text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Terminologia Anatomica (viết tắt là TA; tạm dịch: "Thuật ngữ giải phẫu") là tiêu chuẩn quốc tế về thuật ngữ giải phẫu người, được phát triển bởi Ủy ban Liên đoàn về thuật ngữ giải phẫu (FCAT) và Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội của các nhà Giải phẫu học (IFAA) và được xuất bản vào năm 1998. Nó thay thế tiêu chuẩn trước đó, "Nomina Anatomica". "Thuật ngữ giải phẫu" bao gồm các thuật ngữ cho khoảng 7500 cấu trúc giải phẫu học đại thể người. Vào tháng 4 năm 2011, Terminologia Anatomica đã được đăng tải trực tuyến bời Chương trình Quốc tế Liên đoàn về các thuật ngữ giải phẫu (FIPAT), tổ chức kế nhiệm cho FCAT. Danh mục các cấu trúc giải phẫu. "Terminologia Anatomica" chia các cấu trúc giải phẫu thành các mục chính như sau (Tiêu chuẩn Latinh nằm trong ngoặc):
1
null
Một trò chơi điện tử có lối chơi phi tuyến tính giới thiệu cho người chơi những thử thách có thể được hoàn thành theo trình tự khác nhau. Mỗi người chơi chỉ có thể tham gia (hoặc thậm chí gặp phải) một số thử thách có thể, và những thử thách tương tự có thể được chơi theo thứ tự khác nhau. Ngược lại, trò chơi điện tử có lối chơi tuyến tính sẽ thử thách người chơi với một chuỗi cố định: mọi người chơi phải đối mặt với mọi thử thách và phải vượt qua chúng theo thứ tự. Một trò chơi phi tuyến tính sẽ cho phép người chơi tự do hơn so với một trò chơi tuyến tính. Ví dụ: một trò chơi phi tuyến tính có thể mở ra nhiều chuỗi để kết thúc trò chơi, một sự lựa chọn giữa các con đường dẫn đến chiến thắng, các loại chiến thắng khác nhau hoặc phụ tùy chọn - nhiệm vụ phụ và tình tiết phụ. Một số trò chơi có cả yếu tố tuyến tính và phi tuyến tính, một số trò chơi cung cấp chế độ sandbox cho phép người chơi khám phá môi trường trò chơi thế giới mở độc lập với các mục tiêu chính của trò chơi, nếu có bất kỳ mục tiêu nào. Một trò chơi phi tuyến tính tuyệt đối đôi khi được mô tả là kết thúc mở hoặc một sandbox và có đặc điểm là cho phép người chơi đo lường tiến độ thông qua các mục tiêu tự xác định, không phụ thuộc vào các yếu tố chơi theo kịch bản. Thiết kế màn chơi. Cấp độ hoặcthế giới trò chơi có thể là tuyến tính, phi tuyến tính hoặc tương tác. Trong một trò chơi tuyến tính, chỉ có một con đường và người chơi phải đi qua từng màn chơi, tuy nhiên, trong các trò chơi có lối chơi phi tuyến tính, người chơi có thể phải quay lại các địa điểm hoặc chọn từ nhiều con đường để hoàn thành màn chơi. Cũng như các yếu tố trò chơi khác, thiết kế màn chơi tuyến tính không phải là tuyệt đối. Trong khi một màn chơi phi tuyến có thể cho phép người chơi tự do khám phá hoặc quay lại, có thể có một chuỗi các thử thách mà người chơi phải giải quyết để hoàn thành màn chơi. Nếu người chơi phải đối đầu với các thử thách trong một trật tự cố định, các trò chơi phi tuyến thường sẽ đưa ra nhiều cách tiếp cận để đạt được các mục tiêu đã nêu. Một trò chơi tuyến tính hơn yêu cầu người chơi hoàn thành các màn chơi theo một trình tự cố định để giành chiến thắng. Khả năng bỏ qua, lặp lại hoặc chọn giữa các màn chơi làm cho loại trò chơi này ít tuyến tính hơn. "Super Mario Bros." là một ví dụ cơ bản về điều này, người chơi có thể đi vào các vùng dịch chuyển để bỏ qua nhiều màn chơi trong trò chơi. Trong một số trò chơi, các màn chơi có thể thay đổi giữa thiết kế tuyến tính và chuyển vùng tự do tùy thuộc vào mục tiêu của màn chơi. "Super Mario 64" là một ví dụ, trong đó các màn chơi chính là chuyển vùng tự do, trong khi các màn gặp Bowser thì đi theo đường thẳng đến cuối. Thế giới mở và chế độ sandbox. Khi một cấp độ đủ lớn và kết thúc mở, nó có thể được mô tả như một thế giới mở, hoặc "trò chơi sandbox", mặc dù thuật ngữ này thường không được sử dụng chính xác. Các thiết kế trò chơi thế giới mở đã tồn tại ở một số dạng từ thập niên 1980, chẳng hạn như trò chơi giao dịch không gian "Elite", và thường sử dụng các môi trường được tạo theo thủ tục. Trong trò chơi có chế độ sandbox, người chơi có thể tắt hoặc bỏ qua các mục tiêu của trò chơi hoặc có quyền truy cập không giới hạn vào các món đồ. Điều này có thể mở ra những khả năng không nằm trong dự định của nhà thiết kế trò chơi. Chế độ sandbox là một tùy chọn trong các trò chơi hướng đến mục tiêu khác và được phân biệt với các trò chơi kết thúc mở không có mục tiêu, chẳng hạn như "SimCity", và "Garry's Mod". Cốt truyện phân nhánh. Các trò chơi sử dụng câu chuyện tuyến tính là những trò chơi mà người chơi không thể thay đổi mạch truyện hoặc kết thúc của câu chuyện. Nhiều trò chơi điện tử sử dụng cấu trúc tuyến tính, do đó làm cho chúng trông hư cấu. Tuy nhiên, các trò chơi như vậy thường sử dụng tường thuật tương tác, trong đó, người chơi cần tương tác với thứ gì đó trước khi cốt truyện bắt đầu hoặc tường thuật phi tuyến, trong đó, các sự kiện được miêu tả không theo trình tự thời gian . Nhiều trò chơi đưa ra kết thúc sớm nếu người chơi không đạt được mục tiêu, nhưng đây thường chỉ là những gián đoạn trong tiến trình của người chơi chứ không phải là kết thúc thực tế. Ngay cả trong các trò chơi có cốt truyện tuyến tính, người chơi tương tác với thế giới trò chơi bằng cách thực hiện nhiều hành động khác nhau trên đường đi. Visual novel. Các cốt truyện phân nhánh là xu hướng phổ biến trong visual novel, một nhánh con của tường thuật tương tác và trò chơi phiêu lưu. Visual novel thường sử dụng nhiều cốt truyện phân nhánh để đạt được nhiều kết thúc khác nhau, cho phép người chơi tự do lựa chọn phi tuyến tính trong suốt quá trình chơi. Các điểm quyết định trong visual novel thường cho người chơi tùy chọn thay đổi tiến trình của các sự kiện trong trò chơi, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau có thể xảy ra. Visual novel phổ biến ở Đông Á, đặc biệt là ở Nhật Bản, nơi chúng chiếm gần 70% trò chơi máy tính cá nhân được phát hành ở đó. Một ví dụ được hoan nghênh gần đây là ", trong game, gần như mọi hành động vàlựa chọn đối thoại đều có thể dẫn đến các đường dẫn và kết thúc phân nhánh hoàn toàn mới. Mỗi con đường chỉ tiết lộ một số khía cạnh nhất định của cốt truyện tổng thể và chỉ sau khi khám phá ra tất cả các con đường và kết quả khác nhau mới có thể có thông qua nhiều màn chơi thì mọi thứ mới kết hợp lại với nhau để tạo thành một câu chuyện được viết chặt chẽ. Trò chơi nhập vai. Các cốt truyện phân nhánh cũng thường được sử dụng trong trò chơi điện tử nhập vai (RPG) ở một mức độ nào đó. Một ví dụ ban đầu, được xuất bản vào năm 1999, là trò chơi nhập vai kỳ ảo ", trong game, người chơi phải lựa chọn giữa Ánh sáng và Bóng tối. Trong khi phe bóng tối muốn phá hủy thế giới Enroth thì phe ánh sáng lại cố gắng cứu lấy nó. Sự lựa chọn xác định cấp độ tướng mà nhân vật người chơi có thể nhận được và các nhiệm vụ họ phải làm trong phần đó của trò chơi. Trước đó trong trò chơi, người chơi đã phải chọn phe trong xung đột ranh giới giữa Yêu tinh và Con người, hoặc giữ thái độ trung lập. Điều này ảnh hưởng đến lá cờ trong Castle Harmondale của họ và một số nhiệm vụ, nhưng không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Ví dụ ban đầu. Các ví dụ ban đầu (trước năm 1983) về lối chơi phi tuyến tính bao gồm:
1
null
Giao hưởng số 8, cung Sol trưởng, Op. 88, B.163 là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dvořák. Ông sáng tác bản giao hưởng vào năm 1889. Bản giao hưởng này cùng với bản giao hưởng số 7 là những món quà mà Dvořák muốn tặng cho Hội Khuyến nhạc Anh.
1
null
Giao hưởng số 7, cung Đô trưởng, Op. 60, hay còn gọi là Giao hưởng Leningrad là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc Xô viết Dmitri Shostakovich. Ông viết bản giao hưởng này trong một hoàn cảnh rất đặc biệt: Trong thời gian đầu Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, thành phố Leningrad bị phát xít Đức bao vây. Tuy vậy, Shostakovich không lánh đi mà ở lại giữa vòng lửa đạn của kẻ thù. Lúc ấy, tức là năm 1941, bản giao hưởng mang tên Leningrad đã ra đời.
1
null
là một quận ở đặc khu Chiyoda của Tokyo, Nhật Bản. Cái tên Akihabara là cách gọi tắt của , bắt nguồn từ , đặt theo tên một vị thần điều khiển lửa trong một ngôi đền được xây dựng trên tàn tích của một khu vực bị hỏa hoạn thiêu trụi vào năm 1869. Akihabara được gán cho biệt danh ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, lúc nó trở thành một trung tâm mua sắm lớn nổi tiếng với các mặt hàng điện tử gia dụng và thị trường chợ đen thời hậu chiến. Ngày nay, Akihabara được nhiều người xem là một trung tâm văn hóa otaku và khu mua sắm các hàng hóa liên quan đến video game (gồm visual novel), anime, manga, light novel và máy vi tính. Hình ảnh anime và manga nổi tiếng được trưng bày nổi bật trên nhiều cửa hàng trong khu vực, và rất nhiều quán cà phê hầu gái mở ra tại đây.
1
null
Giao hưởng số 1, cung Fa thứ, Op.10 là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Nga Dmitri Shostakovich. Đây là tác phẩm tốt nghiệp môn sáng tác của Shostakovich. Bản giao hưởng này được sáng tác vào năm 1925. Một năm sau, năm 1926, bản giao hưởng được dàn dựng và trình diễn tại hai thành phố Leningrad và Moskva. Nó mang lại cho tác giả Shostakovich, khi ấy gần 20 tuổi, một danh tiếng thế giới về sáng tác.
1
null
Giao hưởng số 7, cung Mi trưởng, D.729 là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert. Ông phác thảo bản giao hưởng này vào năm 1821, nhưng lại không phối dàn nhạc giao hưởng. Sau này nhiều người đã giúp ông, có thể kể đến như John Francis Barnett đã phối dàn nhạc vào năm 1884, hay như Felix Weingartner vào năm 1935 hoặc Brian Newbould vào năm 1977 đã làm được điều tương tự.
1
null
Giao hưởng số 1, cung Rê trưởng, Op.25 hay còn gọi là Giao hưởng Cổ điển là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Nga Sergei Prokofiev. Ông viết bản này vào năm 1917. Trong bản giao hưởng đầu tay, Prokofiev đã thể hiện một sự tái hiện tuyệt vời phong cách của Joseph Haydn hơn 2 thế kỷ trước đó. Sau lần trình diễn tác phẩm này tại Petrograd, Prokofiev đã rời nước Nga vào năm 1918 để sang Mỹ biểu diễn piano giới thiệu các tác phẩm của mình. Bản giao hưởng này gồm 4 chương: Các nhạc cụ tham gia biểu diễn gồm có.:
1
null
là một tạp chí seinen manga Nhật Bản ấn hành bởi ASCII Media Works. Tạp chí ra mắt dưới dạng kỹ thuật số lần đầu tiên vào ngày 9 tháng 8 năm 2012 với quyển 0, và bắt đầu xuất hiện hàng tháng với số tiếp theo ra mắt ngày 15 tháng 10 năm 2012. Từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014, tạp chí ra mắt hai tuần một lần. "Dengeki G's Comic" bắt đầu được ấn hành đều đặn hàng tháng kể từ số tháng 6 phát hành ngày 30 tháng 4 năm 2014. Kể từ khi tạp chí đã trở thành một xuất bản phẩm thật sự, một lượng lớn manga ra mắt thường kỳ hàng tháng trên "Dengeki G's Magazine" của cùng nhà xuất bản được chuyển sang đăng trên "Dengeki G's Comic".
1
null
là một tạp chí trò chơi máy tính và manga Nhật Bản ấn hành bởi Kadokawa Shoten. "Comp Ace" khởi đầu như một ấn bản đặc biệt của một tạp chí khác cũng do Kadokawa Shoten xuất bản là "Comptiq". Tạp chí phát hành lần đầu vào ngày 26 tháng 3 năm 2005, và ba số đầu tiên được ra mắt theo quý với bia do họa sĩ Hinoue Itaru của Key minh họa. Từ số thứ tư đến thứ chín ra mắt xuất bản hai tháng một lần với bìa được thực hiện bởi họa sĩ Nishimata Aoi của Navel. Số thứ mười ra mắt ba tháng sau số thứ chín, và kể từ số này tạp chí được ấn hàng đều đặn hàng tháng, lúc bấy giờ bìa được minh họa mới bởi Nanao Naru, Suzuhira Hiro, và các họa sĩ của Type-Moon và August. Bắt đầu từ số tháng 8 ra ngày 26 tháng 6 năm 2007, "Comp Ace" tách ra khỏi "Comptiq" và trở thành một tạp chí riêng. Nó tập trung vào các bishōjo game và manga dựa theo những trò chơi đã cung cấp thông tin.
1
null
Trỏ và nhấp (tiếng Anh: Point and click) là các thao tác mà người sử dụng máy vi tính di chuyển con trỏ đến một vị trí nhất định trên màn hình ("trỏ") và sau đó nhấn vào một nút trên con chuột, thường là nút bên trái ("nhấp"), hay các thiết bị trỏ khác. Một ví dụ cho việc trỏ và nhấp chuột là siêu phương tiện, trong đó người dùng nhấp vào các siêu liên kết để di chuyển tài liệu này sang tài liệu khác. Trỏ và nhấp chuột có thể được sử dụng với bất kỳ số lượng thiết bị đầu vào nào, từ chuột, miếng cảm ứng, bàn phím, cần điều khiển, các nút di chuyển đến con lăn. Các giao diện người dùng, ví dụ như giao diện người dùng đồ họa, thỉnh thoảng được mô tả như "giao diện trỏ-và-nhấp", thường nhằm mục đích cho thấy rằng chúng rất dễ sử dụng, chỉ đơn giản là đòi hỏi người dùng cho biết ý định của họ. Việc sử dụng cụm từ này để mô tả phần mềm tức là đang ngụ ý rằng giao diện có thể điều khiển được chỉ bằng một con chuột, với rất ít hoặc không có thao tác nào thuộc về bàn phím, cũng như với nhiều giao diện người dùng đồ họa.
1
null
Hoàn Nhan Ngang (chữ Hán: 完颜昂, ? – 1142), tên Nữ Chân là Ngô Đô Bổ (吾都补), hoàng thân, tướng lãnh nhà Kim. Cuộc đời và sự nghiệp. Ngang là con trai út của Kim Thế Tổ Hặc Lý Bát, thường đi theo anh trai là Thái Tổ A Cốt Đả chinh chiến. Năm Thiên Phụ thứ 6 (1122), Ngang cùng Sảo Hát đem 4000 quân giám hộ các bộ đầu hàng dời đi Lĩnh Đông, để làm quân trú phòng Lâm Hoàng phủ . Trên đường đi, Ngang không thể phủ dụ và chế ngự, phần lớn các bộ chịu nhiều khổ cực nên bỏ trốn. Thái Tổ sai Xuất Lý đến răn dạy Ngang, nhưng đến Thượng Kinh thì chỉ còn 2 bộ Chương Mẫn Cung, Tiểu Thất. Có chiếu cho Am ban Bột cực liệt Ngô Khất Mãi trừng phạt Ngang và Sảo Hát. Khi ấy Ngô Khất Mãi giữ Thượng Kinh, Từ Bất Thất làm phó cho ông ta. Từ Bất Thất khuyên Ngô Khất Mãi nhân dịp quốc khánh hãy giảm nhẹ hình phạt, vì thế Ngang bị đòn 70 trượng, giam ở Thái Châu, nhưng Sảo Hát bị giết. Năm Thiên Hội thứ 6 (1128), được làm quyền Nguyên soái Tả đô giám. Năm thứ 15 (1137), được làm Tây kinh lưu thủ. Năm Thiên Quyến thứ 3 (1140), được làm Bình chương chánh sự. Năm Hoàng Thống đầu tiên (1141), được phong Tất Thủy quận vương. Năm thứ 2 (1142), được đeo dòng chữ "Hoàng thúc tổ", phong Vận vương. Cùng năm ấy, hoăng.
1
null
Hoàn Nhan Ngang (chữ Hán: 完颜昂, 1099 – 1163), tên Nữ Chân là Bôn Đổ (奔睹), tông thất, tướng lãnh nhà Kim. Theo hầu hoàng đế, tham gia nam phạt. Bôn Đổ là cháu nội của Bột Hắc – em trai của Kim Cảnh Tổ Ô Cổ Nãi, con trai của Tà Oát. Từ nhỏ Bôn Đổ theo hầu Thái Tổ A Cốt Đả. Năm lên 15 tuổi, Bôn Đổ đấu vật thắng được liên tiếp 6 lực sĩ, A Cốt Đả hài lòng, ban cho kim bài, giữ ở bên cạnh làm thị vệ. Năm lên 17, được đeo kim bài theo Thái Tổ đánh Liêu, luận công, được ban một tòa phủ đệ hạng nhất. Năm Thiên Phụ thứ 6 (1122), Tông Hàn dò biết Liêu Thiên Tộ đế ở Uyên Ương bạc, sai Nậu Oản Ôn Đôn Tư Trung xin với Quốc luận Bột cực liệt Hoàn Nhan Cảo cho mình đem quân bản bộ đi đánh. Cảo không thể quyết đoán, bèn sai Bôn Đổ cùng Tư Trung đi gặp Tông Hàn bàn bạc, việc này do đó được quyết định. Năm Thiên Hội thứ 2 (1124), Bôn Đổ, Lưu Tông Ngạn nhận lệnh của chủ soái Đồ Mẫu, đi đánh dẹp tàn dư của phản tướng Trương Giác ở Nam Kinh. Tông Vọng đánh Tống, thừa chế lấy Bôn Đổ làm Hà Nam chư lộ binh mã đô thống, gọi là "Kim bài lang quân". Khi đánh Biện Châu, Tông Bật cùng Bôn Đổ đem 3000 quân làm tiền phong. Gần chiều, Bôn Đổ đưa hơn ngàn quân ruổi đến cửa bắc. Quân Kim gọi cửa, người Tống không mở, Bôn Đổ khuyên dụ thì vào được. Tông Vọng đến Biện, lo Tống đế bỏ trốn nên sai Bôn Đổ đưa khinh kỵ tuần tra ngoài thành. Bôn Đổ chỉ lãnh 8 mưu khắc, bất ngờ gặp hơn vạn quân địch, đánh bại được, khiến quân Tống chết đuổi quá nửa. Năm thứ 7 (1129), quân Kim vượt Trường Giang, Bôn Đổ nhận lệnh tham gia đuổi bắt Tống Cao Tông. Cao Tông chạy vào Hội Kê, ở phía đông quách có vài ngàn quân Tống dùng tre nứa dựng lũy, các tướng muốn đánh lũy, Bôn Đổ cho rằng đây là kế nghi binh, nên lập tức đánh thành. Mọi người do dự chưa quyết, Cao Tông quả nhiên cưỡi thuyền trốn ra bể, quân Kim đành quay về. Bình định Hà Tây, trí ngự Nhạc Phi. Bôn Đổ nhận lệnh cùng Tát Li Hát lãnh 8000 quân đánh chiếm các quận, huyện Hà Tây. Họ chiếm được 2 trại Ninh Thao, An Lũng. Tiến đến Hà Châu, thông phán ở đó đưa quan dân ra hàng. Đánh Nhạc Châu, đô hộ ở ở đó cùng Hà Châu an phủ sứ Quách Ninh đều hàng. Tiếp tục chiếm được 3 trại, đến Tây Ninh Châu, đô hộ Hứa Cư Giản dâng thành đầu hàng; Triệu kiềm hạt – cháu nội của tù trưởng Thổ Phồn – soái 5 thủ lĩnh dưới quyền là bọn Mộc Ba đến hàng . Bôn Đổ lãnh riêng 4000 quân đi Tích Thạch quân, thu hàng quân này cùng quan lại 5 trại của nó. Đuổi theo 12 Kiềm hạt người Thổ Phồn đến Khuếch Châu, chiêu hàng không được, nên đánh chiếm thành ấy. Năm Thiên Quyến đầu tiên (1138), được làm Trấn quốc thượng tướng quân, nhận chức Đông Bình doãn. Mùa hạ năm sau, tướng Tống là Nhạc Phi đưa 10 vạn quân đến đánh Đông Bình. Đông Bình có 5000 quân, thảng thốt ra chống lại. Khi ấy dâu, chá đang tươi tốt, Bôn Đổ sai bộ hạ giăng nhiều cờ xí ở trong rừng làm nghi binh, tự đưa tinh binh ra trước trận. Giằng co vài ngày thì quân Tống rút lui, Bôn Đổ thúc quân đuổi theo, đến Thanh Khẩu, quân Tống lên thuyền ngược dòng mà đi. Bấy giờ trời mưa suốt cả ngày đêm không nghỉ, quân Kim đóng trại ở ven sông, đến nửa đêm, Bôn Đổ thúc giục mọi người đi lên phía bắc. Chư tướng can ngăn: "Quân sĩ lội bùn cả ngày, đói mệt mà chưa được ăn, chỉ sợ không chịu lên đường." Bôn Đổ nổi giận, nổi trống đốc thúc, hạ lệnh rằng: "Dứt một hồi trống mà ai tụt lại đằng sau thì chém." Rồi nhổ trại mà đi, được 20 dặm mới dừng lại. Đêm ấy, quân Tống đến cướp trại, không được gì nên bỏ đi. Chư tướng vào chúc mừng, hỏi tại sao. Bôn Đổ đáp: "Xuôi dòng mà đi, là chạy; ngược dòng mà đi, là dụ ta đuổi theo. Nay trời mưa lầy lội, họ đi thuyền nhàn nhã, ta đi bộ mệt nhọc. Sĩ tốt đói mệt, cung tên mềm rũ, quân ta lại ở hạ lưu, vị trí bất lợi, họ tập kích ta là lẽ tất nhiên." Mọi người đều khen hay. Nhạc Phi vây Bi Châu rất gấp, trong thành có hơn ngàn quân, tướng giữ thành sợ, sai người cầu cứu. Bôn Đổ nói: "Nhắn lời của ta với tướng giữ thành, góc tây nam trong thành có cái rãnh sâu hơn trượng, cần nhanh chóng lấp lại." Tướng giữ thành làm theo lời này, quả nhiên Nhạc Phi đào đường ngầm theo lối ấy tiến vào, biết trong thành có phòng bị, nên thôi. Bôn Đổ cất quân đến cứu, quân Tống rút lui. Phụng sự Hải Lăng, chúc mừng Thế Tông. Bôn Đổ ở Đông Bình 7 năm, được đổi làm Ích Đô doãn, rồi thăng làm Đông bắc lộ chiêu thảo sứ, đổi làm Sùng nghĩa quân tiết độ sứ, thăng Hội Ninh mục. Đầu những năm Thiên Đức (1150 – 1153), được đổi làm An Vũ quân tiết độ sứ, thăng Nguyên soái hữu đô giám, chuyển làm Tả giám quân, được thụ Thế tập mãnh an ở Di Lý Mẫn Oát Lỗ Hồn Hà thuộc Thượng Kinh lộ . Hải Lăng vương nói: "Ngươi có công lớn, 1 mãnh an thì chưa đủ đền đáp." Được nhận thêm 4 mưu khắc. Bôn Đổ giữ cho mình 1 mưu khắc, còn 3 mưu khắc giao cho anh em trong họ. Được bái làm Xu mật sứ, chuyển làm Thái tử thái bảo, tiến Xu mật sứ, Thượng thư tả thừa tướng. Bôn Đổ giận vợ của người em họ, lột áo đánh đòn vào lưng, Hải Lăng vương nghe được, phạt ông 50 trượng. Sau đó được bái làm Thái úy, phong Thẩm quốc công. Được tiến Thái bảo, Phán Đại tông chánh sự, phong Sở quốc công, lũy tiến phong Cử, Vệ, Tề, kiêm Xu mật sứ, Thái bảo như cũ. Hải Lăng vương đánh Tống, chia quân các lộ làm 32 tổng quản, dưới quyền Tả Hữu lãnh quân đại đô đốc phủ, lấy Bôn Đổ làm Tả lãnh quân đại đô đốc. Hải Lăng vương đắp đài ở thượng du Trường Giang, triệu Bôn Đổ cùng Hữu lãnh quân đại đô đốc Bồ Lư Hồn đến nói rằng: "Mái chèo đã đủ, có thể sang sông rồi." Bồ Lư Hồn nói: "Thuyền nhỏ không thể vượt sông." Hải Lăng vương giận, xuống chiếu cho Bôn Đổ và Bồ Lư Hồn hôm sau vượt sông. Bôn Đổ sợ, muốn bỏ trốn. Đến chiều, Hải Lăng vương sai người đến đình chỉ vượt sông: "Lời trước là do nóng giận mà thôi!" Sau đó Hải Lăng vương bị binh biến giết chết ở Dương Châu. Kim Thế Tông lên ngôi ở Liêu Dương, Bôn Đổ sai người giết Hoàng thái tử Quang Anh ở Nam Kinh, phái con trai Tẩm điện tiểu để Tông Hạo cùng con rể Bài ấn chi hậu Hồi Hải dâng biểu chúc mừng. Quân Kim rút lui, Bôn Đổ sợ người Tống truy kích, nên gởi thư thông báo bãi binh. Năm Đại Định thứ 2 (1162), về gặp Thế Tông, được an ủi rất nhiều. Được tiến phong Hán quốc công, bái Đô nguyên soái, Thái bảo như cũ, đặt Nguyên soái phủ ở Sơn Đông, kinh lược vùng biên. Chưa bao lâu, triều đình dời linh cữu của Duệ Tông vào Sơn lăng, lấy Bôn Đổ làm Sắc táng sứ. Việc xong, về Sơn Đông. Năm thứ 3 (1163), được triệu về kinh, rồi bệnh mất. Đế nghỉ chầu, đích thân đến viếng, giúp ngàn lạng bạc, 50 tấm lụa thêu, 500 xúc lụa trơn. Tính cách: Say rượu giữ thân, hòa mục anh em. Thời Hải Lăng vương, Bôn Đổ uống rượu say sưa, liền mấy ngày không tỉnh. Hải Lăng vương nghe được, gặp mặt thường răn đe, nhưng Bôn Đổ nhàn rỗi lại uống rượu như cũ. Đầu những năm Đại Định, Bôn Đổ từ Dương Châu trở về, vợ con bày tiệc rượu ở nhà riêng, Bôn Đổ uống vài chén rồi thôi. Vợ ông là Đại thị - chị cùng mẹ với thiếp của Hải Lăng vương – lấy làm lạ, ông nói: "Tôi vốn không phải là kẻ ham rượu, nhưng ngày xưa nếu không dùng rượu để náu mình, thì em trai bà đã giết tôi từ lâu rồi. Bây giờ là lúc gặp được minh chủ, cần phải quý trọng bản thân, nên không uống nữa!" Người nghe được đều khen ngợi. Bôn Đổ tính hòa mục với anh em, giúp đỡ họ rất nhiều; họ hàng có ai nghèo khốn, ắt chu cấp hậu hĩ. Đến như các thứ mền chiếu, áo quần, bát dĩa, ngựa xe thường dự trữ trong nhà. Khi cần cho ai thì chất lên xe, đem đến tận nhà kẻ ấy, rồi bày tiệc vui vẻ đến trọn ngày, ngay hôm ấy người đó được sung túc. Có người lo Bôn Đổ sẽ chẳng còn gì cho con cháu thừa kế, ông đáp: "Ai cũng có phần, nhưng hãy để cho chúng tự lập, sao cứ phải phục dịch con cháu như vậy?" Bậc quân tử cho rằng ông làm người khoát đạt. Đánh giá. Kim sử đánh giá: "Bôn Đổ là bề tôi cũ có công; vào thời Thiên Hội, Hoàng Thống giành nhiều chiến thắng, khá là hùng tráng... Cuối thời Chánh Long, Bôn Đổ ở ngôi tam công, giữ chức Thượng tướng, trong không chịu bày mưu, ngoài không chịu chiến đấu, lần lữa tới lui, chỉ cốt giữ mình, cái đạo của bậc đại thần, có nên như vậy chăng?"
1
null
Faust là vở opera nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc người Pháp Charles Gounod. Những người viết lời cho tác phẩm này là Jules Barbier và Michel Carré. Họ đã dựa vào chính vở kịch của Carré có tên Faust et Marguerite để có thể thực hiện công việc của mình. Faust được sáng tác vào năm 1859. Trong vở opera này, hợp xướng của những người lính trở thành đoạn nổi tiếng nhất của tác phẩm. Gounod tuy sáng tác opera nhiều, những chỉ thành công thực sự với Faust.
1
null
Giao hưởng số 3, cung Đô thứ , Op. 78 là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Pháp Camille Saint-Saëns, nổi tiếng với tên gọi "Giao hưởng Organ", dù đây không thực sự là một giao hưởng viết cho đàn organ, tác giả ban đầu ghi "Symphonie No. 3 "avec orgue"" (với organ). Ông viết bản giao hưởng này vào năm 1886. Nó cùng với vở opera Samson et Delilah và các bản concerto dành cho piano những tác phẩm hội tụ những đặc điểm ưu tú nhất của Saint-Saëns. Về việc sáng tác bản giao hưởng này, Saint-Saëns nói: "Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể làm. Những gì tôi đã hoàn thành ở đây, tôi không thể nào đạt đến một lần nữa." Nhà soạn nhạc có vẻ đã biết đây sẽ là nỗ lực cuối cùng của ông trong sáng tác giao hưởng, và ông viết rằng tác phẩm gần như là một loại "lịch sử" về sự nghiệp của ông: những đoạn piano điêu luyện, lối viết cho dàn nhạc tươi sáng mang phong cách thời kì Lãng mạn, và âm thanh của một cây đàn organ kích cỡ thánh đường. Bản giao hưởng được đạt hàng bởi Hội yêu âm nhạc Hoàng gia ở Anh, và buổi biểu diễn đầu tiên diễn ra ở London vào ngày 19 tháng 5 năm 1886, tại sảnh đường St. James, chỉ huy bởi tác giả. Sau khi người bạn của mình là Franz Liszt qua đời vào ngày 31 tháng 7 năm 1886, Saint-Saëns đề tặng tác phẩm này cho Liszt để tưởng nhớ ông. Saint-Saëns cũng chỉ huy buổi ra mắt tác phẩm tại Pháp vào tháng 1 năm 1887.
1
null
Tên Hán-Việt của Biển Namhae (), tỉnh Jeolla, Hàn Quốc Tổ chức Thủy văn quốc tế đã thiết lập các "ranh giới của các đại dương và biển", xuất bản năm 1953 (Giới hạn của Đại dương và biển) về phía tây bắc của hòn đảo trong vùng biển Hoàng Hải, phiên bản thứ ba của biên giới, phía đông bắc về phía Đông, Biển Đông Trung Quốc về phía nam của hòn đảo. Phạm vi Nam Hải, mỗi bởi một cơ quan chính phủ của Hàn Quốc đưa ra khác ngau. Năm 1997, Bộ Hàng hải và Thủy sản vào thời điểm đó vạch một đường thẳng trên eo biển Tsushima nối Ulsan và Izumo của Nhật Bản trong những ranh giới của Hàn Quốc và Tokai. Ngoài ra, các ranh giới của Hoàng Hải tuyến phía tây thẳng và đảo Saegiki là một ranh giới đường thẳng Biển Đông Trung Quốc và kết nối cực nam của Udo và Fukue. Cơ quan Thủy sản Quốc gia (nay là Viện Thủy sản Quốc gia Khoa học) đã được sử dụng như một tiêu chuẩn trong "Sổ tay hàng hải Hàn Quốc" vào năm 1979. Tuy nhiên, Viện nghiên cứu biển quốc gia được đặt dưới sự bảo trợ của Bộ Hàng hải và Thủy sản xác định trong "Sổ tay doanh nghiệp thủy" vào năm 1992, Tokai Tokyo của ranh giới của Busan năm mươi sáu đảo, phía bắc ranh giới của Hoàng Hải trên mũi phía nam của huyện Nam Hải, tỉnh Nam Jeolla.
1
null
Vụ nổ khí đốt tại Cao Hùng, Đài Loan () là một tại nạn về khí đốt do rò rỉ khí ga xảy ra tại quận Tiền Trấn và quận Linh Nhã ở thành phố Cao Hùng, miền Nam Đài Loan lúc 12h tối giờ địa phương làm nhiều người thương vong. Diễn biến. Theo lời các nhân chứng, khí đốt bắt đầu rò rỉ vào khoảng 21h tối 31 tháng 7 (giờ địa phương) và tạo thành một màn sương mù màu trắng bao quanh khu vực này. Sau đó, một loạt các tiếng nổ lớn liên tục phát ra tại một khu vực rộng chừng 2–3 km vuông vào lúc nửa đêm. Người dân mô tả vụ nổ giống như một trận động đất mạnh, trong đó ít nhất bốn khu vực cảm nhận được sự rung chuyển dữ dội. Các con đường bị xé nát và các ô tô bị lật đổ đè lên nhau, gây ra mất điện trên diện rộng. Vụ nổ mạnh đến mức các xe máy và ô tô bị nhấc bổng lên. Một số xe ô tô và xác nạn nhân bị ném lên tấng 3 và 4 của các khu nhà cao tầng. Một đường phố đã bị cắt làm đôi theo chiều dài, hố sâu tạo ra nuốt gọn một xe chữa cháy và các phương tiện giao thông khác. Đến sáng thứ sáu 1 tháng 8, hầu hết các đám cháy đã được dập tắt hoàn toàn hoặc tự tắt, nhưng vẫn có một số đám cháy còn duy trì. Cơ quan phòng cháy chữa cháy Đài Loan cho biết, lực lượng cứu hỏa địa phương đã nhận được cuộc gọi về việc rò rỉ khí đốt tối thứ năm. Nạn nhân. Tai nạn xảy ra làm ít nhất 22 người thiệt mạng và 270 người bị thương. Tại thời điểm xảy ra vụ nổ các nhân viên cứu hỏa đang làm việc, có 5 lính cứu hỏa nằm trong số 22 người thiệt mạng.Theo các nhân viên y tế, số lượng người thiệt mạng có thể sẽ tăng bởi rất nhiều người bị thương nặng. Ảnh hưởng. Vụ nổ gây ra một khe nứt lớn trên hai con đường chính là Kaisuan và Ersheng, phá hủy nhiều xe ô tô và gây ra đám cháy trong các tòa nhà gần đó. Nguyên nhân. Ông Chen Chu, thị trưởng thành phố Cao Hùng nói rằng, nguyên nhân vụ việc chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, theo một số nguồn tin, vụ nổ bắt đầu từ hệ thống thoát nước của thành phố. Một số công ty hóa dầu có đường ống được xây dựng dọc theo hệ thống thoát nước này trên địa bàn huyện Chian-Chen.
