiếc hố mà lợn rừng tạo ra trên đường có thể gây nên tai nạn giao thông bất ngờ. Lợn hoang còn sống ở Đảo Lợn, còn có tên chính thức là đảo Big Major Spot, hòn đảo nhỏ Bahmas. Đàn lợn do những thủy thủ mang đến khi đi ngang qua đảo, có thể họ cho rằng chúng sẽ trở thành nguồn thực phẩm dồi dào. Tuy nhiên, những thủy thủ này chưa từng quay lại đây. Nhờ tài bơi lội, những chú lợn hoang dã này đã thu hút được du khách đổ ra bãi biển, vì họ muốn được tận mắt chứng kiến đàn lợn dưới nước. Đàn lợn thông minh đã phát hiện ra rằng các đoàn du thuyền ngang qua thường xuyên ném rất nhiều thức ăn xuống vùng biển này, chúng háo hức nhảy xuống nước khi thấy có du thuyền đến, đàn lợn háu đói bì bõm khoảng vài trăm mét tới mép thuyền để hi vọng nhận được đồ ăn. Tại Nga, những tay săn dạn dày kinh nghiệm nói lợn lòi hoang thậm chí nguy hiểm hơn cả con gấu. Con lợn lòi hoang mắt kém sẽ sấn tới. Ngay cả những tay săn thiện xạ cũng sẽ không luôn hạ gục được con thú nhanh nhẹn này với chỉ một phát súng. Một con lợn lòi trung bình sẽ nặng tới 200 ký (441lb), vật lộn với nó sẽ là tuyệt vọng. Những con cái còn nguy hiểm hơn khi nó bảo vệ đàn con. Lợn lòi hoang bám riết vào địa hình đầm lầy và có nước. Ở khu vực Amur, lợn lòi hoang được biết là đã tấn công xe hơi. Vũ khí kinh khủng nhất của lợn lòi không phải là trọng lượng ấn tượng của nó, mặc dù nó có thể đè nát con người đến chết, mà là răng nanh của nó. Săn bắn. Chính quyền bang New Mexico gần đây chi một triệu USD để lập chương trình săn, bẫy và diệt lợn hoang. Giới chức muốn kết hợp nhiều biện pháp, bởi lợn rừng thông minh đến nỗi chúng luôn rút kinh nghiệm sau mỗi lần thoát chết. Các thợ săn cũng áp dụng chiến thuật "lợn phản đồ". Sau khi tiêu diệt một đàn lợn, họ cố tình để một con lợn cái sống sót và gắn một vòng lên cổ nó. Nhờ thiết bị theo dõi trên vòng, thợ săn có thể phát hiện vị trí của những đàn lợn khác và diệt chúng. Chính quyền bang Texas chi 7 triệu USD mỗi năm để khống chế sự sinh sôi của lợn.
1
null
Cuộc bầu cử tổng thống gián tiếp được tổ chức tại Israel ngày 10 tháng 6 năm 2014. Kết quả là một chiến thắng cho Reuven Rivlin của Likud. Rivlin sẽ được tuyên thệ nhậm chức vào ngày 24 tháng 7 năm 2014. Bối cảnh. Tổng thống đương nhiệm Shimon Peres tuyên bố rằng ông sẽ không tranh cử nhiệm kỳ thứ hai, mặc dù một cuộc thăm dò ý kiến cho thấy 63% người Israel muốn ông ở lại trong văn phòng. Một thuật ngữ thứ hai sẽ yêu cầu thay đổi trong pháp luật, như Luật cơ bản trên giấy phép tổng thống chỉ có một nhiệm kỳ. Trong tháng 11 năm 2013, Tổng chưởng lý Yehuda Weinstein đã tuyên bố rằng các ứng cử viên sẽ bị cấm huy động vốn để tài trợ cho chiến dịch của họ.
1
null
Cá mút Razorback (Danh pháp khoa học: Xyrauchen texanus) là loài cá mút nước ngọt cực kỳ nguy cấp ở các dòng sông trong hệ thống thoát nước sông Colorado ở phía tây Bắc Mỹ. Chúng được xếp vào nhóm cá tạp. Đặc điểm. Cá Razorback có điểm đáng chú ý nhất cho phình nhọn về phía trước của lưng, giữa đầu và vây lưng. Cá có thể đạt được kích thước lên đến 1,0 m (3,3 ft) và trọng lượng 6,0 kg (13,2 lb). Lý do cho sự suy giảm phần lớn là do mất môi trường sống. Tiểu bang California chỉ định nó như loài nguy cơ tuyệt chủng vào năm 1974, tiếp theo là chính phủ Hoa Kỳ vào năm 1991. Một dân số trên 3.000 con cá trong hồ Mohave đã được tạo ra bởi một chương trình đề ra. Cá sống sông suối vừa và lớn. Chúng thích sống trên cát, bùn, hoặc đáy sỏi. Chúng ăn tảo, ấu trùng côn trùng, sinh vật phù du, và mảnh vụn. Đôi mắt là nơi tiếp nhận các phần của quang phổ tia cực tím, đặc biệt là phần của võng mạc tiếp nhận ánh sáng từ bên dưới. Chúng dành phần lớn cuộc sống của mình ở độ sâu nơi mà ánh sáng tia cực tím không thể xâm nhập nhưng chúng di chuyển vào vùng nước nông để sinh sản. Trong vùng nước nông, những con đực chiếm hữu một vùng lãnh thổ giống. Khi con đực khác đi vào khu vực sinh sản, chúng sẽ tạo ra đôi mắt nhấp nháy để cảnh báo và đuổi kẻ xâm nhập đi, tuy nhiên cá cái thì không phản ứng với nhấp nháy mắt.
1
null
Copán là một địa điểm khảo cổ về nền văn minh Maya, nằm ở tỉnh Copán phía tây Honduras, gần biên giới với Guatemala. Đó là thành phố thủ đô của trong một thời kỳ của vương quốc Maya, từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên. Thành phố nằm ở phía đông nam của khu vực văn hóa Trung Mỹ, trên biên giới với Isthmo-Colombia. Trong thung lũng màu mỡ này là một thành phố có niên đại khoảng 3000 năm với một khoảng sân rộng và một con đường quanh co. Copán bị chiếm đóng hơn hai ngàn năm, từ khoảng thời gian Preclassic Postclassic. Thành phố phát triển một phong cách nghệ thuật điêu khắc đặc biệt trong truyền thống của vùng đất thấp Maya, có lẽ là để nhấn mạnh nghệ thuật dân tộc Maya của nhà lãnh đạo thành phố. Copán là một thành phố có quyền lực mạnh mẽ, một vương quốc rộng lớn trong khu vực phía nam Maya. Thành phố bị một thảm họa chính trị lớn vào năm 738 khi Uaxaclajuun Ub'aah K'awiil, một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử triều đại Copán, đã bị bắt và giết bởi chư hầu cũ của mình, vua của Quiriguá. Thất bại bất ngờ này dẫn đến khoảng thời gian 17 năm gián đoạn ở thành phố, trong thời gian đó Copán có thể đã chịu thua thiệt hơn so với Quiriguá. Một phần đáng kể phía đông của khu vực lăng mộ Acropolis đã bị xói mòn đi bởi sông Copán, mặc dù con sông có kể từ khi được thay đổi dòng chảy để bảo vệ các di sản tránh khỏi thiệt hại bởi xói mòn. Có khả năng tên Copán cổ là "Oxwitik", phát âm , "Ba Witik" (ý nghĩa của "witik" vẫn còn mơ hồ). <br>
1
null
Catostomus hay chi Cá mút là một chi cá thuộc về họ Catostomidae (họ Cá mút) và thông thường chúng có tên gọi là cá mút. Phần lớn các loài trong chi của chúng là động vật bản địa của Bắc Mỹ nhưng C. catostomus lại được tìm thấy ở Nga.
1
null
"Na sopkah Man'chzhurii" (, nghĩa là "Trên núi đồi Mãn Châu") là một tác phẩm khí nhạc được Ilya Alekseevich Shatrov viết năm 1906 theo điệu valse để tưởng niệm những tử sĩ Nga ở Mãn Châu. Bản nhạc được nhà thơ Stepan Gavrilovich Petrov đặt lời và trở thành bài hát. "Na sopkah Man'chzhurii" đã trở thành một trong những tác phẩm âm nhạc Nga phổ biến nhất. Có nhiều dị bản tồn tại song song với nguyên bản. Nội dung. Shatrov là một nhạc sĩ quân đội tham gia Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905). "Na sopkah Man'chzhurii" của ông đề cập đến trận Phụng Thiên ở Mãn Châu - trận đánh lớn trên bộ cuối cùng giữa hai phe Nga-Nhật mà tại đó Nga bị Nhật đánh tan tác. Nội dung bài hát tưởng niệm những chiến sĩ trung đoàn Moksha đã ngã xuống. Bối cảnh lịch sử. Tháng 2 năm 1905, Trung đoàn Bộ binh Dự bị 214 mang tên Moksha giao tranh ác liệt với quân đội Nhật Bản và gánh chịu liên tiếp các đòn tấn công từ đối phương. Vào thời khác khi sắp thất bại, chỉ huy trung đoàn Petr Pobyvanec ra lệnh do cho đội cầm cờ và dàn quân nhạc tiến lên. Dưới sự cổ vũ của những giai điệu đó, quân Nga xông pha phá được vòng vây. Kết thúc trận chiến, chỉ huy trung đoàn bỏ mạng, quân số từ 4000 thiệt hại còn 700, riêng dàn quân nhạc chỉ còn bảy nhạc sĩ. Vì chiến công này tất cả các nhạc sĩ trong ban nhạc đều được thưởng huân chương thánh George còn dàn nhạc được thưởng kèn trumpet bạc danh dự. Lịch sử bài hát. Sau chiến tranh Nga-Nhật, trung đoàn Moksha ở lại Mãn Châu thêm một năm nữa. Tại đây Shatrov bắt đầu đặt bút viết bản valse "Trung đoàn Moksha trên núi đồi Mãn Châu" tưởng nhớ những người đã chết. Ngày 18 tháng 9 năm 1906, trung đoàn Moksha được điều đến tỉnh Samara. Tại đây Shatrov gặp giáo viên kiêm nhà soạn nhạc nghiệp dư Oskarom Filippovichem Knaubom (Оскаром Филипповичем Кнаубом) và được ông này giúp sức đáng kể để hoàn thành bản nhạc. Mùa hè 1907, bản nhạc "Trung đoàn Moksha trên núi đồi Mãn Châu" được bán ra thị trường. Bản nhạc được biểu diễn lần đầu vào năm 1908 với dàn kèn đồng. Tuy công chúng tỉnh Samara ban đầu khá hờ hững với bản nhạc, sau đó bản valse dần được truyền bá rộng rãi và đến năm 1910 thì đĩa hát này trở thành thời thượng. Bản valse được tái bản 82 lần chỉ trong vòng ba năm đầu sau sáng tác. Phiên bản lời đầu tiên là do nhà thơ Stepan Gavrilovich Petrov soạn ra. Do quá phổ biến mà bản valse bị xâm phạm bản quyền. Nhiều hãng đĩa cứ tái bản để bán mà không còn trả tiền cho tác giả hay người biểu diễn. Chỉ khi luật bản quyền đầu tiên của Nga ra đời năm 1911 thì Shatrov mới tìm cách bảo vệ quyền lợi và đòi chia phần trong số tiền thu được. Cuối Thế chiến thứ hai, bài này thường được phát trên sóng vô tuyến và biểu diễn trong nhà hát trong các phút giây trang nghiêm, kỉ niệm chiến thắng quân phiệt Nhật của Hồng quân Liên Xô tại Mãn Châu. Joseph Stalin coi thất bại của Nga trong chiến tranh Nga-Nhật là quốc nhục và rất thích nghe bài hát này.
1
null
Diego López Rodríguez (; sinh 3 tháng 11 năm 1981) là cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha thi đấu ở vị trí thủ môn Sau bản hợp đồng bảy năm với Real Madrid, góp mặt trong nhiều đội hình của câu lạc bộ này, anh đã có được danh tiếng tại La Liga cùng với Villarreal, chính thức ra sân trong 230 trận cầu trong suốt năm mùa giải. Năm 2013 anh quay trở lại Real Madrid. López đã góp mặt trong đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha tham dự Cúp Liên đoàn 2009, giải đấu mà đội tuyển Tây Ban Nha kết thúc ở vị trí thứ ba chung cuộc.
1
null
Randolph Keith Reginald Stewart, Bá tước thứ 13 xứ Galloway (14 tháng 10 năm 1928 - 27 tháng 3 năm 2020) là con trai duy nhất của Randolph Stewart, Bá tước 12 xứ Galloway. Ông được chẩn đoán là bị tâm thần phân liệt (sau này được xác nhận là chứng tự kỷ), được điều trị vào năm 1952 bằng phương pháp phẫu thuật não với hy vọng kiểm soát được hành vi của mình. Sau khi phẫu thuật ông đã tiếp tục chữa bệnh bằng các liệu pháp tâm lý trong 15 năm tại bệnh viện Hoàng gia. Năm 1970, bố mẹ ông đã đưa ông vào Tu viện Transfiguration ở Roslin. Ngày 17 tháng 10 năm 1975, ông kết hôn với Lily May Budge, con gái út của Andrew Miller. Lily đã chết vào năm 1999 mà không có người con nào với ông. Do không có con thừa kế tước vị và tài sản nên người anh em họ dòng thứ II là Andrew Clyde Stewart đã thừa kế tước vị và điền trang Bá tước xứ Galloway sau khi ông qua đời vào năm 2020 ở tuổi 91.
