text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Café sáng (tên đầy đủ là Chapter 1: Café sáng) là album phòng thu đầu tay của nam ca sĩ người Việt Nam Hà Anh Tuấn, phát hành ngày 24 tháng 12 năm 2007 bởi Hãng phim Phương Nam.
Album nhận được nhiều phản hồi tích cực từ những nhà báo tại Việt Nam, cho rằng đây là bước tiến của Hà Anh Tuấn sau chiến thằng tại "Sao Mai điểm hẹn" 2006 và sau việc phát hành album "Ngày hát đôi" với ca sĩ Phương Linh.
Hoàn cảnh ra đời.
Sau chiến thắng của mình tại cuộc thi Sao Mai điểm hẹn 2006 với danh hiệu "Ca sĩ triển vọng",
Hà Anh Tuấn tìm đến nhạc sĩ Võ Thiên Thanh vì anh "mê" các ca khúc của vị nhạc sĩ này từ trước khi anh bước vào ngành nghệ thuật và cho rằng âm nhạc của Võ Thiện Thanh "tràn ngập sự văn minh":
Hà Anh Tuấn có chia sẻ rằng dù bận rộn với công việc nhưng anh vẫn có hai thói quen vào những ngày nghỉ cuối tuần là uống café và chạy bộ.
Sáng tác.
Mở đầu album là ca khúc "Buổi sáng ở Ciao Café", trình diễn cùng rapper Hà Okio. Ca khúc đề cập đến một trong những chuỗi café và nhà hàng Ciao tại Việt Nam.
Hà Anh Tuấn chia sẻ rằng "Vòng xoay" là ca khúc yêu thích nhất của anh và mô tả bài hát:
Nhạc sĩ Võ Thiện Thanh thì cho rằng tiết tấu của bài hát quá nhanh nhưng "yêu cầu vẫn phải hát rõ lời."
Ca khúc mà Võ Thiện Thanh và cả Hà Anh Tuấn thích nhất trong album là "Tôi không thấy anh ấy sáng nay."
Võ Thiện Thanh giải thích về nguồn gốc của ca khúc:
"Sáng nào ngồi café thường thấy một gương mặt trong góc ấy, nhưng rồi hôm nay không thấy người ấy. Những tưởng cuộc sống đô thị bận rộn khiến người ta chẳng có thời gian để ý đến nhau, nhưng thắc mắc này cũng là một cách người đô thị quan tâm đến người khác: có thể anh ta đã rời bỏ cuộc sống ồn ào này để về nơi tĩnh lặng hơn chăng..."
Sau "Café sáng" thì Hà Anh Tuấn và Võ Thiện Thanh đã không có cơ hội tái hợp, vì vậy mà Hà Anh Tuấn vẫn thường ngồi quán cà phê quen thuộc của anh trên đường Tú Xương, Thành phố Hồ Chí Minh, nghĩ về Võ Thiện Thanh và lẩm nhẩm bài "Tôi không thấy anh ấy sáng nay."
"Tôi đang sống" sau đó đã được tiếp tục xuất hiện trong đĩa đơn/EP của Hà Anh Tuấn, "Chuyện của mùa đông" vào năm 2014. Những ca khúc trong album, bao gồm "Tôi đang sống", được anh mô tả là "một hành trình yêu đương", "có những mất mát, buồn thương nhưng rồi 'người trong cuộc' vẫn giữ cho mình một niềm tin về tình yêu, về cuộc sống."
Thiết kế.
Phần thiết kế của "Café Sáng" được đảm nhiệm bởi Cao Trung Hiếu. Album kèm theo mẫu báo cũ mang tựa album mà Hà Anh Tuấn cầm trong ảnh bìa, cùng với lời nhạc và những bài báo cũ về anh. Ý tưởng làm báo này xuất phát từ chính Hà Anh Tuấn. Nói về kiểu thiết kế của tờ báo, Hà Anh Tuấn có nói châm biếm: "Tờ báo cũ là tờ báo có giá trị về mặt thời gian, người thiết kế bảo màu này đẹp thì cứ tin như vậy đi."
Phần thiết kế của album thu hút nhiều bài viết và nhận được nhận xét rất tích cực từ những nhà báo. Ký danh PVH của báo "Tiền phong" cho rằng phần thiết kế "khá lạ mắt."
Tiếp nhận.
Mai Thương trong một bài viết quảng cáo về anh và hãng điện thoại Samsung đã nhắc đến album và cho rằng album "là tiếng hát từ cuộc sống thường nhật" của anh vì sở thích "nhâm nhi những giọt đắng."
"Buổi sáng ở Ciao Café".
Ca khúc nhận được rất nhiều khen ngợi từ nhà báo Nghiêm Vũ từ "Tuần Việt Nam" của báo Vietnamnet, anh gọi bài hát là "chuẩn R&B, tròn vẹn từ hòa âm, ca từ", khen ngợi Hà Anh Tuấn và Hà Okio "kín đáo tung hứng, tiếp lời nhau" và phần trình bày của cả hai.
Theo phóng viên PVH của "Tiền Phong", khán giả băn khoăn rằng liệu "Buổi sáng ở Ciao Café" liệu có phải là một bài quảng cáo. Ký danh này cho rằng "người trong cuộc" đã đem ra ca khúc và "Hotel California" của ban nhạc rock người Mỹ Eagles so sánh và cho rằng bài hát của Eagles "bất hủ mang tính cá nhân nhiều hơn là quảng cáo khách sạn." Tuy nhiên, địa danh "khách sạn California" trong ca khúc là hoàn toàn bịa đặt.
Danh sách ca khúc.
Tất cả các khúc được viết bởi nhạc sĩ Võ Thiện Thanh, trừ "Với em" và "Xinh xinh" được viết bởi nhạc sĩ Hồ Hoài Anh. | 1 | null |
Cá trích vảy xanh (Danh pháp khoa học: Herklotsichthys) là một chi cá trích trong họ Clupeidae được tìm thấy phần lớn ở Vùng Đông Nam Á và Úc trong đó cũng có một loài phân bố tại Vịnh Ba Tư, Biển Đỏ và Vùng phía Tây của Ấn Độ Dương. Hiện hành chúng có 12 loài. | 1 | null |
Cá bẹ (Danh pháp khoa học: "Ilisha") là một chi cá trong họ Pristigasteridae. Chi này có 16 loài. Nó có nhiều điểm tương đồng với "Pellona". Nhiều loài trong chi cá bẹ là loài có giá trị kinh tế.
Các loài.
Hiện hành thì đã có 16 loài đã được đăng ký thuộc về chi này | 1 | null |
Cá trích cơm (Danh pháp khoa học: Sprattus) là một chi trong các loài cá béo cỡ nhỏ thuộc họ Clupeidae (Cá trích). Có 5 loài trong chi này. Các trích cơm hay cá nhỏ còn là tên gọi chung áp dụng cho một nhóm các cá thức ăn gia súc thuộc chi Sprattus trong gia đình Clupeidae. Thuật ngữ này cũng áp dụng cho một số cá thức ăn gia súc loại cá nhỏ ở Âu châu như nhỏ khác.
Đặc điểm.
Giống như hầu hết các loài cá thức ăn gia súc, cá trích cơm được đánh giá cao chúng di chuyển liên tục trong các khối cầu lớn. Chúng cũng được ghi nhận có giá trị dinh dưỡng khi họ chứa hàm lượng cao chất béo không bão hòa có lợi cho sức khỏe. Cá trích cơm được con người được ăn ở nhiều nơi trên thế giới. Sản phẩm bán ra là đã được chuẩn bị từ cá cơm (từ thế kỷ 19) và cá mòi đôi khi được chế biến từ cá trích cơm. Cá trích cơm được biết đến với hương vị rất mềm mại và rất dễ nhầm lẫn với cá mòi bé. | 1 | null |
Claudio Andrés Bravo Muñoz (; sinh ngày 13 tháng 4 năm 1983) là một thủ môn bóng đá chuyên nghiệp người Chile hiện đang chơi cho câu lạc bộ Real Betis và là Đội trưởng Đội tuyển quốc gia Chile.
Anh dành phần lớn sự nghiệp cầu thủ của mình chơi cho câu lạc bộ Real Sociedad ở Tây Ban Nha, tham gia 237 trận đấu chính thức. Anh bắt đầu chơi năm 2002 với Colo-Colo.
Bravo thi đấu cùng Chile trong 2 kì World Cup và 3 giải Copa América.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Colo-Colo.
Bravo sinh ra ở Viluco, tỉnh Maipo. Bố anh là người đã phát hiện tài năng đang trỗi dậy của con trai mình đưa anh đến đội trẻ Colo-Colo, và cuối cùng anh đã được ra mắt một cách chuyên nghiệp trong năm 2002. Ở đó, anh được gán biệt danh "Condor Chico", sau cựu thủ môn của câu lạc bộ Roberto Rojas.
Sau chấn thương của Eduardo Lobos, quản lý Jaime Pizarro đã dành cho Bravo cơ hội đầu tiên, tuy nhiên đó cũng chỉ là một cơ hội ngắn ngủi, bởi lẽ sau đó anh cũng dính chấn thương, nhưng việc này đã nhắc nhở Jonny Walker hợp đồng ký kết tiếp theo.
Bravo trở lại sau chấn thương vào giữa năm 2003 trong khi Lobos vẫn chưa hồi phục, anh đã được đảm nhận vai trò đầu tiên mà anh sẽ không còn đánh mất lần nữa, vì lúc này người cạnh tranh vị trí của anh đã được chuyển nhượng đi nơi khác. Năm 2006 anh đã giành được danh hiệu đầu tiên, thực hiện cú nhào lộn bảo vệ khung thành trong loạt sút penalty ở vòng chung kết giải "Apertura"', nơi mà anh và các đồng đội đã giành chiến thắng trước đối thủ C.F. Universidad de Chile.
Real Sociedad.
Ở mùa giải năm 2006-07 Bravo ký kết một hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Real Sociedad ở Tây Ban Nha, với một thỏa thuận theo báo cáo trị giá 1.2 triệu €– anh và Asier Riesgo tạo nên bộ đôi cầu thủ có tuổi đời trẻ nhất vào năm đó ở La Liga. Anh khởi đầu trên băng ghế dự bị, nhưng cuối cùng cũng được ra thi đấu (29 trận) vì các đội bóng xứ Basque đã bị xuống hạng (mặc dù vậy, anh đã về ở vị trí thứ năm cho Cúp Ricardo Zamora với trung bình hiệu số bàn thắng bại là 1.00); trận đấu mùa giải đầu tiên của anh đến vào ngày 22 tháng 10 năm 2006, trong trận hòa 0-0 với RCD Mallorca.
Mùa giải tiếp theo ở Segunda Devision 2007-08, Riesgo trở về vị trí ban đầu của anh. Tuy nhiên mùa giải 2008–09, sau hợp đồng cho mượn tới Recreativo de Huelva, Bravo một lần nữa là người khởi đầu, nhưng Real vẫn duy trì trong giải Segunda Devision.
Vào ngày 14 tháng 2 năm 2010 Bravo đã ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp, từ quả đá phạt trực tiếp trước Gimnàstic de Tarragona, trận đấu chỉ mang tính chiến thắng trong nội bộ. Tuy nhiên, sau đó không lâu, anh dính phải một chấn thương đầu gối nghiêm trọng trong trận thua 0-2 của Real Sociedad trước Córdoba CF, điều này khiến anh không còn khả năng ra sân không phần còn lại của giải đấu Segunda División 2009-10. Anh vẫn dự khán 25 trận đấu để giúp đội bóng của mình giành chức vô dịch và trở lại bộ phận dẫn đầu, sau 3 năm.
Barcelona.
Bravo gia nhập Barcelona vào ngày 18 tháng 6 năm 2014 với hợp đồng 12 triệu € gia hạn 4 năm có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7.
Sự nghiệp quốc tế.
Bravo là đại diện cho U17, U20 và U23 Chile. Anh ra mắt lần đầu tiên với đội hình chính vào ngày 11 tháng 7 năm 2004 trước Paraguay trong khuôn khổ giải Copa América năm 2004, và giữ nguyên vị trí đó trong suốt vòng loại World Cup 2006.
Bravo một lần nữa được gọi vào đội hình ở Copa América 2007 tổ chức ở Venezuela, nơi mà anh bắt chính cả bốn trận. Anh trở thành đội trưởng của đội tuyển quốc gia sau khi Marcelo Salas tuyên bố sẽ chấm dứt sự nghiệp cầu thủ quốc tế.
Trong World Cup 2010 ở Nam Phi, Bravo bắt chính cho cả bốn trận đấu cho Chile (còn với vai trò đội trưởng), để thủng lưới 5 bàn trong vòng 16 đội (thua 0–3 trước Brazil). Anh tiếp tục có tên trong danh sách đội hình tham dự hai kỳ Copa América 2015 tổ chức tại quê nhà Chile và Copa América Centenario tổ chức tại Hoa Kỳ, hai giải đấu mà anh cùng đồng đội giành chức vô địch hai giải liên tiếp trong lịch sử sau khi vượt qua đội tuyển ở loạt sút luân lưu 11m sau khi hai đội hòa nhau với tỉ số không bàn thắng trong suốt 120 phút thi đấu chung kết.
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
Colo-Colo
Real Sociedad
Barcelona
Manchester City
Siêu cúp Anh: 2019 | 1 | null |
Neoopisthopterus là một chi cá thuộc nhóm cá bẹ có kích thước rất nhỏ, trước đây xếp trong họ Cá trích (Clupeidae), nhưng gần đây được xếp lại trong họ Cá bẹ (Pristigasteridae). Hiện tại thì chi này chỉ ghi nhận có 2 loài và tất cả đều phân bố ở vùng nước nhiệt đới Tây bán cầu, trong đó có 01 loài phân bố tại vùng biển Cuba. | 1 | null |
Demi là album phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ người Mỹ Demi Lovato, được phát hành vào ngày 10 tháng 5 năm 2013, bởi Hollywood Records. Quan tâm về sự chuyển đổi giọng từ album phòng thu thứ 3 - "Unbroken (album của Demi Lovato)" (2011) - mà cô diễn tả là "khó phân biệt", Lovato muốn làm cho album lần này "chứa những bài hát làm cô ấy phấn khích". Album là sự kết hợp của nhạc pop với một chút synthpop và bubblegum pop. Album được thu âm từ năm 2012 đến 2013, trong khi Lovato tham gia chương trình "The X Factor" phiên bản Mỹ với cương vị là một giám khảo.
Album nhìn chung nhận được sự đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, những người khen ngợi giọng hát của Lovato. Album ra mắt tại vị trí thứ ba tại bảng xếp hạng "Billboard" 200 Mỹ với doanh số tuần đầu tiên là 110,000 bản bán ra, trở thành tuần ra mắt thành công nhất của cô từ trước đến nay. Album cũng đạt được thành công tại các bảng xếp hạng nước ngoài, cụ thể là đạt top 5 tại Canada, Ireland, Ý, Mexico và Tây Ban Nha. Album cũng nằm trong top 3 bảng xếp hạng tại Brazil, top 40 tại Úc, Áo, Croatia, Đức, Hy Lạp, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và UK. Album được chứng nhận bạch kim nhân 3 tại Brazil và chứng nhận vàng tại Colombia, Canada và Mexico, trở thành album bán được nhiều bảng ở nước ngoài nhất của Lovato cho đến nay.
Đĩa đơn chính của album, "Heart Attack" đạt vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ ba của cô có thứ hạng cao nhất đến nay. Nó còn được chứng nhận bạch kim nhân 2 tại Mỹ, trở thành đĩa đơn bán chạy nhất của cô từ trước đến nay. Đĩa đơn thứ hai là "Made in the USA" được phát hành vào ngày 16 tháng 7 năm 2013, đạt vị trí thứ 80 trên bảng xếp hạng Hot 100. Đĩa đơn kế tiếp "Neon Lights" được phát hành vào ngày 19 tháng 11 năm 2013, đạt top 40 của Hot 100 và hạng 7 của "Billboard" Mainstream Top 40. Đĩa đơn thứ 4 "Really Don't Care" sau đó được ra mắt vào ngày 20 tháng 5 năm 2014.
Chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của Demi Lovato mang tên "Demi World Tour" sẽ bắt đầu vào ngày 6 tháng 9 năm 2014 tại Baltimore nhằm quảng bá cho album phòng thu thứ 4 - "Demi" - của mình.
Bối cảnh và phát hành.
Vào tháng 4 năm 2012, Lovato bắt đầu viết lời cho những ca khúc nằm trong album, sau sự thành công của album phòng thu thứ 3 trước đó "Unbroken" (2011). Album được thu âm cùng lúc với khoảng thời gian Lovato làm giám khảo trong mùa 2 của chương trình The X Factor phiên bản của Mỹ. Lovato chọn tựa đề của album này là "Demi" bởi vì đây là album đầu tiên của cô dành cho nhiều xu thế khán giả hơn và cần cho những người không biết cô là ai. Lovato cũng cho hay rằng "đoạn tiếp" của ca khúc "Skyscraper" (2011) cũng được bao gồm. Sau khi album được phát hành, bài hát "Warrior" được tiết lộ là phần tiếp theo của "Skyscraper". Cô phát biểu: "Tôi vô cùng tự hào về album này" và "Nó tốt hơn mọi thứ tôi làm từ trước đến nay! Tôi đã thử nghiệm với rất nhiều loại âm thanh khác nhau và dồn hết tâm trí để viết những bài hát này. Tôi rất hào hứng để cuối cùng cho mọi người nghe được chúng!". Vào ngày 6 tháng 5 năm 2013, Lovato kêu gọi những người theo dõi cô trên Twitter "mở khóa" toàn bộ album bằng cách đặt tựa bài hát vào "hashtags". Một trang website đặc biệt "lovaticsspeeduptime.com" đã được mở ra, hiện thị tất cả bài hát kế bên một cái đồng hồ sẽ chạy khi những "tweet" được gửi. Khi một bài hát trở thành chủ đề bàn luận thì video của nó trên YouTube được đăng lên trên VEVO. Tất cả các bài hát đã được "mở khóa" trong vòng 4 giờ. Một cuốn sách điện tử "iBooks" độc quyền mang tên "Demi (The Book)" được phát hành vào ngày 11 tháng 6 năm 2013. Quyển sách mang tới người hâm mộ những hình ảnh hậu trường của cô ca sĩ, bao gồm những cảnh phim và những đoạn phỏng vấn chưa từng được công bố. Trong một đoạn clip, cô nói rằng sự chân thật và cởi mở không chỉ là lời nhắn mà cô gửi tới những người hâm mộ trong quyển sách mà còn là trong album lần này. Cô nói, "Trong album lần này, tôi đã có đủ thời gian để thật sự ngẫm nghĩ lại về những kỉ niệm của bản thân và nhìn lại cuộc đời mình sau khi đã vượt qua rất nhiều chuyện mệt mỏi. Tôi đã có nhận thức hơn về bản thân mình, do đó, khi bạn nghe album lần này, bạn có thể thật sự nhận ra trong lời bài hát, trong cảm xúc và trong mọi thứ rằng tôi đã làm thật sự rất, rất chăm chỉ trong album và cực kì mong muốn bạn có thể nghe được nó.
Thực hiện.
Lovato tự miêu tả album "Demi" là "nhạc Mỹ cổ", chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi đĩa đơn bùng nổ của cô "Give Your Heart a Break" và cô cảm thấy lời bài hát "cực kì sôi động" cũng như giai điệu của ca khúc cùng với những người hâm mộ, đó là những điều mà cô muốn tham khảo tỉ mỉ hơn trong album lần này. Theo như Lovato, album trước đó của cô là "Unbroken" bao gồm những ca khúc mà cô cảm thấy chán "sau một thời gian ngắn", vì thế nên cô muốn "có những bài hát làm cô cảm thấy thích thú" trong "Demi". Những thể loại nhạc trong album đi từ pop rock đến synthpop và bubblegum pop. Ngoài "những bài hát sôi động" như ca khúc có nhịp điệu vừa phải "Without the Love", "những ca khúc nhẹ nhàng" cũng được thêm vào album. Khi giải thích về ca khúc "Shouldn't Come Back" và "Warrior" mà Lovato cho là quá riêng tư để biểu diễn trực tiếp khi so sánh chúng với ca khúc trong album "Unbroken" mang tên "For the Love of a Daughter". "Billboard" phát biểu rằng ca khúc trong "Warrior", Lovato đã bày tỏ chính mình là "một cho phượng hoàng đứng lên từ những tro bụi công-khai" cùng với lời bài hát đầy cảm súc như: "Tôi thật hổ thẹn, tôi đã có những vết thương lòng mà tôi sẽ không bao giờ thể hiện ra/Tôi còn sống sót bằng nhiều cách hơn bạn biết". Khi nói về ca khúc "Warrior", nữ ca sĩ trình bày: "Đó có lẽ là bài hát khó nhất và dễ nhất để viết trong album này. Tôi đã viết về những kỉ niệm của bạn thân, tuy nhiên tôi không thể nào bày tỏ hết những điều đó trong một bài hát được". Chủ đề về tình yêu đối với nước Mỹ trong album được thể hiện rõ trong ca khúc "Made in the USA", một ca khúc tình yêu thể hiện chủ nghĩa yêu nước lấy cảm hứng từ "American love stories" của những năm 1930. Ca khúc là sự kết hợp chặt chẽ giữa pop, rock và đồng quê. Đan xen vào những bản ballad piano trong "Demi" bao gồm: "In Case", ca khúc nói về sự chia tay, và "Nightingale". Những ca khúc vui vẻ như "Really Don't Care" và "Something That We're Not" được sản xuất để phù hợp với "giọng hát làm mê mẩn" của Lovato.
Vào tháng 6 năm 2013, Lovato trả lời phỏng vấn về album thứ 4 để cảm ơn đến người hâm mộ của cô, những người đã biết cô trước đây và nói về sự trở lại, cô nói: "Cuộc đời của tôi đã thay đổi rất nhiều. Tôi mềm mỏng hơn và chân thật trong lần thu âm này, điều mà tôi luôn muốn đạt được. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để bước ra ánh sáng rồi đây". Trong album này, cách viết lời bài hát được xem như là "phép chữa bệnh", Lovato nói: "Nó giúp tôi trút khỏi những tiêu cực, và giờ tôi là một chiến binh thực thụ. Xuyên suốt nhiều năm qua, thật sự rất khó để tìm ra được lời động viên để rời bỏ và viết về nó, tôi sợ rằng sẽ không ai hiểu được lời nhắn của tôi. Tôi đã dành rất nhiều thời gian để cố gắng hiểu được điều gì là đúng đắn để thực hiện, tôi cứ như quẫn trí bởi thú vui và sự cám dỗ của quảng cáo đó là vì sao tôi quyết định dừng lại ở tuổi 18".
Tiếp nhận.
Đánh giá chuyên môn.
Album nhìn chung nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Dựa theo hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Metacritic, album có điểm số 64/100 dựa trên 6 sự xem xét. Jason Lipshutz của "Billboard" đánh giá khá tích cực, nói rằng "cô ta nắm vững những kĩ năng của một người ca sĩ, nhưng lại vẫn làm hỏng đi đôi chút công thức hoàn hảo nhất cho mình, và vô tình thể hiện ra sự tự khám phá đó ở đây." Jon Caramanica từ "The New York Times" cũng đánh giá tốt, cho rằng đây là "một album thứ 4 ấn tượng." Stephen Thomas Erlewine đến từ AllMusic lại nhận xét gắt gao hơn, đánh giá album 3 trên 5 sao, nói rằng "Cuồi cùng thì đây cũng không phải là một album đúng nghĩa, nó là một tập hợp những khoảng thời gian, và nó chỉ có những bài hát đủ tốt cho sự trở lại của Demi Lovato." Jody Rosen từ "Rolling Stone" cho album 3 sao trên 5, nhận định rằng "Đó là những bài hát có thể dự đoán trước, những bài hát kiểu thất tình, những lời hát động viên theo thể loại pop-psych, tuy nhiên Lovato cũng khá tốt, giọng hát của cô ấy thật mạnh mẽ và đặc sắc." Tamsyn Wilce của "Alter The Press!" đánh giá album 4 sao rưỡi trên 5, ca ngợi "Neon Lights" như một điểm sáng trong album và kết luận "nó cho thấy chất giọng mạnh mẽ của cô ấy và sự biến tấu trong những phong cách mà cô có thể hoàn toàn chinh phục cho riêng mình. Nếu như bạn không phải là một fan của dòng nhạc pop, bạn sẽ không thích nó chút nào, tuy nhiên mọi người đều có những niềm vui gây khiển trách – ngoại trừ chúng tôi thậm chí không cảm thấy chút chút tội lỗi gì để nghe album này với hết cỡ âm thanh. Natalie Palmer từ "Entertainmentwise" cũng đánh giá album tích cực, trình bày "Pop rock là rõ ràng dòng nhạc của Demi Lovato và cô ấy nắm rất chắc về nó. Khi nói đến những hình tượng Demi nên được đánh giá là xuất sắc nhất. Lời bài hát của cô ta diễn tả chân thật về cuộc sống, tình yêu, điều bất hạnh và không có gì quá lố cả. Tuy nhiên trong khi vẫn còn những vấn đề của sự thật, cô vẫn có thể hiện thực chính xác những gì cô ấy đang cố gắng truyền đạt."
Melissa Maerz của "Entertainment Weekly", dù gì đi nữa, đánh giá album ở mức trung bình xếp loại nó ở mức C+, nói rằng "thật sự quá tệ đối với album "Demi" của cô ta, nghe như là sự trở lại với dòng nhạc pop tuổi teen. Thay đổi từ một người phụ nữ trẻ cáu kỉnh trở thành người yêu nước Mỹ." Marc Hirsh của "The Boston Globe" cũng như vậy, nhận xét rằng ""Demi" nghe như Lovato hơi tham lam đối với những bản hit, khi cô ấy dùng những âm thanh nghe như đang làm nhạc và chơi đùa." tuy rằng nhiều nhà nhận xét cho rằng những lời phê bình là "không cần thiết" và khen ngợi sự linh hoạt trong âm nhạc của cô. Melinda Newman của HitFix đánh giá album ở mức B-, nhận xét rằng "chỗ sai ở album "Demi" là có quá nhiều âm nhạc ở đây rất giống nhau và đó có thể là do một nữ hoàng tuổi teen nào đó cung cấp giai điệu." Tuy nhiên nhà phê bình kết luận "Đối với những ai đang tìm kiếm một album có nhịp độ sôi động phù hợp với bối cảnh trên radio ngày nay, "Demi" là một sự lựa chọn thích hợp." "Alter The Press!", sau khi khen ngợi về album khi nó được ra mắt, xếp album ở vị trí thứ 8 trong danh sách những album hay nhất năm 2013.
Diễn biến thương mại.
Album ra mắt tại vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 Mỹ với doanh thu tuần đầu là 110,000 bản, đứng sau "Modern Vampires of the City" của Vampire Weekend và "Love Is Everything" của George Strait, trở thành tuần ra mắt thành công nhất của cô từ trước đến nay. Còn ở Anh, album ra mắt tại vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng UK Albums Chart, với doanh số 10,658 bản được bán ra trong tuần đầu tiên. Cùng với sự ra mắt, nó trở thành album đầu tiên của cô lọt vào Top 40 ở nước này. Album cũng được chứng nhận bạch kim nhân 2 ở Brazil và chứng nhận vàng ở ba quốc gia khác đến tháng 1 năm 2014. Album đã bán được 370,000 bản ở Mỹ cho đến tháng 5 năm 2014. | 1 | null |
Acronicta perdita là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Nó được tìm thấy từ British Columbia về phía nam đến California.
Sải cánh dài 42–46 mm. Con trưởng thành mọc cánh từ tháng 4 đến tháng 7 tùy thuộc vào vị trí.
Ấu trùng ăn các loài Ceanothus và Purshia. | 1 | null |
Cá lầm hay cá trích lầm (Danh pháp khoa học: Spratelloides) là một chi cá gồm các loài cá trích trong họ Clupeidae
Sử dụng.
Đây là loài cá có giá trị kinh tế và là một loài cá thực phẩm. Những loài cá nhỏ trong chi này được sử dụng để làm cá mồi cho những cuộc câu cá tiêu khiển cũng như câu cá lớn hơn ở đại dương để làm thực phẩm, đặc biệt là mồi câu cho các loại cá ngừ hoa. Nhiều loài khác được biết đến bởi giá trị của chúng làm thực ẩm trong ẩm thực của nhiều quốc gia, như loài "Spratelloides gracilis" còn biết đến với tên gọi "kibinago" ở Nhật Bản. | 1 | null |
Casu marzu (cũng được gọi là casu modde, casu cundídu, casu fràzigu trong tiếng Sardinia, và formaggio marcio trong tiếng Ý) là một loại pho mát sữa cừu truyền thống của Sardinia được biết đến vì chứa ấu trùng côn trùng sống. Mặc dù tìm thấy hầu hết ở Sardinia, Ý, loại pho mát này cũng được tìm thấy tại Corsica, Pháp, nơi phương ngữ địa phương rất giống tiếng Ý. Tên của pho mát được phát âm giống nhau ở Corsica và Sardinia, nhưng được viết là "casgiu merzu" trong tiếng Corsica.
Có nguồn gốc từ pho mát Pecorino, casu marzu vượt xa việc lên men thông thường đến một giai đoạn được xem là thối rữa, do sự tiêu hóa của giòi ruồi pho mát "Piophila casei". Các ấu trùng này được cố tình cho vào pho mát, thúc đẩy quá trình lên men và phá vỡ chất béo của pho mát. Kết cấu của pho mát trở nên rất mềm, với một số chất lỏng (gọi là "lagrima") thấm ra ngoài. Giòi có màu trắng mờ, dài khoảng .
Các biến thể khác.
Các loại pho mát sữa đáng chú ý tương tự có chứa ấu trùng côn trùng sống được sản xuất tại một số khu vực Ý và ở Corsica, Pháp. | 1 | null |
Trong ký hiệu nhạc, dấu hóa ("accidental") dùng để chỉ nốt nhạc bị biến âm, phân biệt với hóa biểu ("key signature)". Nói chung, người ta thường viết dấu hóa ngay sau khóa nhạc ("clef") ở đầu bản nhạc mặc dù chúng có thể được viết ở những nơi khác của bản nhạc, chẳng hạn đặt sau vạch nhịp kép. Có ba loại ký hiệu dấu hóa chính: dấu thăng (♯), dấu giáng (♭) và dấu bình (♮).
Dấu thăng cho biết rằng nốt nhạc sẽ được chơi ở cao độ cao hơn nốt nhạc bình thường. Dấu giáng cho biết rằng nốt nhạc sẽ được chơi ở cao độ thấp hơn nốt nhạc bình thường. Sự thay đổi này được áp dụng từ đó cho đến hết tác phẩm nhạc hoặc áp dụng cho đến khi gặp dấu hóa khác. Riêng dấu bình ♮ có tác dụng hủy bỏ hiệu lực của dấu thăng hoặc dấu giáng ở phía trước tạo ra. Một dấu hóa tương ứng với sự thay đổi cao độ là nửa cung. Dấu hóa kép thì làm thay đổi cao độ là một cung. Dấu thăng ♯ nằm trên hoặc trong dòng kẻ nhạc nào hoặc trong khe nhạc nào thì sẽ làm tăng cao độ của nốt nhạc nằm trên dòng kẻ nhạc hoặc trong khe nhạc đó. Dấu giáng ♭ nằm trên hoặc trong dòng kẻ nhạc nào hoặc trong khe nhạc nào thì sẽ làm giảm cao độ của nốt nhạc nằm trên dòng kẻ nhạc hoặc trong khe nhạc đó. Lưu ý rằng điều này áp dụng cho tất cả các nốt, chẳng hạn một dấu thăng nằm sau khóa treble và nằm ở dòng kẻ trên cùng của khuông nhạc thì có hiệu lực với tất cả nốt Fa.
Có hai loại dấu hóa: dấu hóa theo khóa (đứng sau khóa nhạc) và dấu hóa bất thường (đặt ngay tại một nốt nhạc). Dấu hóa bất thường là trường hợp ngoại lệ của dấu hóa, chỉ áp dụng trong ô nhịp mà dấu hóa đó hiện diện.
Theo lý thuyết, có thể có vô số kiểu kết hợp các dấu hóa thăng - giáng lại với nhau, tuy nhiên chỉ một số là thông dụng.
Mỗi âm giai trưởng hay âm giai thứ có dấu hóa đi kèm riêng để thể hiện thăng hoặc giáng nốt nhạc dùng trong âm giai. Tuy nhiên, cũng không hiếm các tác phẩm âm nhạc mà trong đó dấu hóa không tương thích với cung thứ, chẳng hạn một số tác phẩm Baroque, hoặc trong các bản chép giai điệu nhạc dân gian truyền thống.
Quy ước.
Về nguyên tắc, bất cứ bài nhạc nào cũng có thể được sáng tác mà không có dấu hóa nhưng sử dụng các biến âm để chỉnh khuôn mẫu của các nửa cung ("half step") và một cung ("whole step"). Mục đích của dấu hóa là giảm thiểu số lượng biến âm phải dùng khi ký nhạc. Thứ tự dấu thăng hay dấu giáng trong tập hợp dấu hóa thường tuân thủ quy tắc khắt khe của hệ thống ký nhạc hiện đại. Ví dụ, nếu dấu hóa chỉ gồm một dấu thăng thì nó phải là Fa thăng.
Hiệu lực của dấu hóa được duy trì trong suốt tác phẩm hoặc phần của tác phẩm, trừ phi bị một dấu hóa khác hủy bỏ. Ví dụ, nếu dấu hóa loại 5 thăng được đặt ở đầu tác phẩm thì tất cả các nốt La trong bài ở bất cứ quãng tám nào đều cũng sẽ được nâng thành La thăng, trừ phi trước đó có một dấu biến âm.
Trong bản tổng phổ đòi hỏi cho nhiều nhạc cụ, tất cả nhạc cụ thường được quy cùng một dấu hóa, tuy nhiên cũng có ngoại lệ:
Quy ước ghi dấu hóa.
Quy ước ghi dấu hóa tuân theo vòng quãng năm. Bắt đầu từ Đô trưởng (hoặc La thứ) không thăng không giáng, liên tiếp nâng lên một quãng năm bằng cách thêm một thăng, đi theo chiều kim đồng hồ của vòng. Dấu thăng mới được đặt trên nốt dẫn đầu của điệu/giọng ("key") mới (bậc thứ 7) dành cho điệu trưởng hoặc âm chủ trên (bậc thứ 2) dành cho điệu thứ. Vì vậy, Sol trưởng (Mi thứ) có một thăng ở Fa; rồi Rê trưởng (Si thứ) có hai thăng (ở Fa và Đô)...
Tương tự, liên tiếp hạ xuống một quãng năm bằng cách thêm một giáng, đi theo chiều kim đồng hồ của vòng. Dấu giáng mới được đặt ở âm át dưới (bậc thứ 4) dành cho điệu trưởng hoặc âm trung dưới (bậc thứ 6) dành cho điệu thứ. Vì vậy, Fa trưởng (Rê thứ) có một giáng ở Si; rồi Si giáng trưởng (Sol thứ) có hai giáng (ở Si và Mi)...
Nói theo cách khác: đối với các dấu hóa thăng, dấu thăng thứ nhất được đặt ở dòng Fa, tiếp theo nó là các dấu thăng ở Đô, Sol, Rê, La, Mi và Si; đối với các dấu hóa giáng, dấu giáng đầu tiên được đặt ở dòng Si, tiếp theo nó là các dấu giáng ở Mi, La, Rê, Sol, Đô và Fa. Như vậy có tất cả 15 bộ dấu hóa được quy ước, số lượng dấu trong mỗi bộ có thể lên đến 7 và gồm cả dấu hóa "trống" của Đô trưởng (La thứ).
Hệ quả:
Rất hiếm gặp dấu hóa gồm bảy thăng hay bảy giáng bởi vì chúng có tương đương trùng âm đơn giản hơn. Ví dụ, điệu Đô thăng trưởng (7 dấu thăng) có thể được diễn đạt theo cách đơn giản hơn nhiều: Rê giáng trưởng (5 dấu giáng). Thời nay khi thực hành, các điệu (giọng) này là như nhau bởi lẽ Đô thăng và Rê giáng là trùng âm cùng một nốt.
Có thể thay đổi dấu hóa bất cứ lúc nào trong tác phẩm (thường được thực hiện ở đầu một ô nhạc) bằng cách ghi một dấu hóa mới, còn không thì dùng dấu hóa bất thường để hủy hiệu lực của dấu hóa trước đó.
Cấu trúc âm giai trưởng.
Trừ Đô trưởng thì các dấu hóa có hai biến thể: "dấu hóa thăng" và "dấu hóa giáng". Sở dĩ được gọi như thế là bởi chúng chỉ gồm dấu thăng hoặc chỉ gồm dấu giáng.
Âm giai với dấu hóa thăng.
"Dấu hóa thăng" gồm từ một đến bảy dấu thăng, được áp dụng theo thứ tự sau: F C G D A E B. Âm chủ của một tác phẩm điệu trưởng ở ngay bên trên dấu thăng cuối cùng trong dấu hóa.
Bảng này cho thấy mỗi âm giai bắt đầu tại bậc âm giai thứ năm của âm giai trước thì lại có thêm một dấu thăng mới. Cách thêm dấu thăng được chỉ ra như trên.
Âm giai với dấu hóa giáng.
"Dấu hóa giáng" gồm từ một đến bảy dấu giáng, được áp dụng theo thứ tự sau: B E A D G C F (ngược lại thứ tự trong "dấu hóa thăng"). Âm giai trưởng với một dấu thăng là Fa trưởng. Trong tất cả các "âm giai giáng trưởng" khác, âm chủ của tác phẩm điệu trưởng là bốn nốt bên dưới dấu giáng cuối cùng trong dấu hóa.
Trong trường hợp này mỗi âm giai mới bắt đầu "thấp hơn" một quãng năm so với âm giai trước.
Lịch sử.
Mặc dù dấu hóa loại 1 giáng đã có trong thời kỳ âm nhạc Trung cổ nhưng mãi đến thế kỷ XVI thì mới xuất hiện cách dùng dấu hóa loại nhiều hơn 1 giáng và đến giữa thế kỷ XVII thì mới có cách dùng dấu hóa loại thăng.