1
null
My Cassette Player là album đầu tay của nữ ca sĩ người Đức Lena Meyer-Landrut. Album được phát hành với nghệ danh của cô, Lena, vào ngày 07 tháng 5 năm 2010, và ra mắt tại vị trí cao nhất của BXH album nhạc Đức. Album đã nhận được 5 chứng nhận Đĩa Vàng ở Đức nhờ bán được hơn 500.000 bản. Sản xuất. "My Cassette Player" bao gồm đĩa đơn cùng tên của ca khúc từng giành No.1 của Lena, "Satellite", nó cũng chiến thắng Eurovision Song Contest 2010, và các ca khúc "Love Me" và "Bee", từng được phát hành trước đó vào ngày 13 tháng 3 năm 2010. Album cũng của phiên bản cover ca khúc "My Same" của Adele và "Mr. Curiosity" của Jason Mraz, ca hai đều được Lena trình bày trong cuộc thi "Unser Star für Oslo" (Our Star for Oslo), một chương trình truyền hình nhằm chọn ra thí sinh và bài hát tham dự Eurovision Song Contest 2010, và phiên bản cover ca khúc "Not Following", được viết bởi ca sĩ - nhạc sĩ người Anh Ellie Goulding nhưng không được phát hành. Các ca khúc còn lại được sáng tác hoặc đồng sáng tác bởi Stefan Raab và Lena. Bìa ảnh được sáng tác bởi Sophie Krische. Máy cassette trên bìa là , được sản xuất ở Đông Đức cũ. Ảnh minh hoạ trong tập ảnh đi kèm được thực hiện bởi Ronald Reinsberg. Đĩa đơn maxi thứ 2 trích từ album là "Touch a New Day", mặt B của nó là ca khúc "We Can't Go On", trước đó chỉ phát hành như bonus track trên Amazon. Đón nhận. Ở Đức, có nhiều nhận định trái chiều về album này. Trong khi "Stuttgarter Nachrichten" phê bình là album chịu ảnh hưởng quá rõ rệt của nhà sản xuất Stefan Raab, thì "Neue Presse" gọi đó là "màn ra mắt đầy quyến rũ", còn "" cho rằng nó "phần nào vô vị" nhưng vẫn là một "album nhạc pop hay", nổi bật là "Bee" như một "bản Thánh ca vui tươi về sự tự do" và "Satellite" thì "vẫn nghe như rất mới đáng kinh ngạc, dù đã lên sóng đầy rầm rộ trước đó". Trong khi đó, bán chí nước ngoài phê bình khá gay gắt album, nhiều ý kiến cho rằng lời bài hát vô nghĩa và giọng hát của Lena khá yếu. Tờ ' ở Vương quốc Anh đưa ra nhiều nhận định khác nhau về album, ca ngợi nó "chứa các bản cover xứng đáng cho ca khúc Not Following của Ellie Goulding và My Same của Adele, cùng với các bản gốc khác đầy mượt mà, gợi lên một chút gì đó của nữ ca sĩ Đức, ", nhưng cũng phàn nàn rằng album nghe có vẻ "vội vã". Ở Thuỵ Điển, trang web "Kritiker" đưa ra một thang chuẩn là 5.0 để đánh giá từ các nhà phê bình chính thống trên toàn quốc và album được điểm trung bình là 2.0, dựa trên 13 đánh giá, trong đó chỉ ra nhiều ý kiến phê bình từ các đánh giá trái chiều. Jenny Seth của ' phê phán Lena chỉ là "một thiếu niên lớn trước tuổi" với "giọng hát gượng gạo... (và) lời bài hát vô vị về những con ong". Cô bổ sung thềm rằng, trong khi Lena "chịu ảnh hưởng của Kate Nash and Adele, giọng cô nghe như một phiên bản của Colbie Caillat nhưng nhút nhát và cô em gái nhỏ hoạt bát nhưng không thể chịu nổi của Jason Mraz". Anders Nunstedt, biên tập viên âm nhạc của tờ báo Thuỵ Điển ', phê bình gay gắt album, gọi nó là "bản pop ra mắt nhạt nhẽo với lời ca vô nghĩa" và chỉ trích "giọng Anh cường điệu hoá" của Lena. Carina Jonsson của ' chỉ chấm cho album điểm 1/5 và phê bình khả năng thanh nhạc của Lena, bảo rằng cô "hát tệ như người mới biết karaoke", cũng như, cô gắng gượng một các ngu ngốc hát bằng giọng Anh". Credit. Hát chính Hát phụ Nhạc công Audio hậu kì Sản xuất Minh hoạ/hình ảnh Viết nhạc và lời
1
null
Những bài ca không lời (tiếng Đức: Lieder ohne Worte) là bộ chuỗi các bản nhạc ngắn và trữ tình viết cho piano của nhà soạn nhạc người Đức Felix Mendelssohn. Bộ tác phẩm này được sáng tác từ năm 1829 đến năm 1845, bao gồm 48 bản nhạc, được chia thành 8 tập. Sáng tác và đón nhận. Tám tập của Những bài ca không lời, mỗi tập gồm 6 "bài ca", được viết vào nhiều thời điểm trong cuộc đời của Mendelssohn, và được xuất bản riêng lẻ. Piano nhanh chóng phổ biến ở châu Âu đầu thế kỉ XIX, nó trở thành một vật dụng tiêu chuẩn ở các gia đình trung lưu. Những bản nhạc này nắm bắt được nhiều khả năng của nghệ sĩ piano và rõ ràng đã đóng góp vào sự nổi tiếng của chúng. Tập đầu tiên được xuất bản bởi Novello ở London (1832) với tên "Original Melodies for the Pianoforte "(Những giai điệu độc đáo cho Pianoforte), nhưng những tập sau mang tên "Những bài ca không lời". Bộ tác phẩm là một phần truyền thống viết các tác phẩm ngắn trữ tình cho piano thời kì Lãng mạn, dù khái niệm "Bài ca không lời" là một điều mới. Chị Fanny của Mendelssohn cũng viết một số những tác phẩm tương tự (dù không có tên), và theo một số sử gia âm nhạc, đã truyền cảm hứng cho khái niệm này. Tiêu đề "Những bài ca không lời" có vẻ như là một sáng kiến riêng của Mendelssohn. Mendelssohn phản đối ý định thể hiện khái niệm "bài ca "quá rành mạch và không đồng ý khi người bạn Marc-André Souchay muốn thêm câu chữ vào tác phẩm để thành những ca khúc có lời: Những gì âm nhạc mà tôi yêu thể hiện với tôi, không được xem như quá "mơ hồ" để phải thêm câu chữ, mà ngược lại, quá "rõ ràng". (in nghiêng của Mendelssohn) Những nhạc sĩ khác cũng lấy cảm hứng từ những bài ca này và sáng tác ra những tác phẩm tương tự là Charles-Valentin Alkan (năm bộ "Chants", mỗi bộ kết thúc bằng một barcarolle), Anton Rubinstein, Ignaz Moscheles và Edvard Grieg (66 "Lyriske stykker"). Hai Bài ca không lời (op.10) cho piano sáng tác bởi  Mykola Lysenko. Alkan và Rubinstein thường xuyên biểu diễn những Bài ca không lời trong các buổi biểu diễn. Ferruccio Busoni, người đánh giá Mendelssohn là "bậc thầy của sự vĩ đại không thể chối cãi", lấy "Những bài ca không lời "thành một dự án các buổi biểu diễn của ông tại London trong những năm cuối đời.  Tám tập nhạc. Một vài tên của những bài hát được đặt bởi Mendelssohn. Một vài tiêu đề khác được các nhà xuất bản đặt về sau nhưng không chính xác và không thể hiện ý đồ nào của tác giả. Tập 2, Op. 30 (1833–1834). Tập 2 được đề tặng cho Elisa von Woringen. Bài hát thứ 2 được viết tặng cho người chị Fanny của ông để mừng sự ra đời đứa con trai của bà vào 1830. Tập 3, Op. 38 (1836–1837). Bài số 6 mang tựa đề "Duetto (Song ca) "bởi Mendelssohn, vì hai giai điệu thể hiện hai ca sĩ. Được sáng tác tại Frankfurt vào tháng 6 năm 1836, ngay sau khi ông gặp người vợ tương lai. Tập 3 được đề tặng cho Rosa von Woringen. Tập 4, Op. 53 (1839–1841). Tập 4 được đề tặng cho Sophia Horsley. Tập 5, Op. 62 (1842–1844). Bài số 6 "Bài hát mùa xuân" "Spring Song" đôi khi được biết ở Anh với tên "Camberwell Green", một nơi ở London mà Mendelssohn sáng tác nó khi đang ở cùng với gia đình Bennecke, họ hàng của vợ ông. Tập 5 được đề tặng cho Clara Schumann. Tập 6, Op. 67 (1843–1845). "Bài hát của người thợ dệt" "Spinnerlied" (Spinner's Song), cũng có biệt danh "Đám cưới của ong" "Bee's Wedding" vì giai điệu bận rộn đệm cho giai điệu thể hiện tiếng vù vù của những con ong. Tập 6 được đề tặng cho Sophie Rosen. Tập 7, Op. 85 (1834–1845). Tập 7 và 8 được xuất bản sau khi tác giả qua đời.
1
null
Ga Gongdeok (Tiếng Hàn: 공덕역, Hanja: 孔德驛) là ga tàu điện ngầm trung chuyển của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 5, Tàu điện ngầm Seoul tuyến 6, Đường sắt sân bay Quốc tế Incheon và Tuyến Gyeongui–Jungang ở Gongdeok-dong và Dohwa-dong, Mapo-gu, Seoul. Chợ Gongdeok nằm gần lối thoát số 4 của nhà ga nằm trong danh sách "10 thành phố có thức ăn đường phố lớn nhất châu Á" cho haemul pajeon. Bố trí ga. Đường sắt sân bay Quốc tế Incheon (B5F). Trên thực tế, có một sân ga khác ở phía sân ga hướng đến Sân bay Incheon, nhưng nó bị chặn bởi một bức tường, vì vậy nó trông giống như một sân ga đối diện. Không có đường ray phía trước sân ga này, chỉ có nền đường nơi có thể đặt đường ray. Sân ga bị chặn bởi bức tường đã được lên kế hoạch sử dụng cho các chuyến tàu khởi hành từ Yongsan.
1
null
Bombus sylvestris là một loài ong trong họ Apidae. Loài này được miêu tả khoa học đầu tiên năm 1832. Loài này được tìm thấy ở hầu hết châu Âu và Nga. Vật chủ chính của loài này là Bombus pratorum, Bombus jonellus và Bombus monticola. Bombus sylvestris đẻ trứng trong một tổ ong khác.
1
null
Bombus terrestris là một loài ong trong họ Apidae. Loài này được miêu tả khoa học đầu tiên năm 1758. "Bombus terrestris" là một trong những loài ong nghệ nhiều nhất ở châu Âu. Đây là một trong những loài chính được sử dụng trong thụ phấn nhà kính, và do đó có thể được tìm thấy ở nhiều quốc gia và khu vực không có nguồn gốc, chẳng hạn như Tasmania. Hơn nữa, nó là một loài côn trùng có tính xã hội với sự chồng chéo của các thế hệ, phân công lao động và chăm sóc cá bố mẹ hợp tác. Ong chúa chỉ giao phối với chỉ một con ong đực. Ong thợ "B. terrestris" học màu hoa và khai thác hiệu quả.
1
null
Ga Mapo (Tiếng Hàn: 마포역, Hanja: 麻浦驛) là ga tàu điện ngầm trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 5 ở Dohwa-dong, Mapo-gu, Seoul. Nó nằm gần ở cuối phía Đông Bắc của Cầu Mapo. Ga Yeouinaru được kết nối với ga này bằng Đường hầm dưới nước sông Hán.
1
null
Định nghĩa của "hành tinh", từ khi nó được nghĩ ra bởi người Hy Lạp cổ đại, đã bao gồm trong phạm vi của nó một lượng lớn các thiên thể của Hệ mặt trời. Các nhà Thiên văn học Hy Lạp đã sử dụng cụm từ "asteres planetai" (ἀστέρες πλανῆται), "những ngôi sao lang thang", cho những vật thể nào di chuyển trên bầu trời một cách rõ ràng. Trải qua nhiều thiên niên kỉ, cụm từ ấy đã bao gồm nhiều vật thể khác nhau, từ Mặt trời và Mặt Trăng cho đến vệ tinh và các thiên thạch. Vào cuối thế kỉ 19 thì từ "hành tinh", mặc dù nó vẫn chưa được định nghĩa, đã trở thành một thuật ngữ chỉ được áp dụng cho một bộ phận nhỏ các vật thể trong Hệ mặt trời. Sau năm 1992, các nhà thiên văn học đã khám phá ra được nhiều các vật thể khác nữa ở phía bên kia quỹ đạo của Sao Hải Vương và đồng thời hàng trăm những vật thể quay quanh các ngôi sao khác. Những khám phá này đã không những làm tăng số lượng các hành tinh tiềm năng, mà còn mở rộng sự đa dạng và tính đặc thù của chúng. Một số trong chúng gần đủ to để là những ngôi sao, trong khi một số khác lại nhỏ hơn Mặt Trăng của Trái Đất. Những phát hiện này thách thức những quan niệm đã có từ lâu về khái niệm một "hành tinh" có thể là gì. Vấn đề về cần một định nghĩa rõ ràng cho "hành tinh" trở nên cấp bách vào năm 2005 khi phát hiện về thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương Eris, là một thiên thể lớn hơn hành tinh nhỏ nhất lúc nó vẫn được chấp nhận là hành tinh, Pluto. Trong lần trả lời vào năm 2006, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU), được các nhà thiên văn học biết đến như là một bộ phận thế giới chịu trách nhiệm về việc giải quyết vấn đề về thuật ngữ khoa học, đã cho ra đời quyết định của nó dành cho vấn đề này. Định nghĩa này, cái mà chỉ áp dụng cho Hệ Mặt trời, định nghĩa rằng một hành tinh là một thiên thể có quỹ đạo quanh Mặt trời, vừa đủ to lớn để nó có được trọng lực riêng để thành hình cầu và nó đã dọn dẹp vùng lân cận của riêng mình nơi có các vật thể nhỏ hơn xoay quanh quỹ đạo của nó. Dưới định nghĩa mới này, Pluto và các thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương không được xem như là các hành tinh. Quyết định của IAU không giải quyết được tất cả các vấn đề gây tranh cãi và trong khi nhiều nhà khoa đã chấp nhận định nghĩa ấy, một số khác trong cộng đồng thiên văn lại phản đối nó hoàn toàn. Lịch sử. Các hành tinh trong thời kì cổ đại. Trong khi hiểu biết về các hành tinh đã có trước lịch sử và đã trở nên phổ biến với hầu hết các nền văn minh nhưng từ ngữ "hành tinh" chỉ mới xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại. Đa số người Hy Lạp tin rằng Trái Đất đứng yên và nằm ở trung tâm của vũ trụ dựa theo thuyết địa tâm và rằng các vật thể trên bầu trời và dĩ nhiên chỉ có bầu trời xoay quanh nó. (Aristarchus của Samos người đã đưa ra đã đưa ra một trong những phiên bản sớm nhất của Thuyết nhật tâm là một ngoại lệ). Các nhà Thiên văn học Hy Lạp đã sử dụng cụm từ "asteres planetai" (ἀστέρες πλανῆται), "những ngôi sao lang thang", để diễn tả các ánh sáng ngôi sao ở thiên đường di chuyển xuyên suốt năm, đối lập với "asteres aplaneis" (ἀστέρες ἀπλανεῖς) là các "định tinh", những ngôi sao không di chuyển so với vị trí tương đối với những ngôi sao khác. Những thiên thể lúc bấy giờ được gọi là "hành tinh" mà những người Hi Lạp biết tới là những thiên thể có thể nhìn thấy được bằng mắt thường: Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc, và Sao Thổ. Vũ trụ học Hy Lạp-La Mã chỉ công nhận có bảy hành tinh, tính luôn cả Mặt trời và Mặt trăng trong đó (như trong trường hợp của chiêm tinh học hiện đại); dù vậy, cũng có một số sự khó hiểu vào thời điểm đó, bởi vì có nhiều nhà thiên văn học Hi Lạp cổ đại phân loại năm hành tinh trông giống ngôi sao ra khỏi Mặt trăng và Mặt trời. Cũng vì lý do đó mà vào thế kỉ 19 thì nhà thiên nhiên học người Đức Alexander von Humboldt đã đánh dấu điều đó trong công trình của mình có tên là "Vũ trụ". Trong số bảy thiên thể trong vũ trụ, dựa theo vị trí tương đối liên tục thay đổi và khoảng cách giữa chúng với nhau, đã tách biệt những thiên thể đó ra khỏi những "vì sao tĩnh" của thiên đàng của "định tinh" từ thuở rất là xa xưa, trong số tất cả các hành tinh có hình dạng hợp lý giữ được vị trí tương đối và khoảng cách của chúng không thay đổi, chỉ có năm hành tinh—Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ—mang hình dạng của ngôi sao—"‘’cinque stellas errantes’’"—trong khi đó thì Mặt trời và Mặt Trăng với kích thước đĩa của chúng, tầm quan trọng của chúng đối với con người và vị trí mà người ta đặt cho chúng trong thần thoại thì lại bị xếp loại riêng. Trong "Timaeus" của ông, được viết vào khoảng năm 360 trước công nguyên, Plato đã nhắc tới, "Mặt trời và Mặt trăng và năm ngôi sao khác, các ngôi sao mà được gọi là hành tinh". Học trò của ông ấy Aristotle cũng đã đưa ra sự phân biệt tương tự với ông trong cuốn "Trên thiên đường" của mình: "Sự dịch chuyển của Mặt trời và Mặt trăng ít hơn sự dịch chuyển của các hành tinh khác". Trong cuốn "Phaenomena" của ông, cuốn sách đã trở thành tiền đề cho luận án của thiên văn học được viết bởi nhà triết học Eudoxus vào khoảng năm 350 trước công nguyên, nhà thơ Aratus đã miêu tả rằng "năm thiên thể đó đã hòa lẫn trong các chòm sao và với bánh xe di chuyển quanh quẩn giữa mười hai biểu tượng của Cung hoàng đạo." Trong cuốn "Almagest" được viết vào thế kỉ thứ hai, Ptolemy đã nói về "Mặt trời và Mặt trăng và năm ngôi sao khác." Hyginus đã đề cập rõ ràng đến "năm hành tinh mà nhiều người gọi là lang thang, còn người Hy Lạp gọi là Planeta." Marcus Manilius, một nhà văn người La-tinh sống vào thời của Caesar Augustus và cũng là người viết bài thơ mang tên "Astronomica" được xem như là một trong số các văn bản chính quan trọng trong ngành chiêm tinh học hiện đại, nói rằng "Bây giờ primum mobile đã được chia ra thành năm phần vì trong số đó có rất nhiều những ngôi sao được gọi là những kẻ lang thang đi ngang qua vầng sáng mạnh nhất ở thiên đường." Cách nhìn nhận duy nhất đó là bảy hành tinh được tìm thấy ở Cicero's trong cuốn "Giấc mơ của Scipio", được viết vào thời gian khoảng năm 53 trước công nguyên, nơi mà tinh thần của Scipio Africanus được tuyên bố, nói rằng "Bảy trong số các khối hình cầu chứa đựng các hành tinh, mỗi hành tinh trong mỗi khối cầu, tất cả đều di chuyển ngược lại so với chuyển động của thiên đường." Trong cuốn Lịch sử tự nhiên, được viết vào năm 77 sau công nguyên, Pliny the Elder viết rằng "bảy hành tinh do sự chuyển động của chúng mà ta gọi chúng là hành tinh, mặc dù không có ngôi sao nào lang thang ít hơn chúng." Nonnus, một nhà thơ người Hy Lạp vào thế kỉ thứ 5, đã nói trong cuốn "Dionysiaca" của ông rằng, "Tôi có lời tiên tri về lịch sử của bảy bài vị và các bài vị đó mang tên của bảy hành tinh." Các hành tinh trong thời kì Trung đại. Các nhà văn thời Trung đại và Phục hung thường là chấp nhận khái niệm về bảy hành tinh. Trong quyển sách "De Sphaera" của Sacrobosco là tiêu chuẩn khai quát về lĩnh vực thiên văn học thời kỳ trung cổ bao gồm Mặt Trời và Mặt Trăng giữa các hành tinh. Trong quyển sách chuyên môn hơn ‘’Theorica planetarum’’, nó đưa ra lý thuyết về bảy hành tinh.," Trong khi sự giới thiệu ấy trong "Bảng Alfonsine" cho thấy cách "tìm kiếm thông qua "mối quan hệ thân mật" của Mặt Trời, Mặt Trăng, và tất cả các hành tinh còn lại." Trong khi cuốn dữ liệu "Bảng Alfonsine" chỉ ra cách tính sự dịch chuyển trung bình của Mặt Trời, Mặt Trăng, và tất cả các hành tinh còn lại thông qua bảng dữ liệu." Trong cuốn "Confessio Amantis" của nhà thơ thế kỷ thứ 14 John Gower, đề cập đến mối liên hệ giữa các hành tinh với thuật giả kim, viết, "Of the planetes ben begonne/The gold is tilted to the Sonne/The Mone of Selver hath his part...", ám chỉ rằng Mặt Trời và Mặt Trăng là các hành tinh. Ngay cả Nicolaus Copernicus, người đã phản đối thuyết địa tâm, có nghi ngờ rằng liệu Mặt Trời và Mặt Trăng có thật sự là các hành tinh hay không. Trong cuốn "De Revolutionibus" của ông, Copernicus tách biệt "Mặt Trời, Mặt Trăng, Hành tinh và các ngôi sao" ra một cách rõ ràng; tuy nhiên, trong cuốn Sự cống hiến của nghiên cứu dành cho Pope Paul III, Copernicus đề cập đến, "sự vận động của Mặt Trời và Mặt Trăng...và năm hành tinh còn lại." Trái Đất. Cuối cùng, khi mô hình thuyết nhật tâm của Copernicusn được chấp nhận thay vì là thuyết địa tâm, Trái Đất được đặt giữa các hành tinh còn Mặt Trời và Mặt Trăng được phân loại lại, làm thúc đẩy cuộc cách mạng khái niệm trong sự hiểu biết về các hành tinh. Như nhà sử gia về khoa học Thomas Kuhn đã lưu ý đến trong cuốn sách của ông, "The Structure of Scientific Revolutions": Những người theo Copernicus đã tước bỏ Mặt Trời danh hiệu hành tinh… đang thay đổi định nghĩa của 'hành tinh' để nó có thể tiếp tục tạo ra những nét riêng biệt có ích trong một thế giới mà tất cả các thiên thể … đều được nhìn thấy một cách khác nhau so với cách mà chúng đã được nhìn thấy trước đó… Khi nhìn Mặt Trăng, những người theo thuyết Copernicus… nói rằng, 'Tôi đã từng lầm tưởng rằng Mặt Trăng là một hành tinh.' Copernicus gián tiếp đề cập đến Trái Đất như một hành tinh trong cuốn "De Revolutionibus" khi ông ấy nói rằng, "Sự di chuyển của Trái Đất đã được tôi phát hiện sau một thời gian nghiên cứu lâu dài, cuối cùng tôi nhận thấy là sự vận động của các hành tinh còn lại có liên quan đến quỹ đạo của Trái Đất..." Galileo cũng khẳng định rằng Trái Đất là một hành tinh trong cuốn "Cuộc hội thoại liên quan đến Hai hệ thống Thế giới chính": "[T]rái Đất, không thua kém gì hơn Mặt Trăng hay các hành tinh khác, nên được xếp vào giữa các thiên thể tự nhiên có chuyển động hình tròn."
1
null
Quán cà phê hoàng tử (; là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc 2007 với sự tham gia của diễn viên Yoon Eun-hye, Gong Yoo, Lee Sun-kyun và Chae Jung-an. Dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Lee Sun-mi, phim được chiếu trên MBC từ 2 tháng 7 đến 28 tháng 8 năm 2007 vào mỗi thứ 2&3 lúc 21:55 gồm 17 tập. Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Đánh giá tập. Nguồn: TNS Media Korea Làm lại. Năm 2012,một kênh truyền hình ở Thái Lan và Philippines làm lại,
1
null
Quần tụ thiên hà IRC 0218 còn được gọi là XMM-LSS J02182-05102) chứa các thiên hà xa nhất thấu kính hấp dẫn mạnh mẽ hiện đang được biết đến ở dịch chuyển đỏ z = 1,62. Thấu kính này là một trong hai quần tụ thiên hà sáng nhất và thấu kính một thiên hà nền hình thành sao ở dịch chuyển đỏ z = 2,26 thành một vòng cung tươi sáng. Quần tụ thiên hà hình ê líp có khối lượng gấp 180 tỉ lần Mặt trời, và nằm ở khoảng cách xa nhất Trái đất từ trước đến nay. Thấu kính này được phát hiện thông qua một sự kết hợp chụp ảnh và quang phổ của Kính viễn vọng Hubble và kính viễn vọng Keck. Việc phát hiện và phân tích tiếp theo của thấu kính đã được công bố. Thấu kính này do nhà khoa học Kim-Vy Tran của Đại học A&M Texas dẫn đầu thực hiện, sử dụng kính viễn vọng Hubble của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) cùng với Viện nghiên cứu Trung ương của Đài Loan.
1
null
Trong công nghiệp xuất bản, một ấn hiệu có thể mang nhiều nghĩa: Ví dụ về ấn hiệu/thương hiệu xuất bản. Dưới đây là một vài ví dụ về những ấn hiệu (trong ý nghĩa là một tên thương hiệu), được sắp xếp theo thứ tự chữ cái trong tên của công ty xuất bản. Nó cho thấy sự đa dạng của ấn hiệu và chúng được sử dụng rộng rãi như thế nào trong công nghiệp xuất bản. Danh sách này chỉ nhằm mục đích ví dụ, không phải là một danh sách đầy đủ, vì vậy nó chỉ trình bày một ít ấn hiệu của nhà xuất bản được nêu tên ngẫu nhiên.
1
null
Bà xã tôi đâu () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc 2006 được chiếu trên SBS từ 12 tháng 7 đến 31 tháng 8 năm 2006 vào mỗi thứ 4&5 lúc 21:55 gồm 16 tập với sự tham gia của diễn viên Shim Hye-jin và Park Jin-hee Tại Việt Nam, phim được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Làm lại. Nga đã làm lại phim với tên ("In the Wrong Skin") chiếu trên Channel One từ 29 tháng 8 đến 15 tháng 9 năm 2011 gồm 12 tập. Indonesia cũng đã làm lại phim với tên "Pacarku bukan istriku".
1
null
Chlemoutsi (tiếng Hy Lạp: Χλεμούτσι hoặc Χλουμούτσι) là một lâu đài thời trung cổ ở phía tây bắc của đơn vị khu vực Elis trong bán đảo Peloponnese ở miền nam Hy Lạp, trong khu tự quản Kastro-Kyllini. Lâu đài được xây dựng trong đầu những năm 1220 bởi các nhà lãnh đạo Thập tự chinh của Công quốc Achaea làm thành trì chính của họ, và có lẽ là pháo đài đẹp nhất của giai đoạn đầu của thời kỳ cai trị Frank ở Hy Lạp. Lâu đài nằm trên một cao nguyên nhỏ 226 mét (741 ft) trên mực nước biển, và bao gồm một trung tâm tháp phòng ngự hình lục giác, xây dựng xung quanh một sân bên trong và chứa hội trường hai tầng dọc theo toàn bộ chiều dài của nó.
1
null
Vương quốc Sophene () là một vương quốc Armenia cổ đại. Được thành lập vào khoảng thế kỷ 3 TCN vương quốc vẫn duy trì nền độc lập cho đến khoảng năm 90 TCN khi Tigranes Đại đế chinh phục các vùng lãnh thổ thành một phần đế chế của mình. Một nhánh của vương quốc này là Vương quốc Commagene được hình thành khi nhà Seleukos tách Commagene từ Sophene. Nguồn gốc. Sophene là một phần của vương quốc Urartu vào thế kỷ thứ 7-8 TCN. Sau khi thống nhất khu vực với vương quốc của mình trong những năm đầu thế kỷ thứ 8 TCN, vua Argishti I của Urartu tái định cư rất nhiều cư dân Sophene đến thành phố mới xây của ông Erebuni. Sophene sau đó trở thành một tỉnh của Vương quốc Armenia cổ triều Orontes khoảng năm 600 TCN. Sau các chiến dịch của Alexandros Đại đế vào những năm 330 TCN và sự sụp đổ tiếp theo của Đế quốc Achaemenes, Sophene đã trở thành một trong những khu vực đầu tiên của Armenia được tiếp xúc với ảnh hưởng của Hy Lạp và thông qua một số khía cạnh của nền văn hóa Hy Lạp. Sophene vẫn là một phần của vương quốc Đại Armenia mới độc lập. Khoảng thế kỷ thứ 3 TCN đế chế Seleukos đã buộc Sophene phải tách ra từ Đại Armenia dẫn đến sự xuất hiện của Vương quốc Sophene. Vương quốc nằm dưới sự cai trị của một nhánh nhà Orontes thuộc hoàng gia Armenia. Thủ đô của vương quốc là Carcathiocerta, được xác định là tại thị trấn nay đã bỏ hoang Egil trên sông Tigris phía bắc Diyarbakir. Tuy nhiên, khu định cư lớn nhất và thành phố thực sự duy nhất là Arsamosata, nằm ​​xa hơn về phía bắc. Arsamosata được thành lập vào thế kỷ thứ 3 TCN và sống sót trong tình trạng bị co cụm lại mãi cho đến tận đầu thế kỷ 13. Mặc dù những người thống trị của vương quốc này đều là người Armenia, các sắc tộc của vương quốc đã có sự pha trộn, gồm dân cư gốc Armenia và dân gốc Semite vốn xâm nhập từ miền Nam mà tình cảnh này vẫn còn tồn tại đến tận thời Thập Tự Chinh.
1
null
, là một thuật ngữ tiếng Nhật cho một mốt "otaku" tự trang trí các bộ phận xe ô tô của họ bằng hình ảnh các nhân vật hư cấu trong anime, manga hay video game (đặc biệt là bishōjo game hay visual novel, bao gồm eroge). Những nhân vật này chủ yếu là các cô gái "moe". Cách thức trang trí có thể là sơn hoặc dán. Các xe bốn bánh được gọi là itasha, trong khi các xe máy và xe đạp tương tự được gọi lần lượt là và . Loại xe này thường bắt gặp và gây chú ý mạnh ở Akihabara (Tokyo), Nipponbashi (Osaka), hay Ōsu (Nagoya). Từ nguyên. Trong thập niên 1980, khi Nhật Bản đã phát triển thành một siêu cường kinh tế, đường sá ở Tokyo luôn tấp nập bởi những chiếc xe nhập khẩu cao cấp. Trong số chúng, "itasha"—từ lóng nguyên thủy trong tiếng Nhật để chỉ loại xe nhập khẩu từ Ý ("Italia")—được ưa chuộng nhất. Tuy nhiên, trong thập niên 1990, thuật ngữ "itai" ra đời để ám chỉ một cách gay gắt, khinh miệt về thuật ngữ "otaku" vốn bị ảnh hưởng tiêu cực do tội phạm giết người hàng loạt Miyazaki Tsutomu gây ra. Kể từ đó, "itasha" (lúc này nghĩa là xe có trang trí) được bắt nguồn từ sự kết hợp giữa hai từ tiếng Nhật là và . "Itai" với nghĩa "đau đớn" lúc bấy giờ có thể được hiểu là sự "đau đớn xấu hổ" hay "đau đớn chi tiêu" do các phí tổn to lớn liên quan. Cái tên này cũng là một sự chơi chữ của , được đọc gọn thành từ lóng tiếng Nhật . Lịch sử. Việc trang trí xe như vậy đã bắt đầu từ những năm 1980 qua việc trưng bày các nhân vật làm bằng vải bông và dán hình, nhưng chỉ trở thành một hiện tượng lúc bước vào thế kỷ 21, khi nền văn hóa otaku trở nên nổi tiếng qua Internet. Ghi nhận sớm nhất về những chiếc itasha thật thụ là trong một sự kiện vào tháng 8 năm 2005 - Comiket 68. Sự kiện. Năm 2007, , một sự kiện tập trung vào itasha, được tổ chức lần đầu tiên ở Ariake, gần địa điểm diễn ra Comiket. Kể từ đó hiện tượng tiểu văn hóa này đã phát triển và cho phép mọi người thể hiện bản thân và khoe tay nghề trang trí của họ với bạn bè cùng sở thích hay các đối thủ so tài. Lấn sang thể loại xe thể thao. Ngày nay, sự góp mặt của itasha trong các sự kiện xe đua thực sự trở thành một trong những dấu ấn độc đáo của ngành công nghiệp xe thể thao Nhật Bản. Xe đua theo kiểu itasha có thể được nhìn thấy trong các cuộc đua câu lạc bộ cấp khu vực đến các đường đua đẳng cấp quốc tế (bao gồm cả trong những sự kiện của FIA). Những tay đua cũng không hoàn toàn nghiệp dư, nhiều đội tuyển chuyên nghiệp đã không ngần ngại biến xe của họ thành itasha. Việc này không chỉ đóng vai trò là một phương thức phô bày nhãn quảng cáo của nhà tài trợ (nếu nhân vật hoặc thiết kế được cung cấp bởi các nhà tài trợ), nó được xem là một trong nhiều cách để mở rộng lượng người hâm mộ của đội tuyển hoặc quảng bá các sự kiện mà họ tham gia. Goodsmile Racing đã triển khai một dòng itasha theo chủ đề Hatsune Miku với các loại xe Autobacs Super GT từ năm 2010. Ngoài itasha, sự góp mặt của nhiều loại xe hai bánh hay cả xe đua bánh lớn kiểu itasha cũng được nhìn thấy trong các sự kiện thể thao. Phong trào quốc tế. Các loại xe được trang trí tương tự cũng được nhìn thấy ở Đài Loan, Philippines, Malaysia, Hoa Kỳ, Brasil, và Indonesia. Itasha thuộc sở hữu của bên giữ bản quyền nhân vật. Giám đốc điều hành Yoshida Hirohiko của ACID Co., Ltd. (hãng phát triển game âge) được ghi nhận là đang sở hữu những chiếc Lamborghini Gallardo Lancia Stratos, BMW M5 chủ đề "Muv-Luv". Các xe này đã góp mặt trong sự kiện âge×Nitro+ năm 2008 ở Akibahara UDX Gallery. Một chiếc Suzuki Wagon R theo chủ đề "Macross Frontier" được công bố chính thức trong "Macross Galaxy Tour Final". Sau đó nó được tái thiết kế cho buổi lễ "Macross Super-Dimensional Space Launch". Itasha thuộc sở hữu của nhà sản xuất xe. Trong "Nagoya Auto Trend" năm 2009, những chiếc Chevrolet Corvette chủ đề "Phantom of Inferno", MINI Cooper chủ đề Melonbooks và Toyota Estima chủ đề "Chaos;Head Noah" đã được góp mặt.