1
null
Leon IV người Khazar (Hy Lạp: Λέων Δ΄ ὁ Χάζαρος, "Leōn IV ho Khazaros") (25 tháng 1, 750 – 8 tháng 9, 780) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 775 đến 780. Leon là con trai của Hoàng đế Konstantinos V với người vợ đầu tiên của mình là Irene xứ Khazaria (Tzitzak), con gái của một Khả hãn Khazar (được cho là Bihar). Ông được phụ hoàng phong làm đồng hoàng đế vào năm 751. Leon đã đính hôn với Gisela, con gái của Pépin Lùn nhưng việc đính ước bất thành. Về sau Leon kết hôn với Irene, người xuất thân trong một gia đình quý tộc Athena vào tháng 12 năm 769. Năm 775, Konstantinos V qua đời để lại Leon là hoàng đế duy nhất. Ngày 24 tháng 4 năm 776, Leon theo như theo tiền lệ của các tiên đế đã chỉ định thái tử Konstantinos VI làm đồng hoàng đế. Điều này dẫn đến một cuộc nổi dậy của năm người anh em họ của Leon, gồm cả "Caesar" Nikephoros, với hy vọng giành được ngôi báu. Leon mau chóng đập tan cuộc nổi loạn và sai người đánh đập, cạo đầu và đày những kẻ tạo phản tới Cherson dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt. Leon IV được nuôi dưỡng với tinh thần bài trừ thánh tượng dưới thời phụ hoàng nhưng đã kết hôn với Irene, một người rất mực tôn thờ thánh tượng. Nhận thấy sự phân chia trong địa hạt của mình, ông theo đuổi một con đường hoà giải đối với phe tôn thờ thánh tượng, trước đó đã bị tuyên bố là dị giáo theo chính sách của triều đình. Leon cho phép các tu sĩ từng bị bắt bớ và trục xuất dưới thời phụ hoàng được quay trở về tu viện của họ, ông còn được một số trong hàng giáo sĩ xức dầu thánh như là "Người bạn của Đức Mẹ" vì cho phép các tu sĩ giữ lại chân dung của Theotokos. Ngoài các hành động ưu đãi ra thì Leon cũng bổ nhiệm một người có thiện cảm tôn thờ thánh tượng là Paul đảo Síp giữ chức Thượng phụ thành Constantinopolis sau cái chết của người tiền nhiệm. Vào cuối triều đại thì Leon lại đảo ngược lập trường khoan dung của mình. Triều đại của Leon trùng hợp với vị Caliph thứ ba của triều Abbasid là Al-Mahdi, kẻ đã xâm chiếm lãnh thổ của Đông La Mã vào những lần liên tục từ năm 777-780 trước khi cuối cùng bị đẩy lùi bởi quân đội của Leon, dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh tài ba như Michael Lachanodrakon. Bản thân hoàng đế còn đích thân ngự giá thân chinh thảo phạt người Bulgar nhưng đột nhiên qua đời vì lên cơn sốt trong chiến dịch. Cái chết của Leon vào ngày 8 tháng 9 năm 780 dẫn đến ngôi vị về tay Irene. Theophanes the Confessor đã ghi chép rằng Leon IV qua đời là kết quả của một cơn sốt lây lan từ những viên đá quý trong một vương miện được lấy từ Vương cung thánh đường Hagia Sophia; một số học giả chỉ ra rằng khi Leon lên ngôi là ông đã mang bệnh rồi, trong khi số khác tin rằng Leon đã bị sát hại bởi những kẻ vô danh, có thể là do Irene chủ mưu. Konstantinos VI là con trai duy nhất của Leon IV lên kế vị ngôi báu, cầm quyền cùng với thái hậu Irene.
1
null
Truyền thuyết đô thị (còn gọi là truyền thuyết thành thị, truyền thuyết thời hiện đại; tiếng Anh: "urban legend", "urban myth", "urban tale", "contemporary legend", "urban folklore") là một hình thức văn hóa dân gian thời hiện đại, bao gồm những truyện kể mà người kể chúng có thể tin hoặc không tin là có thật. Cũng giống như các truyện dân gian và truyện thần thoại khác, mô tả về những truyền thuyết đô thị không nói lên điều gì về tính xác thực của những câu chuyện đó mà chỉ đơn thuần nói lên rằng những truyện kể ấy lưu hành trong xã hội, tam sao thất bản qua thời gian và chứa đựng trong mình những ý nghĩa đã thúc đẩy cộng đồng bảo tồn và truyền bá nó. Dù được gọi là "truyền thuyết đô thị" nhưng không nhất thiết chúng phải bắt nguồn từ khu vực đô thị. Cách gọi này thực ra dùng để phân biệt với những truyện kể dân gian truyền thống đã có từ trước thời công nghiệp hóa. Vì nguyên do này mà các nhà xã hội học và nhà nghiên cứu văn hóa dân gian thích dùng thuật ngữ "truyền thuyết hiện đại" hơn. Thỉnh thoảng những truyện này được lặp đi lặp lại trên các bản tin thời sự và trong những năm gần đây còn được phát tán qua thư điện tử và mạng xã hội. Mọi người thường tuyên bố rằng những truyện này đã xảy ra với "bạn của bạn họ". Một số truyền thuyết đô thị đã lưu truyền nhiều năm mà chỉ thay đổi chút ít cho hợp với từng vùng. Những truyền thuyết gần đây có xu hướng lấy bối cảnh hiện đại như câu chuyện kể về những người bị bắt cóc, chuốc thuốc mê và khi tỉnh dậy thì phát hiện mình đã bị cướp đi một quả thận. Nguồn gốc và cấu trúc. Thuật ngữ "truyền thuyết đô thị" ("urban legend") đã xuất hiện trên các ấn phẩm tiếng Anh ít nhất là từ năm 1968. Giáo sư tiếng Anh Jan Harold Brunvand ở Đại học Utah, Mỹ đưa thuật ngữ này đến với công chúng trong loạt sách bán chạy xuất bản năm 1981. Ông dùng tập sách sưu tập các truyện kể có nhan đề "The Vanishing Hitchhiker: American Urban Legends & Their Meanings" (1981) để nói lên hai điều: thứ nhất, truyền thuyết và văn hóa dân gian không chỉ có ở duy nhất các xã hội được gọi là sơ khai hay truyền thống; thứ hai, một người có thể học được nhiều thứ về văn hóa đô thị và văn hóa hiện đại thông qua nghiên cứu các truyền thuyết này. Nhiều truyền thuyết đô thị được đóng khung thành những truyện cổ tích với cốt truyện và nhân vật. Tính hấp dẫn của một truyền thuyết đô thị nằm ở các yếu tố bí ẩn, kinh dị, đáng sợ hay hài hước. Thường thì chúng là những truyện kể mang tính gợi sự cảnh giác. Một vài truyền thuyết là những truyện kể đạo đức lấy hình tượng ai đó (thường là đứa trẻ) ngỗ ngược, cuối cùng kết thúc trong rắc rối, đau đớn hay chết chóc. Truyền bá và niềm tin. Cũng như các truyền thuyết và thần thoại khác, khó mà truy được nguồn gốc của các truyền thuyết đô thị. Người kể chuyện có thể tuyên bố rằng chuyện ấy đã xảy ra với một người bạn, mục đích là nhằm cá nhân hóa và làm tăng tính thuyết phục của câu chuyện. Nhiều truyền thuyết miêu tả những tội ác kinh hoàng hoặc những tình huống có khả năng gây ảnh hưởng đến nhiều người. Bất cứ ai tin vào những truyền thuyết này có lẽ sẽ cảm thấy cần phải cảnh báo cho những người thân yêu được biết. Không hiếm trường hợp mà các hãng thông tấn, ban giám hiệu trường học hoặc ngay cả sở cảnh sát đã ra cảnh báo về các mối đe dọa này. Một ví dụ là truyền thuyết "Tắt đèn" ("Lights Out"), có nội dung kể rằng các tên du đãng đường phố sẽ chạy ô tô mà không mở đèn cho đến khi gặp một người lái xe nào đó đáp lại bằng cách nhá đèn, và rồi thì băng đảng đó sẽ yêu cầu một thành viên mới gia nhập phải giết chết người lái xe đó nhằm "ra mắt" băng đảng. Sở cứu hỏa quận Nassau, Florida, Mỹ sau khi nhận được một bản fax chứa truyện này đã chuyển tiếp nó đến cảnh sát quận và rồi sau đó nó được gửi đến tất cả các sở cảnh sát khác. Thậm chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Canada còn ra cảnh báo an ninh khẩn cấp đến tất cả các nghị sĩ ở Ontario. Nhiều truyền thuyết đô thị thực ra là những trò đùa được thêm thắt và được kể như thể chúng có thật. Truyền thuyết thường có một hoặc nhiều đặc điểm như: được kể lại nhân danh một nhân chứng khác, thường được kể là "bạn tôi kể tôi nghe" mặc dù không bao giờ biết rõ danh tính đầy đủ của "người bạn" đó; chứa đựng những cảnh báo đáng sợ nhằm đánh động những người ít lưu tâm đến lời khuyên hoặc bài học chứa trong truyện (nhiều lá thư điện tử lừa đảo thường chứa đựng yếu tố này). Dấu hiệu để phân biệt các truyền thuyết đô thị không có thực này đó là sự thiếu vắng thông tin cụ thể liên quan đến vụ việc, chẳng hạn thiếu tên, ngày tháng, địa điểm và các thông tin tương tự. Có một ít truyền thuyết đô thị chứa đựng một mức độ hợp lý nhất định, chẳng hạn chuyện một kẻ giết người hàng loạt trốn ở ghế sau của xe ô tô. Từ thập niên 1970 có những lời đồn đại rằng công ty Procter & Gamble có liên quan đến những kẻ thờ quỷ Sa tăng, căn cứ trên những chi tiết vẽ trên biểu trưng có từ thế kỉ 19 của công ty. Lời đồn này nghiêm trọng đến mức công ty phải bỏ biểu trưng này. Các truyền thuyết đã được dẫn chứng. Internet là môi trường thuận lợi để phát tán truyền thuyết đô thị nhưng cũng là nơi vạch trần chúng. Trên mạng có những nhóm người thảo luận, truy dấu vết và phân tích các truyền thuyết này. Trước đây Bộ Năng lượng Mỹ có một dịch vụ gọi là "Hoaxbusters" chuyên vạch trần các truyền thuyết và trò lừa được lan truyền trên mạng. Một số chương trình truyền hình lấy nội dung là các truyền thuyết đô thị và hé lộ những điểm có thật trong các truyền thuyết này. Từ năm 2004, Discovery Channel có chương trình "MythBusters" có nội dung là các thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp khoa học nhằm chứng minh truyền thuyết đô thị nào đó là đúng hay sai. Từ 1992 đến 1998, mục "Cuối tuần" của báo "The Guardian" có phần minh họa các truyền thuyết đô thị với nội dung rút từ bốn cuốn sách: "Urban Myths", "The Return Of Urban Myths", "Urban Myths Unplugged" và "Now! That's What I Call Urban Myths". Nhà văn người Anh Tony Barrell là nhà sưu tầm các truyền thuyết đô thị và đưa nhiều trong số đó lên báo "The Sunday Times". Truyền thuyết đô thị trên Internet. Truyền thuyết đô thị trên Internet là những mẩu truyện dân gian phát tán qua Internet, thông quan Usenet hoặc thư điện tử, mạng xã hội. Loại. Đây là những truyền thuyết nói về tội phạm lan truyền trên Internet có mang tính hoang đường hoặc thổi phồng, bóp méo sự thật. Loại này là các thư điện tử có nội dung yêu cầu người đọc sao chép lại nó và gửi đến những người khác, nếu không người đọc sẽ gặp chuyện bất hạnh. Nổi tiếng nhất trong lớp truyện loại này là câu truyện về bức ảnh "Smile Dog" Loại này thường hay lừa người đọc, nó chủ yếu về những nguy cơ không có thật đối với máy vi tính của họ, thường được phát tán qua thư điện tử, Internet. Dùng trong marketing. Có trường hợp thủ thuật dùng Internet để lan truyền tin đồn đã được ngành marketing sử dụng, chẳng hạn bộ phim kinh phí thấp "The Blair Witch Project" cố tuyên truyền rằng mình là một phim kể về một truyền thuyết đô thị có thật, song sự thật đó chỉ là truyện hư cấu.
