text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Trai vằn (Danh pháp khoa học: "Dreissena polymorpha") hay còn biết đến với tên tiếng Anh: zebra mussel là một loại trai sông có nguồn gốc từ Nga. Trai vằn được du nhập vào Mỹ và nuôi ở Ngũ hồ, hiện chúng là một loài xâm lấn nghiêm trọng.
Lịch sử.
Loài trai vằn có nguồn gốc từ Biển Caspy và Biển Đen, xâm nhập và thích nghi phát triển ở Anh, Tây Âu, Canada và Mỹ, gây đe dọa tới lưới thức ăn tự nhiên, các loài thân mềm.
Du nhập.
Loài trai vằn được mang đến Biển Đen và biển Caspian của châu Âu bằng những con tàu chở hàng xuyên đại dương. Những thủy thủ đã đựng chúng bằng các thùng kim loại để làm thực phẩm trong quá trình đi biển, nhưng khi đi đến các cửa sông Ngũ Hồ, có một số con thuyền bị đắm đã khiến chúng thoát ra ngoài và sinh sôi nảy nở rất nhanh. Một số con khác thì đến được Ngũ Hồ bằng cách bám vào gầm của những con tàu chở hàng, chúng bám vào một tàu Michigan do một người Oregan mua và đã được các kiểm soát viên chận lại trước khi thả vào nước tiểu bang.
Sinh sôi.
Chúng đã thành công trong việc thích nghi với môi trường mới bởi vì đây là nơi duy nhất chúng có thể mở rộng địa bàn sinh sống và giảm nguy cơ bị ăn thịt bởi các loài động vật khác cũng như con người vì Ngũ Hồ có rất ít động vật sinh sống, mỗi cá thể có thể đẻ đến hàng triệu trứng một năm. Chúng vắt cạn chất dinh dưỡng và các vi sinh vật trong nước, gây thiệt hại nghiêm trọng với rất nhiều loài, trong đó bao gồm các loài không xương sống nhỏ, cá và chim.
Lần đầu tiên loài trai vằn được phát hiện ở nhánh sông St. Clair vào mùa xuân năm 1988, nhưng chẳng bao lâu sau thì chúng đã có mặt khắp Ngũ Hồ, sông Mississippi và nhiều Hồ ở Trung và Tây nước Mỹ cũng như ở Canada. Các loại trai xâm lấn lần đầu tiên được tìm thấy ở phương Tây vào năm 2007. Loại trai vằn đã lây lan khắp hệ thống thấp hơn sông Colorado và các hệ thống phân phối nước lớn. Bây giờ thì chúng tràn vào thủy vực phía Tây ở Nevada, California, Arizona, Colorado, Texas và Utah
Đe dọa.
Loài trai vằn làm cho nhiều con tàu và thuyền đắm đang bị tàn phá thảm hại, ngoài ra loài trai vằn này còn ăn hết các tạp chất trong nước, chính vì vậy mà chỉ trong vòng chưa đầy một thập kỷ qua, nước ở Ngũ Hồ đã trong lên đột ngột, một số nơi có thể nhìn thấy đáy ở độ sâu 100 feet (hơn 30m). Chúng có khả năng bám chặt. Chỉ cần 1 vật cứng như chân vịt, vỏ tàu, động cơ, ống dẫn nước, thậm chí cả sinh vật khác như tôm, rùa… ở trong nước trong vòng 20 giây, chúng sẽ lập tức bám dính lấy, gây thiệt hại.
Sự phát triển của trai vằn nhanh sẽ làm cho một số loài sinh vật khác bị tổn hại, trong đó có loài cá hồi, tôm và một số loài thủy sinh khác do không kiếm được thức ăn. Chỉ một con thuyền đắm ở hồ Michigan có tới hàng triệu con trai vằn đeo bám vào. Chúng bám kín vào các tàu thuyền, tạo thành một lớp dày 3 inch (khoảng 8 cm). Do đó, mà chúng rất nguy hiểm cho những thợ lặn và các dụng cụ nghiên cứu vì vỏ của chúng rất sắc và bám chắc vào thân tàu. | 1 | null |
Cà ra, tại Trung Quốc gọi là 大閘蟹 (bính âm: dà zhá xiè, đại áp giải, cua cửa cống lớn), danh pháp khoa học: Eriocheir sinensis) là một loài cua nước ngọt thuộc hệ cua đồng có nguồn gốc từ Trung Quốc từ tỉnh Phúc Kiến và được du nhập vào châu Âu, Bắc Mỹ, nơi chúng được xem là một loài xâm lấn. Loài cua này cũng du nhập vào Việt Nam. Trong Công văn số 961/BKHCN-XHTN năm 2011 gửi Bộ Tài nguyên-Môi trường, Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam đã đề nghị coi nó là loài có nguy cơ xâm hại, nhưng trong các thông tư gần nhất thì Bộ Tài nguyên-Môi trường không xếp nó vào phạm trù loài xâm hại hay loài có nguy cơ xâm hại.
Mô tả.
Cà ra được mô tả có hình dáng kỳ lạ, chúng có càng màu xanh, đỏ, mai có màu xanh nhạt, hoặc xám xanh, hai càng bằng nhau rất đều và chạy rất nhanh, đặc biệt chúng rất to và phần bụng cua có màu vàng cáu, hai gọng màu xanh, mai cua có màu xám. Về ngoại hình, cua đồng Trung Quốc không khác nhiều so với cua đồng nhưng đặc điểm sinh học của chúng khác hoàn toàn với cua đồng. Cua đồng sống trong các hang, lỗ tại các bờ ruộng, bờ kênh, rạch, thường bò ra khỏi hang kiếm ăn, xong lại trốn vào hang, trong khi đó cua Trung Quốc không có thói quen trốn trong hang mà chúng bò đầy khu vực sinh sống.
Trên thế giới.
Ở Trung Quốc, khu vực đông trung bộ Trung Quốc là nơi nuôi trồng giống cua lông màu vàng, cua được nuôi ở hồ Dương Trừng, gần Thượng Hải. Cua Dương Trừng chủ yếu được dùng để đi biếu. Hàng năm, mùa thu đến cũng là lúc vụ thu hoạch cua ở Trung Quốc bắt đầu. Tuy nhiên gần đây hàng trăm hộ nông nuôi cua và các lái buôn bị ảnh hưởng nặng nề. Giá cua tại nhiều thành phố lớn ở Trung Quốc giảm tới hơn 20%, có khi chỉ còn khoảng 850.000/kg. Cua Trung Quốc được du nhập vào châu Âu, ở Anh, chúng có mặt tại sông Thame, ở Mỹ chúng có mặt tại nhiều vùng trong đó có Ngũ Hồ.
Ở Việt Nam, những con cua này có mai màu xanh đen và 2 càng bằng nhau khiến người dân nghi ngại. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng giống cua mai to, yếm to thực chất là cua đồng nuôi theo mô hình trang trại từ miền Nam chuyển ra. | 1 | null |
Cua xanh châu Âu (Danh pháp khoa học: Carcinus maenas) hay còn gọi là cua xanh Carcinus maenas hay cua Carcinus maenas là một loài cua nằm trong nhóm cua xanh có nguồn gốc từ Châu Âu và Bắc Phi. Cua xanh đã được du nhập vào Mỹ, Úc và Nam Phi và chúng là một loài xâm lấn.
Xâm lấn.
Cua xanh là một loài ăn thịt phàm ăn có thành phần thức ăn bao gồm các loài thân mềm hai mảnh vỏ đặc biệt là trai, sò. Tại những nơi du nhập của xanh gây ra hiện tượng suy giảm số lượng của các loài cua khác và các loài thân mềm hai mảnh vỏ.
Sau khi được du nhập vào Mỹ, chúng sinh sôi, nảy nở nhanh và hoành hành dọc sông Harraseeket, ở vịnh Casco và có thể sẽ sớm đặt dân số loài hến (sò) trắng (soft-shell clam) trước bờ vực tuyệt chủng và làm hệ sinh thái thay đổi đáng kể. Cua xanh lần đầu tiên được ghi nhận ở đảo Long, New York, vào giữa những năm 1860 và đã không được nhìn thấy trong vịnh Casco cho đến đầu những năm 1900. Những ngư dân đánh bắt tôm hùm càng cũng bị ảnh hưởng bởi loài cua này. Họ đã bắt đầu thấy những con cua này lọt vào bẫy của mình ở những nơi mà chúng đã vắng mặt trong những năm gần đây.
Sự bùng nổ của dân số cua xanh là một hiện tượng liên quan đến thời tiết. Khi nhiệt độ nước liên tục tăng và mùa đông trở nên ấm hơn, cua sẽ là loài ăn trứng sò hoặc sò non trong giai đoạn ấu trùng. Có đến 2/3 dân số loài sò trên đã bị những con cua này ăn thịt trong hai thập kỷ qua và nguy cơ các quần thể động vật có vỏ sẽ cạn kiệt trong 3-5 năm tới. Độ PH thấp làm cho những con sò khó khăn trong việc xây dựng vỏ, và khi độ pH thực sự thấp trứng sò sẽ bị phân hủy. Nếu cua xanh không ăn chúng thì sự axits hóa ven biển sẽ giết nó.
Các quần thể cua xanh trước đó đã được đưa vào kiểm soát bằng mồi lạnh, cho phép sò và các động vật có vỏ khác phục hồi. Hiện vẫn chưa có cách để loại bỏ loài cua trên một cách hiệu quả, Hội đồng Thị trấn Freeport đã đồng ý phân bổ 100.000 USD để thực hiện kế hoạch trên. Số tiền đã được sử dụng để mua bẫy, thiết bị định vị GPS và thu thập dữ liệu. | 1 | null |
Apollo 8 là chuyến bay vào không gian có người của chương trình Apollo của Hoa Kỳ. Tàu được phóng vào 21 tháng 12 năm 1968, và trở thành tàu vũ trụ có người lái đầu tiên rời khỏi quỹ đạo Trái Đất, đến Mặt Trăng, quay xung quanh Mặt Trăng và quay trở lại một cách an toàn về Trái Đất. Phi hành đoàn gồm ba phi hành gia - Chỉ huy chung Frank Borman, chỉ huy Mô-đun phi công James Lovell, và Lunar Module phi công William Anders - đã trở thành những người đầu tiên đi bên ngoài quỹ đạo Trái Đất thấp, là người đầu tiên nhìn thấy Trái Đất một cách trọn vẹn và là những người đầu tiên nhìn thấy mặt bên kia của Mặt Trăng sau đó là người đầu tiên chứng kiến Trái Đất mọc. Chuyến bay năm 1968, chuyến bay thứ ba của tên lửa đẩy Saturn V và khởi động có người lái đầu tiên của tên lửa đó, cũng là sự ra mắt chuyến bay vũ trụ của con người đầu tiên từ Trung tâm vũ trụ Kennedy, Florida. | 1 | null |
The Best là album tuyển tập đầu tiên của nhóm nhạc nữ K-pop Girls' Generation. Nó được phát hành vào ngày 23 tháng 7 năm 2014 tại Nhật Bản và bao gồm những đĩa đơn của nhóm từ năm 2010 đến năm 2014, tức những bài hát trong những album phòng thu tiếng Nhật trước đây của nhóm, "Girls' Generation", "Girls & Peace" và "Love & Peace". Album được ra mắt dưới ba định dạng: 2CD+Blu-ray, CD+DVD và CD.
Phát hành.
Vào ngày 5 tháng 6 năm 2014, Girls' Generation tiết lộ rằng nhóm sẽ phát hành album tuyển tập tiếng Nhật mang tên 'The Best' vào ngày 23 tháng 7. Album bao gồm những bài hit tiếng Nhật của nhóm trước đây cùng với 2 bài hát tặng thêm là phiên bản tiếng Nhật của "Mr. Mr." và một bài hát mới mang tên "Indestructible". Chỉ có phiên bản giới hạn đầy đủ mới có ca khúc "Hoot" và "The Boys". Album cũng bao gồm những video âm nhạc, những đoạn phỏng vấn và những đoạn phim trong quá trình thực hiện album.
Album được phát hành dưới 3 phiên bản: giới hạn đầy đủ, giới hạn và thông thường. Tất cả phiên bản đều có một CD.
Diễn biến trên bảng xếp hạng.
Ngay khi phát hành, album tuyển tập này của Girls' Generation đã đứng đầu bảng xếp hạng Oricon. Theo bảng xếp hạng này, vào ngày 23 tháng 7 năm 2014, "The Best" đã đứng đầu doanh số album bán ra với 37,104 bản được tiêu thụ. Sau 1 tuần phát hành, album bán được hơn 75,000 bản, đứng đầu bảng xếp hạng album hằng tuần của Oricon. Nhờ đó, Girls' Generation lập nên một kỉ lục mới khi trở thành nhóm nhạc nữ nước ngoài (trừ Nhật Bản) đầu tiên tại châu Á có 3 album (cùng với Girls' Generation và Love & Peace) đứng hạng 1 tại bảng xếp hạng này. Album đứng hạng nhất 12 ngày liên tiếp trên bảng xếp hạng hằng ngày của Oricon, bán hơn 100,000 bản và được chứng nhận vàng khi chưa đầy 2 tuần ra mắt. | 1 | null |
Lý Vĩnh (chữ Hán: 李永, bính âm: Li Yong, ? - 6 tháng 11 năm 838) tức Trang Khác thái tử (莊恪太子) là con trai trưởng của Đường Văn Tông, hoàng đế thứ 15 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông giữ ngôi vị hoàng thái tử từ năm 832 đến khi qua đời.
Làm Lỗ vương và thái tử.
Sử sách không ghi chép rõ ràng về năm sinh của Lý Vĩnh, chỉ cho biết ông là trưởng tử của Đường Văn Tông, mẫu thân của ông là Vương thị, được tấn phong làm Đức phi, đứng hàng thứ ba trong hậu cung. Vua cha Đường Văn Tông lên ngôi vào năm 827, và đến năm 830, Lý Vĩnh được tấn phong làm Lỗ vương. Văn Tông cử đại thần Hòa Nguyên Lượng làm sư phó cho Lỗ vương. Năm 832, Văn Tông thảo luận với Nguyên Lượng về việc học hành của Lỗ vương, nhưng Nguyên Lượng không thể trả lời được các câu hỏi của Văn Tông. Do đó, Văn Tông nói với các tể tướng rằng
Sau đó không lâu, đại thần Dữu Kính Hưu được giao nhiệm vụ giảng kinh sách cho Lỗ vương, cùng với Trịnh Túc phụ giảng, Lý Tiễn Phương dạy về việc quân sự.
Văn Tông ban đầu muốn lập con trưởng của Đường Kính Tông là Tấn vương Lý Phổ làm hoàng thái tử, nhưng Lý Phổ lại mất sớm (828) nên Văn Tông tỏ ra rất đau buồn và chần chừ rất lâu chưa lập thái tử mới. Đến cuối năm 832 Văn Tông mới lập Lỗ vương Vĩnh làm hoàng thái tử.
Vào năm 837, đại thần Vi Ôn cũng được bổ nhiệm làm sư phó cho thái tử Vĩnh, phụ trách giải kinh nghĩa vào buổi sáng các ngày, nhưng Lý Vĩnh thường đến không học đúng giờ. Vi Ôn cũng thường nhắc nhở ông phải thức dậy đúng lúc gà gáy, nên tỏ ra tôn trọng khi gặp phụ hoàng và cũng cần thường cùng ăn với Văn Tông, không được dành quá nhiều thời gian cho việc chơi bời. Lý Vĩnh không nghe. Vi Ôn thất vọng và xin thôi không dạy cho thái tử nữa.
Cái chết.
Mẹ Lý Vĩnh là Vương Đức phi không được Văn Tông sủng ái rồi bị Dương Hiền phi gièm pha và chết. Sử sách không ghi nhận rõ ràng về cái chết của Đức phi. Từ sau khi Đức phi chết, Thái tử mất đi một chỗ dựa nhưng ông vẫn tỏ ra ham chơi và thân cận tiểu nhân, do đó càng khiến Văn Tông không hài lòng. Dương Hiền phi thấy vậy bèn tìm cơ hội để hãm hại ông.
Ngày 29 tháng 9 năm 838, Văn Tông đột nhiên cho họp triều thần lại và cũng sai đưa Lý Vĩnh đến dự. Trong hôm đó, Văn Tông kể ra những việc làm sai trái của ông rồi bảo
Số đông các đại thần ra sức khuyên can rằng Lý Vĩnh còn nhỏ chưa hiểu chuyện, vả lại thay đổi trừ quân có thể khiến cho triều đình rơi vào một cuộc tranh đấu, trong đó các đại thần Địch Kiêm Mô và Vi Ôn là những người phản đối cực lực nhất. Nhưng chỉ một ngày sau, 6 học sĩ và 16 hoạn quan trong triều lại dâng sớ kể ra những lỗi lầm của Thái tử, khiến Văn Tông lại dao động. Ngay đêm đó, Văn Tông quyết định cho phép Lý Vĩnh trở về chỗ ở của mình là Thượng Dương viện, nhưng đồng thời cũng sai giết chết hoặc lưu đày một số hoạn quan phục vụ Lý Vĩnh cũng như những người gần gũi với ông.
Ngày 6 tháng 11 năm đó, Lý Vĩnh đột nhiên qua đời. Cái chết của ông khiến nhiều nhà sử học, trong đó có sử gia Bá Dương nghi ngờ là do bị hoạn quan Thọ Quang hạ độc, và người chủ mưu chính là Đường Văn Tông - phụ hoàng của ông. Ông được chôn cất theo nghi lễ Thái tử, thụy hiệu là Trang Khác (có nghĩa là không thành sự và được tôn trọng).
Năm 839, Văn Tông lập con nhỏ của Kính Tông là Lý Thành Mĩ làm Thái tử và sau đó cũng mắc bệnh. Trong một dịp Văn Tông chứng kiến vở kịch là một tiểu đồng diễn những trò nguy hiểm và phụ thân của nó tỏ ra rất lo lắng. Thấy thế, Văn Tông khóc và bảo rằng
Sau đó Văn Tông cho triệu 14 người phục vụ trong cung và quở trách
Rồi sai bắt và giết họ đi. Tuy nhiên Văn Tông vẫn tiếp tục đau buồn rồi sớm qua đời vào đầu năm 840. | 1 | null |
Lý Phổ (chữ Hán: 李普, bính âm: Li Pu, 824 - 16 tháng 7 năm 828) tức Điệu Hoài thái tử (悼怀太子), là hoàng tử dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
Lý Phổ là con trai trưởng của Đường Kính Tông Lý Đam, vua thứ 14 của nhà Đường, mẫu thân là Quách thị, giữ chức tài nhân trong cung. Ông chào đời vào năm 824 dưới thời vua cha Kính Tông. Sau khi sinh được Lý Phổ, Quách thị được tấn phong Nhất phẩm hậu cung Quý phi. Sau đó Lý Phổ được phong tước vị Tấn vương vào cùng năm.
Năm 827, Đường Kính Tông bị ám sát và chết, thúc phụ của Lý Phổ là Đường Văn Tông Lý Ngang lên ngôi vua. Văn Tông thấy Lý Phổ tỏ ra ngoan ngoãn và biết vâng lời thì tỏ ra rất ưa thích, nên muốn lập làm hoàng thái tử. Tuy nhiên Lý Phổ lại yểu mệnh, sớm qua đời vào năm 828. Văn Tông xót thương vô hạn, truy tặng cho cháu trai là Điệu Hoài thái tử và chôn cất với nghi lễ Đông cung Hoàng thái tử. Từ sau cái chết của Lý Phổ, Văn Tông vẫn chần chừ đến cuối năm 832 mới hạ lệnh lập con trai của mình là Lỗ vương Lý Vĩnh làm hoàng thái tử. | 1 | null |
Lý Tục Tân (chữ Hán: 李续宾, 1818 – 1858), tự Địch Am, người Tương Hương, Hồ Nam, tướng lãnh Tương quân nhà Thanh. Ông nổi danh là một viên kiêu tướng, đã dành trọn sự nghiệp nhằm trấn áp khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc.
Khởi đầu binh nghiệp.
Tục Tân vốn là cống sanh, sức lực hơn người, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Ông theo học thầy La Trạch Nam, rất ham học sách. Đầu thời Hàm Phong, Trạch Nam mộ hương dũng, gia nhập quân Tương, chống lại nghĩa quân Thái Bình Thiên Quốc, Tục Tân nghe lời cha, đi theo giúp thầy, tham gia bình định nghĩa quân ở đông bộ Quảng Tây. Năm thứ 3 (1853), cánh quân Tương của Trạch Nam cứu viện Giang Tây, ông được nắm Hữu doanh. Trạch Nam đánh trận nào cũng có Tục Tân giúp rập. Hai thầy trò quay về Hồ Nam, đồn trú Hành Châu (nay là Hành Dương), giành lại Vĩnh Hưng.
Nổi danh Đại Kiều.
Mùa hạ năm thứ 4 (1854), Tục Tân theo Trạch Nam về Nhạc Châu (nay là Nhạc Dương), đưa gần ngàn quân Tương đại chiến ở Đại Kiều. Tục Tân soái vài kỵ binh nấp bên sườn núi, quân Thái Bình đến vẫn không động, đợi quân đội tập hợp xong, tự mình xông ra tấn công, chém đầu mục, đoạt cờ hiệu của nghĩa quân, đuổi theo lên phía bắc hơn 10 dặm. Hôm sau, chủ tướng quan quân là Tháp Tề Bố đến chiến trường, khâm phục tài vũ dũng của ông, nhờ vậy mà nổi danh. Sau nhiều tuần giao chiến, Tục Tân suy đoán nghĩa quân đã cạn lương, đề nghị công phá đồn lũy của đối phương, Tháp Tề Bố nghe theo. Gặp lúc mưa gió, quan quân hăng hái tiến đánh, liên tiếp phá hủy đồn lũy của quân Thái Bình, buộc nghĩa quân bỏ chạy khỏi Nhạc Châu. Luận công, được thăng hàm Tri huyện. Tục Tân theo Trạch Nam hạ Sùng Dương, Hàm Ninh; quay về Vũ Xương, đại chiến ở Hoa Viên, gấp phá doanh trại nghĩa quân ở Niêm Ngư Sáo; đều lập công cao nhất. Giành lại Vũ Hán, được thăng làm Trực Lệ Châu tri châu, ban Hoa linh. Quan quân tiến đánh Điền Gia Trấn, nghĩa quân thủy lực có mấy vạn, trong khi Tháp Tề Bố đang bị ngăn lại ở Phú Trì Khẩu, thì quân Tương và quân Đoàn luyện chỉ có gần 2600 người, đều nản chí, Tục Tân tự tay đâm chết 3 kẻ đào ngũ, lòng quân mới vững trở lại. Đôi bên đại chiến ở Bán Bích Sơn, quan quân giết vài ngàn kẻ địch, đốt sào huyệt của nghĩa quân, rồi bình định Điền Gia Trấn. Tục Tân được thăng hàm Tri phủ, ban hiệu Chí Dũng Ba đồ lỗ; rồi được thụ chức An Khánh tri phủ.
Trải chiếu Tiểu Trì.
Tục Tân tiếp tục theo La Trạch Nam, Tháp Tề Bố giành lại Quảng Tế (nay là huyện cấp thị Vũ Huyệt), Hoàng Mai, phá nghĩa quân ở Địch Cảng, Khổng Lũng, trận nào cũng làm tiền phong. Quan quân quay về Cửu Giang, thành Cửu Giang kiên cố, nghĩa quân đông đảo, quan quân không đánh nổi. Chư tướng bàn nhau chia quân đi tiễu Hồ Khẩu, Mai Gia Châu; Tục Tân theo Trạch Nam đóng đồn ở Khôi Sơn. Tháng 12 ÂL, thủy quân triều đình bị nghĩa quân chặn đứng ở hồ Bành Lễ, Tục Tân bực tức, xin với Tằng Quốc Phiên, tự soái 2000 quân vượt Trường Giang đánh Tiểu Trì Khẩu; Tháp Tề Bố soái 20 người cùng đi. Tháp Tề Bố và Tục Tân cậy mình vũ dũng, áp sát trận địa của nghĩa quân, trải chiếu mà ngồi, tên đạn như mưa vẫn không coi ra gì, rồi bất ngờ xông lên tấn công, ngang dọc đánh giết, xem vậy là thường. Lúc này quan quân quá ít, đánh cả ngày không có kết quả, đến chiều đành thu đội, thì Tháp Tề Bố mất tích; Tục Tân muốn vượt sông để tìm, nhưng Tháp Tề Bố đã tự trở về được.
Giành lại Vũ Xương.
Mùa xuân năm thứ 5 (1855), nghĩa quân Thái Bình từ Giang Ninh ngược dòng, tái chiếm Vũ Xương. Tăng Quốc Phiên dừng lại ở Giang Tây, Tục Tân theo Trạch Nam đến hội quân. Hai thầy trò được phân phó đi đông bộ Giang Tây đánh tiễu, liên tiếp giành lại Dặc Dương, Quảng Tín, Đức Hưng, Nghĩa Ninh, Tục Tân được ký danh làm Đạo viên . Mùa hạ năm ấy, quan quân về cứu viện Hồ Bắc, hạ Thông Thành, Sùng Dương, hai thầy trò được chia một cánh quân đi Dương Lâu Động. Kế hoạch của hai thầy trò là nghĩa quân từ xa kéo đến ắt muốn đánh nhanh, vậy hãy kiên thủ mà đợi. Hôm sau nghĩa quân kéo đến, đôi bên giằng co đến chiếu, hai thầy trò thấy quân Thái Bình có ý mỏi mệt, bèn tiến hành đột kích, đánh tan nghĩa quân. Họ giành lại Bồ Kỳ (nay thuộc Xích Bích), Hàm Ninh, Tục Tân được gia hàm Diêm vận sứ. Tháng 11 ÂL, quan quân tiến đánh Vũ Xương, phá lũy quân Thái Bình ở Đường Giác, đánh bại nghĩa quân ở Diêu Loan, đạp bằng tất cả đồn lũy bên ngoài thành. Tháng 2 ÂL năm thứ 6 (1856), Trạch Nam trúng đạn, tử thương ở trong quân, lòng người bối rối, nghĩa quân lại tăng cường dựng lũy kháng cự. Tục Tân được tuần phủ Hồ Lâm Dực tâu xin cho thay lãnh quân đội, sĩ khí được chấn hưng; ông lập tức làm cỏ các lũy mới dựng, liên tiếp đánh phá các cánh nghĩa quân từ trong thành chạy ra ở Tái Hồ Đê, Tiểu Quy Sơn, Song Phượng Sơn. Tháng 7 ÂL, 7, 8 vạn nghĩa quân từ các lộ Giang Tây, Giang Nam do Thạch Đạt Khai chỉ huy đến cứu thành, trong ngoài phối hợp tấn công quan quân. Tục Tân ở Lỗ Gia Cảng chống quân Thái Bình, trong một tuần (10 ngày) giao chiến hơn 20 trận lớn nhỏ, thả đi hơn vạn người bị ép gia nhập nghĩa quân, phá hơn 20 lũy, được gia hàm Bố chánh sứ. Nghĩa quân đóng chặt cửa thành không ra, quan quân bèn khơi hào dẫn nước Trường Giang rót vào, trường kỳ vây khốn. Tháng 11 ÂL, hạ Vũ Xương, được ký danh làm Án sát sứ.
Phá sập Cửu Giang.
Tục Tân vượt Trường Giang hạ Hoàng Châu, liên tiếp giành lại Đại Dã, Hưng Quốc, nhằm vào Cửu Giang. Tướng giữ Cửu Giang là Lâm Khải Vinh kiên thủ. Tục Tân lại dùng cách đánh Vũ Xương, đào con hào hơn 30 dặm, đến tháng 3 ÂL năm thứ 7 (1857) thì hoàn thành. Nghĩa quân Hồ Khẩu, An Khánh đến cứu, Tục Tân đều đẩy lui. Tháng 6 ÂL, nghĩa quân xâm phạm Kỳ Châu, Hoàng Mai, Tục Tân vượt Trường Giang đón đánh ở Đồng Tư Bài thuộc Quảng Tế, đại phá quân Thái Bình. Tục Tân hiệp với thủy quân đánh Tiểu Trì Khẩu, phá hủy thành này. Quan quân nhận xét nghĩa quân lấy Hồ Khẩu hợp với Cửu Giang thành thế ỷ giốc, nên vào tháng 9, Tục Tân lệnh cho em trai Lý Tục Nghi đánh Mai Gia Châu, tự mình soái quân đánh tiếng là đi Túc Tùng, ngầm phục ở hậu sơn của Hồ Khẩu. Thủy quân triều đình cũng đến, chia ra tấn công, nghĩa quân dốc hết tinh nhuệ ra chống lại. Tục Tân soái sĩ tốt vất vả trèo lên đỉnh núi, từ trên đánh xuống, diệt trọn nghĩa quân. Quan quân hạ được thành huyện Hồ Khẩu, nghĩa quân ở Mai Gia Châu cũng bỏ chạy, Tục Tân thừa thắng đánh hạ Bành Trạch cùng Tiểu Cô Phục. Sau khi báo tiệp, được thụ chức Chiết Giang bố chính sứ. Vì thế thành Cửu Giang bị cô lập, đến tháng 4 năm thứ 8 (1858), quan quân dùng địa lôi làm sập hơn trăm trượng tường thành, bắc thang trèo lên, giết hơn vạn nghĩa quân, bắt sống Lâm Khải Vinh cùng bọn Lý Hưng Long để làm tội. Bình xong Cửu Giang, được gia hàm Tuần phủ, ban Hoàng mã quái, có quyền dâng riêng tấu triệp lên triều đình.
Tử trận Tam Hà.
Tục Tân hạ xong Cửu Giang, xin mượn tiếng thăm hỏi thân nhân, để đi Hồ Bắc; tướng Thái Bình là Trần Ngọc Thành hạ Ma Thành, Hoàng An, ông dời quân đến mà đánh đuổi hắn ta. Khi ấy uy danh Tục Tân trùm khắp quân Tương, quan viên gốc Chiết Giang ở kinh sư họp nhau dâng sớ, xin lấy ông làm tướng cứu viện Chiết Giang. Hồ Lâm Dực kiến nghị đưa đại quân quay về An Huy, nên có chiếu cho Tướng quân Đô Hưng A, Tổng binh Bảo Siêu từ Túc Tùng đi An Khánh, Tục Tân từ Anh Sơn đi Thái Hồ. Tục Tân bèn để em trai Tục Nghi đồn trú Vũ Xương, tự soái 8000 người lên đường. Gặp lúc Tằng Quốc Phiên cần binh sĩ, Tục Tân chia cho ông ta 1000 quân. Tục Tân đến Thái Hồ thì hội họp với quân của thự tuần phủ Lý Mạnh Quần ở Lư Châu (nay là Hợp Phì), đổi hướng tiến quân. Tháng 8 đến tháng 9, Tục Tân hạ Phong Hương Phố, Tiểu Trì Dịch, Mai Tâm Dịch, giành lại Thái Hồ, Tiềm Sơn, Đồng Thành, Thư Thành. Nghĩa quân rút chạy, Tục Tân không muốn đi quanh quẩn, bèn lui về Lư Châu.
Nghĩa quân đắp thành ở Tam Hà Trấn, bên ngoài bày 9 lũy, dựa vào những nơi hiểm yếu của Hoàng Hà, quân quân không vượt qua nổi. Tục Tân sau khi hạ Đồng Thành, Thư Thành, để một phần binh sĩ ở lại trấn thủ, đem theo gần 5000 người, vào tháng 10 ÂL, chia 3 lộ tiến đánh, quét sạch 9 lũy, giết hơn 7000 nghĩa quân, chịu thương vong chừng ngàn người. Hậu quân vẫn chưa đến, mà Trần Ngọc Thành, Lý Thế Hiền đốc quân hợp với quân Niệp đến cứu Tam Hà, doanh trại kéo dài hơn 10 dặm. Chư tướng đề nghị lui về Đồng Thành, Tục Tân không nghe. Nửa đêm, Tục Tân hạ lệnh cho các doanh chuẩn bị, trời sáng tiến đánh, đến Phàn Gia Độ, sương mù dỳ đặc, nghĩa quân chia ra đánh úp, quan quân kinh sợ tan rã, Phó tướng Lưu Hỗ Sơn, Tham tướng Bành Hữu Thắng, Du kích Hồ Đình Hòe, Trâu Ngọc Đường, Đỗ Đình Quang đều tử trận. Tục Tân xông pha khổ chiến, nhưng doanh lũy đều bị phá sau nhiều đợt tấn công của nghĩa quân. Có người khuyên Tục Tân đột vây bỏ chạy, ông từ chối. Trời về chiều, Tục Tân lên ngựa, mở lũy xông ra, giết chết vài trăm nghĩa quân. Tổng binh Lý Tục Đảo, Phó tướng Bành Tường Thụy vượt tường xông ra, nghĩa quân xông vào chiếm được lũy, tháo đê Hoàng Hà, chặn đường lui của quan quân. Tục Tân chỉnh trang mũ áo, hướng về kinh sư mà khấu đầu, đem đốt hết các văn kiện trong quân để tránh bị nghĩa quân lấy được. Xong, giục ngựa xông vào trận địa của quân Thái Bình, rồi bị giết. Đồng tri Tằng Quốc Hoa, Tri phủ Hà Trung Tuấn, Tri châu Vương Quỹ Nhất, Đồng tri Đổng Dung Phương, Tri huyền Dương Đức Tấn, Tòng cửu phẩm Lý Tục Nghệ, Trương Phổ Vạn đều tuẫn nạn. Đạo viên Tôn Thủ Tín, Vận đồng Đinh Duệ Nghĩa vẫn còn giữ hữu doanh, được 3 ngày thì thất thủ, cùng tử trận. Khi ấy các quan viên văn võ cùng chết đếm được vài trăm người, binh sĩ vài ngàn người.
Hậu sự.
Nghe được những việc này, Hàm Phong đế rơi nước mắt, tự tay viết sắc truy tặng Tổng đốc, đưa vào thờ trong Chiêu trung từ, dựng Chuyên từ ở những nơi lập công, thụy là Trung Vũ; ban cho cha Tục Tân nghi lễ dành cho Nhất phẩm đại thần, ban cho các con của ông là Quang Cửu, Quang Lệnh học vị Cử nhân, còn được thế chức Kỵ đô úy.
Tăng Quốc Phiên dâng sớ thuật lại chiến tích của Tục Tân, vì thế đế ban chiếu cho Quốc Phiên chuyển sớ này sang Sử quán, để họ nắm rõ mọi sự. Đến khi dẹp xong nghĩa quân Thái Bình, triều đình nhớ công lao của Tục Tân, gia thế chức Khinh xa đô úy, gồm cả Nam tước, cho Quang Cửu thế tập. | 1 | null |
Lý Thành Mĩ (chữ Hán: 李成美, bính âm: Li Chengmei, ? - 12 tháng 2 năm 840) là hoàng thái tử dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông giữ ngôi thái tử từ năm 839 đến năm 840 dưới thời thúc phụ Đường Văn Tông Lý Ngang và cuối cùng bị bức hại.
Sử sách không ghi rõ thời gian Lý Thành Mĩ chào đời, nhưng cho biết anh ông là Lý Phổ sinh năm 824, phụ thân là Đường Kính Tông Lý Đam bị giết năm 827, nên năm sinh của ông nằm giữa hai mốc thời gian này.
Lý Thành Mĩ là con trai út của Đường Kính Tông Lý Đam, vua thứ 14 của nhà Đường, sử sách không cho biết mẹ ông là ai. Đường Kính Tông bị giết năm 827 và kế nhiệm là thúc phụ của Thành Mĩ, Đường Văn Tông Lý Ngang. Năm 837, Thành Mĩ cùng các anh em (huynh trưởng Lý Phổ đã chết năm 828) đều được phong tước vương, trong đó ông được phong làm Trần vương.
Sau khi con trai Văn Tông là thái tử Lý Vĩnh qua đời, Dương Hiền phi đề nghị lập em trai của Văn Tông là Yên vương Lý Dung làm hoàng thái đệ. Văn Tông đem việc này ra bàn luận với các tể tướng và tể tướng Lý Giác phản đối. Cuối cùng Văn Tông quyết định phong Lý Thành Mĩ làm hoàng thái tử.
Năm 840, Văn Tông lâm bệnh nặng, sai các hoạn quan Lưu Hoằng Dật và Tiết Quý Lăng triệu tể tướng Dương Tư Phục, Lý Giác vào cung phó thác thái tử Thành Mĩ. Các hoạn quan đang lộng quyền là Cừu Sĩ Lương và Ngưu Hoằng Chí không ủng hộ ông mà muốn lập người khác. Chúng giả lệnh Văn Tông, triệu hoàng đệ Dĩnh vương Triền vào cung lập làm hoàng thái đệ, lấy cớ thái tử Thành Mĩ còn nhỏ, lại giáng là Trần vương. Ngày 10 tháng 2, Văn Tông băng. Ngày 12 tháng 2, Thái đệ theo đề nghị của bọn Sĩ Lương, ép Lý Thành Mĩ cùng Yên vương Lý Dung và Dương Hiền phi phải tự tử. Không rõ năm đó ông bao nhiêu tuổi.
Theo Cựu Đường thư, quyển 175 thì con trai thứ 19 của Lý Thành Mĩ là Lý Nghiễm được phong làm Tuyên Thành quận vương. Tuy nhiên, các sử gia nghi ngờ thân phận của Lý Nghiễm vì Nghiễm được phong tước vương năm 839, khi ấy Thành Mĩ nhiều nhất chỉ tới 15 tuổi, mà 15 tuổi có 19 người con là chuyện không tưởng. Sử gia đời nhà Thanh là Thẩm Bỉnh Chấn nghi ngờ Lý Nghiễm không phải con của Thành Mĩ mà là con của Lý Quỹ (cũng mang tước Trần vương) và là cháu nội Đường Tuyên Tông Lý Thầm. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một phỏng đoán không có bằng chứng xác thực. | 1 | null |
Loài du nhập là thuật ngữ sinh thái học dùng để chỉ về các loài sinh vật được đưa từ bên ngoài vào khu vực truyền thống bản địa bằng một hành vi của con người. Hiện nay, cách hiểu về sinh vật lạ còn rất khác nhau và chưa có định nghĩa thống nhất. Trên nhiều văn bản, báo cáo khoa học có sử dụng các thuật ngữ không phải là loài bản địa (non-native species), không đúng nguồn gốc (non-indigenous), loài du nhập, loài ngoại lai, giống nhập ngoại nhưng bản chất đó là những loài xuất hiện ngoài vùng phân bố thông thường của chúng và khái niệm này không giới hạn bởi ranh giới hành chính, trong hay ngoài quốc gia, tỉnh thành, vùng, miền, địa phương, châu lục.
Sinh vật ngoại lai xâm hại trước hết là những loài không có nguồn gốc bản địa. Khi được đưa đến một môi trường mới, một loài ngoại lai có thể không thích nghi được với điều kiện sống và do đó không tồn tại được. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, do thiếu vắng các đối thủ cạnh tranh và thiên địch như ở quê nhà cùng với điều kiện sống thuận lợi, các loài này có điều kiện sinh sôi nảy nở rất nhanh và đến một lúc nào đó phá vỡ cân bằng sinh thái bản địa và vượt khỏi tầm kiểm soát của con người. Lúc này nó trở thành loài ngoại lai xâm hại.
Tổng quan.
Về mặt tự nhiên, sự phân bố của các loài sinh vật (động vật, thực vật) phụ thuộc vào phân bố địa lý của nhiều loài và được giới hạn bởi các hàng rào tự nhiên do chính các yếu tố môi trường và khí hậu. Các đại dương, sa mạc, đỉnh núi, và những dòng sông đều là những hàng rào ngăn cản sự di chuyển phát tán của các loài. Do sự cách ly địa lý, quá trình tiến hóa được phân ly theo nhiều hướng khác nhau tại các vùng của Trái Đất. Các hòn đảo, những nơi cư trú biệt lập cách ly hoàn toàn có xu hướng phát triển các loài đặc hữu.
Tuy nhiên, con người khi tác động vào tự nhiên đã làm thay đổi cơ bản đặc tính cách ly này bằng việc di chuyển phát tán các loài khác nhau trên phạm vi toàn cầu. Trong lịch sử, con người đã đem cây trồng và vật nuôi từ những khu vực này sang khu vực khác khi xây dựng những nơi định cư mới và chinh phục thuộc địa mới (của người châu Âu). Các động vật như dê, lợn, thỏ, mèo, chó được các thủy thủ châu Âu mang đến những hòn đảo vốn không phải là nơi cư trú của chúng để nuôi làm thực phẩm do đó hiện nay, đã có một lượng lớn các loài, do vô tình hay cố ý, được đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc gác của chúng.
Do sự giao thương giữa các nước ngày càng mở rộng trong điều kiện nền kinh tế và giao lưu toàn cầu, những điều kiện để các loài ngoại lai nhập cảnh càng dễ dàng hơn bằng con đường chính ngạch hoặc buôn lậu, nhiều loài sinh vật lạ trên thường được nhập với mục đích phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nhưng cũng có thể là hành động có chủ ý. Một số loài thích nghi nhanh với môi trường các quốc gia mà chúng xâm nhập chúng sẽ phát triển mạnh và dễ dàng trở thành loài xâm lấn hay sinh vật lạ xâm lấn.
Hiện tượng xâm lấn của sinh vật lạ có thể diễn ra một cách chủ động hoặc bị động, tự nhiên hoặc nhân tạo, do mưa, gió, bão, do dòng nước sông suối, biển, phát tán nhờ chim, thú, côn trùng, hoặc do hoạt động trao đổi văn hóa, buôn bán hàng hóa, vật nuôi cây trồng, hoặc do hoạt động giao thông vận tải. Các loài sinh vật lạ xâm lấn là mối đe doạ nghiêm trọng đối với các loài sinh vật bản địa, cạnh tranh lấn chiếm nơi cư trú, thức ăn và lây lan dịch bệnh cho các loài sinh vật bản địa, phá hoại mùa màng, gây ô nhiễm sinh học
Thích nghi.
Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến do môi trường không phải lúc nào cũng phù hợp. Mặc dù vậy, vẫn có một tỷ lệ nhất định các loài nhập cư thiết lập được sự sống trên vùng đất mới, và rất nhiều loài trong số đó còn vượt trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn cạnh tranh với các loài bản địa để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài động vật du nhập còn ăn thịt các loài thú bản địa cho đến khi chúng tuyệt chủng, hoặc chúng làm thay đổi nơi cư trú đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại được nữa.
Rất nhiều vùng trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các loài du nhập. Có khoảng 4600 loài thực vật du nhập ở quần đảo Hawai, số lượng này nhiều gấp ba lần tổng số loài bản địa. Nhiều khu của Bắc Hoa Kỳ hoàn toàn bị xâm chiếm vĩnh viễn bởi các loài du nhập chẳng hạn như loài cỏ hoa đỏ (loosestrife) của châu Âu chiếm những vùng đầm lầy tại đông Bắc Hoa Kỳ, còn loài cây kim ngân Nhật Bản mọc lại dày đặc tại các vùng đất của đông nam Hoa Kỳ. Hơn một nửa số loài cá nước ngọt tại Massachusett được mang đến từ rất nhiều nơi, các loài này chiếm phần lớn cơ cấu của sinh khối về cá.
Các loài côn trùng được du nhập cư có chủ đích như ong mật, ong nghệ, và vô tình như kiến lửa, có thể hình thành một quần thể lớn. Tác hại của những côn trùng du nhập này là chúng có thể phá hoại và tiêu diệt nhiều loài côn trùng bản địa. Tại một số địa điểm ở Nam Hoa Kỳ, mức đa dạng của các loài côn trùng giảm đến 40% mà nguyên nhân là do loài kiến lửa du nhập tiêu diệt các loài côn trùng bản địa.
Xâm lấn.
Nhìn chung, các loài du nhập lại dễ dàng xâm nhập và chiếm lĩnh các nơi cư trú mới và thay thế các loài bản địa. Một trong những lý do quan trọng là ở nơi cư trú mới chưa có các loài thiên địch của chúng như các động vật ăn thịt, các loài côn trùng và các loài động vật ký sinh, vật gây bệnh. Ví dụ như khi thỏ được mang đến châu Úc chúng phát triển đến mức không kiểm soát được, ăn hết các loài cỏ bản địa bởi vì không có một cơ chế tự nhiên nào hữu hiệu để kiểm soát và khống chế sự phát triển của chúng.
Có thể coi các loài du nhập cư là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với các loài sinh vật bản địa. Sinh vật ngoại lai xâm hại đã có tác động không nhỏ đến kinh tế - xã hội vì tác hại gây ra bởi nơi cư trú bị tàn phá, bị chia cắt hay bị ô nhiễm còn có cơ hội phục hồi, nhưng một khi loài du nhập đã định cư tốt tại một nơi nào đấy thì việc tách chúng ra khỏi quần xã là điều không thể làm được ví dụ ốc sên và ốc bươu vàng du nhập vào Việt Nam và đang gây hại cho cây trồng. Các loài du nhập có thể phát triển đến một số lượng cực lớn và phát tán trên một diện tích rộng, xâm nhập sâu vào quần xã khiến cho việc loại bỏ chúng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém.
Một nguyên nhân khác khiến các loài nhập cư phát triển mạnh là bản thân vùng sống của chúng được mở rộng trong lục địa do chúng thích nghi tốt với môi trường bị thay đổi. Tại phía Bắc châu Hoa Kỳ, việc chia cắt các cánh rừng, phát triển các vùng ngoại ô và sự tiếp cận dễ dàng với rác thải đã cho phép các loài như sói nhỏ, cáo đỏ, chim cắt, chim mòng phát triển với số lượng lớn. Các loài ăn thịt này đã phát triển và lấn át các loài bản địa có tính cạnh tranh kém hơn và không chống trả được kẻ thù. Một số loài động vật ăn thịt khi vào môi trường mới thì gặp thuận lợi, nơi nhiều động vật nhỏ chưa biết cách đối phó với kiểu săn mồi của chúng, những động vật bản địa chưa có kinh nghiệm phát hiện ra chúng và chiến thuật rình mồi của chúng.
Các loài nhập cư đôi khi là các loài có quan hệ gần gũi với các loài bản địa do đó các loài nhập cư này được lai ghép với các loài bản địa, thì các hệ gen độc nhất của loài bản địa có thể bị loại trừ khỏi các quần thể địa phương, sự khác biệt về hình thái trong các con lai có thể trở nên không rõ ràng. Ví dụ như khi các loài cá hồi bản địa phải đương đầu với các loài cá thương mại. Tại miền Tây Bắc châu Hoa Kỳ, khi khu vực sống của loài cá hồi Apache (Oncorhynchus apache) bị thu hẹp lại do nơi cư trú bị phá hủy và các loài cá cạnh tranh khác được du nhập vào. Loài này đã lai với loài cá hồi cầu vồng (O. mykiss), là loài cá mới du nhập nuôi phục vụ cho mục đích câu cá thể thao.
Tại Úc người ta rất lo lắng trước đại dịch thỏ đang tàn phá môi trường và hoa màu ở nước Úc. Do trên lục địa có rất ít loài thú ăn thịt kiềm chế sự sinh sôi của thỏ do đó thỏ là một trong những loài phá hoại chính ở Úc. Ngày nay, người Úc đã tạo ra một loại virus chuyển gene khiến thỏ cái bị vô sinh bằng việc lựa chọn được gene ZPC của thỏ để chuyển vào virus myxoma nếu virus có thể làm vô sinh 70-80% số thỏ cái hoang dã, mật độ dân số của loài này sẽ giảm xuống mức tương đương với ở châu Âu và trở thành loài gây hại không đáng kể. Ngay cả khi tỷ lệ thành công chỉ là 50%, thì đại dịch thỏ cũng sẽ chấm dứt. | 1 | null |
Lý Triệu Cơ tước GBM (sinh ngày 20 tháng 2 năm 1928) là tỷ phú Hồng Kông và chủ sở hữu Tập đoàn Nhà đất Henderson, với khối tài sản đa dạng trải khắp, khách sạn, nhà hàng, hệ thống mạng internet. Tháng 10 năm 2012 theo danh sách tỷ phú của Bloomberg , Lý Triệu Cơ là người giàu thứ 19 thế giới. Khối tài sản của ông ước tính vào khoảng $19 tỷ và được xếp hạng người giàu thứ hai tại Hồng Kông chỉ đứng sau tỷ phú Lý Gia Thành.
Ông từng là người giàu thứ tư của thế giới trước khi có sự biến động kinh tế tại Hồng Kông năm 1997.
Từ năm 2006, ông tích lũy được khối tài sản vững chắc từ việc kiểm soát những cổ phần của mình tại Đại lục. Bằng việc quay lại với đầu tư này ông được coi là "Warren Buffett Hồng Kông" (香港巴菲特) và "Bậc thầy chứng khoán của châu Á" (亞洲股神). Ông còn được gọi là "Chú Tư", vì là một trong số ít người con thứ tư sinh ra trở thành tỷ phú đa năng.
Hoạt động từ thiện.
Ông là một trong số những nhà tài trợ chính cho trường HKICC Lee Shau Kee School of Creativity, cùng với việc đóng góp hơn HK $ 20 triệu vào quỹ từ thiện Lý Triệu Cơ.
Gia đình.
Ông có năm người con. | 1 | null |
Samuel Prescott Bush (04 tháng 10 năm 1863 - 08 tháng 2 năm 1948) là một nhà tư bản công nghiệp Mỹ. Ông là tộc trưởng của gia tộc quyền thế nhất nước Mỹ là Bush. Ông là cha của Thượng nghị sĩ Prescott Bush, ông nội của cựu Tổng thống Mỹ George Bush (cha), và cụ nội của cựu Tổng thống Mỹ George Bush (con). Ông qua đời vào ngày 08 tháng 2 năm 1948, ở tuổi 84, tại Columbus, Ohio. | 1 | null |
Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là bộ luật cơ bản cấp cao nhất của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được quy định có tính quy phạm tối cao.Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân được phát triển theo thời gian, hiến pháp hiện hành được ban hành năm 1982 của Khóa 5 Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc, và qua 4 lần sửa đổi các năm 1988, 1993, 1999 và 2004,2007, 2012, 2017, 2018.
Các bản Hiến pháp.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập,đêm trước khi triệu tập Hội nghị thứ nhất Hội nghị Toàn thể Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc đã thông qua "Cương lĩnh cộng đồng Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc" 29 tháng 9 năm 1949 ban bố, với vai trò là bản Hiến pháp tạm thời.Qua thời gian phát triển và chỉnh sửa, với bản Hiến pháp hiện hành là bản Hiến pháp được công bố năm 1982 và được chỉnh sửa lần cuối là năm 2004.
Hiến pháp Ngũ Tứ.
Là bản hiến pháp được ban hành vào ngày 20 tháng 9 năm 1954 tại kỳ họp thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa nhất, với 4 chương và 106 điều được gọi là Hiến pháp Ngũ Tứ.