1
null
Cầu vồng hoàng kim () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc 2013 với sự tham gia của diễn viên Uee, Jung Il-woo, Cha Ye-ryun và Lee Jae-yoon. Phim được chiếu trên MBC từ 2 tháng 11 năm 2013 đến 30 tháng 3 năm 2014 vào mỗi thứ 7&chủ nhật lúc 21:55 gồm 41 tập. Tại Việt Nam, phim được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Nội dung. Bộ phim kể về câu chuyện của một gia đinh có sáu người con.Điều đặc biệt ở đây là cả sáu đứa trẻ đều được ông Kim Han Joo nhận nuôi.Ông từng vì người phụ nữ mình yêu,bà Yoon Joung Hae mà phải ngồi tù nhiều lần.Ông Han Joo,ông Jin Ki sau này là phó chủ tịch tập đoàn thủy sản Hoàng Kim và ông Ok Jo,cả ba đều sống trong trại trẻ mồ côi từ nhỏ.Ông Jin Ki có rất nhiều tham vọng,ông đã từ bỏ vợ con của mình để làm rể tập đoàn thủy sản Hoàng Kim.Ông lập ra âm mưu lật đổ bà chủ tịch Kang Jun Sin để mình ngồi lên vị trí đó.Bà Young Hae từng là con dâu của bà Kang.Vì cho rằng bà chủ tịch Kang đã hại chết con mình nên bà Young Hae đã lấy trộm 3 triệu đô để lập ra âm mưu lập đổ kẻ thù giết con.Hai người đã hợp tác tổ chức việc buôn lậu vàng trong đó có sự tham gia của Kim Man Won (con trai ông Han Joo),Ông Han Joo vì muốn cứu con nên đã đến nhà kho nơi chứa hàng lậu. Ông châm lửa đốt chúng để phá hủy chứng cứ. Nào ngờ cậu con trai 8 tuổi của ông đang nấp trong đó,lúc ông biết được thì đã quá muộn, thằng bé qua đời vì viêm phổi nặng. Ông Han Joo bị cảnh sát bắt vì tội buôn lậu mà không kịp nhìn mặt con lần cuối.Trước toà,ông đã nhận hết tội về mình để không phải liên lụy đến ai nhất là bà Young Hae, người ông luôn yêu.Một lần nữa, ông Han Joo lại ngồi tù vì bà Young Hae. Trên đường chạy trốn lên Seun vì sợ bị đưa vào trại trẻ mồ côi,anh em Man Won lạc mất đứa em út Kim Young Won. Đến thủ đô Seun,Kim Man Won đã bỏ học để trở thành xã hội đen kiếm tiền nuôi em.Sau mỗi lần làm việc tại các quán Bar kể cả việc đi đánh nhau đòi nợ, Kim Man Won lại trở về với bộ dạng một người đánh cá hiền lành,lừa dối các em. Biết cha mình bị oan,cô con gái nhì của ông,Kim Beak Won trở thành cảnh sát để tìm cách minh oan cho cha và tìm ra tung tích đứa em bị lạc năm xưa.Con trai ông Jin Ki trở thành công tố viên cùng Beak Won tìm ra sự thật việc cha mình phạm tội.Bà Young Hae nhận đứa con của ông Han Joo làm con,đặt tên là Yoon Ha Bin tức tên đứa con đã mất của mình. Yoon Ha Bin là từng là con của một tên nghiện rượu, tuổi thơ cô toàn những cái đánh đập toàn nhẫn từ người cha ruột. Để thoát khỏi sự đau khổ, cô đã đến đồn cảnh sát tố cáo ông tội cướp của giết người và ông phải nhận án tù chung thân.Sau khi trở thành con gái bà Young Hae,Yoon Ha Bin được đi du học và là một luật sư tài giỏi. Cô đã cùng bà Young Hae lập mưu chiếm đoạt tài sản của"Gấu Trắng" Katanabe Wataru để lật đổ bà chủ tịch Kang.Nhưng rồi vì sự tham lam, sự ham muốn thoát khỏi số phận đau khổ năm xưa. Ha Bin đã mặt sự ngăn cản của mẹ, giả vờ mình là con ruột bà Young Hae tức cháu nội bà Kang để cuộc đời mình được thay đổi. Cô còn tranh giành tình yêu với Baek Won, cậu Do Young(con trai ông Jin Ki)Sau này,sự thật được hé lộ, Kim Baek Won chính là con gái ruột của bà Young Hae, là cháu gái của tập đoàn thủy sản Hoàng Kim.Ông Han Joo là người đầu tiên biết sự thật đó, nên ông Jin Ki đã giết chết ông để sự thật mãi bị chôn vùi sau đó tạo dựng một vụ tai nạn giao thông do xe mất thắng.Bà Kang mắc bệnh mất trí nhớ.Lợi dụng điều đó,ông Jin Ki đã đưa bà Kang vào viện dưỡng lão và ngồi lên ghế chủ tịch.Không còn cách nào để tố giác tội ác của cha, cậu Do Young quyết định bỏ nghề Công tố viên vào làm việc cho tập đoàn Hoàng Kim.Một mặt giúp cha bảo vệ ghế chủ tịch, một mặt âm thầm giúp Baek Won tố cáo cha.Bên cạnh đó,bà Young Hae,Ha Bin giả,bà Kang đều cùng nhau lật đổ ông Ji Ki,bắt ông phải trả giá vì tất cả tội lỗi đã gây ra.. Phân vai. Nhân vật phụ. Phân vai khác
1
null
Phạm Văn Đổng (1919-2008) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Quân đội Pháp mở ra ở vùng Đông bắc Bắc Kỳ (nơi có nhiều sắc dân thiểu số) với mục đích đào tạo người Việt trở thành sĩ quan để phục vụ trong Quân đội Thuộc địa. Mặc dù nguyên lai binh nghiệp của ông là Bộ binh. Tuy nhiên, trong thời gian tại ngũ ông cũng được đảm nhiệm những chức vụ ở các lĩnh vực khác nhau. Ông cũng là một chính khách, từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Cựu chiến binh trong Nội các của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm (1969-1974). Tiểu sử và Binh nghiệp. Ông sinh ngày 25 tháng 10 năm 1919 trong một gia đình trung nông tại Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Nguyên quán của ông ở làng Xuân Đỗ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh "(nay thuộc Tp Hà Nội)". Thời niên thiếu, ông theo học ở trường Trung học Đỗ Hữu Vị theo chương trình Pháp tại Hà Nội. Năm 1938, ông tốt nghiệp với văn bằng Thành chung "(Diplôme d'Études Primaires Supérieures Indochinoises - DEPSI)". Quân đội Thuộc địa Pháp. Năm 1940, ông nhập ngũ vào Quân đội thuộc địa Pháp tại Đông Dương. Một năm sau, ông được cử đi học sĩ quan tại trường Võ bị Móng Cái, tốt nghiệp năm 1942 với cấp bậc Chuẩn úy và được điều đi phục vụ trong Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa thứ 19 "(II/19e RMIC)". Đầu năm 1944, ông được thăng cấp Thiếu úy, chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Móng Cái. Thời gian phục vụ tại đây, ông có những quan hệ tốt với những người Nùng bản địa tại đây, một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đường binh nghiệp của ông sau này. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Quân đội Nhật đảo chính trên toàn cõi Đông Dương. Đơn vị của ông bị quân Nhật tập kích tại Hà Cối. Trung tá Charles Lecocq, chỉ huy Trung đoàn bị tử trận. Nhiều sĩ quan và binh lính Pháp bị quân Nhật giết chết. Ông cùng phần còn lại của Trung đoàn đã tìm cách đào thoát sang Quảng Tây, Trung Hoa và gia nhập vào đạo quân của tướng Pháp Marcel Alessandri đã đào thoát sang đây. Mặc dù bị quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng giải giới, tướng Alessandri vẫn hợp tác với chính quyền Trung Hoa Dân quốc để tiếp tục cuộc chiến chống lại quân đội Nhật Bản và tìm cách trở lại Đông Dương. Ông được giao nhiệm vụ bí mật liên hệ với một số nhà cách mạng Quốc dân đảng Việt Nam lưu vong, mà phần lớn họ trở thành những người bạn tốt và là những người ủng hộ mạnh mẽ trong suốt sự nghiệp của ông sau này. Cuối năm 1945, ông đi theo các đội vũ trang của Quốc dân đảng trở lại Việt Nam, hoạt động tại vùng Vạn Hoa. Quân đội Liên hiệp Pháp. Năm 1946, ông được chuyển vào Nam Việt Nam, hoạt động tình báo chủ yếu ở vùng Gò Công, Long Thành và Thành Tuy Hạ. Năm 1947, ông được thăng cấp Trung úy và được chuyển trở lại miền Bắc, phục vụ với tư cách là một sĩ quan tổ chức mạng lưới tình báo của Sở Nghiên cứu "(Directeur des Études)" trực thuộc Thủ hiến Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện, trực tiếp dưới quyền phó Sở là Đại úy Trần Văn Minh. Năm 1949, ông được cử làm Trưởng ban 2 trong Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Việt Nam "(2e BVN)" vừa mới thành lập tại Thái Bình "(sau chuyển về Vĩnh Yên)". Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, ông được thăng cấp Đại úy. Sau thắng lợi của Quân đội Liên hiệp Pháp trước quân đối phương tại mặt trận Vĩnh Yên, ông được bổ nhiệm chức Chỉ huy trưởng Phân khu Nam đóng tại Nam Định. Ngày 8 tháng 12 năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam chính thức thành lập, ông được chuyển sang phục vụ cơ cấu mới này. Đầu năm 1952, ông được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 55 Việt Nam "(55e BVN)". Cuối tháng 10 cùng năm, đơn vị ông được điều động lên Tây Bắc đóng quân tại Yên Châu. Tuy nhiên, trước sức tấn công áp đảo của đối phương, đơn vị ông bị thiệt hại nặng, phải rút về căn cứ Nà Sản để bổ sung. Đêm 30 tháng 11 rạng ngày 1 tháng 12 cuối năm này, quân đối phương ồ ạt tấn công cứ điểm Nà Sản. Tuy nhiên, quân Liên hiệp Pháp dưới sự chỉ huy của Đại tá Jean Gilles kháng cự mạnh mẽ. Ông đã nhiều lần yêu cầu Pháo binh chi viện, đánh thiệt hại nặng chiến thuật "biển người" của đối phương. Không hoàn thành được mục tiêu, quân đối phương rút lui khỏi Nà Sản không trở lại nữa. Với chiến tích này, ông được thăng cấp Thiếu tá làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Việt Nam Sau đó ông được giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Liên đoàn Lưu động số 2 "(2e Groupe Mobile - 2e GM)", hoạt động chủ yếu ở vùng Ninh Bình. Ngày 1 tháng 9 năm 1953, ông được thăng cấp Trung tá, Chỉ huy trưởng Phân khu Bùi Chu kiêm Chỉ huy trưởng Liên Tiểu đoàn Khinh quân và Liên đội Trọng pháo Bắc Việt. Mặc dù là một tín đồ Phật giáo, ông rất được lòng các Giám mục, Linh mục tại vùng có nhiều giáo dân Công giáo này. Tháng 5 năm 1954, ông được cử sang Đại Hàn Dân quốc để tham dự một khóa huấn luyện quân sự đặc biệt. Sau 3 tháng hoàn tất khóa huấn luyện về nước, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quảng Yên, tổ chức di chuyển toàn Trung tâm gồm cán bộ và học viên vào Nam. Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ông được đánh giá là một người "chưa bao giờ ủng hộ ông Diệm nhưng cũng khôn ngoan chưa bao giờ tỏ ra chống đối chính phủ", vì vậy ông đứng ngoài các âm mưu binh biến của tướng Nguyễn Văn Hinh nhằm lật đổ Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Cuối tháng 3 năm 1955, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phân khu Duyên hải Nha Trang. Cuối tháng 10 cùng năm, Chính thể Đệ nhất Cộng hòa ra đời, ông được thăng cấp Đại tá thay thế Đại tá Vòng A Sáng chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 3 Dã chiến (tiền thân của Sư đoàn 5 Bộ binh), một đơn vị có nhiều quân nhân gốc Nùng, trước đây hoạt động ở vùng Đông bắc Bắc Kỳ là vùng hoạt động của ông từ trước năm 1945. Mặc dù từ chối đưa các sĩ quan Cần Lao nắm các chức vụ trọng yếu trong đơn vị, ông vẫn thực hiện chỉ đạo của Tổng thống Diệm phân tán các đơn vị gốc Nùng để tránh nạn kiêu binh. Trung tuần tháng 3 năm 1958, ông được điều về làm Chỉ huy trưởng Đặc khu Hải Yến sau khi bàn giao Sư đoàn 3 Dã chiến lại cho Trung tá Nguyễn Quang Thông. Tháng 7 cùng năm, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth thuộc Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ "(Khóa học (Regular Courses) 1958-1959, thời gian thụ huấn 42 tuần)". Giữa năm 1959, mãn khóa về nước làm phó Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật. Với uy tín và quan hệ cá nhân, ông giành được tôn trọng của các cộng sự và thuộc cấp. Với khả năng Anh ngữ tự học, ông có những mối quan hệ tốt với các phóng viên Mỹ như Neil Sheehan, David Halberstam, Malcolm Browne, François Sully, Robert Shaplen, Peter Arnett, hay Beverly Deep]. Thậm chí, từng có nhiều cố vấn Mỹ có ấn tượng tốt với ông, đã vận động để ông được thăng cấp tướng. Tuy nhiên, trái với kỳ vọng của họ. Tháng 8 năm 1961, Tổng thống Diệm đã chuyển ông sang giữ chức vụ Thanh tra Chương trình Ấp chiến lược tại Vùng 3 Chiến thuật, một chức vụ chỉ có hư danh. Đảo chính rồi tham chính. Khi Biến cố Phật giáo 1963 nổ ra, Tổng thống Diệm đã nghi ngờ một số sĩ quan cao cấp đang âm mưu chống lại ông, trong đó có cả ông. Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 cuối cùng cũng xảy ra và ông thực sự là một trong số những sĩ quan cao cấp đứng đầu cuộc đảo chính. Tuy nhiên, ngay khi đảo chính thành công, ông chỉ được điều về giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có. Không đầy một tháng sau, ngày 2 tháng 12, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 7 lại cho Thiếu tướng Lâm Văn Phát, sau đó bị đưa đi làm Tùy viên Quân sự cạnh Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Đài Loan (Trung Hoa Quốc gia). Đầu tháng 2 năm 1964, sau khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc "Chỉnh lý" để lên nắm quyền và loại trừ các tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim và Mai Hữu Xuân, ông mới được triệu hồi về nước giữ chức Phụ tá cho Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ngày 29 tháng 5 năm 1964, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Đến ngày 21 tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tướng. Ngày 27 tháng 11 cuối năm, ông được bổ nhiệm làm Tổng trấn Sài Gòn-Gia Định, kiêm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Trên vai trò này, được sự ủng hộ của Thủ tướng Trần Văn Hương, ông thực hiện thành công việc giữ gìn an ninh trước các phản kháng cực đoan của dân chúng đối với tướng Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến sự nghi ngại của tướng Khánh đối với ông, nhất là khi có thông tin xem ông như là một ứng viên sáng giá để thay thế tướng Khánh trên vai trò Quốc trưởng. Tháng Giêng năm 1965, tướng Khánh bãi chức Thủ tướng Hương, đồng thời dự định đẩy ông đi làm Tư lệnh Quân đoàn II, nhằm tách ông xa rời Trung tâm quyền lực và không còn ảnh hưởng gì đến chính trị. Tuy nhiên, chưa đến 1 tháng sau, đến phiên tướng Khánh bị nhóm tướng trẻ nổi lên truất quyền, phải lưu vong đến tận cuối đời. Ngày 3 tháng 3 năm 1965, Hội đồng Quân lực nhóm họp và ông được bầu làm Ủy viên An ninh Ủy ban Thường vụ Hội đồng Quân lực sau khi bàn giao chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô lại cho Thiếu tướng Cao Văn Viên. Chính trường Việt Nam Cộng hòa tiếp tục rối loạn. Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Hội đồng Quân lực tuyên bố tự giải tán (phiên họp này ông không có mặt). Ngày 11 tháng 6, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu tuyên bố từ chức và trao lại quyền cho quân đội. Nhóm tướng trẻ thành lập Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch (giữ vai trò Quốc trưởng), "thay mặt toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa điều khiển Quốc gia", và Ủy ban Hành pháp Trung ương do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch (giữ vai trò Thủ tướng, "phụ trách điều khiển Hành pháp") Ngày 5 tháng 8 năm 1965, ông nhận được quyết định giải ngũ với lý do đã trên 20 năm phục vụ quân đội. Tham chính. Mặc dù không còn ở trong quân đội, ông vẫn tiếp tục giữ mối quan hệ tốt với bạn hữu cũ. Tháng 9 năm 1969, Chính phủ Trần Thiện Khiêm được thành lập. Ông được cử giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Cựu Chiến binh trong Nội các Chính phủ do Đại tướng Trần Thiện Khiêm làm Thủ tướng. Trong thời gian giữ cương vị này từ năm 1969 đến năm 1974, ông đã hoạt động tích cực. Tháng 2 năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vận dụng Quốc hội tu chính hiến pháp cho phép bản thân Tổng thống được ứng cử nhiệm kỳ thứ ba. Trong bối cảnh này, ông bị xem như một mối đe dọa chính trị, nên Tổng thống Thiệu buộc tội ông có liên quan đến một vụ chứa bạc lậu để bãi nhiệm ông và bắt giam mà không đưa ra xét xử mãi cho đến tháng 7 năm 1974, ông mới được thả. 1975 và Cuộc sống lưu vong. Sau khi ra tù, ông tích cực vận động và hỗ trợ cho các tướng lĩnh và chính khách đối lập chống đối Tổng thống Thiệu. Tuy nhiên, hình thái chiến cuộc đầu năm 1975 đã làm sụp đổ tất cả nỗ lực của ông để trở lại với quyền lực chính trị. Cuối tháng 4 năm 1975, ông cùng gia đình rời khỏi Việt Nam trên một chiếc C.130 của Không lực Hoa Kỳ để đến đảo Guam, và sau đó sang Hoa Kỳ định cư với tính cách tị nạn chính trị. Ban đầu gia đình ông cư ngụ tại Arlington County, Virginia. Ông thỉnh thoảng phục vụ như là một thông dịch viên trên các dự án đặc biệt cho Bộ Quốc phòng trước khi nghỉ hưu vào năm 1982 để chăm sóc vợ của ông bị một cơn đột quỵ. Năm 1996, gia đình ông di chuyển đến định cư tại Thành phố Philadelphia, Tiểu bang Pennsylvania. Ngày 26 tháng 11 năm 2008 tại nơi định cư. Hưởng thọ 89 tuổi. Huy chương. -Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng<br>-Được tặng thưởng nhiều huy chương Quân sự và Dân sự. Gia đình và đời tư. Thời trẻ, ông thường làm thơ gửi báo với bút danh "Nùng Khánh Lâm".<br>Năm 1944, ông lập gia đình với bà Lê Thị Lý, người dân tộc Nùng.<br>-Ông bà có với nhau 5 người con (2 trai, 3 gái):<br>Phạm Lê Hùng, Phạm Lê Bích Hà, Phạm Lê Hiệp, Phạm Lê Hích Hằng, Phạm Lê Bích Hải. Năm 1992, bà Lý qua đời ở Hoa Kỳ. Năm 1994, ông tái hôn với bà Trịnh Mỹ Lan "(Bà Lan có ba người con riêng)".
1
null
Đây là một danh sách liệt kê các công ty Internet lớn nhất trên thế giới dựa trên doanh thu và giá trị vốn hóa thị trường. Danh sách này chỉ tính các công ty chấm-com, được định nghĩa là một công ty thực hiện đa số thương vụ trên Internet, với doanh thu vượt trên 1 tỷ USD, không tính các nhà cung cấp dịch vụ Internet hay các công ty công nghệ thông tin khác. Để xem danh sách tổng quát hơn về các công ty IT, xem danh sách các công ty công nghệ lớn nhất.
1
null
Chính phủ Việt Nam giai đoạn 1975-1976 còn được gọi là Chính phủ Quốc hội khóa V. Thành viên Hội đồng Chính phủ được Quốc hội khóa V phê chuẩn thông qua. Chính phủ Quốc hội khóa V được xem là Chính phủ có thời gian tồn tại ngắn nhất, do sau khi hoàn thành thống nhất đất nước chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam muốn thống nhất cả mặt trận chính trị nên kết thúc sớm nhiệm kỳ. Thành lập. Căn cứ vào Điều 46 Hiến pháp năm 1959 và quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 6/5/1975, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa V được triệu tập họp từ ngày 3 đến 6/6/1975 tại Hà Nội. Dự kỳ họp có 402 trong tổng số 424 đại biểu. Quốc hội đã bầu lãnh đạo đứng đầu các cơ quan cao nhất của Nhà nước, cử các thành viên của Hội đồng Quốc phòng, Hội đồng Chính phủ và các Ủy ban của Quốc hội.
1
null
Marcel Pagnol (; 28.2.1895 – 18.4.1974) là nhà văn, nhà viết kịch và nhà làm phim người Pháp. Năm 1946, ông trở thành nhà làm phim đầu tiên được bầu vào Viện hàn lâm Pháp. Pagnol thường được coi là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của Pháp trong thế kỷ 20, vì ông rất xuất sắc trong hầu hết các thể loại - hồi ký, tiểu thuyết, kịch và phim. Cuộc đời và Sự nghiệp. Thời niên thiếu. Pagnol sinh ngày 28.2.1895 tại Aubagne, tỉnh Bouches-du-Rhône, miền nam Pháp gần Marseille, là con thứ hai của giáo viên Joseph Pagnol và cô thợ may Augustine Pauline Henriette La Brochette Lansot. Marcel Pagnol có một anh trai là Maurice (sinh ngày 2.4.1894 nhưng chết yểu (18.8.1894) và 3 người em Paul (sinh năm 1898), Germaine (sinh năm 1902) và René (sinh năm 1909). Năm 2003, ngôi nhà nơi Pagnol sinh ra đã được tổ chức lại thành nhà bảo tàng tưởng niệm ông Năm 1897, Gia đình Marcel dọn vào cư ngụ trong ngôi nhà dành cho giáo viên ở trường Saint-Loup, Marseille. Khi bà mẹ đi chợ thì Marcel – lúc đó 3 tuổi - được đưa vào ngồi trong lớp cha dạy học, và một hôm cha mẹ cậu ngạc nhiên thấy cậu đọc được chữ; tuy nhiên bà mẹ đã không cho cậu đi học sớm, mà chờ đủ tuổi mới cho cậu đến trường. Năm 1905, khi học hết bậc tiểu học Marcel được một học bổng để vào học bán trú trong "Trường trung học Thiers" (Marseille). Tại đây Marcel bắt đầu làm thơ và năm 1910 đã đăng thơ trên tạp chí "Massilia". Ngày 16.6.1910 bà Augustine qua đời ở tuổi 36, vì bị viêm phổi - người mẹ mà Marcel rất yêu thương. Ngày 30.7.1912 ông Joseph Pagnol tái kết hôn với Madeleine Julien - một góa phụ chỉ lớn hơn Marcel 8 tuổi mà ông đã mướn trông coi việc nội trợ sau khi bà vợ qua đời. Năm 1913, khi 18 tuổi, Marcel đậu bằng tú tài triết học và bắt đầu học khoa văn ở Đại học Aix-en-Provence. Ngày 10.2.1914 – cùng với vài người bạn ở lớp dự bị đại học – Marcel đã lập ra tạp chí văn học "Fortunio" (sau đổi tên là "Les Cahiers du Sud"), trong đó Marcel đã đăng một số bài thơ và tiểu thuyết đầu tay của mình "Le Mariage de Peluque". Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Marcel được động viên, phục vụ trong "Trung đoàn bộ binh 163" ở Nice, tới tháng 1 năm 1915 thì được giải ngũ vì thể tạng yếu. Tháng 11 năm 1916, Marcel đậu bằng "cử nhân văn chương và sinh ngữ (tiếng Anh)". Được bổ nhiệm làm giáo viên phụ đạo môn tiếng Anh, Marcel đã dạy liên tục ở các trường trung học Digne-les-Bains, Tarascon, Pamiers sur Ariège và Aix-en-Provence; sau đó được thăng chức giáo viên phụ tá ở trường trung học phổ thông lycée Saint-Charles tại Marseille từ năm 1920 tới năm 1922. Trong thời gian này Marcel đã viết vở kịch thơ "Catulle" - rồi cộng tác với Arno-Charles Brun - viết tiếp vở kịch thơ "Ulysse chez les Phéaciens". Thời gian ở Paris. Năm 1922 Marcel được bổ nhiệm làm giáo viên phụ tá, dạy tiếng Anh ở trường trung học lycée Condorcet, Paris, tới năm 1927, sau đó xin nghỉ dạy học để hoạt động văn hóa. Tại Paris, Marcel gặp lại Paul Nivoix, cựu giám đốc tuần báo "Spectator" ở Marseille, hiện là biên tập viên tờ "Comœdia", nhật báo văn chương nghệ thuật duy nhất của Pháp thời đó. Nhờ tình bạn với Nivoix, Pagnol đã gia nhập giới nhà văn trẻ và sân khấu hiện đại. Viết kịch. Năm 1924 - dưới bút hiệu Castro – Marcel đã cùng Nivoix viết vở kịch vui "Tonton" (tên khác là "Joseph veut rester pur"), được trình diễn ở nhà hát théâtre des Variétés và hơi được thành công, sau đó 2 người viết vở kịch đầu tiên "Les Marchands de gloire", được trình diễn ở théâtre de la Madeleine năm 1925. Marcel viết tiếp vở "Jazz", trình diễn ở théâtre Hébertot năm 1926. Năm 1928 vở "Topaze" của Marcel được trình diễn ở théâtre des Variétés đã thành công lớn (hơn 800 buổi diễn ở Paris). Marcel viết tiếp bộ 3 kịch "Trilogie marseillaise" (gồm Marius, Fanny và César) – mà vở đầu là "Marius" được trình diễn lần đầu tại ngày 9.3.1929 tại Théâtre de Paris đã rất thành công. Điện ảnh. Năm 1929 là năm quyết định đối với sự nghiệp điện ảnh của Marcel, sau khi ông sang London dự buổi chiếu phim "Broadway Melody", một trong các phim nói đầu tiên trên thế giới. Sau khi xem phim này, Marcel đã quyết định chuyển sang ngành điện ảnh. Ông làm quen với Bob Kane – giám đốc chi nhánh hãng Paramount Pictures ở Pháp. Kane đề nghị mua bản quyền vở kịch "Marius" của Marcel với giá 500.000 franc Pháp. Marcel từ chối, nhưng chấp nhận một tỷ lệ phần trăm trên thu nhập của phim với điều kiện là phải sử dụng toàn bộ diễn viên kịch đã từng diễn vở này ở "Théâtre de Paris" và do chính Marcel đạo diễn. Kane - mặc dù muốn sử dụng các diễn viên ký hợp đồng với hãng của mình - cuối cùng đã chấp nhận điều kiện sử dụng diễn viên Pháp của Marcel, nhưng do đạo diễn Hoa Kỳ điều khiển. Đầu năm 1931 phim Marius được khởi sự quay dưới sự điều khiển của đạo diễn Alexander Korda, một người Hungary nhập cư vào Mỹ. Phim "Marius" được chiếu ra mắt ngày 10.10.1931 là một trong những phim nói tiếng Pháp đầu tiên rất thành công. Năm 1934, Marcel mua một khu đất trên đồi rộng 24 hec-ta (sau đó mua thêm thành 40 hec-ta) cạnh làng La Treille ở Marseille để lập hãng phim riêng của mình. Cuốn phim đầu tiên do chính Marcel đạo diễn là phim "Le Gendre de Monsieur Poirier" năm 1933, tiếp theo là các phim "Jofroi" (1933), "Angèle" (1934), "Merlusse" (1935), "Cigalon" (1935), "César" (1936), "Regain" (1937), "La Femme du boulanger" (1938) vv... Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Marcel phải ngưng sản xuất phim và bán các phim trường cho hãng phim Gaumont, nhưng vẫn giữ chức giám đốc sản xuất. Năm 1942 Marcel mua khu đồn điền Étoile ở La Gaude, thuê các nhân viên cũ của ông ở các phim trường tới trồng hoa cẩm chướng, nhằm tránh cho họ khỏi phải đi lao động cưỡng bách bên Đức. Năm 1948, Marcel làm phim "La Belle Meunière" - một phim màu đầu tiên của Pháp – do ông viết kịch bản và cùng đạo diễn với Max de Rieux và do ca sĩ diễn viên Tino Rossi đóng vai chính. Phim này hoàn toàn thất bại khiến ông bị lỗ 50 triệu franc Pháp. Năm 1950, Marcel làm phim "Le Rosier de Madame Husson", trong đó ông viết kịch bản dựa trên truyện ngắn của Guy de Maupassant, do nam diễn viên Bourvil đóng vai chính và do Jean Boyer đạo diễn. Phim này thành công về mặt tài chính nhưng không được giới phê bình hoan nghênh. Năm 1951, Marcel làm lại phim "Topaze" phiên bản 3 do nam diễn viên Fernandel đóng vai chính. Phim này là một thành công lớn. Tiểu thuyết. Ngay từ năm 1910 – khi đang học trung học - Marcel đã có thơ đăng trên tạp chí "Massilia". Khi đang học lớp dự bị đại học, Marcel đã viết quyển tiểu thuyết đầu tay Le Mariage de Peluque. Năm 1957, Marcel bắt đầu xuất bản bộ tiểu thuyết 4 tập "Souvenirs d'enfance" với quyển đầu mang tên "La Gloire de mon père" đã rất thành công (bán được hơn 50.000 quyển trong một tháng). Quyển thứ hai "Le Château de ma mère", xuất bản năm 1958, cũng đứng đầu danh sách các tiểu thuyết bán chạy nhất trong năm. Năm 1960 ông xuất bản tiếp quyển thứ ba "Le Temps des secrets", còn quyển thứ tư "Le Temps des amours" được xuất bản năm 1977, sau khi ông qua đời. Năm 1962, Marcel xuất bản bộ tiểu thuyết "L'Eau des collines" gồm 2 quyển: "Jean de Florette" và "Manon des Sources". Năm 1965 ông xuất bản quyển "L'homme au masque de fer", năm 1973 soạn lại dưới nhan đề "Le Secret du masque de fer". Đời tư. Ngày 2.3.1916, Marcel kết hôn với Simone Collin. Năm 1926, ông ly thân với Simone Collin (nhưng tới năm 1941 mới ly dị). Marcel quan hệ tình ái với nữ diễn viên múa trẻ người Anh Kitty Murphy. Họ có một con trai - Jacques Pagnol sinh ngày 24.9.1930. (Jacques sau này trở thành người phụ tá cho cha, rồi sau đó làm nhà quay phim cho đài truyền hình France 3 ở Marseille.) Marcel sống chung với nữ diễn viên Orane Demazis, năm 1933 họ có một con trai tên Jean-Pierre Burgart (vì Marcel không nhìn nhận con). Năm 1936, ông sống chung với Yvonne Pouperon và có một con gái tên Francine Pagnol. Năm 1941, sau khi thủ tục ly dị với Simone Collin hoàn tất, Marcel sống chung với nữ diễn viên Josette Day, mà ông gặp từ năm 1939. Nhưng quan hệ giữa họ chỉ kéo dài trong thời gian họ sống ở vùng tự do, cho tới khi chiến tranh kết thúc. Mặc dù rất gắn bó với Orane Demazis rồi với Josette Day, nhưng Marcel không kết hôn với họ. Marcel có ba người con ngoài hôn thú (Jacques, Jean-Pierre et Francine). Bà mẹ Augustine của Marcel cũng đã có con trước khi kết hôn, vì thế mà ông thường đề cập tới vấn đề con hoang trong tác phẩm của mình. Năm 1945, Marcel tái kết hôn với nữ diễn viên Jacqueline Bouvier mà ông gặp từ tháng 8 năm 1938. Họ có hai người con: Frédéric (sinh năm 1946) và Estelle (sinh năm 1951). Estelle chết năm 1954 khi mới 3 tuổi. Từ trần. Marcel Pagnol qua đời ngày 18.4.1974 tại Paris, thọ 79 tuổi. Ông được mai táng ở Nghĩa trang La Treille, Marseille, bên cạnh bà mẹ và đứa con gái Estelle, gần hầm mộ của gia đình Pagnol – nơi người cha, bà vợ kế Madeleine Julien, các anh chị em trong gia đình an nghỉ. Trên mộ - thay cho mộ bia - có khắc câu trích dẫn của Virgile: "Fontes amicos uxorem dilexit" (Ông ấy đã yêu các nguồn suối, các bạn và vợ của mình).
1
null
Sau đây là các sáng tác của nhà soạn nhạc người Nga có quốc tịch Liên Xô Dmitri Shostakovich. Cantata. "Cuộc hành hình Stepan Razin" (1964) Nhạc thính phòng. Ngũ tấu. Ngũ tấu cho piano cung Sol thứ Sonata. Dành cho nhiều nhạc cụ cùng hòa tấu. Khác. Ngoài ra, Shostakovich còn có các bài báo và các bài bình luận.