Vào thuở ban đầu của loại hình nhiều dấu giáng, chưa có quy tắc chuẩn về thứ tự của chúng, thường lúc đó một dấu giáng xuất hiện ở hai quãng tám khác nhau. Vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, thường gặp trường hợp hai bè hát khác nhau có các dấu hóa khác nhau trong cùng một tác phẩm âm nhạc; người ta gọi trường hợp này là dấu hóa một phần hay dấu hóa đối lập. Thực tế thì trong thế kỷ XV, loại dấu hóa đối lập này phổ biến hơn hẳn loại dấu hóa đầy đủ. Bản thánh ca "Absolon fili mi" (Josquin des Prez; thế kỷ XVI) bao gồm hai bè hát gắn với hai dấu giáng, một bè gắn với ba dấu giáng và một bè gắn với bốn dấu giáng.
Âm nhạc Baroque được viết bằng điệu thứ vốn có dấu hóa với số lượng dấu giáng ít hơn so với số lượng dấu giáng mà ngày nay người ta gán cho nó; ví dụ, phần nhạc theo điệu Đô thứ thường chỉ có hai dấu giáng (do La giáng (A) thường được thăng làm La (A) trong điệu thứ; tương tự đối với Si giáng (B)). | 1 | null |
Giải thưởng Cậu bé vàng (Golden Boy) là một giải thưởng được đưa ra bởi các nhà báo thể thao để vinh danh một cầu thủ trẻ dưới 21 tuổi xuất sắc nhất chơi ở giải đấu hàng đầu châu Âu trong một năm dương lịch do tờ báo thể thao Ý "Tuttosport" thành lập vào năm 2003. Tiền vệ của Real Madrid Jude Bellingham nhận giải thưởng Golden Boy 2023.
Tổng quan.
Giải do tờ báo thể thao Tuttosport của Ý thành lập năm 2003. Các báo tham gia bao gồm Bild (Đức), Blick (Thụy Sĩ), A Bola (Bồ Đào Nha), "l'Équipe, France Football (Pháp), Marca, Mundo Deportivo (Tây Ban Nha), Ta Nea (Hy Lạp), Sport Express (Nga), De Telegraaf (Hà Lan) và The Times" (Vương quốc Anh). Mỗi thành viên đề cử 5 cầu thủ, sau đó sẽ cho 10 điểm cho các cầu thủ mà họ cho là ấn tượng nhất, 7 điểm cho thứ 2, 5 điểm cho thứ 3, 3 điểm cho thứ 4 và 1 điểm cho thứ 5. Tất cả các ứng cử viên phải dưới 21 tuổi và chơi ở giải cao nhất một quốc gia châu Âu.
Giải thưởng theo câu lạc bộ.
Năm được in đậm được chia sẻ chiến thắng với câu lạc bộ khác. | 1 | null |
Gandharva (tiếng Hindi: "गन्धर्व", Hán-Việt: 乾闼婆 / Càn Thát Bà / Càn-thát-bà, tiếng Hàn: 간달바, tiếng Nhật: ガンダルヴァ, tiếng Thái: "คนธรรพ์", tiếng Indonesia: "Gandarwa") là một thuật ngữ chỉ các thiên sứ trong thế giới quan Ấn giáo và Phật giáo, đồng thời là danh hiệu đặt cho các ca sĩ có tay nghề cao trong âm nhạc cổ điển Ấn Độ (tương tự divo / diva tại Âu châu). | 1 | null |
Lịch sử tự nhiên là ngành nghiên cứu sinh vật bao gồm thực vật và động vật trong môi trường sống của chúng, tìm hiểu nhiều về mặt quan sát hơn là các phương pháp nghiên cứu thí nghiệm. Lịch sử tự nhiên nhấn mạnh nghiên cứu khoa học nhưng không có giới hạn, với một số bài viết ngày này thường xuất bản ở danh sách các tạp chí khoa học hơn là trong các tạp chí khoa học.
Người nghiên cứu lịch sử tự nhiên gọi là "nhà tự nhiên học" hay "nhà lịch sử tự nhiên". | 1 | null |
Hải quân Hoàng gia Brunei là một lực lượng hải quân thuộc Quân đội Brunei. Đây là một lực lượng nhỏ nhưng trang bị tương đối đầy đủ, có trách nhiệm chính là tiến hành các nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn và tuần tra và bảo vệ vùng biển Brunei, chống lại cuộc tấn công của các lực lượng trên biển.
Lịch sử.
Hải quân Hoàng gia Brunei được thành lập ngày 14 tháng 6 năm 1965. Năm 1977, Hải quân Brunei nhận được những chiến hạm đầu tiên - tàu cao tốc tên lửa lớp Waspada của Singapore. Tàu dài 37 m, nặng 206 tấn và di chuyển với tốc độ 32 hải lý (59 km/h), mỗi tàu có 4 sĩ quan và 20 thủy thủ được trang bị tên lửa chống hạm Exocet 38.
Năm 2011, Hải quân Hoàng gia Brunei đã nhận 3 tàu tuần tra cỡ lớn lớp Darussalam dài 80 m và dự kiến chúng sẽ được dùng để thay thế cho các tàu lớp Waspada.
Trước đó, Brunei đã từng đặt Công ty BAE Systems của Anh 3 tàu hộ tống nhỏ lớp Nakhoda Ragam. Nhưng cuối cùng họ lại hủy bỏ hợp đồng với lý do "không đạt được các tiêu chí kỹ thuật". Cuối cùng, Brunei phải bồi thường cho BAE tại tòa án Quốc tế 1,71 tỉ USD tháng 6 năm 2006.
Tàu hộ vệ lớp Nakhoda Ragam có chiều dài 95 m. Sử dụng hệ thống tên lửa đối hạm MBDA Exocet MM-40 Block II đời mới, radar chủ động, tầm bắn 70 km, tốc độ tên lửa cận âm (0,9 Mach). Ngoài ra, tàu còn có hệ thống 16 ống tên lửa đất đối không MBDA Seawolf (sói biển) có tầm bắn 6 km, trần bay 3000 m và tốc độ siêu âm 2,5 Mach. Hệ thống điện tử Thales Sensor Cutlass 242, radar gây nhiễu Scorpion... Đuôi tàu còn có một sân nhỏ rộng 285 m² làm chỗ để cho trực thăng S-70B Seahawk (phiên bản xuất khẩu của UH-60 Black Hawk).
Nakhoda Ragam được cho là loại tàu có sức mạnh tương đương với bất kỳ loại tàu nào của Malaysia, nó sẽ giúp Brunei có lợi thế cân bằng hơn trên biển nhưng nó lại cần tới gần 600 thủy thủ để hoạt động trong khi quy mô của Hải quân Hoàng gia Brunei chỉ có khoảng hơn 1000 người. Thứ hai nữa là Nakhoda Ragam sẽ trở thành một yếu tố khiêu khích, dễ kích động chiến tranh.
Cuối cùng, Brunei vẫn quyết định mua các tàu lớp Nakhoda Ragam nhằm bảo vệ các quyền lợi của mình trên biển và vùng bờ biển chỉ dài vỏn vẹn có "hơn 100km" trước các tranh chấp với Malaysia, Indonesia và các nước khác tại quần đảo Trường Sa.
Vai trò và Tổ chức.
Vai trò của Hải quân Hoàng gia Brunei là:
Răn đe chống lại cuộc tấn công của các lực lượng gắn biển sinh
Bảo vệ tài nguyên ngoài khơi quốc gia
Duy trì dòng Biển Truyền thông (SLOC)
Giám sát của 200 nm EEZ
Hàng hải và Cấp Cứu hoạt động
Hỗ trợ các đơn vị thuộc RBAF hoạt động hoạt động
Cung cấp hỗ trợ cho các cơ quan an ninh khác và các Bộ, theo lệnh của Bộ Quốc phòng Brunei.
Hoàng gia Brunei Hải quân được chia thành bốn thành phần chính như sau:
Hạm đội hiện tại.
Danh sách trang bị hiện nay của Hải quân Brunei là:
54 tàu chiến, bao gồm: | 1 | null |
Trần Thị Thanh Thúy (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1997) là vận động viên bóng chuyền. Thúy là thành viên của Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Việt Nam từ năm 2014. Thúy đầu quân cho câu lạc bộ PFU Bluecats của Nhật Bản và thi đấu giải vô địch quốc gia tại đất nước này.
Thúy trải qua 2 năm cọ xát với những giải đấu quốc tế trong màu áo của câu lạc bộ VTV Bình Điền Long An. Thúy là 1 trong 12 gương mặt mà huấn luyện viên Thái Thanh Tùng chọn lựa lên ĐTQG tham dự Giải bóng chuyền quốc tế VTV Cup 2014.
Khen thưởng danh hiệu đạt được:.
Cup Hùng Vương: vô địch
Giải VTV Bình Điền 2019: hạng 4
Giải VTV Bình Điền 2019: chủ công xuất sắc nhất
VTV CUP 2018: VDV toàn diện
Giải VDQG 2018: vô địch
CUP hùng vương 2019: vô địch
U23 CHÂU Á 2019: Chủ công xuất sắc nhất
Cup Hoa Lư 2021: vô địch
Cup Hùng Vương 2021: vô địch
2023 Asian Women's Club Volleyball Championship: Champions
2023 Asian Women's Club Volleyball Championship: MVP
2023 Asian Women's Club Volleyball Championship: Best OH
2023 AVC Challenge Cup: Champions
2023 AVC Challenge Cup: MVP
2023 AVC Challenge Cup: Best OH | 1 | null |
Cá bột hay cá con hay cá ấu trùng, hay cá ương là một giai đoạn phát triển trong vòng đời của loài cá. Cá đi qua các giai đoạn vòng đời khác nhau từ khi nở và trưởng thành.
Đặc điểm.
Đời sống của chúng bắt đầu từ khi trứng cá nở thành ấu trùng. Ấu trùng không có khả năng nuôi sống bản thân, mà mang theo một lòng đỏ cung cấp chất dinh dưỡng cho nó. Trước khi lòng đỏ hoàn toàn biến mất, các con cá nhỏ phải trở thành có khả năng tự nuôi bản thân.
Ấu trùng giai đoạn đầu bơi kém, nhưng ấu trùng giai đoạn sau bơi tốt hơn và không còn là phù du như chúng phát triển thành cá con. Ấu trùng cá là một phần của động vật phù du mà nhiều loài ăn sinh vật phù du nhỏ hơn. Cả trứng và ấu trùng được động vật lớn hơn ăn. Trùng cỏ là những sinh vật có kích thước rất nhỏ và là thức ăn quan trọng cho cá bột mới nở, nó là thức ăn thích hợp nhất đối với những loại cá bột có kích thước nhỏ chẳng hạn như cá lia thia.
Khi chúng đã phát triển đến điểm mà nó có khả năng tự nuôi bản thân thì lúc này cá được gọi là cá bột. Ngoài ra, chúng đã phát triển về kích thước và vây và việc chuyển đổi sang một con cá thuần thục thì nó được gọi là cá giống. Cá giống thường bằng kích thước của ngón tay. Giai đoạn vị thành niên kéo dài cho đến khi cá được phát triển đầy đủ, thành thục sinh dục và tương tác với cá trưởng thành khác. Trong chăn nuôi, việc nuôi cá con phát triển hay còn gọi là ương cá bột là một giai đoạn quan trọng. Cá bột cần được thả vào ao ương trong vòng 24 giờ sau khi lấy nước vào, để cho những địch hại của cá bột (giáp xác chân chèo, nòng nọc, bọ gạo, bắp cày…) chưa kịp phát triển. | 1 | null |
Ichneutica epiastra là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó là loài đặc hữu New Zealand.
"I. epiastra" được mô tả đầu tiên bởi Edward Meyrick vào năm 1911, với danh pháp "Leucania epiastra". Vào năm 2019, Robert J. B. Hoare đã tiến hành một cuộc đánh giá lớn về loài bướm đêm ở New Zealand. Ông đã xác định đồng nghĩa danh pháp "Dipaustica" với chi "Ichneutica" và kết quả là loài này ngày nay được gọi là "Ichneutica epiastra". | 1 | null |
Victoria's Secret là nhà bán lẻ nội y lớn nhất ở Mỹ và được thành lập bởi Roy Raymond vào năm 1977. Doanh thu của hãng năm 2012 là 6,12 tỉ USD với vốn điều lệ là 1 tỉ USD. Công ty chuyên bán nội y, quần áo phụ nữ và mỹ phẩm qua các bộ catalogue (sản xuất hơn 375 triệu bản mỗi năm), trang web và các cửa hàng ở Mỹ. Victoria's Secret là sở hữu toàn phần của công ty thương mại L Brands.
Lịch sử.
1977: Thành lập.
Victoria's Secret được thành lập bởi chàng cựu sinh viên trường đại học Tufts University và Standfortt, cùng vợ mình là Gaye, ở San Francisco, California vào ngày 12 tháng 6 năm 1977.
8 năm trước khi thành lập Victoria's Secret, Raymond đã từng rất ngại ngùng khi mua nội y cho vợ tại các trung tâm thương mại. Trong một cuộc phỏng vấn với Newsweek, anh nhìn lại khoảng thời gian ấy từ khoảng thời điểm 1981: "Khi tôi cố mua nội y cho vợ mình, tôi phải đối mặt với hàng đống rổ áo choàng ngủ bằng cotton mềm và những bộ đồ ngủ in hoa xấu xí bằng nylon, và tôi luôn luôn có cảm giác cô bán hàng nghĩ tôi là tên khách hàng không đáng chào mời.
Vào những năm 1970 vào 1980, hầu hết phụ nữ Mỹ đều mua những bộ đồ ngủ "tẻ nhạt", "thực dụng" và "cứng nhắc" bởi các hãng Fruit of the Loom, Hanes, và Jockey trong các trung tâm mua sắm và để dành những "đồ sang trọng hơn" cho "các dịp đặc biệt" như tuần trăng mật. "Quần rút thun và áo ngực mút đệm" là những sản phẩm thường trực trong giai đoạn này cùng với "những chiếc khăn quàng vai và những bộ trang phục hải tặc khiêu khích tại Frederick's of Hollywood" bên ngoài những dòng sản phẩm chính thống cũng được trưng bày tại các cửa hàng.
Raymond học về thị trường nội y trong 8 năm liền trước khi vay bố mẹ 40 nghìn USD và vay ngân hàng 40 nghìn USD để thành lập Victoria's Secret: một cửa hàng mà tất cả đàn ông đều cảm thấy thoải mái khi mua đồ lót. Cửa hàng đầu tiên của công ty tọa lạc tại trung tâm mua sắm Standfort tại Palo Alto, California.
1977–1980: Những năm đầu.
Victoria's Secret tăng trưởng 500 000 USD trong năm đầu tiên bán hàng, đủ để chi trả cho một trụ sở và 4 cửa hàng mới cùng dịch vụ đặt hàng qua e-mail.
Vào năm 1980, Raymond đã đặt thêm 2 cửa hàng nữa tại San Francisco, số 2246 Đường Union và 115 đường Wisconsin.
Vào năm 1982, cửa hàng thứ 4 (vẫn trong khu vực San Francisco), được mở tại số 395 đường Sutter. Cửa hàng này vẫn lưu lại cho đến năm 1991, khi nó được chuyển đến một mặt bằng lớn hơn tại Westin St. Francis.
Vào tháng 4 năm 1982, Raymond cho ra mắt catalogue thứ 12 của mình; mỗi quyển có giá 3 đô la. Lượng doanh thu đem về từ các quyển catalogue đóng góp hơn 55% cho doanh thu 7 tỷ đô hàng năm của công ty.
Các cửa hàng Victoria's Secret vào thời gian này là một "tay chơi cừ khôi" trong ngành đồ lót. Ngành này còn được xem "bóng bẩy hơn cả Main Street."
1982: Bán lại cho The Limited.
Lý thuyết của Raymond về việc bán nội y cho các khách hàng nam càng ngày càng ít lợi nhuận và Victoria's Secret dần đối mặt với việc phá sản.
Năm 1982, hãng mở rộng thêm 6 cửa hàng, một catalogue 42 trang, và hàng năm tăng trưởng 6 triệu USD. Raymond bán Victoria's Secret Inc. cho Leslie Wexner, nhà sáng lập của Limited Stores Inc tại Columbus, Ohio, với giá 1 triệu USD. (Mặc dù các số liệu không được công bố cho đến sau này.)
1983:Thay đổi chiến lược.
Năm 1983, Leslie Wexner quyết định cách tân lại Victoria's Secret. Ông loại bỏ việc bán nội y cho khách hàng nam và thay vào đó là tập trung vào lượng khách hàng nữ. Victoria's Secret chuyển từ "bóng bẩy hơn cả Main Street" đến một nền tảng cơ bản hơn khi chủ yếu bán những loại đồ lót được thừa nhận. "Nhiều màu sắc, mẫu mã và kiểu cọ hứa hẹn sự gợi cảm gắn liền với phong cách trang nhã, sang trọng và cùng với sự hấp dẫn xa hoa mang phong cách châu Âu" được cho là thu hút và đáp ứng nhu cầu của các khách hàng nữ.
Để đẩy mạnh hình ảnh của mình, catalogue của hãng tiếp tục theo cách mà Raymond khởi đầu: ghi trụ sở của công ty trên catalogue với một địa chỉ giả ở Luân Đôn, trong khi trụ sở thật là ở Columbus, Ohio. Các cửa hãng cũng đã được trang hoàng lại mang hơi hướng Anh quốc thế kỷ 19.
Từ năm 1985 đến năm 1993, Victoria's Secret bán cả nội y nam.)
Năm 1986, 4 năm sau đó, "The New York Times" nhận xét, "trong một ngành công nghiệp mà việc giảm giá đã trở thành quy luật, điều quan trọng là về phong cách và dịch vụ ". Ngành công nghiệp nội y cũng đã thay đổi rất nhanh.
1983–1990: Xâm nhập vào các trung tâm thương mại.
5 năm sau khi mua công ty, The Limited đã chuyển biến từ 3 cửa hàng thời trang sang 346 cửa hàng bán lẻ.
Howard Gross nắm quyền chủ tịch, từ vị trí phó chủ tịch vào năm 1985.
Vào tháng 10 năm đó, báo "Los Angeles Times" cho rằng Victoria’s Secret đang thâm nhập vào thị trường cổ phiếu trong các trung tâm mua sắm; năm 1986, Victoria's Secret là chuỗi bán hàng nội y quốc nội duy nhất.
Tờ "The New York Times" đã viết một bài tường thuật về sự phát triển vượt bậc của Victoria's Secret's từ 4 cửa hàng vào năm 1982 lên đến 100 cửa hàng vào năm 1984; và những ước đoán của giới phân tích cho rằng con số này sẽ tăng đến 400 vào năm 1988.
Vào năm 1987, Victoria's Secret được công bố nằm trong danh sách "catalogue bán chạy nhất". Năm 1990, các nhà phân tích ước tính doanh thu của hãng đã tăng trưởng gấp 4 lần đến 120 triệu đô la Mỹ trong 4 năm, trở thành doanh nghiệp bán hàng qua mail phát triển nhanh nhất.
Tờ "The New York Times" cũng gọi đây là một "một nhà tiên phong đáng noi theo", khen ngợi hãng đã sử dụng "những hình ảnh quảng cáo gợi cảm, cao cấp một cách không hề nao núng để bán đồ lót với giá phải chăng."
Victoria's Secret cũng đã xuất xưởng dòng sản phẩm nước hoa đầu tiên vào năm 1991.
1990–1993: Liên tục vấp phải những vấn đề về chất lượng.
Vào đầu thập niên 90, Victoria's Secret đối mặt với một lỗ hổng trong việc quản lý đã dẫn đến việc "hãng nội y danh tiếng một thời" bị "nghi ngờ bởi hàng loạt các vấn đề về chất lượng."
Howard Gross, người đã đưa công ty trở thành một "đế chế nội y" kể từ khi Wexner mua lại vào năm 1982, đã bị chuyển đến làm việc tại một công ty con của L Brands, Limited Stores. Business Week cho rằng "cả hai bên đều chịu thiệt hại."
1993–1996: Nichols ra tay giải quyết các vấn đề về chất lượng.
Grace Nichols, khi đó là chủ tịch và giám đốc điều hành, đã vào cuộc nhằm giải quyết những vấn đề đang gặp phải của hãng; hãng thu hẹp đồng lời từ các sản phẩm, do vậy lợi nhuận của hãng cũng từ đó mà tăng trưởng chậm đi.
Victoria's Secret ra mắt dòng sản phẩm "Miracle Bra", bán được 2 triệu đô trong năm đầu, nhưng phải đối mặt với sự cạnh tranh với dòng WonderBra của hãng Sara Lee một năm sau đó. Công ty đã đáp trả lại đối thủ của họ bằng một chiến dịch truyền hình.
1996: Mở rộng thương hiệu.
Đến năm 1998, cổ phần của Victoria's Secret's trong thị trường nội y chiếm 14 phần trăm. Cũng năm đó, Victoria's Secret tấn công tiếp đến thị trường mĩ phẩm.
Vào năm 1999, công ty đề ra mục tiêu nhằm tăng độ phủ sóng hình ảnh của mình bằng "Body by Victoria".
Đầu thập niên 2000s: Tăng trưởng chậm lại dẫn đến việc đại tu.
Tháng 5 năm 2000, Wexner bổ nhiệm Sharen Jester Turney, trước đó từng là giám đốc của Neiman Marcus, làm chủ tịch hội đồng quản trị của Victoria's Secret nhằm phát triển việc buôn bán catalogue, vốn đang bị tụt hậu phía sau các phân khối sản phẩm khác. Forbes viết về Turney, khi bà xem lướt một quyển catalogue Victoria's Secret, "Chúng ta cần chấm dứt việc tập trung vào tất cả đống hở ngực này."
Vào năm 2000, Turney bắt đầu định hình lại các catalogue của Victoria's Secret từ hình ảnh "những loại đồ lót màu đen, màu tím in hình rùa con với đầy những bộ ngực trên đó" đến một thứ gì đó có thể thu hút "các khách hàng thượng lưu giờ đây sẽ cảm thấy thoải mái khi mua nội y của La Perla và Wolford."; "nhấn chìm những hình ảnh dâm đãng" như "quần jeans ôm và giày cao gót mũi nhọn"; và chuyển từ "một thứ chỉ để thay thế cho cuốn Playboy trong các phòng ký túc xá," đến một thứ gì gì đó gần hơn với tạp chí thời trang "Vogue", nơi mà nội y, đồ ngủ, quần áo và mỹ phẩm xuất hiện trong các catalogue.
Đầu năm 2000, Grace Nichols, giám đốc điều hành của Victoria's Secret, cũng tiến hành một cuộc cải cách tương tự tại các cửa hàng Victoria's Secret's, bỏ hết những thứ gì mang ảnh hưởng của thế kỷ 18 ở Anh (hay như một nhà chứa thời Victoria).
2006–2008: Tăng trưởng.
Đến năm 2006, 1 000 cửa hàng khắp nước Mỹ của Victoria's Secret's đã đóng góp một phần 3 thị phần trong thị trường nội y.
Vào tháng 5 năm 2006, Wexner thăng chức cho Sharon Jester Turney từ việc quản lý catalogue và bán hàng online của Victoria's Secret thành người lãnh đạo cả công ty. Năm 2008, bà thừa nhận rằng "chất lượng của sản phẩm không đồng nhất với tên tuổi của thương hiệu".
Vào tháng 9 năm 2006, Victoria's Secret được cho là đang cố gắng biến các catalogue của hãng trong giống như những tạp chí được viết bởi những tay săn bài của tờ "Women's Wear Daily". | 1 | null |
Adam David Lallana (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp của Anh hiện đang chơi ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Brighton & Hove Albion F.C. và đội tuyển bóng đá quốc gia Anh.
Anh bắt đầu sự nghiệp khi còn trẻ với Bournemouth trước khi chuyển sang Southampton vào năm 2000, nơi anh trở thành một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp vào năm 2006. Sau khi một thời gian cho Bournemouth mượn, Lallana trở lại đội Southampton khi đội được lên hạng tham gia Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, và trở thành đội trưởng vào năm 2012.
Lallana đã được tham gia đội tuyển quốc gia Anh thi đấu quốc tế vào năm 2013 và được chọn tham gia giải vô địch bóng đá thế giới 2014.
Thời niên thiếu.
Lallana sinh tại St Albans ở Hertfordshire nhưng khi lên 5 tuổi, anh chuyển đến khu Iford ở Bournemouth. Anh theo học tiểu học tại trường Corpus Christi và được liên thông lên trường Công giáo St Peter. Khi còn là một đứa trẻ, Lallana và bố đều cổ vũ cho đội Everton.
Thống kê số bàn thắng.
Câu lạc bộ.
Adam Lallana khởi nghiệp từ Trung tâm tài năng Bournemouth (Bournemouth Centre of Excellence), sau đó anh được các nhà tuyển trạch viên của Southampton đã phát hiện và gia nhập Viện đào tạo của The Saint năm 2000 khi mới 12 tuổi. Anh được đôn lên đội 1 năm 2006 nhưng lại được cho Bournemoth mượn vào năm 2007. Có vẻ ở đây mọi chuyện không được suôn sẻ lắm khi cả năm 2007 anh chỉ được ra sân 3 lần và được trả về Southampton ngay trong năm ấy. Trở lại Southampton, Lallana chỉ mất 1 năm để trở thành cầu thủ chính thức, và mất 4 năm để trở thành đội trưởng. Chính anh đã đóng công không nhỏ đưa Southampton từ giải hạng nhì (League One) lên hạng nhất (Championship) năm 2011, và lên Ngoại Hạng (Premier League) năm 2012. Anh là nhạc trưởng, là linh hồn của Southampton lúc ấy với lối chơi hoa mỹ nhưng không kém phần hiệu quả, mềm mại nhưng cũng rất tốc độ.
Tất cả những điều đó đã làm Rodgers và BLĐ Liverpool bỏ ra số tiền 25 triệu bảng để đưa anh về Anfield, trở thành cầu thủ đắt giá nhất hè năm ấy mà Liverpool mua về. Thật ra Brendan đã tính toán rất kĩ khi bỏ ra số tiền này: cầu thủ Anh, đá bóng tại Anh, chưa kể những thống kê mùa 13-14 cho thấy anh di chuyển rất nhiều trên sân, ngang với Henderson của mình. Tất cả những gì Rodgers cần ở một tiền vệ tấn công thì Lallana đều có, thông minh, kĩ thuật, khả năng xử lý phạm vi hẹp, cần mẫn. Đây sẽ là yếu tố rất quan trọng bởi Liverpool ưa dùng Pressing ở cường độ cao. Kể từ khi chuyển tới Liverpool, Lallana chủ yếu thi đấu ở hai vị trí tiền vệ chạy cánh và đôi khi là một tiền vệ con thoi trung tâm. Tuy nhiên, đây không phải là Southampton, nơi anh là đầu tầu, là nhạc trưởng, là nơi anh có thể xử lý bất kì cách nào anh muốn. Còn ở Liverpool, anh phải nhường khu vực giữa sân cho những Henderson, Coutinho, Lucas, phải thi đấu theo đúng chiến thuật mà Rodgers đưa ra. Không còn được chơi thứ bóng đá mình yêu thích, anh cũng chẳng còn những giây phút xuất thần như ngày xưa. Lallana bấy giờ giống như một cô công chúa rườm rà và yếu ớt. Nhưng cũng giống như khi trở về từ Bournemouth trong thất bại, anh không bao giờ bỏ cuộc hay có những phàn nàn về cách dùng người của HLV mà cố gắng tìm lại phong độ qua từng cơ hội ra sân, chẳng khác nào cách Brendan Rodgers loay hoay xử lý bài toán khó tại Anfield.
Phải đến khi Rodgers quyết định từ bỏ hoàn toàn những mẫu sơ đồ từng đưa Liverpool lên đỉnh cao của họ mùa trước là 4-3-3 và 4-4-2 kim cương, đội bóng áo đỏ mới trở lại với một hình ảnh mạnh mẽ như người hâm mộ kỳ vọng. Bản thân Lallana trở thành một trong những cái tên quan trọng nhất của hệ thống này. Được đặt vào một trong hai vị trí tiền vệ tấn công sau lưng trung phong, Lallana đã thể hiện tuyệt vời khả năng xử lý bóng trong phạm vi hẹp cũng như năng suất hoạt động như một cỗ máy. Rodgers công khai tuyên bố yêu cầu về việc 3 cầu thủ dẫn dắt hàng công phải áp sát đối phương mạnh mẽ, và đó chính là những gì Lallana đáp ứng hoàn hảo. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ. Chúng ta vẫn chưa bao giờ thấy lại 1 Lallana từng khuấy đảo giải Ngoại hạng mùa 13-14 nữa.
Giờ đây, khi Klopp đã có những quân bài cần thiết và Adam Lallana vẫn còn đang loay hoay giữa việc trở thành người thay thế cho đôi cánh Firmino – Mane, hay vào giữa cầm bóng như trận với Leicester vừa qua. Có những lúc anh tỏa sáng, có những lúc anh mờ nhạt. Nhưng có 2 điều chắc chắn, anh vẫn đang chơi đầy cố gắng và vẫn đang giành được lòng tin từ ông thầy người Đức. Hi vọng anh sẽ ngày càng toả sáng hơn nữa cho riêng bản thân anh cũng như cho Liverpool.
Thống kê sự nghiệp.
Câu lạc bộ.
DANH HIỆU | 1 | null |
Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan tham mưu cho Đảng về các vấn đề lý luận chính trị, chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa xã hội, định hướng và hoạch định các chính sách, chuẩn bị văn kiện cho Đại hội Đảng Toàn quốc.
Lịch sử.
Tiền thân của Hội đồng Lý luận Trung ương là Ban Nghiên cứu lý luận được thành lập theo Nghị quyết số 131-NQ/TW ngày 28/12/1965 của Bộ Chính trị.
Ngày 28/5/1974, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 233-NQ/TW về tổ chức và chương trình hoạt động của Ban Nghiên cứu lý luận.
Ngày 20/11/1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 32-NQ/TW về việc thành lập Viện Mác - Lê-nin thay cho Ban Nghiên cứu lý luận. Ngày 5/5/1992, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 29-QĐ/TW đổi tên Viện Mác - Lê-nin thành Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; sau đó đã sáp nhập Viện vào Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngày 30/10/1996, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 06-QĐ/TW thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương.
Chức năng, nhiệm vụ.
Chức năng.
Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị làm cơ sở cho việc hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng, về những chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận chính trị, phục vụ trực tiếp công tác lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức bộ máy khóa XIII.
Phó Chủ tịch Hội đồng.
Phó Chủ tịch thường trực
Phó Chủ tịch chuyên trách
Phó Chủ tịch | 1 | null |
Thang điểm trong hệ thống giáo dục Việt Nam sử dụng cho bậc Tiểu học, THCS, THPT và Đại học bao gồm các thang điểm: thang điểm 10, thang điểm chữ, thang điểm 4,vv...
Thang điểm 10.
Là thang điểm trong đó điểm số của học sinh, sinh viên được cho từ 0 đến 10. Đối với học sinh Tiểu học, vào cuối học kì I và cuối năm học, đối với các môn học: Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Ngoại ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc có bài kiểm tra định kì.
Đối với lớp 4, lớp 5, có thêm bài kiểm tra định kì môn Tiếng Việt, môn Toán vào giữa học kì I và giữa học kì II.
Bài kiểm tra được giáo viên sửa lỗi, nhận xét, cho điểm theo thang 10 điểm và không cho điểm thập phân.
Ở Việt Nam, thang điểm 10 được quy định trong Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông (Ban hành kèm theo Quyết định số 40/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) do Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân kí và Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy (Ban hành kèm theo Quyết định số 25/2006/QĐ-BGDĐT ngày 26/06/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) do Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển kí.
Phân loại học sinh theo thang điểm 10.
Tiêu chuẩn xếp loại học lực học sinh theo học kì và cả năm theo thang điểm 10:
Thang điểm chữ.
Là thang điểm ghi bằng chữ được sử dụng tại nhiều trường Đại học trên thế giới. Ở Việt Nam, thang điểm chữ được quy định tại Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam) do Thứ trưởng Bành Tiến Long ký.
Theo hệ thống tín chỉ tại Việt Nam, điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân. Điểm học phần là tổng điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của học phần nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một chữ số thập phân, sau đó được chuyển thành điểm chữ như sau:
1. Phân loại
Ở một số trường đại học tại Việt Nam còn xét thêm B+ C+ D+, do đó loại đạt được đánh giá như sau:
Hầu hết các trường đại học Hoa Kỳ chỉ sử dụng chấp nhận tiêu chuẩn của A, B, C, D. Do đó, A +, B +, C + được chuyển đổi xuống mức A, B, C, D tương ứng.
Thang điểm 4.
Là thang điểm được quy đổi từ thang điểm chữ như sau.
Quy đổi từ thang điểm 4 sang thang điểm 10.
Việc sử dụng cùng lúc hai loại thang điểm, thang điểm 4 theo phương pháp học chế tín chỉ và thang điểm 10 theo phương pháp học phần niên chế ở nhiều trường Đại học và Cao đẳng tại Việt Nam gây khó khăn cho các cơ quan tuyển dụng và các tổ chức cấp học bổng trong việc so sánh, đối chiếu thành tích học tập của sinh viên. Vì vậy người ta đề ra quy tắc quy đổi từ thang điểm 4 sang thang điểm 10.. Mặt khác, đây cũng là bước trung gian để quy đổi từ thang điểm 4 theo quy chế đào tạo tín chỉ sang thang điểm 100 trong Nghị định 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức của Việt Nam ban hành năm 2012 (thang điểm 10 nhân với 10 thành thang điểm 100). | 1 | null |
Cá ngừ vằn (Danh pháp khoa học: Katsuwonus pelamis), là một loài cá ngừ trong Họ Cá thu ngừ (Scombridae). Cá ngừ vằn còn được gọi là aku, cá ngừ Bắc Cực, cá ngừ đại dương, cá ngừ sọc. Cá ngừ vằn là loại cá lớn, chúng phát triển kích thước lên đến 1 m (3 ft). Nó là một loại cá biển được tìm thấy ở vùng biển nhiệt đới và ôn đới ấm và là một loài cá có giá trị kinh tế với vai trò là một loài rất quan trọng đối với ngành đánh bắt thủy sản.
Đặc điểm.
Cá thân hình thoi, lát cắt ngang thân gần tròn. Đầu nhọn, miệng hơi xiên, hai vây lưng sát nhau. Vây lưng thứ nhất có các tia vây trước cao, sau thấp dần tạo thành dạng lõm tròn. Thân không phủ vẩy trừ phần giáp ngực. lưng màu xanh thẫm, bụng màu trắng bạc. các viền vây lưng, bụng, ngực có màu bạc trắng, dọc theo lườn bụng có 3-5 sọc đen to gần song song với nhau. Đường bên uốn xuống sau vây lưng thứ 2. Chiều dài trung bình của cá từ 36 – 60 cm, khối lượng thường gặp từ 1 – 6 kg, con lớn nhất 25 kg.
Sau khi cá bột trưởng thành, chúng nhanh chóng bơi ra thành cá biển, phổ biến ở vùng nhiệt đới trên khắp thế giới, nơi mà nó sinh sống trong vùng nước bề mặt bãi cát ngầm lớn (lên đến 50.000 con cá). Chúng ăn cá, động vật giáp xác, động vật thân mềm và là một con mồi quan trọng đối với loài cá mập. Cá không có vảy, ngoại trừ trên đường bên và bộ da bọc thân trên. Chúng có chiều dài trung bình thân lên đến 80 cm (31 in) và trọng lượng từ 8–10 kg (18-22 lb). Chiều dài tối đa của nó có thể lên đến 108 cm (43 in) và trọng lượng tối đa có thể đạt 34,5 kg (76 lb), tuổi thọ tiềm năng của từ 8 đến 12 năm. Cá đẻ trứng diễn ra quanh năm ở vùng biển xích đạo, cá bột có kích thước khoảng 45 cm (18 in).
Loài cá này được phân bố rộng ở vùng nhiệt đới và ôn đới của các đại dương, gặp nhiều ở biển Nam Phi, Australia, Nhật Bản, Malaysia, Inđônêsia, Philippin, Trung Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka. Ở Việt Nam, phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, nhưng thường xuyên gặp ở vùng biển miền Trung và nhiều ở vùng biển khơi. Cá ngừ vằn là loài cá nhỏ đi thành đàn với mật độ lớn ở vùng khơi, đôi khi vào gần bờ để kiếm ăn, thường đi lẫn với cá ngừ ồ và cá ngừ chù.
Khai thác.
Trên thế giới.
Cá ngừ văn là loài cá thương mại quan trọng, thường đánh bắt sử dụng lưới vây, và được bán tươi, đông lạnh, đóng hộp, sấy khô, ướp muối, và hun khói. Với sản lượng khai thác gần 2,6 triệu tấn, đó là loài cá quan trong thứ hai của thế giới trong năm 2009. Các quốc gia có sản lượng đánh bắt cá ngừ vằn rất lớn bao gồm Maldives, Pháp, Tây Ban Nha, Malaysia, Sri Lanka và Indonesia, ngoài ra còn có Thái Lan, Ecuador, Việt Nam.
Vùng biển Trung và Tây Thái Bình Dương là ngư trường khai thác cá ngừ vằn lớn nhất thế giới, kéo dài từ phía đông Philippines đến Micronesia. Từ khu vực này, cá ngừ vằn và các loài thủy sản khác di chuyển theo hướng bắc đến bờ biển của Nhật Bản. Tổ chức WCPFC từng dự kiến cắt giảm 30% sản lượng đánh bắt cá ngừ vằn tại Thái Bình Dương, họ cố gắng để giảm bớt 100.000 tấn cá ngừ vằn bị đánh bắt. Dù có nhiều tàu khai thác hơn, hoạt động đánh bắt cá vẫn khó khăn hơn trước đây, sản lượng khai thác cá ngừ vằn vẫn giảm. Vì vậy tổ chức cần phải tìm cách để giảm sản lượng đánh bắt cá ngừ vằn xuống, cũng như sản lượng đánh bắt cá ngừ vây vàng.