Hiến pháp Thất Ngũ.
Là bản hiến pháp thứ 2 được công bố và ban hành ngày 17 tháng 1 năm 1975 tại Hội nghị thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa 4, với 30 điều. Do bản hiến pháp được ban hành trong thời gian Cách mạng văn hóa, nên vẫn mang âm hưởng tương đối mạnh trong cuộc Cách mạng văn hóa được gọi là Hiến pháp Thất Ngũ.
Hiến pháp Thất Bát.
Là bản hiến pháp thứ 3 được ban hành ngày 5 tháng 3 năm 1978 tại Hội nghị thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa 5,với tổng 4 chương 60 điều được gọi là Hiến pháp Thất Bát.
Hiến pháp Bát Nhị.
Là bản Hiến pháp hiện hành của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được ban hành ngày 4 tháng 12 năm 1982 tại Hội nghị thứ 5 Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa 5. Hiến pháp được tu chính 4 lần 1988, 1993, 1999, 2004 được gọi là Hiến pháp Bát Nhị.
Nội dung bản Hiến pháp.
Hiến pháp hiện tại có 4 chương với 138 điều | 1 | null |
Nhà máy Van Nelle (tiếng Hà Lan: Van Nellefabriek) nằm trên tuyến đường thủy Schie ở Rotterdam được coi là một ví dụ điển hình của Phong cách Quốc tế dựa trên kiến trúc theo xu hướng tạo dựng. Nó được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2014. Ngay sau khi được xây dựng xong, các kiến trúc sư nổi tiếng đã mô tả nhà máy là "Quang cảnh đẹp nhất của kỷ nguyên hiện đại" (Le Corbusier năm 1932) và "một bài thơ trên thép và kính" (Robertson năm 1930).
Lịch sử.
Các tòa nhà được thiết kế bởi kiến trúc sư Leendert van der Vlugt tới từ văn phòng Brinkman & Van der Vlugt, phối hợp với kỹ sư dân sự J.G. Wiebenga, lúc đó là một chuyên gia về xây dựng bê tông cốt thép. Công trình được xây dựng từ năm 1925 đến năm 1931. Đây là một ví dụ điển hình về "Nieuwe Bouwen", kiến trúc hiện đại ở Hà Lan. Nó được ủy quyền bởi người đồng sở hữu công ty Van Nelle là Cees van der Leeuw, thay mặt cho chủ sở hữu. Kees van der Leeuw và cả ban giám đốc công ty là Matthijs de Bruyn và Bertus Sonneveld đã rất ấn tượng bởi tài năng của Van der Vlugt. Họ đề nghị ông thiết kế và xây dựng dinh tư riêng của họ tại Rotterdam và Schiedam từ giữa năm 1928 tới 1932. Tư dinh mới của Sonneveld bây giờ là một bảo tàng ở trung tâm của Rotterdam, với hơn 30.000 khách ghé thăm hàng năm từ tất cả các nơi trên thế giới.
Trong thế kỷ 20, Van Nelle là một nhà máy sản xuất, chế biến cà phê, trà và thuốc lá và sau đó là thêm cả kẹo cao su, bánh pudding ăn liền và gạo. Hoạt động đã bị dừng lại vào năm 1996. Gần đây, sự tập trung hẹp khi chỉ cho khách thuê trong lĩnh vực thiết kế và kiến trúc khiến nhiều tòa nhà đã bị bỏ hoang. Một số khu vực khác được sử dụng cho các cuộc họp, hội nghị và sự kiện.
Eric Gude, một chuyên gia Hà Lan trong việc chuyển đổi các khu công nghiệp cũ, đã lên kế hoạch và thay đổi việc sử dụng nhà máy Van Nelle vào năm 1997. Ông cũng giới thiệu cho Docomomo International, một tổ chức phi lợi nhuận về cải tạo kiến trúc hiện đại vào năm 1999 cùng phối hợp để cải tạo tổng thể, bắt đầu vào năm 2000. Năm 2015, Nhà máy Van Nelle đứng đầu danh sách 25 nhà máy đẹp nhất thế giới.
Kiến trúc.
Nhà máy Văn Nelle cho thấy sự ảnh hưởng từ kiến trúc theo xu hướng tạo dựng của Nga. Mart Stam, người đã làm việc trong năm 1926 là nhân viên thiết kế tại Văn phòng Brinkman & Van der Vlugt đã tiếp xúc với người Nga Avant-Garde vào năm 1922 tại Berlin. Năm 1926, Mart Stam tổ chức một chuyến lưu diễn kiến trúc Hà Lan cho các nghệ sĩ Nga là El Lissitzky và vợ là Sophie Küppers. Họ đến thăm Jacobus Oud, Cornelis van Eesteren, Gerrit Rietveld và các nghệ sĩ khác. Sophie Küppers nói rằng, Mart Stam nói về nhà máy sản xuất "của mình" trong chuyến đi đó. Chính điều đó là nguyên nhân dẫn tới việc ông bị sa thải. Người ta cho rằng, nhà máy là nơi có hệ vách công nghiệp đúc sẵn đầu tiên trên thế giới.
Tổ hợp nhà máy có mặt tiền chủ yếu là thép và các tấm kính trên quy mô lớn theo nguyên tắc hệ vách, giúp tạo ánh sáng mặt trời tối đa tới các phòng làm việc. Nó được coi như là hình mẫu lý tưởng cho các tòa nhà văn phòng trên thế giới. Nó thể hiện nét mới của một nhà máy, trở thành một biểu tượng cho kiến trúc hiện đại và văn hóa trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến và làm minh chứng cho lịch sử thương mại và công nghiệp của Hà Lan trong lĩnh vực chế biến thực phẩm nhập khẩu từ các nước nhiệt đới, và kinh doanh thương mại ở châu Âu.
Nhà máy Văn Nelle là một di tích quốc gia của Hà Lan. Vào ngày 21 tháng 6 năm 2014, tại Doha, trong phiên họp thường niên của Ủy ban Di sản thế giới, nó được công nhận là Di sản thế giới. | 1 | null |
Từ những năm 1814 đến năm 1887 ngai vàng của Hà Lan chỉ được truyền cho con gái nếu Đức vua đương nhiệm không có con trai nối dõi theo chế độ ưu tiên quyền thừa kế thuộc về người nam. Năm 1922, Hiến pháp Hà Lan đã giới hạn lại danh sách kế vị ngai vàng chỉ còn bao gồm họ hàng ba đời của Đức vua đương nhiệm. Và từ năm 1983 đến nay, ngai vàng của Vương thất Hà Lan đã được truyền qua nhiều thế hệ theo chế độ ưu tiên người con trưởng kế vị không phân biệt giới tính. | 1 | null |
Mùa giải thứ hai của cuộc thi truyền hình thực tế "Giọng hát Việt nhí" được phát sóng vào ngày 21 tháng 6 năm 2014 trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Các huấn luyện viên của mùa thi này gồm Lam Trường, Cẩm Ly và Hồ Hoài Anh cùng Lưu Hương Giang.
Giai đoạn tiền sản xuất.
Từ ngày 19 tháng 2 năm 2014, Ban tổ chức đã chính thức thông báo thể lệ tuyển chọn thí sinh. Độ tuổi tham dự chương trình là từ 9 đến 15 tuổi. Đầu tiên, thí sinh cần vượt qua vòng sơ tuyển trực tuyến (Online Audition) bằng cách điền đơn đăng ký trực tuyến và gửi kèm file demo giọng hát không qua xử lý; hoặc gửi đơn giấy kèm đĩa thu âm về địa chỉ công ty sản xuất. Nếu hát tốt thí sinh sẽ được vào thẳng vòng sơ tuyển trực tiếp 2. Tại các vòng sơ tuyển trực tiếp, thí sinh phải hát trực tiếp trước ban giám khảo và ban tổ chức. Nếu không qua hoặc không tham dự online audition, thí sinh có thể tham gia vòng sơ tuyển trực tiếp 1 tại ba thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở vòng 1, thí sinh phải hát chay không có nhạc. Nếu vượt qua, thí sinh tham dự vòng sơ tuyển trực tiếp 2 là hát với nhạc beat hoặc nhạc cụ. Vòng sơ tuyển trực tiếp diễn ra tại Hà Nội từ ngày 18 đến 20 tháng 4 năm 2014; và tại Thành phố Hồ Chí Minh vào các ngày 24, 25 và 27 tháng 4.
Vào buổi họp báo của chương trình vào ngày 3 tháng 4 năm 2014, có ba huấn luyện viên của mùa thứ hai được công bố gồm: Cẩm Ly, nữ ca sĩ thuộc dòng nhạc nhẹ, nhạc trữ tình, nhạc âm hưởng dân ca, cùng hai vợ chồng Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang đã xuất hiện từ mùa trước. Vị huấn luyện viên thứ tư chưa được tiết lộ bởi ban tổ chức đang "cân nhắc rất kỹ" để lựa chọn một huấn luyện viên nam thay thế Thanh Bùi, và giải thích rằng việc chọn nhân vật phù hợp không phải là điều dễ dàng. Tại buổi họp báo này, ban tổ chức phủ nhận thông tin liên quan đến việc mời Lam Trường làm huấn luyện viên; tuy nhiên nam ca sĩ cho biết anh đã nhận được lời mời của Ban tổ chức và đang trong quá trình thương thảo; rằng nếu sắp xếp được thời gian anh sẽ nhận lời. Đến ngày 20 tháng 5, Lam Trường được ban tổ chức chính thức xác nhận là huấn luyện viên cuối cùng của mùa thứ hai. Anh chia sẻ rằng bản thân anh rất vui khi được đảm nhận vai trò mới và nói: "Tôi hy vọng khán giả sẽ đón nhận và ủng hộ cho tôi ở vị trí này. Tôi sẽ cố gắng để tìm về cho đội mình những cá tính âm nhạc ấn tượng nhất." Cẩm Ly bày tỏ sự hồi hộp khi lần đầu tiên tham gia một chương trình truyền hình thực tế bởi không chịu được áp lực từ khán giả và nhiều phía. Tuy nhiên, cô cho rằng, đây là cuộc thi dành cho trẻ em nên sẽ ít "gạch đá" và bản thân nhận được sự thuyết phục, ủng hộ của chồng cùng ban tổ chức. Hơn nữa, cô rất thích sự hồn nhiên của các bé dự thi trong mùa trước và hiện đang có hai con đồng trang lứa với các thí sinh dự thi nên sẽ dễ gần gũi hơn. Mặc dù tài ăn nói có phần kém cạnh với Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang nhưng cô khẳng định mình sẽ "cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ nâng đỡ các tài năng nhí" bởi là ca sĩ chuyên hát dân ca nhưng khởi nghiệp với nhạc trẻ, cô có nền tảng để đào tạo theo nhiều dòng nhạc khác nhau. Vợ chồng Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang cho biết, sau mùa giải thứ nhất họ nhận được nhiều cuộc điện thoại của các phụ huynh gọi đến nhờ anh dạy kèm riêng về âm nhạc, nhưng do công việc bận rộn nên anh đã từ chối.
Đồng thời, Jennifer Phạm cũng thay thế vai trò người dẫn chương trình của Trấn Thành ở mùa thi trước. Nhạc sĩ Lưu Thiên Hương thay thế nhạc sĩ Phương Uyên trong vai trò giám đốc âm nhạc của mùa thứ hai. Cô chia sẻ công việc của mình là đào tạo và rèn luyện cho các em về mặt chuyên môn cũng như kỹ năng biểu diễn, tìm ra những định hướng âm nhạc tốt nhất và phù hợp nhất với từng thí sinh, bởi các em có sẵn tố chất giọng hát nhưng hầu hết chưa được học hành bài bản về kỹ thuật và cách xử lý bài hát. Cô cũng khẳng định sẽ không bao giờ để xảy ra tình trạng thiên vị với đội của em gái mình là Lưu Hương Giang.
Nhiều tin đồn, scandal trước đây cũng được ban tổ chức đề cập tới và giải đáp. Do ở mùa thứ nhất có nhiều tranh cãi về chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, đi lại của các thí sinh, ở mùa giải này diễn viên múa Linh Nga tham gia với vai trò nhà bảo trợ dinh dưỡng cho cuộc thi. Ban tổ chức cũng cam kết sẽ tăng cường việc chăm sóc thí sinh từ dinh dưỡng, hỗ trợ các bữa ăn trưa đàng hoàng và hiện đại cho các bé, thêm vào đó là những bữa buffet nhẹ trong mỗi đêm liveshow. Bên cạnh đó, chương trình sẽ thuê bác sĩ tâm lý để tư vấn và giải tỏa các ưu tư của thí sinh. Với tư cách giám sát sản xuất, Hồ Hoài Anh cam kết đảm bảo các thí sinh không bị quá tải, kiệt sức vì hoạt động ngoài lề. Ngoài ra, việc chương trình kéo dài đến 4/10 khiến nhiều người lo lắng vì ảnh hưởng quá nhiều đến việc học hành của các bé. Tuy nhiên, ban tổ chức giải thích rằng vì lịch mua sóng đã lên từ trước và phải điều tiết với nhiều chương trình truyền hình thực tế khác. Tại buổi họp báo, Hồ Hoài Anh đưa ra giải pháp: "Chúng tôi sẽ cho các thí sinh bay đi bay về để không ảnh hưởng nhiều đến chuyện học hành. Tất nhiên sẽ mất thời gian và sức khỏe nhưng chúng tôi sẽ giảm thiểu sự ảnh hưởng đến các con." Ban tổ chức cũng khẳng định sẽ sắp xếp hợp lý, hỗ trợ tiền vé máy bay đi về cho các bé và phụ huynh để phù hợp với lịch học trong thời gian đầu năm học mới - từ cuối tháng 8 trở đi. Cùng với đó, rút kinh nghiệm từ mùa thứ nhất, mùa này ban tổ chức sẽ họp riêng với phụ huynh của các thí sinh để tránh tình trạng bố mẹ can thiệp quá nhiều vào chuyện thi cử. Về vấn đề khan hiếm ca khúc cho các em, nhạc sĩ Hồ Hoài Anh cho rằng, "Nếu đi tìm thì có rất nhiều bài phù hợp. Quan trọng là ca khúc phải đáp ứng được yêu cầu phô diễn kỹ thuật, kỹ năng của các bé". Hồ Hoài Anh cho biết mùa giải này anh sẵn sàng về tận quê thí sinh để tập riêng nếu các em không có nhiều thời gian lên Thành phố Hồ Chí Minh, "Dù thí sinh mình ở đâu, Huấn luyện viên sẽ bay tới đó để tập cho các em," anh đại diện cho các huấn luyện viên khẳng định.
Ngày 4 tháng 10 năm 2014, trong đêm chung kết, thí sinh Nguyễn Thiện Nhân đến từ Bình Định của đội Huấn luyện viên Cẩm Ly đã vượt qua hai thí sinh còn lại là Nguyễn Hoàng Anh (đội Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang) và Trần Kayon Thiên Nhâm (đội Lam Trường) để giành ngôi vị Quán quân Giọng hát Việt nhí (mùa thứ hai) với số phần trăm bình chọn áp đảo là 49,47%, nối tiếp Nguyễn Quang Anh là quán quân thứ hai của chương trình.
Vòng Blind Audition (Giấu mặt).
Trong vòng giấu mặt, các huấn luyện viên sẽ tiến hành "tuyển quân" để tìm cho mình một đội 15 người. Các huấn luyện viên sẽ ngồi quay lưng lại với thí sinh và không được biết bất cứ thông tin gì của thí sinh trừ giọng hát. Khi họ thấy muốn "tuyển" thí sinh đó vào đội thì phải nhấn nút "TÔI CHỌN BẠN" trong khi phần thi của thí sinh chưa kết thúc. Nếu chỉ một huấn luyện viên quay lại, thí sinh sẽ về đội người đó. Nếu có nhiều huấn luyện viên quay lại, thí sinh được phép chọn lựa huấn luyện viên mình thích và huấn luyện viên cũng được phép dùng mọi cách để "chiêu mộ" thí sinh về đội của mình. Huấn luyện viên đã đầy chỗ sẽ dừng tuyển trong khi các huấn luyện viên khác tiếp tục. Vòng giấu mặt kết thúc ngay khi tất cả các huấn luyện viên dừng tuyển vì đủ chỗ.
Vòng giấu mặt được phát sóng từ 5 tháng 7 năm 2014 đến 2 tháng 8 năm 2014.
Vòng Battle (Đối đầu).
15 thí sinh trong mỗi đội sẽ được chia ra thành 5 trận đấu đối đầu, mỗi trận đối đầu có 3 đối thủ. Mỗi nhóm sẽ trình bày một ca khúc được tập luyện từ trước trên sân khấu dưới sự huấn luyện của huấn luyện viên chủ quản và cố vấn của huấn luyện viên đó. Sau khi lên sân khấu đối đầu thể hiện xong bài hát đối đầu đã được tập luyện cùng huấn luyện viên và cố vấn, huấn luyện viên chủ quản sẽ xướng danh một trong 3 đối thủ của mỗi nhóm là người chiến thắng và có quyền đi tiếp vào vòng trong. Khác với mùa trước, sau khi cả năm trận đấu diễn ra với 5 thí sinh thắng cuộc và 10 thí sinh thua cuộc của mỗi đội, huấn luyện viên từng đội sẽ xướng danh thêm một trong số 10 thí sinh thua cuộc của đội mình để đi tiếp vào vòng Liveshow cùng với 5 thí sinh đã giành chiến thắng ở các trận đấu của đội. Như vậy, sau khi vòng này kết thúc thì mỗi đội sẽ còn lại 6 thí sinh.
Danh sách cố vấn âm nhạc của các đội
Chú thích
Vòng Liveshow (Biểu diễn trực tiếp).
Chú thích màu sắc
Liveshow 1 và 2 (30/08/2014, 06/09/2014).
Ở hai liveshow này, mỗi thí sinh thể hiện một bài hát đơn ca trên sân khấu với 9 thí sinh ở liveshow 1 và 9 thí sinh của liveshow 2. Cổng bình chọn được mở cho 9 thí sinh ở mỗi đêm thi từ lúc liveshow bắt đầu và đóng lại vào cuối mỗi liveshow. Kết quả được công bố vào cuối liveshow 2. Hai thí sinh được khán giả bình chọn nhiều nhất và hai thí sinh do huấn luyện viên chọn sẽ đi tiếp vào liveshow 3. Hai thí sinh còn lại của đội sẽ bị loại.
Tại liveshow thứ 2, chương trình gặp sự cố ở tiết mục đầu tiên của Hà Trang khi mảnh kính lót sàn sân khấu bị vỡ khiến nhân viên ghi hình bị hụt chân rơi xuống. Cùng lúc đó, Hà Trang cùng một số vũ công nhí bước xuống sân khấu từ chiếc cầu tre được dàn dựng, do bị khói che khuất nên một số em hàng đầu đã bị ngã. Sự cố được khắc phục ngay sau đó, tuy nhiên toàn bộ phần múa minh hoạ sau đó bị cắt bỏ hoàn toàn để đảm bảo an toàn. Sự cố khiến nhân viên phụ trách camera bị chảy máu tai và phải khâu ba mũi, hai vũ công bị thương nhẹ hơn đã xuất viện ngay sau đó. Ban tổ chức sau đó cho biết sự cố trên xảy ra do một xung động nào đó tác động, có thể do nhiệt độ môi trường thay đổi đột ngột (mặt kính đang nóng gặp khói lạnh): "Khung sân khấu vẫn nguyên vẹn, chỉ có bề mặt kính bị võng xuống do không chịu được lực gây vỡ." Các ô sân khấu gần khu vực bị sụt đã được lắp đặt lại, nhiều lớp khác nữa được gia cố và tăng cường thêm bên dưới mặt kính cường lực. Ban tổ chức cũng đã đến thăm hỏi và hỗ trợ những người bị thương và cho biết họ chỉ bị trầy xước ngoài da.
Liveshow 3 (13/09/2014).
Ở đêm liveshow này, 12 thí sinh sẽ biểu diễn mỗi người một tiết mục đơn ca. Hai thí sinh được khán giả bình chọn nhiều nhất và một thí sinh do huấn luyện viên chọn sẽ đi tiếp vào liveshow 4. Thí sinh còn lại của đội sẽ bị loại.
Liveshow 4 (20/09/2014).
9 thí sinh tiếp tục biểu diễn với tiết mục đơn ca. Sau khi đêm liveshow kết thúc, một thí sinh được khán giả bình chọn nhiều nhất và một thí sinh do huấn luyện viên chọn sẽ đi tiếp vào vòng Bán kết. Thí sinh còn lại của đội sẽ bị loại.
Liveshow 5 (27/09/2014).
6 thí sinh tiếp tục biểu diễn với 1 tiết mục đơn ca và 1 tiết mục song ca với thành viên còn lại trong đội. Đây là đêm bán kết 1 và sẽ không có thí sinh nào bị loại trong đêm thi này.
Liveshow 6 (04/10/2014).
Ở đêm thi bán kết 2, 6 thí sinh tiếp tục biểu diễn với 1 tiết mục đơn ca. Sau đêm bán kết 2, thí sinh có tổng lượt bình chọn của khán giả và điểm của huấn luyện viên cao nhất của mỗi đội sẽ bước tiếp vào đêm liveshow 7 - đêm Chung kết.
Liveshow 7 (11/10/2014).
Trong đêm chung kết, 3 thí sinh xuất sắc nhất của mỗi đội sẽ lần lượt trình bày ba tiết mục: Tiết mục đơn ca, Song ca với Huấn luyện viên chủ quản của mình và Song ca với 1 khách mời đặc biệt. Cả ba thí sinh sẽ được khán giả bình chọn. Thí sinh nào có tỉ lệ phần trăm tin nhắn bình chọn của khán giả cao nhất sẽ trở thành Giọng hát Việt nhí mùa thứ 2 năm 2014. Các ca sĩ khách mời lần lượt tham gia hỗ trợ các thí sinh ở phần thi Song ca với khách mời lần lượt là: Quang Linh (Thiện Nhân đội Cẩm Ly), Nguyễn Ngọc Anh (Hoàng Anh đội Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang) và Đoan Trang (Thiên Nhâm đội Lam Trường).
Khi trả lời phỏng vấn sau đêm thi, giám đốc âm nhạc Lưu Thiên Hương cho biết nhạc sĩ Minh Vy, chồng ca sĩ Cẩm Ly có vai trò to lớn trong tiết mục chầu văn của Thiện Nhân, bởi ông "người hiểu rõ và nắm bắt đúng đắn, đầy đủ những đặc điểm của loại hình âm nhạc này". Tiết mục chầu văn của Thiện Nhân được nhiều người miêu tả là như "lên đồng". Cẩm Ly gọi tiết mục này là "vũ khí bí mật" của đội, nói rằng lúc tập Thiện Nhân đã khóc rất nhiều vì bài quá khó: "Cô biết con đã khóc khi bắt đầu tập bài này, nhưng hôm nay con đã nói cô ơi con thích bài này nhất, cùng với những giọt nước mắt của các cô chú nghệ nhân cùng dành cho con" và cho rằng chính bản thân mình hát cũng không thể hiện được hết cái hồn của bài, "mà con vẫn làm xuất sắc".
Hậu chương trình.
Sau đêm chung kết, 3 thí sinh quán quân và á quân cùng các huấn luyện viên có buổi gặp gỡ ngắn với truyền thông. Khi được hỏi các em sử dụng tiền thưởng để làm gì, Thiện Nhân trả lời "Em cũng chưa biết phải làm gì", Thiên Nhâm sẽ dùng cho việc học hành và Hoàng Anh sẽ đầu tư cho việc học vũ đạo, luyện thanh. Lam Trường và Hồ Hoài Anh khẳng định áp lực về lịch luyện tập, dàn dựng sân khấu cho đến chọn bài hát cho thí sinh trong vòng chung kết tăng gấp ba lần, riêng Hồ Hoài Anh cho biết áp lực của anh lớn hơn bởi phải làm sao cho "tốt hơn, hay hơn" mùa trước, và rằng chất lượng thí sinh năm nay tăng đáng kể, ba em ở chung kết mỗi em có một điểm mạnh riêng: "Thiện Nhân sở hữu giọng hát ngọt ngào, tình cảm, Thiên Nhâm hát chắc chắn còn Hoàng Anh có lợi thế về mặt trình diễn." Cẩm Ly liên tục khóc "cho thoả nỗi lòng" vì đã "giải tỏa một áp lực lớn giấu kín bấy lâu": càng vào vòng trong, các tiết mục càng được kỳ vọng nhiều hơn; đặc biệt là tuần cuối "mỗi bé phải trình diễn ba tiết mục, áp lực gấp ba lần. [...] Ai cũng đều phải chọn bài nhanh, đưa bài cho các bé học, nếu có phát sinh gì thì lại đổi sang bài khác." Lưu Hương Giang chia sẻ rằng cô thấy Thiện Nhân "hoàn toàn xứng đáng". Với Thiện Nhân, Cẩm Ly khẳng định cô không khuyến khích em đi hát kiếm tiền sớm, bởi "làm nghề thì có thể chờ, nhưng việc học thì không thể chờ". Cô cho biết sẽ sẵn sàng giúp đỡ, tư vấn nếu Thiện Nhân muốn xuống Sài Gòn học nhạc, học hát, phát triển năng khiếu "nhưng không bao giờ có chuyện cô Ly dắt các con đi hát hàng đêm". Cẩm Ly cũng khẳng định mình không bắt Thiện Nhân đi theo con đường nào mà để các em phát triển tự nhiên, đồng thời thể hiện sự không hài lòng khi nhiều người cho rằng về đội của chị là phải hát dân ca: "Hơn ai hết, tôi hiểu rằng phải dựa vào chất giọng để lựa chọn dòng nhạc phù hợp cho các em, chứ không thể bắt ép các em theo gu của mình được." Anh trai Thiện Nhân cũng cho biết hiện giờ gia đình sẽ cho em quay trở lại việc học sau một thời gian dài gián đoạn, còn sau này nếu có điều kiện sẽ cho em vào Thành phố Hồ Chí Minh để phát triển và học thanh nhạc, hiện giờ chưa thể nói trước điều gì.
Giám đốc âm nhạc Lưu Thiên Hương thì cho biết, rút kinh nghiệm từ mùa trước, ban tổ chức ưu tiên nhạc Việt xuất hiện nhiều hơn trong chương trình. Chỉ những em nào hát tiếng Anh thật tốt mới được hát nhạc ngoại. Khi được hỏi vì sao tiết mục hoà ca của Hoàng Anh và ba thí sinh trong đội kém đầu tư hơn hai thí sinh còn lại của chung kết, Lưu Hương Giang cho biết cô đã thử nhiều bài hát nhưng đều không hài lòng, phải đến ngày cuối cùng trước hôm diễn mới tìm được ca khúc "Con có mẹ rồi", và rằng "đội của chị Cẩm Ly, anh Lam Trường đều đã dàn dựng công phu rồi, nếu mình cũng dựng nữa sợ sẽ gây mệt cho khán giả".
Theo yêu cầu của ban tổ chức, sau cuộc thi, Thiện Nhân tiếp tục ở lại Thành phố Hồ Chí Minh để tham gia một số hoạt động truyền thông trước khi về Bình Định. Em ở nhà ca sĩ Cẩm Ly, trong khi mẹ em ở nhà trọ của các anh chị bé. Chiều 6 tháng 10 năm 2014, quán quân Nguyễn Thiện Nhân trả lời trực tuyến độc giả báo điện tử VnExpress. Một số hình ảnh Thiện Nhân dùng một phần tiền thưởng của mình để đi làm từ thiện cùng huấn luyện viên Cẩm Ly và Chí Công được chia sẻ trên mạng Internet. | 1 | null |
Chế độ quân chủ Hy Lạp đã bị chế độ độc tài quân sự 1963–1974 xoá bỏ vào ngày 1 tháng 6 năm 1973. Thông tin này đã được xác nhận trong cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 8 tháng 12 năm 1974 sau khi hệ thống cai trị sụp đổ. Vị vua đang trị vì lúc bấy giờ là Konstantinos II (lên ngôi năm 1964 – thoái vị năm 1973). Con trai của ông, Thái tử Pavlos (sinh năm 1967) sẽ là người kế vị ngai vàng tiếp theo trên danh nghĩa. Theo Điều 45 của "Hiến pháp Hy Lạp" năm 1864, Thái tử kế vị sẽ là con trai trưởng của Đức vua đương nhiệm và là hậu duệ của Vua Georgios I của Hy Lạp. Vị trí trong danh sách kế vị ngai vàng sẽ được sắp xếp theo "chế độ ưu tiên quyền thừa kế cho người nam", nghĩa là các hậu duệ nam của Đức vua đương nhiệm sẽ được xếp đứng trước các hậu duệ nữ của Đức vua. | 1 | null |
"Torna a Surriento" ("Trở về Surriento") là một bài hát tiếng Napoli có phần nhạc được cho là được sáng tác vào năm 1902 bởi Ernesto De Curtis, phần lời do anh trai ông là Giambattista De Curtis đặt. Một trong số các bản bằng tiếng Anh là do Claude Aveling đặt lời, tựa đề là "Come Back to Sorrento". Nhạc sĩ Mạnh Phát và Phạm Duy, mỗi người tự đặt lời tiếng Việt cho bài hát nhưng đều lấy tựa đề là "Trở về mái nhà xưa". Rất nhiều nghệ sĩ đã biểu diễn "Torna a Surriento". Nghệ sĩ Trung Kiên cũng đặt lời Việt, và lấy tên "Trở về Surriento".
Lịch sử bài hát.
Giambattista là một nhà thiết kế nội thất khách sạn khi đến Surriento. Người ta cho rằng bài này được sáng tác theo yêu cầu của Guglielmo Tramontano - một người bạn của Giambattista. Năm 1902, Tramontano đương là thị trưởng đô thị Sorrento (tên tiếng Napoli: Surriento) của Italia, đồng thời sở hữu một khách sạn trong thành phố. Năm đó Thủ tướng Giuseppe Zanardelli có trú lại tại khách sạn của ông, vì lẽ đó người ta cho là bản nhạc ra đời để chào mừng thủ tướng đó.
Một số người cho rằng bài hát này là lời kêu gọi Zanardelli giữ lời hứa giúp đỡ thành phố nghèo khổ Sorrento, đặc biệt là cần một hệ thống cống rãnh. Bài hát phản ánh vẻ đẹp tuyệt vời của môi trường xung quanh thành phố và tình yêu và niềm đam mê của người dân. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng bài hát có thể chỉ được làm lại cho dịp này; Các tài liệu gia đình chỉ ra rằng 2 anh em đã gửi một bản sao tới Hiệp hội các Tác giả và Biên tập viên của Ý năm 1894, tám năm trước khi họ tuyên bố đã viết nó.
Một phiên bản của bài hát này cũng được in trong "Celebri canzoni di Ernesto De Curtis" ("Các bài hát chào mừng của Ernesto De Curtis") năm 1894. | 1 | null |
là mô hình dệt lụa quay sợi hiện đại lâu đời nhất của Nhật Bản. Nó được thành lập vào năm 1872 bởi chính phủ để giới thiệu công nghệ dệt lụa quay cuồng hiện đại theo công nghệ Pháp tại Nhật Bản. Nhà máy được Chính phủ Nhật Bản xếp hạng là một Di tích lịch sử quốc gia và tất cả các tòa nhà của nó được bảo quản trong tình trạng rất tốt. Đây là một nhà máy lớn nằm trong khu phố cổ của Tomioka, tỉnh Gunma, cách thủ đô Tokyo khoảng 100 km về phía tây bắc.
Lịch sử.
Ngay sau Cải cách Minh Trị cuối thế kỷ 19, Chính phủ Nhật Bản đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa đất nước để bắt kịp với các cường quốc châu Âu. Vải thô lụa của Nhật Bản trở thành sản phẩm xuất khẩu quan trọng nhất lúc bấy giờ đã giúp duy trì sự tăng trưởng cho cả nền kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, chính sự bùng nổ đã khiến ngành công nghiệp lụa Nhật Bản bắt đầu phải hy sinh chất lượng để tăng số lượng, khiến danh tiếng của vải thô lụa Nhật Bản bị suy giảm. Kết quả là, Chính phủ quyết định thành lập Nhà máy lụa Tomioka như là một cơ sở quấn chỉ lụa được trang bị các máy móc tinh vi và hiện đại nhất, nhằm nâng cao chất lượng vải.
Năm 1870, Paul Brunat là người đã từng làm việc trong một công ty thương mại của Pháp ở Yokohama đã nghiên cứu các địa điểm thích hợp cho một nhà máy lụa trong vùng Kanto và một trong số những Tomioka.
Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1871 và được hoàn thành vào tháng 7 năm kế tiếp. Ba tháng sau, nhà máy bắt đầu hoạt động. Ban đầu, đã có 150 máy quay lụa, và khoảng 400 công nhân nữ điều hành các máy trong nhà máy. Lối sống và làm việc của người lao động đã được ghi lại trong cuốn nhật ký của một nữ công nhân, Wada Ei.
Tomioka tập trung vào cung cấp tơ sống chất lượng cao. Nhưng mặc dù lụa của họ được hưởng danh tiếng tốt ở nước ngoài về chất lượng cao, nhưng việc kinh doanh của các doanh nghiệp luôn luôn trong ngưỡng báo động đỏ. Ngay cả sau khi giảm chi phí, họ vẫn tiếp tục bị thâm hụt vốn kinh niên và kết quả là chính phủ quyết định tư nhân hóa Nhà máy dệt lụa Tomioka và chuyển giao kinh doanh cho Tập đoàn Tài chính Mitsui vào năm 1893. Năm 1902 nó đã được chuyển giao một lần nữa từ Mitsui sang Công ty Hara.
Vào năm 1939 (năm thứ 14 của Thời kỳ Chiêu Hòa), nhà máy Tomioka đã được chuyển giao cho Công ty Công nghiệp Katakura, một công ty quay guồng lụa lớn nhất tại Nhật Bản. Tomioka sau đó đã trở thành nhà máy đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản trong và sau Thế chiến thứ II. Nhà máy đã bị đóng cửa tháng 3 năm 1987, nhưng nó vẫn được bảo quản tốt như một di tích lịch sử quốc gia.
Di sản.
Năm 2005, nhà máy dệt lụa Tomioka đã được chỉ định bởi chính phủ Nhật Bản như một di tích lịch sử và đã được chuyển giao cho thành phố Tomioka quản lý. Tổ hợp nhà máy và các công trình liên quan đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào ngày 21 tháng 6 năm 2014.
Di sản này bao gồm bốn địa điểm chứng thực cho các giai đoạn khác nhau trong sản xuất lụa thô: sản xuất kén tằm một trang trại thực nghiệm; một cơ sở lưu trữ bảo quản kén tằm; quay sợi kén tằm và kéo sợi trong một nhà máy; và một trường học để phổ biến kiến thức trồng dâu nuôi tằm. Nó minh họa cho kỹ thuật sản xuất hàng hóa hàng loạt tốt nhất bằng kỹ thuật hiện đại, trở thành một yếu tố quyết định trong việc đổi mới trồng dâu nuôi tằm và ngành công nghiệp dệt lụa Nhật Bản trong 25 năm cuối thế kỷ 19. Nó đánh dấu bước ngoặt, đưa Nhật Bản vào kỷ nguyên công nghiệp hiện đại, thúc đẩy quốc gia này trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về tơ sống. | 1 | null |
Canzone napoletana ("Nhạc tiếng Napoli") là một thuật ngữ chung dùng để chỉ thể loại âm nhạc truyền thống được hát bằng tiếng Napoli (một ngôn ngữ ở Ý), thông thường là dành cho một giọng nam đơn ca, dù rằng cũng có những tiết mục do giọng nữ đơn ca. Nội dung của loại nhạc này khá quen thuộc, chẳng hạn nói về những lời than trách của tình nhân hoặc là dạ khúc. Rất nhiều ca khúc phổ thông được xếp vào thể loại nhạc này, ví dụ như "'O Sole mio", "Torna a Surriento", "Funiculì, Funiculà", "Santa Lucia" và vân vân.
Canzone napoletana được chính thức hóa vào thập niên 1830 nhờ cuộc thi viết bài hát diễn ra hàng năm nhân Lễ hội Piedigrotta - lễ hội dâng lên Nhà thờ Thánh mẫu Piedigrotta ở Mergellina, Napoli. Cuộc thi này kéo dài đến năm 1950 thì bị bãi bỏ.
Giai đoạn từ 1950 trở đi, nhiều bài này thuộc thể loại này vẫn tiếp tục ra đời, như "Malafemmena" của Totò, "Maruzzella" của Renato Carosone, "Indifferentemente" của Mario Trevi và "Carmela" của Sergio Bruni.
Lịch sử.
Nhiều bài hát thuộc thể loại canzone napoletana đã nổi tiếng trên toàn thế giới do được dân di cư người Ý mang từ Napoli và miền nam Ý ra nước ngoài trong thời kì 1880 đến 1920. Loại nhạc này cũng được truyền bá ở nước ngoài nhờ các nghệ sĩ biểu diễn như Enrico Caruso - người chọn hát các tác phẩm của thành phố quê hương trên sân khấu Metropolitan Opera ở New York, Mỹ vào đầu thập niên 1900. Cũng vì thế mà từ đó các giọng nam cao đều cần phải biết các bài hát này. Điều này dẫn tới các hiện tượng như sự hình thành nhóm nhạc "Ba giọng nam cao" gồm Plácido Domingo, Luciano Pavarotti và José Carreras, trong đó ba giọng nam cao cùng nhau hát các ca khúc phổ thông từ Napoli. Plácido Domingo đã phát hành CD "Italia ti amo" gồm toàn các ca khúc thể loại canzone napoletana cũng như ca khúc Ý. Luciano Pavarotti thì thu ba album gồm các bài hát canzone napoletana và bài hát Ý, đó là "The Best: Disc 2" (2005), "Pavarotti Songbook" (1991) và "Romantica" (2002). Mario Lanza thu âm 12 ca khúc canzone napoletana được cho là chọn lọc vào album "Mario! Lanza At His Best" (1959). Giọng ca opera/pop Sergio Franchi có album "Romantic Italian Songs" (1962) lọt vào Top 25 album đầu tay RCA của "Billboard" và tiếp tục thu âm các bài hát thể loại này vào hầu hết các album trong sự nghiệp. Andrea Bocelli có album "Incanto" (2009) dành riêng cho thể loại này.
Những nghệ sĩ bản địa quan trọng nhất đã biểu diễn các ca khúc canzone napoletana trong các thập niên vừa qua là Roberto Murolo, Mario Trevi, Mario Abbate, Giulietta Sacco, Franco Ricci, Sergio Bruni, Renato Carosone và Mario Maglione. Murolo không chỉ là ca sĩ mà còn soạn nhạc, làm học giả và làm nhà sưu tầm nhạc. Ông giữ bộ sưu tập gồm 12 đĩa hát LP được phát hành thập niên 1960, tựa như một bản trích yếu các ca khúc thể loại này hồi đầu thế kỉ 20.
Một nhân tố quan trọng định hình canzone napoletana là vấn đề ngôn ngữ. Tất cả các nhạc phẩm thể loại này đều được sáng tác và biểu diễn bằng tiếng Napoli. | 1 | null |
USS "Bruce" (DD-329) là một tàu khu trục lớp "Clemson" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên Trung úy Hải quân Frank Bruce (1879-1919), người thiệt mạng trong một nhiệm vụ quét mìn tại Bắc Hải. "Bruce" ngừng hoạt động năm 1930 và bị tháo dỡ năm 1932 nhằm tuân thủ quy định hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London
Thiết kế và chế tạo.
"Bruce" được đặt lườn vào ngày 30 tháng 7 năm 1919 tại xưởng tàu Union Iron Works của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 5 năm 1920, được đỡ đầu bởi bà Annie Bruce, vợ góa Trung úy Bruce; và được đưa ra hoạt động vào ngày 29 tháng 9 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân G. N. Reeves, Jr..
Lịch sử hoạt động.
"Bruce" hoạt động từ San Diego, California trong năm phục vụ đầu tiên để huấn luyện kỹ thuật, thực hành tác xạ và ngư lôi cũng như cơ động cùng Hải đội Khu trục 5 trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Vào tháng 11 năm 1921, cảng nhà của nó được chuyển đến Boston, Massachusetts và nó trình diện để phục vụ cùng Đội khu trục 27 trực thuộc Hạm đội Tuần tiễu. Hoạt động thường lệ của nó trong những năm tiếp theo bao gồm thực hành và cơ động hạm đội. Đến tháng 12 năm 1924, vị chỉ huy của nó cũng đồng thời đảm nhiệm Tư lệnh Đội khu trục 27. Cảng nhà của nó lại được chuyển từ Boston đến Xưởng hải quân Norfolk vào tháng 6 năm 1925. Đến ngày 17 tháng 6, nó cùng đội của nó lên đường làm nhiệm vụ cùng Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Châu Âu, và trong một năm tiếp theo, nó hoạt động phối hợp cùng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ như một yếu tố bình ổn tại các khu vực đầy bất trắc và như lực lượng đảm bảo an ninh cho công dân Hoa Kỳ tại các khu vực này.
Sau khi quay trở về Norfolk, "Bruce" hoạt động dọc theo vùng bờ Đông và tại các vùng biển Cuba và Haiti cho đến tháng 3 năm 1927. Vào tháng 3, nó tham gia cuộc tập trận chiến thuật hạm đội tổ chức tại Colón, Panama, tiếp nối bởi đợt tập trung hạm đội dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Trong mùa Hè đó, nó thực hiện các chuyến đi huấn luyện cho nhân sự Hải quân Dự bị tại vùng biển Đông Bắc. Trong những năm 1928 và 1929, nó tiếp tục tham gia các cuộc cơ động hạm đội và thực hành dọc theo vùng bờ Đông.
Đến tháng 9 năm 1929, "Bruce" đi vào Xưởng hải quân Philadelphia, nơi nó được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 5 năm 1930. Nó sau đó được cho kéo đến Xưởng hải quân Norfolk, nơi nó được sử dụng trong các thử nghiệm sức chịu đựng. Nó bị bán như sắt vụn vào tháng 8 năm 1932. | 1 | null |
USS "Hull" (DD-330) là một tàu khu trục lớp "Clemson" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân Isaac Hull (1773-1843), người tham gia cuộc Chiến tranh 1812. "Hull" ngừng hoạt động năm 1930 và bị tháo dỡ năm 1931 nhằm tuân thủ quy định hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.
Thiết kế và chế tạo.
"Hull" được đặt lườn vào ngày 13 tháng 9 năm 1920 tại xưởng tàu Union Iron Works của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 2 năm 1921, được đỡ đầu bởi cô Elizabeth Hull; và được đưa ra hoạt động vào ngày 26 tháng 4 năm 1921 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân T. J. Doyle.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi hoàn tất chạy thử máy dọc theo bờ biển California, "Hull" tham gia các hoạt động thực tập và huấn luyện ngoài khơi San Diego, California trong thời gian còn lại của năm. Trong năm 1922, nó tham gia nhiệm vụ khảo sát địa hình dưới nước và vẽ bản đồ dọc bờ biển Nam California. Sau khi hoàn tất cuộc cơ động mùa Đông ngoài khơi Panama và thực tập huấn luyện ngoài khơi San Diego, nó khởi hành vào ngày 28 tháng 6 năm 1923 trong thành phần hộ tống cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Warren G. Harding đến Alaska. Chính trong chuyến đi này mà Harding mắc bệnh, và từ trần tại San Francisco vào ngày 2 tháng 8. Chiếc tàu khu trục quay trở về San Diego vào ngày 8 tháng 9, và tiếp nối các hoạt động thực hành tại khu vực này.
"Hull" khởi hành vào ngày 2 tháng 1 năm 1924 để hoạt động tại vùng biển Caribe, bao gồm một chuyến viếng thăm Veracruz, Mexico nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của công dân Hoa Kỳ tại đây. Đến tháng 4, nó đi đến Seattle, Washington, và hoạt động giữa thành phố này và Seward, Alaska, khảo sát địa hình dưới nước cho việc lắp đặt đường cáp liên lạc mới đến Alaska. Khi quay về vào đầu tháng 5, nó tiếp nối các hoạt động thực hành dọc bờ Tây. Nó tiếp tục hoạt động từ San Diego xen kẻ với những chuyến đi đến Panama cho đến năm 1927. Sau đó nó lên đường cùng Hạm đội Chiến trận vào ngày 17 tháng 11 cho các cuộc cơ động chiến thuật tại vùng biển Caribe. Chiếc tàu khu trục viếng thăm New York trước khi quay trở về San Diego vào ngày 26 tháng 6 tiếp nối các hoạt động huấn luyện.
"Hull" đi đến Xưởng hải quân Mare Island để đại tu vào ngày 11 tháng 6 năm 1929, và quay trở về San Diego vào tháng 10, nơi nó được cho xuất biên chế vào ngày 31 tháng 3 năm 1930. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 6 năm 1931 nhằm tuân thủ những điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.
Chiếc chuông của con tàu được trao tặng cho Đại học Marquette ở Milwaukee, Wisconsin. | 1 | null |
Lã Kiền (chữ Hán: 吕虔, ?- ?), tự Tử Khác, người quận Nhiệm Thành, tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Khi Tào Tháo còn ở Duyện Châu, nghe được Kiền có can đảm và mưu lược, dùng làm Tùng sự, để ông đem gia binh đi giữ Hồ Lục. Bộ hạ của Tương Lăng (hay Tương Bí) hiệu úy Đỗ Tùng là bọn Quế Mẫu làm loạn, liên kết với Xương Hi. Tháo lấy Kiền thay Tùng. Kiền đến nơi, một mặt chiêu dụ Quế Mẫu cùng bọn cừ soái đồng đảng vài mươi người, ban cho rượu thịt, một mặt kén tráng sĩ phục ở một bên. Kiền giết bọn Quế Mẫu đang say, rồi sai phục binh đánh giết tất cả bọn chúng. Kiền phủ dụ bộ hạ của bọn chúng, dẹp xong cuộc nổi loạn.
Tháo lấy Kiền làm Thái Sơn thái thú. Quận này tiếp giáp núi, biển; gặp thời loạn, dân chúng phần nhiều trốn tránh ở đấy. Viên Thiệu ban cho bọn thảo khấu Quách Tổ, Công Tôn Độc làm trung lang tướng, khiến trăm họ khổ sở. Kiền đưa gia binh đến quận, thi hành ơn tín, bọn Tổ đều hàng phục, những người trốn tránh trong núi cũng trở ra để an cư lạc nghiệp. Kiền chọn người khỏe mạnh làm chiến sĩ, quận Thái Sơn nhờ vậy mà có tinh binh nổi tiếng trong châu.
Thủ lĩnh nghĩa quân Khăn vàng ở Tế Nam là bọn Từ Hòa cướp bóc quan lại, tấn công thành ấp. Kiền hội quân với Hạ Hầu Uyên đánh dẹp, trước sau mấy chục trận, chém giết và bắt sống vài ngàn người. Tào Tháo sai Kiền đốc quân đội các quận Thanh Châu đánh dẹp các lực lượng nổi dậy ở quận Đông Lai là bọn Lý Điều, có công. Tháo sánh Kiền với Khấu Tuân, Cảnh Yểm đời Đông Hán, cử làm Mậu tài, gia Kỵ đô úy, nắm quận như cũ.
Kiền ở Thái Sơn mười mấy năm, rất có ơn uy. Tào Phi nối ngôi vương, Kiền được gia Tì tướng quân, phong Ích Thọ đình hậu, thăng Từ Châu thứ sử, gia Uy lỗ tướng quân. Kiền mời người quận Lang Tà là Vương Tường làm biệt giá, đem dân sự ủy hết cho ông ta, người đời khen ngợi ông biết dùng hiền tài. Sau đó Kiền tham gia dẹp loạn ở Lợi Thành, có công.
Minh đế lên ngôi, Kiền được dời phong Vạn Niên đình hầu, tăng ấp 200 hộ, kể cả trước đấy là 600 hộ. Kiền hoăng, con là Phiên được kế tự. | 1 | null |
Giambattista de Curtis (20 tháng 7 năm 1860 - 15 tháng 1 năm 1926) là một họa sĩ và nhà thơ người Ý, ngày nay được tưởng nhớ đến qua các phần lời đặt cho bài hát.
Tiểu sử.
Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Napoli, là con đầu lòng của Giuseppe de Curtis - họa sĩ vẽ bích họa - và Elisabetta Minnon. Ông là chắt của nhà soạn nhạc Saverio Mercadante. Ông thể hiện niềm đam mê đầu tiên là hội họa mà ông học từ người cha, và tài nghệ của ông đạt đến mức mà người ta gọi ông là "Salvator Rosa đương thời". Ông dành toàn tâm vẽ tranh, làm thơ và sáng tác các tác phẩm dành cho nhà hát cũng như đặt lời cho các ca khúc phổ thông; bên cạnh đó, ông còn là một điêu khắc gia. Tình yêu dành cho những bài hát tiếng Napoli dẫn dắt ông đến sự cộng tác với nhà soạn nhạc Vincenzo Valente - lúc đó là người ở trọ trong dinh thự nhà De Curtis. Năm 1889, Valente soạn nhạc cho ca khúc đầu tay "A Pacchianella", sang năm sau (1890) ông phổ nhạc tiếp bài "Muglierema come fa?", rồi "'I Pazziava" (1890), "Ninuccia" (1894) và "Tiempe Felice" (1895). De Curtis chưa bao giờ ngưng đặt lời cho bài hát và làm thơ. Tuy nhiên, có vẻ vai trò của những việc ấy chưa bao giờ vượt qua mức là thứ giết thời gian của ông.
De Curtis dành tình yêu lớn cho thành phố Sorrento. Từ năm 1891 đến năm 1910, ông đều dành sáu tháng mỗi năm đến ở tại khách sạn lớn của Guglielmo Tramontano - lúc đó đương là thị trưởng thành phố. Năm 1892, ông gặp Carmela Maione - người đã khơi cảm hứng để ông làm ca khúc nổi tiếng "Duorme Carmè'". Maione vốn là con gái của một đại tá quân đội phục vụ ở Tramontano và sống tại Fuorimura. Người ta cho rằng, ý tưởng về bài hát khởi đầu từ một cuộc trò chuyện giữa hai người trong sảnh khách sạn; De Curtis hỏi cô gái rằng cô ấy thường hay làm gì, và cô đáp lại rằng, "Ngủ". Bởi thế mà điệp khúc của bài hát bắt đầu là: ""Duorme Carmè:
‘o cchiù bello d’ ’a vita è ‘o ddurmì… [điều [đẹp] nhất trong đời là ngủ]"".
Phong cách làm việc điển hình của De Curtis là vậy. Khi sáng tác lời cho bài hát ông thường lấy cảm hứng từ những tiếp xúc với người khác hoặc những thứ nào đó mà ông trải qua. Thực tế, ông là một người tò mò và hòa nhã, hiếm khi kiệm lời khen dành cho một phụ nữ quyến rũ. Ông tán tỉnh nhiều người và dâng hiến những lời nhạc nói về họ. Tuy thế, tận đến 1910 ông mới kết hôn khi đã ngũ tuần và đã đính hôn gần hai mươi năm. Vợ ông là Carolina Scognamiglio.