1
null
là một câu chuyện cổ dân gian về người anh hùng nhỏ tuổi của Nhật Bản. Tên của cậu bé có nghĩa là Cậu bé quả đào (hay Đào Thái Lang), một tên phổ biến dành cho bé trai ở Nhật Bản. "Momotarō" là tựa đề của nhiều quyển sách, phim và nhiều sản phẩm nghe nhìn khác kể về câu chuyện của anh hùng nhỏ tuổi này. Câu chuyện. Theo như phiên bản hiện tại của câu chuyện (từ thời Edo), Momotarō xuất hiện từ bên trong một quả đào khổng lồ, quả đào đang trôi dạt trên dòng sông thì tình cờ được một bà lão đang giặt đồ gần đó vớt lên. Gia đình ông bà lão này đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con, bà lão đem quả đào về nhà định bụng sẽ ăn cùng ông lão nhưng hai vợ chồng ông bà rất ngạc nhiên khi bổ quả đào ra thì thấy một cậu bé nắm trong đó. Khi cậu bé lên 3, nói rằng nó là món quà của ông Trời tặng hai ông bà. Ông bà đặt tên cậu là Momotarō ("Đào Thái Lang"), với "momo" nghĩa là trái đào, còn "tarō" nghĩa là đứa con trai lớn nhất trong nhà. Nhiều năm sau đó, khi cậu bé lớn lên, Momotarō rời cha mẹ để đi chiến đấu chống lại băng đảng Oni chuyên cướp bóc (một dạng ác quỷ hay quái nhân) sống trên một hòn đảo xa xôi. Trên đường đi, Momotarō gặp và làm quen với một chú chó, một con khỉ và một con gà lôi, cả ba đều biết nói tiếng người, chúng đồng ý giúp cậu trong cuộc truy tìm kẻ xấu. Khi đến được hòn đảo nơi bọn quỷ sống, Momotarō và những người bạn của mình tìm cách đi vào hang ổ của bọn quỷ và đánh cho bọn quỷ tơi bời. Momotarō và những người bạn của mình trở về nhà với chiến lợi phẩm của bọn quỷ cướp được và bắt sống được chúa quỷ. Momotarō và gia đình cậu bé sống hạnh phúc từ đó mãi mãi về sau. Câu chuyện về Momotarō có lẽ có quan hệ mật thiết với thành phố Okayama, và câu chuyện về cậu có lẽ bắt nguồn từ đây. Hòn đảo nơi quỷ sống () như trong truyện có thể là đảo Megijima, một hòn đảo nằm trong vùng biển nội địa Seto gần Takamatsu. Một số dị bản. Một dị bản cổ nhất của câu chuyện được tìm thấy được viết vào năm 1753 kể rằng, bà lão mang về nhà một trái đào khổng lồ được tìm thấy đang trôi trên dòng sông. Khi bà ăn một phần của trái đào, bà rất ngạc nhiên khi bà bắt đầu trẻ và đẹp lại như xưa. Chồng bà lão đi làm về rất hoảng hốt khi thấy một người phụ nữ trẻ lạ mặt trong nhà của mình. Ông lão không tin lời bà khi bà cố giải thích rằng đó là do phép màu từ quả đào, rằng chính nhờ ăn nó mà bà đã trẻ lại. Ông cũng thử ăn phần còn lại của quả đào, và cũng trở lại trẻ trung như xưa. Cậu bé ra đời sau một đêm hai ông bà quan hệ chăn gối. Họ đặt tên cậu bé là ‘Taro’, nghĩa là đứa con trai lớn nhất trong nhà. Momotarō trưởng thành và bắt đầu cuộc hành trình chiến đấu với ác quỷ (oni) khi nghe về chuyện ác quỷ ở đảo Onigashima (đảo ma quỷ). Trong một vài dị bản, Momotarō tình nguyện đi để giúp mọi người đẩy lùi sự phá hoại và cướp bóc của bọn quỷ, một số dị bản khác lại kể rằng, cậu bị thúc ép đi bởi người dân địa phương. Dù có được kẻ khác đi thế nào đi nữa, thì kết thúc của câu chuyện vẫn như nhau. Tất cả các kết thúc đều kể rằng Momotarō đánh bại bọn Oni và sống hạnh phúc mãi mãi về sau với cặp vợ chồng già. Có nhiều cách kể khác nhau tùy từ vùng địa lý. Một số kể Momotarō trôi trên sông trong một cái giỏ, số khác thì kể đó là một trái đào màu trắng, hoặc là một quả đào màu đỏ. Momotarō là một hình mẫu tốt và được dùng để giáo dục trẻ em. Ngày nay, Momotarō là một nhân vật được nhiều người biết đến ở Nhật Bản, và là một hình mẫu lý tưởng cho trẻ em về lòng vị tha, lòng dũng cảm, sức mạnh, và chăm lo cho cha mẹ. Bài hát Momotarō. Bài hát dành cho trẻ em về Momotarō có tựa là "Momotarō-san no Uta" ("Bài hát Momotarō") được xuất bản lần đầu tiên năm 1911. « Momotarō-san no uta » 桃太郎さんの歌 Momotarō-san, Momotarō-san 桃太郎さん、桃太郎さん Okoshi ni tsuketa kibidango お腰につけたきびだんご Hitotsu watashi ni kudasai na? 一つ私に下さいな! Agemashō, agemashō あげましょう、あげましょう Kore kara oni no seibatsu ni これから鬼の征伐に Tsuite kuru nara agemashō ついてくるならあげましょう
1
null
Diode phát sáng hữu cơ (tiếng Anh là organic light-emitting diode," viết tắt là OLED)", là một loại "Diode phát sáng" (LED) trong đó lớp phát xạ điện quang là một màng thuốc ("film") làm bằng vật liệu là một loại "chất bán dẫn hữu cơ" có khả năng phát sáng khi có dòng điện chạy qua. Lớp phát sáng này, được đặt giữa hai điện cực và thường thì ít nhất một trong hai điện cực này là trong suốt. "Diode phát sáng hữu cơ" được dùng với vai trò hiển thị số ("digital display") trong các thiết bị như màn hình của tivi, máy vi tính, điện thoại di động, máy chơi điện tử cầm tay, và thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân (PDA). Hiện nay, một nhánh nghiên cứu lớn của công nghệ đó là tìm cách phát triển các diode phát sáng hữu cơ dùng cho các đèn chiếu sáng bán dẫn (solid-state lighting). Diode phát sáng hữu cơ có hai dòng chủ yếu. Dòng thứ nhất có vật liệu chủ yếu bao hàm các phân tử kích thước nhỏ và dòng thứ hai sử dụng polyme. Khi thêm các ion động vào một diode phát sáng hữu cơ, người ta tạo được các tế bào hóa điện phát sáng ("light-emitting electrochemical cell" - LEC) với cách thức hoạt động khác các diode phát sáng hữu cơ một chút. Thiết bị hiển thị dùng diode phát sáng hữu cơ có thể sử dụng cơ chế xác định địa chỉ ("addressing") ma trận thụ động (PMOLED) hay chủ động (AMOLED). diode dùng ma trận chủ động có thể giúp hiển thị các màn hình lớn hơn và độ phân giải cao hơn loại thụ động, nhưng nó yêu cầu phải có một bảng nối đa năng dạng tranzito màng mỏng để có thể bật hay tắt các điểm ảnh. Diode phát sáng hữu cơ có thể hoạt động mà không cần ngược sáng ("backlight"), tức là nó có thể hiển thị màu đen mức độ đậm. OLED có thể nhỏ hơn và nhẹ hơn một màn hình tinh thể lỏng (LCD). Trong môi trường ánh sáng yếu, diode phát sáng hữu cơ có thể có tỉ lệ tương phản cao hơn so với màn hình tinh thể lỏng, bất kể màn hình tinh thể lỏng sử dụng đèn huỳnh quang cathode lạnh hay diode phát sáng ngược sáng. Lịch sử. Hiện tượng điện phát quang của vật liệu hữu cơ được quan sát vào đầu thập niên 1950 bởi André Bernanose và các đồng sự tại đại học Nancy ở Pháp. Khi một dòng điện xoay chiều điện thế cao chạy qua không khí tới các vật liệu hữu cơ như 3,6-Acridinediamin đặt trên hoặc hòa lẫn vào các màng thuốc xenluloza hay xellophane. Cơ chế hiện tượng này được cho là sự kích hoạt các nguyên tử màu hoặc kích hoạt các điện tử (electron). Năm 1960 Martin Pope và các đồng sự tại Đại học New York phát triển các điện cực thuần trở tiêm nhập tối tiếp xúc với các tinh thể hữu cơ. Pope và các đồng sự cũng mô tả các điều kiện năng lượng cần thiết (công phát xạ) dành cho các vùng tiếp xúc tiêm nhập lỗ trống và điện tử. Các vùng tiếp xúc như vậy là bộ phận cơ bản của cơ chế tiêm nhập điện tích cho các diode phát sáng hữu cơ hiện đại. Nhóm của Pope cũng là những người đầu tiên quan sát thấy (vào năm 1963) hiện tượng điện phát quang của dòng điện một chiều trong môi trường chân không trong một tinh thể Anthracen thuần hoặc tinh thể anthracen pha lẫn với tetracen, dòng điện trong thí nghiệm của Pope có điện thế 400 V và sử dụng điện cực bằng bạc. Cơ chế của hiện tượng được cho là việc điện tử của các phân tử phát quang bị kích thích bởi điện trường. Vào năm 1965, nhóm của Pope gửi một báo cáo khoa học có nội dung viết rằng, trong điều kiện không có điện trường tác động bên ngoài thì hiện tượng điện phát quang của các tinh thể anthracen được gây ra bởi sự tái tổ hợp của các lỗ trống và các điện tử bị nhiệt hóa, đồng thời mức độ dẫn điện của antharcen có năng lượng cao hơn so với mức năng lượng của exiton. Cùng trong năm 1965, W. Helfrich và W. G. Schneider của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia (Canada) lần đầu tiên thực hiện thành công quá trình điện phát quang gây ra bởi tái tổ hợp tiêm nhập kép, sử dụng một tinh thể đơn anthracen với điện cực tiêm nhập lỗ và điện tử và đây có thể nói là bước đi tiên phong của các thiết bị tiêm nhập kép hiện đại. Cũng năm 1965, nhóm nghiên cứu của Dow Chemical nhận bằng phát minh về phương pháp chuẩn bị các tế bào quang điện sử dụng một lớp màng mỏng cách điện bao hàm bột anthracen, tetracen, than chì, và dùng dòng điện xoay chiều 100–3000 Hz với điện thế 500-1500 V. Theo nhóm nghiên cứu, cơ chế của quá trình này bao hàm việc kích hoạt các điện tử tại các vùng tiếp xúc giữa các phân tử anthracen và các hạt than chì. Hiện tượng điện phát quang từ các tấm màng thuốc polyme được quan sát lần đầu bởi Roger Hugh Partridge tại Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia (Anh Quốc). Màng polyme được làm từ poly(n-vinylcarbazole) có độ dày 2,2 micromet, đặt giữa hai điện trở tiêm nhập. Thực nghiệm của Patridge được cấp bằng phát minh vào năm 1975 và được xuất bản vào năm 1983. Thiết bị diode phát sáng hữu cơ đầu tiên được ghi nhận bởi Eastman Kodak, do Đặng Thanh Vân (鄧青雲, Ching W. Tang) và Steven Van Slyke sáng chế năm 1987. Thiết bị này có một thiết kế khá mới lạ, đó là màng hữu cơ bao gồm hai lớp riêng biệt, một lớp tải truyền lỗ trống và một lớp tải truyền điện tử, và hiện tượng tái tổ hợp và phát quang sẽ xảy ra ở khu vực giữa hai lớp hữu cơ này; thiết kế này sẽ giúp giảm hiệu điện thế tối thiểu (để cho thiết bị hoạt động) và cải thiện hiệu suất của thiết bị - thiết kế này mở đường cho dòng diode phát sáng hữu cơ hiện nay. Nghiên cứu về các vật liệu polyme có khả năng điện phát quang cho ra kết quả là báo cáo khoa học của J. H. Burroughes và các đồng sự khác vào năm 1990 tại Phòng thí nghiệm Cavendish ở Cambridge, có nội dung nói về một loại màng polyme phát ra ánh sáng xanh lục, có hiệu suất cao, sử dụng vật liệu là các tấm màng 100 nm làm bằng poli(p-phenylen vinylen). Cấu tạo và nguyên lý hoạt động. Một diode phát sáng hữu cơ loại thông thường bao hàm một tấm vật liệu hữu cơ đặt giữa hai điện cực âm (Cathode) và dương (anode), tất cả chúng được đặt trong một khối chất nền. Các phân tử hữu cơ của diode có khả năng dẫn điện nhờ vào hiện tượng phản cục bộ hóa ("delocalize") của các electron pi, gây ra bởi sự cộng hưởng ("conjugation") của nhiều phần khác nhau của các obitan của cả phân tử hữu cơ. Khả năng dẫn điện của các vật liệu hữu cơ trong diode không hoàn toàn giống nhau, có những vật liệu dẫn điện tốt nhưng cũng có vật liệu cách điện, vì vậy nhìn chung màng hữu cơ của diode là loại bán dẫn hữu cơ. Obitan đầy điện tử có mức năng lượng cao nhất (HOMO) và obitan trống có mức năng lượng thấp nhất (LUMO) của các bán dẫn hữu cơ này tương ứng với dải hóa trị và dải dẫn của các bán dẫn vô cơ. Thiết kế cơ bản nhất của diode phát sáng hữu cơ chỉ bao gồm một lớp vật liệu hữu cơ, tỉ như thiết bị phát sinh quang điện đầu tiên do J. H. Burroughes và các đồng sự chế tạo, nó chỉ bao gồm một lớp poli(p-phenylen vinylen). Loại diode phức tạp hơn bao hàm nhiều lớp hữu cơ khác loại nhau để gia tăng hiệu suất của thiết bị. Các loại vật liệu được lựa chọn nhằm tăng cường khả năng dẫn điện, hỗ trợ cho việc tiêm nhập điện tích tại các điện cực - bằng cách cung cấp một cấu hình điện tử ít đứt quãng hơn, hoặc chặn điện tích có thể chạy từ điện cực này sang điện cực kia và trở nên hao phí. Các loại diode phát sáng hiện đại có cấu trúc hai lớp hữu cơ, một lớp dẫn điện và một lớp phát xạ. Các mẫu cải tiến gần đây nâng cao hiệu suất quang tử lên đến 19% bằng việc sử dụng thiết kế tiếp hợp không đồng nhất phân bậc ("graded heterojunction"). Trong thiết kế này, diode phát sáng chỉ có một lớp hữu cơ với hàm lượng lỗ trống và điện tử có giá trị khác nhau tùy theo bộ phận của lớp phát xạ, công dụng của thiết kế là kết hợp các ưu điểm của các thiết kế truyền thống bằng việc cải thiện mức độ tiêm nhập điện tích trong khi vẫn duy trì sự cân bằng của việc trao đổi điện tích trong vùng phát xạ. Khi diode hoạt động, một điện thế được áp lên toàn bộ thiết bị này, khiến cho anode có điện tích dương hơn so với cathode. Loại anode dùng cho OLED được lựa chọn dựa trên các tiêu chí chất lượng về khả năng thấu quang, dẫn điện, và tính ổn định hóa học. Lúc này, dòng điện tử chạy xuyên qua diode từ cathode đến