Năm 2013, sản lượng cá ngừ tại Thái Bình Dương tăng do cá ngừ vằn Thái Bình Dương di cư về hướng đông. Tổng sản lượng khai thác hàng năm cá ngừ vằn và cá ngừ khác từ Trung Tây Thái Bình Dương đạt mức cao 2,5 triệu tấn. Những thay đổi liên quan đến dòng hải lưu, nhiệt độ nước, nồng độ oxy hòa tan và nguồn dinh dưỡng của khu vực Thái Bình Dương ảnh hưởng đến sự phân bố của cá ngừ. Những thay đổi này ảnh hưởng đến nơi sinh sản của cá ngừ, sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá ngừ con và nơi tìm thức ăn của cá ngừ trưởng thành. Vào thời điểm này, giá cá ngừ vằn tăng từ 2.280 USD và 2.300 USD/tấn, giá cá cỡ lớn hơn là 2.800 USD/tấn.
Châu Mỹ.
Mỹ là thị trường tiêu thụ cá ngừ vằn đóng hộp lớn nhất của Châu Á. Năm 2013, Mỹ nhập khẩu cá ngừ vằn đóng hộp đạt 225,5 nghìn tấn, trị giá gần 1,2 tỷ USD, chiếm 86% tổng số cá ngừ nhập khẩu. Năm 2013, hầu hết các mặt hàng cá ngừ tại thị trường Mỹ đều tăng giá, trong đó chỉ số giá cá ngừ vằn tăng mạnh nhất 112%.
Do ảnh hưởng của thị trường Thái Lan, giá cá ngừ vằn của Ecuador giảm xuống 400 USD/tấn Tuy vậy, Sản lượng đánh bắt cá ngừ vằn của Ecuador vẫn tăng mạnh. Nguyên nhân là do sản lượng đánh bắt cá ngừ vằn tại các vùng biển này tăng 22%, sản lượng đánh bắt cá ngừ vằn tăng khiến cho sản lượng khai thác cá ngừ vây vàng và mắt to giảm trong 9 tháng đầu năm. Khi đánh bắt cá ngừ vằn, phần lớn đội tàu của Ecuador sử dụng thiết bị gom cá (FADs) khiến cho một lượng đáng kể cá ngừ vây vàng và cá ngừ mặt to chưa trưởng thành bị đánh bắt không có chủ đích. Nó không hẳn là nguyên nhân khiến sản lượng khai thác cá ngừ vằn tăng cao và sản lượng khai thác cá ngừ vây vàng và mắt to giảm.
Châu Âu.
Cá ngừ tươi là một sản phẩm có giá trị cao tại các nước EU. Năm loại cá ngừ đang được bán chủ yếu tại thị trường này trong đó cá ngừ vằn (chiếm 57% sản lượng khai thác), tuy vậy, giá cá ngừ vằn thường có xu hướng giảm do sản lượng khai thác cá ngừ vằn vẫn ổn định trong 3 năm liên tục. Năm 2012, hơn 500 tấn cá ngừ vằn ở các containơ của Pháp được bán với giá 2.090 USD/tấn vì giá cá ngừ nguyên liệu đóng hộp tăng. Giá cá ngừ thế giới có ảnh hưởng đến Tây Ban Nha khi giá cá ngừ vằn giảm theo thị trường Bangkok. Giá cá ngừ vằn tại Tây Ban Nha giảm xuống còn 1.100 EUR/tấn, và có thể thấp hơn, so với các giao dịch cuối cùng ở mức 1.200 EUR/tấn vì có hàng tấn cá ngừ đang trên đường từ Đại Tây Dương tới Tây Ban Nha. Năm 2013, Giá cá ngừ vằn ở Tây Ban Nha ổn định ở 1.800 EUR/tấn.
Nhật Bản.
Năm 2012, Nhật Bản là một trong những nhà cung cấp cá ngừ vằn cho ngành cá ngừ đồ hộp Thái Lan và đã xuất khẩu 23.927 tấn cá ngừ vằn nguyên con đông lạnh, giảm 33% so với năm 2011 và giảm 50% so với 3 năm trước đây. Nhập khẩu từ Nhật Bản giảm cũng là một trong những nguyên nhân làm thu hẹp nguồn cung cá ngừ vằn nguyên liệu của Thái Lan, năm 2012 đạt 514.000 tấn, giảm 19% so với năm 2011. Năm 2012, tổng khối lượng xuất khẩu cá ngừ vằn nguyên con đông lạnh đạt 27.286 tấn, giảm 40% so với năm trước. Nhật Bản cung cấp khoảng 7 – 8% tổng nhu cầu cá ngừ nguyên liệu của Thái Lan trong năm 2012.
Nhu cầu cá ngừ vằn tăng mạnh ở Trung Quốc đang đe dọa hoạt động khai thác và tiêu thụ cá ngừ vằn của Nhật Bản. Lượng tiêu thụ thủy sản ở Trung Quốc hiện gấp 4 lần Nhật Bản và tốc độ tiêu thụ tăng hơn 10% mỗi năm. Ba năm trước đây, Trung Quốc đã gửi 11 tàu lưới vây (công suất 1.000 tấn) đến khu vực Vùng biển Trung và Tây Thái Bình Dương khiến các tàu khai thác của Nhật Bản không thể triển khai được các biện pháp quản lý nguồn lợi. Xu hướng lạm thác nguồn lợi cá ngừ của Trung Quốc đang ảnh hưởng xấu tới tiêu thụ cá ngừ vằn ở Nhật Bản. Lượng cập cảng cá ngừ vằn do các tàu câu tay của Nhật Bản khai thác năm 2012 đạt mức thấp kỷ lục với 30.100 tấn.
Thái Lan.
Giá cá ngừ vằn trên thế giới khá biến động, chẳng hạn như trong năm 2014, giá cá ngừ vằn liên tục trồi sụt. Sự tăng giá cá ngừ vằn dự kiến là chủ đề nóng tại hội nghị cá ngừ năm 2014. Tháng 4 năm 2013, giá cá ngừ vằn đạt 2.400 USD/tấn nhưng đã giảm xuống 1.150 USD/tấn trong tháng 5. Giá cá ngừ vằn giảm xuống mức thấp nhất. Trên thế giới, giá trị của cá ngừ vằn đã có sự bùng nổ mạnh mẽ từ năm 2000 tới năm 2012, thì giá cá ngừ vằn năm 2012 bằng 146% giá năm 1980. Trong tháng 4 năm 2014, giá cá ngừ vằn để vằn đóng hộp tại thị trường Bangkok, Thái Lan đang ở mức 1.150 USD/tấn, gần chạm đáy, giá sẽ dao động quanh mức này trong 2 tháng tới, sau đó sẽ dần dần tăng lên, nhưng một số khác lại cho rằng có khả năng giá giảm xuống thấp hơn. Việc Giá cá ngừ vằn giảm ảnh hưởng tới xuất khẩu cá ngừ của Thái Lan vì sản phẩm chủ lực là cá ngừ đóng hộp do đó xuất khẩu cá ngừ của Thái Lan thời gian gần đây chịu ảnh hưởng lớn bởi xu hướng giá cá ngừ vằn.
Sau đó, Giá cá ngừ vằn tại Băng Cốc Thái Lan đang bắt đầu ổn định trở lại, sau khi chạm đáy vào tháng 4. Cá ngừ vằn giao dịch trong tháng 4 có giá là 1.160 USD/tấn CNF sau khi nhiều khách hàng tạm dừng thu mua để chờ giá cá giảm xuống mức thấp nhất. Vào tháng 6, những người mua nhỏ đang phải trả 1.600 USD/tấn cá ngừ vằn tại chợ đấu giá ở Bangkok, Thái Lan. Giá cá ngừ vằn đang tăng nhanh trước lệnh cấm khai thác bằng thiết bị gom cá (FAD) tại khu vực Trung Tây Thái Bình Dương, bắt đầu từ tháng 7 và kéo dài cho tới tháng 9. Trước đó vào năm 2013, Cuối tháng 10 và đầu tháng 11, giá cá ngừ vằn nguyên con cỡ 1,8 – 3,4 kg tại Bangkok vào khoảng 1.700 – 1.720 USD/tấn. Và sau khi đạt mức giá cao nhất là 2.350 USD/tấn vào hồi tháng 4/2013, giá đã tiếp tục giảm xuống khoảng 27% so với mức giá cao nhất.
Việt Nam.
Việt Nam cũng là quốc gia khai khác và xuất khẩu cá ngừ vằn. Cá ngừ đại dương du nhập vào Việt Nam từ năm 1994. Loài cá được tập trung khai thác chính là cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to, cá ngừ vằn với trữ lượng lên tới 600.000 tấn, trong đó cá ngừ vằn chiếm khoảng 50%, nhóm cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to thu hoạch khoảng 50.000 tấn trong khi cá ngừ vằn chiếm trữ lượng lớn, khả năng khai thác cho phép tới 200.000 tấn/năm.
Việt Nam có hơn 50 doanh nghiệp chế biến cá ngừ đại dương, tập trung ở các tỉnh miền Trung, trong đó chỉ khoảng 10 doanh nghiệp chế biến cá ngừ vằn. Việt Nam bị áp tiêu chuẩn về xác định nguồn gốc, lý lịch con cá như vị trí đánh bắt, thời gian đánh bắt… Hiện các nước nhập khẩu cá ngừ, đặc biệt là cá ngừ vằn luôn yêu cầu người đánh bắt phải cung cấp lý lịch, nguồn gốc con cá, là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá ngừ đại dương của Việt Nam.
Tuy nhiên, sản phẩm cá ngừ Việt Nam từng bị Tổ chức EII cảnh báo về việc không được sử dụng nguyên liệu cá ngừ vằn khai thác bằng phương pháp lưới cản. EII đã yêu cầu tất cả các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá ngừ Việt Nam phải có chứng nhận của cơ quan nhà nước đối với từng lô nguyên liệu cá ngừ vằn cập cảng. Có được chứng nhận này, các doanh nghiệp mới được xuất khẩu sản phẩm cá ngừ vào các thị trường như EU, Mỹ…
Các nước khác.
Tại Philippines, sản xuất cá ngừ vằn tăng 209 nghìn tấn trong năm 2013. Thương mại thủy sản của nước này cũng đạt mức tăng 4,3% về mặt sản lượng trong năm 2013, do lượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ vằn cập cảng từ các tàu nước ngoài và địa phương cho các nhà máy sản xuất đồ hộp tăng. Ở Indonesia, cá ngừ vằn là loài duy nhất còn duy trì trong mức cho phép theo tổ chức MMAF, cá ngừ vằn được khai thác ở mức vừa phải. Giá cá ngừ vằn tại chợ ở Băngcôc, Thái Lan đạt trên 2.000 USD/tấn, có hợp đồng được thực hiện ở mức giá 2.080 USD/tấn. Trong hầu hết các hợp đồng hiện tại ở Băngcôc, giá cá ngừ vằn Tây Thái Bình Dương khoảng 2.050 USD/tấn.
Ẩm thực.
Trong ẩm thực Indonesia, cá ngừ vằn được biết đến như cakalang. Món ăn phổ biến nhất từ cá ngừ vằn là cakalang fufu từ Minahasa. Nó là một cá ngừ vằn được nướng kẹp trên khung tre. Cá ngừ vằn cũng là không thể thiếu các món ăn Maldives.
Cá ngừ vằn được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực Nhật Bản, nơi mà nó được biết đến như Katsuo (鲣 hoặc かつお). Ngoài việc ăn chín cháy bằng các phương pháp hun khói, nướng (Katsuo Tataki, 鰹 の タタキ) và nguyên liệu trong món sushi (寿司 hoặc すし) và sashimi (刺身 hoặc さしみ), nó cũng được hun khói và sấy khô để làm katsuobushi (鲣 节 hoặc かつおぶし), thành phần quan trọng cốt lõi trong món dashi (出 汁 hoặc だし). Nó cũng là một thành phần quan trọng trong Katsuo shiokara (塩 辛 hoặc しおから). Cá bào của Nhật được làm từ cá ngừ vằn tên tiếng Nhật là bonito) xông khói, muối khô. Đây là đặc sản của vùng Vùng Shikoku.
Thịt cá ngừ cắt nhỏ trộn với hành lá cắt nhuyễn và nêm giấm gạo. (tỉnh Kōchi- ở các vùng khác, món này được nấu với lát cá ngừ vằn hơ lửa). Các lát cá ngừ bào "Katsuobushi" và tảo bẹ khô ("kombu") là nguyên liệu chính cho nước dùng "dashi", và nhiều loại sốt như sốt "soba no tsukejiru". Cá ngừ sống được rút ruột và thái lát. Phần phi-lê cá được bỏ vào xửng và để lửa sôi nhẹ trong khoảng thời gian 1 giờ. Phần phi-lê được xông khói bằng gỗ sồi, sồi bộp cho đến khi miếng cá trở nên khô. Các phần cháy và phần dơ bẩn bên ngoài miếng thịt sẽ được cạo bỏ đi rồi phơi miếng cá dưới ánh nắng.
Tiếp theo, miếng cá sẽ được phun xịt vi nấm Aspergillus glaucus và được để trong phòng kín để lên mốc. Các miếng katsuobushi lớn sẽ được cất giữ, khi cần mới lấy ra bào bằng một dụng cụ gọi là katsuobushi kezuriki. Trong quá trình lên mốc, mốc sẽ liên tục được cạo bỏ đi cho đến khi mốc ngừng phát triển. Cá sẽ trở nên cứng và khô như thanh gỗ. Lúc này, nó chỉ còn nặng ít hơn 20% trọng lượng ban đầu, và được gọi là karebushi (枯節) hay honkarebushi (本枯節).
Tuy nhiên trong cá ngừ vằn lại có một tỷ lệ nhất định thủy ngân gây ô nhiễm. Phụ nữ mang thai được khuyến cáo là không nên ăn với số lượng lớn. Ngoài ra, gan cá ngừ vằn của đã được thử nghiệm trên toàn cầu cho kết quả là nhiễm tributyltin. TBT là một hợp chất hữu cơ có đưa vào hệ sinh thái biển thông qua sơn chống gỉ được sử dụng trên thân tàu, và đã được xác định là rất độc hại. Khoảng 90% cá ngừ vằn dương tính với ô nhiễm, đặc biệt là ở Đông Nam Á, nơi mà các quy định sử dụng TBT ít nghiêm ngặt hơn ở châu Âu hoặc Mỹ. | 1 | null |
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội là cơ quan thảo luận, đóng góp ý kiến về các nội dung của dự thảo sửa đổi Luật, Hiến pháp, Pháp lệnh của Quốc hội.
Chức năng, nhiệm vụ.
Thẩm tra dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đề nghị của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội về xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị của đại biểu Quốc hội về luật, pháp lệnh;
Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh về dân sự, hành chính, về tổ chức bộ máy nhà nước, trừ tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp; thẩm tra các dự án khác do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao;
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua;
Chủ trì thẩm tra đề án về thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; báo cáo của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về dân sự, hành chính, về tổ chức bộ máy nhà nước, trừ tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ thuộc lĩnh vực Uỷ ban phụ trách;
Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Uỷ ban phụ trách;
Kiến nghị các biện pháp cần thiết nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật.
Danh sách Ủy viên.
Khóa XIV.
Khóa 14 Ủy ban Pháp luật có 43 thành viên: | 1 | null |
Battir (tiếng Ả Rập: بتير) là một ngôi làng của người Palestine ở Bờ Tây, cách Bethlehem khoảng 6,4 km về phía Tây, và Tây nam của Jerusalem.
Trước đây, nó là làng pháo đài Betar, được xây dựng vào thế kỷ thứ hai của những người Do Thái. Khu vực từng là nơi diễn ra các trận chiến cuối cùng của cuộc nổi dậy Bar Kokhba. Trong thời kỳ Byzantine và Hồi giáo nơi đây là một khu vực định cư, và dưới thời Ottoman chủ yếu người Hồi giáo sinh sống tại đây. Battir nằm ngay trên tuyến đường sắt Jaffa-Jerusalem, phục vụ như là đường ranh giới đình chiến giữa Israel và Jordan từ năm 1949 cho đến cuộc Chiến tranh Sáu ngày, khi nó thuộc về Israel. Trong thời gian trước đây, ngôi làng nằm dọc theo tuyến đường từ Jerusalem tới Bayt Jibrin. Trong năm 2007, ước tính Battir có dân số khoảng 4.000 người và được đặt dưới sự kiểm soát của Chính quyền Nhà nước Palestine.
Lịch sử.
Quá khứ.
Battir đã được xác định là vị trí cũ của Betar cổ (còn gọi là Beiter). Làng Palestine hiện đại được xây dựng xung quanh các địa điểm khảo cổ "Khirbet el-Yahud" (tiếng Ả Rập có nghĩa là "tàn tích của người Do Thái") và "được xác định đồng nhất với Betar, thành lũy cuối cùng của cuộc nổi dậy thứ hai chống lại người La Mã, nơi nhà lãnh đạo của cuộc chiến Simon bar Kokhba qua đời vào năm 135. Ngôi làng hiện nay là một cảnh quan nông nghiệp với những thửa ruộng bậc thang và những ngôi nhà dọc theo đường của các bức tường pháo đài cổ. Có một ngôi mộ của học giả Eleazar của Modi'im trong thời kỳ "Tannaic" hiền cũng nằm tại đây.
Hiện đại.
Năm 1596, Battir xuất hiện trong bộ sổ thuế Ottoman như một ngôi làng ở "Nahiyah" (bộ phận hành chính bao gồm các ngôi làng và thị trấn nhỏ) trong "Liwa" (huyện) của Quds. Nó có khoảng 24 hộ và hai người Hồi giáo, nộp thuế bằng lúa mì, hoa quả, dê hoặc mật ong.
Năm 1806, nhà thám hiểm người Pháp Victor Guérin đã tới khu vực này. Đến năm 1883, Quỹ thăm dò Palestine đã tiến hành cuộc khảo sát phía Tây Palestine, mô tả Battir như một ngôi làng có kích thước làng vừa phải, nằm trên sườn dốc của một thung lũng sâu.
Trong thế kỷ 20, Battir phát triển nhờ vào vị trí của nó nằm bên cạnh tuyến đường sắt Jaffa–Jerusalem, cung cấp việc truy cập vào các đô thị khác cũng như là một nhà ga cho các hành khách trên tuyến đường. Trong cuộc chiến tranh năm 1948, hầu hết dân làng đã bỏ chạy, nhưng Mustafa Hassan và một vài người khác ở lại. Vào ban đêm họ vẫn thắp sáng nến trong nhà, và vào buổi sáng họ chăn thả gia súc. Khi gần tới ngôi làng, Israel nghĩ Battir vẫn còn có người sinh sống nên đã từ bỏ tấn công. Các Hiệp ước đình chiến đã phân ranh giới cắm mốc, tuyến đường sắt và làng Battir chỉ cách về phía đông biên giới Jordan với Israel có vài mét. Ít nhất 30% diện tích đất của Battir của nằm về phía Israel theo ranh giới cắm mốc, nhưng dân làng được phép giữ nó nếu họ giữ an toàn tuyến đường sắt, do đó người dân làng này là những người Palestine duy nhất được phép vào lãnh thổ Israel để canh tác đất của họ trong thời điểm trước Chiến tranh Sáu ngày.
Sau cuộc Chiến tranh Sáu ngày vào năm năm 1967, Battir nằm dưới sự kiểm soát của Israel, nhưng kể từ khi ký kết Hiệp định tạm thời về Bờ Tây và Dải Gaza (Hiệp định Oslo II, hiệp định Taba) vào năm 1995, nó đã được quản lý bởi Chính quyền Quốc gia Palestine (PNA). Battir được quản lý bởi một hội đồng làng bao gồm 9 thành viên do PNA bổ nhiệm.
Dân số.
Tại thời điểm điều tra dân số năm 1931, đã có 172 hộ với dân số 755 người Hồi giáo, 2 người Kitô giáo và một người Do Thái. Nó đã tăng lên 1.050 người Hồi giáo năm 1945. Năm 2007, Battir có dân số 3.967 người, và vào năm 2012 dân số ước tính khoảng 4.500 người.
Địa lý.
Battir nằm cách Bethlehem 6,4 km về phía tây bắc. Nó nằm trên một ngọn đồi ở "Wadi el-Jundi" (dịch nghĩa là "Thung lũng của những người lính"), chạy về phía tây nam qua những ngọn đồi Judean đến đồng bằng ven biển. Ngôi làng nằm ở cao khoảng 760 mét so với mực nước biển. Battir có mùa hè ôn đới mát mẻ và mùa đông ít lạnh hơn, thỉnh thoảng có tuyết rơi. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 16 độ C.
Hệ thống thủy lợi và ruộng bậc thang cổ.
Battir có một hệ thống thủy lợi độc đáo sử dụng để tưới tiêu qua các cống dẫn thủ công cho các thửa ruộng bậc thang nhân tạo. Các mạng lưới tưới tiêu thời La Mã vẫn được sử dụng cho tới ngày nay, cung cấp nước sạch trong hơn 2.000 năm qua. Hệ thống thủy lợi này chảy qua một thung lũng dốc gần ranh giới cắm mốc, nơi một phần của tuyến đường sắt Hejaz dưới thời Ottoman. Tám gia tộc chính của Battir thay phiên nhau tưới nước cho cây trồng của làng mỗi ngày. Do đó, có một câu nói địa phương tại Battir như sau, "một tuần kéo dài tám ngày, chứ không phải là bảy". Theo nhà nhân chủng học Giovanni Sontana của UNESCO đã khẳng định có rất ít những nơi còn lại trong khu vực có truyền thống nông nghiệp địa phương vẫn còn tồn tại tới ngày này, tuy không còn nguyên vẹn, nhưng đó là một phần hoạt động sinh hoạt của làng kéo dài hơn 2000 năm qua.
Trong năm 2007, Battir kiện Bộ Quốc phòng Israel để cố gắng buộc họ phải thay đổi tuyến đường quy hoạch của hàng rào Bờ Tây của Israel, trong đó sẽ cắt giảm một phần của hệ thống thủy lợi 2.000 tuổi của Battir vẫn còn đang được sử dụng. Cơ quan Tự nhiên và Công viên Israel (INPA) cơ quan thông qua tuyến đường ban đầu của hàng rào vào năm 2005, đã đổi ý và viết trong một bài báo chính sách dài 13 trang thể hiện rằng, ruộng bậc thang Battir cũng là một di sản của Israel cần được giữ gìn bảo vệ. Đây là lần đầu tiên một cơ quan chính phủ Israel bày tỏ phản đối việc xây dựng một phân đoạn của hàng rào. Bản báo cáo này là một trong bốn ý kiến chuyên gia thể hiện rằng, việc xây dựng hàng rào là hủy hoại hệ thống canh tác độc đáo này. Và vào đầu tháng năm 2013, Tòa án Tư pháp tối cao Israel đã ra phán quyết rằng, Bộ Quốc phòng nước này phải giải thích tại sao các tuyến đường của hàng rào ngăn cách khu vực làng Battir không bị dừng lại hoặc hay đổi lại hình dạng. Bộ Quốc phòng phải nộp kế hoạch mới để đảm bảo hàng rào biên giới sẽ không phá hủy Battir trước ngày 2 tháng 7 năm 2013. Một đơn yêu cầu khác về việc đặt lại hàng rào phân chia cũng đã được đệ trình bởi những khu định cư người Do Thái Beitar Illit gần đó, vì họ lo ngại hàng rào sẽ ngăn cản sự mở rộng của khu định cư.
Năm 2011 UNESCO trao một giải thưởng trị giá 15.000 đôla cho Battir về việc "Bảo vệ và quản lý cảnh quan văn hóa" cho các thửa ruộng bậc thang và hệ thống thủy lợi cổ xưa. Tháng 5 năm 2012, Chính quyền Quốc gia Palestine đã gửi một phái đoàn đến trụ sở chính của UNESCO tại Paris để thảo luận về khả năng đưa Battir vào Danh sách Di sản Thế giới. Thứ trưởng Du lịch của PNA là Hamadan Taha nói rằng, tổ chức này muốn duy trì và bảo vệ nó như là một di sản của người Palestine. Tuy nhiên, đề cử của Battir đã quá muộn. Trong một tài liệu liên quan, INPA lưu ý rằng Israel nên hợp tác với Palestine để bảo vệ cảnh quan Battir. | 1 | null |
Grammodes geometrica là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Trước đây loài này được phân loại trong họ Erebidae, cùng với tất cả các thành viên cũ của họ Arctiidae và Lymantriidae. Việc phân loại lại chưa thoả mãn sự đồng thuận chung và nhiều nguồn và ấn bản vẫn lấy theo phân loài cũ.
Loài nay được tìm thấy ở phía đông Địa Trung Hải đến vùng nhiệt đới Đông và Úc. Ấu trùng ăn các loài Phyllanthus, Cistus, Diospyros, Ricinus, Oryza, các loại cỏ khác nhau, Polygonum, táo ta và Tamarix. | 1 | null |
Ichneutica agorastis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chúng được Edward Meyrick mô tả đầu tiên vào năm 1887 từ các mẫu vật thu thập được tại hồ Guyon và Akaroa và được đặt tên là "Mamestra agorastis". Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand, dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, ông đã đặt lại loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica averilla là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chúng là loài đặc hữu của New Zealand.
Loài này được George Hudson mô tả lần đầu tiên vào năm 1921 với danh pháp "Melanchra averill". Chúng được Averil Lysaght phát hiện vào tháng 12 năm 1920 trên vùng núi Egmont. Alfred Philpott cũng mô tả loài này vào năm 1924 dưới danh pháp "Melanchra furtiva" từ các mẫu vật thu thập được xung quanh núi Arthur cũng như ở các khu vực miền núi gần hồ Wakatipu. Năm 1988, John S. Dugdale đặt loài này vào chi "Graphania" và ghi nhận danh pháp "Melanchra furtiva" như một từ đồng nghĩa mới. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica lithias là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được Edward Meyrick mô tả vào năm 1887 từ các mẫu vật thu thập được tại Castle Hill gần Christchurch và được đặt tên là "Mamestra lithias". Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica maya là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được G. V. Hudson mô tả vào năm 1898 từ các mẫu vật thu thập được trên núi Arthur. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica mollis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được George Howes mô tả vào năm 1908 với danh pháp "Melanchra mollis" từ các mẫu vật được thu thập trong và xung quanh Otago và Southland. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica morosa là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được mô tả bởi Arthur Butler vào năm 1880. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Tổ chức góp vốn cộng đồng Kiva (Kiva Microfund) là một tổ chức phi lợi nhuận 501(c)(3) cho phép các cá nhân cho người thu nhập thấp hoặc các công ty ít vốn hoặc sinh viên ở hơn 70 quốc gia trên thế giới vay tiền qua Internet. Sứ mệnh của Kiva là "kết nối cộng đồng thông qua việc cho vay để giảm nghèo".
Từ năm 2005, Kiva đã gây được quỹ từ cộng đồng lên tới hơn 1 triệu dự án cho vay, với tổng hơn hơn nửa tỷ đô la Mỹ, với tỷ lệ hoàn trả 99%. Cho tới tháng 11 năm 2013, Kiva đã tập trung được khoảng 1 triệu đô la Mỹ mỗi ngày. Nền tảng Kiva đã thu hút được hơn 1 triệu nhà hảo tâm từ khắp nơi trên thế giới.
Kiva hoạt động theo hai dạng - Kiva.org và KivaZip.org. Dạng thứ nhất dựa trên mạng lưới các tổ chức trung gian (field partner) quản lý các khoản vay tại địa phương. Các tổ chức này thường là các tổ chức tài chính vi mô, các doanh nghiệp xã hội, trường học, hoặc các tổ chức phi lợi nhuận. KivaZip.org điều phối các khoản vay với lãi suất 0% trực tiếp tới các nhóm vay qua hình thức thanh toán di động và Paypal. Với cả hai dạng Kiva.ỏrg và KivaZip.org, Kiva đều đưa ra các thông tin cá nhân của những người đi vay bởi họ mong muốn các nhà hảo tâm có thể liên lạc trực tiếp với người được vay.
Bản thân Kiva không thu thập bất cứ lãi suất nào từ các khoản vay và các nhà hảo tâm trên Kiva không thu được lãi khi cho vay. Hoạt động của tổ chức Kiva chỉ được hỗ trợ từ các nguồn tài trợ, khoản vay, và đóng góp tự nguyện của người dùng, tập đoàn, và các tổ chức quốc gia. Kiva có trụ sở tại San Francisco, Hoa Kỳ. | 1 | null |
Samsung Gear Live là đồng hồ thông minh chạy Android Wear công bố và phát hành bởi Samsung và Google vào 25 tháng 6 năm 2014. Nó được phát hành cùng với LG G Watch một thiết bị Android Wear, một phiên bản tùy chỉnh của Android thiết kế đặc biệt cho đồng hồ thông minh và thiết bị đeo khác. Nó tương thích với hầu hết các điện thoại chạy Android 4.3 hoặc cao hơn.
Phần cứng.
Gear Live là thiết bị đeo tay thứ 5 được phát hành của dòng Gear. Gear Live có vỏ bằng kim loại và dây đeo có thể thay thế. Nó có cảm biến đo nhịp tim.
Phần mềm.
Hệ thống thông báo dựa trên công nghệ Google Now, cho phép nó chấp nhận, nhận, tải lên và xử lý các lệnh đưa ra bởi người dùng. Gear Live sẽ bán ra vào tháng 2014 tại Mỹ với mức giá US$199 trên cửa hàng Google Play. | 1 | null |
Lithognathus là một chi cá trong Họ Cá tráp (Sparidae). Các loài thuộc chi này phân bố tại vùng Nam châu Phi, Nam Phi, Namibia, Angola), nhưng một loài trong chi này là "L. mormyrus" lại được tìm thấy ở Địa Trung Hải, Biển Đen và Vinh Biscay và nhiều loài khác thì lại được tìm thấy ở Đông Đại Tây Dương. Kích cỡ của các loài trong chi dao động từ . Chi này gồm có các loài sau: | 1 | null |
Plusia festata
Plusia festata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Mô tả.
Bướm trưởng thành có sải cánh khoảng 32–42 mm. Chúng thường xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 8 ở Tây Âu và từ tháng 5 đến tháng 10 ở các vùng phía bắc của Bắc Mỹ. Thực vật thức ăn của ấu trùng gồm các loài thực vật trong chi Calamagrostis. | 1 | null |
Leucania albivena là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Loài này được tìm thấy ở Ma-rốc đến Libya, Trung và Nam Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Iran và Turkmenistan.
Bướm trưởng thành bay quanh năm. Có nhiều thế hệ được sinh ra mỗi năm.
Ấu trùng ăn nhiều loài Gramineae. | 1 | null |
Dentex là một chi cá trong Họ Cá tráp (Sparidae). Chi này gồm có 10 loài được công nhận trong đó loài đặc trung của chi này là Dentex dentex (Dentex thông thường) sống ở Địa Trung Hải, Biển Đen, Đại Tây Dương, Anh và phân bố ở một số vùng của châu Phi, chúng sống ở các rặng đá sâu cách biển 200m là loài cá săn mồi. Cá bột có màu xanh nâu trong khi cá trưởng thành thì có màu xanh xám. | 1 | null |
Buin là một thành phố và một xã của Chile, tỉnh Maipo, Vùng Đô thị Santagio, hình thành một phần của Greater Santiago. Nó là một thành phố bao gồm các thị trấn của Maipo, Viluco, Linderos, Valdivia de Paine, Alto Jahuel, Los Guindos và El Recurso. Buin nằm vào khoảng về phía nam của Santiago trong vùng làm rượu vang của thung lũng Maipo.
Nhân khẩu.
Dựa theo cuộc điều tra dân số năm 2002 của Viện Thống kê Quốc gia, Buin nằm trên một dải đất rộng và có 63,419 cư dân (31,440 nam và 31,979 nữ). Trong số này, 53,506 (84.4%) người sống ở vùng đô thị và 9,913 (15.6%) người sống ở vùng nông thôn. Dân số tăng 20.1% (10,627 người) trong khoảng từ năm 1992 đến năm 2002.
Quản lý.
Là một xã, Buin có đơn vị quản lý cấp độ 3 (ở Chile) điều hành bởi hội đồng thành phố, đứng đầu là một thị trưởng được bầu chọn trực tiếp 4 năm một lần. Thị trưởng nhiệm kỳ 2008-2012 là Rodrigo Etcheverry.
Trong đơn bị bầu cử ở Chile, Buin được đại diện trong buồng bầu cử bởi Ramón Farías (PPD) and ông José Antonio Kast (UDI) là một phần của khu bầu cử thứ 30, (cùng với San Bernardo, Paine và Calera de Tango). Đại diện của xã trong Thượng nghị viện là Guido Girardi Lavín (PPD) và Jovino Novoa Vásquez (UDI) là một phần của cuộc bầu cử thượng nghị sĩ lần thứ 7 (Phía Tây Santiago). | 1 | null |
Lithomoia solidaginis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Nó được tìm thấy ở hầu hết châu Âu, ngoại trừ bán đảo Iberia, Ireland, Iceland và phía tây và phía nam của bán đảo Balkan.
Sải cánh dài 45–51 mm. Con trưởng thành bay từ tháng Tám đến tháng Chín hoặc đầu tháng Mười và bị hấp dẫn bởi đường và thỉnh thoảng với ánh sáng. Có một thế hệ mỗi năm. | 1 | null |
Khuông nhạc (tiếng Anh: "stave", "staff") là một tập hợp gồm năm dòng kẻ ngang song song đồng thời cách đều nhau, tạo thành bốn khoảng trống ở giữa gọi là bốn khe nhạc. Từ dòng kẻ cuối lên dòng kẻ đầu thể hiện sự gia tăng của cao độ. Thứ tự dòng và khe được đếm từ dưới lên trên. Dòng dưới cùng được gọi là "dòng thứ nhất" còn dòng trên cùng được gọi là "dòng thứ năm". Khuông nhạc được chia thành các ô nhịp bởi các đường kẻ đứng gọi là vạch nhịp. Khuông nhạc là nơi để nhà soạn nhạc viết các ký hiệu nhạc theo ý đồ sáng tác.
Cao độ tuyệt đối của mỗi dòng được định bởi vị trí đặt ký hiệu khóa nhạc ở bên trái khuông nhạc. Ví dụ, khóa Sol đặt ở dòng kẻ thứ hai (đếm từ dưới lên) nghĩa là cao độ tuyệt đối của dòng đó tương ứng với nốt Sol đầu tiên bên trên Đô giữa.
Khuông nhạc có ý nghĩa tương tự một đồ thị toán học thể hiện cao độ đối với thời gian. Tuy nhiên không giống như đồ thị toán học, số lượng nửa cung - được thể hiện bởi bước nhảy theo phương đứng từ một dòng kẻ lên khe nhạc liền kề - còn tùy thuộc vào khóa. Ngoài ra, thời điểm chính xác để bắt đầu một nốt nhạc không tương ứng chính xác với vị trí theo phương ngang của nốt nhạc đó; trái lại, thời điểm vừa nêu phụ thuộc vào ký hiệu nhạc gắn với nốt nhạc đó và phụ thuộc vào nhịp độ.
Các vị trí trong khuông nhạc.
Vị trí xét theo phương thẳng đứng của thân nốt nhạc trên khuông nhạc cho biết cần phải chơi nốt gì: các nốt càng ở trên cao thì cao độ càng cao. Thân nốt nhạc có thể nằm trên dòng kẻ nhạc hoặc trong các khe nhạc. Nếu nốt nhạc nằm ngoài phạm vi của khuông nhạc thì phải kẻ thêm dòng kẻ phụ để từ đó viết nốt nhạc đó vào.
Muốn biết đích xác vị trí nào trong khuông nhạc ứng với nốt gì thì phải căn cứ vào khóa nhạc (khóa Sol hoặc khóa Fa chẳng hạn) ở đầu khuông nhạc. Khóa này sẽ xác định dòng kẻ mà nó nằm thì ứng với nốt gì, rồi lấy đó làm căn cứ để suy ra tất cả các nốt còn lại. Ví dụ, khóa Sol (nằm trên dòng kẻ thứ hai của khuông nhạc) nghĩa là nốt nhạc nằm trên dòng này là nốt Sol bên trên Đô giữa. Quãng nhạc giữa hai vị trí liền kề nhau theo phương đứng tương đương với một cung trong gam âm nguyên. Sau khi đã có khóa nhạc, có thể sử dụng dấu hóa sau khóa để chỉnh sửa các nốt nhạc hoặc sử dụng dấu hóa bất thường để chỉnh sửa từng nốt riêng lẻ. Khuông nhạc mà không có dấu khóa có thể được dùng để thể hiện các âm thanh của nhạc cụ gõ; mỗi dòng thể hiện một nhạc cụ khác nhau.
Khuông nhạc liên hiệp.
Kẻ một đường thẳng đứng về bên trái một nhóm các khuông nhạc là cách để thành lập một "hệ thống" khuông nhạc, nghĩa là tất cả các khuông nhạc trong hệ thống sẽ được chơi cùng một lúc. Sử dụng dấu ngoặc móc để nhóm các khuông nhạc của nhiều nhạc cụ lại với nhau thành một đơn vị, chẳng hạn nhóm các khuông nhạc dành cho bộ dây trong dàn nhạc. Sử dụng dấu ngoặc ôm để nhóm các khuông nhạc của riêng một nhạc cụ (chẳng hạn dương cầm, đại phong cầm, harp, marimba) thành một đơn vị. Thỉnh thoảng có dùng thêm dấu ngoặc móc thứ hai để chỉ ra các nhạc cụ nào được nhóm thành cặp, chẳng hạn nhóm hai cái oboe hoặc hai cây vĩ cầm thành một cặp. Trong một số trường hợp, người ta cũng dùng dấu ngoặc ôm cho mục đích này thay vì dấu ngoặc móc.
Trong bản nhạc phổ dành cho bốn giọng hát SATB (soprano - alto - tenor - bass) - đặc biệt là trong nhạc phổ thánh ca - người ta dùng cách ký hiệu "divisi", nghĩa là chi làm hai khuông nhạc: khuông trên dành cho soprano và alto còn khuông dưới thì cho tenor và bass.
Khuông nhạc lớn.