Tramontano và De Curtis là bạn rất thân của nhau. Vị thị trưởng thuê ông trang trí một số phòng trong khách sạn bằng các bức bích họa của ông; tại đó ông cũng vẽ một số tranh sơn dầu, làm thơ và viết lời bài hát. Trong số này phải kể đến nhạc phẩm "Torna a Surriento" - bài hát được cho là ra đời năm 1902 để kỉ niệm Thủ tướng Ý Giuseppe Zanardelli đến trú tại khách sạn. Dịp đó, Tramontano nhờ Giambattista De Curtis và người em Ernesto De Curtis sáng tác bài hát để ca ngợi Zanardelli. Tuy nhiên, có tài liệu cho rằng bài hát đã có từ 1894, trước tám năm so với thời điểm anh em De Curtis tuyên bố sáng tác ra bài hát.
Sự kết hợp nghệ thuật giữa hai anh em nhà De Curtis đã cho ra đời nhiều trái ngọt. Năm 1897, họ cho ra "'A primma vota", rồi "Amalia" (1902, dành tặng người vợ mới Amalia Russo của Ernesto). Năm 1911, hai anh em cho ra bài hát "Lucia Lucì (I' m'arricordo 'e te)". Họ vẫn hợp tác với nhau ngay cả khi Ernesto chuyển đến Mỹ vào năm 1920.
De Curtis chuyển đến khu Vomero vào năm 1916, sống ở đường Luca Giordano, sát cạnh công viên Villa Floridiana. Ông tiếp tục viết và vẽ cho đến khi qua đời vào tháng 1 năm 1926 do chứng liệt tiếp diễn. Vài ngày sau đó, lá thư của em trai Ernesto mới đến nơi. Trong thư có viết: "Gửi Giambattista. Em gửi anh phần nhạc của ca khúc mà anh gửi em tháng trước; em hi vọng anh hài lòng." | 1 | null |
Hussein ibn Ali là con trai của Ali ibn Abi Talib (Rashidun Caliph thứ tư của Hồi giáo Sunni, và Imam đầu tiên của Hồi giáo Shia) và Fatimah Zahra (con gái của nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad) và em trai của Hasan ibn. Husayn là một nhân vật quan trọng trong đạo Hồi, do ông là một thành viên của Ahl al-Bayt (gia đình của Muhammad) và Ahl al-Kisa, cũng như là Shia Imam thứ ba. Husayn được đánh giá cao bởi người Hồi giáo Shia vì ông từ chối cam kết trung thành với Yazid I, khalip Umayyad vì ông coi sự cai trị của đế chế Umayyad là bất công. | 1 | null |
Angry Birds Rio là trò chơi điện tử phỏng theo game "Angry Birds" và bộ phim Rio, do Rovio cùng 20th Century Fox và Blue Sky sản xuất. Game đạt được trên 10.000.000 lượt tải xuống hàng tháng. Sau phần 1, người chơi lại được tận mắt chứng kiến phần 2 đầy thú vị qua đồ hoạ 3D. Chỉ sau 1 tuần từ khi phần 2 ra mắt, game đã đạt được 1.000.000 lượt tải về.
Giới thiệu chung.
Lấy bối cảnh sau khi phiên bản game đầu tiên kết thúc, những chú chim đang hạnh phúc bên nhau, thì tai họa lại ập đến khi chúng bị bắt và mang sang Rio de Janerio (Brazil). Tại đây, chúng khám phá ra hàng loạt chú chim bị bọn săn bắt trộm nhốt trong những chiếc lồng sắt. Nội dung của phiên bản này có phần khác biệt so với phiên bản gốc. Thay vì phá hủy cấu trúc để tiêu diệt lũ heo màu xanh, phiên bản Angry Birds Rio, người dùng phải phá hủy các cấu trúc để phá vỡ các lồng chim, giải thoát cho những chú chim bên trong. Sau đó, các chú chim còn phải chiến đấu để chống lại lũ khỉ đuôi sóc và giải thoát cho những loài chim khác.
Tính năng mới trong Angry Birds Rio 2.
Angry Birds Rio 2 cũng được lấy bối cảnh của Rio, ngoài ra, game cũng được lấy từ Rio 2, sau khi Rio 1 kết thúc. Game đã nhận được 100.000 yêu thích trên Google. Thay thế với đồ họa như một bộ phim hoạt hình, game đã được phỏng qua đồ họa 3D. Thay thế trái cây ẩn thành những đồ vật bí ẩn. Game được cập nhật lần đầu trên hệ điều hành Android,iOS và Windows.
Các tập phim.
Rio 1 Episode.
- Smugglers' Den, gồm 30 levels, quả dứa vàng.
- Jungle Escape, gồm 30 levels, quả chuối vàng, Nigel.
- Beach Volley, gồm 30 levels, quả bóng vàng.
- Carnival Upheaval, 30 levels
- Airfield Chase, 30 levels, quả táo vàng
- Smugglers' Plane, 30 levels, quả xoài vàng, Nigel Boss Mash'up
- Market Mayhem, 30 levels, quả dâu vàng
- Golden Beachball, 30 levels đặc biệt.
Bonus:
+ 30 sao, 50 sao và 70 sao từng tập
+ Hoàn thành 10 MIghty Feathers có trong Mighty Eagle
+ Lấy được 15 trái cây ẩn từng tập
Rio 2 Episode.
Bonus:
+ 30 sao và 50 sao từng tập
+ Hoàn thành 10 Mighty Feathers có trong Mighty Eagle
+ Lấy được 10 đồ vật ẩn từng tập
Power-Ups.
- Sling Scope
- Super Seeds
- Mighty Eagle.
- Samba seeds
- Call The FLock
- TNT Drop
Đơn vị tiền ảo.
Từ v2.4.0, người dùng có thể sử dụng tiền ảo để mua power-ups trong game (trừ Mighty Eagle) | 1 | null |
Mạch Trường Thanh - () hiện đang là nam diễn viên tuyến đầu của hãng phim TVB Hong Kong.
Tiểu sử.
Mạch Trường Thanh sinh ngày 18 tháng 12 năm 1968, được biết đến như MakBau(麦包), là một diễn viên Hong Kong hãng phim TVB. Ông được ca ngợi và nổi tiếng nhất với vai diễn phản diện của ông trong những nhân vật phản diện chính, Leung Fei-fan (Fei Fan Gor - Lương Phi Phàm), trong phim Nghĩa Hải Hào Tình, mà ông đã giành được giải thưởng kỉ niệm TVB hàng năm lần thứ 43 cho hạng mục Nam diễn viên hỗ trợ xuất sắc nhất. ông cũng đã giành Nam diễn viên xuất sắc nhất trong giải thưởng vai trò hỗ trợ trong lễ trao giải Truyền hình Châu Á năm 2011 lần thứ 16 cho vai trò tương tự. Ông cũng được biết đến với công việc lồng tiếng cho phim hoạt hình của mình cùng hãng Flash Fax và After School ICU. | 1 | null |
Đại học Liên bang Minas Gerais (tiếng Bồ Đào Nha: Universidade Federal de Minas Gerais) là một trường đại học liên bang nằm ở Belo Horizonte, bang Minas Gerais, Brazil. Các sinh viên giai đoạn đầu (undergraduate) được nhận vào học thông qua các kỳ thi quốc gia định kỳ sáu tháng một lần được gọi là hệ thống lựa chọn hợp nhất. Đây là một trong năm trường đại học lớn nhất của Brazil, là trường đại học liên bang lớn nhất. Trường cung cấp 75 chương trình đại học, bao gồm các bằng ngành Y, Luật và Kinh tế, cộng với kỹ thuật và khoa học, nghệ thuật. Trường có 57 chương trình tiến sĩ, 66 chương trình thạc sĩ, 79 chương trình sau tú tài và 38 chương trình thực tập y tế. Trường có 49.254 sinh viên theo học. | 1 | null |
Trận chung kết giải bóng đá vô địch thế giới 2014 là trận đấu bóng đá đã diễn ra vào ngày 13 tháng 7 năm 2014 tại sân vận động Maracanã ở thành phố Rio de Janeiro để xác định nhà vô địch của Giải vô địch bóng đá thế giới 2014.
Trận đấu được theo dõi bởi gần 1 tỷ người và đây đã trở thành một trong những sự kiện truyền hình lớn nhất lịch sử. Trận đấu được diễn ra vào lúc 16:00 giờ địa phương (UTC-3).
Đây là lần thứ 3 mà 2 đội gặp nhau ở trong các trận chung kết FIFA World Cup, ở trong quá khứ thì Argentina thắng Đức 3–2 năm 1986 và Đức thắng Argentina 1–0 năm 1990.
Đức đã đánh bại Argentina với bàn thắng duy nhất được ghi do công của Mario Götze ở phút thứ 113 của trận đấu (phút thứ 8 của hiệp phụ thứ 2), qua đó trở thành nhà tân vô địch, đăng quang lần thứ 4 trong lịch sử
World Cup.
Trận đấu.
Chi tiết.
<section begin=m1 /><section end=m1 />
<section begin=lineups />
</includeonly><section end=lineups />
Quy tắc trận đấu: | 1 | null |
Tàu khu trục lớp Hatsuyuki (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (DD) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục chống ngầm tương tự như người tiền nhiệm của nó - tàu khu trục lớp Yamagumo. Từ năm 1977 đến năm 1982, 12 tàu thuộc lớp này đã được chế tạo. Đơn giá đóng mới khoảng 30 tỷ yên mỗi tàu (thời giá năm 1977).
Lịch sử phát triển.
Tàu khu trục lớp Hatsuyuki là một phát triển hiện đại hóa hơn nữa trên cơ sở của tàu khu trục lớp Yamagumo. Đảm nhận việc thiết kế và đóng mới các tàu lớp Hatsuyuki đóng mới là Hitachi Zosen Corporation và các tổ hợp tập đoàn, nhà máy đóng tàu như Ishikawajima Harima Heavy Industries, Mitsui Engineering & Shipbuilding, Sumitomo Heavy Industries và Mitsubishi Heavy Industries. Có tất cả 12 tàu lớp Hatsuyuki đã được đóng trong giai đoạn từ 1979 - 1986, đến nay chỉ còn "JS Setoyuki" (DD-131/TV-3518) còn hoạt động. Vào năm 2013, chính phủ Nhật đã thông qua kế hoạch chuyển đổi 4 tàu khu trục lớp Hatsuyuki cho Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản, trước khi chuyển giao các tàu này sẽ được tháo dỡ toàn bộ hệ thống vũ khí và đổi phân lớp thành tàu tuần tra cỡ lớn mang trực thăng (PLH - Patrol Vessel Large With Helicopter).
Hatsuyuki là lớp tàu khu trục đa nhiệm đầu tiên của Nhật Bản được được trang bị tên lửa phòng không RIM-7 Sea Sparrow, tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon và trực thăng săn ngầm Sikorsky HSS-2B Sea King. Đồng thời đây cũng là lớp khu trục đầu tiên sử dụng tuabin khí hoặc kết hợp khí (COGOG) và hệ thống động cơ đẩy giúp tàu có thể hoạt động ở tốc độ cao. Vào năm 1982 và 1990, JMSDF quyết định thí điểm triển khai bổ sung hệ thống CIWS Phalanx và sonar kiểu mảng kéo trên 2 tàu "JS Matsuyuki" DD-130 và "JS Hatsuyuki" DD-122 sau đó mới nhân rộng cho các tàu khác.
Thân tàu có thiết kế tương tự lớp tàu Isuzu (34DE). Boong phía sau có hình dạng ba tầng, bố trí nhà chứa và sàn đáp cho trực thăng săn ngầm, tầng thứ hai dài 7,5m và là nơi đặt bệ phóng tên lửa RIM-7 Sea Sparrow. Lối đi lại ở phần tiếp giáp giữa boong sau và boong thứ hai bên trong tàu có kết cấu cửa kép để ngăn nước biển xâm nhập vào tàu, tuy nhiên thực tế lại không mang lại hiệu quả cao và luôn ẩm ướt trong thời tiết mưa bão, sàn tàu gây khó chịu cho thủy thủ đoàn. Đặc biệt, boong phía sau thường xuyên bị sóng biển đánh vào, khiến nhiều thiết bị trên tàu bị cuốn trôi và thân tàu bị ăn mòn do nước biển. Phần thân tàu phía dưới nước được trang bị vây ổn định nhằm làm tăng độ ổn định cho tàu trong điều kiện di chuyển tốc độ cao. Ban đầu, bộ vây ổn định được chế tạo bởi Vosper & Company ở Vương quốc Anh, nhưng từ "JS Yamayuki" trở đi được trang bị loại do MHI sản xuất trong nước theo giấy phép.
Vào năm 1975, trong một vụ va chạm giữa tàu tuần dương "USS Belknap" (CG-26) và tàu sân bay "USS John F. Kennedy" (CV-67) ngoài khơi bờ biển Sicilia, Ý, tàu "USS Belknap" với quá nhiều nhôm trong kết cấu vỏ tàu khiến khả năng chịu nhiệt kém, dẫn đến toàn bộ kết cấu thượng tầng của tàu gần như bị thiêu rụi. Tiếp theo đó là năm 1982, Chiến tranh Falkland giữa Anh và Argentina bùng nổ, 7 tàu hộ vệ lớp Type 21 đã được Hải quân Hoàng gia Anh điều động tham chiến. 2 chiếc trong số đó, "HMS Ardent" và "HMS Antelope", đã bị đánh chìm bởi hỏa lực của Không quân Cộng hòa Argentina (FAA). Cấu trúc hợp kim nhôm của tàu đã bị vỡ thành hàng trăm mảnh nhỏ dưới tác động của sức ép vụ nổ và bắn vào bên trong tàu, gây thương vong cho thủy thủ đoàn và phá hủy các thiết bị.
Điều này thực sự là một cú sốc cho giới lãnh đạo của JMSDF vào thời điểm đó. Bởi để tiết kiệm chi phí đóng mới, trong ngành công nghiệp đóng tàu chiến của Nhật Bản vào thời điểm đó, một phần đáng kể các kết cấu thượng tầng như cột buồm, ống khói và nhà chứa máy bay thường được chế tạo bằng hợp kim nhôm để giảm giá thành và các tàu đầu tiên thuộc lớp Hatsuyuki cũng trong ngoại lệ. Sau đó, bắt đầu từ tàu DD-129 "JS Yamayuki" trở về sau, vật liệu thép truyền thống đã được sử dụng để chế tạo cấu trúc thượng tầng thay cho hợp kim nhôm.
Tàu có lượng giãn nước tiêu chuẩn 3.050 tấn, đầy tải 4.000 tấn; chiều dài 130 m; chiều rộng 13,6 m; mớn nước 4,2 m với biên chế thủy thủ đoàn 200 binh sĩ. Mặc dù gọi là tàu khu trục nhưng kích thước cũng như chức năng của Hatsuyuki chỉ được thế giới xếp vào hạng tàu hộ vệ. Các tàu khu trục lớp Hatsuyuki đều được đặt theo tên các tàu khu trục của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) từng tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Hệ thống điện tử.
Hatsuyuki được lắp đặt hệ thống định hướng chiến đấu OYQ-5, hệ thống OYQ-5 được trang bị hệ thống máy tính điều khiển AN/UYK-20 và máy trạm AN/UYA-194B (OJ-194B). Hệ thống máy tính này cung cấp khả năng tính toán siêu tốc cho phép tàu khu trục lớp Hatsuyuki đối phó hiệu quả với các mục tiêu, đặc biệt là các mục tiêu dưới nước. Hệ thống thông tin liên lạc cấp chiến thuật Link-14 (STANAG 5514) giúp Takatsuki có thể dễ dàng kết nối thông tin với tất cả các tàu chiến cũng như các thiết bị quân sự khác thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và đồng minh.
Các bộ cảm biến của tàu bao gồm radar định vị phát hiện mục tiêu trên không tầm xa OPS-14B (tương đương với radar AN/SPS-49 do Mỹ sản xuất), radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-18, radar điều khiển hỏa lực FCS-2-12 do Nhật tự sản xuất dùng để dẫn bắn tên lửa phòng không chuyên dụng tầm trung RIM-7 Sea Sparrow, radar điều khiển hỏa lực FCS-2-21 dùng để dẫn bắn cho pháo hạm 76mm Mk-75, sonar kiểu mảng kéo OQR-1 TASS và sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm OQS-4. Anten của OQS-4 được được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu, anten được tách rời khỏi các khoang trên tàu bằng bộ phận cách âm, giảm tối thiểu nhiễu thủy âm khi sonar hoạt động.
Ngoài ra, tàu còn được trang bị radar cảnh báo OLR-9B, các hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp ESM NOLR-6C và OLT-3 ECM. Các hệ thống này được kết nối với nhau để thực hiện việc dò tìm tín hiệu vô tuyến phát từ radar tàu và tên lửa đối phương, đồng thời phát tín hiệu gây nhiễu làm nhiễu đầu dò radar của tên lửa chống hạm, khiến chúng bám theo các mục tiêu ảo hoặc giảm tầm hiệu quả của đầu dò, cho phép tàu tránh được tên lửa. Các hệ thống này thường kết hợp với hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC. Cơ chế hoạt động của nó là phóng ra các rocket thả lá nhôm, tạo ra mục tiêu giả, gây nhầm lẫn cho đầu dò của tên lửa đang hướng đến.
Tên lửa.
RIM-7 Sea Sparrowral.
Hatsuyuki được lắp đặt một hệ thống phóng tên lửa Mk-29 (8 ống phóng) ở phía đuôi tàu, sức chứa 8 tên lửa đất đối không tầm trung RIM-7 Sea Sparrow. RIM-7 Sea Sparrow là thế hệ tên lửa hải đối không được Raytheon và General Dynamics hợp tác phát triển từ những năm 1960 và đi vào hoạt động vào năm 1976. Nó được thiết kế như một loại tên lửa hạng nhẹ phòng thủ điểm, có thể nhanh chóng triển khai tác chiến trên những tàu chiến hiện đại, thường lắp tại vị trí của vũ khí phòng không. Mỗi quả tên lửa RIM-7 Sea Sparrow có giá khoảng 165.400 đô la.
Thiết kế của RIM-7 về cơ bản không có gì quá khác biệt với thân dài hình trụ tròn với mũi khá nhọn, nó có bốn cánh lái phía sau đuôi và bốn cánh ổn định ở giữa thân. Sở hữu trọng lượng 231 kg, chiều dài 3,64 m, đường kính 20,3 cm, sải cánh 1 mét, tên lửa RIM-7 Sea Sparrow có thể mang đầu đạn phân mảnh hình khuyên nặng 40,5 kg, trang bị ngòi nổ cận tiếp xúc, đủ sức phá hủy máy bay cánh cố định, trực thăng, bom hàng không và cả tên lửa hành trình chống hạm bay bám mặt biển của đối phương. Đặc biệt, sức nổ của tên lửa có thể tiêu diệt vũ khí đối phương trong bán kính 8,2 m, khiến nó trở nên nguy hiểm hơn. Với động cơ phản lực đẩy hiệu suất cao Hercules MK-58 sử dụng nhiên liệu rắn, RIM-7 Sea Sparrow có thể bay với vận tốc lên tới 4.256 km/h. Phạm vi hoạt động của tên lửa đạt 10 hải lý, tương đương 19 km, độ cao bắn hạ mục tiêu 30m.
RIM-7 được dẫn bằng quán tính độc lập giai đoạn đầu, ở giai đoạn 2 tên lửa sẽ liên tục được tàu phóng gửi cập nhật dữ liệu mục tiêu cho phép tên lửa tự điều chỉnh hướng (bám mục tiêu) và trong giai đoạn cuối đầu tự dẫn radar bán chủ động xung doppler của tên lửa sẽ tự động kích hoạt, tìm, khóa và tấn công mục tiêu. Điều này cung cấp khả năng khóa mục tiêu chính xác từ xa sau khi được phóng khỏi tàu mẹ. Tên lửa có thể được dẫn đường dọc theo quỹ đạo đặc biệt để tạo điều kiện thuận lợi cho ngòi nổ và đầu nổ hoạt động. Đặc biệt, RIM-7 có thể hoạt động tương đối chính xác trong môi trường tác chiến bị ảnh hưởng nặng nề bởi các công nghệ gây nhiễu điện tử phức tạp. Nếu không tìm thấy mục tiêu trong một khoảng thời gian tên lửa sẽ tự hủy hay nhận lệnh tự hủy từ bên ngoài. Việc sử dụng đầu nổ phân mảnh có định hướng giúp điều chỉnh hướng nổ của đầu đạn dựa theo vị trí của mục tiêu trong radar với các tính toán hướng di chuyển của mục tiêu và sẽ phát nổ khi tiến lại gần trong một khoảng nhất định.
RGM-84C Harpoon.
Để thực hiện nhiệm vụ chống hạm, Hatsuyuki được vũ trang tên lửa hành trình chống hạm RGM-84C Harpoon do Công ty MacDonnell Douglas (hiện nay là thuộc Tập đoàn Boeing, Mỹ) phát triển. Tên lửa được đặt trong 2 bệ phóng, mỗi bệ 4 ống phóng kiêm bảo quản. Hệ thống phóng được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt song song hai bên thân tàu, hệ thống phóng khá cồng kềnh và tốn nhiều diện tích trên tàu.
RGM-84C là một tên lửa hành trình có cấu trúc khí động học thông thường. Như bất kỳ tên lửa hành trình hiện đại nào, tên lửa RGM-84C có các bộ phận chính là vỏ lượn gồm thân, cánh, đuôi, động cơ xuất phát thường là động cơ tên lửa, động cơ hành trình thường là động cơ phản lực không khí và hệ thống điều khiển và khối tự hủy. Tên lửa có cánh hình chữ thập, cánh thăng bằng và ống hút khí nửa chìm. Tên lửa có thể được trang bị thêm máy gia tốc. Để khởi động cho tên lửa, người ta sử dụng động cơ đẩy nhiên liệu rắn có thể tháo rời. Sau khi được phóng đi với một tốc độ nhất định, động cơ tuabin phản lực bắt đầu làm việc. Khi tên lửa bay ở độ cao 10-15 mét, tên lửa được điều khiển bằng hệ thống điều khiển quán tính và ở cuối quỹ đạo tên lửa được dẫn hướng tới mục tiêu bằng đầu dò radar chủ động để bám sát và khóa mục tiêu. Sau đó, hệ thống điều khiến quán tính đưa tên lửa xuống độ cao rất thấp, khoảng 3 – 5 m. Ở độ cao này, tên lửa tiếp tục quá trình điều khiển bằng dữ liệu nạp vào tên lửa và hệ thống điều khiển quán tính tiếp tục điều khiển tên lửa cho đến khi tên lửa trúng mục tiêu.
Khối dẫn quán tính được sử dụng để dẫn tên lửa Harpoon theo quỹ đạo hành trình xác định tới nơi có mục tiêu trước khi kích hoạt đầu tự dẫn radar chủ động khóa bám mục tiêu. Khối dẫn quán tính bao gồm 1 máy tính kiểm soát trạng thái hành trình và lập lệnh điều khiển cánh lái, 1 khối cảm biển gia tốc thẳng và gia tốc góc và 1 khối cập nhật dữ liệu máy đo cao vô tuyến. Dựa trên tham số hành trình được nạp trước khi phóng và các tham số gia tốc, độ cao trong hành trình của đạn, máy tính của khối dẫn quán tính tiến hành tính toán và lập lệnh điều khiển cánh lái chỉnh đạn bay theo đúng hành trình dự kiến tới mục tiêu. Máy tính của khối dẫn quán tính cũng là nơi lập lệnh kích hoạt khối tự huỷ nếu sai số dẫn vượt quá tham số khống chế.
Tên lửa được dẫn hướng tới mục tiêu bằng một đầu dò radar dẫn đường chủ động. Radar có nhiệm vụ xác định liên tục tọa đọ các tham số chuyển động của tên lửa cung cấp các số liệu cần thiết và dẫn tên lửa chuyển động theo hướng bay xác định tới mục tiêu. Cấu tạo của radar dẫn đường bao gồm khối anten, khối phát, khối thu và khối xử lý tín hiệu. Các khối này được gắn trên khung đế đầu tự dẫn và được nắp chụp bảo vệ. Nắp chụp đầu tự dẫn có hình chóp elíp đảm bảo độ lợi khí động khi tên lửa Harpoon bay trong tốc độ hành trình cận âm.
RGM-84C Harpoon có chiều dài 4,64m, đường kính thân 0,34m, trọng lượng khi phóng 682 kg, được lắp đầu đạn thuốc nổ phân mảnh khối lượng 145 kg có độ xuyên phá cao, được thiết kế để tiêu diệt các tên lửa, ngư lôi, tàu pháo, tàu mặt nước có lượng giãn nước 5.000 tấn và các tàu vận tải.
Để có thể bay là là trên mặt biển ở độ cao thấp từ 3 đến 5 m, RGM-84C sử dụng một radar đo cao, bao gồm thiết bị thu phát và hai anten. Radar này có độ chính xác khá cao (1 m) và cho phép xác định độ cao của tên lửa trong phạm vi từ 1 đến 5.000 m ngay cả khi nó thay đổi đổi quỹ đạo bay. Trọng lượng của thiết bị đo độ cao khoảng 4,5 kg, được tích hợp trên bo mạch, tiêu thụ công suất 20 W.
Tên lửa chống hạm RGM-84C được lắp hai động cơ bao gồm động cơ khởi động và động cơ hành trình. Động cơ khởi động tên lửa tạo gia tốc ban đầu cho tên lửa chuyển động, khi đạt độ cao ổn định động cơ tuabin phản lực cánh quạt đẩy chính sẽ khởi động đưa tên lửa tới mục tiêu với vận tốc cận âm 280 m/s (Mach 0,8), tầm bắn 130 km. Động cơ hành trình là động cơ tuabin phản lực, động cơ có lực đẩy tối đa 450 kg, đường kính 330 mm, chiều dài 850mm, nặng 82 kg, sử dụng nhiên liệu dầu.
Khối tự huỷ của tên lửa RGM-84C được bố trí phía sau đầu đạn và nhận lệnh kích nổ huỷ tên lửa trong các trường hợp tên lửa bay chệch hành trình dự kiến quá 1 tham số khống chế, hoặc khi tên lửa không gặp mục tiêu theo tham số ngắm bắn do hệ thống điều khiển bắn trên tàu mẹ cung cấp.
RUR-5 ASROC.
Hatsuyuki được lắp đặt một hệ thống 8 phóng Mk-112 (tương thích với 8 tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC) phía sau pháo hạm, trong đó các cụm ống phóng có thể nâng hạ gần thẳng đứng để phóng tên lửa chống ngầm. Tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC do Công ty Honeywell phát triển và sản xuất từ năm 1960 và chính thức được chấp nhận đưa vào trang bị cho các tàu chiến mặt nước của Hải quân Liên bang Mỹ và đồng minh vào năm 1961. Tên lửa ASROC nặng 487 kg, dài 4,5m, đường kính 422mm. ASROC trang bị động cơ rocket nhiên liệu rắn, tầm bắn 22 km, tốc độ hành trình cận âm. Khi chiến tàu, máy bay tuần tra, trực thăng chống ngầm phát hiện tàu ngầm đối phương bằng hệ thống định vị siêu âm hoặc cảm biến thì sẽ chuyển tọa độ mục tiêu tới tàu chiến trang bị hệ thống ASROC. Từ đây, tàu mang ASROC sẽ phóng tên lửa RUR-5 mang theo ngư lôi Mk46 hoặc bom chìm hạt nhân W44 (Hatsuyuki không có) bay tới mục tiêu. Các dữ liệu về mục tiêu sẽ được chuyển đến cơ sở dữ liệu của tên lửa thông qua hệ thống máy tính điều khiển của tàu. Hệ thống dẫn đường quán tính được sử dụng khi bay tiếp cận vị trí của mục tiêu trong cơ sở dữ liệu. Ở một vị trí định sẵn trên quỹ đạo đường bay, ngư lôi sẽ tách khỏi tên lửa và rơi xuống biển bằng dù hãm, việc này sẽ giúp giảm thiểu tối đa âm thanh khi rơi xuống nước. Nếu không tìm thấy mục tiêu trong một khoảng thời gian tên lửa sẽ tự hủy hay nhận lệnh tự hủy từ bên ngoài.
Pháo hạm.
Pháo hạm 76mm Oto Melara.
Tàu được trang bị một pháo hạm tự động Mk-75 cỡ nòng 76mm/62 do Công ty Japan Steel Works sản xuất theo giấy phép của Công ty OTO Melara, Italia. Mk-75 có tốc độ bắn nhanh nên chủ yếu được dùng để thực hiện nhiệm vụ tác chiến mặt nước và đối không. Pháo có khối lượng 16,8 tấn, nòng pháo dài 4,7 m, sơ tốc đầu nòng 980 m/s, tốc độ bắn trung bình là 85 viên/phút, ở chế độ bắn nhanh là 120 viên/phút, có khả năng tiêu diệt mục tiêu cỡ nhỏ tầm gần ở cự ly tối đa 16 km và mục tiêu trên không ở tầm bắn lên đến 12 km.
Thành phần của pháo hạm này bao gồm 01 module đơn gắn pháo, 01 hệ thống nạp đạn tự động và các thiết bị hỗ trợ. Pháo được trang bị hai loại đạn là đạn xuyên giáp và đạn nổ phân mảnh. Trong đó, đặc điểm nổi bật nhất chính là đạn ART đường kính 42mm, có hình dạng như một quả rocket với cánh đuôi đứng, nặng 3,4 kg, sử dụng lõi kim loại wolfram được bố trí trong vỏ đạn 76mm và được giữ ở vị trí trung tâm bằng một đế giữ vòng tròn.
Đạn được bố trí thành hình tròn trong ụ pháo, được phủ một lớp nhựa cứng bên ngoài. Pháo còn có hệ thống làm mát bằng nước giúp cho nòng pháo không bị nóng và có thể bắn liên tục được hàng nghìn phát trong một cuộc tấn công. Quá trình ngắm bắn và điều chỉnh góc tà nòng pháo được điều khiển thông qua các hệ thống điện tử tự động, trong khi các hệ thống nạp đạn được điều khiển thủy lực. Khi viên đạn "mẹ" được bắn đi, khí được tích tụ ở phía sau đẩy quả đạn ART bắn ra khỏi nòng pháo bay tới mục tiêu với tốc độ nhanh hơn gấp 1,5 lần so với tốc độ quả đạn thông thường nên độ chính xác cao và hiệu suất tiêu diệt mục tiêu lớn.
Hệ thống Mk15 Vulcan Phalanx CIWS.
Hỗ trợ phòng không tầm thấp và đánh chặn tên lửa hành trình là 2 hệ thống pháo phòng không tầm gần Mk-15 Phalanx CIWS. Hoả lực phòng không tầm gần (CIWS) của tàu là hệ thống Mk-15 Phalanx. Mk-15 Phalanx là hệ thống khép kín tích hợp bao gồm pháo, đạn và radar lắp trên 1 bệ duy nhất. Hệ thống được Chi nhánh Pomona thuộc Công ty General Dynamics (nay thuộc Tập đoàn Raytheon) phát triển vào cuối những năm 1960. Hệ thống thử nghiệm lần đầu vào năm 1973, bắt đầu sản xuất hàng loạt năm 1978, đến năm 1980 được đưa vào trang bị. Hệ thống Phalanx gồm pháo 6 nòng bắn nhanh Gatling M61A1 Vulcan cỡ nòng 20mm cùng một radar hoạt động trên băng tầng K.
Trong điều kiện chiến đấu, radar sẽ rà soát bầu trời, xác định các mục tiêu và lọc ra mục tiêu nguy hiểm nhất. Sau khi xác định được mục tiêu, radar điều khiển hỏa lực sẽ tính toán chính xác vị trí của địch để pháo 6 nòng Gatling M61A1 Vulcan khai hỏa. Radar của hệ thống Phalanx CIWS được chế tạo theo công nghệ chỉ điểm khép kín, có khả năng phát hiện máy bay từ cự ly 18 km, tên lửa hành trình có diện tích phản xạ radar 0,1 m² từ khoảng cách 12 km và bám bắt trong tầm 5 km.
Pháo Gatling M61A1 Vulcan được điều khiển bằng điện, tốc độ bắn rất cao, lên đến 4.500 viên/phút, tầm hiệu quả đạt 1.000 - 1.500 m, trong khi tầm bắn tối đa là 3.000 m. Gatling M61A1 Vulcan bắn rất nhanh nên pháo cũng rất nhanh hết đạn, việc nạp đạn phải làm bằng tay, sẽ cần 2 người để thay đạn, mỗi lần thay mất khoảng 5 phút. Hai hộp tiếp đạn bố trí bên hông pháo có sức chứa 500 viên mỗi hộp, tùy theo mục tiêu đường không hay mặt đất mà pháo sẽ bắn ra đạn nổ mảnh hoặc xuyên giáp (thông thường 1 hộp tiếp đạn chứa đạn nổ mảnh trong khi hộp còn lại mang đạn xuyên giáp). Đạn xuyên giáp vỏ tự huỷ (APDS) 20 mm của Mk-15 sử dụng đầu xuyên 15 mm bằng kim loại nặng (wolfram hoặc uran nghèo) được bao quanh bằng một guốc đạn plastic và một phần đáy kim loại nhẹ. Vỏ đạn sau khi bắn sẽ được đẩy ra từ phần dưới của bệ pháo theo hướng về phía trước.
Khi lọt vào tầm bắn của Phalanx CIWS, mọi mục tiêu - từ máy bay, tên lửa, bom hay đạn pháo - đều không thể thoát. Hoạt động hoàn toàn tự động dưới sự giám sát của con người, Phalanx CIWS có thể tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 3,6 km. Trong một số điều kiện tác chiến, hệ thống Phalanx CIWS còn có thể bắn hạ các mục tiêu trên mặt nước, bao gồm các chiến hạm của đối phương.
Ngư lôi.
Tàu khu trục lớp Hatsuyuki được trang bị 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm Type 68 sử dụng ngư lôi Mk-46. Hệ thống phóng được thiết kế có khả năng xoay, điều hướng và bắn từ xa (riêng việc bắn có thể thực hiện tại chỗ bằng tay) nhắm tới mục tiêu cần diệt. Các ống phóng được làm từ vật liệu sợi thủy tinh hoặc kim loại, bên trong ống được bọc một lớp sợi thủy tinh để có thể bảo quản ngư lôi trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Nhật Bản.
Chương trình chế tạo ngư lôi Mk-46 được bắt đầu vào năm 1960 nhằm thay thế cho ngư lôi Mk-44 đã lạc hậu. Ngư lôi Mk-46 chính thức được đưa vào trang bị năm 1967. Ngư lôi Mk-46 có vỏ làm bằng hợp kim nhôm, chiều dài 2,591m, đường kính 0,324m, trọng lượng 230,4 kg, vận tốc hành trình 45 hải lý (83,4 km/h) tầm bắn 11 km, khả năng lặn sâu 455m, hệ thống dẫn đường thủy âm chủ động - thụ động, đầu đạn nổ phá PBXN-103 43,1 kg, đầu nổ tiếp xúc, động cơ phản lực nước chạy điện giúp giảm tối đa độ ồn. Nguồn năng lượng được cung cấp bởi hệ thống ắc quy điện kẽm - bạc (cung cấp năng lượng cho động cơ điện công suất 35 mã lực). Mk-46 được trang bị 2 chân vịt quay ngược nhau.
Ngư lôi Mk-46 được phóng không tái nạp bằng cách nén không khí trong 2 bộ chứa thuốc súng phía sau. Sau khi phóng, ngư lôi được thả bằng dù và bắn sau khi lao xuống nước. Sau đó, Mk-46 bắt đầu tìm kiếm mục tiêu và cơ động theo đường ốc xoắn. Hệ thống dẫn đường có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 595m. Sau khi phát hiện mục tiêu, ngư lôi bắt đầu lao đến mục tiêu với vận tốc rất nhanh. Trong trường hợp tấn công không thành công, hệ thống dẫn đường cho phép tiến hành tấn công lại.
Ngoài ra, tàu cũng có thể sử dụng các loại ngư lôi khác như Mk-50, Mk-54 hay loại Type 73 (tương đương Mk-46) do Nhật tự phát triển.
Trực thăng săn ngầm.
Đuôi tàu có sàn đáp và nhà chứa cho phép mang theo 2 trực thăng săn ngầm, nhưng thực tế thường chỉ có thể mang được 1 chiếc trong các chuyến hải trình. Ban đầu, trên các tàu được bố trí 1 trực thăng Sikorsky HSS-2B Sea King, nhưng hiện nay loại trực thăng này đã bị rút khỏi biên chế và loại đang được sử dụng là SH-60J Sea Hawk được sản xuất tại Nhật theo giấy phép. Tàu cũng được trang bị các trang thiết bị bảo dưỡng và phụ tùng thiết yếu cho máy bay trực thăng.
SH-60J Sea Hawk được Mitsubishi Heavy Industries sản xuất theo giấy phép của Công ty Sikorsky Aircraft (Mỹ). Máy bay này là một phiên bản sửa đổi của trực thăng săn ngầm SH-60B Sea Hawk đang phục vụ trong Hải quân Liên bang Mỹ. SH-60J chính thức được đưa vào hoạt động trong biên chế của JMSDF vào tháng 8 năm 1991. Đến năm 2005, đã có 103 chiếc SH-60J được xuất xưởng.
SH-60J có thể bay cách tàu mẹ đến 100 dặm và duy trì trên căn cứ trong vài giờ. Máy bay thực hiện cảnh giới, tìm kiếm và cứu hộ, chỉ thị mục tiêu cho tên lửa, chiến đấu chống hạm, chống ngầm và tác chiến đột kích trong mọi thời tiết.
SH-60J được trang bị sonar nhúng HQS-103, radar mảng pha quét chủ động HPS-104 và hệ thống tác chiến điện tử HLR-108. Bốn mấu cứng của máy bay có thể gắn ngư lôi hạng nhẹ Type 97, bom chống ngầm và tên lửa không đối hải AGM-114M Hellfire II"." Ngoài ra, SH-60J còn được trang bị một súng đại liên 7,62mm Type 74.
SH-60J có cánh quạt chính và cánh quạt đuôi bốn lá được chế tạo bằng composite, với 2 động cơ dẫn động trục Ishikawa-Harima T700-IHI-401C (sản xuất theo giấy phép của General Electric) công suất 3.400 mã lực được lắp cạnh nhau trên đỉnh cabin với một ống hút không khí ở cạnh bệ quạt và các lỗ thoát khí ở phía sau bệ. Máy bay có tầm bay xa tới hơn 800 km, tốc độ tối đa 270 km/h. Các thùng nhiên liệu bên trong của SH-60J chứa được 2.250 lít. Máy bay có thể dùng được hệ thống tiếp nhiên liệu trên không. SH-60J có thể mang trên 1.800 kg hàng bên trong. Các móc hàng bên ngoài có thể mang lượng hàng lên tới 2.725 kg"."
Hệ thống động lực.
Tàu khu trục lớp Hatsuyuki được trang bị hệ thống động lực kết hợp tuabin khí COGAG (tức là kiểu hệ thống động cơ kết hợp 2 tuabin khí để quay một chân vịt) bao gồm: 2 động cơ tuabin khí cỡ lớn Kawasaki-Rolls-Royce Olympus TM3B công suất 22.500 mã lực, 2 động cơ tuabin khí cỡ nhỏ RR Type Kawasaki RM1C công suất 4.620 mã lực, 1 máy phát điện diesel chính công suất 600 kW, 1 máy phát điện diesel dự phòng công suất 300 kW và 1 máy phát điện tuabin khí Kawasaki M1A-02 công suất 1.000 kW. Các động cơ này kết nối với nhau thông qua 3 hộp số và 2 bộ ly hợp, truyền động ra 2 chân vịt 5 lá cung cấp công suất đầu ra tổng cộng 100.000 mã lực. Sự kết hợp này giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm tối đa tiếng ồn khi hoạt động, đồng thời, giảm chi phí, kéo dài thời gian giữa 2 lần bảo dưỡng. 4 động cơ tuabin khí của tàu có khả năng chuyển từ trạng thái nguội sang trạng thái công suất cực đại trong vòng 15 phút. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt bộ tản nhiệt tiên tiến giúp giảm đối đa bức xạ hồng ngoại khi hoạt động, nâng cao khả năng tránh các biện pháp dò tìm bằng hồng ngoại của đối phương. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa đạt 30 hải lý/h (56 km/h) phạm vi hoạt động 4.500 hải lý, tốc độ hành trình 18 hải lý/h, tàu có khả năng hoạt động liên tục 50 ngày trên biển.
Hệ thống động lực COGAG có thời gian hoạt động tới 30.000 giờ trước khi cần đại tu. Để đảm bảo cho các động cơ này hoạt động hiệu quả, những binh sĩ kỹ thuật thuộc JMSDF làm việc dưới khoang máy của tàu phải luôn túc trực 24/24 không lúc nào ngơi việc dù toàn bộ hệ thống trên tàu đều được điều khiển, kiểm soát và giám sát một cách hoàn toàn tự động. Làm việc trong môi trường có tiếng ồn lớn yêu cầu những binh sĩ JMSDF làm việc trong phòng máy trên tàu luôn phải mang theo nút bịt tay để tránh thính giác của mình bị ảnh hưởng, tuy nhiên nút bịt tay này cũng chỉ hạn chế được phần nào tiếng ồn, sau một thời gian dài làm việc trong phòng máy trên tàu phần lớn các binh sĩ đều bị lãng tai dần.
Hầu hết trang thiết bị trên tàu kể cả trong khoang máy cũng đều được tự động hóa và điều khiển qua máy tính hoàn toàn. Hệ thống giám sát sẽ theo dõi sát sao các thông số của hệ thống động cơ, đưa ra các cảnh báo kịp thời để các binh sĩ khắc phục, trong trường hợp một trong các động cơ gặp sự cố, bộ ly hợp cho phép ngắt hoạt động của động cơ để tiến hành sửa chữa mà không ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của tàu. Dù được tự động hóa khá nhiều, tuy nhiên công việc chính của những binh sĩ kỹ thuật lại là bảo dưỡng các thiết bị trên tàu để đảm bảo chúng hoạt động với hiệu suất cao nhất. Với một hệ thống lớn tới 4 động cơ và 30 tuabin khí, các binh sĩ kỹ thuật phục vụ trong khoang máy trên các tàu khu trục lớp Hatsuyuki thường ít khi được ngơi tay.
Bảo dưỡng các chi tiết nhỏ là công việc khó khăn hơn cả dù không cần phải chui rúc vào những góc nóng nực chật hẹp của khoang máy nhưng các binh bĩ kỹ thuật lại phải đảm bảo được độ chính xác cao và yêu cầu thêm cả sự khéo léo nữa. Các chi tiết nhỏ trên tàu có thể là các hệ thống cảm biến, các hệ thống chíp điều khiển của các thiết bị máy tính. | 1 | null |
Các dụ ngôn của Chúa Giêsu được ghi chép trong tất cả các Sách Phúc Âm quy điển, nhưng nằm chủ yếu trong ba quyển Phúc Âm Nhất Lãm, ngoài ra còn xuất hiện trong một số các sách Phúc Âm ngụy thư. Các dụ ngôn này thường là những câu chuyện đơn giản và dễ nhớ, có hình ảnh gần gũi với đời thường, nhưng cũng có dụ ngôn mang nghĩa vĩ mô về chủ đề tôn giáo, luật lệ. Các Kitô hữu xem dụ ngôn là một phần quan trọng trong giáo huấn của Giêsu, thể hiện phương cách giảng đạo linh hoạt của ông đối với những người bình dân. Trong nền văn minh phương Tây, các dụ ngôn của Chúa Giêsu là chất liệu tạo nên các thuật ngữ thời hiện đại, ngay cả đối với những người không biết nhiều về Kinh Thánh, khiến cho chúng nằm trong số những câu chuyện nổi tiếng nhất trên thế giới. | 1 | null |
Doraemon: Gadget Cat from the Future là một series phim hoạt hình Mỹ được chuyển thể từ series truyện tranh "Doraemon" của họa sĩ Fujiko F. Fujio và được cải biên từ phim hoạt hình "Doraemon" của Nhật Bản. Phim được đạo diễn Zen Soichiro và phát triển bởi Eric P. Sherman. Cốt truyện của phim kể về chú mèo máy Doraemon từ thế kỉ 22 trở về quá khứ giúp đỡ cậu bé Nobita cải thiện cuộc sống. Mỗi tập phim Nobita gặp một số rắc rối xung quanh cuộc sống và Doraemon sẽ lấy các bảo bối ra giúp cậu. Phim được sóng trên kênh Disney XD tại Mỹ từ 7 tháng 7 năm 2014 đến 1 tháng 9 năm 2015 với 52 tập đã lên sóng. Phim cũng được phát sóng tại Nhật Bản trên kênh Disney Channel Japan với phiên bản song ngữ: Tiếng Anh và Tiếng Nhật từ ngày 1 tháng 2 đến 13 tháng 6 năm 2016 Kaiji Tang được đề cử là "Nam diễn viên lồng tiếng tiêu biểu của năm" tại Behind the Voice Actors Awards (Giải Hậu trường Diễn viên lồng tiếng)
Sản xuất.
Eric Sherman và nhân viên của họ tại Bang Zoom! Entertainment mất hai năm sản xuất. Ngày 9 tháng 5 năm 2014, Nikkei tiết lộ rằng phiên bản tiếng Anh của anime "Doraemon" sắp lên sóng tại Mỹ. Ngày 12 tháng 5 năm 2014 TV Asahi Corp chính thức thông báo họ sẽ hợp tác với The Walt Disney Company để mang "Doraemon" đến Mỹ. Do dòng văn hóa Nhật Bản (Á) khác với Mỹ (Âu) nên nhiều chi tiết trong phim buộc phải cải biên cho phù hợp với khán giả nhí Mỹ. Một số chỉnh sửa phổ biến như là tên Nhật chuyển sang Anh, màu sắc chỉnh sáng hơn, dùng thìa thay đũa, lồng tiếng Anh... Mùa đầu tiên của series lên sóng từ ngày 7 tháng 7 năm 2014 đến 29 tháng 8 năm 2014. Mùa thứ hai lên sóng từ 15 tháng 6 năm 2015 đến 1 tháng 9 năm 2015 Mỗi mùa gồm 26 tập, mỗi tập gồm hai phần nhỏ với độ dài khoảng 10-12 phút mỗi phần, phát trên Disney XD. | 1 | null |
"The Last Waltz" ("Điệu valse cuối cùng") là một bài hát sáng tác bởi Barry Mason và Les Reed. Nó là một trong những hit nổi tiếng nhất của ca sĩ Engelbert Humperdinck, yên vị ngôi quán quân trong năm tuần từ tháng 9 năm 1967 đến tháng 10 năm 1967 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart; riêng ở Anh Quốc có hơn 1,17 triệu đĩa đã được bán ra. Tại Mỹ, bài hát leo lên vị trí 25 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và lọt vào top 10 của bảng xếp hạng Hot Adult Contemporary Tracks.
Bài này đã được đặt lời bằng các thứ tiếng khác như Pháp và Việt. Bản tiếng Việt do Trường Kỳ đặt lời dưới nhan đề "Bài luân vũ mùa mưa".
Bối cảnh.
Nhan đề bài này thể hiện chút gì đó của cách nói hai nghĩa do nó đề cập đến cả lần khiêu vũ đầu tiên và cuối cùng của nhân vật với người phụ nữ mà anh ta yêu: lần khiêu vũ đầu tiên của hai người là "đoạn valse cuối cùng" được chơi tại bữa tiệc mà họ lần đầu gặp mặt, còn lần khiêu vũ sau cùng là lần cả hai chấm dứt mối quan hệ khi tình yêu đã phai nhạt.
Các phiên bản.
Nhiều ca sĩ đã ra bản tiếng Pháp của bài hát này. Năm 1967, cả Mireille Mathieu và Petula Clark đều ra bản tiếng Pháp với tựa đề "La Derniere Valse". Phiên bản Mathieu đứng ba tuần ở vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng nhạc pop của Pháp và cũng là một hit ở Anh Quốc, đứng vị trí 26. Phiên bản Clark lọt vào bảng xếp hạng ở Pháp vào tháng 2 năm 1968 và đạt đến hạng nhì song không lọt vào bảng xếp hạng ở Anh. Clark cũng đưa bài hát vào album "The Other Man's Grass Is Always Greener" (1968) của cô. Cũng trong năm 1968, ca sĩ Stéphane ở Québec hát lại bài này bằng tiếng Pháp trong album "Stéphane" của anh. Năm 1969, Ginette Reno cũng ra bản hát bằng tiếng Pháp.
"The Last Waltz" được nhạc sĩ Trường Kỳ đặt lời tiếng Việt dưới nhan đề "Bài luân vũ mùa mưa", được các ca sĩ như Ngọc Lan, Elvis Phương và Thanh Lan biểu diễn. | 1 | null |
"Quizás, quizás, quizás" ("Có lẽ, có lẽ, có lẽ") là một ca khúc phổ thông điệu bolero nguyên bằng tiếng Tây Ban Nha do người viết bài hát người Cuba Osvaldo Farrés sáng tác vào năm 1947. Bài hát trở thành hit của Bobby Capó trong năm đó. Bài hát không những được đặt lời bằng hàng chục thứ tiếng khác như Anh, Pháp, Việt, Hindu, Ả Rập, Do Thái...mà còn được hòa âm theo nhiều phong cách khác như mambo, cha-cha-cha, salsa và flamenco.
Lời tiếng Anh với tựa đề "Perhaps, perhaps, perhaps" do Joe Davis đặt, không phải là chuyển ngữ từ lời tiếng Tây Ban Nha, ban đầu do ca sĩ Desi Arnaz thu âm vào năm 1948. Lời tiếng Pháp với tựa đề "Qui sait, qui sait, qui sait" do Jacques Larue chuyển ngữ, ban đầu do ca sĩ Luis Mariano thu âm. Ca khúc cũng được Minh Trang - vợ của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước - đặt lời tiếng Việt dưới nhan đề "Sầu dĩ vãng"; hai ca sĩ Thái Thanh và Quỳnh Giao song ca bài này trong băng nhạc "Premier 1 - Tìm về kỉ niệm" xuất bản tại Việt Nam Cộng hòa.