anode; trong đó điện tử được "điền" vào các obitan trống có mức năng lượng thấp nhất (LUMO) nằm trong các phân tử của lớp hữu cơ, và bị "rút" ra khỏi các obitan đầy có mức năng lượng cao nhất (HOMO) nằm tại anode. Cả quá trình này được gọi là sự tiêm nhập của lỗ trống vào trong HOMO. Lực tĩnh điện làm "di chuyển" vị trí các lỗ trống và các điện tử lại gần nhau và chúng kết hợp thành các exiton, một trạng thái liên kết giữa điện tử và lỗ trống. Hiện tượng kết hợp chủ yếu xảy ở lớp phát xạ vì trong vật liệu bán dẫn hữu cơ khi lỗ trống có khả năng linh động cao hơn điện tử. Khi trạng thái exiton của điện tử và lỗ trống bị phân rã, nặng lượng được phát xạ ra, đi kèm với việc phát ra một bức xạ với tần số và bước sóng nằm trong phổ nhìn thấy được, nói cách khác nó phát ra ánh sáng mắt nhìn thấy được. Tần số của bức xạ phụ thuộc vào khoảng cách giữa các dải ("band gap") của vật liệu, trong trường hợp này là sự khác biệt của mức năng lượng giữa HOMO và LUMO. Vì điện tử và lỗ trống là các fermion có độ bội spin là h/2, một exiton có thể ở trạng thái đơn (singlet) hay nhóm ba (triplet), tùy theo spin của điện tử và lỗ trống được kết hợp như thế nào. Theo phương diện thống kê, 3 exiton triplet sẽ được hình thành cho mỗi exiton singlet. Sự phân rã của trạng thái triplet (lân quang) không thể xảy ra theo khía cạnh spin, điều này làm gia tăng quãng thời gian chuyển tiếp và làm giới hạn hiệu suất nội của các thiết bị phát huỳnh quang. Tuy nhiên loại diode phát sáng hữu cơ lân quang có khả năng sử dụng tương tác spin-quỹ đạo để kích thích chuyển mức nội ("intersystem crossing") giữa trạng thái singlet và triplet, nhờ đó có được phát xạ từ cả hai trạng thái này và giúp gia tăng hiệu suất nội nói chung. Dung dịch Oxide inđi-thiếc (ITO) thường được sử dụng để chế tạo anode. Nó trong suốt đối với ánh sáng nhìn thấy được và có công phát xạ cao, điều này giúp gia tăng sự tiêm nhập của lỗ trống vào HOMO của lớp vật liệu hữu cơ. Một lớp vật liệu dẫn điện của diode có thể bao hàm loại vật liệu vì mức độ năng lượng HOMO của vật liệu này nằm vào giữa công phát xạ của dung dịch ITO và HOMO của các loại polyme thông dụng khác, điều đó làm giảm trở ngại năng lượng đối với tiêm nhập lỗ trống. Các kim loại như bari hay calci thường được dùng để làm cathode vì chúng có công phát xạ thấp, giúp tăng cường sự tiêm nhập của điện tử vào LUMO của lớp vật liệu hữu cơ. Các kim loại này có khả năng phản ứng hóa học rất mạnh, vì vậy người ta thường bọc một lớp nhôm bên ngoài để chúng không bị ăn mòn hóa học. Các nghiên cứu đã cho thấy các tính chất của anode, đặc biệt là hình dạng bề mặt tiếp xúc giữa anode với lớp trung chuyển lỗ trống (HTL) có vai trò quan trọng đối với hiệu suất, công suất và tuổi thọ của diode phát sáng hữu cơ. Sai lỗi trong các bề mặt nằy làm giảm sự kết dính, tăng điện trở và tăng mức độ hình thành các "điểm đen" không phát sáng trong khối vật liệu của diode, vì thế làm giảm tuổi thọ diode. Người ta sử dụng một số phương pháp để làm giảm độ thô ráp của chất nền dung dịch ITO/kính, trong đó bao hàm việc dùng các tấm màng thuốc mỏng và các lớp vật liệu đơn có khả năng tự ghép lại với nhau. Các vật liệu mới dùng để chế tạo chất nền và anode với khả năng tăng hiệu suất và tuổi thọ cũng đang được áp dụng, ví dụ anode làm bằng tinh thể ngọc lam xử lý với các tấm vàng mỏng được cho là có công phát xạ, điện thế, điện trở thấp và giúp gia tăng tuổi thọ diode. Các thiết bị tải dạng "diode phát quang" đơn giản thường được sử dụng để nghiên cứu hóa động năng và cơ chế vận chuyển điện tích của mỗi loại vật liệu, và nó có thể hiệu quả khi sử dụng trong việc nghiên cứu quá trình chuyển hóa năng lượng. Khi dòng điện chạy qua "diode" một loại vật mang điện tích (lỗ trống hoặc điện tử), hiện tượng tái tổ hợp không xảy ra và vì vậy không có phát sáng. Ví dụ, "diode" chỉ bao gồm điện tử có thể được chế tạo bằng cách thay thế dung dịch ITO bằng một kim loại có công phát xạ thấp hơn, điều này làm tăng mức năng lượng trở ngại cho quá trình tiêm nhập lỗ trống. Tương tự, "diode" thuần lỗ trống có thể được chế tạo khi sử dụng cathode thuần làm bằng nhôm vì mức năng lượng trở ngại quá lớn để cho tiêm nhập điện tử có thể xảy ra một cách hiệu quả. Vật liệu. Vật liệu phân tử nhỏ. Diode phát sáng hữu cơ hiệu suất cao sử dụng phân tử nhỏ được chế tạo lần đầu tiên bởi nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Đặng Thanh Vân (鄧青雲, Ching W. Tang) tại Eastman Kodak. Thuật ngữ "diode phát sáng hữu cơ" trước đây thường ám chỉ loại diode dùng vật liệu này, mặc dù một thuật ngữ dành riêng cho nó là "diode phát sáng hữu cơ phân tử nhỏ" (SM-OLED) cũng được sử dụng. Vật liệu "phân tử nhỏ" bao gồm các loại vật liệu tạo phức (chelate) hữu cơ-kim loại (ví dụ như Alq3, vật liệu dùng bởi nhóm của Đặng Thanh Vân), thuốc nhuộm huỳnh quang và lân quang, và đenđrime kết hợp. Một số loại vật liệu được ưa dùng do tính năng vận chuyển điện tích tỉ như triphenylamin và các dẫn xuất của nó, đã được sử dụng để chế tạo các lớp hữu cơ vận chuyển lỗ trống. Thuốc nhuộm huỳnh quang đôi khi được chọn vì nó có thể phát xạ nhiều loại tia có các bước sóng khác nhau, và các hợp chất như perylen, rubren và dẫn xuất của quinacridon cũng hay được dùng. Alq3 lâu nay được dùng như là vật liệu phát ánh sáng xanh lục, vật liệu tải điện tử và giá thể cho các thuốc nhuộm phát quang vàng và đỏ. Việc sản xuất màng hữu cơ dành cho diode phát sáng sử dụng nguyên liệu "phân tử nhỏ" thường được tiến hành theo phương pháp ngưng đọng từ hơi trong môi trường chân không. Phương pháp này khá tốn kém và hầu như không được sử dụng chế tạo các thiết bị có bề mặt lớn. Tuy nhiên, so với việc sản xuất màng hữu cơ từ polyme, sản xuất bằng phương pháp bay hơi giúp người ta có thể kiểm soát tốt và đảm bảo tính đồng nhất cao về mặt kết cấu của sản phẩm, và có thể chế tạo ra các màng hữu cơ nhiều lớp có cấu trúc rất phức tạp. Độ linh hoạt cao trong thiết kế các lớp vật liệu hữu cơ và khả năng chế tạo ra các lớp vật liệu có tính năng dẫn điện/cách điện đặc thù giúp cho các diode phát sáng hữu co "phân tử nhỏ" có hiệu suất rất cao. Các thực nghiệm đã cho thấy thiết bị kết hợp nhuộm màu laser SM-OLED được kích thích trong chế độ xung có thể phát ra bức xạ kết hợp. Bức xạ phát ra gần như là bị nhiễu xạ, giới hạn trong một phổ có biên độ gần giống như phổ của lade hóa màu dải tần rộng. Các nghiên cứu cũng cho thấy hiện tượng phát sáng từ một phân tử polyme đơn, phân tử này có thể được xem như là một diode phát sáng hữu cơ có kích thước nhỏ nhất mà người ta từng tạo ra được. Trong tương lai, người ta có thể tối ưu hóa các chất liệu chế tạo diode để sản xuất ra các thiết bị phát sáng mạnh hơn nữa, và kết quả nghiên cứu này được cho là bước đầu tiên trong quá trình phát triển các thiết bị kích cỡ nguyên tử có khả năng kết hơp các đặc tính điện tử và quang học - những thiết bị tương tự như thế này có thể trở thành nền tảng của một máy vi tính kích cỡ phân tử. Vật liệu polyme. Diode phát sáng polyme (PLED) hay còn gọi là polyme phát quang (LEP), có cấu tạo bao hàm một lớp polyme dẫn điện có khả năng điện phát quang, lớp này sẽ phát sáng khi kết nối với một điện thế bên ngoài. Các diode polyme được sử dụng như những lớp màng mỏng dùng cho các màn hình màu phổ đầy đủ ("full spectrum"). diode polyme có hiệu năng khá cao và tiêu tốn tương đối ít năng lượng cho quá trình phát sáng. Phương pháp bay hơi và ngưng tụ vật liệu trong chân không được cho là không thích hợp để sản xuất các màng polyme mỏng. Tuy nhiên, việc sản xuất những màng polyme này từ nguyên liệu gốc dạng dung dịch là hoàn toản khả thi, thí dụ như phương pháp sơn phủ ly tâm ("spin coating") được dùng khá rộng rãi trong việc chế tạo các màng polyme mỏng, và nó tỏ ra thích hợp hơn phương pháp bay hơi/ngưng tụ khi sản xuất các màng có diện tích bề mặt lớn. Việc sơn phủ li tâm không cần môi trường chân không, và các vật liệu phát xạ có thể được phủ lên giá thể bằng các phương pháp giống như việc in phun. Tuy nhiên, việc phủ các lớp vật liệu chồng đè lên lớp vật liệu cũ có thể khiến các lớp hoàn lẫn với nhau, vì vậy sản xuất các màng nhiều lớp bằng sơn phủ ly tâm nhìn chung tương đối khó khăn. Việc chế tạo cathode bằng kim loại có lẽ vẫn phải sử dụng phương pháp bay hơi trong chân không. Tuy nhiên người ta có thể sử dụng phương pháp ngưng tụ màng Langmuir-Blodgett để thay thế cho ngưng tụ chân không. Các diode phát sáng polyme thường dùng những vật liệu tỉ như dẫn xuất của poli("p"-phenylen vinylen) và polifluoren. Việc thay thế các nhánh trên mạch polyme chính có thể làm thay đổi màu sắc mà vật liệu phát ra hay độ ổn định và độ tan của vật liệu polyme, điều này ảnh hưởng đến hiệu suất và khả năng chế tạo sản phẩm. Trong khi poli(p-phenylen vinylen) (PPV) nguyên mẫu thường không tan, một số dẫn xuất của nó hoặc các loại poli(naphthalen vinylen) (PNVs) có khả năng tan trong các dung môi hữu cơ hay nước sẽ được dùng trong quá trình sản xuất và được chuẩn bị bằng phương pháp polyme hóa chuyển vị mở vòng. Vật liệu phát lân quang. Diode phát lân quang hữu cơ sử dụng nguyên lý điện phát lân quang để chuyển hóa điện năng thành quang năng với hiệu suất cao, một số diode phát lân quang có nội hiệu suất quang đạt gần đến 100%. Thông thường, các loại polyme như poli(n-vinylcarbazole) thường được dùng làm chất nguồn để tạo ra các phức kim loại-hữu cơ có tác dụng phát lân quang. Các phức hữu cơ của iridi tỉ như Ir(mppy)3, loại vật liệu hiện đang được tập trung nghiên cứu. Một số phức sử dụng kim loại nặng như bạch kim cũng được sử dụng. Nguyên tử kim loại nặng nằm giữa kết cấu của phức thể hiện đặc tính bắt cặp spin-quỹ đạo rất mạnh, làm kích thích quá trình chuyển mức nội giữa trạng thái singlet và triplet. Như vậy, các vật liệu lân quan này sẽ làm cả exiton triplet lẫn singlet phân rã và phát xạ, từ đó gia tăng hiệu suất quang nội so với các diode lân quan chỉ làm phân rã các exiton singlet. Sử dụng các diode phát sáng thể bền vững yêu cầu nó phải đạt được độ sáng với tọa độ CIE tốt (dùng cho phát ra ánh sáng trắng). Khi dùng các gốc tự do đại phân tử tỉ POSS kết hợp với các gốc tự do phát lân quang như Ir, diode phát sáng có thể phát ra ánh sáng mức độ lên tới 10.000 cd/m². Ưu và nhược điểm. Ưu điểm. So với màn hình tinh thể lỏng (LCD) và màn hình hiển thị phẳng (FDP), diode phát sáng hữu cơ (OLED) có các ưu điểm sau.
1
null
Hạm đội Thái Bình Dương (tiếng Nga: Тихоокеанский флот, Chuyển sang ký tự Latinh: "Tikhookeanskiy flot", tên là Hạm đội Thái Bình Dương Banner đỏ, "Краснознамённый Тихоокеанский флот" trong thời Xô Viết) là một phần của Hải quân Nga đóng tại Thái Bình Dương, mà trước đây là đơn vị đảm bảo an ninh biển tại vùng Viễn Đông của Liên Xô. Trụ sở chính của hạm đội nằm ở Vladivostok. Căn cứ hạm đội quan trọng khác trong khu vực Viễn Đông Nga là Petropavlovsk-Kamchatskiy trong vịnh Avacha, trên bán đảo Kamchatka với một căn cứ tàu ngầm lớn ở Vilyuchinsk cũng tại bán đảo. Trong thời kỳ Liên Xô, Hạm đội Thái Bình Dương cũng chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo hoạt động của Hải quân Liên Xô tại Ấn Độ Dương. Phi đội và các tàu hải quân Xô Viết đóng quân tại một số quốc gia ở Ấn Độ Dương, như là tại Đảo Socotra. Lịch sử. Thành lập ngày 21-5-1731, tiền thân là đội tàu quân sự Okhotsk (1731-1856) và Đội tàu quân sự Siberia (1856-1918). Trang bị. Lực lượng không quân. Tính đến năm 2007, lực lượng không quân của Hạm đội Thái Bình Dương bao gồm: Lãnh đạo. Chỉ huy của Hạm đội Thái Bình Dương qua các thời kỳ: Sau đó, vào tháng 1 năm 1947, hạm đội được chia tách thành hạm đội 5 và hạm đội 7: Vào tháng 4 năm 1953, Hạm đội đã một lần nữa được hợp nhất thành hạm đội Thái Bình Dương:
1
null
Pascal Delhommeau (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1978 tại Nantes) là một trung vệ bóng đá Pháp. Anh đã chơi trong mười bốn mùa ở giải chuyên nghiệp và gần 300 trận trong bốn đội khác nhau. Sự nghiệp. Delhommeau giành chiến thắng Giải vô địch UEFA U-18 vô với đội Pháp.