Khi ghép hai khuông nhạc lại với nhau bằng dấu ngoặc ôm hoặc muốn chơi cả bản nhạc mà chỉ cần một người (thường vận dụng nhạc cụ gõ hoặc harp) thì người ta dùng khuông nhạc lớn ("great stave", "grand staff"). Thông thường, khuông trên dùng khóa Sol còn khuông dưới dùng khóa Fa. Trong trường hợp này, nốt Đô giữa được định vị ở giữa hai khuông nhạc, hoặc được viết trên dòng kẻ phụ thứ nhất bên dưới khuông trên hoặc được viết trên dòng kẻ phụ thứ nhất bên trên khuông dưới. Có trường hợp rất hiếm khi người ta vẽ một dòng kẻ đơn ở chính giữa kèm theo một khóa alto (khóa Đô dòng 3) và không dùng dòng kẻ phụ; cách này thường được dùng để chỉ ra rằng các nốt Si, Đô và Rê trên dòng này có thể được chơi bằng tay trái hoặc tay phải đều được. Khi chơi dương cầm hoặc harp, khuông nhạc trên thường được chơi với tay phải còn khuông dưới thì chơi với tay trái. Đối với bản nhạc dành cho đại phong cầm, một khuông nhạc lớn bao gồm ba khuông con, hai khuông ứng với hai tay còn một khuông nữa thì ứng với chân (đặt trên bàn đạp).
Lịch sử.
Hệ thống văn bản nhạc phương Tây sơ khai thời Trung cổ được viết bằng các dấu neume, chưa thể hiện chính xác cao độ mà chỉ thể hiện được hình dáng của giai điệu (sự lên xuống của dòng nhạc). Có lẽ cách ký hiệu này được dùng cho mục đích giúp ghi nhớ các giai điệu mà người xưa học vẹt lại.
Trong thời kỳ từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 11, có nhiều hệ thống ký nhạc ra đời nhằm làm rõ hơn cao độ, chẳng hạn hệ thống "diastematic neume": độ cao của neume trên trang giấy ứng với cao độ tuyệt đối của nó (các bản chép Longobardi và Beneveto ở Ý cho thấy người xưa dùng kỹ thuật này khoảng năm 1000). Ngoài ra trong một số ít các bản chép tay thời xưa còn có hệ thống ký nhạc theo "chữ đôi", trong đó sử dụng các chữ cái để ghi nốt nhạc giống với cách thức hiện đại nhưng vẫn gắn kèm với neume. Tuy nhiên, có khá nhiều bản chép tay sử dụng một hoặc nhiều đường kẻ ngang để chỉ các cao độ khác nhau.
Chuyên luận "Musica enchiriadis" (năm 900) sử dụng cách ký hiệu Daseia để chỉ rõ các cao độ. Cách ký hiệu như ngày nay bắt nguồn từ Guido d'Arezzo (s.990 - m.1050), và khuông nhạc bốn dòng kẻ của ông hiện vẫn còn được sử dụng trong các ấn phẩm Thánh ca Gregoriano mặc dù đã bỏ đi cách dùng màu đỏ và màu vàng mà d'Arezzo đề ra. Khuông nhạc năm dòng kẻ xuất hiện ở Ý vào thế kỷ 13. Đến cuối thế kỷ 16 vẫn tồn tại song song các loại khuông nhạc gồm bốn, năm và sáu dòng kẻ. | 1 | null |
Cá tráp trắng (Danh pháp khoa học: Diplodus sargus) là một loài cá trong Họ Cá tráp, thuộc chi Diplodus. Đây là một loài bản địa phân bố ở phía Đông của Đại Tây Dương đến phía Tây của Ấn Độ Dương, chúng được tìm thấy trong vịnh Biscay phía Nam của Nam Phi, kể cả Madeira và đảo Canary ở Địa Trung Hải và Biển Đen. Một vài cá thể thỉnh thoảng được tìm thấy ở bờ biển Ấn Độ Dương ở Nam Phi, Mozambique và Madagascar, và Oman. Chúng có thể được tìm thấy ở độ sâu 50 m. Một vài cá thể có chiều dài tới 45 cm nhưng chiều dài trung bình khoảng 22 cm. Cá là động vật ăn phù du ở biển, ăn các loài giáp xác. | 1 | null |
Lutjanus là một chi trong Họ Cá hồng được tìm thấy trong các đại dương lớn gồm Đại Tây Dương, Ân Độ Dương và Thái Bình Dương Chi này gồm cả hai loài ("L. fuscescens" và "L. maxweberi") sống trong nước ngọt và nước lợ.
Các loài.
Hiện tại có 73 loài được ghi nhận trong chi này: | 1 | null |
Pristipomoides là một chi cá biển trong họ Cá hồng. Chi này được lập ra bởi Pieter Bleeker vào năm 1852.
Từ nguyên.
Hậu tố "oides" trong tên gọi của chi trong tiếng Latinh có nghĩa là "tương đồng", tức giống với chi "Pristipoma" (đồng nghĩa với "Pomadasys", khi đó còn được coi là cùng họ với nhau), nhưng khác biệt ở chỗ không có lỗ nhỏ ở hàm dưới và vây đuôi đầy vảy.
Các loài.
Hiện hành có 12 loài được ghi nhận các loài trong chi này:
Phân bố.
Có 3 loài sống ở Tây Đại Tây Dương ("P. aquilonaris", "P. freemani", "P. macrophthalmus"), còn lại được phân bố trải dài trên khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, riêng "P. sieboldii" còn được tìm thấy ở ngọn núi ngầm Seamount phía đông nam Đại Tây Dương.
Các loài "Pristipomoides" được tìm thấy ở độ sâu tương đối lớn, từ vài chục cho đến ít nhất là 650 m.
Sinh thái.
Thức ăn của "Pristipomoides" là những loài cá nhỏ, động vật giáp xác và động vật thân mềm. Tuổi thọ lớn nhất được biết đến ở chi này là 44 năm tuổi, thuộc về "P. filamentosus".
"P. multidens" là loài cá hồng đầu tiên được báo cáo là có tình trạng liên giới tính, trong đó tuyến sinh dục của một con cá đực chứa các tế bào trứng đa ngăn nằm rải rác trong mô tinh hoàn.
Thương mại.
Hầu hết "Pristipomoides" là những loài cá thực phẩm có tầm quan trọng về mặt thương mại ở khu vực phân bố của chúng. Một số loài được đánh giá là có thịt ngon và chất lượng. | 1 | null |
Fecal Coliform hay F. Coli là một loại vi khuẩn gram âm kỵ khí, hình que, không tạo bào tử. Vi khuẩn coliform thường có nguồn gốc từ ruột của các động vật máu nóng. Coliform phân có khả năng phát triển trong môi trường có mặt các muối mật hoặc các chất bề mặt tương tự, là các oxidaza âm, và tạo ra axit và khí từ lactose trong vòng 48 giờ ở nhiệt độ 44 ± 0,5 °C. Thuật ngữ "coliform chịu nhiệt" chỉ nhóm này thì chính xác hơn và đang được chấp nhận hơn là "coliform phân".
Coliform bacteria bao gồm các chi xuất phát từ phân (như "Escherichia") cũng như các chi không có nguồn gốc từ phân (như "Enterobacter", "Klebsiella", "Citrobacter"). Khảo nghiệm được dùng là một chỉ số về ô nhiễm phân; đặc biệt là cho "E. coli", một vi sinh vật chỉ thị cho các mầm bệnh có thể có mặt trong phân. Sự hiện diện của coliform phân trong nước có thể không gây hại trực tiếp, và không nhất thiết chỉ ra sự hiện diện của phân. | 1 | null |
Paracaesio là một chi cá biển trong họ Cá hồng. Chi này được lập ra bởi Pieter Bleeker vào năm 1875.
Từ nguyên.
Tên gọi của chi được ghép bởi "pará" (παρά; "gần, bên cạnh") trong tiếng Hy Lạp cổ đại và "Caesio", một chi trong họ Cá miền, có lẽ do các loài giữa hai chi này khá giống nhau.
Các loài.
Chi này hiện hành có 9 loài được công nhận, bao gồm:
Theo Allen và Anderson (2001), "P. xanthurus" là một nhóm phức hợp loài có thể bao gồm hai (hoặc nhiều) loài khác. | 1 | null |
Etelis là một chi cá biển trong họ Cá hồng, được lập ra bởi Georges Cuvier vào năm 1828.
Từ nguyên.
Không rõ hàm ý của cái tên này.
Các loài.
Hiện hành có 5 loài được ghi nhận trong chi này, gồm:
Phân bố.
Ngoại trừ "E. oculatus" là loài bản địa của Tây Đại Tây Dương, các loài còn lại được tìm thấy trên khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Sinh thái.
Chi sán lá đơn chủ "Lagenivaginopseudobenedenia" có hai loài là "La. etelis" và "La. tinrowi" đều ký sinh trên vật chủ là "E. carbunculus", cũng là vật chủ duy nhất được biết đến đối với chủng ký sinh này. "La. etelis" sau đó đã được tìm thấy trên cả "E. coruscans".
"Etelis" có tuổi thọ khá cao, điển hình như "E. coruscans" có thể sống đến hơn 50 tuổi, còn "E. carbunculus" đạt độ tuổi cao nhất là 43. | 1 | null |
Cá nước lạnh hay cá lạnh (tiếng Anh là: "Coldwater fish" hay "Cold fish") là thuật ngữ đặt trong bối cảnh nuôi trồng thủy sản đề cập đến các loài cá có tập tính thích nhiệt độ nước mát hơn so với các loại cá nhiệt đới, thường dưới 20 °C. Một số ví dụ là cá chép koi và cá vàng. Đây là những loài có xu hướng tăng trưởng chậm hơn và sống lâu hơn cá sống ở vùng nước ấm hơn, và thường cảm thấy dễ dàng hơn để nuôi giữ.
Cá nước lạnh là loài cá như cá vàng, cá chép koi, và các thành viên khác của họ cá chép mà có thể tồn tại ở nhiệt độ nước lạnh. Khi giữ trong một bể cá gia đình, họ không yêu cầu một máy sưởi ấm và khá thoải mái ở khoảng 60 °F (15 °C). Những con cá này cũng là sự lựa chọn hấp dẫn cho các ao nuôi ngoài trời và có thể đứng nhiệt độ xuống đến 10 °C. | 1 | null |
Spirama helicina là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Loài này được tìm thấy ở Nga (Đông Nam Siberia, Ussuri, Primorye), Trung Quốc (Tứ Xuyên, Vân Nam), Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản (Honshu, Kyushu), Ấn Độ (Assam, Meghalaya, Tây Bengal), Nepal, Thái Lan, Malaysia, Lào, Việt Nam, Sri Lanka, Philippines (Negros), Java, Sumatra và Sulawesi.
Sải cánh dài 60–70 mm. Giống như nhiều loài thuộc chi Spirama, mô hình trên cánh khi con bướm đang nghỉ ngơi trông giống như khuôn mặt của một con rắn có miệng hơi mở. | 1 | null |
Sâu keo mùa thu hay sâu keo hại ngô (Danh pháp khoa học: "Spodoptera frugiperda" là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Trong giai doạn biến thái sâu của chúng, loài này được xem là loài gây hại cho nông nghiệp, tàn phá cây ngô (bắp), chúng đã xuất hiện và gây hại trên diện rộng ở Việt Nam tại các tỉnh như Sơn La, Lào cai, Thái Bình, Bắc Kan, Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Nai, Huế... | 1 | null |
Cá vàng thông thường hay hibuna là loại cá vàng không có thay đổi gì khác từ tổ tiên của chúng khác với màu sắc của nó. Hầu hết các giống cá vàng kiểng đã được bắt nguồn từ giống đơn giản. Cá vàng thông thường đến trong một loạt các màu sắc bao gồm màu đỏ, màu cam/vàng, trắng, đen và màu vàng hoặc chanh. Cá vàng thông thường là loài chủ yếu để sử dụng làm cá cảnh. Cá vàng thường thường cũng còn được sử dụng như con mồi sống (cá mồi) cho rùa nước ngọt, đặc biệt cá ăn thịt khác như Piranha.
Tập tính.
Cá vàng thông thường là những động vật xã hội những cá thể thích sống theo nhóm. Chúng có thể tương tác với bất kỳ cá thuộc cùng một loài. Nếu chuyển vào bể cá vàng khác, một con cá vàng phổ biến thường phải giao tiếp và quen với bạn cùng bể cá mới của nó bằng cách cọ xát lên cơ thể của các loài cá khác. Cử chỉ giới thiệu bản thân phổ biến nhất sẽ là bằng cách bơi bên cạnh con cá vàng khác với đầu hướng về phía trước, hoặc bằng cách bơi bên cạnh con cá vàng khác với cái đầu của nó phải đối mặt với hướng ngược lại, hoặc thậm chí bằng cách bơi trên một con cá vàng trong thời trang vuông góc. Học là một hành vi phổ biến khi có một con cá mới trong hồ. Sau một thời gian, hành vi học hành này cuối cùng kết thúc, và sớm mỗi cá thể sẽ một lần nữa được bơi và khám phá các hồ cá của riêng mình.
Cá vàng không phải là động vật có tập tính lãnh thổ. Tuy nhiên, nếu hồ cá của bạn đã là quá nhỏ cho một con cá vàng, nó chắc chắn sẽ là quá nhỏ cho hai hoặc nhiều hơn. Căng thẳng là không lành mạnh đối với bất kỳ cá vàng nào. Trong trường hợp xấu nhất, một hoặc hai con cá sẽ bắt nạt phần còn lại để con kia chết đói. Ăn thịt đồng loại thường hiếm (có thể xảy ra khi một con cá sắp chết hay đã chết) nhưng trong không gian chật hẹp, tình huống căng thẳng, cá vàng có thể cư xử thất thường.
Cá vàng là cá tò mò sẽ nhanh chóng trở nên nhàm chán mà không cần các vật dụng hoặc các loài cá khác để tương tác với chúng. Nếu được đặt trong một bể cá cá vàng trần sẽ lắng xuống đáy và chỉ di chuyển khi ăn hoặc sợ hãi chấn động đột ngột. Tuy nhiên, nếu đặt trong một chiếc bể với đầy đủ sỏi, phụ kiện bể cá hoặc thực vật (thật hay giả) chung sẽ hành động giống như mình ở nhà. Cá vàng sẽ mất màu nếu bị giữ trong ánh sáng mờ. Cũng giống như con người, chúng cần ánh sáng mặt trời để giữ được sắc màu.
Chăm cá.
Với việc chăm sóc và quan tâm đúng mức, cá vàng thông thường có thể trở nên thuần hóa. Một khi đã quen thuộc với khuôn mặt chủ nhân của nó, nó sẽ bơi về phía tay người chủ khi cho ăn và có thể được quan sát. Cá vàng nhỏ thường sẽ tránh bất kỳ hình thức liên lạc của con người. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi này không còn trong một con cá vàng cỡ trung và trưởng thành. Một con cá vàng toàn trưởng thành có nhiều khả năng để ăn thức ăn trực tiếp từ tay của chủ nhân của nó không chút do dự. Trong khi hành vi này được chào đón bởi các chủ sở hữu con cá vàng, nó đã chứng minh vấn đề trong các ao nuôi ngoài trời, nơi những kẻ săn mồi có thể ăn con mồi thân thiện. Cá vàng trưởng thành cũng sẽ khám phá môi trường xung quanh.
Nuôi cá vàng thông thường là tương đối dễ dàng. Trong tình trạng sinh sản của con đực sẽ phát triển các điểm nhỏ màu trắng trên bìa mang của nó và con cái sẽ trở nên đầy đặn. Con đực sẽ đuổi theo con cái cho đến khi cô phóng trứng của nó ra, sau đó con đực sẽ tưới tinh dịch của chúng lên và sẽ trở thành thụ tinh. Những quả trứng sau đó sẽ dính vào bất kỳ bề mặt có sẵn.
Cá vàng thường có thể được giữ trong các khu vườn nước ao ngoài trời suốt cả năm. Ao ngoài trời có yêu cầu chăm sóc tương tự như bể cá trong nhà với một số trường hợp ngoại lệ đáng chú ý khác như lượng ánh sáng mặt trời, ô nhiễm môi trường tự nhiên và nhân tạo, tảo, lựa chọn của bạn tình ao (tức là tảo ăn, ếch, vv). Ao ngoài trời có xu hướng trở thành hệ sinh thái thủy sinh thu nhỏ, thu hút nhiều loài động vật và thực vật. Ở vùng khí hậu nóng, điều quan trọng là nhiệt độ ao không tăng lên một cách nguy hiểm mức độ cao sẽ giết chết cá. Vào mùa đông, cá có thể trở nên chậm chạp và ngừng ăn. Điều này không có nghĩa là chúng bị bệnh, mà đúng hơn là sự trao đổi chất đã chậm lại. | 1 | null |
Heliothis virescens là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Loài bướm này được tìm thấy trên khắp miền đông và tây nam Hoa Kỳ cùng với các bộ phận của Trung Mỹ và Nam Mỹ.
Nó là loài gây hại chính cho các loại cây trồng trên đồng ruộng bao gồm thuốc lá (như tên gọi chung của nó cho thấy) và bông. Tuy nhiên, nó có thể phát triển mạnh trên nhiều loại cây ký chủ khác nhau từ trái cây, rau, hoa và cỏ dại. Loài này còn được ghi nhận trên các loại cây "Penstemon laevigatus", "Desmodium", "Lespedeza bicolor", "Medicago lupulina", "Geranium dissectum", "Rhexia", "Rumex", "Physalis", "Lonicera japonica", "Lupinus", "Ipomoea", "Jacquemontia tamnifolia", "Passiflora", "Sida spinosa", "Helianthus", "Linaria canadensis," và "Abutilon theophrasti".
Việc kiểm soát loài gây hại này đã được chứng minh là đặc biệt khó khăn do nhiều yếu tố , nhưng khả năng kháng thuốc bảo vệ thực vật và thuốc trừ sâu trên diện rộng đã được chứng minh là đặc biệt đáng quan tâm.
"Chloridea virescens" trước đây được dặt trong chi "Heliothis", nhưng đã được chuyển sang chi "Chloridea" là kết quả của nghiên cứu di truyền và hình thái học được công bố vào năm 2013. | 1 | null |
Cá biển sâu hay cá nước sâu, cá đáy biển là tên gọi chỉ về các loài cá sống ở biển và sinh sống dưới sâu trong bóng tối bên dưới bề mặt nước nơi mà ánh sáng không xuyên thấu tới. Các loài cá lantern (Myctophidae) đến nay là cá biển sâu phổ biến nhất. Cá biển sâu khác bao gồm cá đèn (Anomalopidae), cá mập cookiecutter, Gonostomatidae, Bộ Cá vảy chân, và cá rắn Viper. Chỉ có khoảng 2% loài sinh vật biển được biết đến sống trong môi trường biển khơi. Điều này có nghĩa rằng chúng sống trong cột nước như trái ngược với các sinh vật đáy sống trong hoặc trên đáy biển.
Các sinh vật biển sâu thường sống biển khơi sâu (1000m-4000m) và những khu vực sâu 4000m-6000m. Tuy nhiên, đặc điểm của các sinh vật biển sâu, chẳng hạn như có khả năng phát quang sinh học có thể được nhìn thấy trong bóng tối (sâu 200m-1000m). Lớp tối thiểu oxy tồn tại ở đâu đó giữa độ sâu 700m và 1000m sâu tùy thuộc vào nơi trong đại dương. Khu vực này cũng là nơi mà các chất dinh dưỡng phong phú nhất. Các biển khơi sâu có nghĩa là không có ánh sáng thâm nhập vào khu vực này của đại dương. Các khu vực này chiếm khoảng 75% diện tích đại dương có thể ở sinh sống. Khu vực mà cá biển sâu không sống là vùng epipelagic (0m-200m), là khu vực nơi mà ánh sáng xuyên qua nước và quang hợp xảy ra. | 1 | null |
Ichneutica acontistis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chúng được Edward Meyrick mô tả vào năm 1887 từ một mẫu vật được thu thập tại Castle Hill. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica alopa là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chúng được Edward Meyrick mô tả vào năm 1887 từ các mẫu vật thu thập được gần hồ Coleridge và hồ Guyon ở Canterbury. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica arotis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chúng được Edward Meyrick mô tả vào năm 1887 từ các mẫu vật thu được từ Blenheim, Christchurch và Rakaia. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica atristriga là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chúng được Francis Walker mô tả vào năm 1865 từ một mẫu vật thu thập được ở Auckland. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica lissoxyla là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được mô tả bởi Edward Meyrick vào năm 1911 từ một mẫu vật thu thập được trên núi Arthur và được George Hudson thu thập. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Ichneutica micrastra là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Nó được Edward Meyrick mô tả vào năm 1897 từ một mẫu vật thu thập được ở Wellington và do George Hudson thu thập. Đây là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm ở New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi "Ichneutica". | 1 | null |
Chuc Hoang là một doanh nhân người Pháp gốc Việt, ông là người giàu thứ 176 của Pháp. Ông đang có ý định mua lại Công ty quản lý tháp Eiffel trong một thương vụ trị giá khoảng 250 triệu euro.
Sự nghiệp.
Chuc Hoang sang Pháp học Trường Trung học Saint-Louis, rồi học đại học tại Trường Bách khoa Paris. Ông ra trường năm 1966, cùng khóa với Thierry Desmarest (nguyên Chủ tịch Tập đoàn Dầu hỏa Total) và Jean-François Roverato (nguyên Chủ tịch Công ty Xây dựng Eiffage).. | 1 | null |
Tyta luctuosa là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Bướm này có nguồn gốc ở các nước châu Âu, châu Á và Bắc Phi. Bướm dài khoảng 10 mm, có màu nâu sẫm với một đốm trắng lớn trên mỗi bốn cánh. Hai thế hệ bướm lớn xuất hiện mỗi năm, một vào cuối mùa xuân và một vào mùa hè. Tại những khu vực ấm áp thường có một thế hệ thứ ba. Con cái đẻ khoảng 400-500 trứng. Ấu trùng là giai đoạn phá hoại. Nó ăn lá và hoa, đặc biệt là nụ mới. | 1 | null |
Platycerus caraboides là một loài kẹp kìm thuộc về họ Lucanidae, phân họ Lucaninae.
Loài bọ này hầu hết được tìm thấy ở châu Âu, ở Cận Đông và Bắc Phi.
"Platycerus caraboides" có cơ thể dẹp, xanh và lục ánh kim. Con trưởng thành dài khoảng và hầu hết được gặp hầu hết từ tháng 5 tới tháng 7, cây chủ hầu hết là cây lá rộng, nhưng cũng có thể là cây lá kim (nhiều loài "Pinus"). Ấu trùng thường sống trên gỗ mục của cây sồi. | 1 | null |
Cá vược miệng rộng hay còn gọi là cá vược Mỹ miệng rộng, hay cá vược Mỹ (Danh pháp khoa học: Micropterus salmoides) là một loài cá thuộc họ cá Thái dương (Centrarchidae) bắt nguồn từ Bắc Mỹ. Đây là một trong những loài xâm lấn với đặc trưng là loài ăn tạp, phàm ăn.
Đặc điểm.
Cá vược Mỹ có đặc trưng là chúng có miệng rộng, kéo dài lên gần mắt, có những đốm đen kéo dài đến tận vây đuôi, nhưng không có chấm đen ở cuống vi đuôi, vi lưng có sự phân chia không rõ rệt. Chúng có chiều dài từ 97 cm và 10,1 kg, con sống lâu nhất là 23 năm tuổi, thời gian mà quần đàn cá Vược Mỹ là 4,5–14 năm.
Khi con cá vược miệng rộng bật khỏi mặt nước, con cá vược cũng cong người thành hình chữ C và đẩy nó khỏi nước theo hướng thẳng đứng nhưng không thể kiểm soát hướng bật. Cá vược rất kém trong việc nhảy lên đất liền, chúng hiếm khi bò trên mặt đất, thông thường, cá vược chỉ nhảy lên mặt đất khi chúng bị trôi dạt vào bờ, bị các loài ăn thịt săn đuổi hoặc khi nhảy lên bắt côn trùng và vô tình rơi xuống đất.
Đây là loài cá ăn thịt và cá vược miệng rộng cũng là loài ăn tạp điển hình, thức ăn chính của chúng gồm cá, tôm, lưỡng cư và côn trùng nhưng nó có thể ăn tất cả mọi thứ bao gồm các loài cá vược khác, chim nước, ếch và ngay cả con của nó. Đây là một loài ăn thịt, phàm ăn, săn mồi một mình và ăn cả ngày lẫn đêm. Chúng dễ sinh sản, thức ăn lại dồi dào vì thế số lượng của chúng tăng rất nhanh và khó kiểm soát.
Câu cá.
Ở Bắc Mỹ, kỷ lục cá vượt miệng rộng được xem là "chén thánh" của kỷ lục câu cá nước ngọt do cá vược miệng rộng là một trong những loài cá bị săn tìm gắt gao nhất, và ngành câu cá vượt có giá trị hàng tỷ đô la, kỷ lục thế giới về cá vượt miệng rộng là một trong những kỷ lục lâu đời nhất và được tôn trọng nhất trên thế giới, đã đứng vững trong 77 năm. Và trong khi kỷ lục thần thánh này chưa bị sụp đổ, nó cũng bị san bằng. Manabu Kurita ở Aichi, Nhật Bản bắt được một con nặng 10 kg vào ngày 02/07/2009 ở hồ Biwa gần Kyoto, ngang bằng kỷ lục được lập bởi George Perry ở Jacksonville, Georgia ngày 02/06/1932. Có rất nhiều tranh cãi và bất đồng quanh kỷ lục này, nhưng cuối cùng đã được công nhận ngang bằng.
Dịch bệnh.
Cá vược miệng rộng có thể mắc một loại Virus gây bệnh trên cá vược miệng rộng được tìm thấy trên cá lóc (Northen Snakehead) ở Virginia. Đây được gọi là virus cá vược miệng rộng (largemouth bass virus). Virus đã được tìm thấy ở cá vược, cá thái dương, và các loài cá khác, nhưng cá vược miệng rộng là loài duy nhất phát triển thành bệnh từ nó. Căn bệnh này làm cho một số cá vược miệng rộng không thể lặn xuống và chỉ khiến chúng nổi trên mặt nước. Cá chết quy mô lớn đã xảy ra ở một số quần thể cá vược miệng rộng bị nhiễm bệnh.
Những yếu tố chủ quan cũng góp phần cho việc nhiễm bệnh của cá vược miệng rộng. Thực tế, nguồn gốc của virus cá vược miệng rộng không chắc chắn. Báo cáo đầu tiên của nó ở Mỹ là vào năm 1991 ở Florida. Theo đó, nó đã được phát hiện ở phía đông, phía nam, và miền Trung Tây Mỹ năm 2001, hầu hết các vùng nước Virginia được kiểm tra không có hoặc rất thấp tỷ lệ lây nhiễm, nhưng vào tháng 8 năm 2011, virus đã được tìm thấy trong tất cả mười sáu nhánh của các con sông trên toàn tiểu bang và sông chính Virus cá vược miệng rộng là một Ranavirus, một nhóm vi khuẩn được biết là gây ra các bệnh gây tử vong ở động vật lưỡng cư và có liên quan đến sự suy giảm mật độ đáng kể.
Xâm lấn.
Do thịt ngon và hấp dẫn về mặt thể thao, cá vược miệng rộng được du nhập rộng rãi khắp thế giới. Do đó số lượng cá này sẽ tăng rất nhanh theo thời gian. Vì chúng có sức xâm lấn rất mạnh về cả thức ăn và môi trường sống cho nên các loài cá bản địa có thể sẽ giảm đi do không cạnh tranh lại với loài cá này về thức ăn và môi trường sống, làm cho môi trường sinh thái bị thay đổi. Tại Mỹ, một phân tích di truyền cho thấy rằng trữ lượng cá vược Florida trong các hồ chứa ở Texas tác động đến quần thể cá vược sống ở bên ngoài, xa vị trí của hồ chứa trên thực tế. Cá vược miệng rộng bản địa được nuôi thả lâu dài và gần như liên tục trong lịch sử ở Texas. Tuy nhiên, cá vược Florida được coi là một loài cá có thể phát triển đến một kích thước lớn hơn. Do đó, các nỗ lực nuôi thả trong các hồ chứa ở Texas đã chuyển từ cá vược miệng rộng sang cá vược Florida.
Người ta đã phân tích thành phần di truyền của 69 con cá vược miệng rộng trên các dòng suối ở trung tâm Texas không được nuôi thả. Những kết quả này được đem so sánh với DNA của 27 con cá vược miệng rộng và các mẫu cá vược Florida cho thấy sự hiện diện của DNA cá vược Florida trong cá vược ở tất cả các vị trí lấy mẫu, bao gồm cả các vị trí xa hơn 50 dặm ngược dòng từ vị trí nuôi thả được ghi chép lại gần đây nhất. Điều này cho thấy rằng ảnh hưởng của cá nuôi thả đã vượt xa các hồ chứa được quản lý. Mặc dù nuôi thả những con cá vược Florida phi bản địa trong các hồ chứa có thể làm tăng cơ hội đánh bắt cá, thì cũng có khả năng làm thay đổi hệ thống dòng chảy kết nối trực tiếp với hồ chứa.
Loài cá vược Mỹ miệng rộng đã được Trung Quốc nhập nuôi và Bộ Thủy sản Việt Nam cũng đã cho nhập nuôi ở Việt Nam với hy vọng trở thành cá nuôi. Tuy nhiên sau một thời gian nuôi thử nghiệm thì có dấu hiệu loài cá này cạnh tranh thức ăn và nơi ở với các loài cá bản địa. Có khuyến cáo không nên tuyên truyền mở rộng thả nuôi loài cá này vì lượng cá bị thoát ra ngoài tự nhiên, không còn trong khu vực thả nuôi của con người. Tuy nhiên người dân Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tiếp tục nhập giống từ bên Trung Quốc về. Do lợi ích kinh tế mà vài năm về trước, nhiều gia đình cũng đã ồ ạt nhập giống loài cá này về để thả nuôi. Hiệu quả kinh tế trông thấy, người dân nơi đây mỗi ngày bán ra thị trường khoảng hàng trăm kg loại cá. Tuy nhiên, những dấu hiệu đe dọa đến môi trường sinh thái nước nơi đây bắt đầu xuất hiện. | 1 | null |
Body Language (tựa tiếng Việt: Ngôn ngữ cơ thể) là album phòng thu thứ chín của ca sĩ Thu Minh, sản xuất bởi Nguyễn Hải Phong. Album đã giành được đề cử "Album của năm" tại lễ trao giải "Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến" lần thứ 7 vào năm 2012.
Bối cảnh thực hiện.
Năm 2006, Thu Minh đã cho ra mắt album "Thiên đàng", là album đầu tiên cô theo đuổi dòng nhạc dance. Mọi người đã khuyên Thu Minh rằng cô cần đẩy nhanh việc ra album mới cùng thể loại vì cho rằng hình ảnh cũng như giọng hát của cô phù hợp và "làm cho chất dance mạnh mẽ và cuồng nhiệt hơn." Chính nhạc sĩ Võ Thiện Thanh, người cùng cô thực hiện "Thiên đàng", cũng đã chia sẻ: "Một producer sản xuất cho ca sĩ nào đó thì phải chọn cho ca sĩ đó một dòng nhạc thích hợp. Tố chất của Thu Minh khiến tôi chọn nhạc dance để thực hiện cho album của cô, hoàn toàn không phải chọn theo xu hướng hay phong trào". Tuy nhiên, cô không có hứng thú cũng như không tìm thấy đối tác nào phù hợp cho dự án.
Giải thích về tựa đề của album, Thu Minh chia sẻ: "Ngôn ngữ hình thể là định nghĩa rất đơn giản và đúng với bản chất của nhạc dance. Lúc đó, các cử động của thân thể là ngôn ngữ biểu lộ cảm xúc sôi nổi và cuồng nhiệt của những người yêu dòng nhạc này."
Sáng tác.
"Body Language" không chỉ khai thác đề tài tình yêu mà còn đề cập đến những vấn đề xã hội.
Nhạc sĩ Nguyễn Hải Phong chia sẻ: "Giọng chị Thu Minh đẹp nhưng phong cách pop hơi cũ, còn nhạc của tôi lại giàu tiết tấu. Thành ra, cả hai phải nương nhau, chị Minh tiết chế giọng hát nhưng lại bạo dạn hơn so với Pop, còn tôi thì pha trộn một chút chất liệu cổ điển vào nhạc điện tử".
Phát hành và quảng bá.
Dù đã khởi động dự án từ khá lâu nhưng do bận tham gia chương trình "Bước nhảy hoàn vũ năm 2011", Thu Minh phải trì hoãn việc ra mắt album của mình.
"Đường cong" đã được trình diễn đầu tiên tại chương trình "Bốn mùa yêu thương" ở Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh tháng 2 năm 2010. Nhà báo Hữu Trịnh của "Thể thao & Văn hóa" cho rằng sau màn trình diễn, ca khúc đã trở thành một "'quả bom sex' bùng nổ dữ dội trên thị trường."
Thu Minh đã tổ chức một buổi biểu diễn giao lưu tại cà phê sách Phương Nam ngày 16 tháng 9 năm 2011 tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm phục vụ việc quảng bá album.
Năm 2012, DJ Robin Skouteris đã phát hành một bản megamix bao gồm "Bay", "Xinh", "Đường cong" và "Taxi" đến từ album và chia sẻ rằng anh cảm thấy "thật thú vị khi làm việc cho những nghệ sĩ trên toàn thế giới." Ca khúc đã nhận được nhiều chú ý từ khán giả Việt Nam và nước ngoài.
Thu Minh trình diễn tại lễ Cống hiến.
Video âm nhạc.
"Bay".
Vì thành công của "Bay" trên các bảng xếp hạng, Thu Minh đã quyết định thực hiện video âm nhạc cho ca khúc. Video âm nhạc được đạo diễn bởi Tuấn Chelsea, anh nhận xét sự nghiêm túc và khó tính của cô trên trường quay: "Tôi chưa làm việc với ai mà thẳng thắn như Thu Minh. Không hài lòng điều gì là chị ấy nói ngay, còn nếu cái nào đúng ý thì chị ấy im lặng và cười."
Trong một phân cảnh của video được quay tại một bãi đất trống gần cầu Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh, Thu Minh được nhấc bổng lên cao ở độ cao 8m cách mặt đất với sự trở giúp của cascadeur Quốc Thịnh. Tuy nhiên trên trường quay, vì dùng quá nhiều hiệu ứng khói lửa nên cô bị ngất xỉu, cũng như phần cáp nâng cô lên bất ngờ bị đứt, nhưng may mắn Thu Minh không bị thương. Chính vì những trục trặc này mà cảnh quay phải quay đi quay lại từ 5 giờ chiều hôm trước đến 5 giờ sáng hôm sau.
"Taxi".
Video âm nhạc của "Taxi" được đạo diễn bởi Nguyễn Hải Phong và đã được thực hiện để tham gia Giải thưởng Video Âm nhạc Việt năm 2011 của kênh MTV Việt Nam. Dù đã được lên kế hoạch phát hành vào 8 tháng 10 năm 2011, nhưng ngày 5 tháng 10, "Taxi" cùng bốn video khác trong sáu video chuẩn bị được công chiếu đã bị rò rỉ trên mạng với chất lượng kém. Tuy nhiên, video của Thu Minh chỉ trong ba ngày đã thu hút 40 ngàn lượt xem cùng rất nhiều phản hồi tích cực từ khán giả.
Ý tưởng của video đã được Nguyễn Hải Phong và Thu Minh nghĩ đến trong quá trình thực hiện album "Body Language". Trong ý tưởng ban đầu của video, Thu Minh muốn trở thành "một hình tượng phụ nữ mạnh mẽ, thích thời trang" và nội dung chỉ là một câu chuyện diễn ra trên đường phố. Nguyễn Hải Phong sau đó đã sửa đổi nội dung và thay đổi nhân vật của Thu Minh trở thành "một người vừa sành về thời trang, vừa ngớ ngẩn, vừa gây cười cho khán giả," và Thu Minh đã rất thích ý tưởng này.
Video sau đó đã giúp Nguyễn Hải Phong nhận được hạng mục Đạo diễn xuất sắc nhất tại lễ trao giải 15 tháng 1 năm 2012.
Tiếp nhận.
Phản hồi từ nhà báo.
Phóng viên ký danh TM từ mục "Tin tức V6" của VTV6 gọi album "đánh dấu bước chuyển của Thu Minh đến với dòng nhạc điện tử."
Trong phần dự đoán của mình cho Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến lần thứ 7, phát thanh viên Tuna của Xone FM đã dự đoán đề cử "Album của năm" sẽ thuộc về Thu Minh, nhận xét rằng "ảnh hưởng của album này đến nền âm nhạc đại chúng là không thể chối cãi", nhưng cho rằng về từng mặt riêng lẻ như tư suy sáng tạo, ý tưởng và chất nhạc không bằng những album còn lại trong danh sách đề cử, cũng như chỉ ra "Bay", "Taxi" và "Đường cong" là những ca khúc yêu thích của phát thanh viên này trong album.