Bản nhạc này cũng có một lời Việt khác được Minh Thảo đặt lời, lấy tên là "Nào biết nào hay". Phiên bản lời Việt này được mọi người biết đến nhiều hơn và cũng được nhiều ca sĩ thể hiện như Hương Thủy, Nguyễn Phi Hùng, Ngọc Huệ, Thanh Hà... Đặc biệt, nữ ca sĩ Hương Thủy đã hát bài hát này được hòa theo điệu cha cha để làm nhạc nền cho tiết mục trình diễn khiêu vũ của cô trong chương trình Paris By Night 93 và cô đã được giải Nhất với tiết mục này. | 1 | null |
Phi vụ thế kỷ (tựa tiếng Anh: Now You See Me) là một bộ phim hành động ly kỳ về đề tài tội phạm của Mỹ phát hành năm 2013 do Louis Leterrier làm đạo diễn. Các diễn viên chính trong phim bao gồm Jesse Eisenberg, Mark Ruffalo, Woody Harrelson, Mélanie Laurent, Isla Fisher, Dave Franco, Michael Kelly, Common và hai diễn viên gạo cội của Anh và Mỹ: Michael Caine và Morgan Freeman. Cốt truyện theo sau một đặc vụ FBI và một thám tử Interpol, những người theo dõi và cố gắng đưa ra công lý một nhóm ảo thuật gia, những người thực hiện các vụ trộm và cướp ngân hàng trong các buổi biểu diễn của họ và thưởng tiền cho khán giả của họ.
Bộ phim được công chiếu lần đầu tại Thành phố New York vào ngày 21 tháng 5 năm 2013 trước khi phát hành chính thức tại Hoa Kỳ vào ngày 31 tháng 5 năm 2013, bởi Summit Entertainment. Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều với những lời chỉ trích tập trung vào phần kết, nhưng đã trở thành một thành công phòng vé, thu về 351,7 triệu đô la trên toàn thế giới so với kinh phí 75 triệu đô la. Bộ phim đã giành được Giải thưởng People's Choice cho Phim ly kỳ được yêu thích nhất và cũng nhận được đề cử cho Giải Empire cho Phim ly kì hay nhất và Giải Saturn cho Phim ly kỳ hay nhất và Âm nhạc hay nhất.
Phần tiếp theo, "Now You See Me 2", được phát hành vào ngày 10 tháng 6 năm 2016.
Nội dung.
Bốn nhà ảo thuật đường phố tài năng J. Daniel "Danny" Atlas, Merritt McKinney, Henley Reeves, và Jack Wilder — đến với nhau nhờ một vị ân nhân bí ẩn, và một năm sau đó, họ biểu diễn cùng nhau ở Las Vegas, lấy tên nhóm là The Four Horsemen (Bộ tứ kỵ sĩ). Buổi biểu diễn của họ được ông trùm bảo hiểm Arthur Tressler tài trợ. Buổi biểu diễn đầu tiên, họ tuyên bố sẽ cướp ngân hàng, và mời một khán giả tên là Étienne Forcier, người sở hữu tài khoản tại Ngân hàng Crédit Républicain de Paris, thực hiện. Forcier được "di chuyển tức thời" tới ngân hàng của mình ở Paris, ở đó ông kích hoạt một ống dẫn bằng đường không để chuyển toàn bộ số tiền và mang tới cho đám đông ở Las Vegas xem. Khi phát hiện ra tiền thật sự đã bị đánh cắp khỏi két ngân hàng, đặc vụ FBI Dylan Rhodes được gọi đến để điều tra vụ trộm và được cộng tác cùng đặc vụ Interpol Alma Dray. Họ bắt được The Horsemen nhưng buộc phải trả tự do cho nhóm do thiếu bằng chứng.
Dylan gặp Thaddeus Bradley, một cựu ảo thuật gia chuyên lý giải bí mật đằng sau các trò ảo thuật của các ảo thuật gia khác. Thaddeus là một trong những khán giả có mặt hôm đó và suy luận rằng chính The Horsemen đã thực hiện vụ cướp tiền vài tuần trước, thay tiền thật bằng tiền giả in trên giấy nitrocellulose, trong khi tiền thật được mang tới Vegas để trình diễn thì tiền giả đã bị đốt. Cả ba người tới tham dự buổi biểu diễn tiếp theo của nhóm tại New Orleans, tại đây nhóm đã cướp hàng triệu đô-la từ tài khoản ngân hàng của Tressler và phân phát tiền cho các khán giả, những người đã bị công ty của Tressler từ chối chi trả tiền bảo hiểm. Dylan tìm cách bắt The Four Horsemen, nhưng họ trốn thoát được. Tressler lúc bấy giờ đang tức giận liền thuê Thaddeus tìm hiểu và làm bẽ mặt nhóm The Horsemen trong buổi biểu diễn tiếp theo của họ. Trong khi đó, Dray điều tra nhóm ảo thuật này và gợi ý với Dylan rằng họ có thể có liên hệ với một hội các nhà ảo thuật bí mật có tên "The Eye". Một trong số những thành viên của hội này, Lionel Shrike, đã qua đời từ nhiều thập niên trước, khi Thaddeus tìm ra bí mật đằng sau các trò ảo thuật của ông và Shrike đã cố trình diễn một trò nguy hiểm để gây dựng lại sự nghiệp. Dray tin rằng còn có một Horseman thứ năm đang hỗ trợ nhóm từ đằng sau.
Trong khi chuẩn bị cho buổi biểu diễn ở New York, The Horsemen tìm cách trốn tránh lực lượng cảnh sát, nhưng xe ô tô của Jack bị đâm và phát nổ. Những thành viên còn lại của The Horsemen thề sẽ vẫn tiếp tục và hoàn tất buổi biểu diễn cuối cùng của họ, ăn cắp một cái két sắt khác cũng do công ty trước đây làm cái két mà Shrike chết trong đó, sản xuất. Trong buổi biểu diễn cuối cùng ở 5 Pointz, các thành viên trong nhóm đã biến mất trong không khí và biến thành một cơn mưa tiền trước đám đông. Sau đó người ta phát hiện ra rằng đây chỉ là tiền giả còn tiền thật được tìm thấy ở đằng sau xe của Thaddeus và ông ta bị bắt, người ta cho rằng ông chính là thành viên Horsemen thứ năm. Dylan tới thăm Thaddeus trong trại giam, tại đó ông giải thích rằng cái két không thể bị cướp trừ phi Jack còn sống. Thaddeus cho rằng thành viên Horseman thứ năm hẳn phải là người của cảnh sát và bất ngờ phát hiện ra rằng đó chính là Dylan khi người đặc vụ này biến mất khỏi căn phòng giam bị khóa rồi lại xuất hiện ở bên ngoài. Dylan vui sướng nói với Thaddeus rằng anh muốn ông phải ở tù cho tới hết đời rồi bỏ đi. Giờ đây Jack quay lại với The Horsemen, cái chết của anh thực ra chỉ là một phần của trò ảo thuật. Dylan tới và nói rằng anh chính là vị ân nhân bí ẩn kia của nhóm và chào mừng họ tới hội The Eye.
Tại cây cầu Pont des Arts ở Pháp, Dylan tới gặp Dray và cho cô biết anh chính là con trai của Lionel Shrike. Anh đã lên kế hoạch cho The Four Horsemen để trả thù cho bố: Thaddeus, kẻ đã làm bẽ mặt bố anh; Công ty Crédit Républicain de Paris và công ty của Tressler, những kẻ đã từ chối trả tiền bảo hiểm sau cái chết của bố anh; và Elkhorn, công ty đã sản xuất cái két không đạt chuẩn khiến bố anh thất bại khi làm ảo thuật. Dray quyết định sẽ không giao Dylan cho cảnh sát. Cô lấy cái ổ khóa và chìa khóa của Dylan, khóa ổ khóa vào một tấm hàng rào xích và ném chìa khóa xuống dòng sông Seine.
Nhạc phim.
Album nhạc phim chính thức do nhà soạn nhạc Brian Tyler sáng tác và được phát hành vào ngày 28 tháng 5 năm 2013 cả dưới dạng đĩa và tải kỹ thuật số.
Phát hành.
Phản hồi chuyên môn.
"Now You See Me" nhận được phản hồi ở mức trung bình từ giới chuyên môn, họ ca ngợi dàn diễn viên với hàng loạt các ngôi sao nổi tiếng và cốt truyện lôi cuốn. Chỉ trích phổ biến nhất với bộ phim là có nhiều điểm trong cốt truyện chưa được giải quyết thỏa đáng ở đoạn kết, để lại nhiều câu hỏi chưa được giải đáp hoặc giải đáp không rõ ràng (mặc dù có thể đây là việc làm có chủ ý, để dành chỗ cho một phần tiếp theo sau này). Dựa trên 149 phản hồi từ các nhà phê bình điện ảnh, Rotten Tomatoes cho bộ phim điểm số 50%, lời nhận xét chung của trang này viết "Các nhân vật "mỏng" và cốt truyện rời rạc của "Now You See Me" phải dựa vào sự khéo léo của bàn tay đạo diễn để làm xao nhãng khán giả".
Peter Hammond của trang Movieline viết "Một bộ phim mùa hè trong sáng đúng chất ảo thuật theo nghĩa đen. Thú vị hơn "Ocean's 11", "12", và "13" cộng lại. Bạn sẽ không thể tin vào mắt mình — vấn đề nằm ở chỗ đó".
Các cuộc thăm dò khán giả do CinemaScore tổ chức cho thấy khán giả cho bộ phim điểm A–.
Doanh thu phòng vé.
Mặc dù chỉ nhận được những đánh giá trung bình nhưng bộ phim lại thành công về doanh thu phòng vé. Trong dịp cuối tuần đầu tiên phát hành phim đứng thứ hai tại thị trường Bắc Mỹ sau "Fast & Furious 6", thu về $29.350.389 từ 2.925 rạp chiếu. Tính đến ngày 30 tháng 6, phim đã thu về gấp đôi kinh phí sản xuất. Phim tiếp tục đứng trong top 10 doanh thu Bắc Mỹ trong sáu tuần. Tổng cộng, phim thu về $117.723.989 ở Bắc Mỹ và $234.000.000 tại các nước khác, đưa mức doanh thu toàn cầu của phim lên $351.723.989 trong khi kinh phí sản xuất chỉ là $75 triệu.
Giải trí tại gia.
"Now You See Me" được phát hành trên đĩa DVD và Blu-ray vào ngày 3 tháng 9 năm 2013. Bản Blu-ray có chứa phiên bản mở rộng của phim gồm một cảnh phụ dài 16 phút, nâng tổng thời lượng phim lên 125 phút. Nó cũng chứa hai mục: phía sau hậu trường và "Lịch sử ảo thuật", cộng với 30 phút cảnh bị xóa. | 1 | null |
"Caminito" ("Con đường hẹp") là một tác phẩm nhạc tango với phần nhạc của Juan de Dios Filiberto và phần lời của Gabino Coria Peñaloza. Phần nhạc ra đời năm 1923, ba năm sau thì phần lời mới xuất hiện. Lời bài hát giống một bài thơ theo kết cấu cổ điển được tạo thành từ hai khổ thơ và một đoạn lặp.
"Caminito" được cho là lấy cảm hứng từ khu Caminito, làng Olta, tỉnh La Rioja, Argentina. Bài hát được biết đến rộng rãi khắp Argentina và Uruguay và cũng đã được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời tiếng Việt. Ca sĩ Khánh Ly trình bày bài hát trong album "Tango điên" năm 1988. | 1 | null |
Hymenoepimecis argyraphaga là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Đây là loài tò vò ký sinh với vật bị ký sinh là loài nhện "Plesiometa argyra". Loài tò vò nà bất thường trong việc thay đổi hành vi xây dựng mạng nhện của con nhện để tạo ra một mạng nhện được tạo thành từ những đường tơ rất chắc chắn được thiết kế để chứa kén của tò vò mà không bị vỡ trong mưa.
Tò vò cái trưởng thành tạm thời làm tê liệt con nhện và đẻ một quả trứng trên bụng của nó. Trứng nở thành một ấu trùng hút máu hemolymph của nhện thông qua các lỗ nhỏ, trong khi nhện đi lại dệt mạng nhện bình thường của nó và săn bắt côn trùng trong một đến hai tuần tới. Khi ấu trùng đã sẵn sàng để lột xác, nó sẽ tiêm một chất hóa học vào nhện, làm cho nó xây dựng một mạng nhện, thiết kế của nó hoàn toàn khác với bất kỳ nó đã từng tạo ra, và sau đó nằm bất động ở giữa mạng nhện này. Ngay cả khi ấu trùng được loại bỏ trước khi quá trình đan mạng nhện, con nhện vẫn tham gia vào việc đang mạng nhện không bình thường này. Ấu trùng ong sau đó lột xác, giết chết nhện bằng chất độc và hút cơ thể khô trước khi vứt bỏ nó và xây dựng một cái kén treo ở giữa trang web mà con nhện vừa mới chế tạo. Ấu trùng nhốt trong kén, sau đó xuất hiện để giao phối và bắt đầu chu kỳ lại. | 1 | null |
Hiodon tergisus, cá mắt trăng, là một loài cá nước ngọt phổ biến rộng rãi trên khắp miền đông Bắc Mỹ.
Mô tả.
"H. tergisus" đặc trưng bởi bề ngoài màu bạc của nó, cơ thể rắn chắc và vây hậu môn của nó kéo dài từ hậu môn tới vây chậu. Cá mắt trăng trưởng thành đạt chiều dài trung bình và có thể dài tới . Cân nặng trung bình là . | 1 | null |
Ichneumon eumerus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Đây là loài chuyên ký sinh cho ấu trùng của loài bướm xanh Alcon núi ("Phengaris rebeli").
Vòng đời.
Vòng đời của "I. eumerus" phụ thuộc vào một loài bướm "Phengaris rebeli", ấu trùng của chúng lừa kiến trong loài "Myrmica schencki" mang ấu trùng vào tổ của chúng và chăm sóc chúng như thể chúng là ấu trùng kiến. Con tò vò cái trưởng thành tìm kiếm một tổ của những con kiến này; Nó dường như có thể nhận biết bằng khứu giác để nhận biết có ấu trùng của bướm hiện diện trong tổ hay không và nếu có, nó sẽ cố gắng xâm nhập. Những con kiến tấn công kẻ xâm nhập, nhưng con tò vò này tạo ra pheromone khiến những con kiến trở nên bối rối và tấn công lẫn nhau. Điều này giúp con tò vò có cơ hội tìm kiếm ấu trùng bướm và đẻ trứng vào mỗi con. Sau đó, kiến tiếp tục kiếm ăn và chăm sóc ấu trùng bướm mà trong quá trình thành nhộng. Trứng tò vò nở ra và ăn ấu trùng bướm từ bên trong, cuối cùng âu trùng tò vò hóa nhộng bên trong nhộng bướm. | 1 | null |
Ichneumon insidiosus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Phân loài.
Loài này có các phân loài sau:
Phân bố.
Loài này có mặt ở hầu hết Châu Âu (Andorra; Áo; Azerbaijan; Belarus; Bỉ; Bulgaria; Croatia; Cộng hòa Séc; Slovakia; Phần Lan; Pháp; Đức; Hungary; Iran; Ireland; Ý; Liechtenstein; Hà Lan; Ba Lan; Bồ Đào Nha; Romania; Nga; Tây Ban Nha; Thụy Điển; Thụy Sĩ; Vương quốc Anh; Nam Tư cũ). | 1 | null |
Hubert Võ (Võ Việt) (sinh ngày 30 tháng 5 năm 1956) là một thành viên của Hạ viện Texas từ huyện thứ 149. Ông là người đầu tiên và duy nhất người Mỹ gốc Việt được bầu vào cơ quan lập pháp Texas.
Sự nghiệp.
Ông tái đắc cử dân biểu Hạ viện Texas năm 2010.
Cuối năm 2014, ông tái tranh cử và tiếp tục đắc cử dân biểu Nghị viện tiểu bang Texas.
Cuộc sống cá nhân.
Võ sinh ra ở miền Nam Việt Nam và di cư sang Mỹ cùng gia đình rời khỏi Việt Nam.
Ông tốt nghiệp năm 1983 của Đại học Houston với bằng Cử nhân Khoa học lĩnh vực Cơ khí.
Ông đã kết hôn và có ba người con. | 1 | null |
Rửa tay, hay vệ sinh tay () là hành động rửa tay bằng xà phòng và nước để loại bỏ các virus/vi khuẩn/vi sinh vật, bụi bẩn, nhờn, các chất độc hại hoặc không mong muốn dính trên tay. Làm khô tay đã rửa là một phần của quá trình vì tay ướt và ẩm dễ bị tái nhiễm độc. Nếu không có nước và xà phòng, dung dịch rửa tay khô (có ít nhất 60% (v/v) cồn trong nước) có thể được dùng thay thế, trừ phi tay quá rõ vết bẩn hoặc nhờn. Rửa tay là biện pháp trọng tâm để ngăn ngừa sự lan truyền của các bệnh truyền nhiễm tại nhà và môi trường sống hàng ngày.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo nên rửa tay ít nhất 20 giây trước và sau những hoạt động nhất định. Trong đó 5 thời điểm quan trọng trong ngày để rửa tay bằng xà phòng để giảm thiểu các bệnh lây truyền qua đường miệng: sau khi sử dụng nhà vệ sinh (vì nhu cầu tiểu tiện, đại tiện, vệ sinh kinh nguyệt), sau khi lau đít của trẻ nhỏ (thay tã), trước khi cho trẻ ăn, trước khi ăn và trước/sau khi chuẩn bị đồ ăn hoặc xử lý thịt, cá hoặc gia cầm sống.
Khi không thể rửa tay và dùng dung dịch rửa tay, tay có thể được rửa bằng tro không ô nhiễm và nước sạch, mặc dù lợi ích và tác hại chưa chắc ngăn được lây truyền nhiễm virus hoặc vi khuẩn. Tuy nhiên, rửa tay thường xuyên có thể làm hỏng da do bị khô da. Kem dưỡng ẩm thường được khuyên dùng để giữ tay khỏi bị khô; da khô có thể làm hỏng da, tăng nguy cơ bị lây nhiễm trùng.
Các bước và thời lượng.
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến các các bước sau khi rửa tay nhằm ngăn chặn lây bệnh truyền nhiễn:
Những nơi thường bị bỏ sót nhất là ngón cái, cổ tay, khe giữa các ngón tay và dưới móng tay. Những móng tay giả và móng tay sơn bị sứt có thể chứa các vi sinh vật.
Thời điểm khuyến cáo.
Có 5 thời điểm quan trọng trong ngày khi rửa tay bằng xà phòng để giảm lây nhiễm bệnh qua đường miệng: sau khi sử dụng nhà vệ sinh (nhu cầu tiểu tiện, đại tiện, vệ sinh kinh nguyệt), sau khi lau đít trẻ (thay tã), trước khi cho trẻ ăn, trước khi ăn và trước/sau khi chuẩn bị đồ ăn hoặc xử lý gia cầm, thịt hoặc cá sống. Những trường hợp khác cần đến kĩ thuật rửa tay đúng cách để tránh lây nhiễm bệnh gồm có trước và sau khi xử lý vết cắt hoặc vết thương; sau khi hắt hơi, ho hoặc xì mũi; sau khi chạm chất thải động vật hoặc xử lý động vật; và sau khi chạm vào rác.
Y tế công cộng.
Lợi ích y tế.
Rửa tay có nhiều lợi ích y tế rõ rệt, bao gồm giảm thiểu lây truyền cúm, COVID-19 và những bệnh truyền nhiễm khác; ngăn ngừa các nguyên nhân truyền nhiễm gây ra tiêu chảy; giảm lây nhiễm qua đường hô hấp; và giảm tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong khi sinh đẻ tại gia. Một nghiên cứu vào năm 2013 cho thấy thực hành rửa tay nâng cao có thể dẫn tới những cải thiện nhỏ trong sự tăng trưởng chiều cao của trẻ em dưới 5 tuổi. Tại những nước đang phát triển, tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong liên quan đến các bệnh tiêu chảy và đường hô hấp có thể bớt đi nhờ tiến hành những thay đổi hành vi đơn giản, chẳng hạn như rửa tay bằng xà phòng. Hành động đơn giản này có thể giảm tỉ lệ tử vọng từ những bệnh kể trên gần 50%. Những hành động can thiệp cổ động rửa tay có thể giảm khoảng một phần ba đợt mắc tiêu chảy, điều này có thể tương đương với việc cấp nước sạch ở những khu vực có thu nhập thấp. 48% tỉ lệ giảm các đợt mắc tiêu chảy có thể liên quan tới rửa tay bằng xà phòng.
Rửa tay bằng xà phòng là biện pháp vừa rẻ vừa hiệu quả nhất để ngăn tiêu chảy và giảm nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính (ARI), khi tự động thực hiện hành vi tại nhà, trường và cộng đồng trên toàn thế giới. Viêm phổi (loại bệnh ARI chính) là nguyên nhân số một gây tử vong ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, cướp đi sinh mạng của ước tính 1,8 triệu trẻ mỗi năm. Tiêu chảy và viêm phổi cùng chiếm tới gần 3,5 triệu trẻ nhỏ tử vong hàng năm. Theo UNICEF, việc bến rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh thành một thói quan ăn sâu bám rễ có thể cứu được nhiều sinh mạng hơn bất cứ loại vaccine hay sự can thiệp y tế nào, giảm ca tử vong vì tiêu chảy gần một nửa và số ca tử vong vì nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính tới một phần tư. Rửa tay thường được bổ sung với các phương pháp can thiệp vệ sinh khác thành một phần của các chương trình nước, vệ sinh và cải thiện vệ sinh (WASH). Rửa tay còn ngăn ngừa bệnh chốc bị lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với thân thể.
Tác dụng phụ.
Một tác hại nhỏ của rửa tay là việc rửa tay thường xuyên có thể dẫn tới hỏng da do làm khô da. Một nghiên cứu của Đan Mạch vào năm 2012 cho thấy rửa tay quá độ có thể dẫn tới tình trạng bong tróc, ngứa da (còn gọi là viêm da tiếp xúc), đặc biệt phổ biến ở nhóm các nhân viên y tế.
Thay đổi hành vi.
Ở nhiều nước thì tỉ lệ rửa tay bằng xà phòng là thấp. Một nghiên cứu về rửa tay tại 54 quốc gia vào năm 2015 phát hiện rằng trung bình, 38,7% hộ gia đình tiến hành rửa tay bằng xà phòng. Một khảo sát vào năm 2014 trong 63 nước cho biết Ả Rập Saudi có tỉ lệ rửa tay bằng xà phòng sau khi dùng toilet cao nhất là 97%; tỉ lệ của Việt Nam đứng thứ 7 ở 93%, Mỹ đứng thứ 30 với 77%; và tỉ lệ của Trung Quốc là thấp nhất với 23%. Nhiều biện pháp thay đổi hành vi nay đã có mặt nhằm tăng cường nhận thức nhanh về hành vi rửa tay bằng xà phòng vào những thời điểm quan trọng trong ngày.
Tập hợp nhóm rửa tay cho thiếu nhi ở trường vào những thời điểm nhất định trong ngày là một lựa chọn ở những nước đang phát triển in sâu hành động rửa tay vào những hành vi của trẻ. "Chương trình y tế thiết yếu" do Bộ giáo dục Philippines tiến hành là một ví dụ về hành động tầm cỡ để thúc đấy giáo dục và sức khỏe của thiếu nhi. Trọng tâm của chương trình quốc gia này là tẩy giun hai lần trong năm, bổ sung rửa tay bằng xà phòng hàng ngày, đánh răng hàng ngày với fluoride. Chương trình còn được phổ cập thành công ở Indonesia.
Các chất được sử dụng.
Xà phòng và chất tẩy rửa.
Việc sử dụng thêm xà phòng hoặc chất tẩy rửa giúp tăng cường loại bỏ vi sinh vật khỏi da. Xà phòng và chất tẩy rửa là những chất hoạt động bề mặt tiêu diệt vi sinh vật bằng cách tẩy đi lớp lipid kép màng và biến chất protein của chúng. Nó còn nhũ hóa dầu mỡ, rửa trôi chúng đi theo vòi nước chảy.
Xà phòng bánh.
Do mang bản chất tái sử dụng, xà phòng bánh có thể chứa vi khuẩn từ những lần sử dụng trước. Một số ít nghiên cứu xem xét khả năng lây truyền vi khuẩn từ xà phòng bánh nhiễm độc kết luận rằng việc lây truyền là không khả thi vì vi khuẩn đã được rửa sạch bằng bọt. CDC thì vẫn tuyên bố rằng "ưu tiên là xà phòng lỏng".
Xà phòng kháng khuẩn.
Xà phòng kháng khuẩn được quảng bá rầm rộ tới những người có nhận thức về y tế. Tính đến nay, không có bằng chứng nào cho thấy sử dụng các chất tẩy rửa được khuyến cáo hay chất tẩy rửa chọn lọc những sinh vật kháng kháng sinh trong tự nhiên. Tuy nhiên, xà phòng kháng khuẩn chứa những chất tẩy rửa như triclosan, chất mang một danh sách đa dạng những chủng sinh vật kháng thuốc. Vì thế, ngay cả khi những chủng kháng kháng sinh không được xà phòng kháng khuẩn lựa chọn, chúng có thể không hiệu quả như được quảng cáo. Bên cạnh chất hoạt động bề mặt và chất bảo vệ da, những công thức cấu tạo phức tạp có thể chứa các acid (acid acetic, acid ascorbic, acid lactic) cũng như chất điều chỉnh độ pH, acid benzoic mang hoạt tính kháng vi sinh và chất dưỡng da khác (lô hội, vitamin, menthol, chiết xuất thực vật).
Một phép phân tích tổng hợp vào năm 2007 từ Đại học Y tế Công cộng Oregon chỉ ra rằng xà phòng thường có hiệu quả bằng xà phòng kháng khuẩn chứa triclosan nhằm ngăn ngừa bệnh tật và loại bỏ vi khuẩn trên tay. Do không đồng tình, một phân tích tổng hợp vào năm 2011 trên ấn phẩm "Journal of Food Protection" nhận định rằng khi được bào chế đúng cách, triclosan có thể tăng cải thiện nhỏ nhưng đủ nhìn thấy được, giống như chlorhexidine gluconate, iodophor hay povidone.
Nước nóng.
Nước nóng vẫn thích hợp để rửa tay song chưa đủ nóng để tiêu diệt vi khuẩn. Vi khuẩn phát triển nhanh hơn ở nhiệt độ cơ thể (37 °C). WHO coi nước ấm pha xà phòng hiệu quả hơn so với nước lạnh pha xà phòng trong việc loại bỏ dầu tự nhiên bám trên đất và vi khuẩn. Nhưng CDC cho rằng nước ấm gây kích ứng da thường xuyên hơn và dấu vết sinh thái của nó rõ hơn. Nhiệt độ nước từ 4 tới 40 °C chẳng khác biệt đáng kể về hiệu quả loại bỏ vi khuẩn. Yếu tố quan trọng nhất là chà tay đúng cách.
Trái ngược với suy nghĩ thông thường, các nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng sử dụng nước ấm chẳng có hiệu quả làm giảm lượng vi sinh vật bám trên tay. Sử dụng nước nóng để rửa tay thậm chí có thể bị xem là lãng phí năng lượng.
Ngày thế giới rửa tay với xà phòng.
Vào năm 2008, Liên Hợp Quốc chọn ngày 15 tháng 10 là "Ngày Thế giới rửa tay với xà phòng" để truyền đi những thông điệp về cải thiện thói quen vệ sinh cá nhân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng thế giới. Từ đó, Tổ chức Y tế Thế giới - WHO đã thiết lập Ngày rửa tay toàn cầu ("Global Hand washing Day - GHD") và diễn ra hàng năm vào ngày 15 tháng 10, với các đối tác trong chiến dịch này bao gồm Unicef, Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh tại Hoa Kỳ, nhằm mục đích nâng cao nhận thức về việc rửa tay bằng xà phòng như một yếu tố quan trọng để phòng ngừa bệnh tật. | 1 | null |
Chiến tranh giải phóng Bangladesh ( "Muktijuddho") diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó Ấn Độ tham dự) chống lại Tây Pakistan, và kéo dài trong chín tháng. Trong chiến tranh, diễn ra các hành động tàn bạo quy mô lớn, khiến 10 triệu người phải đi tị nạn và 30 triệu người phải chuyển chỗ.
Chiến tranh bùng nổ vào ngày 26 tháng 3 năm 1971, khi Quân đội Pakistan phát động một chiến dịch quân sự nhằm chống lại những người Bengal yêu cầu chính phủ quân sự Pakistan chấp thuận kết quả của cuộc tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên tại Pakistan, mà theo đó một đảng miền đông giành được chiến thắng. Phản ứng lại với chiến dịch, các chính trị gia và sĩ quan quân sự người Bengal tuyên bố nền độc lập của Bangladesh. Các lực lượng quân sự, bán quân sự, dân sự người Bengal hợp thành Mukti Bahini, tiến hành chiến tranh du kích chống lại lực lượng Pakistan. Chính phủ Bangladesh lưu vong được thành lập tại thành phố Calcutta của Ấn Độ.
Sau khi Pakistan tiến hành oanh tạc miền Bắc Ấn Độ, vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, Ấn Độ tham dự vào chiến tranh. Do phải đương đầu với cả hai mặt trận chiến tranh, các công sự của Pakistan nhanh chóng sụp đổ. Ngày 16 tháng 12, Liên quân Bangladesh và Ấn Độ đánh bại quân Pakistan tại phía đông. Sự kiện Pakistan đầu hàng dẫn đến kết quả là một lượng tù binh chiến tranh lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai.
Bối cảnh.
Vào tháng 8 năm 1947, hai quốc gia Pakistan và Ấn Độ chính thức thành lập. Quốc gia tự trị Pakistan gồm hai khu vực riêng biệt về địa lý và văn hóa ở phía đông và phía tây, cách biệt qua Ấn Độ. Khu vực phía tây được gọi phổ biến là Tây Pakistan còn khu vực phía đông (nay là Bangladesh) ban đầu được gọi là Đông Bengal và sau được gọi là Đông Pakistan. Mặc dù dân số của hai khu vực gần như ngang bằng, song quyền lực chính trị tập trung tại Tây Pakistan và có nhận thức rộng rãi rằng Đông Pakistan bị lợi dụng về mặt kinh tế, gây nên nhiều bất bình. Việc quản lý hai lãnh thổ không liền kề cũng được xem là một thách thức. Một chính đảng Đông Pakistan (Liên minh Awami) giành thắng lợi trong tổng tuyển cử năm 1970, song giới cầm quyền tại Tây Pakistan từ chối trao lại quyền lực, làm gia tăng bất mãn chính trị và chủ nghĩa dân tộc văn hóa tại Đông Pakistan, lực lượng của giới cầm quyền dùng vũ lực đàn áp.
Hành động trấn áp mang tính bạo lực của Quân đội Pakistan khiến thủ lĩnh của Liên minh Awami là Sheikh Mujibur Rahman tuyên bố Đông Pakistan độc lập với tên gọi Bangladesh vào ngày 26 tháng 3 năm 1971. Tổng thống Pakistan Agha Mohammed Yahya ra lệnh cho Quân đội Pakistan khôi phục quyền lực của chính phủ trung ương, nội chiến bắt đầu. Chiến tranh dẫn đến dòng người đi tị nạn (ước tính khoảng 10 triệu) tràn vào miền Đông Ấn Độ.
Tranh luận ngôn ngữ.
Năm 1948, Toàn quyền Pakistan đầu tiên là Mohammad Ali Jinnah tuyên bố tại Dacca rằng "Urdu, và chỉ có Urdu" sẽ là ngôn ngữ chung của toàn Pakistan. Điều này gây tranh luận cao độ, do tiếng Urdu chỉ là ngôn ngữ của người Muhajir (ở phía tây) và người Bihar (ở phía đông), mặc dù tiếng Urdu được các lãnh đạo chính trị và tôn giáo xúc tiến để trở thành ngôn ngữ chung của người Hồi giáo tại Ấn Độ. Ngôn ngữ được cho là một yếu tố quan trọng đối với văn hóa Hồi giáo của người Hồi giáo Ấn Độ; tiếng Hindi và chữ Devanagari thì được nhìn nhận là nền tảng của văn hóa Ấn Độ giáo. Đa số người phía tây của Quốc gia tự trị Pakistan nói tiếng Punjab, trong khi tiếng Bengal là ngôn ngữ của đại đa số người Đông Bengal (từ năm 1956 là Đông Pakistan). Tranh luận về ngôn ngữ cuối cùng lên đến đỉnh điểm khi Đông Bengal nổi dậy trong khi những nơi khác tại Pakistan vẫn yên ổn mặc dù tiếng Punjab là ngôn ngữ của đa số cư dân phía tây. Một số sinh viên và thường dân thiệt mạng trong một cuộc trấn áp của cảnh sát vào ngày 21 tháng 2 năm 1952. Tại Bangladesh và Tây Bengal, ngày này được kỷ niệm với tên gọi Ngày Liệt sĩ ngôn ngữ. Đến năm 1999, nhằm kỷ niệm sự kiện năm 1952, UNESCO tuyên bố ngày 21 tháng 2 là ngày Ngôn ngữ mẹ đẻ quốc tế.
Chênh lệch.
Mặc dù Đông Pakistan có dân số đông hơn, song Tây Pakistan chiếm ưu thế trong chính trị quốc gia và nhận được ngân sách lớn hơn.
Người Bengal không có đại diện đầy đủ trong Quân đội Pakistan, các sĩ quan có nguồn gốc Bengal trong quân đội chỉ chiếm 5% vào năm 1965; trong số đó chỉ có một số là nắm giữ các chức vụ chỉ huy, và đa số nắm giữ các chức vụ kỹ thuật hoặc quản trị. Người Tây Pakistan cho rằng người Bengal không dũng cảm như người Pashtun và người Punjab; quan điểm "các Chủng tộc thượng võ" bị người Bengal cho là lố bịch và sỉ nhục. Hơn nữa, mặc dù chi tiêu quốc phòng ở mức lớn, song Đông Pakistan không nhận được lợi ích, như các hợp đồng, mua sắm và các công việc hỗ trợ quân sự. Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1965 về vấn đề Kashmir cũng khiến người Bengal bừng tỉnh về cảm giác bất an quân sự, do họ chỉ có một sư đoàn bộ binh không đủ mạnh và 15 chiến đấu cơ, không có xe tăng để có thể ngăn chặn bất kỳ vụ trả đũa nào của Ấn Độ trong xung đột.
Khác biệt chính trị.
Mặc dù Đông Pakistan chiếm đa số ở mức thấp trong dân số quốc gia, song quyền lực chính trị vẫn nằm trong tay người Tây Pakistan. Do một hệ thống đại diện chỉ dựa theo dân số sẽ khiến tập trung quyền lực chính trị tại Đông Pakistan, người Tây Pakistan đưa ra kế hoạch "Một đơn vị" mà theo đó toàn bộ Tây Pakistan được xem là một tỉnh. Sau vụ ám sát thủ tướng đầu tiên của Pakistan là Liaquat Ali Khan vào năm 1951, quyền lực chính trị bắt đầu được trao cho Tổng thống Pakistan, và cuối cùng là giới quân sự.
Người Đông Pakistan nhận thấy rằng thế lực Tây Pakistan sẽ nhanh chóng hạ bệ bất kỳ Thủ tướng Pakistan đắc cử nào là người Đông Pakistan, như Khawaja Nazimuddin, Muhammad Ali Bogra, hay Huseyn Shaheed Suhrawardy. Sự ngờ vực của họ càng bị ảnh hưởng do chế độ độc tài quân sự của Ayub Khan (1958– 1969) và Yahya Khan (1969–1971), cả hai đều là người Tây Pakistan. Tình hình lên đến đỉnh điểm vào năm 1970, khi chính đảng Đông Pakistan lớn nhất là Liên minh Awami giành chiến thắng trong tổng tuyển cử quốc gia. Chính đảng này giành được 167 trong số 169 ghế phân cho Đông Pakistan, và do đó chiếm đa số trong số 313 ghế trong Quốc hội. Theo hiến pháp, điều này cho phép Liên minh Awami quyền thành lập một chính phủ. Tuy nhiên, lãnh đạo của Đảng Nhân dân Pakistan là Zulfikar Ali Bhutto (một người Sindh) từ chối cho lãnh đạo của Liên minh Awami là Sheikh Mujibur Rahman trở thành Thủ tướng Pakistan. Thay vào đó, người này đề xuất ý tưởng về việc có hai thủ tướng, mỗi người quản lý một phần. Đề xuất này gây phẫn nộ tại phía đông, vốn đã tức giận trước "một đơn vị". Zulfikar Ali Bhutto cũng từ chối chấp thuận đề xuất Sáu điểm của Sheikh Mujibur Rahman. Ngày 3 tháng 3 năm 1971, hai nhà lãnh đạo của hai phần cùng với Tổng thống Yahya Khan họp tại Dacca để quyết định vận mệnh của quốc gia. Sau khi các cuộc thương thảo không đem lại kết quả khả quan, Sheikh Mujibur Rahman kêu gọi một cuộc đình công toàn quốc. Zulfikar Ali Bhutto lo sợ xảy ra một cuộc nội chiến nên cử Mubashir Hassan thương thảo. Một thông điệp được truyền đi và Sheikh Mujibur Rahman quyết định gặp Zulfikar Ali Bhutto. Cả hai chấp thuận về việc hình thành một chính phủ liên minh với thủ tướng là Sheikh Mujibur Rahman và tổng thống là Zulfikar Ali Bhutto. Tuy nhiên, quân đội không biết về những tiến triển này, và Zulfikar Ali Bhutto gia tăng áp lực với Sheikh Mujibur Rahman để đạt được một quyết định.
Ngày 7 tháng 3 năm 1971, Sheikh Mujibur Rahman phát biểu tại Racecourse Ground (nay gọi là Suhrawardy Udyan). Trong bài phát biểu này ông đề cập đến một điều kiện bốn điểm để xem xét tại kỳ họp Quốc hội vào ngày 25 tháng 3:
Phản ứng với Cơn Bão Bhola (1970).
Cơn bão Bhola 1970 đổ bộ vào bờ biển Đông Pakistan trong tối ngày 12 tháng 11, đồng thời với thủy triều cao tại địa phương, ước tính khiến 300.000 đến 500.000 người thiệt mạng. Mặc dù không rõ về tổng thiệt hại về nhân mạng, song nó được cho là cơn bão nhiệt đới chí tử theo các ghi chép. Một tuần sau khi cơn bão Bhola đổ bộ, Tổng thống Yahya Khan thừa nhận rằng chính phủ của ông đã "sơ suất" và "sai lầm" trong việc điều khiển các nỗ lực cứu trợ do thiếu hiểu biết về mức độ của thiên tai.
Mười ngày sau khi cơn bão Bhola đổ bộ, 11 lãnh đạo chính trị tại Đông Pakistan phát hành một bản tuyên bố, trong đó buộc tội chính phủ "xao lãng, vô tình và hoàn toàn lãnh đạm". Họ cũng cáo buộc tổng thống làm giảm tầm quan trọng của vấn đề trong tin tức tường thuật. Ngày 19 tháng 11, các sinh viên tổ chức tuần hành tại Dacca để phản đối việc chính phủ phản ứng chậm.
Do xung đột giữa Đông và Tây Pakistan mở rộng trong tháng 3, các văn phòng tại Dacca của hai tổ chức chính phủ trực tiếp tham gia vào nỗ lực cứu trợ bị đóng cửa trong ít nhất hai tuần, đầu tiên là do tổng đình công và sau đó là lệnh cấm của Liên minh Awami. Do căng thẳng gia tăng, các nhân viên ngoại quốc được rút đi do lo ngại về bạo lực. Công tác cứu trợ vẫn tiếp tục, song các kế hoạch dài hạn bị rút ngắn.
Chiến dịch Đèn pha rọi.
Quân đội Pakistan tiến hành một cuộc bình định bằng quân sự có kế hoạch, đặt hiệu là Chiến dịch Đèn pha rọi, bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 nhằm kiềm chế phong trào dân tộc chủ nghĩa Bengal nắm quyền kiểm soát các thành phố lớn vào ngày 26 tháng 3, và sau đó tiêu trừ toàn bộ thế lực đối lập về chính trị hay quân sự, trong vòng một tháng. Trước khi bắt đầu chiến dịch, toàn bộ ký giả ngoại quốc bị trục xuất có hệ thống khỏi Đông Pakistan.
Giai đoạn chính của Chiến dịch Đèn pha rọi kết thúc khi thành thị lớn cuối cùng trong tay người Bengal thất thủ vào trung tuần tháng 5. Chiến dịch cũng khởi đầu cho các hành động tàn bạo, với những vụ giết người có hệ thống khiến người Bengal hết sức tức giận. Truyền thông quốc tế và các sách tham khảo bằng tiếng Anh công bố số liệu thương vong khác biệt rất lớn, từ 5.000 đến 35.000 tại Dacca, và 200.000–3.000.000 tại Bangladesh.
Sheikh Mujibur Rahman bị Quân đội Pakistan bắt giữ. Yahya Khan bổ nhiệm Rahimuddin Khan chủ tọa một phiên tòa đặc biệt để truy tố Sheikh Mujibur Rahman với nhiều tội danh. Kết án của tòa chưa từng được công khai, song dù sao Yahya Khan cũng đình chỉ phán quyết. Các lãnh đạo khác của Liên minh Awami cũng bị bắt giữ, trong khi một vài người chạy khỏi Dacca để tránh bị bắt. Yahya Khan ban hành lệnh cấm đối với Liên minh Awami.
Một lãnh đạo của Awami là M A Hannan được thuật là người đầu tiên công bố tuyên bố độc lập trên sóng phát thanh vào ngày 26 tháng 3 năm 1971. Ngày 26 tháng 3 năm 1971 được xem là Ngày Độc lập chính thức của Bangladesh, và tên gọi Bangladesh có hiệu lực kể từ đó. Tháng 7 năm 1971, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi công khai gọi Đông Pakistan cũ là Bangladesh.
Chiến tranh giải phóng.
Tháng 3-tháng 6.
Đầu tiên, sự kháng cự là tự phát và thiếu tổ chức, và không được dự kiến sẽ kéo dài. Tuy nhiên, khi Quân đội Pakistan đàn áp dân cư, kháng cự gia tăng. Quân đội giải phóng (Mukti Bahini) trở nên tích cực hơn. Quân đội Pakistan tìm cách để dẹp yên họ, song ngày càng nhiều binh sĩ người Bengal đào thoát sang "quân đội Bangladesh" hoạt động ngầm. Các đơn vị của người Bengal này dần sáp nhập vào Mukti Bahini và được giúp đỡ về vũ khí từ Ấn Độ. Pakistan phản ứng bằng việc không vận hai sư đoàn bộ binh và tái cấu trúc lực lượng của họ. Họ cũng xây dựng các lực lượng bán quân sự Razakar, Al-Badr và Al-Sham, cũng như những người Bengal khác phản đối độc lập, và người Hồi giáo Bihar định cư từ khi phân chia.
Ngày 17 tháng 4 năm 1971, một chính phủ lâm thời được thành lập ở huyện Meherpur phía Tây Bangladesh, gần biên giới với Ấn Độ. Sheikh Mujibur Rahman được cử làm Tổng thống mặc dù ông đang bị Pakistan giam giữ, Syed Nazrul Islam làm quyền Tổng thống, Tajuddin Ahmed làm Thủ Tướng, và Muhammad Ataul Ghani Osmani làm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Bangladesh. Do giao tranh giữa Quân đội Pakistan và Mukti Bahini tăng lên, ước tính có khoảng 10 triệu người Bengal tìm cách tị nạn tại các bang Assam và Tây Bengal của Ấn Độ.
Tháng 6-tháng 9.
Tướng Muhammad Ataul Ghani Osmani có quan điểm khác biệt với giới lãnh đạo của Ấn Độ đối với vai trò của Mukti Bahini trong xung đột. Giới lãnh đạo Ấn Độ ban đầu cho rằng lực lượng Bengal nên được huấn luyện thành một nhóm du kích tinh nhuệ quy mô nhỏ gồm 8.000 thành viên, dẫn đầu là các binh sĩ của trung đoàn Đông Bengal còn sống hoạt động trong các chi bộ nhỏ quanh Bangladesh để tạo thuận tiện cho sự can thiệp cuối cùng của Ấn Độ, song chính phủ Bangladesh lưu vong và Tướng Ataul Ghani Osmani thì ủng hộ chiến lược sau:
Bangladesh được chia thành 11 quân khu vào tháng 7, mỗi quân khu có một sĩ quan chỉ huy được lựa chọn từ các sĩ quan đào ngũ từ quân Pakistan sang Mukti Bahini để chỉ huy các hoạt động du kích và huấn luyện chiến sĩ. Hầu hết các trại huấn luyện của họ nằm gần khu vực biên giới và hoạt động với sự trợ giúp từ Ấn Độ. Quân khu 10 nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng tư lệnh M. A. G. Osmani và gồm có cả đặc công hải quân cùng lực lượng đặc biệt. Ba lữ đoàn (11 tiểu đoàn) được kiến thiết cho chiến tranh quy ước; một lực lượng du kích lớn được đào tạo.
Ba lữ đoàn (8 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn pháo binh) được đưa vào chiến đấu từ tháng 7 đến tháng 9. Trong tháng 6-tháng 7, Mukti Bahini tái tập hợp ở bên kia biên giới với sự hỗ trợ của Ấn Độ thông qua Chiến dịch Jackpot và bắt đầu đưa 2000 – 5000 quân du kích qua biên giới, được gọi là cuộc Tấn công Gió mùa, song không đạt được mục tiêu của mình. Quân chính quy Bengal cũng tấn công tại Mymensingh, Comilla và Sylhet, song kết quả là khác nhau. Nhà cầm quyền Pakistan kết luận rằng họ đã ngăn chặn thành công Chiến dịch Gió mùa, một quan sát gần chính xác.
Các chiến dịch du kích giảm bớt trong giai đoạn đào tạo, song tăng tốc sau tháng 8. Các mục tiêu kinh tế và quân sự tại Dacca bị tiến công. Trong Chiến dịch Jackpot, đặc công hải quân Bengal đặt mìn và cho nổ tung các tàu bỏ neo tại Chittagong, Mongla, Narayanganj và Chandpur vào ngày 15 tháng 8 năm 1971.
Tháng 10-tháng 12.
Lực lượng quy ước Bangladesh tiến công các đồn biên giới, như tại Kamalpur, Belonia và Boyra. Các vụ du kích tấn công tăng cao, cùng xu hướng với các hành động trả đũa nhắm vào thường dân của quân Pakistan và Razakar. Quân Pakistan được tăng cường với tám tiểu đoàn từ Tây Pakistan. Binh sĩ Bangladesh thậm chí còn từng tạm chiếm các sân bay tại Lalmonirhat và Shalutikar.
Ấn Độ tham dự.
Cảnh giác với sự tham dự ngày càng lớn của Ấn Độ, vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, Không quân Pakistan tiến hành Chiến dịch Thành Cát Tư Hãn nhằm tấn công phủ đầu các căn cứ của Không quân Ấn Độ. Cuộc tấn công được mô phỏng theo Chiến dịch Tiêu điểm của Không quân Israel trong Chiến tranh Sáu ngày, và mục tiêu là vô hiệu hóa các máy bay của Không quân Ấn Độ trên mặt đất. Ấn Độ nhìn nhận cuộc tấn công là hành động gây hấn vô cớ, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971.
Phản ứng với cuộc tấn công, cả Ấn Độ và Pakistan đều chính thức thừa nhận "sự tồn tại một tình trạng chiến tranh giữa hai quốc gia", song không chính phủ nào tuyên chiến chính thức.
Ba quân đoàn của Ấn Độ tham gia vào chiến tranh giải phóng Đông Pakistan. Họ nhận được hỗ trợ từ ba lữ đoàn lân cận của Mukti Bahini. Cuộc chiến trở nên quá sức đối với Lục quân chỉ có ba sư đoàn của Pakistan. Người Ấn Độ nhanh chóng tràn qua Bangladesh, giao chiến có chọn lựa hoặc bỏ qua các đồn lũy được phòng thủ kiên cố. Lực lượng Pakistan không thể đánh chặn có hiệu quả cuộc phản công của Ấn Độ, do họ được dàn thành các đơn vị nhỏ quanh biên giới để đánh chặn các cuộc tấn công du kích của Mukti Bahini. Không thể phòng thủ Dacca, Pakistan đầu hàng vào ngày 16 tháng 12 năm 1971.
Đầu hàng và hậu quả.
Ngày 16 tháng 12 năm 1971, Trung tướng Amir Abdullah Khan Niazi, sĩ quan chỉ huy của lực lượng Lục quân Pakistan đóng tại Đông Pakistan ký vào văn kiện đầu hàng. Vào thời điểm đó, chỉ có vài quốc gia công nhận ngoại giao Bangladesh. Trên 93.000 binh sĩ Pakistan đầu hàng lực lượng Ấn Độ, khiến đây trở thành cuộc đầu hàng lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Bangladesh tìm cách gia nhập Liên Hợp Quốc và nhận hầu hết phiếu ủng hộ, song Trung Quốc phủ quyết điều này do Pakistan là đồng minh chủ chốt của họ. Mãi đến năm 1974, sau khi Bangladesh được Pakistan công nhận, Trung Quốc mới chấm dứt phủ quyết và cho phép nước này gia nhập. Hoa Kỳ cũng là một đồng minh chủ chốt của Pakistan và nằm trong số các quốc gia cuối cùng chấp thuận công nhận Bangladesh. Để đảm bảo cho một quá trình chuyển tiếp êm thấm, Ấn Độ và Pakistan ký kết Hiệp định Simla năm 1972. Hiệp định đảm bảo rằng Pakistan công nhận tình trạng độc lập của Bangladesh để đổi lấy các tù binh chiến tranh Pakistan. Ấn Độ đối xử với các tù nhân chiến tranh này theo Công ước Genève có từ năm 1925. Ấn Độ phóng thích trên 93.000 tù binh chiến tranh Pakistan trong năm tháng.
Hơn nữa, như một cử chỉ thiện chí, Ấn Độ xá tội cho gần 200 quân nhân bị người Bengal cáo buộc phạm tội ác chiến tranh. Theo hiệp định, Ấn Độ trao trả mà họ đoạt được tại Tây Pakistan trong chiến tranh, song Ấn Độ vẫn giữ lại một vài khu vực có tính chiến lược;
Trước chiến bại và một nửa quốc gia ly khai, giới lãnh đạo quân sự và dân sự Pakistan sửng sốt. Chế độ độc tài của Yahya Khan sụp đổ và mở đường cho Zulfikar Ali Bhutto nắm quyền lực. Tướng Niazi bị nghi ngờ và khinh miệt khi ông trở về Pakistan. Chiến tranh cũng bộc lộ nhược điểm của học thuyết chiến lược mà Pakistan tuyên bố, đó là "bảo vệ Đông Pakistan nằm tại Tây Pakistan". | 1 | null |
là một bài hát của Nhật Bản, ra mắt năm 1938, nhạc của Takeoka Nobuyuki và lời của Saijō Yaso. Đây là ca khúc chủ đề của bộ phim Nhật Bản cùng tên công chiếu năm 1940. Bài hát đã được nhiều nghệ sĩ ở các quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông thể hiện lại. Nhà thơ Nguyên Sa đã đặt lời tiếng Việt cho bài này dưới nhan đề "Tô Châu dạ khúc" (蘇州夜曲), còn nhạc sĩ Y Vân đặt lời tiếng Việt dưới nhan đề "Người đẹp Tô Châu".