1
null
Bryaninops yongei là một loài cá biển thuộc chi "Bryaninops" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1969. Từ nguyên. Từ định danh "yongei" được đặt theo tên của Maurice Yonge (1899–1986), nhà sinh học biển người Anh, bạn cùng tàu với hai tác giả Davis và Cohen trên chuyến du ngoạn mà mẫu vật loài cá này được thu thập. Phân bố và môi trường sống. "B. yongei" có phân bố rải rác khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ bờ Biển Đỏ thuộc Ai Cập và vịnh Ba Tư trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii và quần đảo Marquises, xa về phía nam đến Úc và đảo Rapa Iti, ngược lên phía bắc đến tỉnh Kagoshima (Nam Nhật Bản). "B. yongei" chỉ sống cộng sinh với một loài san hô đen là "Cirrhipathes anguina", được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 45 m. Mô tả. Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở "B. yongei" là 3,5 cm. Cá có phần thân trên trong mờ, màu xanh lục hoặc lam nhạt với khoảng 7 vạch đỏ, còn thân dưới màu vàng nâu. Mống mắt đỏ. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 8–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8–10; Số tia ở vây ngực: 15–16. Sinh thái. Thức ăn của "B. yongei" là động vật phù du. Loài này sống theo cặp đơn phối ngẫu, tuy nhiên cũng có thể hợp thành nhóm nhỏ (tối đa 4 cá thể), nhưng không bao giờ có nhiều hơn hai cá thể trưởng thành trong các nhóm này. Các cặp đôi trưởng thành hầu như luôn chiếm giữ những nhánh "C. anguina" lớn. "B. yongei" có thể phát huỳnh quang đỏ ở độ sâu mà ban ngày hầu như ánh sáng đỏ từ Mặt Trời không rọi xuống được. Thương mại. "B. yongei" được đánh bắt vì mục đích buôn bán cá cảnh.
1
null
Mùa đầu tiên của "Phineas and Ferb" bao gồm 26 tập phim đôi (tức 47 tập lẻ theo thứ tự trình chiếu), trong đó có 42 tập thường và 5 tập chia làm 2 phần. Nó thể hiện những gì Phineas và Ferb đang cố gắng sáng tạo, thực hiện tốt nhất có thể trong suốt kì nghỉ hè, và Candace đã tìm mọi cách lật tẩy hai cậu về việc đó trong khi thú mỏ vịt Perry ngày ngày đập tan những kế hoạch điên rồ của Tiến sĩ Doofenshmirtz. Mùa phim bắt đầu phát sóng từ tập "Rollercoaster" và kết thúc đến tập "Unfair Science Fair Redux (Another Story)". 3 tập phim cuối mùa ("Phineas and Ferb Get Busted!", "Unfair Science Fair" and "Unfair Science Fair Redux (Another Story)") ban đầu được phát sóng tại ít quốc gia bên ngoài nước Mĩ dưới dạng tập phim mùa 1. Tại Mĩ, họ đã tổ chức phát sóng đến sát ngay trước mùa 2, một phần của sự ra mắt kênh DisneyXD, thay thế cho kênh Toon Disney và các kênh Jetix. Với sự phát hành của DVD thứ 2 và những đại lý phân phối của họ ở các cửa hàng iTunes. Các tập phim mùa 1 đã được phát hành cho tất cả các thị trường Disney trên toàn thế giới. Thêm vào đó, chuỗi tiêu đề trong 3 tập phim đều nằm trong mùa 1, hiển thị ở các cảnh cuối của Original Pitch đã thể hiện chúng là những tập phim mùa 1. Thông tin sản xuất. Phong cách viết. Chương trình tuyển dụng 4 tác giả chủ đạo để vạch ra các ý tưởng cốt truyện theo "hướng dẫn nghiêm ngặt", chẳng hạn như các đề án và kế hoạch của các cậu bé sẽ không bao giờ xuất hiện dưới dạng "phép thuật" nào đó. Những câu chuyện được xem xét lại tại buổi họp hàng định kỳ hàng tuần vào ngày thứ hai, sau đó là đồng thời cả kịch bản và dòng truyện. Một thiết kế thô sơ được xây dựng trước dòng truyện, một tiến trình phác thảo sơ lược các cảnh và một số dòng đối thoại, được soạn thảo. Các tác giả sau đó gộp chúng lại thành 1 một "tiếp-nối-tiếp" thông qua kịch bản, đưa ra xem xét cho toàn thể nhân viên để xem những phản ứng, đánh giá và những câu nói đùa trước khi viết lại. Những tác giả cũng bao gồm khiếu hài hước trong từng tập phim, mà thể hiện cụ thể là những dòng thoại của nhân vật. Hầu như mỗi lần phát sóng được chia làm 2 phần, mỗi phần 11 phút (có thể là 2 tập trong 2 phần hoặc 1 tập lớn chia làm 2 phần nhỏ). Diễn viên. Phineas và Ferb được lồng tiếng bởi Vincent Martella và Thomas Sangster. Sangster là một trong nhiều diễn viên đến từ Anh Quốc của chương trình. Swampy Marsh sống và làm việc tại Anh 7 năm, đã phát triển một chương trình được yêu thích ở đó cho mọi người. Phần còn lại của những diễn viên bao gồm Ashley Tisdale vào vai cô chị khó tính, Candace, Dee Bradley Baker thủ vai điệp viên thú mỏ vịt bí mật, Perry, Caroline Rhea vào vai mẹ Linda, Kelly Hu vai bạn thân của Candace, Stacy và Alyson Stoner vai cô bé hàng xóm Isabella. Hai nhà sáng lập vào vai hai người đối lập sáng-tối, Dan Povenmire lồng tiếng cho kẻ nham hiểm Tiến sĩ Doofenshmirtz và Jeff "Swampy" Marsh lồng tiếng cho Thiếu tá Monogram. Đánh giá. Tập phim đầu tiên "Rollercoaster" thu hút tổng cộng 10,8 triệu người xem trong ngày phát sóng đầu tiên ở Hoa Kỳ 17 tháng 8 năm 2007. Khi "Phineas and Ferb" chính thức ra mắt vào tháng 2 năm sau, nó đã chứng minh con số đó trong buổi ra mắt bộ phim dưới dạng "cặp đôi". Trong suốt quý đầu tiên sau đó, nó đạt vị trí là loạt phim hoạt hình hàng đầu được đánh giá ở lứa tuổi 6-10 và 9-14. Cũng trở thành loạt phim hoạt hình thứ ba của truyền hình cáp dành cho khán giả 6-10 tuổi. Trong thời gian vận hành mùa thứ 2 công bố tháng 5 năm 2008, loạt phim đã trở thành chương trình được đánh giá hàng đầu trong các nhóm tuổi 6-11 và 9-14.
1
null
Điều 86 Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Điều 2 Luật tổ chức Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định cơ cấu thành viên của Quốc vụ viện, tức Chính phủ Trung Quốc, gồm có các chức vụ sau: Cả Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc vụ viện hiện hành đều không đề cập đến Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Trong khi các Phiên họp Thường vụ của Quốc vụ viện chỉ bao gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Ủy viên Quốc vụ và Tổng thư ký Quốc vụ; thì các Phiên họp toàn thể của Quốc vụ viện bao gồm tất cả các thành viên của Quốc vụ viện. Danh sách thành viên Quốc vụ viện các khóa. Khóa XIII (2018-2023). Khóa XIV (2023-nay)
1
null
Francisco Guillermo Ochoa Magaña (; sinh ngày 13 tháng 7 năm 1985), thường được gọi là Memo, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người México đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A và là đội trưởng Đội tuyển bóng đá quốc gia México. Ochoa bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Mexico Club América từ năm 2004. Anh có hơn 200 trận đấu cho América trước khi đến Pháp thi đấu cho Ajaccio. Anh có ba mùa bóng tại Ajaccio cho đến khi đội bóng xuống hạng vào năm 2014. Năm 2014, Ochoa gia nhập Málaga nhưng không thành công trong đội. Vào tháng 7 năm 2016, anh gia nhập Granada theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Vào tháng 7 năm 2017, anh gia nhập Standard Liège. Anh trở lại Club América vào tháng 8 năm 2019. Là tuyển thủ Mexico từ năm 2005, Ochoa có trận ra mắt đầu tiên ở tuổi 20 trong một trận giao hữu với Hungary. Từng được đưa vào đội hình tham dự FIFA World Cup 2006, 2010, 2014, 2018 và 2022, Ochoa đã được quốc tế công nhận nhờ tính nhất quán và màn trình diễn ấn tượng trong giải đấu qua nhiều lần lặp lại. Anh ấy cũng đã xuất hiện tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 và 2017, Thế vận hội Mùa hè 2004 và Thế vận hội Mùa hè 2020, Copa América 2007, Copa América Centenario, Cúp vàng CONCACAF 2007, 2009, 2015 và 2019, và ban đầu là Cúp vàng CONCACAF 2011 trước khi bị đình chỉ thi đấu do cáo buộc sử dụng doping sai. Anh là thủ môn khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất trong lịch sử, và hiện đứng thứ sáu trong danh sách mọi thời đại với 134 lần ra sân. Sự nghiệp câu lạc bộ. América. Guillermo Ochoa ra mắt cho América trong giải đấu Clausura 2004 trước Monterrey, khi đó mới 18 tuổi khi được huấn luyện viên trưởng Leo Beenhakker triệu tập. Ochoa nhanh chóng thể hiện kỹ năng và tài năng ghi bàn của mình, và thủ môn trẻ được đưa vào tầm ngắm để thay thế lão tướng Adolfo Ríos bị chấn thương. Sau đó, anh ấy sẽ chia sẻ công việc bắt đầu với Ríos sau khi anh ấy bình phục chấn thương nói trên. Khi kết thúc mùa giải đầu tiên của mình, anh ấy đã giành được giải thưởng Tân binh của Giải đấu. Khi giải đấu Apertura 2004 bắt đầu, Ochoa được cho là người thừa kế rõ ràng của Ríos, người đã giải nghệ. Tuy nhiên, huấn luyện viên trưởng mới Oscar Ruggeri đã mang theo những thủ môn mới, trong số đó có Sebastián Saja người Argentina. Ruggeri ở lại câu lạc bộ đã bị hủy hoại bởi những tranh cãi và quyết định không phổ biến. Anh ấy bị sa thải chỉ sau sáu trận đấu của mùa giải và Ochoa nhanh chóng được huấn luyện viên mới Mario Carrillo phục hồi. Sau đó, anh ấy bắt đầu mọi trận đấu cho Club América trừ những sự cố liên quan đến chấn thương hoặc nghĩa vụ của đội tuyển quốc gia. Dưới sự dẫn dắt của Carrillo, Ochoa đã giành chức vô địch đầu tiên với América sau mùa giải Clausura 2005. Anh ấy cũng đã giành được giải thưởng2005 Campeón de Campeones và Cúp vô địch CONCACAF 2006 với América. Anh ấy đã liên tiếp giành được giải thưởng Găng tay vàng cho mùa giải 2006–07. Vào tháng 10 năm 2007, Ochoa có tên trong danh sách các ứng cử viên cho Quả bóng vàng của "France Football", là một trong ba cầu thủ duy nhất có tên không thi đấu ở châu Âu. Ochoa sẽ bắt đầu năm 2008 với phong độ ấn tượng, giúp América vô địch giải đấu InterLiga với những màn trình diễn xuất sắc, đáng chú ý nhất là trong trận đấu vòng bảng với Monarcas Morelia, nơi anh cản phá được một quả phạt đền muộn và giúp América dẫn trước 1–0. Vào mùa đông năm 2010, có nhiều suy đoán từ nhiều nguồn khác nhau ở Anh về việc Ochoa sẽ chuyển đến đâu trong mùa giải 2011–12. Tờ báo tiếng Anh "Metro" đưa tin Manchester United rất muốn ký hợp đồng với Ochoa. Mùa giải cuối cùng của Ochoa với América là Clausura 2011, kết thúc với thất bại ở tứ kết trước Monarcas Morelia. Ajaccio. Mùa bóng 2011–12. Vào ngày 4 tháng 7 năm 2011, Ochoa đã ký hợp đồng ba năm, với tùy chọn thêm một năm, với câu lạc bộ Pháp Ajaccio, đội bóng vừa mới thăng hạng lên Ligue 1. Anh ấy đã chơi trong hai trận giao hữu đầu tiên với Ajaccio trước Bordeaux và Real Sociedad, thua lần lượt 1–2 và 0–4. Ochoa ra mắt câu lạc bộ chính thức vào ngày 5 tháng 8 năm 2011 trước Toulouse, thua 0–2. Vào ngày 18 và 21 tháng 12, Ajaccio thắng hai trận liên tiếp, trong đó Ochoa giữ sạch lưới hai trận liên tiếp, đây là trận giữ sạch lưới thứ ba của anh trong cả mùa giải. Ochoa cũng góp công trong chiến thắng 3–0 trước Étoile Fréjus Saint-Raphaël tại Coupe de France. Vào ngày 14 tháng 1 năm 2012, anh giúp Ajaccio giành chiến thắng 2–1 trước Auxerre , và vào ngày 21 tháng 1, anh đấu với Valenciennes trong chiến thắng 2–1, đưa Ajaccio thoát khỏi khu vực xuống hạng kể từ đầu mùa giải. Ajaccio thắng trận thứ sáu với Ochoa trong chiến thắng 2–1 trên sân nhà trước Dijon. Trận đấu cuối