Thu Minh cho rằng "Body Language" cô và Nguyễn Hải Phong đã nhận được nhiều lời khen cho album, cho rằng album là "tiêu biểu của dòng nhạc dance Việt và đã tạo ra hiệu ứng dance trong xã hội.""...tôi thấy âm nhạc của Thu Minh thể hiện được việc bắt kịp những xu hướng âm nhạc trên thế giới vì năm qua, nhạc dance hay nhạc electronic rất phát triển. Bên cạnh đó, album của Thu Minh còn thể hiện được sự dung hòa giữa khán giả và cả những nhà chuyên môn ở khía cạnh: khán giả yêu thích còn giới chuyên môn đánh giá cao. Đây là cái mà Giang cảm thấy khó thực hiện nhất nhưng ê-kíp này đã làm được.""Với những hoạt động thành công trong năm qua của Thu Minh, tôi thấy chị ấy cũng rất xứng đáng nếu được bình chọn. Người ta vẫn nghĩ dòng nhạc dance luôn cần người trẻ nên đào thải một cách nhanh chóng nhưng với Thu Minh, chị ấy luôn giữ được phong độ kể từ khi theo đuổi dòng nhạc này. Tôi cảm thấy càng nghe, càng xem, càng cảm thấy thích Thu Minh còn hơn cả trước đây."— Ca sĩ Lưu Hương Giang""Chuyển từ nhạc pop sang nhạc dance là xu hướng khá phổ biến trên thế giới hiện nay và Thu Minh đang "bắt kịp thời đại". Trong năm qua, những ca khúc hay album của Thu Minh đã được rất nhiều công chúng yêu thích. Thu Minh chỉ có một "nhược điểm" là hình ảnh của cô ấy đôi khi sexy quá. Nhưng với tài năng và sự lao động miệt mài bao nhiêu năm để luôn làm mới hình ảnh của Thu Minh là điều cần ghi nhận."— Ca sĩ Minh Quân"Với Đường cong của Thu Minh được thể hiện ở dòng nhạc dance nhưng rất “văn minh”, không chỉ đáp ứng được nhu cầu của riêng một bộ phận công chúng của dòng nhạc này mà đã mở rộng biên độ khán giả. Nhưng đáng chú ý nhất là thông qua album đã phát hiện và đóng góp cho làng nhạc những ca khúc hay như: Đường cong, Taxi, Bay…"."— Nhạc sĩ Nguyễn Quang Long (Phó trưởng BBT Nhà xuất bản Âm nhạc) "“Nội dung của các ca khúc trong Body Language không xoáy sâu vào đề tài tình yêu, mà đa dạng với các chủ đề xã hội. Mỗi ca khúc là một khía cạnh khác nhau của cuộc sống, một thông điệp mà Thu Minh cùng ê-kíp sản xuất muốn gửi đến người nghe. Trên nền nhạc Dance mạnh mẽ và lôi cuốn, giọng hát của Thu Minh sẽ trực diện "nhìn" vào các chủ đề được thể hiện qua giai điệu, ca từ, qua cảm xúc của cơ thể”." — Báo Thanh niên Online"“Ngôn ngữ cơ thể của Thu Minh trong thời điểm hiện tại là album hay, có chất riêng nhưng chưa thật sự là sản phẩm hoàn thiện bởi đôi khi người nghe vẫn cảm thấy thiếu tính liên kết giữa các tác phẩm ít nhất về mặt hình thức âm nhạc. Dù vậy, nếu xem đây là album đầu tiên cho thể loại dance pop thì Body Language của Thu Minh khá thành công”." — Báo Giáo dục Việt Nam"“Bằng cách sử dụng kĩ thuật âm thanh điện tử, Nguyễn Hải Phong đã tạo nên những ca khúc đậm tiết tấu, nhanh, mạnh, gây cảm hứng để hoàn thành các ca khúc dance của mình, không những thế, anh còn rất sáng tạo trong việc thể hiện cá tính trong ca từ của mình: rất thực tế, trẻ trung mà không cầu kỳ, hoa mỹ, sáo rỗng”." — Báo Vietnamnet"“Với Body Language ra mắt sau thành công ở sân chơi Bước nhảy Hoàn vũ, Thu Minh khẳng định cô hoàn toàn lột xác và thành công với dance pop. Nhạc sĩ Nguyễn Hải Phong đã có con mắt tinh tường khi mang Thu Minh "trở về thế giới thực" qua dòng nhạc dance dưới nhiều biến thể khác nhau. Album không quá mạnh ở tiết tấu, giai điệu khiến người nghe phài nghẹt thở bởi sự lôi cuốn của dance, nhưng cũng không thiếu chất xúc tác để người nghe nhún nhảy theo. Album cho thấy nỗ lực hòa mình của các ca sĩ trong nước đặc biệt là Thu Minh vào dòng chảy chung của thế giới. Với dance pop chúng ta không thể không nhắc tới Lady Gaga rất thành công, và trong nước Thu Minh lại là một trong những ví dụ cho sự sáng tạo, thử sức đầy táo bạo của cô. Chính nhạc sĩ Nguyễn Hải Phong cũng là người “chăm sóc” phần hòa âm phối khí cho các ca khúc”." — Báo Ngoisao.net
Giải thưởng.
"Body Language" đã được chọn trong mục Dự án Âm nhạc của chương trình Bài hát Việt tháng 10 năm 2011. Đồng thời, tại buổi lễ trực tiếp ngày 8 tháng 10, Thu Minh và Nguyễn Hải Phong đã trình diễn bốn ca khúc từ album bao gồm "Đường cong", "Today", "No Smoking" và "Taxi."
"Body Language" sau đó đã nhận được đề cử cho Album của năm tại Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến lần thứ 7 vào năm 2012, cá nhân Thu Minh nhận được đề cử cho Ca sĩ của năm và Nguyễn Hải Phong nhận được đề cử cho Nhạc sĩ của năm. Dù Thu Minh thường xuyên rút tên mình khỏi những giải thưởng trong khoảng thời gian này, nhưng Cống hiến là giải thưởng duy nhất cho đến tận bây giờ cô vẫn còn "chú ý và quan tâm, tin tưởng khi tên của mình được vào bảng đề cử."
Phần ảnh bìa của album, được thiết kế kế bởi Dzũng Yoko, đã được trang "designs.vn" bầu chọn là một trong 10 bìa album nhạc Việt ấn tượng nhất vào năm 2013 cùng nhận xét: "Một bìa album tinh tế trong việc xử lý hình ảnh và kiểu chữ, đem lại một hình ảnh rất mới, độc đáo, ấn tượng hơn cho Thu Minh vào thời điểm năm 2011."
Thành phần tham gia sản xuất.
Đội ngũ thực hiện được lấy dựa theo phần ghi chú bìa album. | 1 | null |
Cá Thái dương hay cá mặt trời (Danh pháp khoa học: Centrarchidae) là một họ cá gồm các loài cá nước ngọt trong Lớp Cá vây tia (Actinopterygii) và theo truyền thống xếp trong bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được phân loại lại như là thuộc phân bộ Centrarchoidei của bộ Centrarchiformes.
Họ này gồm có 8 chi với 38 loài và có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Nhiều loài trong họ này dùng để phục vụ cho trò chơi câu cá thể thao, nhưng cũng có một số loài trong chúng là loài xâm lấn, điển hình là cá vược miệng rộng. Chúng thỉnh thoảng được gọi là sunfish, perch hay bream. Chúng là loài bản địa của Bắc Mỹ, và thường được phát hiện ở các sông suối dọc theo phần phía đông của Mỹ.
Đặc điểm.
Centrarchidae là những loài cá vược sống vùng nước ấm, và thỉnh thoảng được gọi là sunfish, perch hay bream. Chúng là loài bản địa của Bắc Mỹ, và thường được phát hiện ở các sông suối dọc theo phần phía đông của Mỹ. Những loài cá này có đặc điểm là vây nhiều tia và gai, có thể gây đau đớn cho những ngư dân lơ đễnh. Centrarchidae cũng là những loài cá vược sống vùng nước ấm.
Tập tính.
Loài cá vược nước ấm nổi tiếng nhất có lẽ là cá vược miệng rộng, được gọi như vậy vì miệng nó kéo dài ra phía sau mắt, cho phép nó có thể nuốt những con mồi lớn. Cá thuộc loài này thường có màu xanh bùn, và thích ẩn nấp bên dưới những cây cỏ hay những cấu trúc nhân tạo để rình mồi. Nhiều loài cá vược là các loài cá câu thể thao, điều này có nghĩa là, sau khi bị bắt, chúng được thả ra, mặc dầu một số loài cũng được ăn thịt. Nhiều khu vực có những hạn chế về loài và kích thước cá có thể bắt, và những tay câu phải làm quen với những quy định này trước khi khởi hành một chuyến câu cá. | 1 | null |
Rivulidae là một họ cá gồm các loài cá trong họ cá Killi thuộc về Bộ Cá sóc, họ cá này còn được biết đến với tên gọi thông dụng là "cá rivulus" hay "cá Killi Nam Mỹ" hoặc "cá Killi Tân Thế giới". Đây là một họ cá có những loài một loài cá lưỡng tính dị thường có thể sống nhiều tuần và săn mồi trên đất liền nhờ khả năng bật nhảy mạnh mẽ. Trong đó có loài cá rivulus sống ở vùng ngập mặn được phát hiện ở các vùng đầm lầy từ Florida, Mỹ đến Brazil.
Khả năng.
Trong họ cá này có loài rivulus có chiều dài không quá 75 cm, tuy có bề ngoài yếu đuối và chậm chạp, rivulus là loài lưỡng tính (mặc dù khoa học từng tìm thấy một vài con đực) và chúng sinh sản bằng khả năng tự thụ tinh. Loài cá này có thể sống trên mặt đất trong 66 ngày liên tục, chúng được phát hiện sống ở những thân cây gỗ ngập mặn ẩm ướt và thậm chí bên trong các lon bia cũ hay vỏ dừa. Cá rivulus lưỡng cư tỏ ra thích nghi tốt hơn. Khi môi trường nước bị giảm hàm lượng oxy hoặc mức độ Hydro sulfide (một hợp chất gây độc cho cá) tăng cao, cá rivulus có thể chuyển lên sống trên mặt đất và chỉnh hướng nhảy.
Trong những ngày trên cạn, loài cá lưỡng cư này thay đổi mang để thở qua da, một phần khả năng sống trên cạn đáng kinh ngạc của chúng là nhờ sức bật nhảy mạnh mẽ. Khi con rivulus mắc kẹt trên cạn thì nó đã dùng đuôi bật lên để di chuyển, khi nằm trên mặt đất phẳng, con cá cong người và dùng sức của đuôi bật lên để di chuyển theo chiều ngang hoặc thẳng đứng. Kỹ năng nhảy tài tình của cá rivulus cũng giúp chúng thoát khỏi kẻ thù và săn mồi trên mặt đất như dế | 1 | null |
Micropterus là một chi cá nước ngọt trong họ cá Thái dương thuộc bộ Cá vược. Phân bố của chi cá này trải dài từ Dãy núi Rocky ở Bắc Mỹ, Từ vịnh Hudson ở Canada cho tới Đông Bắc Mexico. Nhiều loài trong đó được du nhập đi nhiều nơi trên thế giới, chẳng hạn như cá vược miệng rộng đã trở thành loài xâm lấn. Ở Nhật Bản, loài này không phải là bản địa nhưng rất đa dạng.
Nhiều loài trong chi này dùng để làm loài câu cá thể thao. Thịt của chúng cũng được cho là ngon và được sử dụng trong các bữa ăn. Tất cả các loài trong chi "Micropterus" đều đậm màu và về kích thước, chúng dao động từ 40–60 cm (16–24 in) nhưng cũng có cá thể dài đến 1m. Loài này có đặc tính đẻ trứng và có thể ăn chúng.
Các loài.
Hiện nay, chi này ghi nhận các loài sau đây | 1 | null |
Lee Sun-mi (Hangul: , Hanja: 李善美, Hán-Việt: Lý Thiện Mỹ, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1992), thường được biết đến với nghệ danh Sunmi, là một nữ ca sĩ và nhạc sĩ người Hàn Quốc. Cô ra mắt vào năm 2007 với tư cách là thành viên nhóm nhạc nữ Wonder Girls và rời nhóm vào tháng 1 năm 2010 để tập trung vào việc học tập.
Sau ba năm vắng bóng, Sunmi trở lại vào tháng 8 năm 2013 với đĩa đơn đầu tay "24 Hours". "24 Hours" đạt vị trí thứ 2 trên Gaon Digital Chart của Hàn Quốc và vị trí thứ 3 trên Korea K-pop Hot 100 của Billboard. Mini album đầu tay của cô "Full Moon" (2014) xếp hạng thứ 12 và là đĩa đơn phụ của mini album xếp hạng thứ 2 trên Gaon Digital Chart của Hàn Quốc và thứ 3 trên Korea K-pop Hot 100 của Billboard, và cũng xếp hạng thứ 13 trên Billboard World Digital Chart.
Năm 2015, Wonder Girls trở lại sân khấu sau hai năm vắng bóng với việc thành lập ban nhạc mới, Sunmi xác nhận sẽ gia nhập sau sự ra đi vào năm 2010. Nhóm sau đó tan rã vào năm 2017 sau khi Sunmi và Yenny quyết định không tiếp tục gia hạn hợp đồng với JYP Entertainment.
Tiểu sử.
Sunmi sinh vào ngày 2 tháng 5 năm 1992 tại Iksan, Jeolla Bắc, Hàn Quốc. Cô học tại trường Hwangnam Elementary School, Chung Dam Middle School và Chung Dam High School, tốt nghiệp Đại học Dongguk chuyên ngành nhạc kịch. Cô chấp nhận họ của bố dượng cô, Lee, khi ở đại học và kết hợp với tên đầu tiên và họ, cho ra cái tên Lee Sunmi.
Sự nghiệp.
2007 - 2012: Ra mắt với Wonder Girls.
Trong năm 2007, Sunmi đã ra mắt lần đầu tiên với Wonder Girls, một nhóm nhạc nữ quản lý bởi JYP Entertainment. Cô đã góp giọng trong album đầu tay của nhóm - The Wonder Begins, được phát hành vào tháng 2 năm 2007, bên cạnh đó, trong suốt quá trình hoạt động ở nhóm, cô còn tham gia thu âm các album như: The Wonder Years phát hành vào tháng 9 năm 2007, So Hot phát hành vào tháng 6 năm 2008, The Wonder Years: Trilogy phát hành vào tháng 9 năm 2008. Cô cũng tham gia vào "Wonder Girls 1st Wonder Tour" trong năm 2009. Cũng trong năm 2009, cô và Wonder Girls đã diễn mở màn cho tour diễn vòng quanh thế giới của Jonas Brothers.
Năm 2009 là một năm thành công của Wonder Girls, vì họ đã tham gia Wendy Williams Show với tư cách khách mời và còn được vinh dự biểu diễn tại show truyền hình thực tế So You Think You Can Dance (Mùa 6) của Mỹ. Họ cũng đã phát hành bản tiếng Anh cho "Nobody" vào ngày 26 tháng 6 năm 2009.
Tháng 1 năm 2010, JYP Entertainment đã thông báo rằng Sunmi sẽ trì hoãn sự nghiệp lại để về nước tiếp tục công việc học tập. Tuy nhiên, cô vẫn tham gia sự kiện với nhóm cho đến tháng 2 theo lịch diễn ban đầu.
Ngày 13 tháng 1 năm 2012, một đại diện của JYP cho biết: "Sunmi vẫn trong công ty và đang tiếp tục luyện tập khả năng về nghệ thuật của mình" JYP Entertainment sau đó tuyên bố rằng không có kế hoạch cho Sunmi trở lại như một thành viên của Wonder Girls.
2013 - 2014: Rời nhóm và ra mắt solo.
Vào tháng 8 năm 2013, có thông báo rằng cô sẽ trở lại với sự nghiệp nghệ thuật của mình như một nghệ sĩ solo của JYP Entertainment, và bản thân ông Park Jin-young sẽ tiến hành sản xuất các sản phẩm của cô. Ngày 11 tháng 8 năm 2013, JYP Entertainment phát hành những hình ảnh teaser của Sunmi cho đĩa đơn đầu tay của cô - "24 Hours", hình ảnh này cho thấy cô đã lột xác hoàn toàn và mái tóc của cô cũng chuyển sang màu hồng. Ngày hôm sau, hai hình ảnh teaser đã được phát hành thông qua trang web chính thức của cô. "24 Hours" được xác nhận sẽ được phát hành vào ngày 20 tháng 8 năm 2013, tiếp theo là sự trở lại của cô vào ngày 22, trên M! Countdown. Sau khi phát hành, MV "24 Hours" đã xếp hạng # 1 trên các trang web MV như Melon và Olleh và đưa Sunmi trở thành đối thủ cạnh tranh khốc liệt với Seungri và Crayon Pop. Sau đó, 24 Hours đã xếp hạng 1 trên Melon, Mnet, Olleh Music, Bugs, Soribada, Naver Music, và Daum Music.
Để chuẩn bị cho sự nghiệp solo của mình, cô cho biết mình đã cố gắng tăng thêm vài cân để có hình thể đẹp hơn. Trong một cuộc phỏng vấn, Sunmi đã cho biết rằng: "Trong khi tôi quảng bá với tư cách là một thành viên của Wonder Girls, trọng lượng cơ thể tôi đã có một lần dưới 40kg. Tôi thường ở trong phạm vi 41kg, nhưng khi ra mắt solo, để đạt được tới khái niệm sexy, tôi đã cố gắng để đạt đến trọng lượng 47kg". Cô cũng chia sẻ cân nặng lớn nhất cô từng có là 52 kg. Sunmi cũng đã chia sẻ vì sao cô quyết định đi chân trần cho sân khấu của "24 Hours": "Ban đầu tôi không có ý định đi chân trần. Nhưng có một phần trong vũ đạo là tôi phải đứng lên đùi của vũ công nam, nếu tôi đi giày cao gót thì sẽ gây thương tích cho anh ấy vì vậy tôi đã bỏ đôi cao gót khỏi vũ đạo của mình. Bởi vì tôi dùng đôi chân trần để nhảy hiện đại, nên nhìn nó cũng sẽ không có vấn đề gì quá đáng lắm".
Sau đó JYP Entertainment cũng đã phát hành một phiên bản dance cho MV của cô.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2014, đã có một thông báo rằng Sunmi sẽ phát hành mini-album đầu tay của mình vào giữa tháng 2 với khoảng 5-6 bài hát, ca khúc chủ đề dự kiến sẽ được chắp bút bởi Park Jin-young. Một đại diện của Sunmi cũng cho biết: "Chúng tôi đang cố gắng chuẩn bị cho sự trở lại của Sunmi vào tháng 2. Hiện nay chúng tôi đang điều chỉnh những khâu cuối cùng trong bài hát, đồng thời cũng chuẩn bị một màn trình diễn bắt mắt, vũ đạo sẽ được nâng cấp hơn 24 Hours". Theo như kế hoạch, Sunmi sẽ trở lại vào ngày 17 tháng 2 năm 2014. JYP Entertainment cũng đã tiết lộ tin tức tức thông qua một thông cáo báo chí, họ nói: " Sunmi sẽ được trở lại vào ngày 17 tháng 2 với một mini-album. Cô sẽ thực hiện một cuộc hỏi và trả lời đối với người hâm mộ vào ngày 6 tháng 2 trên Twitter ". Cũng vào ngày 6 tháng 2 năm 2014, Sunmi đã tiết lộ 2 hình ảnh teaser cho mini-album mới của cô, "Full Moon" thông qua tài khoản Twitter chính thức của mình. Ngày 9 tháng 2, ba hình ảnh teaser mới được công bố trên Twitter của JYP Entertainment và cũng tiết lộ tracklist cho album trở lại của cô Full Moon, sẽ có tổng cộng 7 bài hát. Tiết lộ cũng cho biết rằng ca khúc chủ đề sẽ được viết bởi Brave-Brothers và trong ca khúc cũng sẽ có một đoạn rap của Lena (thành viên trong nhóm nhạc nữ mới của công ty). Vào ngày 11, JYP Entertainment đã tải lên một teaser clip ngắn cho "Full Moon".
Sau khi phát hành, ca khúc đã đứng đầu các bảng xếp hạng Naver, Daum, Soribada, Bugs và nhiều bảng xếp hạng khác. Ngoài ra các bài hát khác trong album cũng xếp thứ hạng cao, như bài " Who Am I" cò sự góp giọng của Yubin và sáng tác bởi Yenny của Wonder Girls. Album cũng được trang Allkpop đánh giá cao. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2014, sau nhiều lần đứng vị trí 2 và 3 trên các show âm nhạc hàng tuần, cuối cùng Sunmi và "Full Moon" đã giành được chiến cúp chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp solo của cô. Ca khúc đã đánh bại hai đối thủ là Soyu (Sistar) ft. Junggigo và nhóm nhạc nam BTOB. Ca khúc cũng nằm ở vị trí thứ 9 trong danh sách các ca khúc bán chạy nhất trong 3 tháng đầu năm 2014 của BXH Gaon Chart.
2015 - 2017: Trở lại với Wonder Girls.
Ngày 21 tháng 7 năm 2015, Sunmi chính thức trở lại Wonder Girls.
Nhóm chính thức tan rã vào ngày 26 tháng 1 năm 2017.
2017: Wonder Girls tan rã và các hoạt động cá nhân.
Sau khi rời JYP Entertainment, Sunmi kí hợp đồng với MAKE US Entertainment với tư cách nghệ sĩ solo. Ngày 21 tháng 8 năm 2017, Sunmi chính thức trở lại với ca khúc "Gashina", ca khúc đã nhanh chóng đạt vị trí số 1 ở nhiều bảng xếp hạng trong nước cũng như quốc tế, chiến thắng 4 cup trên các chương trình âm nhạc từ đài địa phương đến các đài trung ương, khẳng định vị trí nghệ sĩ nữ solo hàng đầu Hàn Quốc hiện nay.
Sunmi nhận giải Style In Music tại MAMA 2017 (Hồng Kông). Tại đây cô có màn kết hợp với Taemin trong hai bài hát là "Move" của Taemin và "Gashina" của chính cô.
2018: Heroine & Siren.
Ngày 14 tháng 1 năm 2018 và 15 tháng 1 năm 2018, teaser của MV mới "Heroine" được đăng trên YouTube và sau đó ngày 18 tháng 1 năm 2018, MV chính thức được ra mắt.
Ngày 19 tháng 1 năm 2018, một video "Heroine" đặc biệt dành cho fan được đăng trên YouTube.
Kể từ sự nghiệp solo thành công và hơn cả sự mong đợi, Sunmi trở lại với "SIREN" vào ngày 3 tháng 9 năm 2018 với thành tích all-kill càn quét mọi bảng xếp hạng âm nhạc. Tuy "SIREN" vốn được sẽ ra mắt cùng nhóm Wonder Girls, thay vào đó nhóm lại chọn " Why So Lonely" thay vào "SIREN" vì vốn nhịp nhạc không hợp.
2019: Noir, Lalalay.
Chiều ngày 4 tháng 3 năm 2019, Sunmi chính thức trở lại với MV mới "Noir".
Đúng 18 giờ ngày 27 tháng 8 (giờ địa phương), Sunmi đã chính thức trở lại với MV "Lalalay". Ca khúc rất dễ gây nghiện ngay từ lần nghe đầu tiên bởi giai điệu vô cùng mới lạ mang hơi hướng latin và dancehal. Giai điệu ca khúc còn sử dụng nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc khiến đoạn intro mở đầu vô cùng cuốn hút.
2020: Pporappippam.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 2020, Sunmi phát hành đĩa đơn "Gotta Go" cùng với phiên bản acoustic như là một phần của sê-ri "XX", cô là khách mời trong sê-ri này. Hai ngày sau, màn trình diễn vũ đạo của bài hát được phát hành đã đạt được hơn 4 triệu lượt xem. Vào ngày 21 tháng 5, Sunmi tiết lộ rằng cô sẽ trở lại vào cuối tháng 6. Đĩa đơn "Pporappippam" của cô được phát hành vào ngày 29 tháng 6. Vào ngày 12 tháng 8, cô và J. Y. Park phát hành bài hát song ca "When We Disco".
2021: "Tail".
Ngày 23/2, Sunmi tổ chức buổi họp báo trực tuyến để giới thiệu album mới mang tên Tail và MV ca khúc chủ đề cùng tên. Với sản phẩm âm nhạc mới, Sunmi theo đuổi hình tượng miêu nữ. "Tail" là ca khúc chủ đề thuộc single album cùng tên của Sunmi. Bài hát do Sunmi sáng tác cùng Frants. Được biết, Frants là người đứng sau thành công của loạt hit trước đó của mỹ nhân 9X như "Siren, Pporappippam, Lalalay…" Ngay khi Tail ra mắt, MV gây tranh cãi trên mạng xã hội. Đông đảo khán giả cho rằng sản phẩm quá sexy, thậm chí phản cảm, điển hình như cảnh cô ngồi lên đùi vũ công nam.
Bên cạnh đó, Sunmi cũng hứng chịu chỉ trích vì trang phục quá ngắn và bó sát, thực hiện những phần nhảy quyến rũ. Ngoài ra, góc quay của MV "Tail" còn bị mắng cố tình kích thích người xem. Thậm chí, một bộ phận dân mạng Trung Quốc còn "ném đá" MV "Tail" giống một video gợi dục và so sánh MV với các sản phẩm nhạy cảm khác của Kpop
Song, cũng có ý kiến cho rằng MV "Tail" hay vũ đạo ca khúc đều nằm trong phạm vi chấp nhận được, sexy vừa đủ và rất cuốn hút. Một nhận xét mang tính trung lập: "MV này chỉ là có phân đoạn nằm giữa ranh giới giữa gợi cảm và phản cảm thôi", được nhiều dân mạng tán thành. | 1 | null |
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan cấp cao nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khoảng 350 Ủy viên, thay phiên lựa chọn với nhiệm kỳ 5 năm tương đương với nhiệm kỳ Đại hội Mặt trận Tổ quốc. Số lượng các thành viên của Ủy ban tăng lên nhanh chóng theo mỗi kỳ họp. Ủy ban hiện nay là khóa thứ IX và có 386 Ủy viên.
Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tổ chức.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương dân chủ cử trong số Ủy viên Đoàn Chủ tịch, là cơ quan đại diện của Đoàn Chủ tịch và Ủy ban Trung ương giữa hai kỳ họp.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gọi chung là Ban Thường trực) gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký và các Phó Chủ tịch chuyên trách.
Chức năng và nhiệm vụ.
Ban Thường trực có những nhiệm vụ và quyền hạn:
Chế độ họp.
Ban Thường trực họp thường lệ mỗi tháng ít nhất hai lần.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký chủ tọa các phiên họp của Ban Thường trực.
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tổ chức.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gọi chung là Đoàn Chủ tịch) do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương dân chủ cử trong số Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là đại diện của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữa hai kỳ họp.
Đoàn Chủ tịch bao gồm các vị:
Số lượng Ủy viên Đoàn Chủ tịch do Ủy ban Trung ương quyết định.
Chức năng nhiệm vụ.
Đoàn Chủ tịch có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Chế độ họp.
Đoàn Chủ tịch họp thường lệ ít nhất sáu tháng một lần.
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch do Ban Thường trực cử chủ tọa hội nghị Đoàn Chủ tịch.
Danh sách Đoàn Chủ tịch khóa IX (2019 - 2024).
Ngày 20/9/2019, UBTƯ MTTQ Việt Nam khóa IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 đã họp Hội nghị lần thứ nhất hiệp thương cử Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam khóa IX, nhiệm kỳ 2019-2024 gồm 62 vị.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tổ chức.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được hiệp thương dân chủ do Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử ra.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ chuyên trách của cơ quan Ủy ban Trung ương và cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh.
"Điều 13 Chương III Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" quy định:
Chức năng và nhiệm vụ.
"Điều 14 Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" quy định:
Chế độ họp.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp thường kỳ ít nhất một năm một lần, họp bất thường khi cần thiết.
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch do Ban Thường trực cử chủ tọa các hội nghị của Ủy ban Trung ương. | 1 | null |
Điện Kính Thiên (chữ Hán: 敬天殿, Kính Thiên điện) là công trình trung tâm của hoàng cung nhà Hậu Lê ở đô thành Đông Kinh (Hà Nội). Đến năm 1841 (đời Thiệu Trị) thì được đổi tên thành điện Long Thiên.
Lịch sử.
Theo "Đại Việt Sử ký toàn thư", điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ và hoàn thiện vào đời vua Lê Thánh Tông. Điện Kính Thiên là nơi vua Lê Thái Tổ tuyên bố lên ngôi (1428), và về sau này trở thành nơi cử hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi đón tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự và thờ cúng.
Năm 1816, tòa điện này được vua Gia Long cho xây dựng lại. Điện Kính Thiên trở thành hành cung cho các vị vua triều Nguyễn mỗi khi tuần du ra Bắc. Vua Thiệu Trị đã cho đổi tên điện Kính Thiên thành Long Thiên vào năm 1841. Đôi rồng chầu và bậc thềm đá phía trước điện được giữ nguyên từ thời Lê Sơ (thế kỷ 15) cho đến nay.
Năm 1886, điện bị thực dân Pháp phá huỷ để xây nhà ban chỉ huy pháo binh, hiện chỉ còn di tích thềm bậc và nền điện (trong khu Thành cổ Hà Nội ngày nay).
Kiến trúc.
Điện Kính Thiên được xây dựng ở chính giữa Hoàng thành, ngay trên nền cũ của cung Càn Nguyên - Thiên An thời Lý, trên đỉnh núi Nùng. Nằm bên phải là điện Chí Kinh, bên trái là điện Vạn Thọ, trước mặt là điện Thị Triều, nơi thiết triều hàng tháng. Trước điện Thị Triều là Đoan Môn.Hiện nay đang có nhiều ý kiến về việc phục dựng Điện Kính Thiên | 1 | null |
James David Rodríguez Rubio (, sinh ngày 12 tháng 7 năm 1991), là một cầu thủ bóng đá người Colombia thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho São Paulo và đội tuyển quốc gia Colombia.
Ở cấp độ câu lạc bộ, anh được chú ý nhiều kể từ khi gia nhập Porto năm 2012, ngay sau mùa giải đó anh được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất Primeira Liga, trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử nhận được danh hiệu này. Năm 2013, anh chuyển đến Pháp thi đấu cho Monaco với phí chuyển nhượng 45 triệu euro.
Ngày 22 tháng 7 năm 2014, James chuyển tới Real Madrid với giá trị chuyển nhượng lên tới 80 triệu euro, đưa anh trở thành cầu thủ Colombia đắt giá nhất trong lịch sử, qua mặt Radamel Falcao (60 triệu Euro vào năm 2013).
Ở đội tuyển Colombia, anh bắt đầu chơi bóng ở cấp độ U-20 quốc gia, nơi mà anh được đeo băng đội trưởng và vô địch giải Toulon Tournament năm 2011, và cũng trong năm đó anh cùng Colombia tham dự giải U-20 World Cup. Giải đấu lớn đầu tiên của anh cho đội tuyển Colombia là World Cup 2014 tại Brasil, giải đấu mà anh đã cùng Colombia vào đến tứ kết và cá nhân anh giành được danh hiệu Chiếc giày vàng World Cup, được chọn vào đội hình tiêu biểu của giải đấu và sở hữu bàn thắng đẹp nhất giải.
Tuổi thơ.
Rodríguez sinh ra tại Cúcuta, thành phố gần biên giới Colombia và Venezuela. Cha anh là ông Wilson James Rodríguez Bedolla cũng là một cầu thủ chuyên nghiệp. Tuy nhiên do cha anh thường xuyên thi đấu xa nhà nên cha đỡ đầu của anh là ông Juan Carlos Restrepo mới là người hướng dẫn anh những bước đầu đến sự nghiệp bóng đá. Rodríguez bắt đầu chơi bóng tại trường bóng đá Academia Tolimense và giành chức vô địch Giải Pony Futbol, giải đấu toàn quốc dành cho các trường bóng đá thiếu nhi vào năm 2004.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Envigado FC.
Ngay sau Giải Pony Futbol, chủ tịch Gustavo Adolfo Upegui Lopez của câu lạc bộ Envigado đã nhanh chóng tìm cách đưa anh đến Envigado. Tuy nhiên, tại Envigado, gia đình Rodríguez phải thuê huấn luyện viên riêng cho anh do trình độ của anh bỏ xa các đồng đội ở học viện đào tạo trẻ câu lạc bộ.
Vào năm 15 tuổi, anh có trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên cho Envigado. Năm 2007, khi mới 16 tuổi, Rodriguez ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Envigado nhưng anh chỉ thi đấu đúng một trận cho đội một trước khi chuyển đến Argentina thi đấu.
Banfield.
Năm 2008, Rodríguez trở thành cầu thủ của Club Atlético Banfield. Ở tuổi 17 vào năm 2009, khi được vào sân thay người trong trận trận đấu giữa Banfield và Godoy Cruz tại Clausura, năm 2009, anh đã trở thành cầu thủ người nước ngoài trẻ nhất tham dự giải đấu hàng đầu của bóng đá Argentina. Bàn thắng đầu tiên của anh cho Banfield là trong trận gặp Rosario Central với cú sút xa mạnh từ ngoài vòng cấm vào ngày 27 tháng 2 năm 2009. Bàn thắng này cũng giúp anh trở thành cầu thủ nước ngoài trẻ nhất ghi bàn tại giải vô địch bóng đá Argentina.
Đến mùa giải 2009-10, Rodríguez có được vị trí đá chính bên cánh trái khi Nicolás Bertolo chuyển đến Palermo. Với bộ ba Walter Erviti - Maximiliano Bustos - James Rodríguez, trong đó Rodríguez chỉ vắng mặt duy nhất 2 trận đấu, 'El Taladro’ có được danh hiệu vô địch Apertura lần đầu tiên trong lịch sử.
Tại đấu trường Copa Libertadores, Rodríguez đã ghi bàn vào lưới Deportivo Cuenca trong chiến thắng 4–1 của Banfield và sau đó là cú đúp trong trận hòa 2-2 với Club Nacional de Football. Tại vòng loại trực tiếp, anh ghi bàn vào lưới Internacional giúp Banfield thắng 3–1 vào ngày 29 tháng 4 năm 2010. Banfield bị loại khỏi Copa Libertadores 2010 sau trận thua trước Porto Alegre, trận đấu mà Rodríguez đã phải nhận thẻ đỏ.
Porto.
Mùa hè năm 2010, Udinese đã đạt được thỏa thuận ban đầu với Rodríguez, nhưng sau cùng chính câu lạc bộ Bồ Đào Nha Porto mới là câu lạc bộ có được anh với hợp đồng 4 năm có giá chuyển nhượng 5,1 triệu €.
Mùa bóng 2010–11.
Ngày 18 tháng 7 năm 2010, anh có trận đấu đầu tiên cho Porto trong trận giao hữu với Ajax và ngay lập tức đã ghi bàn. Ngày 15 tháng 12 năm 2010, Rodríguez có bàn thắng đầu tiên trên đấu trường châu lục trong chiến thắng 3-1 của Porto trước CSKA Sofia. Anh vào sân từ băng ghế dự bị trong trận chung kết UEFA Europa League 2011 với SC Braga, trận đấu mà Porto đã thắng 1-0. Rodríguez lập hat-trick và có một pha kiến tạo trong trận chung kết Cúp bóng đá Bồ Đào Nha với Vitória de Guimarães để đem về chiến thắng 6–2 cho Porto. Ngày 13 tháng 6 năm 2011, anh gia hạn hợp đồng với Porto thêm năm năm. Trong mùa giải đầu tiên tại Bồ Đào Nha, sau 24 trận, anh có được tổng cộng sáu bàn thắng và tám pha kiến tạo.
Mùa bóng 2011–12.
Trong mùa bóng 2011-12, Rodríguez ghi đến 14 bàn thắng và có 11 pha kiến tạo. Kết thúc mùa giải, anh được trao danh hiệu Quả bóng Vàng Bồ Đào Nha 2012 dành cho cầu thủ xuất sắc nhất năm của Giải vô địch bóng đá Bồ Đào Nha. Anh là cầu thủ Colombia thứ hai giành được danh hiệu này sau Radamel Falcao và là cầu thủ trẻ nhất giành được danh hiệu này khi chỉ mới 20 tuổi.
Mùa bóng 2012–13.
Đến mùa giải 2012-13, anh được câu lạc bộ Porto trao cho chiếc áo số 10. Việc các trụ cột của Porto như Radamel Falcao, Fredy Guarín và Hulk ra đi đã giúp cho vai trò của Rodríguez ngày càng trở nên quan trọng. Rodríguez ghi một bàn và có hai pha kiến tạo trong chiến thắng 4-0 trước Beira-Mar vào ngày 22 tháng 9 năm 2012. Anh được hai lần liên tiếp bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng của Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha trong tháng 8 và tháng 9. Tại vòng bảng UEFA Champions League 2012–13, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu giữa Porto và đội bóng Pháp Paris Saint-Germain, đưa Porto lên vị trí đầu bảng.
Ngày 26 tháng 11 năm 2012, Rodríguez ghi bàn ở phút 90 ấn định chiến thắng 2-0 cho Porto trước Braga để câu lạc bộ này có kỷ lục 23 trận bất bại trên mọi mặt trận.
Trong trận đấu cuối cùng của mùa giải với Paços de Ferreira, Rodríguez đem về một quả phạt đền để bảo đảm chiến thắng cho Porto, giúp đội bóng này lần thứ ba liên tiếp giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá Bồ Đào Nha. Tổng cộng trong 105 trận cho Porto, Rodríguez đã ghi 32 bàn thắng và có 21 pha kiến tạo.
Monaco.
Ngày 24 tháng 5 năm 2013, Rodríguez gia nhập đội bóng nước Pháp AS Monaco với phí chuyển nhượng 45 triệu € theo bản hợp đồng có thời hạn 5 năm. Đây là giá trị chuyển nhượng cao thứ hai trong lịch sử dành cho một cầu thủ bóng đá Colombia, sau Radamel Falcao.
Mùa bóng 2013–14.
Rodríguez có trận đấu đầu tiên tại Ligue 1 trong chiến thắng 2-0 trước Bordeaux. Rodríguez có đóng góp trực tiếp đầu tiên cho Monaco khi kiến tạo một bàn và đóng góp dấu ấn cho cả hai bài thắng còn lại trong chiến thắng 3-0 trước Bastia. Đến ngày 30 tháng 11 năm 2013, anh mới có bàn thắng đầu tiên cho Monaco với pha đá phạt thành bàn trong chiến thắng 2-0 trước Rennes.
Rodríguez mở đầu năm 2014 với trận đấu đầu tiên tại Coupe de France với Vannes, và anh đã ghi bàn và kiến tạo trong chiến thắng 3-2 của Monaco. Anh lập cú đúp đầu tiên cho Monaco giúp đội bóng này thắng Bastia 2-0.
Rodríguez kết thúc mùa giải đầu tiên với Monaco không có được danh hiệu nào nhưng Monaco cũng kết thúc Ligue 1 2013-14 với vị trí nhì bảng và cá nhân anh được chọn vào đội hình tiêu biểu của Ligue 1 mùa giải 2013-14.
Real Madrid.
Ngày 22 tháng 7 năm 2014, Rodríguez ký hợp đồng có thời hạn 6 năm với Real Madrid với phí chuyển nhượng không được tiết lộ, nhưng ước tính vào khoảng 80 triệu €. Giá chuyển nhượng này giúp anh trở thành cầu thủ đắt giá thứ tư trong lịch sử bóng đá thế giới và là cầu thủ Colombia đắt giá nhất, vượt qua kỷ lục cũ của Radamel Falcao. Tại Real, anh khoác áo số 10, số áo từng thuộc về các cầu thủ nổi tiếng của câu lạc bộ này như Luis Figo, Ferenc Puskás và chơi cùng vị trí thần tượng của Rodríguez là Zinedine Zidane. Buổi lễ ra mắt của anh tại Real Madrid đã thu hút sự tham dự của 45.000 cổ động viên.
Mùa bóng 2014–15.