1
null
Cá trâu (Danh pháp khoa học: Ictiobus) là một chi cá nước ngọt trong họ Cá mút. Đây là loại cá phổ biến tại Hoa Kỳ nhưng cũng được tìm thấy tại Canada, Mexico và Guatemala. Nó có thể dài đến 1,2m. Đây là một loài cá dùng để câu phổ biến ở Mỹ.
1
null
(còn được biết đến như 'GSC' hoặc chỉ 'Good Smile') là một nhà chế tác các sản phẩm phục vụ thị hiếu và sở thích Nhật Bản, chẳng hạn như các dòng sản phẩm như Nendoroid và figma, cũng như các figure tỉ lệ. Ngoài sản xuất và chế tác, các lĩnh vực kinh doanh của công ty còn bao gồm thiết kế, tiếp thị và phân phối. Các sản phẩm của công ty thường dựa theo anime, manga hay các visual novel/eroge đang nổi tiếng ở Nhật Bản, mặc dù công ty cũng tham gia sản xuất các sản phẩm dựa theo các loại hình truyền thông khác chẳng hạn như phần mềm tổng hợp giọng nói Vocaloid và dòng game "Touhou Project". Sơ lược. Good Smile Company được thành lập bởi Takanori Aki vào năm 2001 như một công ty tổ chức sự kiện và phát triển tài năng. Sau đó công ty bắt đầu hợp tác với MAX Factory trong việc sản xuất các sản phẩm phục vụ thị hiếu và sở thích, mà sớm trở thành trọng tâm kinh doanh của công ty về sau. Hiện tại Good Smile Company chủ yếu tham gia vào việc lập kế hoạch, sản xuất, chế tác và kinh doanh các mặt hàng figure và đồ chơi, bên cạnh việc tham gia thị trường phụ kiện và các loại hàng hóa khác. Good Smile Company cũng hoạt động như một nhà phân phối, và phân phối các sản phẩm của những công ty sản xuất các mặt hàng liên quan đến thị hiếu và sở thích khác như MAX Factory, FREEing và Phat! Company. Công ty xây dựng mối quan hệ đặc biệt về lâu dài với MAX Factory, và thường chia sẻ gian hàng và các không gian trưng bày với họ tại các sự kiện như Wonder Festival. Đến tháng 6 năm 2012, Good Smile Company chuyển trụ sở từ Matsudo, Chiba đến tòa tháp phía đông của Tokyo Skytree, và nơi đó trở thành trụ sở chính của cả họ lẫn MAX Factory. 'Kahotan's Blog' là một trang blog nổi tiếng giới thiệu Good Smile Company lẫn các sản phẩm có liên quan đến công chúng dưới góc quan sát của một nữ nhân viên. Blog có thể đọc ở hai ngôn ngữ Nhật và Anh. Lịch sử hình thành. Tóm lược lịch sử phát triển công ty được viết dưới đây. Các sản phẩm chính. Good Smile Company kinh doanh đa dạng sản phẩm, tập trung vào figure tỉ lệ nhân vật làm bằng nhựa cao cấp PVC. Hầu hết sản phẩm dựa trên các nhân vật trong anime, manga hay video game nổi tiếng tại Nhật Bản. Những sê-ri nổi tiếng trong dòng sản phẩm của họ bao gồm Hatsune Miku, các nhân vật từ dòng game "Touhou Project", các sản phẩm liên quan "Black Rock Shooter", "Puella Magi Madoka Magica" cũng như các nhân vật trong nhiều trò chơi của Nintendo. Họ được biết đến nhiều nhất với: Các sản phẩm liên quan anime. Good Smile Company đã đóng góp vào các dự án anime dưới đây như một thành viên của ủy ban sản xuất. Xe thể thao và itasha. Năm 2008, Good Smile Company đã trở thành nhà tài trợ chính của Studie GLAD Racing, một đội mà đã tham gia vào chặng đua GT300 của giải đua SUPER GT bằng một chiếc xe "itasha" sơn hình Hatsune Miku. Năm 2010, một công ty con của Good Smile Company tên là Good Smile Racing (GSR) được thành lập và trở thành bên sáng lập và sở hữu đội đua mới. Good Smile Racing cũng chế tác những mô hình ô tô và hàng hóa liên quan để cổ vũ đội đua cùng các nhà tài trợ. Đội đua của công ty đã dẫn đầu và đoạt ngôi quán quân trong giải Super GT GT300 2011 của Nhật Bản. Bên cạnh sản xuất itasha thể thao, Good Smile Racing thực hiện những mẫu xe trang trí nhân vật trong văn hóa otaku khác theo đơn đặt hàng của các bên tác quyền, nhằm quảng cáo và thu hút sự chú ý đến sản phẩm của họ. Các xe này thường được điều khiển vòng quanh Nhật Bản theo một lộ trình đi qua các hệ thống bán lẻ có kinh doanh sản phẩm của Good Smile Company. Sản xuất anime thương mại. Trong những năm gần đây, các công ty đóng một vai trò lớn trong việc kết nối bốn công ty anime nhỏ (Sanzigen, Trigger, Ordet và Liden Films) lại với nhau và tập hợp những nhân tài của họ vào một công ty mẹ mới gọi là Ultra Super Pictures. Việc kinh doanh này là một phần của ngành công nghiệp phim hoạt hình Nhật Bản, nhưng không chỉ tập trung vào việc sản xuất và phát triển các dự án anime chất lượng cao, mà còn tham gia cấp phép tác phẩm, quản lý chung và đào tạo những nhân viên mới để tạo ra các nội dung nhắm vào khán giả trên toàn thế giới.
1
null
Daihatsu Hijet là một xe van siêu nhỏ và xe tải nhỏ được sản xuất bởi hãng xe Nhật Bản Daihatsu. Mặc dù có những điểm tương đồng giữa cái tên Hijet và đề án đặt tên của Toyota cho các xe tải và xe van của họ (Hiace và Hilux), "Hijet" đã được sử dụng cho các xe tải Kei và xe van của Daihatsu từ năm 1960, hơn hai thập kỷ trước khi được Toyota nắm quyền kiểm soát. "Hijet", khi được phiên âm tiếng Nhật, rất gần với "Midget", một trong những dòng xe tải nhỏ khác của Daihatsu. Đối thủ cạnh tranh của Hijet tại Nhật Bản là Honda Acty, Subaru Sambar, Mitsubishi Minicab và Suzuki Carry. Năm 2002, Daihatsu ra mắt khái niệm "Hijet Cargo Hybrid", một xe van lai, tại Nhật Bản dùng động cơ 660 cc.
1
null
Túi tote là một loại túi lớn có dây xách song song nhau nối từ hai bên thành túi. Tote nguyên mẫu được làm bằng vải cứng, có tay cầm hoặc đáy làm bằng da dày; các da bọc thường có bề mặt sần sùi. Các loại vải làm túi thông thường bao gồm vải bạt, có thể được nhuộm, hoặc qua xử lý để chống ẩm mốc. Đay cũng là một chất liệu truyền thống, mặc dù ít phổ biến hơn. Trong những thập kỷ gần đây, túi tote làm bằng ni lông cứng và các chất tổng hợp dễ bảo quản khác được dùng phổ biến, mặc dù chúng có thể bị sờn và mòn khi tiếp xúc tia nắng mặt trời trong thời gian dài. Nhiều trong số các túi tote rẻ tiền hoặc miễn phí ngày nay thường được làm từ vật liệu tái chế, từ sợi tự nhiên qua chế biến tối thiểu, hoặc từ sản phẩm phụ của quá trình tinh chỉnh các vật liệu hữu cơ. Thuật ngữ tote có nghĩa là "mang đi", ra đời từ thế kỷ 17 nhưng không được dùng để mô tả loại túi này cho đến tận năm 1900. Tuy nhiên, cơn sốt túi tote tại Hoa Kỳ bắt đầu vào những năm 1940 với việc ra mắt túi Boat của L.L. Bean vào năm 1944. Hầu hết mọi người chọn sử dụng túi tote với lý do chúng giúp mang vật dụng dễ dàng hơn. Trong những năm 1950, túi tote bắt đầu trở thành một phần của nền văn hóa. Phụ nữ chủ yếu sử dụng tote như túi xách thực thụ bởi vì chúng không cần được chú trọng bảo quản. Bonnie Cohen ra mắt dòng túi tote của riêng bà gọi là Cashin Carry Tote Bags (túi tote-túi xách Cashin), kết hợp kiểu dáng và chức năng của hai loại túi. Trong những năm 1990, Kate Spade cuối cùng đã làm biến đổi cách văn hóa Mỹ nhìn nhận túi tote khi bà bắt đầu thiết kế chúng thành các túi xách thời trang. Ngày nay, những người yêu thích thời trang và người tiêu dùng có thể tìm thấy túi tote được trang trí bởi rất nhiều phong cách, màu sắc và chủ đề. Túi tote trở nên phổ biến ở Nhật Bản, và thường là vật dụng cơ bản của phong cách "kawaii" (dễ thương) trong văn hóa đương đại Nhật Bản.
1
null
Nút cài (tiếng Anh: pin-back button hay pinback button), là một nút bấm hay huy hiệu có thể đính chặt tạm thời vào bề mặt trang phục bằng một kim cài an toàn, hoặc một loại kim cài làm bằng dây, một bướm ly hợp hoặc các cơ chế khác. Cơ chế này được cài vào mặt sau của một đĩa kim loại hình nút, có bề mặt phẳng hoặc lồi lõm, giúp cho mặt trước của nút phô bày rõ ràng một hình ảnh hay thông điệp. Thiết kế đầu tiên cho nút cài ở Hoa Kỳ đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1896, và rất nhiều nút cài hiện đại sử dụng mẫu mã thiết kế tương tự.
1
null
Thẻ quà tặng là một đẳng giá tiền tệ giới hạn hay ghi nợ được các nhà bán lẻ và ngân hàng sử dụng thay cho quà tặng không phải bằng tiền. Loại thẻ này rất phổ biến, xếp thứ hai trong ưu tiên quà tặng dành cho người tiêu dùng Mỹ (2006) và là món quà được mong muốn nhất của nữ giới, trong khi được mong muốn thứ ba ở nam giới của nước này. Thẻ quà tặng ngày càng trở nên phổ biến vì chúng làm giảm bớt sự lựa chọn của nhà tài trợ về một món quà cụ thể. Năm 2012, gần 50% người tiêu dùng Mỹ tuyên bố đã mua thẻ quà tặng như một món quà trong mùa lễ. Ở Canada, 1,8 tỷ đô la được chi qua thẻ quà tặng, và ở Anh con số này ước tính lên đến 3 tỉ (GBP) vào năm 2009, trong khi đó tại Hoa Kỳ, khoảng 80 tỷ đô la đã được trả cho thẻ quà tặng vào năm 2006. Tại Nhật Bản, thẻ quà tặng được sử dụng rất nhiều kể cả trong các cửa hàng bách hóa dưới sự quản lý của Hiệp hội Cửa hàng Nhật Bản; ước tính số thẻ phát ra năm 2006 tại quốc gia này gần ngang với 5 tỷ yen tiền mặt. Người nhận thẻ quà tặng có thể sử dụng nó theo ý thích trong những hạn chế của cơ quan phát hành.
1
null
Thẻ điện thoại hay phonecard (viết tắt tiếng Anh), là một loại thẻ nhựa có kích thước như thẻ tín dụng, dùng để trả tiền dịch vụ điện thoại. Có một thẻ cầm tay là không cần thiết trừ phi có nhu cầu về một hệ thống lưu trữ có giá trị; biết về số điện thoại để quay số và mã PIN là đủ. Các thẻ đúng chuẩn có thể được mua và sử dụng mà không cần bất kỳ loại cơ sở tài khoản trữ một số tiền tín dụng cố định và sẽ bị hủy khi tiền đã được sử dụng hết; các loại thẻ nạp có thể được phục hồi, hoặc thẻ thanh toán nợ. Thẻ điện thoại được biết đến như một loại thẻ nhớ từ xa có một mã PIN liên kết với một tài khoản điện thoại mặt đất cụ thể; các cuộc gọi thông qua sử dụng thẻ được tính vào tài khoản có liên quan. Thẻ điện thoại cũng được sử dụng trong các buồng điện thoại công cộng khi người sở hữu đăng ký dịch vụ sử dụng trả tiền tức thời, rất phổ biến ở Nhật Bản. Hầu hết các điện thoại hiện đại, cả điện thoại di động lẫn cố định, có vị trí bộ nhớ trong đó số điện thoại có thể được lưu trữ. Một số điện thoại có cơ chế thực hiện cuộc gọi thông qua dịch vụ thẻ điện thoại trong khi có thể truy cập thông tin chi tiết và mã PIN được lưu giữ trong bộ nhớ của điện thoại. Điều này có thể được thực hiện theo những cách khác nhau, thường bằng cách nhấn một nút trước khi thực hiện cuộc gọi. Thẻ điện thoại cũng được dùng một dạng thẻ quà tặng nhưng không có giá trị về tiền tệ cho đến khi chủ sở hữu đăng ký một tài khoản qua nó. Tại Việt Nam hiện nay có các nhà mạng di động đang hoạt động đó là Viettel, Vinaphone, Mobifone, Gmobile và Vietnamobile, mỗi nhà mạng có phát hành một loại thẻ nạp (thẻ điện thoại) riêng. Thẻ điện thoại được sử dụng để nạp tiền cho các thuê bao trả trước, trả sau của những nhà mạng trên bằng cách nhập mã thẻ theo cú pháp.. Thẻ điện thoại gồm các thông tin mã thẻ và số serial, khi sử dụng để nạp tiền cho điện thoại cần sử dụng đến mã thẻ cào còn số serial để kiểm tra tình trạng hoạt động của thẻ hay để nạp cho game, ứng dụng thứ 3 khác. Thẻ điện thoại có hai loại đó là thẻ cào giấy và thẻ cào online, người dùng có thể dễ dàng mua chúng tại nhiều địa điểm cũng như những trang web cung cấp dịch vụ. Hiện nay có nhiều website hay ứng dụng để bạn mua thẻ điện thoại online với các phương thức thanh toán là sử dụng dịch vụ thanh toán trực tuyến của ngân hàng và đăng ký là các đại lý phân phối lại và sử dụng tài khoản thành viên.
1
null
Vương quốc Commagene (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy nhiên, có vẻ như từ một số bằng chứng ít ỏi còn lại thì Commagene trở thành một phần của một nhà nước lớn hơn còn bao gồm Vương quốc Sophene. Các vị vua sau này của Commagene đã tuyên bố có gốc gác từ vương triều Orontes và do đó sẽ có liên quan đến gia tộc thành lập Vương quốc Armenia. Tuy nhiên, tính chính xác của những tuyên bố vẫn chưa chắc chắn. Việc kiểm soát này kéo dài cho đến năm 163 TCN, khi vị phó vương địa phương là Ptolemaeus của Commagene đã khẳng định mình là người cai trị độc lập sau cái chết của vua Seleukos, Antiochus IV Epiphanes. Vương quốc Commagene đã duy trì nền độc lập cho đến tận năm 17 thì bị Hoàng đế Tiberius biến thành một tỉnh La Mã. Nó xuất hiện trở lại như một vương quốc độc lập khi Antiochus IV của Commagene đã được phục hồi ngôi vị theo lệnh của Caligula, rồi cũng bị chính hoàng đế này đoạt mất, sau đó được người kế nhiệm là Claudius khôi phục lại một vài năm. Quốc gia tái xuất hiện này còn tồn tại mãi cho đến năm 72 khi Hoàng đế Vespasianus dứt khoát biến nó thành một phần của Đế quốc La Mã. Lịch sử. Commagene là một vương quốc nhỏ, nằm ở phía nam miền trung Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, với thủ đô là Samosata (nay là Samsat, gần sông Euphrates). Vương quốc được đề cập lần đầu tiên trong các thư tịch cổ của Assyria với tên gọi Kummuhu, vốn là một đồng minh thông thường của Assyria, nhưng cuối cùng bị sáp nhập thành một tỉnh vào năm 708 TCN dưới thời Sargon II. Sau đó Đế quốc Achaemenes đã chinh phục Commagene vào thế kỷ thứ 6 TCN và Alexandros Đại đế đã xâm chiếm lãnh thổ này vào thế kỷ 4 TCN. Sau sự tan rã của đế chế Alexandria, Commagene là một nước và tỉnh của vương triều Seleukos gốc Hy Lạp-Syria. Vương quốc Commagene thời kỳ Hy Lạp hóa tiếp giáp với Cilicia về phía tây và Cappadocia về phía bắc, xuất hiện vào năm 162 TCN. Đây cũng là năm mà vị thống đốc Ptolemaios, một phó vương của đế chế Seleukos đang trên đà tan rã, tuyên bố độc lập. Triều đại của Ptolemaios có liên quan đến các đời vua Parthia, nhưng hậu duệ của ông là Mithridates I Callinicus (109 TCN–70 TCN) đã tiếp nhận nền văn hóa Hy Lạp và kết hôn với công chúa Hy Lạp gốc Syria Laodice VII Thea. Triều đại của ông như vậy có thể xác nhận mối quan hệ với cả Alexandros Đại đế và các triều vua Ba Tư. Cuộc hôn nhân này cũng có thể là một phần của một liên minh hòa bình giữa Commagene và Đế quốc Seleukos. Từ điểm này, vương quốc của Commagene càng trở nên Hy Lạp hóa hơn cả Ba Tư. Mithridates và con trai của Laodice là vua Antiochus I Theos của Commagene (trị vì 70 TCN–38 TCN). Antiochus lại là một đồng minh với viên tướng La Mã Pompey trong các chiến dịch chống lại Mithridates VI của Pontos vào năm 64 TCN. Nhờ tài ngoại giao khéo léo, Antiochus đã có thể duy trì sự độc lập của Commagene từ người La Mã. Năm 17 khi Antiochus III của Commagene qua đời, Hoàng đế Tiberius đã sáp nhập Commagene thành một tỉnh của Syria, nhưng đến năm 38 Caligula lại phục vị cho người con của Antiochus III là Antiochos IV và còn giao cho ông cai trị nguyên một vùng hoang vu của Cilicia. Antiochus IV là vị vua Commagene phụ thuộc dưới thời đế chế La Mã. Ông trị vì cho đến năm 72, khi Hoàng đế Vespasianus mang quân lật đổ vương triều và tái sáp nhập vào lãnh thổ Syria, hành động dựa trên những cáo buộc "rằng Antiochos sắp nổi loạn từ người La Mã... theo báo cáo của Thống đốc Caesennius Paetus". Hậu duệ của Antiochus IV đều có cuộc sống giàu sang và thành đạt ở Anatolia, Hy Lạp, Ý và Trung Đông. Như một minh chứng cho hậu duệ của Antiochus IV là người cháu nội của ông Philopappos mất vào năm 116. Các công dân của Athena đã dựng lên một đài tưởng niệm tang lễ vào năm 116 để vinh danh Philopappos, một ân nhân của Athena. Một hậu duệ khác của Antiochus IV là nhà sử học Gaius Asinius Quadratus sống vào thế kỷ 3.
1
null
Kaoani ghép từ hai chữ tiếng Nhật là và . Kaoani là những biểu tượng mặt cười hoạt hình nhỏ bé thường nảy lên nảy xuống trông giống như chúng đang trôi nổi. Kaoani có nguồn gốc từ Nhật Bản và còn được gọi là puff, anime blobs, anikaos hoặc anime emoticon. Kaoani có thể mang hình dáng của động vật, thực phẩm như cơm nắm, các đốm màu đầy màu sắc, nhân vật hoạt hình, v.v... Nhiều cái được dựng hoạt ảnh nhằm thực hiện một nhiệm vụ nhất định, chẳng hạn như nhảy múa, cười đùa hoặc cổ vũ. Định dạng file cho Kaoani thường là GIF, vì nó hỗ trợ ảnh động. Tuy nhiên, nó cũng có thể dùng làm kaoni trong định dạng APNG, vốn là một hình ảnh PNG hoạt hình. Kaoani chủ yếu được sử dụng trên các diễn đàn Internet, hồ sơ MySpace, blog và Windows Live Messenger để hiển thị tâm trạng hoặc làm avatar.
1
null
Bát tấu giọng Mi giáng trưởng, Op.20 của Felix Mendelssohn được sáng tác vào mùa thu và hoàn thành ngày 15 tháng 10 năm 1825, khi tác giả mới 16 tuổi. Ông viết nó làm quà sinh nhật cho người bạn và người thầy violon của ông Eduard Ritz (1802-1832); nó được chỉnh sửa một ít vào năm 1832 trước khi có buổi công diễn vào ngày 30 tháng 1 năm 1836 tại Leipzig Gewandhaus. Cấu trúc. Tác phẩm gồm bốn chương: Thời lượng một buổi biểu diễn trung bình khoảng nửa tiếng đồng hồ, với chương đầu chiếm khoảng nửa thời lượng. Chương Scherzo, sau được phối lại cho dàn nhạc như một sự thay thế cho chương minuet trong giao hưởng đầu tiên của nhà soạn nhạc trong buổi công diễn, được tin rằng đã lấy cảm hứng từ đoạn có tiêu đề  "Walpurgis Night's Dream" từ Faust của Goethe. Những phân đoạn trong chương này tái xuất hiện trong chương cuối, như một điềm báo trước cho cấu trúc vòng được sử dụng bởi các nhà soạn nhạc thế kỉ XIX về sau. Toàn bộ tác phẩm cũng được chú ý bởi sự mở rộng cách hòa âm, cụ thể với chương cuối, mở đầu bằng một fugato tám đoạn. Tác phẩm được so sánh với Tứ tấu đôi số 1 giọng Rê thứ, Op. 65 năm 1823 của Louis Spohr. Nhạc khí. Bản nhạc dành cho hai tứ tấu dây: 4 violon, 2 viola và 2 cello.
1
null
Giao hưởng số 2, cung Si thứ, Op.14, hay còn gọi là Giao hưởng Tháng Mười là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc Xô viết Dmitri Shostakovich. Bản giao hưởng này được sáng tác vào năm 1927. Trong tác phẩm này, Shostakovich cố gắng thể hiện những vấn đề của thời đại mình đang sống.
1
null
Giao hưởng số 3, cung Fa thăng thứ, Op. 20 hay còn có tên gọi là Giao hưởng 1 tháng 5 là bản giao hưởng số 3 của nhà soạn nhạc người Nga có quốc tịch Liên Xô Dmitri Shostakovich. Đây là tác phẩm được viết vào năm 1929. Trong tác phẩm này, Shostakovich cố gắng thể hiện những gì mà thời đại mình đặt ra.
1
null
Mitridate, re di Ponto (tiếng Việt: Mitridate, vua của Ponto) là vở opera của nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Ông sáng tác vở opera này vào năm 1770. Người viết lời cho tác phẩm là Vittorio Amedeo Cigna-Santi. Để có thể làm được điều đó, Cigna-Santi đã dựa vào bản dịch tiếng Ý vở kịch Mithridate (tác giả là Jean Racine) của Giuseppe Parini. Tác phẩm được dàn dựng và trình diễn thành công vào tháng 12 năm 1770 tại Milan, Ý.
1
null
Concerto cho piano số 2, cung Fa trưởng, Op. 102 là bản concerto của nhà soạn nhạc người Nga Dmitri Shostakovich. Tác phẩm này được ông sáng tác vào năm 1957 và chính ông trình diễn nó lần đầu tiên vào năm 1958. Đây là một trong những tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp của Shostakovich trong thập niên 1950. Đây cũng là một trong những bản concerto được biểu diễn nhiều nhất.Nó chứa đựng nhiều yếu tố tương tự như Concertino cho hai cây đàn piano của Shostakovich: cả hai tác phẩm đều được viết để có thể tiếp cận tới các nghệ sĩ piano trẻ đang trong quá trình học tập. Đó là một tác phẩm khác thường, đặc biệt hơn nhiều so với hầu hết các tác phẩm của Shostakovich. Nhạc cụ. Tác phẩm này tuân theo truyền thống nhạc cổ điển châu Âu, nhưng vẫn có dáng dấp của những khúc nhạc đương thời. Tác phẩm được chơi bằng solo piano, hai sáo, piccolo, hai oboe, hai clarinet, hai bassoon, bốn kèn, timpani, trống lẫy và đàn dây. Cấu trúc. Concerto kéo dài khoảng 20 phút và có ba chương, với chuyển động thứ hai được chơi attacca, do đó chuyển trực tiếp sang chuyển động thứ ba (mặc dù chuyển động thứ hai có độ phân giải chấp nhận được ở C nhỏ, sao cho chuyển động thứ ba không cần thiết dùng để kết cả bản nhạc): Gồm 3 chương:
1
null
Louis-Antoine, Comte de Bougainville (12 tháng 11 năm 1729 - 31 tháng 8 năm 1811) là một đô đốc và thám hiểm người Pháp. Một người cùng thời với James Cook, ông đã tham gia vào cuộc chiến tranh Pháp và Anh Điêng chống lại Anh. Sau đó, ông trở nên nổi tiếng cho các cuộc thám hiểm của mình, khu định cư đầu tiên được ghi lại trên quần đảo Falkland và chuyến đi của ông vào Thái Bình Dương. Bougainville sinh ra ở Paris vào ngày 11 hoặc 12 tháng 11 năm 1729, bố là một công chứng viên. Ban đầu, ông theo học ngành luật, nhưng ngay sau đó đã từ bỏ ngành này, và năm 1753 gia nhập quân đội trong quân đoàn ngự lâm quân. Ở tuổi hai mươi lăm, ông xuất bản một chuyên luận về tích phân, như là một bổ sung cho luận văn của De l'Hôpital, Des infiniment petits. Hành trình. Bougainville là đô đốc Pháp, chỉ huy hành trình trên các tàu "La Boudeuse" và "Étoile" vào giai đoạn 1766–1769 đi vòng quanh thế giới. Giai đoạn này, đi cùng ông có Philibert Commerçon và Jeanne Baret, hai nhà thực vật học người Pháp. Trong đó, Jeanne Baret là người phụ nữ đầu tiên hoàn thành hành trình vòng quanh thế giới.
1
null
Guillaume François Antoine, hầu tước của l'Hôpital (1661, Paris - 2 tháng 2 năm 1704, Paris) là một nhà toán học người Pháp. Tên của ông được vững chắc kết hợp với quy tắc l'Hôpital để tính giới hạn liên quan đến các bất định thức 0/0 và ∞ / ∞. Mặc dù quy tắc không có nguồn gốc với l'Hôpital, nó xuất hiện trong ấn bản lần đầu tiên trong luận văn của ông về phép tích vi, tựa Analyse des Infiniment Petits pour l'Intelligence des Lignes Courbes. Cuốn sách này là một trình bày có hệ thống đầu tiên của phép vi phân. Một số phiên bản và bản dịch sang các ngôn ngữ khác đã được công bố và nó đã trở thành một mô hình cho phương pháp xử lý tiếp theo của giải tích.
1
null
Nữ hoàng lớp học () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc 2013 với sự tham gia của diễn viên Go Hyun-jung. Bộ phim này được làm lại từ phim truyền hình Nhật Bản từng chiếu trên NTV năm 2005, Bộ phim công chiếu đầu tiên trên MBC từ 12 tháng 6 đến 1 tháng 8 năm 2013 vào mỗi thứ 4&5 lúc 21:55 gồm 16 tập. Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Nội dung. Bộ phim này xoay quanh Ma Yeo-jin, một giáo viên nghiêm khắc, lạnh lùng, có phương pháp giáo dục khác biệt đã chiến đấu với một lớp học trong một năm. Với phương pháp giáo dục khiến cho học sinh khó thích nghi như thế này, liệu cô có thể "thu phục" học sinh của mình không ? Vai diễn chính trong bộ phim "Nữ hoàng lớp học" này mà người có khả năng đảm nhận chính là diễn viên nổi tiếng Go Hyun-jung. Tỷ lệ người xem. Trong bảng dưới đây, biểu thị cho tỷ lệ người xem thấp nhất và biểu thị cho tỷ lệ người xem cao nhất:
1
null
Độc Cô Quý phi (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là Trinh Ý Hoàng hậu (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý Dự, sau khi mất được truy phong Hoàng hậu. Trong lịch sử nhà Đường, bà và Võ Huệ phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ là 2 phi tần duy nhất dù chưa từng làm chính thất hay Hoàng hậu, cũng không sinh ra hoàng đế kế vị nhưng vẫn được phong thụy hiệu Hoàng hậu. Về sau Võ Huệ phi bị Đường Túc Tông Lý Hanh tước đi thụy hiệu vì tội danh mưu sát Thái tử Lý Anh, Độc Cô thị trở thành người duy nhất hưởng đặc ân trên. Tiểu sử. Độc Cô Quý phi là người Kinh Triệu (京兆; nay là Thiểm Tây, Tây An), xuất thân gia tộc trứ danh Độc Cô thị (独孤氏), một đại tộc người Tiên Ti. Họ Độc Cô vốn là họ Lý, tức Lũng Tây Lý thị - cùng xuất xứ với họ Lý của hoàng tộc nhà Đường. Sang đời Độc Cô Tín, hoàng đế nhà Tùy ban chữ [Độc Cô] nên cả họ chuyển sang họ Độc Cô. Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La của Tùy Văn Đế Dương Kiên, Minh Kính hoàng hậu của Bắc Chu và Nguyên Trinh hoàng hậu mẹ của Đường Cao Tổ là ba chị em xuất thân từ đại tộc này. Cha của Độc Cô Quý phi là Độc Cô Dĩnh (獨孤穎), khi ấy đang giữ chức Tả uy vệ lục sự tham quân, sai tặng làm Thượng thư bộ Công. Gia đình Quý phi có anh trai là Độc Cô Trinh (獨孤禎) và Độc Cô Lương Tái (獨孤良佐), về sau đều làm những chức quan cao trong hệ thống nhà Đường. Theo Đường Hội yến (唐会要), Độc Cô thị trở thành phi thiếp của Đường Đại Tông Lý Dự khi ông còn là "Quảng Bình quận vương" (廣平郡王). Bà được miêu tả là rất xinh đẹp, độc chiếm mọi sủng ái của Đại Tông trong số các vương phi, Cựu Đường thư trịnh trọng ghi ["Bế hạnh chuyên phòng"; 嬖幸专房] để miêu tả sự sủng ái tuyệt đối của Đại Tông đối với Độc Cô thị. Thời gian này, bà hạ sinh cho Đại Tông người con trai Lý Huýnh (李迥) và người con gái là Hoa Dương công chúa. Đương thời, chính thê của Đại Tông là Vương phi Thôi thị, cậy gia thế hiển hách nên vô cùng hung hãn, chèn ép cả Độc Cô phi. Tuy nhiên khi Loạn An Sử xảy ra, mẫu gia bị thất thế, Thôi phi ưu buồn tự thu mình và qua đời sau khi về lại kinh sư. Chính vương phi qua đời, Thẩm phu nhân - người sinh cho Đại Tông trưởng tử Lý Quát lại thất lạc trong biến loạn, do vậy địa vị của Độc Cô phi cao hơn hẳn so với các các vương phi. Năm Càn Nguyên nguyên niên (758), Quảng Bình quận vương Lý Thục được cha là Đường Túc Tông lập làm Thái tử, đổi tên thành [Lý Dự]. Sang năm Thượng Nguyên thứ 2 (761), hoàng tôn Lý Huýnh, con trai của Độc Cô phi được Túc Tông phong làm "Diên Khánh quận vương" (延慶郡王). Quý phi Đại Đường. Độc sủng không lập Hậu. Năm Bảo Ứng nguyên niên (762), sau khi Đường Túc Tông giá băng, Thái tử Lý Dự kế vị, tức Đường Đại Tông. Cùng năm, Diên Khánh quận vương Lý Huýnh được cải phong "Hàn vương" (韩王). Lúc này thời cuộc chưa định, Độc Cô thị vẫn chỉ là ["Hậu cung"; 後宮] - không rõ danh phận, chưa chính thức sách phong. Năm Đại Lịch thứ 3 (768), tháng 2, ngày Canh Tý, Đại Tông sách phong Độc Cô phi làm Chính nhất phẩm Quý phi, địa vị cao nhất thời điểm đó do Đại Tông không sách lập ai trong hậu cung làm Hoàng hậu. Tuy là sủng phi nhưng Độc Cô Quý phi không được Đại Tông có ý lập Hậu,triều đại kéo dài hơn 10 năm của Đại Tông vĩnh viễn để trống ngôi vị chủ nhân hậu cung. Về việc này, sử gia hiện đại Bá Dương suy đoán Đại Tông không sách lập Hoàng hậu vì lo lắng cho ngôi vị Thái tử của con trưởng là Lý Quát, con trai duy nhất của Thẩm phu nhân. Nếu Quý phi trở thành Hoàng hậu, Lý Huýnh sẽ là Đích tử - địa vị cao quý hơn Lý Quát. Do trước giờ nhà Đường có truyền thống lập Đích tử làm người kế vị nên Lý Quát sẽ không được quần thần ủng hộ. Có tin đồn rằng, hoạn quan Lưu Trung Dực (劉忠翼) được Đại Tông tin dùng, từng cố gắng thuyết phục Đại Tông lập Độc Cô Quý phi làm Hoàng hậu, lập Hàn vương Huýnh làm Thái tử nhưng thất bại. Không rõ việc này là do Lưu Trung Dực cố ý kiến nghị hay Quý phi âm thầm sắp đặt, nhưng kết quả Đường Đại Tông vẫn gạt đi. Đường Đại Tông đối đãi dòng họ Độc Cô thị khá hậu hĩnh, truy phong thụy hiệu cao quý cho cha bà, Độc Cô Dĩnh; ban thưởng cao cho chú bà, Thái Thường thiếu khanh Độc Cô Trác (獨孤卓) làm Thiếu phủ giám, anh bà là Độc Cô Lương Tá làm Thái tử trung doãn. Nhưng bù lại, Đại Tông chỉ cho Độc Cô thị ân sủng chứ không hề có đãi ngộ Hoàng hậu, như Đường Huyền Tông gia ân cho Võ Huệ phi và Dương Quý phi khi trước. Qua đời truy tặng. Năm Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 6 tháng 10 (tức ngày 3 tháng 11 dương lịch), Quý phi Độc Cô thị qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Vài ngày sau, Đại Tông truy phong thụy hiệu cho bà là Trinh Ý hoàng hậu (貞懿皇后). Trong lịch sử nhà Đường, bà và Võ Huệ phi là hai phi tần duy nhất chưa từng làm Hoàng hậu hay chính thất của Hoàng đế, cũng không sinh ra Tân đế kế vị nhưng vẫn được truy tặng thụy hiệu Hoàng hậu. Đau buồn trước sự ra đi của bà, Đại Tông không nỡ vội đem hạ táng, mà tạm lưu giữ quan tài của bà ở Tây điện thuộc Nội cung. Đến năm Đại Lịch thứ 13 (778), ngày 19 tháng 9, Đường Đại Tông mới chính thức an táng Trinh Ý hoàng hậu Độc Cô thị vào Trang Lăng (莊陵). Hoa Dương công chúa, trước đó được an táng tại vị trí khá ẩm thấp, sau đó được cải táng ngay cạnh mẹ mình. Đại Tông lệnh cho Thường Cổn (常袞) soạn văn tế thương tiếc hai người. Nội dung tế văn: Hậu duệ. Độc Cô Quý phi sinh hạ cho Đường Đại Tông 2 người con:
1
null
là một bộ phim anime Nhật Bản của đạo diễn Asaka Morio, sản xuất bởi Madhouse và Bandai Visual. Phim dựa trên phiên bản anime và manga Cardcaptor Sakura của CLAMP. Được viết bởi Ohkawa Nanase, người viết chính của Clamp, phim được công chiếu ở các rạp nước Nhật Bản vào ngày 21 tháng, 1999. Phim đã giành được giải Phim Chủ Đề (Feature Film Award) tại Animation Kobe 1999. Phim thứ hai có tên là "Gekijō-ban Cardcaptor Sakura Fuuin Sealed Card" công chiếu năm 2000. Sản xuất. Cùng đội ngũ nhân viên sản xuất phiên bản anime TV "Cardcaptor Sakura". Phim hoạt hình củaMadhouse và sản xuất bởi Bandai Visual, đạo diễn của phim là Asaka Morio, được viết bởi Ohkawa Nanase của Clamp, do Takahashi Kumiko thiết kế nhân vật chủ đề dựa trên ý tưởng ban đầu của Clamp. Đạo diễn nghệ thuật của phim là Hariu Katsufumi và 3 đạo diễn hoạt hình là: Ueda Hitoshi, Takahashi Kumiko và Sakurai Kunihiko. Sản xuất âm nhạc là Negishi Takayuki cùng với Mima Masafumi như Đạo diễn âm thanh. Phát hành. "Cardcaptor Sakura: The Movie" được phát hành trên VHS, LD và DVD ở Nhật Bản bởi Bandai Visual vào ngày 25 tháng 2 năm 2000. Phim cũng đã được phát hành lại vào ngày 25 tháng 11 năm 2000 trên VHS, ngày 25 tháng 5 năm 2007 on DVD in a two-disc set with "Gekijō-ban Cardcaptor Sakura Fuuin Sealed Card", và vào ngày 22 tháng 12 năm 2009 trên DVD. Bài hát chủ đề của phim là của Kaitani Naomi. single bao gồm bài hát đã được phát hành vào ngày 11 tháng 8 năm 1999 bởi Victor Entertainment. soundtrack gốc của phim được phát hành vào ngày 25 tháng 8 năm 1999 bởi Victor Entertainment gồm một đĩa và 30 track.