cùng của mùa giải, Ajaccio cần một chiến thắng trước Toulouse để thoát khỏi khu vực xuống hạng. Ochoa đá chính và chơi 90 phút trước Toulouse và giúp Ajaccio giành chiến thắng 2–0 để ở lại Ligue 1. Ochoa kết thúc mùa giải đầu tiên với 8 lần giữ sạch lưới, 43 pha cứu thua và 151 lần cản phá. Thật không may, anh cũng đã kết thúc mùa giải Ligue 1 với 59 bàn thua, khiến anh — cùng với thủ môn Caen, Alexis Thébaux — trở thành thủ môn thủng lưới nhiều bàn nhất trong mùa giải. Bất chấp điều đó, người hâm mộ đã bình chọn anh ấy là "Cầu thủ của mùa giải". Mùa bóng 2012–13. Vào ngày 1 tháng 7, chủ tịch câu lạc bộ Ajaccio Alain Orsoni thông báo Ochoa sẽ ở lại mùa giải 2012–13 trong bối cảnh có tin đồn về sự quan tâm từ các câu lạc bộ như Fenerbahçe và Sevilla, nhưng cả câu lạc bộ và huấn luyện viên của Ochoa đều không thể đạt được thỏa thuận chắc chắn. Vào ngày 11 tháng 8, Ochoa đá chính và đấu với Nice trong chiến thắng 1–0 trên sân khách trong trận đầu tiên và giành chiến thắng trong mùa giải. Vào ngày 19 tháng 8, Ochoa thi đấu trong trận hòa 0–0 của Ajaccio trên sân nhà trước Paris Saint-Germain, trận đấu mà anh đóng vai trò quan trọng khi giữ sạch lưới. Trong trận đấu thứ ba của mùa giải, Ochoa đã chơi 60 phút trước Valenciennes, trong đó anh phải bị thay ra do va chạm với một đồng đội. Ajaccio thua trận 0–3. Ochoa kết thúc mùa giải với 12 trận giữ sạch lưới. Anh lại được người hâm mộ bình chọn là "Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải". Mùa bóng 2013–14. Ochoa đá chính trong trận đấu đầu tiên của Ajaccio trong mùa giải vào ngày 11 tháng 8 năm 2013 trước Saint-Étienne. Ajaccio thua 0–1. Vào ngày 18 tháng 8, Ochoa đã chơi trọn vẹn 90 phút trước Paris Saint-Germain tại Parc des Princes, với việc Ajaccio sớm có được lợi thế dẫn trước 1–0, mặc dù bàn thắng của Edinson Cavani ở phút 86 đã khiến Ajaccio có một chiến thắng nổi tiếng. để giải quyết cho một trận hòa 1–1. Màn trình diễn của Ochoa được khen ngợi, với nhiều người lưu ý rằng cầu thủ người Mexico đã cản phá 12 trong tổng số 39 cú sút của PSG. Vào ngày 18 tháng 1 năm 2014, Ochoa chơi trận thứ 100 ở châu Âu trong trận thua 0–2 của Ajaccio trước Nice. Sau thất bại 1–2 trước Bastia vào ngày 20 tháng 4, Ajaccio chính thức xuống hạng ở Ligue 2 sau ba năm thi đấu ở giải đấu hàng đầu. Ochoa chơi trận cuối cùng với câu lạc bộ vào ngày 17 tháng 5 trong thất bại 1–3 trước Saint-Étienne. Sau khi chính thức thông báo về sự ra đi của anh ấy, câu lạc bộ đã chia tay Ochoa trong một bức thư ngỏ trên mạng xã hội. Málaga. Mùa giải 2014–15. Ochoa ký hợp đồng ba năm với câu lạc bộ La Liga Málaga vào ngày 1 tháng 8 năm 2014. Mặc dù đã tham gia cùng câu lạc bộ trong giai đoạn trước mùa giải, Ochoa đã không ra sân ở giải đấu nào, với Carlos Kameni là thủ môn được lựa chọn số một của huấn luyện viên Javi Gracia. Vào ngày 3 tháng 12, Ochoa chơi trận đầu tiên cho Málaga, trong trận hòa 1–1 tại Copa del Rey trước Deportivo de La Coruña. Trong trận đấu tiếp theo với cùng một đội, ba ngày sau, anh ấy lại trở lại băng ghế dự bị. Đến đầu tháng 11, giới truyền thông đồn đoán liên kết Ochoa với khả năng chuyển đến Liverpool vào tháng 1 trong một hợp đồng trị giá 4 triệu bảng. Bất chấp những tin đồn tiếp tục lan rộng và huấn luyện viên México Miguel Herrera bày tỏ sự không hài lòng với thủ môn được lựa chọn đầu tiên của ông ấy có thời gian thi đấu hạn chế, không có động thái nào được thực hiện vào cuối kỳ chuyển nhượng tháng Giêng, Málaga bày tỏ rằng họ rất vui khi giữ lại Ochoa, nói thêm người chơi đã từng là "dân chuyên nghiệp". Ochoa được xếp hạng thứ bảy trong danh sách thủ môn xuất sắc nhất thế giới của Liên đoàn Lịch sử & Thống kê Bóng đá Quốc tế năm 2014. Mùa giải 2015–16. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2016, Ochoa có trận ra mắt tại La Liga trong trận hòa 3–3 của Málaga với Deportivo La Coruña, thay cho Carlos Kameni do chấn thương ở phút thứ 36. Đó là trận đấu đầu tiên của Ochoa sau hơn một năm. Cho mượn tới Granada. Vào ngày 22 tháng 7 năm 2016, Granada thông báo họ đã mua Ochoa theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Anh ra mắt giải đấu vào ngày 20 tháng 8 trong trận hòa 1–1 trước Villarreal. Vào tháng 4 năm 2017, có thông tin cho rằng Ochoa sẽ trở thành cầu thủ tự do vào cuối mùa giải 2016–17 do hết hạn hợp đồng với Málaga. Vào ngày 13 tháng 5, Ochoa đã phá kỷ lục về số bàn thua nhiều nhất trong một mùa giải La Liga khi anh để thủng lưới bàn thứ 79 và 80 trong trận thua Osasuna. Kỷ lục do thủ môn Ignacio Aizpurúa của Salamanca thiết lập vào năm 1995–96, trước đó là 78 ​​bàn thắng trong một chiến dịch. Tuy nhiên, Ochoa cũng là thủ môn có nhiều pha cứu thua nhất trong 5 giải đấu hàng đầu châu Âu với 162. Cuối cùng, anh để thủng lưới 82 bàn khi Granada xuống hạng Segunda División, chỉ thắng 4 trận trong mùa giải. Ochoa đã chơi mọi phút trong mùa giải của Granada và được người hâm mộ câu lạc bộ bầu chọn là "Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải". Standard Liège. Vào ngày 9 tháng 7 năm 2017, có thông báo rằng câu lạc bộ Bỉ Standard Liège đã ký hợp đồng với Ochoa từ Malága theo hợp đồng hai năm. Anh ra mắt giải đấu vào ngày 30 của tháng trong trận hòa 1–1 trước KV Mechelen. Anh ấy trở thành sự lựa chọn đầu tiên của câu lạc bộ cho vị trí thủ môn và trong mùa giải đầu tiên anh ấy đã chơi 38 trong số 40 trận của giải đấu bao gồm cả vòng playoffs. Mùa giải tiếp theo, Ochoa ra sân trong mọi trận đấu với Standard, bao gồm 8 trận ở Europa League, và anh được vinh danh là "Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải" của câu lạc bộ. Vào tháng 5 năm 2019, Ochoa gợi ý rằng anh ấy sẽ rời Standard Liège. Trở lại América. Vào ngày 5 tháng 8 năm 2019, Ochoa trở lại Club América theo bản hợp đồng có thời hạn 3 năm rưỡi. Mặc dù chi tiết của vụ chuyển nhượng không được tiết lộ, nhưng có thông tin cho rằng Ochoa sẽ là cầu thủ Mexico được trả lương cao nhất tại Liga MX, kiếm được 4,4 triệu đô la Mỹ hàng năm. Anh ấy chọn chiếc áo số 6, vì các số 1, 8 và 13 – những con số anh ấy đã mặc trước đó trong suốt sự nghiệp của mình – đã được đăng ký. Vào ngày 24 tháng 8, anh chơi trận đầu tiên cho América kể từ năm 2011 gặp Tigres UANL, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1–1. Đội tiếp tục lọt vào trận chung kết giải vô địch Apertura và đối đầu với Monterrey, với việc Ochoa chơi bằng cả hai chân và cản phá được quả phạt đền của Stefan Medina trong loạt luân lưu sau đó, mặc dù điều đó là không đủ để ngăn Monterrey giành chiến thắng 4–2 trên chấm phạt đền, sau khi hòa 3–3 chung cuộc. Trước khi bắt đầu mùa giải 2020–21, Ochoa đã đổi số áo của mình. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2020, anh đeo băng đội trưởng lần đầu tiên kể từ khi trở lại Club América trong chiến thắng 2–1 trước Atlético San Luis. Sau chiến thắng 1–0 trước Querétaro vào ngày 24 tháng 8 năm 2022, Ochoa trở thành thủ môn giữ sạch lưới nhiều nhất trong lịch sử 105 năm của Club América, phá vỡ kỷ lục 110 trước đó do Adrián Chávez nắm giữ. Salernitana. Vào ngày 23 tháng 12 năm 2022, Ochoa ký hợp đồng với câu lạc bộ Serie A Salernitana, đồng ý ký hợp đồng đến ngày 30 tháng 6 năm 2023 với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. Năm 2006, ở tuổi 20, Ochoa được huấn luyện viên Ricardo Lavolpe gọi vào đội tuyển Mexico tham dự World Cup 2006 ở vị trí thủ môn thứ ba. Năm 2007, Ochoa tham dự Cúp Vàng CONCACAF 2007 và Copa América 2007. Ngày 28 tháng 3 năm 2009, anh có trận đấu đầu tiên tại vòng loại World Cup 2010 với Costa Rica. Tại World Cup 2010, anh là thủ môn dự bị số hai cho thủ môn kỳ cựu Oscar Pérez. Trong quá trình thi đấu tại Cúp Vàng CONCACAF 2011, Ochoa cùng với bốn cầu thủ trong đội tuyển Mexico bị dương tính với dược chất Clenbuterol và bị trục xuất khỏi giải. Sau đó Ochoa cùng các đồng đội được minh oan sau khi cuộc điều tra của Liên đoàn bóng đá Mexico cho thấy chất Clenbuterol dương tính trong mẫu thử là do ngộ độc trong khi ăn thịt. Mặc dù vậy, Tổ chức Chống Doping đã đưa vụ việc này ra Tòa án Thể thao quốc tế (CAS) xin ban hành lệnh cấm thi đấu nhưng vào ngày 12 tháng 10 năm 2011, tổ chức này đã rút lại yêu cầu sau khi nhận được hồ sơ giải trình. Ngày 9 tháng 5 năm 2014 Ochoa được đưa vào danh sách 23 cầu thủ Mexico tham dự World Cup 2014 tại Brasil. Anh có trận bắt chính đầu tiên tại World Cup sau ba lần tham dự giải đấu này trong trận đấu với Cameroon, trận đấu mà Mexico đã giành chiến thắng 1-0. Ngày 17 tháng 6, trong trận đấu vòng bảng thứ hai với Brasil, Ochoa đã có bốn pha cứu thua xuất sắc trong đó có pha cản phá quả đánh đầu uy lực của tiền đạo Neymar, được so sánh với pha cứu thua nổi tiếng của thủ môn Anh Gordon Banks tại World Cup 1970. Kết thúc trận đấu, anh giúp Mexico cầm hòa Brasil 0-0 và giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận do FIFA bầu chọn. Màn trình diễn của anh trong trận này đã được ngay cả huấn luyện viên Brasil Luiz Felipe Scolari tán thưởng. Ochoa phát biểu sau trận đấu cho biết: "Đây là trận đấu của cuộc đời tôi, trước sự chứng kiến của người hâm mộ tại một kỳ World Cup, đó là điều không thể tin được." Ngoài ra, sau trận đấu với Brasil, tài khoản Twitter, FootballFunnys còn "chế" hình ảnh bàn tay của Ochoa có tới 6 ngón như để ca ngợi những pha cứu bóng xuất thần của anh. Đến trận đấu vòng 1/8 với Hà Lan, Ochoa tiếp tục thể hiện phong độ xuất sắc khi cản phá thành công hai pha dứt điểm cận thành của Stefan de Vrij và Arjen Robben để giữ vững tỉ số 1-0 nghiêng về Mexico cho đến những phút cuối trận đấu trước khi Hà Lan có hai bàn thắng lội ngược dòng, trong đó có một bàn từ chấm phạt đền. Mặc dù vậy, anh vẫn vinh dự được FIFA trao danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận lần thứ hai trong giải đấu. Cuộc sống cá nhân. Năm 2006, Ochoa bắt đầu hẹn hò với ca sĩ – diễn viên nổi tiếng Dulce Maria nhưng cặp đôi này đã chia tay ngay một năm sau đó. Sau khi chuyển tới Pháp, anh bắt đầu hẹn hò với người mẫu Karla Mora. Họ đã có chung với nhau một cô con gái Lucciana.
1
null
Daniel Kingsley "Dan" Povenmire (; sinh ngày 18 tháng 9 năm 1963) là một đạo diễn truyền hình người Mỹ, là nhà văn, nhà sản xuất, nhà biên kịch, diễn viên từng cộng tác trong một số phim hoạt hình truyền hình nhiều tập, được biết đến như là đồng tác giả của loạt phim hoạt hình Disney "Phineas và Ferb", trong đó ông cũng lồng tiếng cho nhân vật phản diện, Heinz Doofenshmirtz. Povenmire lớn lên ở Mobile, Alabama, nơi ông từng là một sinh viên nghệ thuật tài năng, từng dành những kỳ nghỉ hè để quay phim ngoài trời. Povenmire học tại đại học South Alabama trước khi quyết định theo đuổi sự nghiệp điện ảnh và chuyển sang trường nghệ thuật điện ảnh (USC School of Cinematic Arts) thuộc Đại học Nam California.