Rodríguez có trận đấu đầu tiên cho Real trong trận Siêu cúp châu Âu tại Sân vận động Cardiff City với Sevilla. Real Madrid giành thắng lợi 2–0 và anh có được danh hiệu vô địch đầu tiên cùng câu lạc bộ. Ngày 19 tháng 8, anh chính thức có bàn thắng đầu tiên cho Real Madrid trong trận lượt đi tranh Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha với Atletico Madrid kết thúc với tỉ số hòa 1-1 khi được vào sân trong hiệp hai thay cho Cristiano Ronaldo. Ngày 16 tháng 9, anh có trận đấu đầu tiên tại UEFA Champions League trong màu áo Real Madrid và đã ghi bàn thắng thứ tư trong chiến thắng 5-1 trước Basel. James có pha lập công đầu tiên tại La Liga không lâu sau đó trong chiến thắng 8-2 trước Deportivo.
Ngày 1 tháng 11, Rodríguez lập cú đúp trong chiến thắng 4–0 trước Granada trong đó có một quả vô lê thành bàn từ góc sút khó. Ngày 2 tháng 12, anh lập một cú đúp khác, lần này là trong trận thắng Cornellà 5-0 trong khuôn khổ Cúp Nhà vua Tây Ban Nha. Đến ngày 6 tháng 2 năm 2015, sau khi ghi bàn mở tỉ số trong trận đấu bù với Sevilla FC tại La Liga, James bị gãy xương bàn chân và dự tính phải nghỉ thi đấu đến hết tháng 3, lần nghỉ thương dài hạn đầu tiên của anh tại Real.
Mùa bóng 2015–16.
Trong mùa giải này, dưới thời huấn luyện viên Rafael Benitez và sau đó là Zinedine Zidane, Rodríguez thường xuyên phải ngồi dự bị và cả mùa giải anh chỉ có 21 trận cho Real trên mọi đấu trường..Tuy vậy cuối mùa đó anh vẫn giành UEFA Champions League với đội bóng.
Mùa bóng 2016–17.
Ngày 5 tháng 4 năm 2017, trong chiến thắng 4-2 trước CD Leganés, Rodríguez có 1 bàn thắng và 1 kiến tạo nhưng bị thay ra ở phút 72 nên đã có phản ứng mạnh khi rời sân. Trận gặp Leganes là lần thứ chín liên tiếp, anh không được thi đấu trọn vẹn 90 phút và lần gần nhất anh thi đấu từ đầu đến cuối một trận đấu là cuộc đón tiếp Deportivo de La Coruña ngày 10 tháng 12 năm 2016.. Cuối mùa dù có 11 bàn với 13 kiến tạo giúp Real giành La Liga sau 5 năm & chức vô địch Champions League thứ 2 liên tiếp, nhưng những tin tức về việc anh muốn ra đi vẫn xuất hiện nhiều hơn.
Bayern München.
Ngày 11 tháng 7 năm 2017, Rodríguez đến Bayern München theo hợp đồng cho mượn có thời hạn hai năm từ Real Madrid. Bayern phải trả toàn bộ tiền lương và phí mượn trong hai năm có được sự phục vụ của anh, vào khoảng 30 triệu và có quyền mua đứt sau khi hết thời gian mượn.. Anh ghi bàn đầu tiên trong chiến thắng 3-0 vào lưới Schalke, sau thời gian khó khăn do chấn thương, anh là lựa chọn chính trong đội hình sau khi Jupp Heynckes lên nắm quyền thay Carlo Ancelotti vào tháng 10/2017. Sự tiến bộ của James giúp Bayern bay cao tại Bundesliga, anh đã có 6 bàn & 10 kiến tạo trong 19 lần ra sân, giúp đội giành Chiếc đĩa bạc mùa này
Everton.
Ngày 7 tháng 9 năm 2020, câu lạc bộ Everton thông báo rằng họ đã chiêu mộ thành công James từ Real Madrid với một bản hợp đồng có thời hạn 2 năm, với điều khoản tùy chọn gia hạn thêm 1 năm. Tại xứ sở sương mù, James sẽ tái ngộ HLV Carlo Ancelotti, người giúp anh nhận danh hiệu tiền vệ hay nhất La Liga mùa giải 2014–15, với 13 bàn và 13 pha kiến tại sau 29 trận cho Real Madrid. Anh cũng có thời gian thi đấu cho Bayern München dưới thời chiến lược gia người Ý theo dạng cho mượn.
Al-Rayyan.
Vào ngày 22 tháng 9 năm 2021, James gia nhập Al-Rayyan với mức giá chưa xác định. Vào ngày 17 tháng 10 năm 2021, Rodriguez đã chơi trận đầu tiên cho Al-Rayyan, trong trận thua 3-0 của đội với Al-Duhail. Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên của mình ở đây trước Al-Sailiya.Vào ngày 15 tháng 9 năm 2022, Al-Rayyan chấm dứt hợp đồng với James Rodriguez theo sự đồng ý của hai bên..
Olympiacos.
Vào ngày 15 tháng 9 năm 2022, James Rodríguez gia nhập nhà vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp Olympiacos theo dạng chuyển nhượng tự do. Khi đến nơi, Rodríguez được trao chiếc áo số 10, trước đó được mặc bởi Rony Lopes, người đã rời đi để chơi cho đội bóng cho mượn Ligue 1 Troyes. Anh ra mắt giải đấu vào ngày 18 tháng 9 với tư cách là người bắt đầu trận đấu trước Aris Thessaloniki, một trận đấu mà đội của anh ấy thua 2-1 mặc dù đã dẫn trước một bàn trong phần lớn thời gian của trận đấu..
Vào ngày 13 tháng 4 năm 2023, hợp đồng của James với Olympiacos bị chấm dứt theo sự đồng ý của cả hai bên...
São Paulo.
Vào ngày 29 tháng 7 năm 2023, James gia nhập câu lạc bộ Campeonato Brasileiro Série A São Paulo, ký hợp đồng hai năm.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Các đội trẻ.
Năm 2007, Rodríguez là thành viên đội tuyển U-17 Colombia giành chức á quân Giải vô địch bóng đá U-17 Nam Mỹ và ghi được ba bàn. Cùng năm đó, anh và U-17 Colombia cũng tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2007 nhưng U-17 Colombia đã bị loại ngay ở vòng 1/8 bởi U-17 Nigeria.
Rodríguez là đội trưởng đội tuyển U-20 Colombia giành chức vô địch Giải đấu Toulon 2011, giải đấu mà anh cũng được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất giải.
Tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2011 tổ chức ngay tại Colombia, anh tiếp tục là đội trưởng của U-20 Colombia và đội bóng của anh bị loại ở tứ kết bởi U-20 Mexico.
Đội tuyển quốc gia.
Ngày 29 tháng 9 năm 2011, Rodríguez lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển Colombia cho trận đấu với Bolivia ngày 11 tháng 10 năm 2011. Anh có trận đấu đầu tiên cho tuyển Colombia vào ngày 11 tháng 10 năm 2011 và đã có pha kiến tạo cho Falcao ấn định chiến thắng 2-1 trước Bolivia.
Ngày 3 tháng 6 năm 2012, anh có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Colombia trong chiến thắng 1-0 trước Peru tại vòng loại World Cup 2014. Hơn ba tháng sau đó, anh có pha đá phạt trực tiếp thành bàn giúp Colombia đánh bại Chile 3-1 trên sân khách. Ngày 7 tháng 9 năm 2013, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Ecuador để đảm bảo chắc chắn tấm vé tham dự World Cup 2014 của đội tuyển Colombia.
World Cup 2014.
Ngày 2 tháng 6 năm 2014, Rodríguez có tên trong danh sách 23 cầu thủ Colombia tham dự World Cup 2014 tại Brasil của huấn luyện viên José Pékerman. Trong trận đấu đầu tiên của Colombia tại vòng bảng, Rodríguez đã có hai pha kiến tạo và ghi bàn ấn định chiến thắng 3-0 trước Hy Lạp và được FIFA bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu. Đến trận đấu thứ hai với Bờ Biển Ngà, Rodríguez tiếp tục phong độ cao với một quả đánh đầu thành bàn và đường chuyền cho Juan Fernando Quintero lập công để đem về chiến thắng 2-1 cho Colombia; cá nhân anh một lần nữa lại nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.
Rodríguez vào sân từ băng ghế dự bị trong cuộc đối đầu với Nhật Bản tại lượt cuối vòng bảng và có được một bàn thắng cùng với hai pha kiến tạo cho tiền đạo Jackson Martínez và chung cuộc Colombia giành chiến thắng đậm 4–1. Sau khi kết thúc vòng bảng, Rodríguez được FIFA xếp hạng là cầu thủ có thành tích xuất sắc nhất vòng bảng.
Ngày 28 tháng 6, Rodríguez ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2-0 trước Uruguay tại Sân vận động Maracanã để đưa Colombia lần đầu tiên trong lịch sử vào tứ kết World Cup và Rodríguez được FIFA chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận lần thứ ba chỉ sau bốn trận đấu tại giải đấu.. Bàn thắng này giúp anh sánh ngang với kỷ lục của Ronaldo và Rivaldo khi ghi bàn trong cả bốn trận đầu tiên của mình tại World Cup. Bàn thắng đầu tiên của anh, một cú vô lê đẹp mắt từ ngoài vòng cấm đã được huấn luyện viên Uruguay Óscar Tabárez khen là "một trong những bàn thắng đẹp nhất tôi từng thấy tại World Cup" và ông cũng đánh giá Rodríguez là "cầu thủ xuất sắc nhất World Cup năm nay". Bàn thắng này sau đó cũng giúp anh giành giải Bàn thắng đẹp nhất World Cup 2014.
Trong trận tứ kết World Cup 2014 với đội chủ nhà Brasil, Rodríguez đã có bàn thắng thứ sáu của mình tại giải đấu từ chấm phạt đền và tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu trong danh sách các cầu thủ ghi bàn tại World Cup 2014. Tuy nhiên điều này đã không giúp Colombia tránh khỏi thất bại 2–1 trước Brasil. Sau trận đấu, anh đã chỉ trích trọng tài chính điều khiển trận đấu nhưng vẫn khen ngợi Brasil là "một đội bóng tốt".
Ngày 11 tháng 7, Rodríguez có tên trong danh sách rút gọn 10 cầu thủ cho danh hiệu Quả bóng Vàng, dành cho cầu thủ xuất sắc nhất World Cup 2014. Sau khi giải đấu kết thúc, dù Colombia bị loại tại tứ kết, anh vẫn giành được danh hiệu Chiếc giày Vàng với thành tích sáu bàn thắng ngay trong lần đầu tiên tham dự World Cup.
Copa América 2015 và Copa América Centenario.
Rodríguez được triệu tập vào đội tuyển Colombia tham dự Copa América 2015 tại Chile. Colombia bị loại ở tứ kết sau khi thua Argentina 5-4 trên chấm luân lưu sau khi hòa 0-0 trong 120 phút.
Mùa hè năm 2016, anh mang băng đội trưởng đội tuyển Colombia tham dự Copa América Centenario. Ngày 3 tháng 6, trong trận mở màn với chủ nhà Mỹ, anh là người ấn định chiến thắng 2-0 cho Colombia từ chấm phạt đền nhưng sau đó phải rời sân sớm vì chấn thương. Tuy nhiên anh đã kịp quay trở lại trong trận đấu thứ hai với Paraguay và ghi bàn giúp Colombia vào tứ kết với chiến thắng 2-1. Chung cuộc Colombia giành vị trí thứ ba tại giải đấu này.
Phong cách thi đấu.
Được đánh giá là một trong những tài năng trẻ hay nhất thế giới, Rodríguez có thể chơi ở nhiều vị trí khác nhau: tiền vệ công, tiền vệ cánh thậm chí là tiền đạo. Anh thường đảm nhận vai trò dẫn dắt lối chơi ở cả câu lạc bộ lẫn đội tuyển quốc gia. Khả năng đi bóng khéo léo, chuyền bóng chính xác nhất là những quả chọc khe giúp anh trở thành nguồn sáng tạo của đội tuyển Colombia. Trước việc được so sánh với Valderrama, anh đã nói: "Đó là một vinh dự khi được xem là truyền nhân của 'El Pibe' ở độ tuổi của tôi".
Cuộc sống cá nhân.
Rodríguez từng kết hôn với Daniela Ospina, em gái David Ospina và có một con gái, tuy nhiên sau 2 năm chung sống, hai người đã chính thức ly hôn. Rodríguez là một Kitô hữu. | 1 | null |
Màu phụ, còn gọi là màu bù được tạo ra từ các màu gốc bằng cách trộn các màu cơ bản (tức màu gốc) với nhau. Trong cách phối màu cộng sử dụng hệ màu RGB, các màu cơ bản là lục, lam và đỏ. Khi đó:
Trên hình ta thấy phần giao thoa giữa từng cặp màu cơ bản chính là màu phụ. Đó là ba màu vàng, cánh sen (hồng sẫm) và cánh chả (xanh lơ).
Các màu phụ được pha từ hai màu cơ bản đặt cạnh màu cơ bản còn lại sẽ tạo thành cặp màu bổ túc. Như vậy ta có các cặp màu bổ túc sau theo nguyên tắc phối màu cộng:
Trong cách phối màu trừ sử dụng hệ màu CMY thì ba màu cơ bản là xanh lơ (cánh chả), cánh sen (hồng sẫm) và vàng. Khi đó các màu phụ sẽ là đỏ, lục và lam:
Những cặp màu bổ túc là:
Trong một hệ phối màu khác do Charles Blanc lập ra năm 1867, ba màu cơ bản được chọn là Đỏ-Vàng-Lam. Pha ba màu gốc này cho kết quả như sau:
Do đó, những cặp màu bổ túc là: | 1 | null |
Poverty Point (tiếng Pháp: "Pointe de Pauvreté") (16 WC 5) là một di chỉ san lấp thời tiền sử của văn hóa Poverty Point, ngày nay là một di tích lịch sử và di sản thế giới nằm ở miền Nam Hoa Kỳ. Khu vực nằm cách sông Mississippi 24,9 km (15,5 dặm), và nằm trên các cạnh của Macon Ridge, gần làng Epps trong Giáo xứ Tây Carroll, phía Đông Bắc tiểu bang Louisiana.
Poverty Point bao gồm một số khu vực đào đắp và gò xây dựng có niên đại từ năm 1650 tới 700 trước Công nguyên (TCN), trong giai đoạn cổ xưa ở Bắc Mỹ bởi một nhóm người Bản địa châu Mỹ của văn hóa Poverty Point. Nền văn hóa mở rộng tới 160 km (100 dặm) trong khu vực đồng bằng sông Mississippi. Mục đích ban đầu của Poverty Point chưa được xác định bởi các nhà khảo cổ, mặc dù họ đã đưa ra nhiều khả năng khác nhau trong đó bao gồm cả: đây là một khu định cư, trung tâm thương mại, hay có thể là một địa điểm nghi lễ tôn giáo.
Có diện tích 3,68 km2 (1,42 dặm vuông; 910 mẫu Anh), nó đã được mô tả là "khu định cư thương mại lớn nhất, khu đào đắp phức tạp nhất và địa điểm thực hiện nghi lễ chưa tìm thấy ở Bắc Mỹ". Nơi đây cũng là một Tượng đài quốc gia của Hoa Kỳ. Tượng đài đã thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ vào đầu thế kỷ 20, khi nó được đặt tên là Poverty Point theo tên của một khu vực đồn điền gần đó. Kể từ đó, các cuộc khai quật khác nhau đã diễn ra tại đây. Các học giả đã đưa nhiều giả thuyết khác nhau liên quan đến mục đích của các gò ở Poverty Point, bao gồm cả là nơi tôn giáo và tiến hành nghi lễ. Khu phức hợp thu hút rất nhiều khách du lịch như một điểm đến hấp dẫn.
Mô tả.
Poverty Point được xây dựng hoàn toàn bằng việc đào đắp. Vùng lõi của di chỉ khảo cổ này có diện tích khoảng 2 km2 (500 mẫu Anh 2), mặc dù cuộc điều tra khảo cổ học đã chỉ ra rằng tổng diện tích kéo dài hơn 5 km (3 dặm) dọc theo thượng nguồn con sông. Việc xây dựng tượng đài gồm 6 gò tròn đồng tâm được đào đắp thành dạng trăng lưỡi liềm, được chia thành 5 lối đi tỏa ra từ trung tâm tại khu vực bên bờ sông. Khu vực cũng có một số gò cả ở bên ngoài và bên trong của vùng lõi. Tên "Poverty Point" xuất phát từ tên của đồn điền đã từng bao quanh khu vực.
Vào tháng 1 năm 2013, Bộ Nội vụ Hoa Kỳ đã đề cử Poverty Point để trở thành Di sản Thế giới của UNESCO. Thượng nghị sĩ bang Francis C. Thompson của Delhi, Richland cho biết, vấn đề bảo vệ nó không phải chỉ đơn thuần là của một địa phương hoặc thậm chí là bang mà là của cả các tổ chức quốc tế. Uy tín từ việc có một di sản thế giới trong khu vực và bang sẽ có ý nghĩa lớn cả về mặt văn hóa và kinh tế".
Ngày 22 tháng 6 năm 2014, UNESCO đã được phê chuẩn Poverty Point trở thành một di sản thế giới tại hội nghị thường niên của mình ở Doha, Qatar. Phó Thống đốc Jay Dardenne là một trong số những người của phái đoàn đến Trung Đông để thúc đẩy việc đưa Poverty Point vào danh sách Di sản thế giới. Đây là di sản thế giới đầu tiên ở bang Louisiana và chỉ có 22/50 bang của Hoa Kỳ là có Di sản thế giới.
Vùng lõi.
Phần chính của di tích là sáu gò đường cong hình lưỡi liềm đồng tâm được đào đắp, nằm ở trung tâm của di chỉ biểu tượng như là "Trái Đất". Mỗi gò đường cong được ngăn cách với nhau bởi một hành lang bằng phẳng. Nó chia quả đồi thành ba phần (trước đây là năm) là hai con dốc dốc bên trong, dẫn đến Bayou Maçon. Mỗi gò cong được đắp cao khoảng 3 mét. Các nhà khảo cổ tin rằng, chúng từng cao đến 5 feet, nhưng đã bị mòn đi bởi quá trình sản xuất nông nghiệp trong vài thế kỷ qua. Đường kính gần đúng tới phía gò cong ngoài cùng là 3/4 dặm, trong khi đường kính của gò cong trong cùng là 3/8 dặm.
Gò A.
Bên cạnh những đường lằn đào đắp khác, chủ yếu là các nền móng của gò. Lớn nhất trong số này là Gò A, nằm về phía tây của vùng lõi, có hình gần giống chữ T khi nhìn từ trên cao. Nhiều người đã giải thích nó như là hình dạng của một con chim và cũng là một " Đảo Trái Đất", đại diện cho trung tâm vũ trụ của di chỉ.
Các nhà nghiên cứu đã biết được rằng Gò A đã được xây dựng một cách nhanh chóng, có lẽ trong khoảng thời gian không quá ba tháng. Trước khi xây dựng, thảm thực vật đã bị đốt cháy. Theo phân tích phóng xạ, việc đốt này xảy ra từ khoảng giữa năm 1450 tới 1250 TCN. Không có dấu hiệu của việc gián đoạn xây dựng hay ảnh hưởng thời tiết tới gò ngay cả ở mức nhỏ nhất, chỉ ra rằng việc xây dựng được tiến hành với một nỗ lực rất lớn và diễn ra trong khoảng thời gian ngắn. Gò A được tạo thành từ khoảng 238.000 mét khối đất, làm cho nó là gò đất lớn thứ hai (theo thể tích) ở miền đông Bắc Mỹ. Đây là tổng thể có kích thước lớn thứ hai của Văn hóa Mississippian sau các Gò đất Monks tại Cahokia, được xây dựng bắt đầu từ khoảng 950-1000 TCN thuộc bang Illinois ngày nay. Gò A, B và E cùng nằm trên một trục Bắc-Nam.
Một barrow hố thấp, được sử dụng để dẫn nước sinh hoạt, nằm giữa Gò A và B. Có lẽ những người Poverty Point xây dựng những ụ đất để tránh những tác động ô nhiễm nguồn nước trong vùng. | 1 | null |
"Em của ngày hôm qua" là một ca khúc theo điệu R&B được sáng tác và trình bày bởi nghệ sĩ thu âm Sơn Tùng M-TP, được phát hành trực tuyến ngày 15 tháng 12 năm 2013, nhưng được sáng tác hơn một năm trước khi phát hành.
Sau khi phát hành, ca khúc này đã trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam. Video của bài hát trên YouTube trở thành video V-pop trên YouTube nhiều lượt xem với gần 120 triệu lượt xem. Ca khúc này sau đó bị tranh cãi là đạo nhạc do sáng tác dựa trên nền nhạc của "Every Night" do nhóm nhạc EXID trình bày trước đó. Tuy không thu lại "Bài hát yêu thích" của Sơn Tùng, nhưng ca khúc này đã bị loại bỏ ra khỏi các bảng xếp hạng.
"Em của ngày hôm qua" đã được phục vụ như là đĩa đơn quảng bá từ album phòng thu đầu tiên của Tùng, "m-tp M-TP" (2017).
Bối cảnh sáng tác.
Sơn Tùng M-TP chia sẻ với báo "Mực Tím" rằng ca khúc đã được anh sáng tác ngay sau khi chiến thắng giải chung cuộc tháng tại "Bài hát yêu thích" tháng 10 năm 2012 cho "Cơn mưa ngang qua", nơi mà anh đã vô ý nghe được một khán giả nói xấu mình sau khi trở về từ sân khấu nhận giải.
"Em của ngày hôm qua" là một ca khúc dance-pop, R&B do Sơn Tùng M-TP sáng tác lời trên nền nhạc của "Every Night" từ nhóm nhạc EXID.
Bài hát được Sơn Tùng M-TP lấy cảm hứng từ phim Hàn Quốc và một mối tình đơn phương của mình năm lớp 12 với một cô bé lớp 11. "Tốt nghiệp xong thì cũng không còn gặp lại [cô bé]" và đó là nguồn cảm hứng cho câu hát "Em đang nơi nào?" trong bài. Bài hát được hát bằng giọng giả thanh và kèm thêm một đoạn rap giữa bài, xoay quanh câu chuyện chia tay giữa anh và một cô gái mà anh cho rằng đã đổi thay cũng như khuyên cô "đừng vội vàng, em hãy là em của ngày hôm qua".
Tiếp nhận.
Chưa đầy một ngày sau khi phát hành, "Em của ngày hôm qua" đã thu hút hơn 300 ngàn lượt nghe trên Zing MP3. Sau ba ngày, ca khúc đạt hơn 1 triệu lượt nghe và 100 triệu lượt nghe sau 3 tháng. Ca khúc đã vươn lên vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng bài hát Việt Nam tại trang web 4 tuần liên tiếp.
Ca khúc đã đứng vị trí quán quân bảng xếp hạng "Bài hát yêu thích" ba tuần liên tiếp từ ngày 7 tháng 2 đến 21 tháng 2 năm 2014 trước khi giành được giải chung cuộc của tháng tại lễ trao giải tổ chức ngày 2 tháng 3.
Tranh cãi.
Từ khi phát hành, khán giả đã phát hiện sự tương đồng trong phần nhạc nền của "Em của ngày hôm qua" với "Every night", một ca khúc đến từ nhóm nhạc Hàn Quốc EXID. Sơn Tùng M-TP sau đó đã gửi thư đến ban tổ chức của chương trình "Bài hát yêu thích" xác nhận về việc sử dụng nhạc nền có sẵn có nguồn gốc nước ngoài để sáng tác nhạc và lời cho các ca khúc riêng của mình, bao gồm "Em của ngày hôm qua" và hai ca khúc khác từng xuất hiện trên bảng xếp hạng của chương trình. Nhưng sau đó anh đã khẳng định rằng mình không đạo nhạc mà chỉ "được lấy cảm hứng từ [nhạc nền] nước ngoài," cũng như cho rằng đó là cách làm quen thuộc của mình và là xu hướng sáng tác hiện tại của nhiều người.
Ngày 14 tháng 6 năm 2014, ban tổ chức của "Bài hát yêu thích" đã quyết định loại bỏ "Em của ngày hôm qua" và hai ca khúc khác của Sơn Tùng M-TP ra khỏi bảng xếp hạng vì đã vi phạm khi sử dụng bản phối không xin phép, không rõ nguồn gốc và tên tác giả. Tuy nhiên, ban tổ chức đã không thu hồi hai giải "Bài hát yêu thích" mà Sơn Tùng M-TP đã nhận.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc của ca khúc được đạo diễn Danny Đỗ chỉ đạo và ghi hình tại hộp đêm ACE và khách sạn Anh & Em. Quang Đăng, vũ công giành hạng ba mùa đầu tiên của chương trình "" chịu trách nhiệm biên đạo cho video. Khi trailer cho video "Em của ngày hôm qua" vừa hoàn tất, Sơn Tùng M-TP đã tự ý đăng tải đoạn phim mà không có sự đồng ý của công ty quản lý. Tuy nhiên, trailer của video vẫn được phát hành chính thức vào ngày 25 tháng 12 năm 2013 trên Zing MP3.
Sau 9 tháng đăng tải, video đã thu hút 40 triệu lượt xem trên YouTube.
Tuy nhiên, ngày 9 tháng 9 năm 2014, video của ca khúc đã bị đạo diễn Danny Đỗ gỡ bỏ khỏi YouTube.
Trình diễn trực tiếp.
Vào ngày 9 tháng 2 năm 2014, Sơn Tùng M-TP đã trình diễn trực tiếp bài hát lần đầu tiên tại chương trình "Bài hát yêu thích" tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội. Anh đã tiếp tục trình diễn bài hát tại buổi công bố kết quả top 3 chương trình "" ngày 2 tháng 3. Ca khúc được tiếp tục xuất hiện trên sân khấu Lan Anh trong khuôn khổ của chương trình "Âm nhạc & Bước Nhảy" vào ngày 8 tháng 3, phát sóng trực tiếp trên kênh VTV9, VTV Phú Yên và Đài Phát thanh Truyền hình Lâm Đồng. Tại buổi gặp gỡ người hâm mộ của ca sĩ Hoàng Tôn ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 23 tháng 3, Sơn Tùng M-TP đã cùng Hoàng Tôn song ca bài hát "Cơn mưa ngang qua" và trình diễn riêng "Em của ngày hôm qua" tại buổi tiệc.
"Em của ngày hôm qua" tiếp tục được Sơn Tùng M-TP biểu diễn tại "Thần tượng âm nhạc Việt Nam" 2023 bằng bản phối gốc, màn biểu diễn được dàn dựng cùng phong cách và gợi nhớ đến màn trình diễn năm 2013.
Các phiên bản khác.
"Em của ngày hôm qua" đã trở thành "cơn sốt" thu hút nhiều bản cover và nhái lại, trong đó, ca khúc đã được trình diễn lại bằng nhiều nhạc cụ khác nhau bao gồm độc tấu guitar, trống, đàn tranh, beatbox, pen tapping (gõ bút bi), nồi, xoong, chảo."
Các phiên bản cover.
Ngày 25 tháng 3 năm 2014, Hòa Minzy và Bảo Kun đã cùng song ca bài hát tại buổi diễn trực tiếp thứ hai của cuộc thi tài năng ".
Ngày 25 tháng 5, Trong vòng Tranh đấu đầu tiên của chương trình " năm 2014 phát sóng, nhóm It's Time đã làm mới ca khúc bằng việc phối bè cùng piano và một chiếc loa điện tử.
Ngày 6 tháng 6 trong phim "Lớp Học Vui Nhộn" được trình chiếu trên Yeah1 TV, "lớp phó văn thể mỹ" của chương trình, ca sĩ Thanh Duy đã dạy cả lớp phiên bản vọng cổ của bài hát.
Các phiên bản trình diễn lại.
Ngày 31 tháng 5, Trong đêm diễn thứ 10 của chương trình "Gương mặt thân quen năm 2014, "ca sĩ Hoài Lâm đã hóa trang thành Sơn Tùng M-TP và bắt chước màn trình diễn của anh tại buổi công bố kết quả tốp 3 chương trình "". Tiết mục của anh đã giành được giải 100 triệu của đêm thi này, cùng lời khen ngợi từ nữ ca sĩ Mỹ Linh: "Tôi thật sự khen em vì em hát [trực tiếp] còn hay hơn cả Sơn Tùng".
Phiên bản "You of Yesterday".
Phiên bản remix của bài hát được đặt tên là "You of Yesterday" đã được Sơn Tùng M-TP ra mắt độc lập vào năm 2018. Phiên bản này phần lớn có lời bài hát bằng tiếng Anh. | 1 | null |
Angry Birds đã có trên Facebook ngày 13/2/2012. Sau khi game đổi tên thành: Angry Birds Friends được gần một tháng (1/4/2013), Angry Birds Friends đã có trên Android vào ngày 2/5/2013. Những người chơi Angry Birds Friends có thể chơi trên Android và iOS miễn phí.
Lưu hành tiền tệ trò chơi.
Coins.
Coins dùng để mua Power-Ups và nhiều hơn thế
Về các tập phim.
Angry Birds trên Facebook.
Angry Birds Friends, ngoài những episode của Angry Birds, Angry Birds Friends còn cho thêm một vài tập đặc biệt và 10 bonus trứng vàng mà chỉ có Angry Birds Friends có.
Dừng hoạt động.
Kể từ năm 2020, Angry Birds Friends trên Facebook dừng phát hành các episode này.
Giải đấu hàng tuần.
Hàng tuần, vào lúc 14h00 thứ 2, các chương trình giải đấu hàng tuần được diễn ra. Sau 7 ngày, người chơi thắng cuộc sẽ nhận được các giải thưởng tương ứng.
Special Tournament.
2012 | 1 | null |
Lớp tàu khu trục L và M là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chín chiếc đã bị mất trong chiến tranh; trong số những chiếc còn sống sót, bốn chiếc được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ và những chiếc còn lại được tháo dỡ.
Chi tiết thiết kế.
Những chiếc trong lớp L và M có một ống khói duy nhất, giống như lớp J trước đó, với một cột ăn-ten trước ba chân và một cột ăn-ten chính ngắn ngay sau giữa tàu. Một điểm đặc biệt là thiết kế cầu tàu: mọi tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia từ lớp I cho đến lớp Weapon đều chia sẻ một cầu tàu dạng hình nêm, bao gồm một phòng lái chống đạn, được nâng cao để hoa tiêu có thể nhìn bên trên các khẩu pháo. Việc nâng chiều cao các khẩu pháo trên lớp L đã khiến cho phòng lái phải được nâng cao hơn nữa, và mái dốc của phòng lái nhằm dẫn hướng gió đến bệ la bàn hầu như phẳng. Đặc tính này là điểm độc đáo của lớp L và M.
Khi được đặt hàng, lớp tàu bao gồm một soái hạm khu trục và 7 tàu khu trục. Mỗi chiếc được trang bị sáu khẩu pháo và tám ống phóng ngư lôi. Vũ khí tầm gần vẫn còn đang chờ để được quyết định, khi thời hạn để giao hàng là một yếu tố then chốt. Vũ khí trang bị cho lớp là một đề tài được tranh luận đáng kể, khi mà đề nghị về vũ khí phòng không mạnh mẽ hơn cho những con tàu này cuối cùng cũng được Bộ Hải quân Anh lắng nghe. Việc này có được là nhờ những bài học thu được qua cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, nơi mà máy bay quân sự giờ đây đã tiến triển đến mức là một mối đe dọa chủ yếu cho các mục tiêu trên đất liền và trên biển.
Chúng là những tàu khu trục Anh đầu tiên có các bệ pháo hoàn toàn kín. Chúng cũng tiếp nối một thực hành, vốn bắt đầu từ lớp J, là chiếc soái hạm dẫn đầu hầu như không thể phân biệt so với phần còn lại của lớp, chỉ có cabin rộng rãi hơn và thiết bị vô tuyến tốt hơn.
Dàn vũ khí chính.
Khi được đặt hàng, những chiếc lớp L dự định mang sáu khẩu pháo QF Mk XI trên các tháp pháo nòng đôi Mark XX ở các vị trí 'A', 'B', và 'X'. Bệ 'X' có góc bắn ước lượng 320° ở góc nâng thấp và 360° ở góc nâng khoảng 20°. Bản thân pháo Mark XI là một sự cải tiến đáng kể khi nó bắn ra đạn pháo nặng so với đạn pháo trên lớp J dẫn trước. Bệ Mark XX hoàn toàn kín và dự định hoạt động ở mọi thời tiết; nhưng trong thực tế thủy thủ đoàn không dễ chịu. Nó cũng cho phép các khẩu pháo nâng độc lập với nhau. Bệ Mark XX không phải là một tháp pháo thực sự theo góc độ kỹ thuật, vì hệ thống nạp đạn pháo tách biệt khỏi bệ vũ khí và không xoay theo khẩu pháo. Điều này có nghĩa là việc tiếp đạn khi khẩu pháo xoay hết giới hạn sẽ có gặp khó khăn, và băng chuyền tiếp đạn phải đặt giữa các khẩu pháo như trường hợp pháo /38 caliber của Hải quân Hoa Kỳ. Kết quả là các khẩu pháo được đặt rất cách xa nhau.
Bệ Mark XX cho phép tăng góc nâng lên 50° so với 40°Của các phiên bản trước. Tuy nhiên, thời gian đối phó với máy bay đối phương vẫn bị giới hạn, cho dù pháo cỡ trung không hiệu quả lắm đối với máy bay ném bom bổ nhào cho đến khi áp dụng đạn pháo với kíp nổ tiếp cận radar. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã đưa ra pháo với góc nâng 70°, nhưng trong phục vụ như một vũ khí phòng không chúng có tính năng thể hiện kém, trong khi pháo 3 inch/38 caliber trên bệ Mark 32 của Hải quân Hoa Kỳ có thể năng đến 85°. Pháo trang bị trên tàu sân bay đã đưa vào phục vụ và có khả năng nâng đến góc 80°, cho dù bệ của chúng không phù hợp cho một tàu cỡ tàu khu trục. Cộng với việc thiếu sót khả năng nâng bằng điện, bệ Mark XX là một sự thỏa hiệp khi lựa chọn cho vai trò phòng không, cho dù nó có ưu điểm khi so sánh với vũ khí tương đương của phe Trục.
Một phát triển khác liên quan đến dàn pháo chính là việc áp dụng tháp kiểm soát hỏa lực kết hợp góc cao/góc thấp HA/LA Mk.IV. Không may là thiết bị này không thể thỏa mãn hoàn toàn ở chế độ góc cao, và nặng hơn ít nhất một tấn. Sau này nó cũng hoạt động, lại không mấy thành công, như là "Tháp K" Mk.I trên những tàu khu trục lớp Z. Các con tàu này sử dụng máy tính kiểm soát hỏa lực góc cao kiểu đồng hồ định thời kíp nổ. Cho dù có những vấn đề như vậy, tháp kiểm soát hỏa lực của lớp L và M cùng radar kiểm soát hỏa lực Kiểu 285 của nó cung cấp việc điều khiển hỏa lực phòng không tốt hơn mọi tàu khu trục tương tự của phe Trục, hầu hết đều không có một hệ thống kiểm soát hỏa lực góc cao và radar chuyên biệt cho điều khiển hỏa lực phòng không.
Như được đặt hàng vào ban đầu, lớp L không có một vũ khí tầm gần, vì các bộ phận khác nhau bất đồng về vũ khí trang bị. Các quan điểm bao gồm trang bị một hay hai dàn pháo QF 2-pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, một "pom-pom" và một súng máy nhiều nòng đang được phát triển, một "pom-pom" và súng máy Vickers truyền thống, được tranh luận về hiệu quả của cả ba loại vũ khí, càng thêm nóng bỏng do lịch sản xuất sít sao (một khẩu "pom-pom" thứ hai cho mỗi con tàu chỉ có thể sẵn sàng vào năm 1942), tính năng kém của các kiểu súng máy 0.661 được phát triển, và cuộc vận động bởi một số sĩ quan trẻ do Lord Louis Mountbatten dẫn đầu. Cuối cùng, việc phát triển súng máy 0.661 bị bỏ dỡ do nó rõ ràng không thể sẵn sàng và hiệu quả trong một thời biểu nhạy cảm, và giúp đơn giản hóa việc tranh luận.
Việc chiến tranh nổ ra đã giúp tập trung các đầu óc. Vào tháng 2 năm 1940, hai yếu tố đã đưa đến đề nghị thay đổi thiết kế của bốn chiếc lớp L nhằm trang bị hỏa lực chính là pháo QF Mk XVI* trên các bệ góc cao/góc thấp (HA/LA) nòng đôi, do nó đã được sử dụng như vũ khí hạng hai trên lớp tàu tuần dương "Southampton" đã đưa vào hoạt động, và như vũ khí chính cho lớp tàu xà lúp "Black Swan" đang được chế tạo. Các thay đổi kèm theo bao gồm hai dàn súng máy bốn nòng. Mọi chiếc trong lớp này ngoại trừ và mang một dàn QF 2-pounder "Pom-pom" bốn nòng.
Những bài học rút ra từ Chiến dịch Na Uy và cuộc Triệt thoái Dunkirk đưa đến nhu cầu phải có những thay đổi này, và chúng được chấp thuận vào tháng 7 năm 1940, cũng như bốn dàn pháo hai nòng thay vì chỉ là ba như được đề nghị ban đầu. Dàn pháo thứ tư được bố trí ở phần cuối của cấu trúc thượng tầng phía sau, vốn hạn chế góc bắn của cả hai bệ, nhưng đảm bảo bệ thứ tư vẫn sẵn sàng để sử dụng trong thời tiết xấu. Không phải mọi sĩ quan cấp cao đều chấp thuận, một số bày tỏ công khai quan điểm các con tàu này sẽ không đối chọi thành công với đối thủ tiềm năng của nước ngoài. Kinh nghiệm tại Địa Trung Hải, đặc biệt là của Lực lượng K vốn có hai chiếc lớp L trang bị pháo 4-inch, cho thấy sự suy giảm sức mạnh các khẩu pháo đối với mục tiêu mặt biển được cân bằng lại nhờ tốc độ bắn nhanh hơn.
Việc xem xét lại hỏa lực phòng không vẫn tiếp tục, và đến tháng 10 có quyết định tháo dỡ dàn phóng ngư lôi phía sau để trang bị một dàn pháo góc cao thay thế, và đó là cấu hình mà những chiếc trang bị pháo cuối cùng đi ra biển; cho dù trên một số chiếc còn sống sót, bao gồm và , dàn phóng ngư lôi phía sau được trang bị lại vào cuối chiến tranh.