1
null
Nếu còn có ngày mai () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của diễn viên Seo Woo, Go Doo-shim, và Ha Seok-jin. Bộ phim nói về tình yêu của mẹ dành cho con và sự đấu tranh vì con. Phim chiếu trên SBS từ 29 tháng 10 năm 2011 đến 22 tháng 4 năm 2012 vào mỗi thứ 7 & chủ nhật lúc 20:40 gồm 51 tập. Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3.
1
null
Giao hưởng số 1, cung Mi giáng trưởng, Op.1 là bản giao hưởng đầu tiên cũng là tác phẩm đầu tiên trong sự nghiệp âm nhạc của nhà soạn nhạc người Nga Igor Stravinsky. Ông viết nó vào năm 1905. Tác phẩm được đề tặng cho người thầy của Stravinsky, đó là nhà soạn nhạc Nikolay Rimsky-Korsakov.
1
null
Der Freischütz (tiếng Việt: Mũi tên thần) là vở opera nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Đức Carl Maria von Weber. Friedrich Kind là người viết lời cho tác phẩm. Weber viết vở opera này vào năm 1821. Với vở opera này, Weber trở thành người đặt nền móng cho thể loại opera lãng mạn dân tộc Đức. Khúc dạo đầu (tức overture) của tác phẩm được xếp vào kho tàng âm nhạc giao hưởng của thế giới.
1
null
Euryanthe là vở opera của nhà soạn nhạc người Đức Carl Maria von Weber. Ông sáng tác vở opera vào năm 1823. Người viết lời cho tác phẩm là Helmina von Chézy. Với vở opera này, Weber trở thành người sáng lập thể loại opera huyền thoại-hiệp sĩ với một lối phát triển xuyên suốt tác phẩm. Khúc dạo đầu (tức overture) được xếp vào kho tàng âm nhạc giao hưởng của thế giới.
1
null
Gamasutra là một website ra đời vào năm 1997 tập trung vào mọi khía cạnh của việc phát triển trò chơi điện tử. Nó được sở hữu và vận hành bởi UBM TechWeb (trước đây là một phần của CMP Media), một bộ phận của Unite Business Media, và hoạt động như một xuất bản phẩm trực tuyến có quan hệ bạn bè với tạp chí in "Game Developer". Gamasutra và đội ngũ biên tập viên của website đã đoạt được giải Webby vào các năm 2006 và 2007; năm từ trong bài phát biểu được chọn của họ lần lượt là "Heart plus science equals games" (tạm dịch: "Trái tim cộng khoa học bằng trò chơi") và "Art plus science, still games" (tạm dịch: "nghệ thuật cộng khoa học, vẫn bằng trò chơi").
1
null
Harold in Italy, Op.16 (tiếng Pháp: Harold en Italie, tên đầy đủ Harold en Italie, Symphonie en quatre parties avec un alto principal, dịch ra tiếng Việt có nghĩa là Harold ở Ý, bản giao hưởng bốn phần với sự độc tấu của viola) là tác phẩm được nhà soạn nhạc người Pháp Hector Berlioz sáng tác dành cho viola và dàn nhạc giao hưởng. Cảm hứng của tác phẩm đến từ tác phẩm Childe Harold của Lord Byron. Sau buổi hòa nhạc giới thiệu các tác phẩm của Berlioz tại Paris tháng 12 năm 1833, Niccolò Paganini yêu cầu Berlioz viết một tác phẩm cho đàn viola để ông có thể khoe cây đàn của mình (do Antonio Stradivari chế tác). Berlioz gửi chương 1 của tác phẩm, nhưng Paganini không nhận vì cho rằng phần biểu diễn của ông là quá ít (sau này Paganini không biểu diễn tác phẩm này một lần nào). Tác phẩm 4 chương này được trình diễn lần đầu tiên tại Paris vào năm 1834 với phần độc tấu của Chrétien Urhan.
1
null
Thần tượng âm nhạc Việt Nam là phiên bản Việt hóa của chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng "Pop Idol" đến từ Anh, lên sóng lần đầu tiên vào ngày 23 tháng 5 năm 2007 trên kênh HTV9. Trong 2 mùa đầu tiên, chương trình do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng công ty Đông Tây Promotion sản xuất và phát sóng trên hai kênh HTV7 và HTV9. Từ năm 2010, "Vietnam Idol" được đồng sản xuất bởi Ban Thanh thiếu niên của Đài Truyền hình Việt Nam (từ năm 2012 là Ban Thể thao Giải trí và Thông tin kinh tế) và công ty BHD. Chương trình đồng thời cũng được chuyển sang phát sóng trên VTV3 và được phát sóng đến năm 2016. Chương trình sau đó đã tạm ngừng sản xuất đến năm 2023, khi công ty Cát Tiên Sa thông báo khởi động trở lại chương trình. Lịch sử. "Vietnam Idol" được hình thành dựa trên "Pop Idol" của Anh và "American Idol" của Mỹ. Đông Tây Promotion và nhà tài trợ Unilever đã mua bản quyền định dạng này với mức giá được công bố là 2 triệu USD, mức phí bản quyền cao nhất được trả cho một chương trình truyền hình thực tế tại Việt Nam vào thời điểm đó. Chương trình ra mắt năm 2007 tại Việt Nam với tên gọi "Thần tượng âm nhạc: Vietnam Idol" dưới sự sản xuất của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) và Đông Tây Promotion. Khi mùa hai có lượng người xem sụt giảm, nhà sản xuất đã chuyển định dạng chương trình cho Công ty BHD và Đài Truyền hình Việt Nam. Từ mùa thứ 5, chương trình được đổi tên thành "Thần tượng âm nhạc Việt Nam" theo quy định về thương hiệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Năm 2017, BHD thông báo tạm dừng sản xuất "Vietnam Idol" với hy vọng "tìm kiếm tài năng mới" trong bối cảnh các chương trình ca hát thực tế tại Việt Nam ngày càng tăng lên, cùng với sự cạnh tranh gay gắt với các format hiện có như "The X Factor" hay "The Voice". Sau 7 năm tạm dừng sản xuất, tối ngày 6 tháng 1 năm 2023, công ty Cát Tiên Sa thông báo chương trình sẽ được phát sóng trở lại trên kênh VTV3. Các mùa phát sóng. Mùa 1. "Vietnam Idol" mùa đầu tiên khởi chiếu ngày 23 tháng 5 năm 2007 trên kênh HTV9 với hai người dẫn dắt chương trình Thanh Thảo và Nguyên Vũ. Thành phần ban giám khảo gồm Siu Black, Tuấn Khanh và Hà Dũng. Đêm chung kết được tổ chức vào ngày 3 tháng 10 năm 2007 tại Nhà hát Hòa Bình với việc Phương Vy đăng quang ngôi vị quán quân trước Ngọc Ánh; cô sau đó hát ca khúc đăng quang "Nụ cười và những ước mơ" nhưng không phát hành dưới dạng đĩa đơn của mình. Đã có hơn 720.000 lượt bình chọn cho đêm chung kết và đây là mùa giải duy nhất công bố số lượng bình chọn. Phương Vy, Ngọc Ánh, Thảo Trang, Trà My, Duy Khánh đã phát hành album solo sau đó và gặt hái được thành công vừa phải sau chương trình. Mùa 2. Tiếp nối thành công của mùa đầu tiên, mùa thứ hai của "Thần tượng âm nhạc: Việt Nam Idol" được dự kiến sẽ tổ chức buổi thử giọng vào tháng 6 năm 2008. Tuy nhiên, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (đơn vị chủ quản HTV) đã có công văn yêu cầu HTV tạm hoãn tổ chức Vietnam Idol lần 2 với lý do từ đó đến cuối năm có nhiều cuộc thi tương tự trên HTV và sự kiện không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện tại của đất nước. Nhưng sau đó, cơ quan này đã chấp thuận cho HTV tổ chức "Vietnam Idol" lần 2. Mùa 2 của cuộc thi lên sóng từ ngày 3 tháng 9 năm 2008 đến 16 tháng 1 năm 2009. Trong khi đó, nhạc sĩ Sỹ Luân thay thế ca sĩ Nguyên Vũ để đồng hành cùng với MC Thanh Thảo trong mùa 2. Hồ Hoài Anh và Trần Mạnh Tuấn là hai giám khảo mới cùng với giám khảo Siu Black của mùa 1. Theo tiết lộ của nhà sản xuất chương trình Phạm Lê Hiếu, bản quyền mùa thi thứ hai của "Vietnam Idol" được nhà sản xuất của chương trình "American Idol" mùa thứ sáu chia sẻ, trong đó có phần thiết kế sân khấu và phần hiệu chỉnh âm thanh ánh sáng. Tại đêm Chung kết, Quốc Thiên đã vượt qua Thanh Duy để trở thành người chiến thắng. Bài hát đăng quang mùa một "Nụ cười và những ước mơ" đã được sử dụng lại cho mùa giải năm nay. Mùa 3. Sau một năm tạm hoãn, ban tổ chức thông báo mùa thi mới sẽ được cải tiến nhiều so với hai mùa thi đã qua. Thay đổi lớn nhất chính là việc đội ngũ sản xuất được chuyển giao từ HTV và Đông Tây Promotion sang VTV cùng hãng phim BHD. Siu Black trở lại làm giám khảo trong khi Nguyễn Quang Dũng, Quốc Trung, Đặng Diễm Quỳnh thay thế Hồ Hoài Anh và Trần Mạnh Tuấn. Phan Anh đảm nhận vị trí người dẫn duy nhất của mùa giải. Trong gần 40.000 người đăng ký tham gia cuộc thi thì chỉ có 25.000 người đến thử giọng. Mùa giải này tuân theo cấu trúc tương tự như mùa 9 của "American Idol", giới thiệu lựa chọn "Cứu thí sinh", mời cố vấn cho mỗi vòng. Người chiến thắng nhận được hợp đồng thu âm với BHD Entertainment thay vì Music Faces Records như các mùa trước. Vòng bán kết và chung kết được quay tại BHD Pictures Studio và đêm chung kết diễn ra tại Trung tâm Ca nhạc Lan Anh. Tại đêm chung kết, Uyên Linh được công bố là người chiến thắng, vượt qua á quân Văn Mai Hương. Sau đó, Linh đã thể hiện một ca khúc đăng quang mới mang tên "Cảm ơn tình yêu""" và phát hành ca khúc này dưới dạng đĩa đơn đầu tay của cô một tuần sau đó. Uyên Linh và Văn Mai Hương đã gây được sự chú ý lớn của giới truyền thông sau khi mùa giải kết thúc. Cả Linh và Hương đều đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng "Bài hát yêu thích". Các cựu thí sinh khác của mùa 3 cũng tiếp tục gặt hái thành công, đáng chú ý là Trung Quân và Bích Phương khi cả hai đều đã tạo ra nhiều bản hit được đón nhận từ giữa những năm 2010. Mùa 4. Mùa thứ tư của Vietnam Idol đã tổ chức vòng Audition tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Mỹ Tâm thay thế Siu Black tại ghế giám khảo thứ hai và MC mùa này là diễn viên Huy Khánh. Giải thưởng cho quán quân là 600.000.000 VNĐ và được kênh MTV Việt Nam hỗ trợ kinh phí thực hiện một video âm nhạc để phát trên kênh ngay sau khi chiến thắng, cũng như bảo trợ xây dựng và quảng bá hình ảnh trên kênh này trong suốt 1 năm từ sau khi kết thúc chương trình. Ngày 1 tháng 2 năm 2013, trong đêm chung kết diễn ra tại Sân vận động Quân khu 7, Ya Suy đã đăng quang ngôi vị quán quân của mùa thi trước Hoàng Quyên. Ca khúc đăng quang của anh là "Giây phút khát khao". Sau "Vietnam Idol", sự nghiệp ca hát của Ya Suy tương đối bết bát. Anh đã phát hành đĩa đơn đầu tiên "Về với lúa" vào cuối năm 2013 và tiếp tục phát hành thêm hai đĩa đơn nữa vào các năm 2014 và 2017 trước khi tuyên bố từ giã sự nghiệp ca hát vào năm 2018. Mùa 5. "Từ mùa thứ 5, chương trình được đổi tên thành Thần tượng âm nhạc Việt Nam theo quy định về thương hiệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch." "Thần tượng âm nhạc Việt Nam" bất ngờ trở lại vào năm 2013, hứa hẹn nhiều đổi mới bất ngờ cho người xem. Nhạc sĩ Anh Quân đã thay thế vị trí giám khảo của nhạc sĩ Quốc Trung (lúc đó đang làm huấn luyện viên cho "Giọng hát Việt"). Mỹ Tâm vẫn đồng hành với chương trình, trong khi đạo diễn Nguyễn Quang Dũng là giám khảo quen thuộc từ năm 2010. Nhạc sĩ Huy Tuấn vẫn là giám đốc âm nhạc của chương trình. MC Phan Anh đã bất ngờ trở lại với tư cách là người dẫn dắt chương trình, trong khi MC hậu trường mùa này là Cao Thanh Thảo My, cựu thí sinh mùa 4. Giải thưởng cho quán quân là tiền thưởng trị giá 600.000.000 VNĐ. Ngoài ra, nhà vô địch của Thần tượng Âm nhạc 2013 sẽ xuất hiện trong video clip ca nhạc của nhãn hàng Pepsi, trở thành gương mặt đại diện của nhãn hàng dầu gội đầu Clear và nhãn hàng kem đánh răng Close-up. Mùa giải diễn ra từ ngày 15 tháng 12 năm 2013 đến ngày 11 tháng 5 năm 2014. Hai người đứng đầu của mùa giải là Trần Nhật Thủy và Trần Thị Thùy (nghệ danh Minh Thùy). Kết thúc đêm chung kết, Nhật Thủy nhận được 52% bình chọn, trở thành quán quân của mùa 5. Mùa 6. "Thần tượng âm nhạc Việt Nam" trở lại vào đầu tháng 4 năm 2015 với những thay đổi: ca sĩ Thu Minh sẽ là giám khảo thay thế cho Mỹ Tâm, nam ca sĩ - nhạc sĩ Thanh Bùi sẽ là vị giám khảo thứ 2 thay thế cho nhạc sĩ Anh Quân, còn đạo diễn Nguyễn Quang Dũng vẫn ở vị trí ban giám khảo. Trong khi đó, Duy Hải là người thay thế vị trí của MC Phan Anh. Ngày 2 tháng 8 năm 2015, Nguyễn Trọng Hiếu, với 71,5% bình chọn của khán giả, đã được xướng tên ở ngôi vị quán quân của "Vietnam Idol," vượt qua á quân Nguyễn Bích Ngọc và ở vị trí thứ ba là Thanh Phúc. Sinh ra tại Đức và từng lọt vào top 25 trong mùa 5 của phiên bản Đức, Trọng Hiếu trở thành người nước ngoài đầu tiên chiến thắng trong lịch sử của chương trình. Ca khúc đăng quang "Con đường tôi" của Hiếu sau đó đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn bằng cả tiếng Việt và tiếng Đức. Mùa 7. "Thần tượng âm nhạc Việt Nam" đã trở lại với khán giả từ mùa thứ 7 vào tháng 5 năm 2016. Nam ca sĩ Bằng Kiều sẽ là vị giám khảo thay thế ca - nhạc sĩ Thanh Bùi. Còn ca sĩ Thu Minh và đạo diễn Nguyễn Quang Dũng tiếp tục ở vị trí thành phần ban giám khảo. MC Phan Anh đã quay trở lại dẫn dắt chương trình, ngoại trừ đêm Gala và trao giải với sự xuất hiện của Quốc Minh. "Vietnam Idol" có mùa thứ hai liên tiếp chứng kiến một người nước ngoài được xướng tên tại "Vietnam Idol" bước lên ngôi vị cao nhất. Janice Aranjuez Buco (nghệ danh Janice Phương) đến từ Philippines đã nhận được 54,25% bình chọn, đánh bại Phạm Việt Thắng với 45,75% và trở thành quán quân của mùa 7. Janice đã phát hành đĩa đơn cho bài hát đăng quang "Love You in Silence" với lời tiếng Anh và tiếng Việt. Sau cuộc thi, Janice phát hành đĩa đơn bằng tiếng Việt mới mang tên "Tâm tư" vào năm 2017. Janice cho biết rào cản ngôn ngữ là nguyên nhân khiến cô chưa tạo được đột phá trong làng nhạc Việt. Mùa 8. Sau 7 năm tạm ngừng sản xuất, tối ngày 6 tháng 1 năm 2023, công ty Cát Tiên Sa thông báo chương trình sẽ được tổ chức trở lại. Những thông tin đầu tiên của chương trình cũng đã được nhà sản xuất công bố cùng ngày. Vòng tuyển sinh online sẽ diễn ra từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 15 tháng 3; vòng tuyển sinh trực tiếp sẽ diễn ra từ ngày 15 tháng 3 đến 30 tháng 3 năm 2023 tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đầu tháng 3, ban tổ chức kéo dài thời gian vòng tuyển sinh online tới ngày 15 tháng 5 năm 2023. Vòng tuyển sinh trực tiếp được tổ chức vào ngày 3 tháng 6 năm 2023 tại Hà Nội và ngày 10 tháng 6 năm 2023 tại thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, chương trình còn phối hợp với FG Entertainment Network (FGEN) và TAIHEN để lần đầu tiên tổ chức tuyển sinh tại California, Hoa Kỳ từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 16 tháng 6 năm 2023, và tại Nhật Bản từ ngày 3 tháng 6 đến ngày 11 tháng 6 năm 2023. Cuối tháng 5 năm 2023, ban tổ chức công bố 7 giám khảo sơ tuyển của mùa thi này, gồm ca sĩ Phương Vy, ca sĩ Giang Hồng Ngọc, nhà sản xuất âm nhạc Only C, Châu Đăng Khoa, Đỗ Hiếu, DTAP và nhà sản xuất - nhà báo Phan Anh. Ngày 5 tháng 7 năm 2023, ekip chương trình công bố ba giám khảo chính thức bao gồm nhạc sĩ Huy Tuấn, ca sĩ Mỹ Tâm và đạo diễn Nguyễn Quang Dũng. Trong khi đó, người dẫn dắt chương trình ở mùa này là MC Đức Bảo. Mùa 8 được phát sóng từ 8 tháng 7 năm 2023 đến 21 tháng 10 năm 2023 trên VTV3. Tranh cãi. Việc bình chọn thiếu minh bạch. Cuộc thi đã bị chỉ trích dữ dội với cáo buộc quy trình bình chọn bất thường và thiếu minh bạch. Các tờ báo lớn như "Thanh Niên, Tuổi Trẻ" đã đăng tin về việc phiếu bầu của một thí sinh được tính cho một thí sinh khác dù không có bằng chứng xác thực nào chứng minh cáo buộc đó và ban tổ chức đã khẳng định không thao túng kết quả. Điều gây tranh cãi nhất nằm ở việc ban tổ chức không công khai số lượng tin nhắn gửi về bình chọn của mỗi thí sinh (một thông lệ của những cuộc nhắn tin bình chọn trên truyền hình tại Việt Nam) mà chỉ công bố ai được chọn vào vòng sau. Giải thích điều này, nhà tổ chức cho rằng họ làm như vậy "để tuân thủ bản quyền" và có lợi cho thí sinh. Kết quả bình chọn cũng có thể bị ảnh hưởng bởi việc cho phép mỗi số điện thoại có thể gởi đến 500 tin nhắn bình chọn và việc một số người trong cuộc "phát ngôn dẫn dắt khán giả" bình chọn. Liên quan đến thí sinh khuyết tật. Trong buổi thử giọng tại Hà Nội ngày 6 tháng 7 năm 2010 (mùa 3), một thí sinh được giới thiệu là nạn nhân chất độc màu da cam tên là Nguyễn Sơn Lâm (sinh năm 1982) đã đến tham dự. Màn trình diễn không giúp thí sinh này lọt vào vòng trong nhưng đã khiến giám khảo Siu Black xúc động chạy đến bên cạnh giãi bày cảm xúc: ""Nếu trong chương trình của người khuyết tật, em muốn hát cho mọi người nghe, em sẽ thành công"." Tuy nhiên, Sơn Lâm đã phản ứng dữ dội vì cho rằng mình bị xúc phạm và phân biệt đối xử. Siu Black đã trả lời với báo giới đó là một phát biểu chỉ có tính động viên và nêu rõ quan điểm rằng Sơn Lâm lợi dụng tình huống này để tạo tên tuổi. Lá thư mà Lâm gửi cho báo chí và các cơ quan bảo vệ quyền lợi người khuyết tật ở Việt Nam về vấn đề này đã nhanh chóng được đăng lên mạng và gây sự chú ý. Vụ bê bối ngày càng nghiêm trọng đến mức các thành viên khác trong ban giám khảo và cả những người ngoài cuộc như ca sĩ Mỹ Linh cũng tham gia ý kiến. Ngày 30 tháng 7 năm 2010, nhà báo Đặng Diễm Quỳnh - một trong các giám khảo của Vietnam Idol, đại diện ban tổ chức cuộc thi - đã chính thức lên tiếng về sự việc này. Theo đó, ban tổ chức đã đánh giá cao sự đam mê ca hát và sự nhiệt tình tham gia cuộc thi của Sơn Lâm và luôn coi Lâm như những thí sinh bình thường khác. Về bất đồng giữa Sơn Lâm và giám khảo Siu Black, ban tổ chức cho rằng đó là hệ quả của cảm xúc. "Hành động và lời nói của giám khảo Siu Black trong phần thi của thí sinh Sơn Lâm hoàn toàn xuất phát từ xúc cảm thân ái và thiện chí. [...] Những gì khiến hai bên không vui chỉ là sự chưa gặp nhau của cảm xúc mà thôi. Còn về bản chất, Ban tổ chức không hề nghi ngờ sự thành thật và thiện chí của cả 2 bên. Vì vậy kết quả đánh giá của Ban tổ chức với phần thi của Sơn Lâm là hoàn toàn công bằng và hợp lý", nhà báo Diễm Quỳnh khẳng định. Đối với việc công bố cảnh quay kiểm chứng sự việc, ban tổ chức cho biết đây là vấn đề liên quan đến bản quyền và họ sẽ không cung cấp tư liệu ghi hình thí sinh trước thời gian phát sóng chính thức (21 tháng 8). Sự việc sau đó chỉ lắng xuống khi đoạn video clip về buổi thử giọng của Sơn Lâm được phát sóng. Chiều hướng ủng hộ nghiêng hẳn về phía Siu Black khi nhiều người cho rằng cô không làm gì sai. Audio thí sinh chửi bậy. Một thí sinh tên Đức Anh sau khi bị loại ở vòng gala (mùa thứ 3) đã bức xúc và tuôn ra những lời nói văng tục. Toàn bộ lời nói của Đức Anh bị ghi âm lại và tung lên mạng khiến thí sinh này mất cảm tình của khán giả và tự làm xấu hình ảnh của mình. Trong cuộc phỏng vấn với báo chí, Đức Anh nói rằng người ghi âm đoạn băng đó chính là một nam thí sinh khác trong cuộc thi tên Đăng Khoa; Đức Anh cũng cho biết đoạn ghi âm đó là lúc anh vừa bị loại, không kiềm chế được cảm xúc và đã bị cắt xén ở nhiều chỗ để tăng phần bôi xấu anh. Sau scandal này, cả Đức Anh lẫn người ghi âm là Đăng Khoa đều xin lỗi khán giả và hình ảnh của họ tiếp tục xấu đi trong mắt công chúng.
1
null
Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương (tiếng Anh: "Pacific Islands Forum", PIF) là một tổ chức liên chính phủ nhằm mục đích tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia độc lập tại Thái Bình Dương. Tổ chức này được thành lập năm 1971 với tên gọi sơ khởi là Diễn đàn Nam Thái Bình Dương (tiếng Anh: "South Pacific Forum"), tên gọi như hiện nay khởi nguồn từ năm 1999. Thành viên. Đài Loan assists in the development of members in the forum, and holds an annual dialogue conference with members of the forum. Participation has been limited however, due to Trung Quốc being an official dialogue partner. Tổng thư ký. The Secretary General of the Pacific Islands Forum Secretariat is appointed to a three-year term by the leaders of the member states. The Secretary General reports directly to the national leaders and the Forum Officials' Committee (FOC). The Secretary General also automatically serves as the permanent chairman of the Council of Regional Organisations in the Pacific (CROP). Directors of the South Pacific Bureau for Economic Co-operation
1
null
Chincha là một dân tộc bản địa châu Mỹ tại dãy Andes ở Nam Mỹ. Họ được thảo luận bởi Maria Rostworowski de Dies Canseco trong sách "Lịch sử Vương quốc của người Inca" (đại học Cambridge xuất bản năm 1999) và bởi Justo Ceceres Macedo trong sách "Nền văn hóa tiền sử của Peru" (Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Peru, 1985). Nhà nghiên cứu người Đức Friedrich Ratzel đã báo cáo vào năm 1896 trong sách "Lịch sử nhân loại", là nhà thám hiểm Tây Ban Nha Francisco Pizarro đã gặp các người Chinchas, có truyền thống sinh hoạt trên biển. Tên gọi của họ có liên quan với quần đảo Chincha, ngoài khơi bờ biển Peru, cũng như với những con vật được biết đến với tên gọi chinchilla (nghĩa đen của "little chincha" - "chincha nhỏ"). Cuối cùng, những người Chincha đã bị đồng hóa bởi những người Inca.
1
null
Bae Joo-hyun (Hangul: 배주현, Hanja: 裵柱現, Hán-Việt: Bùi Trụ Hiện, sinh ngày 29 tháng 3 năm 1991), thường được biết đến với nghệ danh Irene, là một nữ ca sĩ, diễn viên, rapper và vũ công người Hàn Quốc. Cô hiện là thành viên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Red Velvet do công ty giải trí SM Entertainment thành lập và quản lý. Tiểu sử. Irene, tên khai sinh là Bae Joo-hyun, sinh ngày 29 tháng 3 năm 1991 tại Daegu, Hàn Quốc. Gia đình cô gồm bố mẹ và em gái. Cô từng học tại trường trung học Haknam ở Daegu. Sự nghiệp. 2009–2014: Trước khi ra mắt. Cô gia nhập SM Entertainment vào năm 2009 và được đào tạo trong 5 năm. Trong thời gian là thực tập sinh, vào tháng 8 năm 2013, cô xuất hiện trong video âm nhạc của bài hát "1-4-3" của Henry Lau. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2013, Irene là một trong những thực tập sinh thứ hai được giới thiệu với tư cách là thành viên của SM Rookies, một nhóm thực tập sinh trước khi ra mắt trực thuộc SM Entertainment, cùng với cựu thực tập sinh Lami và thành viên hiện tại của NCT là Jaehyun. Trong sự kiện SM Rookies, vào tháng 1 năm 2014, cô cùng với Seulgi cũng như các thành viên hiện tại của NCT là Johnny và Taeyong đã xuất hiện trên tạp chí "The Celebrity". Vào tháng 2 năm 2014, Irene, Seulgi và Taeyong xuất hiện trên tạp chí "OhBoy!". Nhiều đoạn clip về Irene đã được phát hành trên kênh YouTube chính thức của SM Entertainment, "SMTOWN", một trong số đó có cảnh cô và Seulgi thể hiện vũ đạo cho "Be Natural", một bài hát do nhóm nhạc S.E.S. của SM Entertainment thể hiện, được phát hành vào ngày 17 tháng 7 năm 2014. 2014: Ra mắt với Red Velvet. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2014, cô được công bố là thành viên và là trưởng nhóm của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Red Velvet. Họ đã chính thức ra mắt với đĩa đơn "Happiness". Kể từ đó, Red Velvet đã phát hành 11 mini album và 2 album phòng thu cũng như 2 album tái phát hành. Vào tháng 11 năm 2014, Irene xuất hiện trong video âm nhạc cho đĩa đơn ballad "규현 '광화문 에서 (At Gwanghwamun)" của Kyuhyun. 2015–nay: Hoạt động solo và nhóm nhỏ. Từ tháng 5 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016, Irene là người dẫn chương trình âm nhạc "Music Bank" cùng với nam diễn viên Park Bo-gum. Cả hai đều gây chú ý vì khả năng ca hát và dẫn dắt chương trình. Vào tháng 7 năm 2016, Irene xuất hiện lần đầu trong bộ phim truyền hình "Women at a Game Company" nơi cô đóng vai nữ chính. Vào ngày 14 tháng 10, Irene trở thành người dẫn chương trình thời trang OnStyle's Laundry Day. Chương trình được công chiếu vào ngày 22 tháng 10 năm 2016. Trong cùng tháng, cô là một bình luận viên trong chương trình "Trick & True" của đài KBS cùng với người bạn cùng nhóm Wendy. Irene cũng tham gia quảng cáo một số thương hiệu khác nhau. Bên cạnh với Red Velvet, cô còn trở thành người mẫu đại diện cho Ivy Club{ cùng với Exo vào năm 2015. Năm 2016, cô trở thành người đại diện của thương hiệu cà phê Maxwell House. Năm 2017, cô trở thành người đại diện chính thức chương trình Hyundai Auto Advantage. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2018, Irene được chọn trở thành người mẫu của nhãn hiệu kính áp tròng Cooper Vision. Vào ngày 3 tháng 5, cô trở thành người mẫu thương hiệu cho nhãn hiệu vitamin nổi tiếng LEMONA Vitamin C và được trao danh hiệu “vitamin cho con người”. Vào ngày 9 tháng 8, cô được công bố là người mẫu độc quyền mới cho Eider cho mùa thu / đông năm 2018 và mùa xuân / hè năm 2019. Vào tháng 12, có thông báo rằng Irene sẽ trở thành người mẫu mới cho thương hiệu HiteJinro Chamisul Soju. Vào tháng 2 năm 2019, Irene được công bố là "nàng thơ" mới của thương hiệu trang sức cao cấp Damiani của Ý, trở thành người Châu Á đầu tiên đại diện cho thương hiệu với tư cách là "nàng thơ". Vào tháng 7, SM Entertainment thông báo rằng Irene sẽ hợp tác với DJ và nhà sản xuất Hàn Quốc Raiden trong ca khúc "The Only", được phát hành vào ngày 2 tháng 8. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2020, SM xác nhận rằng Irene cùng với thành viên Seulgi sẽ thành lập nhóm phụ đầu tiên của Red Velvet, Red Velvet - Irene & Seulgi ra mắt vào ngày 6 tháng 7 với mini-album "Monster". Vào ngày 16 tháng 7 năm 2020, SM xác nhận rằng Irene sẽ tham gia diễn xuất trong bộ phim "Double Patty" được phát hành ngày 17/2/2021. Đây là vai chính đầu tiên của cô trong một bộ phim điện ảnh. Vào ngày 17 tháng 9, Irene được công bố là đại sứ mới của Prada. "Vogue Korea" đã phát hành một bức ảnh có cô và Chanyeol từ Exo. Ngày 16/8/2021, Irene trở lại với Red Velvet sau khoảng thời gian vắng bóng 1 năm 8 tháng với mini album "Queendom" và bài hát chủ đề cùng tên. Đời tư. Tranh cãi. Vào ngày 21 tháng 10 năm 2020, Irene đã bị chỉ trích vì ngược đãi và sỉ nhục một biên tập viên thời trang trên phim trường trong một buổi chụp ảnh (theo một bài đăng trên Instagram hiện đã bị xóa của biên tập viên thời trang đó). Irene đã lên mạng xã hội để đăng một tuyên bố chính thức, thừa nhận hành vi sai trái của mình và xin lỗi về hành vi của mình. SM Entertainment sau đó cũng đưa ra lời xin lỗi vì những lời nói và hành vi gây tổn thương. Cuộc tranh cãi nảy lửa đã gây ra phản ứng rộng rãi vì nó khơi mào cho các cuộc trò chuyện lớn hơn về nguồn gốc sâu xa của vấn nạn "gapjil" (갑질) trong xã hội Hàn Quốc. Các chuyên gia và người phát ngôn của các phong trào chính trị khác nhau ở Hàn Quốc tin rằng phần lớn sự phẫn nộ của công chúng đối với Irene bắt nguồn từ những định kiến của quốc gia này về nạn "gapjil" (chỉ hành vi lạm dụng và bắt nạt của những người có quyền lực hoặc thâm niên), một vấn đề mà quốc gia này đang cố gắng xóa bỏ và giảm bớt. Nhận thức của công chúng Hàn Quốc đối với các thành viên của các nhóm nhạc thần tượng liên quan đến vụ việc cũng được đưa ra ánh sáng, trong đó phụ nữ nói riêng được áp đặt tiêu chuẩn cao hơn so với các nghệ sĩ nam khi gây tranh cãi. Sau vô số suy đoán liên quan đến vụ việc, cũng như nhiều cáo buộc về việc ngược đãi của Irene, cũng có những nhân viên trước đây từng làm việc với Irene đã lên tiếng bảo vệ cô. Một số nhà tạo mẫu, vũ công và nghệ sĩ trang điểm từng làm việc với cô cũng đã đăng trên tài khoản Instagram của họ rằng họ chưa bao giờ trải qua những hành động thô lỗ như mọi người đang chia sẻ về Irene. Ellena Yim, cựu stylist kiêm giám đốc hình ảnh của SM, cũng khẳng định luôn có "hai mặt trong mọi câu chuyện" và thật đáng tiếc khi mọi người từ chối nhìn vào khía cạnh khác của câu chuyện vì họ chỉ tập trung vào những gì đã được tiết lộ và những gì họ muốn xem. Biên tập viên thời trang có liên quan cũng đã lên tiếng về những tin đồn đang lan truyền trên mạng và yêu cầu dừng những suy đoán. Cô nhấn mạnh rằng không có dàn xếp tiền bạc và chỉ có một cuộc trao đổi "xin lỗi chân thành" diễn ra khi họ gặp lại nhau.