Lịch sử bài hát.
Bài hát ra mắt vào tháng 12 năm 1938 song ban đầu không bán được, sau đó nửa năm bỗng bán rất chạy; một năm sau các cán binh ở tiền tuyến đều săn lùng nhạc phẩm này, trong đó Đô đốc Yamamoto Isoroku cũng là người yêu thích bài hát. Tại một số lãnh thổ Đông Nam Á, do sự can thiệp quân sự của Nhật Bản đồng thời sự tiếp xúc với phim ảnh nước này mang đến mà "Shina no yoru" cũng truyền đến Thái Lan, Việt Nam, Indonesia. Ở Thượng Hải, Trung Quốc, ca sĩ Diêu Lị (姚莉) ca lại bài này bằng tiếng Quan thoại dưới nhan đề "Xuân đích mộng" (春的夢). Sau khi Thế chiến thứ hai qua đi, bài hát vẫn tiếp tục được hát lại tại các quốc gia và vùng lãnh thổ đông người Trung Quốc sinh sống như Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia dưới nhiều tựa đề như "Xuân đích mộng", "Xuân chi mộng" (春之夢), "Trung Quốc chi dạ" (中国之夜).
Trong chiến tranh Thái Bình Dương, lính Mỹ cũng nghe được bài hát này trên sóng phát thanh, đến khi chiến tranh kết thúc thì đĩa hát bị đổ xô săn lùng.
Sau chiến tranh, do phía Trung Quốc xem từ "Shina" (支那) trong tiếng Nhật là mang nghĩa xúc phạm, nhất là từ đầu thập niên 1980 do sự phản đối trở lại của Trung Quốc mà hiện bài hát hầu như không được phát trên truyền hình và truyền thanh. | 1 | null |
Các tàu thuộc lớp Murena là loại tàu đổ bộ thuộc đề án 12061 của hải quân Nga, cũng còn gọi là tàu đổ bộ đệm khí.
Trang bị vũ khí.
Hệ thống phòng vệ của Murena gồm 2 pháo AK-306 và tên lửa phòng không Igla
Khả năng tác chiến.
Sức mạnh của Munera trong tác chiến thủy lục phối hợp nằm ở khả năng mang theo 2 xe bọc thép chở quân hoặc 2 xe chiến đấu bộ binh hoặc 2 xe tăng lội nước hoặc 130 lính đổ bộ. Murena có khả năng vượt dốc nghiêng 6 độ và tường cao 0,8m.
Thủy thủ đoàn.
Một hành trình trên biển thực hiện nhiệm vụ kèm theo vận chuyển quân và trang bị điển hình có thể bao gồm 130 quân
Thông số kỹ thuật.
- Chiều dài: 31,3m
- Chiều rộng: 14,8m
- Trọng tải tối đa: 130 tấn
- Tốc độ: 50 hải lý /giờ
- Phạm vi hoạt động: 360 km với tốc độ 50 hải lý/giờ
- Chuyên chở phương tiện: 2 xe bọc thép chở quân hoặc 2 xe chiến đấu bộ binh hoặc 2 xe tăng lội nước
- Chở quân: 130
- Hỏa lực: 2 tổ hợp pháo phòng không hải quân AK-306, tên lửa phòng không Igla. | 1 | null |
Làm móng chân là một cách để làm đẹp các móng chân người (hiếm hơn là móng động vật). Phương pháp này tương tự cắt móng tay. Làm móng chân có thể ngăn chặn các bệnh về móng. Phụ nữ là đối tượng thường làm móng chân. Các mục đích của làm móng là chăm sóc thẩm mỹ hay điều trị y tế.
Dịch vụ làm móng chân không chỉ giới hạn với móng ngón chân mà còn tẩy tế bài chết ở gót chân hoặc tẩy lông chân bằng cách dùng một loại đá thô gọi là đá bọt. | 1 | null |
Gạch bùn là một loại gạch được tạo ra từ hỗn hợp của đất sét trộn, bùn, cát và nước, trộn với một chất liệu kết dính như trấu hay rơm, còn được biết đến bằng tên trong tiếng Tây Ban Nha là "adobe". Thợ làm gạch tạo ra được một hỗn hợp cứng và phơi khô chúng dưới ánh mặt trời trong khoảng thời gian 25 ngày.
Tại các vùng khí hậu ấm mà thiếu gỗ để làm nguyên liệu cho lò nung thì gạch thường được phơi dưới ánh nắng mặt trời. Trong một số trường hợp thợ làm gạch tăng tuổi thọ của gạch bùn bằng cách xếp gạch nung lên trên hoặc phủ vữa ở bên ngoài.
Thời cổ đại.
Các cư dân Nam Á ở Mehrgarh đã xây dựng và sống trong các ngôi nhà bằng gạch bùn từ khoảng 7000 đến 3300 năm trước công nguyên. Gạch bùn được sử dụng tại hơn 15 địa điểm đã được nghiên cứu từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên được xem như là dấu vết văn hoá chính của nền văn minh lưu vực sông Ấn cổ. Gạch bùn còn được sử dụng tại Trung Đông trong suốt thời kì Tiền đồ sứ Đồ đá mới B. Các cư dân Lưỡng Hà sử dụng "gạch phơi khô dưới ánh nắng mặt trời" tại các công trình xây dựng của họ; thường là những viên gạch phẳng trên gạch bùn dạng lồi. Một số viên gạch được tạo hình trong khuôn vuông và được nắn tròn nên ở giữa thường dày hơn hai bên.
Tại Crete, trong thời kì văn minh Minos, ở Knossos có những dấu tích khảo cổ cho thấy gạch phơi dưới mặt trời đã được sử dụng trong thời đại đồ đá mới (khoảng trước 3400 năm trước công nguyên).
Gạch bùn còn được sử dụng ở một số khu vực trong thời kì tiền La Mã ở Ai Cập và được sử dụng rộng rãi hơn trong giai đoạn chịu ảnh hưởng của La Mã.
Thời cận đại và hiện đại.
Nhà thờ hồi giáo lớn ở Djenné nằm ở miền trung của Mali là công trình kiến trúc bằng gạch bùn lớn nhất thế giới. Công trình này được hoàn thành vào đầu thế kỉ 20. Như các công trình kiến trúc ở vùng Sahel, nó được xây bằng một loại gạch bùn gọi là "Banco". Đó là một loại gạch bùn làm từ bùn và trấu mịn, tạo thành hỗn hợp lên men. Hỗn hợp này sau đó có thể dùng để tạo ra gạch hoặc làm vữa. Loại vữa đó phải trát lại hàng năm.
Thời hiện đại, gạch bùn vẫn còn được sử dụng trong các công trình xây dựng tại các khu vực kém phát triển ở châu Phi (Niger, Sudan...) hay châu Á (Afghanistan, Pakistan...). | 1 | null |
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Nhiệm vụ, chức năng.
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là người đứng đầu Ban Thường trực, Đoàn Chủ tịch và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường là 1 Ủy viên Trung ương Đảng (trừ một số trường hợp là Ủy viên Bộ Chính trị).
Chủ tịch có quyền góp ý kiến, kiến nghị với Đảng về chủ trương, đường lối; với Nhà nước về chính sách pháp luật và những vấn đề về quốc kế dân sinh. Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước.
Quyết định kế hoạch chuẩn bị Đại hội Đại biểu Toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ tiếp theo.
Có quyền triệu tập Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp bất thường khi thấy cần thiết.
Thực hiện chỉ đạo việc thực hiện các nghị quyết của Ủy ban Trung ương, Đoàn Chủ tịch; chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước có liên quan đến trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Thay mặt Đoàn Chủ tịch kiến nghị với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, chính sách pháp luật cần ban hành, sửa đổi;
Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh;
Tổ chức, chỉ đạo, quản lý bộ máy giúp việc ở cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Giữ mối quan hệ phối hợp công tác với cơ quan nhà nước, tổ chức thành viên;
Hướng dẫn, bảo đảm điều kiện hoạt động của các Hội đồng tư vấn, cộng tác viên của Ủy ban Trung ương;
Là Chủ tọa tại các phiên họp của Ban Thường trực.
Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để đáp ứng khả năng lãnh đạo cấp cao trong tổ chức Đảng, không bị chồng chéo quyền lực về mặt Đảng, cho tới nay, các vị Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường phải là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương trong số các đại biểu Quốc hội. Các ứng viên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải đạt các tiêu chuẩn như tốt nghiệp Đại học trở lên, lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp; quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp; trình độ ngoại ngữ, tin học phù hợp";" tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn của Đảng Cộng sản Việt Nam dành cho chức danh Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo Quy định 214-QĐ/TW năm 2020 [1] về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý do Ban Chấp hành Trung ương ban hành, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải là người:
"Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời, cần có những phẩm chất, năng lực: Có hiểu biết toàn diện về công tác mặt trận; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Có năng lực cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Có năng lực tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng, xây dựng liên minh chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận xã hội và tổ chức giám sát, phản biện xã hội. Có nhiệt huyết và là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân. Có kinh nghiệm và uy tín cao trong tổ chức mặt trận; có uy tín, ảnh hưởng trong đội ngũ trí thức, chức sắc tôn giáo. Đã tham gia Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương."
Xem thêm.
Phó Chủ tịch.
Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là chức danh Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được lập vào Đại hội thứ III của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2-4/11/1988).Nhiệm vụ là hỗ trợ công việc của Chủ tịch và chịu sự phân công của Chủ tịch.
Phó Chủ tịch được Ủy ban Trung ương bầu ra.Người giữ chức vụ đầu tiên là Luật sư Phan Anh và Tổng thư ký kiêm Phó Chủ tịch là Phạm Văn Kiết.
Phó Chủ tịch được tăng dần theo các kỳ đại hội và không thay đổi số lượng gần đây.
Tổng Thư ký.
Tổng Thư ký được Ủy ban Trung ương bầu ra.Tổng Thư ký thường kiêm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch,có nhiệm vụ giúp đỡ công việc của Chủ tịch.
Tổng Thư ký thường là chủ tọa các phiên họp của Ban thường trực và Đoàn Chủ tịch. | 1 | null |
Maine Road từng là một sân bóng đá ở Moss Side, Manchester, Anh Quốc - đây từng là sân nhà của Câu lạc bộ bóng đá Manchester City từ lúc bắt đầu khởi công năm 1923 tới năm 2003. Nơi đây đã từng tổ chức các trận bán kết Cúp FA, Siêu cúp nước Anh, một trận chung kết Cúp Liên đoàn bóng đá Anh và các trận đấu bóng khác ở Anh. Khi mới hoàn thành, sân có sức chứa khoảng 35.150 chỗ ngồi, sau đó được nâng cấp lên tới 84.569 chỗ ngồi, do vậy sân vận động này còn có biệt danh là Sân Wembley của phía Bắc.
Trong lịch sử hơn 80 năm tồn tại, Sân vận động Maine Road đã được trùng tu nhiều lần, vì vậy mà các khán đài của nó được thiết kế với các độ cao rất khác nhau. Mùa bóng 2002–03 là mùa bóng cuối cùng câu lạc bộ Manchester City thi đấu ở Maine Road, trận đấu cuối dùng diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 2003. Mùa giải sau, câu lạc bộ Manchester City chuyển tới Sân vận động Thành phố Manchester (còn được biết đến với tên sân vận động Etihad) ở phía Đông thành phố Manchester, cách trung tâm thành phố Manchester khoảng một dặm và gần Ardwick - nơi câu lạc bộ được thành lập năm 1880.
Lịch sử.
Sân vận động được dùng chung với Manchester United sau Chiến tranh thế giới thứ hai do sân Old Trafford của Manchester United bị tàn phá trong Manchester Blitz. Manchester United đã trả cho Manchester City £5,000 mỗi mùa giải, cộng thêm một phần tiền bán vé. Kỷ lục số lượng cổ động viên đông nhất đến sân Maine Road để theo dõi một trận đấu là 83.260 người trong trận Manchester United đấu với Arsenal vào ngày 17 tháng 1 năm 1948. Đây là kỷ lục quốc gia cho một trận đấu bóng đá hồi đó. Sân Maine Road cũng được Câu lạc bộ Manchester United chọn làm sân nhà 3 lần trong tổng số 4 trận sân nhà của họ trong mùa giải 1956–57 European Cup.
Tham khảo.
Footnotes
Bibliography | 1 | null |
Tô Nguyệt Đình (1 tháng 10 năm 1920 – 17 tháng 5 năm 1988) là một nhà văn, nhà báo người Việt Nam. Một trong nhiều bút hiệu khác của ông là Tiêu Kim Thủy.
Tiểu sử.
Tô Nguyệt Đình tên thật là Nguyễn Bảo Hóa. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1920 tại làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa. Từ năm 1945 đến 1954, ông viết tin địa phương cho các báo ở Sài Gòn như: "Tin Điển", "Ánh Sáng", "Việt Thanh", "Việt Báo"... Từ năm 1955, ông lên Sài Gòn tiếp tục cộng tác với một số tờ báo tại đây và sống bằng nghề viết lách cho đến cuối đời. Bên cạnh việc viết báo, ông còn là một tay viết truyện ngắn nổi bật đương thời.
Một số chức vụ:
Ông là một trong những người đứng đầu tổ chức ngày Ký giả đi ăn mày trước 1975. Ông mất ngày 17 tháng 5 năm 1988. Tên ông sau đó được đặt cho một con đường ở Bà Rịa. | 1 | null |
Angry Birds Star Wars II là trò chơi theo thể loại đối kháng, được thiết kế bởi Rovio Entertainment, Disney Intraces Studio và Lucas Art, dựa trên cốt truyện Star Wars của Lucas. So với Angry Birds Star Wars, Angry Birds Star Wars II có thể giúp người chơi tham gia vào hai phe Bird Side (Light Side) và Pork Side (Dark Side). Tuy nhiên, Angry Birds Star Wars II không có các đạo cụ như Angry Birds Star Wars. Bù lại, trò chơi này lại sở hữu một số lượng nhân vật phong phú của cả hai phe cũng như lượng Credit có sẵn trong mỗi màn.
Tính năng đặc biệt.
Bạn có thể tham gia vào Pork Side và sử dụng các nhân vật như Palpatine, Darth Maul, Bá tước Dooku...
Hệ thống nhân vật phong phú của cả hai phe gồm Ezra Bridger, Kanan Jarrus, Hera Syndulla, Gazareb "Zeb" Orrelios, Sabine Wren, C1-10P(Chopper), Qui-Gon Jinn, Obi-Wan Kenobi, Anakin Skywalker, Padme Amidala, Mace Windu, Yoda, Jar Jar Blinks, Jedi Younglings, Captain Panaka, R2-D2, C-3PO, Chewbacca, Luke Skywalker, Kit Fisto, Wicket, Han Solo, Silver C-3PO, Leia Organa, Lando và Agent Kallus, Pilot AT-DP, Cikatro Vizago, Vizago-droid, Đại Phán quan, Jango Fett, Emperor Palpatine/Darth Sidious, Darth Maul, Count Dooku, Droideka, Zam Wesell, General Grievous, Anakin Skywalker/ Darth Vader, Stormtrooper, TIE Fighter pilot, Boba Fett, Jabba the Hutt, Royal Guard...
Hệ thống nhiệm vụ và Bonus với phần thưởng hấp dẫn.
Hoán đổi nhân vật và sử dụng nhân vật của phe khác.
TELEPODS.
Để sử dụng, người chơi cần đặt Telepod lên trên camera của thiết bị.
Tiền tệ trong trò chơi.
Đơn vị tiền tệ trong trò chơi là credit, thường gọi là xu. Từ phiên bản 1.4.1, người chơi có thể tìm kiếm 1000 Credit ẩn giấu trong các màn. Ngoài ra, người chơi có thể nhận credit bằng cách hoàn thành nhiệm vụ hoặc mua trong cửa hàng.
Các phần của trò chơi dựa theo cốt truyện.
1/ Naboo Invasion.
Các nhân vật có trong phần này gồm Qui-Gon Jinn, Obi-wan Kenobi, Yoda, C-3PO, R2-D2 ở Bird Side và Darth Sidious, Jango Fett, Battle Droid, Droideka của Pork Side.
Naboo Invasion bao gồm 20 level cùng với 4 bonus level ở mỗi bên, tổng cộng là 72 sao.
Theo cốt truyện, phi thuyền đại sứ chở theo hai Jedi - đại diện cho Cộng hòa du hành đến trạm vũ trụ của Liên Minh Thương mại để thương lượng về việc cấm vận thương mại đối với hành tinh Naboo, hành tinh được trị vì bởi nữ hoàng Padmé Amildala. Trong lúc chờ đại diện của trạm để thương lượng, Phó Vương (người điều hành tất cả các trạm vũ trụ đang bao vây Naboo) đã ra lệnh thủ tiêu Qui-Gon và Obi-Wan theo chỉ thị của Darth Sidious (Chúa tể Sith). Để thoát khỏi sự áp đảo về số lượng của các người máy (Battle Droid), hai thầy trò Jedi phải thâm nhập vào các phi thuyền chiến tranh đổ bộ xuống Naboo để bí mật thông báo cho Nữ hoàng Amidala về cuộc chiến sắp xảy ra tại hành tinh này.
Đội quân của Liên minh Thương mại tiến quân đến Thủ Đô của Naboo và bắt được Nữ hoàng. Qui-Gon Jinn cùng với đệ tử của mình, Obi-wan Kenobi đã giải cứu Nữ hoàng và những người thân cận của Nữ hoàng và họ quyết định đến hành tinh Coruscant để yêu cầu sự giúp đỡ từ Thượng Nghĩ Sỹ Palpatine. Không may, khi ra khỏi vùng khí quyển của hành tinh, phi thuyền của Nữ hoàng bị tấn công bởi các trạm vũ trụ và có chút trục trặc về sự rò rỉ nhiên liệu và động cơ nên buộc phải hạ cánh khẩn cấp tại Tatooine.
Biết tin, Darth Sidious ra lệnh cho đệ tử của mình, Darth Maul (một người Sith) truy sát cho bằng được Nữ hoàng và hai Jedi tại hành tinh Tatooine.
2/ Escape to Tatooine.
Phần này, ngoài các nhân vật ở phần trước, còn có thêm Anakin Episode 1 và Jar Jar Blinks ở Bird Side và có thêm Darth Maul, Bá tước Dooku ở Pork Side
Số level cũng như số bonus level tương tự phần trước.
3/ Battle of Naboo.
Ở phần này, người chơi của phe Bird Side được sử dụng Captain Panaka - nhân vật đầu tiên sử dụng súng cũng như Padmé - nhân vật nữ đầu tiên của trò chơi. So với các phần trước, Battle of Naboo được đánh giá là có lượng nhân vật phong phú hơn.
4/ Rise of the Clones.
Rise of the clones đánh dấu sự xuất hiện của Anakin Episode 2 cùng với Mace Windu và Jedi Youngling ở Bird Side, Boba Fett ở Pork Side. Diễn biến của các sự việc xảy ra trên hành tinh Coruscant và Kamino.
5/ Revenge of the Pork.
Revenge of the Pork được nhiều người chơi đánh giá là một trong những phần khó của trò chơi. Để có thể đạt 48/48 sao, yêu cầu người chơi phải thành thạo kỹ năng của các nhân vật.
6/ Rebels.
Cốt truyện của phần Rebels theo serie Star Wars Rebels trên Disney Channel, với nhân vật chính là Ezra Bridger - một thiếu niên 14 tuổi sống trên hành tinh Lothal - thuộc vùng kiểm soát của Hoàng đế độc ác Palpatine. Cậu có mối thù sâu nặng với quân Đế chế vì chúng đã bắt giết cha mẹ cậu lúc còn nhỏ. Trong một lần gặp nguy, Ezra đã đi nhờ tàu của một nhóm phiến quân tên là Bóng Ma, đứng đầu là một Jedi tên Kanan Jarrus, và cuộc phiêu lưu của cậu bắt đầu từ đó.
Theo phần mở đầu của phim, Darth Vader đã giao nhiệm vụ cho Điều Tra Viên (một Jedi đi theo bóng tối): " Thần Lực (tức là các Jedi) đã bị tiêu diệt, nhưng Hoàng Đế đã cảm nhận được mối nguy mới, đó là những Thần Lực còn sót lại và con cái của Thần Lực (hậu duệ của các Jedi). Hãy tiêu diệt hết tất cả chúng. ". Trong số đó có Ezra.
7/ Reward Chapter.
Là phần chơi đặc biệt giúp người chơi luyện tập cách sử dụng các nhân vật, vừa sử dụng thành thạo các kỹ năng của mỗi nhân vật.
8/ Master Your Destiny.
Là phần chơi đặc biệt giúp người chơi sử dụng tự do các nhân vật để mở những quả trứng và chiến đấu | 1 | null |
Sứa nhau thai (danh pháp khoa học: Deepstaria enigmatica) là một loài sứa trong họ sứa Ulmaridae được mô tả vào năm 1967 bởi F.S. Russel.
Đặc điểm.
Đây là sứa khổng lồ, loài sứa hiếm gặp này có thể phát triển tới chiều rộng khoảng 0,61 mét, có hình lục giác, giống một lớp da mỏng manh bồng bềnh, chúng có thân hình khá mỏng manh, mềm mại và di chuyển rất linh hoạt, uyển chuyển.
Xuất hiện.
Sứa nhau thai sống phổ biến ở các vùng nước lạnh tại Nam Cực. Loài sứa này hầu như không còn được nhìn thấy từ những năm 1960. Năm 2012, tại một giàn khoan dầu mỏ ở Vịnh Mexico, người ta đã tình cờ ghi lại được hình ảnh của con sứa này xuất hiện ở độ sâu 1.500m, trông như một tấm vải đang trôi nổi cuồn cuộn đã lọt vào ống kính camera của một giàn khoan dầu, ban đầu người ta cho nó là sinh vật kỳ dị, là quái vật khổng lô dưới lòng đại dương. | 1 | null |
Cầu Trần Thị Lý là cây cầu bắc qua sông Hàn ở thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Cây cầu này thay thế cho hai cây cầu cũ là Nguyễn Văn Trỗi và Trần Thị Lý. Cầu được khánh thành và đi vào hoạt động năm 2013.
Xây dựng.
Quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật:
Cầu Trần Thị Lý (cũ).
Cầu Trần Thị Lý hiện nay là cây cầu xây dựng hoàn toàn mới tại vị trí của cầu Trần Thị Lý (cũ). Cầu Trần Thị Lý (cũ) đã bị tháo dỡ năm 2003. Trước đây cầu Trần Thị Lý (cũ) là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hàn của Đà Nẵng.
Năm 1951 người Pháp cho xây dựng cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hàn là một cây cầu đường sắt, gắn vào hệ thống đường sắt từ Cảng Tiên Sa đến Ga Đà Nẵng. Cầu dài 520m, được xây dựng bởi Hãng Eiffel (Pháp), và có tên là cầu De Lattre De Tassigny (1989 - 1952, Thống chế Pháp), phiên âm tiếng Việt là Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi mà người dân Đà Nẵng quen gọi là cầu Đờ Lát, cầu Đờ Lách.
Đến năm 1955, khi người Pháp đã rút về nước, ở Đà Nẵng tất cả các đường phố mang tên Pháp (trừ Pasteur và Yersin) đều được đổi thành tên Việt. Cầu De Lattre De Tassigny cũng được đổi tên thành cầu Trịnh Minh Thế (tướng Cao Đài, 1922 - 3/5/1955).
Bản đồ Đà Nẵng 1967 ghi rõ cầu Trịnh Minh Thế là cầu đường bộ và đường sắt. Cầu Trịnh Minh Thế đã là một cầu đường bộ từ trước 1975 chứ không phải chỉ là một cầu đường sắt.
Tên gọi cầu De Lattre (Đờ Lát) đã đi vào dân gian nên nhiều người biết, trong khi đó chỉ có một số ít người biết là cầu đã đổi tên thành cầu Trịnh Minh Thế. Đến sau năm 1975, cầu Trịnh Minh Thế mới được đổi tên thành cầu Trần Thị Lý (1933 - 1992). | 1 | null |
Bọ hung năm sừng, tên khoa học Eupatorus gracilicornis, là một loài bọ cánh cứng có bốn sừng lớn ở đốt ngực trước và một sừng rất dài trên đầu.
Phân bố.
Phạm vi phân bố của bọ hung năm sừng là Đông Nam Á, tại Việt Nam theo sách đỏ 2007, chỉ còn 2000 cá thể còn sinh tồn, sống chủ yếu ở khu vực vườn quốc gia Tam Đảo. Màu của nó màu đen huyền sáng bóng trong khi cánh cứng và cánh màng có màu vàng. Cơ thể được bao phủ bởi một bộ xương ngoài dày và một đôi cánh cứng dày với cánh màng bên dưới, cho phép con bọ bay, mặc dù không phải rất hiệu quả, do kích thước lớn của nó.
Mô tả.
Mùa bay thường là vào tháng Chín, khi hầu hết các con đực thường xuất hiện để chờ giao phối. Chiều dài của nó là 50–95 mm. Khi là ấu trùng, nó ăn gỗ mục. Chế độ ăn uống dành cho con trưởng thành bao gồm mật hoa, nhựa cây và hoa quả. Nó được mô tả đầu tiên bởi nhà côn trùng học Anh Gilbert John Arrow vào năm 1908. | 1 | null |
Jeffrey "Jeff" Lynne (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1947) là nhạc sĩ, ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Anh, nổi tiếng trong vai trò thủ lĩnh và là thành viên trụ cột còn lại duy nhất của ban nhạc Electric Light Orchestra. Sau này, ông còn là người đồng sáng lập nên siêu ban nhạc Traveling Wilburys cùng George Harrison, Bob Dylan, Roy Orbison và Tom Petty.
Lynne là nhà sản xuất cho nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như The Beatles, Paul McCartney, Ringo Starr, Brian Wilson, Randy Newman, Roy Orbison, Dave Edmunds, Del Shannon và Tom Petty. Ông cũng đồng sáng tác các ca khúc của Harrison và Petty, trong đó có album "Cloud Nine" đồng sản xuất bởi Lynne và Harrison. Những sáng tác nổi tiếng nhất của ông bao gồm "Livin' Thing", "Evil Woman", "Turn to Stone", "Do Ya", "Strange Magic", "Sweet Talkin' Woman", "Telephone Line", "Mr. Blue Sky", "Hold on Tight", "Don't Bring Me Down", "When We Was Fab", "I Won't Back Down", "Free Fallin'", "Handle with Care" và "End of the Line".
Năm 2008, tờ "The Washington Times" xếp Lynne ở vị trí số 4 trong danh sách những nhà sản xuất âm nhạc vĩ đại nhất. Năm 2014, ông được tặng ngôi sao trên Đại lộ Birmingham ở thành phố quê hương. | 1 | null |
Con trai là một người nam còn trẻ, thường ám chỉ người nam đó còn là trẻ con hay vị thành niên. Khi anh ta trưởng thành, anh ta được gọi là một đàn ông. Điều khác biệt nhất giữa một người con trai và một người con gái là con trai thì có dương vật còn con gái thì có âm đạo.
Khái niệm "con trai" cơ bản là dùng để phân biệt giới tính về mặt sinh học, phân biệt giới về mặt xã hội hoặc cả hai. Sau này khái niệm đó cũng thường được áp dụng cho người đàn ông, có thể coi là chưa trưởng thành hoặc kém hơn trong một mối liên hệ thời niên thiếu. Khái niệm này cũng có thể kết hợp với một loạt các từ khác để tạo thành các từ ghép liên quan đến giới tính.
Từ nguyên học.
Trong tiếng Anh, từ "boy" (con trai) bắt nguồn từ "boi, boye" ("con trai, đầy tớ") trong tiếng Anh Trung Đại, và có liên quan đến các từ khác như: từ "boy" trong Germanic, "boi" ("người đàn ông trẻ") trong Tiếng Đông Frisian và "boai" ("chàng trai") trong Tiếng Tây Frisia. Mặc dù nguồn gốc chính xác của từ "boy" còn chưa rõ ràng, tiếng Anh và các hình thức của tiếng Frisian có thể bắt nguồn từ *"bō-ja" ("em trai") trong tiếng Anglo-Frisian, *"bō-" ("anh em trai") - một từ gốc trong Germanic, từ *"bhā-" trong Proto-Indo-European, *"bhāt-" ("bố, anh trai"). Từ gốc cũng được tìm thấy từ "boe" ("anh em trai") trong Flemish, từ "boa" ("anh em trai") trong thổ ngữ Na Uy, và thông qua một biến thể nhân rộng *"bō-bō-", "bófi" trong Tiếng Bắc Âu cổ, "boef" ("cao bồi, cậu bé") trong tiếng Hà Lan, "Bube" ("cao bồi, cậu bé, chàng trai") trong tiếng Đức. Ngoài ra, từ này có thể có liên hệ với từ "Bōia", một tên người trong tiếng Anglo-Saxon.
Đặc điểm của con trai.
Các cuộc tranh luận về sự ảnh hưởng của tự nhiên và sự dưỡng dục trong việc hình thành nên hành vi của con trai và con gái làm dấy lên câu hỏi liệu vai trò của con trai chủ yếu là do sự khác biệt bẩm sinh hay do sự xã hội hóa. Những hình ảnh về các chàng trai trong văn học, nghệ thuật và văn hóa phổ thông thường thường chứng minh cho các giả định về vai trò giới. | 1 | null |
Schefflera là danh pháp khoa học của một chi thực vật có hoa trong họ Araliaceae.
Từ nguyên.
Tên chi là để vinh danh Johann Peter Ernst von Scheffler (1739-1809), bác sĩ kiêm nhà khoáng vật học kiêm nhà thực vật học người Gdańsk, đã đóng góp một số mẫu cây cho Gottfried Reyger (1704-1788), được đề cập trong sách "Tentamen florae Gedanensis".
Lịch sử phân loại.
Cho tới thập niên 1970, "Schefflera" chứa khoảng 200 loài và các chi "Crepinella", "Didymopanax", "Dizygotheca", "Enochoria", "Geopanax", "Neocussonia", "Octotheca", "Plerandra", "Scheffleropsis", "Tupidanthus", "Agalma", "Brassaia", "Cephaloschefflera" được coi là độc lập và có quan hệ họ hàng gần với nó; nhưng kể từ đó thì nó được liên tục mở rộng bằng cách gộp tất cả các chi nói trên và cho tới năm 2005 thì nó chứa tới khoảng 600 loài. Tuy nhiên, các nghiên cứu phát sinh chủng loài cho thấy "Schefflera" nghĩa rộng ("sensu lato") là đa ngành.
Từ năm 2013 người ta lại tách "Schefflera" nghĩa rộng thành "Schefflera" nghĩa hẹp với số lượng loài giảm rất mạnh và một số chi, trong cố gắng để đảm bảo tính đơn ngành của các chi này. Cụ thể bao gồm:
Các loài.
Danh sách các loài dưới đây là thuộc "Schefflera" nghĩa hẹp, phân bố tại New Zealand và một số đảo cận kề ở tây nam Thái Bình Dương. | 1 | null |
Tango là một phong cách âm nhạc viết theo nhịp 2/4 hoặc 4/4, có nguồn gốc từ dân châu Âu nhập cư sang Argentina và Uruguay. Loại nhạc này theo truyền thống được chơi với một cây ghita đơn hoặc một cặp ghita hoặc một ban nhạc ("orquesta típica") gồm ít nhất hai cây vĩ cầm, sáo, dương cầm, double bass và ít nhất hai đàn bandoneón. Thi thoảng "orquesta típica" còn có thêm ghita và clarinet. Tác phẩm nhạc tango có thể không lời hoặc có lời. Âm nhạc tango và vũ điệu tango đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới.
Lịch sử.
Nguồn gốc.
Những hình thức tango hiện đại phát triển từ Argentina và Uruguay từ giữa thế kỷ 19. Tuy nhiên, có các ghi chép về tango thế kỷ 19 và đầu thế kỷ phát triển ở Cuba và Tây Ban Nha. Dân châu Phi và các nhịp điệu của họ có ảnh hưởng lên tango, trong khi các nhạc cụ và kỹ thuật do di dân châu Âu mang đến vào thế kỷ 20 đã đóng vai trò quan trọng định hình cuối cùng cho tango.
Bản tango đầu tiên được ghi nhận là bản nhạc của Angel Villoldo, được chơi bởi các vệ binh quốc gia Pháp ở Paris. Villoldo buộc phải thu âm ở Paris bởi vì lúc đó Argentina không có phòng thu nào.
Những bản tango thuở ban đầu được tấu lên bởi các di dân ở Buenos Aires và Montevideo. Thế hệ người chơi tango đầu tiên được gọi là những người "Guardia Vieja" ("Cựu vệ binh"). Mất không ít thời gian để tango mở rộng phạm vi thính giả: vào đầu thế kỷ 20, tango là loại nhạc ưa thích của phường du đãng và găngxtơ khi viếng nhà thổ. Những điệu nhảy phức tạp nảy nở từ loại nhạc phong phú này đã phản ánh cách thức những gã đàn ông luyện tập nhảy theo nhóm, thể hiện nam tính và hòa trộn cảm xúc với tính hung hăng. Những nhạc cụ để chơi tango rất tiện mang theo người, đó là bộ ba gồm sáo, ghita, vĩ cầm; đến cuối thế kỷ 19 thì có thêm cây bandoneón. Đàn "organito" (một loại organ) cũng giúp phổ biến loại nhạc này rộng hơn. Eduardo Arolas là lời góp công chủ yếu trong việc truyền bá đàn bandoneón, còn Vicente Greco thì sớm chuẩn hóa bộ sáu nhạc cụ để chơi tango: một dương cầm, một contrabass, hai vĩ cầm và hai bandoneón.
Tương tự nhiều hình thức nhạc đại chúng khác, tango gắn liền với tầng lớp thấp trong xã hội và đã cố gắng giới hạn tầm ảnh hưởng của mình. Mặc cho những lời khinh miệt, có những người vẫn yêu chuộng thể loại này, chẳng hạn nhà văn Ricardo Güiraldes. Chính Güiraldes đã góp một phần công sức quốc tế hóa sự phổ biến của tango, đưa loại nhạc này lan khắp thế giới vào cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất; ông cũng viết một bài thơ nhan đề "Tango" trong đó miêu tả nhạc tango như là "tình yêu mê đắm của một bạo chúa, ghen tuông bảo vệ quyền thống trị của ngài đối với những người phụ nữ quy phục như những con thú biết vâng lời."
Một bản nhạc mà về sau đã trở thành bản tango nổi danh nhất mọi thời đại cũng ra đời trong thời gian này, đó là "La cumparsita". Hai đoạn đầu của nhạc phẩm được Gerardo Matos Rodríguez của Uruguay sáng tác dưới dạng hành khúc không lời vào năm 1916.
Nguồn gốc Argentina của tango.
Nhạc tango thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng mang tính địa phương từ nhạc payada - loại nhạc milonga từ vùng đồng hoang Argentina và bị ảnh hưởng từ loại nhạc candombe của nô lệ châu Phi. Ở Argentina, loại nhạc milonga "xuất phát từ đồng quê" đã có từ giữa thế kỷ 18, và nguồn gốc của loại nhạc này là từ những vùng đồng hoang, chịu ảnh hưởng mạnh của âm hưởng châu Phi trong nhạc candombe. Người ta tin rằng candombe đã tồn tại và được biểu diễn ở Argentina từ khi người nô lệ đầu tiên bị đưa đến đây.
Mặc dù thuật ngữ "tango" (được dùng để miêu tả một phong cách âm nhạc hoặc một vũ điệu) đã xuất hiện trên tài liệu in từ năm 1823 ở La Habana, Cuba nhưng đến 1866 thì từ này mới xuất hiện trên một tờ báo in của Argentina khi đề cập về bài hát "La Coqueta". Năm 1876, một bản tango-candombe tựa đề "El Merenguengué" trở nên rất thịnh hành sau thành công của nó tại carnaval Argentina-Phi diễn ra vào tháng 2 năm đó. Bản nhạc được chơi bằng ghita, vĩ cầm và sáo, phụ diễn thêm là các chiếc trống candombe Argentina-Phi. Đây được xem là một trong những điểm mốc khởi đầu cho sự ra đời và phát triển của tango.
"Nhóm" nhạc tango đầu tiên khi đó gồm hai người Argentina gốc Phi, Casimiro Alcorta chơi vĩ cầm và Sinforoso chơi clarinet. Họ tổ chức một số buổi hòa nhạc nhỏ ở Buenos Aires từ đầu thập niên 1870 cho đến đầu thập niên 1890. Cần ghi chí rằng cặp đôi này là tác giả và người trình bày nhiều bản nhạc tango thuở đầu tiên mà hiện nay bị quy là do tác giả "vô danh" sáng tác vì thời đó chưa có thói quen ký tên vào tác phẩm.
Trước thập niên 1900, những tango sau đây đã vang lên: "El queco" (khuyết danh, được cho là của Lino Galeano vào năm 1885), "Señora casera" (khuyết danh, 1880), "Andate a la recoleta" (khuyết danh, 1880), "El Porteñito" (Gabriel Diez, 1880), "Tango Nº1" (Jose Machado, 1883), "Dame la lata" (Juan Perez, 1888), "Que polvo con tanto viento" (khuyết danh, 1890), "No me tires con la tapa de la olla" (A.A., 1893), "El Talar" (Prudencio Aragon, 1895).
Bản nhạc tango đầu tiên được thu âm là "La Canguela" (1889). Bản tango đầu tiên được chứng nhận tác quyền là "El entrerriano" Rosendo Mendizabal, ra năm 1896, in năm 1898. Bản tango đầu tiên được thu âm bởi dàn nhạc giao hưởng là bản "Don Juan" của Ernesto Ponzio. Dàn nhạc của Vicente Greco đã biểu diễn bản này.
Thập niên 1920 và 1930.
Tango sớm trở nên thịnh hành ở châu Âu, bắt đầu là từ Pháp. Ca sĩ Carlos Gardel mang tango đến với lớp thính giả mới, đặc biệt là thính giả Mỹ nhờ những màn khiêu vũ của ông trong các bộ phim. Thập niên 1920, tango ra khỏi các nhà thổ và trở thành hình thức âm nhạc và khiêu vũ được tôn trọng hơn. Những trưởng ban nhạc như Roberto Firpo và Francisco Canaro bỏ sáo và thay bằng double bass. Phần lời nhạc của các bài hát tango giai đoạn này chủ yếu vẫn mang tính trọng nam, chỉ trích phụ nữ gây cho nam giới vô số phiền não. Phần vũ đạo vẫn mang tính gợi tình và dữ dội.
Carlos Gardel gắn liền với bước chuyển từ loại nhạc "găngxtơ" hạ lưu lên loại nhạc khiêu vũ trung lưu được xem trọng. Ông giúp phát triển loại hình tango-canción trong thập niên 1920 và trở thành một trong những nghệ sĩ tango nổi danh nhất mọi thời đại. Sự thành công của ông cũng là một trong những điềm báo trước "Thời đại hoàng kim của tango". Theo sau cái chết của Gardel là sự chia rẽ thành các trào lưu khác nhau trong nội bộ tango. Những nhà cải cách như Aníbal Troilo và Carlos di Sarli đối lập với những người chuộng truyền thống như Rodolfo Biagi và Juan d'Arienzo.
Thời đại hoàng kim.
"Thời đại hoàng kim" của âm nhạc và vũ điệu tango thường được công nhận là giai đoạn các năm khoản từ 1935 đến 1952, gần như là cùng thời với thời đại ban nhạc lớn ("big band") ở Mỹ. Tango khi này được trình diễn bởi các ban nhạc gọi là orquestas típicas, trong đó thường có nhiều nghệ sĩ biểu diễn.
Một vài trong số những ban nhạc nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng trong thời kỳ này là các ban nhạc của Juan d'Arienzo, Francisco Canaro và Aníbal Troilo. D'Arienzo được gọi là "Vua của nhịp điệu" nhờ các nhịp điệu mang tính dẫn dắt và không dứt trong nhiều bản thu âm của ông. Một ví dụ tốt để minh họa cho điều này là bản nhạc "El flete". Các bản milonga của Canaro thì nói chung chậm nhất và dễ nhảy theo nhất, và cũng vì lý do đó mà chúng thường được chơi tại các tụ điểm nhạc tango; một ví dụ điển hình để minh họa là bản "Milonga Sentimental".
Các dàn nhạc của Osvaldo Pugliese và Carlos di Sarli khởi sự từ thời hoàng kim của tango và tiếp tục biểu diễn sau đó, cho ra nhiều bản thu âm. Nhạc Di Sarli có đặc điểm là âm thanh lớn, nhấn mạnh vào nhạc cụ dây và dương cầm hơn là đàn bandoneón, chẳng hạn các bản nhạc "A la gran muñeca" và "Bahía Blanca".
Các bản thu đầu tiên của Pugliese có thể là không khác nhhiều các dàn nhạc khác nhưng ông đã phát triển một kiểu âm thanh phức tạp, phong phú và thỉnh thoảng chói tai, chẳng hạn các bản "Gallo ciego", "Emancipación" và "La yumba". Về sau, nhạc của Pugliese nhằm để nghe hơn là dùng để khiêu vũ.
Tango Nuevo.
Giai đoạn sau của tango bị chi phối bởi nhạc của Ástor Piazzolla. Tác phẩm "Adiós nonino" của ông là tác phẩm có tầm ảnh hưởng nhất kể từ sau tác phẩm "El día que me quieras" (1935) của Carlos Gardel. Trong thập niên 1950, Piazzolla chủ tâm cố gắng tạo ra một hình thức âm nhạc hàn lâm hơn với các âm thanh phá vỡ đường lối của tango cổ điển, khiến ông bị những người truyền thống chế nhạo. Thập niên 1970, ở Buenos Aires sinh ra loại nhạc tango kết hợp jazz. Nghệ sĩ điển hình của trào lưu này là Litto Nebbia và Siglo XX. Trong các thập niên 1970 và 1980, bộ tám ca sĩ Buenos Aires 8 thu âm các bản nhạc tango cổ điển những phối khí công phu, với phần giai điệu phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhạc jazz. Họ cũng thu âm một album các bài hát của Piazzolla.
Thế hệ được gọi là "hậu Piazzolla" (từ 1980 về sau) bao gồm các nhạc sĩ như Dino Saluzzi, Rodolfo Mederos, Gustavo Beytelmann và Juan Jose Mosalini. Piazzolla và những người tiếp bước đã phát triển thể loại "Nuevo Tango" ("Tân Tango") hòa trộn jazz và tango cổ điển thành một phong cách trải nghiệm mới.
Tác động lên âm nhạc.
Tango đã trở thành một phần trong tủ nhạc của các nghệ sĩ nhạc cổ điển nổi tiếng như giọng nam trung Jorge Chaminé (qua bản "Tangos" thu âm với nghệ sĩ bandoneón Olivier Manoury). Các nghệ sĩ như Yo-Yo Ma, Martha Argerich, Daniel Barenboim, Gidon Kremer, Plácido Domingo và Marcelo Alvarez cũng từng biểu diễn tango.
Một số nhà soạn nhạc cổ điển cũng viết nhạc tango, ví dụ Isaac Albéniz viết "España" (1890), Erik Satie viết "Le Tango perpétuel" (1914) và Igor Stravinsky viết "Histoire du Soldat" (1918). Danh sách nhà soạn nhạc viết nhạc từ cảm hứng tango còn có John Cage trong "Perpetual Tango" (1984), John Harbison trong "Tango Seen from Ground Level" (1991) và Milton Babbitt trong "It Takes Twelve to Tango" (1984).
Nhiều ca khúc phổ thông ở Mỹ cũng vay mượn giai điệu tango, như bài "Kiss of Fire" dựa trên tango "El Choclo", "I Get Ideas" dựa trên "Adiós Muchachos" và "Strange Sensation" thì dựa trên "La cumparsita". | 1 | null |
Andreas Bourani (sanh ngày 2 tháng 11 năm 1983) là một ca sĩ tự sáng tác nhạc người Đức gốc Ai Cập.
Tiểu sử.
Bourani lớn lên ở Augsburg một thành phố ở Bayern, cách München 60 km về phía Tây Bắc. Bourani học trường Gymnasium St. Stephan chuyên ngành nhạc và cả trường âm nhạc tư "Downtown Music Institute", nơi anh được dạy thêm về cả kỹ thuật hát. Năm 2008, sau khi sống một thời gian ở München anh dọn về Berlin. Vào năm 2010, ký hợp đồng với hãng nhạc Universal Music và chơi nhạc mở đầu cho Philipp Poisel và Culcha Candela khi họ đi trình diễn vào năm 2010.
Vào tháng 6 năm 2011, Bourani cho phát hành dĩa nhạc đầu tiên "Staub & Fantasie". Nó đạt được hạng 23 của German Albums Chart, bản nhạc "Nur in meinem Kopf" nằm trong 20 bản được ưa chuộng nhất tại Áo, Đức và Thụy Sĩ. Ở Đức bản này đã đoạt được dĩa vàng vì đã bán được hơn 150.000 bản. Trong tháng 9 năm 2011, anh đại diện Bayern trong kỳ thi Bundesvision Song Contest với dĩa đơn thứ hai "Eisberg". Trong tháng 10 năm 2011 và tháng 3 năm 2012 Bourani đi trình diễn nhiều nơi trên nước Đức với dĩa đầu tiên "Staub & Fantasie".
Vào ngày 25 tháng 4 năm 2014 dĩa đơn "Auf uns" được phát hành mà sau này cũng được thu trong dĩa nhạc "Hey". Bản này đoạt được hạng một trong danh sách các dĩa đơn ở Đức. Đài truyền hình ARD vào tháng 6 đã lấy bản này làm bản nhạc WM đệm cho những tường thuật về giải vô địch bóng đá thế giới năm 2014 tại Brazil. | 1 | null |
Cố Duy Quân (; 29 tháng 1 năm 1888 - 14 tháng 11 năm 1985), tên Trung Quốc được thường viết bằng Latinh như Koo Vi Kyuin, Ku Wei-chun, và Gu Weijun, là một chính khách và nhà ngoại giao từ Trung Hoa Dân Quốc giai đoạn 1912-1949. Ông là một trong những đại diện của Trung Quốc tại Hội nghị hòa bình Paris, 1919; đã phục vụ với tư cách là Đại sứ tại Pháp, Anh và Hoa Kỳ; và là một thành viên tham gia sáng lập Hội Quốc Liên và Liên Hợp Quốc; và là thẩm phán Tòa án Công lý Quốc tế ở Den Haag từ năm 1957 đến năm 1967. Giữa tháng 10 năm 1926 và tháng 06 năm 1927, trong khi làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông có thời gian ngắn giữ chức vụ viện trưởng Hành chính viện và tổng thống Trung Hoa Dân Quốc tạm thời.
Qua đời.
Cố Duy Quân đã sống đủ lâu để nhận biết hai con ông đã mất trước khi ông mất. Ông đã qua đời ngày 14 tháng 11 năm 1985, hưởng dương 97 tuổi. Ông đã sống sót nhờ vợ thứ tư của ông, hai con, 19 cháu nội ngoại và 2 cháu chắt. | 1 | null |
Family: Scarabaeidae
Subfamily: Scarabaeinae
Length: 5 - 9 mm
"Onthophagus hecate" has its elytra and pronotum pocked with large punctures and covered with pubescence too. Major males have a prominent horn projecting from the pronotum. The beetle pictured here is a minor male.
The species is commonly seen at lights. It also has a preference for ferment and decay, and may be found in dung, rotting fruit, aging fungi, and carrion. It is reasonably common across most of the United States and in many Canadian provinces.
Onthophagus hecate là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). | 1 | null |
Bọ cánh cứng Goliath, tên khoa học Goliathus goliatus, là một loài bọ cánh cứng thuộc về họ Scarabaeidae.
Mô tả.
"Goliathus goliatus" một trong những loài lớn nhất thuộc chi Goliathus, với chiều dài cơ thể khoảng ở con đực và khoảng ở con cái. Đốt ngực trước chủ yếu là màu đen, với các sọc dọc màu trắng, trong khi cánh cứng thường có màu nâu tối.
Loài này có một cặp cánh màng lớn thực sự được sử dụng để bay. Khi không sử dụng, chúng được xếp đưới cánh cứng. Đầu có màu trắng, với một sừng hình chữ Y đen ở con đực được sử dụng trong trận chiến với những con đực khác để giành thức ăn hoặc bạn tình. Bọ cánh cứng Goliath ăn chủ yếu nhựa cây và hoa quả.
Phân bố.
Loài này đang lan rộng từ phía tây đến phía đông vùng xích đạo châu Phi (Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon, Kenya, Nigeria, Tanzania và Uganda).
Môi trường sống.
"Goliathus goliatus" chủ yếu hiện nay ở các khu rừng xích đạo và savan cận xích đạo. | 1 | null |
Bọ hung sừng chữ Y (danh pháp khoa học: Allomyrina dichotoma) là một loài bọ cánh cứng được tìm thấy tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam. Nó được bán như một con vật nuôi trong cửa hàng ở nhiều nước châu Á, nơi nó cũng thường được mô tả trong phương tiện truyền thông như một nhân vật hoạt hình phổ biến.
Tên.
Tại Nhật Bản, loài bọ này được gọi là . "Mushi" nghĩa là bọ, và "kabuto" nghĩa là mũ sắt. Do đó, theo nghĩa đen, tên của nó là "bọ mũ sắt". | 1 | null |
Enid Blyton Mary (11 tháng 8 năm 1897 - 28 tháng 11 năm 1968) là một nhà văn người Anh viết truyện cho trẻ em, người đã có những cuốn sách nằm trong số bán chạy nhất trên thế giới kể từ năm 1930, bán được hơn 600 triệu bản. Sách của Blyton vẫn vô cùng phổ biến, và đã được dịch ra gần 90 ngôn ngữ; Cuốn sách đầu tiên của bà, Child Whispers, một bộ sưu tập thơ 24 trang, được xuất bản vào năm 1922. Bà đã viết về một loạt các chủ đề bao gồm giáo dục, lịch sử tự nhiên, hình ảnh, những câu chuyện bí ẩn và câu chuyện Kinh Thánh, nhưng tác phẩm của bà khiến nhiều người nhớ nhất hiện nay là loạt truyện Noddy, Famou Five và Secret Seven. Tiếp theo thành công thương mại của tiểu thuyết đầu tay Adventures of the Wishing Chair (1937) và The Enchanted Wood (1939) Blyton tiếp tục xây dựng một đế chế văn học, đôi khi sản xuất năm mươi tác phẩm một năm. | 1 | null |
Memphis Depay (, sinh ngày 13 tháng 2 năm 1994), hay còn gọi đơn giản là Memphis, là cầu thủ bóng đá và rapper người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Atlético Madrid tại La Liga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan.