Các cải biến được đề nghị.
Vào đầu những năm 1950, người ta đề nghị cải biến năm chiếc còn lại của lớp M cùng với bảy chiếc tàu khu trục trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh thành những tàu frigate phòng không Kiểu 62. Việc cải biến bao gồm thay thế vũ khí và cảm biến của các con tàu. Đề nghị ban đầu sẽ trang bị một tháp pháo 4 inch nòng đôi, một khẩu đội Bofors 40 mm phòng không nòng đôi và một dàn súng cối Squid chống tàu ngầm. Radar dò tìm trên không Kiểu 982 và 983 sẽ được trang bị, cũng như sonar Kiểu 162 và 166. Vào tháng 3 năm 1952, chương trình được tiết giảm, do các tàu khu trục chiến tranh khẩn cấp quá nhỏ không thể mang những radar nặng hơn. Cuối năm đó, có quyết định thay pháo 4 inch bằng kiểu hải pháo 3 inch/50 caliber nòng đôi của Hoa Kỳ. Kế hoạch cuối cùng bị hủy bỏ vào tháng 5 năm 1954, một phần là do tình trạng của các con tàu và khả năng chịu sốc kém.
Chế tạo và hoạt động.
Lớp L (còn được gọi là lớp "Laforey") được chấp thuận trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1937. Bốn chiếc trong lớp: , , và "Larne" được chế tạo với pháo . Sáu trong số tám chiếc của lớp đã mất trong chiến tranh, hai chiếc còn sống sót bị tháo dỡ vào năm 1948.
Lớp M được chế tạo trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1939. Chúng phục vụ cùng Hạm đội Nhà cho đến năm 1944 rồi được chuyển sang Địa Trung Hải. Ba chiếc bị mất trong chiến tranh; trong số năm chiếc còn sống sót, bị tháo dỡ năm 1955 và bốn chiếc còn lại được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1958. | 1 | null |
Oecophylla longinoda là một loài kiến được tìm thấy ở khu vực rừng châu Phi. Chúng là một trong hai loài con tồn tại của chi "Oecophylla", loài con lại là "O. smaragdina". Chúng làm tổ trên cây làm bằng lá cây dán với nhau sử dụng tơ từ ấu trùng của chúng. | 1 | null |
Chi Kiến vàng (danh pháp khoa học: Oecophylla, tiếng Anh: "Weaver ant - kiến thợ dệt") là một chi kiến trong họ Formicidae, bộ Hymenoptera. Chi Kiến vàng sống trên cây và được biết đến với hành vi xây tổ khi các kiến thợ xây tổ bằng dùng tơ của ấu trùng dệt lá lại. Bầy kiến có thể cực kỳ lớn bao gồm hơn một trăm tổ kéo dài nhiều cây và chứa hơn nửa triệu cá thể. Giống như nhiều loài kiến khác, chúng săn côn trùng nhỏ và ăn chất ngọt giàu carbohydrate từ chất thải của các loài Hemiptera. Kiến thợ lớn đại chiều dài và kiến thợ nhỏ dài chừng một nửa chiều dài của nhưng con kiến lớn này. Sự phân chia công việc liên quan đến sự khác biệt về kích thước giữa các con kiến thợ. Kiến thợ lớn tìm thực ăn, bảo vệ và mở rộng phạm vi lãnh thổ trong khi kiến thợ nhỏ có xu hướng ở lại trong tổ chăm sóc tổ và uống dịch tiết của rệp cây hoặc gần với tổ.
Loài.
Loài con sinh tồn:
Loài tuyệt chủng: | 1 | null |
Cá vược là một tên gọi chỉ chung của nhiều loài cá khác nhau cùng chia sẻ cái tên này. Thuật ngữ cá vược đề cập đến cả các loài cá nước ngọt và cá biển, tất cả đều thuộc một bộ cá lớn hơn đó là Bộ Cá vược (Perciformes).
Đại cương.
Cá vược có nhiều điểm tương đồng với cá rô, trong tiếng Anh cũ, thuật ngữ cá vược (bass) có nghĩa là cá rô Cá vược là một đặc sản cho giá trị kinh tế cao bởi dinh dưỡng mà cá vược mang lại vượt trên nhiều loại cá khác, cá vược đã được thuần hóa để nuôi cả trong nguồn nước mặn và nước ngọt. Cá vược còn là loài cá phổ biến trong việc câu cá giải trí hay câu cá thể thao, đặc biệt là ở Bắc Mỹ với các loài cá vược đen.
Đặc điểm.
Đặc trưng chung cho các loài cá vược trong thể loại này là loài cá sinh sống được cả ở nước ngọt và nước lợ những con Cá vược có cơ thể dài, miệng rộng, không cân, hàm trên kéo tới tận sau mắt. Đầu nhọn, nhìn bên lõm phía lưng (hình dạng lưng lõm) và lồi ở phía trước vây lưng. Vẩy dạng lược rộng. Chiều dài tối đa: 200 cm, cân nặng 60 kg.
Nhiều loài cá vược có kích thước khổng lồ. Cá vược cỡ lớn có con đến 50 kg hoặc 70 kg, chẳng hạn như có cá vược nặng tới 112 kg, chiều dài hơn 1,8m tại Uganda. Kỉ lục hiện hành thuộc về con cá vược nặng 103,5 kg hay như có con cá vược nặng 16,89 kg trên sông Hương ở Việt Nam, có chiều dài 1,2 m, cân nặng đúng 16,89 kg, đây là con đạt trọng lượng cao nhất từ trước đến nay.
Màu sắc cá có hai giai đoạn, giai đoạn giống cá thường có màu nâu Oliu ở phía trên với màu bạc ở hai bên lườn và bụng, khi cá sống trong môi trường nước biển và màu nâu vàng trong môi trường nước ngọt, giai đoạn trưởng thành cá có màu xanh lục hay vàng nhạt ở phần trên và màu bạc phần đuôi. Cá vược là loài cá dữ, thức ăn ưa thích là các loại cá tạp, tôm, không ăn thực vật và các loài giáp xác khác nhau như cua, cáy.
Giá trị.
Cá vược là loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, ít dịch bệnh, dễ thích nghi với môi trường sống và có thể nuôi ở cả khu vực ao đầm nước ngọt, mặn hoặc lợ. Trong môi trường tự nhiên, loài này đẻ trứng quanh năm nhưng mùa sinh sản chủ yếu vào tầm tháng 4, tháng 5. Là loài cá sinh trưởng và phát triển nhanh, cá vược thường đạt bình quân từ 3–5 kg sau 2-3 năm chăm sóc. Không chỉ có ưu điểm vượt trội về tốc độ tăng trưởng nhanh, tỷ lệ sống cao, cá vược còn là một trong những loài có giá trị kinh tế cao, được thị trường tiêu dùng ưa chuộng.
Một số nơi ở Việt Nam đã nuôi thành công cá vược thương phẩm, với số lượng 5.000 con, cỡ 7– 8 cm, sau 9 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân 0,9 kg/con, tỷ lệ sống đạt 71%. Nhiều người đã nuôi cá vược bằng lồng trên đầm phá, đạt hiệu quả kinh tế khá tốt. Trung bình mỗi kg cá vược nuôi có giá từ 180.000 đến 200.000 đồng. Còn cá vược bắt được trong tự nhiên giá bán cao hơn từ 30 đến 50% so với giá cá vược nuôi. Hay mô hình nuôi cá vược theo hình thức quảng canh, lợi nhuận thu được từ cá vược thường cao gấp 5-6 lần so với một số loại cá khác như cá mè, cá chép, cá trắm.
Cá vược được dùng là nguyên liệu để chế biến nhiều món ăn như cá vược hấp bia ăn kèm với bánh đa nem gói chấm mắm chua cay, lẩu cá vược, cá vược hấp, cá vược nướng, cá vược ướp riềng mẻ nướng than. Phần lớn cá vược của Australis được xuất khẩu đi Mỹ và Canada, người ta chọn lựa chọn cá vược của Autralis để chế biến những bữa ăn. Trong đó có thưởng thức bốn món ăn đặc biệt được chế biến từ cá vược gồm Cá vược nướng bơ chanh; Cá vược chiên sốt hoa quả; Cá vược hấp xì đầu; Cá vước chiên sốt gừng tỏi.
Câu cá vược.
Câu cá vược là một trò câu cá thể thao giải trí khá phổ biến trên thế giới như ở Mỹ. Ở Việt Nam, người câu cá thể thao ở Huế đã câu được nhiều cá vược ở phía hạ lưu sông Hương, trọng lượng mỗi con khoảng từ 0,5 kg đến 3 kg. Ngoài ra, thay vì phải ngồi trên thuyền và thả câu hàng giờ, một người ngư dân đã lựa chọn cách đơn giản hơn là dùng tay để câu cá, dùng tay thả một con cá nhỏ xuống nước. Trong vài giây, con cá vược xuất hiện và đớp mồi trên ngón tay.
Người ta đặt tên cho cá vược là "cọp nước" hay cá trặc vì sức mạnh của nó, cá vược được ngư dân xem như là bá chủ cả vùng sông nước. Cá vược bị lưới bủa quanh sẽ quẫy đuôi rất hung tợn. Người săn cá phải tỉnh táo để cho cá vùng vẫy, mặc sức tông vào lưới, đến khi nào cá quật lên ngang mặt lưới thì dùng tay chộp nhanh, ấn hai móng tay mạnh vào hai mang cá. Một buổi săn cá vược thường mất cả giờ đồng hồ, đòi hỏi thợ săn phải có tính kiên trì. Trước khi đi săn, các ngư phủ dày dạn kinh nghiệm thường ngủ lại một đêm trên đầm phá. | 1 | null |
Khóa học trực tuyến đại chúng mở hay MOOC (Massive open online course) là khóa học thông qua Internet không giới hạn số người tham dự. Xuất phát từ ý tưởng của giáo dục từ xa, "Khóa học trực tuyến đại chúng mở" có tiềm năng thay đổi nền giáo dục thế giới, đặc biệt là giáo dục đại học.
Đặc điểm khóa học.
Khác với phương pháp giáo dục cổ điển với tài liệu khóa học như videos, sách vở, MOOC cung cấp cho học viên diễn đàn để cho học viên, và giáo sư có cơ hội trao đổi với nhau.
Hạn chế.
Tỷ lệ tốt nghiệp của MOOC rất thấp, hầu như chỉ dưới 10%. | 1 | null |
Emma Tallulah Behn (sinh ngày 29 tháng 9 năm 2008) là con gái út của Märtha Louise của Na Uy và nhà văn Ari Behn. Cô được sinh ra tại biệt thự gia đình ở Lommedalen ngoại ô thủ đô Oslo, Vương quốc Na Uy.
Cô là cháu thứ năm của Vua Harald V và Sonja, Vương hậu Na Uy. Hiện tại, cô đang xếp thứ 7 trong danh sách kế vị ngai vàng hoàng gia Na Uy và thứ 78 trong danh sách kế vị ngai vàng hoàng gia Anh, sau chị gái là Leah Isadora.
Thiếu thời.
Tên của cô, "Emma" có nguồn gốc từ tiếng Đức, nghĩa là "người con gái mạnh mẽ". Còn tên đệm "Tallulah" có nguồn gốc từ chữ "Tuilelaith" trong tiếng Gaelic nghĩa là "quý cô, công chúa" hay bắt nguồn từ Ấn Độ, có nghĩa là "suối nước".
Emma Tallulah được rửa tội vào ngày 20 tháng 1 năm 2009 tại Nhà nguyện thuộc Cung điện Hoàng gia ở thủ đô Oslo, Na Uy. Cha mẹ đỡ đầu của cô bao gồm: Marianne Solberg Behn, Thái tử phi Mette-Marit của Na Uy, Vương nữ Alexia của Hy Lạp và Đan Mạch, nghệ sĩ Na Uy Sigvart Dagsland, nhà báo Anbjørg Sætre Håtun, Carl Christian Christensen và Christian Udnæss.
Tháng 9 năm 2012, cô cùng gia đình chuyển sang sinh sống tại Islington, Luân Đôn, Anh. | 1 | null |
Elena Dmitrievna Stasova (; 3 tháng 10 năm 1873 – 31 tháng 12 năm 1966) là một nhà cách mạng cộng sản Nga và là thành viên làm việc cho Quốc tế Cộng sản. Bà là đại diện của Quốc tế Cộng sản Đức vào năm 1921. Từ năm 1927 đến 1938, bà là chủ tịch Hội Cứu tế Đỏ Quốc tế (MOPR). Từ năm 1938 đến 1946 bà đảm nhiệm cương vị biên tập viên của tạp chí "Văn học Quốc tế".
Tiểu sử.
Thiếu thời.
Elena Stasova sinh vào ngày 3 tháng 10 năm 1873 tại Sankt-Peterburg, thuộc dân tộc Nga. Bà là con gái của một luật gia tự do, Dmitry Stasov (1828-1918) từng làm việc tại Thượng viện và là một sứ truyền lệnh tại lễ đăng quang của Aleksandr II. Ông nội của bà là một kiến trúc sư sống dưới thời Sa hoàng Aleksandr I và Nikolai I. Sau khi học xong trung học, Elena đã trở thành một nhà xã hội chủ nghĩa như đã hứa và gia nhập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDRP) tại thời điểm Đảng này thành lập vào năm 1898.
Khi RSDRP chia thành hai phe cánh Bolshevik và Menshevik vào năm 1903, Stasova đã góp rất nhiều công sức với Lenin và những người Bolshevik như một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Trong hai năm tiếp theo Stasova thông qua bút danh "Tuyệt đối" và "Dày đặc" đóng vai trò như một chân rết cho tờ báo "Iskra" của Lenin tại Sankt-Peterburg, nơi bà làm bí thư đảng ủy của thành phố này. Stasova còn phụ trách công tác giảng dạy cho các thành viên mới phương thức mã hóa và giải mã. Bà cũng đảm nhiệm chức danh bí thư Văn phòng phía Bắc của Ban Chấp hành Trung ương Bolshevik và ở các vị trí trọng yếu khác của Đảng. Các bút danh khác mà Stasova sử dụng trong khoảng thời gian hoạt động ngầm gồm "Delta", "Heron", "Knol" và "Varvara Ivanovna."
Stasova di cư sang Geneva, Thụy Sĩ vào năm 1905, trùng với thời điểm xảy ra cuộc Cách mạng Nga năm 1905. Ít lâu sau bà trở về nhà vào tháng 1 năm 1906 và được Bolshevik phân công làm việc trực tiếp tại Tiflis (nay là Tbilisi), thủ đô của Gruzia. Đến tháng 1 năm 1912, Stasova được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bolshevik. Bà giờ đã là bí thư Văn phòng Nga của Đảng cho đến khi bị chính quyền Sa hoàng bắt giam và lưu đày đến Siberia vào năm 1913 cho tới tận năm 1916 mới được trả tự do. Sau đó bà từ chức thủ quỹ Đảng cùng với người em trai của mình.
Sự nghiệp chính trị.
Sau Cách mạng tháng Hai năm 1917, Stasova được bổ nhiệm làm bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng — một vị trí mà bà đảm đương trong suốt cuộc Cách mạng Tháng Mười, cuối cùng phải rút lui vào tháng 3 năm 1920. Bà còn được phục chức ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bolshevik qua Đại hội lần thứ sáu của Đảng Cộng sản Nga vào năm 1917. Stasova được bầu vào thành viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1918 và Đại hội Đảng lần thứ 8 năm 1919. Tuy nhiên, tại Đại hội Đảng lần thứ 9 năm 1920 đã bãi nhiệm bà khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ban Bí thư.
Sau khi bị loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Stasova làm việc cho tổ chức đảng Petrograd, từ nơi bà đã được đưa vào bộ máy của Quốc tế Cộng sản. Bà được bổ nhiệm làm đại diện Quốc tế Cộng sản cho Đảng Cộng sản Đức (KPD) vào tháng 5 năm 1921, và cũng là nơi mà bà đã sử dụng bút danh "Hertha". Stasova vẫn ở Đức trong suốt năm 1926 và đóng vai trò hàng đầu trong tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế (MOPR) chi nhánh Đức là Die Rote Hilfe. Stasova trở lại Liên Xô vào tháng 2 năm 1926. Năm sau bà được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc của MOPR Quốc tế cũng như lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương của chi bộ MOPR ở Liên Xô, vị trí mà bà đảm nhiệm trong năm 1937.
Stasova còn là một thành viên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Nga từ năm 1930 đến 1934 và Đại hội Thế giới lần thứ 7 của Quốc tế thứ Ba năm 1935 đã chỉ định bà là thành viên của Ủy ban Kiểm tra Quốc tế. Bà vẫn giữ cương vị này cho đến khi Quốc tế thứ Ba giải thể vào năm 1943. Stasova, không giống như nhiều cựu thành viên "Bolshevik" khác đã không bị gián điệp và cảnh sát mật đụng đến trong vụ Đại thanh trừng càn quét khắp Liên Xô vào cuối những năm 1930, mà bị thuyên chuyển qua giữ chức vụ mới là biên tập viên của tạp chí "Văn học Quốc tế" vào năm 1938. Stasova tiếp tục đảm nhận cương vị này cho đến năm 1946 thì mới về hưu.
Qua đời và di sản.
Elena Stasova qua đời vào ngày 31 tháng 12 năm 1966. Một trường nội trú cho người nước ngoài ở Ivanovo, Nga gọi là trường nội trú quốc tế Ivanovo ("Interdom"), được thành lập bởi MOPR vào năm 1933, được đặt theo tên Elena Stasova. | 1 | null |
Yakov Mikhailovich Sverdlov (); được biết đến dưới bút danh "Andrei", "Mikhalych", "Max", "Smirnov", "Permyakov" – 16 tháng 3 năm 1919) là một nhà lãnh đạo đảng Bolshevik và Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Toàn Nga.
Thiếu thời.
Sverdlov sinh ra ở Nizhny Novgorod với tên gọi Yakov Mikhailovich Sverdlov có cha mẹ người Do Thái là Mikhail Izrailevich Sverdlov và Elizaveta Solomonova. Cha ông là một thợ khắc hoạt động chính trị rồi về sau làm giả mạo, lưu trữ vũ khí và xử lý một phần để hỗ trợ gia đình của mình. Gia đình Sverdlov có sáu người con: hai con gái (Sophia và Sara) và bốn người con trai (Zinovy, Yakov, Veniamin, và Lev). Sau khi vợ mất vào năm 1900, Mikhail và cả gia đình cải đạo sang Giáo hội Chính Thống giáo Nga và kết hôn với Maria Aleksandrovna Kormiltsev và có thêm hai người con trai (Herman và Alexander). Anh trai của ông đã được đại văn hào Maxim Gorky nhận nuôi và cũng là một khách mời thường xuyên tại nhà. Zinovy về sau được biết đến với cái tên nổi tiếng Zinovy Peshkov. Yakov Sverdlov gia nhập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga vào năm 1902 và sau đó là phe Bolshevik để hỗ trợ Vladimir Lenin. Ông đã tham gia trong cuộc Cách mạng năm 1905.
Sau bốn năm trung học, ông trở thành một nhà hoạt động ngầm nổi bật và người diễn thuyết ở Nizhny Novgorod. Ít lâu sau ông bị nhà cầm quyền bắt giam và lưu đày vào tháng 6 năm 1906 cho mãi đến khi Cách mạng năm 1917 bùng nổ mới được thả ra. Trong thời kỳ tù đày năm 1914-1916, ông đã sống lưu vong ở tại Turukhansk, Siberia, cùng với Joseph Stalin.
Công tác.
Sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ông được thả tự do trở về Petrograd và đã được tái bầu chọn vào Ban Chấp hanh Trung ương. Ông đóng một vai trò quan trọng trong việc hoạch định Cách mạng Tháng Mười.
Một cuốn sách được nhà viết kịch Moskva viết vào năm 1990 là Edvard Radzinsky tuyên bố rằng Sverdlov đã có một vai trò trong việc giết hại cả nhà Sa hoàng Nikolai II. Theo cuốn sách này, Sverdlov đã ra lệnh xử tử hoàng gia vào ngày 16 tháng 7 năm 1918 diễn ra tại thành phố Yekaterinburg. Cuốn sách này cũng như các sách khác của Radzinsky đều có đặc điểm "lịch sử dân gian" (mà người Nga gọi là dã sử) của các nhà báo và sử gia viện hàn lâm. Tuy nhiên Yuri Slezkine trong tác phẩm "Thế kỷ của người Do Thái" đã bày tỏ quan điểm: "Những năm đầu Nội chiến, vào tháng 6 năm 1918, Lenin đã ra lệnh giết hại Nicholas II và gia đình ông. Trong số những người được giao phó thực hiện mệnh lệnh gồm Sverdlov, Filipp Goloshchekin (ru) và Yakov Yurovsky."
Sự kiện lớn này bắt nguồn từ một cuốn sách năm 1922 của tướng Bạch vệ Nga Mikhail Diterikhs với nhan đề "Kẻ sát hại Sa hoàng và các thành viên nhà Romanov ở dãy Ural", trong đó tác giả đã tìm cách miêu tả cái chết của hoàng gia như là một âm mưu của người Do Thái chống lại Nga. Tại đó ông được gọi bằng biệt danh Severdlovsk từ cái tên Do Thái của mình là "Yankel" và Goloshchekin là "Isaac". Quyển sách này lần lượt dựa trên một nguồn tài liệu của Nikolai Sokolov, điều tra viên đặc biệt cho tòa án khu vực Omsk, người mà Diterikhs được giao nhiệm vụ điều tra sự biến mất của Romanov trong khi giữ cương vị thống đốc tỉnh dưới chế độ Bạch vệ trong cuộc nội chiến Nga.
Là đồng minh thân cận của Vladimir Lenin, Sverdlov đóng một vai trò quan trọng trong các quyết định gây tranh cãi để đóng cửa Hội đồng Lập hiến và ký Hiệp ước Brest-Litovsk. Cũng có thể là Lenin đưa ra các lý thuyết và Sverdlov đoan chắc chúng sẽ hoạt động. Sau đó mối quan hệ của họ bị rạn nứt vì Lenin dường như quá thiên về lý thuyết hơn là một người thực tế như Sverdlov. Đôi khi ông được gọi là nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Liên Xô nhưng điều này là không chính xác vì Liên Xô chỉ ra đời vào năm 1922, ba năm sau cái chết của Sverdlov. Tuy nhiên, trong vai trò là chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Toàn Nga (VTsIK) ông được coi là nguyên thủ quốc gia hợp pháp của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga từ ngay sau cuộc Cách mạng tháng Mười cho đến khi qua đời.
Cái chết.
Một nguồn tin chính thức là Sverdlov chết vì cúm ở Oryol trong đại dịch cúm năm 1918, trong chuyến đi chính trị từ Kharkiv trở về Moskva và bị nhiễm cúm khi tham gia phát biểu ngoài trời. Ông được chôn cất tại bức tường Necropolis Điện Kremlin tại Moskva. Riêng dư luận lại cho rằng ông qua đời vì bệnh lao do thể trạng gầy gò xanh xao. Sử gia Arkadi Waksberg tuyên bố rằng có tin đồn đáng tin cậy rằng Sverdlov bị các công nhân đánh đến chết ở Oryol, do nguồn gốc Do Thái của ông, và vụ việc đã được che đậy để ngăn chặn làn sóng chống Do Thái bộc phát. Một nghiên cứu khác là ông đã bị chính phủ cách mạng loại bỏ do có dính dáng đến một vụ ám sát Lenin.
Ông là người đầu tiên trong số các thanh viên kỳ cựu Bolshevik qua đời. Năm 1924, Yekaterinburg đã được đổi tên thành Sverdlovsk để vinh danh ông, đến năm 1991 mới được đổi trở lại tên gọi cũ. Con trai của ông Andrei đã có một sự nghiệp lâu dài khi là một sĩ quan cho các cơ quan an ninh Liên Xô (NKVD, OGPU). Cháu gái của ông Ida kết hôn với người đứng đầu NKVD Genrikh Yagoda. | 1 | null |
Nikolay Nikolayevich Krestinsky (; 13 tháng 10 năm 1883 – 15 tháng 3 năm 1938) là một nhà cách mạng Bolshevik Nga và chính trị gia Liên Xô.
Tiểu sử.
Xuất thân.
Krestinsky sinh ra tại thị trấn Mogilev, nay là Mahilyow Voblast của Belarus. Theo chuyên viên lưu trữ của Nga A. B. Roginsky, Krestinsky có gốc gác là người Nga. Các nguồn tài liệu khác cho thấy gốc gác Ukraina của ông, trong khi theo Felix Chuev, Vyacheslav Molotov cho rằng gia đình Krestinsky đã cải đạo từ Do Thái giáo sang Chính Thống giáo Đông phương.
Nắm quyền.
Krestinsky gia nhập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga vào năm 1903 và đứng về phía Bolshevik. Sau cuộc Cách mạng tháng Hai lật đổ chế độ quân chủ ở Nga, ông đã chứng tỏ là một nhà tổ chức tài ba và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bolshevik vào ngày 3 tháng 8 năm 1917 (Lịch Cũ). Ông còn là một thành viên của Ban tổ chức Trung ương Liên Xô (Orgburo) đầu tiên vào ngày 16 tháng 1 năm 1919 và Bộ Chính trị đầu tiên vào ngày 25 tháng 3 năm 1919. Ông còn là một thành viên của Ban Bí thư Trung ương Đảng vào ngày 29 tháng 11 năm 1919 và giữ cương vị Bí thư trách nhiệm của Đảng trong một năm rưỡi.
Thất thế.
Vào cuối năm 1920 đến đầu năm 1921, sau khi Bolshevik giành chiến thắng trong cuộc Nội chiến Nga, Krestinsky đã ủng hộ phe Leon Trotsky trong một tranh chấp ngày càng gay gắt hơn về sự chỉ đạo của đất nước. Sau chiến thắng của Vladimir Lenin tại Đại hội X của Đảng vào tháng 3 năm 1921, Krestinsky mất ghế trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban tổ chức Trung ương và trở thành đại sứ Liên Xô tại Đức. Chức vụ này là một trong những vị trí quan trọng và nhạy cảm vì mối quan hệ chủ yếu và tinh tế của Liên Xô với Đức tại thời điểm đó, nhưng gần như không quan trọng như các chức vụ trước đây của ông. Krestinsky còn ủng hộ Trotsky và phe đối lập cánh tả còn lại vào năm 1923 đến đầu năm 1927, nhưng đã tách mình khỏi Trotsky sau năm 1927. Ông hoàn toàn chấm dứt mối quan hệ với phe đối lập vào tháng 4 năm 1928.
Tòa án Đại Xử.
Krestinsky tiếp tục làm việc như một nhà ngoại giao cho đến năm 1937 khi ông bị bắt trong cuộc Đại thanh trừng. Ông bị đưa ra xét xử (như là một phần của Phiên tòa Hai mốt tên) vào ngày 12 tháng 3 năm 1938. Trong khi hầu hết các bị cáo khác thừa nhận tội trạng của họ trong phiên Tòa án Đại Xử Moskva, Krestinsky lúc đầu từ chối tất cả mọi thứ, nhưng đã thú nhận vào ngày hôm sau. Ông bị kết án tử hình và án được thi hành vào tháng 3 năm 1938, mãi về sau mới được minh oan một phần trong việc xét lại chủ nghĩa Stalin dưới thời Nikita Khrushchev và đã được xóa bỏ tất cả mọi cáo buộc trong quá trình perestroika. | 1 | null |
Đảng Công nhân (tiếng Bồ Đào Nha: "Partido dos Trabalhadores") là một tổ chức chính trị trung tả tại Brasil. Kể từ năm 2002 đến nay, chính đảng này còn giữ vai trò là tổ chức cầm quyền.
Lịch sử.
Đảng Công nhân được thành lập ngày 10 tháng 2 năm 1980 tại Colégio Sion (một trường nữ học Công giáo), trực thuộc thành phố São Paulo. | 1 | null |
Chuột sengi tai tròn Etendeka (Danh pháp khoa học: Macroscelides micus) là loài chuột thuộc Họ Chuột chù voi ở Châu Phi. Đây là loài vật mới vừa được phát hiện ở vùng phía Tây của Namibia thuộc châu Phi. Đây là loài chuột có bề ngoài và hành vi giống với chuột chù nhưng lại phát triển ở châu Phi và có nhiều đặc điểm liên quan chặt chẽ đến loài voi vì chúng loài chuột này có cấu trúc AND tương đồng với voi.
Đặc điểm.
Chuột sengi tai tròn Etendeka nặng khoảng 28 gram, dài 19 cm tính cả đuôi, loài chuột tí hon này nhỏ bé hơn các loài sengi khác, với bộ lông màu gỉ sắt, một tuyến lớn, không có lông ở phía dưới đuôi và thiếu chất sắc tố da sẫm màu. Chuột có chân dài, mảnh khảnh so với kích thước cơ thể. Chúng có tập tính khụy gối bên bụi cây để ngủ chứ không đào hang như chuột. Ngoài ra, loài này còn giống loài thú ăn kiến ở chỗ sử dụng chiếc mũi dài ngửi trên mặt đất để tìm kiếm kiến và các loại côn trùng khác. chúng thường sinh đôi, chuột con rơi xuống đất chạy ngay với tư thế giống các loài linh dương châu Phi.
Về mặt di truyền cho thấy DNA loài này có nhiều đặc điểm tương đồng với voi châu Phi. Điều này được coi là thú vị vì mối liên hệ duy nhất giữa voi châu Phi với kích thước rất lớn và chuột chù với kích thước nhỏ là chiếc mũi dài của chúng. Mũi dài là đặc điểm nhận dạng phổ biến của các loài chuột chù, nhiều con chuột chù có bề ngoài giống chuột mũi dài nhưng chúng vẫn không được | 1 | null |
Scutisorex thori, tên nghĩa tiếng Anh: Chuột chù anh hùng Thor, là một loài chuột chù châu Phi mới được phát hiện với đặc trưng là rất có sức khỏe, chúng được cho là một trong những động vật có vú khỏe nhất và cứng cáp nhất trong thế giới động vật so với kích thước của chúng.
Đặc điểm.
Đây loài vật sinh sống ở Congo thuộc châu Phi, loài vật này vừa giống lại vừa khác so với một loài chuột chù anh hùng (Scutisorex somereni) khác là Scutisorex somereni. Chuột dài chưa đến 3 cm và chỉ nặng khoảng 50 gram, chuột chù vóc dáng nhỏ bé nhưng có sức mạnh phi thường. Tên gọi của chúng được nhà sinh vật học William Stanley đặt dựa theo tên gọi của vị thần Bắc Âu là Thor, vị thần được biết đến bởi sức mạnh phi thường.
Cấu trúc xương sống đặc biệt và độc đáo giúp chúng có sức mạnh phi thường, nó có thể nhấc bổng những khúc gỗ nặng đồng thời chúng có thể chịu được những cú đập rất mạnh vào lưng. Xương sống của chúng được gia cố đáng kể, nhờ đó mà chúng có một sức mạnh rất lớn. Cấu trúc xương sống này cùng với các cơ đi kèm cho phép loài chuột chù này giúp chúng có thể nhấc bổng những vật nặng để tiếp cận nguồn thức ăn mà các loài động vật khác không với tới được.
Người dân địa phương ở làng Baleko, Congo đã mô tả đặc tính dẻo dai của loài vật nhỏ này với họ, người dân địa phương thường dùng loại chuột chù này làm bùa để trở nên bất tử trong chiến trận trước những nguy hiểm trên chiến trường. Một người dân đứng giẫm lên con chuột chù bé nhỏ này trong 5 phút, sau đó nó bỏ đi mà không bị ảnh hưởng gì. | 1 | null |
Đồ thị của hàm số "f" trong toán học là tập hợp tất cả các cặp có thứ tự . Nếu đầu vào "x" là một cặp có thứ tự các số thực thì đồ thị của hàm số f là tập hợp tất cả các bộ ba có thứ tự , và đối với một hàm liên tục thì đó là một mặt.
Nói nôm na, nếu "x" là một số thực và "f" là một hàm số thực thì "đồ thị" là sự biểu diễn trực quan sinh động của tập hợp này trong hệ tọa độ Descartes.
Có thể tổng quát hóa đồ thị hàm số về độ thị của một tương đối. Ghi chú rằng mặc dù hàm số luôn luôn gắn liền với đồ thị của nó nhưng hàm số và đồ thị không đồng nhất với nhau, bởi vì có trường hợp hai hàm số có tập đích ("codomain") khác nhau nhưng đồ thị vẫn như nhau.
Do hệ tọa độ Descartes dùng để biểu diễn các chiều không gian (biểu kiến), tối đa có 3 chiều kích thước, nên hệ tọa độ Descartes cũng chỉ biểu diễn được đồ thị hàm số một biến và đồ thị hàm số 2 biến mà thôi.
Trong khoa học, công nghệ, tài chính và nhiều lĩnh vực khác, đồ thị hàm số được dùng rất thường xuyên, thường dùng hệ tọa độ Descartes.
Đồ thị hàm một biến.
Đồ thị của hàm số một biến là đồ thị của hàm số y = f(x) là tập hợp các điểm trên mặt phẳng R2 có tọa độ [x, f(x)].
Đồ thị của hàm số
là
Đồ thị của hàm đa thức bậc ba trên đường thẳng thực
là
Nếu vẽ tập hợp này trên mặt phẳng thì kết quả là một đường cong (xem hình).
Hàm hai biến.
Đồ thị của hàm số lượng giác trên đường thẳng thực
là
Nếu vẽ tập hợp này trên hệ tọa độ Decartes thì kết quả cho ra là một mặt (xem hình).
Pháp tuyến của đồ thị.
Giả sử hàm số "f" có "n" biến số: formula_3, pháp tuyến của đồ thị là
Kiểm nghiệm.
Để kiểm nghiệm một đường có phải là đồ thị của hàm số theo biến x hay không, dùng kiểm nghiệm đường dọc; tương tự để kiểm nghiệm liệu nó có phải là đồ thị của hàm số theo biến "y" hay không, dùng kiểm nghiệm đường ngang. Nếu hàm số có hàm nghịch đảo thì có thể xác định đồ thị của hàm nghịch đảo bằng cách vẽ đối xứng đồ thị của hàm gốc qua trục đối xứng là đường .
Tổng quát hóa.
Đồ thị của hàm số được chứa trong một tích Descartes của các tập hợp. Mặt phẳng X-Y là tích Descartes của hai đường thẳng X và Y, trong khi hình trụ là tích Descartes của một đường thẳng và một đường tròn (có chiều cao, bán kính và góc xác định chính xác vị trí các điểm). | 1 | null |
Cá chìa vôi biển hay còn gọi là cá chìa vôi (Danh pháp khoa học: Proteracanthus sarissophorus) là một loài cá nước lợ và nước biển, loài duy nhất của chi Proteracanthus trong họ Ephippidae.
Phân bố.
Trên thế giới, cá phân bố ở Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines, Campuchia . Ở Việt Nam nó được tìm thấy tại Cửa Soài Rạp, Nhà Bè, và chỉ sống ở vùng ngã ba cửa biển. Ở Việt Nam, cá chìa vôi sống ở vùng nước xoáy, nơi hợp lưu của sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, nơi có cả dòng nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Đến nay, chỉ có vùng sông Nhà Bè có cá chìa vôi, cá chọn vùng ranh giữa hai con sông làm nơi sinh sống. Đây là loài cá đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và là một loại cá hiếm ở Việt Nam. Đây cũng là đặc sản của Nhà Bè.
Đặc điểm.
Chiều dài tối đa 32,5 cm. Vây lưng: tia gai: 10, tia mềm 14-16. Vây hậu môn: tia gai 3, tia mềm 13-15. Mặt lưng màu nâu ánh xanh lục, hai bên sườn nhạt màu hơn, phía dưới màu trắng bạc, các vảy với gờ sẫm màu, tạo thành các đường dọc sẫm màu. Thân hình thuôn dài và ép dẹp, chiều sâu cơ thể 48-53% chiều dài tiêu chuẩn (SL). Chiều dài đầu 27-29% SL. Mặt cắt đầu phần lưng cong đều từ mõm đến gốc vây lưng. Miệng ở gần tận cùng, hàm trên không thò ra được, hơi nhô ra phía trước hàm dưới. Các hàm với các dải răng ba chỏm thanh mảnh, dẹt, chỏm giữa hơi dài hơn hai chỏm bên. Không có răng trên xương lá mía hoặc vòm miệng. Năm lỗ ở mỗi bên của hàm dưới. Xương trước nắp mang nhẵn, ngoại trừ một số răng cưa dễ gãy có da che phủ ở góc. Nắp mang kết thúc bằng 2 điểm tù. Các màng nắp mang liên kết rộng với eo. Lỗ mang thứ nhất bị thắt lại. Xương dưới mang nối với xương vuông bằng da.
Cá chìa vôi có thân hình giống cá điêu hồng, tuy nhiên thân cá dày và vảy có màu vàng óng, chúng có dạng hình cầu, thân dày, vảy vàng óng. Con nặng nhất được bắt đến 14 kg. Một ngư dân từng săn được một cá chìa vôi nặng 10 kg. Sau khi giao phối, cá chìa vôi cái chuyển trứng đã thụ tinh sang cơ thể cá đực và nuôi dưỡng trong mạch máu đến khi chúng thành cá con.
Vây lưng là vũ khí tự vệ của cá phát triển thành đoạn xương cứng chắc, dài bằng gang tay và sắc nhọn và chìa lên trên giống như cây dùng quệt vôi ăn trầu nên được gọi là chìa vôi, cá chìa vôi có vũ khí tự vệ là vây lưng. Khi cá lớn, vây lưng sẽ phát triển thành xương dài và cứng, còn gọi là chìa. Cá chìa vôi lớn có chìa dài cả gang tay, cứng và sắc nhọn. Người ăn trầu trước đây dùng chìa này để quệt vôi nên nó có tên là cá chìa vôi.