1
null
Pasta Hương vị tình yêu () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt khán giả vào năm 2010 với sự tham gia của dàn diễn viên: Gong Hyo-jin, Lee Sun-kyun, Lee Ha-nee và Alex Chu. Phim chiếu trên đài MBC từ ngày 4 tháng 1 đến 9 tháng 3 năm 2010 vào mỗi tối thứ 2 và 3 lúc 21:55, phim gồm 20 tập. Tại Việt Nam, bộ phim được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. Rating. Nguồn: TNS Media Korea
1
null
Kang Seul-gi (Hangul: 강슬기, Hanja: 康澀琪, Hán-Việt: Khương Sáp Kỳ, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1994), nghệ danh Seulgi, là ca sĩ thần tượng người Hàn Quốc. Cô là thành viên hát chính của nhóm nhạc nữ Red Velvet và Got the Beat do công ty S.M Entertainment thành lập và quản lý. Cô là thành viên của nhóm nhỏ Red Velvet - Irene & Seulgi. Tiểu sử. Seulgi sinh vào ngày 10 tháng 2 năm 1994 tại thành phố Ansan, tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc. Cô từng theo học tại trường cấp 2 Ansan Byeolmang và trường trung học Biểu diễn Nghệ thuật Seoul. Ngoài tiếng Hàn là ngôn ngữ mẹ đẻ, cô cũng có thể giao tiếp "tốt" bằng tiếng Anh và tiếng Nhật. Sự nghiệp. Trước khi ra mắt và SM Rookies. Ngày 2 tháng 12 năm 2013, cô được giới thiệu với công chúng với tư cách là thành viên nhóm thực tập sinh SM Rookies của công ty, cùng với Jeno và Taeyong hiện tại là thành viên của nhóm nhạc NCT. Vào tháng 7 năm 2014, cô kết hợp với Henry Lau trong bài hát "Butterfly" trích từ mini album thứ 2 của anh mang tên "Fantastic". Cô cũng xuất hiện trong MV của Single này. 2014–nay: Red Velvet và hoạt động cá nhân. Seulgi chính thức ra mắt với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nữ Red Velvet vào ngày 1 tháng 8 năm 2014 với digital single "Happiness". Năm 2015 cô đảm nhận vai Dorothy trong vở nhạc kịch hologram "School OZ" do SM Entertainment sản xuất, bên cạnh các nghệ sĩ cùng công ty khác bao gồm: Changmin, Key, Luna, Xiumin và Suho. Tháng 7 năm 2016, Seulgi và thành viên cùng nhóm Wendy phát hành bài hát nhạc phim "Don’t Push Me Away" của bộ phim truyền hình "Uncontrollably Fond". Vào tháng 10 năm 2016, cô xuất hiện trên chương trình "King of Mask Singer" "Cinema Heaven". Tháng 11 năm 2016, Seulgi phát hành bài hát "You, Just Like That" cho trò chơi điện tử trực tuyến "Blade & Soul". Tháng 12 năm 2016, cô góp mặt trong bài hát "Sound of your Heart" thuộc dự án âm nhạc Station bên cạnh một số nghệ sĩ khác của SM Entertainment. Tháng 1 năm 2017, Seulgi và Wendy phát hành bài hát nhạc phim "I Can Only See You" cho bộ phim truyền hình "Hwarang." Cô đã song ca cùng với Yesung (Super Junior) trong ca khúc "Darling U" cho dự án SM Station vào ngày 22 tháng 1 cùng năm. Tháng 3 năm 2017, Seulgi nhận lời tham gia chương trình đào tạo nhóm nhạc nữ Girl Next Door của đài KBS, "Idol Drama Operation Team" cùng với Jeon Somi, Moonbyul (Mamamoo), Soojung (Lovelyz), YooA (Oh My Girl), Kim Sohee (CIVA) và D.ana (Sonamoo). Chương trình đã lên sóng vào tháng 5 năm 2017. Tháng 10 năm 2022, Seulgi ra mắt với tư cách nghệ sĩ solo với việc phát hành EP đầu tiên mang tên 28 Reasons. Ca khúc chủ đề cùng tên vẽ nên một phiên bản Seulgi lạnh lùng, mạnh mẽ và không kém phần táo bạo. Ca khúc thuộc thể loại Pop Dance với những âm thanh trầm bổng cuốn hút xen kẽ đến từ tiếng bass nặng cùng tiếng huýt sáo bắt tai. Theo Seulgi chia sẻ, “28 Reasons” là nơi cái thiện và cái ác tồn tại song song. Trong đó, lời bài hát miêu tả sức hút kỳ lạ, khó cưỡng của một cô gái, đó cũng là thứ giúp cô hoàn toàn kiểm soát người mình yêu.
1
null
Son Seung-wan (Hangul: 손승완, Hanja: 孫承完, Hán-Việt: Tôn Thừa Hoan, sinh ngày 21 tháng 2 năm 1994), được biết đến với nghệ danh Wendy, là một nữ ca sĩ người Hàn Quốc và là giọng ca hát chính của nhóm nhạc K-pop Hàn Quốc Red Velvet do SM Entertainment thành lập và quản lý. Cô cũng là thành viên của siêu nhóm nhạc nữ Got the Beat. Cô còn được biết đến với vai trò diễn viên hài kịch, diễn viên nhạc kịch, diễn viên lồng tiếng, người dẫn chuơng trình, phát thanh viên. Tiểu sử. Son Seung-wan được sinh ra vào ngày 21 tháng 2 năm 1994 tại Seongbuk-dong, Seoul, Hàn Quốc. Xuất thân trong một gia đình yêu âm nhạc, cô tỏ ý muốn trở thành một ca sĩ khi cô mới chỉ năm tuổi. Bên cạnh niềm đam mê của mình cho ca hát, cô cũng có khả năng chơi nhiều nhạc cụ, bao gồm đàn piano, đàn guitar, sáo, và saxophone. Cô sống cùng gia đình tại Jecheon cho đến khi học lớp năm và sau đó chuyển đến Canada du học cùng chị gái Son Seung-hee. Seung-wan đã sống ở Brockville, Ontario trước khi chuyển đến Mỹ và theo học trường cấp hai Shattuck-Saint Mary's tại Faribault, Minnesota, cô đã nhận được nhiều giải thưởng cả về học thuật lẫn ca hát trong thời gian học tập. Tại đây, cô bắt đầu sử dụng tên tiếng Anh của mình là "Wendy Son". Sau đó cô theo học trường cấp ba Richmond Hill tại Greater Toronto, Ontario, Canada, và đã tham gia dàn đồng ca Vocal Fusion của trường. Trong thời gian sống tại cả hai nước, cô trở nên thông thạo tiếng Anh và cũng học được cách nói tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha. Bố mẹ của cô ban đầu phản đối cô đi theo con đường âm nhạc, và muốn cô tập trung vào việc học, nhưng khi cô học trung học thì bố mẹ cô đã cho phép cô đi thi để trở thành ca sĩ Hàn Quốc.  Sự nghiệp. Trước khi ra mắt và SM Rookies. Wendy bắt đầu ước mơ trở thành ca sĩ khi mới năm tuổi. Năm 2010, cô tham gia cuộc thi "Koreaboo: Cube Entertainment Global Auditions 2011" và trở thành một trong 15 thí sinh lọt vào vòng chung kết diễn ra tại Vancouver, Canada. Năm 2012, Wendy trở thành thực tập sinh của SM Entertainment thông qua hệ thống tuyển chọn SM Global Audition được tổ chức tại Canada. Năm 2014, cô được giới thiệu với công chúng với tư cách là thành viên nhóm thực tập sinh SM Rookies của công ty, và sau đó phát hành bài hát nhạc phim "Because I Love You" của bộ phim truyền hình "Mimi". 2014–nay: Red Velvet và hoạt động cá nhân. Wendy ra mắt chính thức với tư cách là thành viên của nhóm nhạc Red Velvet. Nhóm nhạc ra mắt "Happiness" vào ngày 1 tháng 8 năm 2014. Wendy kết hợp với rapper Yuk Jidam cho bài hát "Return", là một part OST cho "Who Are You: School 2015" của KBS2. Bài hát được phát hành vào ngày 8 thán 6 năm 2015 và ra mắt tại vị trí thứ 31 trên Gaon Singles Chart. Cô cũng phát hành bài hát khác "Let You Know" cho nhạc phim cho bộ phim "D-Day" của JTBC vào ngày 16 tháng 10. Tháng 1 năm 2016, Wendy trở thành panelist của "We Got Married" và tham gia "King of Mask Singer" như một thí sinh với tên "Space Beauty Maetel". Tháng 3 năm 2016, cô kết hợp với Eric Nam với tựa đề "Spring Love", là một phần của dự dán SM Station. Bài hát đạt vị trí thứ 7 trên Gaon Digital Chart của Hàn Quốc. Tháng 7 năm 2016, Wendy và thành viên cùng nhóm Seulgi phát hành nhạc phim với tựa đề "Don't Push Me" cho phim truyền hình "Uncontrollably Fond." Tháng 10 năm 2016, cô trở thành panelist cho chương trình "Trick & True" cùng với thành viên cùng nhóm Irene. Tháng 12 năm 2016, Wendy tham gia vào hai single của dự án SM Station, "Have Yourself a Merry Little Christmas", feat. nghệ sĩ piano Moon Jung-jae và nghệ sĩ violin Nile Lee, và "Sound of Your Heart" kết hợp với một số nghệ sĩ của SM Entertainment. Trong tháng đó, cô cũng góp giọng trong single phiên bản tiếng Anh của ngôi sao nhạc Latin Ricky Martin "Vente Pa' Ca". Wendy phát hành bài hát "I Can Only See You" với Seulgi vào tháng 1 năm 2017 cho Red Velvet (nhóm nhạc)ST của phim truyền hình "Hwarang". Tháng 2, cô hát phiên bản tiếng Hàn của "My Time", một phần của OST của "Elena of Avalor" của Disney Channel và cũng xuất hiện trong MV. Trong tháng đó, cô cũng trở thành host cho "K-Rush" của KBS World. Ngày 27 tháng 10, cô cùng với Kangta và Seulgi phát hành remake của bài hát "인형 (Doll)" bởi Shin Hye-sung của Shinhwa và Lee Ji-hoon, là một phần của dự án SM Station. MV của bài hát sử dụng cảnh quay từ màn trình diễn live của họ tại "SMTOWN LIVE TOUR V in JAPAN" và được phát hành trong cùng một ngày. Cô cũng phát hành cùng với Baek A-yeon vào ngày 2 tháng 12 với bài hát tên gọi "The Little Match Girl". Vào ngày 10 tháng 3 năm 2021, SM Entertainment thông báo rằng Wendy đang chuẩn bị cho album solo đầu tiên của mình sẽ ra mắt vào tháng 4. Vào ngày 5 tháng 4, cô phát hành mini album solo đầu tiên " Like Water " , với các ca khúc chủ đề "When This Rain Stops" và "Like Water "  
1
null
Nhạc chủ đề là nhạc phẩm thường được sáng tác hoặc lựa chọn sử dụng cho một chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, video game hay điện ảnh, và thường được sử dụng trong các phần giới thiệu, suốt tựa đề mở đầu và/hoặc đoạn thông tin kết phim. Nếu đi kèm với lời nhạc, thường nằm trong một chương trình, lúc đó nó được gọi là ca khúc chủ đề. Khi ca khúc chủ đề được đặt tựa theo nhan đề tác phẩm, lúc đó nó được gọi là ca khúc tựa đề. Cụm từ "ca khúc chủ đề" cũng có thể được sử dụng để chỉ một bài hát làm nên tên tuổi mà đã trở thành mối liên kết đặc biệt với người biểu diễn hoặc có vai trò quan trọng cụ thể trong bài hát; thường được sử dụng khi họ thể hiện thành công một bài hát làm say đắm lòng người. Mục đích của nhạc chủ đề thường tương tự với giai điệu chủ đạo. Nhiều video game nổi bật với những ca khúc chủ đề gắn liền với tên tuổi của chúng. Một ví dụ điển hình là "Prelude Theme" trong dòng game "Final Fantasy", được chơi ở hầu hết, nếu không phải tất cả, các màn hình chính (menu) của trò chơi gốc, nhất là từ "Final Fantasy I" đến "Final Fantasy IV". Những game mới hơn cũng có các nhạc chủ đề mới, mặc dù thường được hiện đại hóa và chơi trong phần chạy chữ hiện thông tin kết phim.
1
null
Nét chủ đạo (tiếng Đức: leitmotif , tiếng Anh: lightmotif) là một "tiết nhạc ngắn và lặp đi lặp lại liên tục" gắn liền với một người, địa điểm hoặc ý tưởng cụ thể. Nó có liên hệ chặt chẽ đến khái niệm âm nhạc "idée fixe" hay motto-theme. Thuật ngữ này là một từ Anh hóa từ tiếng Đức của "Leitmotiv", tạm hiểu là "nhạc tố dẫn đầu", hoặc có thể chính xác hơn là "nhạc tố chỉ đạo". Một nhạc tố được định nghĩa là "ý nhạc ngắn ... du dương, hài hòa hay theo nhịp, hoặc [kết hợp] cả ba", một nhịp nhạc bất kỳ nổi bật, đoạn nhạc hay các nốt tiếp theo có một số ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoặc đặc trưng của bài nhạc đang soạn". Mặc dù thường là một giai điệu ngắn, nét chủ đạo cũng có thể là một chuỗi hợp âm hoặc thậm chí là một nhịp điệu đơn giản. Nét chủ đạo có thể giúp để ràng buộc các phần nhạc lại với nhau thành một khối mạch lạc, và cũng cho phép các nhà soạn nhạc liên tưởng đến một câu chuyện mà không cần dùng lời nói, hoặc để cung cấp thêm cho câu chuyện đã được trình bày. Theo thời gian làm pha trộn, từ này cũng đã được sử dụng để định nghĩa là bất kỳ loại chủ đề trong văn học, hoặc (theo nghĩa bóng) cuộc đời của một nhân vật hư cấu hoặc một con người ngoài đời thật. Đôi khi nó cũng được dùng trong cuộc thảo luận về các thể loại âm nhạc khác, chẳng hạn như phối cụ, điện ảnh và nhạc trò chơi điện tử, đôi khi lẫn lộn với loại hình tổng quát hơn gọi là "nhạc chủ đề". Việc sử dụng như vậy thường làm lu mờ các khía cạnh quan trọng của nét chủ đạo-trái ngược với các nhạc tố hay nhạc chủ đề khác.
1
null
là ca sĩ, diễn viên, nhạc sĩ người Nhật Bản. Anh là thành viên của ban nhạc nam Nhật Bản Kanjani Eight và cũng là thành viên của nhóm idol nam NEWS hiện anh đã rời khỏi NEWS nhưng vẫn tiếp tục hoạt động ở Kanjani Eightcả hai nhóm đều dưới sự quản lý của tập đoàn giải trí Johnny & Associates. Tiểu sử. Nishikido Ryo sinh ra tại Hyogo vào ngày 3 tháng 11 năm 1984 và lớn lên ở Osaka.
1
null
Chính phủ Việt Nam giai đoạn 1976-1981 còn được gọi là Chính phủ Quốc hội khóa VI. Hội đồng Chính phủ được Quốc hội khóa VI phê chuẩn thông qua. Chính phủ khóa VI là chính phủ đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là chính phủ "sau thống nhất" đầu tiên của đất nước. Trong giai đoạn này, Chính phủ phải trải qua 2 cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc là Tây Nam và phía Bắc. Đồng thời bị sự bao vây cấm vận của các nước phương Tây, Chính phủ phải tự đương đầu gánh vác. Sau khi Hiến pháp 1980 được thi hành và công bố, trong Chính phủ đã cải tổ lại hoàn toàn cho phù hợp với Hiến pháp mới. Thành lập. Ngày 24/6/1976 kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa VI đã khai mạc tại Hà Nội, có 482/492 đại biểu tham dự. Đoàn Chủ tịch điều hành kỳ họp gồm 36 thành viên. Ngày 2/7/1976 Quốc hội đã nhất trí thông qua các nghị quyết về tên nước, Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô và Quốc ca của nước Việt Nam thống nhất.Đồng thời tiến hành bầu các vị lãnh đạo các cơ quan cao nhất của Nhà nước và thành lập Chính phủ mới để điều hành công việc của nước nhà.
1
null
Trong âm nhạc, cải biên (arrangement) hay biên khúc là chuyển thể từ một nhạc phẩm được sáng tác trước đó. Nó có thể khác với nhạc phẩm gốc ở việc hài hòa hóa, diễn giải lại giai điệu, biến tấu, hoặc phát triển cấu trúc bản nhạc. Cải biên khác với hòa âm, tức sắp xếp lại vị trí các nốt nhạc trong một buổi trình diễn dàn nhạc, hòa nhạc hoặc các đoàn thể khác. Cải biên "liên quan đến việc bổ sung thêm thành phần kỹ thuật, chẳng hạn các đoạn chuyển để giới thiệu, chuyển tiếp, hoặc điều chế và kết thúc... Cải biên là hình thức nghệ thuật làm đa dạng hơn giai điệu hiện có". Cải biên khác với remix; trong khi remix có thể được tái trình diễn qua pha trộn nhiều thể loại âm tố và tiết tấu khác nhau nhưng không thay đổi nền nhạc chính, cải biên ngược lại mang đến cho người nghe cảm giác mới về âm thanh và thường sử dụng một nhiều loại nhạc cụ hoàn toàn mới.
1
null
hay đầy đủ là , là hội chợ dōjinshi lớn nhất thế giới tổ chức hai lần mỗi năm ở Tokyo, Nhật Bản. Comiket đầu tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 12 năm 1975, với chỉ khoảng 32 circle doujin và 600 người tham dự. Số người tham dự tăng lên hàng năm và đến nay đã có hơn nửa triệu khách tham quan mỗi kỳ. Comiket ngày nay thường được tổ chức vào giữa tháng 8 (NatsuComi) và cuối tháng 12 (FuyuComi) hàng năm. Comiket là không gian nhắm đến của hầu hết nỗ lực tự sáng tác "dōjinshi", tự xuất bản và sản xuất tác phẩm. Bởi vì hàng hóa bày bán ở Comiket được coi là rất hiếm (do dōjinshi thường không được tái bản), một số mặt hàng có thể được tìm thấy trong các cửa hàng hoặc trên Internet với giá cao gấp 10 lần giá gốc của sản phẩm, và trong một số trường hợp, hơn 100 lần. Bên cạnh các mặt hàng tự xuất bản, Comiket còn là cơ hội kinh doanh của các cá nhân tên tuổi và tổ chức thương mại trong văn hóa otaku, cũng như thu sút sự tham gia của nhiều tập đoàn phần mềm máy tính. Duy trì hoạt động của Comiket là trách nhiệm của Ủy ban Trù bị Comic Market (ComiketPC).
1
null
Giao hưởng số 2, cung Đô thứ hay còn được goi là Giao hưởng Phục sinh là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Gustav Mahler. Ông viết bản giao hưởng này vào năm 1894. Tham gia biểu diễn bản giao hưởng có 2 ca sĩ đơn ca, hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng tham gia. Đây là bản giao hưởng đầu tiên của Mahler có sự kết hợp giữa thanh nhạc và khí nhạc. Điều này còn xuất hiện trong các bản giao hưởng khác của ông. Phần lời. Chương IV. <poem lang="de" style="float:left;">Tiếng Đức gốc Urlicht O Röschen rot! Der Mensch liegt in größter Not! Der Mensch liegt in größter Pein! Je lieber möcht' ich im Himmel sein. Da kam ich auf einen breiten Weg: Da kam ein Engelein und wollt' mich abweisen. Ach nein! Ich ließ mich nicht abweisen! Ich bin von Gott und will wieder zu Gott! Der liebe Gott wird mir ein Lichtchen geben, Wird leuchten mir bis in das ewig selig Leben! —"Des Knaben Wunderhorn"</poem> <poem style="margin-left:2em; float:left;">Dịch nghĩa Ánh sáng khởi nguyên Ôi, bông hồng bé nhỏ! Con người đứng giữa những nỗi khổ lớn nhất! Con người đứng giữa những nỗi đau lớn nhất! Làm sao tôi có thể đến thiên đường. Tôi đang đi trên một con đường rộng: Một thiên thần xuất hiện, bảo tôi quay trở lại. Không! Tôi sẽ không bao giờ quay trở lại! Chúa tạo ra tôi và tôi sẽ về với Chúa! Ngài sẽ ban cho tôi một tia sáng nhỏ, Tia sáng sẽ dẫn tôi đến một cuộc sống an lành vô tận!</poem> Chương V. <poem lang="de" style="float:left;">Original German Aufersteh'n, ja aufersteh'n Wirst du, Mein Staub, Nach kurzer Ruh'! Unsterblich Leben! Unsterblich Leben wird der dich rief dir geben! Wieder aufzublüh'n wirst du gesät! Der Herr der Ernte geht und sammelt Garben uns ein, die starben! —Friedrich Klopstock O glaube, mein Herz, o glaube: Es geht dir nichts verloren! Dein ist, ja dein, was du gesehnt! Dein, was du geliebt, Was du gestritten! O glaube Du wardst nicht umsonst geboren! Hast nicht umsonst gelebt, gelitten! Was entstanden ist Das muss vergehen! Was vergangen, auferstehen! Hör' auf zu beben! Bereite dich zu leben! O Schmerz! Du Alldurchdringer! Dir bin ich entrungen! O Tod! Du Allbezwinger! Nun bist du bezwungen! Mit Flügeln, die ich mir errungen, In heißem Liebesstreben, Werd' ich entschweben Zum Licht, zu dem kein Aug' gedrungen! Sterben werd' ich, um zu leben! Aufersteh'n, ja aufersteh'n wirst du, mein Herz, in einem Nu! Was du geschlagen zu Gott wird es dich tragen! —Gustav Mahler</poem> <poem style="margin-left:2em; float:left;">Dịch nghĩa Trỗi dậy đi, đúng rồi, hãy trỗi dậy đi, Hỡi hạt Bụi của ta, Sau một quãng nghỉ ngắn! Cuộc sống bất tử! Cuộc đời bất tử Ngài đang gọi ngươi, ban cho ngươi. Những hạt giống được gieo sẽ trổ hoa một lần nữa! Chúa, người thu hoạch, đang bước tới Ngài gặt, như thu về từng bó lúa, Tất cả chúng ta, những người đã chết.   Hãy tin tưởng, trái tim của ta, hãy tin tưởng: Ngươi không mất bất cứ thứ gì cả! Ngươi, chính ngươi, sẽ có tất cả; những gì ngươi khao khát Những gì ngươi yêu quý Nhũng gì mà ngươi đã đấu tranh! Hãy tin tưởng đi, Ngươi không sinh ra trong vô vọng! Ngươi không sống và chịu đựng trong vô vọng! Những gì được tạo ra Rồi sẽ phải tan biến, Những gì đã tan biến, chắc chắn sẽ trở lại! Đừng run rẩy! Hãy sẵn sàng sống lại! Hỡi Đau khổ, ngươi xuyên thấu mọi thứ, Nhờ ngươi, ta đã được giải thoát! Hỡi Chết chóc, ngươi khuất phục mọi thứ, Bây giờ, chính ngươi sẽ bị khuất phục! Với đôi cánh do chính ta mang lên, Với tình yêu mãnh liệt, Ta sẽ bay lên Ta sẽ tới nguồn ánh sáng mà chưa ai từng thấy! Ta sẵn sàng chết để tìm lẽ sống. Hãy trở lại đi, phải rồi, hãy đứng dậy đi, Trái tim của ta, chỉ trong một khoảng khắc thôi, ngươi sẽ được hồi sinh! Tất cả những gì ngươi trải qua, Sẽ đưa ngươi về với Chúa!</poem>
1
null
, cũng được gọi là ở Nhật Bản, là tiểu thể loại của các hoạt động dōjin. Dōjin về cơ bản là các hoạt động tự xuất bản tác phẩm không chính thức bằng tiếng Nhật, có thể dựa theo những sản phẩm chính thức hoặc tạo ra các sản phẩm mới hoàn toàn cả về hình thức lẫn khái niệm. Các sản phẩm như vậy được bán trực tuyến trên các trang web chuyên biệt, trên website của chính tác giả và trong các hội nghị rất nổi tiếng như Comic Market (Comiket). Nhạc dōjin tự bản thân nó không phải là một thể loại âm nhạc, nhưng là dấu ấn về một phương diện đặc biệt của nhạc phẩm được xuất bản. Nhạc dōjin bao gồm rất thường xuyên nhạc cải biên từ video game do người hâm mộ thực hiện. Nhiều bài nhạc dōjin nguyên bản không chỉ được bán riêng, mà còn được sáng tác để dùng trong những dōjin game. Nhạc dōjin có thể mở rộng sang rất nhiều thể loại nhạc, từ pop, rock, techno đến trance. Về bản chất, nhạc dōjin thường được tự sản xuất với chi phí thấp, bởi các ca-nghệ sĩ độc lập. Các phần mềm âm nhạc tiện lợi thường được rất nhiều nghệ sĩ sáng tác nhạc dōjin chọn sử dụng, vì nó rẻ hơn so với nhạc cụ trực tiếp trong phòng thu. Như vậy, nhạc dōjin gần như là đa dạng về chất lượng. Tùy vậy, việc trang bị đầy đủ thiết bị ngày càng trở nên phổ biến hơn trong giới âm nhạc dōjin. Nghệ sĩ thực hiện bản nhạc dōjin có thể solo (làm một mình) hay là một ban nhạc. Việc các thành viên của nhiều ban và nhóm nhạc khác nhau cùng cộng tác trong một album là rất phổ biến. Một số dự án, như Woodsoft, là sự hợp tác của một số nghệ sĩ nhất định đóng góp cho từng album được họ phát hành. Mỗi thành viên trong nhóm thường có website của riêng mình, nơi mà họ ra mắt các nhạc phẩm cá nhân để tải về miễn phí và có thể cung cấp thông tin cập nhật về sự tham gia của họ trong album sắp tới. Một số nghệ sĩ thực sự không bao giờ phát hành album và tiếp tục sự nghiệp nghệ sĩ của mình dưới hình thức phi lợi nhuận. Khi lên kế hoạch bán công khai như trong Comiket, các nghệ sĩ thường mời một hay nhiều họa sĩ dōjin (dōjinka) vẽ minh họa booklet và bìa đĩa nhạc của họ, thường là gắn với chủ đề của tác phẩm liên quan đến anime và bishōjo game như visual novel. Cũng giống như các tác giả dōjinshi, nhiều ca-nghệ sĩ nghiệp dư chọn tham gia vào một dự án nhạc dōjin để giới thiệu bản thân trước công chúng và gây sự chú ý đến một mức độ nhất định, để có thể tiến bước thực thụ vào ngành công nghiệp âm nhạc của Nhật Bản. Một số nghệ sĩ hay ban nhạc dōjin cũng hợp tác với các công ty, doanh nghiệp anime và video game, và trong những lúc như vậy họ hoạt động như một nghệ sĩ chuyên nghiệp theo hợp đồng chính thức. Một số ca-nghệ sĩ và ban nhạc dōjin hoặc khởi đầu bằng sáng tác nhạc dōjin nổi tiếng gồm Sound Horizon, Supercell, Shikata Akiko, Annabel, Chata, Shimotsuki Haruka, v.v... Đôi khi, người ta có thể viết lại lời bài hát của một ca khúc anime hiện có để tạo ra một bài nhạc dōjin, hoặc chèn ca từ vào một nhạc phẩm anime không lời. Những bài nhạc dōjin như vậy gọi là . Các nghệ sĩ sáng tác nhạc bằng phần mềm tổng hợp giọng hát Vocaloid được gọi là , dù không phải toàn bộ Vocalo-P đều là nhạc sĩ dòng dōjin.
1
null
Giao hưởng số 3, cung Rê thứ là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Gustav Mahler. Ông viết tác phẩm này vào năm 1896. Tham gia biểu diễn bản giao hưởng này gồm có đơn ca, hợp xướng nữ, hợp xướng thiếu nhi và dàn nhạc giao hưởng. Đây là bản giao hưởng dài nhất mà ông đã sáng tác, cũng là bản giao hưởng dài nhất trong lịch sử nhạc cổ điển. Thời gian để biểu diễn hoàn chỉnh tác phẩm này lên tới từ 90 đến 100 phút, tức là nếu ai để ý sẽ thấy bản giao hưởng này có thời lượng gấp đôi, thậm chí gấp ba các bản giao hưởng khác (Lấy ví dụ là bản giao hưởng số 40 của Wolfgang Amadeus Mozart cũng chỉ kéo dài có đến hơn 26 phút). Sở dĩ như vậy vì tác phẩm này có đến 6 chương, được chia thành 2 phần. Nếu tính toán tiếp, số chương của tác phẩm này đã gấp 1,5 đến 2, thậm chí đến hơn thế các bản giao hưởng khác (Ví dụ tiếp theo là bản giao hưởng số 5 của Jean Sibelius cũng chỉ có 3 chương, thậm chí bản số 7 của ông chỉ có 1 chương duy nhất). Những điều đó đủ thấy bản giao hưởng số 3 của Mahler này đồ sộ như thế nào.
1
null
Tích Khánh Tiêu Thái hậu (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là Trinh Hiến hoàng hậu (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và là mẹ của Đường Văn Tông Lý Ngang trong lịch sử Trung Quốc. Tiểu sử. Tích Khánh Thái hậu Tiêu thị nguyên quán huyện Mân, nay là Phúc Châu, Phúc Kiến. Tiêu thị trở thành phi thiếp của Đường Mục Tông khi ông còn là Kiến An vương. Khi bà rời quê, cha mẹ bà đã qua đời, còn lại một người em trai sống ở quê. Năm Nguyên Hòa thứ 4 (809), Tiêu thị hạ sinh Lý Ngang, tức Đường Văn Tông sau này. Năm Trường Khánh nguyên niên (821), lúc này Mục Tông đã đăng cơ, con trai bà là Lý Ngang được phong làm Giang vương (江王). Tuy nhiên, không rõ địa vị phi tần của bà trong hậu cung. Theo lý, bà có lẽ sẽ trở thành ["Giang Vương thái phi"] do con trai được phong tước Vương, song đến nay vẫn không có tài liệu nào chắc chắn vấn đề này. Hoàng thái hậu. Hiển quý. Năm Bảo Lịch thứ 2 (826), mùa xuân, Đường Kính Tông Lý Đam bị ám sát. Hoạn quan Lưu Khắc Minh (劉克明) muốn khống chế triều đình và đưa con trai của Đường Hiến Tông là Giáng vương Lý Ngộ (李悟) làm Hoàng đế. Ngày 10 tháng 1 cùng năm, Khắc Minh giả di chiếu, đưa Giáng vương ra gặp chư tể tướng. Bọn Khắc Minh lại bố trí tay chân nắm giữ cung điện, mưu trừ các hoạn quan khác. Nhóm hoạn quan gồm Xu mật sứ Vương Thủ Trừng (王守澄), Trung úy Lương Thủ Khiêm (梁守謙), Ngụy Tòng Gián (魏從簡) nghe tin có biến động, bèn tập hợp binh lính tiến vào cung diệt tặc, đồng thời cho đón Giang vương Lý Ngang vào cung. Cuối cùng, quân Thần Sách của Vương Thủ Trừng và quân Phi Long giết chết hết bọn loạn đảng Lưu Khắc Minh, Giáng vương Ngộ cũng chết trong loạn quân. Ngày 13 tháng 1, Giang vương Lý Ngang chính thức lên ngôi, trở thành Đường Văn Tông. Ngày 16 tháng 1 cùng năm, Văn Tông tôn mẹ là Tiêu thị làm Hoàng thái hậu. Sách tôn viết: Theo vai vế, Văn Tông là em của Kính Tông, do đó mẹ của Kính Tông là Vương Thái hậu không tôn làm Thái hoàng thái hậu, mà lấy niên hiệu Bảo Lịch để làm tôn hiệu, gọi Bảo Lịch Thái hậu (寶曆太后). Lúc đó, Quách Thái hoàng thái hậu có địa vị cao nhất nên được bố trí ở Hưng Khánh cung (興慶宮), Vương Thái hậu ở Nghĩa An điện (義安殿), còn Tiêu Thái hậu sống ở trong Đại nội, đương thời xưng gọi [Tam cung Thái hậu; 三宮太后]. Đường Văn Tông vốn tính hiếu thuận, phụng sự Tam cung đều như nhau. Mỗi khi các nơi tiến công kì trân dị vật thì trước đưa đến tông miếu, tiếp đó dâng đến Tam cung còn dư thừa mới để tự mình chi dùng. Truy tìm em trai. Được hiển quý, Tiêu Thái hậu nhớ đến người thân là đứa em trai duy nhất, bà bèn thỉnh cầu Văn Tông. Sau khi nghe đến, Văn Tông lệnh cho Tiết độ sứ Phúc Kiến tìm kiếm người em trai đã thất lạc của bà, nhưng không tìm ra. Tình cờ, một công nhân làm trà là Tiêu Hồng (蕭洪), tìm kiếm người chị thất lạc của mình. Một thương nhân Triệu Chuẩn (趙縝) đã giới thiệu Tiêu Hồng với con rể Từ phu nhân là Lữ Chương (呂璋). Từ phu nhân không xác minh được nên dẫn Tiêu Hồng đến gặp Tiêu Thái hậu. Văn Tông tin Tiêu Hồng là cậu mình, cho vào hàng quốc thích làm việc ở cung Thái tử. Tiêu Hồng sau đó trở thành Thống lĩnh cấm quân, sau đó nữa thành Tiết độ sứ Hà Dương (河陽), sau đó chuyển sang Phu Phường (鄜坊) Tuy nhiên, một thời gian sau, quan đại thần Lý Huấn (李訓) cho rằng Tiêu Hồng không phải em trai của Thái Hậu. Lo lắng, Tiêu Hồng tìm cách lấy lòng em trai Lý Huấn là Lý Trọng Nguyên (李仲京). Lúc đó, một vài hoạn quan Thần Sách quân (神策軍) được gửi đến để phục vụ Tiết độ sứ, ban đầu được trả phí đi đường, nhưng sau đó lại đòi trả gấp ba sau khi đến. Một trong số Tiết độ sứ tiền nhiệm của Phu Phường là người trong Thần Sách quân, nhưng đã chết trước khi Tiêu hoàn trả chi phí. Chủ nợ không hài lòng, muốn Tiêu Hồng chi trả cho người tiền nhiệm, Tiêu khước từ. Khi chủ nợ thử đòi con trai người tiền nhiệm, Tiêu bảo người con đó tìm Lý Huấn can thiệp. Lý Huấn ra lệnh cho người con trên từ chối trả nợ. Sau khi Lý Huấn bị giết trong Sự biến Cam Lộ, hoạn quan quyền lực Cừu Sĩ Lương (仇士良) trở nên hiềm khích với Tiêu Hồng. Trong khi đó, em trai thật sự của Tiêu thái hậu vẫn còn ở Phúc Châu. Tiêu Bổn (蕭本), một người họ hàng, thông qua bàn luận xác định được là thành viên trong gia đình họ Tiêu. Tiêu Bổn trình báo với Cừu, kết tội Tiêu Hồng giả mạo làm em trai Thái hậu. Năm Khai Thành nguyên niên (836), Tiêu Hồng bị lưu đày đến Hoan Châu (驩州), nhưng trước khi đi thì bị ban chết. Đường Văn Tông tin rằng Tiêu Bổn thật sự là cậu mình, cho vào hàng quốc thích, làm việc trong cung của Thái tử Lý Vĩnh. Năm Khai Thành thứ 2 (837), Phúc Châu xuất hiện một người tên Tiêu Hoằng (蕭弘), cho rằng mới thật sự là em trai Tiêu thái hậu. Văn Tông lệnh cho Ngự sử đài (御史台) điều tra sự thật. Hơn một năm sau, điều tra kết luận Tiêu Hoằng bịa đặt, lừa dối. Văn Tông đuổi về nhưng không trừng phạt. Năm thứ 4 (839), Lưu Tòng Gián (劉從諫), Tiết độ sứ của Chiêu Nghĩa (昭義), đệ trình xác nhận lại thân thế Tiêu Hoằng, cho rằng cuộc điều tra trước đó có sự mua chuộc của Tả Thần Sách quân (左神策軍) ủng hộ Tiêu Bổn. Lần này, Văn Tông lệnh cho cả Hình Bộ (刑部) và Đại Lý Tự (大理寺) thẩm tra sự thật. Thời gian sau, cả ba cơ quan thẩm tra đều kết luận Tiêu Bổn lẫn Tiêu Hoằng đều không phải em trai của Tiêu Thái hậu. Tiêu Bổn bị lưu đày đến Ái Châu (愛州). Tiêu Hoằng bị đày đến Đam Châu (儋州). Em trai thật sự của Thái hậu vẫn lưu lạc ở Phúc Châu và không giờ tìm được nữa Cuối đời. Năm Khai Thành thứ 5 (840), Đường Văn Tông băng hà, không có hậu duệ. Theo thứ tự thừa kế, em trai Văn Tông là Đường Vũ Tông Lý Viêm nối ngôi. Vào lúc này, Tiêu Thái hậu được chuyển đến sống tại Tích Khánh điện (積慶殿), vì thế bà có phong hiệu là Tích Khánh thái hậu (積慶太后). Bà sống qua 6 năm dưới triều Đường Vũ Tông, chứng kiến một em trai khác của Mục Tông là Đường Tuyên Tông lên ngôi. Năm Đại Trung nguyên niên (847), ngày 1 tháng 6, Tích Khánh điện Hoàng thái hậu Tiêu thị qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Theo chuẩn của một Thái hậu, bà được truy phong thụy hiệu là Trinh Hiến hoàng hậu (貞獻皇后). Nhưng sử sách không ghi rõ nơi mà bà an táng, có lẽ cũng là một khuôn viên trong Quang lăng (光陵) - lăng mộ của Mục Tông.