Anh bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Câu lạc bộ bóng đá PSV Eindhoven, ghi được 50 bàn thắng trong 124 trận trên mọi đấu trường. Anh còn là vua phá lưới với 22 bàn thắng trong 30 trận, anh đã giúp đội bóng giành chức vô địch Eredivisie mùa giải 2014–15. Anh gia nhập Manchester United vào tháng 5 năm 2015 thông qua một mức phí 25 triệu bảng. Tháng 1 năm 2017, anh chuyển đến Pháp khoác áo Lyon. Sau 4 mùa bóng tại Pháp, anh ký hợp đồng với Barcelona theo dạng tự do trong mùa hè 2021.
Depay là thành viên của đội tuyển U-17 Hà Lan vô địch châu Âu vào năm 2011. Anh có màn ra mắt đội tuyển quốc gia trong năm 2013 và thành viên trong đội hình tuyển Hà Lan tham dự các giải đấu lớn là World Cup 2014, Euro 2020 và World Cup 2022.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Memphis sinh ra tại Moordrecht, ngoại ô Rotterdam. Cha anh là người Ghana còn mẹ anh là người Hà Lan. Cha mẹ anh li dị khi anh chỉ mới bốn tuổi và quyền nuôi con thuộc về người mẹ. Anh gia nhập học viện của Sparta Rotterdam năm chín tuổi và các huấn luyện viên tại đây nhận thấy anh có vấn đề về mặt tâm lý và kiểm soát bản thân do ảnh hưởng của sự đổ vỡ gia đình. Ba năm sau đó, anh chuyển sang PSV Eindhoven và lần lượt thi đấu cho các đội trẻ của câu lạc bộ này.
Sau năm mùa bóng với đội trẻ, Memphis có trận đấu chính thức đầu tiên cho đội một PSV tại Cúp KNVB với Noordwijkerhout vào tháng 9 năm 2011, lập cú đúp trong chiến thắng 8-0 sau hai lượt trận. Ngày 26 tháng 2 năm 2012, Memphis có trận đấu đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá Hà Lan (Eredivisie) trong chiến thắng 3-2 trước Feyenoord Rotterdam. Ngày 18 tháng 3, Memphis có bàn thắng đầu tiên tại Eredivisie trong chiến thắng 5-1 trước SC Heerenveen. Anh có tám lần ra sân tại Eredivisie trong mùa giải này.
PSV Eindhoven.
Ngày 29 tháng 6 năm 2012, Memphis ký hợp đồng thi đấu bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên với PSV, theo đó anh sẽ gắn bó với đội chủ sân Philips đến năm 2017. Trong mùa giải 2012-13, anh có 20 lần ra sân cho PSV và ghi được ba bàn thắng.
2013-14.
Đến mùa giải 2013-14, anh được huấn luyện viên Phillip Cocu chỉ định thay thế vị trí tiền vệ cánh trái do tiền vệ người Bỉ Dries Mertens để lại sau khi cầu thủ này chuyển đến Napoli. Ngày 30 tháng 7 năm 2013, Memphis có được bàn thắng tại trận đấu vòng sơ loại thứ nhất UEFA Champions League 2013-14 giúp PSV đánh bại Zulte Waregem 2—0 nhưng PSV sau đó không thể giành quyền tham dự vòng bảng UEFA Champions League 2013-14 sau trận thua 3-0 trước Milan. Tại đấu trường Europa League, Memphis ghi bàn trong chiến thắng 2-0 trước Chornomorets Odesa ngày 3 tháng 10.
Ngày 15 tháng 12 năm 2013, Memphis giúp PSV có được chiến thắng thứ hai trong chuỗi 13 trận đấu đáng thất vọng với cú đúp trong chiến thắng 5—1 trước Utrecht. Vào cuối mùa giải, anh giúp PSV chắc suất dự cúp châu Âu với vị trí thứ tư tại Eredivisie bằng pha ghi bàn trong chiến thắng 2-0 trước NAC Breda. Kết thúc mùa giải 2013-14, anh có tổng cộng 12 bàn thắng và 8 pha kiến tạo.
2014-15.
Memphis mở đầu mùa bóng 2014-15 bằng một bàn thắng và một pha kiến tạo khi vào sân từ băng ghế dự bị trong chiến thắng 3-2 trước đội bóng Áo SKN St. Pölten tại lượt về vòng sơ loại thứ ba UEFA Europa League 2014-15 để đưa PSV vào vòng đấu tiếp theo với chiến thắng 4-2 chung cuộc. Trong trận đấu đầu tiên của Eredivisie 2014-15 ngày 10 tháng 8 năm 2014, Memphis đã lập cú đúp giúp PSV thắng Willem II 3-1. Đến trận đấu tiếp theo, Memphis có hai pha đá phạt trực tiếp thành bàn và còn góp một lần kiến tạo trong chiến thắng 6-1 trước NAC Breda. Phong độ ấn tượng của anh tiếp tục được duy trì với cú đúp trong trận thắng 2-0 trước FC Shakhtyor Salihorsk tại lượt về vòng play-of Europa League.
Ngày 18 tháng 4 năm 2015, Memphis ghi bàn thắng từ đá phạt trực tiếp trong chiến thắng 4-1 trước Heerenveen để giúp PSV đăng quang Eredivisie trước ba vòng đấu và đây là danh hiệu thứ 22 trong lịch sử câu lạc bộ. Depay lại tiếp tục có pha đá phạt trực tiếp thành bàn thứ bảy trong mùa giải trong chiến thắng 2-0 trước Heracles. Anh đồng thời trở thành vua phá lưới Eredivisie 2014-15 với tổng cộng 22 bàn thắng.
Manchester United.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2015, PSV Eindhoven xác nhận đã đạt được thỏa thuận với Manchester United về thương vụ chuyển nhượng Memphis Depay. Thương vụ sẽ sớm được hoàn tất trong tháng 6 năm 2015 khi thị trường chuyển nhượng mở cửa. Giá trị của thương vụ vào khoảng 31 triệu Bảng Anh.
Vào ngày 12 tháng 6 năm 2015, Memphis Depay đã vượt qua buổi kiểm tra sức khỏe và chính thức có lễ ra mắt tại câu lạc bộ mới Manchester United. Anh đã đặt bút ký vào bản hợp đồng có thời hạn 4 năm kèm theo lựa chọn gia hạn hợp đồng thêm một năm.
2015-16.
Depay có trận đấu đầu tiên tại Premier League vào ngày 8 tháng 8. MU giành chiến thắng 1-0 trước Tottenham Hotspur tại Old Trafford và Depay bị thay ra ở phút 68 bởi Ander Herrera. Ngày 18 tháng 8, anh có được cú đúp bàn thắng chính thức đầu tiên cho MU với cú đúp vào lưới đội bóng Bỉ Club Brugge tại lượt đi vòng sơ loại cuối cùng UEFA Champions League. Trong trận này anh còn có một kiến tạo giúp đội bóng Anh giành chiến thắng 3-1.
Trong thời gian thi đấu cho MU, Depay ghi được 7 bàn trong 53 trận cho "Quỷ Đỏ".
Lyon.
Ngày 20 tháng 1 năm 2017, Depay ký hợp đồng có thời hạn 4 năm rưỡi với đội bóng của Pháp là Lyon. Phí chuyển nhượng ban đầu là 16 triệu £ và có thể lên đến 21,7 triệu £ nếu Lyon giành quyền tham dự UEFA Champions League và Depay ký hợp đồng mới với Lyon. Hợp đồng cũng quy định quyền ưu tiên mua lại của Manchester United.
Trong thời gian thi đấu tại Lyon, Depay có được tổng cộng 76 bàn thắng trong tổng số 178 lần ra sân.
Barcelona.
2021-22.
Ngày 19 tháng 6 năm 2021, Depay ký hợp đồng hai năm với Barcelona theo dạng tự do sau khi hết hợp đồng với Lyon. Ngày 15 tháng 8, Memphis có trận đấu chính thức đầu tiên cho Barcelona trong chiến thắng 4–2 trước Real Sociedad tại vòng đấu mở màn La Liga 2021-22 trên sân Camp Nou. Sáu ngày sau đó, anh có bàn thắng đầu tiên trong màu áo Barcelona khi gỡ hòa 1-1 ở những phút cuối trận đấu vòng 2 La Liga với Athletic Bilbao. Ngày 29 tháng 8, anh ghi bàn trận thứ hai liên tiếp, giúp Barca thắng 2-1 khi tiếp Getafe.
Đến trận đấu vòng 7 La Liga ngày 26 tháng 9, Depay giúp Barca hạ đội khách Levante 3-0 để vươn lên thứ năm La Liga khi chính anh là người đem đến quả phạt đền và thực hiện thành công mở tỉ số trận đấu.
Atlético Madrid.
Vào ngày 20 tháng 1 năm 2023,Trang chủ của Atlético Madrid thông báo họ đã ký hợp đồng với Memphis Depay với mức phí chuyển nhượng 4 triệu euro.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Memphis là thành viên đội tuyển U-17 Hà Lan giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2011 sau chiến thắng 5-2 trong trận chung kết với U-17 Đức, trận đấu mà anh cũng đóng góp một bàn thắng.
Memphis có trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan vào ngày 15 tháng 10 năm 2013, khi vào sân thay cho Jeremain Lens ở những phút cuối trận đấu với Thổ Nhĩ Kỳ tại vòng loại World Cup 2014.
Ngày 31 tháng 5 năm 2014, Memphis được huấn luyện viên Louis van Gaal triệu tập tham dự World Cup 2014 tại Brasil. Trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Úc, anh vào sân từ băng ghế dự bị ở phút thứ 48 thay cho Bruno Martins Indi và đã ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 3-2 cho Hà Lan với một cú sút xa từ ngoài vòng cấm. Với bàn thắng này, anh cũng chính thức trở thành cầu thủ trẻ nhất ghi bàn cho đội tuyển Hà Lan tại một vòng chung kết World Cup. Đến trận cuối cùng của vòng bảng với Chile ngày 23 tháng 6 tại São Paulo, anh đã ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 2-0 cho Hà Lan từ đường chuyền của Arjen Robben.
Ngày 17 tháng 11 năm 2021, Hà Lan đoạt tấm vé trực tiếp tham dự World Cup 2022 sau chiến thắng Na Uy 2-0 ở lượt trận cuối bảng G, trong đó Depay là người ấn định tỉ số ở phút bù giờ đầu tiên. Tại giải này, anh chỉ có được một bàn thắng duy nhất trong trận thắng 3-1 trước . | 1 | null |
Goliathus, đôi khi được gọi là Bọ cánh cứng khổng lồ (theo thuật ngữ tiếng Anh "Goliath beetles") là một chi bọ cánh cứng trong họ Scarabaeidae, phân họ Cetoniinae. Chúng là một trong những nhóm loài côn trùng lớn nhất trái đất nếu so sánh với các nhóm côn trùng khác về kích thước, số lượng và trọng lượng.
Mô tả.
Các loài "Goliathus" có thể được tìm thấy nhiều ở các khu rừng nhiệt đới Châu Phi. Thức ăn của chúng là trái cây hay hút nhựa cây. Ấu trùng của chúng rất hiếm thấy nên khó tìm hiểu về chu kỳ vòng đời trong tự nhiên. Tuy nhiên, người ta đã thành công trong việc nuôi lớn chúng để quan sát chu kỳ vòng đời và là nguồn Protein dồi dào để làm thức ăn cho vật nuôi.
Giống như hầu như tất cả bọ cánh cứng khác, "Goliathus" có một đôi cánh được gia cố đầu tiên (gọi là elytra) hoạt động như vỏ bảo vệ cho đôi cánh và bụng thứ cấp của chúng. Chỉ có đôi cánh thứ hai (lớn và màng) thực sự được sử dụng để bay. Khi không sử dụng, chúng được giữ kín hoàn toàn bên dưới elytra. Mỗi chân của bọ "Goliathus" kết thúc bằng một cặp móng sắc nhọn, cung cấp độ bám mạnh mẽ để leo lên thân cây và cành cây.
Bọ "Goliathus" trưởng thành có chiều dài từ 60mm tới 110mm (từ 2,4in tới 4,3in) với giống đực, với giống cái là từ 50mm tới 80mm (từ 2,0in tới 3,1in) và có thể nặng tới 50g (1,7oz), ấu trùng của chúng nặng gấp 2 lần. Những con cái có màu nâu sậm đến trắng mịn, con đực thường có màu nâu / trắng / đen hoặc đen / trắng. Con đực có một sừng hình chữ Y trên đầu, được sử dụng như một thanh nâng lên trong trận chiến với những con đực khác để giành lấy thức ăn hoặc bạn tình. Con cái không có sừng và thay vào đó có đầu hình nêm hỗ trợ đào hang khi đẻ trứng. Ngoài kích thước khổng lồ của chúng, những con bọ cánh cứng lớn cũng có hoa văn nổi bật. Các dấu hiệu nổi bật chung cho tất cả các loài bọ cánh cứng lớn là các sọc dọc màu đen tương phản mạnh trên pronotum (lá chắn ngực). | 1 | null |
APB (АПБ, Автоматический пистолет бесшумный, Avtomaticheskij Pistolet Besshumnyj) (mã GRAU là 6P13, 6П13) là loại súng ngắn tự động hãm thanh được phát triển bởi A.S. Neugodovym tại TSNIITOCHMASH sau khi nhận được yêu cầu về việc phát triển một loại súng có độ ồn thấp khi bắn vào năm 1970 cho lực lượng Spetsnaz và KGB tại Liên Xô, đến khoảng năm 1972 thì bắt đầu chế tạo. Có vẻ như là thiết kế APB đã được làm lại từ đầu từ khẩu Stechkin APS. Với ống hãm thanh được gắn vào thì súng vẫn kêu như một khẩu súng ngắn bắn đạn 5.6×15R (.22 LR) nhưng lại rất chính xác và dễ dàng điều khiển kể cả khi bắn tự động liên tục nhất là khi dùng với báng được gắn vào. Loại súng này đã được sử dụng rộng rãi từ Chiến tranh Afghanistanvà các cuộc xung đột sau đó bởi các lực lượng đặc biệt.
Thiết kế.
APB có cách hoạt động giống như APS nhưng đầu nòng súng được thiết kế lại với các lỗ khoan hoạt động như một bộ phận chống giật và đầu nòng khắc rãnh để gắn ống hãm thanh vào. Báng súng tháo ráp nặng nề và cồng kềnh của khẩu APS đã được thay thế bằng một báng súng dạng khung nhẹ và cơ động hơn nhiều.
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Hộp đạn rời của súng chứa 20 viên. | 1 | null |
Martin Jetpack là một loại phương tiện bay thử nghiệm cất cánh thẳng đứng do công ty Martin Aircraft tại New Zealand phát triển. Phương tiện được giới thiệu lần đầu ra công chúng vào ngày 29 tháng 7 năm 2008 trong sự kiện AirVenture do hiệp hội thử nghiệm máy bay tổ chức. Dù loại này được gọi là "jetpack" nhưng nó lại dùng hai ống quạt lớn để tạo lực nâng, Cục Hàng không liên bang đã xếp vào loại phương tiện bay siêu nhẹ dù có các tiêu chí không giống với loại này. Hãng Martin dự định có thể có thể bán loại phương tiện bay này cho lực lượng quân đội hay cho các lực lượng phản ứng nhanh như lính cứu hỏa.
Phát triển.
Glenn Martin, người sáng lập ra công ty Martin Aircraft đã thiết kế và phát triển phương tiện này trong hơn 30 năm theo đuổi giấc mơ thời thơ ấu sau khi ông xem các phim Thunderbirds và Lost in Space là sẽ chế tạo một phương tiện bay giống như jetpack cho cả những người bình thường vốn không được đào tạo làm phi công.
Mẫu thử nghiệm mới nhất là P12 được giới thiệu là có nhiều cải tiến so với các mẫu trước. Với việc sắp xếp lại vị trí các ống quạt giúp cải thiện độ cơ động của phương tiện.
Thiết kế.
Martin Jetpack không có cánh chỉ sử dụng hai ống quạt lớn với động cơ pít ton V-4 dùng xăng để tạo lực nâng gắn vào thân chính làm bằng sợi cácbon, hai bánh lái phía dưới hai ống quạt dùng để điều chỉnh hướng bay, hai cần điều khiển đặt trên hai tay vịn hướng ra phía trước. Phi công sẽ chỉ việc đứng cột mình vào phương tiện với các dây an toàn và cầm cần điều khiển.
Trong thử nghiệm thì phương tiện có thể leo đến độ cao 2440 m nhưng để an toàn thì phương tiện thường không bay lên cao hơn 6 m. Nó cũng được trang bị sẵn dù phóng để đề phòng nếu có bất kỳ trục trặc gì xảy ra và phi công cũng được trang bị đồ bảo hộ riêng. | 1 | null |
Angry Birds Go! là một trò chơi đua xe 3D. Đây là trò chơi 3D thứ 2 trong chuỗi trò chơi Angry Birds, sau Angry Birds Rio 2.
Khác so với các trò chơi Angry Birds cổ điển thông thường, trò chơi này là một trò chơi đua xe.
Yêu cầu tải xuống trò chơi.
Trò chơi bao gồm cả dữ liệu truyền dẫn(80MB) + mã hoá file save đối với file không phải của các cửa hàng hệ thống(10MB - dành cho file tải ra ngoài) + bộ nhớ trò chơi và phí cài đặt bằng bộ nhớ tải xuống (60MB - cho bộ nhớ điện thoại + số USB còn lại và 48MB - cho thẻ nhớ trong và SD)
Địa hình đua xe trong game.
Angry birds go có tất cả 6 đường đua( 1 đường đua phải mở khóa bằng tiền thật)
1 • Seedway
2 • Rocky road
3 • Sub zero
4 • Air
5 • Sun stunt
6 • Jenga(mở khóa bằng tiền thật)
Cách mở khoá character.
Bạn cần phải đua xe thắng nhân vật đó 3 lần. Mỗi lần đua, tốc độ sẽ nhanh hơn và khó hơn nên bạn cần nâng cấp xe của mình.
Character.
-Red(Seedway). Bạn sẽ có nhân vật này miễn phí khi chơi game lần đầu tiên
-Stella(Seedway)
-Bomb(Seedway)
-The Blues(Rocky road)
-King pig(Rocky road)
-Terrence(Rocky road)
-Bubble(Air)
-Matilda(Air)
-Foreman Pig(Air)
-Hal(Sun stunt)
-Coporal pig(Sun stunt)
-Chuck(Sun stunt)
-Sub zero và Jenga không có mở khoá character
Đơn vị tiền tệ.
-Coin: Dùng để nâng cấp xe
-Gem: Dùng để mua vật phẩm hỗ trợ trong đường đua và mua xe có sức mạnh và tốc độ cao hơn hoặc nâng cấp xe khi không đủ tiền. Bạn có thể mua gem bằng tiền thật | 1 | null |
Tristan und Isolde (tiếng Việt: Tristan và Isolde) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner. Ông cũng là tác giả của lời của tác phẩm. Để viết được lời, ông đã dựa vào vở Tristan của Gottfried von Straßburg và huyền thoại của Arthur Schopenhauer. Wagner đã sáng tác tác phẩm vào năm 1859, tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại Munich vào năm 1855. | 1 | null |
Álvaro Borja Morata Martín (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1992), là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha, hiện đang chơi cho câu lạc bộ Atlético Madrid tại La Liga và là đội trưởng Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha.
Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại Real Madrid, ra mắt đội bóng cao cấp vào cuối năm 2010. Sau khi giành chức vô địch UEFA Champions League 2013–14, anh chuyển đến Juventus với giá 20 triệu euro vào năm 2014, giành cú đúp Serie A và Coppa Italia trong cả hai mùa giải của anh ấy ở Turin. Sau khi được Real mua lại với giá 30 triệu euro, anh đã giành thêm một La Liga và UEFA Champions League 2016–17 trước khi gia nhập Chelsea vào năm 2017 với mức phí kỷ lục khoảng 60 triệu bảng. Vào tháng 1 năm 2019, anh chuyển đến Atlético Madrid dưới dạng cho mượn và gia nhập câu lạc bộ vĩnh viễn vào ngày 1 tháng 7 năm 2020. Morata chuyển trở lại Juventus dưới dạng cho mượn vào năm 2020.
Morata đã có 34 lần khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha ở cấp độ trẻ, giúp đội tuyển quốc gia này giành chức vô địch U-21 cháu Âu năm 2013. Anh ấy có trận ra mắt cấp cao của mình vào năm 2014 và đại diện cho Tây Ban Nha tại Euro 2016 và Euro 2020.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Real Madrid.
Sinh ra ở thành phố Madrid, Morata đã được ký hợp đồng với câu lạc bộ Real Madrid vào năm 2008 từ đội bóng cùng thành phố Getafe, rồi hai năm sau đó anh chính thức ra mắt trong vai trò là một cầu thủ của đội Real Madrid C. Vào tháng 7 năm 2010, sau một mùa giải thành công với đội "Juvenil A", mùa bóng mà Morata đã đạt được 2 danh hiệu trẻ cùng 34 bàn thắng ghi được, anh được đôn lên thi đấu cho đội Real Madrid Castilla. Chỉ sau một tháng, huấn luyện viên José Mourinho đã đưa anh cùng với 4 đồng đội của anh đi một tour du đấu trước mùa giải mới tại nước Mĩ.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 2010, Morata đá trận đầu tiên trong màu áo đội Castilla trong trận đấu giao hữu với AD Alcorcón. Trong trận đấu đó, anh đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. Trận đấu đầu tiên của anh ở giải hạng ba (Segunda División B) diễn ra vào ngày 29 gặp Coruxo FC đã kết thúc với tỉ số 3 - 2, và bàn thắng đầu tiên của Morata là trong trận hòa 1 - 1 trước câu lạc bộ RSD Alcalá (ngày 31 tháng 10).
Ngày 12 tháng 12 năm 2010, Morata lần đầu tiên ra mắt trong đội hình của đội 1 Real Madrid, khi anh là người thay thế cho Ángel di María ở phút thứ 88 trong trận đấu thuộc khuôn khổ giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha La Liga trước câu lạc bộ Real Zaragoza. 10 ngày sau, anh được đá trong một trận đấu của Copa Del Rey, anh ra sân từ băng ghế dự bị vào những phút cuối cùng của trận đấu. Vào tháng 1 năm 2011, sau chấn thương của tiền đạo Gonzalo Higuaín, báo chí Tây Ban Nha cho rằng Morata là sự thay thế tốt nhất của Higuaín trong đội hình chính. Tuy nhiên, huấn luyện viên Mourinho đã không đồng tình và cho rằng Morata chưa sẵn sàng để thay thế tiền đạo người Argentina, và anh ta cần trưởng thành hơn cũng như là hoàn thiện được các kỹ năng cần thiết ở đội Castilla. Trong quãng thời gian này, Morata đã ghi 5 bàn thắng trong 4 trận đấu, trong khi đó Real Madrid ký hợp đồng với tiền đạo Emmanuel Adebayor với mục đích lấp chỗ trống mà Higuaín để lại.
Ngày 13 tháng 2 năm 2011, Morata lần đầu tiên trong sự nghiệp lập được một cú hattrick trong chiến thắng 7-1 trước Deportivo de La Coruña B. Sau mùa giải cùng Castilla, Morata đã ghi được 14 bàn, cùng với Joselu là những người ghi được nhiều bàn thắng nhất trong đội, nhưng lại không thể lên hạng vì thua trong trận playoff.
Bàn thắng chính thức đầu tiên của Morata trong đội hình chính của Real là ngày 11 tháng 11 năm 2012, sau khi vào sân ở phút thứ 83 trong chuyến làm khách của Real trước Levante UD, ấn định chiến thắng 2 - 1 của Real chỉ sau 60 giây. Trận đầu tiên được ra sân trong đội hình chính thức của Morata là cuộc tiếp đón Rayo Vallecano ngày 17 tháng 2 năm 2013. Chỉ sau 3 phút, Morata đã mở tỉ số nhưng lại bị thay ra trước khi hiệp 1 kết thúc (người thay thế là Raúl Albiol, thay vào để lấp vị trí của Sergio Ramos sau khi anh này bị đuổi khỏi sân). Tuy vậy, Real cũng đã giành chiến thắng với tỉ số 2 - 1. Ngày 2 tháng 3 năm 2013, Morata lần đầu tiên thi đấu đủ 90 phút trong trận đại chiến "El Clásico "với đại kình địch FC Barcelona. Trong trận đấu đó, Morata đã có đường kiến tạo quan trọng để Karim Benzema mở tỉ số, để rồi cuối cùng đánh bại đối thủ với tỉ số 2 - 1. Morata cũng có 2 cơ hội của riêng mình để ghi bàn nhưng không tận dụng thành công.
Trong mùa giải 2013 - 2014, dưới triều đại của Carlo Ancelotti, Morata thường xuyên được ra sân hơn. Ngày 18 tháng 3 năm 2014, Morata ghi bàn thắng đầu tiên tại UEFA Champions League, ấn định chiến thắng 3 - 1 trước FC Schalke 04 trên sân Santiago Bernabéu trong khuôn khổ vòng 16 đội. Ngày 17 tháng 5, trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, Morata đóng góp 2 bàn thắng để đánh bại RCD Espanyol với tỉ số 3 - 1. Với màn trình diễn này, anh được chấm điểm 8. Morata cũng đóng góp vào thành công của Real Madrid trong trận chung kết UEFA Champions League khi thay thế Karim Benzema ở hiệp phụ thứ hai.
Juventus.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2014, Juventus thông báo rằng họ đã đạt được thỏa thuận với khoản phí 20 triệu euro cho việc chuyển nhượng Morata, người đã ký hợp đồng 5 năm, với Real Madrid có quyền chọn mua lại anh ấy. trong tương lai. Anh có trận ra mắt tại Serie A vào ngày 13 tháng 9, thay thế Fernando Llorente ở phút cuối cùng trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Udinese; hai tuần sau, anh lại vào sân thay cho người đồng hương, và ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ mới khi họ thắng Atalanta 3–0.
Vào ngày 5 tháng 10 năm 2014, trong trận thắng 3–2 trên sân nhà trước Roma , Morata vào sân thay thế và bị đuổi khỏi sân vì phạm lỗi với Kostas Manolas, người đã bị ra lệnh vì trả đũa. Vào ngày 9 tháng 11, anh ghi hai bàn trong trận hủy diệt Parma 7–0 trên sân nhà, với Llorente - người được anh thay thế sau 71 phút - ghi thêm hai bàn nữa. Morata vào sân trong mười phút cuối cùng của trận Supercoppa Italiana với Napoli ở Doha, Qatar vào ngày 22 tháng 12, và ghi bàn trong loạt sút luân lưu mà Juventus thua 5–6.
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2015, Morata chơi 13 phút cuối cùng của trận đấu Coppa Italia với Parma, và ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu tại Stadio Ennio Tardini để giành quyền vào bán kết. Tháng sau, trên sân nhà trước Borussia Dortmund trong khuôn khổ vòng 16 UEFA Champions League, anh ghi bàn quyết định ở phút 43 của trận lượt đi; anh cũng xuất phát và lập công trong trận lượt về, giúp Juve giành chiến thắng 3–0 tại Westfalenstadion.
Vào ngày 7 tháng 4 năm 2015, Morata bị đuổi khỏi sân vì phạm lỗi với Alessandro Diamanti khi Juventus đánh bại Fiorentina trong trận bán kết cúp quốc gia, do đó bỏ lỡ trận chung kết. Một tuần sau, anh giành được quả phạt đền trong trận lượt đi tứ kết Champions League với Monaco, quả phạt đền được chuyển thành công bởi Arturo Vidal trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà. Trong trận bán kết lượt đi, với Real Madrid, anh ấy đưa đội chủ nhà vượt lên dẫn trước bằng một cú chạm bóng ở phút thứ tám, khi trận đấu kết thúc với chiến thắng 2-1 trên sân nhà, và anh ấy lặp lại kỳ tích trong trận lượt về, trong cả hai lần không ăn mừng khi ghi bàn vào lưới đội bóng cũ của anh ấy. Vào ngày 6 tháng 6, trong trận chung kết với Barcelona ở Berlin, anh đã ghi bàn gỡ hòa ngay đầu hiệp hai sau trận thua 1-3.
Vào đầu tháng 8 năm 2015, Morata phải nghỉ thi đấu một tháng do bị rách cơ soleus ở bắp chân trái trong quá trình tập luyện và phải ngồi ngoài cho giải Supercoppa Italiana 2015. Trong lần xuất hiện thứ hai sau khi trở lại thi đấu, vào ngày 15 tháng 9, anh ra sân trong 85 phút và ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 2-1 trước Manchester City ở vòng bảng UEFA Champions League. Vào ngày 30 tháng 9, anh ghi bàn để giúp đánh bại Sevilla 2–0 tại Juventus Stadium, bàn thắng thứ năm của anh trong nhiều lần ra sân trong giải đấu này để cân bằng kỷ lục của Alessandro Del Piero. Vào ngày 24 tháng 11, anh được đề cử vào Đội hình tiêu biểu của UEFA.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 2015, Morata ký gia hạn hợp đồng đến năm 2020. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2016, trong trận Derby della Mole với đội bóng hàng xóm Torino, anh vào sân từ băng ghế dự bị trong hiệp một và ghi hai bàn trong chiến thắng 4–1. Vào ngày 21 tháng 5, anh lại vào sân từ băng ghế dự bị để ghi bàn thắng quyết định ở phút thứ 20 của hiệp phụ để giành chiến thắng trong trận chung kết Coppa Italia 1–0 trước AC Milan tại Stadio Olimpico của Rome.
Trở lại Real Madrid.
Vào ngày 21 tháng 6 năm 2016, Real Madrid đã thực hiện điều khoản mua lại để ký lại Morata từ Juventus với giá 30 triệu euro. Lần ra sân thi đấu đầu tiên của anh ấy là vào ngày 9 tháng 8, khi anh ấy đá chính trong chiến thắng 3–2 trước Sevilla ở Siêu cúp châu Âu 2016, được thay bằng Benzema sau 62 phút. Bàn thắng đầu tiên của anh là trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Celta vào ngày 27 tháng 8.
Vào ngày 5 tháng 4 năm 2017, Morata được hưởng lợi từ sự luân chuyển của huấn luyện viên Zinedine Zidane và ghi ba bàn trong chiến thắng 4–2 trên sân khách trước Leganés để giúp đội bóng của anh bỏ xa Barcelona hai điểm với một trận đấu trong tay. Mặc dù dành phần lớn thời gian của mùa giải để dự bị cho Benzema, anh đã ghi được 15 bàn thắng tại giải đấu khi câu lạc bộ lên ngôi vô địch lần đầu tiên sau năm năm. Anh ghi thêm ba bàn sau chín lần ra sân tại UEFA Champions League, mà Real Madrid giành được năm thứ hai liên tiếp.
Chelsea.
Mùa giải 2017–18.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2017, nhà vô địch Premier League Chelsea tuyên bố họ đã đồng ý với Real Madrid về việc chuyển nhượng Morata. Câu lạc bộ tuyên bố động thái này đã được thông qua và một điều khoản cá nhân được thỏa thuận. Real Madrid sau đó đã phát hành một tuyên bố cảm ơn Morata vì "sự cống hiến, tính chuyên nghiệp và hành vi gương mẫu" của anh trong thời gian anh ở câu lạc bộ. Vào ngày 21 tháng 7, Morata vượt qua kiểm tra y tế và chính thức trở thành cầu thủ của Chelsea.
Anh có trận ra mắt vào ngày 25 tháng 7 năm 2017 trong trận đấu với FC Bayern München. Sau khi vào sân thay cho Michy Batshuayi ở đầu hiệp hai, anh có một màn ra mắt tồi tệ khi chỉ tạo ra 1 cơ hội vào khung thành. Tuy nhiên, tiền đạo này có một màn ra mắt Premier League khá tốt (trước Burnley F.C. trong mùa giải Ngoại hạng Anh 2017-2018. Anh có một pha đánh đầu rút ngắn tỉ số xuống còn 1-3). Và đó là mở đầu của một chuỗi phong độ xuất sắc của anh tại sân Stamford Bridge.
Ngày 27 tháng 8 năm 2017, từ một đường tạt cánh của César Azpilicueta, anh ấn định tỉ số 2-0 trước Everton bằng một pha đánh đầu gọn gàng. Dù Chelsea bị chỉ trích với phong độ tồi tệ ở đầu mùa, Chelsea vẫn chơi tốt trong trận này
Ngày 9 tháng 9 năm 2015, anh có bàn mở tỉ số trong trận gặp Leicester City. Một tuần sau đó, ngày 23 tháng 9, anh lập hattrick vào lưới Stoke City F.C. và giúp Chelsea thắng 4-0 trong trận đó. Qua đó, anh cùng Mohamed Salah và Romelu Lukaku tạm thời dẫn đầu danh sách vua phá lưới giải Ngoại hạng Anh với 6 bàn. Kỷ lục này sau đó bị phá vỡ, nhưng anh vẫn đang ở trong quá trình thi đấu xuất sắc cùng đội bóng
Ngày 5 tháng 11, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 1-0 trước Manchester United, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên cũ Mourinho. Anh ấy đã nâng tổng số bàn thắng trong giải đấu của mình lên 10 bàn vào ngày 26 tháng 12, giúp Chelsea giành chiến thắng 2–0 trước Brighton & Hove Albion , cũng tại Stamford Bridge.
Vào ngày 17 tháng 1 năm 2018, Morata đã bị đuổi khỏi sân sau khi nhận thẻ đỏ vì ăn vạ, sau đó một giây sau đó vì bất đồng quan điểm, vắng mặt trong trận thắng ở vòng ba FA Cup trước Norwich City. Anh kết thúc mùa đầu tiên với 15 bàn thắng trên mọi đấu trường, và The Blues đứng thứ 5 trên BXH.
Mùa giải 2018–19.
Morata đã mở tài khoản của mình cho chiến dịch tiếp theo vào ngày 18 tháng 8 năm 2018, ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 3–2 trên sân nhà trước Arsenal. Vào ngày 4 tháng 10, anh ghi bàn quyết định trong chiến thắng 1–0 trước MOL Vidi ở vòng bảng UEFA Europa League. Một tháng sau, anh ghi hai bàn giúp đánh bại Crystal Palace 3–1 trong trận đấu trên sân nhà.
Atlético Madrid.
Mùa giải 2018–19.
Vào ngày 27 tháng 1 năm 2019, Morata trở lại Atlético Madrid sau 12 năm, gia nhập câu lạc bộ theo bản hợp đồng cho mượn 18 tháng. Anh có trận ra mắt giải đấu vào ngày 3 tháng 2, trong trận thua 0-1 trước Real Betis. Anh ghi bàn thắng đầu tiên vào ngày 24 tháng 2, trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Villarreal.
Vào ngày 6 tháng 7 năm 2019, Atlético Madrid xác nhận việc ký hợp đồng mua đứt Morata từ Chelsea và anh sẽ chính thức gia nhập câu lạc bộ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, với mức phí khoảng 58 triệu bảng.
Mùa giải 2019–20.
Vào ngày 18 tháng 8 năm 2019, Morata ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng mở tỷ số La Liga cho Atlético Madrid trước Getafe. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2019, Morata đánh dấu trận đấu chuyên nghiệp thứ 300 của mình với một pha kiến tạo cho bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước đội bóng Nga Lokomotiv Moscow. Vào ngày 22 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League cho Atlético bằng đường chuyền của Renan Lodi đánh đầu ghi bàn duy nhất của trận đấu trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước đội bóng Đức Bayer Leverkusen. Điều này cũng giúp anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn cho cả Real Madrid và Atlético tại Champions League. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2020, trong trận lượt về vòng 16 đội Champions League trước nhà đương kim vô địch Liverpool, Morata vào sân thay người muộn trong hiệp phụ và ghi bàn thắng cuối cùng của trận đấu trong chiến thắng 3–2 trên sân khách, qua đó thắng với tổng tỉ số 4–2, đảm bảo đội của anh ấy đủ điều kiện vào vòng tứ kết của giải đấu.
Trở lại Juventus.
Mùa giải 2020–21.
Morata trở lại Juventus vào ngày 22 tháng 9 năm 2020, với khoản vay một năm trị giá 10 triệu euro, với tùy chọn mua với giá 45 triệu euro. Juventus cũng có quyền gia hạn khoản vay thêm một năm với số tiền 10 triệu euro khác; trong trường hợp này, tùy chọn mua trị giá 35 triệu euro. Anh ấy xuất hiện lần đầu tiên cho câu lạc bộ kể từ khi trở lại vào ngày 27 tháng 9, trong trận hòa 2-2 trên sân khách trước Roma ở Serie A. Anh ấy ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ kể từ khi trở lại vào ngày 17. Tháng 10, trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Crotone. Morata ghi một cú đúp vào ngày 20 tháng 10, để giúp Juventus giành chiến thắng 2–0 trong trận đấu sân khách vòng bảng UEFA Champions League trước Dynamo Kyiv. Vào ngày 28 tháng 10, anh có ba bàn thắng không được phép vì lỗi việt vị trước Barcelona trong một trận đấu ở vòng bảng Champions League, trận đấu mà Juventus đã để thua 2–0 trên sân nhà. Vào ngày 20 tháng 1 năm 2021, Morata giành chức vô địch Supercoppa Italiana, đánh bại Napoli 2–0 trong trận đấu mà anh ghi bàn thắng thứ hai.
Vào ngày 15 tháng 6 năm 2021, hợp đồng cho mượn của Morata với Juventus được gia hạn đến ngày 30 tháng 6 năm 2022.
Sự nghiệp quốc tế.
Đội trẻ.
Morata được chọn vào đội U17 Tây Ban Nha tham dự U-17 World Cup năm 2009 tại Nigeria, chơi bốn trận và ghi hai bàn khi Tây Ban Nha đứng thứ ba. Sau đó, anh đại diện cho lứa tuổi U-19 tại Giải đấu Quốc tế Nhật Bản, giúp Tây Ban Nha về nhì sau đội chủ nhà.
Morata đã được Tây Ban Nha lựa chọn cho Giải vô địch U-19 châu Âu năm 2011 tại Romania, giúp đội tuyển quốc gia vô địch giải đấu với sáu bàn thắng, cao nhất giải đấu. Anh ra mắt đội bóng U-21 tại Giải vô địch U-21 châu Âu UEFA 2013 ở Israel, ghi bàn thắng duy nhất trong mỗi trận đấu trong hai trận vòng bảng đầu tiên với Nga và Đức, lần lượt ở các phút 82 và 86. Anh ấy khép lại một vòng bảng hoàn hảo với bàn thắng thứ ba, vào lưới Hà Lan trong chiến thắng 3–0. Tây Ban Nha vô địch giải đấu và anh kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của cuộc thi.
Đội tuyển quốc gia.
Vào ngày 7 tháng 11 năm 2014, Morata được gọi vào đội hình lớn tuổi của huấn luyện viên Vicente del Bosque cho các trận đấu với Belarus và Đức. Anh có trận ra mắt trước Belarus vào ngày 15, thay thế Isco trong mười phút cuối cùng trong chiến thắng 3–0 ở Huelva tại vòng loại UEFA Euro 2016 . Trong cùng một giải đấu, vào ngày 27 tháng 3 năm 2015, anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên của mình, bàn thắng duy nhất trong chiến thắng trước Ukraine ở Seville.
Được chọn cho vòng chung kết Euro 2016 ở Pháp, Morata đá chính và ghi một cú đúp trong trận thắng 3–0 trước Thổ Nhĩ Kỳ tại Nice. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2017, vào sân từ băng ghế dự bị ở phút 77, anh ghi bàn một lần giúp đội chủ nhà đánh bại Ý 3–0 trong vòng loại FIFA World Cup 2018 .
Vào ngày 21 tháng 5 năm 2018, Morata đã bị loại khỏi đội hình 23 người của Tây Ban Nha tham dự vòng chung kết World Cup, theo những gì được "The Guardian" mô tả là "một mùa giải không suôn sẻ ở Chelsea."
Vào ngày 24 tháng 5 năm 2021, anh được đưa vào danh sách 24 người của Luis Enrique cho UEFA Euro 2020. Vào ngày 19 tháng 6, trong trận đấu thứ hai của Tây Ban Nha của giải đấu với Ba Lan, Morata ghi bàn mở tỷ số trong trận hòa chung cuộc 1-1. Morata ghi bàn thắng thứ tư cho Tây Ban Nha tại vòng 16 Euro 2020 ở phút thứ 100 của trận đấu với Croatia, dẫn đến chiến thắng 5–3 vào ngày 28 tháng 6. Trong trận bán kết với Ý, anh ấy vào sân từ băng ghế dự bị để ghi bàn thắng gỡ hòa, đưa trận đấu vào hiệp phụ và cuối cùng phải đá luân lưu. Tây Ban Nha bị loại sau khi thua loạt luân lưu với tỷ số 4–2, trong đó quả phạt đền của anh ấy đã bị Gianluigi Donnarumma cản phá. Tuy nhiên, bàn thắng của anh ấy vào lưới Ý là bàn thắng thứ sáu của anh ấy tại giải vô địch châu Âu, giúp anh ấy trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của Tây Ban Nha trong cuộc thi, vượt qua kỷ lục cũ của Fernando Torres là 5 bàn trong giải đấu.
Phong cách thi đấu.
Thời trẻ, Morata được so sánh với Fernando Morientes của Real Madrid và Tây Ban Nha nhờ phong cách chơi bóng. Trong mùa giải đầu tiên ở Juventus, anh ấy nổi bật về tốc độ, năng lượng, thể chất và tốc độ làm việc trên sân, trong khi kỹ thuật, khả năng cơ hội, khả năng đánh đầu và vị trí đã giúp anh ấy ghi một số bàn thắng quan trọng.
Là một tiền đạo đa năng và hoạt động tốt, Morata có khả năng chơi như một tiền đạo chính hoặc liên kết lối chơi giữa các tuyến, và cũng có thể chơi rộng ở cánh .
Đời tư.
Morata sinh ra ở Madrid. Anh là con trai của Susana Martín và Alfonso Morata. Cha anh tham gia rất nhiều vào các cuộc đàm phán chuyển nhượng cùng với người đại diện của Morata, Juanma López.
Vào tháng 3 năm 2014, Morata đã cạo hết tóc của mình để liên đới với những đứa trẻ bị bệnh, nói rằng "những đứa trẻ bị ung thư muốn cắt tóc của tôi nhưng chúng không thể, vì vậy tôi đã tự cho mình của chúng".
Vào ngày 10 tháng 12 năm 2016, anh đính hôn với bạn gái người Ý Alice Campello, và vào ngày 17 tháng 6 năm 2017, cặp đôi đã kết hôn tại Venice. Hai con trai sinh đôi của họ là Alessandro và Leonardo sinh ngày 29 tháng 7 năm 2018 và cầu thủ này đã thay đổi số áo đấu của mình tại Chelsea từ 9 thành 29 để tôn vinh chúng. Vào ngày 29 tháng 9 năm 2020, con trai thứ ba của cặp vợ chồng, Edoardo, chào đời. | 1 | null |
Ruslan và Lyudmila (tiếng Nga: Руслан и Людмила, đọc là Ruslan i Lyudmila) là vở opera 5 màn của nhà soạn nhạc người Nga Mikhail Glinka. Người viết lời cho tác phẩm là Valerian Shirkov và Nestor Kukolnik dựa theo tác phẩm cùng tên của Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Glinka đã viết vở opera này vào các năm 1837-1842, tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại Sankt Petersburg vào năm 1842. | 1 | null |
là một loại bảo bối viễn tưởng xuất hiện trong series anime và manga "Doraemon". Cùng với Cánh cửa thần kỳ, đây là một trong những bảo bối này được sử dụng thường xuyên nhất trong bộ truyện. Với hình dáng nhỏ nhắn như một chiếc chong chóng bình thường có gắn đế bảo bối được các nhân vật trong series dùng để di chuyển trên bầu trời.
Tên gọi.
Tên của loại bảo bối này có sự kết hợp giữa từ "tombo" (chuồn chuồn tre) và một phần từ "herikoputa" (máy bay trực thăng). Ban đầu bảo bối xuất hiện với tên gọi "Henritonbo" trong tập 1 "Người bạn đến từ tương lai". Đến tháng 6 năm 1970 Shogakukan Sannensei họp bàn về việc sẽ đổi tên bảo bối sang tên "Takekoputa". Sau khi ra mắt tập 1, tên bảo bối được sửa sang tên khác. Có một thời gian tên bảo bối là sự pha trộn giữa Heritonbo và Takekoputa ra "Taketonbo Herikoputa" và chỉ sử dụng duy nhất một lần trong "Hariehon Doraemon" phát hành vào tháng 3 năm 1973. Trong series phim hoạt hình "Doraemon" 1973 "Heritonbo" được sử dụng làm tên chính thức của bảo bối đến series phim hoạt hình "Doraemon" 1979-2005, "Takekoputa" được đặt lại cho bảo bối với lý do tên cũ không xuôi tai. Kể từ đó về sau, "Takekoputa" được sử dụng thống nhất và thay thế cho "Heritobo". Hiện nay CoroCoro Comic sử dụng tên chính thức cho bảo bối. Trong Fujiko F. Fujio Toàn tập có kể ghi chép lại sự thay đổi này. Trong bản tiếng Anh bảo bối được dịch là "Hopter".
Mô tả và lịch sử.
Ban đầu bảo bối được trang bị với bán cầu nhỏ (như hình một chiếc đĩa mỏng) dính liền với một trục. Khi đặt bảo bối lên đầu nó sẽ tự khởi động bay và đưa nhân vật bay. Ước đạt vận tốc bay của bảo bối có thể lên đến 40 km trên giờ và hoạt động được 8 tiếng trong một ngày. Ở trong bản gốc đầu tiên anime hình dạng bảo bối không thống nhất với nhau mãi đến lần sản xuất anime tiếp theo thì hình dạng bảo được thống nhất hoàn toàn. Ở bản đầu tiên bảo bối có hình dạng như một cái nón tròn có gắn trục và hai cánh nhỏ.
Lịch sử của chong chóng tre có thể biết vắn tắt trong phim . Đầu tiên Chong chóng tre rất lớn cánh quạt gồm nhiều bộ phận và được gắn lên cơ thể trong trang phục tương đồng. Một vài phiên bản đầu tiên không được ưa chuộng nhiều. Kích cỡ cánh quạt rất lớn hầu như lớn bằng trực thăng. Thêm vào đó lại sở hữu kích cỡ lớn làm cho việc di chuyển vòng quanh khó khăn. Sau này mẫu mã của chong chóng tre được cải tiến nhỏ hơn và nổi bật hơn Bản đầu tiên đáy quạt nhỏ hơn trông giống mũ bảo hiểm còn cánh quạt có kích cỡ lốp xe đạp. Cái mới hơn và sử dụng phổ biến là loại của Doraemon và Dorami với cánh quạt như đồ chơi và tương đối dễ sử dụng.
Tổng quan.
Bảo bối thường được gắn vào đầu để sử dụng. Có đến hai phương pháp để khởi động và cả hai đều có những nguyên lý hoạt động riêng. Phương pháp đầu tiên là gắn lên đầu trước khi bay và phương pháp hai là nhấn công tắc có gắn trên bảo bối trước khi bay. Cả hai phương pháp đều ổn nhưng ở một số trường hợp nếu nhấn nút trước khi gắn vào đầu thì "Takekoputa" bay không kiểm soát. Nguyên lý hoạt động như một thang máy cực lớn có khả năng chống lại trọng lực. Tuy nhiên khi gắn vào quần áo nó sẽ bay mất. Ngoài sử dụng trong môi trường không khí thì còn sử dụng được trong môi trường nước tuy nhiên trong điều kiện bão, gió mạnh thì khả năng chống chịu kém. "Chong chóng tre" hoạt động bằng pin, có thể đạt vận tốc 80 km/h sử dụng tối đa trong 8 tiếng đồng hồ.
Xuất hiện trong game.
Trong "Nobita và người khổng lồ xanh DS", chong chóng tre là một trong những bảo bối phổ biến của Doraemon. Nó giúp Doraemon bay. Nó dùng pin có thể tái tạo lại năng lượng pin khi không sử dụng. Khi pin của nó yếu thì tốc độ giảm. Người chơi có thể nhấn nút Y để bay thấp xuống | 1 | null |
Theo Hiến pháp Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề cử. Phó Chủ tịch Quốc hội là thành viên của Ủy ban Thường vụ của Quốc hội,có nhiệm kỳ tương đương với Quốc hội cùng khóa. Trước năm 1960 thì có chức danh là Phó Trưởng ban Thường vụ Quốc hội. Từ năm 2007, Phó Chủ tịch Quốc hội gồm 4 người: | 1 | null |
Angry Birds Space, đưa những chú chim bay vào không gian. Trò chơi thứ 4 nằm trong series: Angry Birds. Phát hành lần đầu trên toàn thế giới vào năm 2010 trên hệ điều hành Android, iOS, Windows. Game cũng được phát hành vào cuối tháng 10 năm 2012 trên Windows Phone 8 và Mac
Giới thiệu.
Cốt truyện.
Vào một ngày đẹp trời, những chú chim đang chăm sóc cho những quả trứng của mình thì một chú chim băng từ trên trời rơi xuống với quả trứng vàng của mình. Đang nguy cấp, thì lũ lợn ngoài không gian lại cướp trứng, không chỉ quả trứng vàng của chú chim băng mà còn cướp cả những quả trứng của Angry Birds và điêu đó làm chúng rất tức giận. Những chú chim vào trong cái lỗ nhỏ đó và cảm thấy mình đang trôi bồng bềnh ở dải thiên hà. Và một cuộc chiến giữa những chú chim Angry Birds và lũ lợn bắt đầu từ đó.Sau đó Super Red đã tấn công những chú lợn độc ác. Và những chú chim Angry Birds Space đã lấy lại được quả trứng.
Mô tả.
Với gần 200 levels, cùng các bản cập nhật mới nhất sau này, bạn sẽ có cảm giác như được bay lượn trên không gian. Những chú chim có kích cỡ khác nhau sẽ tìm mọi cách để chống lại những chú lợn và lấy lại những quả trứng.
Bonus: Samsung Galaxy Note S3: Launch Partner.
Đây là levels bonus miễn phí và đặc biệt, chỉ có trên Android Samsung(v2.0) và một số khác. Levels bonus này là sự hợp tác gần đây nhất bởi Samsung và Rovio, nhằm kỷ niệm một năm sinh nhật trò chơi Angry Birds Space này.
Phiên bản trả phí.
Danh sách phiên bản trả phí
Đồ hỗ trợ năng lượng.
Đồ hỗ trợ năng lượng (Power-Ups) được dùng trong trường hợp bạn cần hoàn thành các ván một cách nhanh nhất. Angry Birds Space hỗ trợ 5 năng lượng: Flock of Birds, Mighty Eagle, Pig Duffer, Space Eggs và Wingman(nó có từ v2.1.0)
Mỗi đồ hỗ trợ năng lượng chỉ sử dụng miễn phí 3 lần.
Daily Missions.