1
null
Dee-Bradley Coltin Baker (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1962 tại Indiana) là một diễn viên chuyên lồng tiếng người Mỹ. Ông được biết đến với việc lồng tiếng lâu năm cho vai Squilliam Facyson cùng một vài nhân vật khác trong series phim hoạt hình nổi tiếng "SpongeBob SquarePants". Ngoài ra, ông còn được biết đến với các vai lồng tiếng trong một số phim hoạt hình như ', ', "Phineas and Ferb", "Adventure Time with Finn and Jake", "American Dad!", "Ben 10", "", cùng các trò chơi điện tử gồm "Halo", "Gears of War", "Portal 2", và "Left 4 Dead". Trong "Phineas and Ferb", Baker là người lồng tiếng cho Thú mỏ vịt Perry, đồng thời tham gia với vai trò diễn viên bổ sung trong nhiều tập. Cuộc sống trước đây. Dee Bradley Baker được sinh ra tại tiểu bang Indiana và lớn lên ở thành phố Greeley, tiểu bang Colorado. Ông bắt đầu diễn xuất từ khi mới 9 tuổi và đã liên tục tham gia vào các vở nhạc kịch, opera, kịch, và hài kịch cho đến khi vào đại học. Baker đã học về Triết học, Sinh học và Tiếng Đức, và tốt nghiệp Trường Đại học Colorado, tại Colorado Springs, Colorado. Ông đã từng làm diễn viên sân khấu, diễn viên hài kịch, và ca sĩ sau khi tốt nghiệp đại học, rồi đến Los Angeles, nơi mà ông bắt đầu sự nghiệp diễn viên lồng tiếng của mình.
1
null
Chasmistes brevirostris là một loài cá thuộc họ Cá mút. Loài cá này là loài bản địa ở miền nam bang Oregon và phía bắc California trong Hoa Kỳ. Đây là một loài nguy cấp liên bang của Hoa Kỳ. Loài này có thể phát triển lên đến chiều dài nửa mét. Loài cá này có đầu lớn và môi thịt mỏng, môi dưới hình chữ V. Người ta đã quan sát cá thể đạt đến tuổi thọ 33 tuổi. Môi trường sống ưa thích của loài cá này là hồ nước giàu oxy, nước đục, cạn, hơi kiềm, có nhiệt độ mát mẻ, nhưng không lạnh, trong mùa hè.
1
null
Aleksandr Vasilyevich Aleksandrov (tiếng Nga: Александр Васильевич Александров) (13 tháng 4 năm 1883 – 8 tháng 7 năm 1946) là một nhà soạn nhạc Nga Xô viết cũ, người thành lập Đoàn hát múa Aleksandrov, người viết nhạc cho bài Quốc ca Liên bang Xô viết. Năm 2000, bài hát trở thành Quốc ca Liên bang Nga (với lời mới). Trong suốt sự nghiệp của mình, ông còn đảm nhận cương vị giáo sư tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Moskva và trở thành Tiến sĩ Nghệ thuật. Ngoài ra, ông còn được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân Liên Xô và Giải thưởng Stalin. Lịch sử. Aleksandr Vasilyevich Aleksandrov, còn có tên gọi khác là Sasha, sinh ngày 13 tháng 4 năm 1883 tại Plakhino, một ngôi làng ở Ryazan phía đông nam Moskva. Là một cậu bé có khả năng ca hát ấn tượng nên Aleksandr đã tới Sankt-Peterburg để trở thành một ca sĩ hợp xướng ở Giáo xứ Sankt-Peterburg. Là học sinh của trường Medtner, ông học soạn nhạc tại Sankt-Peterburg và Moskva, nơi mà cuối cùng ông trở thành một giáo sư âm nhạc năm 1918 và một chuyên gia hợp xướng tại Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ ở Moskva từ năm 1918 tới năm 1922. Ông là người thành lập Đoàn văn nghệ Aleksandrov và giữ chức vụ giám đốc trong nhiều năm. Trong vai trò này, lần đầu tiên ông nhận được sự ủng hộ từ Joseph Stalin, người lãnh đạo đất nước trong hai thập kỷ cuối đời của Aleksandrov. Dàn hợp xướng của ông đã biểu diễn thành công tại Triển lãm Quốc tế năm 1937 ở Paris. Năm 1942, Stalin đã ủy quyền cho ông và Sergey Mikhalkov sáng tác một bài quốc ca mới của Liên Xô, được chính thức thông qua vào ngày 1 tháng 1 năm 1944 và được sử dụng cho đến khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Sau đó, bài hát trở thành Quốc ca Nga vào tháng 12 năm 2000, do Mikhalkov viết lời mới. Ông cũng đã sáng tác bài hát nổi tiếng "Cuộc chiến tranh thần thánh", và hành khúc chính thức của Lực lượng vũ trang Liên Xô và nay là Nga, Bài ca quân đội Liên Xô. Ông qua đời ngày 8 tháng 7 năm 1946, khi đang đi lưu diễn ở Berlin; trong khi một số hồ sơ nói rằng ông đã trở về từ Đức.
1
null
Cam Lộ chi biến (chữ Hán: 甘露之变), là một cuộc chính biến cung đình nổ ra vào ngày 14 tháng 12 năm 835, tức ngày Nhâm Tuất tháng 11 ÂL năm Thái Hòa thứ 8 thời Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc, do các đại thần Lý Huấn và Trịnh Chú khơi nguồn, được sự ủng hộ của hoàng đế Văn Tông nhằm diệt trừ nạn hoạn quan tham chính. Tuy nhiên kế hoạch thất bại, các hoạn quan Cừu Sĩ Lương và Ngưu Hoằng Chí phát giác âm mưu và tập hợp lực lượng tiêu diệt các đại thần muốn lật đổ mình, dẫn đến một cuộc thảm sát cung đình. Sau cuộc chính biến này, Đường Văn Tông bị nằm dưới sự kiểm soát của hoạn quan đến tận lúc qua đời (841). Nguyên nhân và sự chuẩn bị. Hoạn quan lộng quyền. Từ sau loạn An Sử, triều đại nhà Đường dần dần bước vào thời kì suy yếu. Ở bên ngoài, các Tiết độ sứ được trao cho những lãnh địa rộng lớn bắt đầu tỏ ý li khai với triều đình, trong đó một số nhanh chóng bị đánh dẹp, một số Tiết độ sứ khác do có thế lực quá lớn khiến triều đình cũng không thể giành được thắng lợi trong những lần thảo phạt, cuối cùng phải công nhận chức vị của họ. Các Tiết độ sứ này nhiều lúc còn gây ra nhiều cuộc phản loạn lớn, đe dọa đến sự tồn tại của nhà Đường, như sự biến Phụng Thiên (783 - 784) dưới thời Đường Đức Tông. Đặc biệt ba trấn ở vùng Hà Bắc (Thành Đức, Ngụy Bác, Lư Long) xem như đã hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của nhà Đường từ năm 821. Trong khi đó tình hình trong triều cũng rơi vào khủng hoảng với việc nhiều hoạn quan được trọng dụng, nắm được quyền lực và lấn át các hoàng đế, mở đầu là Lý Phụ Quốc dưới thời Đường Túc Tông (756 - 762). Sang thời Đường Đại Tông (762 - 779) và Đường Đức Tông (779 - 805), các hoàng đế tuy có thể loại bỏ được một số hoạn quan chuyên quyền, nhưng lại nhanh chóng tín nhiệm những hoạn quan khác, dẫn đến tình trạng hoạn quan chuyên quyền không những không bị dập tắt mà còn ngày một lớn mạnh. Sau thời Đức Tông, hoạn quan bắt đầu nắm được quyền kiểm soát triều chính và gây ra những vụ phế lập hay chính biến Tuy được hoạn quan ủng hộ lên ngôi, nhưng Văn Tông vẫn mang lòng thù oán bọn này chuyên quyền và muốn tìm cách tiêu diệt, và bí mật tìm cách liên kết với một số tể tướng để thực hiện việc này. Sự chuẩn bị của vua Đường. Giữa năm 830, Đường Văn Tông tìm cách liên hệ với Hàn lâm học sĩ Tống Thân Tích. Thấy Thân Tích là người có thể dùng được, Văn Tông phong ông ta làm tể tướng. Thân Tích lại tiến cử Lại bộ thị lang Vương Phan để giúp vua trong việc tiêu diệt hoạn quan sau này. Nhưng Vương Phan làm tiết lộ âm mưu này đến tai Vương Thủ Trừng, nên Thủ Trừng đã có sự chuẩn bị. Năm 831, Thủ Trừng ngầm giật dây cho Thần Sách đô ngu hậu Đậu Lư Trứ vu cáo Tống Thần Tích có ý đồ phế bỏ Văn Tông để lập hoàng đệ là Chương vương Lý Thấu. Văn Tông chưa truy xét kĩ càng đã vội tức giận, cho bãi chức Tống Thân Tích làm Tư mã Khai châu, Chương vương Thấu giáng làm Sào huyện công. Kế hoạch diệt trừ hoạn quan bước đầu thất bại. Năm 834, dưới sự tiến cử của hoạn quan, Lý Trọng Ngôn (sau đổi tên là Lý Huấn) được bổ nhiệm lên chức tể tướng, đồng thời đại phu Trịnh Chú, vốn là người từng chữa bệnh cho Văn Tông cũng được trọng dụng. Hai người này khi trước vốn có quan hệ mật thiết với Vương Thủ Trừng. Văn Tông nghĩ rằng Lý Huấn và Trịnh Chú vốn được Vương Thủ Trừng tiến cử nên các hoạn quan sẽ không nghi ngờ hai người này, bèn bí mật liên lạc với họ và bàn kế diệt trừ hoạn quan. Vào mùa hạ năm 835, Lý Huấn và Trịnh Chú đề nghị lên Văn Tông một kế hoạch để yên định đất nước, gồm ba giai đoạn: Lúc đầu là tiêu diệt hoạn quan trong triều, sau đó là thu phục lại những vùng đất cũ bị người Thổ Phiên xâm chiếm, và thứ ba là tiêu diệt các Tiết độ sứ đang nắm quyền ở Hà Bắc. Diễn biến. Tiêu diệt Vương Thủ Trừng và Trần Hoằng Chí. Mùa hạ năm 835, kế hoạch chống lại Vương Thủ Trừng bắt đầu. Lý Huấn và Trịnh Chú nhận thấy Thủ Trừng bất hòa với hoạn quan khác là Cừu Sĩ Lương, người từng tham gia tôn lập mình làm vua, nên tiến cử Cừu Sĩ Lương làm Tả Thần Sách trung úy để làm đối trọng với Thủ Trừng. Tuy nhiên về sau để xoa dịu Thủ Trừng, Văn Tông bèn hạ lệnh biếm chức một số hoạn quan có hiềm khích với ông ta, đuổi họ ra khỏi Trường An làm giám quân ở các nơi; như Vi Nguyên Tố bị đày đến Hoài Nam, Dương Thừa Hòa bị đày đi Tây Xuyên, Vương Tiễn Ngôn bị đày đến Hà Đông, sau đó ép ba người này phải tự sát. Còn Lý Huấn và Trịnh Chú ngày càng được Văn Tông sủng tín và liên tục thăng chức. Lý Huấn làm Binh bộ lang trung, Y tiền thị giảng học sĩ; Trịnh Chú là Công bộ thượng thư, Hàn lâm thị giảng học sĩ. Hoạn quan Thôi Hoằng Chí là người trước kia đã sát hại Hiến Tông nhưng lâu nay không bị xử tội. Đến đây, Hoằng Chí đang làm Sơn Nam Đông đạo giám quân, Lý Huấn lập kế triệu về triều, đến Thanh Nê dịch thì sai đánh trượng đến chết. Sau đó, Trịnh Chú được cử làm Tiết độ sứ Phượng Tường để tập hợp thêm lực lượng, sau này có thể trong ngoài phối hợp, nhưng thực ra Lý Huấn cũng có kế hoạch nhân lúc này tìm cách loại bỏ Trịnh Chú khỏi triều đình. Vương Thủ Trừng sau đó được thăng làm Tả, hữu Thần Sách quan dung quân sứ, kiêm Thập nhị Vệ thống quân, kì thực là bị tước đi quyền lực. Sáu hoạn quan khác là Điền Nguyên Thao, Lưu Hành Thâm, Tiết Sĩ Can, Tự Tiên Nghĩa Dật, Lưu Anh cũng bất hòa Vương Thủ Trừng bị đày khỏi kinh thành, đến các trấn làm giám quân, về sau Văn Tông hạ lệnh ép phải tự tử, nhưng lệnh không được thi hành, bọn Nguyên Thao được vô sự. Những sự việc này bề ngoài tuy có lợi cho Vương Thủ Trừng nhưng thực ra là để làm bớt đi sự đề phòng của ông ta. Sau đó, Lý Huấn và Trịnh Chú bí mật dâng thư xin Văn Tông nên nhân khi Thủ Trừng không phòng bị mà trừ đi. Văn Tông nghe theo, đến mùa đông năm 835 thì sai người mang rượu độc đến ép Vương Thủ Trừng phải uống. Bè đảng thời Nguyên Hòa đến đây bị tiêu diệt gần hết. Kế hoạch mới của Lý Hiếu Bổn. Trịnh Chú ở Phượng Tường đã mộ được hơn 100 tráng sĩ, làm thân binh. Ông ta dự định vào ngày tang lễ của Vương Thủ Trừng (20 tháng 12) sẽ đem số quân này về cung, nhân đó bắt giết tất cả các hoạn quan tham dự lễ tang. Tuy nhiên hoàng thân Lý Hiếu Bổn, vừa được phong làm tể tướng lại có hiềm khích với Trịnh Chú, nghĩ rằng nếu sự việc thành công thì công lao sẽ về Chú cả, nên tìm cách ra tay diệt trừ hoạn quan trước ngày ấy để giành công. Lý Hiếu phong Quách Hành Dư làm