1
null
Giao hưởng số 8, cung Mi giáng thứ hay còn gọi là Giao hưởng một nghìn người là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Gustav Mahler. Bản giao hưởng này được Mahler viết vào năm 1907. Tham gia biểu diễn bản giao hưởng có đơn ca, hợp xướng kép, hợp xướng thiếu nhi và đàn organ. Nếu bản giao hưởng số 3 của ông trở thành bản giao hưởng dài nhất thì bản này là bản có số người tham gia đông nhất với sự tham gia của khoảng 1000 người.
1
null
Trò chơi thẻ sưu tập, thường được biết đến nhiều hơn qua tên tiếng Anh: trading card game (TCG) hoặc colletible card game (CCG), là một loại thẻ bài trò chơi sử dụng thiết kế đặc biệt của bộ bài Tây. Các trò chơi thẻ bài thành công thường có hàng ngàn thẻ độc nhất, với "" là trò chơi đầu tiên và thành công nhất với trên 16.000 thẻ khác nhau. Nói một cách cơ bản, yêu cầu của loại trò chơi dùng thẻ này là người chơi phải sưu tầm những quân bài với những hình ảnh và thuộc tính khác nhau, được sản xuất và phát hành hàng loạt, và phải có những suy tính chiến lược để có thể thắng trong cuộc giao đấu. Định nghĩa TCG qua nhiều tinh chỉnh trở thành một thẻ trò chơi mà trong đó người chơi sử dụng bộ bài của riêng mình chứa những thẻ sở hữu cấp bậc và tính chất ngẫu nhiên. Có thể mua các bộ thẻ này bằng cách trao đổi với bạn cùng chơi hoặc mua một bộ thẻ chính thức. Thông thường, một TCG ban đầu được chơi bằng cách sử dụng một "trial deck" (bộ thẻ mẫu), trong đó bổ sung cơ bản các thẻ có thể được sử dụng để chơi trò chơi. Các thẻ này có thể được mở rộng hoặc thay đổi qua bộ thẻ tăng cường, trong đó có những thẻ hiếm được sắp đặt theo sự may rủi, thường từ 8 đến 15 thẻ. Một trong các thẻ này là thẻ hiếm hoặc là thẻ duy nhất mà khó khăn hơn nhiều để có được so với các thẻ còn lại và thường có giá trị cao hơn so với toàn bộ quân bài hiện có. TCG thu hút người chơi không chỉ vì tính chất đấu bài theo thuộc tính của nó, mà còn ở việc thẻ sử dụng những hình minh họa bắt mắt. Trong nhiều trường hợp, thẻ càng có giá trị cao khi nó được thiết kế và minh họa nổi bật và đẹp mắt hơn các thẻ khác. TCG đặc biệt nổi tiếng tại Nhật Bản, nơi nhiều bộ anime, manga và video game có những sản phẩm phái sinh là thẻ bài giao đấu. Hai trong những tác phẩm nổi tiếng và có sức ảnh hưởng nhất về lâu dài thông qua TCG là "Pokémon" và "Yu-Gi-Oh!". TCG ngày nay cũng được kỹ thuật số hóa trên Internet (tiêu biểu như "Kantai Collection"), mặc dù sau đó nhà sản xuất có thể phát hành một phiên bản thẻ in thật sự cho chúng. TCG đầu tiên, "," được phát triển bởi Richard Garfield và xuất bản bởi Wizards of the Coast vào năm 1993. Đến cuối năm 1994, "Magic: The Gathering" đã bán được hơn 1 tỷ thẻ bài; trong thời kỳ phổ biến nhất - từ năm 2008 đến năm 2016 - trò chơi đã bán được hơn 20 tỷ lá bài. Thành công ban đầu của "Magic: The Gathering" đã thúc đẩy các nhà phát hành trò chơi khác cho ra đời phiên bản TCG của riêng họ trong những năm tiếp theo. Các TCG thành công khác bao gồm "Yu-Gi-Oh!" ước tính đã bán được khoảng 35 tỷ thẻ bài , và "Pokémon" với hơn 34 tỷ thẻ được bán tính đến tháng 3 năm 2021. Các TCG đáng chú ý khác bao gồm "Legend of the Five Rings", "Star Wars", "Lord of the Rings", "", và "World of Warcraft". Nhiều TCG ra đời nhưng đạt được thành công rất hạn chế về mặt thương mại. Gần đây, các trò chơi thẻ bài online (Digital collectible card game - DCCG) đã trở nên phổ biến, được thúc đẩy bởi thành công của các phiên bản trực tuyến của TCG như "" và Hearthstone.
1
null
là một trò chơi thẻ bài giao đấu (TCG) Nhật Bản do Bushiroad tạo ra. Trò chơi được chia thành mặt-Weiß và mặt-Schwarz. Weiß và Schwarz nghĩa là màu trắng và đen trong tiếng Đức. Theo nguyên tắc chung, các loạt thẻ dưới nhãn Weiß thường có thuộc tính tốt hơn khi so sánh với những thẻ Schwarz. Tuy nhiên, với hàng loạt phiên bản mới được bù đắp qua lại, không có nhiều sự khác biệt giữa hai loại thẻ. Weiß Schwarz chủ yếu có thiết kế thẻ dựa trên những anime và bishōjo game nổi tiếng, theo thỏa thuận với phía đối tác sở hữu bản quyền những tác phẩm này.
1
null
Lycèe Trading Card Game là một trò chơi thẻ bài giao đấu Nhật Bản phát triển bởi Silver Blitz và phát hành bởi Broccoli trong đó gần như chỉ sử dụng các nhân vật trong những trò chơi máy tính thể loại visual novel. "Lycée" là một từ tiếng Pháp có thể dịch thô là 'cao trung'. Hầu hết thẻ đều sử dụng thiết kế của người hâm mộ. Có năm cấp độ thẻ: thông thường, phổ biến, hiếm, khuyến mãi và may mắn. Thẻ 'may mắn' là giá trị nhất, và có thể bán lại với giá lên đến 9.800 yen tại các cửa hàng sử dụng lần hai ở Nhật Bản. Trong khi đó, thẻ 'hiếm' được bán với giá từ 50 đến 1.200 yen. Các loại thẻ. Có bốn 'loại' thẻ khác nhau: nhân vật, sự kiện, vật dụng và khu vực. Ngoài ra, mỗi thẻ thuộc về một trong năm 'thuộc tính': , , , , và . Ngoài ra còn có thẻ trả phí với biểu tượng hình ngôi sao.
1
null
Quân đội Hòa Hảo hay Bộ đội Hòa Hảo, là tên thông dụng để gọi các đơn vị quân sự của Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực, còn được gọi tắt là Bộ đội Nguyễn Trung Trực. Đây là những tên gọi khác nhau để chỉ các đơn vị quân sự vũ trang dưới danh nghĩa của các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, tồn tại ở miền Tây Nam bộ Việt Nam như những thế lực quân phiệt cát cứ từ năm 1946 đến năm 1956. Lược sử. Hình thành. Khi Nhật Bản xâm nhập Đông Dương, Pháp lo ngại Nhật tranh thủ giáo phái Phật giáo Hòa Hảo nên đã câu thúc giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ở Châu Đốc, Bạc Liêu, Cần Thơ. Năm 1942, Nhật vận động được giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo về Sài Gòn. Tại đây ông đã vận động được nhiều nhân vật hoạt động chính trị thân Nhật vào Phật giáo Hòa Hảo để gây thanh thế, đồng thời thời gian này nhiều thanh niên theo Phật giáo Hòa Hảo cũng tham gia các tổ chức của Nhật. Năm 1944, Hòa Hảo thành lập lực lượng vũ trang dưới tên gọi Đội Bảo an. Thế lực cát cứ. Tây Nam Bộ là nơi phát tích của giáo phái Hòa Hảo. Sau Cách mạng tháng Tám, Ủy ban Hành chính Nam Bộ mời giáo chủ Huỳnh Phú Sổ giữ chức ủy viên đặc biệt của Ủy ban. Tuy nhiên, một số lãnh đạo Phật giáo Hòa Hảo đã đòi giao những tỉnh có đông tín đồ như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc cho họ trực tiếp cai quản. Khi yêu sách này không được đáp ứng, họ 2 lần tổ chức biểu tình tuần hành, kéo vào thị xã Long Xuyên (cuối tháng 8-1945) và thị xã Châu Đốc (đầu tháng 9-1945) định cướp chính quyền. Lực lượng vũ trang Việt Minh được huy động đến kịp thời giải tán. Ngày 9 tháng 9 1945, những người đứng đầu Phật giáo Hòa Hảo lại tổ chức tuần hành ở thị xã Cần Thơ, kêu gọi với tín đồ đi rước Đức Thầy, thực chất là dự định đoạt chính quyền. Được cấp báo, chính quyền tỉnh Cần Thơ phá tan mưu đồ này, bắt những người cầm đầu, đưa ra tòa xét xử và kết án tử hình 3 người.. Ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại Chợ Mới (Long Xuyên), Nguyễn Hữu Xuyến, Trung đoàn trưởng Khu 8 Việt Minh đã ký với lãnh tụ Trần Văn Soái (Năm Lửa) một thỏa ước nhằm gác mọi tị hiềm để cùng nhau đoàn kết chống Đế quốc thực dân Pháp. Thỏa ước này gồm 3 điều khoản: Ngày 18 tháng 12 năm 1946, tại chiến khu Bình Hòa (Tân An), Hòa Hảo tổ chức lại lực lượng vũ trang lấy tên Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực, bao gồm 7 chi đội vũ trang với khoảng 20.000 binh sĩ và 300.000 đội viên bảo an quân. Tên gọi của lực lượng Bộ đội Nguyễn Trung Trực nhằm gợi nhắc cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp của anh hùng Nguyễn Trung Trực. Sau một thời gian tạm hòa hoãn với Việt Minh, từ tháng 3-1947, nhóm Trần Văn Soái không tham gia kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo nữa, mà cùng một tiểu đoàn Lê dương Pháp mở cuộc càn quét lớn vào 5 làng ở vùng Tân Châu (Châu Đốc). Đại đội 65 Vệ quốc Đoàn cùng du kích địa phương đã đánh trả quyết liệt, buộc lực lượng của Năm Lửa và quân Pháp phải rút lui. Chia rẽ. Ngày 16 tháng 4 năm 1947, Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ đột ngột mất tích khi đến Tân Phú (Đồng Tháp Mười) để hòa giải xung đột giữa Việt Minh và Phật giáo Hòa Hảo. Các tài liệu của phương Tây và Việt Nam Cộng hòa đều cho rằng Việt Minh thủ tiêu ông. Sau khi Huỳnh Phú Sổ mất tích, Pháp lôi kéo những người đứng đầu Hòa Hảo có quan điểm chống Việt Minh, lập ra nhiều đơn vị vũ trang mới ngoài những đơn vị vũ trang Hòa Hảo khác thành lập từ năm 1944, chiếm cứ một số vùng ở Tây Nam Bộ. Được Pháp trợ giúp, các nhóm giáo phái Hòa Hảo chống Việt Minh tập hợp thành 4 nhóm quân phiệt cát cứ, gồm: Năm 1947, các lực lượng Việt Minh vừa tổ chức tuyên truyền vũ trang, vừa mở một chiến dịch lớn tại Kinh 13. Chỉ huy quân sự của Dân Xã Hòa Hảo kêu gọi tín đồ: "Súng Việt Minh bắn không nổ !", xua quân tràn vào trận địa của Việt Minh. Lực lượng vũ trang của Việt Minh cũng đánh trả kịch liệt quân của Dân Xã Hòa Hảo. Ở khu vực giữa Phú An - Phú Lâm (Tân Châu), Đại đội 65 đánh bật lực lượng của Dân Xã ra khỏi vùng này. Việt Minh mở rộng công tác vũ trang tuyên truyền về hướng Thoại Sơn, tiếp tục tấn công Ba Thê, đánh lính lê dương đi tàu sắt đổ bộ lên Mốp Văn và Núi Sập, diệt hơn 200 quân. Dù Phật giáo Hòa Hảo có tín đồ rất đông ở miền Tây, nhất là các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Cần Thơ..., lại có tổ chức chính trị nòng cốt là Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng, nhưng giữa các lãnh đạo tôn giáo và các quân phiệt thường xuyên có những bất đồng, dẫn đến nhiều diễn biến phức tạp gây phân hóa nội bộ. Vì vậy, khi Việt Minh tích cực vận động, đa số tín đồ Hòa Hảo là nông dân, lần lượt tham gia công cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo. Đặc biệt, với sự tham gia của Mười Trí, một chỉ huy quân sự kháng chiến có uy tín lớn, đồng thời từng được Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ căn dặn các tín đồ xem như là Sư thúc của Đạo sau khi ông qua đời, đã có tác động rất lớn đến việc vận động tín đồ Hòa Hảo tham gia kháng chiến. Tháng 6 năm 1947, nhằm lôi kéo tín đồ Hòa Hảo tạo thành khối đoàn kết các lực lượng chống Pháp, Việt Minh thành lập Ban Hòa Hảo vận tại Chợ Mới - Nhà Bàng, tập trung hoạt động vùng Long Xuyên, Châu Đốc, tuyên truyền chính sách "đại đoàn kết dân tộc, vận động tín đồ Hòa Hảo cùng toàn dân kháng chiến chống xâm lược Pháp". Trái lại, các lãnh tụ Dân Xã Hòa Hảo lại phát động một cuộc thanh trừng tại Tây Nam Bộ vào ngày 6 tháng 4 năm 1947. Những người dân không theo Dân Xã Hòa Hảo đều bị xem là kẻ thù, bị giết, buộc đá vào cổ, thả trôi sông, đồng thời quân đội Dân Xã còn tổ chức các vụ cướp phá tại Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ. Điều này gây nên sự bất mãn sâu sắc trong số đông tín đồ, đẩy họ về phía Việt Minh, hoặc ít nhất, trung lập. Trong những năm 1949 - 1950, nhiều đồn bốt đã án binh bất động, "trung lập hóa", không đàn áp dân chúng và tránh không đụng độ với lực lượng Việt Minh. Xung đột với chính phủ Ngô Đình Diệm và kết cuộc. Chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa sau khi thành lập năm 1955 liền mở những cuộc hành quân mang tên "Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng" rồi "Chiến dịch Nguyễn Huệ" để bình định các giáo phái hầu thống nhất quân lực. Các lãnh tụ Hòa Hảo như tướng Trần Văn Soái (biệt danh Năm Lửa) rút về cố thủ Đồng Tháp; tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) thì đem quân về chống giữ ở Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá. Bị truy nã Trần Văn Soái ra hàng còn Lê Quang Vinh thì bị bắt, sau đem xử tử. Năm 1956 được ghi nhận là thời điểm tồn tại cuối cùng của lực lượng vũ trang Hòa Hảo.
1
null
Miracast (còn được gọi là phản chiếu màn hình ) là một tiêu chuẩn cho các kết nối không dây từ thiết bị gửi (chẳng hạn như máy tính xách tay, máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh) đến thiết bị thu hiển thị (chẳng hạn như TV, màn hình không dây hoặc máy chiếu), được giới thiệu vào năm 2012 bởi liên minh Wi-Fi. Nó có thể được mô tả là "HDMI qua Wi-Fi", thay thế cáp từ thiết bị đến màn hình.
1
null
ROKS Son Won Il (SS-072) là chiếc đầu tiên trong lớp tàu ngầm Son Won Il của Hải quân Hàn Quốc. Tàu do công ty Hyundai Heavy Industries đóng, bắt đầu từ tháng 10 năm 2002. Ngày 9 tháng 6 năm 2006, tàu hạ thủy và chính thức đưa vào biên chế ngày 27 tháng 12 năm 2007. Tàu được đặt theo tên của Phó đô đốc Son Won-Il, tư lệnh Hải quân Hàn Quốc đầu tiên.
1
null
Trường Trung Học Phổ Thông Võ Nguyên Giáp (Trường THPT Số 1 Sơn Tịnh) là trường Công lập trực thuộc Sở GD&ĐT tỉnh Quảng Ngãi, được thành lập năm 1975 Lịch sử Nhà trường. Đây là trường cấp III đầu tiên của huyện Sơn Tịnh. Trường tọa lạc tại trung tâm thị trấn Sơn Tịnh (nay là phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi - do thay đổi địa giới hành chính), trên bờ Bắc sông Trà Khúc, ở gần núi Thiên Ấn. Tên Trường trùng với tên Huyện, đều là Sơn Tịnh. So với các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, người Sơn Tịnh có quyền tự hào về quê hương của mình – mảnh đất địa linh, nhân kiệt. Lúc mới thành lập, cơ sở của Trường hiện nay là chung cho 2 trường (Trường cấp II Tịnh Ấn và Trường cấp III Sơn Tịnh) với 9 phòng học nhà cấp 4 được xây dựng từ những năm cuối thập kỷ 60. Năm 1977, cơ sở trên chuyển giao cho Trường cấp III (Trường cấp II chuyển địa điểm). Từ năm 1986, đặc biệt là từ những năm 1990 trở lại đây, khi giáo dục được xem là động lực của sự phát triển, giáo dục là quốc sách hàng đầu, Nhà nước đã có chú trọng nhiều hơn đến sự đầu tư cho giáo dục. Do vậy, đến nay, Trường THPT số 1 Sơn Tịnh ( THPT Võ Nguyên Giáp ) đã có những đổi sắc thay da. Trường có một cơ ngơi khang trang, với bốn khối công trình được xây dựng kiên cố, được bố trí thành hình chữ U, cổng Trường hướng về phía Đông; sân trường đã được bê tông hóa và rợp bóng cây xanh mát. Diện tích sân Trường tuy nhỏ so với yêu cầu nhưng có không gian rất ấm áp và thân thiện. Diện tích của Trường được mở rộng thêm gần gấp đôi so với buổi đầu Trường mới thành lập. Phòng học, phòng làm việc, phòng chức năng, trang thiết bị, dụng cụ và nhà thi đấu đa năng đảm bảo cho mọi hoạt động của Nhà trường với số lượng khoảng 2.000 học sinh. Năm 2014, trường đổi tên thành Trường THPT Võ Nguyên Giáp. Hội đồng Sư phạm. Ban Giám hiệu gồm có 4 Thầy, Cô giáo, với 1 Hiệu trưởng và 3 Hiệu phó phụ trách các chuyên môn. Nhà trường có đội ngũ gồm 100 thầy, cô giáo giàu kinh nghiệm và tình yêu học trò cũng như nghề nghiệp. Có hơn 10 Giáo viên Giỏi cấp tỉnh, 30 Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 5 Giáo viên trung học cao cấp, 7 Thạc sĩ và 100% Giáo viên đạt chuẩn. Ngoài ra, các Thầy, Cô giáo trong Nhà trường liên tục được Đảng và Chính quyền khen, tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh". Được Sở và Bộ nêu gương trong cuộc thi Giáo viên dạy học theo Chủ đề tích hợp. Thành tích. Trong năm học đầu tiên, nhà trường chỉ có chưa đến 500 Học sinh và số lượng học sinh đỗ tốt nghiệp chỉ có 51 (năm 1976). Đến nay, số lượng học sinh tốt nghiệp hằng năm trung bình khoảng 600 học sinh. Vốn chăm chỉ, cần cù và say mê sáng tạo, học hỏi, học sinh đã tạo được nhiều tiếng thơm cho trường. Bộ mặt và uy tín của Nhà trường cũng được góp phần tạo dựng nên từ các em. Tỉ lệ đỗ Đại học trong những năm gần đây của học sinh Nhà trường là khoảng 63%, đó cũng chính là động lực để các em còn đang học và sẽ học ở Trường tiếp tục cần mẫn và ham học hơn. Cùng với tỉ lệ đỗ đại học như vậy, số lượng học sinh của trường tham dự các cuộc thi Học sinh Giỏi Quốc gia, và Miền Trung - Tây Nguyên, cuộc thi giải Toán qua mạng Internet, Tiếng Anh qua mạng Internet, cuộc thi Khoa học - Kỹ thuật, cuộc thi Vận dụng kiến thức Liên môn... ngày đang tăng. Nhà trường còn vinh dự được đón nhận "Huân chương lao động Hạng Ba" của Chính phủ, bằng khen, giấy chứng nhận từ Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh Quảng Ngãi, cờ thi đua của Chính phủ. Chi bộ Đảng CSVN và Đoàn Thanh niên luôn giữ vững danh hiệu "Trong sạch và Vững mạnh".
1
null
Ga Sinnae (Tiếng Hàn: 신내역, Hanja: 新內驛) là ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm Seoul tuyến số 6 và Tuyến Gyeongchun ở Sinnae-dong, Jungnang-gu, Seoul. Trên Tàu điện ngầm Seoul tuyến 6, ga này là ga duy nhất trên mặt đất và có một chuyến tàu hoạt động vào ban đêm.
1
null
Giuseppe Torelli (22/4/1658 - 08/2/1709) là nghệ sĩ đàn violon, viola, nhà soạn nhạc và giáo viên người Ý. Torelli được nhớ đến nhiều nhất với những đóng góp của mình cho sự phát triển của các concerto viết cho nhạc cụ, đặc biệt là các concerto grosso và concerto viết cho bộ dây; cũng như là nhà soạn nhạc Baroque viết nhiều nhất cho trumpet. Torelli được sinh ra ở Verona. Người ta không biết người mà ông học violin dù đã được suy đoán rằng ông là một học trò của Leonardo Brugnoli hoặc Bartolomeo Laurentinhưng chắc chắn rằng ông đã học với Giacomo Antonio Perti. Ngày 27 tháng 6 năm 1684, ở tuổi 26, ông trở thành một thành viên của Accademia Filarmonica. Năm 1698, ông đảm nhiệm vai trò nhạc trưởng cho triều đình vua Georg Friedrich II. Tháng 2 năm 1701, ông đến Bologna Ông qua đời tại Bologna vào năm 1709, nơi mà bản thảo của ông được bảo tồn trong kho lưu trữ San Petronio.
1
null
Demo game, demo trò chơi hay phiên bản dùng thử là một bản phân phối miễn phí của một video game sắp ra mắt hay vừa mới phát hành. Các demo thường được sản xuất bởi hãng phát hành nhằm giúp người tiêu dùng cảm nhận qua trước trò chơi trước khi quyết định mua một phiên bản đầy đủ. Demo có thể được ra mắt ở nhiều định dạng khác nhau. Hệ thống sử dụng vỏ chứa thường không có bản demo, do chi phí nhân bản, trong khi đó hệ thống hỗ trợ phương tiện truyền thông được sản xuất với giá rẻ hơn, như băng, đĩa mềm, và sau này là CD-ROM và DVD-ROM. Sự phát triển của Internet giúp demo có thể được tiếp cận dễ dàng hơn qua việc tải về trực tuyến. Demo game thường chỉ giới hạn một phần nhỏ ở hai khía cạnh của trò chơi, đó là cách chơi và cốt truyện. Một số nhà sản xuất cũng chuẩn bị sẵn cho demo những chương trình kiểm chuẩn nhằm giúp xác định xem liệu thiết bị chơi game của họ có chạy ổn định được trò chơi hay không.
1
null
Phân tích thứ nguyên là phương pháp thường dùng để khảo sát định tính các hiện tượng vật lý. Một trong những ứng dụng của nó là phát hiện các sai sót trong một phương trình mô tả hiện tượng vật lý (phương trình vật lý). Phép phân tích thứ nguyên trong kiểm tra các phương trình vật lý dựa trên cơ sở là chỉ các đại lượng cùng thứ nguyên mới có thể bằng nhau, hoặc cộng được với nhau. Nói riêng, trong một phương trình (vật lý) thì hai vế phải có cùng thứ nguyên. Các quy tắc phân tích thứ nguyên là:
1
null
Trong máy tính, kiểm chuẩn (tiếng Anh: benchmark) là thao tác chạy một chương trình máy tính, nhiều chương trình một lúc, hoặc các tác vụ khác, nhằm đánh giá kết quả vận hành của một đối tượng, thường bằng cách chạy một số bài kiểm tra tiêu chuẩn và thử nghiệm giới hạn chịu đựng của nó. Thuật ngữ 'kiểm chuẩn' cũng chủ yếu sử dụng cho các mục đích của chương trình kiểm chuẩn được thiết kế công phu. Kiểm chuẩn thường được kết hợp với việc đánh giá hiệu năng của phần cứng máy tính, ví dụ, hiệu suất hoạt động một CPU, nhưng cũng có những trường hợp kỹ thuật này được áp dụng cho phần mềm. Phần mềm kiểm chuẩn, ví dụ, chạy với trình biên dịch hoặc hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu. Kiểm chuẩn cung cấp một phương pháp so sánh hiệu suất của hệ thống con trên những cấu trúc chip/hệ thống khác nhau.
1
null
Trong các máy tính thiết bị truyền thông di động, hình nền (tiếng Anh: wallpaper, còn gọi là desktop picture và desktop background) là một hình ảnh được sử dụng làm nền của giao diện người dùng đồ họa trên màn hình máy tính hay thiết bị di động. Trên máy tính, nó thường hiện ra ở màn hình nền (desktop); trong khi đối với một điện thoại di động thường, nó thường là nền cho màn hình 'chính' hoặc màn hình 'khoá' (tuỳ từng loại máy). Mặc dù hầu hết các thiết bị đi kèm với một hình ảnh mặc định, người dùng thường có thể lựa chọn thay đổi tập tin theo ý thích của họ. Thuật ngữ "hình nền" (wallpaper) được sử dụng trong Microsoft Windows trước Windows Vista (ở Vista nó được gọi là Desktop "Background"), trong khi Mac OS X gọi nó là "desktop picture".
1
null
Yahoo! Auctions là một dịch vụ đấu giá trực tuyến được thiết lập bởi công cụ tìm kiếm khổng lồ Yahoo! vào năm 1998 để cạnh tranh với eBay. Hiện tại có ba địa phương hóa của dịch vụ này đang hoạt động ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản; Yahoo! đã ngưng dịch vụ này ở Hoa Kỳ, Canada, Singapore, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Website ở Mỹ và Canada đóng cửa vào ngày 16 tháng 6 năm 2007. Trang ở Singapore đóng cửa ngày 22 tháng 9 năm 2008. Còn dịch vụ ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đóng cửa vào ngày 28 tháng 6 năm 2002. Trong quá trình đóng cửa dịch vụ ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Yahoo! đã có một bước đi bất thường khi ủng hộ đối thủ đấu giá chính là eBay, như một dịch vụ 'được ưa thích' của họ. Yahoo! Auctions được ưa thích bởi một số người bán vì chính sách không-lệ phí của nó — tất cả doanh thu đến từ quảng cáo. Người dùng Singapore đã chọn xa lánh eBay sau khi Yahoo! Auctions đóng cửa ở quốc gia này, do chi phí cao và một trang web lộn xộn. Vào tháng 4 năm 2001, Yahoo! mua lại "SOLD.com.au", một đối thủ cạnh tranh lớn của eBay ở Úc. Yahoo! Wallet. Yahoo! Wallet là một đối thủ cạnh tranh ít được biết đến của PayPal. Wallet được thiết kế để sử dụng tại các website của Yahoo! như Yahoo! Music và Yahoo! Auctions. Như vậy, những người bán đấu giá mới được yêu cầu xác nhận danh tính của họ bằng cách nhập mã số thẻ tín dụng vào Wallet. Dịch vụ hiện vẫn đang hoạt động. là một dịch vụ tương tự để trả tiền cho cuộc đấu giá ở Nhật Bản bằng cách sử dụng tài khoản tại một số ngân hàng Nhật Bản, hay thẻ tín dụng do ngân hàng Nhật Bản cấp. Để sử dụng một thẻ tín dụng, ngân hàng phải đăng ký tên của khách hàng ở dạng chữ katakana, nhằm mục đích chặn tất cả giao dịch của các thẻ không phải từ Nhật Bản.
1
null
Chó săn cáo Anh Quốc (tiếng Anh: English Foxhound) là một giống chó săn có nguồn gốc từ nước Anh và là một giống chó theo dòng chó săn mùi là chính kết hợp với dòng chó săn đuổi có khả năng đánh hơi, truy lùng con mồi trong thời gian dài và chuyên dùng để săn cáo. Ngày nay chúng còn được dùng để làm chó cảnh. Loài chó săn cáo nước Anh còn là loài nền tảng để cho ra đời loài chó săn cáo Mỹ (American Foxhound). Tổng quan. Chó săn cáo Anh Quốc được phát triển bởi sự lai tạo có lựa chọn (quá trình chọn giống) của những giống chó săn khác nhau, và sau đó được nuôi dưỡng với các giống chó săn thỏ như chó săn xám (Greyhound), chó bun Anh (bulldog), và chó sục cáo (Fox terrier) với những ưu điểm của từng dòng tương ứng do đó nó đã kế thừa được sức bật và tốc độ khi truy đuổi, sức mạnh, khứu giác và sự ham mồi trong những cuộc săn. Chúng được nuôi theo bầy để dùng trong săn đuổi cáo cùng với những người đi săn bằng ngựa. Chúng có thể lực tốt và một cái mũi thính và chúng có thể chạy ổn định hàng giờ liền. Những ưu điểm của chúng bao gồm khả năng theo dấu, tìm kiếm và sự lanh lợi. Chúng cũng có thể dùng để trông nhà cửa. Đặc điểm. Đây là một loại chó chó săn có ngoại hình mạnh mẽ và khá thanh lịch, với mũi dài và đầu rộng. Cổ chúng dài và thân sau trong khá vững chắc. Chó đực có chiều dài từ 21 đến 25 inches (56–63 cm) còn chó cái dài từ 21-24 inches (53–61 cm). Cân nặng của chúng từ 65-70 pounds (29–32 kg). Tuổi thọ trung bình khoảng dưới 10 năm. Đây là giống chó khoẻ mạnh. Chúng còn có đôi mắt lớn nhìn khá biểu cảm, cặp mắt nâu, rộng. Đôi tai nằm sát với đầu và có mép tai hình tròn hoặc ngắn để tránh vướng tai và nước chảy vào tai trong quá trình săn đuổi. Cặp chân chúng thẳng, với bàn chân tròn, giống như chân mèo. Lớp lông ngắn, cứng và dễ chăm sóc, thường có ba màu là màu đen, màu trắng và màu vàng, hay hai màu hai với nền trắng. Đôi tai dài buông thõng. Đuôi được dựng ngược lên. Tập tính. Chó săn cáo Anh Quốc là một nòi chó săn mạnh mẽ, dày dạn và ham mồi, chúng hiểu và biết nghe lời đối với chủ của chúng nhưng chúng vẫn cần được huấn luyện kỹ lưỡng. Chúng rất thân thiện với người và đặc biệt tốt đối với trẻ em. Chúng đặc biệt thích sống bầy đàn với những con chó khác và đối xử tốt với những động vật khác. Chúng rất thích hoạt động, hiếu động và dường như không biết mệt mỏi, chúng có thể chạy nước kiệu nhiều giờ với một tốc độ ổn định qua những bụi gai dọc đường, những đầm lầy, và miền quê trong điều kiện nắng oi bức và có thể chạy liên tục không nghỉ trong năm hay sáu giờ mà không cần dừng lại. Vì chúng sử dụng nhiều năng lượng của chúng khi còn sung sức, chạy hàng nghìn dặm đường ngày này qua ngày khác nên chúng cần được nghỉ ngơi vào khoảng bảy hay tám tuổi. Chó săn cáo Anh Quốc chắc nịch và chậm hơn Chó săn cáo của Mỹ (American Foxhound). Loài chó này là nòi chó săn theo bầy, tuy nhiên một con chó, loại dùng để làm cảnh lại cho thấy rằng chúng có thể làm bạn tốt với người (companion dog) nếu được tập luyện đầy đủ, đây là dòng chó săn đuổi vô cùng năng động và do đó chó săn được nuôi theo bày để săn đuổi là chính. Vì xuất phát điểm là giống chó săn nên không nên nuôi chúng trong các căn hộ do chúng hiếu động và cần phải có không gian rộng để chạy nhảy, sục sạo. Giống chó này cần chạy xa, thoải mái hàng ngày do đó có thể trở nên một kẻ phá hoại nếu sống trong môi trường chật hẹp, không được vận động. Chúng có thể chạy đuổi theo ngay khi thấy có vật gì đó hấp dẫn, vì thế không nên để chúng vuột ra khỏi dây xích khi đi trên đường.