Do Angry Birds Space sau đó không hỗ trợ giải thưởng hàng ngày, mà từ v2.1.0, người chơi Angry Birds Space sẽ tham gia nhiệm vụ hàng ngày. Hoàn thành các nhiệm vụ để nhận điểm mở khóa các levels trong episode mới: Brass Hogs. Cứ 10 điểm bạn sẽ nhận x1 bundle tất cả các đồ hỗ trợ năng lượng. Khi đạt 38 điểm bạn có thể trải nghiệm tất cả levels trong Brass Hogs (Tương dương với 38 Levels).
Sự hợp tác thông tin truyền thông.
Angry Birds Space, những con tàu và thiết kế trong trò chơi được áp dụng từ NASA.
WIKIPEDIA ANGRY BIRDS.
Angry Birds Angry Birds Seasons Angry Birds Rio Angry Birds Space Angry Birds Star Wars Angry Birds Star Wars II Bad Piggies Angry Birds Go Angry Birds Epic | 1 | null |
Danh hiệu UNESCO ở Việt Nam gồm danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa phi vật thể... đã được UNESCO công nhận tại Việt Nam. Trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất. Đến năm 2019, Thủ đô Hà Nội hiện sở hữu nhiều danh hiệu nhất với 6 đối tượng: Hoàng thành Thăng Long, Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, ca trù, Hội Gióng, Tín ngưỡng thờ Mẫu và Kéo co; Lâm Đồng sở hữu 5 danh hiệu, các tỉnh Ninh Bình, Phú Thọ, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Bắc Giang sở hữu 4 danh hiệu; các tỉnh Ninh Bình và Quảng Nam sở hữu tới 3 loại danh hiệu UNESCO khác nhau. Các di sản văn hóa phi vật thể thường có địa bàn phân bố rộng nên tất cả các tỉnh đều sở hữu danh hiệu UNESCO. Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc là vùng du lịch có nhiều danh hiệu UNESCO nhất.
Di sản thế giới tại Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam đã có 8 di tích được Ủy ban di sản thế giới thuộc UNESCO công nhận là Di sản thế giới gồm:
Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam.
Tại Việt Nam hiện đã có 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh vào các danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại (Representatitive List of the Intangible Cultural Heritage of Humanity) và cần được bảo vệ khẩn cấp (List of Intangible Cultural Heritage in Need of Urgent Safeguarding) theo thứ tự năm công nhận mới nhất
Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam.
Việt Nam được Ủy ban Sinh quyển và Con người thuộc UNESCO công nhận 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới gồm:
Di sản tư liệu tại Việt Nam.
Di sản tư liệu tại Việt Nam do Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO công nhận gồm 3 Di sản tư liệu thế giới và 4 Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương
Mạng lưới Công viên địa chất Việt Nam.
Danh hiệu Công viên địa chất toàn cầu do Hội đồng tư vấn GGN thuộc UNESCO công nhận. Việt Nam hiện có Cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là công viên địa chất toàn cầu vào năm 2010, Công viên Non nước Cao Bằng được công nhận năm 2018 và Công viên địa chất Đắk Nông (tên gọi trước kia là Núi lửa Krông Nô) được công nhận năm 2020.
Công viên địa chất Lý Sơn-Sa Huỳnh (tỉnh Quảng Ngãi), là khu vực đang trong quá trình xem xét trở thành Công viên địa chất toàn cầu UNESCO.
Theo TS. Trần Tân Văn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản thì viện này đã cùng một số đối tác trong và ngoài nước triển khai trên khoảng 25 khu vực và đã xác định được 15 khu vực có thể xây dựng thành CVĐC Quốc gia. Trong đó khoảng 1/3 đến ½ khu vực hoàn toàn có khả năng trở thành Công viên địa chất Toàn cầu như: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Quần đảo Cát Bà (Hải Phòng), Vườn quốc gia Ba Vì (Hà Nội), Vườn quốc gia Cúc Phương - Cố đô Hoa Lư - Tràng An (Ninh Bình), Vườn quốc gia Hoàng Liên - Sapa (Lào Cai), Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và vùng đệm (Quảng Bình)...
Thống kê theo địa phương.
Chú ý: Số di sản ghi 1/21 được hiểu là 1 trong 21 địa phương cùng sở hữu di sản đó. | 1 | null |
Johnny Logan (sanh ngày 13 tháng 5 năm 1954) là một ca sĩ và nhạc sĩ người Ái Nhĩ Lan. Ông ta được biết đến là người duy nhất mà đã đạt được giải Eurovision Song Contest 2 lần, năm 1980 và 1987. Logan cũng đã sáng tác bản nhạc mà đã đoạt giải này năm 1992.
Logan lần đầu tiên đoạt giải Eurovision Song Contest năm 1980, với bản nhạc "What's Another Year" được viết bởi Shay Healy. Cho Eurovision Song Contest 1984, Logan sáng tác bản "Terminal 3" mà đạt được hạng nhì, trình diễn bởi Linda Martin. Ông ta đã thắng giải này lần thứ 2 vào năm 1987 với "Hold Me Now", mà chính ông ta đã viết ra. Ông ta lại thành công một lần nữa vào năm 1992, với tư cách là nhà soạn nhạc cho bản nhạc mà Linda Martin đã thắng giải "Why Me?". | 1 | null |
Cá ngát đen hay cá ngát chó hay còn gọi là cá làu, cá trê biển (tên khoa học Plotosus canius) là một loài cá ngát trong họ Plotosidae.
Hình thái.
Cá đực có thể có chiều dài đạt đến 150 cm.
Phân bố.
Loài này phân bố ở bờ biển phía tây và nam của Ấn Độ và Sri Lanka đến Papua New Guinea, bao gồm Bangladesh, Myanmar, Indonesia và Philippines. Môi trường sống của chúng là nước lợ và nước ngọt ở cửa sông và ven bờ ven biển.
Thức ăn.
"Plotosus canius" lớn thường ăn động vật ở đáy, chủ yếu là giáp xác với tỉ lệ 95,39%. | 1 | null |
Tiệm bánh Hoàng tử bé là một bộ phim sitcom Việt Nam phát sóng vào ngày 14 tháng 1 năm 2013 (đạo diễn Văn Công Viễn). Phim có sự góp mặt của các diễn viên Ngọc Thảo, Phương Bella, Kelbin Lei, Văn Anh Duy và Âu Thành Cát.
Đây là bộ phim sitcom đầu tiên ở Việt Nam lấy đề tài phim thần tượng, ca nhạc. Phần tiếp theo của phim có tựa "Tiệm bánh Hoàng tử bé 2" đã được phát sóng vào năm 2014.
Nội dung.
Tại một khu chung cư hiện đại mang tên Ngàn Sao (chung cư Tôn Thất Thuyết trên thực tế) nằm ven sông Sài Gòn, tiệm bánh Hoàng tử bé nằm ở tầng trệt của khu chung cư là nơi nhóm bạn trẻ tài năng hoạt động. Họ gặp nhau trong công việc quản lý tiệm bánh để rồi cùng nhau chia sẻ những đam mê và quyết tâm thực hiện ước mơ bay cao trong thế giới âm nhạc. Các nhân vật cùng vẽ nên một bức tranh sống động về cuộc sống với đầy đủ các cung bậc cảm xúc như chính hương vị của những chiếc bánh ở tiệm bánh Hoàng tử bé. | 1 | null |
Michael Paget (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1978), thường được biết với tên Padge, là một nhạc sĩ xứ Wales. Anh đang chơi cho Bullet for My Valentine với vai trò Guitar Lead.
Sự nghiệp.
Padge chơi cho Bullet for My Valentine từ lúc band nhạc thành lập với tên Jeff Killed John vào năm 1998. Padge chơi cùng Matt Tuck (hát chính, guitar phụ), Jamie Mathias (guitar bass, hát phụ) và Jason Bowld (trống).
Anh đã cùng Bullet For My Valentine cho ra mắt 6 album: The Poison (2005), Scream Aim Fire (2008), Fever (2010), Temper Temper (2013), Venom (2015) và Gravity (2018).
Khởi đầu.
Padge bắt đầu chơi guitar từ khi 17 tuổi, anh mua một cây guitar cổ điển hai năm trước đó, thậm chí trong vòng một tháng anh không biết cách lên dây. Anh họ Padge đã giúp anh ấy lên dây đàn. Và Padge bắt đầu học các hợp âm cơ bản từ sách vở. Bài hát đầu tiên Padge chơi được trên Guitar là "Polly" của ban nhạc Nirvana. Anh từng chơi trống khi còn đang học tại trường Bridgend, lý do là lúc đó có quá nhiều người chơi guitar.
Kỹ thuật.
Các đoạn solo của Padge thường sử dụng kỹ thuật Tapping và Sweep Picking.
Thiết bị.
Guitars.
Padge sử dụng một loạt các guitar, hiện tại anh đang sử dụng cây guitar thiết kế cho riêng anh của hãng ESP.
Tham khảo.
Ảnh: Bullet for my Valentine - Wacken Open Air 2016-AL2256.jpg | 1 | null |
Thumsee (từ tiếng Latein "dumosus") là một hồ tư nhân nằm ở phía Tây thành phố nghỉ mát Bad Reichenhall thuộc huyện Berchtesgadener Land ở phía Nam của Bayern (Đức). Thumsee cũng là tên của khu vực bao quanh hồ này thuộc Bad Reichenhall.
Mô tả.
Hồ này nằm trong một khu bảo tồn thiên nhiên cùng tên. Nó dài khoảng 1 km và chỗ rộng nhất khoảng 140 m. Chỗ sâu nhất khoảng 21 m. Thumsee vào mùa hè là một nơi tắm công cộng được ưa thích ở Bad Reichenhall, có một bãi phơi nắng công cộng cũng như hồ bơi "Thumseebad", với một quán cà phê. Một lối đi quanh hồ cũng như 2 quán ăn lôi cuốn khách đi bộ quanh năm.
Bên cạnh Thumsee có một hồ nhỏ, tên là Seemösl, từ năm 1936 ở đây đã được trồng chín loại hoa sen khác nhau. | 1 | null |
Đội quân siêu trộm (tên gốc tiếng Hàn: 도둑들, phiên âm: "Dodukdeul", còn được biết đến với tên tiếng Anh: The Thieves) là một phim điện ảnh tội phạm của Hàn Quốc công chiếu năm 2012 do Choi Dong-hoon đạo diễn. Phim có sự tham gia diễn xuất của Kim Yun-seok, Lee Jeong-jae, Kim Hye-su, Jeon Ji-hyeon.
Cốt truyện.
Một nhóm trộm bao gồm 4 người trộm thành công một lư hương cổ từ một phòng triển lãm nổi tiếng tại Seoul, Hàn Quốc. Bị cảnh sát nghi ngờ và theo dõi, cả nhóm cùng 1 thành viên mới ra tù sang Hồng Kông, Trung Quốc thực hiện một phi vụ khác. Tại đây, họ gặp và cộng tác với 5 tay trộm khác thành 1 đội 10 người để đánh cắp sợi dây chuyền có viên kim cương vàng nổi tiếng "Nước mắt Thái dương" tại một sòng bạc ở Macau. | 1 | null |
Thỏ Anh (English Spot) là một giống thỏ nhà được được chọn lọc và phát triển ở Anh vào thế kỷ thứ 19 qua quá trình chọn giống.
Đặc điểm.
Đây là giống thỏ có tầm vóc trung bình trọng lượng trưởng thành 2,5 – 3,5 kg ở con cái và con đực. Giống thỏ này có đặc điểm thân có màu lông trắng với các đốm màu xậm ở trên cơ thể, tai thẳng đứng, mông rộng tròn và hơi lớn hơn phần vai, chân dài và mảnh khảnh. Giống này được nhận biết với các đốm xậm màu ở 2 vòng mắt, má và tai, sóng lưng và đuôi. Các đốm này có màu sắc phổ biến là đen, xanh dương, sô cô la, nâu, vàng.
Chúng là vật nuôi nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh (chốn trạy, sợ tiếng động), khả năng thích ứng với môi trường kém. Sống trong nhà chúng sẽ được an toàn hơn. Cần tránh tiếp xúc với các loài động vật khác, đặc biệt là chuột. Nếu ban ngày chúng ăn không hết thức ăn thì cần vét sạch máng, nếu thừa chuột sẽ lên ăn và cắn chết thỏ, nhất là thỏ con mới đẻ.
Dạ dày chúng co giãn tốt nhưng co bóp yếu. Nhiều con bị chứng sâu răng hành hạ và có vấn đề về tiêu hóa. Chúng cũng bị mắc một số bệnh như bại huyết, ghẻ, cầu trùng, viêm ruột, do ăn thức ăn sạch sẽ, không bị nấm mốc. Nếu thấy chúng có hiện tượng phân hôi, nhão sau đó lỏng dần thấm dính đét lông quanh hậu môn, kém ăn, lờ đờ uống nước nhiều đó là bệnh tiêu chảy. Chúng hiếu động và ham chạy nhảy, sinh trưởng tốt, nuôi chúng không cần nhiều diện tích.
Chăm sóc.
Cho chúng ăn cà rốt có thể khiến chúng bị sâu răng, cũng như gây nên những vấn đề về sức khỏe khác. Cà rốt và táo chứa nhiều đường thực vật, chỉ nên cho thỏ ăn những loại này ít. Chúng thích cam thảo nhưng nó lại không tốt bởi thỏ không thể tiêu hóa đường. Chúng thông thường không ăn rau củ có rễ, ngũ cốc hoặc trái cây, đặc biệt là rau diếp. Nên cho thỏ ăn cỏ, cải lá xanh đậm như bắp cải, cải xoăn, bông cải xanh (phải rửa sạch).
Luôn có thức ăn xanh trong khi chăm sóc, lượng thức ăn xanh cho chúng luôn chiếm 90% tổng số thức ăn trong ngày. Có thể cho chúng ăn thêm thức ăn tinh bột, không được lạm dụng vì chúng sẽ dễ bị mắc bệnh về đường tiêu hóa dẫn đến chết. Nhiều người cho rằng thỏ không cần uống nước là sai. Thỏ chết không phải do uống nước hay ăn cỏ ướt mà vì uống phải nước bẩn và ăn rau bị nhiễm độc. | 1 | null |
Thỏ Chinchilla là một giống thỏ nhà có nguồn gốc từ Chinchilla và lần đầu tiên được trình diễn tại Pháp 1913 bởi J.J. Dybowski.
Đặc điểm.
Chúng được tạo ra từ thỏ rừng và 2 giống Blue Beverens và thỏ Himalaya được xem như là giống thỏ cho len. Giống thỏ này có 2 dòng một có trọng lượng 4,5 – 5 kg (Chinchilla giganta) và dòng kia 2 – 2,5 kg lúc trưởng thành. Giống thỏ này đẻ trung bình mỗi lứa từ 6 – tám con có khả năng thích nghi với các điều kiện chăn nuôi khác nhau. Thỏ có lông màu xanh, lông đuôi trắng pha lẫn xanh đen, bụng màu trắng xám đen. | 1 | null |
Địa chỉ là tập hợp các thông tin, thường có hình thức biểu diễn cố định, nhằm miêu tả vị trí của một tòa nhà, một căn hộ, hay một cấu trúc hoặc một diện tích đất nào đó. Địa chỉ thường sử dụng đường biên giới chính trị và tên phố để miêu tả, cùng với các thông tin nhận dạng khác như số nhà hoặc số căn hộ. Một số địa chỉ còn chứa một số loại mã để giúp các cơ quan phụ trách vận chuyển và thư từ dễ tìm kiếm như mã ZIP và mã bưu chính.
Địa chỉ ở Việt Nam.
Địa chỉ ở Việt Nam thường theo địa hạt hành chính. Việc sử dụng mã bưu chính hay mã ZIP không thật sự phổ biến.
Định dạng của địa chỉ ở Việt Nam cách mới gồm các phần.
Phần số nhà và tên đường.
Phần số nhà và tên đường được ghi theo quy định ở "Quyết định số 05/2006/QĐ-BXD ngày 8 tháng 3 năm 2006" . Định dạng phổ biến nhất như sau:
Một cách khác là ở các khu gọi là cư xá. Trong cư xá sẽ có đường và số nhà kèm theo, quy tắc đặt tên sẽ là:
Một số nơi ở miền bắc Việt Nam vẫn sử dụng cách ghi kiểu cũ, là phân theo khu, ví dụ: 7A/34 Tô Hiến Thành. Trong đó, 7A là tên của khu. Tuy nhiên, cách này dễ bị nhầm lẫn, và đang bị đổi dần sang cách mới cho thống nhất.
Phần tên thôn/ấp.
Trường hợp không có số nhà và đường, phần đầu bao gồm tên thôn/ấp, một số nơi còn kèm theo tên đội. Ví dụ: Đội 2 thôn Phú Lợi, hoặc ấp Thái Hòa.
Như vậy, một thôn/ấp sẽ có nhiều nhà có cùng địa chỉ. Nhưng điều này vẫn không phải trở ngại lớn khi gửi thư, vì người dân ở các thôn/ấp này đều đa phần là biết nhau, nên chỉ cần hỏi tên người là xác định được.
Hiện vẫn chưa có cách đặt địa chỉ nào chính xác hơn cho trường hợp này.
Phần còn lại theo địa giới.
Phần còn lại là theo địa giới hành chính.
Địa giới hành chính Việt Nam chính thức được phân ra thì các cấp quản lý sau:
Tên nước thường không được bao gồm khi gửi trong nội bộ Việt Nam.
Địa chỉ đầy đủ.
Theo các định dạng trên, đây là một số ví dụ: | 1 | null |
Hang Chauvet là một hang động ở Pháp có các bức tranh hang động với hơn 1.000 bức tranh hang động, chủ yếu là hình động vật có niên đại từ khoảng 31.000 năm trước, là những bức tranh hang động cổ xưa được bảo quản tốt nhất cũng như bằng chứng khác của cuộc sống thượng thời kỳ đồ đá cũ. Hang nằm gần xã Vallon-Pont-d'Arc trên một vách đá vôi ở trên đáy cũ của sông Ardèche, trong Hẻm núi de l'Ardèche. Năm 2014, tại cuộc họp lần thứ 38 ở Doha, hang động này đã được đưa vào danh mục di sản thế giới. | 1 | null |
Igor Vitalyevich Presnyakov (Игорь Витальевич Пресняков, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1960) là một nghệ sĩ ghita người Nga. Ông nổi tiếng bởi kỹ thuật chơi đàn độc đáo và khả năng biểu diễn xuất sắc nhiều bản nhạc khác nhau, đặc biệt là theo phong cách virtuoso.
Tiểu sử.
I. V. Presnyakov sinh ngày 8 tháng 5 năm 1960 ở Moskva, Nga. Ông theo học ở học viện âm nhạc, phân khoa nhạc cổ điển. Ông tốt nghiệp dưới tư cách là một nghệ sĩ ghita và là người phối nhạc cho các dàn hợp xướng. Về sau, I. V. Presnyakov chuyển sang sống và làm việc ở Hà Lan trong hơn 35 năm. Ông chủ yếu biểu diễn các bản độc tấu ghita, nhưng cũng tham gia một số buổi biểu diễn với nhiều nghệ sĩ khác. Thâm niên hoạt động nghệ thuật của Presnyakov mang lại cho ông rất nhiều kinh nghiệm, và nhờ đó ông có thể kết hợp nhiều phong cách biểu diễn của nhiều dòng nhạc khác nhau, từ nhạc cổ điển cho đến jazz, rock, R&B. Một số nghệ sĩ và nhóm nhạc gây ảnh hưởng lên phong cách của Preskyanov có thể kể đến như The Beatles, Led Zeppelin, Deep Purple, Pink Floyd,V. I. Vysotskiy, V. R. Tsoy, A. V. Makarevich, S. I. Rakhmaninov, P. I. Tchaikovsky, M. P. Musorgskiy, M. I. Glinka.
Preskyanov chơi nhiều loại nhạc khác nhau, từ các bản hòa âm cổ điển cho đến các bài tân nhạc của nhiều nghệ sĩ trên thế giới, cũng như các bản động tấu jazz và R&B. Một điểm đặc trưng của phong cách biểu diễn của ông là việc gõ nhịp của bài nhạc vào thùng gỗ của đàn ghi ta, nó tạo ra tiếng động gây cảm tưởng như được nghe bài nhạc do nhiều nghệ sĩ cùng hòa tấu (ví dụ). Preskyanov ít khi hát mà ông thường sử dụng tiếng đàn để chuyển tải lời hát của bài ca.
Presnyakov cũng biểu diễn loại ghita 7 dây của Nga, đây là một nhạc cụ đặc trưng của Nga và được sử dụng rộng rãi ở đất nước này trong thế kỷ 19.
Sự nghiệp.
I. V. Presnyakov biểu diễn các tiết mục ghita ở nhiều nơi trên thế giới. Ông cũng là khách mời trong nhiều chương trình truyền hình và truyền thanh. Vào năm 2004, Presnyakov tham dự cuộc thi đánh đàn quốc tế lần thứ 34 tại Winfield, Hoa Kỳ.
Một bản nhạc của ông đã được sử dụng trong vở kịch "Sáu năm" của Scherr White, trình diễn tại Nhà hát Lex ở Hollywood.
I. V. Presnyakov biểu diễn lần đầu trên YouTube vào năm 2007, sử dụng tên tài khoản là "Igor Presnyakov" hay "Iggy Press", và danh tiếng của ông cũng tăng lên sau sự kiện đó.
Buổi hòa nhạc đầu tiên của ông diễn ra vào ngày 5 tháng 4 năm 2013 ở câu lạc bộ "B2" tại Moskva..
Công ty sản xuất ghita Takamine và Fender hiện là nhà tài trợ cho I. V. Preskyanov.
Ông cũng được khán giả Việt Nam yêu mến khi cover lại nhiều bài hát nổi tiếng của Việt Nam như 'Nhật ký của mẹ' của Hiền Thục, để giải thích lý do lựa chọn ca khúc này, Igor bình luận: ""Thân gửi các bạn bản chuyển soạn guitar ca khúc Nhật ký của mẹ. Ngay từ lần đầu tiên nghe bài hát này, tôi đã quyết định phải chơi nó, vì đây là bài hát thực sự chạm tới trái tim tôi. Cảm ơn các bạn vì đã ủng hộ lựa chọn này. Hãy coi như đây là một món quà tôi muốn gửi tặng tới tất cả những bà mẹ trên thế giới này"." hay các bài hát của Sơn Tùng M-TP như ""Nơi này có anh", "Lạc trôi", "Hãy trao cho anh", "Chúng Ta Không Thuộc Về Nhau", "Chạy ngay đi", "Có chắc yêu là đây"..." | 1 | null |
Số điện thoại là một dãy số được gán cho thuê bao điện thoại cố định, thuê bao điện thoại di động, các thiết bị truyền dữ liệu qua mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) hay các mạng công cộng và mạng riêng.
Số điện thoại hoạt động giống như một địa chỉ để chuyển hướng các cuộc gọi điện thoại đến đúng thuê bao người nhận thông qua hệ thống định tuyến mã đích. Số điện thoại do người gọi bấm vào điện thoại, điện thoại sẽ chuyển dãy số này thành một dãy các tín hiệu và gửi tới tổng đài điện thoại. Tổng đài sẽ kết nối cuộc gọi tới thuê bao lân cận cần gọi đến hoặc thông qua hệ thống PSTN chuyển tới bên nhận cuộc gọi.
Ý tưởng sử dụng số điện thoại để kết nối các cuộc gọi thay vì dùng tên người đăng ký thuê bao được phát triển và lần đầu tiên đưa vào sử dụng vào khoảng từ năm 1879 đến 1880 ở Lowell, Hoa Kỳ, nhằm đơn giản hóa việc huấn luyện cho các điều phối viên ở các trạm điện thoại. | 1 | null |
Bò Nhật Bản hay còn gọi là là tên gọi chung của bốn giống bò thịt đặc sản của Nhật Bản, chúng nổi tiếng khắp thế giới bởi thịt ngon và mềm. Vì vậy giá thịt bò đặc chủng này cũng rất đắt. Đặc trưng của loại thịt bò "wagyu" hảo hạng là vân mỡ lốm đốm trắng phân bố xen kẽ các thớ thịt đỏ với tỷ lệ đồng đều. Thành phần thịt và mỡ đều nhau tạo cho miếng thịt vừa mềm vừa thơm béo, nổi tiếng nhất là thịt bò Kobe. Chúng được mệnh danh là những con bò "ăn cỏ non, nghe nhạc giao hưởng"
Ở một vài khu vực của Nhật Bản, thịt bò Wagyu được vận chuyển dưới nhãn hiệu tên của khu vực. Một vài ví dụ là thịt bò Matsusaka, thịt bò Kobe, thịt bò Yonezawa, thịt bò Mishima, thịt bò Ōmi, và thịt bò Sanda. Trong những năm gần đây, thịt bò Wagyu đã có sự thay đổi trong việc tăng tỉ lệ chất béo, do giảm chăn thả và tăng sử dụng thức ăn, dẫn đến kết quả gia súc to và béo hơn.
Vân mỡ.
Thịt bò Wagyu nổi tiếng khắp thế giới bởi thịt ngon và mềm. Vì vậy giá thịt bò đặc chủng này cũng rất đắt. Đặc trưng của loại thịt bò "wagyu" hảo hạng là vân mỡ lốm đốm trắng phân bố xen kẽ các thớ thịt đỏ với tỷ lệ đồng đều. Thành phần thịt và mỡ đều nhau tạo cho miếng thịt vừa mềm vừa thơm béo, nổi tiếng nhất là thịt bò Kobe. Chúng được mệnh danh là những con bò "ăn cỏ non, nghe nhạc giao hưởng."
Thịt bò Wagyu Nhật Bản được phân loại theo lượng thịt có được từ một con bò: Hạng A có nghĩa là lượng thịt có thể sử dụng đạt năng suất cao, Hạng B có nghĩa là năng suất trung bình và Hạng C có nghĩa là lượng thịt khai thác được có năng suất thấp. Mỗi hạng sau đó được đánh số từ 1 đến 5 (3 là trung bình và 5 là vượt trội) để cho biết mức độ phân bổ chất béo giữa các cơ, màu sắc của thịt và chất lượng của chất béo.
Chủng loại.
Tuy thế giới quen gọi chung loại bò thịt đắt giá của Nhật Bản là bò Kobe nhưng đúng ra là bốn giống bò:
Bốn giống này qua sự chăn nuôi chọn giống đã tạo ra giống bò cung cấp loại thịt với lượng omega-3 và omega-6 cao hơn thịt bò thường. Tỷ lệ mỡ đơn bất bão hòa (monounsaturated fat) cũng cao hơn so với mỡ bão hòa (saturated fat). Trên lý thuyết đây là loại mỡ ít độc hại hơn.
Trong số bốn giống bò thịt này thì bò đen Nhật Bản chiếm 90% tổng số chăn nuôi ở Nhật. Giống bò đen còn có phân loại mang tên địa phương như bò Tottori, bò Tajima, bò Shimane và bò Okayama. Bò nâu Nhật Bản (cũng gọi là bò đỏ), đứng hạng nhì về số lượng; có phân loại Kochi và Kumamoto. Bò sừng ngắn chiếm không đến 1%.
Bò Kobe.
Bò Kobe thuộc giống bò Tajima-ushi, tức dòng bò đen Nhật Bản "Kurage Washu". Đúng ra nếu mang tên đích danh bò Kobe thì phải nuôi ở Hyogo chứ không được xuất xứ từ nơi nào khác. Thịt bò Kobe béo và thơm, được xếp vào hàng "cực phẩm". Bò Kobe trong tiếng Nhật gọi là hay . Thịt bò Kobe có thể dùng nấu bít tết, sukiyaki, shabu shabu (lẩu), sashimi (gỏi ăn sống), teppanyaki (nướng chảo) và nhiều cách khác.
Lịch sử.
Bò Kobe được nuôi ở Nhật Bản từ thế kỉ thứ II với vai trò là động vật làm việc nặng nhọc, được sử dụng trong kéo cày trồng lúa, thồ hàng, trong thời phong kiến (những năm 1600-1860), bò Kobe chỉ để sử dụng lấy sức kéo và người dân bị cấm giết mổ bò vì nó rất quan trọng với nền nông nghiệp Nhật thời đó. Trải qua suốt thời kỳ Edo (1603–1867), người Nhật hầu như không biết tới mùi vị của thịt bò Kobe, bởi theo quan điểm Phật giáo, họ không hề ăn thịt của động vật hay gia súc bốn chân. Trong suốt quãng thời gian trên, những người có cơ hội nếm thịt bò Kobe chỉ là những người lính. Theo nhiều tài liệu lịch sử, khi tham gia chiến trận, lính Nhật được ăn khẩu phần có thịt bò, giúp họ có thêm sức chiến đấu. Chỉ tới khi Thiên hoàng Minh Trị tiến hành cải cách (1868), phong tục kiêng ăn thịt gia súc mới dần được gỡ bỏ.
Khi thịt bò trở nên nổi bật hơn trong xã hội, người ta bắt đầu thuê công nhân mát-xa cho những con bò để cải thiện chất lượng thịt. Địa hình miền núi của các hòn đảo Nhật Bản đã khiến cho các vùng chăn nuôi ở Kobe bị cô lập và các kỹ thuật nuôi dưỡng bò đặc biệt đã khiến cho thịt bò Kobe có các hương vị rất đặc trưng và không giống một loại thịt bò nào trên thế giới. Khi văn hóa phương Tây tràn vào Nhật Bản, loại thịt bò trứ danh này mới được khai thác làm thực phẩm. Tuy nhiên, sản lượng đàn bò này vẫn rất thấp.
Nhưng với số lượng thịt Bò Kobe "do chính Hãng Kobe xuất xưởng" không có nhiều, mỗi ngày chỉ có vài con "Ngay chính người Nhật muốn đặt thịt bò Kobe do hãng Kobe cung cấp cũng có khi vài tháng mới đến lượt" cho nên những món được quảng cáo là thịt bò kobe thì rất có thể chỉ là loại thịt bò được nuôi theo phương pháp kobe hoặc có xuất xứ ở địa danh trên chứ chưa chắc đã phải là thịt bò do chính hãng Kobe cung cấp. Trong quá khứ, một số nhà hàng cao cấp của Mỹ đã từng nhập thịt bò từ Nhật Bản và các cửa hàng này đã mặc nhiên đề trong menu của mình rằng đây là thịt bò Kobe dù sự thực chúng chỉ là thịt bò có xuất xứ từ Nhật Bản. Hiện tại Nhật Bản chỉ mới xuất thịt bò Kobe sang một nơi duy nhất là Macao. Với việc nuôi thành công bò Kobe, Việt Nam cũng đã gia nhập vào hàng ngũ một số nước nuôi giống bò quý hiếm trên.
Nuôi bò.
Tổng đàn.
Quy trình nuôi dưỡng bò Kobe rất khắt khe. Thức ăn nuôi bò là những thứ bổ dưỡng như lúa non, cỏ tươi, còn đồ uống là nước được chiết xuất rất tinh khiết và thậm chí là cả bia. Vào 600 ngày trước khi được giết mổ, bò Kobe sẽ được ăn 4.800 loại thực phẩm để chúng tăng cân được 500 kg.
Hàng ngày, những chú bò đều được nghe nhạc giao hưởng của Mozart, Beethoven... để giúp chúng thư giãn. Bò Kobe được dễ dàng nhận ra bởi toàn thân đen tuyền. Hiện chỉ có khoảng 3.000 con bò Kobe trên toàn thế giới và không có con nào ở ngoài biên giới Nhật Bản. Con bò phải được sinh ra ở vùng Hyogo, nuôi lớn bằng cỏ, nước và trong điều kiện khí hậu ở đây suốt đời. Quy trình còn ngặt nghèo đến nỗi, khi thịt bò Kobe được bán đi, cho dù trong cửa hiệu hay nhà hàng, thịt đó phải mã với 10 chữ số để người dùng biết đó là thịt đến từ con bò nào.
Ở Nhật, để được gọi là thịt bò Kobe, sản phẩm thịt phải đảm bảo những tiêu chuẩn hết sức ngặt nghèo. Đó phải là thịt của con bò giống Tajima-gyu thuần chủng, bò lai không được chấp nhận. Con bò phải được sinh ra ở vùng Hyogo, nuôi lớn bằng cỏ, nước và trong điều kiện khí hậu ở đây suốt đời. Đó phải là một con bò đực hoặc bò cái chưa qua sinh nở. Thời gian nuôi một con bò Tajima-gyu cho tới lúc được lấy thịt cũng lâu hơn các giống bò khác, khiến chi phí đội thêm.
Giá thị trường của mỗi cân thịt bò Kobe có giá trên 500 USD. Tại Hyogo, trong 5.500 con bò được nuôi dưỡng, số lượng đạt tiêu chuẩn để ghi tên Kobe chỉ khoảng 3.000 con, một nửa trong số này được giết thịt để cung ra thị trường mỗi năm. Như vậy, tính trung bình, mỗi ngày trên toàn thế giới chỉ có khoảng ba con bò Kobe được giết thịt, tương đương 1,2 tấn thịt được cung ứng.
Quy trình.
Bò được chăm sóc rất kỹ từ khi còn bé. Mỗi trang trại wagyu chỉ nuôi từ 10 tới 15 con bò. Theo chiều dọc của chuồng, trọng lượng bò giảm dần theo tuổi để tiện chăm sóc, bò ăn giặm ở ô riêng, bò vỗ béo riêng, thậm chí bò cái và bò đực cùng lứa tuổi cũng được nhốt riêng tuân theo một chế độ ăn uống đặc biệt. Khẩu phần ăn của chúng được quản lý chặt chẽ để tạo ra những thớ thịt săn chắc. Thông thường, 60% bê con sẽ sinh trưởng khỏe mạnh. Chúng được cai sữa khi đạt 8-10 tháng tuổi, rồi được chuyển cho các trang trại để bắt đầu quá trình nuôi tập trung, với khẩu phần ban đầu bao gồm thức ăn thô và thức ăn gia súc, như cỏ tươi xanh, cỏ ủ chua, rơm, phế phẩm từ các nhà máy đóng hộp.
Chúng được cho chăn thả, nhưng không quá xa chuồng trại. Mỗi trang trại chỉ được nuôi 10 - 15 con bò trong kỳ vỗ béo vài ba con bê. Trong 10 tháng đầu kể từ khi cai sữa, bò Kobe chỉ được phép có cân nặng giới hạn 250 – 280 kg/con. Vào giai đoạn vỗ béo, những con bò được massage mỗi ngày. Thời gian massage phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của từng con, lượng mỡ trong cơ thể chúng. Yêu cầu quan trọng đối với người nuôi bò Kobe là mỡ và thịt của chúng phải được phân bố đều, trong đó, mỡ chiếm khoảng 35%. Trong thời gian này, người nuôi cũng không được phép để bò tăng quá 0,6 kg/ngày. Thức ăn của những con bò Kobe đều được chọn lọc là thức ăn rất bổ dưỡng như lúa non, cỏ tươi, còn đồ uống là nước được chiết xuất, nước lọc tinh khiết (có nơi người dân phải khoan giếng sâu tới 180m dưới lòng đất để lấy nước cho bò uống).
Hàng ngày người dân cho bò tắm bằng nước ấm. Những người dân ở đây cho rằng thịt bò sẽ ngon khi bò cảm thấy hạnh phúc, vì vậy chúng được massage hàng ngày bằng chổi rơm. Việc massage này trên thực tế ngoài việc làm cho bò cảm thấy hạnh phúc hơn thì sẽ giúp cho mỡ của bò được tan bớt đi (giống như chúng ta đánh mỡ) và bò sẽ có chất lượng thịt cao hơn vì khi đó các thớ thịt bò Kobe thành phẩm sẽ mềm và ngon hơn. Hằng ngày, những người chăn nuôi phải tắm bò đều đặn bằng vòi nước ấm và massage bằng rượu sakê giúp những lớp mỡ nằm dọc ngang hòa quyện vào lớp thịt nạc khiến cho thịt bò Kobe trở nên béo ngậy, thơm ngon (còn gọi là mỡ vân cẩm thạch). Vào khoảng tháng 8 đến tháng 10 hàng năm, khi nhiệt độ ngoài trời lên tới 30 độ C, những con bò thường bị nóng và điều này khiến chúng bỏ ăn. Khi đó, người nuôi sẽ cho bò uống bia để kích thích vị giác của chúng, đồng thời giúp thức ăn dễ tiêu hóa hơn.
Càng về những giai đoạn cuối trước khi xuất chuồng, việc chăm sóc càng trở nên quan trọng để bò nạp nhiều năng lượng và giảm tiêu hao năng lượng. Do đó người ta cho bò nghe nhạc giao hưởng và uống bia. Giai đoạn này, bò được ăn thêm cả vào ban đêm để tăng trọng nhanh, được uống bia để thêm năng lượng khi nguồn thức ăn vào cơ thể có giới hạn. Khi lớp mỡ tích tụ dưới da dày lên, người ta dùng máy mátxa để đánh tan mỡ, chuyển chúng thấm sâu vào giữa các thớ thịt. Đây là giai đoạn quan trọng quyết định phẩm cấp các loại thịt bò Kobe. Chỉ cần vân mỡ không thấm đều, nhuyễn ra giữa các thớ thịt mà bị vón cục là thịt bò không đạt chuẩn hạng cao. Cần những kỹ thuật nuôi, chăm sóc đặc biệt, kỳ công mới tạo ra những miếng thịt bò vân mỡ đẹp đạt được phẩm cấp
Việc nghe nhạc để giúp bò thư thái, ăn được nhiều hơn. Còn mở nhạc cho bò nghe khi ăn là nhằm tạo phản xạ có điều kiện. Cụ thể, khi bò Kobe đạt đến trọng lượng trên 800 kg thường có xu hướng biếng ăn. Nếu bò không ăn thì lớp mỡ sẽ tiêu hao, khi đó không thể tạo vân mỡ trong thịt bò. Do đó, dù bò không muốn ăn nhưng nghe nhạc là tự động đến máng ăn. trong quá trình nuôi bò đã được cho ăn hèm bia, ba tháng trước khi xuất chuồng, bò phải được cho uống bia để tích tụ mỡ, giữ trọng lượng theo quy chuẩn. Tùy theo thể trọng của bò mà có thể cho uống 1-10 lít bia/ngày. Tích tụ mỡ là điều kiện cần song bò phải có vóc dáng tốt mới là điều kiện đủ. Vóc dáng tốt được diễn giải là mỡ tích tụ ở bắp vai, bắp chân, hông. Ở Nhật, người ta sử dụng công nghệ massage để đưa lớp mỡ thấm sâu vào trong lớp thịt. Đây là bí quyết quyết định chất lượng thịt ngon hay không và giá cả sẽ được tính toán theo hình thái lớp mỡ hiển thị trong sớ thịt bò.
Bò lấy thịt được thiến để đảm bảo sự tinh khiết trong từng thớ thịt. Trải qua 18 - 19 tháng vỗ béo, những con bò có tuổi thọ khoảng 3 năm sẽ đạt tổng trọng lượng trên 700 kg. Khi đó, chúng sẽ được phân loại theo chất lượng thịt để mang tên loại bò đắt nhất thế giới (Kobe) hay chỉ theo tên của trang trại. Những con bò xuất chuồng phải được mổ ngay tại khu vực chăn nuôi, sau đó đóng dấu của hàng loạt cơ quan chuyên trách Nhật Bản, trong đó có đơn vị chuyên quảng bá thịt bò Kobe. Những con bò đủ tiêu chuẩn sẽ được mang bán đấu giá. Con ngon nhất sẽ chỉ có tổng lượng thịt khoảng 470 kg, và có mức giá tương đương 1 tỷ đồng.
Riêng ở Australia, nhiều trang trại còn bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày của những con bò Wagyu một ly rượu vang đỏ Cabernet Syrah Merlot liên tục trong ít nhất 1 tháng, khiến bò cảm thấy ngon miệng và bớt căng thẳng hơn. Ngoài ra, những thành phần chống oxy hóa trong rượu vang còn tác động đến màu thịt bò, khiến mùi vị của thịt hấp dẫn hơn. Những chú bò giống Wagyu sống khá rất thoải mái ít khi phải vận động và không bị stress từ đó các chất tinh túy, chất dinh dưỡng thấm hết vào phần thịt, khiến miếng thịt bò cực kỳ thơm ngon, mềm mại nhưng không bở, thịt bò luôn có sự phân bố khá đều giữa thịt và mỡ. Ở Việt Nam, toàn bộ thức ăn cho bò Kobe được dùng từ thức ăn thô chứ không phải thức ăn công nghiệp. Đó là cỏ trồng tại trang trại, bã mía, lõi bắp lên men, gạo tấm thay cho bắp nhập khẩu và các chất bổ sung khác.
Tình hình.
Theo thống kê, hiện cả thế giới chỉ có khoảng 3.000 con bò Kobe, và dĩ nhiên, không có con nào ở ngoài Nhật Bản. Tại Hoa Kỳ, tất cả các sản phẩm thịt bò từ Nhật Bản không được nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ năm 2010 do bệnh lở mồm long móng. Chính vì vậy, có thông tin cho rằng tất cả thịt bò Kobe tại Mỹ đều là hàng giả. Tại Việt Nam, bò Kobe cũng bị cấm nhập khẩu, mặc dù các thịt bò mang nhãn mác Kobe được bày bán rất nhiều trên các nhà hàng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. có thể đã có một đường dây buôn lậu thịt bò Kobe từ Nhật Bản vào Việt Nam bằng chứng thư giả bởi việc đưa thịt bò Kobe vào Việt Nam bằng con đường "xách tay" là rất khó. Có thể các nhà hàng đang bán bò New Zealand nhưng mạo danh là bò Kobe. Hiện nay bò Kobe cũng được nuôi ở Lâm Đồng, trong đó chủ yếu là thế hệ lai F1.
Tại Nhật.
Thịt bò Kobe ở Nhật Bản là một thương hiệu của.. Nó phải đáp ứng những điều kiện sau đây:
Nhưng với số lượng thịt Bò Kobe "do chính Hãng Kobe xuất xưởng" không có nhiều, mỗi ngày chỉ có vài con "Ngay chính người Nhật muốn đặt thịt bò Kobe do hãng Kobe cung cấp cũng có khi vài tháng mới đến lượt" cho nên những món được quảng cáo là thịt bò kobe thì rất có thể chỉ là loại thịt bò được nuôi theo phương pháp kobe hoặc có xuất xứ ở địa danh trên chứ chưa chắc đã phải là thịt bò do chính hãng Kobe cung cấp.
Tại Mỹ.
Các nhà hàng, đặc biệt là nhà hàng tại Mỹ, được quyền quảng bá các loại thịt có nguồn gốc khác nhau là thịt bò Kobe dưới sự cho phép của chính phủ Mỹ, tuy nhiên có ý kiến cho rằng tất cả thịt bò Kobe tại Mỹ đều là giả. Danh tiếng, chất lượng của thịt bò Kobe Nhật Bản khiến những người sành điệu sẵn sàng chấp nhận bỏ ra một khoản tiền lớn để thưởng thức những miếng thịt được quảng cáo là thịt bò Kobe. Thương hiệu bò Kobe lại tràn ngập trong khắp các cửa hàng trên nước Mỹ. Người tiêu dùng có thể mua loại thịt này một cách dễ dàng qua các siêu thị hay thậm chí là đặt hàng qua mạng. Các món ăn làm từ "thịt bò Kobe" cũng có giá đắt hơn nhiều so với các món ăn cùng loại khác.
Ở Mỹ, để được gọi là "thịt bò Kobe" có vẻ dễ hơn nhiều. Các loại thịt được gọi là "thịt bò Kobe" có thể được nhập khẩu từ vùng Midwest, Nam Mỹ hay Australia. Mặc dù thịt bò Kobe, thịt Kobe và gia súc Kobe là các nhãn hiệu đã được đăng ký và bảo hộ ở Nhật, các nhãn hiệu này lại chưa hề được đăng ký hay bảo hộ theo luật Mỹ Các nhà hàng tại Mỹ gọi loại thịt này với cái tên "thịt bò Wagyu" để đánh lừa khách hàng. Các nhà hàng này giải thích với khách rằng Wagyu là tên của giống bò cho ra thịt bò Kobe. Nhưng sự thật thì từ "Wagyu" trong tiếng Nhật chỉ có nghĩa là "gia súc Nhật Bản", dùng để chỉ toàn bộ các giống gia súc ở Nhật.
Tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, từ năm 2004, bò Nhật Bản chính thức được Chính phủ cho phép nhập khẩu sau nhiều năm chỉ có hàng xách tay hoặc nhập lậu. Trang trại bò Kobe đầu tiên được xây dựng tại xã Tân Lạc, huyện Bảo Lâm (Lâm Đồng), cách trung tâm thành phố Bảo Lộc trên 20 km. Giữa thung lũng trà và cà phê xanh mát, gần 100 con bò Kobe thế hệ F1 (50% máu Kobe) đang được nuôi dưỡng và số lượng tổng đàn vẫn tiếp tục tăng lên theo thời gian. Giai đoạn đầu, tỉ lệ chết trên đàn bò con Kobe lên đến 20%. lứa bò Kobe đầu tiên mới chỉ 18 tháng tuổi nhưng đã nặng gần 500 kg. Phải mất 10-14 tháng nữa lứa bò này mới đủ trọng lượng và thời gian xuất chuồng
Trước đó, từ nhiều năm, trên một số website, thịt bò Kobe Nhật Bản được rao bán tại Việt Nam với giá từ 3,5 - 4 triệu đồng/kg và tại một số nhà hàng ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có quảng cáo món ăn làm từ thịt bò Kobe. Có thể các nhà hàng đang bán bò New Zealand nhưng mạo danh là bò Kobe và khi họ bỏ số tiền lớn để thưởng thức món ăn làm từ thịt bò Kobe. Thực chất đó là thịt bò nhập lậu, không được kiểm dịch và không phải là thịt bò Kobe chính hiệu. Việt Nam đã cấm quảng cáo, bán thịt bò Kobe, và khuyến cáo cần đề phòng thịt bò Kobe giả từ thịt bò Úc bởi thịt bò Úc có màu sắc, mùi vị cũng như độ mềm khá giống với thịt bò Kobe Nhật Bản.
Vì không được nhập qua chính ngạch nên hoặc là các cơ sở kinh doanh đang gian lận giả mạo thịt bò Kobe để qua mặt người tiêu dùng, hoặc có hiện tượng tạm nhập tái xuất và lợi dụng tình thế này để thẩm lậu vào Việt Nam. Việt Nam từng kiểm tra một lô thịt bò Kobe vận chuyển bằng đường hàng không từ Nhật sang. Lô thịt bò này khoảng 50 kg không có các loại giấy tờ liên quan nên cơ quan chức năng đã tịch thu tiêu hủy. Các trạm thú y phối hợp với cơ quan chức năng các quận, huyện tiến hành rà soát, kiểm tra các nhà hàng, quán ăn trên địa bàn. Sau đó, thịt bò Kobe lại xuất hiện trên thị trường với giá 4-5 triệu đồng/kg, các sản phẩm như bò Kobe (mông) có giá 200 USD/kg, còn A4 (mông) 160 USD/kg, bò A5 (thăn lưng) giá 250 USD/kg.
Bò Hida.
Nhật Bản đã lai tạo được giống bò mới có chất lượng thịt hảo hạng, loại thịt bò này được bán với giá khoảng 50.000 yên/kg (khoảng 9 triệu đồng). Năm 1982, bò Yasufuku ("cha đẻ" của bò Hida) giành giải thưởng bò đực tốt nhất trên toàn Nhật Bản. Sau đó, nó được nhân giống giúp tạo ra 40 ngàn con bê. Những con bò được phối giống từ bò Yasufuku luôn được mua với mức giá cao ngất trời trong các buổi bán đấu giá trên thị trường bò thịt.
Đến năm 1993, con bò Yasufuku đã chết. Những con bò Hida được nuôi dưỡng tại tỉnh Gifu thuộc giống bò lông đen là một trong 4 giống bò ngon nhất, xuất hiện ở Nhật Bản vào khoảng thập niên 1980, có thể nói thịt bò Hida chính là kết quả của sự kết hợp tinh túy giữa việc đổi mới kĩ thuật nuôi dưỡng và lựa chọn những giống bò tốt nhất. Tại Gifu thì yếu tố di truyền nòi giống và đặc biệt thổ nhưỡng mới là yếu tố tối quan trọng, kĩ thuật nuôi không phải là yếu tố quyết định hoàn toàn đến chất lượng thịt bò..
Đặc điểm của thịt bò Hida là những vân mỡ trắng phân bố xen kẽ giữa các thớ thịt hồng với tỉ lệ gần như tương đồng, thịt bò Hida mềm đến mức gần như tan chảy trong miệng. Chất lượng thịt bò Nhật Bản được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chuẩn, trong đó quan trọng nhất là tiêu chuẩn về tỷ lệ thịt và mỡ được gọi là B.M.S. Có tất cả 12 mức B.M.S, dựa theo những yếu tố này mà hiện nay thịt bò Hida được đánh giá còn "tiêu chuẩn" và "khắt khe" hơn cả thịt bò Kobe. Để cho ra loại thịt có chất lượng ưu việt, những con bò Hida phải trải qua nhiều kiểm định nghiêm ngặt, đáp ứng đủ những tiêu chuẩn hết sức khắt khe về màu sắc, lượng mỡ, độ chắc của thịt và mùi thơm trước khi được mổ.
Một con bò Hida đã mổ xong có giá vào khoảng 10 triệu yên (1,7 tỷ đồng). Mỗi con bò tách được khoảng 300 kg thịt. Những lúc thịt bò Hida đem đi thi đấu với các loại thịt bò khác ở Nhật có giá lên tới 50.000 yên/kg (gần 9 triệu đồng), giá thịt bò này đang được xếp vào hàng cao nhất thế giới. Giống bò mới này được sản xuất chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa, đặc biệt bò Hida có số lượng rất hạn chế, Nhật Bản chỉ xuất khẩu loại thịt bò nổi tiếng này của họ đến một vài nước trên thế giới.
Bò Hida được nuôi với quy trình rất chặt chẽ. Bò được cho nghe nhạc từ sáng đến chiều tối để thư giãn. Ngoài chất lượng thơm, ngon, thịt bò Hida còn được phân tích, đo lường tỉ lệ mỡ và thịt, từ đó điều chỉnh kĩ thuật chăn nuôi nhằm cho ra thị trường loại thịt bò đủ dinh dưỡng, tốt cho sức khỏe người tiêu dùng. Bò Hida được nuôi bằng những thức ăn bổ dưỡng như lúa non, cỏ tươi, tắm bằng nước ấm, uống nước tinh khiết thậm chí là cả bia và rượu sake để kích thích tiêu hóa. Chúng cũng được massage hàng ngày bằng "chổi rơm" để giúp" thư giãn và đánh tan lượng mỡ thừa. Không những thế ở một số trang trại khi chải lông bò còn được tắm bằng rượu shochu để làm đẹp da, đồng thời giúp giải độc cho bò.