Cá sống ở độ nước sâu, thích tĩnh lặng, ăn mồi tạp, chúng còn ăn được các mồi câu làm từ ruột gà, ruột vịt, thịt bò. | 1 | null |
Hệ thống đường Inca là hệ thống đường giao thông lớn nhất và tiên tiến nhất trong Thời kỳ tiền Colombo Nam Mỹ. Nó dài ít nhất . Việc xây dựng đường đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Nó bao gồm các con đường được lên kế hoạch chi tiết, thiết kế và xây dựng cẩn thận. Đường được bảo trì, lát gạch khi cần thiết. Hệ thống có những bậc thang để đi lên cao, cầu để băng qua vách núi, cùng các tường chắn đất và hệ thống thoát nước. Nó bao gồm hai tuyến đường chính theo hướng bắc nam, một tuyến đường thì dọc theo bờ biển, trong khi tuyến còn lại nằm sâu trong đất liền và băng qua những dãy núi cao. Cả hai tuyến đường này đều có nhiều nhánh nhỏ hơn. Hệ thống này có thể được so sánh với đường La Mã, mặc dù đường Inca được xây dựng sau đó khoảng 1.000 năm. Hệ thống đường này cho phép vận chuyển hàng hóa, quân đội, người và thông tin liên lạc trên khắp đế quốc Inca và mở rộng ra vùng đất rộng với khoảng 12 triệu người sinh sống. | 1 | null |
Ủy ban Kinh tế của Quốc hội là cơ quan giám sát kinh tế của Quốc hội, đồng thời thảo luận sửa đổi về các bộ Luật, Nghị quyết liên quan đến Kinh tế trước khi dự thảo trình Quốc hội.
Ủy ban thường công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô hăng năm với nhiệm vụ và định hướng phát triển Kinh tế đất nước với định chế của Đảng và Nhà nước.
Nhiệm vụ và chức năng.
Theo Luật Tổ chức Quốc hội 2014 quy định tại Điều 72 thì chức năng và quyền hạn của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội gồm những nội dung sau:
Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, tiền tệ, ngân hàng, hoạt động kinh doanh và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao.
Chủ trì thẩm tra chương trình, dự án, kế hoạch nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội; báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, tiền tệ, ngân hàng, hoạt động kinh doanh; chủ trì giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, dự án, kế hoạch nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và việc thực hiện chính sách kinh tế, tiền tệ, ngân hàng.
Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách.
Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các vấn đề về quản lý kinh tế, tiền tệ, ngân hàng, hoạt động kinh doanh.
Danh sách Ủy viên.
Khóa XV.
Chủ nhiệm: Vũ Hồng Thanh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Phó Chủ nhiệm:
Khóa XIV.
Ủy ban Kinh tế Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 có 42 thành viên:
Chủ nhiệm: Vũ Hồng Thanh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Phó Chủ nhiệm:
Khóa XIII.
Chủ nhiệm: Nguyễn Văn Giàu, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội
Phó chủ nhiệm:
Khóa XII.
Chủ nhiệm: Hà Văn Hiền, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội
Phó chủ nhiệm:
Vụ Kinh tế.
Vụ Kinh tế có trách nhiệm: tham mưu, giúp việc Ủy ban về các công việc chuyên môn của Ủy ban và của Thường trực Ủy ban; chủ động nghiên cứu, đề xuất với Lãnh đạo Ủy ban những vấn đề về thực hiện chức năng, nhiệm vụ và các vấn đề có liên quan đến hoạt động của Ủy ban, chủ động phối hợp với các Vụ, đơn vị có liên quan của Văn phòng Quốc hội để phục vụ Ủy ban và Thường trực Ủy ban về mặt hành chính, quản trị và các công việc khác.
Vụ Kinh tế tổ chức thành 5 nhóm chuyên môn: 1 nhóm tham mưu phục vụ công việc chỉ đạo điều hành chung của Chủ nhiệm Ủy ban; công tác văn phòng của Ủy ban; 4 nhóm trực tiếp tham mưu phục vụ 4 Tiểu Ban:
Theo yêu cầu của Thường trực Ủy ban, Vụ trưởng Vụ Kinh tế phân công các Phó Vụ trưởng và chuyên viên trực tiếp tham mưu, phục vụ các Tiểu Ban và các thành viên trong Thường trực Ủy ban; chỉ đạo, điều hòa phối hợp các nhóm chuyên môn tham mưu, phục vụ hoạt động chung của Thường trực Ủy ban và Ủy ban. | 1 | null |
Tóc ngắn là bất kỳ kiểu tóc nào có độ dài ít. Nó có thể thay đổi từ trên tai đến dưới cằm. Nếu tóc của đàn ông chạm đến cằm, nó có thể không được coi là ngắn. Đối với phụ nữ, tóc ngắn có thể thay đổi từ sát đầu đến ngay trên vai. Điều này khác nhau giữa các nền văn hóa, ở các xã hội truyền thống hơn ở Đông Âu, Châu Á và thế giới Hồi giáo, tóc ngắn ở phụ nữ có nghĩa là bất cứ điều gì ngắn hơn chiều dài ngực với chiều dài ngực đến khuỷu tay được coi là trung bình -dài. Tuy nhiên, trong các xã hội tiến bộ hơn với các chuẩn mực giới tính ít có cấu trúc hơn, kiểu bob cổ điển được coi là trung bình, trong khi "tóc ngắn" dùng để chỉ kiểu tóc pixie và các kiểu tóc tương tự. Các kiểu tóc ngắn khác nhau bao gồm kiểu tóc bob, kiểu tóc crop và kiểu tóc pixie. | 1 | null |
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian được lưu truyền lâu đời ở Việt Nam, chủ yếu được thực hiện ở các di tích thờ các nhân vật liên quan đến thời Hùng Vương tiêu biểu như Thần Nông, Vua Hùng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Sơn Tinh, Cao Sơn, Quý Minh. Loại tín ngưỡng này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ngày 6 tháng 12 năm 2012, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang diễn ra ở Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua quyết định ghi danh Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phải một tôn giáo mà chính là biểu trưng của lòng thành kính, sự biết ơn- tri ân công đức các Vua Hùng là những người có công dựng nước Văn Lang. Hiện tại theo kiểm kê của Sở VH,TT&DL Phú Thọ, trên địa bàn tỉnh có 326 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương trải rộng khắp các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được phủ rộng với mật độ dày đặc ở tất cả các làng xã, song Đền Hùng là trung tâm thực hành Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lớn nhất và lâu đời nhất trong tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam. | 1 | null |
Dòng kẻ phụ (tiếng Anh: "ledger line", "leger line") là đường kẻ ngang,ngắn được vạch bên trên hoặc bên dưới khuông nhạc nhằm tạo chỗ để ghi các nốt nhạc có cao độ vượt quá phạm vi khuông nhạc. Dòng kẻ phụ chỉ dài hơn chút ít so với chiều rộng của thân nốt nhạc và nằm song song với các dòng kẻ của khuông nhạc, cách nhau khoảng cách bằng với khoảng các giữa các dòng kẻ chính trong khuông nhạc.
Mặc dù dòng kẻ phụ đã thỉnh thoảng xuất hiện trong các bản chép tay những nhạc phẩm thánh ca và trong các bản nhạc phức điệu thời sơ khai nhưng phải đến đầu thế kỷ 16 thì việc sử dụng nó mới phổ biến nhiều khi người ta viết nhạc cho nhạc cũ phím (Anon. 2001). Ngay cả đến thời đó rồi mà những người làm nghề in ấn vẫn tỏ ra ác cảm với loại ký hiệu này bởi chúng gây khó khăn cho họ khi sắp đặt bản in, làm lãng phí trang giấy và gây cảm giác lộn xộn về mặt hình thức. Những người sáng tác nhạc có lời tìm cách sử dụng nhiều loại khóa nhạc nhằm giữ cho nốt nhạc nằm càng gọn trong khuông càng tốt; trong ký hiệu nhạc dành cho nhạc cụ phím, một cách phổ dụng nhằm tránh dùng dòng kẻ phụ là dùng "bản tổng phổ mở" gồm bốn khuông nhạc với các khóa nhạc khác nhau. (Godwin 1974, 16–17).
Khi nào có nhiều nốt nhạc đòi hỏi phải vạch nhiều hơn ba dòng kẻ phụ thì thường người soạn nhạc sẽ chuyển sang dùng khóa nhạc khác hoặc ghi ký hiệu 8va (nghĩa là "tăng cao độ thêm một quãng tám khi chơi nhạc này"). Khi ký nhạc cho một số nhạc cụ dịch âm ("transposing instrument") như piccolo, double bass, ghita hoặc khi người hát có giọng tenor thì sẽ thực hiện dịch giọng ở quãng tám nhằm tránh dòng kẻ phụ.
Cách ký nhạc dành cho tuba, trombone và euphonium luôn dùng dòng kẻ phụ bên dưới khuông nhạc khóa Fa và không bao giờ dùng ký hiệu 8va bassa (nghĩa là "giảm cao độ xuống một quãng tám khi chơi nhạc này"). (Read 1969, 354). | 1 | null |
Khóa nhạc (tiếng Pháp: "clef", nghĩa là "cái chìa khóa") là một ký hiệu trong soạn nhạc, dùng để biểu lộ cao độ của nốt nhạc được viết ra. Khóa nhạc được đặt trên một trong các dòng kẻ tại đầu khuông nhạc, biểu thị tên và cao độ của nốt nhạc nằm trên dòng kẻ đó. Dòng này đóng vai trò cột mốc tham chiếu để dựa vào đó suy ra tên của các nốt nhạc nằm trên các dòng và khe còn lại của khuông nhạc.
Có ba loại khóa nhạc dùng trong hệ thống ký hiệu nhạc hiện đại: "F" (khóa Fa), "C" (khóa Đô) và "G" (khóa Sol). Mỗi loại gắn với nốt nhạc tham chiếu của riêng mình (tức nốt nhạc nằm cùng dòng kẻ với khóa nhạc đó).
Sử dụng ba loại khóa nhạc này sẽ cho phép người soạn nhạc có thể sáng tác cho tất cả các nhạc cụ và giọng hát, mặc dù chúng có cữ âm rất khác nhau (nghĩa là âm thanh do khóa này quy định có thể cao hơn hoặc thấp hơn nhiều so với khóa khác). Nếu không có ba loại khóa này mà chỉ dùng một loại thì sẽ gặp khó khăn bởi vì khuông nhạc hiện đại chỉ có năm dòng kẻ, mà số lượng cao độ do khuông nhạc này (kết hợp với các dòng kẻ phụ) tạo ra vẫn ít hơn so với số cao độ mà một dàn nhạc có thể tạo ra. Việc sử dụng các khóa nhạc khác nhau cho các nhạc cụ khác nhau và các giọng hát khác nhau sẽ cho phép nhạc sĩ có thể viết từng bè nhạc một cách thoải mái trên một khuông nhạc mà ít phải kẻ thêm nhiều dòng kẻ phụ. Khóa Sol thường dùng cho những bè nhạc chứa các nốt cao độ cao, khóa Đô dành cho bè chứa các nốt có cao độ tầm trung còn khóa Fa dành cho bè chứa các nốt cao độ thấp. Trường hợp ngoại lệ là khi viết bè nhạc dành cho các nhạc cụ dịch âm ("transposing instrument") bởi vì cao độ thể hiện trên bè nhạc cho chúng thường khác biệt so với cao độ thực của chúng, thường là khác nhau cả một quãng tám.
Vị trí trên khuông nhạc.
Về mặt lý thuyết, nhằm tạo tiền đề để sáng tác với các cự âm khác nhau thì có thể đặt bất cứ khóa nhạc nào lên bất cứ dòng kẻ nào của khuông nhạc. Nếu đặt ở các dòng kẻ càng thấp thì cự âm càng cao; ngược lại, đặt ở các dòng càng cao thì cự âm càng thấp.
Do khuông nhạc có năm dòng kẻ nên khi kết hợp với ba khóa nhạc thì có vẻ sẽ cho ra 15 cách đặt khóa nhạc. Tuy nhiên, sáu cách trong số này là dư thừa. Ví dụ, khóa Sol đặt trên dòng kẻ thứ ba thì giống với khóa Đô đặt trên dòng kẻ thứ nhất, hoặc khóa Đô đặt trên dòng kẻ thứ năm thì tương đương khóa Fa đặt trên dòng kẻ thứ ba phổ biến hơn nhiều. Như vậy, chỉ còn chín cách đặt khóa nhạc. Tất cả các cách này đều đã xuất hiện trong lịch sử: khóa Sol đặt ở dòng 1 và dòng 2, khóa Fa đặt ở dòng 3, 4 và 5, còn khóa Đô đặt ở bất cứ dòng nào trừ dòng 5 (bởi lý do đã nêu ở ví dụ trên), vì thế khóa Đô còn được đặt biệt danh là "khóa Đô khả động".
Mỗi khóa nhạc lại có danh xưng riêng căn cứ vào cự âm mà nó phù hợp nhất.
Trong âm nhạc hiện đại thường chỉ dùng bốn loại khóa: khóa treble ("treble clef", tiểu thể loại của khóa Sol), khóa bass ("bass clef", tiểu thể loại của khóa Fa), khóa alto và khóa tenor (hai tiểu thể loại của khóa Đô). Trong số này, khóa treble và khóa bass là thông dụng hơn cả.
Diễn giải về các khóa nhạc.
Sau đây là danh sách đầy đủ tất cả các khóa nhạc kèm với danh sách nhạc cụ và giọng hát được soạn với khóa đó. Mỗi khóa được vẽ tại vị trí tương ứng trên khuông nhạc, theo sau là nốt nhạc tham chiếu.
Khóa Sol.
Khóa treble.
Khi khóa Sol ("G-clef") được đặt tại dòng kẻ thứ hai của khuông nhạc, nó được gọi là khóa treble ("treble clef"). Đây là khóa phổ biến nhất ngày nay và là tiểu thể loại khóa Sol duy nhất còn sử dụng. Vì lý do này mà hai tên gọi thường được coi như đồng nghĩa. Theo truyền thống, người ta thường dùng khóa treble để ghi nhạc dành cho giọng kim, tiền dậy thì.
Các nhạc cụ được sáng tác nhạc với khóa treble là vĩ cầm, flute, ô-boa, bagpipe, kèn Anh, tất cả các loại clarinet, tất cả các loại saxophone, kèn cor, trumpet, cornet, vibraphone, mộc cầm, mandolin, recorder; nó cũng thường được dùng cho euphonium, kèn baritone, và ghita (có cao độ thấp hơn một quãng tám). Khóa treble được dùng trong khuông nhạc trên của một khuông nhạc lớn trong đó dùng harp và nhạc cụ phím. Thỉnh thoảng nó được dùng song hành với khóa tenor cho các nốt cao nhất do các nhạc cụ như cello, contrabass (có cao độ thấp hơn một quãng tám), pha-gốt và trombone. Thỉnh thoảng viola cũg dùng khóa treble cho những nốt có cao độ rất cao. Khóa này dùng cho các giọng hát gồm soprano, mezzo-soprano, alto, contralto và tenor. Giọng tenor thấp hơn một quãng tám và thường được viết nhạc với khóa quãng tám (xem phần dưới) hoặc khóa treble kép.
Khóa vĩ cầm Pháp.
Khi khóa Sol được đặt trên dòng thứ nhất của khuông nhạc thì nó được gọi là khóa vĩ cầm Pháp ("French violin clef"), vì vào thế kỷ thứ 17 và 18 nó được các nhạc sĩ người Pháp dùng để ghi các bản nhạc soạn cho vĩ cầm hoặc flute. Nó giống với khóa Fa được dịch giọng thêm hai quãng tám.
Khóa Fa.
Khóa bass.
Khi đặt khóa Fa ("F-clef") ở dòng thứ tư của khuông nhạc thì nó có tên là khóa bass ("bass clef"). Đây là tiểu thể loại khóa Fa duy nhất còn dùng, vì vậy hai tên gọi thường được coi như đồng nghĩa.
Khóa này dùng khi soạn nhạc cho cello, euphonium, contrabass, guitar bass, pha-gốt, contrabassoon, trombone, kèn baritone, tuba và trống định âm. Nhà soạn nhạc cũng dùng nó cho các nốt có cao độ thấp nhất khi sáng tác cho kèn, hay khi sáng tác cho các giọng baritone và bass. Nhạc dành cho giọng tenor thì dùng khóa bass khi tenor và bass cùng chung một khuông nhạc. Khóa bass là khóa nhạc của khuông nhạc cuối cùng trong một khuông nhạc lớn dành cho harp và nhạc cụ phím. Contrabassoon, double bass, electric bass có âm thanh thấp hơn một quãng tám so với cao độ được viết trong bản nhạc, nhưng không có ký hiệu nào để lưu ý điều này; tuy nhiên một số nhà soạn nhạc/nhà xuất bản thêm ký hiệu "8" bên dưới khóa nhạc ở bè nhạc dành cho các nhạc cụ này trong bản tổng phổ nhằm phân biệt chúng với các nhạc cụ có âm thanh bình thường khác (xem mục Khóa quãng tám ở bên dưới).
Khóa baritone (lỗi thời).
Khi đặt khóa Fa ở dòng thứ ba của khuông nhạc thì nó có tên là khóa baritone.
Khóa này dùng cho bè nhạc tay trái của nhạc cụ phím (đặt biệt là ở Pháp) cũng như bè dành cho giọng baritone.
Khóa baritone có một biến thể dưới dạng khóa Đô đặt ở dòng kẻ thứ năm; loại này ít phổ biến.
Khóa sub-bass (lỗi thời).
Khi đặt khóa fa trên dòng kẻ thứ năm thì nó có tên gọi là khóa sub-bass. Khóa này tương đương với khóa treble bị dịch giọng xuống hai quãng tám.
Ockeghem và Heinrich Schütz dùng khóa sub-bass để soạn những đoạn bass thấp, xuất hiện khá muộn trong tác phẩm "Musikalisches Opfer" của Bach.
Khóa Đô.
Khóa alto.
Khi đặt khóa Đô ("C-clef") ở dòng kẻ thứ ba của khuông nhạc thì nó có tên gọi là khóa alto.
Khóa này thỉnh thoảng còn có tên là khóa viola, được dùng bởi viola, viola da gamba, alto trombone và mandola. Nó gắn liền với loại giọng phản tenor ("countertenor") vì thế còn được gọi là khóa phản tenor. Sergei Prokofiev dùng khóa này khi soạn nhạc cho kèn Anh. Thỉnh thoảng khóa alto cũng có trong nhạc dành cho nhạc cụ dây từ xưa đến nay, ví dụ nhạc thánh ca hợp xướng dành cho đại phong cầm của Brahms hoặc tác phẩm "Dream" dành cho dương cầm của John Cage.
Khóa tenor.
Khi đặt khóa Đô tại dòng thứ tư của khuông nhạc thì nó có tên là khóa tenor.
Khóa này được dùng khi soạn nhạc cho các bè có cao độ cao cho pha-gốt, cello, euphonium, contrabass và trombone. Những nhạc cụ này dùng khóa bass cho các quãng âm từ thấp đến trung và cũng có dùng khóa treble cho bè cao độ cao. Khi dùng cho double bass thì âm thành thấp hơn một quãng tám so với cao độ được viết trên bản nhạc. Những bè nhạc dành cho vĩ cầm tenor cũng được viết với khóa này (ví dụ Op. 11 của Giovanni Battista Vitali). Trong các bản nhạc có lời trước đây, khóa này dùng trong bè nhạc dành cho giọng tenor nhưng đã bị thay thế bởi người ta chuyển sang dùng khóa treble quãng tám khi viết riêng hoặc dùng khóa bass khi kết hợp chung một khuông nhạc với bè nhạc dành cho giọng bass.
Khóa baritone (lỗi thời).
Khi đặt khóa Đô lên dòng kẻ thứ năm, nó có tên gọi là khóa baritone, tương đương với khóa Fa đặt trên dòng thứ ba phổ biến hơn nhiều.
Khóa mezzo-soprano (lỗi thời).
Khi đặt khóa Đô lên dòng kẻ thứ hai, nó có tên là khóa mezzo-soprano.
Khóa soprano (lỗi thời).
Khi đặt khóa Đô lên dòng thứ nhất, nó có tên là khóa soprano.
Khóa này được dùng cho bè nhạc dành cho nhạc cụ phím (đặt biệt là ở Pháp) cũng như bè nhạc dành cho giọng soprano trong các bản nhạc có lời.
Các khóa nhạc khác.
Khóa quãng tám.
Bắt đầu từ thế kỷ 18, khóa treble được dùng cho các nhạc cụ dịch âm có âm thanh thấp hơn một quãng tám, chẳng hạn đàn ghita và cũng được dùng trong nhạc dành cho giọng tenor. Nhằm tránh lẫn lộn, người ta tạo thêm các loại khóa biến thể để thỉnh thoảng dùng, đặc biệt là khi soạn nhạc hợp xướng.
Thường thấy khóa quãng tám ("octave clef") ở những bè nhạc dành cho giọng tenor trong nhạc phổ dành cho bốn giọng SATB, trong đó người sáng tác ghi thêm một chữ số "8" ở bên dưới khóa treble nhằm chỉ rõ rằng cao độ các nốt khi biểu diễn sẽ thấp hơn một quãng tám so với nốt nhạc được viết trong bản nhạc. Do loại khóa tenor đúng nghĩa đã mất dần khỏi thói quen sáng tác nhạc có lời, vì thế loại khóa treble "hạ xuống một quãng tám" cũng hay được gọi bằng danh xưng "khóa tenor". Thỉnh thoảng thấy khóa này xuất hiện trong nhạc sáng tác cho đàn mandolin quãng tám. Trong một số bản nhạc tổng phổ, người ta còn dùng ký hiệu hai khóa treble xếp chồng một phần lên nhau, cũng với ý nghĩa trên.
Khóa quãng tám cũng dùng khi viết nhạc cho piccolo, "penny whistle", recorder và các nhạc cụ hơi gỗ khác.
Khóa Fa cũng kết hợp được với số 8 để ký hiệu rằng âm thanh thấp hơn một quãng tám. Loại khóa nhạc biến thể này dùng với nhạc cụ contrabass như double bass và contrabassoon. Khóa Fa loại ghi âm thanh cao hơn một quãng tám thì được dùng với bass recorder. Tuy vậy, cả hai loại này đều cực kỳ hiếm. Bình thường vì khóa Fa loại bass quá phổ dụng nên nghệ sĩ điều khiển nhạc cụ và ca sĩ có giọng vượt ngoài cao độ khuông nhạc thì sẽ ghi nhớ số dòng kẻ phụ cần thiết phải kẻ để viết các nốt nhạc vượt ra ngoài đó. Trong trường hợp nốt nhạc nằm vượt quá xa bên ngoài thì người ta đổi khóa nhạc sang khóa treble hoặc ghi chú hạ một quãng tám xuống.
Khóa trung tính.
Khóa trung tính ("neutral clef") hay khóa bộ gõ ("percussion clef") không phải là một loại khóa nhạc như khóa Sol, khóa Fa và khóa Đô. Đây đơn giản chỉ là một quy ước nói rằng các dòng kẻ và khe nhạc trong khuông nhạc được gán cho một nhạc cụ bộ gõ mà không kèm cao độ chính xác, nghĩa là chúng không được chuẩn hóa (trừ một số ngoại lệ), vì thế khi sáng tác thì phải ghi chú thích để lưu ý người đọc biết phải chơi nhạc thế nào. Những nhạc cụ gõ nào đã nhận dạng được cao độ thì không dùng khóa trung tính. Một số nhạc cụ cũng thuộc bộ gõ như trống định âm (soạn nhạc với khóa bass) và "mallet percussion" (soạn nhạc với khóa treble hoặc với khuông nhạc lớn) thường được ký nhạc trên các khuông nhạc khác nhau thay vì ký nhạc trên khuông nhạc không được chuẩn hóa cao độ nói trên.
Các khuông nhạc dùng khóa trung tính thì không phải lúc nào cũng có năm dòng kẻ. Rất thường thấy các khuông loại này chỉ có một dòng kẻ.
Khóa trung tính thỉnh thoảng dùng với các nhạc cụ không thuộc bộ gõ nhưng được chơi theo các kỹ thuật không rõ cao độ, chẳng hạn đập vào thân đàn vĩ cầm, violoncello hoặc ghita acoustic, hoặc là khi dàn hợp xuống bị yêu cầu phải vỗ tay, giậm chân; tuy thế, các giai điệu kiểu này thường ghi dưới dạng các dấu X trong khuông nhạc bình thường của nhạc cụ, phía trên có chua thêm chú thích để cho biết phải làm gì để tạo ra nhịp điệu phù hợp.
Viết văn bản nhạc theo ngón tay.
Đối với ghita và các nhạc cụ dây có "fret" (gợn ngang nằm sau dây đàn) khác thì có một cách ghi nhạc là ghi theo ngón tay ("tablature") thay vì ghi theo nốt nhạc. Trường hợp này người ta ghi chú một ký hiệu TAB thay vì dùng khóa nhạc. Số dòng kẻ trong khuông không nhất thiết phải là năm dòng: mỗi dòng ứng với một dây của nhạc cụ (vì thế, nếu là ghita sáu dây tiêu chuẩn thì khuông nhạc để ghi nhạc cho nhạc cụ này sẽ có sáu dòng kẻ). Những chữ số ghi trên các dòng kẻ sẽ cho biết cần dùng "fret" nào với dây đàn nào. Ký hiệu TAB này cũng giống với khóa bộ gõ ở chỗ, nó không phải là một khóa nhạc đúng nghĩa mà là một ký hiệu dùng thay cho khóa nhạc.
Lịch sử.
Thuở đầu thay vì dùng ký hiệu khóa nhạc thì người ta dùng một đường thẳng tham chiếu trên đó ghi chữ cái tương ứng với tên nốt nhạc tham chiếu: Fa ("F") và Đô ("C"), dễ thấy và dễ nhận biết hơn là Sol ("G"). Đây là những ký hiệu hay dùng nhất trong các bản nhạc bình ca Gregoriano. Theo thời gian những chữ cái này được trang trí trông kiểu cách hơn và biến thành các ký hiệu khóa nhạc như nay vẫn thấy. | 1 | null |
Bí thư Quân ủy Trung ương là chức danh của người đứng đầu cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là chức danh lãnh đạo tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, chức vụ này do Tổng Bí thư của Đảng kiêm nhiệm, thể hiện vai trò nhất quán Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt nhằm xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam được thực hiện thông qua hệ thống tổ chức Đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ chức quần chúng (đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ) ở đơn vị cơ sở.
Về cơ cấu tổ chức trong hệ thống chính trị của Việt Nam, Tổng Bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương; Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là người chỉ huy cao nhất đối với Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ; chức vụ Tổng Tư lệnh hiện nay không tồn tại (chức vụ này chỉ tồn tại trong thời kỳ chiến tranh và duy nhất do Đại tướng Võ Nguyên Giáp nắm giữ, sau đó bị bãi bỏ cùng với việc giải thể Bộ Tổng Tư lệnh). Do Việt Nam là nước đơn đảng, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo Quân đội trực tiếp, tuyệt đối nên Tổng Bí thư (kiêm nhiệm Bí thư Quân ủy Trung ương) là chức danh lãnh đạo cao nhất đối với quân đội.
Nhiệm vụ và quyền hạn.
Bí thư Quân uỷ Trung ương là người đứng đầu Quân ủy Trung ương, chủ trì các hội nghị của Quân ủy Trung ương, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương; nghiên cứu, đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng ; kế hoạch phòng thủ đất nước; phương hướng và biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân; cơ chế lãnh đạo của Đảng với Quân đội nhân dân; chỉ đạo, hướng dẫn các cấp uỷ trực thuộc Trung ương thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về quân sự, quốc phòng.
Bí thư Quân uỷ Trung ương thay mặt Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, xây dựng các tổ chức Đảng trong Quân đội trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị, chủ trì và kết luận đối với vấn đề lớn như chủ trương, chương trình, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các biện pháp xây dựng quân đội, quyết định các vấn đề về công tác cán bộ trong quân đội...
Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.
"Xem thêm:" Phó Bí thư Quân ủy Trung ương | 1 | null |
Từ Tài Hậu (tiếng Trung Quốc giản thể: 徐才厚, bính âm: "Xú Cáihòu"; 1943 – 2015) nguyên ủy viên Bộ chính trị, nguyên phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, thượng tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Từ Tài Hậu được cho là có mối quan hệ thân thiết với Giang Trạch Dân, cựu tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc.
Ông nghỉ hưu khỏi Quân ủy Trung ương vào năm 2013 và rời khỏi Bộ Chính trị năm 2012.
Năm 2014, ông bị khai trừ khỏi đảng và bị điều tra tham nhũng. Sau khi bị phát hiện có hàng tấn đôla và vô số đá quý trong tầng hầm biệt thự, Từ Tài Hậu sẽ bị đưa ra xét xử ở một tòa án quân sự.
Tiểu sử.
Từ Tài Hậu xuất thân trong một gia đình thuộc tầng lớp dân lao động ở Ngõa Phòng Điếm, Đại Liên. Bố mẹ ông là công nhân nhà máy.
Ông đã học ở Học viện Công trình quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ở Cáp Nhĩ Tân, nơi ông học chuyên ngành kỹ thuật điện. Ông tốt nghiệp năm 1968 giữa giai đoạn diễn ra cuộc cách mạng văn hóa và ông bị điều xuống nông thôn để lao làm nông dân trong một năm.
Ông đã trở thành chính ủy quân đội ở Cát Lâm, được tiến cử vào Ủy ban Quân ủy trung ương Trung Quốc năm 1999 và trở thành phó chủ tịch ủy ban này năm 2004.
Năm 2004, Từ Tài Hậu được bầu làm phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, thay thế chỗ của Hồ Cẩm Đào khi ông Hồ Cẩm Đào lúc đó chuyển lên làm Chủ tịch Trung Quốc dù theo trình tự vai vế không phải thuộc Từ Tài Hậu. Chọn Từ Tài Hậu tức là ông Hồ Cẩm Đào muốn loại bỏ mạng lưới quyền hành của phe Thượng Hải, do ông Giang Trạch Dân đứng đầu. Sau đó ba năm, Từ Tài Hậu được bầu vào làm một trong 25 ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 2012, chủ tịch TQ Tập Cận Bình bắt đầu chiến dịch chống tham nhũng. 2014, 16 quan chức cấp cao của PLA trong đó có tướng Từ đã bị bắt giữ vì cáo buộc tham nhũng. Cơ quan điều tra Trung Quốc đã phát hiện ông Từ Tài Hậu và các thành viên trong gia đình nhận hối lộ để giúp nhiều sĩ quan quân đội thăng quân hàm, Từ Tài Hậu từng phụ trách nhân sự của quân đội. Ngày 30/6/2014, ông Từ đã bị khai trừ khỏi đảng khi ông đang ở trên giường bệnh điều trị ung thư.
Ngoài Từ Tài Hậu, thượng tướng Quách Bá Hùng cũng bị tạm giam để điều tra. Theo số liệu chính thức, tổng cộng 39 tướng (tính cả con trai ông Quách, Thiếu tướng Quách Chính Cương) đã bị bắt giữ.
Từ trần.
Xinhua đưa tin ngày 16/3/2015 cho biết Từ Tài Hậu qua đời ngày 15/3 do bệnh ung thư bàng quang. Theo Reuters, cái chết của tướng Từ Tài Hậu khiến chính phủ Trung Quốc tránh khỏi một phiên tòa xét xử tội phạm tham nhũng, ẩn chứa nhiều nguy cơ lộ bí mật nội bộ.
Tài sản.
Trong khi điều tra, các công tố viên đã khám xét biệt thự sang trọng của Cựu ủy viên Bộ Chính trị này và phát hiện dưới tầng hầm có "hơn một tấn" đôla Mỹ, euro và nhân dân tệ cùng vô số đá quý và hàng trăm kg ngọc bích đắt tiền cũng như các đồ cổ quý hiếm. | 1 | null |
Ceratium furca là một loài trùng lông hai roi (Dinoflagellata) biển. Loài này có cơ thể dài 70-200 µm và rộng 30-50 µm.
Phân bố.
"Ceratium furca" được tìm thấy trên toàn thế giới.
Đọc thêm.
Dodge, J. D. 1982. Marine Dinoflagellates of the British Isles. Her Majesty's Stationery Office, Luân Đôn. 303 pp.
Hansen, G. & Larsen, J. 1992. Dinoflagellater i danske farvande. In: Thomsen, H. A. (ed.) Plankton i de indre danske farvande. Havforskning fra Miljøstyrelsen, Copenhagen, p. 45-155.
Steidinger, K. A. & Tangen, K. 1996. Dinoflagellates. In: Tomas, C. R. (ed.) Identifying marine diatoms and dinoflagellates. Academic Press, Inc., San Diego, p. 387-584. | 1 | null |
Cá thịt trắng là một thuật ngữ chuyên ngành về thủy sản đề cập đến một số loài cá sống ở tầng đáy có vây, đặc biệt là cá tuyết (Gadus morhua), Merluccius bilinearis, và cá tuyết chấm đen (Melanogrammus aeglefinus), Urophycis, cá minh thái (Pollachius), hoặc những loài khác. Cá thịt trắng (Coregonidae) cũng là tên của một số loài cá nước ngọt Đại Tây Dương. Đây là các loài cá có thành phần thịt trắng, thông thường biểu hiện ra bên ngoài bằng những tảng thịt, thớ thịt trắng muốt.
Đặc điểm.
Các loài cá thịt trắng thường sống trên hoặc gần đáy biển, và có thể được liên hệ với cá béo hoặc cá nổi sống trong cột nước từ đáy biển. Không giống như dầu cá, cá thịt trắng chứa dầu chỉ trong gan của chúng, chứ không phải là trong ruột của chúng, và do đó có thể được rút ruột ngay sau khi chúng bị bắt, trên tàu. Cá thịt trắng có thịt khô và trắng muốt. Cá thịt trắng có thể được chia thành cá nước ngọt (cá tròn mà sống gần đáy biển, chẳng hạn như cá tuyết và Coley) và cá tầng đáy (sống trên đáy biển, chẳng hạn như các loài cá thân bẹt như cá bơn sao).
Trong phi lê cá thịt trắng, các loài hỗn hợp (198g) chứa các thông tin dinh dưỡng sau đây theo USDA:
Sử dụng.
Cá thịt trắng đôi khi ăn được ăn sống nhưng thường được sử dụng cho các món tái Fishsticks, cá gefilte, lutefisk, surimi (giả thịt cua). Trong nhiều thế kỷ nó đã được bảo quản bằng cách làm khô như cá hồi phơi khô không có muối, chúng được giao dịch như một loại hàng hóa trên thế giới. Thịt của cá cũng thường được sử dụng như các loài cá trong các món ăn cổ điển của Anh ăn kèm với khoai tây chiên. Ngoài ra, cá thịt trắng nếu ăn nhiều sẽ góp phần giúp cải thiện lượng tinh trùng, giúp cải thiện số lượng tinh trùng. Những nam giới ăn một phần cá thịt trắng cách ngày có số lượng tinh trùng tốt hơn.
Tiêu thụ.
Trong vòng 20 năm, sản lượng nuôi cá thịt trắng nước ngọt toàn cầu tăng trưởng nhanh chóng so với sản lượng từ khai thác. Trong giai đoạn 2008 – 2013, từng có một dự báo sản lượng cá thịt trắng khai thác toàn cầu sẽ tăng 4,6% so với cá nuôi nước ngọt. Thị trường tiêu thụ cá thịt trắng nhiều nhất là ở châu Âu. Nguồn cung cá thịt trắng khai thác tại EU đạt 2,9 triệu tấn, chiếm 20% thị phần thủy sản tại EU. Mức độ phục thuộc vào cá thịt trắng khai thác của EU rất cao vào khoảng 90%. Khoảng 20% của mức tăng này, tương đương với 20.000 tấn, là để bổ sung cho nhu cầu cá thịt trắng.
Cá rô phi và cá tra là hai loài cá thịt trắng nuôi chính của thị trường EU cho sản phẩm cá philê đông lạnh. Các loài cá quan trọng khác đều từ nguồn khai thác như cá tuyết và haddock Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, cá minh thái Alaska, cá tuyết lục và cá hake. Tăng nhập khẩu cá tra là nguyên nhân chính giúp phát triển thị trường cá thịt trắng EU từ năm 2005 đến năm 2008. Giai đoạn này, nguồn cung cấp cá thịt trắng khai thác giảm. Sau lần sụt giảm năm 2009, nguồn cung cá thịt trắng khai thác bắt đầu tăng trong khi nhập khẩu cá tra chững lại.
Năm 2011, cá tuyết philê đông lạnh (Đại Tây Dương và Thái Bình Dương) và cá haddock có giá nhập khẩu cao nhất, trong khi cá hake miền Bắc, cá minh thái Alaska và cá tra là sản phẩm cá thịt trắng đông lạnh philê có giá thấp nhất. Do thị trường cá thịt trắng EU phụ thuộc nhiều vào nguồn cá thịt trắng nhập khẩu bên ngoài nên tỷ giá EUR/USD ảnh hưởng lớn đến sự biến động giá tại thị trường cá thịt trắng . Cá minh thái Alaska là loài cá thịt trắng được nhập khẩu và tiêu thụ nhiều nhất tại thị trường Đức trong năm 2013. Tiếp đến là cá tuyết cod vì nguồn cung nhiều, giá giảm. | 1 | null |
Cá nhiệt đới nói chung là những con cá được tìm thấy trong môi trường nhiệt đới trên thế giới, bao gồm cả nước ngọt và các loài nước mặn. Trong môi trường nhân tạo của một hồ cá, một loạt các sinh vật khác cũng được bao gồm chung trong thuật ngữ "cá nhiệt đới" bao gồm cả động vật thân mềm như mực nang, tôm cua như cua và tôm hùm. Cá nhiệt đới được phổ biến như các loài cá cảnh, do màu sắc tươi sáng thường thấy của chúng. Màu này thường xuất phát từ các tế bào sắc tố và các tế bào óng ánh.
Cá nhiệt đới có thể bao gồm các mẫu vật, cá thể sinh ra trong điều kiện nuôi nhốt bao gồm cả đường chọn lọc giống để tính năng vật lý đặc biệt, chẳng hạn như vây dài, hoặc tô màu đặc biệt, chẳng hạn như bạch tạng tự nhiên. Một số loài cá có thể lai của nhiều loài. Nhiều cá nhiệt đới biển là những con cá mà sống giữa hoặc trong mối quan hệ gần gũi với các rạn san hô. Rạn san hô tạo thành hệ sinh thái phức tạp với đa dạng sinh học rất lớn. (Cá rạn san hô), Hàng trăm loài có thể tồn tại trong một khu vực nhỏ của một rạn san hô. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.