1
null
Chó săn cáo Mỹ (tiếng Anh: American Foxhound) là một giống chó săn cáo ở Mỹ có nguồn gốc từ nước Anh, đây là một giống chó theo thể loại chó săn mùi là chính và kết hợp với chó săn đuổi, chuyên dùng để săn cáo. Nòi chó Chó săn cáo Mỹ được tạo ra trực tiếp từ nòi chó săn cáo Anh Quốc (English Foxhound) được mang tới Mỹ. Chó săn cáo Mỹ có một cái mũi thính và phản ứng rất nhanh về mùi khi săn đuổi và có khả năng rất tốt trong việc chạy và sủa. Tổng quan. Nòi chó Chó săn cáo Mỹ được tạo ra trực tiếp từ nòi chó săn cáo Anh Quốc (English Foxhound) được mang tới Mỹ vào năm 1650 và được nuôi qua hàng thế kỷ sau đó với giống chó săn của Pháp được gửi tới Mỹ như là quà tặng của ông La Fayette cho George Washington (chẳng hạn như chó săn gấu mèo xanh). Các giống chó săn, Anh và Pháp lai tạo với nhau để tạo ra giống chó săn cáo Mỹ (American Foxhound). Vào thế kỷ thứ 17, loài chó này được dùng để tìm kiếm, truy lùng những người da đỏ bản xứ. Sau đó, chúng dùng để săn cáo. Chó săn cáo Mỹ có một cái mũi thính và phản ứng rất nhanh về mùi khi săn đuổi và có khả năng rất tốt trong việc chạy và sủa. Chúng được nuôi làm chó lùng sục, chó săn đuổi và chó tha mồi trên những cánh đồng trong các cuộc săn theo bầy hoặc chỉ duy nhất 01 con. Sau đó chúng đã được nuôi như một con chó để làm bạn (companion dog). Chúng có ưu điểm về khả năng săn bắt, theo dõi, canh gác và sự lanh lợi. Đặc điểm. Tương tự với anh em họ của nó là Chó săn cáo Anh Quốc, Chó săn cáo Mỹ đã được phát triển bởi những người nuôi chó theo hướng nhẹ nhàng và cao lớn hơn. Chúng cao từ 21-25 inches (53–64 cm) và nặng từ 65-75 pounds (29–34 kg). Là một giống chó tương đối khoẻ mạnh, những con chó săn cáo Mỹ không bị mắc nhiều loại bệnh di truyền như các bệnh về xương hông, lưng và các bệnh như những loài chó lớn khác, dù vậy không nên cho chúng ăn quá nhiều vì chúng luôn có nguy cơ bị thừa cân. Tuổi thọ của chúng hoảng 10-12 năm, số chó con đẻ trung bình từ 5 - 7 chó con mỗi lứa. Chúng có một khứu giác rất thính và nhanh nhẹn trong cuộc săn. Là giống chó săn cao lớn và đẹp, chân của chúng rất dài và thẳng. Cái đầu dài có hình hơi cong nhẹ và trán lớn. Những cái tai rộng và buông thõng che một phần khuôn mặt. Đôi mắt lớn và rộng - màu nâu hoặc hạt dẻ, với một cái nhìn thân thiện và biểu cảm. Tai chúng rộng, phẳng tới đầu và cái đuôi của chúng bộc lộ sự phấn khởi với một đường cong hướng lên mảnh khảnh, tương tự một cái liềm. Lông ngắn, cứng và có thể có bất kỳ màu nào dễ dàng để chăm sóc. Giống này thuộc loại rụng lông trung bình. Tập tính. Tính tình của Chó săn cáo Mỹ khá thân thiện, dễ thương, dịu dàng và đáng yêu trong nhà, nhưng lại là cả một chiến binh dũng cảm và quyết liệt trong cuộc săn. Chúng quan tâm đến trẻ nhỏ và chung sống tốt với các con chó khác do tập tính sống và săn đuổi theo bầy của chúng, nhưng chúng có thể không đáng tin cậy đối với những động vật khác. Sự thân mật với những người lạ mặt thì rất khác nhau, một số rất thân thiện, một số có thái độ e dè. Loài chó này rất khó để huấn luyện cách cư xử. Chúng sẽ vùng chạy ngay khi nhìn thấy một cái gì đó có vẻ thú vị, chúng có thể chạy quanh những trang trại rộng hàng trăm km2 từ sáng tới tối và quay về nhà trong trạng thái sẵn sàng chạy tiếp. Chúng thích sủa và có một tiếng sủa du dương, chúng sủa rất nhiều, những tiếng sủa của chúng được sử dụng như những cách thức phổ biến của loài chó này. Chó săn cáo Mỹ không luôn luôn là những con vật cưng tốt trong nhà, vì lịch sử của chúng là những bầy chó săn sống ngoài trời. Cũng giống như chó săn cáo Anh Quốc, chó săn cáo Mỹ được khuyến cáo không nuôi trong các căn hộ. Chúng rất năng động trong nhà và cần phải có không gian rộng đồng thời cần các bài tập nặng hoặc có thể chúng có thể sẽ trở nên bồn chồn, hiếu động và phá phách.
1
null
Chó ngao Brazil (Fila Brasileiro) biệt hiệu là Fila là một giống chó ngao có nguồn gốc từ Brazil và khởi thủy từ dòng chó Ngao ở Anh, Chữ "Filar" trong tiếng Bồ Đào Nha nghĩa đen có nghĩa là "giữ, bắt giữ, lấy".là giống chó to đô, hung dữ và chúng thường được dùng làm giống chó săn và chó giữ nhà. Chó ngao Brasil là loài chó dũng cảm và hung dữ phi thường, độ hung dữ thuộc vào hàng đầu trong số các loài chó nhưng lại tỏ ra hiền và dịu dàng với trẻ em trong gia đình nhưng đặc biệt dị ứng với người lạ. Chúng có khả năng theo dõi tuyệt vời nhưng lại khá hung hăng và bốc đồng. Vì kích thước, tính khí và độ nguy hiểm, giống chó này bị cấm ở nhiều nước trên thế giới. Đặc điểm. Chó ngao Brasil được lai tạo vào thế kỷ 15 từ các giống chó ngao Anh (English Mastiff), Bloodhound, chó bun Anh (Bulldog) và Rafeiros. Fila có khả năng theo dấu và tìm kiếm các động vật khác hoặc được sử dụng trong các cuộc săn lớn (big game). Khi Fila tìm thấy con mồi, chúng không tấn công mà chỉ sủa cho tới khi người thợ săn tới. Khi chế độ nô lệ còn tồn tại ở Brazil, Fila thường được dùng để tìm bắt các nô lệ bỏ trốn về cho chủ nô. Khả năng theo dấu tốt của Fila đã dẫn đến sự có mặt của chúng tại Bắc Mỹ và châu Âu, tuy nhiên, do kích cỡ và tính hung dữ tiềm ẩn của Fila Brasileiro, chúng bị cấm nuôi tại một số quốc gia. Fila là giống chó Mastiff khổng lồ chuyên được huấn luyện để săn gấu và báo đốm tại Brazil. Chúng đứng đầu trong bảng xếp hạng những chú chó khó thuần phục nhất, và hung hăng nhất. Chủ nuôi của Fila phải là người cứng rắn, hiểu biết đủ để có thể kềm cặp chú chó lớn này trong những trường hợp có tai nạn phát sinh. Mặc dù vậy, một khi Fila đã được đón nhận làm thành viên trong gia đình, chúng sẽ là người bảo vệ rất tuyệt vời. Fila yêu bọn trẻ trong nhà, nghe lệnh người lớn, coi việc bảo đảm sự an toàn cho tất cả người nhà là ưu tiên hàng đầu. Chúng không bao giờ ngần ngại xả thân vì chủ. Nếu được nuôi dạy kĩ, Fila sẽ cư xử rất chừng mực khi đi dạo cùng chủ bên ngoài mà không phải lo ngại chúng tấn công vào bất kì người hay con vật nào có mùi lạ. Chó ngao Brasil có làn da chùng trông bùng nhùng và cái mũi thính nhạy của giống chó đánh hơi Bloodhound. Dòng máu giống Bloodhound làm loài chó này trở thành những kẻ có khả năng đánh hơi tốt. Dòng máu chó ngao di truyền cho chúng thân hình vững chắc, tính dũng cảm và luôn sẵn sàng chiến đấu và loài chó Bulldog di truyền cho chúng tính mạnh mẽ, và quyết liệt và hiếu động. Chúng không phù hợp cho cuộc sống đô thị vì thân hình đồ sộ của chúng cần có sự tự do thoải mái của vùng thôn quê. Chúng có thể ngủ ngoài trời. Chúng cần có sân rộng và có rào cao để chạy nhảy. Chúng rất cần vận động nhiều và thích đi dạo. Bộ lông của Fila Brasileiro trơn tru và ngắn, chúng thường có màu lông đen, vện, màu quả mơ, đỏ, màu lông tối,vàng da hươu, đốm, ngoại trừ màu xám lông chuột, đen và Tân, Xanh và Trắng, màu trắng, không được vượt quá 1/4 diện tích bề mặt lông, được cho phép ở chân, ngực, và đầu, đuôi theo tiêu chuẩn FCI. Chó ngao Brasil có một khung xương vững chắc, con đực cao khoảng 65–75 cm, nặng khoảng hơn 50 kg, con cái thì cao khoảng 60–70 cm, nặng khoảng hơn 40 kg. Tuổi thọ của chúng từ 9 đến 11 năm. Chó ngao Brasil có chiếc mõm dài thuộc dòng chó đánh hơi, da rủ xuống, đung đưa bùng nhùng và khả năng đánh hơi tốt. Má của Fila rủ xuống nặng nề thể hiện ngoại hình của loài chó ngao. Cổ dày và chảy xuống. Da là đặc điểm nổi bật của loài này, dày và long thòng, lỏng lẻo khắp cơ thể, nhất là phần cổ. Một số con Fila có rất nhiều nếp gấp ở cổ hoặc ở hai bên. Lông chúng ngắn và mượt và có rất nhiều màu chủ đạo là màu đen, vện, đen nâu, dễ chăm sóc và thuộc loại có mức rụng lông vừa phải. Tập tính. Chó ngao Brasil là một loại chó ngao dũng cảm, mạnh mẽ, luôn phục tùng gia chủ, luôn luôn là người bạn trung thành. Chúng tận tâm với gia chủ và sẵn sàng bảo vệ chủ lập tức. Người ta không cần phải dạy các kỹ năng bảo vệ cho chúng vì nó đã thuộc về bản năng. Đây là loài được sinh ra để bảo vệ người chủ và gia đình. Chúng yêu trẻ con trong gia đình và là một con vật tốt để bầu bạn cho gia đình với sự dịu dàng, tình yêu và lòng trung thành. Fila là loài chó dũng cảm và hung dữ phi thường. Có lẽ độ hung dữ thuộc vào hàng nhất bảng các loài chó. Nhưng lại vô cùng hiền và dịu dàng với trẻ em trong gia đình. Mặc dù vậy, chúng thuộc dạng chó rất hung dữ, đặc biệt với nhưng người lạ hoặc vật nuôi khác. Ngay từ 2-3 tháng tuổi chúng đã thể hiện ra ràng chúng không hề ưa người lạ. Là một loài chó bảo vệ. Chúng cần những người chủ thực sự đặc biệt có thể hiểu được bản năng đầu đàn của chúng. Sự hòa đồng, khả năng hiểu biết của về bản năng của chúng mới có thể giúp người nuôi thành công khi là chủ nó. Chúng chỉ thực sự gần gũi với ai mà chúng cảm thấy tin tưởng. Một trong những đặc tinh của chúng chính là "căm thù" người lạ. Thậm chí người brazil đã có cả câu ngạn ngữ để chỉ tính cách này của Fila Chúng rất phản ứng tiêu cực với người lạ, có nhưng con, cho dù cho đã hòa đồng chúng từ rất sớm chúng vẫn luôn luôn sẵn sàng tấn công người lạ nếu có cơ hội. Các nhà nhân giống đang cố gắng tạo ra một loài mới có tinh khí nhẹ nhàng và hiền thuần hơn nhưng dù cho là một con chó thuộc dang hiền cũng luôn luôn trở thành mối nguy hiểm khôn lường với những người lạ. Bản năng của chúng là bảo vệ tất cả những gì thuộc về gia đình chúng. Không nên làm chúng trở nên nguy hiểm, ích kỷ. Bởi bản thân chúng đã nguy hiểm. Fila không thích hợp với những ông chủ có một cuộc sống giao du, hòa đồng. Tuy nhiên các nhà nhân giống đang cố gắng tạo ra một loài Fila có tinh khí nhẹ nhàng và hiền hậu hơn. Nhưng có thể nói điều đó cũng thật là khó khăn, bởi chúng hung dữ ngay từ trong mắu. Dù cho là một con Fila thuộc dang "mềm nhất" cũng luôn luôn trở thành mối nguy hiểm khôn lường với những người lạ. Bản năng của Fila là bảo vệ tất cả những gì thuộc về gia đình chúng. Một con Fila – dù cho bạn có cố hòa đồng nó với thế giới bên ngoài nhưng cũng đừng hòng một người lạ nào có thể đến gần chúng được. Bệnh tật. Chó ngao brazil có xu hướng mắc những bệnh của những dòng chó lớn, bao gồm triệu chứng của các bệnh: Chó đứng lên rất khó khăn sau khi nghỉ, miễn cưỡng vận động, vận động gần như đồng thời hai chân sau hoặc có các biểu hiện bất thường về hình dáng khác, đi lại khập khiễng, đau, rất khó khăn để đứng bằng hai chân sau khi đứng hay nhảy hoặc đi lên cầu thang; khớp chậu đùi bị lệch vị trí, teo cơ rõ rệt ở vùng đùi. Trên hình ảnh chụp X quang cho thấy rõ tình trạng thoái hóa của xương hông. Tuy vậy, ở một số chó, có thể khi chụp X quang không phát hiện được sự tổn thương của xương hông cho tới khi chó được 2 tuổi. Thêm vào đó, rất nhiều chó mắc chứng loạn sản xương hông không biểu hiện triệu chứng lâm sàng; ngược lại một số chó lại có biểu hiện bệnh rất rõ trước 7 tháng tuổi, một số khác lại không có bất cứ biểu hiện bệnh lý về tình trạng loạn sản xương hông nào cho đến khi chó trưởng thành. Cũng cần lưu ý rằng, tình trạng loạn sản xương hông có thể nhẹ hoặc nặng; có thể tiến triển ngày một xấu đi hoặc duy trì ở một tình trạng nhất định; phản ứng tu sửa tổn thương tại khớp chậu- đùi có thể diễn ra yếu hoặc mạnh ở từng cá thể. Từng cá thể lại có khối lượng cơ thể khác nhau, vì thế, những giống chó nhỏ rất ít vận động mạnh sẽ có cường độ vận động khớp chậu- đùi hoàn toàn khác với những giống chó to lớn ưa vận động. Ở một số chó, tình trạng bệnh lý tiến triển và biểu hiện triệu chứng sớm, một số khác có thể không bao giờ có những triệu chứng bất thường nào. Hầu như tất cả các bác sĩ thú y đều có chung quan điểm: chó ăn no quá, đầy dạ dày cùng với việc hoạt động mạnh,nô đùa, dạo chơi ngay sau khi ăn, thức ăn lên men mạnh,giàu Hydrocarbon sẽ làm tăng nguy cơ gây bệnh cũng làm tăng nguy cơ bị xoắn dạ dày chướng hơi hơn so với những con chó tĩnh lặng sau khi ăn. Điều đó là logic bởi sự vận động làm tăng sự đung đưa của dạ dày và dễ dẫn đến sự quay lộn. Và chứng loạn sản khuỷu tay. Những con chó thường có khuynh hướng sưng lên hoặc volvulus dạ dày. Những con chó này đòi hỏi nhiều tập thể dục và do đó không phù hợp với cuộc sống thành thị.
1
null
Chó sục cáo lông mượt (Smooth Fox Terrier) là một loại chó săn thuộc về nòi chó sục cáo có nguồn gốc từ Anh và được sử dụng trong các cuộc săn cáo. Chó sục cáo lông mượt là một trong số những nòi Chó sục cổ nhất được sử dụng từ thế kỷ 18 để săn cáo ở nước Anh. Công việc của nó là làm cho con cáo hoảng sợ, chạy ra khỏi hang. Chó sục cáo lông mượt nhảy nhót, gầm gừ và xua đuổi con cáo cho đến khi con cáo bị chui vào lưới. Loài chó này cũng là những con chó bắt chuột rất cừ. Ngày nay chúng chủ yếu được nuôi để làm bạn với người (companion dog). Tổng quan. Chúng có nguồn gốc từ việc những người nuôi chó đã lai tạo giữa những giống chó sục dachshunds, Chó săn Anh Quốc (English Hound) và sau đó là Chó săn cáo (Fox Hound) và chó săn thỏ (Beagle). Chó sục cáo lông mượt là một trong số những nòi chó sục cổ nhất được sử dụng từ thế kỷ 18 để săn cáo ở nước Anh. Tiêu chuẩn đầu tiên cho Chó Fox Terrier lông mượt được thiết lập vào 1876. Loại chó sục cáo lông xoăn và Lông mượt đôi khi bị ghép chung vào một nòi chó, mặc dù chúng được tách biệt từ năm 1984 tại Mỹ. Một số những ưu điểm của chúng gồm có thể đi săn, sự theo dõi, tìm kiếm, trông nhà, sự lanh lợi và làm những trò nghịch ngợm. Đặc điểm. Chó sục cáo lông mượt là một loại chó nhỏ rất thanh lịch, khôn ngoan và trông có vẻ rất thời trang, trong một lớp lông ngoài ngắn màu trắng với những mảng dấu màu đen hoặc nâu. Lớp lông ngắn của chúng rất dễ để tắm gội. Chó đực cao từ 14-16 inches (36–41 cm), chó cái cao từ 13-15 inches (33–38 cm.), cân nặng của con chó đực từ 15-20 pounds (7–9 kg) trong khi đó chó cái từ 13-18 pounds (6–8 kg). Tuổi thọ của chúng khoảng 15 năm trở lên. Đối với chúng, điếc có thể là một vấn đề rất hay gặp đối với những con chó trắng. Một vài bệnh ít gặp khác là chảy nước mũi, lệch thủy tinh thể, đục thủy tinh thể, bệnh Legg-Perthes (một loại bệnh về xương hông) và các bệnh về lệch khớp vai. Loại chó này có kiểu đầu hẹp phẳng, thon, với tai hình gấp nếp hình chữ V về phía trước. Cái đuôi bình thường được cắt bớt tới 1/ 4 chiều dài và dựng đứng ở trên lưng của con chó chứ không rủ ra phía sau. Chó có được nhiều vũ khí để tấn công như những hàm răng mạnh mẽ, răng được phát triển rất tốt, sự hăng hái, sức mạnh vật lý và sự can đảm. Cổ chúng dày và lực lưỡng. Đó là một con chó lực lưỡng, thanh lịch tập trung nhiều sức mạnh trong một cơ thể nhỏ nhắn. Đôi mắt tối, nhỏ, sâu trông vô cùng sống động trên mặt. Tập tính. Chó sục cáo lông mượt là giống chó rất mạnh mẽ và hiếu động, chúng rất thích đùa nghịch, đặc biệt với trẻ em nhưng cũng rất hay cắn. Chúng rất dễ thương với gia đình và không che giấu tình cảm của chúng. Vui vẻ và dũng cảm, chúng sẵn sàng đùa nghịch và vui chơi liên tục. Tính chúng khá thất thường và hay gây hấn với các loài khác. Loại chó này học những trò đùa nghịch rất nhanh. Chúng thường làm kinh ngạc bởi những câu chuyện về lòng trung thành và xả thân của chúng. Loại chó này thích là một phần của gia đình và sẽ trở nên là kẻ phá hoại nếu không được chơi đùa và quan tâm đầy đủ. Chúng là một trong số những loại chó hiếu chiến nhất, chúng luôn có xu hướng muốn đánh nhau với các con chó khác, kể cả những con chó lớn hơn và thường không có sự tin cậy đối với các con vật nuôi trong nhà khác. Chúng thích đi săn và có thể giết chết những con vật khác, kể cả chim, nếu chúng có cơ hội. Bản năng thúc giục những con chó này săn đuổi mạnh mẽ và chúng thích bắt mèo cũng như những con chó nhỏ khác. Chúng thường hay cắn, và cho dù chúng thích chơi đùa, chúng vẫn cần phải được trông chừng khi chơi với trẻ nhỏ. Nếu những chú chó được xã hội hoá đầy đủ và làm quen cẩn thận, chúng có thể chung sống hoà thuận với các chú chó khác trong gia đình. Cần quản lý loại chó này đúng mức bằng dây xích hay trong một vùng hoàn toàn cách biệt bởi vì Chó Fox Terrier lông mượt thích đi lung tung và tìm hiểu xung quanh. Chúng thích sủa và có thể làm chó canh gác rất tốt, mặc dù tiếng sủa chói tai của chúng có thể làm khó chịu và có thể gây ra những vấn đề với láng giềng. Chúng cũng có thể quá hung dữ cho các người chủ nhân lớn tuổi. Chúng cần phải có sự huấn luyện bài bản và nghiêm túc từ khi còn nhỏ. Những vấn đề hành vi có thể bao gồm những thách thức để xác định sự thống trị, đặc biệt với các chủ nhân dịu dàng với chúng bảo vệ đồ vật, chỗ ở và thức ăn từ chủ nhân cho riêng chúng, cũng như tiếng sủa quá mức. Chúng cũng có thể sống tốt trong các căn hộ nếu chúng được tập luyện đầy đủ. Chúng rất hiếu động trong nhà và tốt nhất là dành cho chúng một khoảng sân để chơi. Với một khoảng sân nhỏ là đủ cho loại chó này có thể vận động bằng cách tự chạy chơi xung quanh. Nhưng nếu trong một căn hộ, sẽ cần cho chúng đi bộ dài hay nô đùa trong công viên. Nếu được vậy, chúng sẽ thích chạy thoải mái trong một vùng an toàn. Giữ con chó này bằng một dây xích nếu có những động vật nhỏ xung quanh.
1
null
Chó sục cáo lông xoăn (Wire Fox Terrier) là một giống chó trong nhóm chó sục (Terrier). Loại chó lông xoăn này thường được nuôi ở những nơi ẩm ướt, bộ lông của chúng ít bị tổn hại hơn so với loại chó lông mượt. Ngày nay, chúng được nuôi để làm bạn với người (Companion dog). Hai loại Chó sục cáo lông mượt và lông xoăn đôi khi bị ghép chung vào một nòi chó, mặc dù chúng được tách biệt từ năm 1984 tại Mỹ. Giống chó này là nguyên mẫu cho chú chó Milou (Mi-lu), bạn đồng hành của TinTin trong bộ truyện tranh Những cuộc phiêu lưu của TinTin. Đặc điểm. Chó Fox Terrier lông xoăn có lớp lông xoăn màu trắng với các mảng màu đen và nâu. Chó đực cao từ 14-16 inches (36–41 cm), chó cái cao từ 13-15 inches (33–38 cm). Chó đực nặng khoảng từ 15-20 pounds (7–9 kg) trong khi Chó cái nặng từ 13-18 pounds (6–8 kg). Tuổi thọ chúng khoảng 15 năm trở lên. Bệnh động kinh thường có khả năng di truyền rất cao đối với giống chó này. Cổ chúng dày và lực lưỡng, chúng có kiểu đầu hẹp phẳng, thon, với tai hình gấp nếp hình chữ V về phía trước. Cái đuôi bình thường được cắt bớt tới 1/ 4 chiều dài và dựng đứng ở trên lưng chứ không rủ ra phía sau. Chó có được nhiều vũ khí để tấn công như những hàm răng mạnh mẽ, răng được phát triển rất tốt, có sự hăng hái, sức mạnh ở cơ thể nhỏ nhắn. Đôi mắt tối, nhỏ, sâu. Nếu chó chó lông xoăn nuôi theo kiểu vật cưng, có thể mất thời gian chải lông cho chúng, tắm cho chúng khi cần thiết. Để giữ lớp lông xoăn trông đẹp mắt, lớp lông phải được chải bỏ vài lần một năm và thường xuyên hơn cho những con chó đi thi. Lớp lông xoăn của chúng rụng rất ít, đến mức gần như không rụng lông và là rất tốt cho những người bị dị ứng. Tập tính. Chó lông xoăn rất mạnh mẽ và hiếu động. Giống như người anh em của chúng, chúng rất thích đùa nghịch, đặc biệt với trẻ em nhưng cũng rất hay cắn. Chúng rất dễ thương với gia đình, sẵn sàng đùa nghịch và vui chơi liên tục. Chúng học những trò đùa nghịch nhanh. Chúng là một trong số những loại chó hiếu chiến nhất, Chó lông xoăn luôn có xu hướng muốn đánh nhau với các con chó khác, kể cả những chú chó lớn hơn và thường không có sự tin cậy đối với các con vật nuôi trong nhà khác. Chó lông xoăn cũng thích đi săn và có thể giết chết những con vật khác, kể cả chim, nếu chúng có cơ hội. Bản năng thúc giục những con chó này săn đuổi mạnh mẽ và chúng thích bắt mèo cũng như những con chó nhỏ khác. Chó lông xoăn thường hay cắn, và cho dù chúng thích chơi đùa, chúng vẫn cần phải được trông chừng khi chơi với trẻ nhỏ. Chúng cũng có thể chung sống hoà thuận với con chó khác trong gia đình. Chó lông xoăn thích sủa và có thể làm chó canh gác rất tốt. Chó Fox Terrier có thể sống tốt trong các căn hộ nếu chúng được tập luyện đầy đủ. Chúng rất hiếu động trong nhà và tốt nhất là dành cho chúng một khoảng sân để chơi. Với một khoảng sân nhỏ là đủ cho loại chó này có thể vận động bằng cách tự chạy chơi xung quanh. Nhưng nếu sống trong một căn hộ, cần cho chúng đi bộ dài hay nô đùa trong công viên.
1
null
Chó sục Yorkshire (Yorkshire Terrier) hay Yorkie là giống chó sục nguồn gốc từ nước Anh và hiện nay được nuôi làm chó cảnh. Chúng được xếp vào phân nhóm chó sục làm cảnh, không dùng làm việc. Chúng sở hữu biệt danh khá vui nhộn là "chó bỏ túi" vì kích thước khá nhỏ của chúng. Trước kia, ở Yorkshire, loài chó này chuyên được dùng để lùng chuột trong những nhà máy sản xuất bông vải, ngày nay, chúng được nuôi rộng rãi nhờ kích thước nhỏ gọn, dễ mang theo, dễ thích ứng, nhưng chúng đôi khi cũng hay cáu kỉnh và hung dữ. Nguồn gốc. Giống chó Yorkshire Terrier - Chó sục Yorkshire có nguồn gốc từ bang Yorkshire nước Anh. Xuất phát từ lịch sử cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, công nhân người Scotland đã đến Yorkshire để làm việc trong các hầm mỏ, nhà máy dệt và mang theo một con chó được biết đến với cái tên là chó Clydesdale Terrier hoặc Paisley Terrier, chúng được sử dụng chủ yêu để bắt chuột trong hầm mỏ, nhà máy. Những con chó này có kích thước lớn hơn nhiều so với chó Yorkshire Terrier hiện tại ngày nay. Từ đó chúng được những người vùng phía Bắc nước Anh lai tạo thành giống chó Sục Yorkshire, giống chó này có tổ tiên từ giống Clydesdale Terriers và được nhân giống lai tạo với các loại chó sục khác nhau như Tan English Terriers, Paisley, Skye Terrier, Dandie Dinmont và góp phần gen ảnh hưởng quan trọng lớn nhất đối với chó sục yorkshire này là giống chó Waterside Terrier. Chó sục Yorkshire được thu nhỏ kích thước so với những tổ tiên của nó, nhưng vẫn vô cùng nhanh nhẹn và hữu ích trong việc săn đuổi chuột, với kích thước khá nhỏ gọn của chúng đã được con người yêu thích và trở thành một vật cảnh đáng yêu trong gia đình cho đến ngày nay rất phổ biến. Giống chó Yorkshire Terrier - Chó sục Yorkshire được Hiệp hội chó giống Anh công nhận vào năm 1874 và Hiệp hội chó giống Mỹ công nhận vào năm 1872. Tổng quan. Mặc dù được xem là chó kiểng, nhưng thực chất chúng thuộc dòng chó săn khoẻ mạnh, nếu có dịp, chúng cũng trổ tài săn bắt cầy, cáo và đặc biệt là chuột theo đúng cách thức của tổ tiên chúng truyền lại. Sự tiến hoá của chúng, bắt nguồn từ vùng Yorshire Anh quốc, từ giống chó săn địa phương của những gia đình thợ dệt trong vùng.Vào giữa thế kỷ 19, giống Yorshire Terrier được xem là một giống thuần chủng, có tên là Broken-haired-Terrier. Từ đó, người ta có khuynh hướng chọn nuôi những con Yorkshire càng nhỏ càng tốt. Ngày nay, người ta có được giống Yorkshire Terrier bé nặng không tới 3,2 kg để đưa ra trưng bày. Đặc điểm. Nhìn tổng thể, chúng là giống chó nhỏ và khá xinh xắn. Chiều cao đến 23 cm và trọng lượng tối đa 3,2 kg. là một con vật nhỏ đẹp đẽ. Bản tính thân thiện với loài người, giống chó yorkshire rất thích hợp, vui vẻ hơn khi sống trong một căn hộ, chứ không phải nơi hoang dã, là nơi bộ lông dài, rậm của chúng, dễ bị nhiễm đủ thứ mùi. Phần đầu. Sọ chúng nhỏ và phẳng, không quá lồi cũng như không quá tròn, mũi có màu đen, sống mũi không quá dài. Có hàm hoàn chỉnh, răng dài vừa phải, đầy đủ, cắn hình cắt kéo. Răng mọc đều đặn và đúng chỗ trên các hàm. Mắt vừa phải, màu tối, sáng, có khả năng biểu cảm mạnh mẽ và luôn nhìn thẳng. Mắt không lồi. Mi mắt màu tối. Tai nhỏ, hình tam giác (chữ V), dựng đứng trên đầu. Tai không cách nhau quá xa. Tai có lông ngắn bao phủ, có màu vàng rất đậm. Phần thân. Cổ chó vươn cao vừa phải, vai xiên vừa phải. Thâm mình chắn. Lưng thẳng, thắt lưng thẳng với người. Xương sườn cong vừa phải. Đuôi thường được cắt. Đoạn đuôi bị cắt để lại dài vừa phải, phủ đầy lông, có màu xám đậm hơn so với thân mình, đặc biệt ở đoạn cuối đuôi. Đuôi nhô cao hơn một chút so với lưng. Đuôi không cắt thì có rất nhiều lông, có màu xám đậm hơn so với thân mình, đặc biệt ở đoạn cuối đuôi. Đuôi hơi cao hơn lưng. Đuôi thẳng hoặc được chuộng nhất. Độ dài đuôi cân đối với tổng thể chung. Tứ chi. Chân thẳng, phủ đầy lông với màu vàng sậm và chuyển thành màu nhạt hơn ở phía đầu sợi lông so với ở chân lông. Màu vàng không kéo dài vào thân hơn quá điểm khuỷ chân của chân trước. Chân thẳng khi nhìn từ phía sau, đùi trong cong vừa phải. Chân phủ đầy lông với màu vàng sậm và chuyển thành màu nhạt hơn ở phía đầu sợi lông so với ở chân lông. Màu vàng không kéo dài hơn khoảng đùi trong của chân sau. Bàn chân tròn, móng chân màu đen. Chuyển động nhẹ nhàng, thoải mái. Nhìn từ phía trước hay sau chân đều thẳng hàng, vẫn giữ nguyên lưng thẳng khi vận động. Lông. Giống Yorshire Terrier lúc mới sinh ra có màu lông đen tuyền, ba tháng tuổi lông trở nên nâu nhạt, một năm sau thì những sọc màu sanh thép đậm, xuất hiện trên lông của chúng. Lông dài trên toàn thân, thẳng tuyệt đối (không có gợn sóng), lông rất bóng, nhìn óng mượt như tơ tằm chứ không bông mịn như sợi len. Lông trên đầu phủ dài, màu vàng đậm, hai bên đầu có màu đậm hơn, lông ở gốc tai và mũi cũng rất dài. Màu vàng trên đầu không kéo dài xuống quá cổ, màu lông vàng tuyền, tuyệt đối không lẫn với các mảng lông màu tối hoặc bị trộn với các sợi lông màu khác so với màu vàng. Màu xám xanh đen ánh thép và màu xanh xám bạc kéo dài từ chỏm đầu tới khấu đuôi, không lẫn với lông màu khác như và màu sậm hơn. Lông trước ngực rất dày, màu vàng nhạt. Tất cả các sợi lông vàng trên người đều có màu đậm ở phần chân lông, nhạt hơn ở đoạn giữa và nhạt dần về phía đầu sợi lông. Nếu muốn nuôi chó Yokrshire để đem tham gia đấu xảo, thì phải tốn nhiều công sức, thời gian. Bội lông dài và rủ xuống của chó, nếu muốn chúng thật dễ thương, cần phải chải chuốt thường xuyên, nhất là trong trường hợp chủ muốn nó đoạt được giải trong các kỳ thi chó kiểng.
1
null