Tiết độ sứ Bân Ninh, Tiết độ sứ Hà Đông Lý Tái Nghĩa làm Thị trung; Vương Phan làm Tiết độ sứ Hà Đông. Những người này liên kết cùng Lý Hiếu Bổn chuẩn bị thực hiện chính biến diệt hoạn quan trước ngày 20 tháng 12. Kế hoạch của Lý Hiếu Bổn, chỉ có một vài đại thần trong triều như Hàn Ước, Vương Nhai, Thư Nguyên Dư... và cả Lý Huấn biết được. Kế hoạch bại lộ. Ngày 14 tháng 12, Văn Tông thiết triều ở Tử Thần điện. Hàn Ước, thân tín của Lý Hiếu Bổn đang thống lĩnh đội quân Kim Ngô, không tấu việc quân mà bảo rằng có vào đêm tối hôm trước có cam lộ xuất hiện trên một cây lựu gần trụ sở quân Kim Ngô, mục đích dụ các hoạn quan đến chỗ có mai phục và nhân đó các tể tướng dẫn quần thần đến chúc mừng Văn Tông vì trời ban phước xuống. Lý Huấn và Thư Nguyên Du khuyên Văn Tông nên đích thân đến xem. Hoàng đế bằng lòng, đi đến Hàm Nguyên Điện rồi lệnh tể tướng và lưỡng tỉnh quan đến xem trước. Lý Huấn bảo nếu để các đại thần đến trước thì nếu không phải cam lộ thì họ cũng phải tuyên bố mình bị lừa làm mất mặt triều đình. Văn Tông bèn sai Cừu Sĩ Lương, Ngưu Hoằng Chí dẫn chư hoạn quan cùng đến xem. Sau khi các hoạn quan rời cung, Huấn bảo Quách Hành Dư cùng Vương Phan: Vương Phan nghe thấy sinh ra lo sợ, chỉ có Hành Dư quỳ xuống bái Văn Tông. Hơn 100 quân sĩ của Hành Dư và Phan đã được bố trí mai phục ở bên ngoài Đan Phụng môn. Lý Huấn sai triệu họ đến cổng nhận sắc lệnh, nhưng chỉ có Đông binh của Vương Phan nghe lệnh, còn quân Bân Ninh của Quách Hành Dư không tới. Bọn Cừu Sĩ Lương theo Hàn Ước đến gần chỗ có cam lộ, bỗng thấy Hàn Ước biến sắc và đổ mồ hôi, Sĩ Lương sinh ra nghi ngờ, bèn hỏi Bỗng có gió mạnh thổi tới, Cừu Sĩ Lương vì thế phát hiện rất nhiều binh lính đang mai phục xung quanh cùng tiếng lanh canh của vũ khí, biết có người muốn hại mình nên vội cùng các hoạn quan khác bỏ chạy. Kim Ngô quân chuẩn bị đóng cửa Đan Phụng Môn để nhốt Sĩ Lương ở đó mà tiêu diệt, Sĩ Lương lên tiếng mắng nhiếc khiến họ quên việc đóng cửa, để ông ta thoát ra ngoài. Các hoạn quan chạy đến cung Hàm Nguyên, báo việc với Văn Tông. Giao tranh ở Hàm Nguyên điện. Lý Huấn thấy kế hoạch bị lộ, hoạn quan đã trốn thoát bèn mắng vệ sĩ Kim Ngô rồi bảo Trong khi đó ở điện Hàm Nguyên, hoạn quan nói với Văn Tông Rồi phá vỡ cửa điện Hàm Nguyên, đưa Văn Tông chạy lên hướng bắc, trở về cung. Lý Huấn cho quân đuổi theo và hét lên Rồi cho quân lên điện, tấn công các hoạn quan. La Lập Ngôn suất 300 dũng sĩ từ Kinh Triệu tấn công từ hướng đông, Lý Hiếu dẫn 200 tráng sĩ tấn công từ hướng tây. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt tại điện Hàm Nguyên. Hơn 10 hoạn quan bị giết hoặc bị thương, nhưng bọn hoạn quan vẫn đưa được Văn Tông đến điện Tuyên Chánh. Lý Huấn khuyên vua dừng lại, nhưng Văn Tông không biết suy nghĩ đã quát mắng. Hoạn quan Si Chí Vinh nhân đó dùng vũ lực, đấm vào ngực Lý Huấn, Lý Huấn ngã xuống đất. Hoạn quan đưa Văn Tông đến điện Tuyên Chánh rồi đóng cửa lại. Thấy đại thế đã mất, quân sĩ Kim Ngô đang ở điện Hàm Nguyên tìm cách bỏ trốn; Lý Huấn cũng cướp lấy bộ quần áo màu xanh từ tên thuộc hạ rồi lên ngựa định chạy. Trên đường đi không ai nhận ra ông. Trong khi đó các tể tướng Vương Nhai, Giả Tốc, Thư Nguyên Dư trở về Trung thư và cho rằng Văn Tông sẽ sớm triệu mình để bàn bạc việc xử lý hậu quả, nên vẫn làm việc như bình thường. Thảm sát đại thần. Lúc này Cừu Sĩ Lương đã biết được Văn Tông có dính dáng đến âm mưu chính biến này, nên nói ra những lời vô lễ trước mặt vua mà Văn Tông thì quá sợ không dám nói gì. Sĩ Lương sai Tả, hữu Thần Sách phó sứ Lưu Thái Luân và Ngụy Trọng Khanh suất mỗi người 500 cấm binh, được trang bị đao kiếm để bắt giết những người đồng lõa trong vụ này. Bọn Vương Nhai cùng các tể tướng ăn trưa mà không nghi ngờ gì, đến khi có người đến báo: Các tể tướng cực kì sợ hãi, vội cùng các đại thần trọng Lưỡng tỉnh và quân Kim Ngô, tổng cộng khoảng 1000 người tranh nhau bỏ chạy. Cánh cửa quá hẹp, cuối cùng 600 người không kịp bỏ trốn vẫn bị mắc kẹt bên trong và khi quân Thần Sách kéo đến thì tất cả thành quỷ không đầu. Sĩ Lương lại chia quân ra đến tất cả mọi ngóc ngách trong cung môn và chư ti để bắt giết kì hết những đồng đảng còn lại. Các đại thần và dân chúng bị giết lên tới 1000, tư ấn và đồ tịch, văn thư bị phá hủy với số lượng lớn. Sau lại sai quân truy sát tặc đảng ở các ngả đường trong thành Trường An. Thư Nguyên Dư một mình một ngựa chạy đến cửa An Hóa thì bị bắt; còn Vương Nhai - đã 70 tuổi cũng chạy đến một quán trà ở huyện Vĩnh Xương rồi cũng bị bắt và đưa đến trụ sở quân Thần Sách để các hoạn quan thẩm vấn. Nhai tuổi cao không chịu nổi cực hình, bèn khai rằng mình hợp mưu với Lý Huấn để phế truất Văn Tông mà tôn Trịnh Chú làm hoàng thượng. Còn Vương Phan chạy về phủ đệ ở Trường Hưng phường rồi đóng cửa và bố trí binh lính phòng bị. Các hoạn quan đuổi đến nơi, thấy Vương Phan có chuẩn bị như vậy bèn bảo: Vương Phan cả mừng vội đi ra khỏi phủ. Chỉ đến khi ấy, thấy thái độ của bọn chúng đối xử với mình thì mới biết đã bị lừa. La Lập Ngôn cũng bị bắt ở thôn Thái Bình. Thân tín và người nhà của Vương Nhai tất cả đều bị tống giam vào ngục. Em họ của Lý Huấn là Lý Nguyên Cao cũng bị giết hại. Quân đội Thần Sách tiếp tục truy bắt Lý Huấn, trên đường đi đã cướp bóc và giết chóc ở các hộ trong kinh đô. Ví dụ như cố Lĩnh Nam tiết độ sứ Hồ Chứng vốn là người giàu có, đám hoạn quan thấy vậy lấy cớ truy bắt loạn đảng mà xông vào nhà ông ta rồi vô cớ bắt giết con trai của Chứng là Hồ Ân. Nhiều tên vô lại trong thành cũng nhân đó trả thù những ai có hiềm khích với mình và cướp bóc khắp nơi. Kết cục. Sáng ngày Quý Hợi (15 tháng 12) các viên quan còn sống sót sau sự biến vào triều, nhưng cửa điện bị hoạn quan đóng lại. Mãi đến lúc mặt trời mọc lên cao thì mới cửa cửa Kiến Phúc cho các đại thần vào, nhưng quân Thần Sách lại chỉ cho phép quan lại vào cung một mình, cấm đem theo tùy tùng. Lúc Đường Văn Tông lên điện thì không thấy mặt các tể tướng và rất nhiều đại thần khác nắm giữ những chức vụ quan trọng. Văn Tông ngạc nhiên hỏi Cừu Sĩ Lương. Sĩ Lương đáp Sau đó trình bản cung khai của Vương Nhai lên, đồng thời triệu Tả bộc xạ Lệnh Hồ Sở và Hữu bộc xạ Trịnh Đàm thăng điện cùng xem. Văn Tông bi phẫn tột cùng vì biết có điều gian trá, nên hỏi Lệnh Hồ Sở. Lệnh Hồ Sở trả lời rằng bản cung khai là thật. Bèn giao cho Sở và Đàm xét án và bố cáo sự việc. Lệnh Hồ Sở viết bản cáo trạng về việc "mưu phản" nhưng trong đó có nhiều việc miêu tả một cách phù phiếm, khiến bọn Sĩ Lương không ưa, để rồi cuối cùng Lệnh Hồ Sở không được bổ làm tể tướng. Trong khi đó tình hình trong thành vẫn hết sức rối loạn. Các tướng trong quân Thần Sách là Dương Trấn và Cận Toại Lương dẫn 500 quân đến trấn an, đánh trống cảnh báo vọn vô lại và giết được 10 tên vô lại, tình hình trở lại bình yên. Giả Tốc đang trên đường bỏ trốn cho rằng mình không thể thoát được, do đó đến cửa cung Hưng An xin nộp mình cho quân Thần Sách trị tội, bị đưa đến Tây quân. Lý Hiếu Bổn ngụy trang bằng một bộ quần áo màu xanh để che giấu hành tung và định trốn đến Phượng Tường, nhưng vẫn không bỏ đai lưng màu vàng, do vậy vẫn bị phát hiện và bị bắt ở phía tây Hàm Dương. Ngày Giáp Tí (16 tháng 12), lấy Trịnh Đàm làm Đồng bình chương sự (tể tướng). Trong khi đó Lý Huấn chạy đến Chung Nam và muốn nương nhờ bạn thân là Tông Mật thiền sư, nhưng Tông Mật không tiếp nhận, do vậy Huấn xuống núi và định chạy đến Phượng Tường nhưng rốt cục bị Trưu Trất Trấn át sứ Tống Sở bắt được. Khi bị đưa đến Côn Minh, Huấn lo sợ rằng mình sẽ bị đám hoạn quan làm nhục, nên yêu cầu người hộ tống giết chết mình. Người này nghe theo, chém đầu Lý Huấn rồi gửi về Trường An. Ngày Ất Sửu, có chiếu phong Hộ bộ thị lang Lý Thạch làm tể tướng cùng Trịnh Đàm. Cùng hôm đó, 300 người lính của đội Tả Thần Sách áp giải Vương Nhai, Vương Phan, La Lập Ngôn, Quách Hành Dư; 300 người lính đội Hữu Thần Sách dẫn theo Giả Tốc, Thư Nguyên Dư, Lý Hiếu Bổn diễu hành khắp nơi trong thành rồi cùng bị đưa đến miếu xã, và tất cả đều bị giết dưới sự chứng kiến của tất cả đại thần. Họ bị chém ở ngang lưng rồi bị cắt đầu, treo ở bên ngoài Hưng An môn. Thân quyến không kể thân sơ đều bị giết. Những người còn nhỏ tuổi hoặc tì thiếp, con gái của các đại thần này bị sung làm nô tì. Chỉ có tộc tử của Thư Nguyên Dư là Thư Thủ Khiêm vốn bị ông nay ghét bỏ là được miễn tội tử. Trong mấy ngày này, hoạn quan nắm hết quyền hành và tự tiện ra các sắc lệnh không cần thông qua Văn Tông. Ngày Nhâm Thân tháng 12 ÂL (18 tháng 12), Cố Sư Ung - người đã được cử đem chiếu diệt trừ bọn Điền Toàn Thao, Lưu Hành Thâm, Tiết Sĩ Can, Tự Tiên Nghĩa Dật, Lưu Anh (mặc dù sáu trấn không nhận lệnh) bị bắt đày ra Đam châu rồi bị bức tử ở Thương Sơn. Ở Phượng Tường, Trịnh Chú chưa hay việc chính biến nên vẫn đưa quân đến Phù Phng theo kế hoạch cũ, mãi sau mới nghe tin Lý Huấn bị giết bèn nhanh chóng về trấn. Cừu Sĩ Lương bí mật mua chuộc giám quân Trương Trọng Thanh, cuối cùng Trọng Thanh cùng Lý Thúc Hòa ms sát Trịnh Chú trong một bữa tiệc rồi giết hết thân binh, gia thuộc của Trịnh Chú khoảng 1000 người. Ở Trường An, ngày Đinh Mão (19 tháng 12), các hoạn quan chuẩn bị tấn công Phượng Tường, đến hôm sau, 20 tháng 12 thì Lý Thúc Hòa mới đem thủ cấp của Trịnh Chú đến kinh rồi treo ở cửa Hưng An, quân đội triều đình lại trở về doanh như cũ. Hậu quả. Sau sự biến này, Cừu Sĩ Lương, Ngưu Hoằng Chí nắm quyền kiểm soát hoàng đế và triều đình. Sáu hoạn quan bị buộc phải tự sát được trở về kinh, và Điền Toàn Thao còn muốn tiếp tục một cuộc thảm sát để giết hết các đại thần. Cả thành Trường An do vậy rơi vào náo loạn. Chỉ khi Lý Thạch cùng Trần Quân Thưởng vẫn giữ bình tĩnh và bố trí quân phòng bị các ngả, thì tình hình mới được yên. Mùa xuân năm 836, Tiết độ sứ Chiêu Nghĩa là Lưu Tòng Gián dâng sớ với lời lẽ gay gắt, tố cáo Cừu Sĩ Lương và các hoạn quan khác. Sĩ Lương cũng sinh ra lo sợ, nên đồng ý cho Văn Tông cùng các tể tướng có thể quyết định một số việc lớn trong triều. Nhưng khi Văn Tông hạ lệnh an táng cho Vương Nhai và một số đại thần tham gia chính biến thì ngay lập tức, Cừu Sĩ Lương sai quật mộ họ, ném thi thể xuống sông. Từ đó đến tận những năm cuối triều Đường, hoạn quan mỗi lúc một lộng hành và khuynh đảo triều đình, gây ra các vụ phế lập tiếp theo.
1
null