Nhiệt độ chuồng luôn duy trì ở mức độ 27-28 độ C và luôn được kiểm tra nghiêm ngặt, người nuôi còn cho bò Hida nghe nhạc giao hưởng êm dịu để thư giãn, cũng như tạo ra những miếng thịt bò đạt chất lượng tốt. Tại các trang trại nuôi bò ở Hida, từ sáng sớm đến lúc hoàng hôn, người ta cho bò nghe những bản nhạc giao hưởng êm dịu. Nhằm tạo ra những miếng thịt có chất lượng, các con bò Hida phải trải qua nhiều kiểm định nghiêm ngặt, đáp ứng đủ các tiêu chuẩn khắt khe như độ chắc của thịt, màu sắc, lượng mỡ. | 1 | null |
Uralvagonzavod (UVZ) là một công ty cơ khí của Liên Xô (cũ) và Nga tại thành phố Nizhny Tagil. Nó là một trong những phức hợp khoa học và công nghiệp lớn nhất tại Nga và là nhà sản xuất xe tăng lớn nhất thế giới.
Tên đầy đủ của công ty là tập đoàn khoa học công nghiệp "UralVagonZavod"" PLC (ОАО «Научно-производственная корпорация «УралВагонЗавод»). Uralvagonzavod là một công ty đại chúng. Tên "Уралвагонзавод" được viết tắt thành ("У"рал "В"агон "З"авод) mang nghĩa "nhà máy sản xuất xe đường ray Ural".
Hoạt động.
Công ty chuyên sản xuất tàu điện, xe tăng, xe làm đường, xe nông nghiệp, sản phẩm luyện kim, công cụ và hàng hóa tiêu dùng.
Việc sản xuất dòng xe tăng chiến đấu chủ lực T-90 chiếm 18–20% tổng sản lượng của công ty. Năm 2008, Uralvagozavod sản xuất hơn 175 chiếc xe tăng: 62 chiếc T-90A cho Quân đội Nga, 60 chiếc T-90S cho Ấn Độ. Đây là sản lượng xe tăng lớn nhất của Uralvagonzavod và toàn nước Nga kể từ năm 1993. Hơn thế nữa, theo Báo Quốc phòng Nga, năm 2008 công ty sản xuất nhiều xe tăng hơn tất cả các nhà máy khác trên toàn thế giới cộng lại. | 1 | null |
Thịt ếch, thịt cóc là thịt từ các loài ếch nhái, cóc, đây là món ăn được coi là bổ dưỡng và là món truyền thống trong nền văn hóa ẩm thực nhiều nước như Kerala, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, vùng Alentejo ở Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Slovenia, Tây Bắc Hy Lạp, Đông Bắc Ý và phía Nam của Mỹ. Thịt ếch ăn ngon và bổ dưỡng, nhất là phần đùi.
Đặc điểm.
Thịt ếch.
Thịt ếch có màu trắng, nạc, ngon như thịt gà, thịt ếch mềm ngọt, thấm vị đậm, thoảng vị giấm chua dịu, thơm, ngon, dai. Trong thịt ếch chứa nhiều chất dinh dưỡng, nó có nhiều protein, chất béo, đường, calci, phosphor, kali, natri, sắt, đồng, magnesi, kẽm, selen, vitamin A, vitamin nhóm B, D, E, biotin, caroten. Phân tích cụ thể chó thấy: trong 100g thịt ếch có 75g nước, 20g protit, 1,1g lipid, 3,9g tro, 22 mg calci, 159 mg phosphor, 1,3 mg sắt, 0,04 mg vitamin B1, 0,22 mg vitamin B12, 2,1 mg vitamin PP...cung cấp cho cơ thể khoảng 92kcal.
Đông y cho rằng thịt ếch có vị ngọt, tính hàn, không độc có tác dụng bổ dưỡng, cường tráng, an thai, lợi tiểu, người ta thường bắt ếch để làm thuốc. Khi đem chế biến, rửa sạch, lột da, mổ bỏ hết nội tạng, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô. Ngoài ra thịt ếch còn dùng để chế biến thành các món như Thịt ếch xào giấm tỏi, Ếch xào cải chua, Canh ếch, Ếch trộn rau nhút, cháo ếch Singapore, Ếch kho tộ... Thịt ếch rất tốt cho trẻ suy dinh dưỡng, thịt ếch lại ăn lành hơn thịt cóc.
Thịt cóc.
Đối với thịt cóc, Là nguồn thịt có độ đạm cao, cóc được sử dụng tương đối rộng rãi trong dân gian để chữa chứng còi xương cho trẻ hoặc giúp người bệnh nhanh chóng hồi phục. Thịt cóc tuy giàu đạm nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu không biết cách chế biến an toàn. Thịt cóc được xem là món ăn, vị thuốc tốt để chữa trị chứng suy dinh dưỡng ở trẻ em. Thịt cóc rất giàu dinh dưỡng, cao hơn thịt bò, thịt lợn (53,37% protit, 12,66% lipid, rất ít gluxit), đặc biệt có nhiều a xít amin cần thiết (Asparagine, Histidine, Tyrosine, Methionine, Leucine, Isoleucine, Phenylalanine, Tryptophan, Cystein, Threonine..) và nhiều chất vi lượng (Mangan, Kẽm…). Trong đó độc tố chỉ có một số bộ phận cơ thể như nhựa cóc (ở tuyến sau tai, tuyến trên mắt và các tuyến trên da cóc), trong gan và buồng trứng. Độc tố của cóc là hợp chất Bufotoxin gồm nhiều chất như 5-MeO-DMT, Bufagin, Bufotaline, Bufogenine, Bufothionine, Epinephrine, Norepinephrine, Serotonin…
Thịt cóc được xếp vào nhóm thực phẩm giàu chất đạm, là vật liệu xây dựng các tế bào nên đặc biệt quan trọng đối với trẻ em, phụ nữ mang thai. Ngoài ra, đạm còn là nguyên liệu để tạo dịch tiêu hóa, các nội tiết tố, protein huyết thanh, các men giúp duy trì phản ứng khác trong huyết tương, dịch não tủy, dịch ruột. Tuy nhiên, nếu so sánh thịt cóc với các thực phẩm giàu đạm khác thì không thấy có sự chênh lệch nhiều về hàm lượng chất đạm trong 100g thực phẩm. Thịt cóc được dùng làm thực phẩm bổ dưỡng cho người già; hỗ trợ, tăng cường dinh dưỡng sau ốm dậy; hỗ trợ điều trị trẻ em suy dinh dưỡng, chán ăn, chậm lớn, còi xương, cam tích, lở ngứa… dưới dạng ruốc, bột hoặc thịt tươi dùng để nấu cháo, làm chả cóc... thịt cóc cũng như các loại thịt khác, đều có hàm lượng dinh dưỡng nhất định, nhưng ăn thịt cóc rất nguy hiểm bởi nọc độc cóc chứa rất nhiều chất độc.
Khuyến cáo.
Do ếch sống ở ngoài đồng ruộng nên tỷ lệ ếch nhái có ấu trùng sán cao chẳng hạn như ở Việt Nam với tỷ lệ lên đến 75%. Ấu trùng màu trắng, lẫn màu thịt nên khó phát hiện. Sau khi vào ruột người, chúng nhanh chóng di chuyển đến các bộ phận khu trú thành những nang bệnh nguy hiểm. Trong thịt ếch còn có ấu trùng giun đầu gai (Gnathostoma spinigerum). Sau khi vào dạ dày, ấu trùng này sẽ chui qua vách dạ dày và di chuyển khắp cơ thể, chui vào mắt, gan, phổi, ổ bụng...Nếu vào mắt, nó sẽ gây sưng, xuất huyết trong mắt, mù mắt. Nếu chui vào gan, phổi, chúng sẽ gây đau ở vùng gan, viêm phổi, tràn dịch màng phổi, đau bụng, viêm tụy cấp...
Nguy hiểm hơn cho phụ nữ mang thai, vì khi bị nhiễm, ấu trùng sán sẽ gây nhiễm bệnh cho cơ thể mẹ và thai nhi, ấu trùng sán còn có thể xuyên qua bào thai xâm nhập vào thai nhi và có thể gây nguy hại cho thai. Đó chưa kể là hiện nay ếch còn bị ảnh hưởng của thuốc trừ sâu ở ruộng đồng, người đánh bắt ếch dùng mồi tẩm chất gây mùi mạnh, trong đó có mã tiền (một đông dược độc) để dễ đánh bắt ếch...rất nguy hại cho cả mẹ và thai nhi. Do đó, khi ăn cần làm sạch ruột, tách những đường gân chỉ trên đùi ếch.
Ở thịt cóc, độc tố bufotoxine có trong gan, trứng, da và dịch tiết màu trắng đục từ các tuyến dưới da và mang tai (còn gọi là nọc cóc hay nhựa cóc) mới là thành phần gây độc. Chất này rất bền với nhiệt độ nên không bị phá hủy trong quá trình chế biến. Người ta ước tính lượng bufotoxine trong một con cóc có thể gây chết 4-5 người khỏe mạnh. Ngộ độc thường xảy ra khi không loại bỏ hết da, nội tạng, khi làm độc tố dính vào thịt hay ăn cả gan và trứng cóc. Chỉ sau 1-2 giờ sẽ có các triệu chứng ngộ độc: buồn nôn, nôn, đau bụng, chướng bụng, rối loạn nhịp tim, đau đầu, ảo giác, sốc, tổn thương gan, thận và sẽ tử vong nếu không được điều trị kịp thời. tuyệt đối không ăn trứng và gan cóc. Trong quá trình chế biến, tuyệt đối không để da cóc, nội tạng cóc, nhựa cóc lẫn vào cơ cóc hay thịt cóc.
Ăn sống.
Ở Nhật Bản có món ăn sống ếch. Loài ếch được chế biến thành món ăn kỳ lạ này là ếch yêu tinh, loại ếch được sử dụng cho món ăn này thường là ễnh ương. Ễnh ương không phải là loại thực phẩm quý hiếm, khó tìm. Nó được coi là đặc sản tại Namibia và châu Phi. Tại châu Phi, người ta chỉ bỏ đi nội tạng của loại ếch này, phần còn lại chế biến thành những món ăn ngon miệng. Tại Mỹ, người ta cũng rất khoái các món ăn liên quan tới loài ếch này, nhưng món ếch sống thì rất hiếm thấy và có lẽ chỉ mới có ở Nhật Bản. Sinh tố ếch là một món đồ uống tươi sống đến từ đất nước Peru. Những chú ếch sống bị lột da và xay cùng 20 loại nguyên liệu khác nhau trong máy xay sinh tố. Loại đồ uống này được cho là rất bổ dưỡng cho sức khỏe. | 1 | null |
"Kính hiển vi điện tử truyền qua môi trường" (Tiếng Anh: "Environmental transmission electron microscope", viết tắt là "ETEM" hay "E-TEM") là một thể loại kính hiển vi điện tử truyền qua mà buồng mẫu là một môi trường chứa khí có thể điều khiển áp suất nhằm tạo ra các môi trường phản ứng với mẫu vật, do đó cho phép quan sát trực tiếp sự thay đổi cấu trúc, tính chất của mẫu vật rắn dưới các phản ứng với pha khí với độ phân giải cao ở cấp độ nguyên tử. Tên tiếng Việt của thiết bị này thường khiến nhiều người nhầm lẫn là thiết bị chuyên dành cho ứng dụng nghiên cứu môi trường.
Cấu trúc của E-TEM.
Về cấu trúc quang học, E-TEM vẫn hoàn toàn giống với các kính hiển vi điện tử truyền qua khác với tất cả các hệ thống bao gồm nguồn điện tử, các thấu kính từ, các khẩu độ, hệ ghi ảnh cùng với các thiết bị tạo chân không cao cấp. Điểm khác biệt lớn nhất là khu vực buồng mẫu, nơi các khí có thể được dẫn vào buồng. Để duy trì được trạng thái khí (áp suất thấp) và không phá hỏng chân không của các khu vực khác, một hệ thống bơm chân không riêng được nối cho buồng mẫu và hệ thống van điều khiển nhằm hạn chế khi tràn sang các buồng khác. Áp suất khí được đo và phân tử khí được ghi nhận nhờ một thiết bị phân tích khí dư (Residual gas analyzer - RGA) vừa cho phép xác định chính xác áp suất riêng phần của từng loại khí trong buồng với độ chính xác cao. Để chống sự nhiễm bẩn tréo từ các nguồn khí khác nhau, một đầu nhỏ tạo ra môi trường plasma hoạt tính được đưa vào nhằm cho phép tẩy sạch các nguồn nhiễm bẩn. Bên cạnh đó, do môi trường khí thường tạo ra sự hấp thụ điện tử, nên nguồn điện tử thường phải là nguồn phát xạ trường, cho phép tạo chùm điện tử có cường độ cao và độ sáng lớn, cùng với độ đơn sắc cao cho ghi ảnh phân giải cao.
Độ phân giải và ứng dụng.
Môi trường khí bao quanh vật mẫu dẫn đến việc điện tử bị tán xạ và hấp thụ nhiều hơn, do đó độ phân giải của ETEM bị giảm đi so với độ phân giải ở TEM theo công thức:
formula_1
với formula_2 là độ phân giải ở kính hiển vi điện tử truyền qua truyền thống, formula_3 là liều lượng điện tử, còn SNR là tỉ số tín hiệu trên nhiễu, formula_3 là hằng số. Độ phân giải formula_2 ở TEM truyền thống phụ thuộc vào bước sóng của sóng điện tử, formula_6 và quang sai formula_7 của thấu kính từ theo công thức:
formula_8
Do khả năng điều khiển môi trường khí trong buồng mẫu để tạo ra phản ứng hóa học giữa khí và mẫu, E-TEM đặc biệt hữu ích cho các nghiên cứu về hóa học và sinh học bên cạnh việc sử dụng phổ biến cho khoa học vật liệu và vật lý. E-TEM cho phép quan sát các phản ứng hóa học ở cấp độ nguyên tử trong thời gian thực (với độ phân giải thời gian bằng với tốc độ của TEM).
Lịch sử phát triển.
E-TEM bắt đầu được xây dựng và phát triển từ những năm 1950 với những nghiên cứu tiên phong của Hatsujiro Hashimoto và Toshio Naiki (Đại học Công nghệ Kyoto, Nhật Bản) hợp tác với công ty Jeol với những kết quả đầu tiên được công bố vào cuối những năm 1960. Cấu trúc E-TEM như ngày nay được hoàn thiện vào thập niên 1970 với những đóng góp lớn của R.T.K. Baker và P.S. Harris ở AERE (Vương quốc Anh) với việc tạo ra buồng điều khiển môi trường khí với cấu trúc bơm chân không bổ sung. Đột phá về độ phân giải của E-TEM bắt đầu từ năm 1997 với việc nhóm E.D. Boyes và P.L. Gai (DuPont, Hoa Kỳ) đạt độ phân giải 0,23 nm, và làn sóng sử dụng nguồn điện tử phát xạ trường. | 1 | null |
Machilidae là một họ côn trùng nguyên thủy trong bộ Archaeognatha. Họ này có khoảng 250 loài đã được mô tả trên toàn cầu. Các loài côn trùng trong nhóm này không có cánh, thân hình trụ dài, có các vảy nhỏ xếp chồng khích. Chúng thường có màu xám hoặc nâu, đôi khi có các hoa văn phức tạp. Chúng có 3 đuôi ở gần bụng. | 1 | null |
Mậu tần Tống thị (chữ Hán: 懋嬪宋氏; ? - 1730), là một phi tần của Thanh Thế Tông Ung Chính Đế.
Tiểu sử.
Tống thị nguyên là con gái của Chủ sự Kim Trụ (金柱), không rõ Kỳ tịch là gì. Những năm Khang Hi, Tống thị trở thành Cách cách cho Ung Chính Đế, khi đó còn là Hoàng tử. Năm Khang Hi thứ 33 (1694), bà hạ sinh Hoàng trưởng nữ, đến năm thứ 45 (1706), bà sinh thêm Hoàng tam nữ, nhưng cả hai Hoàng nữ đều mất sớm khi chưa đầy 1 tháng tuổi.
Năm Ung Chính nguyên niên (1723), Tống thị được sách phong Mậu tần (懋嬪). Cùng năm, tháng 12, hành lễ sắc phong.
Sách văn viết:
Năm Ung Chính thứ 8 (1730), tháng 9, Mậu tần Tống thị qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Vì khi đó Thái lăng (泰陵) của Ung Chính Đế mới thi công, Phi viên tẩm chưa xây dựng nên kim quan của bà được tạm an ở Điền thôn. Đến năm Càn Long thứ 2 (1736), tháng 12, kim quan của bà và Tề phi được dời đến Phi viên tẩm của Thái lăng. Mộ phần của bà ở vào vị trí thứ nhất hàng bên phải và là tước Tần duy nhất trong Phi viên tẩm. | 1 | null |
Lịch sử thời kỳ đầu của Siberia mang ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn minh Pazyryk mang tính du mục của người Scythia ở bờ tây của dãy núi Ural và người Hung Nô ở bờ đông. Cả hai nền văn minh này đều hưng thịnh trước thời kỷ nguyên Ki tô giáo.
Vùng thảo nguyên Siberia đã chứng kiến một loạt các tộc người du mục kế tiếp nhau, bao gồm người Khiết Đan, người Altai và đế chế Mông Cổ. Trong cuối thời Trung cổ, Phật giáo Tây Tạng lan đến phía nam vùng hồ Baikal. Nằm trong đế chế Nga, Siberia là một tỉnh nông nghiệp và dùng là nơi đi đày cho những người chống đối bất đồng, trong đó nổi tiếng như Avvakum, Dostoevsky, hay những người liên quan đến cuộc nổi dậy tháng chạp (tiếng Nga:Восстание декабристов). Thế kỷ 19 chứng kiến việc xây dựng các tuyến đường sắt xuyên Siberia, công nghiệp hóa và khám phá ra trữ lượng tài nguyên khoáng sản khổng lồ ở Siberia.
Thời tiền sử và thời cổ đại.
Theo sơ đồ phả hệ di truyền, những người đầu tiên sống ở Siberia có từ 45.000 năm TCN; và vùng cư trú lan ra cả Đông và Tây của châu Âu, châu Mỹ.
Theo Vasily Radlov, sớm nhất trong những người di trú đến trung tâm Siberia là người Enisei, tộc người này có ngôn ngữ khác biệt so với những tộc người đến sau như người Uralic, người Turk. Tộc người Ket được xem như là tộc người cuối cùng di trú đến vùng này trong giai đoạn di trú sớm này.
Tại các bờ hồ Siberia đã tìm thấy nhiều bằng chứng còn sót lại của sự suy giảm trong thời kỳ Lacustrine có niên đại từ thời kỳ đồ đá mới.
Vô số nấm mồ Kurgan (gò chôn cất), lò rèn và các hiện vật khảo cổ khác là minh chứng cho một giai đoạn dân số đông đúc. Thực tế một số hiện vật tìm thấy sớm nhất ở Trung Á xuất phát từ Siberia
Theo sau người Enisei là người Uralic Samoyed, những người đến từ khu vực phía bắc dãy Ural.
Một số dấu vết của họ, như của người Selkup vẫn còn sót lại trong khu vực dãy núi Sayan
Họ được công nhận là từng có số lượng người rất lớn sống vào thời kì đồ đồng, và phân bố rải rác khắp khu vực miền nam Siberia. Sắt cũng được họ biết đến, nhưng họ cũng rất xuất sắc trong các chế tác bằng đồng, bạc, vàng
Đồ trang trí và các dụng cụ bằng đồng của họ thường được đánh bóng, chứng tỏ có con mắt nghệ thuật nhất định, và cánh đồng tưới tiêu của họ bao phủ trong một vùng đất màu mỡ rộng lớn.
Nhóm người Proto-Turkic được cho là đã tồn tại ở vùng tây nam và trung tâm Siberia ít nhất là từ thời kỳ đồ đá mới khoảng 4500-4000 TCN.
Ảnh hưởng của người Indo-Iran ở phía tây nam Siberia có thể có từ nền văn hóa Andronovo khoảng 2300-1000 năm TCN.
Khoảng giữa thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 3 TCN, tộc người Scythia thuộc người Indo-Iran phát triển hưng thịnh tại vùng Altai (Văn minh Pazyryk). Họ đã tạo nên một ảnh hưởng lớn lên tất cả các đế quốc thảo nguyên về sau.
Thời Trung Cổ.
Cuộc xâm chiếm của người Mông Cổ.
Người Mông Cổ đã duy trì mối quan hệ lâu dài với những tộc người sống ở các khu rừng Siberia (Taiga), và gọi họ là oin irged ("người rừng"). Nhiều tộc người trong số họ, chẳng hạn như Barga và Uriankhai, có một chút khác biệt so với người Mông Cổ. Những bộ tộc sống quanh hồ Baikal nói tiếng Mông Cổ, những bộ tộc ở phía Tây thì nói tiếng
Turk, Samoyed, Enisei.
Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn đã chinh phục được toàn bộ các bộ tộc người Mông Cổ và người Turk ở vùng Mông Cổ và nam Siberia.
Năm 1207, người con trai lớn nhất của ông là Truật Xích đã khuất phục được những tộc người rừng Siberia, người Uriankhai, người Oirat, người Barga, người Khaka, người Buryat, người Tuvan, người Khori-Tumed, and người Kyrgyz; và tổ chức những người Siberia thành 3 Tumen (mỗi Tumen bằng 10.000 người). Thành Cát Tư Hãn đã trao người Telengit, người Tiele sống dọc sông Irtysh cho người bạn cũ của ông, Qorchi.
Trong khi người Barga, Tumed, Buriat, Khori, Keshmiti, và Bashkir được tổ chức theo đơn vị hàng ngàn thì người Telengit, Tolo, Oirat và Yenisei Kirghiz được tổ chức theo đơn vị hàng vạn. Thành Cát Tư Hãn đã ổn định nhóm thợ thủ công và nông dân Trung Quốc tại Kem-kemchik trong giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến Mông-Kim. Các Đại Hãn chuộng các sản phẩm được triều cống đến như Cắt Bắc Cực, lông thú, phụ nữ và ngựa Kyrgyz.
Vùng phía tây Siberia chịu sự kiểm soát của Kim Trướng hãn quốc. Hậu duệ của Orda Khan, con trai cả của Jochi, đã trực tiếp cai trị khu vực. Tại các vùng đầm lầy miền tây Siberia, các trạm sử dụng chó kéo xe đã được thiết lập để tạo thuận luận cho việc thu cống vật.
Năm 1270, Hốt Tất Liệt đã sai một viên quan người Trung Quốc và 1 nhóm những quan viên khác để cai quản khu vực của người Kyrgyz và Tuvan.
Kaidu cháu của Ogedei, chiếm vùng trung tâm Siberia vào năm 1275. Quân đội nhà Nguyên dưới sự thống lĩnh của tướng Kipchak người Tutugh đã tái chiếm lại vùng Kyrgyz năm 1293. Từ đó về sau, Triều đại nhà Nguyên kiểm soát phần lớn trung tâm và đông Siberia.
Hãn quốc Sibir.
Với sự sụp đổ của Kim Trướng hãn quốc cuối thế kỷ thứ 14, Hãn quốc Sibir đã được thành lập tại trung tâm vùng Tyumen. Triều đại không phải dòng dõi con cháu Thành Cát Tư Hãn (Borjigin Taybughid) này đã cạnh tranh kiểm soát với con cháu của Shiban, con trai của Jochi.
Vào đầu thế kỷ 16, những người Tatar đến từ Turkestan đã chinh phục các bộ lạc liên kết lỏng lẻo sống ở những vùng đất thấp ở phía đông của dãy núi Ural. Những người am tường về nông nghiệp, thợ thuộc da, thương nhân, giáo sĩ Hồi giáo được đem đến từ Turkestan, và công quốc nhỏ đã xuất hiện tại sông Irtysh và sông Ob. Chúng đã được thống nhất bởi Yadegar Mokhammad, khả hãn cuối cùng của Hãn quốc Kazan. Những xung đột đã xảy ra với người Nga Moscow, quốc gia mà sau đó đã thôn tính những người ở dãy Ural. Sứ thần của khả hãn Yadegar đến Moscow vào năm 1555 và phải chịu nộp cống phẩm hàng năm là 1000 bộ da chồn zibelin.
Thám hiểm của người Nga và sự xâm chiếm thuộc địa.
Trong đầu thế kỷ 17 sự di chuyển về phía Đông của người Nga bị chậm lại bởi các vấn đề nội bộ của họ trong suốt Thời Kỳ Rối Ren. Tuy nhiên, rất nhanh chóng việc thăm dò và xâm chiếm lãnh thổ Siberia rộng lớn đã được nối lại, chủ yếu là do người Cossack săn bắn để lấy lông thú và ngà voi giá trị. Trong khi người Cossack đến từ phias Nam Ural, một làn sóng người Nga đến theo đường Bắc Băng Dương. Đây là những người Pomor đến từ phía Bắc Nga, những người đã buôn bán lông thú với người Mangazeya ở phía Bắc của tây Siberia khá lâu trước đó. Năm 1607 khu định cư Turukhansk được thành lập ở phía Bắc sông Yenisey, gần cửa vào Tunguska Hạ, và năm 1619 Yeniseysky ostrog được thành lập trên sự trung-Yenisey tại cửa vào Tunguska Thượng. | 1 | null |
Thí nghiệm xuyên tĩnh hay viết tắt là CPT là một phương pháp được dùng để xác định các tính chất địa kỹ thuật của đất và phân tầng đất bở rời. Nó được phát triển đầu tiên vào thập niên 1950 tại một phòng thí nghiệm Cơ học đất Hà Lan ở Delft để khảo sát các loại đất yếu. Ngày nay, CPT là một trong những phương pháp khảo sát đất được sử dụng phổ biến và được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu.
Các tiêu chuẩn và sử dụng.
CPT trong các ứng dụng địa kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa năm 1986 theo tiêu chuẩn ASTM D 3441 (ASTM, 2004). ISSMGE cung cấp các tiêu chuẩn quốc tế về CPT và CPTU. Sau đó các tiêu chuẩn ASTM đã chỉ định sử dụng CPT cho việc khảo sát đặc điểm hiện trường trong nhiều môi trường khác nhau và các hoạt động quan trắc nước ngầm. Trong khảo sát tính chất địa kỹ thuật, CPT phổ biến hơn so với SPT. Tính chính xác gia tăng, thời gian thực hiện nhanh, cho kết quả mặt cắt liên tục hơn và giảm chi phí thí nghiệm so với các phương pháp thí nghiệm đất khác. | 1 | null |
Hai lần Huân chương cờ đỏ, Hạm đội Baltic (tiếng Nga: "Балтийский флот"), là một đơn vị của Hải quân Nga hoạt động tại các vùng biển Baltic chịu trách nhiệm phòng thủ cho nước Nga ở phía Tây.
Hạm đội có đại bản doanh tại Kaliningrad. Căn cứ chính và các trung tâm điều hành đóng trong biển Baltic. Được thành lập ngày 18 tháng 5 năm 1703, Hạm đội là sự hình thành lâu đời nhất của Hải quân Nga.
Tư lệnh hạm đội hiện tại là Phó Đô đốc Aleksandr Nosatov. | 1 | null |
Tiểu Hạm đội Caspi (tiếng Nga: "Каспийская флотилия", hay Đội tàu Caspi là một đơn vị của Hải quân Nga hoạt động tại các vùng biển Caspi chịu trách nhiệm phòng thủ cho nước Nga tại đây.
Hạm đội có đại bản doanh tại Astrakhan. Căn cứ chính và các trung tâm điều hành đóng trong biển Caspian. Được thành lập năm 1722, là đội tàu hình thành lâu đời nhất của Hải quân Nga.
Thành lập.
Chi hạm đội Caspi (Caspian Flotilla - CF) được tạo ra vào tháng 11 năm 1722 tại Astrakhan theo lệnh của Peter Đại đế. Được lãnh đạo bởi đô đốc Fyodor Apraksin, nó đã tham gia vào chiến dịch Ba Tư của Peter (1722–1723) và Chiến tranh Nga-Ba Tư (1804–1813), hỗ trợ quân đội Nga đánh chiếm Derbent và Baku trong cuộc Viễn chinh Ba Tư năm 1796. Kết quả của Hiệp ước Gulistan năm 1813, CF vẫn là đội quân duy nhất ở Biển Caspi. Baku trở thành căn cứ chính của nó vào năm 1867. | 1 | null |
Adidas Brazuca là quả bóng dùng trong các trận thi đấu chính thức của 2014 FIFA World Cup tại Brasil. Nó được công ty Adidas chế tác. Adidas là một đối tác của FIFA và là nhà cung cấp bóng chính thức cho các mùa World Cup từ năm 1970.
Tên gọi.
Tên của quả bóng được công bố vào chủ nhật ngày 2 tháng 9 năm 2012. Tên gọi này là kết quả từ một cuộc bầu chọn công khai do ban tổ chức địa phương và Adidas tổ chức, với hơn một triệu người hâm mộ bóng đá Brasil tham gia bỏ phiếu. Tên "Brazuca" đã được lựa chọn với tỉ lệ 77,8% số phiếu. Hai lựa chọn để bỏ phiếu khác đã được đưa ra: "Bossa Nova" (14,6% phiếu) và "Carnavalesca" (7,6% phiếu).
Theo FIFA, "thuật ngữ không chính thức 'brazuca' được người Brasil sử dụng để mô tả niềm tự hào quốc gia trong cách sống của người Brasil", và "phản ánh cách tiếp cận của họ với bóng đá, nó tượng trưng cho cảm xúc, niềm tự hào và thiện chí cho tất cả". Thuật ngữ này cũng được sử dụng như tiếng lóng để chỉ "Brasil" và trở nên phổ biến khắp nơi do bởi cộng đồng người Brasil ở hải ngoại. | 1 | null |
Harpsichord (tiếng Pháp: clavecin) là một nhạc cụ bộ dây phím cổ, chơi bằng cách nhấn các phím trên một bàn phím. Khi một phím được nhấn, một cái búa nhỏ sẽ đập vào dây tương ứng và phát ra âm thanh.
"Harpsichord" là nhạc cụ chuẩn cho hàng loạt các loại nhạc cụ bộ dây khác, như đàn virginals, muselar, và spinet.
Harpsichord đã được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ Phục hưng và thời kỳ âm nhạc baroque. Trong thời gian cuối thế kỷ 18 với sự phổ biến của đàn piano, harpsichord dần dần biến mất khỏi sân khấu âm nhạc.
Trong thế kỷ 20 harpsichord đã hồi sinh. Nó được sử dụng trong các đại nhạc hội âm nhạc lớn đặc thù chỉ trình bày các tác phẩm cổ điển với các nhạc cụ cổ điển. Các nhạc sĩ hiện đại cũng dùng harpsichord để chơi các tác phẩm đương đại mới.
Cơ chế.
Mỗi đàn harpsichord khác nhau về kích thước và hình dạng, nhưng tất cả đều có cùng một thiết kế chức năng cơ bản. Người chơi đàn nhấn một phím được đặt trên một trục ở giữa chiều dài của nó. Đầu kia của phím nâng một thanh gỗ chứa một miếng gảy nhỏ (có hình nêm, trước làm từ lông thú, hiện nay được làm bằng nhựa). Miếng gỗ nhỏ này đập vào sợi dây tạo âm thanh.
Khi người chơi nhả phím, nửa xa của phím trở về trạng thái nghỉ, và thanh gỗ rơi trở lại. Các miếng gảy được đặt trên một tấm đệm có thể xoay ngược qua khỏi dây đàn, chạy qua dây mà không làm nó kêu dư hơn mức cần thiết. Khi phím đã đạt đến trạng thái nghỉ, một cái van điều tiết ở trên đỉnh thanh gỗ sẽ dừng không cho dây đàn rung nữa.
Dây đàn, lên dây đàn, và hộp đàn.
Mỗi dây được quấn quanh một "đinh chỉnh", thường nằm ở đầu dây hướng về người chơi đàn. Khi xoay bằng cờ lê hoặc búa chuyên dụng, pin điều chỉnh điều chỉnh sức căng của dây để dây phát ra đúng nốt nhạc. Các đinh chỉnh này được gom lại chặt trong các lỗ khoan hoặc trên một tấm ván gỗ cứng hình chữ nhật.
Dựa vào đinh chỉnh, dây được kéo qua một cạnh gỗ sắc nét được làm bằng gỗ cứng và thường được gắn liền với tấm gỗ giữ tất cả các đinh chỉnh. Phần của dây ở ngoài cạnh gỗ sẽ là phần rung, được người chơi đập vào và tạo ra âm thanh.
Ở đầu kia của dây, dây đi qua một cạnh gỗ sắc nét làm bằng gỗ cứng. Tương tự như ở đầu dây kia, vị trí nằm ngang của dây dọc theo cạnh gỗ này được xác định bằng một đinh kim loại thẳng đứng chèn vào miếng gỗ để giữ cố định dây.
Cạnh gỗ này nằm trên hộp đàn-một miếng gỗ mỏng thường được làm bằng gỗ vân sam, linh sam hoặc trong một số harpsichords của Ý- làm từ gỗ bách. Các hộp đàn biến đổi một cách hiệu quả sự rung động của dây thành dao động trong không khí với cường độ lớn hơn. Nếu không có hộp đàn, các dây sẽ chỉ tạo ra một âm thanh rất yếu ớt.
Một dây được gắn vào đầu kia bằng cách quấn vài vòng quanh đinh và siết chặt để giữ nó cố định.
Tổ hợp dây đàn đa âm.
Đa số harpsichord có đúng một dây cho mỗi nốt nhạc, các harpsichords phức tạp hơn có thể có nhiều dây. Khả năng này tạo ra hai lợi thế: thay đổi âm lượng và thay đổi âm sắc. Âm lượng tăng lên khi người chơi thiết lập cơ chế (xem hình dưới) để khi gõ 1 phím thì làm đàn kêu nhiều dây cùng lúc. Âm sắc có thể thay đổi theo hai cách. Đầu tiên, các nhóm dây được kêu cùng lúc có thể được thiết kế để có âm sắc khác nhau, thường là gom cả cụm dây gắn gần nhau, tạo cộng hưởng cao hơn và tạo ra một chất lượng âm thanh sâu hơn; đàn harpsichord cho phép người chơi chọn một hợp âm ưa thích để làm chuẩn cho nốt đó. Thứ hai, dùng búa đập hai dây cùng một lúc thay đổi không chỉ âm lượng mà còn cả âm sắc.
Ví dụ, khi hai dây được điều chỉnh để cùng rung đồng thời, âm thanh không chỉ to hơn mà còn phong phú hơn và phức tạp hơn. Âm thanh trở nên rất đa dạng khi hai nốt cùng kêu cách nhau một quãng tám.Tai người không đủ tách biệt rõ ràng hai nốt mà chỉ nghe thấy một nốt nhạc: âm thanh của nốt cao được pha trộn với nốt thấp hơn, và tai nghe thấy nốt thấp với độ phong phú về âm sắc nhờ có nốt cao phát ra đồng thời.
Khi mô tả một cây đàn harpsichord, thường người ta mô tả các cụm dây của nó. Các cụm dây tại cao độ 8 foot tạo âm thanh theo cao độ chuẩn, còn cụm dây ở cao độ 4 foot tạo âm thanh cao hơn một quãng tám. Thỉnh thoảng có harpsichord với cao độ 16 foot (thấp hơn cao độ 8 foot một quãng tám) hoặc 2 foot (cao hơn cao độ chuẩn hai quãng tám, rất hiếm).
Khi có nhiều dây, người chơi có thể kiểm soát được tổ hợp dây nào sẽ được dùng. Điều này thường được thực hiện bằng cách chỉnh các giắc cắm cho mỗi tổ hợp, và một cơ chế để "tắt" tổ hợp, thường bằng cách di chuyển một cần gạt ngang, để cho búa sẽ bỏ qua một số dây. Giai đoạn đầu người dùng phải dùng tay để di chuyển cần gạt, nhưng với các harpsichord sản xuất về sau này, các nghệ nhân đã chế tạo ra các đòn bẩy, đòn bẩy dùng đầu gối và bàn đạp chân để việc chuyển đổi này dễ dàng hơn.
Harpsichords với nhiều bàn phím cho phép người chơi linh hoạt hơn trong việc lựa chọn tổ hợp dây đàn, vì mỗi lựa chọn có thể tạo các tổ hợp âm thanh khác nhau. Ngoài ra, các harpsichord như vậy thường có một cơ chế gom các lựa chọn gần nhau, do đó người chơi có thể chọn cùng lúc hai bộ dây tại một thời điểm. Hệ thống tổ hợp kép linh hoạt nhất do người Pháp sáng chế (French shove coupler), trong đó cần gạt thấp hơn có thể kéo về phía sau hoặc phía trước. Ở vị trí phía sau, "quá đấm" gắn liền với bề mặt trên của cần gật thấp chạm vào bề mặt của các phím cần gạt cao. Tùy thuộc vào bàn phím và vị trí ghép cần gạt, người chơi có thể chọn bất kỳ bộ giắc cắm có nhãn trong hình 4 là A, B, C, hoặc cả ba cùng một lúc.
Hệ thống thanh gỗ chân chó của người Anh (cũng được sử dụng trong đàn baroque Flanders) không yêu cầu ghép cặp. Các miếng gỗ A trong hình 5 có hình "chân chó" cho phép một trong hai bàn phím sử dụng A. Nếu người chơi muốn chơi 8 foot trên từ cần gạt cao mà không phải cần gạt thấp hơn, một cần gạt dừng sẽ tách các miếng gỗ A và kết hợp một cột các miếng gỗ (tiếng Anh: "lute stop", không được hiển thị trong hình)
Trong lịch sử, việc sử dụng các cần gạt trong đàn harpsichord không phải bắt đầu với việc chọn dây phát ra âm thanh, mà để chuyển nhạc thuận tiện hơn.
Hộp đàn.
Hộp đàn harpsichord chứa tất cả các thành phần quan trọng nhất: hộp cộng hưởng, đinh giữ dây đàn, bàn phím, và hệ thống các miếng gỗ. Nó thường có một đế vững chắc, và có một hệ thống giữ cố định nội bộ để tránh co giãn khi phải chịu lực căng của các dây đàn. Hộp đàn khác nhau nhiều về khối lượng cũng như độ bền chắc: Đàn harpsichord Ý thường mỏng nhẹ, đàn Flemish thường nặng và vững chắc hơn.
Hộp đàn cũng trang trí cho đàn harpsichord và bảo vệ nhạc cụ này. Một đàn harpsichord lớn theo một nghĩa nào đó là nội thất trong nhà, vì nó tự đứng trên bốn chân và có thể được thời trang hóa theo cách chúng ta đối xử với tủ quần áo hay tủ trang điểm. Các đàn harpsichord Ý lúc ban đầu lại nhẹ đến nỗi nó được đối xử như với đàn violin: giữ đàn trong một hộp cứng bảo vệ, khi chơi thì lấy ra đặt lên bàn, chơi xong lại cất đi. Những chiếc bàn dùng để chơi đàn thường khá cao - cho đến cuối thế kỷ thứ 18 người chơi đàn thường ở tư thế đứng. Cuối cùng, harpsichord được chế tác với chỉ một hộp đàn, mặc dù quá trình trung gian còn tồn tại: khung "trong ngoài" được tạo ra chỉ với lý do hình thức với hai hộp đàn lồng vào nhau theo kiểu đàn cổ. Thậm chí ngay cả sau khi harpsichord đã trở thành đàn có hộp riêng, nó vẫn được đặt trên các chân đàn, và một số đàn harpsichord hiện đại có chân rời để dễ vận chuyển.
Nhiều đàn harpsichord có nắp đàn có thể kéo lên, có một tấm che bàn phím và có một khay đựng tập nhạc.
Harpsichord được trang trí theo nhiều cách khác nhau: với một lớp sơn đơn giản, giấy màu theo mẫu, bọc da hoặc nhung, gốm, hoặc tranh vẽ chi tiết và cầu kỳ.
Các biến thể.
Harpsichord.
Trong ngôn ngữ hiện đại "harpsichord" có thể là bất kỳ thành viên trong nhóm nhạc cụ liên quan. Nhạc cụ loại này thường là một piano lớn với một hộp đàn hình tam giác chứa các dây nốt trầm (dài) ở bên trái và dây nốt cao (ngắn) ở bên phải. Đặc trưng của đàn harpsichord dài hơn một cây đàn piano hiện đại, với một kiến trúc cong sắc nét hơn.
Virginals.
Virginals là một dạng hình chữ nhật nhỏ hơn và đơn giản hơn của đàn harpsichord. Mỗi nốt nhạc chỉ có một dây, các dây chạy song song với bàn phím theo chiều dài của hộp đàn.
Spinet.
Spinet là một harpsichord với các dây đặt ở một góc nghiêng (thường là khoảng 30 độ) với bàn phím. Các dây quá gần nhau nên không có chỗ cho các thanh gỗ đặt giữa chúng. Thay vào đó, các dây được sắp xếp theo cặp, và các thanh gỗ được đặt vào những khoảng trống lớn giữa các cặp. Hai thanh gỗ cắm trong mỗi khoảng trống theo hướng ngược nhau, và mỗi thanh gỗ đánh vào một dây cạnh khoảng trống.
Clavicytherium.
Clavicytherium là một harpsichord với bộ tạo âm và dây gắn theo chiều đứng đối mặt với người chơi, với mục đích tiết kiệm không gian (giống như đàn piano đứng). Trong đàn clavicytherium, các thanh gỗ di chuyển theo chiều ngang mà không có sự hỗ trợ của lực hấp dẫn, do đó hoạt động của đàn clavicytherium phức tạp hơn so với các đàn harpsichord khác.
Ottavino.
Ottavini là spinet nhỏ hoặc virginals có cao độ cao hơn quy chuẩn một quãng tám. Harpsichords ở quãng tám chuẩn khá phổ biến ở những năm đầu thời kỳ Phục hưng và ít phổ biến hơn sau đó. Tuy nhiên, ottavino vẫn rất phổ biến như một nhạc cụ ở Ý cho đến thế kỷ 19. Samuel Pepys, người ghi lịch sử âm nhạc đã đề cập đến nhạc cụ này nhiều lần. Đây không phải là nhạc cụ gõ mà chúng ta gọi là tam giác (triangle) ngày hôm nay. Nó là một cái tên cho spinet có quãng tám chuẩn với hình dạng tam giác. Tại một số nước, ottavino thường kết hợp với một virginal bằng cách bọc trong một hộp nhỏ dưới thùng đàn của nhạc cụ lớn hơn virginal. Các ottavino có thể được gỡ bỏ và được đặt trên virginal, giống như một nhạc cụ đôi. Những dụng cụ như vậy gọi là đàn mẹ con hoặc virginal kép.
Lịch sử.
Harpsichord hầu hết được phát minh vào cuối thời kỳ Trung cổ. Vào thế kỷ 16, các nhà sản xuất harpsichord ở Ý đã nới dây đàn chùng hơn làm cho đàn trở nên gọn nhẹ. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 16, gia đình Ruckers đã thử nghiệm một cách chế tạo đàn khác tại Flanders (nước Bỉ ngày nay). Harpsichords của Ruckers sử dụng một hộp đàn nặng hơn và tạo ra một giai điệu mạnh và rất đặc thù. Họ cũng chế tạo ra các harpsichord đầu tiên với hai bàn phím, chuyên dụng cho việc chuyển nhịp nhạc.
Các nhạc cụ chế tạo tại Bỉ đã trở thành mô hình sản xuất harpsichord trong thế kỷ 18 ở các quốc gia khác. Ở Pháp, bàn phím kép được sửa chữa để có thể điều khiển các nhóm nốt nhạc khác nhau, làm cho nhạc cụ này linh hoạt hơn. Harpsichord trong thời kỳ đỉnh cao của Pháp được các nhà sản xuất như Blanchet và Pascal Taskin chế tác là một trong các harpsichord được ưa chuộng nhất. Chúng thường được sử dụng như mô hình để xây dựng các nhạc cụ hiện đại. Ở Anh, các công ty Kirkman và Shudi sản xuất những harpsichord rất phức tạp và tinh vi, với khả năng tạo âm lượng lớn và rõ ràng. Các nhà sản xuất đàn tại Đức mở rộng khoảng âm thanh của các harpsichord bằng cách thêm các nhóm nốt mới; các nhạc cụ này được coi là các mô hình cho các loại đàn hiện đại.
Trong cuối thế kỷ 18 harpsichord được piano thay thế và gần như biến mất trong hầu hết thế kỷ 19: nó chỉ được sử dụng trong opera có các đoạn hát ngắn, nhưng piano cũng vẫn có thể thay thế harpsichord ngay trong các đoạn opera đó. Trong thế kỷ 20 việc phục hưng harpsichord bắt đầu với việc sản xuất nó với công nghệ dùng dây nặng và khung kim loại của piano. Bắt đầu từ giữa thế kỷ 20, ý tưởng sản xuất harpsichord đã thay đổi lớn khi các nghệ nhân như Frank Hubbard, William Dowd và Martin Skowroneck tìm cách thiết lập lại âm nhạc truyền thống của thời kỳ Baroque. Harpsichord hiện đại mô phỏng giai đoạn lịch sử này hiện đang thống trị thị trường.
Nhạc cho harpsichord.
Các giai đoạn lịch sử.
Số lượng lớn nhất các bản nhạc viết cho harpsichord được viết trong thời kỳ đầu tiên của nó, giai đoạn âm nhạc Phục Hưng và âm nhạc baroque.
Bản nhạc đầu tiên viết cho độc tấu harpsichord được xuất bản vào đầu thế kỷ 16. Các nhà soạn nhạc cho harpsichord độc tấu rất đông đảo trong toàn bộ giai đoạn âm nhạc baroque tại các nước châu Âu bao gồm Ý, Đức, Anh và Pháp. Các bản độc tấu cho harpsichord bao gồm các bản suite vũ hội, nhạc fantasia, và phức điệu. Trong số các nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất đã viết nhạc cho đàn harpsichord là những thành viên của trường học virginal nước Anh vào cuối thời kỳ Phục hưng, đặc biệt là William Byrd (khoảng 1540-1623). Tại Pháp, một số lượng lớn các tác phẩm độc tấu rất đặc trưng được François Couperin (1668-1733) biên dịch thành bốn cuốn sách. Jean-Philippe Rameau (1683-1764) đã sáng tác giao hưởng "Pièces de clavecin en concerts" (1741) cho violin, viola da gamba và harpsichord. Đây là sự trùng hợp rất giống nhau trong ý tưởng dùng bộ ba nhạc cụ cổ điển để trình bày giao hưởng.
Domenico Scarlatti (1685-1757) bắt đầu sự nghiệp của mình ở Ý nhưng đã viết hầu hết các bản nhạc harpsichord độc tấu của mình ở Tây Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là loạt 555 sonata cho harpsichord. Có lẽ nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất đã viết nhạc cho đàn harpsichord là J.S.Bach (1685-1750) với các bản nhạc độc tấu (ví dụ, Well-Tempered Clavier và biến tấu Goldberg), tiếp tục được trình diễn rất rộng rãi và thường xuyên trên cây đàn piano. Bach cũng là người đi tiên phong trong việc sáng tác những concerto cho harpsichord cả trong các tác phẩm chuyên cho đàn này và trong phần viết riêng cho harpsichord của tác phẩm concerto Brandenburg số 5 của ông.
Hai trong số những nhà soạn nhạc nổi tiếng của thời kỳ âm nhạc cổ điển, Joseph Haydn (1732–1809) và Wolfgang Amadeus Mozart (1756–1791) đều đã viết nhạc cho harpsichord. Cả hai đều viết nhạc cho harpsichord trong giai đoạn đầu tiên của sự nghiệp và sau đó từ bỏ để chuyển qua viết nhạc cho piano.
Ngoài các bản nhạc độc tấu, đàn harpsichord còn được dùng rộng rãi để đánh bè đệm theo phong cách basso continuo. Tính năng này được duy trì trong các vở opera tới tận thế kỷ 19.
Nhạc đương đại viết cho harpsichord.
Trong thế kỷ 19, cây đàn piano gần như hoàn toàn thay thế harpsichord. Trong thế kỷ 20, các nhà soạn nhạc, trong quá trình tìm kiếm sự khác biệt, đã quay trở lại dùng nhạc cụ cổ này. Dưới ảnh hưởng của Arnold Dolmetsch, các nhạc công chơi harpsichord Violet Gordon-Woodhouse (1872-1951) và Wanda Landowska (1879-1959), đã là những người đi đầu trong phong trào phục hưng của harpsichord.
Các concerto viết cho harpsichord được hàng loạt các nhà soạn nhạc Francis Poulenc (the "Concert champêtre", (1927–28), Manuel de Falla, Walter Leigh, Bertold Hummel, Henryk Mikołaj Górecki, Michael Nyman, Philip Glass, and Roberto Carnevale sáng tác. Bohuslav Martinů đã viết cả một bản concerto và một bản sonata cho nhạc cụ này, và Elliott Carter đã viết "Double Concerto" cho cả harpsichord, piano và hai giàn nhạc giao hưởng.
Trong lĩnh vực nhạc thính phòng, György Ligeti đã viết một số tác phẩm độc tấu cho harpsichord, (bao gồm "Continuum"), và tác phẩm của Henri Dutilleux "Les Citations" (1991) được viết cho đàn harpsichord, kèn oboe, contrabass và bộ gõ. Tác phẩm của Elliott Carter "Sonata cho sáo, kèn oboe, cello và Harpsichord" (1952) khám phá các âm sắc khác nhau của đàn harpsichord hiện đại.
Josef Tal đã viết "Concerto cho harpsichord & nhạc điện tử" (1964) and "Nhạc thính phòng" (1982) for s-recorder, marimba & harpsichord. Cả hai tác phẩm của Dmitri Shostakovich ("Hamlet", 1964) và của Alfred Schnittke ("Symphony No.8", 1994) đều sử dụng harpsichord như là một phần của dàn nhạc giao hưởng. John Cage và Lejaren Hiller viết "HPSCHD" (1969) cho harpsichord và âm thanh máy tính. John Zorn cũng đã sử dụng harpsichord trong các tác phẩm như "Rituals" (1998), "Contes de Fées" (1999), và "La Machine de l'Etre" (2000).
Trong phần Lời tựa của tuyển chọn các tác phẩm cho piano "Mikrokosmos" của mình, Béla Bartók giới thiệu 10 tác phẩm thích hợp cho đàn harpsichord.
Benjamin Britten viết trường đoạn cho harpsichord trong vở opera "A Midsummer Night's Dream" và vở cantata "Phaedra" của ông.
Nghệ sĩ chơi đàn harpsichord Hendrik Bouman đã tổng hợp các tác phẩm theo phong cách thế kỷ 17 và 18, bao gồm các tác phẩm cho harpsichord độc tấu, concerto cho harpsichord, và các tác phẩm khác liên quan đến harpsichord. Các nhà soạn nhạc đương đại như Grant Colburn, và Fernando De Luca chuyên viết các tác phẩm cho harpsichord theo phong cách cổ điển. Những nghệ sĩ nổi tiếng chơi harpsichord có Oscar Milani và Mario Raskin. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.